"
Fibonacci Trading - Carolyn Boroden & Thái Phạm(dịch) & Lại Quốc Việt (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Fibonacci Trading - Carolyn Boroden & Thái Phạm(dịch) & Lại Quốc Việt (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
Fibonacci Trading
Cách thức làm chủ lợi thế về thời gian và giá trong giao dịch
Nguyên tác: Fibonacci Trading: How to Master the Time and Price Advantage
Tác giả: Carolyn Boroden
Dịch giả: Thái Phạm, Lại Quốc Việt
Nhà xuất bản: Thế Giới
Nhà phát hành: Happy Live
Trọng lượng: 350g
Kích thước: 13 x 20,5 cm
Số trang: 324
Năm xuất bản: 2020
Giá bìa: 299.000đ
Thể loại: Tài chính
ebook©vctvegroup
MỤC LỤC
LỜI TỰA
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI CẢM ƠN
LỜI GIỚI THIỆU
CHƯƠNG 01 DÃY SỐ FIBONACCI VÀ TỈ LỆ VÀNG
CHƯƠNG 02 ÁP DỤNG CÁC TỈ LỆ FIBONACCI LÊN TRỤC GIÁ CỦA THỊ TRƯỜNG CHƯƠNG 03 CÁC MỨC GIÁ FIBONACCI HỒI QUY
CHƯƠNG 04 CÁC MỨC GIÁ FIBONACCI MỞ RỘNG
CHƯƠNG 05 GIÁ MỤC TIÊU HOẶC MỨC GIÁ DỰ PHÓNG FIBONACCI CHƯƠNG 06 CÁC THIẾT LẬP CỤM GIÁ FIBONACCI: THIẾT LẬP GIAO DỊCH 1 CHƯƠNG 07 CÂN XỨNG CÔNG CỤ MẠNH MẼ: THIẾT LẬP GIAO DỊCH 2 CHƯƠNG 08 THIẾT LẬP MÔ HÌNH HAI BƯỚC: THIẾT LẬP GIAO DỊCH SỐ 3 CHƯƠNG 09 LỰA CHỌN CÁC DAO ĐỘNG ĐỂ PHÂN TÍCH
CHƯƠNG 10 ÁP DỤNG TỈ LỆ FIBONACCI LÊN TRỤC THỜI GIAN CỦA THỊ TRƯỜNG CHƯƠNG 11 CÁC CỤM THỜI GIAN FIBONACCI
CHƯƠNG 12 SỬ DỤNG BÁO CÁO DỰ PHÓNG VÀ BIỂU ĐỒ CỘT THEO THỜI GIAN CHƯƠNG 13 HỢP LƯU CỦA THỜI GIAN VÀ GIÁ
CHƯƠNG 14 CÁC ĐIỂM KÍCH HOẠT VÀ CHỈ BÁO
CHƯƠNG 15 THIẾT LẬP GIAO DỊCH LÝ TƯỞNG
CHƯƠNG 16 TỪ PHÂN TÍCH TỚI ĐIỂM MỞ VỊ THỂ - ĐẶT TẤT CẢ LẠI VỚI NHAU CHƯƠNG 17 ĐÁNH BẠI XÁC SUẤT VỚI MỘT KẾ HOẠCH GIAO DỊCH
Carolyn Boroden là cố vấn giao dịch hàng hóa và là nhà phân tích kỹ thuật chuyên về phân tích thời gian và phân tích giá dựa theo Fibonacci. Trọng tâm của cô là tập trung vào sự đồng thuận và sự hợp lưu của cả hai loại phân tích giá và phân tích thời gian được xác định theo các tỷ lệ Fibonacci giúp xác định được các thiết lập giao dịch có xác suất thành công cao và rủi ro tương đối thấp. Cô Boroden đã tham gia vào ngành công nghiệp giao dịch từ năm 1978. Kinh nghiệm của cô đó là làm việc tại các Sàn giao dịch lớn, bao gồm: Sàn giao dịch Chicago Mercantile, Ủy ban giao dịch Chicago, NYFE và COMEX.
Trong 4 năm, cô Boroden đã dạy một phần trong hội thảo Chicago Commodity Boot Camp (tạm dịch: Hội thảo thúc đẩy giao dịch Hàng hóa Chicago) về các kỹ thuật giao dịch cao cấp sử dụng các tỷ lệ Fibonacci lên trên cả hai trục thời gian và trục giá của thị trường. Cô đã trở thành một diễn giả nổi bật về phân tích Fibonacci ở nhiều nơi như Market Technicians Association (Hiệp hội các nhà phân tích Kỹ thuật Thị trường), the Online Trading Expo (Triển lãm Giao dịch Trực tuyến), TradingMarket và Tập đoàn Đầu tư Cornerstone.
Cô Boroden hiện đang điều hành một dịch vụ tư vấn giao dịch trong ngày/phòng trò chuyện, bao gồm các cập nhật video cuối ngày tập trung vào các hợp đồng tương lai chỉ số Cổ phiếu. Cô cố vấn cho các nhà giao
dịch cá nhân về các kỹ thuật phân tích của mình và cũng tiến hành các cuộc hội thảo theo nhóm về loại phân tích kỹ thuật này.
LỜI TỰA
Bạn thân mến, trong lịch sử tài chính hàng trăm năm nay, thị trường chứng khoán đã và đang là một trong những kênh đầu tư hấp dẫn bên cạnh đầu tư bất động sản, kinh doanh, khởi nghiệp... Thị trường này cũng đã góp phần tạo ra rất nhiều những triệu phú đô la trên thế giới. Tất nhiên, ở một khía cạnh khác, những cạm bẫy cũng luôn chực chờ để "nuốt gọn" tài sản của những người tham gia thị trường muốn giàu có mà không cần đổ mồ hôi hay muốn tìm đến sự giàu có dễ dàng.
Để thành công trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư phải luôn luôn trau dồi kiến thức, củng cố tư duy (mindset), chui rèn phương pháp và kiểm soát rủi ro chặt chẽ.
Trên thị trường, rất nhiều trường phái khác nhau hiện đang cùng tồn tại và phát triển: có trường phái đầu cơ, có trường phái đầu tư; có người kinh doanh ngắn hạn và có người kinh doanh, đầu tư dài hạn. Nhưng khi nói đến kinh doanh hay đầu tư cổ phiếu, có ba phương pháp cơ bản: Một là, Fundamental Analysis (Phân tích cơ bản - FA). Hai là, Technical Analysis (Phân tích kỹ thuật - TA). Ba là, sự kết hợp giữa phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật (kết hợp giữa FA và TA).
Và nếu chỉ xét riêng trong phương pháp giao dịch theo Phân tích kỹ thuật - TA, nhà đầu tư cũng đứng trước nhiều lựa chọn đa dạng: Swing Trade, Giao dịch theo hệ thống đẩy, Giao dịch theo xu hướng, Giao dịch kiếm sống, sóng Elliott, hệ thống giao dịch lchimoku Kinko Hyo,...
Tôi thường trao đổi và chia sẻ với các nhà đầu tư hay các học viên của mình là không có Holy Grail - Chén thánh trong đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Muốn thành công, chúng ta cần phải biết nhiều phương pháp nhưng hãy hoàn thiện kỹ năng để đạt đến trình độ thành thục cho một đến một vài phương pháp kinh doanh nhất định. Lý Tiểu Long, huyền thoại võ thuật, đã từng nói "tôi không sợ một người biết 10,000 cú đá; tôi chỉ sợ một người (võ sư) thực tập một cú đá 10,000 lần". Đó cũng chính tinh thần của tôi và cộng sự của mình ở Happy Live - Cộng đồng Đầu tư và Thịnh vượng khi cố gắng cho ra mắt những ấn phẩm về nhiều phương pháp kinh
doanh, đầu tư chứng khoán khác nhau cho các nhà đầu tư toàn Việt Nam. Chúng tôi hy vọng nhà đầu tư có thể chắt lọc, lựa chọn cho mình phương pháp kinh doanh phù hợp và thực tập "10,000 lần" phương pháp đã chọn một cách kiên định.
Để tiếp tục bổ sung những kiến thức và một phương pháp giao dịch giúp nhà đầu tư kinh doanh cổ phiếu ở Việt Nam trở nên dễ dàng hơn, tôi và Happy Live trân trọng giới thiệu với quý vị độc giả và những nhà đầu tư Việt Nam, nhất là những người mới bắt đầu, một cuốn sách đang rất "hot" và đang "làm mưa làm gió" trên thị trường đầu tư chứng khoán thế giới: FIBONACCI. Cuốn sách này sẽ là cẩm nang hướng dẫn dành cho người mới bắt đầu kinh doanh, đầu tư chứng khoán về: các công cụ giao dịch, chiến thuật, quản lý tiền, kỷ luật và tâm lý giao dịch.
Tất nhiên, do tôn trọng bản quyền của tác giả và trong phạm vi khuôn khổ của một cuốn sách chuyển ngữ, sẽ có phần áp dụng ở thị trường nước ngoài cụ thể như về công cụ có thể chưa có dịch vụ tại Việt Nam, tuy nhiên, tư duy kinh doanh, chiến thuật, cách quản lý tiền và kỷ luật, tâm lý giao dịch là những thứ mà những nhà đầu tư mới bắt đầu sẽ học hỏi được và nhanh chóng bắt nhịp để tham gia vào thị trường.
Chúc quý vị đầu tư thành công!
Sài Gòn, tháng 11 năm 2019
Thái Phạm
Trưởng nhóm Biên Dịch
LỜI NÓI ĐẦU
Hầu hết các nhà giao dịch đã được tiếp xúc với một số khía cạnh của thứ chúng ta gọi là giao dịch theo tỉ lệ Fibonacci, chủ yếu liên quan đến các mức giá hồi quy của Fibonacci. Các nhà giao dịch đã sử dụng các mức hồi quy này trong nhiều năm để giúp họ xác định các mức hỗ trợ và kháng cự. Tuy nhiên, các mức hồi quy của Fibonacci chỉ là một ứng dụng cho những người mới bắt đầu khi dùng các tỉ lệ quan trọng này để phục vụ giao dịch. Cách sử dụng chúng trong các tình huống giao dịch khác nhau rất quan trọng. Thêm nữa, có những tỉ lệ hình học và thông số khác cũng quan trọng không kém mà bạn sẽ học được trong cuốn sách này.
Điều mà hầu hết các nhà giao dịch chưa bao giờ được dạy là làm thế nào để sử dụng các tỉ lệ Fibonacci cho việc xác định ra các thời điểm mục tiêu của hỗ trợ và kháng cự theo cách tương tự như chúng được sử dụng cho việc tìm kiếm các mức giá mục tiêu. Khi bạn kết hợp các thời điểm dự phóng và các mức giá mục tiêu theo Fibonacci vào làm một phần trong kế hoạch giao dịch của bạn, bạn sẽ có một cách tiếp cận sắc bén về việc xác định các cơ hội giao dịch tốt. Tôi không nghĩ rằng có bất kỳ ai đạt đủ điều kiện hơn để dạy cho bạn về các chiến lược giao dịch thời gian và giá theo tỉ lệ Fibonacci so với cô ấy: FibQueen (tên thật là Carolyn Boroden).
Lần đầu tiên tôi gặp Carolyn vào năm 1989 tại hội nghị Gann-Elliott Magazine thứ nhất (trước khi phất triển thành Traders World Magazine) ở Chicago. Cô ấy là một trong những học viên đầu tiên học trong khóa học giao dịch của tôi - Gann Home Study Trading Course, khóa học này cũng được triển khai lần đầu tiên tại hội nghị đó. Nhưng cô không phải là người mới tham gia và giao dịch trên thị trường tài chính trong năm 1989. Không giống như hầu hết các học viên giao dịch khác, Carolyn đã dành cả quãng thời gian trưởng thành của mình để làm việc trên các thị trường tài chính, từ một vận động viên thiếu niên đến một cố vấn tài chính, rồi tới nhà cố vấn giao dịch trong ngày. Theo thời gian cô là một học viên không ngừng nghỉ của các thị trường, cô cũng đã có nhiều năm trải nghiệm thực tế ở hầu hết các giai đoạn trong nghề giao dịch.
Kể từ năm 1989, chúng tôi đã giữ liên lạc trong vài năm, trao đổi qua. fax các biểu đồ, các phân tích và các chiến lược giao dịch với nhau, qua lại giữa Tucson và Chicago. Đến năm 1993, tôi đã thuyết phục cô ấy chuyển đến Tucson để làm việc với tôi. Cô ấy sớm đã nhận được lời đề nghị cung cấp các chiến lược giao dịch và phân tích cho một quỹ với số tiền lương lớn hơn nhiều so với những gì tôi trả cho cô ấy, nhưng chúng tôi vẫn là bạn bè và cộng sự kể từ đó.
Cô ấy là một học viên của phương pháp Dynamic Trading của tôi trong gần 20 năm và cô đã sử dụng phần mềm Dynamic Trading của tôi, thứ mà bạn sẽ nhìn thấy trong cuốn sách này, kể từ khi phiên bản thứ nhất được phát hành vào năm 1997. Không có ví dụ nào tốt hơn về mối quan hệ "học viên trở thành giáo viên" hơn trường hợp của Carolyn và tôi. Trong những năm gần đây, tôi đã học được nhiều điều từ cô ấy như cô ấy đã học được từ tôi trong những năm đầu tiên, đặc biệt là về các thiết lập cân xứng và chiến lược giao dịch của cô ấy, những điều bạn sẽ học được trong cuốn sách này.
Tôi rất tự hào khi là người cố vấn của FibQueen trong những năm đầu và mãi mãi là một người bạn của cô ấy, và tôi biết rằng lúc này cuốn sách của cô đang trong tay bạn, đây sẽ là một trong những cuốn sách tham khảo quý giá nhất phục vụ cho công việc giao dịch của bạn.
ROBERT MINER
Dynamic Traders Group, Inc.
Steamboat Springs, CO
LỜI CẢM ƠN
Tôi muốn cảm ơn nhiều giáo viên của tôi trong những năm qua. Đầu tiên, người cố vấn của tôi, Robert Miner, người mà tôi đã gặp ở hội nghị trong khách sạn Midland tại Chicago ngay sau vụ sụp đổ thị trường năm 1987. Những người khác đã đóng góp cho quá trình học tập của tôi trong những năm qua bao gồm Robert Krausz (người đã nói với tôi về buổi hội nghị nơi tôi đã gặp người cố vấn của mình), Larry Pesavento, Bryce Gilmore, David Patterson, Mark Douglas và Woodie của woodiescciclub.com.
Cảm ơn những cộng sự kinh doanh mới của tôi John Carter và Hubert Senters và nhóm Tradethemarkets.com vì những giúp đỡ và hỗ trợ của họ trong việc tiếp thị và phát triển việc kinh doanh của tôi.
Tôi muốn cảm ơn Richard Karst, còn gọi là RMK, vì đã hỗ trợ tôi trong phòng trò chuyện để đôi khi tôi có thể có một cuộc sống tốt hơn! Cảm ơn bạn John Haytol, vì lời khuyên máy tính và tầm nhìn của một phòng trò chuyện ảo với các biểu đồ trực tiếp. Tôi cũng muốn cảm ơn Todd Phillips vì đã giúp tôi thực hiện theo dõi màn hình với các công nghệ chia sẻ màn hình trên máy tính, nó đã thay đổi mãi mãi phòng trò chuyện của tôi. Cảm ơn Richard Lowrance đã tin tưởng và ủng hộ công việc của tôi. Cảm ơn người bạn Joe Nicholas của Hedge Fund Research, người đã nghĩ rằng tôi đã "có một thứ gì đó" kể từ khi anh ấy giữ một hồ sơ kinh doanh của tôi! Cảm ơn bạn, William M. Kidder, hay còn gọi là chú Bill, người đã cho tôi cơ hội chứng tỏ bản thân tại DLJ khi tôi 18 tuổi trong công việc đầu tiên ở Phố Wall!
Tôi cũng muốn công nhận sự đóng góp của những người bạn và khách hàng của tôi, Tiến sĩ Firouz Amirparviz, người đã rời xa chúng tôi vào tháng 12 năm 2004. Tôi muốn cảm ơn anh ấy và gia đình anh ấy đã đối xử với tôi như thể tôi là một phần trong gia đình họ.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tôi muốn cảm ơn toàn thể gia đình King vì tình yêu và sự hỗ trợ của họ, đặc biệt là trong việc viết cuốn sách này. Rốt cuộc, một Nữ hoàng cần vị Vua của mình! Gia đình này
thực sự đã giúp tôi giữ được tỉnh táo những lúc tôi làm việc quá sức tới mức gần như đến bờ vực của sự suy sụp tinh thần.
Tôi yêu tất cả các bạn!
CB
aka Fibonacci Queen
LỜI GIỚI THIỆU
Mục đích của tôi khi viết cuốn sách này là để giới thiệu cho bạn về thế giới diệu kỳ của Fibonacci cũng như cung cấp cho bạn một phương pháp giao dịch chi tiết để có thể được thêm vào danh sách các chiến lược giao dịch hiện tại của bạn. Đối với tôi, phương pháp này đã liên tục tìm ra các cơ hội giao dịch quan trọng trên thị trường kể từ năm 1989, và nó chưa bao giờ làm tôi phải thất vọng.
Chương 1 sẽ giới thiệu cho bạn các dãy số Fibonacci và Tỉ lệ vàng, chúng chính là xương sống của phương pháp này. Chương 2 đến 9 sẽ đưa bạn tới các bước sử dụng Fibonacci trên trục giá của thị trường, bao gồm các thiết lập giao dịch được tạo ra bởi công việc này. (Đây là các thiết lập giao dịch mà tôi cung cấp cho khách hàng của tôi mỗi ngày trong phòng trò chuyện trực tuyến của mình.)
Các chương từ 10 đến 13 giải thích cách áp dụng Fibonacci trên trục thời gian của thị trường và sau đó kết hợp việc này với việc áp dụng trên trục giá để tìm ra các thiết lập giao dịch có xác suất thành công cao nhất. Chương 14 đến 16 sẽ giúp bạn điều chỉnh các điểm mở vị thế tham gia vào thị trường của bạn, sau đó kết thúc bằng một ví dụ về thiết lập giao dịch từ việc phân tích đến điểm mở vị thế giao dịch. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chương 17 tập trung vào phần tâm lý giao dịch, kỷ luật, quản lý vốn và tầm quan trọng của việc có một kế hoạch giao dịch được viết ra. (Tâm lý giao dịch phù hợp sẽ cho phép bạn thực hiện được kế hoạch giao dịch của mình, tính kỷ luật giúp bạn thực hiện đúng theo kế hoạch và những kỹ thuật quản lý vốn phù hợp).
Giống như có một sự khởi đầu tốt trong trò chơi Texas Hold'em (một biến thể của bài Xì tố - chú thích của người dịch), cuốn sách này sẽ hướng dẫn bạn cách sắp xếp xác suất thành công trên thị trường đứng về phía có lợi cho bạn.
CHƯƠNG 01
DÃY SỐ FIBONACCI VÀ TỈ LỆ VÀNG
Đối với những người chưa quen thuộc với cái tên Fibonacci, bạn có thể nhớ ra là mình đã nghe một điều gì đó về cái tên này vào năm 2006, khi bộ phim Mật mã DaVinci xuất hiện trên các rạp chiếu phim. Trong đó, người ta phát hiện Jacques Saunière bị sát hại tại Bảo tàng Louvre ở Paris, vị trí kỳ lạ mà nhân vật quá cố này được đặt trong bức tranh mô phỏng nổi tiếng về Người đàn ông Vitruvian của Leonardo da Vinci. Bức tranh này đã được biết đến để minh họa cách các tỉ lệ Fibonacci xuất hiện trên cơ thể con người. Bộ phim cũng khơi gợi sự tò mò của một số người khi các nhân vật trong phim bắt đầu nói về các dãy số Fibonacci như một phần của một manh mối hoặc một mật mã nào đó. Đối với bản thân tôi, tôi chỉ cười thầm và nghĩ rằng: "đó là khoảng thời gian ai đó đang nghiên cứu nghiêm túc về Fibonacci".
Dãy số Fibonacci và các thuộc tính của dãy số này đã trở nên phổ biến bởi nhà toán học người Ý nổi tiếng Leonardo de Pisa. Dãy số Fibonacci bắt đầu bằng 0 và 1 và đi tới vô cùng, tính số tiếp theo trong dãy số này bằng cách cộng hai số trước lại với nhau. Ví dụ: 55 + 89 = 144, 89 + 144 = 233, 144 + 233 = 377, v.v. (xem dãy số sau):
0, 1, 1,2, 3, 5, 8, 13, 21,34, 55, 89, 144, 233, 377, 610, 987. . . tới vô cùng.
Điều hấp dẫn nhất về dãy số này là có một hằng số được tìm thấy trong chuỗi khi nó tiến dần đến vô tận. Trong mối quan hệ giữa các con số trong chuỗi, bạn sẽ thấy tỉ lệ này là 1.618 hoặc nó được gọi là Tỉ lệ vàng, Số trung bình vàng hoặc Tỉ lệ thần thánh. (Ví dụ: 55 x 1.618 = 89 và 144 = 1.618 x 89). Lấy bất kỳ hai số liên tiếp nào trong dãy số Fibonacci sau khi bạn đã vượt qua số đầu tiên, bạn sẽ tìm thấy Tỉ lệ vàng. Cũng lưu ý rằng nghịch đảo hoặc đối ứng của 1.618 là 0.618.
Có khá nhiều trang web nói về dãy số này và các thuộc tính của nó. Chỉ cần nhập từ Fibonacci vào công cụ tìm kiếm yêu thích của bạn và bạn sẽ ngạc nhiên về sự giàu có của thông tin tồn tại về chủ đề này.
Tỉ lệ vàng có thể được tìm thấy ở nhiều nơi khác nhau. Tỉ lệ 1.618 được sử dụng trong kiến trúc với tên gọi "hình chữ nhật vàng", vì nó được biết đến như là hình làm hài lòng đôi mắt. Thực tế, có những bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ sử dụng các tỉ lệ này để giúp họ điêu khắc khuôn mặt theo tỉ lệ hoàn hảo. Bạn cũng có thể tìm thấy tỉ lệ này trong tự nhiên. Nó có thể
được nhìn thấy trong hoa, vỏ ốc anh vũ, vỏ của loài cúc đá ammonite, và nhiều nơi khác. Điều làm tôi thấy hấp dẫn nhất là tỉ lệ này xuất hiện trong ngôi sao năm cánh (xem Hình 1 -1), được biết đến như một biểu tượng cho kiến thức huyền bí ẩn giấu. Nó như muốn chỉ ra với tôi rằng, có thể tỉ lệ nằm trong ngôi sao năm cánh nắm giữ bí mật của thị trường!
Hình 1-1
Tại một thời điểm trong quá trình học tập của tôi, tôi đã nghiên cứu nghiêm túc chủ nghĩa thần bí của người Do Thái. Một trong những giáo viên của tôi đến từ ngôi đền Golden Dawn ở California đã đưa cho tôi một bản sao của một bộ phim hoạt hình Disney có tên là Donald ở vùng đất Toán học (Donald in Mathmagic Land) và nói rằng tôi có thể sẽ thích nó. Một học viên khác đã chú ý đến nó, vì Vịt Donald có một hình ngũ giác được khắc trên tay trong phim hoạt hình Disney này.
Vịt Donald - Donald Duck, cũng được gọi phổ biến vịt Đô-nan, là một nhân vật hư cấu trong phim hoạt hình và truyện tranh của hãng Walt Disney. Donald là một chú vịt trắng hình người có mở và chân màu vàng cam. Chú thường xuất hiện với chiếc áo và chiếc mũ “thủy thủ” nhưng không mặc quần (ngoại trừ những lúc Donald đi bơi. Theo tập phim hoạt hình “Donald Gets Drafted” (1942), tên đầy đủ của Donald Duck là Donald Fauntleroy Duck (từ “Fauntleroy” có lẽ ám chỉ chiếc mũ thủy thủ của chú, một bộ phận không thể thiếu của bộ quần áo thủy thủ). Trang
web chính thức của Disney cũng đã công bố tên của chú là Donald Fauntleroy Duck.
Nguồn: Wiki
Trong bộ phim hoạt hình này, được sản xuất để dạy trẻ em về toán học, Donald Duck đã tham gia một cuộc phiêu lưu ở vùng đất Mathmagic, với Plato và Pythagoras, nói về "các vấn đề xã hội toán học bí mật", và tìm hiểu về Tỉ lệ vàng. Phim hoạt hình minh họa nơi mà các tỉ lệ 0.618 và 1.618 tồn tại trong tự nhiên và các công trình kiến trúc. Phim được Disney phát hành vào năm 1959, vẫn còn có sẵn thông qua Internet, và nó rất đáng xem. Câu trích dẫn ở phần cuối của phim hoạt hình là của Galileo, "Toán học là bảng chữ cái mà Thiên chúa đã viết lên vũ trụ".
Galileo Galilei (được phiên âm trong tiếng Việt là Ga-li-lê, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1564 và mất ngày 8 tháng 1 năm 1642. Ông là một nhà thiên văn học, vật lý học, toán học và triết học người Ý, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Các thành tựu của ông gồm những cải tiến cho kính thiên văn và các quan sát thiên văn sau đó, và ông ủng hộ Chủ nghĩa Kopernik. Galileo đã được gọi lã “cha đẻ của việc quan sát Thiên văn học hiện đại”, “cha đẻ của Vật lý hiện đại”, “cha đẻ của Khoa học” và “cha đẻ của Khoa học hiện đại”.
Tôi tin điều này là đúng. Nếu bạn nghiên cứu "mã số" của dãy số Fibonacci và các tỉ lệ xuất phát từ dãy số này đủ lâu, tôi nghĩ bạn sẽ bắt đầu đồng ý hoặc ít nhất là hiểu được lời tuyên bố đó. Đây không phải là thứ chỉ được chấp nhận một cách mù quáng mà bởi vì tôi đã thấy nó là sự thật. Đó là điều mà bạn phải khám phá và sau đó chứng minh với chính bản thân mình trên hành trình của riêng bạn!
Điều quan trọng đối với hầu hết các nhà giao dịch là việc áp dụng các tỉ lệ này có thể giúp xác định các vùng hỗ trợ và kháng cự quan trọng trên thị trường, và từ đó xác định các cơ hội giao dịch hoặc thiết lập các giao dịch chính. Tôi sẽ chỉ cho bạn cách áp dụng các tỉ lệ này trong bất kỳ
thị trường nào nếu có dữ liệu đầy đủ. Do đó, ứng dụng của nó có thể mang lại cho bạn một lợi thế rất lớn khi là một nhà giao dịch, nếu bạn sử dụng các kỹ thuật theo đúng cách.
CHƯƠNG 02
ÁP DỤNG CÁC
TỈ LỆ FIBONACCI LÊN TRỤC GIÁ CỦA THỊ TRƯỜNG
Chúng ta sẽ không sử dụng dãy số Fibonacci để phân tích thị trường. Thay vào đó, chúng ta sẽ sử dụng các tỉ lệ xuất phát từ dãy số này. Chúng ta đã thảo luận về 1.618 và 0.618 hoặc Tỉ lệ vàng và tỉ lệ nghịch của nó. Các tỉ lệ chính tôi sử dụng trong phân tích hàng ngày của mình là: 0.382, 0.50, 0.618, 0.786, 1.00, 1.272 và 1.618.
Đôi khi tôi cũng sẽ có bao gồm cả: 0.236, 2.618 và 4.236.
Trong Chương 1, bạn đã thấy cách chúng ta có thể tìm thấy các tỉ lệ 0.618 và 1.618 trong dãy số Fibonacci, nhưng phần còn lại của các tỉ lệ này thì sao? Vâng, thực tế, tất cả chúng đều liên quan đến toán học.
Ví dụ:
1.00 - 0.618 = 0.382
0.618 x 0.618 = 0.382
1.00/2 = 0.50
Căn bậc hai của 0.618 = 0.786 (√0.618 = 0.786)
0.618 là đối ứng của 1.618 (√0.618 = 1.618)
0.618 - 0.382 = 0.236
0.382 x 0.618 = 0.236
1.618 x 1.618 = 2.618
2.618 x 1.618 = 4.236
Bây giờ chúng ta sẽ làm gì với các tỉ lệ này và làm cách thế nào để chúng có thể giúp chúng ta giao dịch?
Chúng ta sẽ tìm thấy các thiết lập giao dịch hoặc cơ hội giao dịch của mình bằng cách áp dụng các tỉ lệ Fibonacci quan trọng trên trục giá của thị trường. Có ba thiết lập giao dịch cơ bản mà tôi sử dụng trong phòng trò chuyện của mình hàng ngày: (1) thiết lập cụm giá, (2) thiết lập cân xứng và (3) thiết lập mô hình Hai bước.
Mẹo của tác giả: Loại phân tích giá Fibonacci này có thể hoạt động tốt ở bất kỳ thị trường nào và áp dụng hầu hết trên bất kỳ khung thời gian nào, miễn là có đủ dữ liệu và bạn có thể xác định các đỉnh và đáy trên biểu đồ. Đừng cố sử dụng loại phân tích này lên một thứ gì đó như cổ phiếu penny, đồ thị của nó là nơi bạn không thể xác định được bất kỳ sự thay đổi nào có
ý nghĩa, hoặc trong một thị trường với dữ liệu cung cấp chỉ ở mức tối thiểu. Trong những trường hợp như vậy, kỹ thuật này sẽ không có giá trị.
CÁC CÔNG CỤ GIAO DỊCH
Vì bạn đang xem xét loại phân tích kỹ thuật này, tôi giả sử rằng bạn đã có một máy tính; một nguồn dữ liệu thị trường như dữ liệu của e-signal, quote.com hoặc dữ liệu của Genesis Financial; và một chương trình phân tích kỹ thuật để kỹ thuật hóa dữ liệu. Bạn có thể thực hiện một số thao tác này bằng tay với các biểu đồ trên giấy và máy tính hoặc bộ chia tỉ lệ, mặc dù việc đó khá tẻ nhạt và không thực tế. (Thời kỳ tôi bắt đầu giai đoạn phân tích kỹ thuật trong sự nghiệp của mình, tôi đã phải thao tác với những công cụ lỗi thời đó, nhưng với tất cả các công nghệ tuyệt vời hiện có ngày hôm nay, tôi không khuyên mọi người làm điều này).
Chương trình phân tích kỹ thuật mà tôi chủ yếu sử dụng để thực hiện công việc theo dõi diễn biến giá và thời gian là Dynamic Trader, với e signal là nguồn cung cấp dữ liệu cho tôi. Có những chương trình khác cũng hoạt động tốt, ít nhất là với việc phân tích giá. Mặc dù vậy, chỉ có một số chương trình có đồng thời cả công cụ phân tích giá và phân tích thời gian phù hợp mà bạn sẽ cần mỗi khi bạn chọn phân tích kết hợp cả hai loại giá và thời gian của thị trường.
Trừ các trường hợp khác biệt, hầu hết các ví dụ biểu đồ trong cuốn sách này được xuất bản từ phần mềm Dynamic Trader. Cũng lưu ý rằng một số biểu đồ có thể xuất hiện hơi mờ, hoặc một số hình bạn không thể đọc phần giá được rõ ràng. Đừng lo lắng. Tôi không sử dụng chương trình đồ họa kém chất lượng để chụp những tấm hình minh họa biểu đồ này. Điều này xảy ra bởi vì mức giá đang co cụm lại và về cơ bản chúng chồng chéo lên nhau, làm cho các mức giá trong biểu đồ bị khó đọc. Đây là một điều mà chúng ta thực sự muốn nhìn thấy chúng xảy ra. Tất cả điều này sẽ có ý nghĩa với bạn khi bạn đã vượt qua hết nửa đầu tiên của cuốn sách này.
MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC MỨC GIÁ FIBONACCI
Chúng ta bắt đầu bằng cách xem xét ba loại mối quan hệ khác nhau của giá theo tỉ lệ Fibonacci để tìm ra các thiết lập giao dịch cho mình. Chúng bao
gồm: Hồi quy (Retracement), Mở rộng (Extention) và Dự phóng (Projection - đôi khi được gọi là giá mục tiêu). Đầu tiên chúng ta sẽ xem xét từng loại giá này. Sau đó, chúng ta sẽ kết hợp chúng lại với nhau trong khi tìm kiếm các thiết lập giao dịch của mình. Mỗi mức giá theo Fibonacci này sẽ thiết lập lên các mức hỗ trợ tiềm năng hoặc kháng cự tiềm năng trên biểu đồ mà bạn đang phân tích.
Định nghĩa của hỗ trợ là một khu vực giá nằm ở bên dưới giá của thị trường hiện tại, nơi bạn có thể sẽ tìm thấy sự chấm dứt của đợt giảm giá và đó cũng là nơi bạn có thể xem xét trở thành người mua của bất kỳ thị trường nào mà bạn đang phân tích. Bạn có thể tìm điểm mua tại hoặc xung quanh khu vực hỗ trợ để bắt đầu mở một vị thế mua mới hoặc thoát khỏi một vị thế bán khống nếu bạn nghĩ rằng vùng hỗ trợ đó có thể giữ vững và thị trường sẽ không còn giảm thấp hơn vùng này. Định nghĩa về kháng cự là một khu vực giá nằm cao hơn giá của thị trường hiện tại, nơi bạn có thể tìm thấy khả năng chấm dứt một đợt tăng giá và xem xét đến việc bán ra. Bạn có thể xem xét điểm bán ra tại hoặc quanh khu vực kháng cự để bắt đầu mở một vị thế bán khống mới hoặc thoát khỏi một vị thế mua nếu bạn nghĩ rằng mức kháng cự này có thể giữ vững và thị trường sẽ không thể tiếp tục đi lên cao hơn.
Trong ba chương tiếp theo, bạn sẽ khám phá các loại quan hệ giá cần thiết để giúp ích cho những phân tích của bạn. Xin đừng quá choáng ngợp với những thông tin tôi trình bày trong suốt cuốn sách này. Hãy kiên nhẫn với chính mình. Nếu bạn bắt đầu bằng cách áp dụng "khái niệm" kiên nhẫn này ngay từ đầu, bạn sẽ được đền đáp xứng đáng cho sự kiên trì của bạn.
CHƯƠNG 03
CÁC MỨC GIÁ
FIBONACCI HỒI QUY
Fibonacci hồi quy được xác định trong vùng dao động từ đáy (mức giá thấp nhất) tới đỉnh (mức giá cao nhất) trước đó bằng các tỉ lệ 0.382, 0.50, 0.618 và 0.786 (0.236 cũng được sử dụng trong một số trường hợp nếu vùng dao động tương đối dài) để xác định các mức hỗ trợ tiềm năng có thể xảy ra khi thị trường giảm lại từ đỉnh. Các mức giá hồi quy cũng được xác định ngược lại với vùng dao động từ đỉnh xuống đáy bằng cách sử dụng các tỉ lệ tương tự này, từ đó tìm ra các mức kháng cự tiềm năng khi thị trường bật lên từ đáy.
Hầu hết các bộ chương trình phân tích kỹ thuật cơ bản sẽ xác định các mức hồi quy khi chọn vùng dao động mà bạn muốn nó xác định từ đó, đồng thời cũng có tích hợp các công cụ giá Fibonacci phù hợp trong chương trình mà bạn đang sử dụng. Tuy nhiên, nếu bạn muốn tìm hiểu theo mặt toán học, hãy nhân độ dài của vùng dao động mà bạn chọn (từ giá thấp nhất đến cao nhất hoặc từ giá cao nhất xuống thấp nhất) với các mức tỉ lệ hồi quy và sau đó lấy đỉnh trừ đi kết quả nếu bạn đang muốn xác định dao động từ giá thấp nhất đến cao nhất, hoặc cộng thêm kết quả vào đáy khi bạn đang xác định dao động từ đỉnh xuống đáy.
Hình 3-1
Hình 3-1 cho bạn thấy thiết lập công cụ các mức giá hồi quy/mở rộng trên chương trình Dynamic Trader mà tôi đã sử dụng để xác định các ví dụ về mức giá hồi quy sau đây. Lưu ý rằng tôi đã lựa chọn trong hộp thiết lập này các tỉ lệ mà tôi sẽ sử dụng để xác định cho cả mức giá hồi quy và mức giá mở rộng (sẽ được minh họa trong chương tiếp theo). Sử dụng cùng một công cụ bởi vì cả hai mức giá mở rộng và mức giá hồi quy đều được xác định từ hai điểm trên biểu đồ. Vì bản chất toán học của chương trình này chỉ sử dụng hai điểm đó nên chúng ta có thể sử dụng cùng một công cụ để xác định các mức giá mở rộng của vùng dao động giá trước đó.
Lưu ý: Tất cả các mức giá hồi quy trên các ví dụ biểu đồ của Dynamic Trader sẽ được dán nhãn là các mức hồi quy RET bởi chương trình.
Bây giờ bạn đã có ý tưởng về loại công cụ Fibonacci mà bạn có thể sử dụng cho công việc của mình, hãy lướt qua một số ví dụ hồi quy để giúp bạn hiểu những gì bạn có thể tìm kiếm được trên biểu đồ. Hình 3-2 là một ví dụ về biểu đồ ngày của hợp đồng tương lai vàng tháng 2 năm 2007. Chúng ta đã xác định các mức giá Fibonacci hồi quy từ đáy ngày 04/10/2006 lên đỉnh ngày 01 /12/2006, đó là một vùng giá dao động 86.90 điểm, chúng ta đi tìm kiếm các mức hỗ trợ tiềm năng. Lưu ý rằng hợp đồng tương lai này chỉ tìm thấy mức hỗ trợ quanh mức Fibonacci hồi quy 0.618 của vùng dao động trước đó. Không có tỉ lệ Fibonacci nào khác cung cấp thêm mức hỗ trợ có ý nghĩa.
Hợp đồng tương lai (futures contract): Trong lĩnh vực tài chính, hợp đồng tương lai là một hợp đồng chuẩn hóa giữa hai bên nhằm trao đổi một tài sản cụ thể có chất lượng và khối lượng chuẩn hóa với giá thỏa thuận hôm nay (gọi là giá tương lai (futures price) hay giá xuất phát nhưng lại giao hàng vào một thời điểm cụ thể trong tương lai, ngày giao hàng).
Nguồn: Wiki
Hình 3-2
Ví dụ, Fibonacci hồi quy tiếp theo này là trên biểu đồ FOREX (Foreign Exchange là kinh doanh, giao dịch các loại tiền tệ của các quốc gia khác nhau với nhau - chú thích của người dịch). Kinh nghiệm của tôi trong lĩnh vực kinh doanh này chủ yếu là trong ngành công nghiệp Hợp đồng tương lai, bao gồm cả hàng hóa, với sự tập trung chủ yếu vào các thị trường Hợp đồng tương lai tài chính. Tôi cũng đã nhận thấy loại phân tích này phù hợp với các chỉ số tiền tệ, các cổ phiếu riêng lẻ và các thị trường FOREX. Trên biểu đồ ngày của đồng Euro (xem Hình 3-3), chúng ta xác định các mức Fibonacci hồi quy từ đỉnh 04/12/2006 xuống đáy ngày 18/12/2006, để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng xảy ra. Trong trường hợp này, đồng Euro đã tìm thấy ngưỡng kháng cự đầu tiên tại mức Fibonacci hồi quy 0.618 và sau đó là mức Fibonacci hồi quy 0.786 của cùng dao động đó.
Hình 3-3
Ví dụ mức giá Fibonacci hồi quy tiếp theo của chúng ta là trên biểu đồ khung thời gian cỡ nhỏ 15 phút của chỉ số Dow (xem Hình 3-4). Tại đây, các mức giá Fibonacci hồi quy đã được xác định từ đỉnh được tạo ra lúc 13:15 vào ngày 17/01/2007 (theo giờ địa phương) xuống đáy được tạo ra vào lúc 8:45 ngày 19/01/2007 (theo giờ địa phương), ở ví dụ này, chúng ta đã tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng khi giá bật lên từ đáy vào ngày 19/01. Lưu ý rằng khi có nhiều vùng dao động nhỏ trong vùng dao động lớn thì chúng ta đo các mức giả Fibonacci này. Trong các ví dụ tiếp theo, chúng ta sẽ xác định nhiều mức giá hồi quy từ nhiều vùng dao động đó. Còn trong ví dụ này, có một vùng dao động nhỏ nằm ở mức giá Fibonacci hồi quy 0.382 trên đường giá đi lên, nhưng một sự đảo chiều giá quan trong hơn nhiều xảy ra ở mức giá Fibonacci hồi quy 0.618.
Hình 3-4
Hình 3-5 là một ví dụ mức giá Fibonacci hồi quy khác trong biểu đồ khung thời gian cỡ nhỏ 45 phút của hợp đồng chỉ số Dow. Đây là một ví dụ về một vùng dao động đủ dài (243 điểm) để có thể bao gồm thêm mức 0.236 trong các mức giá Fibonacci hồi quy dự kiến, ở ví dụ này, chúng ta tìm kiếm các mức hỗ trợ tiềm năng. Và với trường hợp này, chúng ta nhận thấy một sự phục hồi nhỏ từ mức giá Fibonacci hồi quy 0.236, sau đó có một diễn biến giá tích cực hơn từ mức giá Fibonacci hồi quy 0.382. Ví dụ này cũng thể hiện rằng chúng ta sẽ không thể luôn luôn nhìn thấy các lần giá chạm rồi bật lại hoàn hảo theo các mức trong dãy số Fibonacci. Tuy nhiên, miễn là chúng ở mức giá tương đối gần nhau, chúng vẫn được coi là hợp lệ.
Tương đôi gần thường là giá ở mức cao hơn hoặc thấp hơn 3 đến 4 đơn vị so với giá mục tiêu thực tế. Ví dụ, trong trường hợp này, mức giá đáy 12482 được tạo ra ở gần mức giá Fibonacci hồi quy 0.382 là chỉ thấp hơn 4 điểm so với mức giá của Fibonacci hồi quy thực tế là 12486. Ở một số thị trường khác, chẳng hạn như FOREX, tôi có thể cho phép chênh lệch cao hơn một chút, đặc biệt là nếu bạn đang xác định các mức giá Fibonacci hồi quy của một vùng giá dao động khá lớn.
Hình 3-5
Mẹo của tác giả: Theo nguyên tắc thông thường, một cách tốt để đánh giá xem mức độ có được coi là có giá trị hay không là bạn chỉ cần nhìn vào biểu đồ mà bạn đang phân tích. Nếu mức giá đó không bị vi phạm một cách rõ ràng hoặc thiếu hụt một chút, tôi vẫn sẽ coi nó có giá trị và để nó trên biểu đồ.
Hình 3-6
Ví dụ về mức giá Fibonacci hồi quy tiếp theo này nằm trên biểu đồ hàng ngày của cổ phiếu Microsoft (xem Hình 3-6). Ở đây, chúng tôi đã xác định các mức hồi quy của giai đoạn giá di chuyển từ đỉnh ngày 15/11/2004 tại 27.50 xuống đáy ngày 29/03/2005 tại 23.82 để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng có thể xảy ra trên đường giá tăng lại. Lưu ý rằng chỉ có mức giá Fibonacci hồi quy 0.618 là mức duy nhất tạo ra sự thay đổi trong xu hướng trên biểu đồ này. Đỉnh giá đã được tạo ra một cách chính xác ở mức giá hồi quy 26.09. Bạn không nên luôn luôn mong đợi các lần giá chạm mức hồi quy hoàn hảo chính xác bằng cách sử dụng các mức giá Fibonacci này. Tuy nhiên, cũng đừng bất ngờ khi nó thực sự xảy ra!
Ví dụ về các mức giá Fibonacci hồi quy tiếp theo của chúng ta là trên biểu đồ hàng ngày của cổ phiếu Google (xem Hình 3-7). Ở đây chúng ta đã đo một vùng dao động từ đỉnh xuống đáy để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng xảy ra. Mức giá Fibonacci hồi quy xuất hiện từ đỉnh ngày 16/1/2007 tại 513.00 xuống đáy ngày 05/03/2007 tại 437.00. Một mức giá cao quan trọng đã được tao ra khi giá chạm tới mức giá Fibonacci hồi quy 0.382 và giá quay trở lại từ đỉnh này.
Hình 3-7
Nhìn kỹ hơn vào biểu đồ này, bạn sẽ nhận thấy rằng có những dao động nhỏ hơn trong một dao động lớn hơn như tôi đo được. Chúng ta có thể xác định các mức giá Fibonacci hồi quy trong các dao động nhỏ hơn này và cũng có thể xác định các mức giá Fibonacci hồi quy trong các dao động khác trùng lặp với nhau. Khi các mức hồi quy bắt đầu chồng chéo lẫn nhau theo cách này, hiện tượng giao thoa này sẽ cho thấy mức giá đó quan trọng hơn.
Hãy cùng xem một biểu đồ hàng ngày khác của cổ phiếu Google trong Hình 3-8 và xem xét việc các mức giá Fibonacci hồi quy khác có thể được xác định trong một vùng dao động lớn hơn so với biểu đồ trước đó. Lần này chúng tôi đã xác định vùng dao động từ đỉnh ngày 22/02/2007 tại 484.24 xuống đáy ngày 05/03/2007 tại mức giá 437.00. Trong trường hợp này, mức giá Fibonacci hồi quy 0.618 tại 466.19 ở biểu đồ này đã tạo ra một sự trùng lặp với mức giá Fibonacci hồi quy 0.382 tại 466.03 từ biểu đồ trước. Đỉnh thực tế đã được tạo ra ở 465.50 - mức giá vừa đủ gần cho sự hoạt động của các mức giá hồi quy này.
Hình 3-8
Thực tế là có thêm một vài mức giá Fibonacci khác chồng chéo lên nhau ở khu vực này mà bạn sẽ nhận ra khi bạn tiếp tục đọc các chương tiếp theo trong cuốn sách này. Với sự giao thoa tích cực của các mức giá Fibonacci có thể được chúng ta xác định ra trước, hiện tượng này đã cảnh báo cho các nhà giao dịch về một tín hiệu đảo chiều rõ ràng sắp xảy ra đối từ đỉnh ngày 08/03/2007!
Hình 3-9 là một ví dụ về mức giá Fibonacci hồi quy trong đó chúng ta đang xem biểu đồ FOREX hàng ngày của đồng bảng Anh. Đo từ đáy ngày 29/06/2006 lên đỉnh ngày 08/08/2006 để tìm kiếm các mức hỗ trợ tiềm năng, mức giá Fibonacci hồi quy duy nhất tạo ra sự thay đổi của xu hướng là mốc 50%. Đây không phải là một lần giá chạm chính xác vào mức giá Fibonacci hoàn hảo, nhưng giá đủ gần để cho ra một tín hiệu đảo chiều. Một đáy quan trọng khác đã được tạo ra ở mức giá Fibonacci hồi quy 0.618. Mặc dù giá không thực sự đi xuống đủ gần để được coi là một lần giá chạm, nhưng giá đã nhận được sự hỗ trợ quan trọng ở vùng này cho một dao động giá lớn.
Hình 3-9
Trong ví dụ mức giá Fibonacci hồi quy tiếp theo này, Hình 3-10, chúng ta đang xem xét biểu đồ hàng ngày của General Motors và xác định các mức hồi quy từ đáy ngày 05/04/2006 lên đỉnh ngày 13/09/2006, để tìm ra các mức hỗ trợ tiềm năng khi giá có thể xuất hiện một sự hồi phục (pullback).
Pullback là một thuật ngữ tiếng anh để diễn tả diễn biến giá thị trường bị kéo lại (hoặc gọi là điều chỉnh) đi ngược chiều với xu hướng chính).
Hình 3-10
Trong trường hợp này, chúng ta chỉ thấy một sự phục hồi nhỏ khi giá về mức giá Fibonacci hồi quy 0.236 trước khi cổ phiếu này có đợt tăng giá trở lại.
Ví dụ mức giá Fibonacci hồi quy tiếp theo này nằm trên biểu đồ 15 phút của hợp đồng tương lai chỉ số Nasdaq (xem Hình 3-11). Chúng tôi đã đo từ đỉnh 1822.25 xuống đáy 1789.00 để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng có thể xuất hiện trên đường giá hồi phục. Trên biểu đồ này, chúng ta chỉ thấy một phản ứng rõ ràng từ đỉnh của mức giá Fibonacci hồi quy 0.618. Mức hồi quy đó tại 1809.55. Thực tế, đỉnh được tạo ra chỉ nằm dưới mức đó một ít tại 1809.00.
Hình 3-11
Hình 3-12
Hình 3-12 là biểu đồ hàng ngày của Công ty 3M. Nó cho thấy rằng chúng ta đã xác định các mức hồi quy từ đáy ngày 07/07/2006 lên đỉnh
ngày 19/09/2006 để tìm kiếm các mức hỗ trợ tiềm năng. Trong trường hợp này, cổ phiếu đã quay trở lại từ mức giá Fibonacci hồi quy 0.382 và sau đó tiếp tục có đợt tăng giá mới.
Hãy cùng xem xét một ví dụ khác về Fibonacci hồi quy trên biểu đồ 15 phút của hợp đồng Russell. Trong Hình 3-13, chúng ta đã đo từ đỉnh 815.60 xuống đáy 796.80 để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng trên đường giá tăng trở lại. Trong trường hợp này, chúng ta chỉ thấy giá có phản ứng tại mức giá Fibonacci hồi quy 0.786. Giá thực tế đã tăng lên chỉ thấp hơn mức hồi quy đó 2 đơn vị, nhưng như vậy đã là đủ gần. Một sự giảm giá liên tục đã diễn ra ngay sau đó khi giá chạm mức giá Fibonacci hồi quy này.
Hình 3-13
CÁC MỨC HỒI QUY ĐÚNG
Một trong những cách mà bạn sẽ tạo ra các thiết lập cụm giá Fibonacci là bằng cách xác định các mức hồi quy trên nhiều dao động của biểu đồ bạn đang phân tích. Trong những năm qua, tôi đã chứng kiến các học sinh của mình mắc lỗi bằng việc sử dụng một số dao động sai trong phân tích của
họ. Tôi hy vọng rằng các ví dụ sau đây sẽ chỉ ra cho bạn cách tránh các loại lỗi sai tương tự đó.
Trong Hình 3-14, chúng ta đang xem biểu đồ hàng ngày của Home Depot. Tôi đã xác định một số loại dao động có thể được sử dụng trong phân tích của chúng ta để có thể tìm ra các vùng hỗ trợ tiềm năng. Khi xác định các mức hỗ trợ tiềm năng của một dao động từ thấp đến cao, bạn cần xác định chúng từ những đáy lên đỉnh trên biểu đồ. Ví dụ, trong biểu đồ này, ngoài việc xác định từ đáy ngày 20/10/2006 lên đỉnh ngày 03/01/2007, bạn cũng có thể xác định các tỉ lệ Fibonacci từ những đáy khác lên đỉnh ngày 03/01/2007. Các dao động khác tôi sẽ chạy từ đáy ngày 14/11/2006 lên đỉnh ngày 03/01/2007, đáy ngày 28/11/2006 lên đỉnh ngày 03/01/2007, đáy ngày 12/12/2006 lên đỉnh ngày 03/01/2007, và đáy ngày 26/12/2006 lên đỉnh ngày 03/01/2007. Tất cả những dao động này sẽ đều có giá trị trong việc xác định ra các mức hỗ trợ tiềm năng khi thị trường giảm xuống từ đỉnh ngày 03/01/2007. Khi bạn chạy nhiều lần hồi quy giá, bạn sẽ nhận thấy rằng một số mức này sẽ chồng chéo lên nhau. (Đây là những gì chúng ta muốn thấy).
Hình 3-14
Á Ứ Ô Ú
CÁC MỨC HỒI QUY KHÔNG ĐÚNG
Trong Hình 3-15, trên cùng biểu đồ này của Home Depot, tôi đang minh họa rằng có một số loại dao động không có giá trị trong việc xác định các mức hỗ trợ tiềm năng khi chúng ta giao dịch từ đỉnh ngày 03/01/2007 xuống. Các dao động này có thể có giá trị để xác định các mức hỗ trợ tiềm năng vào thời điểm khác, nhưng chúng sẽ không liên quan đến những phân tích của thị trường hiện tại. Nói cách khác, việc xác định các mức giá Fibonacci hồi quy từ đáy ngày 20/10/2006 lên đỉnh vào ngày 20/11/2006 sẽ không liên quan đến thị trường hiện tại, nơi chúng ta đang tìm kiếm các mức hỗ trợ cho việc giảm giá từ đỉnh ngày 03/01/2007. Nó sẽ có liên quan khi bạn đang tìm kiếm các mức hỗ trợ tiềm năng cho một sự hồi phục từ đỉnh ngày 20/11/2016. Tuy nhiên, khi giá vượt qua đỉnh ngày 20/11/2016, bạn sẽ phải sử dụng đỉnh mới tại thời điểm đó để xác định các mức hỗ trợ tiềm năng tiếp theo. Theo lý do đó, việc sử dụng đáy ngày 14/11/2006 lên đỉnh ngày 15/12/2006 hoặc sử dụng đáy ngày 11/11/2006 lên đỉnh ngày 15/12/2006 sẽ không liên quan đến việc phân tích của thị trường hiện tại, mặc dù nó sẽ có liên quan khi giá vẫn chưa vượt lên được đỉnh ngày 15/12/2006. Tôi hy vọng những ví dụ trực quan này sẽ giúp bạn nhận ra được quan điểm của tôi.
Hình 3-15
CÁC MỨC HỒI QUY ĐÚNG TỪ CAO XUỐNG THẤP
Hãy cùng xem trong một ví dụ hợp đồng dầu thô (Crude Oil Contract) mà nó chỉ ra cách thức phù hợp để xác định các mức hồi quy phức tạp đối với các mức kháng cự tiềm năng khi có thể xảy ra từ đáy ngày 31/10/2016. Khi xác định dao động từ cao đến thấp, chỉ cần nhớ rằng hãy lấy tất cả các đỉnh của bạn xuống đáy trên đồ thị, trong trường hợp này thì đáy ngày 31/10/2006. Ít nhất là bạn phải luôn luôn xác định được khoảng cách dao động từ đỉnh trên đồ thị đáy có trên đồ thị. Sau đó, để có thêm nhiều mức hồi quy, xác định thêm các dao động của các đỉnh cao hơn xuống đáy nhất có trên đồ thị. Như trong Hình 3-16, bạn có thể thấy rằng tất cả các dao động sau đây có liên quan đến việc xác định các mức kháng cự tiềm năng của thị trường tại thời điểm đó.
- Đỉnh ngày 17/07/2006 xuống đáy ngày 31/10/2006.
- Đỉnh ngày 08/08/2006 xuống đáy ngày 31/10/2006.
- Đỉnh ngày 25/08/2006 xuống đáy ngày 31/10/2006.
- Đỉnh ngày 28/09/2006 xuống đáy ngày 31/10/2006.
- Đỉnh ngày 17/10/2006 xuống đáy ngày 31/10/2006.
Có một vùng dao động nhỏ nữa có thể được sử dụng trong trường hợp này, nhưng đỉnh của nó chỉ thấp hơn một chút so với đỉnh ngày 10/17/2006. Vì các đỉnh tương đối gần nhau, nên việc xác định thêm là không cần thiết, mặc dù chính xác thì bạn vẫn có thể xác định nó. Xác định hồi quy của tất cả các vùng dao động được liệt kê ở trên sẽ giúp tìm ra các vùng kháng cự tiềm năng có thể xảy ra của đợt tăng giá lại bắt đầu từ đáy ngày 31/10/2006. Tuy nhiên, nếu đáy này bị vi phạm, các mức hồi quy sẽ phải được xác định lại từ đáy mới.
Hình 3-16
Hình 3-17
Biểu đồ thứ hai của hợp đồng dầu thô, trong Hình 3-17, minh họa một số dao động giá không liên quan đến hoạt động thị trường hiện tại ở
thời điểm đó vì các dao động đó không được đo từ đáy được tạo ra trên đồ thị vào ngày 31/10/2006. Ví dụ: xác định mức giá Fibonacci hồi quy của dao động từ đỉnh ngày 17/07/2006 xuống đáy ngày 25/09/2006 sẽ không có giá trị cho phân tích giá hiện tại, vì đầy ngày 25/09/2006 đã bị vượt qua bởi một mức giá thấp hơn. Tuy nhiên, các mức giá Fibonacci hồi quy đó sẽ có giá trị khi đáy ngày 25/09/2006 là đáy trên đồ thị. Các dao động khác cũng không có giá trị khi xác định từ đỉnh ngày 08/08/2006 xuống đáy ngày 25/09/2006 và từ đỉnh ngày 25/08/2006 xuống đáy ngày 04/10/2006, trên đồ thị này, ngày 31/10/2006 là ngày có đáy được tạo ra.
Trước khi tôi chuyển sang phần các mức giá Fibonacci mở rộng, tôi muốn giải quyết một câu hỏi mà tôi được hỏi trong hầu hết các bài thuyết trình của mình. Tôi luôn luôn được hỏi liệu các mức hỗ trợ Fibonacci cũ có trở thành mức kháng cự mới hay không, hay liệu mức kháng cự cũ có trở thành mức hỗ trợ mới hay không. Câu trả lời là không, có đơn giản không phải là một phần của phương pháp luận. Có những lần dường như đây là một sự trùng hợp, vì một thị trường sẽ có xu hướng được kéo trở lại vùng giá trước đó sau khi vùng đó đã bị phá vỡ. Tuy nhiên, cách chính xác hơn để tìm các mức hỗ trợ và kháng cự mới là xác định các đỉnh/thấp nhất mới được tạo bởi diễn biến giá gần nhất. Chúng ta phải coi thị trường này là một vật năng động, có sự sống, một vật liên tục phát triển và tiếp tục phân tích nó theo hướng như vậy.
CHƯƠNG 04
CÁC MỨC GIÁ
FIBONACCI MỞ RỘNG
Trong chương này, tôi sẽ chỉ cho bạn những ví dụ về các mức giá Fibonacci mở rộng, chúng cũng được thiết lập để sử dụng như là các mức hỗ trợ hoặc kháng cự tiềm năng cho bất kỳ thị trường nào bạn đang phân tích. Các mức giá mở rộng tương tự như các mức giá hồi quy, trong đó chúng cũng được xác định từ đáy lên đỉnh hoặc từ đỉnh xuống đáy, và cũng chỉ sử dụng hai điểm dữ liệu để xác định các mức giá có thể xảy ra. Sự khác biệt duy nhất ở đây là với các mức giá hồi quy, chúng ta đang xác định các mức giá Fibonacci của các dao động trong phạm vi nhỏ hơn 100% của dao động đó hoặc là các mức hồi quy của giai đoạn di chuyển trước. Trong khi đó với các mức giá mở rộng, chúng ta đang xác định các mức giá liên quan của dao động giá trước đó vượt hơn 100%. Mặc dù nhiều khả năng bạn sẽ sử dụng cùng một công cụ giá từ chương trình phân tích giao dịch mà bạn đang dùng, các kỹ thuật này được đặt tên khác nhau để cho biết liệu các mức giá xảy ra trong phạm vi dao động giá trước hay vượt ra ngoài phạm vi dao động giá đó.
Các mức giá mở rộng được xác định từ dao động giá trước đó từ thấp lên cao bằng các tỉ lệ Fibonacci 1.272 và 1.618 cho các mức giá hỗ trợ tiềm năng. Và các mức mở rộng được xác định từ dao động giá trước đó từ đỉnh xuống đáy với các tỉ lệ 1.272 và 1.618 là dành cho các mức kháng cự tiềm năng. Bạn cũng có thể thêm các tỉ lệ 2.618 và 4.236. Tôi sẽ sử dụng 2.618 làm giá mục tiêu thứ ba cho thiết lập giao dịch, nhưng tôi sẽ chỉ xem xét 4.236 nếu tôi đang phân tích một diễn biến giá mở rộng rất lớn của thị trường và cố gắng tìm kiếm một nơi cuối cùng có thể xác định điểm kết thúc việc giá di chuyển.
Tôi đã sử dụng cùng một công cụ là Dynamic Trader được hiển thị trong chương trước - Fibonacci hồi quy để xác định cho các ví dụ Fibonacci mở rộng sau đây. Hầu hết các chương trình phân tích sẽ đi kèm việc xác định các mức giá Fibonacci mở rộng từ cùng một công cụ của Fibonacci hồi quy, vì chúng cũng được đo chính bằng hai điểm giá trên biểu đồ. Bản chất toán học là như nhau, với sự khác biệt duy nhất ẩn sau là các mức hồi quy trong phạm vi nhỏ hơn 100% của dao động giá trước còn các mức mở rộng là vượt quá 100% của dao động giá trước.
Lưu ý: Những gì tôi gọi là các mức giá mở rộng trong những phân tích của mình được gắn nhãn là EX Ret trên biểu đồ Dynamic Trader mà
bạn sẽ thấy trong các ví dụ dưới đây. Robert Miner - người cố vấn của tôi, đã đề cập đến những điều này như các mức giá hồi quy so sánh với các mức giá mở rộng.
Hình 4-1
Ví dụ về mức giá Fibonacci mở rộng đầu tiên của chúng ta được minh họa trên biểu đồ ngày của chỉ số Russell Cash (xem Hình 4-1). Các tỉ lệ mở rộng 1.272 và 1.618 đã được xác định ra từ đỉnh ngày 21/04/2006 xuống đáy ngày 27/04/2006 để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng khi giá bắt đầu tăng lại từ đáy ngày 27/04/2006 đó. Trong trường hợp này, việc biết được vị trí của mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 sẽ cực kỳ có giá trị đối với một nhà giao dịch, vì một giai đoạn giảm giá mạnh mẽ đã diễn ra ngay sau khi giá chạm vào mức kháng cự này.
Hình 4-2
Ví dụ mức giá Fibonacci mở rộng tiếp theo được minh họa trên biểu đồ 60 phút của Hợp đồng tương lai Dầu thô (Crude oil futures) (xem Hình 4-2). Ở đây, chúng tôi đã xác định từ đáy được tao ra ở mức 51.58 trong ngày 12/01/2007 lên đỉnh được tạo ra ở mức 53.38 trong ngày 15/01/2007. Xác định các mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 và 1.618 để tìm ra các mức hỗ trợ tiềm năng. Lưu ý rằng một đáy quan trọng đã được tạo ra trong tích tắc tại mức giá mở rộng 1.618, trong đó một đợt tăng giá trên 2.00 đã được nhìn thấy! Một điều tôi đã học được thông qua sử dụng các mức giá mở rộng trong nhiều năm qua là nhiều lần diễn biến giá có xu hướng chấm dứt - hoặc chấm dứt tạm thời tại các mức tỉ lệ giá mở rộng này.
Hình 4-3
Hãy xem xét một ví dụ mức giá Fibonacci mở rộng khác, lần này là trên biểu đồ hợp đồng tương lai của chỉ số Dow. Trong Hình 4-3, chúng ta đã xác định dao động từ cao xuống thấp trên biểu đồ 15 phút này để tìm kiếm các mức kháng cực tiềm năng để giá đi lên. Lưu ý rằng có một đợt suy giảm nhỏ tại mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 và sau đó là một đợt suy giảm nhỏ khác tại mức giá Fibonacci mở rộng 1.618. Hợp đồng tương lai cuối cùng đã tăng lên vượt qua cả hai cấp độ này. Điều này không phải là bất thường vì lúc đó chúng ta đang ở trong một xu hướng tăng tốt, nhưng các mức này đã cung cấp một số mức hỗ trợ tạm thời đối với việc di chuyển giá, đó là lý do tại sao với tư cách là một nhà giao dịch bạn muốn nhận biết được chúng.
Hình 4-4
Ví dụ Fibonacci mở rộng tiếp theo là trên biểu đồ 15 phút của hợp đồng tương lai S&P (xem Hình 4-4). Chúng tôi đo từ đỉnh được tạo ra ở mức 1435.75 xuống đáy được tạo ra ở mức 1429.25, để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng xảy ra trên đường giá đi lên. S&P gần như không hề dừng lại ở mức giá Fibonacci mở rộng 1.272, nhưng nó đã tạm dừng và cho chúng ta thấy một đợt suy giảm nhỏ ở mức giá Fibonacci mở rộng 1.618. Một lần nữa, điều này không quá đáng ngạc nhiên, vì biểu đồ 15 phút đang cho thấy một mô hình tăng trưởng giá tốt.
Hình 4-5
Hình 4-5 là một ví dụ khác về mức giá Fibonacci mở rộng được xác định trên biểu đồ 15 phút của hợp đồng tương lai S&P. Chúng tôi đã đo được mức dao động từ thấp đến cao trước đó (từ đáy ngày 17/01/2007 tại 1435.50 - được tạo ra lúc 2:15 chiều giờ địa phương, lên đỉnh ngày 18/01/2007 là 1440.75 - được tạo ra lúc 9:00 sáng giờ địa phương) và đã xác định các mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 và 1.618 để tìm ra các mức hỗ trợ tiềm năng. Hợp đồng S&P thậm chí đã không dừng lại ở mức giá Fibonacci mở rộng 1.272; tuy nhiên, đáy có thể giao dịch được tạo ra lại chính là tại mức giá Fibonacci mở rộng 1.618 của vùng dao động này.
Hình 4-6
Ví dụ tiếp theo về Fibonacci mở rộng (xem Hình 4-6) được tạo ra trên biểu đồ hàng ngày của hợp đồng tương lai Russell. Mức giá Fibonacci mở rộng 1.618 xác định được tại 832.10 sau khi đo từ đỉnh ngày 05/12/2006 xuống đáy ngày 09/01/2007, với trước đó là mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 đã dễ dàng bị vượt qua. Một trong những tính năng trên phần mềm Dynamic Trader là chương trình sẽ tự động xóa các mức giá Fibonacci khi đã bị vượt qua rồi một mức chênh lệch khá lớn. Trong trường hợp này, đây là lý do tại sao mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 không còn được hiển thị trên biểu đồ. Đỉnh thực tế được tạo ra là 831.90, chỉ thấp hơn 2 đơn vị so với mức giá Fibonacci mở rộng 1.618. Một đợt suy giảm 58.70 điểm đã diễn ra sau mức giá Fibonacci mở rộng đó. Tôi liên tục nhắc nhở các nhà giao dịch của tôi hãy thắt chặt thêm các điểm dừng lỗ của mình các vị thế của họ khi chúng tôi tiến gần đến mức giá mở rộng 1.272 của một vùng dao động trước hoặc vượt qua nó, vì nhiều động thái giá thường chấm dứt hoặc ít nhất là tạm thời chấm dứt khi tiến vào các vùng giá mở rộng.
Hình 4-7
Trong Hình 4-7, chúng ta đang xem xét một mức giá Fibonacci mở rộng trên biểu đồ hàng ngày của SBUX. Ở đây, chúng tôi đã đo từ đáy ngày 01/12/2006 ở mức 34.90 lên đỉnh ngày 05/12/2006 ở mức 37.14 để tìm kiếm mức hỗ trợ tiềm năng. Chúng ta đã thấy một cú nảy lại tuyệt vời xung quanh mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 của vùng dao động này, mặc dù nó không phải là một lần chạm hoàn hảo. Đáy được tạo ra vào ngày 26/01/2007 đã được tạo ra mức giá Fibonacci mở rộng 1.618 tại 33.52. Đáy thực tế được tạo ra chỉ thấp hơn vài đơn vị tại 33.49.
Hình 4-8
Trên biểu đồ hàng ngày của IBM được hiển thị trong Hình 4-8, chúng tôi đã đo từ đỉnh ngày 29/11/2005 ở mức 89.94 xuống đáy ngày 18/06/2006 ở mức 72.73 để tìm kiếm mức kháng cự tiềm năng của đợt tăng giá từ đáy ngày 18/06/2006. Trong trường hợp này, mức giá Fibonacci mở rộng 1.618 đã cung cấp một mức kháng cự như vậy. Một lần nữa lưu ý rằng đây không phải là một điểm giá chạm hoàn hảo: mức giá Fibonacci mở rộng đạt 100.58 và đỉnh thực tế được tạo ra là ở mức 100.90. Tuy nhiên, miễn sao mức chênh lệch giữa hai mức giá Fibonacci và giá thực tế không quá lớn, tôi thường sẽ vẫn để nó ở trên biểu đồ và theo dõi phản ứng có thể xảy ra xung quanh nó.
Hình 4-9
Google là một cổ phiếu dường như có sự tôn trọng (nguyên tắc hình học theo tiêu chuẩn Fibonacci) của thị trường thường xuyên hơn. Trong Hình 4-9, chúng tôi đã đo từ đáy ngày 12/02/2007 được tạo ra ở mức 455.02 lên đỉnh ngày 22/02/2007 được tạo ra tại 484.24 để tìm kiếm mức hỗ trợ tiềm năng tại các mức giá Fibonacci mở rộng, cổ phiếu này hầu như không hề dừng lại ở mức giá Fibonacci mở rộng 1.272. Tuy nhiên, chúng ta đã thấy một sự phục hồi có thể giao dịch được sau khi giá kiểm định lại khu vực quanh mức giá Fibonacci mở rộng 1.618.
Hình 4-10
Trong Hình 4-10, chúng tôi đã xác định các mức giá Fibonacci mở rộng trên biểu đồ hàng ngày của cổ phiếu Intel, sử dụng giai đoạn dao động giá từ đỉnh ngày 16/10/2006 tại 22.03 xuống đáy ngày 06/11/2006 tại 20.32 để tìm kiếm các mức khăng cự tiềm năng. Mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 đã được xác định và giá chạm chính xác vào mức này tại 22.50. Một đợt suy giảm mạnh mẽ đã diễn ra theo sau đỉnh này.
Hình 4-11
Trên biểu đồ hàng ngày của Home Depot trong Hình 4-11, chúng tôi đã xác định các mức giá Fibonacci mở rộng của việc di chuyển từ đỉnh ngày 01/11/2006 tại 37.64 xuống đáy ngày 14/11/2006 tại 35.77 để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng. Trong trường hợp này, tại mức giá Fibonacci mở rộng 1.618 đã tạo ra đỉnh có thể giao dịch. Cổ phiếu này sau đó đã tiếp tục xu hướng tăng sau khi phục hồi mạnh mẽ sau đợt giảm giá từ đỉnh ngày 20/11/2016. Hãy nhớ rằng có nhiều trong số các mức giá Fibonacci này sẽ không tạo ra sự thay đổi trong xu hướng và có thể bị vượt qua hàng ngày. Trong các chương sau tôi sẽ chỉ cho bạn các ví dụ mà trong đó ngay cả một cụm các mức giá Fibonacci vẫn không tạo ra được sự thay đổi trong xu hướng, thậm chí ngay cả một thay đổi nhỏ. Phương pháp này không phải là một phép màu, nhưng nếu bạn học được cách sử dụng nó đúng cách, nó chắc chắn sẽ cung cấp cho bạn một lợi thế giao dịch đáng kể.
Hình 4-12
Trong biểu đồ hàng ngày của Yahoo được hiển thị trong Hình 4-12, chúng tôi đã xác định các mức giá Fibonacci mở rộng của đợt di chuyển từ đỉnh ngày 07/06/2005 ở mức 38.95 xuống đáy ngày 21/09/2005 tại 31.60 với nhiều dao động nhỏ nằm trong dao động lớn này. Chúng tôi đang tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng tại các mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 và 1.618 trên biểu đồ này. Đỉnh có thể giao dịch được tạo ra chỉ thấp hơn một vài xu so với mức giá Fibonacci mở rộng 1.618 tại 43.49.
Hình 4-13
Các mức giá Fibonacci có thể được sử dụng trên bất kỳ biểu đồ khung thời gian nào. Hình 4-13 là biểu đồ 3 phút của chỉ số S&P. Được đo từ đáy tại 1398.50 lên đỉnh 1403.50. Chúng ta sẽ tìm kiếm các mức hỗ trợ tiềm năng tại các mức giá Fibonacci mở rộng của giai đoạn dao động giá này. Và trong trường hợp này, một đáy có thể giao dịch được tạo ra chính là ở mức giá Fibonacci mở rộng 1.618.
Mẹo của tác giả: Trong phòng trò chuyện của mình, tôi sử dụng tính năng tự động gõ để nhắc nhở các nhà giao dịch liên tục rằng có nhiều diễn biến giá chấm dứt tại các mức Fibonacci mở rộng, vì tôi thấy điều này xảy ra rất thường xuyên.
Hình 4-14
Biểu đồ hàng ngày của tiền mặt S&P (cash S&P) (xem Hình 4-14) là một ví dụ khác về việc thị trường bật lại khi chạm vào mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 hoặc 1.618. Xác định giá di chuyển từ đáy ngày 05/03/2007 lên đỉnh ngày 09/03/2007, chúng ta có được mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 của vùng dao động này tại 1364.13. Đáy thực tế được tạo ra là tại 1363.98. Một đợt tăng giá lên 74 điểm mạnh mẽ đã diễn ra ngay sau khi giá chạm vào mức giá Fibonacci mở rộng đó và vẫn có thể còn tiếp diễn.
Trong chương này, các ví dụ biểu đồ đã minh họa rằng nhiều động thái giá có xu hướng chấm dứt tại các mức Fibonacci mở rộng của giai đoạn dao động giá trước đó. Những mức này cao hơn bình thường. Bây giờ bạn hãy xem các mức giá Fibonacci dự phóng trong chương tiếp theo của chúng tôi.
CHƯƠNG 05
GIÁ MỤC TIÊU HOẶC MỨC GIÁ DỰ PHÓNG FIBONACCI
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, trong chương này tôi sẽ chỉ cho bạn cách áp dụng các mức giá Fibonacci dự phóng cho biểu đồ mà chúng ta đang phân tích. Những mức giá dự phóng này đôi khi cũng được gọi là mức giá mục tiêu. Tôi có thiên hướng xác định ra chúng trên biểu đồ của mình bằng các chữ cái PO (là viết tắt của Rejection objective - chú thích của người dịch) cho các mức giá Fibonacci dự phóng hơn là các mức giá mục tiêu.
Các mức giá Fibonacci dự phóng này được xác định từ ba điểm trên biểu đồ và là sự so sánh sự dao động trong cùng một xu hướng. Chúng được xác định từ một vùng dao động trước đó từ điểm giá thấp nhất lên điểm giá cao nhất và sau đó được chiếu xuống một đáy điều chỉnh thấp nhất khác để tìm ra các mức kháng cự tiềm năng. Hoặc được xác định từ một vùng dao động trước đó từ điểm giá cao nhất xuống đáy điều chỉnh thấp nhất và sau đó chiếu lên một mức giá điều chỉnh cao nhất khác để có thể xác định ra các mức hỗ trợ tiềm năng, ở đây chúng tôi sử dụng các tỉ lệ Fibonacci 1.00 và 1.618 để xác định các mức giá mục tiêu.
Phép chiếu 100% cũng là nơi chúng ta tìm thấy sự cân xứng. (Khái niệm này sẽ được thảo luận ở phần sau trong chương thiết lập giao dịch cân xứng). Điều bạn cần biết vào thời điểm này là tính cân xứng trên biểu đồ được định nghĩa là sự dao động tương tự nhau hoặc bằng nhau của giá theo cùng một hướng. Tôi sử dụng các phép chiếu cân xứng mỗi ngày để thiết lập các giao dịch theo xu hướng. Khái niệm này sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta đi qua các ví dụ biểu đồ.
Hình 5-1
Để xác định các mức giá Fibonacci này, bạn phải sử dụng một công cụ phân tích cho phép sử dụng ba điểm trên biểu đồ. Trong phần mềm Dynamic Trader, nó được gọi là Công cụ giá dự phóng lần lượt (Alternate price projection tool). Thiết lập của công cụ này được minh họa trong Hình 5-1.
Có thể có một số nhầm lẫn khi tôi dạy cách xác định các mức giá Fibonacci dự phóng, vì nhiều chương trình phân tích kỹ thuật gọi công cụ Fibonacci khi sử dụng ba điểm là công cụ Fibonacci mở rộng thay vì công cụ giá dự phóng, chỉ cần nhớ rằng để xác định các mức giá dự phóng của dao động trong xu hướng trước đó, bạn cần sử dụng một công cụ cho phép bạn chọn ra ba điểm, bất kể nó được gọi là gì.
Lưu ý: Những gì tôi gọi là giá dự phóng hoặc giá mục tiêu trong quá trình phân tích của mình sẽ được gắn nhãn APP (hoặc Alternate Price Projections) trong các biểu đồ ví dụ trên nền tảng Dynamic Trader.
Hình 5-2
Ví dụ giá dự phóng đầu tiên của chúng ta là Hình 5-2, biểu đồ chứng khoán hàng ngày của General Motors. Hãy nhớ rằng với công cụ giá dự phóng sử dụng ba điểm, chúng ta đang so sánh sự dao động của giá theo cùng một chiều, ở đây, chúng ta đo được dao động từ điểm A đến điểm B, đó là một vùng dao động giá với 3.90 điểm. Sau đó, chúng tôi đã xác định hai mức giá dự phóng 1.00 và 1.618 của vùng dao động trước đó từ điểm C, để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng. Mức giá dự phóng đầu tiên 1.00 xuất hiện ở 34.28. Giá không có phản ứng ở mức giá dự phóng đầu tiên này. Mức giá dự phóng thứ hai 1.618 xuất hiện ở 36.69. Lưu ý rằng đợt tăng giá của GM đã chấm dứt ngay bên dưới mức giá dự phóng thứ hai này - ít nhất là trong tạm thời.
Hình 5-3
Ví dụ mức giá dự phóng thứ hai của chúng ta là trên biểu đồ 3 phút của hợp đồng tương lai S&P. Trong Hình 5-3, chúng ta chỉ sử dụng mức giá dự phóng 1.00, vì chúng tôi đang xác định mức kháng cự tiềm năng của đợt tăng giá điều chỉnh hồi phục lại trong một xu hướng giảm chính. Tôi thích xác định dao động của đợt điều chỉnh bởi chúng sẽ xuất hiện thường xuyên hơn, bạn sẽ nhìn thấy hiện tượng ngang bằng hoặc tương đồng trong những dao động này. Đây trở thành một công cụ mạnh mẽ giúp hỗ trợ tìm điểm mở vị thế của cơ hội các giao dịch theo hướng của xu hướng của chúng ta.
Lưu ý rằng vùng dao động đầu tiên được minh họa trên biểu đồ này có biên độ là 2.50 điểm của S&P từ đáy tại 1434.25 lên đỉnh tại 1436.75. Sau đó, chúng tôi đã lấy mức 100% của vùng dao động đó và xác định giá dự phóng nó từ đáy được tạo ra tại 1433.75 cho ra kết quả mức giá dự phóng là 1436.25 và là một mức kháng cự tiềm năng.
Đỉnh thực tế được tạo ra cũng chính xác tại mức giá mục tiêu 100% này. Một đợt giảm giá hơn 4.00 điểm đã được diễn ra từ mức giá dự phóng
cân xứng này. Trong trường hợp này có một sự cân xứng hoàn hảo (bằng nhau chính xác), vì cả hai dao động đều chính xác là 2.50 điểm.
Hình 5-4
Hãy cùng xem xét một ví dụ mức giá dự phóng khác trên cổ phiếu của Google. Trong Hình 5-4, chúng ta đo dao động từ điểm A đến điểm B và sau đó xác định các mức giá dự phóng của chúng ta là 1.00 và 1.618 từ điểm C để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng. Mức giá dự phóng 1.00 xuất hiện ở 389.32. Mặc dù đây không phải là một lần giá chạm hoàn hảo vào mức này (đỉnh thực tế được tạo ra tại 390.00), nhưng cuối cùng đã có một sự đảo chiều đẹp. Còn mức giá dự phóng 1.618 tại.402.50 đã không cung cấp bất kỳ sự kháng cự nào trong trường hợp này.
Sẽ có những thời điểm một trong số các mức giá Fibonacci này đạt chính xác ở mức giá dự phóng, và nó có vẻ rất kỳ diệu. Tuy nhiên, bạn đừng hy vọng sẽ luôn nhìn thấy sự hoàn hảo trong việc phân tích này. Chừng nào một mức giá Fibonacci không bị vượt qua với một mức chênh lệch lớn hoặc không bị giảm xuống với một mức chênh lệch lớn, thì nó vẫn có giá trị như một mức giá quyết định. Cá nhân tôi đã từng mắc lỗi là xóa
đi các mức giá Fibonacci quá nhanh. Những nhà giao dịch trong phòng trò chuyện của tôi là những người đầu tiên nói điều này để tôi chú ý.
Hình 5-5
Hình 5-5 là biểu đồ hàng ngày của cổ phiếu Intel, ở đây, chúng ta đã đo được sự dao động từ điểm A đến điểm B, đó là mức giảm 2.55 điểm. Sau đó, chúng ta đã xác định giá dự phóng ở mức 1.00 này từ điểm C để có được mức hỗ trợ tiềm nắng tại 19.95. Đáy thực tế trong trường hợp này được tạo ra là 20.03, chỉ cao hơn một chút so với mức hỗ trợ của mức giá Fibonacci dự phóng. Chắc chắn có một điểm tương đồng (cân xứng) giữa các dao động này, vì vùng dao động đầu tiên là một mức giảm 2.55 điểm và lần thứ hai là một mức giảm 2.47 điểm.
Hình 5-6
Hãy cùng xem xét một ví dụ khác về giá dự phóng trong khung thời gian nhỏ của chỉ số Dow. Trên biểu đồ 15 phút này (Hình 5-6), chúng ta bắt đầu với một đợt tăng giá từ điểm A đến điểm B là 32 điểm. Sau đó, chúng ta đã nhân phạm vi của vùng dao động đầu tiên này lên 1.00 và 1.618 (thực tế phép nhân này do chương trình máy tính làm) để có được kết quả giá dự phóng từ điểm C. Trong trường hợp này, tất cả những gì chúng ta thấy là một giai đoạn giá đi ngang ngắn hạn xung quanh mức giá dự phóng 1.00. Ngoài ra, các mức giá dự phóng thực sự đã không cung cấp mức kháng cự giá trị nào của đợt tăng giá này (Hãy nhớ rằng có nhiều mức giá Fibonacci như thế này sẽ bị vi phạm và không có được bất kỳ giá trị dự đoán nào cả!).
Hình 5-7
Một lần nữa, tôi không muốn cung cấp cho bạn ý tưởng rằng các mức giá Fibonacci sẽ luôn luôn hoạt động, vậy nên tôi muốn chia sẻ một ví dụ của cổ phiếu Google, khi các mức giá dự phóng đã không tạo ra bất kỳ thay đổi nào (xem Hình 5-7). Tôi sẽ là một người tác giả vô trách nhiệm nếu chỉ đưa ra cho bạn thấy những ví dụ có các mức giá Fibonacci hoạt động tốt. Với thực tế là không có bất kỳ một phương pháp hay loại phân tích nào tồn tại trên đời sẽ hiệu quả 100% thời gian. Với tư cách là một nhà giao dịch, bạn sẽ biết rằng không nên tham gia giao dịch ở các vùng giá này nếu bạn không nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu đảo chiều nào hoặc không nhìn thấy các tín hiệu kích hoạt điểm mở vị thế nào đạt được khi chúng được kiểm định.
Hình 5-8
Hình 5-8 là một ví dụ về giá dự phóng trên biểu đồ tiền mặt hàng ngày của chỉ số Russell. Chúng tôi đã đo từ đáy ngày 14/02/2006 (điểm A) lên đỉnh ngày 03/03/2006 (điểm B) và xác định các mức giá Fibonacci dự phóng từ đáy ngày 08/03/2006 (điểm C) để có thể tìm kiếm mức kháng cự tiềm năng. Lưu ý giá có một phản ứng nhỏ tại khu vực của mức giá dự phóng 1.00 và sau đó có một đợt giảm mạnh hơn ngay khi giá tiến đến gần mức giá dự phóng 1.618 của vùng dao động trước.
Hình 5-9
Trong biểu đồ tiền mặt hàng ngày của S&P (xem Hình 5-9), chúng tôi đã đo từ đáy ngày 13/08/2004 ở mức 1060.72 (điểm A) lên đỉnh ngày 06/10/2004 tại 1142.05 (điểm B) và sau đó xác định các mức giá Fibonacci dự phóng theo các tỉ lệ từ đáy ngày 25/10/2004 tại 1090.19 (điểm C) để tìm kiếm kháng cự tiềm năng. Trong ví dụ này, chúng ta đã thấy một đoạn giá đi ngang nhỏ ở mức giá dự phóng 1.00 của vùng dao động này từ A đến B. Ngoài ra, chúng ta đã nhìn thấy giá đảo chiều giảm mạnh hơn khi giá lên tới mức chỉ thấp hơn một chút so với mức giá dự phóng 1.618.
Hình 5-10
Trong ví dụ tiếp theo, trong biểu đồ S&P tiền mặt hàng ngày, Hình 5- 10, chúng ta đã đo từ đáy ngày 08/01/2007 ở mức 1403.97 (điểm A) lên đỉnh ngày 25/01/2007 tại 1440.69 (điểm B) và sau đó xác định các mức giá dự phóng theo các tỉ lệ từ đáy ngày 26/01/2007 tại 1416.96 (điểm C) để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng. Đỉnh có thể giao dịch được là khi giá chạm vào ngay bên dưới mức giá dự phóng tỉ lệ Fibonacci 1.00. (Chúng tôi đã không kiểm định mức 1.618 trong trường hợp này).
Ví dụ tiếp theo của chúng ta là trong thị trường FOREX - đồng đô la Canada (xem Hình 5-11). Vì chúng ta đang xem xét một xu hướng tăng mạnh trong trường hợp này, chúng ta muốn sử dụng công cụ xác định giá dự phóng để tìm kiếm các mức hỗ trợ cân xứng có thể có trong xu hướng tăng. Khi chúng ta đo di chuyển giá từ đỉnh được tạo ra vào ngày 18/12/2006 xuống đáy được tạo ra vào ngày 20/12/2006 và sau đó xác định được mức giá Fibonacci dự phóng từ đỉnh mới được tạo ra vào ngày 11/01/2007 để có được mức giá dự phóng 1.00 từ đỉnh mới ngày 11/01/2007 cho thấy chúng ta có thể có mức hỗ trợ tại khu vực giá 1.1644. Đáy thực tế được tạo ra ở mức 1.1646, chỉ lệch một vài pip so với dự đoán. Ngay sau đáy này là một đợt tăng giá tuyệt đẹp đến 1.1851, đó là một đợt
tăng giá 205 pip từ đáy ngày 16/01/2007. Lưu ý rằng đợt tăng giá này đã mở rộng lên tới 1.272 và sau đó dừng lại.
Hình 5-11
Pip - Percentage in Point: Trong tài chính, cụ thể là trên thị trường ngoại hối, tỉ lệ phần trăm theo điểm hoặc điểm lãi suất là một đơn vị thay đổi tỉ giá hối đoái của một cặp tiền tệ.
Nguồn: Wiki
Hình 5-12
Tiếp theo, hãy chú ý nhìn vào cổ phiếu JC Penney trên biểu đồ hàng ngày (Hình 5-12). Tại đây, chúng ta đã đo phạm vi dao động từ đỉnh ngày 13/11/2006 xuống đáy ngày 01/12/2006 (điểm A và B) và xác định các mức giá Fibonacci dự phóng từ đỉnh ngày 15/12/2006 (điểm C) để có thể tìm ra các mức hỗ trợ tiềm năng. Trong trường hợp này, mức giá Fibonacci dự phóng 1.00 của vùng dao động trước đó chính là đáy được tạo ra trước khi giá tăng lại 11.95. (Mức giá Fibonacci dự phóng 1.618 trong trường hợp này không được kiểm định).
Trên biểu đồ chứng khoán hàng ngày tiếp theo của YHOO, có thể hơi khó một chút trong việc nhìn ra một dao động rõ ràng để xác định các mức giá dự phóng (xem Hình 5-13). Đáy tại điểm C không được xác định rõ ràng như một số ví dụ khác phía trước mà bạn đã thấy cho đến bây giờ. Xác định các mức giá Fibonacci trên biểu đồ đôi khi là một môn nghệ thuật hơn là một môn khoa học. Sẽ có lúc bạn chỉ cần sử dụng một số khái niệm và/hoặc trực giác thông thường trong khi thực hiện phần phân tích của mình. Mặc dù sự thay đổi trong ví dụ này có thể không rõ ràng trên biểu đồ hàng ngày, nhưng nếu bạn đưa biểu đồ này thành biểu đồ 60 phút, chúng sẽ rõ ràng hơn. Bạn luôn luôn có thể đi xuống biểu đồ khung thời gian thấp
hơn để đánh giá nếu bạn đang tự hỏi liệu mình nên sử dụng đỉnh hay đáy nào để dùng trong tính toán của mình.
Hình 5-13
Chúng ta đã đo lường sự dao động từ đáy ngày 25/1 0/2005 lên đỉnh ngày 01/11/2005 (điểm A và B) và sau đó xác định các mức giá dự phóng từ đáy ngày 03/11/2005 (điểm C) để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng. Chúng ta không nhìn thấy bất kỳ phản ứng giá nào ở mức giá Fibonacci dự phóng 1.00 của vùng dao động trước, mặc dù vậy, chúng ta đã thấy một cơ hội có thể giao dịch tốt ngay xung quanh mức giá Fibonacci dự phóng 1.618 của vùng dao động trước đó.
Hình 5-14
Hình 5-14 hiển thị biểu đồ hàng ngày của cổ phiếu GM, chúng ta đã đo được từ đáy ngày 08/06/2006 lên đỉnh ngày 30/06/2006 (điểm A và B) và sau đó xác định các mức giá dự phóng từ đáy ngày 14/06/2006 (điểm C) để tìm kiếm các mức kháng cự tiềm năng. Trên biểu đồ này, chúng ta đã thấy một phản ứng giá rõ ràng từ mức giá Fibonacci dự phóng 1.00 của vùng dao động trước đó. (Trong khi đó, phản ứng của giá tại mức giá Fibonacci dự phóng 1.618 đã không thực sự tiến đủ gần để xem giá đã chạm vào mức này, một thói quen tốt là bạn vẫn liên tục đặt các lệnh dừng trượt (trail stops) sát theo diễn biến của thị trường trong bất kỳ thời gian nào mà bạn tiến gần tới một quyết định giá quan trọng. Các chiến lược sử dụng lệnh dừng trượt sẽ được thảo luận ở phần sau trong cuốn sách này).
Một vài chương cuối sẽ có các ví dụ về cách mà bạn có thể xác định cả ba lợi giá liên quan theo Fibonacci khác nhau, chúng ta sẽ sử dụng chúng để sáng tạo ra các thiết lập giao dịch của mình, chúng bao gồm: mức giá Fibonacci hồi quy, mức giá Fibonacci mở rộng và mức giá Fibonacci dự phóng. Chương tiếp theo chúng ta sẽ xem xét “hiệu ứng phân cụm giá” hoặc “hợp lưu” của các mức giá liên quan theo
Fibonacci, hợp lưu đó sẽ xác định ra kiểu thiết lập giao dịch đầu tiên của chúng ta: một cụm giá Fibonacci.
CHƯƠNG 06
CÁC THIẾT LẬP
CỤM GIÁ FIBONACCI: THIẾT LẬP GIAO DỊCH 1
Định nghĩa của tôi về cụm giá là sự trùng hợp của ít nhất ba mức giá Fibonacci liên quan kết hợp với nhau trong một phạm vi dao động tương đối chặt chẽ. Các cụm giá này xác định ra các vùng hỗ trợ và kháng cự quan trọng có thể được coi là một thiết lập giao dịch. Một cụm giá có thể được tạo từ ba mức giá Fibonacci hồi quy, ba mức giá Fibonacci mở rộng, ba mức giá Fibonacci dự phóng hoặc là sự kết hợp của bất kỳ mức giá Fibonacci liên quan nào với nhau.
Một cụm giá cũng có thể phát triển với sự trùng hợp của hơn ba mức giá Fibonacci liên quan, số ba chỉ là số lượng tối thiểu cần thiết để đáp ứng định nghĩa. Bạn có thể thấy tới năm đến mười mức giá Fibonacci liên quan kết hợp với nhau trong một phạm vi tương đối chặt chẽ. Khi bạn thấy nhiều mức giá liên quan của Fibonacci này trùng vào nhau, điều này không hẳn có nghĩa là khu vực giá này có nhiều khả năng giá có phản ứng, nhưng nó sẽ cho bạn biết rằng đó là một khu vực giá quyết định rất quan trọng. Nếu khu vực giá này giữ được, bạn có thể thấy một đợt di chuyển giá tốt đẹp bật lại từ mức này xuống một tỉ lệ thấp hơn theo thời gian. Nếu cùng một vùng giá đó bị vi phạm, cũng đừng có ngạc nhiên nếu bạn bắt đầu thấy sự tăng tốc của xu hướng mạnh lên khi giá vượt qua vùng đó. Có những lúc tôi thấy những cụm giá Fibonacci lớn này phát triển không quá xa hoạt động của thị trường hiện tại và chúng có xu hướng hoạt động như một thỏi nam châm hút sự di chuyển giá.
XU HƯỚNG
Khi tôi tiến hành thiết lập các cụm giá trên thị trường, ngay khi điểm mở vị thế bắt đầu được xem xét, tôi muốn tập trung vào các cụm giá được thiết lập theo cùng chiều với xu hướng hiện tại của thị trường trên biểu đồ mà chúng tôi đang phân tích. Đây sẽ là các thiết lập có khả năng thành công cao hơn. Định nghĩa đơn giản về một xu hướng mà tôi sử dụng là một xu hướng liên quan đến việc nhìn vào các mô hình của giá trên biểu đồ. Chúng ta nhìn thấy một xu hướng tăng với mô hình chung là giá có các đỉnh sau cao hơn đỉnh trước và đáy sau cao hơn đáy trước, chúng ta nhìn thấy một xu hướng giảm với mô hình chung là giá có các đáy sau thấp hơn đáy trước và đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước.
Tôi tin vào việc bơi thuận theo dòng chảy hơn là cố gắng bơi ngược dòng, có rất nhiều nhà giao dịch thực hiện các giao dịch ngược chiều. Nếu tôi nhận thấy một mô hình biểu đồ tăng giá (đỉnh tăng dần và đáy tăng dần), tôi sẽ thiết lập các cụm giá của mình với các điểm mở vị thế thuận theo chiều mua, phù hợp với xu hướng tăng hiện tại. Nếu tôi nhìn thấy một mô hình biểu đồ giảm giá (đáy giảm dần và đỉnh giám dần), tôi sẽ xem xét các cụm giá có điểm mở vị thế thuận theo chiều bán để giúp tôi đi theo hướng của xu hướng giảm. Tôi sẽ tìm kiếm các cụm giá theo hướng đối nghịch với xu hướng hiện tại khi tôi thiết lập các chiến lược kiểm soát lợi nhuận và tìm điểm thoát ra. Ví dụ: nếu chúng tôi đang mua và chúng tôi thấy một cụm giá thể hiện mức kháng cự trong xu hướng tăng, tôi sẽ đề nghị các nhà giao dịch của tôi thắt chặt các điểm dừng và/hoặc chốt lời một phần ở vùng giá đó.
Một cụm giá cho giao dịch ngược chiều với xu hướng hiện tại vẫn được coi là một thiết lập giao dịch, mặc dù bạn cần lưu ý rằng tỉ lệ giao dịch chiến thắng của một trong số các cụm giá này sẽ là thấp hơn so với các cụm giá cho giao dịch thuận theo chiều của xu hướng hiện tại. Sử dụng thêm các bộ lọc giao dịch tiềm năng và các điểm kích hoạt giao dịch phù hợp khi các thiết lập giao dịch ngược xu hướng này hình thành sẽ giúp cải thiện xác suất thành công của bạn trong trường hợp này.
Lược đồ của xu hướng tăng/mô hình chung của các đỉnh tăng dần và các đáy tăng dần - tập trung vào việc thiết lập các cụm giá theo chiều mua
Hình 6-1
Hình 6-1 là biểu đồ hàng ngày tiền mặt S&P. Mô hình chung của thị trường này là tăng giá bắt đầu từ đáy trong tháng 7 năm 2006 lên đỉnh trong tháng 2 năm 2007. Điều tôi muốn nói ở đây là mô hình chung của biểu đồ chủ yếu thể hiện một mô hình liên tục có các đỉnh và đáy cao hơn. Tuy nhiên, có những giai đoạn trên biểu đồ này mà bạn nhận thấy giá thị trường có đáy giảm thấp hơn đáy trước đó, mặc dù hướng đi chung của thị trường vẫn là xu hướng tăng. Một góc nhìn khác để xem xét vấn đề này là hãy nhìn biểu đồ qua con mắt của một đứa trẻ bốn tuổi. Bạn đưa biểu đồ cho một đứa trẻ bốn tuổi xem, sau đó hỏi đứa trẻ rằng giá đang đi lên cao hơn hay xuống thấp hơn. Đứa trẻ thường sẽ lùi lại, quan sát, và đưa ra câu trả lời chính xác bằng cách quan sát cả khu rừng chứ không phải từng cái cây.
Lược đồ của xu hướng giảm/mô hình chung về các đáỵ thấp dần và các đỉnh thấp dần - tập trung vào việc thiết lập các cụm giá theo chiều bán
Hình 6-2
Hình 6-2 là biểu đồ hàng ngày tiền mặt S&P. Mô hình chung của thị trường này giảm giá bắt đầu từ đỉnh trong tháng 5 năm 2001 xuống đáy trong tháng 9 năm 2001: Điều tôi muốn nói ở đây là mô hình chung của biểu đồ chủ yếu thể hiện các đáy và đỉnh thấp hơn. Tuy nhiên, cũng có những vị trí trên biểu đồ này mà bạn nhận thấy giá đã tạo ra đỉnh tăng cao so với đỉnh trước đó, mặc dù hướng chung của thị trường vẫn là xu hướng giảm. Hãy nhớ lại rằng: nhìn vào biểu đồ với tâm trí của một đứa trẻ bốn tuổi!
QUẢN LÝ VỐN
Trước khi tôi đi vào các ví dụ thực tế về các thiết lập cụm giá, hãy xem xét cách bạn suy nghĩ về việc sử dụng chúng để kiếm được lợi nhuận trên thị trường. Đầu tiên, hãy nhìn vào việc xác định rủi ro của bạn. Khi bạn tham gia vào thị trường bằng cách sử dụng thiết lập cụm giá, rủi ro tối đa được xác định là một vài đánh dấu ở trên hoặc dưới mức giá tối đa của vùng cụm giá. Có một vài cách khác để bạn có thể đặt lệnh dừng lỗ với rủi ro ít hơn nhiều so với mức tối đa. (Các chiến lược bổ sung sẽ được thảo luận sau).
Tiếp theo, bạn nên có một ý tưởng chung về tiềm năng lợi nhuận của giao dịch này là bao nhiêu. Mục tiêu giao dịch tối thiểu của tôi cho bất kỳ giao dịch theo thiết lập cụm giá nào luôn là mức giá Fibonacci mở rộng 1.272 của vùng dao động trước đó đì vào thiết lập cụm giá. Mức giá mục tiêu này đạt được với tỉ lệ cao theo thời gian, đặc biệt là trong một thị trường có xu hướng mạnh, nhưng hãy nhớ rằng nó không phải lúc nào cũng đạt được. Mục tiêu thứ hai của tôi khi xác định từ vùng dao động tương tự luôn là mức giá Fibonacci mở rộng 1.618, và sau đó mục tiêu thứ ba của tôi là 2.618.
Có một vài điều mà tôi cần chỉ ra về các mức giá mục tiêu. Vì mức giá mục tiêu cho một thiết lập giao dịch không phải lúc nào cũng có thể đạt được, hãy đảm bảo bạn có kỹ năng quản lý vốn tốt. Điều này có nghĩa là: hoặc bạn di chuyển điểm dừng lên để hòa vốn hoặc di chuyển điểm dừng lên theo giá sau khi giáo dịch đã có lợi cho bạn. Bằng cách này, nếu bạn không đạt được giá mục tiêu 1.272, bạn sẽ tự bảo vệ mình khỏi bị thua lỗ. Cũng lưu ý rằng giá mục tiêu 1.272 thường bị vượt qua. Đây là một lý do để giữ lại ít nhất một phần vị thế ngoài khi đã đạt giá mục tiêu đầu tiên của bạn. Hoặc thay vào đó, bạn có thể sử dụng một lệnh dừng cho vị thế của bạn đi theo giá thị trường, việc còn lại là để thị trường đưa bạn ra ngoài khi thị trường diễn biến chậm lại, thay vì bạn phải cố gắng tính toán trước rằng thị trường sẽ đi được bao xa và lợi nhuận trong giao dịch này của bạn là bao nhiêu.
CÁC VÍ DỤ VỀ CỤM GIÁ
Bây giờ hãy xem xét qua một số ví dụ thiết lập cụm giá. Để giúp bạn dễ dàng đi cùng tôi qua các ví dụ này, tôi sẽ tham khảo ngày hoặc giá của các đỉnh và đáy trước đó mà tôi đang sử dụng để xác định các mức giá Fibonacci.
Trong ví dụ đầu tiên về thiết lập cụm giá, tôi sẽ hướng dẫn bạn từng bước một, bắt đầu bằng việc xem biểu đồ trống và quyết định xem sẽ thiết lập cụm giá theo chiều nào của thị trường. Trong các ví dụ sau, tôi vẫn sẽ minh họa cắc thiết lập cụm giá Fibonacci này đã được xác định từ đâu, nhưng sẽ ít biểu đồ hơn so với ví dụ đầu tiên.
Hãy cùng xem một biểu đồ trống của chỉ số Dow để phán đoán xem chúng ta muốn thiết lập theo chiều nào của thị trường, ở đây chúng ta đang xem xét một biểu đồ 30 phút của chỉ số trong tháng 6 năm 2007 (xem Hình 6-3) . Đối với tôi, mô hình giá đã được xác định rõ ràng là xu hướng tăng bởi mô hình chung của các đỉnh tăng dần và các đáy tăng dần. Vì tôi muốn tập trung vào việc thiết lập các cụm giá của mình theo chiều của xu hướng tăng giá trên biểu đồ tôi đang phân tích, nên tôi muốn thiết lập tất cả các mức giá Fibonacci để xác định được các mức hỗ trợ tiềm năng trong trường hợp này. Sau đó, tôi sẽ tìm vị trí của một hợp lưu hoặc một cụm các mức giá Fibonacci để tiến hành việc thiết lập giao dịch của tôi.
Hình 6-3
"""