"
Fulro Tập Đoàn Tội Phạm PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Fulro Tập Đoàn Tội Phạm PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Fulro - Tập đoàn tội phạm
Tác giả: Ngôn Vĩnh
NXB Công An Nhân Dân - 1983
Tác giả chân thành cảm ơn các đơn vị và các đồng chí đã cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến hoàn thành tập sách này.
Các đơn vị:
− Cục Bảo vệ chính Trị II – Bộ Nội vụ.
− Đoàn chống FULRO, Bộ Nội vụ
− Công an các tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai – Công Tum, Thuận Hải. − Các đồng chí công an làm nhiệm vụ quốc tế ở địa bàn K.
−
LỜI GIỚI THIỆU
Khối thống nhất dân tộc là sức mạnh quyết định sự sống còn của một quốc gia, nên chia rẽ dân tộc luôn là chính sách lớn của bọn xâm lược.
Tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp cũng là tám mươi năm dân tộc Việt Nam chống lại mọi âm mưu chia rẽ thâm độc: Đất nước phân thành ba kỳ; chế độ cai trị phức tạp (thuộc địa ở Nam, bảo hộ có vua ở Trung, bảo hộ không vua ở Bắc, “Hoàng triều cương thổ” ở Tây Nguyên, nhượng địa ở Đà Nẵng, quân quản ở Hà Giang…); chưa kể hàng loạt chính sách khác nhằm tạo ra hố ngăn cách sâu sắc giữa người Kinh với người Thượng, người Thượng với người Thượng, lương với giáo, tỉnh này với tỉnh kia, làng này với làng khác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cách mạng giành lấy chính quyền và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Chưa bao giờ khối thống nhất dân tộc được củng cố thành sức mạnh vô định và được toàn dân ý thức rõ ràng, khoa học như từ sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vì vậy mà cũng chưa bao giờ bọn xâm lược phải chộp lấy “lá cờ dân tộc” vùng lên hùng hổ và loạn xạ như lúc này. Trong 8 năm chống Pháp đã diễn ra một loạt thủ đoạn chia rẽ xảo quyệt, rối rắm, thậm chí có khi liều lĩnh, bất chấp mọi lô-gich: xứ Nam Kỳ tự trị, xứ Tây Nguyên tự trị, Liên bang Đại Thái, xứ Nùng tự trị, xứ Mường tự trị, v.v...
Đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp vào lúc mà những thủ đoạn thực dân lỗi thời và bọn việt gian nhẵn mặt không còn lừa bịp được ai. Cũng là lúc mà tinh thần dân tộc ăn sâu thành niềm tin vào lòng dân vì đã tỏ rõ sức mạnh vĩ đại của nó qua thử thách của cuộc kháng chiến thắng lợi. Bắt buộc Mỹ phải phất lên “lá cờ dân tộc” dưới một hình thức mới: Trao nó vào những tay cầm cờ khác – và tung ra xung quanh một màn khói mù làm bằng trăm thứ thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa rắc rối.
Tây Nguyên, vùng sắc tộc phong phú và tập trung nhất của miền Nam, địa bàn chiến lược có lịch sử chống ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, tất nhiên trở thành khu vực trọng yếu buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dồn sức thống trị bằng được.
Cái gọi là FULRO – Mặt trận thống nhất tranh đấu của các dân tộc bị áp bức – là lá cờ bịp mà đế quốc Mỹ và tay sai đã phất lên trước các sắc tộc Tây Nguyên suốt 20 năm chiếm đóng; và hiện nay không phải là không còn những thây ma thoi thóp mượn tiếng nó, cố phe phẩy những mảnh vụn tả tơi của nó, để tiếp tục phỉnh phờ những người chưa hiểu, mong kéo dài thêm cơn hấp
hối.
Tìm hiểu thực chất FULRO, vì vậy, không phải là điều vô ích. Vì nó còn để lại trong người dân Tây Nguyên không ít mặc cảm và vết thương tâm hồn. Vì nó còn để lại trên đất đai Tây Nguyên đói nghèo, lạc hậu và tàn phá. Vì nó còn để lại trong nhận thức một số người ngoài cuộc những hiểu biết mơ hồ về nội dung “dân tộc” và “tranh đấu” của nó, như một nhà tri thức tiến bộ nọ, ông Minami Yoslizawa đã tưởng tìm ra trong sự hình thành của nó, những “nhân tố của tinh thần dân tộc bài ngoại” nên dễ dàng khoác cho nó vai trò không hề có của “một tổ chức tập hợp các dân tộc miền núi nổi dậy phối hợp với Mặt trận giải phóng làm cho so sánh lực lượng địch, ta ở vùng cao nguyên Trung Bộ thay đổi lớn, buộc quân đội Sài Gòn ở Buôn Mê Thuột, Plây Ku tan vỡ” .
Không! FULRO không có chút gì là nhân tố dân tộc bài ngoại. Không! FULRO không có một cái vỏ đạn nào góp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Vậy thì FULRO là cái gì? Hãy xét nó qua lời nói và việc làm.
Dưới lá cờ mang màu đỏ chiến đấu và màu xanh núi rừng những kẻ cầm đầu FULRO (mà hầu hết vốn thuộc tầng lớp trên đầy quyền thế từ thời đô hộ Pháp) lôi cuốn những người dân Thượng vào những cuộc phiêu lưu kỳ quặc.
Họ đánh Diệm, đánh Thiệu để rồi tham gia bộ máy đàn áp sắc tộc của ngụy quyền Sài Gòn ở những chức vụ chóp bu. Hết cầu cứu sự che chở của Mỹ, họ lại theo Pháp chống Mỹ, rồi theo Mỹ chống Pháp, hoặc có khi lơ lửng tìm đến những chiếc ô còn lơ lửng hơn: Xi-ha-núc, Liên hiệp quốc…Họ tự đánh lẫn nhau, bắt tay nhau, rồi trở mặt dìm nhau trong bể máu, tiếp tục thanh toán nhau đến đuổi kỳ được một bên ra khỏi Tây Nguyên màu mỡ…Họ như con rối mà đầu mối dây nằm trong tay những thế lực không bao giờ nhất trí về quyền lợi riêng: Mỹ, Pháp, ngụy quyền Sài Gòn và những kẻ theo đóm ăn tàn như Xi-ha-núc hay lớp chính khách cùng nhóm máu tương tự.
Những cuộc phiêu lưu mà chỉ có họ mới hiểu nguồn gốc sâu xa, còn người dân Thượng nghèo nàn lạc hậu chỉ cần tròng vào “lá cờ dân tộc” đã được đế quốc Hoa Kỳ quét lên một lớp vàng chói lóa, giúp họ dù quay quắt hướng nào cũng dễ tìm ra lời biện hộ đầy sự thật mê hoặc.
Duy chỉ có sự thật họ không lần nào dám nói lên là: Họ chưa tiến hành một trận đánh nhỏ nào để đem lại hạnh phúc thực sự cho người dân Thượng, Chàm. Họ chưa có giây phút nào hết căm thù cách mạng để cộng tác chân thành với Mặt trận giải phóng. Đó lại là sự thật rõ nhất về họ, cũng là sự thật cơ bản của đế quốc Mỹ.
FULRO, chung quy chỉ là một trò bịp lớn. Những âm mưu thâm độc và những hoạt động cơ hội “kiểu áp phe Hoa Kỳ”, những xâu xé trong nội bộ tầng lớp trên cầm đầu, những mâu thuẫn toàn cuộc và cục bộ đã phủ lên nó một vẻ bề ngoài chỉ dễ nhìn đối với những ai đứng xa, ngoài cuộc. Nhưng đối với chúng ta, chỉ cần có thì giờ và hoàn cảnh đi vào thực chất những kẻ cầm đầu và lần lại đường dây những biến động lớn đã xảy ra trên núi rừng Tây Nguyên trong 18 năm gây rối, thì sẽ không khó khăn gì mà không nhận ra bộ mặt thật của cái gọi là FULRO.
Cuốn sách này mong cung cấp cho bạn đọc một số tài liệu bước đầu sưu tập được để giúp bạn đọc tự mình nhận ra điều đó.
*
* *
Tuy chưa đầy đủ chi tiết – thậm chí có chi tiết còn hời hợt – cuốn sách này cũng giúp ta nhìn rõ được điều cơ bản nhất trong số những tên cầm đầu chủ yếu của FULRO.
Trong bọn chúng, Y Bhăm có số phận chìm nổi kiểu chính khách dễ lừa đời hơn ai cả. Là một công chức được Pháp đào tạo từ “thời đô hộ”, sau Cách mạng tháng Tám, Y Bhăm tham gia Việt Minh nên sống thoát cho đến ngày Pháp tái chiếm Tây Nguyên thì trở lại thân phận ngụy quyền kéo dài đến thời Diệm. Được gián điệp Pháp tìm cách móc nối, Y Bhăm theo lệnh Pháp tập hợp phe cánh xây dựng thanh thế riêng để hòng dựa vào Pháp mặc cả với Mỹ – Diệm, không ngờ bị Diệm thẳng tay trừng trị, bỏ tù cùng với một loạt tên khác cho đến ngày Diệm đổ…Tung ra một lớp hào quang xung quanh 5 năm tù đày ấy, đế quốc Mỹ đã biến Y Bhăm thành một con cò mồi không bao giờ hoàn toàn mất tác dụng. Tuy nhiên thời thế, hoàn cảnh và kinh nghiệm thực tế của con mồi chỉ cho phép Mỹ sử dụng Y Bhăm có mức độ. Khi nâng khi hạ, khi trực tiếp khi từ xa, khi tin, khi chán, nhưng chưa lần nào Y Bhăm bị bỏ rơi hẳn vì Mỹ nắm được thực chất “sự nghiệp dân tộc” của Y Bhăm không ngoài chuyện thay thầy đổi chủ.
Khác với Y Bhăm, Y Bliêng – một trong những tên cầm đầu FULRO – lộ liễu hơn, trắng trợn hơn nên dễ cho ta thấy rõ bộ mặt bỉ ổi hơn.. Y làm tay sai đắc lực hết cho Pháp đến Mỹ, nhận việc với bất cứ tên bù nhìn nào miễn là được vinh thân phì gia: Diệm, Khánh, Thiệu…Y chuyên ăn hối lộ ở chức phó tỉnh trưởng. Vì tiền, xử án bất công, bất chấp thuần phong mỹ tục người thượng ở chức chánh án “Tòa án phong tục”: gả cả hai con gái cho Mỹ và chịu sự chỉ huy của chính tên con rể là người Mỹ làm CIA.
Một nhân vật chóp bu khác, Paul Nưr đã làm đến tổng trưởng “Bộ Phát triển sắc tộc” ngụy, nhưng chuyên làm chuyện dâm ô, lợi dụng quyền thế che đậy hoan lạc nên được nhân dân đặt cho cái tên mỉa mai “tổng trưởng phát triển sắc đẹp”, cuối cùng bị đuổi về vườn, chuyển sang nghề buôn lậu và làm hàng giả.
Cũng có những tên không xuất thân từ tầng lớp trên nhưng khi tham gia phong trào FULRO thì đã bị thoái hóa. Đó là Nay Loét, xuất thân từ gia đình nghèo khổ, sau thời gian dài được tên quận trưởng Nay Mun nuôi ăn học, gả con gái và được đế quốc Mỹ đào tạo cất nhắc lên chức tổng trưởng, đã hoàn toàn biến chất. Đó là Huỳnh Ngọc Sắng, sinh ra trong gia đình trung lưu, nhưng sau khi được đào tạo trong chế độ thực dân mới, sau khi làm tay sai cho Pháp, Xi-ha-núc, Mỹ, đã sa đọa, hướng lòng hận thù dân tộc vào dân tộc Kinh, trở thành tên chỉ huy FULRO Chàm tàn ác, bất lương.
Có thể kể thêm nhiều tên nữa: Les Kossem, Đàng Năng Giáo, Y Bun…Những kẻ sáng lập ra FULRO, những kẻ làm nên linh hồn, máu thịt nó, đều như vậy. Họ đều thuộc tầng lớp trên hoặc gắn bó chặt chẽ quyền lợi với tầng lớp trên. Cuộc đấu tranh của họ, về thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp, và trên nhiều mặt, nhiều lúc còn mang nặng màu sắc những vụ xâu xé tranh giành miếng ăn kiểu bộ lạc…Chung qui, họ chỉ là một tập đoàn tội phạm vung lá cờ dân tộc lên để che đậy bản chất phản động và cơ hội.
Họ đã làm gì để “tranh đấu cho dân tộc”? Họ có một số vụ nổi dậy chống Diệm, chống Thiệu, nhưng không phải để đòi quyền sống cho dân tộc mà là để tranh giành quyền làm tay sai trực tiếp cho Mỹ. Ngược lại đế quốc Mỹ vì muốn chia để trị, hoặc thâm hiểm hơn, muốn trực tiếp nắm lấy Tây Nguyên phục vụ âm mưu lâu dài, nên đã xảo quyệt đối lập FULRO với ngụy quyền Sài Gòn. Trong các vụ “nổi dậy” ở các trại Sarpa, Buôn Briêng, Buprang…ta thấy bàn tay đạo diễn của Mỹ, trực tiếp là tên Đệ tam tham vụ tòa Đại sứ Mỹ Beachner và tên đại tá cố vấn tư lệnh vùng II chiến thuật Freund. Đến khi thấy FULRO có nguy cơ bị tiêu diệt, Mỹ lại đạo diễn cho FULRO chạy sang Căm-pu-chia. Lá cờ FULRO bị Pháp, Xi-ha-núc, Mỹ chia nhau cấu xé. Cuộc bạo động và tàn sát đẫm máu trên toàn Cao Nguyên năm 1965 cũng là do âm mưu của Pháp – Mỹ. Pháp xúi Y Dhơn chỉ huy FULRO nổi dậy bạo động. Mỹ ủng hộ Y Bhăm, để cho ngụy quyền đàn áp. Khi đàn áp, chúng thống nhất với nhau trong âm mưu làm ngơ cho bọn chỉ huy cấp trên FULRO chạy thoát. Bọn cấp dưới thì bị trừng trị, trở thành vật hi sinh cho cuộc chém giết khốc liệt.
Hội nghị đàm phán ở Pa-ri sắp kết thúc, lầm tưởng sẽ có giải pháp thành lập Chính phủ liên hiệp, có cơ hội cho tay sai chiếm một số ghế trong chính phủ đó với tư cách “lực lượng thứ ba”, đế quốc Mỹ chỉ huy FULRO vờ xin hợp nhất với Mặt trận dân tộc giải phóng. Bị thất bại, Mỹ lại cho FULRO tung tin “đã liên kết với Mặt trận” để hòng kiếm cái vốn chính trị trước quần chúng, để FULRO thay Thiệu nắm lấy Cao Nguyên, thực hiện kế hoạch hậu chiến của Mỹ.
*
* *
Từ ngày giải phóng miền Nam đến nay, để quét sạch tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ để lại, xây dựng Tây Nguyên thành vùng giàu có, vững mạnh, bảo vệ cuộc sống yên vui của nhân dân các dân tộc, chúng ta đã liên tục đặt ra và giải quyết vấn đề FULRO, đã trừng trị nhiều tên chỉ huy nguy hiểm, tàn ác, làm tan rã nhiều mảng FULRO còn sót lén lút hoạt động. Nhiều người dân tộc bị lôi kéo, kích động, lầm lạc theo FULRO đã trở về buôn làng làm ăn lương thiện.
Tuy nhiên, một số tên chỉ huy FULRO vẫn lẩn trốn trong rừng, liên lạc với bọn gián điệp và các thế lực phản động nước ngoài, đốc thúc chân tay hoạt động chống phá cách mạng, giết hại cán bộ và nhân dân ta. Công tác đấu tranh chống FULRO còn nhiều khó khăn phức tạp.
Điều khó khăn, phức tạp ở đây không phải vì tàn dư của FULRO còn nhiều và mạnh. Bản thân lịch sử FULRO đã đủ chứng tỏ rằng, ngay trong thời kỳ hoạt động hung hăng nhất, bọn chúng cũng không phải là thế lực đáng gờm gì đối với ngụy quyền Sài Gòn, càng không thể gây cản trở lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng. Tách khỏi mưu ma chước quỷ về sự giúp đỡ của đế quốc, tay sai, FULRO chỉ còn là một tổ chức trơ trọi của bọn tầng lớp trên ngoan cố…Khó khăn phức tạp chính là vì chúng tồn tại ở bối cảnh đặc biệt của xã hội Tây Nguyên, vì thủ đoạn lừa bịp của chúng được che đậy dưới lá cờ dân tộc, còn mê hoặc được một số người lạc hậu về chính trị.
Cuộc đấu tranh quét sạch tàn dư FULRO là một cuộc cách mạng đưa xã hội Tây Nguyên lên một cách đồng bộ, nhằm giác ngộ quần chúng, cô lập, tiến tới tiêu diệt tàn dư phản cách mạng.
Để góp phần làm rõ vấn đề phản cách mạng ở Tây Nguyên mà nguồn tư liệu xưa nay ít được biên soạn thành hệ thống, nội dung cuốn sách này chỉ giới hạn trong phạm vi miêu tả phía địch chứ chưa đặt nhiệm vụ phản ánh phong trào quần chúng về cuộc vận động cách mạng nói chung trên Tây Nguyên. Vì mục đích chúng tôi là cung cấp những tài liệu chưa được biết rộng rãi để làm cơ sở cho cán bộ, chiến sĩ Công an và các ngành nghiên cứu, kết hợp với nhiều tài liệu khác, để hiểu vấn đề FULRO một cách trọn vẹn hơn.
Những sự kiện được miêu tả căn cứ vào sự phản ánh của một số cơ quan và cán bộ có trách nhiệm, căn cứ vào hồ sơ của công an các địa phương có FULRO hoạt động, căn cứ lời khai của một số tên cầm đầu còn bị giam giữ và lời thú nhận của một số nhân chứng theo FULRO lâu năm; dựa vào những điều tai nghe mắt thấy của người viết và có tham khảo tài liệu dịch để lại. Loại tư liệu này nếu có ưu điểm là sinh động, hấp dẫn, ít người biết tới, thì ngược lại, cũng có nhược điểm là dễ bỏ sót những nội dụng hoạt động, những địa bàn, những bộ phận đôi khi còn khá quan trọng của thế lực FULRO vẫn tồn tại rải rác trên một số vùng khác của miền Nam. Vì vậy, rất mong được bạn đọc, nhất là những đồng chí, đồng bào am hiểu vấn đề, nhiệt tình giúp đỡ cho thêm ý kiến.
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG KẺ LƯU VONG 1. THAM VỌNG
Les Kossem muốn làm lãnh tụ, điều đó ai cũng biết. Nhưng làm lãnh tụ như thế nào, lại là một bài tính lớn của riêng ông. Cháu chắt một người Chàm phiêu bạt từ Việt Nam sang, vào thế kỷ thứ XVI, sống trên đất Căm-bốt, ông sẽ làm lãnh tụ dân tộc nào trên mảnh đất này đây? Dân tộc Khơ-me Kăng-đăng đã có Xi-ha-núc, Lon-non…lãnh đạo. Dân tộc Khơ-me Krôm có Om Savuk, ông chỉ còn hy vọng chỉ huy dân tộc Khơ-me Islam và Khơ-me Leus.
Người Chàm ở Căm-bốt dẫu có bộ phận nào còn hướng về cố quốc Champa thì cũng chưa có người đứng đầu. Phải rồi, ông sẽ tập hợp họ, chỉ huy họ, lãnh đạo họ. Ông sẽ thành lãnh tụ của người Chàm, tức là lãnh tụ của dân tộc lớn Khơ-me Islam. Và như thế ông sẽ là một trong những người đứng đầu vương quốc Căm-bốt này. Với tham vọng đó, Les Kosem dành cả đời mình cho hoạt động chính trị.
Năm 1944 Nhật chiếm Đông Dương. Vốn thành thạo tiếng Nhật, ông xin làm thông dịch viên cho một võ quan cao cấp Phù-tang. Con đường tiến thân không lấy gì làm vinh dự cho một chính trị gia, ông biết thế, những vẫn là con đường dễ nhất. Quả nhiên, ngài võ quan hứa sẽ giúp ông thành lập lực lượng Chàm chống lại quân Pháp, lại còn giao ước sau này khi làm bá chủ Đông Nam Á rồi, chính phủ Nhật sẽ cho dân tộc Chàm được phục hồi cố quốc Champa, được độc lập hoàn toàn. Vớ được cơ hội hiếm có này, Les Kossem liền tập hợp hơn 300 thanh niên Chàm, thành lập một đội quân, nhận vũ khí của Nhật, hoạt động chống quân Pháp đóng ở tỉnh Kông-pông-chàm – nơi ông sinh ra và cư trú (ông không gọi là quê hương).
Không may cho ông, Nhật thất bại, phải đầu hàng Đồng Minh. Phong trào cách mạng ở Đông Dương dâng lên như thác lũ. Ở Căm-bốt, nó làm rung động nền tảng chế độ phong kiến hàng nghìn năm lẫn chế độ thực dân hàng trăm năm. Tình thế này không dễ gì Pháp muốn trị tội ông, một người tuy theo Nhật, nhưng vẫn chống Cách mạng. Không sợ hãi, Les Kossem quay ngay 180 độ, chạy theo quân Pháp. Ông đoán không sai: Pháp giữ nguyên lực lượng của ông để chống lực lượng Cách mạng đang phát triển. Không chỉ thế, Pháp lấy ân trả oán phong Kossem từ trung sĩ lên chuẩn úy và cho vào làm việc luôn trong Phòng nhì quân đội Pháp. Năm năm sau, ông mang cấp bậc thiếu úy.
Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông được thăng trung úy và cải hoán sang quân đội Hoàng gia Căm-bốt. Một bước tiến gần hơn nữa đến cái vị trí tầm cỡ vương quốc mà ông hằng mơ ước.
Ông tỏ ra trung thành và táo bạo hẳn lên nên được Lon-non ưa chuộng, muốn biến thành tay chân tin cẩn. Les được cử sang Pháp theo học khóa tu nghiệp về cải tổ quốc phòng và tổ chức quân đội. Ở Pháp, ông làm quen với một số chính khách. Thông minh, thủ đoạn và biết làm liều, ông tranh thủ được tình cảm của họ. Vài nhân vật quan trọng có thói thích phát minh đã hứa sẽ giúp ông trên con đường sự nghiệp và sẽ tạo ra một “hiện tượng Les Kossem”.
Tham vọng làm lãnh tụ càng sôi dậy trong lòng ông. Les Kossem dành nhiều thời giờ tìm tài liệu có liên quan đến lịch sử Vương quốc Champa ở thư viện ở Viện Hàn lâm Pháp. Ông quyên góp bạn bè, mua nhiều tài liệu giá trị mang về nước.
Năm 1957, sau khi mãn khóa, từ Pháp về Căm-bốt, Les Kossem tập hợp một số bạn bè thân thuộc người Chàm như Chek Ibrahim, El Ibrahim, Primê… trình bày những tài liệu thu thập được và thành lập một ban tuyên truyền. Ban này chuyên kích động tinh thần phục hồi cố quốc ở những người Căm-bốt gốc Chàm: quyên góp tiền bạc gây quỹ hoạt động ngầm. Sự kiện này làm cho nhà nước và chính khách Căm-bốt bắt đầu chú ý đến Kossem.
Trong một đại hội sĩ quan toàn quân do Xi-ha-núc chủ tọa, khi vị đứng đầu Nhà nước này kêu gọi các sĩ quan gia nhập binh chủng dù, Kossem là người ghi tên đầu tiên.
Năm sau, khi học xong các khóa nhảy dù cơ bản, huấn luyện viên nhảy dù và nhảy dù điều khiển, Les Kossem được sử sang Pháp dự cuộc thi nhảy dù toàn thế giới. Kossem đã đoạt giải nhì sau một phi công Nga.
Với thành công rực rỡ trên đây, ông được Xi-ha-núc chú ý. Vợ hai ông lại là người Ấn Độ lai Kinh, đã đẹp lại lịch lãm sự đời nên trong các buổi khiêu vũ, Xi-ha-núc thích vời vợ chồng Les Kossem đến. Les Kossem được hầu cận bên cạnh Quốc trưởng, còn vợ được hầu cận Hoàng hậu hoặc có khi ngược lại.
Tất nhiên là Les không bỏ lỡ cơ hội này. Ông trình bày hoài bão cải tổ và xây dựng binh chủng dù của quân lực Hoàng gia thành binh chủng hùng mạnh. Les nói khéo đến nỗi Xi-ha-núc thấy chỉ có Kossem mới là người duy nhất đảm đương được trọng trách ấy. Thế là Xi-ha-núc thành lập liên đoàn nhảy dù đầu tiên của quân đội Vương quốc, phong Les Kossem lên đại úy và giao luôn cho ông tổ chức và huấn luyện binh chủng này.
Năm 1959, Les Kossem lại được cử sang Pháp học khóa tham mưu, khi trở về, vẫn chỉ huy binh chủng cũ. Dù ân sủng dồi dào đến như vậy, trước sau, Les Kossem vẫn chỉ là tên lính đánh thuê cho Xi-ha-núc, chưa thể vươn tới cái vị trí lãnh tụ ước mơ được.
May sao, thời gian này, bang giao giữa Căm-bốt và Hoa Kỳ trở lại tốt đẹp, thân thiện. Les liền tìm gặp vị tướng hai sao, trưởng phái bộ Hoa Kỳ tại Căm-bốt, trình bày hoài bão của mình: lập một phong trào đấu tranh đòi phục hồi Vương quốc Champa hiện đang được ông hoàng Xi-ha núc ủng hộ.
Nhưng khi trưởng phái bộ Hoa Kỳ hỏi về mục tiêu, đường lối, yếu tố phục hồi quốc gia Champa thì Les Kossem lúng túng, không biết trả lời. Vốn không lạ gì tính sớm nắng chiều mưa của Xi-ha-núc, mặt khác, ở Việt Nam, Ngô Đình Diệm đang tỏ ra là một tay chống Cộng đắc lực, lúc này Mỹ không dại gì mà làm mất lòng Diệm. Vì vậy Mỹ làm ngơ trước đề nghị của Les Kossem. Nhưng bước sang năm 1960 thì tình hình chính trị thay đổi một cách đáng lo ngại. Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập. Liền sau đó, Mặt trận Tây Nguyên tự trị ra đời, do cụ Y Bih làm Chủ tịch. Đoán ra một cơ hội chính trị thuận lợi để các nước ngoài can thiệp vào mà không sợ Ngô Đình Diệm chống đối mạnh, nhưng vẫn chưa dám mong nhiều vào người Mỹ qua kinh nghiệm năm trước, lần này Les Kossem vội vàng chạy sang toà Đại sứ Pháp ở Nam Vang cầu cứu.
Pháp vừa bị hất cẳng ở Đông Dương, đang rất cay cú nên đã chụp lấy cơ hội này, hết sức ủng hộ Kossem. Tòa Đại sứ Pháp yêu cầu Xi-ha-núc ủng hộ “hiện tượng Les Kossem”, tạo mọi thuận lợi để Kossem lập mặt trận Chàm bên hông Việt Nam mà Xi-ha-núc vẫn còn nuôi nhiều điều hậm hực.
Một chuyện may mắn đã xảy ra đúng lúc, tạo thuận lợi cho vị lãnh chúa Chàm tương lai. Cuộc tranh chấp ngôi đền lịch sử Preah Vihaer ở biên giới Thái – Miên giữa hai Vương quốc bùng nổ. Les Kossem được lệnh đem lực lượng dù bảo vệ lãnh thổ. Les đã chỉ huy Liên đoàn dù đánh thắng quân Thái, giữ nguyên ngôi đền cho Vương quốc Căm-bốt. Sau chiến công hiển hách đó, tên tuổi của Les Kossem nổi như cồn. Người ta coi Les như anh hùng, Xi-ha-núc tin cậy cử Kossem làm sĩ quan cận vệ cho các quốc khách viếng thăm Căm-bốt. Les tha hồ tiếp cận các yếu nhân nước ngoài đến Nam Vang.
Năm 1962, Les Kossem cận vệ cho Chu Ân Lai. Lợi dụng cơ hội, Les mật đàm với Chu, trình bày về mặt trận phục quốc Chàm. Chu hứa sẽ ủng hộ Les. Sau đó hai vị lãnh tụ Hán – Chàm chụp hình chung làm kỷ niệm. Câu chuyện tưởng rất bí mật, chỉ hai người biết. Ấy thế mà đến nay nó vẫn được lưu trong hồ sơ của Hoàng Minh Mộ, nhân viên tình báo Phủ Đặc ủy Trung ương của Ngô Đình Diệm.
Cũng bằng con đường như vậy, Les Kossem đã mật đàm với nhiều chính khách khác và đều được các vị hứa giúp đỡ.
Như diều gặp gió, Les được phong hàng loạt chức vụ quan trọng: Tham mưu trưởng địa phận Nam Vang. Chủ tịch ban tham mưu phòng nhì quân đội Hoàng gia. Đệ nhị phó Tổng tư lệnh tối cao quân đội Hoàng gia.
Với ba chức vụ ấy, Les Kossem thực sự có nhiều quyền lực. Đã đến lúc Les có thể bắt đầu phát động phong trào đấu tranh phục quốc Chàm. Ông được người Pháp yểm trợ tài chính và Xi ha-núc ủng hộ dư luận, nhân lực. Quốc trưởng cho Les được toàn quyền huy động người Chàm ở Căm-bốt vào phong trào chống Việt Nam.
Bất ngờ – tất nhiên là chỉ đối với những ai chưa hiểu Xi-ha-núc – sau mấy lần bị Mỹ làm nhục, từ năm 1963, Xi-ha-núc nổ ra chửi Mỹ. Les Kossem cũng đành phải họa theo ngoài mặt, nhưng bên trong, ông đã cung cấp nhiều tài liệu cơ mật của Căm-bốt cho Mỹ. Les cử tay chân thân tín liên lạc với bọn sĩ quan CIA tại Sài Gòn. Tài liệu bí mật được chuyển từ Nam Vang sang Sài Gòn trao cho Đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Có lần một nhân viên của Les đem tài liệu đi bị nhân viên an ninh biên giới Căm-bốt bắt được. Khi tài liệu gửi về Nam Vang cho cơ quan an ninh của Xi
ha-núc, thì Les đã khôn khéo cho người chặn đường thu hồi lại được.
Xi-ha-núc không phát hiện ra hoạt động ngầm của Les. Chek Ibrahim, một người bạn thân của Les khuyên Les không nên phản bội Xi-ha-núc, sợ có ngày mất cả chì lẫn chài. Les Kossem mỉm cười nhún vai, nhắc lại một câu của Na-pô-lê-ông mà ông đã lấy làm phương châm xử thế của đời mình: “Mất tài sản là không mất gì hết. Mất danh dự là mất một nửa. Mất can đảm mất tất!”.
Xi-ha-núc cắt quan hệ với Mỹ. Bang giao Mỹ – Căm-bốt bị gián đoạn. Cái mà Les Kossem cố gọi là “Phong trào phục quốc Champa” cũng phải tìm một chỗ dụng thân ổn định hơn. Nó nghiêng hẳn về phía người Pháp, người cha đỡ đầu từ thủa Les còn đi lính tây. Trong hơi ấm của bàn tay người Pháp, đến đầu năm 1963, Les Kossem hình thành được 2 nhóm trong cái gọi là “Phong trào” mơ ước của mình.
Một nhóm mang tạm tên “Mặt trận giải phóng Champa”, viết tắt là FLC, do Po Nagar (tên một vị thần Chàm bị Les Kossem lấy làm biệt danh của mình) làm chủ tịch. Nhóm thứ hai lấy tên “Mặt trận giải phóng Khơ-me Krôm” (còn gọi là Mặt trận giải phóng Miên Hạ), viết tắt là FLKK, do Châu Đê-ra (tên một anh hùng dân tộc bị Om Savuk – Tham mưu trưởng Quân đội hoàng gia Căm-bốt – lấy làm biệt danh) giữ chức chủ tịch.
Les Kossem thu hút một số sĩ quan, công chức, thương gia Chàm như Chek Ibrahim, El Ibrahim , Primê, Taekyđa, bác sĩ Jordo, Tôn Ái Liên… thành lập “Ủy ban chấp hành Trung ương lâm thời Mặt trận phục quốc Champa”. Ủy ban hoạt động tuyên truyền, quyên tiền người Chàm ở Căm-bốt và tìm cách liên lạc với người Chàm ở Việt Nam.
Châu Đê-ra cũng gom một số sĩ quan và công chức Khơ-me Krôm như: Thạch Bum, Thạch Chea, Thạch Chanh… thành lập “Ban chỉ đạo Mặt trận giải phóng Khơ-me Krôm”.
Vì bị Sơn Ngọc Thành chống ra mặt, hăm dọa dùng lực lượng “Khơ-me tự do” lật đổ nên Xi-ha-núc lệnh cho Les Kossem và Châu Đêra đẩy mạnh hoạt động của hai “phong trào” để làm hậu thuẫn cho Quốc trưởng chống lại Sơn Ngọc Thành.
Được vị lãnh đạo tối cao ủng hộ, Les và Châu lao vào hoạt động. Nhưng “phong trào” vẫn giẫm chân tại chỗ vì thiếu lực lượng.
Giữa lúc đó, bên nước Việt Nam láng giềng, tình hình bỗng trở nên lộn xộn. Những cuộc tranh chấp đổ máu để giành lấy quyền làm tay sai cho Mỹ đã tạo cơ hội cho những thế lực vốn bị chánh thể Sài Gòn áp bức vùng dậy. Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm. Nguyễn Khánh lật Dương Văn Minh. Phong trào đấu tranh của người Thượng và Chàm nổi lên. Thiên Sanh Thì, Đặng Văn Thủy, những người Chàm vốn bị chế độ Diệm khinh rẻ, liền từ Việt Nam chạy sang Căm-bốt gia nhập mặt trận của Les. Thấy đã có thời cơ thọc bàn tay về xứ sở cũ, Les liền cử Đặng Văn Thủy trở lại Việt Nam móc nối với bọn cầm đầu người Thượng ở Tây Nguyên và người Chàm ở cực Nam Trung Bộ.
2. KẺ CHẠY TRỐN
Tay cầm quyển sách dày cộp, Đàng Năng Giáo khập khiễng bước chân đi đến nhà Thuận Thị Trúc, mạnh dạn gọi cổng, biết chắc giờ này Trúc chỉ ở nhà một mình.
Một cô gái trạc 16, 17 tuổi, khuôn mặt trái xoan, nước da nâu, đôi hàng mi đen dài và cong, chạy ra nhoẻn miệng cười rất duyên, giọng thanh thanh:
- Mời anh vào chơi!
Giáo theo Trúc vào nhà ngồi trước bàn, mặt buồn rười rượi. Trúc rót nước mời rồi bẽn lẽn cúi đầu.
Giáo nhìn Trúc qua đôi kính cận. Cả hai người đều im lặng.
Giáo là một học sinh giỏi và có chí, cả vùng biết tiếng. Anh lại thích dấn thân vào những cuộc xô xát chống bọn quan lại địa phương. Cử chỉ hào hiệp gần đây nhất của anh còn gây dư luận tốt trong vùng.
Chả là đội vũ Chàm ấp Hữu Đức quê anh có cô Chính rất xinh. Một đêm trình diễn ở rạp Thanh Bình, đội vinh dự được ngài tỉnh trưởng Ninh Thuận tới xem và để ý đến Chính. Ngài liền lệnh cho ông Lưu Phụng Kinh, quận trưởng quận An Phước, bố trí cho Chính được ân sủng gặp riêng để ngài khen ngợi một tài năng trẻ xuất hiện trong dân dã Chàm. Ông Kinh đem ô-tô đưa Chính lên dinh tỉnh trưởng. Ở dinh, vị quan đầu tỉnh đã cưỡng hiếp cô gái.
Từ Sài Gòn về quê, được biết chuyện, Giáo tập hợp học sinh một số trường trong vùng, tung truyền đơn, biểu tình lên án ông Kinh và ngài tỉnh trưởng. Bực bội vì tên học sinh dám phạm thượng, ngài tỉnh trưởng lệnh cho ông quận trưởng trừng trị. Ông quận trưởng lệnh tiếp cho ông xã trưởng Đàng Năng Hương. Ông Hương là anh họ của Giáo nhưng vẫn phải đàn áp Giáo và học sinh, bắt giam một số người.
Sau vụ này, Giáo nổi lên như một người có nghĩa khí. Chuyện bay đến tai Trúc làm cô thán phục, gặp Giáo là cô mến ngay. Hai người thân nhau, Giáo ngỏ lời cầu hôn với Trúc. Cô yêu Giáo, nhưng còn e ngại một điều, anh đã một đời vợ. Giáo lý giải rất tài tình:
- Em xem, vợ anh mồ côi cha mẹ từ bé, sống với người bà nội mù lòa. Anh thương hại cô ta, nhận lời lấy làm vợ. Nhưng bà nội anh không nghe. Một, vì ông nội anh là thầy cả giầu có; hai, vì nhà cô ấy nghèo lấy gì cưới anh ? Anh bất chấp ngăn cấm của gia đình, cứ lấy, tưởng rằng sẽ sống hạnh phúc. Ai ngờ, khi anh đi học ở Sài Gòn, cô ấy bắt bồ với một tên “cán bộ bình định” và đã mang thai. Anh về, ai cũng tưởng anh sẽ đánh đập, nhưng anh nghĩ rằng tại anh ham mê học hành, ít gần gũi nên cô ấy mới tìm người khác.
Nghe xong, Trúc bỗng thấy Giáo cao thượng quá. Con người như thế ít có. Thế là cô càng mến anh. Một lần về nghỉ hè, Giáo đưa cho Trúc xem một quyển “Tập san phổ thông” của học sinh Sài Gòn, trong đó có đăng bài thơ của Giáo, ghi rõ ràng mấy chữ đề tặng Trúc lên đầu:
Ru hồn “vọng gác đêm sương”.
Bài ca mộng ước vấn vương trong lòng…
Trúc mỉm cười sung sướng. Khắp vùng này, cô vốn nổi tiếng có giọng hát hay, nhất là qua bài “Vọng gác đêm sương” mà dân trong vùng không mấy ai là chưa được nghe.
Từ đó, tình cảm giữa hai người càng thắm thiết. Họ chờ đợi một ngày sum họp. Trúc ngước nhìn Giáo:
- Sao hôm nay anh buồn thế? Có chuyện gì anh?
- Anh nói với em một tin buồn. Anh sắp phải xa em rồi…
- Sao?
- Tên tỉnh trưởng vẫn cho cảnh sát theo dõi anh, anh không thể ở đây được. Phải ra đi thôi! Trúc rơm rớm nước mắt:
- Cho em đi theo anh. Em không thể sống thiếu anh!
Giáo lắc đầu:
- Không thể được. Anh còn phải tìm đường. Khi nào tìm ra nơi ở ổn định, anh sẽ đón em. Còn bây giờ, anh chưa biết đi đâu, trong nước hay là ngoại quốc.
Hai người buồn bã chia tay nhau.
Giáo về nhà, thăm dò tình hình, tìm cách thoát khỏi sự theo dõi của cảnh sát và bọn cai quản xã, ấp.
Giữa lúc đó, Huỳnh Ngọc Sắng quê ở Mỹ Nghiệp – cùng quê với Trúc – tìm gặp anh.
Sắng cũng là một học sinh Chàm. Học hết lớp thứ nhất, y đi lính cho Pháp, làm ở Sở thông tin quận Phan Rang. Thời gian làm ở Sở thông tin, Sắng học hỏi kỹ các ngón tâm lý chiến, tuyên truyền, quảng cáo của báo chí. Sắng tỏ ra có năng khiếu về tuyên truyền, được ông xếp Pháp mến chuộng.
Sau Giơ-ne-vơ, Pháp rút, Sắng thất nghiệp, về nhà một thời gian rồi vào Nha Trang theo học trung học đệ nhất cấp.
Vụ hè tới, Sắng về quê nghỉ ngơi. Lúc đó ở xã có tổ chức dân đắp đường làng. Con đường chạy qua ruộng nhà Sắng. Y tức chống gậy ra chửi, bị viên xã trưởng báo cảnh sát Diệm bắt trói, điệu về quận Thanh Hải. Đến quận, mấy tên cảnh sát đẩy Sắng xuống hầm giam. Đầu Sắng đập xuống nền xi măng, tóe máu. Sắng bị giam, bị đánh đập, xỉ vả tàn tệ. Sắng uất ức, căm thù chánh quyền Diệm. Lòng hận thù người Kinh âm ỉ trong lòng từ thuở còn đi lính Pháp bỗng bùng lên dữ dội. Nhờ thầy thợ đút lót, Sắng ra khỏi nhà giam và lặng lẽ tìm cách trả thù.
Năm 1957, phong trào BaJaRaKa ở Cao Nguyên nhen nhóm. Đang uất ức, thấy có một tổ chức chống Diệm, chống người Kinh, Sắng vội lên Buôn Mê Thuột, xin gia nhập. Sắng được Y Bhăm – chủ tịch BaJaRaKa – kết nạp vào tổ chức và phải trở về Ninh Thuận vận động người Chàm.
Về quê hương, Sắng lập “Hội bạn”. Bề ngoài, Hội lo tổ chức giúp đỡ lẫn nhau trong việc dựng vợ gả chồng, cưới xin, vui chơi… Nhưng bên trong là tuyên truyền chống Diệm, chống người Kinh.
BaJaRaKa bị Diệm đàn áp. Y Bhăm bị bắt giam. Sắng bỏ học về nhà, sống lang thang. Chán làm chính trị, y lao vào chơi bời, tìm thú vui xác thịt với nhiều cô gái.
Đầu tiên, y bao vây cô Chiêm. Thấy cô đẹp, y tìm cách gạ gẫm. Một đêm, cô Chiêm đang ngủ trong nhà, Sắng mò vào, không dè bị cô la lên, chửi rủa, Sắng phải nhảy rào chạy trốn.
Sau đó, y lấy cô Tím. Khi vợ có thai, y chán, chẳng ngó ngàng gì đến, bỏ chạy theo các cô gái khác. Đến kỳ sinh nở, lúc cô Tím đang quằn quại, thì y vẫn mải theo các cô gái khác, người nhà đến báo cũng không về. Cô Tím uất, chết ngay khi đứa con trai vừa cất tiếng khóc chào đời. Bà ngoại phải nuôi cháu. Đứa bé được đặt tên là Y Trạng. Sắng càng rảnh chân, bỏ nhà đi mở lớp dạy tư cho trẻ con ở ấp Tuấn Tú. Ở đây y mê cô Lỡ, một cô gái nghèo mồ côi cha, có mái tóc vàng ươm, da trắng mặt tròn. Sắng đã dùng đủ thủ đoạn, tán tỉnh, lừa lọc và cuối cùng cô Lỡ yêu y. Khi cô Lỡ có thai, y lại bỏ. Đẻ xong đứa con gái, không ai giúp cả, cô Lỡ phải bế con đi ăn xin. Cô đặt tên đứa bé là Thị Thịnh.
Hết cô Lỡ, đến cô Đựng, một người đã có chồng và sau khi chán chê cô Đựng, Sắng cặp bồ với vợ một thày Chang. Nhưng đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma. Một đêm thày Chang cùng với ba người em đã bắt được quả tang Sắng đang ăn nằm với vợ mình. Họ liền lấy thừng trói hai người đang lõa lồ lại, dong đi khắp ấp để bêu riếu, dọa sẽ cắt tai nếu lần sau còn bắt được.
Biết không còn mặt mũi nào ở lại quê hương, Sắng tính toán tìm một nơi lẩn tránh. Nhưng với những lời bia miệng không đẹp đẽ gì đè nặng lên số phận, Sắng biết đi đâu bây giờ? Đang loay
hoay tìm kiếm thì Sắng sực nhớ tới Đặng Năng Giáo, người bạn học cũ, lúc này đã có ít nhiều danh tiếng trong vùng. Sắng liền tìm đến rủ Giáo:
- Lên Cao Nguyên đi! Đó là con đường tốt nhất đối với chúng ta. Ở đó đang chuẩn bị lập phong trào tranh đấu chống chánh quyền của bọn người Kinh.
- Liệu họ có kết nạp người Chàm ta không? – Giáo hỏi.
Sắng quả quyết:
- Hồi phong trào BaJaRaKa, họ đã chẳng kết nạp tôi là gì!
Đang không có lối thoát, nghe Sắng nói, Giáo bập luôn. Hai người lên Buôn Mê Thuột, lúc đó là mùa xuân năm 1964.
3. CHỌN KẺ PHẤT CỜ
Chiếc máy bay từ từ hạ cánh xuống phi trường Buôn Mê Thuột. Ngài Đệ tam tham vụ tòa đại sứ Mỹ Beachner đĩnh đạc bước xuống. Một chiếc xe bịt mui kín lao ngay đến bên máy bay. Đại tá Freund – Cố vấn vùng II chiến thuật kiêm chỉ huy “lực lượng đặc biệt Mỹ” tại Cao Nguyên – vội vã đón ngài Tham vụ về trụ sở Bộ chỉ huy Sư đoàn 23 bộ binh.
Ngài Đệ tam tham vụ, với tư cách là biệt phái viên của ngài Đại sứ, cùng vị đại tá bí mật bàn luận.
Ngài Tham vụ chậm rãi:
- Ngài Đại sứ báo cho biết, Les Kossem đã cử liên lạc về miền cực Nam Trung phần và Cao Nguyên. Ta không thể để cho bọn Miên, bọn Khánh hay bất cứ bọn ngoại lai nào khác nắm Cao Nguyên được! Từ Cao Nguyên chúng sẽ lập hành lang với Căm-bốt, qua tên Xi-ha-núc, Les Kossem bắt tay với bọn Pháp. Như thế Cao Nguyên sẽ tuột khỏi tay ta! Điều đáng lo ngại nữa là hiện nay tên Y Bih, Phó chủ tịch Mặt trận giải phóng của Việt Cộng, kiêm Chủ tịch Phong trào tự trị Tây Nguyên có uy tín ghê gớm, đang đòi lôi kéo các sắc dân Thượng về phía chúng!... Ngô Đình Diệm trước kia cũng như Nguyễn Khánh hiện nay không đủ khả năng đánh bại uy tín của Y Bih!... Thế là đã có sức ép cả bên ngoài và bên trong của bọn Miên, bọn Pháp cũng như của Việt Cộng!... Cao Nguyên đặt chúng ta trước một tình huống báo động!
- Thưa ngài – Freund rụt rè – giải pháp hữu hiệu của ta cứu vãn Cao Nguyên là như thế nào?
- Giải pháp hữu hiệu nhất của ta, theo ngài Đại sứ là phải nắm lấy Cao Nguyên. Ngài đại tá chưa hiểu, hỏi lại:
- Thưa ngài, từ trước đến nay, ta chẳng nắm Cao Nguyên là gì? Sự hiện diện của hàng ngàn chiến sĩ “lực lượng đặc biệt Mỹ”, của hàng ngàn cố vấn ở Cao Nguyên chẳng đã chứng minh điều đó hay sao?
- Đúng, ta đã có nắm Cao Nguyên bằng quân đội. Nhưng chưa đủ. Cần tạo một thế lực chánh trị cho người Thượng ở Cao Nguyên rồi ta sẽ nắm lấy thế lực đó “Cao Nguyên hóa chiến tranh” như “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Freund gật gù:
- Cao Nguyên hóa chiến tranh…
- Ông là người chỉ huy tối cao ở Cao Nguyên, ông thấy ta nên chọn ai làm thủ lĩnh ở đây? Freund lim dim đôi mắt màu hạt dẻ rồi tỏ ra đắc ý:
- Nhân vật số một của Cao Nguyên hiện nay là Y Bliêng. Đó là thủ lãnh có nhiều uy tín trong đồng bào Thượng. Hắn khôn ngoan và trung thành với các bạn đồng minh. Và điều quan trọng, hắn tỏ ra thức thời. Qua bao thăng trầm của lịch sử Cao Nguyên, hắn vẫn đứng sừng sững như cây kơ-nia.
Rồi không rõ là để khoe năng lực chánh trị của một quân nhân trước ngài Đệ tam tham vụ, hay là để quảng cáo cho con chủ bài mình tiến cử, mà đại tá Freund sôi nổi trình bày cả một lịch sử của Y Bliêng:
- Hắn là người rất khôn khéo, gió chiều nào che chiều ấy, vì thế, qua bao chế độ thống trị, hắn vẫn giữ cương vị cao trong ngạch chánh quyền của tỉnh Đắc Lắc này.
Thời Pháp, bọn Gô-loa cho hắn học trường Trung học Qui Nhơn. Tốt nghiệp, hắn được vào làm thư ký Tòa sứ Đắc Lắc. Hắn là một viên chức mẫn cán, tận tụy hết mực với mẫu quốc Pháp.
Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, hắn cùng với các tên Y Bih Aliô, Y Ngông, Y Vang, Rmah Bai, Y Nuê… tham gia Việt Minh. Hắn tỏ ra là một cán bộ cách mạng hăng hái tận tụy, nên được Việt Minh cho ra Hà Nội học lớp quân chính cấp tốc. Trở về, được cử làm Ủy viên quân sự kiêm Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Cứu quốc quân Đắc Lắc.
Pháp tái chiếm Đắc Lắc, bắt hắn bỏ tù. Không biết đút lót, chạy chọt thế nào, mà đùng một cái, hắn thoát ra khỏi nhà tù chật chội, bẩn thỉu để về làm quận trưởng Buôn Hồ, một quận giàu có. Dân ở đây đông, đồn điền cà phê, cao su bạt ngàn. Nhiều người đút lót tiền triệu cũng không được giữ cái chức béo bở này. Sau Giơ-ne-vơ, ta thay Pháp đưa Ngô Đình Diệm thay Bảo Đại, cứ tưởng hắn bị Diệm thải về vườn, nhưng không, hắn bước theo ngay Diệm và hăng hái xả thân xây dựng nền “Đệ nhất cộng hòa”. Hắn dẫn linh mục Nguyễn Viết Khai đi tìm đất lập dinh điền cho đồng bào Công giáo vừa di cư vào. Hắn còn đi khắp buôn làng, giải thích “chánh sách dân tộc vô cùng sáng suốt và đúng đắn” của Ngô tổng thống. Hắn hăng hái thuyết trình, xin ứng cử đại biểu quốc hội, hứa sẽ không tiếc sức mình tranh đấu tiêu diệt ba kẻ thù: “Cộng sản, chậm tiến và chia
rẽ”. Vì vậy hắn được Tôn Thất Hội – đại biểu Chánh phủ ở Cao Nguyên Trung phần – đệ trình với Diệm ban cho “Đệ ngũ đẳng bảo quốc huân chương” và phong làm Phó tỉnh trưởng Thượng vụ. Hắn là người Thượng đầu tiên trên Cao Nguyên được giữ chức vụ cao như thế.
Chúng ta hạ thằng Diệm, Y Bliêng lại cất lời lên án chế độ Ngô Đình Diệm độc tài, phát xít. Hắn một lòng một dạ ủng hộ “Cách mạng”. Dương Văn Minh cho hắn giữ chức vụ cũ. Hắn hăng hái theo Minh.
Ta cho Nguyễn Khánh thay Dương Văn Minh, Y Bliêng chạy ngay theo Khánh. Hắn lại được giữ nguyên chức Phó tỉnh trưởng Thượng vụ. Cho đến nay, Y Bliêng quả là một tên trung thành rất mực với ta.
Một tiểu sử như vậy tưởng đâu dễ làm cho Beachner xiêu lòng. Không ngờ ngài Đệ tam tham vụ nhún vai một cách chán chường:
- Đúng, Y Bliêng rất mực trung thành!... Nhưng trung thành quá! Trung thành một cách lộ liễu! Như thế, không phù hợp với xu hướng chọn người của ta hiện nay, nhất là đối với dân tộc Việt Nam này. Chúng ta phải chọn một tên nào đó có đôi chút son phấn về tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh chống sự thống trị của chánh quyền bọn Kinh. Phải tỏ ra có bản lãnh một chút, đối lập với chánh quyền hiện hữu một chút. Một chút, dù một chút thôi nhưng rất cần để bọn dân nghèo theo hắn.
Freund ngã mình ra phía sau cười khùng khục trong cổ họng:
- Thưa ngài, tìm đâu ra loại người ấy? Ở cái đất này, trừ tên Y Bih theo Cộng sản ra, đốt đuốc bảy ngày cũng không tìm thấy một tên có tinh thần dân tộc. Có tên nào dám đứng ra đấu tranh chống lại cường quyền, bạo lực của bọn Kinh? Tên nào cũng an phận, giữ cái ghế và cái đầu, chức vị và đồng lương, không dám hó hé gì đâu.
Beachner mỉm cười chìa ra trước mặt Freund một tờ giấy, nét chữ đánh máy đen, sắc đậm. Ngài tham vụ có vẻ tự đắc:
- Ấy thế mà tôi đã tìm ra một tên như thế đó. Xin mời ngài bớt chút thì giờ đọc lá đơn này. Freund rướn đôi lông mày rậm, cầm tờ giấy, chăm chú đọc
Kính thưa ông Đại sứ.
Chúng tôi là đại diện các sắc dân Thượng trên vùng Cao Nguyên và nhân danh dân tộc chúng tôi, đến kính cẩn thỉnh nguyện đặc ân sau đây:
Dưới thời Pháp thuộc, xứ chúng tôi vẫn được độc lập như chế độ phong kiến.
Khi còn là bá chủ, người Pháp đã bình định xứ sở, hủy diệt chế độ tôi mọi và thiết lập chế độ “Hoàng triều cương thổ” .
Trong trận chiến đấu vừa qua, chúng tôi đã chiến đấu với Nhật Bản rồi Việt Cộng để bảo vệ tự do và quyền lợi. Những sự tranh đấu ấy, chúng tôi phải trả một giá rất đắt về sanh mạng cũng như tài sản nhưng rồi thử hỏi chúng tôi đã gặt hái được gì sau hai trận chiến ấy?
Khi hòa bình trở lại, chúng tôi hy vọng có sự độc lập riêng biệt cho chúng tôi, những sắc dân Thượng. Nhưng trái lại, chúng tôi đã đổ máu cho người Việt Nam và chúng tôi vẫn bị họ cai trị nên chúng tôi cảm thấy thật là bất công theo định luật thiên nhiên.
…Kính thưa ông Đại sứ, từ trước tới nay, chúng tôi hằng mong ước ân huệ được cứu xét hay cho nghiên cứu về hoàn cảnh của nước chúng tôi nếu ông thấy là quan trọng và cần thiết để chúng tôi được độc lập hoàn toàn hay độc lập trong khối liên hiệp của một cường quốc khác như Mỹ hay Pháp chẳng hạn.
Mọi quốc gia đều có thể văn minh khi được độc lập và người ta có thể được độc lập trước khi văn minh. Nhứt là lúc này nếu chúng tôi được có ở bên cạnh một sự dẫn dắt tốt và một hậu thuẫn chắc chắn. Mà hậu thuẫn nào ngoài nước Mỹ, một cường quốc lúc nào cũng thích giúp đỡ những quốc gia nghèo và yếu.
Trong trường hợp của nước chúng tôi, nếu có sự can thiệp của cường quốc như vậy, chúng tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ có một quốc gia và nền độc lập riêng của chúng tôi.
…Do đó chúng tôi coi việc này không phải là việc nội bộ giữa Việt Nam và Cao Nguyên nữa.
Trong khi chờ đợi những kết quả tốt đẹp cho nguyện vọng của chúng tôi, chúng tôi mong ông Đại sứ nhận nơi đây lòng thành kính của chúng tôi và phúc đáp cho chúng tôi nội trong năm nay.
Y Bhăm Enuôl và 16 đại diện .
Đọc xong lá đơn, Freund ngẩn lên nhìn ngài Tham vụ, cười hóm hỉnh:
- Chắc ngài muốn chọn tác giả của lá đơn này?
Đến lượt ngài Tham vụ thao thao bênh vực con chủ bài của mình.
- Đúng! Những lập luận của hắn về quốc gia, dân tộc chứng tỏ hắn chẳng có kiến thức gì về công pháp quốc tế, nhưng chúng ta đâu cần bàn đến những điều rắc rối ấy?... Chúng ta chỉ cần một tên cầm cờ để Cao Nguyên hóa chiến tranh kia! Cân nhắc về mặt này, thì Y Bhăm không khác Y Bliêng gì mấy. Cũng thuộc sắc dân Ê Đê. Cũng được đào luyện trong lò của bọn Gô-loa (chắc ngài biết, Y Bhăm học trường Canh nông thực hành tại Tuyên Quang), năm 1945, cũng tham gia Việt Minh. Cũng bị Pháp bắt giam khi trở lại chiếm Cao Nguyên. Cũng được Pháp thả ra cho làm cán sự ở Ty Canh nông. Cũng được Diệm cho làm Phó ty Canh nông Plei Ku.
Nhưng Y Bhăm khác với Y Bliêng về tư cách cá nhân. Y Bliêng gả đứa con gái cả H' Lưm cho tên chủ đồn điền Pháp, làm cho những người dân Thượng khinh ghét. Còn Y Bhăm có bộ mặt
tư cách khá sạch sẽ. Về quá trình hoạt động, Y Bhăm được khoác một ánh hào quang khá rực rỡ. Năm 1958, biết rõ bọn công chức tay chân còn luyến tiếc Pháp, ức với Diệm, bọn tình báo Pháp, thông qua các chủ đồn điền cao su, cà phê (trong đó có thằng chủ đồn điền Rossi và tên Pôn Séc – giám mục tòa thánh Công Tum) đã móc nối, kích động Y Bhăm dùng bọn viên chức lập tổ chức BaJaRaKa. Y Bhăm vốn là tên tham địa vị cá nhân, lại nóng tính, đang ức với ta và Diệm liền đứng ra lập BaJaRaKa đấu tranh với Diệm. Tòa Đại sứ ta đã cử sĩ quan CIA FranChis, nghi trang thành chuyên viên săn bắn, về Buôn Mê Thuột gặp Y Bhăm và đồng bọn để thăm dò. Ta đã biết rõ ý đồ của bọn Pháp là xúi giục số này chống Diệm. Lợi dụng sự can thiệp của ta để đòi tự trị, tách Cao Nguyên ra khỏi Việt Nam và chịu ảnh hưởng Pháp.
Lá đơn ông vừa đọc là của Y Bhăm gửi ta vào thời ấy. Chúng còn gửi đơn cho Liên hiệp quốc, Đại sứ Pháp, Anh… Ta biết rõ âm mưu thật sự của chúng nên đã ra lệnh cho Diệm bắt giam bọn cầm đầu, kể cả Y Bhăm. Sự kiện này đã làm cho Y Bhăm nổi lên như một lãnh tụ của đồng bào Thượng. Một điểm khá quan trọng. Y Bhăm là bạn cùng trong tổ chức BaJaRaKa với Y Bih. Chỉ có Y Bhăm mới hòng tranh giành ảnh hướng với Y Bih, lôi kéo dân chúng Thượng về phía chúng ta.
Freund không nhún vai vẻ khinh miệt kiểu Beachner. Viên đại tá cười lớn tiếng, lật tẩy luôn quân chủ bài.
- Tôi tưởng ngài Tham vụ chọn một con người có đầu óc độc lập dân tộc lớn lao gì kia chứ! Ai ngờ cũng chỉ là một kẻ sẵn sàng bán Tây Nguyên cho chủ mới miễn là ông chủ này giúp được mình độc chiếm quyền lợi Cao Nguyên không cho bọn Kinh chia sẻ!
Beachner chỉ đầu xì gà vào trán Freund cười dọa:
- Thế ông Tư lệnh muốn tìm một con người có đầu óc dân tộc thật sự à? Còn khối kẻ ra đấy… Trong bọn Thượng Vixi!
Hai đứa cười xòa. Hồi lâu, Freund mới nghiêm chỉnh nói:
- Thưa ngài, nếu tôi không lầm thì Y Bhăm vẫn đang nằm trong nhà giam của Nguyễn Khánh?
- Đúng. Hắn ta đang bị Khánh giam, nhưng ngài Đại sứ đã quyết định thả ngay. Và đây mới là điều quan trọng, đưa hắn ta thay thế Y Bliêng làm Phó tỉnh trưởng Thượng vụ để tạo dần uy tín và thế lực… Dân chúng Thượng lạc hậu, sau này nghe nói có vị quan to ra lãnh đạo là họ theo ngay.
Freund không khỏi ngạc nhiên. Đưa một viên chức của Pháp đang ngồi tù ra thay một tên rất mực trung thành với mình, đang làm đến chức Phó tỉnh trưởng Thượng vụ, ngài Đại sứ và ngài Tham vụ này lẫn rồi sao?
- Thưa ngài, – Freund băn khoăn – tôi không tin là Y Bhăm sẽ trung thành với ta như đã trung thành với bọn Pháp.
Beachner cười, tỏ vẻ khinh miệt tên đại tá võ biền.
- Thưa đại tá – Beachner dịu giọng lý giải – Y Bhăm vốn là kẻ ham tiền và địa vị. Đã chịu làm tay sai thì Pháp hay ta không quan trọng. Cái quan trọng là chủ nào giàu có hơn!
Ngài Tham vụ cười khành khạch, tự nhấm nháp câu triết lý rồi tiếp:
- Đưa Y Bhăm thay Y Bliêng làm Phó tỉnh trưởng là việc làm bước đầu. Còn các bước sau, ngài Đại sứ sẽ có lệnh tiếp. Vì sự nghiệp của nước Mỹ, mong ông hoàn thành các công vụ một cách kín đáo, tốt đẹp. Bây giờ việc đầu tiên, ông hãy gặp Y Bliêng giải thích cho hắn ta hiểu, an ủi và khuyên bảo hắn hãy tin ở chúng ta. Chúng ta không bao giờ bỏ rơi bầu bạn!
*
* *
“Hãy đốt lửa lên! Hãy tập hợp mọi người lại! Hãy kêu gọi anh em “tlang” , dân chúng trong làng, những người cháu trai và cháu gái, những bà mẹ của những người này, những người cha của những người kia, những người ông và những người bà, những người góa phụ, những người con rể nghèo, tất cả những người mà cha mẹ đã qua đời. Hãy tập hợp tất cả họ lại ở giữa làng!
Ở dưới người ta hãy thảo luận đi! Ở trên người ta hãy thảo luận đi! Những người chị em gái, hãy thảo luận với những người anh em trai đi! Mọi người phải được hỏi ý kiến!
Người chúng ta thích nhất là đâu? Muốn ai sẽ là cây đa ở đầu mạch nước, là cây vả ở đầu làng, là người trông coi con cháu trong làng?
Mọi người hãy nói ra. Đừng có giấu cái muổng, đừng có giấu lời nói”.
Y Dhơn Adrơng, hiệu trưởng trường Tiểu học Lạc Thiên, đọc xong, ngẩng lên nhìn các đại biểu đang ngồi quây quanh những ché rượu trong căn nhà sàn dài, sâu hun hút. Đó là đại biểu của viên chức các công sở, của quân nhân các đồn biên giới, của các buôn. Họ mặc đủ kiểu. Các đại biểu viên chức thì com-lê, ca-vát, mũ phớt. Các đại biểu quân nhân thì quần áo rằn ri dày cộp, lấm lem đất đỏ. Đại biểu các buôn thì mình trần đen bóng, đóng khố màu sặc sỡ. Phần đông là viên chức. Ngồi quanh dãy ché rượu đầu là các ông: Y Dhé Adrơng (nhân viên Hạt thủy lâm Buôn Mê Thuột), Y Nuỉn Hmok (giáo viên tiểu học buôn Kram), Ywik Buôn Yá (giám thị dân y viện Buôn Mê Thuột), Y Hét Kpơr (giám thị trường trung học Cao Nguyên), Y Tluôp Kpơr (cán sự công chính Đắc Lắc)…Mặt người nào người nấy đỏ gay. Họ vừa uống xong một lượt rượu cần. Dãy ché rượu còn sực nức mùi men thơm thơm, say say. Họ vừa hút rượu, vừa bàn bạc như thói quen từ trước đến nay.
Ông Y Dhơn dõng dạc:
- Xin mời các vị đại biểu cho ý kiến. Ta bầu ai đứng đầu làm chủ tịch phong trào?
Y Nuỉn Hmok nhả rượu cần, đứng lên:
- Lãnh đạo cả một phong trào đấu tranh của các sắc dân trên toàn Cao Nguyên này phải là người có uy tín lớn lao, có nhỡn quang chánh trị sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng… Người đó hiện nay, theo thiển kiến của tôi, không ai khác ông Y Bhăm Enuôl. Ông là chủ tịch của phong trào BaJaRaKa, dám đấu tranh với chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Ông đã được rèn luyện suốt 5 năm trong nhà tù khủng khiếp của họ Ngô. Ông xứng đáng là “cây đa ở đầu mạch nước, cây vả ở đầu làng!”. Ông sẽ là lãnh tụ tối cao, là vị cứu tinh của các sắc dân Thượng chúng ta!
- Y Bhăm! Y Bhăm! – Tiếng hô nổi lên rầm rầm. Những cánh tay đen bóng, gân guốc giơ lên trong ánh đuốc thắp bằng giẻ tẩm dầu.
Chờ tiếng hô ngớt, Y Dhơn nói to:
- Ông Y Bhăm sẽ là lãnh tụ tối cao của chúng ta, là vị chỉ huy phong trào giải phóng dân tộc trên toàn cõi Cao Nguyên yêu quý của chúng ta. Xin mời ông ra mắt và phát biểu cảm tưởng trước các đại biểu!
Từ giữa căn nhà, một người chạc 50 tuổi, mặc một bộ com-lê màu nâu, mái tóc chải mượt, tươi cười đứng dậy và đi lên phía trước. Tiếng sàn nứa rào rạo xen lẫn tiếng reo: “Ama Hni! Ama Hni!” .
Y Bhăm trịnh trọng giơ tay chào mọi người, dõng dạc tuyên bố mấy lời bài bác người Kinh và hô hào tranh đấu.
Cả căn nhà vang lên tiếng hoan hô.
Y Bhăm cùng các đại biểu họp bàn, lấy danh xưng, tôn chỉ, mục đích và bầu ban chấp hành của mặt trận. Cái tên mặt trận gây nhiều rắc rối. Tây Nguyên có đến hàng chục sắc tộc. Biết dùng thứ tiếng gì để đặt tên, liệu ai biết đến? Thôi thì hãy đặt cho nó một cái tên Pháp. Thế là mặt trận khai sinh chính thức với cái tên Fa-lang-sa.
“Front de libération des Hauts Plateaux” (viết tắt là FLHP)
Ban chấp hành thì dễ thôi, vì đã được sắp đặt trước từ một cao ốc nào đó, dĩ nhiên vai cầm đầu là quan trọng: Y Bhăm làm chủ tịch, Y Dhơn làm phó chủ tịch.
Các vị đại biểu đều tỏ ra hoan hỉ, hăng hái. Họ quây lại dãy ché rượu. Bò đã giết xong. Những xảo thịt đầy ụ, lót lá chuối được bưng lên. Họ hút rượu cần, nhắm thịt bò, cười nói râm ran. Khí thế hừng hực.
Bỗng có ba phát súng nổ phía đầu buôn báo hiệu có lính Sài Gòn tuần tra. Họ lặng lẽ tản khỏi căn nhà, biến vào cánh rừng bao quanh buôn. Đêm tối im lìm.
4. TRẬN ĐỔ MÁU NGÀY 20-9-1964
Tại biệt điện Bảo Đại ở Buôn Mê Thuột.
Nguyễn Khánh đi đi lại lại, mặt đỏ lựng lên vì tức giận. Trong phòng, Đặc ủy trưởng Phủ đặc ủy trung ương tình báo Đoàn Bá Nhiên và Chỉ huy trưởng tình báo Cao Nguyên Trung phần Lê Đình Chỉ mặt tái mét, lo sợ chờ đợi. Nguyễn Khánh giằn giọng:
- Các anh làm việc quá tồi. Một tổ chức nguy hiểm như thế lập ngay trước mũi mà không biết à?
Đoàn Bá Nhiên đánh bạo nói:
- Thưa Trung tướng, ông Lê Đình Chi đã cử Y Tỉm Mlô cùng đội công tác “T313-Đắc Lắc” theo dõi chúng. Y Tỉm cho biết chúng được ông Freund, Cố vấn tư lệnh vùng II chiến thuật, giúp đỡ. Ông Freund tìm mọi cách ngăn cản hoạt động của T313. Mặc dù gặp trở ngại như thế, nhưng Y Tỉm vẫn biết được hiện nay tổ chức của Y Bhăm hoạt động rất ráo riết, rải truyền đơn kêu gọi binh lính và dân chúng Thượng chống lại “thực dân Kinh”. Chúng đang chuẩn bị một cuộc nổi loạn để gây sức ép dư luận, hòng tách Cao Nguyên thành một quốc gia tự trị trực tiếp do Mỹ nắm. Vì vậy khó khăn lớn nhất của ta là sự can dự của người Mỹ, trực tiếp là ông Freund.
- Người Mỹ, người Mỹ là thế đó! Đúng là thời gian gần đây, họ đã nói gần nói xa, vừa gợi ý vừa dọa dẫm để buộc ta nhượng bộ giao Cao Nguyên cho bọn mọi! Không đời nào, không đời nào tôi giao! “Ai nắm được Cao Nguyên, người đó sẽ thắng ở Đông Dương”, người Pháp đã nói vậy. Giao Cao Nguyên cho chúng thì chỉ có là tự sát! Các ông cho biết âm mưu sắp tới của bọn chúng?
Lê Đình Chi thưa:
- Thưa Trung tướng, cuộc nổi loạn xem chừng khó tránh khỏi. Ngoài ra, theo nguồn tin của Y Tỉm, Y Bhăm còn ráo riết chuẩn bị quan hệ với bọn Căm-bốt, tìm đồng minh lâu dài hoặc làm chỗ dựa nếu cuộc nổi loạn thất bại!
Nguyễn Khánh giật mình lo ngại:
- Liên hệ được với bọn Căm-bốt thì chúng sẽ gây nhiều trở ngại lắm. Phải cử ngay người sang Căm-bốt, phá tan sự câu kết ấy đi!
Đoàn Bá Nhiên gọi Hoàng Minh Mộ – một nhân viên tình báo người Chàm – vào ngay. Hoàng Minh Mộ cúi chào Nguyễn Khánh, chờ đợi.
Đặc ủy trưởng tình báo hỏi Mộ:
- Anh biết Les Kossem không?
- Dạ, thưa Đặc ủy trưởng, tôi biết. Thiếu tá Les Kossem cũng là người gốc Chàm.
Đoàn Bá Nhiên gật đầu:
- Đúng, chính vì thế mà tôi gọi anh. Nghe đây, anh được Trung tướng cử sang Căm-bốt gặp hắn.
Mộ quay sang Nguyễn Khánh cúi đầu:
- Tôi rất vinh hạnh được Trung tướng giao công vụ!
Nguyễn Khánh nhìn Mộ:
- Đây là một việc tối mật. Anh sang Căm-bốt gặp Les Kossem, thuyết phục hắn lôi kéo Xi ha-núc, làm thế nào để Xi-ha-núc bắt tay với chúng ta, không giúp đỡ Y Bhăm. Anh vạch cho chúng thấy rằng Y Bhăm và tổ chức FLHP là do Mỹ nặn ra. Xi-ha-núc đang oán Mỹ. Hắn dễ chơi xỏ Mỹ một vố bằng cách không để cho chân tay của Mỹ ăn nên làm ra. Mặt khác anh tìm cách lọt vào hoạt động bí mật và lâu dài trong hàng ngũ Les Kossem. Anh là người Chàm, chắc dễ làm tốt việc đó.
- Xin tuân lệnh Trung tướng.
Hoàng Minh Mộ lui ra. Tìm người của Les Kossem phái về hoạt động ở cực Nam Trung Bộ, đối với Mộ không khó gì. Chỉ vài ngày sau, Mộ đã bắt liên lạc với Đặng Văn Thủy và được tên này dẫn sang Nam Vang.
Ngày 5 tháng 4 năm 1964, Mộ tới Nam Vang gặp Les Kossem. Không ngờ Les cao tay hơn – y đã khơi động tinh thần dân tộc hẹp hòi và lòng hận thù người Kinh của Mộ. Những món tiền lớn Kossem thưởng càng làm Mộ tối mắt thêm. Thế là, Mộ bí mật tham gia FLC của Les nhưng bề ngoài vẫn giữ vai một nhân viên Phủ đặc ủy trung ương tình báo của Khánh, tuy nhiên ý đồ của Khánh, Mộ vẫn bàn với Kossem thực hiện. Les trình yêu cầu của Nguyễn Khánh lên Xi
ha-núc. Vị đứng đầu nhà nước Căm-bốt phân vân. Cái thế của Việt Nam Cộng hòa mạnh hơn. Nhưng địa bàn Tây Nguyên đối với ông vua Căm-bốt nhiều tham vọng này thì rất hấp dẫn… Ông đang chưa biết ngả về bên nào, thì may mắn sao, chính họ lại tự dẫn thân đến. Phái đoàn của FLHP do Y Sênh Niê, Y Bun Sor dẫn đầu, sang Nam Vang vận động Căm-bốt giúp đỡ Cao Nguyên.
Les Kossem vẫn là người môi giới.
- Thưa Quốc trưởng, FLHP muốn làm loạn gây sức ép đòi tách Cao Nguyên ra khỏi Việt Nam, lập quốc gia tự trị. Nhưng họ biết không đủ sức chống lại Nguyễn Khánh nên yêu cầu ta trợ giúp.
- Ông thấy ta nên trả lời thế nào?
Chưa hiểu tim đen Quốc trưởng nên Les Kossem đành cứ thăm dò:
- Thưa Quốc trưởng, Nguyễn Khánh đường đường đại diện cho một Quốc gia tiên tiến, còn Y Bhăm chỉ là một người man rợ. Bắt tay Khánh ta được tiếng nhưng sợ hắn ngoạm luôn cánh tay
ta. Bắt tay Y Bhăm ta mất tiếng nhưng hi vọng có cơ ngoạm được cánh tay hắn…Kẻ hạ thần hèn mọn này thật khó mà đệ trình một phương sách đắc dụng…
Xi-ha-núc cười rung chiếc cằm có ngấn:
- Cái gì lợi cho thanh danh dòng họ Nô-rô-đôm, cho sự phát triển của quốc gia Căm-bốt là ta làm, sách lược của ta là vậy.
Vị Quốc trưởng Căm-bốt bước đến bên tường, kéo bức màn che để lộ ra một tấm bản đồ, chỉ lên vùng biên giới Việt – Miên, nói với giọng ấm ức:
- Từ lâu, vấn đề biên giới giữa ta và Việt Nam thực là phức tạp và nan giải. Người Việt, dù Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh hay Nguyễn Khánh cầm đầu, cũng chỉ lăm le tranh giành đất đai với ta. Tạo ra một khu đệm, ngăn chặn sự xâm lấn của Việt Nam đối với ta là việc thiết yếu. Y Bhăm lập được một quốc gia hoặc vùng tự trị thì thật là thuận lợi cho ta. Với bọn người rừng ấy, thuyết phục bằng lời, cảm hóa bằng lợi hay hăm dọa bằng bạo lực đều dễ hơn đối với bọn người Kinh. Vì vậy ta quyết định hợp tác, giúp đỡ Y Bhăm! Tuy nhiên ta không được để cho bọn Khánh biết, mà vẫn trả lời rằng sẽ hợp tác thân thiện với hắn! Tay này đấm, tay kia tung hỏa mù là vậy!
Y Sênh, Y Bun trở về Buôn Mê Thuột, tường trình lại kết quả chuyến du thuyết với Y Bhăm, Y Dhơn và Beachner.
Thật là một thành công trọn vẹn. Bây giờ thì trên đầu họ có người Mỹ, sau lưng họ có người Miên, những kẻ cầm đầu tầng lớp trên Tây Nguyên vui mừng. Đã đến lúc họ đủ sức tách khỏi cộng đồng dân tộc Việt Nam, bầy vẽ ra một cái “Quốc gia Cao Nguyên” mà thâm tâm họ cũng tự nhận rằng từ đời cụ, kị cũng chưa hề nghe nói tới nhưng lại không thể thiếu được để họ có cớ vin lấy để độc chiếm quyền hành thống trị bóc lột hơn 30 sắc tộc, quyết không cho ai xí phần, sống cuộc đời lãnh chúa như đã từng sống bao đời trước đây trong bàn tay nâng đỡ của bà mẹ Pháp.
Họ bèn ráo riết chuẩn bị một cuộc bạo loạn mà người đạo diễn giấu mặt, người thầy tinh thần thủy chung, trước sau vẫn là vị Đệ tam tham vụ Beachner.
Ngày 13 tháng 9, Beachner, Y Bhăm, Y Dhơn cùng những người lãnh đạo FLHP họp quyết định cuộc nổi dậy. Mọi chi tiết cụ thể đều được bí mật báo cho đại tá Freund.
Giờ phút của cuộc chuyển mình mới nhất, đẫm máu nhất, phức tạp và rối rắm nhất trong lịch sử Cao Nguyên đã điểm. Những nhà quan sát bấy giờ đều ghi nhận vị đệ tam tham vụ Beachner và vị tư lệnh Cao Nguyên Freund đều đến bản doanh Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt Mỹ ở Buôn Mê Thuột.
Tối 19 tháng 9, đồn Bu-prang, một vị trí then chốt của quân đội Việt Nam Cộng hòa, một cửa ngõ bảo vệ Buôn Mê Thuột bị chiếm đột ngột bằng một cuộc nổi dậy. Người lập chiến công đó là Y Năm Eeban, thiếu úy Lực lượng đặc biệt. Ngay sau đó, không cần úp mở gì, Y Năm Eeban dẫn luôn hai trung đội Dân sự chiến đấu (cũng là lính thuộc Lực lượng đặc biệt người Thượng)
tiến thẳng về phía quận Tuyên Đức, một điểm trọng yếu khác của lính Việt Nam Cộng hòa trên đường về Buôn Mê Thuột. Y Năm Eeban cho lính đến lấy tình đồng nghiệp bảo tên lính gác người Kinh:
- Anh vào thưa với trưởng đồn rằng có thiếu úy Y Năm nhân hành quân dã chiến đi qua, xin vào ngủ nhờ một đêm!
Nhận ra người chiến hữu quen biết, cùng chỉ huy quân lính giữ một vùng biên giới chung, thiếu úy Nguyễn Xuân Đỉnh vui vẻ nhận lời.
Y Năm dẫn lính vào đồn. Đỉnh mổ lợn, hạ bò thết bạn.
Nửa đêm, Y Năm cùng bọn Dân sự chiến đấu bất ngờ trở tay, giết hết vợ chồng con cái Đỉnh cùng 15 lính người Kinh, chiếm đồn Tuyên Đức.
Hàng loạt truyền đơn tung ra khắp quận, kêu gọi đồng bào Thượng hãy vùng lên chống tư bản và thực dân Việt Nam, đòi “Đất Cao Nguyên là của người Cao Nguyên!”.
Dân sự chiến đấu phá đồn, rồi tiến về Buôn Mê Thuột – thủ phủ Cao Nguyên – ngay đêm ấy, để kịp phối hợp với các cánh quân khác như kế hoạch đã vạch ra.
Phía quận Đức Lập, sáng 20-9, tại đồn Sarpa, thiếu úy Y Bach Eeban, chỉ huy ba đại đội Dân sự chiến đấu bất ngờ nổi lên giết 35 sĩ quan và binh lính Lực lượng đặc biệt là người Kinh rồi tiến về quận Đức Lập trợ lực cho Y Blư. Ở quận, đại úy Y Blư chỉ huy đại đội 901/ĐFQ cũng đã nổi lên giết đại úy quận trưởng Nguyễn Văn Thanh, làm chủ quận rồi kéo về chiếu cầu 14, mở đợt tấn công vào đài phát thanh Buôn Mê Thuột.
Phía trái Buôn Miga, hai đại đội Dân sự chiến đấu, dưới sự chỉ huy của Y Diao Niê, giết 19 sĩ quan và binh lính người Kinh, kéo về ngoại ô Buôn Mê Thuột.
Ở Bản Đôn, Y Bhăn Kpơ chỉ huy ba đại đội nổi lên giết hàng loạt sĩ quan và binh lính người Kinh, kéo về chiếm kho đạn Buôn Mê Thuột. Cùng thời gian này ở tất cả các trại dọc biên giới thuộc tỉnh Đắc Lắc, dân sự chiến đấu đều nổi lên, hướng thẳng về bao vây thủ phủ Cao Nguyên.
Cuộc nổi dậy bất ngờ, đẫm máu, dữ dội và đồng khắp với những sĩ quan ấy, binh lính ấy, với sự chỉ huy và thao túng ấy tưởng như sắp thành công; và hình thù một “Hoàng triều cương thổ” kiểu mới trong bàn tay của Mỹ có lẽ đã hiện rõ lên trong đầu óc những kẻ chủ mưu, nếu có sự phản ứng của ngụy quyền Sài Gòn đã không hung dữ đến thế, vượt xa khỏi sự kiềm chế của các ngài Mẽo đang lúng túng với bao nhiêu chiếc áo khoác USAID, USOM, USIS, v.v...
Nhận được tin cấp báo, Chuẩn tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh vùng II chiến thuật triệu ngay các sĩ quan chỉ huy dưới quyền và mời thêm Đoàn Bá Nhiên. Vừa thấy Nhiên, Vĩnh Lộc hỏi mỉa:
- Đại tá Freund mấy hôm nay vắng mặt, ngài Đặc ủy trưởng có biết ông ta đi đâu không?
Đã một lần bị Nguyễn Khánh khiển trách về cái tội không theo sát hành tung bọn Y Bhăm nên lần này Đoàn Bá Nhiên tỏ ra chủ động hơn:
- Tôi định hỏi Chuẩn tướng câu ấy kia đấy. Ông Freund là cố vấn vùng II chiến thuật của Chuẩn tướng kia mà?...Nhưng thôi, Chuẩn tướng đã hỏi đến thì tôi xin thưa. Người của chúng tôi bắt gặp Đại tá Freund ở vùng biên giới, biết ngài đã chỉ huy bọn Thượng nổi dậy!
Vĩnh Lộc không kìm nổi cơn giận, đấm tay xuống bàn, chửi tục một câu:
- D.m, cố vấn thế có chết người ta không? Đích thân đi xúi giục bọn Mọi lật tôi, không chỉ là đểu mà còn là phản phúc. Thà không có hắn còn hơn!
Các sĩ quan chỉ huy đã đến đông đủ. Vĩnh Lộc vẫn chưa nguôi cơn giận, ra lệnh:
- Dồn hết lực lượng quét sạch bọn Mọi đi! Bọn Cộng sản và Việt Thượng Cộng đang lấn tới thì với bọn Mọi này, phải tiễu trừ nhanh chóng, không thương tiếc, mới mong rảnh tay đối phó với thời cuộc được.
Hai tiểu đoàn thám xích xa được tung đi chặn các ngả đường dẫn vào Buôn Mê Thuột. Hai tiểu đoàn biệt động từ Dục Mỹ được điều lên.
Tất cả các lực lượng địa phương quân được huy động.
Một tiểu đoàn lính dù từ Sài Gòn ào lên tiếp ứng.
Hai bên bắn nhau kịch liệt. Tiếng đạn nổ ầm ầm. Khói phủ một vùng trời. Bụi đỏ cuộn mù sau xích xe tăng.
Bọn Dân sự chiến đấu tập trung lực lượng quyết chiếm đài phát thanh để có vốn ăn nói. Bọn lính bảo vệ và nhân viên kỹ thuật của ngụy quyền Sài Gòn không giữ nổi phải bỏ chạy. Phía quân nổi dậy chưa kịp mừng thì quân lính và xe tăng của Vĩnh Lộc ùn ùn kéo đến vây chặt chúng, trong tầm uy hiếp của đủ loại vũ khí hạng nặng.
Tình thế nguy khốn được cấp báo cho người Mỹ. Tại trụ sở Bộ tư lệnh Lực lượng đặc biệt Mỹ, Beachner lo lắng hỏi Freund:
- Thế nào, tình hình liệu có kết thúc được như ý không, đại tá?
Freund rời máy bộ đàm, đưa gậy chỉ trên tấm bản đồ chiến sự, tóm tắt kết quả mấy ngày đổ máu ở Tây Nguyên.
- Dân sự chiến đấu chiếm được kho đạn, cầu 14, đài phát thanh. Nhưng Vĩnh Lộc đã phản ứng quá mức ta dự phòng. Hắn cho xuất hiện cả lính dù, thiết giáp! Đến hôm nay thì hắn đã vây
hãm được phần chủ lực của bọn Dân sự chiến đấu Thượng trong hàng rào đài phát thanh. Binh lính Thượng khó mà chống cự nổi, điều đó đã quá rõ rồi. Nguy hơn nữa là họ đang lo sợ bị Vĩnh Lộc tiêu diệt sạch!
Beachner như người chơi bài lâm vào thế bí. Dấn thêm nữa thì chắc chắn sẽ cháy túi. Từ thời nảo thời nào, bọn Kinh – Cộng sản hay Quốc gia – đều đặt vấn đề thống nhất Tây Nguyên như một điều kiện tiên quyết cho mọi cuộc thương lượng. Bọn Khánh, Lộc chắc chắn sẽ làm cỏ không gớm tay; nhưng tháo lui hoàn toàn thì còn mặt mũi nào nhìn lũ Y Bhăm, Y Dhơn?
Hai ngài cố vấn, một dân sự, một quân sự, chụm đầu vào nhau tìm cách gỡ thế cờ. Họ xét hết các mặt chính trị, ngoại giao, tài chính và cuối cùng tìm ra một giải pháp “quá độ”.
Ngay sau đó, ở Sài Gòn, Nguyễn Khánh nhận được của ngài Đại sứ Huê Kỳ một lời khuyến cáo yêu cầu Khánh ra lệnh cho Vĩnh Lộc ngừng bắn tức khắc để tạo không khí cho một cuộc hòa giải. Khánh điện tín trên cho Vĩnh Lộc. Lộc đành phải ngừng lệnh tấn công nhưng vẫn cho vây chặt lính Thượng đang khốn khổ, lo sợ trong đài phát thanh.
Một chiếc xe Jeep Mỹ từ Tòa thị chính Buôn Mê Thuột lao tới. Trên xe chở chính bản thân ngài Phó tỉnh trưởng Thượng vụ Y Bhăm mới lạ chứ!
Xe Y Bhăm dễ dàng rẽ vòng vây ngoan ngoãn của quân Vĩnh Lộc, đi vào bên trong đài. Lũ Dân sự chiến đấu chạy tới bao quanh Y Bhăm, mừng rỡ vì biết là thoát chết.
Y Bhăm dõng dạc:
- Hỡi các chiến sĩ Thượng yêu quý, dũng cảm! Anh em đã chiến đấu anh dũng vì độc lập và tự do của dân tộc. Tôi thay mặt Ban lãnh đạo Mặt trận cách mạng biểu dương công trạng của anh em.
Đợi xong tràng vỗ tay nghi thức, Y Bhăm tiếp:
- Hiện nay Vĩnh Lộc đã xin ngừng chiến với ta để hội đàm. Anh em hãy tạm trở về trại. Chúng tôi sẽ thay mặt anh em tranh đấu đến cùng giành thắng lợi, cho dân tộc chúng ta thoát khỏi xiềng xích của bọn thực dân Kinh xâm lăng…
Không kịp nghe hết lời kêu gọi, bọn Dân sự chiến đấu vội vã chen nhau rút ra ngoài vòng vây.
Nguyễn Khánh đáp máy bay đến Buôn Mê Thuột cùng Vĩnh Lộc, Đoàn Bá Nhiên, Lê Đình Chi, Y Tỉm họp tại biệt điện của Bảo Đại. Vĩnh Lộc bực ra mặt hỏi:
- Tại sao Trung tướng lại ra lệnh cho tôi ngừng chiến? Chúng tôi sắp tiêu diệt sạch bọn Mọi. Bây giờ thì mất thời cơ rồi!
Nguyễn Khánh uể oải nói:
- Ngài thông hiểu cho! Ông Đại sứ điện cho tôi trách móc và ép tôi ngừng chiến!
- Thưa Trung tướng, bây giờ nếu ta dung tha để tên Y Bhăm tự do thì nó sẽ còn tìm cách lật chúng ta.
- Phải làm gì bây giờ?
Vĩnh Lộc quả quyết:
- Thưa Trung tướng, phải bắt hắn ta, trừ hậu họa. Sau đó sẽ chặt đứt chân tay của hắn như Ngô Đình Diệm đã làm đối với hắn hồi năm tám!
- Được! – Nguyễn Khánh chấp thuận.
Cuộc bàn cãi không thoát được tai mắt người Mỹ.
Được tin cấp báo Vĩnh Lộc sẽ bắt Y Bhăm, Beachner liền đến ngay đài phát thanh.Y Bhăm được mời lên xe Mỹ do đích thân ngài Tham vụ đưa ra khỏi đài phát thanh. Nhưng đi đâu bây giờ? Còn trên đất Việt Nam này thì còn nguy cơ bị bọn Vĩnh Lộc tóm mà Mỹ không thể can thiệp…
Đến đây mới thấy nước cờ của người Mỹ và Y Bhăm là hiệu nghiệm.
Theo một kế hoạch đã định trước, từ Bộ chỉ huy Lực lượng đặc biệt hay từ tòa Đại sứ Mỹ không rõ, người ta thấy hôm ấy bỗng Les Kossem và Y Bun dẫn một tiểu đoàn quân Miên từ Nam Vang thẳng đến chờ sẵn ở biên giới. Tới 12 giờ trưa, những tên cầm đầu cuộc nổi loạn, những sĩ quan Thượng phản bội đã nổi dậy cướp đồn, giết chủ lực lính Kinh, như Y Dhơn, Y Sênh, Y nuỉn, Y Bách, Y Năm, có cả đại úy Dornal (chỉ huy Lực lượng đặc biệt Mỹ tại Bản Đôn), lục tục dẫn các đơn vị Dân sự chiến đấu vừa thoát chết kéo đến gặp Les Kossem.
- Y Bhăm đâu? – Les Kossem lo lắng hỏi.
- Chủ tịch đến đài phát thanh rồi không biết đi đâu – Y Dhơn trả lời, hơi xấu hổ vì lúc nước sôi lửa bỏng đã bỏ rơi mất lãnh tụ.
- Bọn Khánh sẽ lôi mất Y Bhăm hoặc sẽ thủ tiêu ông ta – Les Kossem tỏ ra có kinh nghiệm chính trị – Không có ông ta, chúng ta sẽ không đủ sức thu hút dân chúng. Không được, phải tìm ông ta cho kỳ được và đón đi.
Đại úy Dornal ghé tai Les thì thầm. Les Kossem bình tĩnh lại. Dornal cùng Y Sênh, Y Bách phóng ngay xe Jeep về nhà Y Bhăm, đón ông, đưa thẳng sang biên giới.
Les Kossem đưa Y Bhăm về Môn-dun-ki-ri, còn Y Dhơn cùng các vị chỉ huy khác phải trở lại Đắc Lắc, nắm lại các tàn binh Thượng, củng cố tinh thần và đội ngũ cho họ giữ vững các vị trí hiện tại, đề phòng Khánh tấn công tiêu diệt hết trước khi có cách giải thoát họ lâu dài.
5. CON BÀI HAI MẶT
Tranh thủ lệnh ngừng chiến, những ngày sau, Dân sự chiến đấu ráo riết tăng cường bố phòng tại các đồn trại chiếm được, sẵn sàng đối phó với một cuộc tấn công lớn của lính Việt Nam Cộng hòa mà họ biết Vĩnh Lộc đang tích cực chuẩn bị.
Beachner lại vội vã họp với Freund.
- Cần phải có một ủy ban hòa giải đứng ra làm dịu tình hình giữa Khánh và Y Bhăm thôi! – Ngài Tham vụ nói. Tình trạng này để kéo dài thì lực lượng Y Bhăm sẽ bị tổn thất nặng nề không còn cứu vãn nổi. Ngài cai quản vùng này, có thể tìm cho tôi một tên nào để điều hành ban hòa giải không? Phải là người Thượng thì mới dễ làm việc.
Nhớ đến người bạn Y Bliêng, cho rằng đây là thời cơ giúp bạn tiến thân, trở lại chiếm cái ghế Phó tỉnh trưởng Thượng vụ vừa mới mất vào tay Y Bhăm, hiện đang bỏ trống, Freund nói ngay:
- Thưa ngài, tôi thấy chỉ có Y Bliêng là đủ khả năng và uy tín đảm nhận công việc này. Chỉ có hắn ta mới làm cho quân nhân Thượng cũng như phía quân Vĩnh Lộc nghe theo.
Beachner chậm rãi:
- Thưa đại tá, nếu như chỉ đơn thuần cần đến một tên thuyết phục được binh lính Thượng hạ súng quy chánh theo Nguyễn Khánh, hoặc thuyết phục binh lính Kinh không tiến công người Thượng như các cuộc hòa giải thông thường khác, thì Y Bliêng thừa sức làm việc đó. Nhưng đây không phải là cuộc hòa giải bình thường! Đây thực chất là tìm một người để chỉ huy tiếp quân nhân Thượng trong hoàn cảnh éo le hiện nay, bảo toàn lực lượng và lần lượt tổ chức cho họ vượt biên giới sang Căm-bốt xây dựng đội ngũ đấu tranh lâu dài với bọn Khánh! Vì thế phải chọn một tên tin cẩn, người của ta mà chưa lộ mặt. Bọn Vĩnh Lộc, Nguyễn Khánh cũng tin cậy hắn ta. Nghĩa là tên đó phải có “vỏ bọc” rất kín để đánh lừa đối phương.
- Thưa ngài, thế thì khó quá, tôi không nắm được!
Beachner ghé sát tai Freund nói rất khẽ:
- Thưa đại tá, ngài không biết sao? Tên đó không ai khác là Y Chôn – Biệt phái viên của Nha đặc trách Thượng vụ – đang có mặt ở Đắc Lắc này.
- Đó là người quen của tôi khi hắn ta làm Tăng phái viên phòng 5 vùng II chiến thuật. Thế mà tôi không nhận ra.
Beachner mỉm cười, giở tập hồ sơ Y Chôn đặt trước mặt, đưa cho Freund:
- Ngài có thấy không? Hắn ta cũng giống như Y Bliêng, Y Bhăm ở chỗ cũng từ lò đào tạo của Pháp ra; đều là những viên chức, trí thức kỳ cựu của Cao Nguyên, đều đã theo Việt Minh và bị Pháp bắt tù, rồi được Pháp đưa ra làm tay sai. Nhưng, trong khi Y Bliêng thích làm quan to,
trung thành một mực với chúng ta; trong khi Y Bhăm thích làm lãnh tụ hoạt động chính trị, đấu tranh “chống cường quyền, bạo lực”, “giải phóng dân tộc”, thì Y Chôn chọn chỗ đứng rất khôn. Hắn ta chọn chỗ mà, nếu phía “cách mạng” thành công thì hắn ta sẽ nhảy lên theo chỉ huy, lãnh đạo; nếu thất bại thì hắn ta vẫn thoát khỏi vòng đàn áp, tù đầy. Hắn ta chọn phía hậu trường, nói như người Việt “ném đá giấu tay”, vai trò rất quan trọng và có khi quyết định sự sống còn của cả một tổ chức, “có miếng không cần tiếng”. Ngài có biết đó là chỗ đứng mang danh gì không?
Freund lắc đầu. Ngài Tham vụ nhấn mạnh:
- Chức cố vấn, cố vấn!
- À à! Cố vấn! Cái ghế ấy hay đấy!
- Ngài xem, năm 1958, Y Chôn làm cố vấn cho tổ chức BaJaRaKa. Bọn Diệm đàn áp phong trào này. Trong khi Chủ tịch Y Bhăm, Phó chủ tịch Paul Nưr và trên 10 đại diện khác vào tù, đeo gông, ăn cơm hẩm, cá thối, thì hắn ta chỉ bị điều nhẹ từ Đắc Lắc ra Quảng Trị làm ở Tòa hành chánh, để rồi mấy năm sau lại trở về làm trưởng toán Dân sự vụ tiểu khu Đắc Lắc. FLHP thành lập, hắn ta cũng đứng đằng sau điều hành làm cố vấn và vớ bẫm về cái ghế này nhiều lắm. Hiện nay Y Chôn đang làm Biệt phái viên của Nha đặc trách Thượng vụ. Bọn Khánh, Vĩnh Lộc hoàn toàn tin hắn. Đứng ra lập ban hòa giải, đi đến các trại công khai thuyết phục quân nhân Thượng “quy chánh” và bí mật truyền đạt ý đồ của ta thì tôi nghĩ rằng không ai làm tốt hơn Y Chôn.
Freund hết lời ca ngợi việc dùng người của Beachner, vai trò hai mặt của Y Chôn, rồi sang trụ sở Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh lực Việt Nam Cộng hòa gặp Vĩnh Lộc.
Vừa trông thấy Freund, Vĩnh Lộc giơ tay chào, mỉa mai nói:
- Kính chào đại tá! Mấy hôm nay, sự biến xảy ra dồn dập quá, nghiêm trọng quá. Tôi cho người đi tìm ngài khắp nơi mà không gặp. Ngài vừa ở Sài Gòn về phải không? Không có ngài, tôi lúng túng quá! Trời ơi, nếu có ngài sự việc đâu đến nỗi rắc rối thế này.
Freund buồn bã thở dài, chỉ tay về phía biên giới:
- Tôi đi kiểm tra các đồn biên giới. Bọn Thượng nổi loạn. Sợ tôi chỉ huy lính Đặc biệt Mỹ đàn áp, chúng bắt cóc tôi giam trong rừng. Nhờ tinh thần dũng cảm và kiên quyết của đại úy Dornal, tôi mới thoát được khỏi nơi giam giữ, đáp máy bay trực thăng vừa về tới đây! Hú vía, hú vía!
Nói xong Freund cười nhạt, coi như chỉ cần thanh minh đến thế, còn Vĩnh Lộc tin hay không, mặc!
Ngày 23-9, tại hội trường Tòa hành chánh Đắc Lắc, đại biểu chánh quyền, các ngành, các giới, các nhân sĩ Thượng trong tỉnh tề tựu đông đủ để bầu “Ban đại diện lâm thời đồng bào Thượng” làm nhiệm vụ hòa giải đôi bên. Ngài thiếu tá Tỉnh trưởng đọc bản danh sách dự kiến có sẵn. Các đại biểu nhất trí vỗ tay. Một ban đại diện được thành lập gồm 8 vị do ông Y Char Hdơk – Hiệu
trưởng trường Nguyễn Du – làm chủ tịch; ông Y Chôn – Biệt phái viên Nha đặc trách Thượng vụ làm cố vấn.
Ông Y Chôn vui mừng thấy đã đến lúc vùng vẫy, đoạt cái ghế phó tỉnh trưởng Thượng vụ. Cuộc xung đột hóa ra lợi cho ông! Chưa biết chừng, nhờ nó mà ông leo lên cương vị cao. Sau lời cảm ơn của ngài tỉnh trưởng, ông cố vấn Y Chôn, thay mặt ban đại diện lên phát biểu. Ông đọc một bài diễn văn dài, hùng hồn và lâm ly. Lúc thì ông lên án âm mưu chia rẽ của Việt Cộng và ngoại bang Căm-bốt; lúc thì ông trách hai dân tộc Kinh, Thượng đã mắc mưu Cộng sản, ngoại bang, hiểu lầm và bắn giết nhau. Cuối bài diễn văn, ông kêu gọi:
- Hiện nay, cuộc xung đột giữa anh em Dân sự chiến đấu và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang diễn ra ác liệt, có nguy cơ bùng nổ dữ dội hơn. Máu đang đổ trên xứ sở chúng ta. Những người Thượng yêu dân tộc, yêu hòa bình không thể nhìn anh em, con cái mình đổ máu vô ích vì những tị hiềm. Được các vị tín nhiệm, là những người yêu hòa bình, yêu xứ sở và dân tộc, chúng tôi sẽ đem hết sức lực, khả năng làm cho hai dân tộc anh em cảm thông nhau, ngừng những cuộc bắn giết, đoàn kết lại trong cộng đồng Việt Nam.
Tiếng hoan hô vang dậy hội trường. Các đại biểu nhiệt liệt hưởng ứng lời ông Cố vấn.
Những ngày sau, Y Chôn lao vào hoạt động hòa giải. Ông Cố vấn hăng hái như không hề biết mệt. Ngày 24-9, Y Chôn gặp Vĩnh Lộc. Vĩnh Lộc hết lời khen ngợi “sáng kiến của Y Chôn” cho thành lập Ban đại diện để giúp Chính phủ kêu gọi bọn Thượng phản loạn đầu hàng. Y Chôn thảo một tuyên ngôn trình Vĩnh Lộc thông qua.
Ngày 25-9, Y Chôn xin đi trại Sarpa, Vĩnh Lộc nhìn Y Chôn lo ngại:
- Ngài có thể bị hành hung. Bọn Dân sự chiến đấu hung hãn lắm.
Biết đích xác là các quân nhân Thượng không động đến lông chân mình, Y Chôn biểu thị lòng dũng cảm:
- Là một công dân Việt Nam, được hy sinh cho nền an ninh xứ sở và tình thân hữu Kinh Thượng, tôi cho là một vinh dự. Xin ngài cứ yên tâm! Dù có chết tôi cũng vui lòng.
Chiếc máy bay trực thăng chở Y Chôn hạ cánh xuống Sarpa. Y Bách đón ông vào trại. Một cuộc thương thuyết riêng giữa hai người kín đáo diễn ra.
- Vĩnh Lộc đang tung quân ra dữ lắm, các anh hãy chỉ huy binh lính và thân nhân của họ sang ngay Căm-bốt. Ở đây, lực lượng khó bảo toàn – Y Chôn nói rõ ý đồ của Mỹ.
Y Bách lo lắng:
- Lực lượng đang chờ sẵn ở đây. Chúng tôi có thể chạy sang Căm-bốt bất cứ lúc nào, ngay hôm nay cũng được.
- Không nên! Một mình đồn này chạy, bọn Khánh sẽ cho quân ngăn chặn các đồn khác. Phải chờ tôi thông báo cho tất cả các đồn. Phải tìm cách lôi kéo thêm thanh niên, đồng bào. Không phải chỉ có quân nhân, phải có dân chúng đi theo để còn cần dự trữ mai sau nữa.
- Trước mắt, chúng tôi phải làm gì?
- Tỏ ra quy chánh để đánh lừa bọn Vĩnh Lộc.
Y Chôn đi một lượt dọc biên giới. Hiệu quả chuyến đi trông thấy ngay.
Sáng 28-9, Dân sự chiến đấu ở các trại Enao, Buôn Briêng, Bản Đôn, Miga, Sarpa nhận đầu hàng quân chánh phủ.
Ngay trưa 28-9, trung tướng Thủ tướng Nguyễn Khánh cùng đoàn tùy tùng, có binh lính hộ vệ, đáp trực thăng xuống trại Sarpa. Cùng đi với Thủ tướng có trung tướng Tôn Thất Đính, thiếu tướng Nguyễn Hữu Có, ba chuẩn tướng: Hoàng Xuân Lãm, Nguyễn Đức Thắng, Vĩnh Lộc.
Một buổi lễ “thượng quốc kỳ” được tổ chức vội vã. Nguyễn Khánh cùng các tướng nhìn binh lính Thượng, trong lòng hết sức căm ghét, nhưng ngoài mặt tỏ ra ân cần, thân ái.
Một sĩ quan Thượng, đại diện cho toàn trại, quỳ xuống, hai tay nâng ngang khẩu súng trước mặt trao cho thủ tướng.
Nguyễn Khánh cầm khẩu súng trên tay, tần ngần giây lát, biết nói thế nào cho hả giận đây? Bọn tội phạm cuộc đổ máu vẫn sờ sờ ra kia, trên bục danh dự nữa là khác, nhưng ông không thể công khai lên án họ được! Thôi thì cứ ngậm bồ hòn làm ngọt, ăn nói như trong mọi kỳ diễn thuyết xã giao là khôn ngoan nhất. Mặc dầu ông cầm chắc trong đám quan khách, ít nhất cũng có trên một người Mỹ vừa nghe vừa cười thầm, ông vẫn dõng dạc:
- Tôi rất lấy làm tiếc, các chiến sĩ đã mắc mưu Cộng sản và ngoại bang, hiểu lầm Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa, gây nên cảnh nồi da xáo thịt, làm sứt mẻ tình đoàn kết Kinh Thượng. Giờ đây, anh em đã biết ăn năn, quy chánh. Vậy anh em hãy biểu lộ tinh thần hối cải ấy bằng hành động. Hãy đoàn kết chặt chẽ hơn nữa quanh Chánh phủ, hướng thẳng mục tiêu vào bọn Việt Cộng xâm lăng đang đe dọa nền an ninh xứ sở. Tôi trao lại khẩu súng này để anh em chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Sau lễ “thượng quốc kỳ”, Nguyễn Khánh cùng các tướng đến bên dãy mộ chôn 35 sĩ quan, binh lính người Kinh vừa bị Y Bách Ê Ban giết sáng ngày 20-9.
Đoàn làm lễ mặc niệm. Những vòng hoa đặt trên các nấm mộ màu đất mới. Những nén hương tỏa khói nghi ngút.
Trưa ngày 29-9, lại thêm một lễ long trọng nữa. Nhiều binh lính Thượng đại biểu cho những người quy chánh về tập hợp ở vận động trường Buôn Mê Thuột. Người ta giết 5 con bò làm lễ tế Yang. Lính Thượng quỳ thành hàng thẳng tắp. Những ché rượu cần xếp thành dãy dài trước
mắt họ. Họ chắp tay cầu khấn, xin Yang tha thứ tội lỗi, dắt họ đi trên con đường ngay thẳng, an lành.
Chuẩn tướng Vĩnh Lộc, đại tá Freund, thiếu tá tỉnh trưởng có mặt trong đoàn đại biểu đón tiếp.
Chiều hôm ấy, lễ gắn huân chương cho các vị trong Ban đại diện đã có công lao đóng góp vào sự đoàn kết Kinh – Thượng được tổ chức long trọng tại Sở chỉ huy Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh. Y Chôn được thưởng huân chương “Sắc tộc bội tinh”.
Những người hiểu Y Chôn đều xì xào bàn tán.
Y Bliêng hậm hực nói với Freund:
- Tôi bị mất chức, Y Bhăm lưu vong, hàng trăm quân nhân Kinh – Thượng bỏ mạng để cho ông Y Chôn được thưởng mề đay. Ông Beachner thật là công bằng (!)
6. NHỮNG MẢNH VÁ VỤN
Không còn bị lính của Vĩnh Lộc theo dõi sau khi quy hàng, các đội Dân sự chiến đấu Thượng chuẩn bị cuộc trốn chạy sang Miên khá dễ dàng… Sau khi nối liền được mối liên lạc giữa những kẻ cần đầu chủ chốt, hầu như cùng một thời gian, theo một kế hoạch thống nhất, Y Dhơn, Y Nuỉn, Y Bách, Y Năm, Huỳnh Ngọc Sắng…cầm đầu binh lính Thượng ở các trại đồng loạt vượt biên giới sang Căm-bốt.
Thấy Y Bhăm có vây cánh đông, Xi-ha-núc đành phải lôi kéo con bài này. Y Bhăm được vị Quốc trưởng chào đón nồng nhiệt và thân mật tiếp chuyện.
Để tỏ thiện chí, Quốc trưởng dành hẳn vùng Camp le Rolland (người Miên quen gọi là Bốt Chá, thuộc tỉnh Môn-du-ki-ri) cho Mặt trận Cao Nguyên làm hậu cứ.
Đó là một trại lính của quân đội Pháp dựng lên “từ thời đô hộ”, có những ngôi nhà đá cũ kỹ, ẩm mốc, những lô cốt rêu phủ xanh rì, những vòng dây thép gai màu nâu xỉn, cỏ mọc lút đầu người.
Y Bhăm phải huy động binh sĩ dọn dẹp, sửa sang. Dọc theo con suối nhỏ, ông cho dựng lên một dãy nhà sàn để các vị lãnh đạo mặt trận làm tư thất. Nhà của vị chủ tịch ở chính giữa, to, làm bằng gỗ quý, được tu sửa cẩn thận. Có vườn hoa, có rào cao. Hằng ngày, ngoài tiểu đội binh sĩ bảo vệ, thường xuyên có lính hầu, có bồi phục vụ…đi lại tấp nập.
Hậu cứ nằm cách biên giới Việt – Miên 15 cây số. Từ đây có thể liên lạc với trong nước thuận tiện.
Hằng ngày, một đoàn xe quân sự chở gạo, cá, rau…từ Nam Vang đến tiếp tế cho hậu cứ. Công việc tiếp tế do ông Tôn Ái Liên – Trưởng ban kinh tài Mặt trận Chàm – chỉ huy và bà Kossem làm bao thầu.
Bà Kossem vốn là nhà kinh doanh thạo mánh lới làm giàu. Bà đang phất to. Tiền đồng bào Chàm nộp cho mặt trận bà được chồng giao giữ, liền biến thành của riêng. Bà dùng tiền đó xây Building , làm cư xá và khách sạn cho thuê, thu về những món tiền lớn. Bà còn hùn vốn vào các nhà hàng, các rạp chiếu bóng. Bà mở các hồ nuôi cá, các lò sát sinh…Giờ đây, bà lại vớ thêm cơ hội làm giàu: Nhận bao thầu cho hậu cứ của Mặt trận Cao Nguyên. Tháng tháng bà thu về hàng chục triệu Riel . Những lúc hồ hởi, bà mỉm cười và mắng yêu chồng: “Ma quỷ xui khiến thế nào mà ông kéo lũ Thượng ấy sang để tôi suốt ngày túi bụi… đếm tiền”.
Ngoài việc cử vợ và Tôn Ái Liên nắm cổ họng Y Bhăm, ông Kossem vẫn không quên ước mơ làm thủ lĩnh. Ông tìm cách lôi kéo những người Chàm trong Mặt trận Cao Nguyên về phía mình.
Được tin Huỳnh Ngọc Sắng theo Y Bhăm sang hậu cứ, Les Kossem cho triệu ngay chàng trai Chàm này về Nam Vang. Buổi tiếp kiến diễn ra khá thân mật. Vị chủ tịch Mặt trận Chàm ở Căm-bốt đón “nhà cách mạng” Chàm ở Việt Nam như người cùng quê hương, lâu ngày mới gặp lại. Les hỏi thăm về cố quốc, về đồng bào và về đời tư của Sắng. Tất nhiên là Sắng đã biết tạo ra cho mình một bản lý lịch của nhà chí sĩ sục sôi hận thù và đầy lòng ái quốc. Với sức sáng tạo của một hồn thơ, việc đó đối với Sắng đâu có khó. Huống gì đời cũng lắm chuyện hấp dẫn, chỉ cần tỏ vẻ khác đi một chút là Les Kossem tin ngay. Chẳng hạn: Xin đi lính Pháp thì nói là bị bắt lính. Chửi nhau với cảnh sát Diệm vì ức ruộng nhà bị đường lộ choán thì biến thành chuyện đấu tranh chống cường quyền. Còn các chuyện về cô Chiêm, cô Tím, cô Lỡ, cô Đựng hay cô vợ thầy Chang, bị trói tay chỉ mặt thì biến thành chuyện tình yêu dang dở, hạnh phúc nát tan vì nghèo hèn, vì phong kiến, vì cường quyền chiếm đoạt v.v… Với một cuộc đời cay đắng như vậy, Sắng đã dứt khoát chọn con đường duy nhất, đấy là gác bỏ cuộc sống riêng tư, đi theo Y Bhăm làm cách mạng (!)
Huỳnh Ngọc Sắng dừng lại, mặt bừng bừng như bốc lửa. Les Kossem càng tin hơn – Cuối cùng ông gật gù gợi ý:
- Anh đã chọn được đường. Nhưng đó mới là một nửa con đường. Anh theo Y Bhăm, theo Mặt trận Cao Nguyên, theo bọn Thượng. Bọn Thượng không bao giờ thật sự đoàn kết với người Chàm ta. Chúng chỉ muốn giành quyền kiểm soát Cao Nguyên của chúng thôi, còn cái quốc gia Chàm ở đồng bằng thì thây kệ! Chỉ có người Chàm mới thiết tha với sự nghiệp phục quốc Champa. Vì vậy, anh phải là thành viên của Mặt trận Chàm.
Hai người chia tay nhau. Sắng hứa đem hết sức mình, hoạt động vì sự nghiệp của mặt trận Chàm. Từ đó, Sắng thành chân tay đắc lực và tin cậy của Les Kossem, hoạt động ngầm trong Mặt trận Cao Nguyên.
Ít lâu sau, ban chấp hành Mặt trận Cao Nguyên họp để bàn chương trình hoạt động mới. Y Bhăm nêu vấn đề:
- Muốn đặt chương trình thì trước tiên phải các định điều này đã: Chúng ta sẽ tiếp tục đấu tranh như thế nào đây? Đấu tranh bằng vũ lực hay thương thuyết với Nguyễn Khánh?
Y Dhơn nói ngay:
- Phải dùng vũ lực. Chỉ súng đạn mới nói chuyện được với bọn chúng.
Y Bhăm lắc đầu:
- Theo tôi, ta phải theo đường lối ôn hòa, có người Mỹ giúp sức vào, chắc ta sẽ thắng chúng bằng hòa đàm.
Y Dhơn giằn giọng:
- Từ năm 1958 đến ngày 20-9 vừa qua, chúng ta đã tranh đấu bằng đường lối hòa giải, nhưng có ích gì. Chúng ta chỉ có lời nói, giấy tờ, còn người ta thì dùng gậy, súng đạn, nhà lao! Dùng thương thuyết, theo tôi chỉ là tự sát.
Hai vị chủ tịch và phó chủ tịch cãi nhau, không ai chịu nghe ai. Huỳnh Ngọc Sắng được Les Kossem vạch đường trước, thấy đã đến lúc cần tham gia vào cuộc bàn luận. Sắng nói:
- Theo tôi, phải đấu tranh bằng súng đạn. Chỉ có súng đạn mới trả lời được bọn người Kinh. Máu phải trả máu!
Y Dhơn gật gù tán thành. Y Bhăm nhìn Sắng:
- Nhưng chúng ta không đủ súng đạn, lực lượng lại quá mỏng manh. Cuộc nổi dậy vừa rồi rõ ràng là chúng ta còn yếu, chưa thể thắng bọn Khánh được.
Điều thắc mắc rơi đúng vào cái bẫy Sắng đặt sẵn. Y mỉm cười sung sướng:
- Nếu cần thêm súng đạn, ta nên báo cho ông Kossem biết. Ông Kossem đủ uy tín làm cho ngài Xi-ha-núc giúp chúng ta. Cả sứ quán Pháp nữa, họ cũng sẵn sàng yểm trợ thêm.
Y Bhăm đã bỏ Pháp, theo Mỹ. Bây giờ trở lại với người bạn cũ ư? Y Bhăm cũng chẳng lạ gì Xi-ha-núc tham lam, xưa nay vẫn nhìn về Cao Nguyên với đôi mắt thèm muốn và đang muốn biến Y Bhăm trở thành tên quản gia của hắn. Vị Chủ tịch từ tốn trả lời Sắng:
- Chúng ta cần tự lực cánh sinh. Nhờ họ, sẽ gặp nhiều điều bất lợi, sẽ bị phụ thuộc hoàn toàn. Chúng ta viết thư cho ông Beachner và đại tá Freund, nhờ các ông giúp sức thì hơn.
Thấy Y Bhăm từ chối, Sắng liền tiếp:
- Người Mỹ giúp cả Khánh lẫn ta. Thật khó hiểu. Tôi thấy người Pháp vô tư, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu chúng ta hơn.
Nói rồi Sắng quay sang nhìn Y Dhơn như nhắc nhở. Vị Phó chủ tịch vẫn giữ thái độ cứng rắn:
- Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến ông Sắng: tự lực cánh sinh, trông chờ người Mỹ, thắng lợi sẽ tuột khỏi tầm tay ta.
Y Bhăm thấy bị cô lập nhưng không hề nhân nhượng, khăng khăng giữ quan điểm của mình.
Huỳnh Ngọc Sắng đến Nam Vang gặp Les Kossem và Châu Đêra. Les Kossem hé mở:
- Quốc trưởng vừa ra lệnh cho chúng ta phải tìm mọi cách nắm lấy Mặt trận Cao Nguyên. Phải tìm mọi cách nắm lấy người Thượng và người Chàm ở Việt Nam, biến họ thành người Thượng và người Chàm Căm-bốt. Vậy chúng ta phải bàn cách thực hiện lời dạy sáng suốt đó. Ông vừa ở Bốt-Chá về, xin cho biết ý kiến.
Huỳnh Ngọc Sắng hăm hở:
- Thưa hai vị, tôi vừa được chứng kiến cuộc tranh luận giữa Y Bhăm và Y Dhơn. Y Bhăm chủ trương tranh đấu ôn hòa, dựa vào Mỹ đòi Khánh trả Cao Nguyên cho chúng. Y Dhơn chủ trương tranh đấu bằng vũ lực. Vì thế, theo tôi, ta phải nắm lấy Y Dhơn, cô lập Y Bhăm, dùng Y DHơn lật đổ Y Bhăm và nắm lấy bọn Thượng.
Les Kossem mỉm cười:
- Phế Y Bhăm trong lúc này không có lợi. Y Bhăm là phó tỉnh trưởng, có uy tín với dân chúng Thượng. Bọn Thượng lạc hậu, có biết gì. Cứ thấy Y Bhăm làm quan to lại chống người Kinh là nghe theo. Vì vậy, phải lợi dụng uy tín của hắn. Theo tôi, hiện giờ trên đất Căm-bốt này, về thực tế chúng ta đã có 3 mặt trận: Mặt trận Khơ-me Hạ do ngài Châu Đêra làm chủ tịch, Mặt trận Chàm do tôi lãnh đạo, còn Mặt trận Khơ-me Thượng chưa có ai làm chủ tịch. Giờ lại thêm Mặt trận của Y Bhăm nữa là bốn, ta hãy nhập hai mặt trận Khơ-me Thượng của ta và Mặt trận Cao Nguyên của Y Bhăm lại, cho Y Bhăm làm luôn chủ tịch để dần dần biến tổ chức này thành của ta, và người Thượng Việt Nam sẽ đồng hóa thành người Thượng Căm-bốt. Như vậy, Cao Nguyên tự nhiên sẽ chuyển hóa về Căm-bốt.
Châu Đêra liên hệ luôn đến vị trí của mình và số người Việt gốc Miên ở Nam Bộ:
- Theo kế hoạch này thì ta cũng sẽ biến được người Khơ-me Việt Nam thành người Khơ me Căm-bốt.
Les Kossem được vị Chủ tịch an ninh quân đội tán thưởng, tươi cười tiếp:
- Tuy nhiên, Y Bhăm là tên xảo quyệt, lại được Mỹ đỡ đầu, nên ta phải hết sức tế nhị và thận trọng. Nếu ta để lộ ý đồ lâu dài ra hoặc làm căng quá, nó cùng bọn Thượng cháy hết về Việt Nam thì ta tay trắng.
Châu Đêra cười khùng khục:
- Y Bhăm đang lưu vong trên đất ta, nhận tiếp tế lương thực, vũ khí của ta, đâu dám cứng cổ chống lại. Theo tôi, nếu hắn nhận nhập bọn Thượng Việt Nam vào Mặt trận Khơ-me Thượng của ta thì ta tiến lên một bước cao hơn: lấy lý do là cả ba mặt trận đều chiến đấu cho mục tiêu chung, ta sát nhập quách ba mặt trận lại. Ta nắm lấy quyền lãnh đạo, biến hắn thành tay sai, không có quyền hạn gì.
Huỳnh Ngọc Sắng e dè:
- Thưa hai vị chủ tịch, tôi rất biết Y Bhăm. Già néo đứt dây, sợ rằng hắn sẽ tìm cách chống lại ta! Thằng già ấy khôn lắm!
Vị Chủ tịch Mặt trận Khơ-me nhún vai khinh bỉ:
- Nếu thằng già ấy không chịu nghe, ta sẽ kiếm một tên Thượng khác thay hắn làm chủ tịch, thiếu gì? Y Dhơn, Y Năm hoặc tên nào đó!
Les Kossem không thích bọn này, Y Dhơn, Y Năm, Y Nuỉn đều là những tên vừa lập chiến tích trong vụ binh biến 20-9 vừa qua, có vốn liếng để kèn cựa với mình khi được thay Y Bhăm. Cần chọn tên nào đó ở cương vị thấp hơn, chưa có chiến tích gì đáng kể, sẽ dễ bảo hơn. Vị lãnh tụ Chàm nhướn người trên ghế:
- Tôi cố giữ ấn tượng tốt về hai tên liên lạc viên của Y Bhăm. Xem ra chúng trung thành với ta lắm.
- Ngài muốn nhắc đến Y Bun Sor và Y Sênh Niê? – Sắng hỏi.
Les Kossem gật đầu:
- Đúng, đúng! Hai tên ấy. Ta sẽ chọn một trong hai tên ấy.
*
* *
Huỳnh Ngọc Sắng trở lại Bốt Chá thông báo với Y Bhăm, Y Dhơn về dự kiến của Les Kossem thực hiện ý đồ của Xi-ha-núc định tổ chức Đại hội thống nhất bốn mặt trận lại trên đất Căm-bốt. Y Bhăm hiểu ngay âm mưu người Miên, bực bội:
- Không được, không được. Mặt trận chúng ta riêng biệt, không có dính dáng gì đến bọn Miên cả! Chúng ta chỉ mượn đất của họ làm hậu cứ thôi! Sao họ lại bắt ta nhập Mặt trận Cao Nguyên vào mặt trận Miên Thượng? Rồi lại sát nhập ba mặt trận với nhau để họ chỉ huy, biến ta thành lính đánh thuê?
Mặc cho Huỳnh Ngọc Sắng khuyên giải thế nào, Y Bhăm cũng không thi hành thông báo của Châu Đêra và Les Kossem, không chịu về Nam Vang họp. Ông buồn bã:
- Tránh hổ gặp báo. Ở trong nước thì bị bọn thực dân Kinh chèn ép, sang đến đây lại bị bọn lân bang lợi dụng. Thà về đầu hàng bọn Khánh còn hơn làm nô lệ cho bọn Miên!
Được biết sự nghi ngờ của Y Bhăm, Châu Đêra và Les Kossem liền trình Xi-ha-núc. Xi ha-núc khuyên hai lãnh tụ Miên, Chàm hãy bình tĩnh, để mặc Quốc trưởng có cách thâu phục “tên người rừng khôn ngoan”.
Châu Đêra và Les Kossem chẳng phải chờ đợi lâu. Mùa xuân năm 1965, hai người được vời vào Hoàng cung họp bàn về một sự kiện trọng đại.
Theo sáng kiến của mấy nước lân bang và được người Pháp nhiệt liệt ủng hộ, thì thời gian tới, thủ đô Nam Vang được chọn làm nơi đăng cai cho một hội nghị quốc tế quan trọng: Hội nghị nhân dân Đông Dương. Thành phần hội nghị bao gồm các phái đoàn đại diện cho những quốc gia và những thế lực chánh trị có ảnh hưởng lớn ở vùng này. Vì lẽ đó, mà tổ chức nào được mời đến hội nghị sẽ mặc nhiên giành được cho mình vị trí khu vực và vị trí quốc tế không thể chối cãi. Là người đăng cai, Xi-ha-núc có nhiều quyền hạn trong việc cho các đoàn đại biểu đến nước mình. Ông sẽ triệt để lợi dụng lợi thế đó để nâng những mặt trận của Châu Đêra và Les Kossem lên ngang tầm vóc những phái đoàn khác. Ông ưu tiên đặc biệt cho Mặt trận Cao Nguyên của Y Bhăm và sẽ dành cho phái đoàn Y Bhăm những hoạt động chính thức như những phái đoàn khác kể cả quyền đọc diễn văn nêu lên yêu sách của mình. Nhưng vì ông là người đăng cai, có trách nhiệm đưa hội nghị đến thành công tốt đẹp nên ông yêu cầu bài diễn văn của Y Bhăm chỉ nên chú ý nêu bật một số vấn đề mà ông sẽ dặn dò kỹ lưỡng khi gặp riêng.
Cái tin được dự hội nghị nhân dân Đông Dương làm cho Y Bhăm sung sướng. Thế là tiếng nói của ông sẽ vang lên toàn Đông Dương và trên trường quốc tế. Ông dự định trong diễn văn sẽ lên án thực dân Việt Nam, đòi giải phóng Cao Nguyên… Ông sẽ đưa vào diễn văn. Mãi cho đến khi Les Kossem tế nhị cho biết, diễn văn đã được Đại sứ Pháp và chuyên viên Căm-bốt chuẩn bị rồi thì Y Bhăm thấy xấu hổ và nghèn nghẹn trong cổ.
Ngày hội nghị khai mạc, khi thấy Les Kossem dắt tay Y Bhăm thân mật đi vào, Xi-ha núc cười rung cặp má phị:
- Xin chào vị lãnh tụ anh minh của dân tộc Thượng! Trong hội nghị này ngài sẽ gặt hái được nhiều kết quả. Mặt trận Thượng sẽ tồn tại ở Đông Dương. Tôi hy vọng một ngày gần đây, nước thứ tư ở Đông Dương sẽ ra đời – nước Cao Nguyên độc lập. Tôi chân thành giao Mặt trận Khơ-me Thượng cho ngài lãnh đạo.
Y Bhăm biết thừa là Xi-ha-núc chơi lại nước cờ mà ông đã một lần lật tẩy trước mặt Les Kossem, nước cờ biến mình thành tay sai, lãnh tụ hờ của Mặt trận Khơ-me Thượng. Nhưng việc được mời đi dự hội nghị quan trọng này là một đặc ân quá lớn làm Y Bhăm choáng ngợp, vì thế ông không thoát khỏi cái tình thế “ăn xôi chùa ngọng miệng” như người Kinh thường nói.
Ông đón bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn trong tay Xi-ha-núc và cúi gập người nói bằng tiếng Pháp: “Mẹc-xi! Mẹc-xi!”.
Một buổi sáng ở hậu cứ Bốt Chá.
Như thường lệ, giờ làm lễ chào cờ đã đến. Mấy tiếng còi rúc lên. Các “chiến sĩ giải phóng Cao Nguyên” tập hợp trước sân theo từng khối. Khối “Dân sự chiến đấu” mặt mày hốc hác, tóc dài, râu rậm, quần áo rằn ri nhem nhuốc. Khối nông dân thì đóng khố, mình trần trùng trục, đen bóng.
Khối viên chức thì mặc com-lê. Có vị khoác Véc-stông, nhưng lại đóng khố, để lộ đôi chân mốc thếch.
Một góc sân, đám đàn bà con gái mặc đủ kiểu. Người mặc váy áo ka-ki của nữ chiến sĩ Cộng hòa. Người thì mặc váy đen, mình trần, vú vê thỗn thện. Người thì địu trên lưng những đứa con nhỏ quặt quẹo.
Đoàn văn công với những bộ cồng, bộ chiêng to nhỏ. Một chiếc đàn tờ-rưng buộc những tua vải xanh đỏ, gió bay phơ phất.
Họ đứng ủ rũ, buồn bã. Dường như ai cũng chán nản và mệt mỏi.
Lại một hồi còi lảnh lót. Đám đông nháo nhác chỉnh đốn đội ngũ. Sau một tiếng hô lớn, ban ca nhạc cử bài Quốc ca Đê-ga. Tiếng chiêng sầm sập, tiếng trống ầm ầm, chen lẫn tiếng hát thanh thanh của tốp ca nữ.
“Nhân dân Đê-ga cùng dắt cung tên, hy sinh cuộc đời. Một lòng tiêu diệt quân thù, giải phóng quê hương tươi đẹp rạng ngời.
Bọn xâm lược Kinh ta đánh tan. Bọn thực dân Kinh ta đánh gục.
Để cho nhân dân Đê-ga vượt qua vòng nô lệ đến quang vinh.
Vì đất nước Đê-ga, vì tự do, vì sự sống còn.
Đồng bào ơi hãy vùng lên, vùng lên, vùng lên…”.
Trong tiếng hát gào to, lá cờ uể oải kéo lên, lộ rõ mảnh màu xanh lá cây tượng trưng cho núi rừng; mảnh màu đỏ tượng trưng cho chiến đấu; ngôi sao và mặt trăng tượng trưng cho lãnh tụ anh minh… Y Bhăm quen giải thích như vậy cho chiến hữu.
Lễ chào cờ kết thúc. Y Bhăm thong thả trở về ngôi nhà dành cho chủ tịch mặt trận. Xung quanh ông, cảnh huyên náo hằng ngày lại nổi lên. Tiếng máy bay trực thăng gào ầm ầm, tiếng súng bắn tập ở quân trường loạn xạ. Tiếng đoàn xe vận chuyển quân lương của nhà bao thầu Kossem phu nhân. Và cả tiếng người nữa. Thôi, thì đủ thứ ngôn ngữ sắc tộc khác nhau của Ê Đê,
Ba Na, Gia Rai, Ka Ho. Chỉ tiếng trẻ con khóc thét và tiếng đàn bà chửi nhau thì sắc tộc nào cũng giống nhau vậy…
Trong ngôi nhà chủ tịch, các vị lãnh đạo Mặt trận Cao Nguyên đã tề tựu. Hôm nay, họ có một cuộc hội ý để bàn chủ trương hoạt động. Từ sau Hội Nghị nhân dân Đông Dương, họ vẫn chưa có dịp bàn đến vấn đề quan trọng này. Dù không thống nhất với nhau về nhiều mặt, thì ít nhất họ cũng đánh giá như nhau về ý đồ của Xi-ha-núc và của người Pháp đối với họ đã bộc lộ khá rõ trong cuộc hội nghị. Tại cái hậu cứ mang tên Pháp trên mảnh đất Căm-bốt này, Mặt trận Cao Nguyên của họ chưa có vai trò nào hơn là góp thêm một cái cọc cho thế đứng của Xi-ha-núc và Pháp. Họ cảm thấy đang bị một sức đẩy đưa dần họ đến vị trí phụ thuộc. Vì vậy, họ cố thủ trong cái Camp le Rolland này, rèn luyện đội ngũ, mong tạo thực lực cơ hồ có thể xoay trở được trong vòng tay ôm ấp họ.
Cánh cửa lim nhà sàn hé mở. Một dân vệ gác cửa bước vào trình có ông Huỳnh Ngọc Sắng từ Nam Vang về cần gặp Y Bhăm, cùng các vị lãnh đạo khác. Y Dhơn, Ynuỉn, Y Năm đều quay mặt lại chờ đợi.
- Thưa các vị – Sắng long trọng truyền đạt như Les Kossem đã dặn – Quốc trưởng triệu tập lãnh tụ của ba mặt trận về Nam Vang mở đại hội lập một mặt trận thống nhất bao gồm cả ba mặt trận hiện hữu. Hai phái đoàn Khơ-me Hạ, Chàm đang có mặt ở Nam Vang, chỉ còn đợi đại biểu Mặt trận Cao Nguyên ta.
Ai nấy cố nén một tiếng thở dài. Nước cờ họ nơm nớp chờ đợi có lẽ đã đến giờ ra mắt rồi. Y Dhơn nhìn vị chủ tịch thăm dò, rồi mới hỏi thẳng:
- Trước Hội nghị nhân dân Đông Dương, ông Les Kossem cũng đã yêu cầu ta họp để thống nhất tổ chức, ta chưa tán thành. Bây giờ, ý ngài thế nào?
Hỏi mà để hỏi thôi, chứ Y Dhơn cũng như những nhà lãnh đạo khác đều đã đoán ra trước câu trả lời của chủ tịch Y Bhăm hay là của họ – cũng như thế, nếu họ ngồi vào ghế chủ tịch.
- Ta cứ đi dự xem họ tổ chức như thế nào. Điều quan trọng là có thực lực, còn thống nhất thành một hay vẫn để ba không quan trọng gì.
Đại hội thành lập “Mặt trận thống nhất các dân tộc thiểu số Căm-bốt” được tổ chức ở Nam Vang. Châu Đêra, Les Kossem, Y Bhăm dẫn đầu ba phái đoàn của ba mặt trận tham dự. Quốc trưởng Xi-ha-núc đến thăm và động viên. Ngài căn dặn những điều chúng nhất như đoàn kết, thống nhất, chống chia rẽ và biết giữ kín những điều cụ thể chưa nên nói.
Đại biểu các mặt trận đọc diễn văn. Ai cũng hứa sẽ thực tâm đoàn kết. Về tên gọi thì họ nhất trí ngay. Mặt trận được mang tên bằng tiếng Pháp: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées . Gọi tắt là FULRO. Nhưng khi bầu ban lãnh đạo thì họ cãi nhau nảy lửa. Mặt trận Khơ-me Krôm đòi Châu Đêra làm chủ tịch. Mặt trận Chàm đòi Les Kossem làm chủ tịch. Mặt trận Cao Nguyên đòi Y Bhăm phải là người đứng đầu.
Cuộc thảo luận kéo dài hai ngày, không đi đến thống nhất. Các đại biểu dọa bỏ về. Châu Đêra phải trình Xi-ha-núc. Quốc trưởng khôn ngoan đề ra một phương án tổ chức: Làm thế nào để ai cũng có vị trí đứng đầu, nhưng thực lực vẫn nằm trong tay người Miên, Y Bhăm chỉ có danh nghĩa. Theo phương án này thì Mặt trận có ba cơ quan tối cao lãnh đạo. Thì Đức Chúa Trời chẳng phải có ba ngôi bằng nhau là gì? Chuyện khó hiểu thế mà hàng tỷ người theo đạo Thiên chúa vẫn công nhận thì sao? – Những người nghĩ ra phương án lập luận thế!
Ba cơ quan tối cao lãnh đạo đó là:
Hội đồng tối cao do:
CHÂU ĐÊRA làm chủ tịch
PÔNAGAR làm đệ nhất phó chủ tịch
Y BHĂM làm đệ nhị phó chủ tịch
Hội đồng bảo trợ do:
PÔNAGAR làm chủ tịch
CHÂU ĐÊRA làm đệ nhất phó chủ tịch
Y BHĂM làm đệ nhị phó chủ tịch
Ủy ban chấp hành Trung ương do:
Y BHĂM làm chủ tịch
CHÂU ĐÊRA làm đệ nhất phó chủ tịch
PÔNAGAR làm đệ nhị phó chủ tịch.
7. ĐẰNG SAU NHỮNG CUỘC THƯƠNG THUYẾT
Trở về Bốt Chá, Y Bhăm biết rằng mình chỉ là bù nhìn, còn thực lực thì do Châu Đêra và Les Kossem nắm. Để đối phó lại, ông đẩy mạnh hoạt động độc lập, cố tách khỏi trung ương. Ông cải tổ Mặt trận Cao Nguyên, lập ra Ban chấp hành mới có 7 Tổng ủy viên điều hành công việc như một chánh phủ, tuy vẫn giữ tên gọi mặt trận là FULRO.
Về phía mình Châu Đêra và Les Kossem cũng muốn gây thanh thế riêng.
Nhưng vì Châu Đêra bận vào nhiệm vụ tổ chức quân đội Hoàng gia nên Mặt trận Khơ-me Hạ hầu như không hoạt động. Công việc của FULRO do Les Kossem điều hành. Ông coi FULRO như tổ chức của Mặt trận Chàm.
Ông cải tổ “Hội đồng tối cao” thành “Ủy ban chấp hành tối cao” và nắm lấy quyền lãnh đạo.
Về đối nội, ông lập ra ba ban: tình báo, kinh tài và phát triển giáo dục.
Ban tình báo chuyên thu thập tin tức, tung người về Việt Nam phá hoại, móc nối cơ sở.
Ban kinh tài lo thu tiền đóng góp của nhân dân, tiếp tế cho hậu cứ của Y Bhăm, và mạnh dạn hơn, ông bao thầu việc cung cấp lương thực cho căn cứ Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam để kiếm lời. Ban kinh tài do vợ ông điều khiển.
Ban phát triển giáo dục lo tìm người đi học ngoại quốc, nghiên cứu về dân tộc Chàm.
Đối ngoại, ông mở chiến dịch ngoại giao vận động các nước ủng hộ FULRO, đặt các tổ chức hải ngoại yểm trợ FULRO. Nước đầu tiên ông vận động là Thái Lan.
Ông biết rõ có 40 vạn người Thái Lan gốc Chàm, và trong quân đội Hoàng gia Thái cũng có hai vị tướng người Chàm, một tướng không quân. Ông bay đi Vọng Các, gặp hai vị tướng và những kiều dân Chàm. Hai vị tướng vận động dân Chàm thành lập “Tổ chức người Chàm chính thống tiến bộ” để ủng hộ Les Kossem.
Tiếp theo ông đáp máy bay đi Gia-các-ta gặp tổng thống Xu-các-nô. Ông cho rằng ở Nam Dương có 2 triệu người Chàm chính thống. Họ dùng ghe thuyền di cư sang đây từ thế kỷ thứ 14 đến thế kỷ thứ 16, luôn luôn bị khinh rẻ, chèn ép trên đất khách quê người nên không khỏi mơ ước một cuộc sống tự do, độc lập.
Tổng thống Xu-các-nô cùng Les Kossem ký một mật ước “Nam Dương – FULRO”. Tổng thống rút ra 2 lữ đoàn Para-Com-măng-đô chừng 8000 người, trong số quân trù bị đã từng anh dũng đánh tan quân Mã Lai, để làm quân yểm trợ cho công cuộc “phục quốc Champa” của Les Kossem. Về nước, Les Kossem kết bạn thêm với đại tá Su-sê-nô – tùy viên quân sự Đại sứ quán Nam Dương tại Nam Vang. Thông qua Su-sê-nô, Les Kossem nhận các khoản viện trợ của Nam Dương. Sau đó, ông dự định đi các nước Ả Rập và Pháp.
Được các thế lực trong nước và nước ngoài ủng hộ, Les Kossem phát huy thanh thế, tìm cách nắm Y Bhăm và những người Thượng, Chàm trong Mặt trận Cao Nguyên. Nếu như Y Bhăm không nghe, ông sẽ hất và đưa Y Dhơn lên thay thế.
*
* *
Ở hậu cứ, Y Bhăm lo lắng vì Les Kossem ngày càng nắm hết quyền hành, biến ông thành tay sai. Y Bhăm bắt đầu tìm cách liên lạc với Mỹ, nhờ Mỹ ép Thiệu, Kỳ để cho FULRO về Việt Nam, thoát khỏi áp lực của Les Kossem.
Còn Y Dhơn, Y Nuỉn, Y Năm, Y Bhăn Kpơ thì vẫn căm lối lật lọng của Mỹ, nên phản đối, đòi tấn công Thiệu, Kỳ đến cùng.
Hai vị Chủ tịch và Phó chủ tịch chẳng ai chịu nghe ai. Dần dà mặt trận hình thành hai nhóm lãnh đạo. Nhóm của Y Bhăm, gọi là nhóm “Dân sự”, có: Y Dhé, Y Prêh, Y Bling, Y Thih…Nhóm của Y Dhơn gọi là nhóm “Quân sự”, có Tổng tham mưu trưởng Y Bhăn Kpơ, Tổng tham mưu phó Y Năm…
Thuyết phục Y Dhơn không được, ngày 19-7-1965, Y Bhăm tự ý quyết định cử Y Ngo, Y Sênh, Y Nhiam do Tổng ủy viên Ngoại giao Y Prêh dẫn đầu về Buôn Mê Thuột tìm lối thoát.
Phái đoàn gặp đại tá cố vấn vùng II chiến thuật Kersting (người vừa thay đại tá Freund) xin một khu vực đóng quân, xin tiếp tế lương thực và vũ khí. Kersting nhận lời và lệnh cho Vĩnh Lộc bàn giao địa điểm.
Vĩnh Lộc tức điên lên. Khi gặp phái đoàn FULRO ở trụ sở Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh, Vĩnh Lộc lạnh nhạt, nhùng nhằng không chịu thi hành các điều FULRO yêu cầu.
Y Dhơn cùng phái quân sự càng có cơ sở để chế giễu đường lối thương thuyết của Y Bhăm. Để chứng minh cho đường lối cứng rắn của mình, họ ra lệnh cho Na Guh dẫn 200 FULRO về biên giới, tổ chức cướp trại Buôn Briêng, là một trại có nhiều lính Thượng, để lấy tiếng.
Được Dân sự chiến đấu làm nội ứng, FULRO vượt rào vào trại. Họ trói tất cả các quân nhân người Kinh, hạ cờ ngụy quyền Sài Gòn xuống, kéo cờ FULRO lên.
Trận đánh nổ ra vào một thời điểm chính trị lợi cho phái Y Dhơn. Lúc này là lúc Mỹ thua đậm trong những trận Đồng Xoài, Ba Gia… Bị những cú choáng váng đầu tiên đó, cái chủ trương đổ bộ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam bắt đầu gây nhiều dư luận sôi nổi khiến Nhà trắng đau đầu. Thiệu, Kỳ đã được đưa lên thay Khánh. Nhưng cái Ủy ban lãnh đạo quốc gia và cái Ủy ban hành pháp Trung ương với những cái tên rất tân kỳ và cách mạng của nó vẫn không đem lại chút ảnh hưởng chính trị gì. Tình hình này, mảnh đất Tây Nguyên dễ bị rơi vào ảnh hưởng Pháp và Xi-ha núc lắm, mà Mỹ khó rảnh tay đối phó được. Phải tìm cách xoa dịu nó đã rồi thư thả sẽ tính sau.
Đại sứ Mỹ liền giao cho Phó đại sứ U. Alexis Johnson và đại tướng Morton, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, giải quyết vấn đề FULRO. Ngài Phó đại sứ tìm mọi biện pháp lôi kéo FULRO về hợp tác với Thiệu, tập trung sức đối phó với Mặt trận Giải phóng và Mặt trận Tây Nguyên tự trị lúc đó đang mở các trận tấn công dữ dội hơn, nhất là ở Tây Nguyên, địa bàn chiến lược.
Một phái đoàn gồm đại tướng Morton, thiếu tướng Tổng ủy viên chiến tranh Nguyễn Hữu Có, chuẩn tướng Tư lệnh vùng II chiến thuật Vĩnh Lộc được thành lập để đón phái đoàn FULRO.
Hữu Có uất lên tận cổ, nói với Vĩnh Lộc:
- Ta đã khổ với bọn Mọi này mấy năm nay rồi. Tại sao người Mỹ nói ủng hộ chúng ta mà lại cho bọn Mọi trèo đầu trèo cổ ta thế?
Vĩnh Lộc thở dài không trả lời.
- Vào hội đàm ta nên có thái độ thế nào? Hữu Cơ lại hỏi.
- Thật là khó. Không nhượng bộ thì người Mỹ phật ý, gây khó dễ cho ta. Nhượng bộ thì bọn Mọi lên mặt, leo thang lấn ta. Theo tôi, kế hay nhất là “miệng gọi, tay đẩy”. Ta cứ hứa nhận mọi yêu sách của FULRO, nhưng ta không thực hiện.
Thế là, vào hội đàm, hai vị tướng tỏ ra nhũn nhặn, có thiện chí, thực hiện răm rắp ý kiến của đại tướng Morton và đệ lên Nguyễn Văn Thiệu.
Kết quả, một bản “Thông cáo của Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa gửi FULRO được đưa ra ngày 2-8-1965. U. Alexis Johnson và Morton rất hài lòng, khi thấy có những câu:
“Chánh phủ sẵn sàng dành cho anh em mọi địa vị xứng đáng trong cơ cấu quốc gia, tại trung ương cũng như địa phương để anh em có cơ hội cùng Chánh phủ phục vụ đất nước và dân tộc
Trong giai đoạn khó khăn này chánh phủ mong mọi anh em hãy đặt quyền lợi tối cao của tổ quốc trên hết và sớm trở về đoàn tụ cùng đại gia đình dân tộc”.
Johnson cũng ra “Thông cáo của Chánh phủ Hoa Kỳ” gửi FULRO, tha thiết kêu gọi Y Bhăm:
“Chánh phủ Hoa Kỳ thành thật mong rằng ông cùng các cộng sự viên sẽ đồng ý với chúng tôi và cố gắng hợp tác với Chánh phủ Việt Nam để thanh trừ mối đe dọa Cộng sản và xây dựng xã hội kinh tế cũng như chánh trị cho xứ sở theo ý muốn của toàn dân…Nếu Chánh phủ Việt Nam và ông Y Bhăm mong muốn và yêu cầu, Chánh phủ Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng hiện diện làm quan sát viên trong bất cứ cuộc thảo luận nào giữa hai bên…”.
Bản thông cáo được chính Phó đại sứ U. Alexis Johnson ký tên.
Y Prêh và phái đoàn mang hai thông cáo về hậu cứ. Y Bhăm cùng ban chấp hành họp bàn.
Thấy đã đạt thắng lợi bước đầu, Y Dhơn lệnh cho Nay Guh rút quân khỏi Buôn Briêng. Khi rút, Nay Guh kéo theo 181 Dân sự chiến đấu ở Buôn Briêng cùng tất cả vũ khí. Y Dhơn và phái Quân sự càng coi thường Y Bhăm, càng liên minh chặt chẽ với Les Kossem tìm cách nắm lấy quyền lãnh đạo Mặt trận Cao Nguyên.
Tuy vậy, vấn đề trở về hay không trở về, vẫn còn là điều bất đồng giữa hai phái “Dân sự” và “Quân sự”.
Y Bhăm lập luận:
- Phải coi hai văn bản Thông cáo là cơ sở pháp lý. Cần phải tập trung sức lực để chống Việt Cộng, Thượng Cộng. Bọn Cộng sản còn nguy hiểm gấp trăm lần bọn Thiệu – Kỳ. Phải hợp tác với Thiệu – Kỳ chống Cộng. Chiến thắng xong Cộng sản ta sẽ chống Thiệu – Kỳ, giành độc lập hoàn toàn cho Cao Nguyên.
Y Dhơn không chịu, đập lại:
- Người Mỹ bảo chúng ta nổi lên, xui chúng ta sang đây, giờ lại bắt chúng ta về! Ta không thể mù quáng theo họ được. Phải đấu tranh đến cùng. Khi ra đi, ông chả hứa với chúng tôi như thế là gì?
Mặc cho Y Dhơn cùng phái “Quân sự” phản đối, Y Bhăm đơn phương cử một phái đoàn thương thuyết do một người thân tín là Y Dhé cầm đầu về hòa đàm lâu dài với Chánh phủ Việt Nam. Đoàn được mang tên là “Ban đại diện Chánh phủ lâm thời Cao Nguyên”.
Y Dhé cũng là một viên chức kỳ cựu của Pháp, người sắc tộc Ê Đê. Trước khi vào FULRO, ông làm huân sự thủy lâm ở Buôn Mê Thuột: Y Dhé được Y Bhăm coi là một trong hai người có tài ngoại giao nhất của FULRO (người kia là Tổng ủy viên Ngoại giao Y Prêh) vì Y Dhé rất khôn ngoan và có tài xoay xở. Hồi còn làm huân sự thủy lâm, ông đã từng ăn những món tiền đút lót rất bẫm của các chủ đồn điền cao su, cà phê và của các nhà có rẫy cần dẫn nước vào tưới.
Được Y Bhăm giao lập Ban đại diện, Y Dhé kéo luôn các chân tay thân tín cùng phe cánh vào chiếm những ghế quan trọng trong Ban. Vẫn chưa yên tâm và để tránh mọi điều bí mật khỏi lọt vào Y Dhơn, y xin với Y Bhăm cho con rể mình là trung tá FULRO Y Nhiam vào làm ủy viên liên lạc giữa hậu cứ vào “Ban đại diện”.
Thấy Y Bhăm độc đoán lập phái đoàn thương thuyết, Y Dhơn cùng phái Quân sự cũng không chịu bó tay, liền cử một trung đoàn FULRO, do trung tá Y Djao chỉ huy, về đóng ngay tại Buôn Buôr, cạnh cầu 14, để khống chế và thăm dò Y Dhé. Y Djao được quyền báo cáo trực tiếp với Y Dhơn không cần thông qua Ban đại diện. Y Djao còn liên hệ ngầm với lính Thượng các trại ở Đắc Lắc lấy vũ khí, lương thực, chuẩn bị lực lượng chống lại Y Bhăm.
Y Bhăm và Y Dhé coi trung đoàn này như một cái gai, nhưng vì phe “Quân sự” đang mạnh nên họ chưa làm gì được. Tốt hơn hết là cứ lờ đi, coi như không biết hành động ngấm ngầm của Y Djao.
Y Dhé cùng phái đoàn về Buôn Mê Thuột ngày 23-8-1965. Vừa đến nơi, trong khi các đoàn viên còn nghỉ ngơi, thăm hỏi gia đình thì Y Dhé, Y Nhiam cùng H'zap (vợ Y Dhé) bàn ngay cách lợi dụng danh nghĩa “Ban đại diện” để vơ vét làm giàu. Bà H'zap vốn là người tinh khôn, thạo buôn bán, liền làm “cố vấn” cho chồng trong việc “làm ăn” rất tinh vi, vừa được tiếng vừa được miếng. Để làm ăn trót lọt, bà kéo luôn Y Tang, ủy viên kinh tài Ban đại diện, vào “cánh” với chồng nhằm che mắt thiên hạ và bịt mồm vị ủy viên có thể biết mánh khóe của vợ chồng bà.
Sau khi tính toán thật kỹ lưỡng, Y Dhé dùng ngay nhà mình ở buôn Alêa làm trụ sở “Ban đại diện”. Một tấm biển lớn đỏ chói, viết bằng chữ vàng tươi “Ban đại diện Chánh phủ Lâm thời Cao Nguyên” được treo ngay trước cổng ngôi nhà sàn dài.
Trụ sở Ban đại diện ngày ngày nườm nượp người ra vào. Người đến thăm hỏi sức khỏe Y Bhăm; người đến nhờ chuyển thư cho con cái. Cũng có người đến xin cho chồng, con về vì đã một năm nay, nghe nói chồng, con họ cực khổ. Và rất nhiều người mang quà, phần lớn là gà, gạo đến ủng hộ Ban đại diện, vì các vị trong Ban đại diện “làm việc không lương, chịu bao điều gian nan, nguy hiểm”. Về đây các vị phải sống thấp thỏm, nguy hiểm. Bọn cảnh sát Thiệu dễ chơi xỏ, bắt cóc hoặc thủ tiêu lắm chứ.
Ai gởi lời thăm hỏi vị chủ tịch vĩ đại và các lãnh tụ, chiến sĩ FULRO thì được ông Trưởng ban đại diện đón tiếp để chuyển lời sang hậu cứ. Ai gởi quà cáp ủng hộ FULRO thì Trưởng ban đại diện phu nhân nhận, chuyển vào trong buồng rồi cho ra chợ. Một tay bà lo liệu tất. Bà vừa là kế toán, vừa là thủ quỹ, thủ kho.
Cứ những kỳ tổ chức lễ kỷ niệm, ngày thành lập FULRO, ngày sinh Y Bhăm… vợ chồng ông trưởng ban lại vất vả túi bụi vì nhận quà ủng hộ. Mỗi lần có người xin cho chồng, con đã đi theo FULRO về thăm nhà, hoặc xin đến hậu cứ thăm chồng, con; mỗi lần có người trốn lính Sài Gòn xin chạy theo FULRO…thì lại là một dịp vị Trưởng ban đại diện hốt bạc đút lót.
Nhận thư của Y Dhé đề nghị gặp phái đoàn Chánh phủ để thương thuyết, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ bề ngoài phải nghe lời vị Phó đại sứ Mỹ, nhưng bên trong tìm mọi cách trì hoãn và chửi rủa FULRO thậm tệ.
Ngày 25-8-1965, trong một cuộc họp báo, Tổng ủy viên Chiến tranh Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Hữu Có tuyên bố với các ký giả:
- Hội đồng nội các quyết định không gửi một đại diện nào lên Buôn Mê Thuột tiếp xúc với phản loạn Thượng FULRO. Họ gặp tỉnh trưởng là đủ rồi. Nếu sau một thời gian kêu gọi, họ không trở về, sẽ có những biện pháp mạnh mẽ tiêu diệt tổ chức đó.
Hai ngày sau, trong lễ trình diện 38 tên sĩ quan Thượng vừa mãn khóa võ bị ở Buôn Mê Thuột, Vĩnh Lộc khoác áo đen viền đỏ cổ truyền Ra-Đê lên phát biểu, cũng nhân cớ này mà công khai mạt sát FULRO. Sau khi ca ngợi Thiệu – Kỳ đã “quan tâm đào tạo một lớp sĩ quan Thượng đầy tài năng; thực thi một cách không ai chối cãi được quyền bình đẳng Kinh – Thượng trong công cuộc diệt trừ Cộng sản, bảo vệ quốc gia”, Vĩnh Lộc chĩa mũi nhọn vào FULRO:
- Ấy thế mà một nhóm người không nhận ra điều đó. Tôi không thấy có lý do nào mà không chấp nhận chiến đấu thêm để diệt trừ một nhóm người phản loạn, cố tâm phá vỡ tình đoàn kết Kinh Thượng và hủy hoại tiềm lực chiến đấu của quốc gia trong tình trạng chiến tranh…Nếu FULRO cố tình ngoan cố, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ tiễu trừ thẳng tay!
Được các sĩ quan dự buổi lễ trình lại, Y Dhé báo ngay cho Y Bhăm, Y Bhăm lệnh cho Y Dhé phải cố gắng chịu đựng, khéo léo thuyết phục, nhũn nhặn giữ hòa khí với Vĩnh Lộc, không nên gây ra xô xát, trái với tinh thần bản thông cáo của Đại sứ Mỹ.
Y Djao cũng báo tin cho Y Dhơn. Phái “Quân sự” bí mật họp bàn, tìm cách đối phó. Phó chủ tịch Y Dhơn bực bội:
- Ông chủ tịch đã bị mua chuộc hoàn toàn, phản bội chúng ta, định bắt tay với Thiệu, Kỳ. Một vị chủ tịch đã mất sáng suốt lẩm cẩm, đường lối sai lầm, ta không thể cứ nhắm mắt mà đi theo, không thể hợp tác được nữa. Ta phải tổ chức bạo động. Hãy đứng lên. Tất cả các chiến sĩ chúng ta cùng tất cả những binh sĩ Thượng ta còn trong hàng ngũ quân Thiệu phải vùng lên tiêu diệt bọn Thiệu – Kỳ. Phải phát động một cuộc khởi nghĩa toàn Cao Nguyên!
Y Năm hỏi:
- Ta không theo lệnh người Mỹ, họ cắt hết viện trợ thì sao?
Huỳnh Ngọc Sắng trả lời ngay:
- Sẽ có Đại sứ Pháp ở đây và Chánh phủ Hoàng gia Miên ủng hộ.
Mọi người nhất trí kế hoạch: Khởi nghĩa toàn Cao Nguyên.
Y Năm bí mật đưa các sĩ quan FULRO về Đắc Lắc.
Ksor Đuốt dẫn một nhóm về PleiKu để phối hợp với Nay Fun, giám thị ký túc xá trường nam tiểu học PleiKu, một chỉ huy FULRO ở trong nước, hành động.
Lệnh bạo động được truyền khắp Cao Nguyên.
Ở Phú Bổn, 3 giờ sáng ngày 18-12-1965, đại đội 296 ĐFQ, trung đội I-503 và trung đội Nghĩa quân đồn trú tại quận lỵ Phú Thiện nổi dậy. Thượng sĩ Nay Rí chỉ huy lính Thượng giết 5 sĩ quan và lính người Kinh, chiếm quận lỵ.
Ở Đắc Lắc, Y Năm cùng Y Tam Uông, đại đội trưởng đại đội 281, chỉ huy lính Thượng, nổi dậy chiếm đồn Krông Pách, giết hết binh lính người Kinh.
Ngay đêm đó, tiểu đoàn 64 FULRO do đại úy Y Blăm chỉ huy đột nhập vào Tòa hành chánh và Tiểu khu Quảng Đức, giết hết nhân viên, quân nhân người Kinh, treo cờ FULRO lên.
Nhưng ở PleiKu thì FULRO không may mắn. Ksor Đuốt, Nay Fun cùng 67 người đang họp, chưa kịp triển khai lực lượng, thì bị cảnh sát ngụy ập vào bắt. Ksor Đuốt chạy thoát khỏi biên giới.
Cả Cao Nguyên trong tình trạng hỗn loạn. Ở đâu các binh lính Thượng cũng nổi lên chiếm các đồn trại, hô khẩu hiệu, tung truyền đơn “Cao Nguyên là của người Cao Nguyên”, “Thực dân Kinh cút đi!”. Vĩnh Lộc huy động các đơn vị thuộc sư đoàn 23 bộ binh, tiểu khu Phú Bổn, Đắc Lắc, PleiKu cùng với một đơn vị Thủy quân lục chiến mở cuộc hành quân tảo thanh, cứu vãn các nơi bị mất, diệt và bắt một loạt FULRO từ Căm-bốt về và bọn nổi loạn. Máu đổ khắp nơi.
Đại tá Kersting điện hỏi Y Dhé về sự kiện này. Y Dhé nhận lệnh Y Bhăm, trả lời: đó là hành động của nhóm “quá khích”. Y Dhơn bị Pháp mua chuộc, chánh quyền cứ việc trừng trị.
Đại tá Kersting cho lập tòa án quân sự mặt trận Vùng II chiến thuật ở hội trường Diên Hồng (PleiKu) để trừng trị bọn phản loạn. Đại tá Kersting gợi ý chỉ trừng trị bọn bên dưới, còn để cho số sĩ quan chỉ huy FULRO chạy về Căm-bốt.
Mọi tội trạng đã được định đoạt. Các án đã được kết từ trước. Thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh ngồi trên ghế chánh thẩm, nét mặt hầm hầm, đọc lệnh tuyên phạt, gồm:
- 4 án tử hình: thượng sĩ Nay Rí, trung sĩ KSor Chame, trung sĩ Ksor Boh, trung sĩ Ksor Pieo.
- 1 án chung thân khổ sai: hạ sĩ Roc Dep.
- 3 án khổ sai 20 năm: Nay Fun, Y Bơ Ya, Nay Agui.
- Số còn lại bị khổ sai 10 năm…
Bản án được thi hành ngay. Phó tỉnh trưởng Thượng vụ Phú Bổn Nay Mun từ chối mãi không được, cuối cùng phải đau đớn đứng ra tổ chức cuộc xử tử 4 quân nhân Thượng.
Cao Nguyên chìm trong không khí hận thù, ghê rợn. Dân chúng các nơi như thấy đêm đêm có bóng ma lập lờ. Các oan hồn gào thét trong gió. Ở đâu người ta cũng nghe những lời rì rầm kêu gọi:
- Hồn ma những người bị giết đang hiện về kêu gọi chúng ta. Máu phải trả máu! *
* *
Ở Camp le Rolland.
Y Bhăm cố nén cơn giận đang sôi sùng sục trong lòng, quay lại nhìn con rể (trung tá Y Em – đặc trách bảo vệ an ninh hậu cứ) giọng trầm tư:
- Anh đã xem thư của ông Y Dhé viết cho chúng ta rồi chứ? Người Mỹ phẫn nộ vì hành động quá khích vừa qua như thế đó! Người ta đang muốn mình hợp tác với Thiệu thì mình lại đánh họ, giết hại binh lính họ. Tên Y Dhơn và tay chân hắn coi thường chúng ta quá!
Y Em nói:
- Thưa ba, con cũng thấy thế!
Y Bhăm nắm tay như muốn bóp nát một vật gì:
- Phải triệt chúng đi!
Y Em băn khoăn:
- Thưa ba, lực lượng chúng khá mạnh, chúng nắm quân đội. Bọn Les Kossem ủng hộ chúng, con e ta khó thành công.
- Vì thế phải hết sức bí mật, chớp nhoáng.
Mọi kế hoạch được tính toán kỹ lưỡng giữa hai bố con.
Đêm 15-2-1966, Y Em huy động trung đoàn bảo vệ hậu cứ bí mật bao vây toàn khu vực. Lệnh giới nghiêm được ban ra. Y Em cùng đoàn tùy tùng ập vào tận nhà bắt Y Dhơn, Y Nuỉn, H' Bi. Riêng mấy tên Y Bun, Y Năm cùng một số sĩ quan chạy thoát được về Nam Vang.
H' Bi (vợ Y Nuỉn) bị đưa đi hỏi cung trước tiên.
Vị chủ tịch hỏi bà hội trưởng phụ nữ:
- Cô có được tham dự cuộc họp giữa Y Dhơn và chồng cô bàn việc làm đảo chánh tôi không?
H' Bi thành thật:
- Thưa chủ tịch, tôi không hay biết cuộc họp ấy.
Y Bhăm giằn giọng:
- Chồng cô, Y Dhơn và một số người khác, đã phản chúng tôi. Vừa qua, họ đã vượt quyền tôi ra lệnh cho FULRO bạo động. Hàng trăm chiến sĩ FULRO bị hy sinh. Hàng ngàn đồng bào bị giết. Cả Cao Nguyên náo động. Chồng cô còn họp bàn định đảo chánh, giết tôi. Chả lẽ chồng cô không bàn bạc với cô? Cô hãy khai thật đi!
- Thưa chủ tịch, tôi không hay biết gì cả.
- Cô muốn sống tiếp tục làm Hội trưởng phụ nữ FULRO hay muốn chết theo chồng? Muốn sống thì phải nhận tội của chồng trước tòa án. Tùy cô, cô suy nghĩ kỹ đi. Làm một người lãnh đạo phong trào cách mạng FULRO, lãnh tụ của chị em phụ nữ, cô phải dũng cảm nhận sự thật, phải thật thà với tổ chức, phải biết sẵn sàng hy sinh tình cảm riêng, cống hiến cho tổ chức.
H' Bi không đủ can đảm nhận cái chết. Chỉ còn con đường nhận lệnh của vị chủ tịch tối cao, nói là chồng và Y Dhơn có họp bàn làm đảo chánh Y Bhăm.
Tòa án tối cao FULRO mở ngay ở hậu cứ để xử tội Y Dhơn và Y Nuỉn.
Y Tôn Niê – phụ tá Tổng ủy viên Tư pháp, kiêm Chánh án tòa án tối cao FULRO – ngồi trên ghế chánh thẩm.
Trước toàn thể đoàn viên FULRO và thân nhân, H' Bi phải nhận có dự cuộc họp do Y Dhơn và chồng cô chủ trì bàn việc đảo chánh Y Bhăm! “Vâng, vâng, chính tôi được dự cuộc họp, bàn định kế hoạch làm đảo chánh do ông Y Dhơn và chồng tôi…”.
Vị Phó chủ tịch FULRO Y Dhơn và Y Nuỉn – một trong những người sáng lập ra FULRO – bị kết án tử hình vì tội âm mưu lật đổ Y Bhăm. Ngày hành hình, H' Bi phải chứng kiến cảnh chồng bị giết. Người ta bịt mắt Y Nuỉn, dẫn ra trói vào một cây cột chôn sẵn. Một đoàn viên FULRO chĩa súng nổ một loạt vào ngực chồng cô, H' Bi ngã xuống và ngất đi.
Y Bhăm đưa Y Dư Eeban thay Y Dhơn làm phó chủ tịch.
Sau ngày ấy, ở hậu cứ, các đoàn viên FULRO nơm nớp lo sợ Y Bhăm sẽ thanh trừng hàng loạt.
Huỳnh Ngọc Sắng về Nam Vang gặp Les Kossem báo tin Y Dhơn và phái “Quân sự” bị diệt. Les Kossem thấy lũ tay chân thân tín bị chặt, rất bực tức:
- Chả lẽ chịu bó tay trước tên Thượng già này ư?
Sắng trình bày:
- Thưa trung tá (Les Kossem đã thăng trung tá), hiện giờ Y Bun, Y Năm, Y Bhăn Kpơ chạy về đây. Xin ngài nâng đỡ nuôi dưỡng bọn này, xây dựng một đội quân có đủ sức mạnh tấn công lại bọn Y Bhăm. Tôi tìm người khác tiếp tục gài vào nội bộ bọn Y Bhăm, khi nào có thời cơ, ta sẽ tìm cách lật hắn.
Les Kossem gật đầu, bàn với Sắng:
- Anh nên về Việt Nam để lo mọi công việc – Còn Y Bun tôi sẽ cho đi học để còn dùng lâu dài.
Y Bun được Les Kossem cho sang Pháp học khoa Chính trị xã hội học tại trường đại học Xoóc-bon.
8. NHỮNG THẾ LỰC MỚI
Huỳnh Ngọc Sắng về Sài Gòn. Ở đây Sắng gặp Hoàng Minh Mộ, Bá Trung Di – hai nhân viên Phủ đặc ủy Trung ương tình báo Việt Nam Cộng hòa nhưng làm việc ngầm cho Les Kossem. Bàn bạc kế hoạch xong, Sắng về Ninh Thuận gặp Đàng Năng Giáo, Ngụy Văn Nhuận và những thanh niên Chàm khác.
Sau cuộc bạo động 20-9-1964 ở Cao Nguyên, bị Vĩnh Lộc đàn áp, Đàng Năng Giáo lại trốn về sống ẩn nấp ở quê. Mối tình giữa anh và Trúc ngày càng thắt chặt. Đã sẵn mến phục trí thông minh và học lực của Giáo, giờ đây thấy Giáo sống lén lút, trốn tránh chánh quyền, ẩn ẩn hiện hiện, Trúc càng say mê. Nếu không bị theo dõi, o ép, chắc Trúc đã cưới Giáo về làm chồng rồi.
Giữa lúc đó, Sắng tìm gặp Giáo. Sau khi nói về tình hình FULRO ở Căm-bốt, Sắng rủ:
- Mặc dù ông Les Kossem tìm mọi cách áp chế Y Bhăm, nhưng bọn Thượng đông người, có thực lực trong tay, lại được Mỹ giúp đỡ nên vẫn hoạt động mạnh. Ông Kossem nói cần phải có đông người Chàm về Căm-bốt tăng cường lực lượng cho Mặt trận Chàm thì mới địch nổi lực lượng bọn Thượng ở Cao Nguyên. Ông cử tôi về gọi anh và những người khác sang Nam Vang. Anh mà sang đó thì chắc sẽ được ông Kossem tin cậy giao cho trọng trách xứng đáng.
Đàng Năng Giáo tuy đang say mối tình dang dở nhưng vẫn tiếc chức vị mới đang chờ, phân vân:
- Nếu như có bồ, đưa đi cùng, được không?
Sắng cười hóm hỉnh:
- Anh cứ sang ổn định công việc và cuộc sống trước. Sau này muốn đưa bồ sang, ông Kossem chắc ủng hộ. Ông Y Bhăm, Thiên Sanh Thi…chẳng mang vợ sang cùng ở hậu cứ là gì?
Đàng Năng Giáo yên tâm từ biệt Trúc ra đi, hẹn sẽ nhanh chóng tìm cách đưa cô sang Căm bốt.
Giáo lên Sài Gòn. Bọn Thủy, Mộ, Di đã móc nối được một loạt thanh niên Chàm khác. Giáo cùng bọn này qua đường Châu Đêraốc, tìm sang Nam Vang.
Les Kossem vui mừng đưa họ ngay vào Mặt trận Chàm.
Có thêm người, Les Kossem cử tay chân Chàm về Bốt Chá kèm sát Y Bhăm, chỉ giữ lại một số thân tín.
Đàng Năng Giáo được giữ chức Đệ nhất bí thư Phủ chủ tịch, đặc trách chánh trị và kế hoạch. Giáo thường ký tên Chàm: Yang Neh.
Huỳnh Ngọc Sắng giữ chức Tổng ủy viên Nội vụ.
Thiên Sanh Thi giữ chức Tư lệnh quân khu 3 FULRO (gồm 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận), kiêm sư đoàn trưởng sư đoàn Pô-rô-mê.
Y Bhăm biết Les Kossem tăng lực lượng làm áp lực và sẵn sàng hết mình, liền đẩy mạnh chiến dịch ngoại giao với người Mỹ, với Nguyễn Văn Thiệu, tìm cách trở về Việt Nam như thế nào để vẫn có địa vị cao trong chánh quyền và vẫn có thế lực ở Cao Nguyên. Y đốc thúc “Ban đại
diện” ở Buôn Mê Thuột hoạt động. Cuộc bạo động cuối năm 1965 làm cho Đại sứ Mỹ và đại tướng Morton nổi xung, chửi Nguyễn Văn Thiệu và Vĩnh Lộc là dây dưa, không chịu làm theo kế hoạch của Mỹ. Ngài Phó đại sứ U. Alexis Johnson lệnh cho Nguyễn Văn Thiệu phải thực hiện những điều khoản đã vạch ra trong hai bản thông cáo.
Vĩnh Lộc phải cho Y Chôn và Nay Loét đặt “Văn phòng liên lạc” của “Nhà đặc trách Thượng vụ” ở Buôn Mê Thuột để hòa đàm với Y Dhé.
Y Dhé vui mừng vì thấy Y Chôn là người đã từng làm cố vấn cho BaJaRaKa, FULRO và “Ban hòa giải”. Thì cũng “anh em trong nhà cả”, việc gì mà chẳng dàn xếp xong? Mà họ đối xử với nhau như “anh em trong nhà” thật. Khi nào có Vĩnh Lộc hoặc phái viên của Nha lên kiểm tra thì họ họp hành, chửi nhau gay gắt. Nhưng khi vắng mặt phái viên, Y Dhé lại gọi Y Chôn “bí mật” đi uống rượu, thăm hỏi đồng bào. Y Dhé trích một số quà cáp của đồng bào ủng hộ FULRO chia cho Y Chôn.
Các nhân viên của “Ban đại diện” và “Văn phòng liên lạc” chơi dài, suốt ngày đi săn và nhậu nhẹt.
Thấy công việc tiến hành chậm chạp, Y Bhăm vẫn chưa nói gì đến việc trở về hợp tác, Anderson – cố vấn Nha đặc trách Thượng vụ – bàn với Vĩnh Lộc:
- Chúng tôi phải ghi nhận rằng, từ tháng 9 năm 1964 đến nay, các ngài đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết FULRO. Tuy nhiên, công việc tiến triển chậm chạp và ít hữu hiệu. Gần 2 năm trời qua mà bọn Y Bhăm vẫn không chịu về hợp tác, vẫn lôi kéo dân chúng Thượng theo chúng nhiều. Vì thế, chúng tôi cùng Chánh phủ các ngài đã quyết định nâng “Nha đặc trách Thượng vụ” thuộc Bộ Quốc phòng lên thành “Phủ đặc ủy Thượng vụ” trực thuộc Chánh phủ. Hiện nay, một vấn đề đặt ra cho chúng ta là sẽ đưa ai lên làm Đặc ủy trưởng. Làm Đặc ủy trưởng phải có uy tín để tạo nên thế cân bằng với Y Bih, với Y Bhăm và phải có phẩm chất cá nhân tốt, có tài năng để điều hành công việc. Ngài thay mặt Chánh phủ điều hành công việc ở Cao Nguyên, lại là chỗ thâm tình nên tôi nói thật, đây cũng là một con “mồi” nhử con cá Y Bhăm và bọn FULRO về, đồng thời thu hút quần chúng Thượng về phía ta, để chúng khỏi chạy theo tên Y Bih. Vậy theo ý ngài thì ai xứng đáng giữ chức vụ này? Y Bliêng, Y Chôn, Nay Loét hay Paul Nưr?
Không biết Vĩnh Lộc chọn đi chọn lại thế nào, bàn bạc với Anderson ra sao. Chỉ biết rằng, ngày 22-6-1966 “Phủ đặc ủy Thượng vụ” được thành lập và Paul Nưr làm “Đặc ủy trưởng”.
Cũng từ trong lò viên chức cũ của Pháp mà ra, Paul Nưr là một nhà giáo kỳ cựu thuộc sắc tộc Ba Na. Sau khi học xong “Cao đẳng tiểu học”, ông về làm thư ký thanh tra Ty học vụ Công Tum. Nhờ quen thân với các quan trong tỉnh, và nhất là nhờ theo đạo Thiên chúa, có giám mục Pôn Séc bênh vực, ông nhanh chóng được cử làm Chánh văn phòng Tổng thanh tra học vụ Công Tum. Với chức vụ này, ông được nhiều người trong giáo giới kiêng nể, và có nhiều dịp để ăn của đút lót.
Năm 1950, tưởng là có vai vế, Paul Nưr tỏ ra khinh nhờn ông Trưởng ty học vụ người Kinh. Ông này bèn “đày” Paul Nưr đi dạy ở trưởng Plei jah, một nơi xa xôi, hẻo lánh ở vùng biên giới.
Là người có tài xoay xở và nhiều tham vọng, Paul Nưr tìm mọi cách để được trở lại cương vị cũ. Ông thực hiện ý đồ đó bằng hai cách. Cách thứ nhất, tham gia nhóm “Thiện chí”, một tổ chức chánh trị Thiên chúa giáo do linh mục Nguyễn Viết Khai và Đinh Khắc Giao đỡ đầu, nhờ nhóm này và giám mục Pôn Séc làm áp lực với Ty học vụ.
Cách thứ hai, ông bỏ người vợ đã có 4 con, để lấy Siu Hyum, con gái một dòng họ lớn, có uy tín nhất trong dân tộc Ba Na, nhờ tiếng nói của bố vợ, tác động đến các vị tai to mặt lớn trong tỉnh.
Qua sự tác động của giám mục Pôn Séc, nhóm “Thiện chí” và gia đình nhà vợ, ông thoát cảnh “đi đày”, tạm về làm hiệu trưởng trường Tiểu học Công Tum, chờ dịp leo lên chức vị cao hơn.
BaJaRaKa nổ ra với mục tiêu chống Diệm. Sẵn hằn học với ông Trưởng ty người Kinh, Paul Nưr tham gia luôn và được làm đệ nhất phó chủ tịch.
Diệm đàn áp BaJaRaKa. Cùng với Y Bhăm, Nay Loét, Y Bliêng và các lãnh tụ khác của BaJaRaKa, ông bị bắt tù. Cho đến ngày 21-3-1964, cũng như Y Bhăm, Paul Nưr được Nguyễn Khánh thả ra và cho làm Phó tỉnh trưởng Thượng vụ Công Tum.
Anderson và Vĩnh Lộc đưa Paul Nưr lên làm Đặc sứ trưởng đúng là bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Trong số ba chủ tịch của BaJaRaKa, Siu Sip đã bị Diệm giết; Y Bhăm làm chủ tịch FULRO, trong nước chỉ còn Paul Nưr là có thể sánh với Y Bhăm về “tinh thần cách mạng”, “lòng yêu dân tộc”. Mặt khác, ngoài Y Bhăm ra, chỉ có Paul Nưr là có thể cân bằng uy tín với Y Bih, nguyên ủy viên BaJaRaKa hồi nào. Đối với người Mỹ, đã có Y Bhăm để địch với Y Bih một cách kín đáo và tế nhị, giờ thêm Paul Nưr nữa thì cán cân lực lượng sẽ nghiêng hẳn về phía Mỹ. “Hai chọi một chẳng chột thì què” mà.
- Dám đấu tranh với chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm uy tín của Paul Nưr đã lớn; sáu năm tù đày trong nhà tù Diệm, Khánh, tiếng tăm của ông càng vang lừng. Giờ làm Đặc ủy trưởng, nếu ông hăng hái, xông xáo, hy sinh vì dân tộc hơn nữa thì quả chúng ta có một người khả dĩ có thể làm cho dân chúng tin tưởng và nghe theo – Anderson nói với Vĩnh Lộc như thế, lòng tràn đầy lạc quan về một con bài đã chọn.
Được lên làm Đặc ủy trưởng, cơ quan nắm các sắc dân thiểu số toàn quốc, Paul Nưr hăng hái lao ngay vào các hoạt động để củng cố uy tín và gây thanh thế, hòng leo cao hơn trong các nấc thang danh vọng.
Paul cử Y Thích làm giám đốc Nha hành chánh tài chánh, Nay Loét làm Công cán ủy viên của Phủ đặc ủy. Ông vội vã lên ngay Buôn Mê Thuột, lôi kéo Y Dhé, tìm cách thuyết phục Y Bhăm về hợp tác.
Nghe tin Paul Nưr được làm Đặc ủy trưởng, Y Dhé chửi thậm tệ:
- Paul Nưr bị bọn người Kinh lấy tiền bịt mắt rồi. Hắn phản bội dân tộc, thích ăn bơ thừa sữa cặn, quên đồng bào đang bị bọn thực dân Kinh chà đạp rồi. Hắn thích sống vinh thân phì gia…
Những lời chửi rủa ấy đến tai Paul Nưr. Ông chỉ cười nhạt, nhẫn nại chịu đựng và tìm cách “tấn công” lại Y Dhé. Tấn công trực diện bằng chánh trị, lẽ phải, tình cảm hay quân sự đều khó có thể thắng Y Dhé. Vì thời gian này, những cuộc tấn công của Quân giải phóng dồn dập ở Đắc Cơ, Tân Cảnh. Uy tín của Phong trào tự trị Tây Nguyên do Y Bih lãnh đạo lớn mạnh thu hút quần chúng toàn Cao Nguyên, Thiệu – Kỳ lúng túng, hoang mang, cần cầu cứu Y Bhăm. Y Bhăm càng lên mặt yêu sách Thiệu – Kỳ nhiều. Y Dhé cũng tỏ ra bướng bỉnh và “kiên quyết giữ vững lập trường tranh đấu”…Paul Nưr phải tấn công bằng mặt trận khác hiệu nghiệm hơn: Tấn công bằng kinh tế.
Những bữa tiệc chiêu đãi Ban đại diện FULRO diễn ra liên miên ngày đêm. Rượu thịt ê hề. Các vị đại diện say lúy túy. Những tặng vật quý như ngà voi, ché thần, ra-đi-ô, ghi âm; những món tiền lớn “tặng ngầm” ông Trưởng ban đại diện…thế là, như có phép thần, Y Dhé từ chỗ coi Paul Nưr là tên “bán rẻ dân tộc”, “ôm đít thực dân Kinh”, là “kẻ thù không đội trời chung, thuộc chiến tuyến đối lập, mục tiêu đả kích” nay thành “thân thiện, chí tình”.
Được Y Dhé ủng hộ, lễ ra mắt Phủ Đặc ủy và ông Đặc ủy trưởng được tổ chức long trọng tại Buôn Mê Thuột.
Trong tiếng cồng, tiếng chiêng xầm xập của ban nhạc Chinh, tiếng reo vui của các công chức là binh lính, trong bộ quần áo là thẳng tắp, từ trên lễ đài, Paul Nưr quay về phía Y Dhé và các đại biểu Ban đại diện FULRO, trịnh trọng nói:
- Anh em đã rõ, tôi đã từng ở bên cạnh anh em trong thời gian tranh đấu chống chế độ Ngô Đình Diệm; và sau này, trong các cuộc tranh đấu ôn hòa, tôi cũng vẫn là người đi tiên phong trình bày nguyện vọng của đồng bào Thượng với chánh phủ. Anh em hẳn rõ, cuộc đấu tranh của chúng ta ngày nay được thỏa mãn. Chánh phủ cũng như đồng bào rất trông đợi ở anh em trở về chung sức diệt Cộng và xây dựng xã hội mới.
Nhân danh Đặc ủy trưởng Thượng vụ, tôi tha thiết mời gọi anh em về hợp tác. Tôi xin đảm bảo cho anh em trước quân dân và Chánh phủ danh dự của anh em sẽ không bị tổn thương và tài năng sẽ được sử dụng đúng mức…
Paul Nưr ngửng cao mặt, nói lớn:
- Hãy xóa bỏ mọi tị hiềm nhỏ nhặt giữa đồng bào Kinh – Thượng, gột rửa tự ti mặc cảm để cùng nhau bắt tay vào công việc xây dựng một đời sống mới trong xã hội mới!
Paul Nưr nói xong, tươi cười bước xuống. Y Dhé đĩnh đạc bước lên lễ đài, đọc diễn văn đáp từ. Mái tóc trắng xóa, cặp kính lấp lánh dưới ánh nắng chang chang, ông nói dài và nhấn mạnh những câu kêu gọi và tri âm:
- Với đường lối đoàn kết dân tộc thật sự, Chánh phủ đã nâng Nha Đặc trách Thượng vụ thành Phủ Đặc trách Thượng vụ và đã cử ông Paul Nưr làm Đặc ủy trưởng để điều hành cơ quan này. Đồng bào Thượng chúng tôi đều vui mừng, hoàn toàn ủng hộ vô điều kiện và đa tạ Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa.
Y Dhé ngừng lại, tự vỗ tay rồi quay sang phía Paul Nưr:
- Chúng tôi rất vui mừng khi Chánh phủ Việt Nam tự do đã quyết định cho thành lập Phủ Đặc ủy Thượng vụ và đề cử ông là người đã từng tranh đấu và hy sinh cho đồng bào Thượng, giữ chức vụ Đặc ủy trưởng. Chúng tôi rất hân hạnh sẽ được trở về sớm để giúp đỡ ông trong công cuộc giải cứu đồng bào chúng ta ra khỏi ách thống trị của Cộng sản và để hợp tác cùng nhau trong công cuộc cải tiến cuộc sống của đồng bào sớm tiến tới mực sống mong muốn.
*
* *
Nam Vang, một ngày tháng 8 năm 1966.
Huỳnh Ngọc Sắng cầm một băng cát-sét lắp vào chiếc máy Sô-ny rồi ngước lên nhìn Les Kossem:
- Đây là lời tuyên bố của Y Dhé, chúng tôi thâu được, xin mở để ngài nghe!
Sắng bấm nút. Tiếng nói từ máy phát ra: “Trong tinh thần đoàn kết dân tộc và chống Cộng, Chánh phủ Việt Nam tỏ ra nhiều thiện chí để cứu xét những điều thỉnh nguyện của đồng bào Thượng. Những điều thỉnh nguyện đã được thỏa mãn, các anh em FULRO sẽ bắt đầu trở về hợp tác ngay từ hôm nay. Tôi xin thay mặt toàn thể đồng bào Thượng và ông Y Bhăm, ghi ân Chánh phủ, kêu gọi đồng bào hãy hưởng ứng nồng nhiệt; và kể từ nay, xin đồng bào hãy cố gắng phát triển tinh thần đoàn kết dân tộc, siết chặt hàng ngũ sau lưng Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa."
Sắng tắt máy, nói:
- Đó, ngày 20-8 vừa qua, Y Dhé đã tuyên bố như thế. Có nghĩa là Y Bhăm đã quyết định lần lượt trở về. Xin báo để ngài rõ.
Les Kossem bực tức, thở nặng nhọc:
- Thế nghĩa là bao công lao của chúng ta nuôi dưỡng chúng, bảo trợ cho chúng từng hạt gạo, từng khẩu súng, viên đạn để chúng sống và tồn tại cho đến ngày nay, giờ thành con số không? Phải ngăn chặn chúng lại, nếu không ta sẽ mất hết! Người Pháp sẽ khiển trách chúng ta. Quốc trưởng sẽ trị chúng ta! Gần 2 năm trời cung cấp vũ khí, đạn dược nay chúng bỏ về thì Cao Nguyên không còn hy vọng gì về tay chúng ta nữa!
- Tôi thấy, phải bắt Y Bhăm trao Cao Nguyên cho chúng ta – Y Năm thưa. - Phải! Phải thế!
Kế hoạch của Les Kossem là ra lệnh cho Y Năm chỉ huy số FULRO đã ly khai khỏi Y Bhăm tấn công hậu cứ. Một trung đoàn quân Hoàng gia Miên được điều tới yểm trợ thêm. Số FULRO thuộc phe “Quân sự” còn ở hậu cứ cũng sẽ nổi lên…
Các lực lượng triển khai khẩn trương. Huỳnh Ngọc Sắng trở về hậu cứ bí mật chuẩn bị, chờ đợi.
Ngày 20-9 đã đến. Tại hậu cứ, Y Bhăm ra chỉ thị tổ chức thật trọng thể lễ kỷ niệm lần thứ hai ngày thành lập FULRO. Bà Kossem chuẩn bị các loại rượu ngon. Những ché rượu cần được gùi từ Cao Nguyên sang. Bò thì mua của đồng bào Khơ-me. Gạo do đồng bào trong nước ủng hộ, chở từ Ban đại diện về.
Trưởng ban tuyên huấn FULRO được giao viết cho ngài Chủ tịch một bài diễn văn dài, lời lẽ hùng hồn, nói lên “lịch sử tranh đấu cực kỳ anh dũng và tinh thần đoàn kết keo sơn của FULRO”; khẳng định “thắng lợi rực rỡ, địa vị cao của FULRO ở trong nước và trên trường quốc tế”; khẳng định “tinh thần tự lực cánh sinh và độc lập tự chủ của FULRO”; khẳng định “tương lai huy hoàng đang chờ đón FULRO”.Bài diễn văn cũng khẳng định nguyên nhân thắng lợi là nhờ “đường lối cách mạng sáng suốt, tinh thần vì dân tộc và lập trường cách mạng vững vàng của vị chủ tịch Y Bhăm vĩ đại”.
Châu Đêra và Les Kossem tới dự.
Ngài chủ tịch Y Bhăm đã cất cao giọng, đọc sang sảng trọn bài diễn văn trước hơn 5000 đoàn viên FULRO và thân nhân trong cuộc mít tinh buổi chiều.
Như thường lệ, tối hôm ấy, ngài Chủ tịch mở tiệc chiêu đãi.
Đại biểu “Hội đồng tối cao”, “Hội đồng bảo trợ” và “Ban chấp hành Trung ương” FULRO đều có mặt đông đủ.
Rượu đến độ say, nhiều vị gục xuống bàn, có người bỏ về. Không khí ồn ã, nhốn nháo, rối ren bắt đầu.
Y Bhăm vốn là tay bợm rượu, nốc hết cốc này đến cốc khác, đang lè nhè nói thì bỗng nhiên Châu Đêra tay phải rút ngay khẩu súng Brô-ning trong túi áo ra chĩa vào ngực Y Bhăm, tay trái cầm bản giấy bàn giao đã đánh máy sẵn đặt lên bàn.
- Ông phải ký giấy này giao đất từ sông Sê-rê-pốk đến PleiKu cho Mặt trận Khơ-me và Chàm!...Ông đã đầu hàng ngụy quyền Việt Nam, ông không còn đủ tư cách lãnh đạo cách mạng nữa!
Đang chập chờn trong cơn say, thấy mũi súng lạnh ngắt gí vào ngực mình, trên mặt bàn trước mặt, một tờ giấy có chữ đánh máy sẵn trắng mờ, Y Bhăm hoảng hốt, run như cầy sấy, ú ớ như kẻ mất hồn.
Cứ trông cái vẻ sợ hãi ấy của ngài chủ tịch, ai cũng tưởng là số phận Tây Nguyên sắp đổi thay đến nơi trên bàn tiệc! Không dè thần Yang còn phù trợ cho Y Bhăm. Tất cả đều nhờ người con rể của ông. Vốn cảnh giác với Les Kossem từ trước, Y Em đã đề phòng, liền chỉ huy trung đoàn bảo vệ an ninh hậu cứ chia thành hai cánh, một chặn quân Miên, một cách xông đến chĩa súng lăm lăm vào Châu Đêra, Les Kossem và các đại biểu.
Y Em hô lớn:
- Tất cả ngồi im! Ai nhúc nhích sẽ bị bắn!
Huỳnh Ngọc Sắng thấy kế hoạch bị vỡ, trung đoàn quân đội Hoàng gia Miên chưa lọt vào được, liền nhanh trí chạy đến bên Châu Đêra can:
- Cùng là những nhà lãnh đạo một mặt trận thống nhất FULRO, dù là Khơ-me, Thượng hay Chàm cũng là một nhà! Mong nhị vị Chủ tịch bớt nóng nảy, không nên đối xử với nhau như thế.
Les Kossem cũng nhanh tay vơ tờ giấy, đón khẩu súng trong tay Châu Đêra, giấu vào túi, cười xòa:
- Hai vị say rượu rồi! Trời ơi! Đùa gì mà dữ vậy! Thôi xin hai vị, nào, bắt tay dàn hòa nào!
Y Bhăm biết là Châu Đêra và Les Kossem định lật mình nhưng nếu làm căng thì cũng sẽ bất lợi cho bản thân trong việc trở về hợp tác, liền vờ tin như là Châu Đêra đùa thật, ra lệnh cho Y Em Niê rút quân.
Sau lần chết hụt với bàn tay Căm-bốt và Pháp ấy, Y Bhăm muốn về lắm rồi nhưng còn làm cao, yêu sách Thiệu phải cho thêm nhiều quyền lợi và địa vị.
Nguyễn Văn Thiệu bị Đại sứ Mỹ ép, nhưng trong bụng vẫn chẳng muốn kéo bọn Y Bhăm về, sợ chỉ thêm chia rẽ, phá rối. Nhân cơ hội Y Bhăm yêu sách này khác, Nguyễn Cao Kỳ cử Paul Nưr và Vĩnh Lộc hòa đàm với Y Bhăm.
“Y Dhé nói nhiều còn Y Bhăm làm ít”, đó là sách ngoại giao vòi vĩnh của FULRO với Mỹ - Thiệu.
“Paul Nưr nói nhiều, Nguyễn Văn Thiệu làm ít”, đó là sách ngoại giao “miệng gọi, tay đẩy” của Thiệu đối với FULRO.
Ký giả Mỹ Mores, nguyên là đại úy “Lực lượng đặc biệt Mỹ”, người từng tham gia chỉ huy cuộc nổi loạn ở Sarpa, đã có một sự so sánh tuy chưa thật đúng về bản chất, nhưng cũng gợi lên được một hình ảnh hao hao và buồn cười. Mores cho rằng “Người Mỹ như một ông chồng, Thiệu và Y Bhăm như hai người vợ cả, vợ hai. Ông chồng muốn hai vợ đoàn tụ, nhưng hai người không chịu, chỉ thích ở riêng và ai cũng muốn được chồng yêu nhiều hơn. Ai cũng lên nước và tìm cách nói xấu, làm hại người kia, tự đề cao mình trước mặt chồng”.
PHẦN THỨ HAI: VỀ HỢP TÁC
9. MỘT CUỘC HỘI ĐÀM
Mặt trận Giải phóng miền Nam và Phong trào tự trị Tây Nguyên càng lớn mạnh. Quân giải phóng tấn công dồn dập ở Tây Nguyên. Bây giờ thì không phải chỉ có Mỹ mà Thiệu cũng thấy đã đến nước phải tận dụng lực lượng FULRO để chống Cách mạng, giữ thế đứng ở Tây Nguyên.
Nguyễn Văn Thiệu phải giải quyết hàng loạt vấn đề nhằm xoa dịu Y Bhăm. Thiệu lên tận Buôn Mê Thuột ký liền hai sắc lệnh 033-67 ban hành quy chế riêng biệt cho đồng bào thiểu số và 034-67 công nhận quyền sở hữu đất đai của đồng bào Thượng.
Thiệu cho 4 thành viên FULRO đã về đầu hàng ứng cử dân biểu hạ nghị viện quốc hội nhiệm kỳ 3: bố trí cho hai tên Y Wich, nguyên Tổng ủy viên Y tế FULRO và Ksor Rơt được đắc cử.
Thiệu – Kỳ còn tổ chức Đại hội các sắc tộc thiểu số miền Nam Việt Nam tại PleiKu và thân chinh đến dự. Nhưng người Mỹ không muốn cho Thiệu dễ dàng nuốt chửng Tây Nguyên. Trái hẳn thế.
Y Bhăm được Mỹ bày cách liền cử hàng loạt phái đoàn hòa đàm với Chánh phủ Thiệu, đưa ra nhiều yêu sách đòi chỗ đứng và quyền vị.
Sau tết Mậu Thân, nhận ra tình cảnh nguy hiểm chung cho cả hai bên trước sự lớn mạnh của Mặt trận giải phóng, các cuộc thương thuyết càng dồn dập và khẩn trương. Hàng loạt phái đoàn FULRO về Buôn Mê Thuột. Hàng loạt phái đoàn của Thiệu đến thủ phủ Cao Nguyên. Bí mật có, công khai có.
Bàn cãi, tranh luận mãi, cuối cùng chúng đã xích lại gần nhau hơn. Cho đến đầu tháng 8 năm 1968, một phái đoàn cao cấp FULRO gồm 28 người do Y Bhăm dẫn đầu, về Buôn Mê Thuột hòa đàm với phái đoàn Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa do Paul Nưr cầm đầu. Hai vị Chủ tịch và Phó chủ tịch BaJaRaKa ngày nào lại gặp nhau.
Cả hai phái đoàn đều có những nhân vật kỳ cựu.
Phái đoàn FULRO gồm đại biểu cao cấp của ba mặt trận. Mặt trận Cao Nguyên có chủ tịch Y Bhăm, Trưởng ban đại diện Y Dhé, Tổng ủy viên ngoại giao Y Prếh và Ksor Đuôt, Kpă Dơh, Y Tôn…Mặt trận Chàm có Tư lệnh quân khu 3 Thiên Sanh Thì, Tổng ủy viên Nội vụ Huỳnh Ngọc Sắng, Ủy viên báo chí Zu Sol…Mặt trận Khơ-me Hạ có Thạch Thân Apol, Chay Rithi, Saphol, Châu Chen, Châu Phước…
Phái đoàn Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa, người Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc Paul Nưr, Tổng thư ký Y Chôn, còn có Phụ tá đặc biệt sắc tộc Thượng Ya ba, Phụ tá đặc biệt sắc tộc Chàm Châu Văn Mổ, Giám đốc Nha xây dựng sơn thôn Nay Loét, Bí thư tổng trưởng Nguyễn Hữu Oanh…Họ gặp nhau tỏ ra rất thân tình. Tổng trưởng Paul Nưr, có trung sĩ cận vệ Tung đi theo, chạy ào đến ôm hôn Chủ tịch Y Bhăm đang đứng bên cạnh sĩ quan cận vệ Y Pach.
Phái đoàn FULRO lần này về mặc thật là oai vệ. Tất cả đều mặc quân phục của quân đội Hoàng gia Miên, có cắt xén cho khác chút ít, đeo quân hàm FULRO sáng loáng. Y Bhăm đeo hàm trung tướng. Y Dhé, Kpă Dơh, Y Prếh đeo hàm đại tá…Sau phát biểu khai mạc của Paul Nưr, Y Bhăm đọc diễn văn xin Chánh phủ thỏa mãn những nguyện vọng của FULRO. Về chánh trị, Y Bhăm yêu cầu có một hiệu kỳ tượng trưng cho sự hiện diện của người thiểu số treo cùng một cột và dưới quốc kỳ. Về hành chánh, yêu cầu cho thành lập một “Tổng ủy thiểu số” có quyền hạn riêng, không trực thuộc Bộ phát triển sắc tộc, đặt tại Buôn Mê Thuột – trung tâm Cao Nguyên. Về quân sự, yêu cầu có một lực lượng riêng biệt đặt dưới sự chỉ huy của Tổng ủy thiểu số chứ không thuộc Bộ quốc phòng.
Cuộc họp kéo dài một tuần nhưng không kết quả. Paul Nưr báo cáo và xin chỉ thị Nguyễn Văn Thiệu. Thấy “thằng già Thượng” vẫn tỏ ra ương ngạnh, yêu cầu quá đáng, Thiệu liền tìm cách đánh đòn. Tổng thống liền mời Y Bhăm về Sài Gòn để viếng thăm thủ đô và gặp Tổng thống. Thật sự là bí mật đàm phán.
Để chớp thời cơ liên lạc với đại sứ Mỹ, Y Bhăm chọn thêm Y Bling, Y Dhé, Y Bách, Huỳnh Ngọc Sắng cùng đi. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tiếp Y Bhăm rất long trọng tại dinh Độc Lập. Một đoàn xe bóng loáng, có cảnh sát hộ tống chở phái đoàn cao cấp FULRO đi tham quan một số nơi. Y Bhăm không quên cho người bí mật gặp hỏi ý kiến các cố vấn Mỹ. Được họ cho ý kiến, Y Bhăm nhận hạ thấp yêu sách và sẽ về hợp tác. Sau đó, Y Bhăm cử Huỳnh Ngọc Sắng ở lại cùng Y Dhé hoàn chỉnh các văn bản về điều kiện hợp tác; đúc kết bản thỉnh nguyện cuối cùng gửi Tổng thống Thiệu. Còn ông cùng phái đoàn về hậu cứ, chuẩn bị dẫn toàn bộ FULRO trở về.
Được Y Bhăm cử ở lại, Huỳnh Ngọc Sắng nghĩ ngay đến việc lợi dụng thời cơ này, tìm thêm người cho Mặt trận Chàm của Les Kossem, chuẩn bị thay thế lực lượng của Y Bhăm ở Căm bốt. Sắng sẽ vươn lên nắm vững vai trò quan trọng mới khi được Les Kossem tin cậy. Nhân lúc Thiệu đang ve vãn, Sắng nói là xa nhà đã hai năm, cần xin về thăm quê hương. Người ta thấy Sắng đi các ấp ở hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Lúc thì thăm Phan Rang, Phan Ri – những kinh đô cuối cùng của vương quốc Champa; lúc thì thăm suối Vĩnh Hảo, nơi công chúa Huyền Trên thường tắm; lúc thì thăm trường Trung học An Phước, nơi dành riêng cho con em Chàm học, gặp các giáo viên, học sinh Chàm, chuyện trò thân mật về FULRO. Nhưng tất cả những việc chánh trị ấy là để làm tiền đề cho việc quan trọng hơn là tìm đến nhà Trúc ở cùng ấp Mỹ Nghiệp.
Từ lâu, khi còn lang thang ở quê, Sắng vốn đã say cô gái duyên dáng, có giọng hát mê ly này. Mặc dầu biết Trúc đã đính ước với Giáo và chỉ còn đợi ngày Giáo về đón sang Căm-bốt, Sắng vẫn nhiều lần làm thơ tỏ tình liều với cô. Có lần, Sắng đột ngột chặn ngay Trúc giữa đường, nhét bài thơ vào tay cô. Nhưng khi đó, Sắng làm sao cho địch được với Giáo – một trong hai học sinh nổi tiếng, học giỏi nhất vùng Chàm. Hơn nữa những chuyện lăng nhăng của Sắng với các cô Chiêm, Tím, Đựng, Lỡ và người vợ thầy Chang vẫn còn được nhắc lại đó đây… Trúc từ chối, trả lại những bài thơ và bức thư cho Sắng.
Những năm tháng lẩn tránh dư luận ở Cao Nguyên rồi Căm-bốt, Sắng quên hết những cô Lớ, cô Đựng v.v...nhưng vẫn không quên được Trúc, cô gái cùng quê, có giọng hát tuyệt vời đã một thời làm mình say đắm.
Năm 1966, khi về đưa Giáo đi, Sắng lại tìm cách làm thân với Trúc, cố thanh minh những chuyện xấu xa của minh mong xóa dần ác cảm.
Lần này, trở về quê hương, đường đường là một Tổng ủy viên Nội vụ FULRO, đang được Tổng thống Thiệu tâng bốc, Sắng vênh vang, tin chắc rằng với vầng hào quang mờ ảo quanh mình, với tài thuyết phục phái nữ của mình, sẽ nhanh chống làm cho Trúc choáng ngợp.
Thế là ông Tổng ủy viên Nội vụ FULRO dồn hết trí tuệ, tài năng làm một cuộc “đảo chánh tâm lý” ông Đệ nhất bí thư Phủ Chủ tịch để chiếm lấy người tình.
Biết cô gái trẻ lãng mạn, Sắng làm những bài thơ tình lả lướt dưới bút danh Chiêm Nhân . … “Trời buồn trời đổ cơn mưa.
Đất buồn, đất chỉ trơ trơ mặt lỳ.
Mây buồn mượn gió đưa về.
Gió buồn gió ngủ trên đê sông làng.
Mưa buồn góp hạt về ngàn.
Sương buồn sương đẫm rừng hoang lạnh đầy…”
Những vần thơ lâm ly ấy thế mà cứ như dòng nước mát thấm dần vào Trúc. Thêm vào đó, Sắng là một người có biệt tài thuyết phục. Giọng nói của Sắng trầm trầm, chậm rãi, lời của Sắng văn hoa, chải chuốt càng làm cho Trúc vừa thấy thương hại, vừa thấy thán phục. Lạ lùng thay, như có phép thần, quá khứ xấu xa, đê tiện của tên ma chài dần dần được xóa đi, cuối cùng chỉ còn đọng lại trong óc cô hình ảnh một chí sĩ giàu tình cảm, tài hoa và đầy nghĩa khí.
Sắng rủ Trúc đi Căm-bốt.
- Em hãy đi theo anh, ở đó, anh sẽ dành cho em cả một phương trời đầy mây hồng.
Trúc hiếu kỳ, muốn biết đất nước xa lạ, nhất là muốn biết anh em Chàm ở hậu cứ sống như thế nào…
Thuận Thị Trúc cùng Sắng lên Buôn Mê Thuột. Họ vào trụ sở Ban đại diện FULRO. Y Dhé vồn vã đón Trúc. Sắng tươi cười nói với ông Trưởng ban và các chiến hữu:
- Cô Trúc rất thiết tha với sự nghiệp giải phóng dân tộc của FULRO chúng ta, tình nguyện sang hậu cứ, hiến dâng cuộc đời mình cho lý tưởng cách mạng.
Y Dhé mỉm cười hóm hỉnh, bắt tay Trúc và hết lời ca ngợi một nữ thanh niên Chàm biết chọn con đường cao đẹp cho tương lai của mình.
Khi Sắng dẫn người “nữ chiến sĩ” FULRO mới đi thăm châu thành Buôn Mê Thuột, ở nhà, ông Trưởng ban đại diện nói với các chiến hữu:
- Thằng Chàm bẻm mép đã cuỗm được một con bé trẻ trung và duyên dáng. Bợm thật!
Mấy hôm sau, một máy bay trực thăng của lực lượng đặc biệt Mỹ đưa hai người sang hậu cứ gặp Y Bhăm.
Huỳnh Ngọc Sắng báo cáo về bản thỉnh nguyện cuối cùng của FULRO gởi Thiệu. Còn Trúc thì được bổ sung vào Đoàn văn công FULRO. Cô trở thành một diễn viên xuất sắc của Đoàn, làm cho tên Biếng và vợ là Đàng Thị Triệu – hai cựu diễn viên trong Đoàn phải ghen tức, Triệu vẫn coi mình là một danh ca, tự đặt tên là Ha Natrì, đến nay phải mờ đi trước giọng hát của Trúc.
Một điểm làm cho Trúc bối rối và khó xử là Đàng Năng Giáo đang ở đây. Giáo ở trong một nhà sàn nhỏ, cạnh nhà của Y Bhăm và Thiên Sanh Thi.
Giáo đã biết về mối quan hệ của Trúc với Sắng nên cố ý tránh mặt. Giáo buồn và đau xót. Để quên người tình, vị Bí thư lao vào đọc sách. Sách về lịch sử Champa và cả về chủ nghĩa Mác. Tìm hiểu chủ nghĩa Cộng sản để làm cố vấn cho Les Kossem và Y Bhăm chống Cộng và để học cách viết các văn bản, tuyên ngôn cho FULRO. Giáo tỏ ra có đầu óc, có lý luận nên được Les Kossem tin cậy.
Sự hăm hở bước đầu của Trúc dần dần tiêu tan. Hằng ngày cô được chứng kiến những cảnh lục đục của các nhà lãnh đạo FULRO. Y Bhăm coi Thiên Sanh Thi, Đàng Năng Giáo, Huỳnh Ngọc Sắng…là những kẻ đối lập nguy hiểm.
Thiên Sanh Thi là đại tá tư lệnh khu 3 mà học lực chỉ đủ biết ký một chữ; lại vũ phu, suốt ngày đánh chửi vợ là Mari Dàng, vì vợ y không sinh nở, ngày càng già xấu đi:
- Con khọm quê kệch kia, mày đi tìm vợ bé cho ông, ông cần đứa con nối nghiệp!
Trúc lại càng tức và ngứa mắt với Triệu. Triệu cứ dề mỏ ra chế giễu mối tình của cô với Giáo và Sắng; nói cạnh nói khóe cô là “thay người yêu như thay váy”. Để trả thù, cô tìm thấy một thói kệch cỡm của Triệu. Triệu không thích mặc váy Chàm dài mà thích mặc váy ngắn kiểu Âu. Một hôm Trúc hỏi Triệu:
- Sao mày thích diện mi-ni-díp hả?
Triệu vênh vênh tự hào:
- Tao sắp được ông Kossem cho sang Pháp học, mặc cho quen mắt dần đi là vừa. Vả lại, giò tao đẹp, cũng phải cho thiên hạ ngắm chứ!
Từ đó, Trúc thường lấy chuyện đó ra chế giễu Triệu trước chị em FULRO.
Những ngày sau, Trúc, Triệu được lệnh hát những bài ca của FULRO, những bài ca Chàm ai oán, than khóc cho đất nước, cho thân phận của người Chàm. Huỳnh Ngọc Sắng cùng Ban tuyên huấn FULRO ghi vào băng cát-sét gởi về nước để khích lệ đồng bào.
10. ĐẠI LỄ HỢP TÁC
Có lệnh gọi Huỳnh Ngọc Sắng, Đàng Năng Giáo và Thiên Sanh Thi về Môn-đun-ki-ri họp với Y Bun Sor.
Chiếc xe jeep bám đầy bụi đất đỏ, lao vun vút trên con đường rừng, ngoặt vào thành phố, dừng xịch trước dinh tỉnh trưởng.
Từ trong ngôi nhà ba tầng đồ sộ, quét vôi màu xanh, cửa kính lấp lánh, Y Bun Sor vén rèm nhìn, rồi lững thững ra cửa. Bộ com-lê téc-gan Anh màu xanh nhạt ôm sát người, ca-vát đỏ tươi, mũ dạ đen chụp trên đầu, kính trắng lấp lánh, mặt đen xạm, chiếc đồng hồ Ô-mê-ga vàng lộ ra dưới cổ tay áo trắng toát, cài măng sét.
Y Bun tươi cười bắt tay ba người.
Đàng Năng Giáo lạnh lùng:
- Chào ngài thiếu tá tỉnh trưởng! – Giáo nhấn mạnh tiếng thiếu tá, tỏ vẻ coi thường một tên có cấp bậc xoàng.
Y Bun hiểu, cười nhạt làm ngơ, đưa ba người vào dinh. Khi sang Pháp học, nhờ Les Kossem, Y Bun đỗ bằng tiến sĩ xã hội tại trường đại học Xoóc-bon. Trở về tuy là người Thượng, đoàn viên mặt trận Cao Nguyên nhưng Y Bun tỏ ra trung thành với Les Kossem và người Pháp. Trong thời gian đi học, y đã lấy một người vợ đầm và tỏ ra yêu mến xứ vợ.
Cần có con bài để nhử Y Bhăm như đã bàn trước kia, Les Kossem giới thiệu Y Bun với Lon-non. Vốn là một tên Hoa kiều làm nên sự nghiệp ở Căm-bốt, Lon non rất thích thâu dụng những người nước ngoài theo Căm-bốt. Lúc này, Lon non đang chuẩn bị lực lượng lật Xi-ha-núc, vì vậy y đã nhận Y Bun Sor làm con nuôi, phong cấp thiếu tá và cử làm tỉnh trưởng Môn-đun-ki
ri, nơi có hậu cứ Cample Rolland, để trợ lực cho Les Kossem nắm Y Bhăm và các đoàn viên FULRO người Thượng.
Ở Đắc Lắc, biết tin chồng đã làm tỉnh trưởng và lấy vợ đầm, H'Kruk – vợ Y Bun – viết thư sang báo cho y biết chị ta sẽ đi lấy chồng. Y Bun phải về đón ba đứa con, nếu không chị sẽ gửi chúng vào cô nhi viện.
Sợ người vợ đầm, Y Bun dứt tình cha con, nhắm mắt cho chúng vào nơi đầy ải.
“Một tên Thượng gian ngoan, tàn ác. Giáo và một số đoàn viên khác thường chửi ngầm Y Bun như thế.
Ông tỉnh trưởng đón ba người vào một phòng riêng sang trọng, bóng loáng bàn, ghế xa lông, lung linh những chùm đèn, những tranh và đầy đồ cổ.
Họ ngồi một lúc thì Les Kossem từ Nam Vang tới.
Sau những lời hỏi thăm thường lệ, họ bắt đầu họp bàn.
Les Kossem hất hàm hỏi Sắng:
- Ông vừa ở Sài Gòn về, hãy cho biết tình hình bọn Thiệu và Y Bhăm? Sắng mở cặp, chậm rãi:
- Bản thỉnh nguyện cuối cùng đã được thảo xong gửi Nguyễn Văn Thiệu. Y Bhăm sẽ về Việt Nam và được phong cấp trung tướng. Các sĩ quan FULRO sẽ được phiên chế sang quân lực Việt Nam Cộng hòa, giữ nguyên cấp bậc. Y Bhăm đang chuẩn bị kéo toàn bộ FULRO trở về.
Thiên Sanh Thi nói oang oang:
- Thằng già ấy về sẽ trở mặt, tìm cách trả thù người Chàm ta.
Les Kossem quay sang Y Bun Sor:
- Tình thế gấp lắm rồi, chúng ta phải ra tay ngay! Ông hãy huy động toàn bộ quân lực trong tỉnh, bao vây hậu cứ Bốt Chá. Ông Thiên Sanh Thi nổi dậy bên trong. Ông Giáo chỉ huy việc bắt Y Bhăm. Thế nào cũng có đứa thoát về Việt Nam. Ông Sắng chưa lộ, còn được chúng tin cậy, hãy theo chúng về Việt Nam hoạt động lâu dài trong bọn Thiệu và Thượng!
Kế hoạch đã được vạch kỹ. Mọi người về chuẩn bị.
Ngày 30-12-1968, Y Bhăm cùng vợ con gói ghém kim cương, vàng, cho vào va-li, chờ sẵn ở sân bay dã chiến để máy bay trực thăng của Thiệu đến đón.
Ngay lúc đó, hai trung đoàn quân lực Hoàng gia Khơ-me, do tỉnh trưởng Y Bun Sor điều động đã bao vây phong tỏa toàn bộ hậu cứ.
Đàng Năng Giáo, Y Bhăn, Y Năm, Ksor Đuốt, Kpà Dơh, Kpă Blan chỉ huy nhóm FULRO Thượng ập đến bắt Y Bhăm điệu về Nam Vang. Y Em với cả một trung đoàn bảo vệ hậu cứ, vẫn không kịp trở tay, chỉ còn lo sao chạy thoát.
Thế là cái mảng FULRO Thượng lưu vong bị cái mảng FULRO Chàm làm cho tan tác. Nhưng một số vẫn vượt được vòng vây chạy thoát về Việt Nam. Trong đó có Huỳnh Ngọc Sắng.
Chiều hôm đó, Les Kossem từ Nam Vang đáp phi cơ đi Môn-đun-ki-ri, triệu tập tức khắc toàn bộ FULRO tại trung tâm huấn luyện (cách tỉnh lỵ Môn-đun-ki-ri 16 cây số) để trấn an tinh thần.
Ngày hôm sau, Les Kossem lại triệu tập đại biểu về Nam Vang họp bàn việc lập nội các mới và cử phái đoàn chuẩn bị đi dự hội nghị Pa-ri.
Các đại biểu về họp ở tư nhất của Les Kossem – 387/10 đường Mô-ni-vông.
Les Kossem thành lập chính phủ FULRO mới lấy tên là: “Hội đồng Nội các lâm thời FULRO” thiên hẳn về người Chàm, gồm có:
Chủ tịch: Yang Neh (Đàng Năng Giáo).
Phụ tá: Soley Man (Thiên Sanh Thi).
Tham mưu trưởng: Đại tá Y Phan.
Tham mưu phó: Trung tá Y Năm.
“Hội đồng Nội các lâm thời FULRO” chỉ tồn tại được 20 ngày. Thấy Đàng Năng Giáo không đủ uy tín lãnh đạo các thành viên kỳ cựu, sừng sỏ, có quá trình hoạt động lâu dài, Les Kossem giải tán nội các này, thành lập luôn “Ủy ban chỉ đạo tối cao FULRO” do chính y làm chủ tịch.
Các phụ tá toàn là người Chàm:
Soley Man: Phụ tá đặc trách quân sự.
El Ibrahim: Phụ tá đặc trách hành chánh.
Môhamét: Phụ tá đặc trách tiếp vận.
Đồng thời, y cho ra đời “Mặt trận giải phóng Cao Nguyên và Bình Nguyên Champa” do Y Bhăn Kpơr chỉ huy để thay vào “Mặt trận Cao Nguyên” của Y Bhăm: Y Bhăn viết thư cho cố vấn Mỹ ở trại Buprang, giải thích vụ lật đổ Y Bhăm, xoa dịu và lôi kéo sự ủng hộ của người Mỹ, cái tên có khác nhưng nội dung Mặt trận giải phóng Cao Nguyên và Bình Nguyên Champa vẫn là thế. Y Bhăn Kpơr viết:
“Chúng tôi từ khước sự thương thuyết với Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa.
Chúng tôi xin lưu giữ người Mỹ và quân đội Mỹ lại tại Cao Nguyên để giúp đỡ chúng tôi trong cuộc cách mạng cho tới khi chúng tôi đạt được nguyện vọng tự do…”.
Mẻ lưới của Les Kossem ngày 30-12-1968 bắt gọn toàn bộ những người cầm đầu chủ yếu của cái quen được gọi là “FULRO Thượng” làm cho cái lễ đón FULRO về hợp tác mà Nguyễn Văn Thiệu tuyên truyền từ mấy tháng trước nay bỗng mất hết đối tượng. Thì giờ không cho phép người Mỹ tìm một con bài khả dĩ thay thế Y Bhăm.
Sáng ngày 1-2-1969, tại sân vận động trường Buôn Mê Thuột, ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn tổ chức ra được một cái lễ hết sức long trọng, rầm rộ gọi là lễ đón nhận toàn bộ FULRO trở về hợp tác thân thiện với Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa.
Một lễ đài đồ sộ được dựng lên. Những băng khẩu hiệu lớn đỏ chói, chữ vàng chăng kín quảng trường: “Tình đoàn kết Kinh Thượng đời đời bền vững”, “Hoan nghênh các chiến sĩ FULRO anh em trở về phụng sự Tổ quốc”…Cờ ba sọc vàng đen lẫn cờ FULRO xanh phất phơ trong bụi đỏ bay mù.
Ban nhạc Chinh với những chiếc cồng, chiếc chiêng to nhỏ khua vang. Những ché rượu cần xếp thành dãy dài. Một con trâu bị trói ghì lưng vào một cái cột giữa sân, đầu ngẩng lên, thở hổn hển, lúc lúc lại khua cặp sừng nhọn hoắt cong vút, vùng vằng định thoát khỏi mớ dây thừng bao quanh.
Hơn 5.000 đoàn viên FULRO cùng người nhà từ hậu cứ trở về xếp hàng thành từng khối trên sân, mặt hướng về lễ đài.
Trời nắng chang chang. Bụi đất đỏ bay mù mịt theo những đợt gió xoáy. Người nào người nấy mồ hôi nhễ nhại, mặt đen, bóng nhẫy như láng mỡ, cháy đen dưới ánh mặt trời gay gắt. Những bộ quần áo dày cộp như mo nang, bám đầy bụi đất và cáu ghét. Những dải khố viền tua đỏ bao chặt để lộ cặp đùi đen, gầy guộc như rễ cây.
Đám “nữ chiến sĩ” địu theo những đứa con ngặt ngoẹo sau lưng, gầy nhom, ốm nhách. Nhiều đứa bé không chịu được nắng khóc thét lên đòi nước, đòi về. Người mẹ nựng con, mếu máo như khóc.
Một tiếng hô dõng dạc cất lên. Ban nhạc Chinh xầm xập cử hành. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng tư lệnh vùng II chiến thuật Vĩnh Lộc, Tổng trưởng Phát triển sắc tộc Paul Nưr, Trưởng Ban đại diện FULRO Y Dhé, Tổng ủy viên Nội vụ Huỳnh Ngọc Sắng…cùng các đại biểu đĩnh đạc bước lên lễ đài trong tiếng chiêng xầm xập.
Paul Nưr đóng bộ quân phục là phẳng, thẳng đứng như một cái hộp, cúc đồng sáng loáng, ngực lấp lánh huân chương “Sắc tộc bội tinh”. Tất nhiên là ngài không thuyết phục được ai bằng những lời lẽ văn hoa mà bản thân ngài cũng không tin là chân thật. Ngài nhìn đám đông dưới kia, rồi cúi xuống đọc diễn văn khai mạc.
Biết vậy, nhưng ngài vẫn nói vì đây là dịp có một không hai để lấy lòng những người có quyền, củng cố địa vị cao sang hiện nay của ngài. Phần tâm huyết, phần quan trọng nhất của bài diễn văn, ngài dành để ca ngợi ngụy quyền Sài Gòn. Ngài nói:
- Sở dĩ có cuộc trở về của toàn bộ lực lượng FULRO hôm nay, chúng tôi xin ghi nhận công lao và thiện chí của Thiếu tướng tư lệnh quân đoàn II và vùng II chiến thuật. Thiếu tướng tỏ ra là người rất thiết tha với sự nâng đỡ đồng bào thiểu số, chính nhờ vậy mà tinh thần đoàn kết Kinh Thượng tại Cao Nguyên ngày thêm bền vững.
Vĩnh Lộc nghe Paul Nưr tâng bốc mình thấy khoái nhưng cũng ngượng. Các ký giả hôm đó, cho Paul nói xỏ Vĩnh Lộc. Vì từ 1964 đến giờ, Vĩnh Lộc chẳng đã huy động quân tiễu trừ thẳng tay FULRO, chẳng đã chửi FULRO thậm tệ là gì?
Tiếng chiêng xầm xập cử hành. Paul Nưr bước xuống, mặt mày rạng rỡ, hoan hỉ.
Người ta chờ đợi. Y Bhăm và những vị cầm đầu FULRO lưu vong đều đã bị bắt, còn ai xứng đáng đại diện nhỉ?
Bỗng Y Dhé bước ra trước máy. Lúc này ai nấy mới ngã ngửa ra! Người ta khéo xoay xở thật! Y Dhé chẳng là kẻ đã được Y Bhăm cử làm đại diện từ năm nảo năm nào là gì!
Y Dhé dành phần quan trọng của bài diễn văn để ca ngợi những kẻ cách đây không lâu, y còn coi là kẻ thù! Hơn thế, y hứa hẹn một sự trung thành hết mức:
- Sau khi được trở về hợp tác, chúng tôi nguyện sẽ đem hết khả năng để phục vụ đất nước và xứ sở, quyết tâm tôn trọng và bảo vệ hiến pháp, tuyệt đối trung thành với Chánh phủ, đoàn kết chặt chẽ Kinh Thượng để diệt Cộng sản.
Y còn thừa nhận một sự thật mà mãi về sau này những kẻ mưu toan dựng lại lá cờ FULRO dù muốn quên đi cũng không được. Với tư cách là Trưởng ban đại diện FULRO, Y Dhé long trọng tuyên bố:
- Kể từ ngày hôm nay, phong trào FULRO sẽ không còn tại Cao Nguyên! Mọi sự lạm dụng danh nghĩa FULRO để phá hoại tình đoàn kết Kinh Thượng sau này nếu có, kính xin Tổng thống và Thủ tướng Chánh phủ cho áp dụng những biện pháp theo luật lệ hiện hành!
Phía trước lễ đài, một đại đội FULRO xếp hàng thẳng tắp, quỳ trên đất đỏ, hai tay nâng ngang khẩu súng trước mặt như dâng nạp. Nguyễn Văn Thiệu từ trên lễ đài đi xuống, đến trước tên chỉ huy đại đội, đón khẩu súng, nâng trên tay rồi nói to:
- Tôi trao lại vũ khí này cho anh em để chiến thắng Cộng sản xâm lăng! Thiệu từ từ đặt khẩu súng trở lại tay tên đó rồi mới trở lên lễ đài đọc huấn thị. Tiếng cồng, tiếng chiêng ầm vang. Lễ cúng Yang và trao vòng kỷ niệm bắt đầu.
Một đoàn thanh niên Thượng trai tráng, mình trần, đóng khố, đầu tết vòng cỏ có cắm lông công, tay cầm những chiếc giáo dài, quay thành vòng tròn quanh con trâu. Một hồi trống dồn dập. Đám thanh niên múa giáo, giậm chân một hồi rồi đột nhiên, một người đâm ngọn giáo nhọn hoắt vào ngực trâu. Con trâu kêu lên một tiếng, máu ộc ra, giãy đành đạch trong tiếng rú của đám thanh niên. Đám đông reo hò ầm ĩ.
Các đoàn viên FULRO và dân chúng kéo đến các ché rượu, hút lấy hút để.
Ông Trưởng ban tuyên huấn FULRO tất tả, hết chỉ huy chương trình cho đoàn văn công FULRO biểu diễn lại chạy đến túm áo các ký giả, phân phát tài liệu, diễn văn, rồi kéo các nhà báo chụp ảnh cảnh Tổng thống thăm hỏi các đoàn viên FULRO.
Nguyễn Văn Thiệu đi trước, Paul Nưr đi theo thăm hỏi đồng bào, thân nhân FULRO vừa về. Thiệu cầm tay từng người tỏ ra ân cần.
Y Dhé bị đám ký giả vây quanh hỏi về sự thật của vụ Y Bhăm bị bắt giữ tại Căm-bốt. Ấp úng một lúc, ông Trưởng ban đại diện FULRO mới tìm ra câu trả lời khôn ngoan nhất:
- Cộng sản và đế quốc thực dân đã bắt mất vị chủ tịch của chúng tôi, đúng vậy, thưa quý vị!
11. PHONG TRÀO ĐOÀN KẾT
Bí thư Nguyễn Hữu Oanh dẫn Paul Nưr vào một buồng sâm sang trọng loại nhất của khách sạn Pa-lat. Một chiếc giường mô-đéc trải đệm dày. Bộ sa-lông bọc da có viền đăng ten trắng. Trên bàn, một lọ hoa lay-ơn Đà Lạt màu hồng nhạt. Ánh đèn ống xanh hòa với những cánh màn che màu tím. Máy điều hòa nhiệt độ chạy nhè nhẹ làm căn phòng lành lạnh như khí hậu ở Đà Lạt. Tiếng nhạc từ những chiếc loa chìm bay du dương. Trên tường ảnh con gái khỏa thân treo la liệt.
Ngài Tổng trưởng ngả mình trên ghế, mỉm cười nhìn ông Bí thư:
- Ông Oanh, hôm nay ông định đưa elle nào đến đây cho tôi đây! Có hấp dẫn không? Hữu Oanh tươi cười, đặt ly cà phê xuống bàn, nói nhanh:
- Thưa Tổng trưởng, ngài cứ tin ở tôi. Người bấy lâu nay làm ngài mất ăn mất ngủ sẽ đến chứ không ai khác!
Paul gật gù hài lòng. Nguyễn Hữu Oanh vốn là một tay chân đáng tin cậy trong khoa này.
Lên làm Tổng trưởng, trước khi chọn những người có đức, có tài, Paul Nưr nghĩ ngay đến một loạt chân tay đặc biệt. Vốn thích “của ngọt”, Paul Nưr tìm một tên ma mãnh, thông thuộc các “động” ăn chơi, để dùng.
Nguyễn Hữu Oanh, người Kinh, thông thuộc Sài Gòn như lòng bàn tay, đã từng làm ma cô chuyên dắt gái cho các cố vấn Mỹ, có kinh nghiệm nhận của đút lót và xoáy tiền công nên dễ được Paul chú ý.
Sau một vài lần dắt mối thành công, đưa đến cho thượng cấp những cô gái trẻ đẹp, Oanh được Paul tin, cử làm bí thư riêng, một địa vị xứng đáng, thuận tiện trong việc sai bảo lâu dài. Sau đó Paul bắt đầu “quảng cáo” Oanh với phụ tá tổng trưởng Y Chôn, Giám đốc Nha phát triển sơn thôn Nay Loét và các vị khác trong bộ là: “Oanh có đức độ, tài năng, có thể đảm nhận những công vụ lớn lao mà người khác khó bề làm nổi”.
Từ ngày làm Bí thư, Oanh càng đắc lực với Paul Nưr hơn nữa trong việc tìm kiếm “món lạ”, Paul càng thả cho Oanh thụt công quỹ và ăn cắp tài sản của Bộ nhiều hơn.
Từ chỗ dùng Oanh chuyên dắt gái, thụt quỹ công, Paul Nưr tin cậy sử dụng Oanh làm “thám tử” riêng, chuyên thăm dò những tên đối địch đã tìm cách bêu xấu và lật Paul như Y Chôn và Nay Loét…
Sau một thời gian tìm kiếm và được đút lót hậu hĩnh, gần đây, Oanh bố trí cho cô Phi vào làm nhân viên văn phòng. Cô Phi đẹp, lẳng lơ, đã từng làm ở sở Mỹ, cặp bồ với các cố vấn Mỹ, đã từng làm gái nhảy, biết đủ các mánh khóe ăn chơi, biết làm cao và thu hút các quan chức cỡ bự. Được Oanh bố trí, cô nhân viên mới tuyển này đã làm cho ngài Tổng trưởng mê mệt. Paul Nưr đâu có biết quá khứ của cô. Chỉ nghe Oanh nói cô là con nhà lành, một nữ sinh có học thức, đứng đắn và trinh tiết, Paul mê ngay.
Biết tính dâm đãng của chồng, Tổng trưởng phu nhân Siu-Hyum từ Công Tum lên Sài Gòn ở, đánh ghen ầm ĩ và tìm mọi cách giữ rịt chồng một chỗ.
Paul Nưr và Oanh cũng tìm mọi thủ đoạn đánh lừa, thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của Tổng trưởng phu nhân. Khi thì nói bận họp với cố vấn Mỹ, với Tổng thống, khi thì nói đi kinh lý…Paul Nưr vẫn đi lại được với các cô gái.
Lần này, lấy cớ đi họp nội các ở dinh Độc Lập, Paul Nưr được Oanh bố trí về đây và chờ cô Phi đến gặp.
Thấy Tổng trưởng xem đồng hồ có vẻ sốt ruột, Oanh vội thưa:
- Thưa Tổng trưởng, 20 phút nữa tên tài xế sẽ đưa con bé tới. Ngài cứ yên tâm.
- Được! Này, ê-kíp anh và Y Chôn làm ăn trong việc xây cư xá cho sinh viên sắc tộc thế nào rồi? Có khấm khá không?
Hữu Oánh buồn bã:
- Dạ, ông Y Chôn làm mạnh tay quá. Ông chỉ dành phần nhỏ đất để xây cư xá, còn bán cho bọn Tàu xây vi-la hết. Vôi, gạch, cát, ngói ông bán quá nửa. Thế mà ông chỉ chia cho ngài và tôi 3 triệu. Đó là chưa kể việc ông ta thông đồng với nhà thầu bớt tiên ăn, tiền may đồng phục của học sinh; tiền thuốc của nhân viên…Bọn sinh viên không có nhà ở, kéo nhau vào nằm tùm lum trong Bộ!
- Thằng đểu thật! Trước kia nó hứa sẽ chia phần cho ta một cách đứng đắn, sòng phẳng. Thế mà bây giờ nó lại làm ăn lật lọng, lem nhem thế! Ta trót nhận tiền chia của nó, khó nói quá. Anh điều tra thêm, ta sẽ trị nó sau. Lâu nay anh thấy thằng Nay Loét thế nào?
- Thằng Nay Loét tự hào là không ăn của đút, không xà xẻo của công nên tố tội Y Chôn và ta với bọn báo chí ghê lắm. Nó vừa tố ta ăn bớt tiền viện trợ của Mỹ và các nước cho đồng bào các
sắc tộc. Ngài không ra tay trị nó đi, rồi nó làm ngài mất uy tín với người Mỹ, với Tổng thống và đồng bào.
Paul Nưr cười:
- Lo gì, Tổng thống và các ngài bự hơn cũng thế cả. Tôi e nhất là thằng Nay Loét được tên cố vấn Thomas Busker đỡ đầu, lên mặt chống đối với ta. Tôi đã định trị nó nhiều lần nhưng thằng Busker bênh chằm chặp nên tôi chưa làm gì được. Nguy hiểm quá. Ta phải tìm cách đẩy hắn đi, không thể nuôi ong tay áo mãi thế này được!
Có tiếng chuông reo. Hữu Oanh mỉm cười đứng lên nháy mắt nói với Paul Nưr: - Con bé đã đến!...Tôi sẽ cho xe đón ngài vào lúc 10 giờ. Chúc ngài hạnh phúc!
Oanh mở cửa. Cô Phi với đôi môi đỏ tươi, mắt đánh đen quầng, lông mi đen, cong; mặc chiếc quần loe trắng bó sát lấy đùi, chiếc áo mút đỏ bó chặt căng để lộ bộ ngực đồ sộ, õng ẹo đi vào.
Nguyễn Hữu Oanh ý tứ đi ra…
10 giờ, Hữu Oanh đến, cho xe đón cô Phi về trước rồi mới đến bến Paul Nưr cười xun xoe:
- Ngài thấy câu chuyện của ta có kín đáo không? Thế này thì bà tổng trưởng có là thần Yang cũng không biết được!
- Khá lắm! Đợt này tôi sẽ cử anh làm chánh văn phòng thay tên Phiên. Có chuyện này cần nói với anh: Vừa qua, tôi đi kinh lý về quận Thuần Mẫn. Ở đó có con bé đánh máy tên là Liên khá xinh. Tôi ưng lắm. Tôi có hỏi tên Rcom Tút, Trưởng chi Phát triển sắc tộc về con bé. Rcom Tút hứa tháng tháng sẽ gửi con bé về đây cho tôi. Kỳ tới, anh lấy sự vụ lệnh làm phái viên của tôi về Thuần Mẫn đưa con bé về cho tôi. Làm cho kín đáo. Mấy tên ký giả bố láo đang nói Bộ ta là Bộ “phát triển sắc đẹp” đấy.
Hai người đi xe trở về Bộ. Sự việc tưởng như kín đáo, ai ngờ vẫn bị lộ.
Siu H' Yum đã đánh hơi thấy. Máu ghen nổi lên, bà quyết làm cho chồng bẽ mặt một mẻ trước các cố vấn Mỹ, các quan chức của Bộ.
Chiếc Méc-xê-đéc chở Paul Nưr đỗ xịch trước sân Bộ. Paul vừa bước xuống, Siu H' Yum đã chạy ra xỉa tay vào mặt chồng, nói ầm lên:
- Ông có biết xưa kia ông là một tên giáo quèn, một tên gõ đầu trẻ không hơn không kém? Tôi đây, con gái một dòng họ danh giá nhất Công Tum, đã cứu vớt ông ra khỏi nơi đày ải. Nhờ tôi mà ông có máu mặt. Nấp sau gấu váy con này, ông leo lên chức này chức khác. Cái ghế tổng trưởng hiện nay cũng nhờ con này mà có. Thế mà ông vô ơn bội nghĩa, ông đi ăn nằm với hết con này đến con khác, tính phụ con này à? Ối các ông cố vấn Mỹ ơi! Các ông dạy bảo chồng tôi thế à?
Paul Nưr tái mặt, lúng túng không biết xử trí ra sao.
Nguyễn Hữu Oanh hoảng hốt, chạy ra ngăn bà Tổng trưởng, rồi đứng giữa hai người nói như van với bà:
- Xin bà! Có chuyện gì ta cứ đóng cửa bảo nhau! Ai lại làm thế, mất danh dự ông, cả Bộ người ta trông vào!
Tổng trưởng phu nhân chỉ tay vào mặt ông Bí thư quát:
- Mày, mày là tên lưu manh, ma-cô! Mày làm hỏng chồng tao, làm hại đời bao người con gái đáng tuổi con gái mày! Mày dùng các cô gái làm thang leo lên à? Chúng mày là đồ bất nhân!
Máu ghen càng cồn lên, bà chẳng nể nang ai, tố chồng hết chuyện này đến chuyện khác.
- Lúc nào ông cũng nói ông là người đạo đức, bảo tồn tinh hoa dân tộc Ba Na. Dân tộc gì mà ông trai gái đĩ bợm thế, ông chỉ lừa bịp mọi người, lường gạt mẹ con con này thôi.
Hữu Oánh can mãi không được, phải cho chuẩn úy Tung, em ruột và là cận vệ của Paul Nưr, kéo Tổng trưởng phu nhân về nhà.
*
* *
Theo lệnh của Nguyễn Văn Thiệu, Paul Nưr, Y Chôn, Nguyễn Văn Nghiêm, Y Bliêng, Y Buăn triệu tập cuộc họp bầu người lãnh đạo phong trào thay thế (đúng hơn là nối tiếp) phong trào FULRO đã giải tán. Cuộc họp phần lớn là người của Paul Nưr.
Nguyễn Văn Nghiêm đã được Thomas Busker và Thiệu đưa trước danh sách những người lãnh đạo. Các chức vị đã được chỉ định. Nhưng muốn tỏ ra chánh phủ là khách quan, Thiệu cho các đại biểu họp thảo luận để bầu ban chấp hành, trong đó phần đông là các đại diện FULRO.
Nguyễn Văn Nghiêm xin cử tọa im lặng, rồi mở đầu:
- Kính thưa các quý vị đại biểu! Đã nhiều năm qua, có một phong trào chánh trị không được đề cập tới. Vì còn phong trào FULRO nên cả phía chánh quyền lẫn dân chúng Thượng đều không muốn có thêm một phong trào mà rồi không biết sẽ đi đến đâu.
Từ năm 1965, đã có hội “Thân hữu Kinh Thượng”. Hội này mãi đến cuối năm 1966 mới được ông Y Chôn làm sống lại và tháng 3 năm 1969 mới bầu ban chấp hành mới do ông Y Chôn làm Hội trưởng. Những mục tiêu hoạt động chú trọng đến phần tình cảm, hữu hảo nhiều hơn là công tác xã hội.
Giữa năm 1967, khi có khối đoàn kết dân tộc thiểu số Việt Nam do cố đại tá Đàm Văn Quý sáng lập nhưng mãi đến ngày 23 tháng 3 năm 1969 vừa qua, ông Voòng A Sáng mới triệu tập đại
hội bầu ban chấp hành mới. Xét về mục tiêu hoạt động, tổ chức này có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu của công cuộc cải tiến dân sinh cho đồng bào thiểu số. Nhưng đường lối phát triển của khối sợ rằng chưa được sâu rộng và nặng về chánh trị hơn là công tác.
Nhìn chung các đoàn thể và phong trào quần chúng, dù dưới danh nghĩa “hội” hay “khối” vẫn hoạt động chưa mạnh, chưa có đóng góp lớn cho đời sống xã hội và cải tiến dân sinh.
Bây giờ chúng ta phải thành lập một phong trào mới. Phong trào này phải là một phong trào dấn thân, phải có cán bộ có đức, có tài, hăng hái hướng dẫn và thực hiện tất cả mọi công tác do phong trào chủ trương nhằm mục đích đem lại cho đồng bào thiểu số một đời sống chánh trị và xã hội tươi đẹp hơn.
Vì thế, được lệnh của Tổng thống và Thủ tướng, hôm nay ông Paul Nưr mời các quý vị đến đây tự do bàn bạc việc thành lập một phong trào mới đó. Vậy xin các quý vị tự do phát biểu ý kiến.
Y Bling đứng lên nhìn cử tọa:
- Là một đại biểu của phong trào FULRO, tôi xin phát biểu. Trước hết, các quý vị đều thấy rằng, phong trào FULRO từ nay không còn nữa, nhưng sự hăng say của các đoàn viên phong trào FULRO vừa mới về hợp tác vẫn còn nguyên. Được tham gia vào một phong trào mới để tranh đấu cho cuộc cách mạng xã hội, cho đồng bào các dân tộc thiểu số, giải phóng họ khỏi sự bần cùng, tiến lên xây dựng xã hội tươi đẹp văn minh là nguyện vọng thiết tha của những đoàn viên FULRO chúng tôi. Vậy mong các quý vị quan tâm đến những thành viên phong trào FULRO chúng tôi, dành cho chúng tôi đặc ân được phụng sự đồng bào.
Y Dhắt, Y Buăn lần lượt phát biểu tỏ lòng hăng say, sẵn sàng dấn thân, đem hết sức mình phụng sự đồng bào.
Đến phần bầu ban chấp hành đã bố trí sẵn, Y Chôn nói:
- Theo quy định của Phủ thủ tướng, những viên chức nhà nước sẽ không tham gia giữ vai trò chủ chốt trong các đoàn thể chính trị, vì thế, ông Paul Nưr và tôi xin rút khỏi ban chấp hành. Nếu quý vị quý mến thì xin ở ban cố vấn. Theo ý kiến riêng tôi, ta nên chọn đại biểu có uy tín ở trong phong trào FULRO để đưa vào lãnh đạo phong trào mới. Vì các vị đó đã được thử thách, đã dấn thân lâu dài đấu tranh cho quyền lợi dân tộc, đã có kinh nghiệm lãnh đạo một phong trào lớn lao.
Y Dhắt đề cử:
- Theo tôi, ta nên cử ông Y Dhé làm chủ tịch, vì sau ông Y Bhăm, ông Y Dhé là nhân vật số hai của FULRO. Ông là người có uy tín lớn. Ông đã từng giữ chức trưởng ban đại diện FULRO ở Buôn Mê Thuột. Trong thời gian làm trưởng ban, ông đã rất nỗ lực, đem đến sự đoàn kết Kinh Thượng, ông đã dẫn đầu những đoàn viên FULRO về hợp tác.
Y Bliêng vốn ghét Y Dhé, lại thấy Y Dhé không có mặt trong cuộc họp này, liền đứng phắt lên:
- Ông Y Dhé, từ ngày về hợp tác đến nay tỏ ra rất bất mãn và có nhiều tham vọng cá nhân. Ông tưởng rằng sẽ được cử làm tỉnh trưởng Đắc Lắc. Không được cử, ông bất mãn bỏ về quê mở đồn điền cà-phê, không tham gia công việc xã hội gì cả. Chủ tịch của một phong trào quần chúng phải là người biết hy sinh mọi tham vọng cá nhân, toàn tâm phục vụ quần chúng, phải luôn luôn coi quyền lợi dân tộc trên hết; phải lấy mục tiêu phục vụ đồng bào làm lẽ sống của mình; phải dẹp bỏ mọi tính toán, ích kỷ, vụ lợi. Ông Y Dhé thì trái hẳn lại. Xét về mọi mặt ông Y Dhé chưa xứng đáng làm chủ tịch một phong trào lớn lao thế này.
Các đại biểu thi nhau phát biểu. Người nào cũng đề cử người thân, cùng cánh với mình. Biết cứ để bàn cãi, chỉ thêm rối chuyện, vả lại, như thế cũng đủ tỏ ra dân chủ rồi, Paul Nưr đứng lên tổng kết các ý kiến, nêu danh sách đề cử và nói:
- Thưa quý vị, các ứng cử viên và đề cử viên chúng ta đã lập xong, bầu ai, quý vị hoàn toàn tự do lựa chọn. Có một điều xin lưu ý quý vị là, vừa qua khi gọi chúng tôi đến ra lệnh thành lập phong trào, Tổng thống và Thủ tướng có cho danh sách dự kiến, danh sách này do các chuyên viên sắc tộc và Hội đồng sắc tộc đề nghị, chúng tôi cũng xin đọc danh sách đó để các vị lưu ý và tham khảo trong việc bầu. Danh sách đó như sau:
Chủ tịch danh dự: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Chủ tịch chánh thức: Ông Y Bling Buôn Krông Pang.
Đệ nhất phó chủ tịch: Ông Y Dhắt Niê Kdăm.
Đệ nhị phó chủ tịch: Bà H' Bi Buôn Yă.
Tổng thư ký: Ông Y Kuốt.
Thủ quỹ: Ông Y Buăn.
Ban cố vấn có: Tôi – Paul Nưr, Ông Y Chôn và ông Y Bliêng.
Như thế là ban chấp hành có đại diện các dân tộc khác nhau: Ba Na (tôi), Ê Đê (ông Y Bliêng, Y Dhắt…), Ka Ho (ông Ya Duk)…Có nam, có nữ. Toàn những người có uy tín lớn trong phong trào FULRO và các phong trào khác của dân tộc, tiêu biểu cho tài năng, đức độ của các dân tộc trên Cao Nguyên.
Paul dứt lời. Các đại biểu bàn tán, xì xào.
Khỏi phải bầu thì mọi người cũng biết ban chấp hành là phải như thế vì Tổng thống và Thủ tướng đã dự kiến, ai dám bầu khác đi? Y Dhắt thấy mình là phó ban đại diện FULRO, trên cấp của Y Bling mà giờ lại dưới quyền, ấm ức muốn phản đối, nhưng thấy Tổng thống đã quyết định thì
có nói cũng vô ích nên đành im lặng. Kết quả cuộc bầu cử là thành phần ban chấp hành đúng như danh sách dự kiến.
Phong trào được mang tên là: “Phong trào đoàn kết các sắc tộc thiểu số Cao Nguyên miền Nam Việt Nam” .
Ban chấp hành các tỉnh bộ không có bầu bán gì hết, mà do Ban chấp hành trung ương chỉ định. Danh sách cả trung ương và địa phương lập xong, Nguyễn Văn Thiệu cho in, rồi các vị lãnh đạo phong trào kéo nhau về Buôn Mê Thuột làm lễ ra mắt.
Hội nghị trù bị cho lễ ra mắt được tổ chức. Các tỉnh bộ cũng được triệu tập. Nghe đọc tên mình làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào Đắc Lắc, Kpă Kới làm phó chủ tịch, Y Khỉa Mlô Đuôn du ngơ ngác. Tưởng làm chủ tịch phong trào là phải gánh vác nhiều trọng trách nặng nề, phải luôn giữ mình trong sạch để được quần chúng tín nhiệm, không được buôn gian bán lận, ông liền gặp Y Chôn kêu:
- Tôi không quen làm chánh trị, lại không có tài đức uy tín, xin ông miễn cho, đừng bắt tôi làm chủ tịch tỉnh bộ. Xin ông!
Các thành viên tỉnh bộ PleiKu, Công Tum, Quảng Đức…cũng nhao nhao xin rút.
Y Chôn phải nhẫn nại giải thích. Nhiệm vụ các vị trong tỉnh bộ nhẹ nhàng thôi. Chỉ có đi họp, dự tiệc động viên quần chúng. Quyền lợi khá hậu: được hưởng một phần trong phong trào phí; được chi tiêu trong các khoản tổ chức mít tinh, hội họp; được dự tiệc luôn; được ưu tiên mua bán hàng hóa viện trợ với giá rẻ…các vị lúc đó mới vui vẻ nhận.
Lễ ra mắt “Ban chấp hành trung ương Phong trào đoàn kết” được tổ chức long trọng ở rạp Thăng Long, Buôn Mê Thuột. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tới dự làm các vị trong ban chấp hành các cấp thấy mình quan trọng quá, và các vị may mắn được làm lãnh tụ phong trào lớn lao này.
Sau lễ ra mắt, việc kết nạp đoàn viên phong trào được xúc tiến trên toàn Cao Nguyên. Danh sách được ghi lập tận các buôn theo kiểu “đánh trống ghi tên”. Toàn thể những người sắc tộc từ 18 tuổi trở lên đều phải tham gia phong trào, nộp đoàn phí hàng tháng, nộp tiền làm thẻ đoàn viên, có nghĩa vụ đóng góp sức người, sức của cho phong trào, bất luận là ý thức giác ngộ cao hay thấp, quá khứ và hiện tại xấu tốt thế nào.
Trụ sở trung ương của phong trào được lập tại nhà Y Tluôp ở buôn Alê A, Buôn Mê Thuột, ngay cạnh trụ sở Ban đại diện FULRO ngày nào. Trụ sở nườm nượp ngày đêm. Người đến đóng nguyệt liễm, người đến thăm, người đến nhờ phong trào bênh vực, cứu trợ.
*
* *
H' Bi sung sướng tột độ. Bà thật không ngờ là lại được cử giữ chức vụ cao như thế. Đệ tam phó chủ tịch, lãnh đạo chị em phụ nữ toàn Cao Nguyên chứ có phải xoàng đâu!
Nửa năm đầu, phong trào hoạt động rầm rộ, các vị lãnh đạo tỏ ra hăng hái, bà cũng cố giữ mình, tỏ ra trong sạch, làm tấm gương cho chị em soi.
Bà đi thăm chị em các tỉnh bộ, nói chuyện, hô hào, động viên chị em “tự giải phóng mình, làm chủ Cao Nguyên”.
Nhưng sau đó, phong trào như quả bóng xì hơi xẹp dần xuống. Các vị lãnh đạo đâm ra sa sút, lợi dụng phong trào làm giàu và hục hặc với nhau.
Ngài chủ tịch Y Bling tìm đủ mọi cách xoáy tiền của phong trào. Tiền nguyệt liễm, tiền làm thẻ đoàn viên toàn quốc nộp lên cuối năm 1969 và đầu năm 1970, được vài chục triệu thì ngài cuỗm luôn 9 triệu. Bị các đoàn viên chửi bới, ngài trốn biệt ở Sài Gòn không dám về trụ sở ở Buôn Mê Thuột.
Đệ nhị phó chủ tịch Y Duk thì rượu chè bê tha. Ngài tìm đủ cách để được đánh chén. Lúc ngài thăm tỉnh bộ này, lúc ngài thăm tỉnh bộ kia, không ngoài mục đích ăn uống. Tỉnh bộ nào có tiệc to, thường xuyên ngài đến thăm và ở lâu để “động viên phong trào”. Tỉnh bộ nào ăn uống xoàng, ngài chẳng đến thăm hoặc chỉ tạt qua rồi rút luôn. Ngài thích nhất là tỉnh nào đón ngài bằng liên hoan văn nghệ. Vừa được uống rượu ngon, vừa được nghe nhạc hay lại vừa xem gái đẹp múa hát. Khi về lại còn có tặng phẩm, ảnh kỷ niệm chụp chung với các diễn viên.
Còn bà H' Bi và ngài Đệ nhất phó chủ tịch thì thế nào?
Thấy các bậc đàn anh thi nhau tham ô và bê tha như thế, bà vạ gì mà phải giữ mình, giữ tư cách? Bà cũng phải sống gấp được ngày nào hay ngày ấy chứ!
Sau khi chồng (ông Y Nuỉn) bị Y Bhăm xử tử hình H' Bi thấy vô cùng đau đớn, chán nản. Bà muốn bỏ hậu cứ về Cao Nguyên làm ăn, dạy học. Nhưng thoát làm sao được khỏi sự bao vây của các tay chân Y Bhăm trên toàn Cao Nguyên và của cả chánh quyền Sài Gòn nữa?
Chán ngán với con đường hoạn lộ, cảnh sống lừa lọc chia rẽ của các lãnh tụ FULRO, không có thế để tham ô tiền và ăn uống nhậu nhẹt H' Bi tìm lối thoát trong những thú vui xác thịt. Bà cặp bồ lung tung với các vị chỉ huy FULRO và cuối cùng chài được trung tá Rmah Klel – trưởng phòng 5 bộ tổng tham mưu FULRO. Lúc ấy Rmah Klel là một trai tân, cao to, đẹp trai. Hai người cưới nhau. “Nạ dòng vớ được trai tơ…”, H' Bi say sưa với mối tình mới tưởng như sẽ sống với chồng cho đến khi đầu bạc răng long.
FULRO về hợp tác, H' Bi cùng chồng trở về quê hương…Rmah Klel làm trung tâm trưởng định canh định cư Piel Quen. H' Bi dạy học ở xã và nội trợ gia đình. Hai người ăn ở với nhau khá đầm ấm và chắc chắn rằng họ sẽ sống hạnh phúc mãi mãi nếu như không có biến cố mới đến với bà: Bà được làm đệ tam phó chủ tịch phong trào Đoàn kết. Bắt đầu từ đây, những va chạm giữa hai vợ chồng tăng dần, tăng dần và dẫn đến đổ vỡ. Cái chức phó chủ tịch quá cao sang kia đã gây nên bao điều bất hạnh trong cuộc sống tình cảm của vợ chồng bà.
Là Đệ tam phó chủ tịch, là lãnh tụ lớn nhất của chị em sắc tộc, bà được các quan chức, các ký giả để ý, thăm hỏi luôn. Bà tự cảm thấy mình sang trọng và oai vệ quá. Còn Rmah Klel phụ trách định canh định cư. Gọi là trung tâm cho oai chứ phạm vi chỉ bằng một buôn nhỏ. Ông thấp kém, không có được một địa vị cao như bà. Có lần, bà đi xe du lịch bóng loáng về thăm nhà trong khi ông đang đóng khố, mặc áo lính dày cộp, bụi đất, nhựa cây bám đầy, vác cuốc đi thăm nương rẫy.
Hố ngăn cách giữa họ sâu dần. Tình cảm rạn nứt và không thể nào hàn gắn được cho đến lúc bà thấy sống bên chồng là điều sỉ nhục.
Giữa lúc ấy, ông Đệ nhất phó chủ tịch Y Dhắt lại tha thiết yêu bà Đệ tam phó chủ tịch.
Cùng là lãnh tụ của một phong trào, cùng làm phó chủ tịch trong ban chấp hành, thường xuyên họp hành, đi thăm hỏi quần chúng, cùng oai vệ và sang trọng như nhau, hai người gần gũi và say nhau mê mệt.
Ngay ở trụ sở phong trào, hai vị đã thường xuyên ân ái với nhau. Ai dám nói? Nhị vị chủ tịch sẽ trù mà trị thẳng tay thì chết!
Để có thể “hòa đồng” tình cảm hơn, nhị vị chủ tịch cố tạo cơ hội gần nhau. Ông chủ tịch Y Bling nằm tịt ở Sài Gòn, công việc do ông Đệ nhất phó chủ tịch điều hành. Thế là Y Dhắt cùng bà Đệ tam phó chủ tịch đi kinh lý hết tỉnh này đến tỉnh khác để “gặp gỡ, kiểm tra, giúp đỡ các tỉnh đưa Phong trào đoàn kết đi lên những bước mới, ngõ hầu kiến tạo cuộc sống văn minh tươi đẹp cho vùng rừng núi xa xôi này”.
Ra khỏi trụ sở trung ương, xa vợ, xa chồng, nên đường kinh lý, hai vị thả sức “bàn bạc”, “trao đổi”…
Tình cảm cứ thế thấm sâu và cuối cùng nhị vị chủ tịch đều cảm thấy không thể sống với những người chồng, người vợ cũ hèn kém, quê mùa. Hai vị đều quyết tâm ly dị vợ, chồng cũ để lấy nhau.
Bà H' Breo – vợ ông Y Dhắt – không biết kêu ai, đành để cho chồng chạy theo nhân tình. Nhưng còn Rmah Klel, dù có kém thế ông Y Dhắt và vợ, thì cũng đã từng là trung tá trưởng phòng của “chánh phủ FULRO”, đã từng bốn năm “xuất ngoại” sang Căm-bốt hoạt động “cách mạng” thì đời nào chịu mất vợ? Ông liền gặp các vị tai mắt trong tỉnh hỏi ý kiến. Ông Y Bliêng, cố vấn phong trào, rất phẫn nộ với hành động hèn hạ của ông phó chủ tịch, liền xúi ông Rmah Klel kiện lên Tòa án phong tục, hiện ông Y Bliêng đang làm Chánh án. Ông sẽ chiếu theo công lý mà trị tội kẻ lợi dụng chức quyền cướp vợ người khác, mà lại là cướp vợ người đồng chí đã cùng ở trong FULRO, cùng lưu vong với nhau, cùng đã đồng cam cộng khổ với nhau bao năm…một cách trắng trợn như thế.
Rmah Klel phát đơn kiện Y Dhắt lên Tòa án phong tục và hy vọng sẽ thắng kiện vì Tòa án phong tục rất có quyền thế và ông Y Bliêng nổi tiếng là một Chánh án công minh, chánh trực, dũng cảm bảo vệ chân lý.
Liệu Rmah Klel có thắng kiện không? Liệu ông Y Bliêng có trị nổi ông Đệ nhất phó chủ tịch Phong trào đoàn kết đầy uy quyền cả một vùng Cao Nguyên rộng lớn này không?
Xung quanh vụ kiện này, các vị tai mắt trong tỉnh ham “bình luận thời cuộc” hồi ấy đánh cá nhau khá cao. Có vị dám bỏ ra hàng triệu đồng, nói như đinh đóng cột là ông Y Bliêng sẽ làm cho Rmah Klel thắng kiện, thách ai dám cá với mình. Có vị dám cá cả chiếc xe Jeep và nói rằng Y Dhắt sẽ trắng án. Họ vồ lấy thời cơ, tung tiền ra, lao vào cuộc đỏ đen, thấp thỏm, chờ đợi kết quả vụ kiện như chờ đợi một biến cố trọng đại của quốc gia.
12. BƯỚC ĐƯỜNG MỚI CỦA LES KOSSEM
Không được giữ chức vụ nào trong Phong trào đoàn kết, Huỳnh Ngọc Sắng bất mãn chửi Thiệu lừa đảo, Paul Nưr là kỳ thị dân tộc Chàm. Tháng 5-1969, Sắng bỏ Việt Nam trốn sang Nam Vang. Lúc này Lon-non cùng Les đang chuẩn bị theo Mỹ lật Xi-ha-núc.
Được Sắng cho biết Thiệu đã thành lập Phong trào đoàn kết đập gãy phong trào FULRO ở khúc xương sống quan trọng nhất là Cao Nguyên trung phần Việt Nam, Les Kossem thấy càng cần phải phất cao hơn nữa mảnh cờ còn lại của FULRO trên đất Căm-bốt này bằng cách nhanh chóng củng cố mảng FULRO còn lại trong tay.
Hạ tuần tháng 6-1969, Les ra lệnh tạm ngừng khóa huấn luyện FULRO tại Nam Vang, bắt các khóa sinh lên đường đi phục vụ ngay tại Môn-đun-ki-ri và Rát-ta-na-ki-ri. Ở hai tỉnh hậu cứ này, sau cú mưu phản của Y Bhăm thất bại, Les Kossem đã cử về đây những tay chân thân tín để nắm chặt phong trào FULRO như bọn Đặng Nô, Đồng Tập, Kinh Hoài Diệp…Ở Môn-đun-ki-ri và bọn Đàng Năng Giáo, Kpă-Tớh, Bá Văn Lành ở Rát-ta-na-ki-ri. Còn ở Nam Vang, Les lưu giữ Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Đại Đủ, Thiên Sanh Thi, Đặng Văn Thủy.
Tuy vậy họ vẫn chỉ đại diện cho phái Chàm, chỉ có uy tín đối với thành viên người Chàm, không ảnh hưởng gì đến dân Tây Nguyên. Les Kossem buộc phải tìm một vị chủ tịch mới để lôi kéo người Thượng khỏi chạy về Việt Nam.
Ngày 19-7-1969, Ủy ban chỉ đạo tối cao FULRO triệu tập cuộc họp do Les Kossem chủ tọa, tại tư thất 387/10 đường Mô-ni-vông. Tham dự cuộc họp có các nhân vật trong số đã ly khai với Y Bhăm từ trước. Ngoài những đại biểu Chàm quen thuộc như Huỳnh Ngọc Sắng, Đàng Năng Giáo, Hoàng Minh Mộ, Thiên Sanh Thi, Quảng Đại Đủ, Les Kossem may mắn tập hợp được những đại biểu người Tây Nguyên đã từng ly khai với phong trào Mặt trận Cao Nguyên của Y Bhăm như: Y Phan, Y Năm, Kpă Dơh. Mở đầu cuộc họp Les Kossem nói:
- Bọn Thiệu cho lập Phong trào đoàn kết, đưa số người Thượng ra làm lãnh tụ hòng lôi kéo các dân tộc thiểu số, nhất là ở Cao Nguyên, theo chúng. Chúng ta cũng cần có một tân chủ tịch để thu hút quần chúng. Tôi chỉ xin nhận nhiệm vụ chỉ đạo, trợ giúp mà thôi. Vậy xin các vị đề cử người giữ chức vụ quan trọng này.
Các đại biểu nhìn nhau im lặng. Họ hiểu rằng có ra làm chủ tịch thì cũng chỉ là bù nhìn, còn bao quyền hành Les Kossem vẫn nắm. Mà số phận cũng ngắn ngủi, một sớm một chiều như Đàng Năng Giáo ngày nào, làm chủ tịch chưa đầy một tháng mà thôi.
Thấy mọi người không đề cử, vị chủ tịch nói thẳng:
- Tôi xin đề cử, một là ông Y Bhăm sẽ tái nhiệm làm chủ tịch, hai là ông Y Bun Sor hiện đang làm tỉnh trưởng Môn-đun-ki-ri, người rất có uy tín hiện nay.
Các đại biểu im lặng hồi lâu, Đàng Năng Giáo đánh bạo phát biểu:
- Ông Y Bhăm đã phản bội phong trào, xa rời đường lối của FULRO, thỏa hiệp với ngụy quyền Việt Nam, ông chẳng còn uy tín gì với đồng bào. Vì vậy, ta không nên bầu. Còn ông Y Bun Sor, đây là vị chỉ huy quân sự và lãnh đạo dân sự của Căm-bốt. Bầu ông, tôi e rằng đồng bào ở Việt Nam khó theo ta. Bọn Y Dhé, Y Bling lại có dịp đả kích là FULRO bị Căm-bốt áp đặt…
Được khơi mào, mọi người đua nhau phát biểu. Ai cũng nói ý kiến của Giáo đúng đắn.
Mãi hết buổi họp, hội nghị vẫn chưa tìm được người đứng ra làm chủ tịch FULRO. Kossem kết thúc:
- Tôi sẽ cử ông Hoàng Minh Mộ và Đặng Văn Thủy về Việt Nam. Hai ông có nhiệm vụ thăm dò ý kiến các viên chức, nhân sĩ sắc tộc xem họ tín nhiệm ai. Qua đó ta sẽ cử sau. Tạm thời “Ủy ban chỉ đạo tối cao FULRO” vẫn giữ nguyên, điều hành công việc của phong trào.
Hôm sau, Mộ và Thủy lên đường về Sài Gòn. Hai người gặp Dân biểu hạ viện Thanh Giác và nghị sĩ thượng viện Ksor Rớt để thăm dò ý kiến. Hai vị nghị sĩ lạnh lùng, tỏ ra thờ ơ với FULRO.
Ksor Rớt uể oải ngáp rồi nói:
- FULRO đã về hợp tác. Các đoàn viên FULRO đã thành viên chức, sĩ quan, công dân Việt Nam Cộng hòa. Là đại biểu cho dân tộc Việt Nam, chúng tôi thấy có bổn phận bảo vệ hiến pháp Việt Nam. Chúng tôi không hiểu và không dám có ý kiến gì về phong trào FULRO ở Căm-bốt của ông Kossem.
Thấy các đoàn viên FULRO trở về đã chán nản, không còn hăng hái. Les Kossem cho rằng cần phải đi vận động lớp người trẻ cho FULRO. Ông chú ý đến người Chàm ở miền Trung cũng như miền Tây Nam kỳ Việt Nam. Les liền cử Sắng về nằm vùng ở biên giới Miên Việt thuộc tỉnh Châu Đốc.
Sắng về các vùng làng mạc người Chàm, giả làm dân chài lưới. Hắn cạo trọc đầu, mặc sa rông như một người dân. Ở đây hắn liên lạc với các đoàn viên FULRO Chàm và Khơ-me đã về hợp tác.
Đã bước sang năm 1970.
Công việc lật đổ Xi-ha-núc vẫn được Lon-non, Les Kossem chuẩn bị ráo riết. Kossem tiếp tục cử người về Việt Nam, lôi kéo người Chàm sang Nam Vang.
Cuối tháng 2 năm 1970, Les cử Bá Trung Di về Sài Gòn. Từ đấy, Di tung chân tay về miền Trung.
Hôm ấy, Kiều Ngọc Quyên – quận phó Tuy Phong – cầm số tiền thuế của quận từ Long Hương về Phan Thiết. Phải đi đường vòng để tránh bị quân giải phóng phục kích, y về Phan Rang định đáp máy bay đi Phan Thiết.
Quyên vào một tiệm giải khát. Ở đây y gặp Bá Văn Tường và Châu Văn Tần. Ba người chuyện trò. Quyên than thở:
- Chánh phủ đào tạo người thế nào mà ùn lên như mối. Nghe nói, sắp tới tao bị mất chức vì họ sẽ đưa bọn học khoa đốc sự về thay số học khoa tham sự chúng tao. Không biết rồi họ sẽ đẩy tao đi đâu. Sang quân sự hoặc về các tỉnh miền núi thì dễ xơi đạn của Việt Cộng lắm.
Châu Văn Tấn gật gù:
- Tôi cũng chán học lắm rồi. Anh học Quốc gia hành chánh ra, còn không yên ổn huống là chúng tôi. Tìm việc gì bây giờ?
Bá Văn Tường chen vào:
- Tôi vừa gặp ông Bá Trung Di ở Sài Gòn. Ông vừa là nhân viên tình báo của ông Thiệu, lại vừa là người của FULRO. Ông ta nói người Chàm ở Căm-bốt được ông Les Kossem ưu ái lắm. Các anh có sang thì tôi nhờ ông ấy dẫn đi.
Tấn reo lên khe khẽ:
- Tôi sẽ đi!
Quyên hất hàm hỏi Tấn:
- Mày bỏ con Nhung ở lại một mình à?
- Bỏ thôi. Vợ con sớm làm gì. Vướng chân lắm!
Sau đó, Quyên, Tấn theo Tường về Sài Gòn gặp Di. Di dẫn Quyên, Tấn, Báo Văn Danh qua đường Châu Đốc sang Căm-bốt. Họ tới Nam Vang vào ngày 30-2-1970.
Ở đây, họ được Les Kossem vồn vã đón nhận. Les cử Đàng Năng Giáo và Ngụy Văn Nhuận (người vừa sang được Les Kossem tin dùng, cử làm bí thứ riêng cho mình) coi sóc. Họ ở ngôi nhà cạnh tư thất của Les Kossem trên đường Mô-ni-vông.
Công việc của số mới sang là học tập về đường lối FULRO để chuẩn bị xung vào các đơn vị quân sự FULRO Chàm.
Một buổi, thấy Sắng đi vào tư thất Les Kossem, Quyên hỏi Giáo:
- Tao muốn gặp thằng Sắng một chút được không?
Giáo nhìn Quyên, trợn mắt:
- Gặp thằng dê cụ ấy làm gì?
- Chuyện trò cho vui chút xíu thôi!
- Nó là thằng đểu, lừa thày, phản bạn. Không nên chơi với nó. Rồi nó sẽ lừa cả mày đấy! Quyên biết Giáo đang căm vì bị Sắng cuỗm mất Trúc.
Chánh biến 18-3-1970 đã xảy ra. Được Mỹ ủng hộ Lon-non, Is-tam, Cheng-heng đã lật đổ Xi-ha-núc, lập nội các mới thân Mỹ.
Là một chân tay đắc lực của Lon-non trong chính biến lần này, Les Kossem cướp thời cơ, lao vào hoạt động. Thời gian ấy, trên ti vi, các báo, đài phát thanh, người ta loan tin Xi-ha-núc thân cộng sản, tiếp tay cho Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam, bênh người Việt khi có cuộc xô xát giữa người Việt và Khơ-me. Và vì thế, họ cần lật đổ Xi-ha-núc để xây dựng quốc gia “độc lập, tự do, không bị Cộng sản áp đặt”.
Trong tư thất của mình và trụ sở của FULRO ở đường Mô-ni-vông, Les Kossem cho chiếu những bộ phim nói về chuyện người Việt, do Phan Thanh Giản chỉ huy, đã chiếm đất Căm-bốt, tàn sát người Khơ-me.
Sau khi đã chuẩn bị xong dư luận, Kossem liền xin Lon-non cho khởi xướng phong trào “Cáp-đuồn” .
Hàng loạt đồng bào Việt kiều bị đánh đập, bắn giết, xua về Việt Nam, Les Kossem kêu gọi Mỹ - Thiệu tấn công Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam. Người ta hỏi vì sao khi còn Xi-ha núc, Les Kossem tỏ ra ủng hộ ngầm Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam, buôn bán cung cấp lương thực cho Quân giải phóng, mà bây giờ lại kêu gọi Mỹ - Thiệu tấn công tiêu diệt, lại còn hứa sẽ giúp Mỹ - Thiệu tấn công tổng hành dinh Mặt trận giải phóng đóng ở biên giới Việt – Miên, thì Les Kossem viện mối thù dân tộc trung cổ ra để lấp liếm mọi sự phi lý của mình.
Thời gian này, Les Kossem lên như diều gặp gió. Ông được Lon-non cho toàn quyền điều hành lực lượng thiểu số tại Căm-bốt. Ông không chỉ là lãnh tụ của dân tộc Khơ-me Is lam mà còn là lãnh tụ của tất cả các dân tộc thiểu số ở trên xứ sở này. Được Lon-non cho huy động người thiểu số vào quân đội, Les thành lập 7 tiểu đoàn biệt lập, quân gồm toàn sắc dân Chàm, Miên Hạ và Thượng.
Y gom các tiểu đoàn biệt lập thành Lữ đoàn 5 bộ binh, viết tắt là 5_e (5_e Brigade d'Infanteric) và làm chỉ huy trưởng. Chỉ năm sau, y đổi tên thành 5_eBIC (5_e Brigade de Choc = lữ đoàn 5 ứng chiến). Năm sau nữa, y lại đổi sang tên 5_e BIS (5_eBrigade Spéciale = Lữ đoàn 5 đặc biệt). Nhờ ba lần đổi tên ấy mà y làm cho nhiều người lầm tưởng rằng y có những ba lữ đoàn!
Sau khi củng cố quân đội, Les Kossem liền mở một chiến dịch ngoại giao mới.
Les bay đi Vọng Các vận động “Tổ chức người Chàm chánh thống”. Vị tướng gốc Chàm chỉ huy lục quân Thái nhân ra cơ hội hiếm có để bành trướng sang phía đông, liền bàn với chính phủ Thái Lan chấp nhận cho y chỉ huy 10.000 quân Thái tình nguyện sang Căm-bốt để giúp Les Kossem chống lại Khơ-me đỏ. Nhưng Kossem cũng cảnh giác, ngại quân Thái sẽ lợi dụng thời cơ, lấn đất Căm-bốt, liền để nghị vị tướng Chàm tạm hoãn đưa quân sang để dành lực lượng đó yểm trợ cho công cuộc phục quốc Champa của y sau này.
Les Kossem bay đi Nam Dương vận động “Tổ chức người Chàm yêu nước” ở đây và vận động Tổng thống Nam Dương Xu-hắc-tô.
Sau khi lật Xu-các-nô, Xu-hắc-tô vẫn giữ nguyên mật ước “Xu-các-nô – Les Kossem”, giữ nguyên 2 lữ đoàn quân Nam Dương yểm trợ cho Les.
Đại tá Su-sê-nô (vừa được phong tướng nên thôi giữ chức tùy viên quân sự ở Nam Vang về Nam Dương làm Tổng cục trưởng Tổng cục quân huấn) và tướng A-ly, hai bạn thân của Kossem, vui mừng đón người bạn Chàm.
Hai tướng dẫn Les Kossem yết kiến Tổng thống Xu-hắc-tô. Tổng thống cũng hứa hết lòng giúp đỡ Champa, hứa sẽ nhận đào tạo lớp sĩ quan tình báo người Chàm từ Căm-bốt gửi sang cho Les Kossem.
Hai tướng A-ly và Su-sê-nô tiễn Les Kossem ra tận phi trường.
Les Kossem vừa về đến Căm-bốt thì hậu cứ Môn-đun-ki-ri bị Khơ-me đỏ tấn công và thất thủ. Số sĩ quan và binh lính FULRO ở đây được Lực lượng đặc biệt Mỹ cứu, chở bằng trực thăng về Nam Vang.
Thuận Thị Trúc cũng theo số tàn quân về trụ sở FULRO. Les Kossem cho cải hoán toàn bộ lực lượng FULRO vào Lực lượng biệt lập trong 2 lữ đoàn sắc tộc mà ông đang chỉ huy, thuộc quân đội Khơ-me. Các đoàn viên FULRO Chàm thuộc lữ đoàn 5, các đoàn viên Thượng thuộc lữ đoàn 40, được cấp bậc tương xứng như: Trung tá thì có: El Ibrahim, Sietmiet, Chek Ibrahim, Math Soleyman, Rovsman Soleman…Thiếu tá có: Thiên Sanh Thi, Mô-ha-mét, Y Bun Sor, Y Bhăn, Kpă Dớh, Y Năm…Đại úy có: Hoàng Minh Mộ, Đặng Văn Thủy, Đàng Năng Giáo, Bá Trung Di, Ngụy Văn Nhuận, Quảng Đại Đủ…Trung úy có: Châu Văn Tấn, Đạt Rài…Les Kossem trực tiếp chỉ huy các lữ đoàn này, có El Ibrahim và Chek Ibrahim phụ tá.
Hai lữ đoàn của Les lao vào đánh nhau, giành giật từng mảnh đất xóm làng với Khơ-me đỏ. Những trận ác chiến xảy ra liên miên.
Kossem kêu gọi chánh phủ Mỹ ủng hộ trực tiếp nhiều hơn nữa. Y xin vũ khí cho 75.000 quân, hứa sẽ chỉ huy số quân này “tiêu diệt Cộng quân Việt Nam và tổng hành dinh Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam trên đất Căm-bốt”.
Hoàng Minh Mộ và Đặng Văn Thủy lại đi Sài Gòn. Khi về, họ cho biết, các viên chức, nhân sĩ thiểu số Việt Nam coi FULRO như đã giải tán, không nhận đề cử ai làm chủ tịch. Les Kossem chửi um lên rồi tự lập “Ủy ban hành động lâm thời Trung ương” bên cạnh “Ủy ban chỉ đạo tối cao”. Y chỉ định:
Hoàng Minh Mộ làm Chủ tịch.
Huỳnh Ngọc Sắng làm Phó chủ tịch, kiêm ủy viên tổ chức.
Y định sẽ đưa ủy ban này về lập trụ sở ở Sài Gòn, chọn một số dân biểu, công chức cao cấp tại Sài Gòn làm cố vấn, huy động số sinh viên Chàm, Thượng ở Sài Gòn làm cổ động viên. Les trao cho Mộ 200.000 Riel để hoạt động. Nhưng Hoàng Minh Mộ và Huỳnh Ngọc Sắng có ở lỳ Nam Vang, không dám về Sài Gòn, sợ bị cảnh sát Thiệu gây khó dễ và dân chúng phản đối, coi như tay sai của Les Kossem. Thấy ủy ban hoạt động ì ạch, cuối năm 1970, Les Kossem lại giải tán “Ủy ban hành động lâm thời Trung ương”, thành lập: “Ủy ban lãnh đạo FULRO”, cử Y Bun Sor làm chủ tịch. Ngụy Văn Nhuận làm phó chủ tịch. Phụ tá cho Y Bun Sor có 10 ủy viên trung ương dự khuyết. Ủy ban này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của “Cố vấn đoàn” do Les Kossem làm chủ tịch và Châu Đêra làm chủ tịch danh dự.
Huỳnh Ngọc Sắng lại được Les Kossem cử về biên giới Việt Miên, vùng Châu Đốc, hoạt động gây cơ sở và liên lạc với các cựu đoàn viên FULRO ở Việt Nam, Đàng Năng Giáo ở lại Nam Vang bên cạnh Les Kossem, cùng Y Bun Sor và Ngụy Văn Nhuận thực hiện công việc do Les Kossem vạch ra cho “Ủy ban lãnh đạo FULRO”.
Trong những ngày này Giáo thường gặp và nghe Trúc hát trong các hội nghị, lễ kỷ niệm ngày thành lập FULRO, tết ka-tê Chàm.
Tiếng hát Chàm ai oán của Trúc được nhiều người Chàm ở Căm-bốt, nhất là những người lưu vong, ưa thích:
Chàng ơi, em đã kết thề.
Trăm năm chỉ một lối về Tháp xưa…
Tiếng hát ấy cũng lay động trái tim Giáo. Lâu nay, lao vào hoạt động chánh trị, Giáo tưởng đã quên đi mối tình với Trúc. Nhưng không, tiếng hát quê hương đã đánh thức niềm say đắm. Giáo lại làm thơ gửi Trúc:
Tim anh cằn cỗi lâu rồi
Bỗng nghe em hát bồi hồi lại rung.
"""