"Em Làm Ơn im đi được không? PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Em Làm Ơn im đi được không? PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo EM LAƱM ƠN IM ĐI ĐƯỢ C KHÔNG? (Truyện ngắn) Tác giả: Raymond Carver Dịch giả: Lâm Vũ Thảo NXB: Văn Học Công ty phát hành: Nhã Nam Ngày xuất bản : 31/08/2012 Pic: Con Đần Type: Con Đần , Cỏ Ba Lá Khôi Phan Củ Chuối , Ken Shita Dung Nguyen Không Chỉ Mình Tôi Beta: Mama Tuyền Annabella Tran Ebook: Heo Boo BÉO HÀNG XÓM Ý TƯỞNG HỌ ĐÂU PHẢI CHỒNG EM CÓ PHẢI ANH LÀ BÁC SỸ NGƯỜI BỐ KHÔNG AI NÓI GÌ SÁU MƯƠI MẪU CÓ GÌ Ở ALASKA? LỚP ĐÊM NHỮNG NGƯỜI ĐI THU TIỀN ANH LÀM GÌ Ở SAN FRANCISCO? VỢ NGƯỜI SINH VIÊN THỬ ĐẶT ANH VÀO ĐỊA VỊ CỦA TÔI JERRY VÀ MOLLY VÀ SAM TẠI SAO, CON TRAI? LŨ VỊT CÒN CÁI NÀY THÌ SAO? XE ĐẠP, CƠ BẮP, THUỐC LÁ CÔNG TƠ MÉT NÀY CÓ CHẠY ĐÚNG KHÔNG? NHỮNG DẤU HIỆU EM LÀM ƠN IM ĐI, ĐƯỢC KHÔNG? CUỐN SÁCH NÀY DÀNH TẶ NG MARYANN BÉO Tôi ngồi uống cà phê hút thuốc ở nhà Rita bạn tôi và kể cô ấy nghe về chuyện đó. Chuyện tôi kể cho cô ấy như thế này. Hôm đó là chiều tối một ngày thứ Tư không đông khách, Herb dẫn lão béo ấy vào ngồi ở chỗ mấy bàn mình phục vụ. Lão béo này là người béo nhất mình từng nhìn thấy, mặc dù lão ăn mặc gọn gàng và khá chỉnh tề. Mọi thứ của lão đều to. Nhưng mình nhớ nhất các ngón tay. Khi dừng lại phục vụ cái cặp đứng tuổi cạnh bàn lão ngồi, mình để ý các ngón tay trước tiên. Trông chúng phải gấp ba lần cỡ ngón tay một người bình thường - dài, mập, núc ních. Mình phục vụ mấy bàn khác nữa, một nhóm bốn doanh nhân, đòi hỏi lắm, một nhóm bốn khách khác, ba nam một nữ, và cặp đứng tuổi đó. Leander đãrót nước cho lão béo, và mình để cho lão suy nghĩ chọn lựa một lúc trước khi bước lại. Xin chào ông, mıǹ h nói. Ông chọ n món chưa ̣a? Mıǹ h nói. Rita này, lão ta to đùng. To lắm ấy. Xin chào, lão nói. Chào, ừ, lão nói. Mình nghĩ là bọn mình sẵn sàng gọi món rồi, lão nói. Lão ta có cái kiểu nói năng thế đấy - lạ lắm, cậu biết không. Và lão còn thường xuyên phát ra những tiếng ợ nhỏ nữa. Mình nghĩ bọn mình sẽ ăn món salad Caesar đầu tiên, lão nói. Rồi một tô xúp, vui lòng cho thêm ít bánh mì và bơ nhé. Sườn cừu, mình nghĩ thế, lão nói. Và khoai tây nướng với kem chua. Bọn mình sẽ gọi tráng miệng sau. Cám ơn nhiều, lão nói, rồi đưa thực đơn cho mình. Chúa ôi, Rita, mấy ngón tay ấy thật là! Mình vội chạy vào bếp đưa tên món cho Rudy, anh ấy cầm lấy và nhăn mặt. Cậu biết Rudy đấy. Anh ấy hay như thế khi làm việc. Lúc ra khỏi bếp thì Margo - mình nói với cậu về Margo chưa nhỉ? Cái con bé đeo Rudy ấy? Margo nói với mình, cái anh béo bạn cậu là ai thế? Lão thực sự béo chảy mơ.̃ Giờ đó là một phần câu chuyệ n. Mình nghı̃đóthự c sự là một phần câu chuyện. Mıǹ h trộ n món salad ngay bàn laõ, laõ vừa quan sát từng độ ng tác củ a mıǹ h vừa phết bơ lên những mẩu bánh mı̀ rồi đặt sang một bên, trong suốt thời gian đólaõ không ngừng phát ra những tiếng ợ . Vàrồi, mıǹ h lúng túng quáhay sao ấy, mình làm đổ cốc nước của lão. Tôi xin lỗi, mình nói. Khi người ta vội chuyện này hay xảy ra. Tôi rất xin lỗi, mình nói. Ông có sao không? Tôi sẽ bảo cậu kia lau dọn ngay, mình nói. Không có gì, lão ấy bảo. Không sao đâu, lão nói, rồi lão ợ. Đừng lo, không sao đâu, lão nói. Lão mỉm cười và vẫy tay khi mình đi kiếm Leander, khi mình quay lại phục vụ món salad, mình thấy lão ta đã chén sạch bánh mì và bơ. Một lát sau, lúc mình mang thêm bánh mì cho lão, lão đã xơi xong món salad. Cậu biết cái phần salad Caesar nhiều thế nào chứ? Cô tốt lắm, lão nói. Bánh mì ngon tuyệt, lão bảo. Cám ơn ạ, mình nói. Ừm, ngon lắm, lão nói, bọn mình khen thật lòng. Bọn mình thường không khoái bánh mì như thế này, lão bảo. Ông là người ở đâu ạ? mình hỏi lão. Tôi nghĩ là trước đây tôi chưa từng thấy ông, mình nói. Laõ không thuộc loại người cậu sẽ quên, Rita khúc khích chen vào. Denver, laõ b̉ao. Mặc dù tò mò, mình không nói gı̀thêm về đềtài ấy. Thưa ông, vài phút nữa món súp củ a ông sẽxong, mıǹ h nói, và mıǹ h đi sang lo cho bàn bốn doanh nhân lắm đòi h̉oi kia. Khi mang xúp đến, mình thấy bánh mì lại biến mất. Lão vừa cho miếng bánh mì cuối cùng vào mồm. Tin mình đi, lão bảo, không phải lúc nào bọn mình cũng ăn khỏe thế này, lão bảo. Và ợ. Bỏ qua cho bọn mình, lão bảo. Xin đừng nghĩ gì về chuyện ấy, mình bảo. Tôi thích thấy người ta tận hưởng thú vui ăn uống, mình nói. Mình không biết, lão bảo. Mình nghĩ cô sẽ nói thế. Và ợ. Lão gấp khăn ăn. Rồi lão cầm thìa lên. Chúa ơi, lão ta béo ú! Leander nói. Lão không thể không béo, mình nói, vậy nên im mồm đi. Mình đặt thêm một rổ bánh mì và bơ xuống. Ông thấy món xúp thế nào ạ? Mình nói. Cám ơn. Ngon, lão nói. Rất ngon, lão nói. Laõ lau môi và chắm cằm. Cô thấy trong này cónóng không, hay là tại mình thấy nóng thôi? laõ h̉oi. Không, trong đây nóng đấy ạ, mình nói. Cólẽbọ n mıǹ h b̉o bớt áo khoác, laõ nói. Xin cứtự nhiên, mıǹ h nói. Người ta ph̉ai thỏai mái chứ, mıǹ h nói. Đúng thế, laõ nói, rất, rất đúng, laõ nói. Nhưng một lúc sau mình thấy lão vẫn mặc áo khoác. Mấy bàn tiệc lớn của mình đã về hết và cặp đứng tuổi cũng vậy. Quán thưa dần. Đến lúc mình mang món sườn cừu và khoai tây nướng cùng bánh mì và bơ thêm, lão là người khách duy nhất còn lại. Mình bóp thật nhiều kem chua vào khoai tây của lão. Mình rắc thịt muối và rau thơm lên trên kem chua. Mình mang thêm bánh mì và bơ cho lão. Mọi thứ ổn không ạ? mình hỏi. Tốt, lão nói, và ợ. Tuyệt vời, cảm ơn, lão nói, và lại ợ. Chúc ông ngon miệng, mình nói. Mình nhấc nắp lọ đường của lão nhìn vào. Lão gật đầu, cứ nhìn mình cho đến lúc mình đi khỏi. Giờ mình biết mình đang theo dõi một cái gì đó. Nhưng mình không biết là cái gì. Lão béo ị ăn uống thế nào rồi? Lão ấy sẽ làm cậu gãy giò mất, Harriet nói. Cậu biết Harriet đấy. Còn món tráng miệng, mình nói với laõ béo, có món Green Lantern Đặc biệt, tức là bánh pudding và xốt hoặc bánh cheesecake, kem va ni, hoặc táo xay đông lạnh. Bọn mình không làm các bạn muộn, phải không? lão nói, ợ, trông có vẻ ngần ngại. Không đâu ạ, mình nói. Dĩ nhiên là không, mình nói. Ông cứ từ tốn, mình nói. Tôi sẽ mang thêm cà phê cho ông trong lúc ông chọn tráng miệng. Bọn mình sẽ nói thật với cô, lão nói. Và lão nhúc nhích trên ghế. Bọn mình muốn gọi món Đặc biệt, mà mình cũng có thể gọi một đĩa kem va ni nữa. Vui lòng cho thêm vài giọt xi rô sô cô la. Bọn mình đã nói vói cô là bọn mình đói, lão bảo. Mình vào bếp tự tay làm món tráng miệng cho lão, và Rudy nói, Harriet nói em đang phục vụ một lão béo ở gánh xiếc ngoài đó. Đúng không? Rudy đã cởi mũ và tạp dề, cậu hiểu ý mình đấy. Rudy, lão ấy béo, nhưng đó không phải là tất cả. Rudy chỉ cười. Có vẻ nàng ưa chiều chuộng những phường béo ị, anh ấy nói. Nói năng cẩn thận, Rudy, Joanne lúc đó vừa bước vào bếp liền nói. Mıǹ h đang ghen đấy, Rudy nói với Joanne. Mình đặt món Đặc biệt trước mặt laõ béo và mộ t tô kem va ni to có xi rô sô cô la một bên. Cám ơn, lão nói. Không cógì ạ, mình nói - và một cảm giác dâng lên trong mình. Tin hay không thì tùy, lão nói, không phải lúc nào bọn mình cũng ăn thế này. Còn tôi, tôi ăn luôn mồm nhung chẳng tăng cân, mình nói. Tôi muốn tăng cân, mình nói. Đừng, lão nói. Nếu ta có lựa chọn, thì đừng. Nhưng chẳng có lựa chọn nào. Rồi lão cầm thìa lên ăn. Gì nữa? Rita nói, đốt một điếu thuốc của tôi và kéo ghế sát lại bàn. Chuyệ n này đang trở nên thú vị đây, Rita nói. Chỉ vậy thôi. Không có gì nữa. Lão chén món tráng miệng, xong đi về, rồi bọn mình, Rudy và mình, về nhà. Quả là một lão béo, Rudy nói, rướn người như anh vẫn làm những khi mệt. Rồi anh ấy ch̉ı cười và tiếp tục xem ti vi. Mình nấu nước để pha trà và đi tắm. Mình đặt tay lên bụng, băn khoăn tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu mıǹ h có con và một trong những đứa con của mình thành ra như thế, thật béo. Mình rót nước ra bình, sắp cốc, lọ đường, sữa ít béo, mang khay ra cho Rudy. Như thể đang nghı̃ngợi về chuyện ấy, Rudy nói, khi anh còn nhỏ, anh từng biết một gã béo, một vài gã béo, béo thật béo. Bọn họ là những thùng tô nô, Chúa ạ. Anh không nhớ tên họ. Béo, đó là cái tên duy nhất của thằng bé ấy. Bọn anh gọi nó là Béo, thằng bé cạnh nhà anh. Nó là hàng xóm. Sau đó một thằng bé khác dọn đến. Tên nó là Sậy. Ai cũng gọi nó là Sậy trừ các giáo viên. Sậy và Béo. Ước gì anh có hình chúng, Rudy nói. Mình chả nghı̃ra gì để nói, nên bọn mình uống trà rồi chốc sau mình đứng dậy đi ngủ. Rudy cũng đứng dậy, tắt ti vi, khóa cửa trước, và bắt đầu c̉ơi quần áo. Mình vào giường, lăn hẳn sang một mép và nằm sấp ở đó. Nhưng lập tức, ngay khi tắt đèn xong và lên giường, Rudy bắt đầu. Mình nằm ngửa ra thư giãn một chút, cho dù mình không muốn lắm. Nhưng chuyện là thế này. Khi anh ấy trèo lên người mình, đột nhiên mình cảm thấy mình béo ra. Mình cảm thấy mình béo kinh khủng, béo đến nỗi Rudy ch̉ı là một vật bé tí và gần như không có gì cả ở đó. Chuyện buồn cười nhỉ, Rita nói, nhưng tôi cóthể thấy là cô ấy chẳng biết bình luận gì. Tôi thấy chán chường. Nhưng tôi sẽkhông chia sẻ với cô ấy. Tôi đã kể cô ấy nghe quá nhiều. Cô ngồi đóđợ i, những ngón tay nuộ t nà ngḥich tóc. Đợ i gı?̀ Tôi muốn biết. Đang là tháng Tám. Đời tôi bắt đầu thay đổi. Tôi c̉am thấy điều đó. HÀNG XÓM Bill và Arlene Miller là mộ t c̣ăp hạnh phúc. Nhưng đôi khi họ cảm thấy so với bạn bè họ chẳng hưởng thụ cuộc sống mấy, Bill thì cứ chuyên chú công việc kế toán còn Arlene bận rộn với những việc thư ký thường nhật. Có lúc họ bàn về chuyện này, chủ yếu là so sánh với cuộc sống nhà hàng xóm, vợ chồng Harriet và Jim Stone. Đối với vợ chồng Miller, nhà Stone có vẻ có một cuộc sống đủ đầy và tươi sáng hơn. Vợ chồng Stone luôn luôn đi ăn tối ở tiệm, hoặc giải trí tại nhà, hoặc du lịch đó đây nhân những dịp Jim đi công tác. Vợ chồng Stone ở căn hộ đối diện với nhà Miller. Jim là nhân viên bán hàng cho một công ty linh kiện máy móc và thường xoay xở kết hợp những chuyến công tác với du lịch, và dịp này vợ chồng Stone sẽ đi xa mười ngày, đầu tiên đi Cheyenne, rồi tới St Louis thăm viếng họ hàng. Khi họ đi vắng, vợ chồng Miller sẽ trông nhà hộ họ, cho con Kitty ăn, và tưới cây cảnh. Bill và Jim bắt tay nhau phía sau xe. Harriet và Arlene khoác tay nhau và hôn phớt môi. "Đi chơi vui nhé," Bill nói với Harriet. "Vâng," Hairiet nói. "Các cậu cũng vui vẻ nhé." Arlene gật đầu. Jim nháy mắt với chị. "Chào, Arlene. Nhớ chăm sóc anh bạn già chu đáo." "Dĩ nhiên," Arlene nói. "Đi chơi vui nhé," Bill nói. "Tất nhiên rồi," Jim nói, huých nhẹ cánh tay Bill. "Và cám ơn các cậu lần nữa nhé." Vợ chồng Stone vẫy tay chào khi họ lái xe đi, nhà Miller cũng vẫy chào lại. "Hừm, ước gì đó là mình," Bill nói. "Biết đâu đấy, mình có thể nghỉ phép mà," Arlene nói. Chị cầm cánh tay anh đặt vòng quanh eo mình khi họ leo những bậc thang về lại căn hộ. Ăn tối xong Arlene bảo, "Đừng quên. Đêm đầu tiên Kitty ăn đồ có vị gan." Chị đứng ở lối vào nhà bếp gấp cái khăn trải bàn may tay Harriet mua ở Santa Fe về cho chị hồi năm ngoái. Bill hít một hơi dài khi bước vào căn hộ nhà Stone. Không khí đã đặc quánh và nhang nhác ngọt. Cái đồng hồ hình mặt trời tỏa sáng phía trên ti vi chỉ , tám giờ rưỡi. Anh nhớ hôm Harriett mang cái đồng hồ này vê, cô đã băng qua hành lang để khoe nó với Arlene, nâng niu cái vỏ bằng đồng thau trên tay và nói chuyện với nó qua lớp khăn giấy như thể nó là em bé sơ sinh. Kitty cọ mặt vào dép anh rồi nằm kềnh ra nhưng lại vội nhảy lên khi Bill đi vào bếp chọn một trong những cái hộp xếp trên cái kệ gác đĩa sáng bóng. Để mặc con mèo nhỏ nhẻ ăn, anh đi vào nhà tắm. Anh nhìn mình trong gương, nhắm mắt, rồi lại nhìn. Anh mở tủ thuốc. Anh thấy một hộp thuốc trên nhãn có ghi - Harriet Stone. Mỗi ngày một viên theo chỉ dẫn - liền luồn nó vào túi. Anh quay lại bếp, lấy một bình nước, trở lại phòng khách. Anh tưới cây xong, đặt bình trên thảm, mở tủ rượu. Anh thò tay vào lôi chai Chivas Regal từ phía sau ra. Anh uống hai ngụm thẳng từ chai, chùi mép vào tay áo, rồi để cái chai lại vào tủ. Kitty nằm ngủ trên sofa. Anh tắt đèn, chậm rãi đóng và kiểm tra cửa. Anh có cảm giác như để quên một cái gi, “Anh làm gì lâu thế?” Arlene nói. Chị ngồi xếp hình, xem ti vi. “Đâu làm gì. Chơi với con Kitty thôi,” anh nói, bước lại thò tay lên ngực chị. “Vào giường nào, em,” anh nói. Ngày hôm sau Bill chỉ nghỉ trưa mười phút thay vì hai mươi phút và đi về lúc năm giờ kém mười lăm. Anh đậu xe vão bãi ngay khi Arlene vừa xuống xe buýt. Anh đợi chị bước vào tòa nhà rồi thì liền chạy lên thang để đón khi chị vừa ra khỏi thang máy. “Bill! Chúa ơi, anh làm em hết hồn. Anh về sớm thế,” chị nói. Anh nhún vai. “Ở sở chẳng có việc gì,” anh nói. Chị để anh mở cửa bằng chìa khóa của chị. Anh nhìn cánh cửa bên kia hành lang trước khi theo chị vào nhà. “Mình vào giường đi,” anh nói. “Bây giờ á?” Chị bật cười. “Anh ăn phải cái gì đấy?” “Không gì hết. Em cởi váy ra.” Anh tóm lấy chị, điệu bộ kỳ cục, và chị nói, “Chúa ơi, Bill.” Anh cởi thắt lưng. Chốc sau họ gọi đồ ăn Tàu, và khi đồ ăn được giao họ ăn ngấu nghiến, chẳng nói chẳng rằng, chỉ nghe nhạc. “Đừng quên cho con Kitty ăn,” chị nói. “Anh cũng vừa nghĩ đến,” anh nói. “Anh sẽ qua bên đó ngay.” Anh chọn một hộp thức ăn vị cá cho con mèo, rồi lấy đầy bình nước đi tưới cây. Khi anh quay lại bếp, con mèo đang cào cào cái vỏ thùng dùng làm ổ cho nó. Nó nhìn anh chăm chú trước khi quay lại nằm vào ổ. Anh mở tủ chén ngó nghiêng chỗ đồ hộp, ngũ cốc, thức ăn đóng gói, ly uống rượu, ly uống cocktail đồ sứ, bình và chảo. Anh mở tủ lạnh. Anh ngửi nhánh cần tây, cắn hai miếng pho mát cheddar, vừa nhai một quả táo vừa đi vào phòng ngủ. Cái giường trông vĩ đại, có khăn trải giường trắng bồng bềnh phủ xuống tận sàn. Anh kéo một ngăn tủ đầu giường, thấy nửa gói thuốc lá bèn nhét nó vào túi. Rồi anh bước lại tủ quần áo và khi đang mở tủ thì nghe tiếng gõ cửa phía trước. Anh tạt qua buồng tắm giật nước. “Anh làm gì lâu thế?” Arlene nói. “Anh đã ở đây hơn một tiếng đồng hồ.” “Thật thế à?” anh nói. “Thật,” chị nói. “Anh phải đi toa lét.” “Ở nhà mình cũng có toa lét,” chị nói. “Anh không nín được,” anh nói. Đêm đó họ lại làm tình. Sáng hôm sau anh bảo Arlene gọi đến sở báo ốm. Anh tắm, mặc quần áo, chuẩn bị một bữa sáng nhẹ. Anh cố bắt đầu một cuốn sách. Anh ra ngoài đi bộ một lúc và thấy dễ chịu hơn. Nhưng được một lúc, hai tay vẫn đút túi, anh quay về căn hộ. Anh dừng lại trước cửa nhà Stone thử nghe có tiếng con mèo đi lại trong nhà không. Rồi anh vào nhà mình, vô bếp tìm chìa khóa. Bên trong căn hộ nhà Stone có vẻ mát hơn căn hộ nhà anh, và cũng tối hơn. Anh không rõ mấy chậu cây cảnh có liên quan gì đến nhiệt độ không khí không. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, rồi anh chậm rãi rảo qua từng căn phòng, ngắm nghía mọi thứ rơi vào tầm mắt, một cách cẩn thận, từng cái một. Anh thấy nhũng cái gạt tàn, đồ gỗ, đồ làm bếp, cái đồng hồ. Anh thấy mọi thứ. Cuối cùng anh vào phòng ngủ, con mèo xuất hiện dưới chân anh. Anh vuốt nó một cái, mang nó vào phòng tắm, rồi đóng cửa. Anh ngả ra giường ngó trần nhà chằm chằm. Anh nằm nhắm mắt một lúc, rồi thò tay xuống dưới thắt lung. Anh cố nhớ hôm đó là thứ mấy. Anh cố nhớ khi nào gia đình nhà Stone trở về, và rồi anh băn khoăn liệu họ có bao giờ trở về. Anh không thể nhớ ra gương mặt họ hay cách họ nói năng ăn mặc. Anh thở dài, gượng lăn khỏi giường để nhoài người qua bàn trang điểm nhìn mình trong gương. Anh mở tủ quần áo chọn một cái sơ mi kiểu Hawaii. Anh tìm cho đến khi thấy cái quần lửng đã ủi gọn gàng mắc bên ngoài một cái quần tây vải chéo màu nâu. Anh cởi tung quần áo của mình rồi xỏ cái quần soóc và cái sơ mi vào. Anh lại nhìn mình trong gương. Anh vào phòng khách rót cho mình một ly và uống một ngụm trên đường quay lại phòng ngủ. Anh xỏ vào người một cái sơ mi xanh dương, vest sẫm màu, cái cà vạt xanh trắng, và một đôi giày đen mũi nhọn. Ly rượu đã cạn nên anh đi rót một ly nữa. Quay lại trong phòng ngủ, anh ngồi tréo chân trên ghế, mỉm cười, quan sát mình trong gương. Điện thoại đổ chuông hai lần rồi chìm vào im lặng. Anh uống cạn ly rồi cởi bộ vest. Anh lục lọi những ngăn kéo phía trên cao cho đến khi tìm thấy một cái quần lót và một cái áo ngực. Anh mặc cái quần lót vào và gài khóa áo ngực, rồi lục trong tủ tìm một bộ mặc ngoài. Anh xỏ một cái váy ca rô trắng đen và có kéo dây kéo lên. Anh xỏ một cái áo màu huyết dụ cài nút phía trước. Anh ngắm nghía những đôi giày của Harriet, nhưng biết chúng sẽ không vừa. Từ sau màn cửa sổ phòng khách anh đứng nhìn ra một lúc lâu. Rồi anh quay lại phòng ngủ và cất mọi thứ đi. Anh không đói. Chị cũng chẳng ăn nhiều. Họ nhìn nhau ngượng ngùng mỉm cười. Chị đứng lên, ngó xem cái chìa khóa có ở trên kệ không rồi nhanh chóng dọn đĩa. Anh đứng ở cửa bếp, hút một điếu thuốc ngắm chị cầm chìa khóa lên. “Em sang bên kia, anh nghỉ ngơi nhé,” chị nói. “Đọc báo hay gì đấy.” Chị nắm lấy chìa khóa. Chị nói anh trông có vẻ mệt. Anh cố tập trung vào tin tức. Anh đọc báo và mở ti vi. Cuối cùng anh băng sang bên kia hành lang. Cửa đóng. “Anh đây. Em vẫn còn đấy chứ, em?” anh gọi. Mãi một lúc sau cửa mới mở, Arlene bước ra và đóng cửa. “Em đi có lâu không?” chị nói. “Ừm, lâu,” anh nói. “Thế à?” chị nói. “Chắc là do em mải chơi với Kitty.” Anh ngắm chị, chị nhìn lảng đi, tay vẫn còn để trên nắm đấm cửa. “Buồn cười thật,” chị nói. “Anh biết đấy – vào chỗ của người khác như thế.” Anh gật, nhấc tay chị khỏi nắm đấm cửa, đưa chị về phía cửa nhà mình. Anh đưa chị vào căn hộ của họ. “Thật là buồn cười,” anh nói. Anh để ý xơ vải trắng còn bám phía sau áo vợ và má cḥi hơi đậm màu. Anh bắt đầu hôn cổ và tóc vợ và chị cũng xoay sang hôn đáp chồng. “Ôi, trời ơi,” chị nói. “Trời ơi, trời ơi,” chị reo lên, vỗ tay như con gái. “Em mới nhớ ra. Em thật sự quên bẵng không làm cái việc em định làm ở bên ấy. Em đã không cho con Kitty ăn mà cũng chẳng tưới cây.” Chị nhìn anh. “Thế có ngớ ngẩn không?” “Anh nghĩ là không,” anh nói. “Đợi một phút. Anh lấy thuốc lá và quay lại bên đó cùng với em.” Chị đợi anh đóng và khóa cửa căn hộ của họ, rồi chị nắm bắp tay anh và nói, “Chắc em nên kể với anh. Em tìm thấy mấy tấm ảnh.” Anh dừng lại giữa hành lang. “Ảnh gì?” “Anh có thể tự xem lấy,” chị nói, và chị ngắm anh. “Không đùa đấy chứ.” Anh cười toét. “Ở đâu?” “Trong một ngăn kéo,” chị nói. “Không đùa đấy,” anh nói. Và rồi chị nói, “Có thể họ không trở về,” và ngay lập tức kinh ngạc về lời nói của mình. “Chuyện đó có thể xảy ra,” anh nói. “Chuyện gì cũng có thể xảy ra.” “Hoặc có thể họ sẽ trở về và...” nhưng chị không nói hết câu. Họ nắm tay nhau khi đi qua hành lang, và khi anh nói chị hầu như không nghe giọng của anh. “Cái chìa khóa,” anh nói. “Đưa cho anh.” “Cái gì?” chị nói. Chị nhìn cánh cửa chằm chằm. “Cái chìa khóa,” anh nói. “Em giữ chìa khóa.” “Chúa ơi,” chị nói. “Em để quên chìa khóa bên trong rồi.” Anh thử vặn tay nắm cửa. Nó bị khóa. Rồi chị thử vặn tay nắm cửa. Nó không xoay. Môi chị hé ra, hơi thở chị nặng nề, chờ đợi. Anh dang tay và chị ngã người vào. “Đừng lo,” anh nói vào tai vợ. “Vì Chúa, đừng lo.” Họ đứng đó. Họ ôm nhau. Họ tì vào cánh cửa như thể chống chọi một luồng gió, căng mình ra. Ý TƯỞNG Chúng tôi đã ăn tối xong và tôi đứng bên bàn bếp mà không bật đèn đã một tiếng đồng hồ, rình xem. Nếu tối nay hắn định làm gì thì phải là lúc này, thậm chí lúc này đã quá giờ. Đã ba đêm rồi tôi chưa thấy hắn. Nhưng đêm nay mành phòng ngủ bên đấy đã đưọc kéo lên và đèn đang sáng. Đêm nay tôi có một linh cảm. Rồi tôi thấy hắn. Hắn, vận một cái áo thun và một cái gì đấy trông như quần lửng hay quần bơi, mở cửa lưới đi ra phía cổng sau. Hắn nhìn quanh rồi ra khỏi cổng, lẩn vào bóng tối và bắt đầu di chuyển dọc hông nhà. Hắn đi khá nhanh. Nếu không đứng rình sẵn, chắc tôi sẽ không trông thấy hắn. Hắn dừng lại trước khung cửa sổ sáng đèn, nhìn vào. “Vern,” tôi gọi. “Vern, nhanh lên! Hắn ở ngoài kia. Anh nhanh lên thì hơn!” Vern đang ngồi trong phòng khách đọc báo, ti vi vẫn mở. Tôi nghe tiếng anh vứt tờ báo xuống. “Đừng để hắn thấy em!” Vern nói. “Đừng lại gần cửa sổ quá!” Vern luôn luôn nói thế: Đừng lại gần quá. Tôi đoán Vern hơi xấu hổ về chuyện rình mò. Nhưng tôi biết anh cũng thích thú việc này. Anh bảo vậy. “Đèn tắt thì hắn không thấy mình được!” Tôi luôn luôn nói như thế. Chuyện này diễn ra đã gần ba tháng. Chính xác từ ngày 3 tháng Chín. Ít nhất đó là đêm đầu tiên tôi thấy hắn ngoài đó. Tôi không biết chuyện đã diễn ra trước đó bao lâu. Đêm ấy suýt gọi điện báo cảnh sát thì tôi nhận ra ai ngoài đó. Vern đã phải giảng giải tôi mới hiểu. Kể cả như vậy mãi tôi mới vỡ lẽ. Nhưng từ đêm ấy tôi rình, và tôi có thể dám chắc trung bình cứ hai hay ba đêm là hắn ra ngoài đó, có khi hơn. Tôi thấy hắn ngoài đó cả khi trời mưa. Thực ra, nếu trời mưa, chắc chắn hắn sẽ ra. Nhưng đêm nay trời quang và hiu hiu gió. Có cả trăng. Chúng tôi quỳ xuống bên khung cửa sổ và Vern hắng giọng. “Trông hắn kìa,” Vern nói. Vern đang hút thuốc, khi cần thì khảy tàn vào tay. Mỗi khi bập thuốc anh tránh điếu thuốc khỏi khung cửa. Lúc nào Vern cũng hút; không có gì cản anh được. Thậm chí khi ngủ anh cũng để gạt tàn cách đầu vài xăng ti mét. Đêm tôi tỉnh giấc cũng thấy anh dậy hút thuốc. “Chúa tôi,” Vern nói “Cô ta có gì mà đám đàn bà khác không có nhỉ?” một chút sau tôi nói với Vern. Chúng tôi ngồi chồm hỗm trên sàn nhà, chỉ nhô đầu qua bệ cửa sổ theo dõi một gã đàn ông đang đứng nhìn vào cửa sổ phòng ngủ của chính mình. “Vậy mới nói,” Vern nói. Anh hắng giọng ngay kề tai tôi. Chúng tôi cứ theo dõi. Giờ thì tôi có thể nhận ra ai phía sau tấm màn. Đó hẳn phải là cô nàng kia đang cởi quần áo. Nhưng tôi không thể nhìn rõ. Tôi căng mắt. Vern đang đeo kính đọc sách, nên anh thấy mọi thứ tường tận hơn. Đột nhiên tấm màn được kéo sang một bên và cô nàng quay lưng lại cửa sổ. “Giờ cô nàng đang làm gì?” tôi nói, tuy đã biết thừa. “Chúa tôi,” Vern nói. “Cô nàng đang làm gì, Vern?” tôi nói. “Cô ta đang cởi đồ chứ làm gì,” Vern nói. “Em nghĩ cô ta có thể làm gì?” Rồi đèn trong phòng ấy chợt tắt và gã kia di chuyển ngược lại bên hông nhà. Hắn mở cánh cửa lưới lách vào, một lúc sau những ngọn đèn còn lại cũng tắt. Vern húng hắng, rồi lại húng hắng, và lắc đầu. Tôi bật đèn. Vern vẫn quỳ ở đó. Rồi anh đứng dậy châm một điếu thuốc. “Thế nào cũng có lúc em bảo cho cái đồ rác rưởi đấy biết em nghĩ gì về nó,” tôi nói và nhìn Vern. Vern cười khì. “Em nói thật đấy,” tôi nói. “Hôm nào gặp nó ở chợ em sẽ nói toẹt vào mặt nó.” “Anh sẽ không làm vậy. Em làm vậy để làm quái gì?” Vern nói. Nhưng tôi có thể đoán anh không nghĩ rằng tôi nghiêm túc. Anh cau mày nhìn móng tay mình. Anh uốn lưỡi trong miệng và nhíu mắt lại như anh vẫn làm mỗi khi tập trung. Rồi anh thay đổi vẻ mặt và gãi gãi cằm. “Em đừng làm thế,” anh nói. “Rồi anh sẽ thấy.” “Cứt thật,” Vern nói. Tôi theo anh vào phòng khách. Chúng tôi căng thẳng với nhau. Chuyện ấy khiến chúng tôi như thế. “Anh cứ đợi xem,” tôi nói. Vern dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn lớn. Anh đứng sau cái ghế da ngó ti vi một đỗi. “Chẳng có cái gì cả,” anh nói. Rồi anh ấy nói gì đó. Anh nói, “Cũng có thể anh chàng kia có cái gì đó.” Vern châm một điếu nữa. “Chẳng biết được đâu” “Ai mà đến ngó cửa sổ phòng em,” tôi nói “thì cảnh sát sẽ theo ngay sau lưng.” “Chắc chỉ trừ Cary Grant," tôi nói. Vern nhún vai. “Chẳng biết được đâu,” anh nói. Tôi thèm ăn một cái gì đó. Tôi đến chỗ tủ bếp nhìn vào, rồi mở tủ lạnh. “Vern, anh muốn ăn gì không?” tôi gọi. Anh không trả lời. Tôi nghe tiếng nước chảy trong phòng tắm. Nhưng tôi nghĩ có thể anh sẽ muốn ăn chút gì đó. Buổi tôi giờ này chúng tôi hay đói bụng. Tôi để bánh mì và xúc xích lên bàn và mở một hộp xúp. Tôi lấy bánh quy mặn, bơ đậu phộng, thịt nguội, dưa chuột muối, ô liu, khoai tây chiên. Tôi đặt mọi thứ lên bàn. Rồi tôi nhớ tới bánh táo. Vern bước ra trong bộ pyjama flanen và áo choàng tắm. Tóc anh ướt chải ngược ra phía sau đầu, và anh có mùi dầu tắm. Anh nhìn qua các thứ trên bàn. Anh bảo, “Hay lấy cho anh một tô bánh bột bắp với đường nâu?” Rồi anh ngồi xuống trải tờ báo bên cạnh đĩa của mình. Chúng tôi ăn. Cái gạt tàn đầy nhóc hạt ô liu và đầu lọc thuốc. Khi ăn xong, Vern nhe răng cười, bảo, “Mùi gì hấp dẫn thế?” Tôi lại lò nướng lấy ra hai cái bánh táo có rải pho mát chảy ở trên. “Trông ngon lắm,” Vern nói. Chốc sau, anh bảo, “Anh không ăn nổi nữa. Anh đi ngủ đây.” “Em cũng đi ngủ,” tôi nói. “Để em dọn bàn đã.” Khi đang trút đồ ăn thừa từ đĩa vào thùng rác thì tôi thấy kiến. Tôi nhìn gần hơn. Chúng bò lên đâu đó từ phía ống nước dưới bồn rửa chén, một dòng kiến đều đặn, bò lên một bên thùng rác và bò xuống phía bên kia, bò vào bò ra. Tôi tìm thấy bình xịt trong một ngăn kéo liền xịt cả trong lẫn ngoài thùng rác, và tôi xịt dưới gầm bồn rửa chén xa đến hết mức. Rồi tôi rửa tay và nhìn một lần cuối quanh bếp. Vern đã ngủ. Anh đang ngáy. Thể nào vài tiếng nữa anh cũng dậy, vào nhà tắm, hút thuốc. Cái ti vi nhỏ phía chân giường đang bật, nhưng hình thì bị nhảy. Tôi muốn kể cho Vern nghe về lũ kiến. Tôi loay hoay trước khi vào giường, chỉnh hình trên ti vi, và bò vào giường. Vern phát ra những tiếng ồn thường lệ khi anh ngủ. Tôi xem ti vi một lúc, nhưng đó là một talk show mà tôi thì không khoái talk show. Tôi lại bắt đầu nghĩ ngợi về lũ kiến. Chẳng mấy chốc tôi tưởng tượng ra kiến bò khắp nhà. Tôi không biết có nên đánh thức Vern mà bảo anh tôi mơ thấy một giấc mơ dữ không. Thay vào đó tôi dậy đi tìm bình xịt. Tôi ngó vào phía dưới bồn rửa chén một lần nữa. Nhưng chẳng còn con kiến nào. Tôi bật hết đèn trong nhà cho đến khi cả căn nhà sáng rực. Tôi cứ xịt. Cuối cùng tôi kéo mành nhà bếp lên nhìn ra ngoài. Đã khuya. Gió thổi, tôi nghe tiếng cành cây gãy. “Đồ rác rưởi kia,” tôi nói. “Cái ý tưởng đó!” Tôi còn dùng những lời lẽ tồi tệ hơn, những lời lẽ mà tôi không thể nhắc lại. HỌ ĐÂU PHẢI CHỒNG EM Earl Ober là nhân viên bán hàng còn đang tìm việc mới. Nhưng Doreen, vợ anh, đã đi làm hầu bàn ca đêm tại một quán cà phê mở cửa hai mươi bốn giờ ven thị trấn. Một tối đi uống rượu về, Earl quyết định ghé ngang quán cà phê kiếm chút gì bỏ bụng. Anh muốn xem chỗ làm của Doreen, và anh cũng muốn xem thử có xơi chùa được món gì không. Anh ngồi ở quầy ngắm nghía thực đơn. “Anh đến đây làm gì?” Doreen nói khi thấy anh ngồi đó. Chị đưa một phiếu gọi món cho đầu bếp. “Anh định gọi gì đấy, Earl?” Chị hỏi. “Con ổn chứ?” “Con bình thường.” Earl nói. “Cho anh cà phê và một cái sandwich số 2.” Chị ghi lại. “Này, em, liệu có gì không?” Anh nói với chị và nháy mắt. “Không,” chị nói. “Đừng nói chuyện với em bây giờ. Em đang bận.” Earl uống cà phê và ngồi đợi sandwich. Có hai người mặc đồ đi làm, cà vạt nới ra, cổ áo để mở, ngồi xuống kế anh và gọi cà phê. Khi Doreen mang bình cà phê đi rồi, một người nói với người kia: “Trông cái mông kia. Tớ không thể tin nổi.” Người kia bật cười: “Tớ từng thấy những cái oách hơn.” “Thì ý tớ là thế,” người thứ nhất nói. “Nhưng có những thằng hề lại thích gái béo.” “Không phải tớ.” Người kia nói. “Cũng không phải tớ.” Người thứ nhất nói. “Là tớ nói thế.” Doreen đặt cái sandwich trước mặt Earl. Xung quanh cái sandwich là khoai tây chiên, xà lách và dưa chuột muối với thìa là. “Thêm gì nữa không?” Chị hỏi. “Một ly sữa?” Anh không nói gì. Anh lắc đầu khi chị cứ đứng đó. “Để em lấy thêm cà phê cho anh.” Chị nói. Cḥi mang bình cà phê lại, rót cho anh và hai người kia. Rồi chị lấy một cái đĩa và xoay người lấy kem. Chị cúi xuống tủ kem dùng cái gắp để nạo kem. Cái váy trắng bó chặt hông chị , trượt lên phía trên chân. Để lộ ra là cái quần lót bó đùi màu hồng, cặp đùi nhăn nheo, xám, lưa thưa lông và những mạch máu chạy tán loạn. Hai người ngồi cạnh Earl nhìn nhau. Một người nhướng mày. Người kia cười nhăn nhở nhìn Doreen qua tách cà phê trong lúc chị rưới sô cô la lỏng lên kem. Khi chị bắt đầu lắc lắc cái bình kem tươi, Earl đứng dậy, bỏ đồ ăn lại và bước thẳng ra cửa. Anh nghe chị gọi tên, nhưng vẫn bỏ đi. Anh liếc mắt qua lũ trẻ rồi sang phòng bên kia cởi quần áo. Anh kéo chăn, nhắm mắt và thả mình nghĩ ngợi. Cái cảm giác kia khởi đầu từ mặt, lần xuống bụng rồi chân. Anh mở mắt lăn đầu qua lại trên gối. Rồi anh nằm nghiêng và thiếp đi. Sáng hôm sau, khi tiễn bọn trẻ tới trường, Doreen vào phòng ngủ kéo màn cửa lên. Earl đã thức dậy. “Nhìn mình trong gương đi.” Anh nói. “Gì cơ?” Chị nói. “Anh nói cái gì?” “Cứ nhìn mình trong gương đi,” Anh nói “Em phải thấy cái gì?” Chị hỏi. Nhưng rồi chị nhìn vào gương qua cái bàn trang điểm và hất tóc khỏi vai. “Ừm?” Anh nói. “Ừm, cái gì?” Chị hỏi. “Anh ghét phải nói điều này,” Earl nói, “Nhưng anh nghĩ tốt hơn là em nên suy nghĩ về chuyện ăn kiêng. Anh nói thật. Nghiêm túc đấy. Anh nghĩ em có khả năng giảm được vài cân. Đừng cáu.” “Anh đang nói cái gì đấy?” Chị hỏi. “Cái anh vừa nói. Anh nghĩ em có khả năng giảm được vài cân. Ít ra thì cũng vài cân.” “Trước đây anh chưa bao giờ nói gì.” Chị nói. Chị nâng áo ngủ lên quá hông à xoay lại nhìn bụng mình trong gương. “Trước đây anh không thấy đó là vấn đề.” Anh nói. Anh cố lựa lời. Cái váy ngủ vẫn nằm lửng quanh hông, Doreen xoay lưng lại gương và nhìn qua vai. Chị lấy tay nâng một bên mông lên rồi thả ra. Anh nhắm mắt. “Có lẽ anh nghĩ vớ vẩn.” Anh nói. “Chắc em có thể giảm cân được. Nhưng khó đấy.” Chị nói. “Em nói đúng, sẽ không dễ dàng.” Anh nói. “Chắc chắn là không dễ. Nhưng anh sẽ giúp em.” “Có lẽ anh nói đúng.” Chị nói. Chị buông váy ngủ xuống, nhìn anh rồi cởi váy ra. Họ bàn về chuyện ăn kiêng. Họ bàn việc ăn kiêng chất đạm, ăn kiêng chỉ dùng rau và ăn kiêng bằng nho vắt. Nhưng họ quyết định họ không có đủ tiền để mua loại bít tết cần cho việc ăn kiêng chất đạm. Và Doreen nói chị không thích ăn rau nhiều như thế. Và vì chị cũng không thích nho vắt cho lắm, chị cũng không thể tưởng tượng nổi làm thế nào có thể ăn kiêng theo kiểu ấy. “Thôi, quên chuyện đó đi.” Anh nói. “Không, anh nói đúng,” chị nói. “Em sẽ làm một cái gì đó.” “Thế còn tập thể dục thì sao?” anh nói. “Em tập thể dục ở chỗ làm là đủ lắm rồi,” Chị nói. “Thì nhịn ăn vậy,” anh nói. “Thử vài ngày xem sao.” “Cũng được,” Chị nói. “Em sẽ cố. Em sẽ cố trong vài ngày. Anh đã thuyết phục được em.” “Anh sẽ làm người giám sát,” Earl nói. Anh kiểm tra họ còn bao nhiêu tiền trong tài khoản, rồi phóng xe đến một cửa hàng bán đồ giảm giá mua một cái cân sức khỏe. Anh theo dõi cô bán hàng lúc cô tính tiền. Về nhà anh bắt Doreen cởi hết quần áo ra trèo lên cân. Anh cau mày khi nhìn thấy những mạch máu. Anh lấy ngón tay lần theo một đường chạy lên phía trên đùi. “Anh làm cái gì vậy?” Chị hỏi. “Không có gì,” anh nói. Anh nhìn vào cân và ghi con số lại trên một tờ giấy. “Được rồi,” Earl bảo. “Được rồi.” Gần hết cả buổi chiều hôm sau anh đi phỏng vấn. Ông chủ, một người to kềnh càng khập khiễng dẫn Earl đi xem hệ thống ống nước trong nhà kho, hỏi Earl có rảnh để đi công tác không. “Tất nhiên tôi rảnh,” Earl nói. Ông ta gật đầu. Earl mỉm cười. Anh nghe tiếng ti vi trước khi mở cửa bước vào nhà. Bọn trẻ không ngẩng đầu lên khi anh đi ngang phòng khách. Trong bếp, Doreen đã mặc đồ đi làm, đang ăn trứng tráng và thịt muối. “Em làm cái gì đấy?” Earl nói. Chị tiếp tục nhai đồ ăn, hai má căng phồng. Nhưng rồi chị nhè mọi thứ vào một cái khăn ăn. “Em không thể chịu được.” Chị nói. “Dở hơi,” anh nói. “Tiếp tục ăn đi. Ăn tiếp đi.” Anh vào phòng, đóng cửa, nằm vật lên đống chăn. Anh vẫn nghe tiếng tivi. Anh gối đầu lên tay chằm chằm nhìn trần nhà. Chị mở cửa. “Em sẽ cố một lần nữa,” chị nói. “OK,” anh nói. Hai hôm sau chị gọi anh vào phòng tắm. “Xem này,” chị bảo. Anh nhìn con số trên cân. Anh mở ngăn kéo lấy tờ giấy ra, nhìn con số trên cân một lần nữa trong lúc chị ngoác miệng cười. “Gần nửa cân,” chị nói. “Giảm được một chút rồi đó,” anh nói và vỗ hông vợ. Anh đọc rao vặt trên báo. Anh đến văn phòng tìm việc của nhà nước. Ba hay bốn ngày một lần anh lái xe đến một chỗ nào đó để dự phỏng vấn, và buổi tối anh ngồi đếm tiền boa của chị. Anh vuốt những tờ đô la lại cho phẳng phiu và xếp những đồng năm xu, mười xu và đồng hai lăm xu thành từng chồng một đô la. Anh cân chị mỗi buổi sáng. Trong vòng hai tuần chị sụt một cân rưỡi. “Em có ăn một chút,” chị bảo. “Em nhịn cả ngày, rồi tối ăn một chút ở chỗ làm. Để bù.” Nhưng một tuần sau chị giảm hơn hai cân. Tuần sau nữa, giảm bốn cân. Quần áo chị thùng thình. Chị phải lấy một phần tiền thuê nhà để mua đồng phục mới. “Mọi người đang xôn xao ở chỗ làm,” chị bảo anh. “Xôn xao cái gì?” anh nói. “Rằng là em xanh xao quá,” chị nói. “Là em không còn giống chính mình. Mọi người lo em giảm cân nhiều quá.” “Giảm cân thì đã sao?” anh nói. “Đừng để ý đến họ. Bảo họ lo chuyện của mình đi. Họ đâu phải chồng em. Em đâu có ở với mấy người đó.” “Nhưng em phải làm việc với người ta,” chị nói. “Đúng vậy,” anh nói. “Nhưng họ không phải là chồng em.” Mỗi buổi sáng anh theo vợ vào buồng tắm và chờ chị bước lên cân. Anh lồm cồm với cây bút chì và tờ giấy. Tờ giấy ghi đầy những thứ, ngày và con số. Anh đọc con số trên cân, đối chiếu với tờ giấy, rồi gật đầu hoặc bặm môi. Dạo này Doreen ngủ nhiều hơn. Chị ngủ sau khi bọn trẻ đi học, chị ngủ thêm vào buổi chiều trước khi đi làm. Earl làm việc nhà, xem ti vi, để yên cho chị ngủ. Anh đi chợ, thỉnh thoảng lại đi phỏng vấn. Một đêm anh cho bọn trẻ đi ngủ, tắt ti vi rồi quyết định đi làm tý rượu. Khi bar đóng cửa, anh lái xe sang quán cà phê. Anh ngồi ở quầy đợi. Khi trông thấy anh, chị hỏi: “Con ổn chứ?” Earl gật đầu. Anh nhẩn nha chọn món. Anh dõi theo vợ đi tới đi lui sau quầy. Cuối cùng anh gọi một cái burger pho mát. Chị đưa phiếu gọi món cho đầu bếp và quay ra phục vụ người khác. Một cô phục vụ khác mang bình cà phê đến rót vào cốc của Earl. “Bạn cô tên gì ấy nhỉ?” anh hỏi cô phục vụ và hất đầu về phía vợ mình. “Chị ấy tên là Doreen,” cô phục vụ nói. “Trông cô ấy khác nhiều so với lần cuối cùng tôi ghé qua đây,” anh nói. “Em không để ý,” cô phục vụ nói. Anh ăn cái burger pho mát và uống cà phê. Hết người này đến người khác thay phiên nhau ngồi xuống đứng lên ở quầy. Vợ anh phục vụ cho hầu hết mọi người ở quầy, thỉnh thoảng cô phục vụ kia cũng đến ghi món khách gọi. Anh quan sát vợ và chăm chú lắng nghe. Hai lần anh phải rời chỗ ngồi để đi vào nhà vệ sinh. Mỗi lần anh lại lo không biết có nghe sót gì không. Khi quay lại lần thứ hai, anh thấy cốc của mình đã bị dọn đi và đã có người khác ngồi chỗ anh. Anh ngồi lên một cái ghế cao phía cuối quầy cạnh một ông lớn tuổi mặc áo sơ mi sọc. “Anh định làm gì?” Doreen hỏi khi trông thấy Earl lần nữa. “Đáng lý anh phải về nhà rồi chứ?” “Cho anh ít cà phê nữa,” anh nói. Người ngồi cạnh anh đang đọc báo. Ông ngẩng lên nhìn Doreen rót cà phê cho Earl. Ông liếc nhìn chị khi chị bước đi. Rồi ông cúi xuống đọc báo tiếp. Earl nhấp một ngụm cà phê và đợi xem ông này có nói gì không. Anh liếc nhìn ông. Ông đã ăn xong và đẩy đĩa sang một bên. Ông đốt thuốc, gấp tờ báo trước mặt, rồi đọc tiếp. Doreen đến lấy cái đĩa bẩn đi và rót thêm cà phê cho ông. “Anh thấy cô ấy thế nào?” Earl nói với ông ta, hất đầu về phía Doreen khi chị đi về đầu kia quầy. “Anh không nghĩ cô ấy có gì đặc biệt à?” Người ngồi cạnh anh ngẩng đầu lên, ngạc nhiên. Ông nhìn Doreen rồi nhìn Earl, rồi cúi xuống đọc báo tiếp. “Này, ông nghĩ sao chứ?” Earl tiếp tục. “Tôi đang hỏi ông đấy. Cô nàng trông đẹp hay xấu? Nói đi.” Ông ta lật tờ báo sột soạt. Khi Doreen bắt đầu đi xuống quầy một lần nữa, Earl huých tay ông ta và nói: “Tôi đang nói với ông đấy. Nghe này. Nhìn cái mông cô ta. Bây giờ ông xem cái này này. Cho tôi một đĩa nhỏ kem sô cô la nhé?” Earl gọi Doreen. Chị dừng lại trước mặt anh, thở hắt ra. Rồi chị quay lại, lấy đĩa và cái gắp kem. Chị chồm qua tủ kem, cúi xuống và bắt đầu bóp cái gắp để lấy kem. Earl nhìn ông kia, nháy mắt khi thấy váy của Doreen trượt lên đùi. Nhưng ánh mắt của người đàn ông lại gặp ánh mắt của cô phục vụ kia. Và rồi ông ta kẹp tờ báo dưới cánh tay và thò tay vào túi. Cô phục vụ kia đi thẳng đến chỗ Doreen. “Nhân vật này là ai vậy?” Cô hỏi. “Ai?” Doreen hỏi và nhìn quanh, đĩa kem trên tay. “Anh kia,” cô phục vụ trả lời và hất đầu về phía Earl. “Rốt cuộc cái thằng hề này là ai?” Earl cố nở nụ cười tươi nhất. Anh giữ nụ cười trên mặt. Anh giữ nụ cười đó cho đến khi anh cảm thấy khuôn mặt anh biến dạng. Nhưng cô phục vụ kia chỉ nhìn anh soi mói, và Doreen bắt đầu lắc đầu chầm chầm. Người ngồi cạnh Earl đã đặt một ít tiền lẻ bên cạnh cốc của mình và đứng dậy, nhưng ông ta cũng đợi nghe câu trả lời. Tất cả dồn mắt vào Earl. “Anh ấy là nhân viên bán hàng. Anh ấy là chồng mình,” cuối cùng Doreen lên tiếng, nhún vai. Đoạn chị đặt đĩa kem sô cô la chưa làm xong trước mặt anh rồi đi tính tiền phần của anh. CÓ PHẢI ANH LÀ BÁC SỸ Mang dép lê, vận pyjama và áo choàng ngủ trên người, anh lao vội khỏi phòng làm việc khi điện thoại bắt đầu reng. Vì lúc đó đã hơn mười giờ, hẳn là vợ anh gọi. Đêm nào xa nhà, cô cũng điện thoại tầm này, sau khi uống vài ly. Cô là người phụ trách mua hàng, và cả tuần nay cô đi công tác. “A lô, em à,” anh nói. “A lô,” anh lặp lại. “Đây là ai?” một phụ nữ hỏi. “Hừm, đây là ai?” anh nói. “Chị muốn gọi số nào?” “Đợi một phút,” người phụ nữ nói. “Số 2738063.” “Đó là số của tôi,” anh nói. “Sao chị có số này?” “Tôi không biết. Tôi đi làm về và thấy nó ghi trên một mẩu giấy nhỏ,” người phụ nữ nói. “Ai ghi?” “Tôi không biết,” người phụ nữ nói. “Chắc là cô trông trẻ. Hẳn là cô ấy.” “Hừm, tôi không biết làm thế nào mà cô có số của tôi,” anh nói, “nhưng đây là số của tôi, và tôi không đăng ký danh bạ. Chị có thể vứt nó giùm tôi được không? A lô? Chị có nghe không?” “Có, tôi có nghe,” người phụ nữ nói. “Còn gì nữa không?” anh nói. “Đã khuya và tôi đang bận.” Anh không có ý nói chuyện cộc lốc, nhưng ai mà biết đâu được. Anh ngồi xuống cái ghế bên cạnh điện thoại và nói, “Tôi không có ý nói chuyện cộc lốc. Ý tôi chỉ là đã khuya và tôi hơi lo ngại làm thế nào tình cờ chị có số tôi.” Anh thả dép ra và bắt đầu xoa xoa bàn chân, đợi câu trả lời. “Tôi cũng không biết,” cô nói, “Tôi đã bảo anh tôi chỉ thấy số điện thoại được ghi lại, không có thêm dòng nào cả. Mai gặp Annette – tức là cô giữ trẻ - tôi sẽ hỏi. Tôi không có ý quấy rầy anh. Tôi chỉ thấy mảnh giấy thôi. Từ lúc đi làm về đến giờ lúc nào tôi cũng ở trong bếp.” “Không sao,” anh nói. “Quên nó đi. Chỉ cần vứt và quên nó đi. Không có chuyện gì đâu. Chị không phải lo.” Anh chuyển ống nghe từ tai này sang tai kia. “Anh có vẻ là người dễ mến.” Người phụ nữ nói. “Thế à? Ừm, chị quá lời.” Anh biết giờ anh nên gác máy, nhưng nghe một giọng nói, kể cả giọng chính mình, trong căn phòng yên ắng khiến anh thấy hay hay. “Ồ, vâng,” cô nói. “Tôi dám chắc.” Anh buông bàn chân ra. “Nếu anh không phiền, liệu tôi có thể biết tên anh?” Cô nói. “Tôi tên Arnold,” anh nói. “Còn tên gọi thường của anh là gì?” cô nói. “Tên gọi thường của tôi là Arnold,” anh nói. “Ôi, xin lỗi,” cô nói. “Arnold là tên gọi thường của anh. Còn họ, Arnold? Anh họ gì?” “Thực tình là tôi phải gác máy đây,” anh nói. “Arnold, thôi mà, tôi là Clara Holt. Anh tên là ông Arnold gì nào?” “Arnold Breit,” anh nói và vội thêm, “Clara Holt. Hay đấy. Nhưng tôi thực sự nghĩ là tôi phải gác máy, cô Holt ạ. Tôi đang đợi điện thoại.” “Xin lỗi, Arnold. Tôi không định làm mất thời gian của anh,” cô nói. “Không sao,” anh nói. “Rất vui nói chuyện với chị.” “Cám ơn anh.” “Chị giữ điện thoại một phút được không?” anh nói. “Tôi kiểm tra cái này một chút.” Anh vào phòng làm việc lấy một điếu xì gà, mồi bằng hộp quẹt để bàn, rồi bỏ kính ra ngắm mình trong gương phía trên lò sưởi. Khi quay lại chỗ để điện thoại, anh ngỡ rằng cô đã gác máy. “A lô?” “A lô, Arnold,” cô nói. “Tôi tưởng chị đã gác máy.” “Ồ, không,” cô nói. “Về việc chị có số tôi đấy,” anh nói. “Không ph̉ai lo gì, chỉ vứt nó đi thôi.” “Tôi sẽ vứt, Arnold,” cô nói. “Rồi, bye nhé.” “Vâng, tất nhiên,” cô nói. “Chúc ngủ ngon.” Anh nghe tiếng cô thở hắt. “Tôi biết là tôi đường đột, Arnold, nhưng anh nghĩ liệu ta có thể gặp nhau đâu đó nói chuyện chút chăng? Chỉ vài phút thôi.” “Tôi e không thể,” anh nói. “Chỉ một phút, Arnold. Việc tôi tìm thấy số của anh và tất cả mọi sự. Tôi có một cảm giác mãnh liệt về chuyện này, Arnold ạ.” “Tôi già rồi,” anh nói. “Ồ, làm gì,” cô nói. “Thật đấy, tôi già mà,” anh nói. “Liệu ta có thể gặp nhau đâu đó không, Arnold. Anh biết không, tôi chưa kể hết với anh. Còn chuyện khác nữa,” người phụ nữ nói. “Ý chị là gì?” anh nói. “Chính xác việc này là gì? A lô?” Cô đã gác máy. Khi anh sửa soạn đi ngủ, vợ anh gọi, anh đoán chị có vẻ hơi say, họ tán chuyện một hồi, nhưng anh không đả động gì đến cuộc gọi kia. Lúc sau, khi anh đang kéo chăn xuống, điện thoại lại đổ chuông. Anh bắt máy. “A lô, Arnold Breit nghe đây.” “Arnold, xin lỗi anh điện thoại bi ngắt. Như tôi nói lúc nãy, tôi nghĩ việc chúng ta gặp nhau quan trọng đấy.” Chiều hôm sau khi đang tra chìa vào ổ khóa, anh nghe tiếng điện thoại reng. Anh bỏ cặp xuống, và vẫn nguyên mũ, áo khoác và găng, vội vàng đến bên bàn nhấc ống nghe. “Arnold, xin lỗi lại quấy rầy anh,” người phụ nữ nói. “Nhưng anh phải đến nhà tôi đêm nay tầm chín giờ rưỡi. Anh có thể làm thế vì tôi không, Arnold?” Tim anh xáo động khi nghe cô gọi tên mình. “Tôi không thể làm thế,” anh nói. “Đi nào, Arnold,” cô nói. “Thật sự quan trọng nếu không tôi đã không nài nỉ. Tôi không thể ra khỏi nhà tối nay vì Cheryl bị cảm lạnh và giờ tôi đang lo nó lây cho thằng bé.” “Còn chồng chị đâu?” Anh đợi câu trả lời. “Tôi không có chồng,” chị nói. “Anh sẽ đến chứ, phải không?” “Tôi không hứa,” anh nói. “Tôi xin anh hãy đến,” cô nói rồi vội đọc cho anh đ̣ia chỉ nhà và gác máy. “Tôi xin anh hãy đến,” anh nhắc lại, vẫn còn cầm điện thoai. Anh chậm rãi tháo găng tay và áo khoác. Anh cảm thấy phải thận trọng. Anh đi rửa tay. Khi nhìn vào gương nhà tắm, anh nhận ra mình vẫn đội mũ. Chính lúc đó anh quyết định sẽ gặp cô, và anh bỏ mũ và kính ra rồi xát xà phòng lên mặt. Anh xem lại móng tay mình. “Anh chắc đúng đường này?” anh hỏi người tài xế. “Đúng con đường này và tòa nhà kia kìa,” người tài xế nói. “Đi tiếp,” anh nói. “Cho tôi xuống cuối block nhà.” Anh trả tiền cho người tài xế. Đèn từ những khung cửa sổ phía trên rọi sáng các ban công. Anh nhìn thấy những chậu cây mắc trên các thanh chắn ban công và đây đó một vài bộ bàn ghế ngoài trời. Ở một ban công nọ một người đàn ông cao to mặc áo gió tì trên lan can dõi theo anh khi anh đi về phía cửa. Anh nhấn cái nút bên dưới dòng chữ C. HOLT. Chuông reo, anh quay lại cửa và bước vào. Anh thong thả leo cầu thang, ngừng để nghỉ một chút tại mỗi chiếu nghỉ. Anh nhớ cái khách sạn ở Luxembuorg, năm cái tầng lầu mà anh và vợ từng leo cách đây nhiều năm. Đột nhiên anh thấy đau bên hông, mường tượng thấy tim anh, mường tượng thấy chân anh khuỵu lại, mường tượng một cú ngã nặng nề xuống chân cầu thang. Anh rút khăn tay ra lau trán. Rồi anh tháo kính lau tròng, đợi tim mình ổn định trở lại. Anh ngó xuống sảnh. Khu chung cư rất im ắng. Anh dừng trước cửa nhà cô, bỏ mũ ra, gõ nhẹ. Cửa hé mở, một cô bé tròn trĩnh mặc pyjama hiện ra. “Bác là Arnold Breit?” cô bé hỏi. “Đúng rồi” anh nói. “Mẹ cháu có nhà không?” “Mẹ cháu nói cho bác vào nhà. Mẹ cháu nói bảo với bác rằng mẹ cháu ra hiệu thuốc mua xi rô ho và aspirin.” Anh khép cánh cửa sau lưng. “Cháu tên gì? Mẹ cháu có nói với bác, nhưng bác quên khuấy mất.” Cô bé không nói gì nên anh thử lại một lần nữa. “Cháu tên gì? Có phải là Shirley?” “Cheryl,” cô bé nói. “C-h-e-r-y-l.” “À, giờ bác nhớ ra rồi. Mà bác nhớ cũng gần đúng, cháu có thấy thế không?” Cô bé ngồi trên một chiếc đôn bên kia phòng nhìn anh. “Vậy ra là cháu ốm, phải không?” anh hỏi. Cô bé lắc đầu. “Không ốm à?” “Không,” cô bé đáp. Anh nhìn quanh. Căn phòng được chiếu sáng bằng một cây đèn đứng có màu giống như bằng vàng, thân gắn một cái gạt tàn lớn và giá để tạp chí. Một cái ti vi để áp bức tường phía xa, đang mở, volume nhở. Một hành lang hẹp dẫn ra phần phía sau căn hộ. Lò sưởi được mở, không khí quẩn mùi thuốc men. Kẹp tóc và lô cuốn tóc lăn lóc trên bàn trà, một cái áo choàng tắm màu hồng vắt trên ghế sofa. Anh nhìn đứa bé lần nữa, rồi hướng mắt về phía bếp và những cánh cửa kính từ bếp ra ban công. Những cánh cửa chỉ khép hờ, và một luồng ớn lạnh thoáng qua người anh khi anh nhớ lại người đàn ông to cao mặc áo gió. “Mẹ chỉ đi ra ngoài một chút,” đứa bé nói, như thể vừa đột ngột tỉnh giấc. Anh nghiêng người về trước dồn lên mấy ngón chân, mũ cầm tay, nhìn cô bé. “Bác nghĩ là bác nên đi.” Có tiếng chìa xoay trong ổ khóa, cánh cửa bật ra, một phụ nữ nhỏ người, xanh tái, nhiều tàn nhang bước vào, tay cầm một túi giấy. “Arnold! Rất mừng được gặp anh!” Cô liếc nhìn anh, vẻ hơi lo lắng, lúc lắc đầu một cách lạ lùng trong lúc cầm túi đi vào bếp. Anh nghe tiếng cửa tủ bếp đóng sập lại. Đứa bé ngồi trên chiếc đôn nhìn anh chăm chú. Anh khuỵu một chân, dồn trọng lượng lên chân này xong lại đổi sang chân kia, đặt mũ lên đầu và lại bỏ mũ ra khi người phụ nữ quay lại. “Có phải anh là bác sĩ?” cô hỏi. “Không,” anh đáp, ngỡ ngàng. “Không, không phải.” “Cheryl ốm, anh thấy đấy. Em ra ngoài mua mấy thứ. Sao con không cất áo khoác của ông đây?” cô quay sang bảo đứa bé. “Bỏ qua cho nó. Bọn em không quen có khách.” “Tôi phải đi đây,” anh nói. “Thực sự tôi không nên đến đây.” “Anh ngồi xuống đi,” cô nói. “Chúng ta không thể đứng nói chuyện thế này. Để em cho con bé uống thuốc trước. Rồi chúng ta nói chuyện.” “Thực sự tôi phải đi,” anh nói. “Nghe giọng chị tôi tưởng có việc gấp. Nhưng thực sự tôi phải đi.” Anh nhìn xuống tay và nhận thức rằng anh đang lóng ngóng. “Em sẽ đặt nước pha trà,” anh nghe cô nói, như thể cô chẳng hề lắng nghe anh. “Rồi em cho Cheryl uống thuốc, và rồi chúng ta có thể nói chuyện.” Cô tóm vai đứa bé và lùa nó vào bếp. Anh thấy người phụ nữ cầm một cái thìa lên, mở một chai gì đấy sau khi ngó qua nhãn, rồi rót hai thìa. “Nào, giờ con chúc ông Breit ngủ ngon rồi vào phòng nhé, ngoan nào.” Anh gật đầu chào đứa bé và sau đó theo người phụ nữ vào bếp. Anh không ngồi xuống cái ghế mà cô chỉ, thay vào đó anh ngồi xuống cái ghế trông ra ban công, hành lang và phòng khách nhỏ. “Tôi hút xì gà được chứ,” anh hỏi. “Anh cứ hút,” cô nói. “Em nghĩ nó sẽ không làm phiền em, Arnold. Hút đi.” Anh quyết định không hút. Anh đặt hai tay lên gối và làm ra một vẻ mặt nghiêm túc. “Chuyện này với tôi vẫn còn rất bí ẩn,” anh nói. “Nó khá không bình thường, tôi bảo đảm với chị.” “Tôi hiểu, Arnold,” cô nói. “Chắc anh muốn nghe em kể chuyện làm thế nào em có số của anh.” “Đúng là tôi muốn nghe,” anh nói. Họ ngồi đối diện nhau chờ nước sôi. Anh nghe tiếng ti vi. Anh ngó quanh bếp rồi lại nhìn ra ban công. Nước bắt đầu sủi tăm. “Chị định kể về chuyện số điện thoại,” anh nói. “Gì, Arnold? Xin lỗi,” cô nói. Anh hắng giọng. “Kể tôi nghe chuyện làm thế nào chị có số của tôi.” Anh nói. “Em hỏi Annette. Cô trông trẻ ấy – nhưng dĩ nhiên là anh biết rồi. Dù sao, cô ấy kể điện thoại reng lúc cô ấy ở đây và có ai đó tìm em. Họ để số cho em gọi lại, và số cô ấy ghi lại hóa ra là số của anh. Em chỉ biết đến thế.” Cô di cái cốc vòng quanh trước mặt. “Xin lỗi em không có gì hơn để kể.” “Nước sôi rồi kìa,” anh nói. Cô lấy thìa, sữa, đường và rót nước sôi lên mấy túi trà. Anh thêm đường và khuấy trà. “Chị nói có chuyện gấp nên tôi phải đến.” “Ồ, chuyện đó, Arnold,” cô nói, quay mặt đi. “Em không biết cái gì khiến em nói vậy. Em không tưởng ra được em đã nghĩ gì.” “Vậy không có gì à?” Anh nói. “Không. Ý em là có.” Cô lắc đầu. “Điều mà anh nói, ý em thế. Không có gì.” “Tôi hiểu,” anh nói. Anh tiếp tục khuấy trà. “Bất thường,” một lúc sau anh nói, gần như với chính mình. “Khá bất thường.” Anh mỉm cười yếu ớt, rồi đẩy cốc trà sang một bên và lấy khăn giấy chậm môi. “Anh không định đi đấy chứ?” cô hỏi? “Tôi phải đi,” anh nói. “Tôi đang đợi một cú điện thoại ở nhà.” “Gượm đã, Arnold.” Cô đẩy ghế ra sau và đứng dậy. Đôi mắt cô màu xanh nhạt, nằm sâu trên gương mặt xanh tái và có những viền tối bao quanh mà thoạt tiên anh tưởng là do trang điểm đậm. Kinh sợ chính mình, biết là sẽ tự ghét mình về việc này, anh đứng dậy vụng về vòng tay quanh eo cô. Cô buông người để được hôn, chớp chớp mắt rồi thoáng khép mi lại. “Muộn rồi,” anh nói, buông cô ra, loạng choạng xoay đi. “Chị thật tử tế. Nhưng tôi phải đi, bà Holt ạ. Cám ơn vì đã mời trà.” “Anh sẽ đến đây nữa chứ, phải không, Arnold?” cô hỏi. Anh lắc đầu. Cô theo anh ra cửa, tại đó anh chìa tay ra. Anh nghe tiếng ti vi. Anh chắc volume đã được chỉnh tăng. Anh chợt nhớ đến đứa trẻ kia – thằng bé. Nó ở đâu? Cô cầm tay anh, vội nâng lên môi. “Anh không được quên em đấy, Arnold.” “Tôi sẽ không quên,” anh nói. “Clara, Clara Holt,” anh nói. “Chúng ta đã chuyện trò vui vẻ,” cô nói. Cô gẩy một thứ gì đó, một sợi tóc, hay một sợi chỉ, trên cổ áo anh. “Em rất mừng vì anh đã đến đây, và em cảm thấy chắc chắn anh sẽ quay lại.” Anh nhìn cô thật kỹ, nhưng bây giờ cô đang ngó mông lung như thể đang gắng nhớ việc gì. “Giờ thì – chúc ngủ ngon, Arnold,” cô nói, cùng lúc cô đóng sập cửa, suýt kẹt cả áo khoác anh. “Lạ lùng,” anh nói khi bắt đầu bước xuống cầu thang. Anh hít một hơi dài lúc xuống tới lề đường và ngừng trong chốc lát để nhìn lại tòa nhà. Nhưng anh không thể xác định được đâu là ban công nhà cô. Người đàn ông cao lớn mặc áo gió tì người trên ban công hơi nhúc nhích và tiếp tục nhìn xuống anh. Anh bắt đầu cuốc bộ, hai tay thọc sâu trong túi áo khoác. Khi về đến nhà, chuông điện thoại đang đổ chuông. Anh đứng im lìm giữa phòng, mân mê chìa khóa giữa các ngón tay cho đến khi chuông ngừng reo. Ròi, khẽ khàng, anh đặt một tay lên ngực và cảm thấy tim anh thình thịch sau những lớp áo. Một lát sau anh đi vào phòng ngủ. Gần như ngay sau đó điện thoại lại réo vang, và lần này anh bắt máy. “Arnold. Arnold Breit nghe đây,” anh nói. “Arnold? Ối trời, tối nay ta khách khí thé!” Vợ anh nói, giọng sang sảng, vẻ đùa cợt. “Em đã gọi liên tục từ chín giờ. Chơi bời tận hưởng tự do hả Arnold?” Anh cứ im lặng nghĩ ngợi về giọng của vợ. “Arnold, anh còn đó chứ?” cô nói. “Nghe có vẻ không giống anh tí nào.” NGƯỜI BỐ Đứa bé nằm trong một cái giỏ bên cạnh giường, được mặc một bộ áo liền quần và cái mũ màu trắng. Cái giỏ sơn mới, đính một dải ruy băng màu xanh mát và lót những tấm chăn màu xanh. Ba cô chị bé nhỏ và người mẹ, vừa ra khỏi giường và chưa hoàn toàn hồi phục, cùng bà nội, tất cả đứng quanh đứa bé, xem nó mở mắt đăm đăm, thỉnh thoảng lại đưa nắm tay lên miệng. Nó không cười mỉm và cũng không cười thành tiếng, nhưng thỉnh thoảng nó chớp mắt và đẩy lưỡi qua lại trên môi khi một trong mấy đứa chị gãi cằm nó. Người bố đang ở trong bếp và có thể nghe tiếng chúng chơi với đứa bé. “Bé yêu ai, hả bé?” Phyllis hỏi và khều cằm nó. “Nó yêu tất cả chúng ta,” Phyllis nói, “nhưng nó yêu Bố nhất vì Bố cũng là con trai!” Bà nội ngồi xuống mép giường và nói, “Nhìn cánh tay bé xíu của nó kìa! Tròn xoe. Và những ngón tay bé xíu kia! Y như là của mẹ nó.” “Nó kháu quá nhỉ?” người mẹ nói. “Thật là khỏe mạnh, con bé bỏng của mẹ.” Rồi chị cúi xuống hôn lên trán nó và sờ tấm chăn phủ trên tay nó. “Nhà mình ai cũng yêu nó.” “Nhưng trông nó giống ai, trông nó giống ai?” Alice kêu lên, và họ cùng xích lại gần hơn cái giỏ để xem đứa bé giống ai. “Nó có đôi mắt đẹp,” Carol nói. “Đứa bé nào mắt chả đẹp,” Phyllis nói. “Nó có đôi môi của ông nội,” bà nội nói. “Nhìn đôi môi nó kìa.” “Con không biết…” người mẹ nói. “Con không có ý kiến.” “Cái mũi! Cái mũi!” Alice kêu lên. “Cái mũi nó thì sao?” người mẹ hỏi. “Nó giống mũi ai đó,” cô bé đáp. “Không, mẹ không biết,” người mẹ nói. “Mẹ không nghĩ vậy.” “Đôi môi đó…” bà nội thì thào, “Những ngón tay nhỏ nhắn đó…” bà vừa nói vừa mở nắm tay nó và kéo xòe các ngón ra. “Em bé giống ai?: “Nó chẳng giống ai hết,” Phyllis nói. Rồi họ xúm lại gần hơn nữa. “Em biết! Em biết!” Carol nói. “Nó giống Bố!” Rồi họ nhìn đứa bé kỹ hơn nữa. “Nhưng bố giống ai?” Phyllis hỏi. “Bố giống ai?” Alice lặp lại, và tất cả cũng nhìn ngay vào bếp nơi người bố đang ngồi bên bàn ăn, xoay lưng về phía họ. “Tại sao, không ai hết!” Phyllis nói và bắt đầu thút thít. “Suỵt,” bà nội nói và nhìn ra chỗ khác rồi quay lại nhìn đứa bé. “Bố không giống bất cứ ai cả!” Alice nói. “Nhưng bố phải giống một người nào đó chứ,”Phyllis nói, lau mặt bằng một dải ruy băng. Và tất cả mọi người trừ bà nội nhìn người bố đang ngồi bên bàn ăn. Anh đã xoay ghế lại, khuôn mặt anh trắng bợt, không biểu lộ điều gì. KHÔNG AI NÓI GÌ Tôi có thể nghe tiếng họ ngoài bếp. Không nghe rõ họ nói gì, nhưng tôi biết họ đang cãi nhau. Rồi đột nhiên im lặng và mẹ bắt đầu khóc. Tôi thúc tay vào người George. Tôi tưởng nó sẽ thức dậy nói gì đó với họ để họ cảm thấy tội lỗi mà thôi đi. Nhưng George thật sự là một con lừa. Nó đạp chân và càu nhàu. “Mày có thôi chọt tao không, thằng chó,” nó nói. “Tao nói cho mày biết!” “Thằng ngu,” tôi nói. “Mày có khôn lên một lần được không? Họ đang cãi nhau và mẹ khóc kìa. Nghe đi.” Nó lắng nghe, đầu trượt khỏi gối. “Tao đếch quan tâm,” nó nói và quay vào tường ngủ tiếp. George là một con lừa thượng hạng. Lúc sao tôi nghe tiếng bố ra khỏi nhà bắt xe buýt. Ông đóng sầm cửa trước. Mẹ đã từng bảo tôi ông muốn làm tan nát cái gia đình này. Tôi không muốn nghe. Một lúc sau mẹ vào phòng gọi chúng tôi dậy đi học. Giọng mẹ nghe buồn cười – tôi không biết nữa. Tôi nói tôi thấy đau bụng. Đó là tuần đầu tiền của tháng Mười và tôi chưa nghỉ học ngày nào, vậy thì mẹ có thể nói gì? Mẹ nhìn tôi, nhưng cứ như bà đang nghĩ ngợi chuyện gì khác. George đã thức giấc và lắng nghe. Tôi biết nó đã thức, bằng cái kiểu nó ngọ nguậy trong giường. Nó đang chờ xem kết quả thế nào để còn tính kế. “Thôi được.” Mẹ lắc đầu. “Mẹ chẳng biết thế nào. Vậy thì ở nhà. Nhưng không được bật ti vi, nhớ đấy.” George nhổm dậy. “Con cũng ốm,” nó nói với mẹ. “Con nhức đầu. Nó chọt, đạp con cả đêm. Con không ngủ được tý nào.” “Đủ rồi!” mẹ nói. “Con phải đi học, George! Con không được ở đây cãi nhau với em con cả ngày. Bây giờ dậy mặc quần áo. Dậy ngay. Sáng nay mẹ không muốn có thêm một trận chiến nữa đâu.” George đợi đến khi mẹ ra khỏi phòng. Rồi nó trèo ra phía chân giường. “Thằng chó,” nó nói và giật chăn khỏi người tôi. Nó lỉnh vào phòng tắm. “Tao giết mày,” tôi nói, không quá to để mẹ khỏi nghe. Tôi nằm trong giường cho đến lúc George đi học. Khi mẹ chuẩn bị đi làm, tôi xin mẹ trải chỗ nằm cho tôi trên sofa. Tôi nói tôi muốn học bài. Trên bàn uống trà tôi để mấy cuốn sách của Edgar Rice Burroughs. Nhưng tôi chả có hứng đọc sách. Tôi muốn mẹ đi làm để tôi còn coi ti vi. Mẹ giật nước toa lét. Tôi không thể chờ thêm được nữa. Tôi bật ti vi lên mà không mở tiếng. Tôi đi ra bếp chỗ mẹ để gói thuốc rút ba điếu. Tôi giấu chúng trong tủ ly, quay lại sofa và bắt đầu đọc cuốn Công chúa sao Hỏa. Mẹ đi ra liếc qua ti vi nhưng không nói gì. Tôi để mở cuốn sách. Mẹ chải tóc trước gương rồi đi vào bếp. Khi mẹ đi ra tôi nhìn xuống sách. “Mẹ muộn rồi. Bye con.” Mẹ không nhắc nhở gì đến chuyện ti vi. Đêm qua mẹ bảo mẹ không còn hình dung được đi làm mà không bị “quậy” là như thế nào nữa. “Đừng nấu nướng gì nhé. Con không cần phải bật bếp lên làm gì. Nếu con đói thì có cá ngừ trong tủ lạnh.” Mẹ nhìn tôi, “Nhưng con đang đau bụng, mẹ nghĩ con không nên ăn. Dù gì thì con không cần phải bật bếp. Nghe chưa? Con uống viên thuốc đỏ đi, con trai, mẹ hy vọng đến tối bụng con sẽ ổn hơn. Có khi đến tối cả nhà đều thấy ổn hơn.” Mẹ đúng ở lối ra vào vặn quả đấm. Trông mẹ như thể định nói gì khác. Mẹ mặc áo trắng, thắt lưng đen rộng bản, váy đen. Khi thì mẹ bảo đó là đồ đi chơi, khi thì mẹ bảo đó là đồng phục. Trong chừng mực tôi còn nhớ được, nó luôn luôn được treo trong tủ hoặc trên dây phơi, hoặc được giặt tay vào ban đêm hoặc được ủi trong bếp. Mẹ đi làm từ thứ Tư đến Chủ nhật. “Bye mẹ.” Tôi chờ mẹ khởi động xe và làm nóng máy. Tôi nghe tiếng mẹ đánh xe khỏi lề đường. Rồi tôi ngồi dậy vặn ti vi to lên và đi lấy thuốc. Tôi hút một điếu và vừa xóc lọ vừa xem một show về bác sĩ và y tá. Rồi tôi bật sang kênh khác. Rồi tôi tắt ti vi. Tôi chả có hứng xem ti vi. Tôi đọc xong chương trong đó Tars Tarkas đổ vì một cô ả da xanh, chỉ để rồi sáng hôm sau thấy cô ta bị gã anh rể ghen tuông ấy chặt đầu. Đây phải là lần thứ năm tôi đọc cuốn này. Rồi tôi vào phòng ngủ bố mẹ ngó nghiêng. Tôi không định tìm kiếm một thứ gì cụ thể trừ khi đó lại là bao cao su và mặc dù đã nhìn khắp song tôi chưa bao giờ thấy cái nào. Có lần tôi thấy một lọ Vaseline nằm sâu trong ngăn kéo. Tôi biết chắc nó phải liên quan gì đến chuyện đó, nhưng tôi không biết là gì. Tôi ngắm nghía cái nhãn, hy vọng nó sẽ tiết lộ điều gì đó, chẳng hạn mô tả người ta làm gì, hay là cách dùng nó như thế nào, đại khái vậy. Nhưng chẳng có gì hết. Gel Dầu Mỏ Tinh Khiết, trên nhãn đằng trước chỉ có vậy. Nhưng chỉ đọc nhiêu đó cũng đủ để cậu nhỏ của tôi ngóc đầu dậy. Một Trợ Thủ Xuất Sắc Ở Nhà Trẻ - nhãn phía sau ghi như vậy. Tôi cố hình dung ra mối liên hệ giữa Nhà Trẻ - xích đu và cầu tuột, bãi cát và vòng treo – và cái diễn ra giữa họ trên giường. Tôi đã mở cái lọ này nhiều lần, ngửi bên trong và nhìn xem nó vơi đi bao nhiêu kể từ lần trước. Lần này tôi bỏ qua lọ Gel Dầu Mỏ Tinh Khiết. Ý tôi là, tôi chỉ ngó qua để xem cái lọ còn ở đó không. Tôi lục vài ngăn kéo khác, không thật sự mong đợi sẽ tìm thấy gì. Tôi ngó dưới gầm giường. Không có cái gì ở chỗ nào hết. Tôi nhìn vào cái hộp trong tủ quần áo chỗ họ để tiền chợ. Không có tiền lẻ, chỉ có một tờ năm đồng và một tờ một đồng. Họ sẽ để ý mấy đồng đó. Rồi tôi nghĩ sẽ thay đồ và đi bộ ra suối Birch. Mùa cá hồi đã bắt đầu từ cách đây một hai tuần, nhưng hầu như mọi người không còn đi câu cá nữa. Mọi người bây giờ chỉ ngồi chờ đến mùa săn hoẵng và gà lôi. Tôi lấy bộ quần áo cũ ra. Tôi mang vớ len ra bên ngoài vớ thường và hí hoáy buộc dây đôi bốt. Tôi làm mấy cái bánh mỳ kẹp cá ngừ và mấy cái bánh quy bơ đậu phộng hai lớp. tôi lấy nước đầy bình rồi giắt con dao săn và bình nước vào thắt lưng. Khi chuẩn bị ra cửa, tôi quyết định để lại vài dòng. Thế là tôi viết: “Đã cảm thấy khỏe hơn nên đi ra suối Birch. Sẽ về sớm. Kh. 3:15.” Tức là khoảng bốn tiếng kể từ bây giờ. Và khoảng mười lăm phút trước khi George đi học về. Trước khi đi, tôi ăn một cái bánh mì kẹp, chiêu bằng một ly sữa. Bên ngoài trời đẹp. Bây giờ là mùa thu. Nhưng trừ buổi tối thì trời không lạnh. Buổi tối người ta hun khói trong những vườn cây ăn quả và sáng dậy mũi bạn sẽ đen thui. Nhưng không ai nói gì hết. Người ta nói hun khói sẽ giúp được những trái lên non khỏi bị cóng, cho nên vậy cũng được. Để tới suối Birch, bạn phải đi hết đường nhà chúng tôi, tới đó bạn sẽ gặp đường số 16. Bạn rẽ trái ở đường số 16, đi lên đồi, băng qua nghĩa trang xuống khu Lennox nơi có một tiệm ăn Tàu. Từ ngã tư bạn có thể nhìn thấy sân bay, suối Birch nằm ngay kế sân bay. Và từ ngã tư, đường số 16 đổi thành đường View. Bạn đi một đoạn dọc đường View cho đến khi gặp cây cầu. Hai bên đường có các vườn quả. Đôi khi đi ngang những vườn quả bạn có thể thấy vài con gà lôi chạy dưới các hàng cây, nhưng bạn không được săn chúng vì bạn có thể bị một gã Hy Lạp tên Matsos bắn. Tôi áng chừng mất bốn chục phút đi bộ cả thảy. Tôi đi được nửa đường 16 thì một phụ nữ chạy chiếc xe màu đỏ ghé lại trước mặt tôi. Cô hạ kính phía bên khách xuống hỏi tôi có muốn đi nhờ không. Cô gầy, quanh miệng có mụn nhỏ. Tóc cô xoăn phồng lên. Nhưng trông cô khá ngon. Cô mặc áo thu màu nâu, ngực đẹp. “Trốn học à?” “Chắc vậy.” “Đi ké không?” Tôi gật. “Vào đi. Chị đang vội.” Tôi bỏ cần và giỏ đựng cá lên ghế sau. Trên sàn xe và ghế sau có đầy những túi đựng hàng của tiệm Mel. Tôi cố nghĩ ra gì đó để nói. “Em đi câu cá,” tôi nói. Tôi bỏ mũ ra, hất bình nước sang bên để ngồi xuống, ngồi sát cửa kính. “À, chị sẽ chẳng bao giờ đoán ra”. Cô cười. Cô lái xe đi tiếp. :Em đi đâu? Suối Birch hả?” Tôi lại gật. Tôi nhìn cái mũ của tôi. Chú tôi đã mua nó cho tôi khi chú đã đi xem 1 trận hokey ở Seattle. Tôi không nghĩ ra gì thêm để nói. Tôi hóp má lại, ngó ra cửa sổ. Bạn luôn luôn hình dung ra bạn được cô gái này tán tỉnh. Bạn biết hai người sẽ khoái nhau và cô nàng sẽ đưa bạn về nhà và mặc cho bạn đè cô ấy khắp nhà. Nghĩ về chuyện đó là cậu nhỏ của tôi bắt đầu ngóc ḍây. Tôi nhích mũ che đùi lại, nhắm mắt và cố nghĩ về bóng chày. “Chị cứ nói là một ngày nào đó chị sẽ đi câu,” cô nói. “Nghe nói đi câu thư giãn lắm. Chị là người hay căng thẳng.” Tôi mở mắt. Chúng tôi dừng ở ngã tư. Tôi muốn nói, Chị có bận lắm không? Chị có muốn bắt đầu từ sáng nay? Nhưng tôi không dám nhìn cô. “Có đỡ cho em một quãng không? Chị phải rẽ ở đây. Tiếc là sáng nay chị có việc vội,” cô nói. “OK ạ. Tốt rồi.” Tôi lấy đồ ra. Rồi tôi đội mũ lên và lại bỏ mũ ra khi nói. “Bye. Cám ơn. Có thể mùa hè tới,” nhưng tôi không thể nói hết câu. “Ý em là đi câu cá? Dĩ nhiên.” Cô vẫy bằng mấy ngón tay cái kiểu mà phụ nữ hay vẫy. Tôi bắt đầu cuốc bộ, nhẩm lại những điều lẽ ra tôi phải nói. Tôi có thể nghĩ ra rất nhiều thứ. Tôi bị làm sao thế? Tôi vụt cái cần vào không khí và huýt sáo hai hay ba lần. Điều mà lẽ ra tôi phải làm để mào đầu là mời cô ấy ăn trưa. Ở nhà tôi đang không có ai. Đột nhiên tôi thấy chúng tôi nằm dưới chăn trong phòng của tôi. Cô ấy hỏi liệu cô không cởi áo có được không và tôi bảo tôi OK. Cô ấy cũng không cởi quần. Vậy cũng được, tôi nói. Tôi không thấy phiền gì. Một chiếc Piper Cup sà thấp qua đầu tôi để chuẩn bị hạ cánh. Tôi chỉ cách cây cầu vài mét. Tôi đã nghe tiếng nước chảy. Tôi phóng xuống bờ suối, mở khóa quần, và câu vổng một mét rưỡi qua suối. Đó hẳn là một kỷ lục. Tôi thong thả chén cái sand-wich còn lại mà mấy cái bánh quy phết bơ đậu phộng. Tôi uống một nửa chỗ nước trong bình. Tôi đã sẵn sàng câu cá. Tôi cố nghĩ xem nên bắt đầu từ chỗ nào. Tôi đã câu ở đây được ba năm, kể từ khi chúng tôi chuyển đến. Bố từng mang George và tôi theo xe, đợi bọn tôi, hút thuốc, mắc mồi vào lưỡi câu, sắp xếp bộ cần mới cho chúng tôi nếu chúng tôi câu đượ c cá. Chúng tôi luôn luôn bắt đầu từ cây cầu này và di chuyển dần xuống, và chúng tôi luôn luôn câu được cá. Có khi, ngay ngày đầu tiên của mùa câu, chúng tôi đã câu được hết hạn mức cho phép. Tôi bày đồ nghề ra rồi thử quăng câu vài lần dưới gầm cầu trước. Có mấy lúc tôi quăng câu ngay dưới bờ hoặc không thì cũng rơi vào sau một tảng đá to. Nhưng chẳng có gì xảy ra. Ở một chỗ nước đọng dưới đáy đầy lá vàng, tôi nhìn kỹ thấy mấy con tôm đang bò, giương những cái càng to tướng xấu xí lên. Mấy con chim cuốc lủi ra khỏi bụi cây. Khi tôi ném một cái que, một con gà lôi trống nhảy lên kêu oang oác cách chừng ba mét khiến tôi suýt đánh rơi cần. Con suối nông và không rộng lắm. Tôi có thể lội qua bất cứ đoạn nào mà nước không tràn vào bốt. Tôi băng qua một bãi cỏ đầy phân bò, đến một chỗ nơi nước chảy ra từ một cái cống to. Tôi biết có một cái hốc nhỏ bên dưới cống nên rất thận trọng. Tôi quỳ xuống, cúi gần để thả dây câu. Chỉ vừa chạm nước thì cần đã giật, nhưng tôi đã để sảy con cá. Tôi có cảm giác nó đã kéo dây theo. Rồi nó thoát và dây trôi trở lại. Tôi mắc một trứng cá hồi khác và thử thả câu vài lần nữa. Nhưng tôi biết mình đã xúi quẩy. Tôi lên bờ và chui qua hàng rào có bảng đề TRÁNH XA trên cột. Một trong những đường băng của sân bay bắt đầu từ đây. Tôi dừng lại ngắm đám hoa mọc trên những khe nứt của vỉa hè. Có thể nhìn thấy những vệt bánh xe cán lên vỉa hè để lại những vết nhơm nhớp xung quanh đám hoa. Tôi gặp lại con suối từ bờ bên kia và thả câu dọc theo suối cho đến tới chỗ cái hốc. Tôi đồ chừng chỉ có thể đi đến đây là xa nhất. Cách đây ba năm khi lần đầu tiên lên đến chỗ này, dòng nước gầm gào lên tận mép bờ. Nó chảy quá xiết nên tôi không thể câu được. Bây giờ thì mực nước suối thấp hơn bờ những gần hai mét. Nước sủi bọt nhảy nhót trong khúc suối hẹp sát mép vực này, nơi hầu như không thấy đáy. Xa hơn một chút, lòng suối dốc lên rồi lại phẳng đi như thể chẳng có gì xảy ra. Lần cuối cùng tới đây tôi câu được hai con dài chừng phần tư mét và sảy mất một con phải to gấp đôi – một con cá hồi đầu thép[1], bố bảo thế khi nghe tôi kể về nó. Bố nói chúng bơi ngược dòng những khi nước dâng cao vào đầu mùa xuân nhưng hầu hết quay về sông trước mùa cạn. [1]:Nguyên văn: “summer steelhead”, một loại cá thuộc họ cá hồi, nhưng rất to. Tôi nối thêm hai đoạn nữa vào dây câu và dùng răng cột chúng. Rồi tôi móc một cái trứng cá hồi tươi vào và quăng ra chỗ bậc nước đổ vào vực. Tôi mặc cho dòng chảy cuốn nó đi. Tôi cảm thấy cục chì giật giật khi va vào đá, một kiểu giật khác với kiểu giật khi cá cắn câu. Rồi sợi dây căng ra và dòng chảy cuốn cái trứng mất hút xuống cuối vực. Tôi cảm thấy chán đời khi đi xa đến thế này mà chẳng được gì. Lần này tôi lôi ra mọi loại dây ra và quăng lần nữa. Tôi gác cần lên một nhánh cây và đốt điếu thuốc thứ hai. Tôi nhìn lên phía thung lũng và bắt đầu hình dung về cô gái. Chúng tôi đã đến nhà cô vì cô nhờ tôi mang hộ mấy túi đồ ăn. Chồng cô đang ở nước ngoài. Tôi chạm vào người cô khiến cô bắt đầu run rẩy. Chúng tôi đang mút lưỡi nhau trên sofa thì cô xin phép đi vào buồng tắm. Tôi đi theo cô. Tôi nhìn cô tụt quần xuống ngồi lên toa lét. Cậu nhỏ của tôi ngóc đầu lên cứng ngắc khi cô vẫy tôi lại. Ngay khi tôi bắt đầu kéo khóa quần xuống, tôi nghe một tiếng phựt trong dòng suối. Tôi ngó ra và thấy đầu cần câu rung nhè nhẹ. Cu câu không to lắm và cũng không chống cự nhiều. Nhưng tôi vờn nó thật lâu. Nó lật nghiêng ra nằm trong dòng chảy phía dưới. Tôi không biết nó là cá gì. Trông nó lạ. Tôi thu dây lại nhấc nó lên bờ cho nằm trên đám cỏ, nó bắt đầu giãy đành đạch. Nó là một con cá hồi. Nhưng nó màu xanh lá cây. Tôi chưa từng thấy con cá nào giống như vậy. Hai bên lườn nó xanh có những chấm đen của cá hồi, một cái đầu xanh nhạt, và một cái bụng cũng hơi xanh. Nó có màu của rêu. Như thể nó được gói trong rêu một thời gian dài khiến rêu dính khắp người nó. Nó khá to khiến tôi băn khoăn sao nó không chống cự nhiều hơn. Tôi không biết nó có ổn không. Tôi nhìn nó một lúc nữa, rồi giúp cho nó thoát khỏi đau đớn. Tôi bứt mấy cọng cỏ cho vào trong giỏ đựng cá và đặt nó vào, trên nắm cỏ. Tôi quăng câu vài lần nữa, rồi tôi áng chừng lúc đó đã phải hai hay ba giờ chiều. Tôi nghĩ tốt hơn là phải di chuyển lại về phía cây cầu. Tôi nghĩ bụng sẽ câu dưới gầm cầu một lúc nữa trước khi về nhà. Và tôi quyết định sẽ chờ đến đêm rồi mới nghĩ về cô gái kia nữa. Nhưng ngay lập tức cậu nhỏ tôi lại ngóc đầu dậy khi tôi nghĩ về cú ngóc đầu mà đêm đó tôi sẽ có được. Rồi tôi nghĩ tốt hơn là đừng làm cái trò này quá nhiều. Cách đây chừng một tháng, một ngày thứ Bảy khi mọi người đều đi vắng, tôi vớ lấy cuốn Kinh Thánh ngay sau khi làm xong, hứa và thề thốt rằng tôi sẽ không làm trò đó nữa. Nhưng tôi làm vấy sữa đục vào cuốn Kinh Thánh, và những hứa hẹn thề thốt chỉ kéo dài một hai ngày, cho đến lúc tôi lại ở một mình. Trên đường về tôi không thả câu. Khi tới cây cầu, tôi nhìn thấy một chiếc xe đạp trên đám cỏ. Tôi thấy một thằng nhóc vóc người cỡ bằng George chạy dọc theo bờ suối. Tôi chạy theo nó. Rồi nó quay lại và vừa chạy về hướng tôi vừa nhìn xuống nước. “Ê, cái gì đó!” tôi réo. “Làm sao đấy?” tôi đồ chừng nó chẳng nghe tôi. Tôi thấy cái cần và túi đi câu của nó bỏ trên bờ, bèn vứt đồ của tôi xuống. Tôi chạy lại chỗ nó. Trông nó giống như một con chuột hay đại loại vậy. Răng nó vẩu, cẳng tay khẳng khiu, còn cái áo sơ mi tay dài tả tơi thì quá bé so với nó. “Chúa ơi, tao thề có một con cá bự nhất ở đây mà tao từng thấy!” nó kêu. “Nhanh! Nhìn! Nhìn đây này! Đây nó đây!” Tôi nhìn chỗ nó chỉ và tim tôi đập thình thích. Nó phải dài bằng cả cánh tay tôi. “Chúa, ôi Chúa, mày nhìn nó đi!” thằng nhóc nói. Tôi nhìn chăm chú. Nó đang nằm nghỉ trong bóng mát dưới một nhánh cây sà trên mặt nước. “Chúa toàn năng,” tôi nói với con cá, “mày từ đâu ra thế hả?” “Mình làm gì đây?” thằng nhóc nói. “Ước gì tao mang theo súng.” “Mình sẽ bắt nó,” tôi nói. “Chúa ơi, nhìn nó kìa. Lùa nó ra chỗ nước cạn đi.” “Vậy mày giúp tao nhé? Tụi mình hợp tác!” thằng nhóc nói. Con cá to đã bơi xuôi dòng thêm vài mét và nằm đó lờ lững ở đoạn nước trong. “OK, mình làm gì bây giờ?” thằng nhóc nói. “Tao đi lên đầu kia rồi lội xuống suối lùa nó đi,” tôi nói. “Mày đứng ở chỗ bãi cạn, khi nào nó bơi ngang thì mày đá cho nó phọt cứt ra. Làm thế nào để đưa nó được lên bờ thì làm, kiểu gì cũng được. Rồi ôm chặt lấy nó và đợi ở đó.” “OK. Ồ, cứt thật, nhìn nó kìa. Nhìn kìa, nó đang bơi đi. Nó bơi đi đâu?” thằng nhóc gào lên. Tôi dõi theo con cá bơi ngược dòng rồi dừng lại gần bờ. “Nó không đi đâu được hết. Chẳng có chỗ nào cho nó đi. Thấy nó không? Nó sợ vãi tè rồi. Nó biết mình ở đây. Bây giờ nó chỉ bơi lòng vòng tìm xem có chỗ thoát không thôi. Thấy chưa, nó lại dừng rồi. Nó không đi đâu được hết. Nó biết vậy. Nó biết mình sắp sửa tóm nó. Nó biết là nó sắp toi rồi. Tao sẽ lên đằng kia dọa cho nó xuống. Mày vớ lấy nó khi nó bơi ngang nhé.” “Ước gì tao có súng,” thằng nhóc nói. “Có súng tao sẽ cho nó biết mùi,” thằng nhóc nói. Tôi đi lên một đoạn, rồi bắt đầu lội xuôi dòng. Tôi ngó chừng đằng trước trong khi lội. Đột nhiên con cá vụt ra khỏi bờ, quay ngoắt ngay trước mũi tôi làm tung xoáy nước bạc, rồi vút xuôi theo dòng. “Nó tới đó!” tôi hú. “Ê, ê, nó tới đó.” Nhưng con cá lượn vòng trước khi tới bãi cạn và quay đầu lại. Tôi vừa đập nước tung tóe vừa hú hét khiến nó lại quay đầu. “Nó tới đó! Tóm lấy nó, tóm lấy nó! Nó tới đó!” Nhưng thằng ngu đó đã kiếm được một cây gậy, thằng con lừa, và khi con cá tới chỗ bãi cạn, thay vì cố đá văng con quỷ đó lên bờ như lẽ ra nó phải làm, nó lại vụt gậy vào con cá. Con cá vuột khỏi, nổi khùng, lướt một bên lườn qua bãi cạn. Nó thoát. Thằng nhóc ngu dốt cố chộp nó và ngã sóng soài. Nó lóp ngóp lội lên bờ, người ướt sũng. “Tao đập trúng nó!” thằng nhóc reo lên. “Chắc là nó cũng dính đòn. Tao chộp trúng nó rồi, nhưng không giữ được.” “Mày chẳng làm được gì hết!” tôi hổn hển. Tôi mừng vì thằng nhóc đã ngã xuống nước. “Thậm chí mày còn không lại gần được nó, con lừa ạ. Mày cầm cái gậy đó làm gì? Lẽ ra mày phải đá nó. Bây giờ thì nó đã bơi đi cả cây số rồi.” Tôi cố phun nước bọt. Tôi lắc đầu. “Tao không biết. Mình chưa tóm được nó. Chắc mình sẽ không tóm được nó,” tôi nói. “Mẹ kiếp, tao đập trúng nó!” thằng nhóc gào lên. “Mày có thấy không? Tao đập trúng nó, tay tao còn chạm vào người nó. Mày đến gần nó được chừng nào chưa? Chưa kể, đây là con cá của ai?” Nó nhìn tôi. Nước chảy từ quần xuống giày nó. Tôi không nói gì thêm, nhưng tự tôi cũng nghĩ về chuyện đó. Tôi nhún vai. “Hừ, thôi được. Tao nghĩ nó của cả hai. Lần này ráng tóm được nó. Không được phạm sai lầm nữa, cả mày cả tao,” tôi nói. Chúng tôi lội xuôi dòng. Nước tràn vào bốt tôi, nhưng thằng nhóc thì ướt tận cổ. Nó cắn chặt hàm răng vẩu để khỏi phải đánh đàn răng. Không thấy con cá trong dòng chảy phía dưới bãi cạn, cũng không thấy nó ở dải nước kế tiếp. Chúng tôi nhìn nhau, bắt đầu lo rằng con cá đã bơi xuôi dòng đủ xa để đến một trong những cái vũng sâu. Nhưng rồi con quỷ đó quẫy ngay gần bờ, khuấy đuôi văng cả cát xuống nước, rồi lại lủi đi. Nó vượt qua một bãi cạn khác, cái đuôi to thò trên mặt nước. Tôi thấy nó bơi qua gần bờ và dừng lại, một nửa cái đuôi chìa ra khỏi nước, bơi phe phẩy chỉ đủ để khỏi bị nước cuốn đi. “Mày thấy nó không?” tôi nói. Thằng nhóc nhìn. Tôi cầm cánh tay nó và chỉ bằng ngón tay nó. “Kia kìa. Bây giờ OK rồi, nghe đây. Tao sẽ lội xuống cái dòng chảy nhỏ giữa hai bờ kìa. Mày hiểu ý tao không? Mày đợi ở đây tới khi tao ra dấu. Rồi mày bắt đầu đi xuống. OK? Lần này đừng để nó thoát nếu như nó quay đầu lại.” “Ừ,” thằng nhóc nói, cà hàm răng vẩu vào môi. “Lần này phải tóm được nó,” thằng nhóc nói, trông mặt nó lạnh cóng. Tôi leo lên bờ và đi dọc xuống, cố gắng di chuyển nhẹ nhàng. Tôi trượt khỏi bờ suối và lội tiếp. Nhưng tôi không thấy cái con quỷ to đùng đó đâu hết và tim tôi nhộn nhạo. Tôi nghĩ chắc chắn nó chuồn mất rồi. Chỉ xuôi dòng một chút nữa thôi nó sẽ lẩn vào một trong những cái vũng. Lúc đó thì chúng tôi không cách nào tóm nó được. “Nó còn đó không?” tôi hú. Tôi nín thở. Thằng nhóc vẫy tay. “Sẵn sàng rồi!” tôi lại hú. “Bắt đầu đây!” thằng nhóc hú đáp lại. Tay tôi run run. Con suối chỉ rộng chưa tới một mét chảy giữa hai bờ đất. Nước cạn nhưng chảy xiết. Thằng nhóc đang di chuyển xuôi dòng, nước lên tới đầu gối, ném đã về phía trước, đập nước và la hét. “Nó tới đó!” Thằng nhóc vẫy cánh tay. Tôi thấy con cá rồi; nó bơi thằng về phía tôi. Nó định quay lại khi thấy tôi nhưng đã quá muộn. Tôi quỳ xuống, chộp vào nước lạnh. Tôi tóm nó bằng cả hai cánh tay, lên, lên, tôi nhấc nó lên, quẳng nó ra khỏi nước, cả hai văng lên bờ. Tôi giữ nó trước ngực, nó vùng vẫy giãy giụa, cho tới lúc tôi lùa tay khỏi cái lườn trơn mà tóm vào mang nó. Tôi thọc một tay ra tới mồm nó và khóa hàm nó lại. Tôi biết đã tóm được nó. Nó vẫn vùng vẫy, rất khó giữ, nhưng tôi đã tóm được nó và sẽ không để tuột. “Mình tóm được nó rồi!” thằng nhóc vừa reo vừa bì bõm lội lên. “Nhờ Chúa, mình đã tóm được nó! Không phải nó ghê gớm lắm sao! Nhìn nó kìa! Ôi Chúa, để tao ôm nó với,” thằng nhóc reo. “Mình phải giết nó đã,” tôi nói. Tôi thọc tay kia xuống họng nó. Tôi giật ngược lên phía đầu mạnh hết sức có thể, cố tránh bộ răng của nó, và cảm thấy tiếng rắc nặng nề. Nó giãy nhẹ một lúc lâu rồi nằm đơ ra. Tôi đặt nó nằm trên bờ và chúng tôi nhìn nó. Nó dài ít nhất sáu tấc, ốm một cách kỳ cục, nhưng to hơn bất cứ con nào tôi từng bắt được. Tôi lại nắm lấy hàm nó. “Ê,” thằng nhóc định mở mồm nhưng lại im khi thấy tôi định làm gì. Tôi rửa sạch máu và vứt con cá nằm trên bờ. “Tao muốn cho bố tao xem con này ghê lắm,” thằng nhóc nói. Chúng tôi đều ướt sũng và run lập cập. Chúng tôi nhìn nó, sờ mó nó. Chúng tôi banh mồm nó ra và sờ hàm răng nó. Hai bên lườn nó có những vết sẹo, những vết trắng sần sùi to bằng đồng xu và sưng tấy. Trên đầu nó, quanh mắt và mũi có những vết rách mà tôi ngờ là do nó va vào đã và do đánh nhau. Nhưng nó gầy tong, quá gầy nếu so với chiều dài của nó, gần như không thể thấy những sọc hồng hai bên lườn, còn bụng thì xám và nhão thay vì trắng và chắc như lẽ ra phải thế. Nhưng tôi vẫn nghĩ nó vẫn là quái kiệt. “Chắc là tao phải về ngay rồi,” tôi nói. Tôi nhìn những đám mây trên đồi nơi mặt trời đang dần lặn xuống. “Tao phải về nhà.” “Chắc thế. Tao cũng vậy. Tao lạnh cóng,” thằng nhóc nói. “Ê, tao muốn cầm nó,” thằng nhóc nói. “Kiếm một cái que. Mình sẽ xỏ qua mồm nó để khiêng,” tôi nói. Thằng nhóc tìm được một cái que. Chúng tôi xâu qua mang nó và đẩy con cá xuống giữa que. Rồi mỗi đứa cầm một đầu que và bắt đầu đi về, ngắm con cá đong đưa trên que. “Mình sẽ làm gì với nó?” thằng nhóc nói. “Tao không biết,” tôi nói. “Tao nghĩ là tao bắt được nó,” tôi nói. “Cả hai cùng bắt. Ngoài ra, tao thấy nótrước.” “Đúng vậy,” tôi nói. “À, mày muốn tung đồng xu hay sao?” tôi thò tay kia vào túi, nhưng tôi chả có đồng nào. Vả lại tôi sẽ làm gì nếu thua? Dù sao đi nữa, thằng nhóc nói, “Không, tao không muốn tung xu.” Tôi nói, “Cũng được. Tao OK.” Tôi nhìn thằng nhóc, tóc nó dựng đứng, môi xám ngoét. Nếu phải đánh nhau thì tôi có thể thắng nó. Nhưng tôi không muốn đánh nhau. Chúng tôi tới nơi để đồ đạc và nhặt đồ lên bằng một tay, không đứa nào buông đầu que ra. Rồi chúng tôi cuốc bộ tới chỗ nó để xe đạp. Tôi nắm chặt đầu que đề phòng thằng nhóc giở trò gì. Rồi tôi nảy ra một ý. “Mình có thể chia đôi,” tôi nói. “Ý mày là sao?” thằng nhóc nói, răng nó lại đánh cầm cập. Tôi cảm thấy nó siết chặt đầu que. “Chia đôi con cá. Tao có dao. Mình cắt làm đôi mỗi đứa lấy một nửa. Tao không biết, nhưng tao nghĩ mình có thể làm được.” Nó giật một cọng tóc và nhìn con cá. “Mày định dùng con dao đó?” “Mày có con nào không?” tôi nói. Thằng nhóc lắc đầu. “OK,” tôi nói. Tôi rút cái que ra, đặt con cá trên bãi cỏ bên cạnh xe đạp của thằng nhóc. Tôi lấy dao ra. Một chiếc may bay chạy lấy đà trên đường băng lúc tôi ướm một vạch. “Ngay đây nhé?” tôi nói. Thằng nhóc gật. Chiếc máy bay ầm ầm chạy trên đường băng và cất cánh ngay trên đầu chúng tôi. Tôi bắt đầu cắt con cá ra làm đôi. Tôi đụng tới ruột nó, liền lật nó lại và trút mọi thứ ra. Tôi hì hục cắt tiếp cho đến lúc chỉ còn một mảnh da bụng gắn nó lại với nhau. Tôi cầm cả hai phần của nó lên và giật cho đứt hẳn làm hai. Tôi đưa thằng nhóc phần đuôi. “Không,” nó nói, lắc đầu. “Tao muốn nửa kia.” Tôi nói, “Nó như nhau hết. Mẹ kiếp, xem này, tao nổi khùng bây giờ.” “Kệ mày,” thằng nhóc nói. “Nếu nó như nhau hết thì tao lấy nửa kia. Nó như nhau hết mà, đúng không?” “Nó như nhau,” tôi nói. “Nhưng tao nghĩ tao sẽ giữ nửa này. Tại vì tao có công bắt cá.” “Tao muốn nửa đó,” thằng nhóc nói. “Tao thấy nó trước mà.” “Mình dùng dao của ai?” tôi nói. “Tao không muốn lấy khúc đuôi,” thằng nhóc nói. Tôi nhìn quanh. Không có chiếc xe nào trên đường và không có ai khác đi câu. Có tiếng một chiếc máy bay ầm ì, và mặt trời đang lặn dần. Tôi lạnh run cả người. Thằng nhóc run cầm cập, vẫn đợi. “Tao có ý này,” tôi nói. Tôi mở giỏ cá và chỉ nó con cá hồi. “Thấy không? Nó màu xanh lá cây. Nó là con cá xanh lá cây duy nhất tao từng thấy. Vậy ai lấy khúc đầu thì đứa kia được con cá hồi xanh này và khúc đuôi. Công bằng chưa?” Thằng nhóc nhìn con cái hồi xanh rồi lấy nó ra khỏi giỏ mà cầm. Nó ngắm nghía hai nửa con cá. “Chắc được,” nó nói. “OK, chắc được. Mày lấy nửa đó. Tao có nhiều thịt hơn.” “Tao không quan tâm,” tôi nói. “Tao sẽ rửa sạch nó. Nhà mày ở đâu?” tôi nói. “Dưới đường Arthur.” Nó nhét con cá hồi màu xanh và khúc cá của nó vô trong một cái túi vải bẩn. “Tại sao mày hỏi?” “Chỗ đó là chỗ nào? Có phải gần sân bóng?” tôi nói. “Ừ, nhưng tao hỏi là tại sao.” Thằng nhóc có vẻ sợ. “Tao ở gần đó,” tôi nói. “Nên tao nghĩ tao có thể ngồi trên sườn xe. Mình sẽ thay phiên nhau đạp. Tao còn một điều này, mình có thể chia, nếu nó chưa bị ướt.” Nhưng thằng nhóc chỉ nói, “Tao lạnh cóng.” Tôi rửa khúc của tôi dưới suối. Tôi nhúng đầu nó xuống nước và vạch miệng nó ra. Dòng nước tràn vào miệng nó và chảy ra đầu kia phần thân còn lại của nó. “Tao lạnh cóng,” thằng nhóc nói. *** Tôi thấy George đạp xe đầu kia đường. Nó không thấy tôi. Tôi vòng ra sau nhà để tháo bốt. Tôi cởi cái giỏ cá ra để có thể mở nắp và sẵn sàng tiến vào nhà, miệng cười toe toét. Tôi nghe tiếng họ liền nhìn qua cửa sổ. Tôi thấy họ đang ngồi bên bàn. Khói mịt mù nhà bếp. Tôi thấy nó bốc lên từ một cái chảo trên bếp. Nhưng cả hai không để ý. “Cái tôi bảo với cô là sự thật không thể chối cãi,” bố nói. “Bọn trẻ biết gì? Cô sẽ thấy.” Mẹ nói, “Tôi không thấy gì hết. Nếu tôi nghĩ vậy, chẳng thà tôi thấy chúng chết trước.” Bố nói, “Cô bị làm sao đấy? Cô nên cẩn thận mồm mép.” Mẹ bắt đầu khóc. Bố dúi điếu thuốc vào gạt tàn rồi đứng dậy. “Edna, cô có biết là cái chảo đang cháy không?” bố nói. Mẹ nhìn cái chảo. Mẹ đẩy ghế ra sau, nắm lấy cán chảo rồi ném chảo vào tường chỗ bồn rửa bát. Bố nói, “Cô mất trí rồi hả? Nhìn xem cô đã làm gì này!” Bố lấy một cái khăn lau bát ra và bắt tay chùi chảo. Tôi mở cửa sau. Tôi bắt đầu ngoác miệng. Tôi nói, “Bố mẹ không tin được con bắt được gì ở suối Birch đâu. Hãy nhìn. Nhìn đây. Nhìn đây này. Nhìn xem con bắt được gì.” Chân tôi run. Gần như tôi không thể đứng được. Tôi chìa cái giỏ về phía mẹ, và rốt cuộc mẹ cũng nhìn vào. “Ối, ối, lạy Chúa tôi. Cái gì đây? Rắn hả? Cái gì đây? Làm ơn, làm ơn mang nó ra ngoài không tao nôn bây giờ.” “Mang ra ngoài đi!” bố quát. “Mày không nghe bà ấy nói gì à? Mang nó ra khỏi đây!” bố quát. Tôi nói, “Nhưng mà bố nhìn xem cái gì đây đã.” Bố nói, “Tao không muốn nhìn.” Tôi nói, “Đó là một con cá hồi đầu thép khổng lồ ở suối Birch. Nhìn xem! Đáng nể không? Nó là một quái kiệt. Con chạy xuôi chạy ngược suối đuổi theo nó như một thằng điên!” Giọng tôi run run. Nhưng tôi không hề dừng lại. “Còn một con khác nữa,” tôi nói vội. “Một con màu xanh. Con thề! Nó màu xanh! Bố đã bao giờ thấy một con cá màu xanh chưa?” Bố nhìn vào giỏ rồi há hốc mồm. Ông gào, “Mang cái đồ chết tiệt này ra khỏi đây ngay! Mày bị sao vậy hả? Mang nó ra khỏi nhà bếp và vứt vô cái thùng rác chết tiệt đi!” Tôi đi ra ngoài. Tôi nhìn vào giỏ. Cái thứ trong đó trông lấp lánh bạc dưới ánh đèn cổng. Cái thứ trong đó làm đầy cái giỏ. Tôi nhấc nó ra. Tôi cầm nó trên tay. Tôi cầm nửa đó của nó. SÁU MƯƠI MẪU Cách đây một tiếng, lúc họ đang ăn thì có điện thoại. Có hai người đang đi săn trên khu đất của Lee Waite ở Toppenish Creek, mạn dưới cây cầu trên đường Cowiche. Joseph Eagle nhắc Lee Waite rằng đây là lần thứ ba hay thứ tư trong mùa đông này có người săn trộm ở đó. Joseph Eagle là một ông già da đỏ sống trong khu đất nhà nước cấp cách đường Cowiche một quãng, ông có một cái radio mà ông nghe cả ngày lẫn đêm và một cái điện thoại phòng khi đau ốm. Lee Waite ước gì cái ông già da đỏ này để cho anh yên về khu đất đó, ước rằng Joseph Eagle muốn làm gì thì cứ làm, trừ việc gọi anh. Ra ngoài cổng, Lee Waite đứng nghỉ một chân và khươi cọng thịt dính trong răng. Anh ốm, nhỏ thó, có gương mặt ốm và mái tóc đen dài. Nếu không phải vì cú điện thoại thì chiều nay anh đã đánh một giấc. Anh nhíu mày, thong thả mặc áo khoác vào; đằng nào thì khi anh tới đó chúng cũng đã biến. Thường thường là thế. Những người đi săn từ Toppenish hay Yakima đến cũng được phép lái xe trên đường trong khu dành riêng cho người da đỏ như bất kỳ ai, chỉ có điều họ không được phép săn bắn. Nhưng họ cứ diễu qua sáu mươi mẫu đất không người trông coi và đầy cám dỗ của anh hai, có khi ba lần, rồi nếu thấy ngứa ngáy tay chân thì đỗ xe bên mé đường khuất trong đám cây và băng vội qua những đám lúa mạch hoang cao ngang đầu gối, xuống ven suối – có thể bắn vài con vịt, có thể không, nhưng luôn luôn bắn tứ tung một lúc trước khi chuồn đi. Joseph Eagle ngồi liệt trong căn nhà của mình theo dõi họ nhiều lần. Hay ít ra ông bảo Lee Waite vậy. Anh dùng lưỡi quét sạch răng và nheo mắt trong ánh sáng nhờ nhờ của buổi chiều muộn mùa đông. Anh không sợ; không phải thế, anh tự nhủ. Anh chỉ không muốn chuốc lấy rắc rối. Cái vòm cổng nhỏ, được xây ngay trước chiến tranh, gần như đã tối. Ô kính cửa sổ duy nhất đã bị đập vỡ từ nhiều năm trước, và Waite đã đóng một cái bao vải lên chỗ hở. Nó được treo ở đó bên cạnh cái tủ, bết cứng lại, khẽ đu đưa mỗi khi khí lạnh bên ngoài lùa vào quanh mép. Những bức tường treo đầy những bộ ách và yên cương cũ kỹ, và ở một mảng tường phía trên cửa sổ là một hàng dụng cụ cầm tay han gỉ. Anh đẩy lưỡi một lần chót, vặn chặt bóng đèn vào cái đui trên đầu, rồi mở tủ. Anh lấy một khẩu súng hai nòng trong tủ ra và với cái hộp trên ngăn kệ cao nhất để lấy một vốc đạn. Chuôi đồng của những viên đạn lạnh ngắt, anh lăn chúng trong tay trước khi thả vào túi áo khoác cũ đang mặc. “Bố không nạp đạn à, bố ơi?” thằng bé Benny hỏi từ phía sau. Waite ngoảnh lại, thấy Benny và thằng cu Jack đứng ngay cửa bếp. Kể từ lúc có điện thoại, chúng tôi lẽo đẽo bám theo anh – muốn biết xem hôm nay anh có định bắn ai không. Cái kiểu trẻ con nói chuyện như vậy làm anh bực mình, và bây giờ chúng còn đứng ngay cửa khiến cho không khí lạnh ùa vào nhà và nhìn vào khẩu súng lớn dưới cánh tay anh nữa. “Cút vào chỗ chúng mày trong nhà đi,” anh nói. Chúng để cửa mở mà chạy vào lại chỗ mẹ anh và Nina đang ngồi tuốt trong phòng ngủ. Anh có thể nhìn thấy Nina ngồi ở bàn đang cố dỗ em bé ăn miếng bí, nhưng đứa bé cứ ẩy ḷai, lắc đầu nguầy nguậy. Nina nhìn lên, gượng cười. Waite bước vào nhà bếp, đóng cửa lại, rồi đứng dựa vào đó. Anh có thể nhận thấy nàng rất mệt. Phía trên môi nàng một hàng mồ hôi lấm tấm, và, khi anh ngắm, nàng ngừng lại vén mớ tóc trước trán. Nàng lại ngẩng nhìn anh, rồi lại nhìn đứa bé. Những lần mang thai trước chưa bao giờ nàng mệt mỏi như thế này. Những lần khác nàng hầu như không thể ngồi yên mà luôn bật dậy đi lòng vòng, ngay cả khi chẳng có việc gì nhiều để làm ngoại trừ nấu nướng hay may vá. Anh mân mê chỗ da chùng quanh cổ, lén liếc nhìn mẹ anh đang lơ mơ từ lúc ăn xong trên cái ghế bên lò sưởi. Bà nheo mắt nhìn anh và gật đầu. Bà đã bảy mươi, nhăn nheo, nhưng tóc còn đen nhánh tết thành hai bím buông xuống trước vai. Lee Waite đoan chắc bà đang bị sao đấy vì có những lúc hai ngày liền bà không nói năng gì, chỉ ngồi trong căn phòng kia bên cửa sổ nhìn trừng trừng ra thung lũng. Khi bà làm như vậy anh thấy run sợ, anh không còn biết những dấu hiệu nhỏ của bà cũng như sự im lặng của bà có ý nghĩa gì. “Sao mẹ không nói gì?” anh hỏi, lắc đầu. “Mẹ, làm sao con biết được mẹ muốn gì nếu mẹ không lên tiếng?” Waite nhìn bà một lúc, ngắm bà giật đuôi bím tóc mình, đợi bà nói gì đó. Rồi anh hắng giọng và băng qua mặt bà, vớ lấy cái mũ trên cây đinh, rồi đi ra. Trời lạnh. Một lớp tuyết hạt dày bốn năm phân từ ba ngày qua bao phủ mọi vật, khiến mặt đất vồng lên và làm cho hàng cột trồng đậu trơ trụi trước nhà trông ngớ ngẩn. Con chó từ dưới gầm nhà chạy ra sục sạo khi nó nghe tiếng cửa, rồi chạy thẳng ra chiếc xe tải mà không quay đầu lại. “Lại đây!” Waite đanh giọng gọi, tiếng anh dội lại trong bầu không khí loãng. Anh chồm ra, nắm lấy cái mõm khô lạnh của con chó. “Lần này mày ở nhà thì hơn. Ừ, ừ.” Anh phẩy phẩy cái tai con chó và nhìn quanh. Anh không thấy đồi Satus bên kia thung lũng vì màn sương dày đặc, chỉ thấy được cánh đồng củ dền dợn sóng – màu trắng, trừ những chỗ đây đó còn đen vì tuyết chưa chạm tới. Một chỗ trong tầm nhìn – nhà cửa của Charley Treadwel, cách một quãng khá xa – nhưng anh có thể chắc là không sáng đèn. Không một âm thanh nào ở đâu, chỉ có bầu trời thấp nặng mây đè xuống vạn vật. Anh ngỡ là có gió, nhưng vẫn tĩnh. “Mày ở lại đây. Nghe chưa?” Anh nổ máy chiếc xe tải, lại ước rằng mình chẳng phải đi. Đêm qua anh nằm mơ, về một cái gì đó mà anh không nhớ - như mọi lần, nhưng anh có một cảm giác bất an từ lúc thức dậy. Anh để số thấp lái ra cổng, xuống xe mở cổng, lái qua, rồi lại xuống xe, gài cổng lại. Anh không còn nuôi ngựa – nhưng thói quen luôn luôn đóng cổng đã ngấm vào người. Trên đường, chiếc xe dọn tuyết đang bò về phía anh, lưỡi kêu xoen xoét chát chúa mỗi khi phần kim loại chạm vào mặt đất đông cứng. Không vội, nên anh đứng lại chờ chiếc xe dọn tuyết chậm chạp nhích đến. Một người trong buồng lái nghiêng người ra, điếu thuốc trên tay, vẫy chào khi đi ngang. Nhưng Waite giả lơ. Anh đánh xe lên đường trở lại sau khi họ vượt qua. Anh nhìn vào nhà Charley Treadwell khi lái ngang qua, nhưng ở đó vẫn không có ánh đèn, không có cả xe. Anh nhớ chuyện Charley kể anh nghe cách đây mấy ngày, về vụ đánh nhau giữa Charley và một thằng nhóc nào đó hôm Chủ nhật vừa rồi, nó tới hàng rào nhà anh ta buổi chiều mà bắn vào ao vịt, ngay bên cạnh trang trại. Charley nói chiều nào lũ vịt cũng tới đó. Chúng tin tưởng anh ta, anh ta nói, như thể điều đó quan trọng. Anh ta từ phía trang trại nơi anh ta đang vắt sữa chạy tới, vung vẩy tay và la hét, còn thằng nhóc kia thì chĩa súng vào anh. Phải mà tôi có thể lột súng thằng oắt đó, Charley nói thế, trừng trừng nhìn Waite bằng con mắt lành lặn và gật đầu chầm chậm. Waite vặn người trên ghế. Anh không muốn gặp bất cứ phiền phức nào như vậy. Anh hy vọng dù cho đó là ai thì khi anh tới họ đã đi rồi, như những lần trước. Anh vượt qua Pháo đài Simcoe bên tay trái, phần chóp sơn trắng của mấy tòa nhà cũ kỹ này nhô lên đằng sau hàng rào sắt nhọn vốn đã được dựng lại. Những cánh cổng của pháo đài để mở, và Lee Waite thấy xe đỗ quanh bên trong, có mấy người mặc áo khoác đi đi lại lại. Anh chẳng bao giờ thèm dừng lại. Có lần cô giáo đã dắt tất cả lũ trẻ con đến đó – đi thực địa, cô gọi là như thế - nhưng hôm ấy Waite không đi học. Anh hạ kính xe xuống, hắng giọng và phun toẹt vào cánh cổng khi lái xe ngang qua. Anh rẽ vào Đường B tới chỗ của Joseph Eagle – tất cả đèn đều sáng, kể cả đèn cổng. Waite vượt qua, đến chỗ cắt với đường Cowiche thì ra khỏi xe nghe ngóng. Anh bắt đầu nghĩ họ có lẽ đã đi và anh có thể quay về thì nghe một loạt súng xa xa đùng đục vẳng qua cánh đồng. Anh đợi một lúc, rồi lấy một cái khăn ra, đi vòng quanh xe để lau tuyết và băng đọng trên rìa kính xe. Anh đá cho tuyết văng khỏi giày trước khi ngồi vào xe, lái một đoạn cho tới khi thấy cây cầu, rồi để ý tìm vệt bánh xe nào dẫn vào những lùm cây, anh biết sẽ tìm thấy xe của họ ở đó. Anh dừng xe lại sau một chiếc sedan màu xám và tắt máy. Anh ngồi chờ trong xe, di chân qua lại trên phanh và thỉnh thoảng nghe tiếng súng của họ. Sau vài phút anh chịu không thể ngồi yên nữa bèn leo ra, thả bộ quành ra trước xe. Đã bốn, năm năm rồi anh chẳng xuống khu đó làm gì. Anh đứng tựa vào cái chắn bùn ngó lung ra khu đất. Anh chẳng hiểu bao thời gian trôi đi đâu. Anh nhớ khi còn nhỏ thì anh muốn lớn lên. Hồi ấy anh từng xuống khu này để bẫy chuột xạ ở phần này của con suối và đặt cần câu đêm để câu cá hồi nâu. Waite ngó quanh, bàn chân nhúc nhích trong giày. Những chuyện đó đã lâu lắm rồi. Khi lớn lên, anh nghe bố bảo ông định dành khu đất này cho ba người con trai. Nhưng cả hai người anh đều đã chết. Tất cả khu đất này chỉ còn để cho Lee Waite. Anh nhớ những cái chết. Đầu tiên là Jimmy. Anh nhớ lần thức dậy vì tiếng đập cửa ầm ầm – trời tối, mùi nhựa cây trong bếp lò, một chiếc ô tô đậu bên ngoài để đèn sáng và không tắt máy, và một giọng nói khê khê phát ra từ cái loa bên trong. Bố anh đẩy cửa, và hình dáng to đùng của một người đội nón cao bồi, đeo súng – viên cảnh sát phó – lấp cả lối ra vào. Waite à. Thằng Jimmy nhà ông bị đâm trong một tiệc khiêu vũ ở Wapato. Mọi người lên xe tải đi hết còn Lee ở lại một mình. Anh co ro trước lò sưởi suốt đêm, nhìn những cái bóng nhảy múa trên tường. Sau này, khi anh mười hai tuổi, một người khác đến, một viên cảnh sát khác, chỉ nói rằng họ nên đi theo cùng. Anh rời khỏi chiếc xe tải, thả bộ vài bước về phía rìa cánh đồng. Bây giờ đã khác xưa, đơn giản vậy thôi. Anh ba mươi hai, Benny và cu Jack đang lớn lên. Rồi cả đứa bé nữa. Waite lắc đầu. Anh nắm cái thân cao của một cây cỏ bông tai. Anh bứt cổ nó rồi ngẩng lên khi nghe tiếng vịt kêu xáo xác trên đầu. Anh chùi tay vào quần, dõi theo chúng một lát, ngắm chúng xòe cánh lượn một vòng trên suối. Rồi chúng vụt sáng. Anh thấy ba con rơi xuống trước khi nghe tiếng súng. Anh vụt quay lại đi về xe tải. Anh lấy súng ra, cẩn thận để cửa không sập mạnh. Anh di chuyển vào lùm cây. Trời đã gần tối. Anh ho một tiếng rồi đứng đó môi bặm lại Chúng vạch bụi cây đi tới, hai đứa. Chúng lắc hàng rào làm nó kêu cót két, rồi trèo qua, vào trong đồng và nện chân trên tuyết. Đến lúc tiến lại gần xe thì chúng đã thở phì phò. “Ôi Chúa, có một cái xe tải ở đây!” một trong hai đứa nói và làm rớt mấy con vịt đang xách trên tay. Đó là giọng nói một thằng con trai. Nó mặc một cái áo đi săn nặng nề, và Waite lờ mờ đoán ra số vịt khổng lồ trong cái túi chiến lợi phẩm. “Thoải mái đi, được không mày?” Thằng kia vươn cổ ngó quanh, cố xem thử có gì. “Nhanh lên. Không có ai bên trong hết. Mày vác cái xác mày vào xe đi!” Vẫn không nhúc nhích, cố gẵng giữ giọng bình thản, Waite nói, “Đứng yên đó. Bỏ súng xuống.” Anh ló ra khỏi lùm cây đứng đối diện chúng, vung vẩy nòng súng. “Cởi áo khoác và trút sạch mọi thứ ra” “Ôi Chúa, Chúa toàn năng!” một đứa nói. Đứa kia không nói năng gì chỉ cởi áo khoác và bắt đầu trút vịt ra, mắt vẫn nhìn quanh. Waite mở cửa xe chúng, thò một tay vào trong lần tìm công tắc đèn trước. Hai thằng kia giơ một tay lên che mắt, rồi quay lưng lại ánh đèn. “Các cậu nghĩ đây là đất của ai?” Waite nói. “Ý các cậu là sao khi săn vịt trên đất của tôi?” Một đứa thận trọng ngoái lại, tay vẫn che mắt. “Anh định làm gì bọn em?” """