"
Đường Về Cánh Đồng Chum - Bùi Bình Thi full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Về Cánh Đồng Chum - Bùi Bình Thi full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
ChươngMột
ChươngHai
ChươngBa
ChươngBốn
ChươngNăm
ChươngSáu
ChươngBảy
ChươngTám
ChươngChín
ChươngMười
ChươngMườiMột
ChươngMườiHai
ChươngMườiBa
ChươngMườiBốn
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Một
Bữa ăn sáng đã xong. Các tiểu đội mang soong nồi lại trả anh nuôi chồng thành một chồng cao ngoài thềm bếp. Đuông-chăn ngó quanh rồi ra ngồi dưới nắng, vén tay áo lên. Vết thương rạch một vệt dài ngang cánh tay trên, đã mọc da non, ngứa ngấy làm anh khó chịu. Đuông-chăn đưa tay xoa nhẹ quanh vết xẹo, mắt ngó sang một vết sẹo khác đã lành bên cạnh. Ngoài lối mòn có tiếng loạt xoạt cành lá và một bóng người đi nhanh tới. Đuông-chăn ngẩng lên kéo cánh tay áo xuống, nhìn ra.
- Anh Đuông-chăn không ngủ trưa à?-Cậu liên lạc đại đội hỏi - Không? Có việc gì thế?
- Đại đội trưởng gọi anh.
Đuông-chăn đứng lên đi theo cậu liên lạc sang lán ban chỉ huy. Sổm-si đang hí húi giở nhanh một xáp giấy có nhiều nét chữ khác nhau. Thấy Đuông-chăn vào, anh ngấng lên:
- Vào đây- Đại đội trưởng Sổm-si quay sang nhìn Đuông-chăn một cái nhanh rồi lại chăm chú lật giở xấp giấy.
Đuông-chăn ngồi xuống giường, bên cạnh đại đội trưởng với một vẻ phân vân.
- Đuông-chăn giấu ban chỉ huy nhá-Sổm-si đột nhiên nói nhỏ, miệng tủm tỉm cười-Lập công thế này mà không nói.
Sổm-si chìa xấp giấy ra.
- Thư của bà con mình ở các bản gửi đến báo cáo về thành tích diệt phỉ của Đuông-chăn đây. Mười ba lá.
Đuông-chặn ngỏ tập thư, cười ngượng nghịu:
- Mình đi mua rau quả gặp nó thì đánh thôi, có gì mà phải báo cáo - Đuông-chăn nói lúng búng.
Sổm-si ngửa mặt cười vang, anh vừa vui với những điều viết trong tập thư vừa mến cái nói rụt rè ngộ nghĩnh của Đuông-chăn:
- Thôi, bây giờ Đuông-chăn giao nhiệm vụ anh nuôi cho đồng chí khác, sang làm tiểu đội trưởng.
Đuông-chăn giật mình, nhìn Sổm-si, cặp mắt mở to bỡ ngỡ, nói buột ra: - Mình chưa làm được nhiệm vụ đó đâu.
- Đuông-chăn bảo chưa làm được, nhưng ban chỉ huy bảo làm được thì sao?
Đuông-chăn cúi đầu, gương mặt đó bừng lên như đứng trưỏc con gái. - Lúc nào mình nhận nhiệm vụ mới!
- Ngay bây giờ.
Đuông-chăn quê Phong-xa-ly một tỉnh thuộc bắc Lào. Phong-xa-ly có nhiều rừng cây “mạy may” (1). Mạy may mọc bát ngát trên những ngọn đồi cao, mạy may có sức sống rất dai, gió bão mạy may ngả rạp, lặng gió nó lại tựa nhau đứng thẳng lên vươn ngọn cao ngang trời và trổ hoa như một rừng cờ.
-----
(1) Cây sậy.
Ngày Đuông-chăn đi bộ đội cũng là ngày có đơn vị này. Nhưng trong mấy chục tay súng thì lại vắng Đuông- chăn. Anh được giao làm công việc nuôi quân. Thế rồi cứ mỗi bận đơn vị đi đánh, anh em nhộn nhịp chuẩn bị súng đạn, bộc-phá, tháo luận phương án chiến đấu, thì Đuông-chăn lại lo rau quả ăn dọc đường, cơm nắm cho các chiến sĩ và nước cho các bi-đông. Làm mãi công việc đó, cũng đến lúc Đuông-chăn thấy “nóng ruột”. Ai lại đi bộ đội gần hai năm trời mà chưa lần nào được dự với anh em một trận cho hẳn hoi. Sau mỗi lần đơn vị lập công, anh em người ta vác súng với chiến lợi phầm về, ngồi quây lại trong lán anh nuôi kể ran trận vừa đánh cho nhau nghe, thì lông Đuông-chăn lại xáo lên suốt buổi. Rồi công việc lại điễn ra đều đãn như những ngày hòm trước, Đuông-chăn đeo sọt không đi mua thức ăn. Bản anh đến ở cách xa chỗ trú quân nửa buổi đường. Và anh thì chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng mình đã lập công đầu tiên ở đây.
Một toán phỉ sục vào bản quấy nhiễu giữa lúc Đuông- chăn đang chất rau bí vào sọt. Quen thói làm càn, mà lại chưa một lần nào gặp cản trở, lũ phỉ lông nhông giữa làng, trông ghẹo những cô gái đi gánh nước và ngồi dệt vái dưới sàn nhà, lùa bắt gà vịt, vặt hái những trái đu đủ chín, trút gạo đang giã dưới cối sang ba-lô, cưòi nói sằng sặc trước vẻ mặt thất đám của dân làng, và, lũ phỉ xộc tới chỗ Đuông-chăn. Đuông-chăn chèn nốt quả bí xanh vào sọt thì lũ phỉ đã đến ngõ. Anh ngồi thụp ngay sau sọt bí, thoắt một cái anh đã xối một băng dài vào cả đám lính phỉ đang dồn hàng dọc kẹp giữa hai hàng vòng cao đây gai.
Những trận đánh khác, khi thì chúng phục kích anh, khi thì anh chặn chúng, và cùng với du kích bản chống càn. Bị vết thương nào, anh lấy lá rịt, giấu biến.
Trận đánh gần đây nhất, đã để lại một vết thương mới nữa trên cánh tay anh, cũng là trận anh bị lũ phỉ phục kích lúc anh gánh đây hai sọt rau. Chúng chặn anh ở rừng, quẳng một quả lựu đạn xuống trước mặt anh. Đuông-chăn đặt phịch gánh rau chụp ngay lấy quả lựu đạn quẳng sang bên kia một gốc cây, lựu đạn nổ phủ khói mù đặc. Toán phỉ la hét hốt hoảng:
- Ố tai lẹo! Tai lẹo (1) Chúng chen nhau xô xuống.
-----
(1) Chết rồi, chết rồi
Đuông-chăn ngồi sau sọt rau cũng chẳng trông thấy lũ phỉ vì khói và bụi đất vẫn chưa tan. Nhưng tiếng hô hoán, tiếng chân đạp loạn xạ trên lá rừng thì anh nghe rõ quá. Anh cứ áng chừng mà vỗ thẳng mặt lũ phỉ một loạt đạn thật dài, chia rất đều như người chia bài tú-lơ-khơ. Và vết thương ấy cũng lại được giấu kỹ cùng với trận đánh kỳ lạ ấy.
Buổi chiều. Người chiến sĩ mới tới lán nuôi quân nhận nhiêm vụ. Đó là một chiến sĩ thấp lùn, đầu to có cái miệng rộng. Đuông-chăn khoát tay một vòng quanh lán bếp và đưa cho anh ta cuốn sổ, một tệp tiền, chỉ lượng gạo sắp cho vào nồi của bữa cơm chiều nay; tất cả có thế. Nhưng đến lúc sắp sửa
phải xa những dụng cụ bếp núc, lúc nào cũng nhọ nhem đó, anh bỗng thấy bịn rịn. Đuông-chăn khoCác súng ra đến thềm lán nuôi quân, chẳng hiểu còn quên thứ gì, anh đứng lại nhìn bếp lửa, nhìn anh nuôi quân mới, cười bâng khuâng.
Đuông-chăn sang nhận chức tiểu đội trưởng tiểu đội mười ba người. Sổm si dặn:
Toàn người mới cả, Đuông-chăn cùng anh em tập bắn cho giỏi - Sổm-si nói rồi móc túi lấy ra tập giấy khen đưa cho Đuông-chăn-Mong Đuông-chăn
có nhiều thành tích nữa.
Mười ba chiến sĩ nhập ngũ được năm ngày. Nhận súng xong mỗi người vác một khẩu ra bờ suối ngắm nghia, mân mê cái báng, tí toấy mẩu cô và soi nòng súng ra nắng xem bên trong có cái gì mà sáng choang lên vậy. Lúc nghe quản khỉ dặn phải giữ gìn súng cho tốt, không được để hỏng, thì có người xắn luôn cả cánh tay áo ra làm khăn lau. Mẩu giẻ lúc nào cũng đẫm dầu nhờn, khẩu súng lúc nào cũng bóng nhoáng. Đi ngủ để súng ngay cạnh mình. Sáng ra, mở mắt đã thấy anh nào cũng khẩu súng chéo qua lưng, lủng lẳng. Còn Đuông-chăn, cái tính mê súng ấy của anh em, làm anh nhớ đến những ngày đầu đi bộ đội.
Toàn đơn vị bước vào tập bắn và học các chiến thuật. Đuông-chăn lăn lưng tập với các chiến sĩ, tập mê mải. Suốt ngày lăn, lê, bò, chạy, chui, luồn ngoài bãi có ven ruộng. Mê đến nỗi trời đứng trưa mà chẳng ai muốn nghĩ về ăn cơm. Thế thì Đuông-chăn chiều anh em vậy. Anh xuống bếp lĩnh phần gạo của tiểu đội, một cái soong con. Tất nhiên là cậu anh nuôi rất hài lông về sáng kiến này, liền sẻ luôn cho tiểu đội vài muôi mỡ, một ít cân thịt trâu và cho hẳn một ôm to rau cải. Vốn đã quá quen với công việc bếp núc, Đuông-chăn kiêm luôn. Vừa uốn nắn từng động tác xạ kích, Đuông-chăn vừa tbối cơm. Bếp lửa đục ngay vào bờ ruộng cao, các chiến sĩ thì kê súng lên những mô đất, nằm úp sấp nheo mắt ngắm. Đuông-chăn đi suốt lượt kiểm tra, rồi lại chạy vụt về bếp đẩy củi. Một lần, Sổm-si ra “bãi tập” của tiểu đội ngó quanh không thấy Đuông-chăn đâu, hỏi một chiến sĩ:
- Tiểu đội trưởng không giúp anh em mình tập à?
Cậu chiến sĩ hất đầu chỉ lại phía bờ ruộng cao gần bìa rừng: - Anh Đuông-chăn đang ngồi kia!
Sổm-si ngó theo, thấy Đuông-chăn đang chổng mông bên bờ ruộng và
trên đầu một đụn khói lớn. Sổm-si đi tới đứng ngay đằng sau Đuông-chăn, bụng không vui:
- Sao, Đuông-chăn không bảo anh em cách tập bắn à?
Đuông-chăn ngồi ngay lại, ngước khuôn mặt đó ửng vì than hồng, sắc lửa: - Mình bảo nhiều đấy.
- Cố nhé. Sắp vào bắn đạn thật rồi -Sổm-si nói thong thả, và thực tình chưa tin hẳn lời Đuông-chăn.
Ngoài mặt ruộng, ba bốn chiến sĩ ngồi lên, chụm đầu vào nhau đánh bài. Sổm-si nhìn thấy. Nhưng anh không muốn làm họ cụt hứng, trước lúc ra về anh nói với Đuông-chăn, tâm trạng phân vân:
- Nhớ tập cho giỏi. Mình để tiểu đội Đuông-chăn bắn đạn thật đầu tiên đấy.
Đợt thì xạ kích bắt đầu vào buổi chiều. Các chiến sĩ tụ tập cả ngoài băi cỏ, chỉ còn chờ tiểu đội Đuông-chăn. Sổm-si thì đi đi lại lại, thỉnh thoảng đưa mắt nhóng về lối mòn ven rừng. Đột nhiên cả đơn vị bật cười vang, còn Sổm si thì vừa cười vừa liếc nhìn vẻ hỏm hỉnh. Một tốp người đang đi tới, người đi trước là Đuông- chăn. Đuông-chăn vác trên vai khẩu súng như người vác cây sào dài, báng súng thì ngoắc một cái soong, với mớ rau cải; cứ mỗi bước, cái soong lại đập vào cò súng một tiếng côông.
Đuông-chăn đi thẳng ra trước mặt anh em, gỡ cái soong với mớ rau cái vứt xuống đất, cùng mười ba người dàn hàng ngang nhìn ra tấm bia. Tấm bia hiện lên, gọi nhanh một điểm xạ ngắn của khẩu súng Đuông-chăn. Năm viên
phủ đây mặt bia, cho đến người thứ mười bốn thì tấm bia phải thay vì bảy mươi phát đạn đã xé tướp.
Đuông-chăn cúi nhặt chiếc soong, mớ rau cải theo tiểu đội vòng ra sau giữa tiếng vỗ tay ran, tiếng hoan hô, những chuỗi cười giòn giã. Anh em tản thưởng, vì kết quả tuyệt điệu của tiểu đội Đuông-chăn, và cười vì cái vẻ ngộ nghĩnh của anh. Còn Sổm-si thì bằng lòng ra mặt, anh thoáng nghĩ: “Mình sống với nó gần hai năm mà bây giờ mởi hiểu được nó”.
Rồi những trận chiến đấu kế tiếp, mùa khô nối mùa mưa; những bản mới mở rộng ra những vùng giái phóng mới. Tiểu đội của Đuông-chăn bao nhiêu đôi thay, nhiều chiến sĩ gia nhập cái gia đình nho nhỏ đó, cũng nhiều chiến sĩ đã nằm lại trên dọc đường chiến đấu, ngã xuống trong những đợt xung phong, hay thuyên chuyển sang một phân đội khác. Lực lượng vũ trang của nhân dân cách mạng Lào đã thêm nhiều đội ngũ. Các đồng chí trong ban chỉ huy phải chia nhau về những đơn vị mới.
Sổm-si bàn giao cho đại đội trưởng mới Đuông-chăn, những sổ sách, những vấn đề còn đang giái quyết, những phân đội cần được chú ý nhiều của người chỉ huy, phương hướng mai sau của đại đội, trận đánh sắp tới và cuối cùng là việc về phép cưới vợ của một số chiến sĩ.
- Chắc lần xa nàv ít có lúc gặp lại anh em mình đấy. Chà, nhớ lắm mất thôi - Sổm-si xòe bật lửa, rít thật lâu chậm điếu thuốc thứ hai, như để nén xúc động.
- Sáu năm rồi, anh Sổm-si nhỉ!
- Ừ! Sáu năm.
- Mình mới, Bun-phêng mới, cách mạng lại giao cho nhiều nhiệm vụ, rồi ra sao đây? - Đuông-chăn đầu nghiêng nghiêng, mắt mở to nhìn Sổm-si như muốn nói với Sổm- si: “Anh hiểu mình nhiều, coi mình có thể gánh vác được không...?”.
- Mình thấy thế này, Đuông-chăn có một cái rất tốt là cách đánh của Đuông-chăn táo bạo, chỉ huy lính hoạt, gần gũi chiến sĩ. Trong quân sự, ta gọi cách Đuông-chăn vẫn sử dựng đó là đánh tập kích. Hoàn cảnh chiến trường của mình cách này hợp...
Đuông-chăn nhìn ra chỗ khác, mắt nheo lại. Anh hiểu, đây là lần đầu tiên Sổm-si nói với anh. Giọng nói chất phCác, ngập ngừng có một cái gì đó vừa là của tình bạn gắn bó vừa là của tình chiến hữu mật thiết, gian khổ, vui buồn, sống chết có nhau. Bây giờ phải xa nhau vì mục đích lớn, thấy phải gọi ra cho thật đúng những điều cần thiết, để người kế tục mình chỉ huy một đơn vị đã biết bao gắn bó này, làm thật tốt công việc còn lại, công việc trước mắt, công việc ngày mai; và cuối cùng là con đường dài sẽ phải đi tới.
Sổm-si chợt mỉm cười, đưa tay cầm lưỡi trai của chiếc mũ vái anh đang đội, day day mấy cái:
- Anh em trong trung đội cũ gọi cậu là Đuông-chăn- lục-chọ (1)thì đúng quá.
-----
(1) Đạn Xuyên. Một loại đạn của súng ĐK.
Đuông-chăn nhìn nhanh Sổm-si:
- Chiến sĩ thế đấy, họ giỏi đặt những tên phụ lắm.
Hai người cùng cười vang. Sổm-si đeo ba-lô lên đường ngay chiều hôm đó.
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Hai
Bun-ma nhỉnh hơn Đuông-chăn vài tuổi, người cùng bản. Nhưng bố Bun ma có nhiều trâu, nhiều ruộng. Nhà Bun-ma rộng lắm, làm toàn bằng loại gỗ quý, lợp ngói. Sàn nhà, cột nhà bóng như gương, đứng dưới đất nhìn lên cột, lên vách thấy bóng mình trong đó, còn lên nhà thì thấy bóng dưới sàn. Bố
Bun-ma làm tới chức châu Mường (2).Người già trong bản đồn rằng lão có đến vài trăm đấu bạc trắng, thuốc phiện, đựng đây mấy hòm, hòm nào cũng đeo ống khóa to bằng cổ tay. Lão rất ít ở làng. Khi về Viêng-chăn, khi xuống Xa-va-na-khẹt, khi Luăng-pha-băng, khi sang U-đon, Băng-Cốc; đi như đi chợ.
-----
(2) Như một huyện.
Năm Bun-ma vào tuổi học, lão châu Mường gửi Bun-ma thụ đạo chùa phật tận Viêng-chăn. Lão không thèm gửi con chùa bản hay chùa Mường, lão khinh sư ở đây là dốt, không đủ đạo lý nhà phật để dạy con lão, và chả lẽ thằng Bun-ma lại phải ở lẫn với lũ trẻ con dân bản nhọ nhem; vì con lão trong người nó có dòng máu quý mà. Bun-ma học ở Viêng-chăn, ngày hè về làng chơi.
Quần áo lúc nào cũng sạch bong, lượt là, nó chơi một mình không thèm nhập bọn với lũ trẻ trong bản dù là một cuộc đánh cù quay ồn ã quyến rũ. Bun-ma có con quay rất đẹp, con quay mua những một trăm kíp tận Viêng chăn, da gỗ nhẵn láng đen nhức; mỗi lần thả xuống, lũ trẻ đứng há miệng đến
khô răng mà ngó, con quay vẫn không ngã. Có đồ chơi đẹp thì ắt phải thích khoe, phải làm cho trẻ con xung quanh thèm rỏ dãi mà sán đến trầm trồ. Đó là cái tính thường tình của trẻ con. Bun-ma tuy trong người có dòng “máu quý”, con ông châu Mường đấy, nhưng dẫu sao nó vẫn là một đứa trẻ. Và không thể cứ chơi một mình mãi được, chán lắm. Bun-ma gạ Đuông-chăn chơi và đòi được bổ trước. Bun-ma vừa dang thẳng cánh tay quật xuống một cái “cộp” thì con quay của nó nằm quay đơ bất động bên con quay của Đuông-chăn vẫn mái mê hú gió u u. Đến lần Đuông-chăn bổ. Con quay của chú bay khói tay cắm xuống con quay của Bun-ma, chẻ toác luôn con quay của nó ra làm hai nửa, hất lung ra hai bên, ngạo nghễ reo vù vù. Bun-ma chạy đi tìm gậy đánh chú. Nhưng sức một thằng bé ăn trắng mặc trơn quá chểnh lệch với sức con nhà dân dầm mưa nắng. Đuông-chăn túm lấy đầu gậy đẩy một cái. Bun-ma ngã bổ chứng, cả cái lưng áo bằng thứ vải đẹp lấm lem, nó bù lu bù loa chạy về nhà. Tối hôm đó, lão châu Mường đánh cho Đuông-chăn một trận. Đòn là đòn thù, cái sức lão như vâm thế, cho nên thằng bé Đuông chăn phải hai ngày sau mới húp được lưng bát nước cháo, bà mẹ nhìn đứa con trai dạỉ dột chỉ còn biết cắn răng nuốt nước mắt.
Bun-ma về Viêng-chăn thụ đạo nhà chùa được vài năm, lão châu Mường cho ra học trường ngoài phố.
Nhưng theo được hếc cấp sơ học thì nó chán quá vì thấy sự ăn chơi hấp dẫn hơn sự học; nó tự ý bỏ lớp, sáng sáng vẫn đút sách vào cặp cắp đi, nhưng không phải để đến lớp mà là bám theo lũ thanh niên vô lại cùng phố, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm của cái đồ hội này, tiêu sài món tiền lấy cắp đừợc của bố nó.
Bun-ma là con mụ vợ thứ sáu lão châu Mường, nhưng tính về đằng con trai thì nó là thứ nhất, mẹ nó đẹp nên nó được lão châu Mường chiều chuộng. Những ngày bỏ học tiêu xài như thế, cạn tiền nó lại lẻn về quê cậy hòm của bố lấy bạc trắng, thuốc phiện đem lên Viêng- chăn chơi bời cho thỏa cái thói
bốc trời đó. Quen rồi hóa đam mê. Đã sinh chứng đam mê thì lấy ít đâu có đủ, phải lấy nhiều. Khi lão Châu Mường mở đến hòm tiền và thuốc phiện đem về Viêng-chăn chung vốn với cánh mại bản thầu đồ quân dụng, quân
trang Mỹ thì lão ngã ngửa ra, tiền và thuốc phiện bao hụt nhiều quá. Lão hiểu ngay là ai; thì còn ai vào đấy nữa. Lão châu Mường có cái đức xót của hơn xót con. Lão thiết quái gì con. Ví thử bây giờ đi gom nhặt lũ con rơi con vãi của lão thì cũng chẳng xuể.
Lão châu Mường giả tảng như không hay biết gì. Lão gọi Bun-ma vào buồng khóa trái cửa lại, đánh Bun-ma như đánh kẻ trộm rồi đuổi thẳng.
Bun-ma hận bố từ đấy. Hắn thề có đức phật từ bi, quyết sẽ trả mối hận này. Việc đó đối với Bun-ma không khó. Ngây nào ngoài phố cũng có những chiếc ô-tổ du lịch trương tấm biển quảng cáo rõ lớn đằng trước mũi, vẽ một hình người mặc quân phục vằn như da hổ loang lổ, đội mũ sắt, tay cắp tiểu liên, sát khí đằng đằng, bên một dòng chữ Lào rành rọt: “Đây! Kiễu mẫu của tuổi trẻ. Chỉ có như thế này mới thực hiện nỗi khát vọng ngang tàng của thế hệ trẻ nước Lào!”. Bun-ma đăng lính. Nửa năm sau hẳn được chọn đi học trường biệt kích bên U-đon, Thái-lan. Thật là thỏa trí. Được tàng phách lại được tới những nơi chưa bao giờ tới, được sống với những khẩu súng đẹp như đồ chơi, được uống các loại rượu háo hạng và rượu Uýt-ky không hạn chế và nhất là được bắn giết. Thế là cái tính ngõ ngáo đàng điếm đã có đất sinh sôi rồi. Bun-ma được bọn cố vấn Mỹ, Thái và bọn giám đốc trường nuông chiều, được nêu gương như một kiểu người lý tưởng cho bọn học viên noi theo; hết mỗi học kỳ được thưởng tiền, được đi Băng-cốc, sang Ha-oai du lịch. Tốt nghiệp ra, hắn là đứa duy nhất của trường mang lon trung úy. Bun ma về nước và được tin bây giờ cha hắn đã phất lên giàu có. Lão đã bỏ rơi mẹ hắn lấy luôn hai con vợ trẻ, đem về sống với nhau trong một biệt thự sang trọng ở Viêng-chăn. Trận đòn xưa vẫn lằn bầm tím trong lông Bun-ma, bây giờ lại chồng chất thêm nỗi căm thù về số kiếp hẩm hiu của mẹ, hắn quyết định phải thanh toán món nợ này.
Bun-ma đem vốn học hỏi được ở trường biệt kích ra và lặng lễ thực hiện ý định đó. Sau khi đã dò xét được chỗ ở, gia cảnh bây giờ của lão châu Mường; mội buổi tối chờ lúc lão thay quần áo đi ngủ, hắn trèo vào nhà. Lão châu Mường trông thấy thằng con đột ngột hiện đến, trong tay lăm lăm khẩu súng, sửng sốt vô cùng đứng như chôn chân bên mắc áo. Trên giường ngủ màn buông trắng lốp, hai con vợ trẻ nằm đó cũng chết lặng. Bun-ma nhấc mội chiếc ghế ra giữa buồng ngồi nhìn bổ, mặt lạnh như đá: Bố còn nhớ tôi chứ? - Bun-ma nói nhỏ, tiếng xiết giữa cặp môi thâm.
Lão châu Mường hiểu ngay ra rằng do đâu đã xui khiến thằng con lão đến đây. Lão rối rít phân bua. Những nào là đã cho đi tìm khắp nơi mà không thấy, nào là từ ngày Bun-ma bỏ đi biệt tăm tích lão vẫn ân hận vì đã đôi xử tàn tệ với con, bây giờ lão hối hận quá và mong được đền bù; nào là có ý định tìm được con rồi sẽ gửi sang Mỹ học; nào là gặp được con rồi, con cần tiêu pha gì, cần bao nhiêu, cần lúc nào cũng chu cấp đầy đủ. Và để tỏ ra là thực bụng, lão lết ngay lại trước két sắt kê gần mắc áo lập cập mở khóa.
Bun-ma chỉ mong có thế. Giết lão đối với Bun-ma chẳng khó. Để cho lão sống thì rồi đây Bun-ma còn cần đến lão luôn. Lão giàu, nhiều tiền, vả lại Bun-ma giờ cũng không còn phải chịu lép một bề như ngày xưa nữa; cho nên, từ bây giờ trở đi khả năng moi tiền bố, hắn có thừa; không những thế, bố hắn lại còn phải tìm hắn mà chu cấp cho hắn vừa lòng.
Cánh cửa két sắt từ từ mở, lão châu Mường gạt những tệp bạc ra, cứ thế hai tay vác đưa cả cho Bun-ma, nói run rẩy:
- Con tạm cầm lấy số tiền này. Tối nay bố chỉ để có ít trong két thôi. Lúc nào con cần, bố lại cho.
Bun-ma đứng lên, một tay vẫn nhăm nhăm khẩu súng, một tay lần lượt nhặt những tệp tiền cho vào tất cả các túi trên áo quần hắn.
- Thôi, tôi đi đây - Bun-ma quay lưng đi ra.
Lão châu Mường nhìn theo, vẫn chưa hết bảng hoàng. Bun-ma ra lối cổng sau để sang dẫy phố bên kia, chỗ hắn đỗ xe. Hắn lên xe mở mấy rú ga lồng qua các dẫy phố về cư xá. Việc hắn vừa đến nhà lão châu Mường moi tiền không lọt qua mắt Uôn-hun. Uôn-hun ngồi trong một chiếc xe khác phóng theo sau xe Bun-ma. Cho đến lúc Bun-ma trả xe vào ga-ra, thì chiếc xe của Uôn-hun cũng tuồn qua cổng trại lính và đỗ ngay trước mặt Bun- ma, Uôn hun thò cỗ hỏi vẻ niềm nở và làm như không hay biết gì:
- Đi chơi về hả, Bun-ma?
- Thưa trung tá, tôi ra phố có tỉ việc-Bun-ma chào, rồi quay đi.
Uôn-hun nhìn cái dáng đi đổ về phía trước, cặp chân bước nặng gót của Bun-ma, lắc đầu cười mỉm: “Chú hoẵng con đang vui tươi sung sướng”. Uôn hun chờ cho Bun-ma vào phông rồi bước nhanh đến, không gõ cửa cứ thế vặn
quả đấm, vào đứng cạnh Bun-ma, toét miệng cươi làm lóe những chiếc răng vàng to khấp khênh:
- Chú hoẵng con hôm nay bỗng trở nên giàu có nhỉ. Tiền ních chặt các túi.
Như bị một nhát búa đánh vào giữa trán, Bun-ma thuỗn mặt. Uôn-hun đập đập tay vào vai Bun-ma:
- Anh biết cả rồi mà.
Hai gò má Bun-ma bợt ra, rồi lại tím lại như bị đấm, hắn cười nhạt. Bun ma vốn không phải là đứa keo bẩn, nhất là đối với Uôn-hun, vì Uôn-hun sẽ còn là kẻ quyết định đời hắn sau này. Bun-ma chia cho Uôn-hun nửa số tiền. Nhận xong, Uôn-hun vung tay chụp lấy tay Bun-ma cười nấc lên:
- Hả hả há!
- Một tháng sau, Bun-ma dẫn đại đội về đóng đồn ở một vùng rừng núi hẻo lánh, cách bản nó nửa ngây đường. Bản tính hắn không hèn như bọn sĩ quan trẻ con nhà giàu ở Viêng-chăn. Con người hùng được nhào nặn từ lò huấn luyện biệt kích bên U-đon này muốn một mình một cõi; ở đó tha hồ mà dọc ngang, tàng phách.
Cho tới tận bây giờ hắn vẫn không thể nào quên được cái ngày tuyên thệ trước ngọn đuốc lớn chảy rừng rực trên đài “lửa thiêng”. Viên giám đốc nhà trường giơ thẳng tay chỉ lên ngọn đuốc, nói với đội ngũ học viên, thằng nào thằng ấy đứng ngay đơ trong những hàng thẳng tắp, mắt chăm chắm vào búi lửa, phấn khích.:
- Hỡi các sĩ quan ưu tú của thế giới tự do! Ta cầu mong cho các người sau này trở về tổ quốc, mỗi người sẽ là một ngọn lửa chống cộng bất diệt và ngọn lửa ấy sẽ lan ra thành rừng lửa thiêu ra tro bọn cộng sản.
Đám sĩ quan thẳng tay chỉa gươm lên trời gào kbản cổ:
- Xin thề! Xin thề!...
Lúc duyệt binh, Bun-ma được vác cờ đi đầu, ngực hắn cài đấy những huân chương và huy chương. Đoàn sĩ quan theo sau hắn bước nghiêm kiểu chân ngỗng qua lễ đài. Bun-ma nện mạnh gót chân, đất lõm những lõm cách quãng đều đãn dưới gót giày và người hắn như đang bay bỗng tận mày xanh, mặt hắn vênh vênh quay nghiêng nhìn hàng sĩ quan giáo viên, toàn những người Mỹ to lớn lon gù vàng lóa hai vai. Đó là những kẻ đã kèm cặp dạy dỗ hắn hằng ngày, bắt tay khen thưởng hắn qua những kỳ sát hạch các khoa mục.
Đồn Bun-ma dựng trên một quả đôi thấp. Xung quanh trong vòng một hai giờ đi bộ, đều có bản. Ngày nào hắn muốn, hắn kèm một trung đội lính lê la vào bản, phá phách, xách mé với các ông già, trêu ghẹo các cô gái, có cây
quả gì ngon, có con gà con vịt nào thích mắt thì mua chịu. Hắn mua chịu bằng cái kiểu như thế này: cho lính leo lên hái hay quây lại lùa bắt, còn hắn đứng giữa bản quát to giọng hách dịch:
- Tao mua chịu thôi, tao không thèm lấy đâu. Ít hôm lên đồn tao giả tiền!
Người trong bản chỉ còn biết bào nhau: “Xang khạu nà bò thò ạt nha khạu bản” (1). Gặp cô gái nào đẹp, Bun- ma lên nhà nói với bố mẹ cô gái:
- Tao mượn ít hôm!
-----
(1) Tạm dịch: "Voi vào ruộng không bằng quan vào bản".
Rồi hắn phất tay cho lính bắt cô gái đi. Người con gái lết chân giữa toán lính, đứa xốc nách, đứa kéo tay. Bun- ma đi sau vừa cười sằng sặc vừa hát lăm: “Em như hoa quý trong rừng. Anh như con bướm đi lùng sắc hương... Em đẹp như con chim công. Chỉ nó anh thì mới xứng đáng làm chồng em thôi... Ơ ơ ơ này này... Anh càng nhìn càng ưa, anh càng nhìn càng ưa. Một đêm ngủ với quan đồn ơ ơ này em ơi còn hơn lấy phải thằng chồng đần, em khổ lắm thay hí hí hí! »
Đem về đồn, mau chán thì một đôi bữa, còn háo hức thì nửa tháng. Hắn cho lính áp tái cô gái đi trả.
Một hôm Bun-ma bỗng động lòng nhớ đến quê hương. Mặc dù quê hương hắn chẳng còn ai. Mẹ hắn thì đã lên ở Viêng-chăn từ cái ngày lão châu Mường còn mặn tình với mụ. Thế thì Bun-ma chẳng nhớ quê vì cái lẽ gì cả và càng không phải nhớ đến căn nhà gỗ quý mà lão châu Mường đã bán tuột cho một tà-xẻng giàu ở bản. Bun-ma nhớ quê vì hắn muốn cho dân bản biết hắn bây giờ là kẻ quyền thế nhất vùng này, hắn nhớ quê vì cái người đã chẻ toạc con quay của hắn hồi nhỏ. “Mày mà còn ở làng thì mày sẽ biết tay tao...”
Bun-ma hiện về làng với một trung đội lính. Hắn đi thẳng đến nhà Đuông chăn, và chỉ thấy mẹ Đuông-chăn đang ngồi vá váy trên sàn. Hắn bước lên thang, buông thõng một câu:
- Thằng Đuông-chăn nó đâu rồi?
Bà mẹ Đuông-chăn đã già lắm, tóc bà bạc trắng. Ba con giai của bà trong đó có Đuông-chăn đều đi bộ đội Pa-thét. Bà nhận ra Bun-ma và người già trong những giây phút như vậy, thời bao giờ cũng biết cách đối xử hợp lý nhất. Bà ngẩng lên nhìn Bun-ma rồi lặng lẽ cúi xuống, xâu tiếp mũi kim, làm như không có nó đứng trước mặt. Bun-ma hỏi câu thứ hai, câu thứ ba, câu thứ tư. Bà lại ngước mắt ngó Bun-ma, lần này thì bà ngó nó như ngó một con thú, rồi lại lặng lẽ cúi xuống xâu tiếp mũi kim nữa. Trong đời nó suốt từ ngày nó đăng lính cho đến khi nó đường đường là viên quan đồn khét tiếng một vùng, nó tác oai tác quái thế nào, nó ngang ngược đến đâu, cũng làm gì có ai dám cưỡng lại nó. Đến cả bố nó kia, nó còn không coi ra gì nữa là bây giờ lại có một bà lão, dám khinh thường nó, nhìn thẳng mắt nó, bất khuất và khinh bỉ, chỉ còn thiếu có nước bà đứng lên nhổ vào mặt nó nữa thôi.
Bun-ma lẳng lặng xuống thang, cặp môi dày và thâm của nó bậm lại, mặt nó bợt ra vì uất. Nó sai lính đểo một con quay to bằng cái mũ, rồi đi dạo quanh bản một vòng tra hỏi các ông già về Đuông-chăn và hai người anh của Đuông-chăn.
Bun-ma quay lại nhà bà mẹ, con quay đẽo xong, nó cầm con quay vừa tung tung trên tay vừa bước lên nhà đi thẳng vào gian giữa đến trước bản thờ Phật.
Như một cơn lốc mẹ băng tới túm lấy thắt lưng hắn giằng ra với một sức mạnh kỳ lạ. Bun-ma văng đi chới với ngã sõng soài ra sàn nhà. Nó lập tức vùng dậy, nhặt con quay, dáng vào đầu mẹ, gạt phắt pho tượng Phật nhỏ trên bản thờ đặt con quay lên, rồi nó cúi xuống xốc bà mẹ dậy. Bà lão không còn
bao giờ dậy được nữa, Bun- ma chưa hả giận vì nó chưa bắt được mẹ phải lạy con quay. Nó nổi điên lên, lùi ra đá vào xác bà mẹ bình bịch mấy cái liền, hằm hầm xuống thang quát lũ lính:
- Đốt!
Lửa cháy tràn một bên mái rừng rực. Bun-ma quay đi, lũ lính lốc nhốc theo sau bỏ lại ngôi nhà đấy lửa.
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Ba
Lán của ban chỉ huy đại đội dựng dưới chân núi thưa cây ngay rìa bản. Các trung đội, tiểu đội thì ở thành một vòng tròn quanh sườn núi. Những triền ruộng bậc thang uốn quanh co như một chiếc khăn xếp chểnh lên rất đều ngoài bìa rừng. Lúa chín ngả sang một màu vàng mượt mà trong tiết trời nắng gay gẳt, giữa những con mưa rào chốc lát, bất ngờ.
Kể từ cái ngày đơn vị đóng lâu dài ở đây để vừa luyện tập vừa đi đánh chặn những toán phỉ quấy nhiễu trong huyện thì mỗi buổi trưa, cái lán của ban chỉ huy biến thành nơi tụ tập của các ông già trong bản. Các phò (1)ra đấy ngồi đây trên sạp lán, hai đãy ghế bắc bằng hai đoạn cây, rút tẩu thuốc
dài nhồi những mồi thuốc lá đấy, trầm ngâm hút, dỏng tai nghe tiếng nói véo von của cô phát thanh viên, hoặc một điệu lăm quyến rũ phát ra từ chiếc đài bán dẫn cũ kỹ của ban chỉ huy. Một lứa tuổi nữa cũng hay có mặt là đám thanh niên, nhưng không phải họ tới để nghe đài, mà quây cả lại bên hai khẩu tiểu liên của hai cậu nuôi quân và liên lạc treo ngược trên cọc lán, bản bạc với một vẻ kbao khát và ngay nào họ cũng có những chuyện để nói về khẩu súng. Lúc ấy cũng là lúc Đuông-chăn ở dưới các tiểu đội về. Anh thân mật chào từng ông già, ghê ngồi mím xuống một đầu ghế, giở túi lấy tài liệu ra đọc hoặc viết. Anh làm việc một cách chăm chú. Nhưng khi đám thanh niên chuyện ran sôi nổi, người nào cũng muốn nói cho hết những điều mình hâm mộ, Đuông-chăn sẵn sàng bỏ đấy góp lời với họ, giái thích điều họ đang bản cãi, dần dà huơng họ sang những vẩn đề bổ ích rộng lớn. hơn của làng bản, của đất nước, của cách mạng Lào. Và câu chuyện không còn trong phạm vi của đám thanh niên nữa; các ông già vào cuộc, người thì nói đến mùa màng,
người thì nói đến những tin đồn gần đồn xa về bọn phỉ nào đó lẻn về quấy phá ở huyện bên. Một ông già thấp bé vóc rắn chắc ngồi sát Đuông-chăn nói:
- Người mình bên kia sông Nậm-si bảo có bọn phỉ nó thường vào các bản gặp thứ gì lấy thứ đó.
- Bố nghe lâu hay mới đó? - Đuông-chăn ngoái lại hỏi.
- Tuần trăng trước.
- Nó đông không?
- Nghe nói nhiều đấy!
- Lũ nó chưa qua bên này sông?
- Chưa nghe thấy - ông già khẽ trả lời.
Đuông-chăn ngồi lặng, đám thanh niên mỗi người một câu về bọn phỉ, xác nhận các tin ông già nghe được.
-----
(1) Những người già đáng kính trong bản.
Buổi chiều, Đuông-chăn xuống lán của các trung đội tìm Bun-phênh. Dạo này đang đợt học tập mới. Chính tri viên Bun-phênh hưóng dẫn anh em chiến sĩ thảo luận các câu hỏi, bản bạc với nhau về nhiệm vụ của mình; làm xong ở trung đội này anh lại sang trung đội khác; rồi họp các cán bộ, tối đâu anh ngủ đấy ít khi về lán của ban chỉ huy đại đội. Ban ngày làm việc, tối bộ đội nghĩ
ngơi sinh hoạt, lán nào cũng sáng một ngọn nến nhựa thông, cán bộ chiến sĩ trò chuyện, tâm sự với nhau. Ai thích đánh bài thì tụ tập lại thành một cỗ và thế nào họ cũng mời Bun-phênh dự. Không đánh thì thôi, nhưng lúc đã ngồi vào rồi bao giờ anh cũng chơi một cách hào hứng. Còn Đuông-chăn, anh rất
mê các buổi phát thanh hát lăm của đài Sầm-nưa. Anh thuộc lầu giờ giấc các buổi ca nhạc đó. Đi đâu anh đeo đài theo; đến giờ, anh xoay cái đài ra trước ngực vặn to lên, tay bưng đài vừa đi vừa nghe, nghe tất cả các điệu lăm, lăm
Viêng- chăn, lăm Phong-xa-li, lăm Sầm-nưa, lăm Khăm-muộn. Anh nghe cho tới lúc hết buổi lăm. Vì thế mà cậu anh nuôi, liên lạc, hay bất cứ anh lính nào trong đại đội cũng đều có thói quen hễ cứ nghe tiếng hát lăm văng vẳng đến tai, họ lại bảo nhau: “Anh Đuông-chăn về rồi” hoặc là “Anh Đuông-chăn đến rồi”. Một lúc sau, anh hiện ra nhoẻn miệng cười: “Mình mà phải lên cõi phật, mình cũng hỏi phật xem ở trên đó có hát lăm không, mình mới chịu ở...”. Buổi tối, nếu không bận việc gì thì anh lại nằm dài trên sạp, bắt hai bàn tay dưới gấy nghe lăm, rồi thì ngủ luôn, đêm nào cũng quên tắt đài.
Đuông-chăn gặp Bun-phênh ở trung đội cuối cùng. Hôm nay Bun-phênh đi theo trung đội tập chiến thuật, bắn được con chồn hương. Anh em đang nhộn nhịp thui nướng. Bun-phênh vào rừng hái lá gia vị về. Trông thấy Đuông-chăn, Bun-phênh nói luôn:
- A! Hơi thịt nướng thơm quá bay tận lên lán của ban chỉ huy đại đội. Đuông-chăn mỉm cười:
Dạo này chính trị viên hay ở với anh em thì ra có lý do đẩy. Cả hai cùng cười. Đuông-chăn tiếp:
- Dân trong bản nói bên kia sông Nậm-si có lũ phỉ về quấy phá, ta đi đánh thôi.
- Đánh chứ! Anh em họ kêu lâu không được chiến đấu thấy buồn rồi. - Gì mà lâu, mới chưa hết một tháng.
- Mình cũng thấy lâu rồi đấy.
- Cho liên lạc lên xin ý kiến trên, phải quét sạch bọn đó.
- Lúa cũng sắp gặt, nó có thể cho quân đi càn - Bun-phênh nói tay đè nắm rau xuống miếng ván, xắt từng lát mỏng.
Đuông-chăn trở lại lán ban chỉ huy giao nhiệm vụ cho liên lạc. Bữa cơm tối anh cùng Bun-phênh ăn với trung đội. Ăn xong, hai người ra bờ suối ngồi bản thầm với nhau mãi tới khuya.
Hai ngày sau cậu liên lạc về và chìa cho Đuông-chăn phong thư nhỏ. Anh năn nắn phong thư nghĩ bụng: “Thư dày nhỉ” một cái gì đó làm anh nôn nao. Anh hỏi ý kiến trên về phương hướng của trận sắp tới, ngay lúc gửi đi anh cũng nghĩ sẽ nhận được câu trả lời vắn tắt. Đuông-chăn bóc thư, trong ruột phong thư có hai tờ giấy gấp, anh mở một tờ và đưa một tờ còn gấp cho Bun phênh.
“Đuông-chăn, mày còn nhớ tao chứ, Bun-ma đây! Cái thằng ma lấy mất hồn, mày bây giờ lại đi theo lũ Lào cộng đó hả. Tao muốn gặp mày, xem mặt mũi mày bây giờ ra sao rồi và sẽ đọ nhau với mày một vài trận. Tao về làng hỏi người già, không ai biết mày ở đâu. Tao viết thìr này gửi lên cái cấp trên của mày để thách mày đó. Không đọ với tao, tránh mặt tao thì cái lá gan của mày chỉ bé bằng lá gan con ốc thôi...”
Ký:
TRUNG ÚY BUN-MA
Đuông-chăn đọc lại lần thứ hai rồi yên lặng đưa cho chính trị viên Bun phênh. Nhận lấy tờ thư khác. Tờ thư này nhỏ hơn vắn tắt mấy dòng.:
“Gửi đồng chí Đuông-chăn. Đồng ý. Đây là bọn đã gây nhiều tội Các. Có thể trong vụ gặt này nó phá hoại nhiều nữa. Cần làm sao diệt gọn. Chờ chiến thẳng của Đuông-chăn và anh em... Gửi đồng chí thư của tên Bun-ma. Bình
tĩnh nhé”.
- Nó biết Đuông-chăn? - Bun-phênh đặt tờ thư lên đùi, bàn tay xòe ra vỗ bẹt lên tờ giấy, hỏi thản nhiên.
- Cùng quê với mình. Nó con thằng châu Mường.
- Nó thách mình đánh, được thôi - Bun-phênh tiếp.
- Như vậy cái tin bà con đồn lâu nay là bọn thằng Bun-ma này! - Đúng!
- Thằng này đi đâu lâu lắm rồi, giờ nó lại mò về. Thường những cái thẳng như thế là Các lắm - Đuông- chăn nói nhỏ, vẻ mặt đăm chiều.
- Anh em mình muốn đánh rồi, bây giờ ta ra quân là vừa quá. - Đưa cái thư này cho anh em các trung đội xem nhỉ.
Bun-phênh gật đầu, đứng lên đút lá thư của Bun-ma vào túi, lặng lẽ quay đi. Ngồi lại một mình, Đuông-chăn giở bản đồ ra chăm chú xem, ước lượng khoảng cách từ vị trí đóng quân đến bờ sông Nậm-si và những bản nhỏ đánh dấu bằng những chấm đen vuông vắn, bên kia sông. Mắt anh lần tới một ô vuông con tỉ lệ của bản đồ. Theo như lời dân bản thì Bua-ma đóng trong khoảng ô vuông này. Xung quanh ô vuông đó là mảng dài màu xanh lá mạ chỉ những đồng lúa nhỏ. Cách đó, ba bốn ô vuông nữa là quê anh. Đã lâu lắm anh không nhận được tin mẹ. Chỉ có một lần vào cuối mùa lúa năm ngoái, anh nhận được thư của người anh thứ hai nói mẹ anh vẫn khóe, và có ốm xoàng đâu mất mấy ngày. Bây giờ là bức thư của Bun-ma. Bun-ma mà về quê, thế nào nó cũng đem lính theo. Nó nhớ thù xưa. Không, cái chuyện vặt ấy không thể là cái thù, mà có gọi là thù đi nữa thì bố nó đã trả cho nó rồi còn gì. Nhưng với một đứa như thế, chẳc đâu nó để cho mẹ mình yên lành. Nó đã
gây ra những gì mà tiếng đồn lan qua tận bên này sông. Và hẳn là tội nó không nhỏ. Đời anh, từ ngày vào bộ đội Pa-thét, anh đã biết không ít tội ác của lũ nó; những con đường mòn cheo leo qua những dãy núi cao, qua nhiều cánh rừng già, sông lớn và suối nhỏ, qua hàng chục bản làng, những bản làng ở xa nhau, có bảàn heo hút khuất nẻo; mà anh vẫn còn nghe thấy tiếng vang truyền đi những việc làm tội lỗi của một số tên trùm phỉ; khiến đã có lủc anh chợt nghĩ như là núi rừng mình nó có hồn, nó cũng sống như người vậy mà nó đứng đó sừng sững yên lặng để mà giám sát, để ghi nhớ lấy. Anh thấy nôn nao, nhưng nhức ở ngực và mường tượng ra tất cả hành động của cái kẻ đã viết cho anh mấy dòng chữ đó. Anh nhớ từng nét chữ của nó, mỗi chữ như vang lên cái giọng quát tháo đe dọa; mà ngày xưa lúc lão châu Mường đánh anh đã gầm lên, giữa tiếng rít gió của những làn roi, anh nghe rõ mồn một tiếng lão; nghe rõ cho tới tận bây giờ. Với một mặc cảm túi nhục nặng nè, anh hiểu rằng sau bức thư này là cái gì? Một khi hắn đã viết tới những câu chậm chọc hằn học như vậy thì hẳn hắn cũng là kẻ Các độc đến thế nào rồi. Và, đó cũng là điều làm anh phải nghĩ nhiều; chứ anh không thấy tức vì thái độ của nó viết trong thư. Đuông-chăn gấp bản đồ, đi xuống các lán chiến sĩ. Những người lính trẻ đấy nhiệt huyết đã không chịu nỗi lời lẽ xấc xược trong lá thư, tụ tập quanh Bun-phênh, nằng nặc đôi ban chỉ huy nhận lời thách. Đuông-chăn đến đứng phía sau, lặng im nghe hết.
Một anh lính quay ra thấy Đuông-chăn reo lên:
- Anh em ơi, anh Đuông-chăn đây này!
- Aaa!
- Đánh chết mẹ nó đi, anh Đuông-chăn ơi!
- Nó gây nhiều tội ác quá rồi, tiêu diệt nó đi thôi.
- Nó dám thách mình à! Quật cho một nhát...
- Nó thách nhất định phải đánh!
Mỗi người một câu, ai cũng muốn nói cho Đuông-chăn nghe được tiếng mình. Bun-phênh đứng giữa các chiến sĩ, đôi mắt to hơi xếch mở rộng long lanh, môi mím chặt, kiên nhẫn nghe anh em.
Mọi người đều được nói và các lý lẽ đuờng như cũng đã bày ra cặn kẽ, không khí của cuộc họp đột xuất đó lẳng dần.
- Anh em nói hết chưa? - Bun-phênh hỏi, cười không thành tiếng. - Hết rồi! Ban chỉ huy cho đi đánh thôi.
- Được, anh em muốn đánh sẽ được đánh. Phải diệt gọn bọn này, đồng ý không?
- Cóỏóỏỏ!
- Nhưng mình đánh đây không phải vì nó thách mình, có phải không anh em?
- Phải đấy!
- Vì nó gây nợ mảu với nhân dân mình.
- Vậy đó! Ta là quân đội cách mạng, ta đánh nó là có mục đích. Không phải như hai con gà sống hăng máu muốn chọi nhau chơi!
Có tiếng cười rộn lên trong các chiến sĩ.
- Giờ các đồng chí muốn nghe anh Đuông-chăn nói không? - Cóỏỏó! - Các chiến sĩ cười ran.
Đuông-chăn đứng nguyên một chỗ, tay phải tì lên quai sắc cốt đeo bên mình, tay trái vung lên:
- Các đồng chí muốn nghe tôi nói về hát lăm hay muốn nghe tôi nói việc đánh Bun-ma?
Tiếng cười của các chiến sĩ ngắt lời Đuông-chăn.
Lúc khác kể chuyện lăm nhỉ. Giờ nói chuyện đánh Bun-ma vui hơn. Anh Bun-phênh đã nói rồi, tôi không nhắc lại nữa. Lần này ta ra quân đánh bọn biệt kích do chính A-mê-li-ca huấn luyện. Bọn này Các hơn, có kinh nghiệm đánh nhau hơn (Bọn A-mê-li-ca nó dạy cho mà). Tôi nhắc các đồng chí thế để chuẳn bị tinh thần. Phải trừng tri thằng này cho xứng đảng với những tội Các nó gây ra cho nhân dân mình. Ngày mai ta sẽ hành quân: Còn ai muốn ở lại với các cô gái đẹp trong bản để làm rể cũng được, lên ghi tèn ở lại.
Các chiến sĩ cười ré lên, hồ hởi.
Đuông-chăn cho các chiến sĩ vượt sông Nậm-si ngay lúc trời tối và hành quân gấp tới ém trong một doi rừng mọc bất ngờ giữa đồng lúa chín vàng rộm, cách đồn Bun-ma nửa giờ đi bộ. Mờ sáng anh mặc giả người đi mua cao hổ, mật gấu với hai chiến sĩ đeo túi vái vào bản dò la. Trong bản nhà tà-xẻng vừa có người chết; gia đình xóm giềng đang tấp nập làm cỗ bàn vào đám. Bản này cách chỗ Bun-ma ở quá gần thì làm sao mà Bun-ma lại có thể thiếu mặt trong buổi tiệc rượu đó được.
Đuông-chăn lẳng lặng rút lui, như đi qua bản khác rồi tắt rừng về nơi tập kết, vạch kế hoạch cho đơn vị bắt sống Bun-ma.
Anh đã làm công việc ấy một cách hết sức nhẹ nhàng trong buổi chiều, lúc Bun-ma và một trung đội lính rượu thịt no say thằng nọ dìu thằng kia một đoàn rời rạc ra về. Đuông-chăn, Bun-phênh với cả đại đội hiện ra đón Bun-
ma với lũ phỉ.
Mặt Bun-ma tái tím vừa vì rượu vừa vì sợ, kẹp giữa hai cánh tay trông thẳng đơ bất động trước Đuông-chăn.
- Nhận ra rồi chứ? - Đuông-chăn hỏi, giọng vẫn nhỏ nhẹ, nếu không có cái kiểu đứng hơi khác thường của Bun-ma thì câu hỏi ấy như là để dành cho một người quen - Uống say chưa? - Đuông-chăn hỏi tiếp, hai tay chắp sau.
Chợt Bun-ma gầm lên phả hơi rượu sặc sụa vào Đuông-chăn: - Bắt được rồi thì đem bắn đi thôi! Bắn đi, Đây! Bắn đi, này...!
- Bắn mày à! Mày có mọc ra mười cái đầu, mười cái thần, đem bắn cũng chưa đủ tội mày đâu? - Đuông- chăn gằn từng tiếng vẻ khó nhọc.
- Hí hí hí! - Bun-ma ngửa cổ ra cười như điên.
Hai đầu gối nó khuỵu xuống lăn lộn vật vã và rú lên từng cơn như có ai cầm que chọc vào nách nó. Đuông- chăn vẫn đứng yên nhìn nó với vẻ thờ ơ. Chợt Bun-ma im bặt, nó nằm ngửa, dạng thẳng cả hai tay hai chân, hàng cúc áo mở phanh bấy ra tảng ngực rộng nở nang, trổ hình người đàn bà trần truồng. Bun-ma thở hổn hền, mắt vẫn không rời hai người, Đuông-chăn và Bun-phênh.
Tao nằm đây rồi, bắn thôi còn đợi gì nữa - Bun-ma ngúc ngắc cái đầu to và rậm tóc - Ngực tao rộng lắm, không bắn trượt đâu mà lo. Bắn đi!
Đuông-chăn làm như không nghe hắn nòi. Anh đón túi thuốc từ tay Bun phênh cuốn một điếu nhỏ, rồi trả lại túi thuốc lá cho Bun-phênh. Và cũng giống Bun-phênh, anh thấy ghê tởm, ghê tởm cái mùi rượu và mùi quần áo lính, ghê tởm cái tiếng khê khê lè nhè tuôn ra từ cái hố nhỏ đấy răng vàng; cuối cùng, anh thấy ghê tởm lối chống trả hằn thù, lối làm oai một cách lố
bịch, lối xử sự chỉ có ở một tên chưa bao giờ gặp thất bại, chưa bao giờ bj sa cơ và luôn luôn ý thức rằng tất cả những kẻ khác phải khuất phục mình. Đuông-chăn đấu đầu thuốc vào điếu thuốc của Bun- phênh, lấy lửa. Các chiến sĩ vây quanh anh và Bun-phênh, nói cười vô tư nhìn Bun-ma như người phường săn nhìn con thú. Bây giờ, Đuông-chăn sẽ trừng trị nó thế nào đây? Anh sẽ chỉa họng khẩu “bảy ly chín” xuống ngực nó mà trút cho hết số đạn trong băng, sẽ cho một chiến sĩ giương lê lên xỉa vào thân hình lực lưỡng và mai mái này, hoặc sẽ dành cho nó một cách chết nào đó thật nặng nề, nhưng lại không thể kết thúc chóng vánh, cái chết ấy sẽ điễn ra thật dè xẻn chậm chạp; để làm sao cho đến lúc tắt thở nó vẫn còn tỉnh táo, nó phải buồn bã đau đớn hiểu vì lẽ gì mà phải chết.
Đuông-chăn khóa chốt an toàn của khẩu súng, cho vào bao rồi ngoái sang các chiến sĩ đứng bên, nói nhỏ:
Các đồng chí trói nó lại, dẫn đi, giao cho huyện.
Ba bốn chiến sĩ bước tới, cúi xốc nó lên ghì cho hai cánh tay nó chập lại sau lưng, thít chặt những vòng dây. Bun-ma đứng yên không vùng quẫy, không biểu lộ. Khi một chiến sĩ đẫy lưng hẳn đi, Bun-ma rùng mình bước lên, và bất chợt quay phắt lại gào:
- Tao thù lũ mày, tao thù lũ mày!
- Dẫn nó đi thôi các đồng chí! - Bun-phênh cau mày phất tay vẻ bực dọc, anh khó chịu với cẩn nói đó của Bun-ma.
Các chiến sĩ Pa-thét kẹp bọn phỉ với tên Bun-ma vào giữa giái đi. Đuông chăn và Bun-phênh đứng lại sau. Đuông-chăn nói với chính trị viên:
- Bun-phênh đưa lũ này vào bản nói cho bà con rõ cái tội của nó, mình cùng anh em chuẩn bị cho công việc sáng mai.
Hai ngươi chia tay nhau. Bun-phênh đi nhanh theo bộ đội giái lũ phỉ. Đuông-chăn dẫn theo số còn lại, biến vào rừng. Anh vừa tránh những cành cây lòa xòa trước mắt, vừa nói:
Trời còn sáng, ta ra ngoài xem cái đồn nó một lúc.
Đuông-chăn đi vùn vụt rạch qua những bụi cây rậm, trèo qua những tảng đá chợt mọc giữa rừng, đu dây leo chuyền qua những khe cạn. Nắng chiều vàng nhòa trong rừng. Đuông-chăn cho bộ đội ngồi trên sườn núi đất thoai thoái vạch lá dòm sang bên đồn Bun-ma; cho tới lúc trời nhọ tối, anh mới quay về doi rừng ban chiều. Cảnh dồn giặc làm anh ngạc nhiên. Nó sơ sài quá, xung quanh một vòng rào kẽm gai, một hào nông choèn, trong đồn vài ba nhà lá; Bun-ma ở một căn nhà lợp ngói, thứ ngói nó lấy của dân về, loang lổ hòn mới hòn cũ, và công sự dựng vây lấy những căn nhà. Buổi chiều, lính trong đồn đứa đứng đứa ngồi chuyện phiếm, thằng Thào-sỉ phó đồn nằm ườn trên ghế vái.
Đuông-chăn dửng dưng nghĩ: “Tao không bắt được mày ngang đường thì bây giờ tao vào cũng vẫn được thôi. Cái đồn mày làm như vậy, mà lại còn đòi thách tao thì lạ quá. Mày chẳng hiểu biết gì về bộ đội Pa-thét”... Nghĩ đến đây anh thấy chạnh buồn pha lẫn tự ái. Khi nhận được thư Bun-ma, qua sự chuyển giao của cấp trên, thư của cấp trên không nhắc nhở gì về bức thư ấy, anh hiểu trên hoàn toàn tin ở công việc anh làm, điều anh sẽ quyết định, rồi đến lúc đọc thư nó, anh cũng chẳng thấy ghét gì những lời lẽ ấy, mà chỉ nghĩ phải làm sao quét được cái mối họa đó cho dân các bản. Phải quét ngay lập tức. Bây giờ mối họa đó đã hết rồi, anh lại nghĩ: “Sao nhỉ, nó tồi như thế à. Lối bố trí đồn, rồi những thằng lính lười biếng, chểnh mảng. Có phải là nó coi thường mình không, cứ thế suốt tháng mải mê với những cuộc chơi bời phá phách. Hay là mình không hiểu nó nhiều, hay mình kết luận vội vàng. Kể ra, mới trinh sát sơ sơ như vậy thì cũng có thể chưa đủ lý lẽ và thực là chưa hiểu biết gì nhiều đâu. Phải xem lại cho cẩn thận”.
Trời mờ sáng, mây trắng ấp lên ngọn đồi thấp trông đầy bồng như một bát xôi đơm vội vàng. Đuông- chăn trong lốt sĩ quan phỉ, chính trị viên Bun phênh cùng chiến sĩ cải trang thành lũ phỉ và cũng đủ lệ bộ của một lũ đi càn về; gà vịt trói chân cài đây quanh thắt lưng Mỹ, đập cánh phành phạch kêu quang quá; lợn treo ngửa trên đòn tre, rên la suốt lối lên đồn. Đuông-chăn đi thẳng vào cổng đồn, thằng lính gác chạy ra mắt nhắm mắt mở vừa ngáp vừa toét miệng cười hạ cầu tre qua hào cho cánh đi càn vào. Rồi cũng giống Bun ma, Đuông-chăn giáng gót giày cồm cộp trên sàn đồn vào nhà Thào-sỉ, giở chăn ngoáy họng súng vào bụng nó, nhưng khác cái giọng khê khê của Bun ma, Đuông-chăn nói nhỏ nhẹ:
- Dậy, dậy, có rượu với thịt lợn mang về nhiều lắm!
Thào-sỉ ngồi lên, nó hiểu ra cơ sự. Đuống-chăn chỉ ra sân:
- Ra, chỉ huy gì mày, như cái thằng ma bắt mất hồn thế!
Ngoài sân lũ lính vứt súng vào một đống, ngồi tụm lại lấm lét nhìn bộ đội Pa-thét vây xung quanh. Đuông- chăn đi sau Thào-sỉ, ngó cái lưng dài hẹp trong lần áo lót, hai cánh tay gày ngẳng, cặp chân thót lại như hai đoạn ống giang.
- Mày quê ở đâu?
- Mường Pha-xiềng!
- Trước khi đi phỉ làm gì?
- Em còn đi học.
- Sao đang học lại bỏ?
- Bố mẹ chết, không ai cho tiền đi học nữa, rồi tụi nó bắt em vào lính.
- Mày ở với thằng Bun-ma lâu không?
- Em mới ở với nó được vài ba tháng thôi.
- Nó đối với mày thể nào?
- Nó xấu lắm, bỏ đồn đi chơi gái suốt. Bắt được đứa nào, về nó làm chán rồi cho lính thuê, em nó cũng bắt thuê, bao nhiêu lương của em nó lấy hết, nó lấy được thứ gì về ăn một mình thôi, ai ăn của nó, nó đòi tiền ngay. Nó còn đánh em nữa. Nó bảo không làm, nó đánh ngay.
- Mày muốn về quê không?
- Muốn ạ!
- Tao cho mày về. - Đuông-chăn quay ra chỗ đám lính ngồi giữa sân, đưa mắt nhìn một lượt nhằm đếm. Tất cả hai mươi lăm thằng. Đuông-chăn đến bên người chính trị viên:
- Bun-phênh nói với lũ nó đi, để mình đi xem đồn.
Bun-phênh gật đầu, bước ra trước đám lính:
- Anh em! Có biết tại sao tôi lại gọi như thế không?
Đám lính ngạc nhiên nhìn nhau. Một thằng lính ngồi giữa mạnh dạn nghển lên:
- Thưa ngài quan không ạ!
- Đừng gọi “ngài quan”! Bây giờ nghe tôi nói. Các anh em cầm súng đi giết hại bà con mình, thì bộ đội Pa-thét coi anh em như lũ phỉ, lũ giặc. Nhân dân cũng coi anh em như vậy. Bây giờ thì anh em đã đầu hàng rồi, bộ đội Pa thét không coi anh em là phỉ nữa. Bộ đội Pa-thét sẽ đối xử tốt với anh em cho
anh em về nhà, đừng theo lũ phỉ vừa thìệt thân lại vừa bị nhân dân thù ghét, bố mẹ, vợ con đau khổ.
Bun-phênh nói thong thả và nhìn lướt qua đám lính Bun-ma. Bộ đội Pa thét tản ra ngồi rải rác xung quanh. Đuông-chăn đi bên Thào-sỉ. Hai người ra sát hàng rào. Đuông-chăn ngó lượt kẽm gai và hào phòng ngự một lúc lâu, lục tìm mặt đất dấu vết của chông mìn:
- Thằng Bun-ma nó làm vớ vẩn thế này thôi à? - Đuông-chăn chỉ tay xuống sườn đôi.
- Duới chân rào đó cài nhiều mìn lắm, có mìn điện nữa.
- Còn hào, dưới đó cũng có mìn à?
- Có, đáy hào và hai bên thành hào. Nhưng cái hào này thường thôi, còn hào ngầm ngoài rào kia.
- Hừ! Nó làm cả hào ngầm nữa à?
- Vâng, hào đó nó đào rộng hơn, sâu hơn, nó cho lính đan cái phên đậy lên Rồi lấp đất, các anh Pa-thét mà bò vào là rơi xuống ngay, dưới đó cũng có chông, nhiều đấy.
- Ai dạy Bun-ma Ịàm như thế?
- Nó học bên Thái về đấy! Nó bảo với em, nó thách Pa-thét đánh vào. - Hào ngầm có mìn điện không?
- Có chứ.
- Giờ mày vào bấm điện cho nổ hết đi, nghe không?
- Vâng!
Hai người quay vào căn nhà ngói. Thào-sỉ khom lưng chui xuống hầm ngầm đào trước nhà. Đuông-chăn đứng trên soi đèn, thấy một hòm ắc-qui đặt trên hòm đạn rỗng chằng chịt dây điện, kê ở góc hầm. Đuông-chăn gọi bộ đội về hết, gom lại trong các công sự; anh nói vọng xuống chỗ Thào-sỉ:
Bấm điện xem
Thào-sỉ mở kẹp sắt nối đây điện, kẹp vào một chiếc núm trên hòm ẳc-qui. Những tiếng nổ chói tai chập vào nhau vang ầm ầm, rung mặt đất. Đuông chăn ngó qua cửa nhìn chăm chú ra hàng rào thấy ngoài đó, đất đá và khói dựng từng cột to, dâng lên thành một bức tường khói là là mặt rào gai. Bộ đội Pa-thét hò reo, cười nói. Mìn điện nỗ, chấn động những quả mìn gài. Những nấm khói và lửa liên tiếp phụt lên tròn đầu như những lùm cây giăng cách quãng đều nhau trong bức tường khói. Đuông-chăn ước lượng khoảng cách giữa những quả mìn anh gọi Thào-sỉ.
Thào-sỉ lên khỏi hầm, hoan hỉ như người vừa làm được một việc có ích:
- Bun-ma nó tự đi coi cách bố trí mìn - Thào-sỉ đứng hai tay buông thõng nói.
- Thào-sỉ còn nhớ cái lối đặt mìn này của nó không?
- Dạ còn! - Thào-sỉ sốt sắng trả lời.
- Bây giờ anh ra một chỗ ngồi vẽ lại tất cả rồi đưa bản đồ cho tôi. - Em làm ngay.
Đuông-chăn gọi một chiến sĩ Pa-thét lại bảo đưa Thào-sỉ qua chỗ Bun phênh ở căn nhà bên cạnh. Đuông-chăn đứng lại một mình. “Nó là cái thằng
như thế đấy. Mình đã hiểu thêm nó, nhưng cũng còn ít, cần phải hiểu nó và bọn chúng nó nhiều nữa”. Đuông-chăn xem xét gian buồng của Bun-ma. Một chiếc giường vải xếp, gối bơm hơi bọc vải màu cổ vịt óng ánh có in chữ nơi sản xuất: “Băng-cốc - Thái-lan”. Đầu giường, trên bàn nhỏ một lô chai rượu đủ các loại, thứ nào cũng mang nhãn hiệu Thái. Khẩu súng gấp báng bắn viên một, hai nòng dùng để đi rừng của biệt kích, nằm dài sát vách giấu dưới gối, thắt lưng đạn vứt khoanh trong góc giường và la liệt trên vách là ảnh cắt từ các tờ họa báo Mỹ; chiếc đèn cồn bằng đồng còn mới dưới gậm bàn, chiếc cà-mèn hình quả quéo kê trên kiềng đèn, nắp cà-mèn úp bờ trật ra nửa con gà rán vàng; dưới đất la liệt vỏ đạn súng ngắn, dọc theo các vách tường lỗ chỗ vết đạn, vung vãi xác những con dế đất và gián. Đuông-chăn hiểu ngay những vết đạn Bun-ma bắn để thông nòng súng và nó là một thằng bắn giỏi.
Đuông-chăn ngồi xuống giường nhìn qua bức vách sát đầu giường có khuôn cửa nhỏ, một cái khóa. Anh nhìn vào khuôn cửa: “Buồng để vũ khí của nó à!”. Đuông- chăn đứng lên bước đến trước cảnh cửa cầm khóa lắc mạnh, khóa mới và không có vẻ gì là khóa của chung cả. Đuông-chăn đẩy mạnh, khung cửa cắn chặt lấy cánh cửa rất khít, càng chứng tỏ đây không phải là buồng kho, mà đây là buồng riêng của Bun-ma. Anh lùi ra co chân phải lên đạp thật mạnh, cánh cửa rung bần bật nhưng khung cửa vẫn ngậm kín. Anh chăm chú xem khuyết sắt rồi một tay nắm chặt lấy ổ khóa, co chân đạp mạnh lần nữa. Cánh cửa bung thụt vào trong lộ ra gian phòng nhỏ tối om, nồng nồng mùi nước hoa. Buông- chăn thận trọng bước một chân vào, tay bấm đèn pin. Ảnh đèn sáng xanh làm hiện lên chiếc giường nhỏ trải vải trắng; một người con gái nằm nghiêng đầu gục vào ngực. Đuông-chăn bước lại và thấy buốt thót trong lồng ngực. Anh đưa ánh đèn lưởt dọc theo người cô gái và dừng lại trên đôi cánh tay bị trói quặt sau lưng. Anh cúi xuống tìm nút thắt của dây trói. Vòng dây ni-lông cuộn khít hai cánh tay cô gái chằng xuống thành giường.
- Em bị nó trói thế này lâu chưa?
Cô gái cựa mình, không trả lời chỉ khe khẽ rên. Đuông-chăn gỡ xong vòng dây lướt ánh đèn lên đầu cô gái, khuôn mặt cô xinh xắn xanh xao và miệng cô bị nút chặt bằng một chiếc khăn trắng. Đuông-chăn lôi chiếc khăn ra đỡ cô gái dậy, vì hai tay cô không cử động được.
- Em bị nó bắt lâu chưa?
Cô gái đã ngồi dậy, ngước nhìn Đuông-chăn, đôi mắt to mọng đó.
- Các anh có bắt được thằng Bun-ma không? - Cô khẽ hỏi, giọng cô thều thào.
- Rồi, bắt nó ở ngang đường, chiều hôm qua!
Cô gái thở dài, tay sửa lại nếp váy:
Em bị nó bắt ba hôm nay!
Anh thấy đầu vai cô run lên. Hai tay cô đề trần lằn những vòng dây bầm đỏ. Đuông-chăn bước ra buồng ngoài, tay vẫn bấm đèn. Khoanh sáng xanh nhạt loang trên nền đất. Suốt buổi chiều qua, cho tới sáng nay, tâm trí anh cứ ám ảnh mãi về cung cách xử sự với Bun-ma. Sẽ xử nó thế nào đây, làm theo cách nào tốt nhất, anh cứ luẩn quẩn với ý nghĩ đó và cách nào anh cũng thấy không thỏa đáng. Giờ thì tận mắt anh, anh chứng kiến thêm một tội ác nữa của nó. Nếu như anh và đơn vị anh không tới đây, không bắt được nó thì cô gái này sẽ ra sao; rồi bao nhiêu cô gái khác nữa, rồi nhân dân! Anh đã làm được những gì trước những nỗi đau khổ lớn lao của nhân dân: “Đuông-chăn ạ, mục đích chiến đấu của mình đó, nói cho rõ hơn cũng chỉ là làm sao đưa bà con mình, dân tộc Lào mình thoát ra khỏi đầy đọa để sống cho đúng với ước mong của tổ tiên, của ông bà. Một nước Lào không còn bọn xâm lược Mỹ, không còn bọn theo Mỹ phản lại người Lào”. Hôm anh với Bun-phênh đưa chân Sổm-si ra khỏi khu rừng nơi trú quân, Sổm-si đứng lại nắm rất lâu tay
anh và tay Bun-phênh như muốn nói: “Hai cậu nhớ lấy, luôn luôn nhớ lấy trong mỗi việc làm của mình”.
Cô gái bước ra như từ trong cơn mơ hiện về. Cô dừng lại dựa lưng vào bức vách, hai tay thu thu trước bụng, bàn tay xoắn vào nhau.
- Em ở bản nào? - Đuông-chăn ngước nhìn cô hỏi.
- Em ở bản Phắc-na-li.
- À! Gần đây thôi nhỉ. Chiều qua thằng Bun-ma cũng tới đó uống rượu. Bản mình hôm qua có người chết, nhà già Tà-xẻng.
- Phà (1) ôi! Nhà em rồi - Cô gái rên rỉ - Anh có biết nhà em ai chết không?
- Bà già thì phải.
- Bà em rồi! - Cô gái cúi xuống.
- Em muốn về, anh cho người đưa về!
- Còn phỉ không anh?
- Hết rồi! Các anh bắt hết lũ nó rồi!
- Cả thằng Bun-ma nữa à?
- Thằng Bun-ma bị giải lên huyện rồi.
- Để em về một mình.
- Không sợ nữa nhé.
-----
(1) Trời.
Cô gái ra khỏi nhà, đi mấy bước cô ngoái lại nói với Đuông-chăn: - Anh về bản em nhé!
Đuông-chăn gật đầu mỉm cười. Anh đứng lên ra theo cô gái. Cô bước thong thả giữa sân đồn. Trời đã quang mây, nắng sớm trải trên sân, bóng cô gái ngả dài, váy phập phồng theo bước chân. Bun-phênh từ căn nhà bên cạnh lại chỗ Đuông-chăn, anh ngó theo cô gái, hỏi Đuông-chăn:
- Cô ấy mới đến à?
- Không, thằng Bun-ma nó bắt nhốt vào buồng, mấy ngày nay. - Chà. Phải giết nó đi mới đúng!
“Bun-phênh cũng nghĩ như mình, cũng băn khoăn như mình”. Đuông chăn tránh cặp mắt bạn, anh đi ra bờ rào nhìn đau đáu xuống sườn đôi, mắt lướt qua những phễu mìn dưới chân rào và những hố lớn sâu hun hút dọc theo nắp hào ngầm.
Đằng sườn đôi bên kia, tiểu đội công binh đang cắt dỡ rào gai, tháo nốt những quả mìn chưa nổ. Gỡ được quả nào họ chuyền cho anh em bộ binh xem. Bun-phênh tới đưa cho Đuông-chăn bản sơ đồ hệ thống mìn Thào- sỉ vừa vẽ xong, anh hỏi Đuông-chăn:
Ta cho dân các bản lên tháo những gỗ ván các nhà và công sự về chứ.
Đuông-chăn khẽ gật, hai tay mở phanh tờ giấy ra, đứng ngay chân bờ giao thông hào xem một cách chăm chú.
Đêm, tiết trời mát mẻ. Mặt trăng như nở to ra đây và mịn, bay vùn vụt giữa những dải mây trắng xốp, ánh trăng nhuộm vàng đầu núi. Quân dân gặp
nhau sau trận chiến thắng trong cái đêm trăng thơ mộng như trên cõi nhà phật này thì làm sao lại có thể thiếu được một cuộc múa lăm-vông.
Người tà-xẻng bản Phắc-na-li đứng ra giữa vòng người. Đống lửa đốt bằng củi Pẹc (1) cháy phần phật nổ lách tách tung vọt những ngò hoa cái vàng chiếu lên khuôn mặt ông lung lính, ông đứng lặng giây lâu rụt rè, chưa bao giờ ông được đứng trước các anh bộ đội Pa- íhét như đếm nay. Hai tay ông mân mê ống điếu nhỏ dài, nói như người gỡ chỉ rối:
- Các con về chơi với dân bản Phắc-na-li đêm nay, cái bụng của bố vui nhiều. Bố với dân bản ơn con Đuông- chăn, ơn bộ đội Pa-thét. Bộ đội Pa-thét cứu dân bản khỏi cái ác của thằng Bun-ma. Phà ơi, bố không biết nói gì nữa rồi. Các con lăm với dân bản cho vui đi. Con Đuông-chăn đâu, cho bộ đội Pa thét vào lăm với.
-----
(1) Gỗ thông.
Bun-phênh bước tới bên ông già tà-xẻng, tay anh nắm .bừng??? súng ngắn đeo chéo qua ngực. Anh nhìn lướt vòng người, nói:
Con xin tiếp lời bố, tối nay anh em vui cùng dân bản, ta cùng nhau mừng thắng lợi. Bộ đội chúng con về đây, có dân bản với bố giúp nhiều, báo cho lối đi về, báo cho các tội ác của thằng Bun-ma. Được dân giúp, chúng con mới đánh thắng nó. Bộ đội Pa-thét với dân như cây với rừng - Bun-phênh củi chào rồi vung hai tay lên múa với già Tà-xẻng mở đầu cuộc lăm.
Trống nổi lên bắt theo đôi tay Bun-phênh. Tiếng trống của Đuông-chăn. Đuông-chăn có biệt tài thủ trống trong những đêm lăm như thế này. Tiếng trống của anh giòn bong sôi nổi, da diết, lúc chìm đi như bay rất xa vào thinh không, lúc xô lên thôi thúc, quyến rũ. Bun-phênh và ông già tà-xẻng ra ngoài
vòng múa, nhường cho những đôi khác vào vòng. Đôi một, đôi hai, đôi ba, đôi tư, đôi năm, anh Pa-thét bước rắn rỏi khỏe mạnh vờn bên cô gái váy óng ánh chỉ màu, đôi tay trần bay lên bồng bềnh như lướt giữa tiếng trống nhịp ba bập bập... bùng, xoắn xuýt trong ánh lửa, lửa nạm óng ánh lên những cánh tay trần của các cô gái, hóa thành những cánh lửa mềm mại tha thướt.
Bập bập... bùng, bập bập.., bùng, bập bập... bùng. Đuông-chăn giơ cao chiếc trống lớn ngang ngực, và ngực anh ngửa ra, theo nhịp trống bước những bước dài ở vòng ngoài. Trăng lên cao, sáng vằng vặc. Anh dừng lại sau lưng một người dang ngồi. Ai vậy, ai còn ngồi đây? Đuông-chăn vừa đánh trống vừa cúi xuống xem là ai, anh lùi ra xa đầu cui cúi. Cảm giác lúc ban sáng anh gặp cô gái trong buông của Bun-ma chợt ập tới se xót. Sao em không múa với ai? Đuông-chăn bước những bước ngắn và chậm, hai tay vẫn??? những nhịp trống giòn óng ả. Còn cô gái, cô vẫn ngồi trên gốc cây gọt bằng; tay cô thu vào lòng, đôi mắt mở to không chớp. Đuông-chăn không đi hết vòng múa, anh quay lại và cử chỉ ấy của anh già tà-xẻng đã thấu, ông bước nhanh lại trước anh, đón lấy chiếc trống, nhịp tiếp những nhịp điêu luyện, già dặn. Đuông-chăn mời cô gái vào vòng lăm. Cô đứng lên khép nép bước theo Đuông-chăn, gương mặt cô sáng tràn ánh trăng, hai cánh tay trần của cô trăng nạm nõn nà. Đuông-chăn bước làm cữ cho cô gái bước theo uyển chuyển, dẽ dặt.
Tay em còn đau không?
Cô gái khẽ lắc, cúi đầu. Đuông-chăn không trông thấy cô khóc, chỉ thấy vô vàn những mặt trăng nhỏ li ti tuôn xuống đôi gò má vừa hồng hồng sắc lửa vừa mịn mát ánh trăng. Từ lúc ấy từng bước cbân, cái vung tay của cả hai người bện quyện lấy nhau như hai ngọn lửa cháy từ một thanh củi gỗ Pẹc và nhịp trống kia nữa, bây giờ cũng không còn phân biệt được đó là điệu trống của ông già Tà-xẻng hay của ai.
Đuông-chăn đặt khẽ đầu ngón tay đeo nhẫn vào lưng cô gái, lái cho cô ra
xa đống lửa. Những bóng người lung liêng quấn quýt lấy đôi múa Đuông chăn.
- Em! - Đuông-chăn khẽ gọi.
- Dạ! - Cô gái thưa, tiếng cô nhòa trong ánh trăng.
- Không buồn nữa nhé!
- Dạ - Cô gái cúi xuống - Anh như nắng buổi mai, em là con sáo nhỏ. Con sáo chỉ hót khi trời có nắng. Có anh ở bên, em không buồn nữa.
Dân làng tiếp cho đống lửa thêm những thanh củi. Lửa bừng vươn những ngọn hồng lên cao reo ù ù trong gió đêm của rừng. Mặt trăng tinh nghịch cứ chênh mãi về một bên vòm trời để được soi vào đôi mắt cô, soi vào vầng trán mịn xinh xắn, cánh mũi thở phập phồng và chiếc cằm nho nhỏ.
Bập bập... bùng. Bập bập, bùng. Bập bập, bùng...
Chiều hôm sau, Bun-phênh dắt Đuông-chăn lên nhà già Tà-xẻng. Già Tà xẻng ngồi bên này bếp lửa, bà mẹ ngồi bên kia, hai chân bà thu về một bên phủ vảy tới gót chân. Cô gái ấy ngồi nấp san lưng mẹ, mái tóc đen dầy thả đầy cả khuôn lưng ong, cô mải miết gỡ búp chỉ màu cuốn sang chiếc ống suốt con. Bun-phênh ngồi xuống, đưa tay kẻo Đuông-chăn ngồi theo và nói thong thả:
Thưa bố mẹ, hôm nay con dắt Đuông-chăn đến nói với bố mẹ cho Đuông chăn làm con rể của bố mẹ.
Đuông-chăn nhẩm đếm xem trong bếp có bao nhiêu ngọn lửa. Ồng già Tà-xẻng nói:
- Được thôi! Đuông-chăn muốn nhà này là nhà con, bố mẹ cũng muốn thế.
Bà mẹ thì ngoái lại sau xem con gái đang làm gì. Cô gái cúi thấp hơn, vòng chỉ đã bị cuốn chệch choạc xung quanh chiếc suốt. Bà nói với con gái:
Đứng dậy bưng típ mời các anh đi con! - Bà mẹ muốn Đuông-chăn nhìn rõ hơn con gái bà.
Cô gái đứng lên, đặt ra giữa nhà chiếc mâm đan bằng mây, đặt xuống bên cạnh típ xôi và bây lên mâm một bát Pà-đẹc, nắm rau cải non và đĩa thịt lợn. Cô đi ra ngoài hiên bưng vào một chậu nước nhỏ. Hai đầu gối cô chụm lại, quì nhẹ nhàng bên Đuông-chăn, đặt chậu nước xuống.
Chậu nước bắt gặp hai người tìm mắt nhau. Thế là nó sảnh lên những vòng sóng nhỏ lân vân. Bun-phênh liếc Đuông-chăn với vẻ rất hóm, lấy giọng nghiêm trang:
- Từ nay Đuông-chăn là con bố mẹ rồi. Đuông-chăn có hạnh phúc. Đuông-chăn sẽ chiến đấu cùng chúng con để bảo vệ hạnh phúc này của Đuông-chăn, cũng như của bố mẹ, dân bản Phắc-na-li và của người Lào mình!
- Phải rồi! Các con được dân giao cho việc lớn đó cứ đi mà làm cho giỏi, ở Phắc-na-li này giờ đã có du kích. Con trai con gái làm du kích để giữ cái bản cùng bộ đội Pa-thét - Ông già Tà-xẻng đứng lên ra chỗ mâm cơm, nói tiếp vui vẻ - Nào, mời, mời hai con...
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Bốn
Bữa ăn sáng đã xong. Các tiểu đội mang soong nồi lại trả anh nuôi chồng thành một chồng cao ngoài thềm bếp. Đuông-chăn ngó quanh rồi ra ngồi dưới nắng, vén tay áo lên. Vết thương rạch một vệt dài ngang cánh tay trên, đã mọc da non, ngứa ngấy làm anh khó chịu. Đuông-chăn đưa tay xoa nhẹ quanh vết xẹo, mắt ngó sang một vết sẹo khác đã lành bên cạnh. Ngoài lối mòn có tiếng loạt xoạt cành lá và một bóng người đi nhanh tới. Đuông-chăn ngẩng lên kéo cánh tay áo xuống, nhìn ra.
- Anh Đuông-chăn không ngủ trưa à?-Cậu liên lạc đại đội hỏi - Không? Có việc gì thế?
- Đại đội trưởng gọi anh.
Đuông-chăn đứng lên đi theo cậu liên lạc sang lán ban chỉ huy. Sổm-si đang hí húi giở nhanh một xáp giấy có nhiều nét chữ khác nhau. Thấy Đuông-chăn vào, anh ngấng lên:
- Vào đây- Đại đội trưởng Sổm-si quay sang nhìn Đuông-chăn một cái nhanh rồi lại chăm chú lật giở xấp giấy.
Đuông-chăn ngồi xuống giường, bên cạnh đại đội trưởng với một vẻ phân vân.
- Đuông-chăn giấu ban chỉ huy nhá-Sổm-si đột nhiên nói nhỏ, miệng tủm tỉm cười-Lập công thế này mà không nói.
Sổm-si chìa xấp giấy ra.
- Thư của bà con mình ở các bản gửi đến báo cáo về thành tích diệt phỉ của Đuông-chăn đây. Mười ba lá.
Đuông-chặn ngỏ tập thư, cười ngượng nghịu:
- Mình đi mua rau quả gặp nó thì đánh thôi, có gì mà phải báo cáo - Đuông-chăn nói lúng búng.
Sổm-si ngửa mặt cười vang, anh vừa vui với những điều viết trong tập thư vừa mến cái nói rụt rè ngộ nghĩnh của Đuông-chăn:
- Thôi, bây giờ Đuông-chăn giao nhiệm vụ anh nuôi cho đồng chí khác, sang làm tiểu đội trưởng.
Đuông-chăn giật mình, nhìn Sổm-si, cặp mắt mở to bỡ ngỡ, nói buột ra: - Mình chưa làm được nhiệm vụ đó đâu.
- Đuông-chăn bảo chưa làm được, nhưng ban chỉ huy bảo làm được thì sao?
Đuông-chăn cúi đầu, gương mặt đó bừng lên như đứng trưỏc con gái. - Lúc nào mình nhận nhiệm vụ mới!
- Ngay bây giờ.
Đuông-chăn quê Phong-xa-ly một tỉnh thuộc bắc Lào. Phong-xa-ly có nhiều rừng cây “mạy may” (1). Mạy may mọc bát ngát trên những ngọn đồi cao, mạy may có sức sống rất dai, gió bão mạy may ngả rạp, lặng gió nó lại tựa nhau đứng thẳng lên vươn ngọn cao ngang trời và trổ hoa như một rừng cờ.
-----
(1) Cây sậy.
Ngày Đuông-chăn đi bộ đội cũng là ngày có đơn vị này. Nhưng trong mấy chục tay súng thì lại vắng Đuông- chăn. Anh được giao làm công việc nuôi quân. Thế rồi cứ mỗi bận đơn vị đi đánh, anh em nhộn nhịp chuẩn bị súng đạn, bộc-phá, tháo luận phương án chiến đấu, thì Đuông-chăn lại lo rau quả ăn dọc đường, cơm nắm cho các chiến sĩ và nước cho các bi-đông. Làm mãi công việc đó, cũng đến lúc Đuông-chăn thấy “nóng ruột”. Ai lại đi bộ đội gần hai năm trời mà chưa lần nào được dự với anh em một trận cho hẳn hoi. Sau mỗi lần đơn vị lập công, anh em người ta vác súng với chiến lợi phầm về, ngồi quây lại trong lán anh nuôi kể ran trận vừa đánh cho nhau nghe, thì lông Đuông-chăn lại xáo lên suốt buổi. Rồi công việc lại điễn ra đều đãn như những ngày hòm trước, Đuông-chăn đeo sọt không đi mua thức ăn. Bản anh đến ở cách xa chỗ trú quân nửa buổi đường. Và anh thì chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng mình đã lập công đầu tiên ở đây.
Một toán phỉ sục vào bản quấy nhiễu giữa lúc Đuông- chăn đang chất rau bí vào sọt. Quen thói làm càn, mà lại chưa một lần nào gặp cản trở, lũ phỉ lông nhông giữa làng, trông ghẹo những cô gái đi gánh nước và ngồi dệt vái dưới sàn nhà, lùa bắt gà vịt, vặt hái những trái đu đủ chín, trút gạo đang giã dưới cối sang ba-lô, cưòi nói sằng sặc trước vẻ mặt thất đám của dân làng, và, lũ phỉ xộc tới chỗ Đuông-chăn. Đuông-chăn chèn nốt quả bí xanh vào sọt thì lũ phỉ đã đến ngõ. Anh ngồi thụp ngay sau sọt bí, thoắt một cái anh đã xối một băng dài vào cả đám lính phỉ đang dồn hàng dọc kẹp giữa hai hàng vòng cao đây gai.
Những trận đánh khác, khi thì chúng phục kích anh, khi thì anh chặn chúng, và cùng với du kích bản chống càn. Bị vết thương nào, anh lấy lá rịt, giấu biến.
Trận đánh gần đây nhất, đã để lại một vết thương mới nữa trên cánh tay anh, cũng là trận anh bị lũ phỉ phục kích lúc anh gánh đây hai sọt rau. Chúng chặn anh ở rừng, quẳng một quả lựu đạn xuống trước mặt anh. Đuông-chăn đặt phịch gánh rau chụp ngay lấy quả lựu đạn quẳng sang bên kia một gốc cây, lựu đạn nổ phủ khói mù đặc. Toán phỉ la hét hốt hoảng:
- Ố tai lẹo! Tai lẹo (1) Chúng chen nhau xô xuống.
-----
(1) Chết rồi, chết rồi
Đuông-chăn ngồi sau sọt rau cũng chẳng trông thấy lũ phỉ vì khói và bụi đất vẫn chưa tan. Nhưng tiếng hô hoán, tiếng chân đạp loạn xạ trên lá rừng thì anh nghe rõ quá. Anh cứ áng chừng mà vỗ thẳng mặt lũ phỉ một loạt đạn thật dài, chia rất đều như người chia bài tú-lơ-khơ. Và vết thương ấy cũng lại được giấu kỹ cùng với trận đánh kỳ lạ ấy.
Buổi chiều. Người chiến sĩ mới tới lán nuôi quân nhận nhiêm vụ. Đó là một chiến sĩ thấp lùn, đầu to có cái miệng rộng. Đuông-chăn khoát tay một vòng quanh lán bếp và đưa cho anh ta cuốn sổ, một tệp tiền, chỉ lượng gạo sắp cho vào nồi của bữa cơm chiều nay; tất cả có thế. Nhưng đến lúc sắp sửa
phải xa những dụng cụ bếp núc, lúc nào cũng nhọ nhem đó, anh bỗng thấy bịn rịn. Đuông-chăn khoCác súng ra đến thềm lán nuôi quân, chẳng hiểu còn quên thứ gì, anh đứng lại nhìn bếp lửa, nhìn anh nuôi quân mới, cười bâng khuâng.
Đuông-chăn sang nhận chức tiểu đội trưởng tiểu đội mười ba người. Sổm si dặn:
Toàn người mới cả, Đuông-chăn cùng anh em tập bắn cho giỏi - Sổm-si nói rồi móc túi lấy ra tập giấy khen đưa cho Đuông-chăn-Mong Đuông-chăn
có nhiều thành tích nữa.
Mười ba chiến sĩ nhập ngũ được năm ngày. Nhận súng xong mỗi người vác một khẩu ra bờ suối ngắm nghia, mân mê cái báng, tí toấy mẩu cô và soi nòng súng ra nắng xem bên trong có cái gì mà sáng choang lên vậy. Lúc nghe quản khỉ dặn phải giữ gìn súng cho tốt, không được để hỏng, thì có người xắn luôn cả cánh tay áo ra làm khăn lau. Mẩu giẻ lúc nào cũng đẫm dầu nhờn, khẩu súng lúc nào cũng bóng nhoáng. Đi ngủ để súng ngay cạnh mình. Sáng ra, mở mắt đã thấy anh nào cũng khẩu súng chéo qua lưng, lủng lẳng. Còn Đuông-chăn, cái tính mê súng ấy của anh em, làm anh nhớ đến những ngày đầu đi bộ đội.
Toàn đơn vị bước vào tập bắn và học các chiến thuật. Đuông-chăn lăn lưng tập với các chiến sĩ, tập mê mải. Suốt ngày lăn, lê, bò, chạy, chui, luồn ngoài bãi có ven ruộng. Mê đến nỗi trời đứng trưa mà chẳng ai muốn nghĩ về ăn cơm. Thế thì Đuông-chăn chiều anh em vậy. Anh xuống bếp lĩnh phần gạo của tiểu đội, một cái soong con. Tất nhiên là cậu anh nuôi rất hài lông về sáng kiến này, liền sẻ luôn cho tiểu đội vài muôi mỡ, một ít cân thịt trâu và cho hẳn một ôm to rau cải. Vốn đã quá quen với công việc bếp núc, Đuông-chăn kiêm luôn. Vừa uốn nắn từng động tác xạ kích, Đuông-chăn vừa tbối cơm. Bếp lửa đục ngay vào bờ ruộng cao, các chiến sĩ thì kê súng lên những mô đất, nằm úp sấp nheo mắt ngắm. Đuông-chăn đi suốt lượt kiểm tra, rồi lại chạy vụt về bếp đẩy củi. Một lần, Sổm-si ra “bãi tập” của tiểu đội ngó quanh không thấy Đuông-chăn đâu, hỏi một chiến sĩ:
- Tiểu đội trưởng không giúp anh em mình tập à?
Cậu chiến sĩ hất đầu chỉ lại phía bờ ruộng cao gần bìa rừng: - Anh Đuông-chăn đang ngồi kia!
Sổm-si ngó theo, thấy Đuông-chăn đang chổng mông bên bờ ruộng và
trên đầu một đụn khói lớn. Sổm-si đi tới đứng ngay đằng sau Đuông-chăn, bụng không vui:
- Sao, Đuông-chăn không bảo anh em cách tập bắn à?
Đuông-chăn ngồi ngay lại, ngước khuôn mặt đó ửng vì than hồng, sắc lửa: - Mình bảo nhiều đấy.
- Cố nhé. Sắp vào bắn đạn thật rồi -Sổm-si nói thong thả, và thực tình chưa tin hẳn lời Đuông-chăn.
Ngoài mặt ruộng, ba bốn chiến sĩ ngồi lên, chụm đầu vào nhau đánh bài. Sổm-si nhìn thấy. Nhưng anh không muốn làm họ cụt hứng, trước lúc ra về anh nói với Đuông-chăn, tâm trạng phân vân:
- Nhớ tập cho giỏi. Mình để tiểu đội Đuông-chăn bắn đạn thật đầu tiên đấy.
Đợt thì xạ kích bắt đầu vào buổi chiều. Các chiến sĩ tụ tập cả ngoài băi cỏ, chỉ còn chờ tiểu đội Đuông-chăn. Sổm-si thì đi đi lại lại, thỉnh thoảng đưa mắt nhóng về lối mòn ven rừng. Đột nhiên cả đơn vị bật cười vang, còn Sổm si thì vừa cười vừa liếc nhìn vẻ hỏm hỉnh. Một tốp người đang đi tới, người đi trước là Đuông- chăn. Đuông-chăn vác trên vai khẩu súng như người vác cây sào dài, báng súng thì ngoắc một cái soong, với mớ rau cải; cứ mỗi bước, cái soong lại đập vào cò súng một tiếng côông.
Đuông-chăn đi thẳng ra trước mặt anh em, gỡ cái soong với mớ rau cái vứt xuống đất, cùng mười ba người dàn hàng ngang nhìn ra tấm bia. Tấm bia hiện lên, gọi nhanh một điểm xạ ngắn của khẩu súng Đuông-chăn. Năm viên
phủ đây mặt bia, cho đến người thứ mười bốn thì tấm bia phải thay vì bảy mươi phát đạn đã xé tướp.
Đuông-chăn cúi nhặt chiếc soong, mớ rau cải theo tiểu đội vòng ra sau giữa tiếng vỗ tay ran, tiếng hoan hô, những chuỗi cười giòn giã. Anh em tản thưởng, vì kết quả tuyệt điệu của tiểu đội Đuông-chăn, và cười vì cái vẻ ngộ nghĩnh của anh. Còn Sổm-si thì bằng lòng ra mặt, anh thoáng nghĩ: “Mình sống với nó gần hai năm mà bây giờ mởi hiểu được nó”.
Rồi những trận chiến đấu kế tiếp, mùa khô nối mùa mưa; những bản mới mở rộng ra những vùng giái phóng mới. Tiểu đội của Đuông-chăn bao nhiêu đôi thay, nhiều chiến sĩ gia nhập cái gia đình nho nhỏ đó, cũng nhiều chiến sĩ đã nằm lại trên dọc đường chiến đấu, ngã xuống trong những đợt xung phong, hay thuyên chuyển sang một phân đội khác. Lực lượng vũ trang của nhân dân cách mạng Lào đã thêm nhiều đội ngũ. Các đồng chí trong ban chỉ huy phải chia nhau về những đơn vị mới.
Sổm-si bàn giao cho đại đội trưởng mới Đuông-chăn, những sổ sách, những vấn đề còn đang giái quyết, những phân đội cần được chú ý nhiều của người chỉ huy, phương hướng mai sau của đại đội, trận đánh sắp tới và cuối cùng là việc về phép cưới vợ của một số chiến sĩ.
- Chắc lần xa nàv ít có lúc gặp lại anh em mình đấy. Chà, nhớ lắm mất thôi - Sổm-si xòe bật lửa, rít thật lâu chậm điếu thuốc thứ hai, như để nén xúc động.
- Sáu năm rồi, anh Sổm-si nhỉ!
- Ừ! Sáu năm.
- Mình mới, Bun-phêng mới, cách mạng lại giao cho nhiều nhiệm vụ, rồi ra sao đây? - Đuông-chăn đầu nghiêng nghiêng, mắt mở to nhìn Sổm-si như muốn nói với Sổm- si: “Anh hiểu mình nhiều, coi mình có thể gánh vác được không...?”.
- Mình thấy thế này, Đuông-chăn có một cái rất tốt là cách đánh của Đuông-chăn táo bạo, chỉ huy lính hoạt, gần gũi chiến sĩ. Trong quân sự, ta gọi cách Đuông-chăn vẫn sử dựng đó là đánh tập kích. Hoàn cảnh chiến trường của mình cách này hợp...
Đuông-chăn nhìn ra chỗ khác, mắt nheo lại. Anh hiểu, đây là lần đầu tiên Sổm-si nói với anh. Giọng nói chất phCác, ngập ngừng có một cái gì đó vừa là của tình bạn gắn bó vừa là của tình chiến hữu mật thiết, gian khổ, vui buồn, sống chết có nhau. Bây giờ phải xa nhau vì mục đích lớn, thấy phải gọi ra cho thật đúng những điều cần thiết, để người kế tục mình chỉ huy một đơn vị đã biết bao gắn bó này, làm thật tốt công việc còn lại, công việc trước mắt, công việc ngày mai; và cuối cùng là con đường dài sẽ phải đi tới.
Sổm-si chợt mỉm cười, đưa tay cầm lưỡi trai của chiếc mũ vái anh đang đội, day day mấy cái:
- Anh em trong trung đội cũ gọi cậu là Đuông-chăn- lục-chọ (1)thì đúng quá.
-----
(1) Đạn Xuyên. Một loại đạn của súng ĐK.
Đuông-chăn nhìn nhanh Sổm-si:
- Chiến sĩ thế đấy, họ giỏi đặt những tên phụ lắm.
Hai người cùng cười vang. Sổm-si đeo ba-lô lên đường ngay chiều hôm đó.
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Năm
Bữa ăn sáng đã xong. Các tiểu đội mang soong nồi lại trả anh nuôi chồng thành một chồng cao ngoài thềm bếp. Đuông-chăn ngó quanh rồi ra ngồi dưới nắng, vén tay áo lên. Vết thương rạch một vệt dài ngang cánh tay trên, đã mọc da non, ngứa ngấy làm anh khó chịu. Đuông-chăn đưa tay xoa nhẹ quanh vết xẹo, mắt ngó sang một vết sẹo khác đã lành bên cạnh. Ngoài lối mòn có tiếng loạt xoạt cành lá và một bóng người đi nhanh tới. Đuông-chăn ngẩng lên kéo cánh tay áo xuống, nhìn ra.
- Anh Đuông-chăn không ngủ trưa à?-Cậu liên lạc đại đội hỏi - Không? Có việc gì thế?
- Đại đội trưởng gọi anh.
Đuông-chăn đứng lên đi theo cậu liên lạc sang lán ban chỉ huy. Sổm-si đang hí húi giở nhanh một xáp giấy có nhiều nét chữ khác nhau. Thấy Đuông-chăn vào, anh ngấng lên:
- Vào đây- Đại đội trưởng Sổm-si quay sang nhìn Đuông-chăn một cái nhanh rồi lại chăm chú lật giở xấp giấy.
Đuông-chăn ngồi xuống giường, bên cạnh đại đội trưởng với một vẻ phân vân.
- Đuông-chăn giấu ban chỉ huy nhá-Sổm-si đột nhiên nói nhỏ, miệng tủm tỉm cười-Lập công thế này mà không nói.
Sổm-si chìa xấp giấy ra.
- Thư của bà con mình ở các bản gửi đến báo cáo về thành tích diệt phỉ của Đuông-chăn đây. Mười ba lá.
Đuông-chặn ngỏ tập thư, cười ngượng nghịu:
- Mình đi mua rau quả gặp nó thì đánh thôi, có gì mà phải báo cáo - Đuông-chăn nói lúng búng.
Sổm-si ngửa mặt cười vang, anh vừa vui với những điều viết trong tập thư vừa mến cái nói rụt rè ngộ nghĩnh của Đuông-chăn:
- Thôi, bây giờ Đuông-chăn giao nhiệm vụ anh nuôi cho đồng chí khác, sang làm tiểu đội trưởng.
Đuông-chăn giật mình, nhìn Sổm-si, cặp mắt mở to bỡ ngỡ, nói buột ra: - Mình chưa làm được nhiệm vụ đó đâu.
- Đuông-chăn bảo chưa làm được, nhưng ban chỉ huy bảo làm được thì sao?
Đuông-chăn cúi đầu, gương mặt đó bừng lên như đứng trưỏc con gái. - Lúc nào mình nhận nhiệm vụ mới!
- Ngay bây giờ.
Đuông-chăn quê Phong-xa-ly một tỉnh thuộc bắc Lào. Phong-xa-ly có nhiều rừng cây “mạy may” (1). Mạy may mọc bát ngát trên những ngọn đồi cao, mạy may có sức sống rất dai, gió bão mạy may ngả rạp, lặng gió nó lại tựa nhau đứng thẳng lên vươn ngọn cao ngang trời và trổ hoa như một rừng cờ.
-----
(1) Cây sậy.
Ngày Đuông-chăn đi bộ đội cũng là ngày có đơn vị này. Nhưng trong mấy chục tay súng thì lại vắng Đuông- chăn. Anh được giao làm công việc nuôi quân. Thế rồi cứ mỗi bận đơn vị đi đánh, anh em nhộn nhịp chuẩn bị súng đạn, bộc-phá, tháo luận phương án chiến đấu, thì Đuông-chăn lại lo rau quả ăn dọc đường, cơm nắm cho các chiến sĩ và nước cho các bi-đông. Làm mãi công việc đó, cũng đến lúc Đuông-chăn thấy “nóng ruột”. Ai lại đi bộ đội gần hai năm trời mà chưa lần nào được dự với anh em một trận cho hẳn hoi. Sau mỗi lần đơn vị lập công, anh em người ta vác súng với chiến lợi phầm về, ngồi quây lại trong lán anh nuôi kể ran trận vừa đánh cho nhau nghe, thì lông Đuông-chăn lại xáo lên suốt buổi. Rồi công việc lại điễn ra đều đãn như những ngày hòm trước, Đuông-chăn đeo sọt không đi mua thức ăn. Bản anh đến ở cách xa chỗ trú quân nửa buổi đường. Và anh thì chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng mình đã lập công đầu tiên ở đây.
Một toán phỉ sục vào bản quấy nhiễu giữa lúc Đuông- chăn đang chất rau bí vào sọt. Quen thói làm càn, mà lại chưa một lần nào gặp cản trở, lũ phỉ lông nhông giữa làng, trông ghẹo những cô gái đi gánh nước và ngồi dệt vái dưới sàn nhà, lùa bắt gà vịt, vặt hái những trái đu đủ chín, trút gạo đang giã dưới cối sang ba-lô, cưòi nói sằng sặc trước vẻ mặt thất đám của dân làng, và, lũ phỉ xộc tới chỗ Đuông-chăn. Đuông-chăn chèn nốt quả bí xanh vào sọt thì lũ phỉ đã đến ngõ. Anh ngồi thụp ngay sau sọt bí, thoắt một cái anh đã xối một băng dài vào cả đám lính phỉ đang dồn hàng dọc kẹp giữa hai hàng vòng cao đây gai.
Những trận đánh khác, khi thì chúng phục kích anh, khi thì anh chặn chúng, và cùng với du kích bản chống càn. Bị vết thương nào, anh lấy lá rịt, giấu biến.
Trận đánh gần đây nhất, đã để lại một vết thương mới nữa trên cánh tay anh, cũng là trận anh bị lũ phỉ phục kích lúc anh gánh đây hai sọt rau. Chúng chặn anh ở rừng, quẳng một quả lựu đạn xuống trước mặt anh. Đuông-chăn đặt phịch gánh rau chụp ngay lấy quả lựu đạn quẳng sang bên kia một gốc cây, lựu đạn nổ phủ khói mù đặc. Toán phỉ la hét hốt hoảng:
- Ố tai lẹo! Tai lẹo (1) Chúng chen nhau xô xuống.
-----
(1) Chết rồi, chết rồi
Đuông-chăn ngồi sau sọt rau cũng chẳng trông thấy lũ phỉ vì khói và bụi đất vẫn chưa tan. Nhưng tiếng hô hoán, tiếng chân đạp loạn xạ trên lá rừng thì anh nghe rõ quá. Anh cứ áng chừng mà vỗ thẳng mặt lũ phỉ một loạt đạn thật dài, chia rất đều như người chia bài tú-lơ-khơ. Và vết thương ấy cũng lại được giấu kỹ cùng với trận đánh kỳ lạ ấy.
Buổi chiều. Người chiến sĩ mới tới lán nuôi quân nhận nhiêm vụ. Đó là một chiến sĩ thấp lùn, đầu to có cái miệng rộng. Đuông-chăn khoát tay một vòng quanh lán bếp và đưa cho anh ta cuốn sổ, một tệp tiền, chỉ lượng gạo sắp cho vào nồi của bữa cơm chiều nay; tất cả có thế. Nhưng đến lúc sắp sửa
phải xa những dụng cụ bếp núc, lúc nào cũng nhọ nhem đó, anh bỗng thấy bịn rịn. Đuông-chăn khoCác súng ra đến thềm lán nuôi quân, chẳng hiểu còn quên thứ gì, anh đứng lại nhìn bếp lửa, nhìn anh nuôi quân mới, cười bâng khuâng.
Đuông-chăn sang nhận chức tiểu đội trưởng tiểu đội mười ba người. Sổm si dặn:
Toàn người mới cả, Đuông-chăn cùng anh em tập bắn cho giỏi - Sổm-si nói rồi móc túi lấy ra tập giấy khen đưa cho Đuông-chăn-Mong Đuông-chăn
có nhiều thành tích nữa.
Mười ba chiến sĩ nhập ngũ được năm ngày. Nhận súng xong mỗi người vác một khẩu ra bờ suối ngắm nghia, mân mê cái báng, tí toấy mẩu cô và soi nòng súng ra nắng xem bên trong có cái gì mà sáng choang lên vậy. Lúc nghe quản khỉ dặn phải giữ gìn súng cho tốt, không được để hỏng, thì có người xắn luôn cả cánh tay áo ra làm khăn lau. Mẩu giẻ lúc nào cũng đẫm dầu nhờn, khẩu súng lúc nào cũng bóng nhoáng. Đi ngủ để súng ngay cạnh mình. Sáng ra, mở mắt đã thấy anh nào cũng khẩu súng chéo qua lưng, lủng lẳng. Còn Đuông-chăn, cái tính mê súng ấy của anh em, làm anh nhớ đến những ngày đầu đi bộ đội.
Toàn đơn vị bước vào tập bắn và học các chiến thuật. Đuông-chăn lăn lưng tập với các chiến sĩ, tập mê mải. Suốt ngày lăn, lê, bò, chạy, chui, luồn ngoài bãi có ven ruộng. Mê đến nỗi trời đứng trưa mà chẳng ai muốn nghĩ về ăn cơm. Thế thì Đuông-chăn chiều anh em vậy. Anh xuống bếp lĩnh phần gạo của tiểu đội, một cái soong con. Tất nhiên là cậu anh nuôi rất hài lông về sáng kiến này, liền sẻ luôn cho tiểu đội vài muôi mỡ, một ít cân thịt trâu và cho hẳn một ôm to rau cải. Vốn đã quá quen với công việc bếp núc, Đuông-chăn kiêm luôn. Vừa uốn nắn từng động tác xạ kích, Đuông-chăn vừa tbối cơm. Bếp lửa đục ngay vào bờ ruộng cao, các chiến sĩ thì kê súng lên những mô đất, nằm úp sấp nheo mắt ngắm. Đuông-chăn đi suốt lượt kiểm tra, rồi lại chạy vụt về bếp đẩy củi. Một lần, Sổm-si ra “bãi tập” của tiểu đội ngó quanh không thấy Đuông-chăn đâu, hỏi một chiến sĩ:
- Tiểu đội trưởng không giúp anh em mình tập à?
Cậu chiến sĩ hất đầu chỉ lại phía bờ ruộng cao gần bìa rừng: - Anh Đuông-chăn đang ngồi kia!
Sổm-si ngó theo, thấy Đuông-chăn đang chổng mông bên bờ ruộng và
trên đầu một đụn khói lớn. Sổm-si đi tới đứng ngay đằng sau Đuông-chăn, bụng không vui:
- Sao, Đuông-chăn không bảo anh em cách tập bắn à?
Đuông-chăn ngồi ngay lại, ngước khuôn mặt đó ửng vì than hồng, sắc lửa: - Mình bảo nhiều đấy.
- Cố nhé. Sắp vào bắn đạn thật rồi -Sổm-si nói thong thả, và thực tình chưa tin hẳn lời Đuông-chăn.
Ngoài mặt ruộng, ba bốn chiến sĩ ngồi lên, chụm đầu vào nhau đánh bài. Sổm-si nhìn thấy. Nhưng anh không muốn làm họ cụt hứng, trước lúc ra về anh nói với Đuông-chăn, tâm trạng phân vân:
- Nhớ tập cho giỏi. Mình để tiểu đội Đuông-chăn bắn đạn thật đầu tiên đấy.
Đợt thì xạ kích bắt đầu vào buổi chiều. Các chiến sĩ tụ tập cả ngoài băi cỏ, chỉ còn chờ tiểu đội Đuông-chăn. Sổm-si thì đi đi lại lại, thỉnh thoảng đưa mắt nhóng về lối mòn ven rừng. Đột nhiên cả đơn vị bật cười vang, còn Sổm si thì vừa cười vừa liếc nhìn vẻ hỏm hỉnh. Một tốp người đang đi tới, người đi trước là Đuông- chăn. Đuông-chăn vác trên vai khẩu súng như người vác cây sào dài, báng súng thì ngoắc một cái soong, với mớ rau cải; cứ mỗi bước, cái soong lại đập vào cò súng một tiếng côông.
Đuông-chăn đi thẳng ra trước mặt anh em, gỡ cái soong với mớ rau cái vứt xuống đất, cùng mười ba người dàn hàng ngang nhìn ra tấm bia. Tấm bia hiện lên, gọi nhanh một điểm xạ ngắn của khẩu súng Đuông-chăn. Năm viên
phủ đây mặt bia, cho đến người thứ mười bốn thì tấm bia phải thay vì bảy mươi phát đạn đã xé tướp.
Đuông-chăn cúi nhặt chiếc soong, mớ rau cải theo tiểu đội vòng ra sau giữa tiếng vỗ tay ran, tiếng hoan hô, những chuỗi cười giòn giã. Anh em tản thưởng, vì kết quả tuyệt điệu của tiểu đội Đuông-chăn, và cười vì cái vẻ ngộ nghĩnh của anh. Còn Sổm-si thì bằng lòng ra mặt, anh thoáng nghĩ: “Mình sống với nó gần hai năm mà bây giờ mởi hiểu được nó”.
Rồi những trận chiến đấu kế tiếp, mùa khô nối mùa mưa; những bản mới mở rộng ra những vùng giái phóng mới. Tiểu đội của Đuông-chăn bao nhiêu đôi thay, nhiều chiến sĩ gia nhập cái gia đình nho nhỏ đó, cũng nhiều chiến sĩ đã nằm lại trên dọc đường chiến đấu, ngã xuống trong những đợt xung phong, hay thuyên chuyển sang một phân đội khác. Lực lượng vũ trang của nhân dân cách mạng Lào đã thêm nhiều đội ngũ. Các đồng chí trong ban chỉ huy phải chia nhau về những đơn vị mới.
Sổm-si bàn giao cho đại đội trưởng mới Đuông-chăn, những sổ sách, những vấn đề còn đang giái quyết, những phân đội cần được chú ý nhiều của người chỉ huy, phương hướng mai sau của đại đội, trận đánh sắp tới và cuối cùng là việc về phép cưới vợ của một số chiến sĩ.
- Chắc lần xa nàv ít có lúc gặp lại anh em mình đấy. Chà, nhớ lắm mất thôi - Sổm-si xòe bật lửa, rít thật lâu chậm điếu thuốc thứ hai, như để nén xúc động.
- Sáu năm rồi, anh Sổm-si nhỉ!
- Ừ! Sáu năm.
- Mình mới, Bun-phêng mới, cách mạng lại giao cho nhiều nhiệm vụ, rồi ra sao đây? - Đuông-chăn đầu nghiêng nghiêng, mắt mở to nhìn Sổm-si như muốn nói với Sổm- si: “Anh hiểu mình nhiều, coi mình có thể gánh vác được không...?”.
- Mình thấy thế này, Đuông-chăn có một cái rất tốt là cách đánh của Đuông-chăn táo bạo, chỉ huy lính hoạt, gần gũi chiến sĩ. Trong quân sự, ta gọi cách Đuông-chăn vẫn sử dựng đó là đánh tập kích. Hoàn cảnh chiến trường của mình cách này hợp...
Đuông-chăn nhìn ra chỗ khác, mắt nheo lại. Anh hiểu, đây là lần đầu tiên Sổm-si nói với anh. Giọng nói chất phCác, ngập ngừng có một cái gì đó vừa là của tình bạn gắn bó vừa là của tình chiến hữu mật thiết, gian khổ, vui buồn, sống chết có nhau. Bây giờ phải xa nhau vì mục đích lớn, thấy phải gọi ra cho thật đúng những điều cần thiết, để người kế tục mình chỉ huy một đơn vị đã biết bao gắn bó này, làm thật tốt công việc còn lại, công việc trước mắt, công việc ngày mai; và cuối cùng là con đường dài sẽ phải đi tới.
Sổm-si chợt mỉm cười, đưa tay cầm lưỡi trai của chiếc mũ vái anh đang đội, day day mấy cái:
- Anh em trong trung đội cũ gọi cậu là Đuông-chăn- lục-chọ (1)thì đúng quá.
-----
(1) Đạn Xuyên. Một loại đạn của súng ĐK.
Đuông-chăn nhìn nhanh Sổm-si:
- Chiến sĩ thế đấy, họ giỏi đặt những tên phụ lắm.
Hai người cùng cười vang. Sổm-si đeo ba-lô lên đường ngay chiều hôm đó.
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Sáu
Bữa ăn sáng đã xong. Các tiểu đội mang soong nồi lại trả anh nuôi chồng thành một chồng cao ngoài thềm bếp. Đuông-chăn ngó quanh rồi ra ngồi dưới nắng, vén tay áo lên. Vết thương rạch một vệt dài ngang cánh tay trên, đã mọc da non, ngứa ngấy làm anh khó chịu. Đuông-chăn đưa tay xoa nhẹ quanh vết xẹo, mắt ngó sang một vết sẹo khác đã lành bên cạnh. Ngoài lối mòn có tiếng loạt xoạt cành lá và một bóng người đi nhanh tới. Đuông-chăn ngẩng lên kéo cánh tay áo xuống, nhìn ra.
- Anh Đuông-chăn không ngủ trưa à?-Cậu liên lạc đại đội hỏi - Không? Có việc gì thế?
- Đại đội trưởng gọi anh.
Đuông-chăn đứng lên đi theo cậu liên lạc sang lán ban chỉ huy. Sổm-si đang hí húi giở nhanh một xáp giấy có nhiều nét chữ khác nhau. Thấy Đuông-chăn vào, anh ngấng lên:
- Vào đây- Đại đội trưởng Sổm-si quay sang nhìn Đuông-chăn một cái nhanh rồi lại chăm chú lật giở xấp giấy.
Đuông-chăn ngồi xuống giường, bên cạnh đại đội trưởng với một vẻ phân vân.
- Đuông-chăn giấu ban chỉ huy nhá-Sổm-si đột nhiên nói nhỏ, miệng tủm tỉm cười-Lập công thế này mà không nói.
Sổm-si chìa xấp giấy ra.
- Thư của bà con mình ở các bản gửi đến báo cáo về thành tích diệt phỉ của Đuông-chăn đây. Mười ba lá.
Đuông-chặn ngỏ tập thư, cười ngượng nghịu:
- Mình đi mua rau quả gặp nó thì đánh thôi, có gì mà phải báo cáo - Đuông-chăn nói lúng búng.
Sổm-si ngửa mặt cười vang, anh vừa vui với những điều viết trong tập thư vừa mến cái nói rụt rè ngộ nghĩnh của Đuông-chăn:
- Thôi, bây giờ Đuông-chăn giao nhiệm vụ anh nuôi cho đồng chí khác, sang làm tiểu đội trưởng.
Đuông-chăn giật mình, nhìn Sổm-si, cặp mắt mở to bỡ ngỡ, nói buột ra: - Mình chưa làm được nhiệm vụ đó đâu.
- Đuông-chăn bảo chưa làm được, nhưng ban chỉ huy bảo làm được thì sao?
Đuông-chăn cúi đầu, gương mặt đó bừng lên như đứng trưỏc con gái. - Lúc nào mình nhận nhiệm vụ mới!
- Ngay bây giờ.
Đuông-chăn quê Phong-xa-ly một tỉnh thuộc bắc Lào. Phong-xa-ly có nhiều rừng cây “mạy may” (1). Mạy may mọc bát ngát trên những ngọn đồi cao, mạy may có sức sống rất dai, gió bão mạy may ngả rạp, lặng gió nó lại tựa nhau đứng thẳng lên vươn ngọn cao ngang trời và trổ hoa như một rừng cờ.
-----
(1) Cây sậy.
Ngày Đuông-chăn đi bộ đội cũng là ngày có đơn vị này. Nhưng trong mấy chục tay súng thì lại vắng Đuông- chăn. Anh được giao làm công việc nuôi quân. Thế rồi cứ mỗi bận đơn vị đi đánh, anh em nhộn nhịp chuẩn bị súng đạn, bộc-phá, tháo luận phương án chiến đấu, thì Đuông-chăn lại lo rau quả ăn dọc đường, cơm nắm cho các chiến sĩ và nước cho các bi-đông. Làm mãi công việc đó, cũng đến lúc Đuông-chăn thấy “nóng ruột”. Ai lại đi bộ đội gần hai năm trời mà chưa lần nào được dự với anh em một trận cho hẳn hoi. Sau mỗi lần đơn vị lập công, anh em người ta vác súng với chiến lợi phầm về, ngồi quây lại trong lán anh nuôi kể ran trận vừa đánh cho nhau nghe, thì lông Đuông-chăn lại xáo lên suốt buổi. Rồi công việc lại điễn ra đều đãn như những ngày hòm trước, Đuông-chăn đeo sọt không đi mua thức ăn. Bản anh đến ở cách xa chỗ trú quân nửa buổi đường. Và anh thì chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng mình đã lập công đầu tiên ở đây.
Một toán phỉ sục vào bản quấy nhiễu giữa lúc Đuông- chăn đang chất rau bí vào sọt. Quen thói làm càn, mà lại chưa một lần nào gặp cản trở, lũ phỉ lông nhông giữa làng, trông ghẹo những cô gái đi gánh nước và ngồi dệt vái dưới sàn nhà, lùa bắt gà vịt, vặt hái những trái đu đủ chín, trút gạo đang giã dưới cối sang ba-lô, cưòi nói sằng sặc trước vẻ mặt thất đám của dân làng, và, lũ phỉ xộc tới chỗ Đuông-chăn. Đuông-chăn chèn nốt quả bí xanh vào sọt thì lũ phỉ đã đến ngõ. Anh ngồi thụp ngay sau sọt bí, thoắt một cái anh đã xối một băng dài vào cả đám lính phỉ đang dồn hàng dọc kẹp giữa hai hàng vòng cao đây gai.
Những trận đánh khác, khi thì chúng phục kích anh, khi thì anh chặn chúng, và cùng với du kích bản chống càn. Bị vết thương nào, anh lấy lá rịt, giấu biến.
Trận đánh gần đây nhất, đã để lại một vết thương mới nữa trên cánh tay anh, cũng là trận anh bị lũ phỉ phục kích lúc anh gánh đây hai sọt rau. Chúng chặn anh ở rừng, quẳng một quả lựu đạn xuống trước mặt anh. Đuông-chăn đặt phịch gánh rau chụp ngay lấy quả lựu đạn quẳng sang bên kia một gốc cây, lựu đạn nổ phủ khói mù đặc. Toán phỉ la hét hốt hoảng:
- Ố tai lẹo! Tai lẹo (1) Chúng chen nhau xô xuống.
-----
(1) Chết rồi, chết rồi
Đuông-chăn ngồi sau sọt rau cũng chẳng trông thấy lũ phỉ vì khói và bụi đất vẫn chưa tan. Nhưng tiếng hô hoán, tiếng chân đạp loạn xạ trên lá rừng thì anh nghe rõ quá. Anh cứ áng chừng mà vỗ thẳng mặt lũ phỉ một loạt đạn thật dài, chia rất đều như người chia bài tú-lơ-khơ. Và vết thương ấy cũng lại được giấu kỹ cùng với trận đánh kỳ lạ ấy.
Buổi chiều. Người chiến sĩ mới tới lán nuôi quân nhận nhiêm vụ. Đó là một chiến sĩ thấp lùn, đầu to có cái miệng rộng. Đuông-chăn khoát tay một vòng quanh lán bếp và đưa cho anh ta cuốn sổ, một tệp tiền, chỉ lượng gạo sắp cho vào nồi của bữa cơm chiều nay; tất cả có thế. Nhưng đến lúc sắp sửa
phải xa những dụng cụ bếp núc, lúc nào cũng nhọ nhem đó, anh bỗng thấy bịn rịn. Đuông-chăn khoCác súng ra đến thềm lán nuôi quân, chẳng hiểu còn quên thứ gì, anh đứng lại nhìn bếp lửa, nhìn anh nuôi quân mới, cười bâng khuâng.
Đuông-chăn sang nhận chức tiểu đội trưởng tiểu đội mười ba người. Sổm si dặn:
Toàn người mới cả, Đuông-chăn cùng anh em tập bắn cho giỏi - Sổm-si nói rồi móc túi lấy ra tập giấy khen đưa cho Đuông-chăn-Mong Đuông-chăn
có nhiều thành tích nữa.
Mười ba chiến sĩ nhập ngũ được năm ngày. Nhận súng xong mỗi người vác một khẩu ra bờ suối ngắm nghia, mân mê cái báng, tí toấy mẩu cô và soi nòng súng ra nắng xem bên trong có cái gì mà sáng choang lên vậy. Lúc nghe quản khỉ dặn phải giữ gìn súng cho tốt, không được để hỏng, thì có người xắn luôn cả cánh tay áo ra làm khăn lau. Mẩu giẻ lúc nào cũng đẫm dầu nhờn, khẩu súng lúc nào cũng bóng nhoáng. Đi ngủ để súng ngay cạnh mình. Sáng ra, mở mắt đã thấy anh nào cũng khẩu súng chéo qua lưng, lủng lẳng. Còn Đuông-chăn, cái tính mê súng ấy của anh em, làm anh nhớ đến những ngày đầu đi bộ đội.
Toàn đơn vị bước vào tập bắn và học các chiến thuật. Đuông-chăn lăn lưng tập với các chiến sĩ, tập mê mải. Suốt ngày lăn, lê, bò, chạy, chui, luồn ngoài bãi có ven ruộng. Mê đến nỗi trời đứng trưa mà chẳng ai muốn nghĩ về ăn cơm. Thế thì Đuông-chăn chiều anh em vậy. Anh xuống bếp lĩnh phần gạo của tiểu đội, một cái soong con. Tất nhiên là cậu anh nuôi rất hài lông về sáng kiến này, liền sẻ luôn cho tiểu đội vài muôi mỡ, một ít cân thịt trâu và cho hẳn một ôm to rau cải. Vốn đã quá quen với công việc bếp núc, Đuông-chăn kiêm luôn. Vừa uốn nắn từng động tác xạ kích, Đuông-chăn vừa tbối cơm. Bếp lửa đục ngay vào bờ ruộng cao, các chiến sĩ thì kê súng lên những mô đất, nằm úp sấp nheo mắt ngắm. Đuông-chăn đi suốt lượt kiểm tra, rồi lại chạy vụt về bếp đẩy củi. Một lần, Sổm-si ra “bãi tập” của tiểu đội ngó quanh không thấy Đuông-chăn đâu, hỏi một chiến sĩ:
- Tiểu đội trưởng không giúp anh em mình tập à?
Cậu chiến sĩ hất đầu chỉ lại phía bờ ruộng cao gần bìa rừng: - Anh Đuông-chăn đang ngồi kia!
Sổm-si ngó theo, thấy Đuông-chăn đang chổng mông bên bờ ruộng và
trên đầu một đụn khói lớn. Sổm-si đi tới đứng ngay đằng sau Đuông-chăn, bụng không vui:
- Sao, Đuông-chăn không bảo anh em cách tập bắn à?
Đuông-chăn ngồi ngay lại, ngước khuôn mặt đó ửng vì than hồng, sắc lửa: - Mình bảo nhiều đấy.
- Cố nhé. Sắp vào bắn đạn thật rồi -Sổm-si nói thong thả, và thực tình chưa tin hẳn lời Đuông-chăn.
Ngoài mặt ruộng, ba bốn chiến sĩ ngồi lên, chụm đầu vào nhau đánh bài. Sổm-si nhìn thấy. Nhưng anh không muốn làm họ cụt hứng, trước lúc ra về anh nói với Đuông-chăn, tâm trạng phân vân:
- Nhớ tập cho giỏi. Mình để tiểu đội Đuông-chăn bắn đạn thật đầu tiên đấy.
Đợt thì xạ kích bắt đầu vào buổi chiều. Các chiến sĩ tụ tập cả ngoài băi cỏ, chỉ còn chờ tiểu đội Đuông-chăn. Sổm-si thì đi đi lại lại, thỉnh thoảng đưa mắt nhóng về lối mòn ven rừng. Đột nhiên cả đơn vị bật cười vang, còn Sổm si thì vừa cười vừa liếc nhìn vẻ hỏm hỉnh. Một tốp người đang đi tới, người đi trước là Đuông- chăn. Đuông-chăn vác trên vai khẩu súng như người vác cây sào dài, báng súng thì ngoắc một cái soong, với mớ rau cải; cứ mỗi bước, cái soong lại đập vào cò súng một tiếng côông.
Đuông-chăn đi thẳng ra trước mặt anh em, gỡ cái soong với mớ rau cái vứt xuống đất, cùng mười ba người dàn hàng ngang nhìn ra tấm bia. Tấm bia hiện lên, gọi nhanh một điểm xạ ngắn của khẩu súng Đuông-chăn. Năm viên
phủ đây mặt bia, cho đến người thứ mười bốn thì tấm bia phải thay vì bảy mươi phát đạn đã xé tướp.
Đuông-chăn cúi nhặt chiếc soong, mớ rau cải theo tiểu đội vòng ra sau giữa tiếng vỗ tay ran, tiếng hoan hô, những chuỗi cười giòn giã. Anh em tản thưởng, vì kết quả tuyệt điệu của tiểu đội Đuông-chăn, và cười vì cái vẻ ngộ nghĩnh của anh. Còn Sổm-si thì bằng lòng ra mặt, anh thoáng nghĩ: “Mình sống với nó gần hai năm mà bây giờ mởi hiểu được nó”.
Rồi những trận chiến đấu kế tiếp, mùa khô nối mùa mưa; những bản mới mở rộng ra những vùng giái phóng mới. Tiểu đội của Đuông-chăn bao nhiêu đôi thay, nhiều chiến sĩ gia nhập cái gia đình nho nhỏ đó, cũng nhiều chiến sĩ đã nằm lại trên dọc đường chiến đấu, ngã xuống trong những đợt xung phong, hay thuyên chuyển sang một phân đội khác. Lực lượng vũ trang của nhân dân cách mạng Lào đã thêm nhiều đội ngũ. Các đồng chí trong ban chỉ huy phải chia nhau về những đơn vị mới.
Sổm-si bàn giao cho đại đội trưởng mới Đuông-chăn, những sổ sách, những vấn đề còn đang giái quyết, những phân đội cần được chú ý nhiều của người chỉ huy, phương hướng mai sau của đại đội, trận đánh sắp tới và cuối cùng là việc về phép cưới vợ của một số chiến sĩ.
- Chắc lần xa nàv ít có lúc gặp lại anh em mình đấy. Chà, nhớ lắm mất thôi - Sổm-si xòe bật lửa, rít thật lâu chậm điếu thuốc thứ hai, như để nén xúc động.
- Sáu năm rồi, anh Sổm-si nhỉ!
- Ừ! Sáu năm.
- Mình mới, Bun-phêng mới, cách mạng lại giao cho nhiều nhiệm vụ, rồi ra sao đây? - Đuông-chăn đầu nghiêng nghiêng, mắt mở to nhìn Sổm-si như muốn nói với Sổm- si: “Anh hiểu mình nhiều, coi mình có thể gánh vác được không...?”.
- Mình thấy thế này, Đuông-chăn có một cái rất tốt là cách đánh của Đuông-chăn táo bạo, chỉ huy lính hoạt, gần gũi chiến sĩ. Trong quân sự, ta gọi cách Đuông-chăn vẫn sử dựng đó là đánh tập kích. Hoàn cảnh chiến trường của mình cách này hợp...
Đuông-chăn nhìn ra chỗ khác, mắt nheo lại. Anh hiểu, đây là lần đầu tiên Sổm-si nói với anh. Giọng nói chất phCác, ngập ngừng có một cái gì đó vừa là của tình bạn gắn bó vừa là của tình chiến hữu mật thiết, gian khổ, vui buồn, sống chết có nhau. Bây giờ phải xa nhau vì mục đích lớn, thấy phải gọi ra cho thật đúng những điều cần thiết, để người kế tục mình chỉ huy một đơn vị đã biết bao gắn bó này, làm thật tốt công việc còn lại, công việc trước mắt, công việc ngày mai; và cuối cùng là con đường dài sẽ phải đi tới.
Sổm-si chợt mỉm cười, đưa tay cầm lưỡi trai của chiếc mũ vái anh đang đội, day day mấy cái:
- Anh em trong trung đội cũ gọi cậu là Đuông-chăn- lục-chọ (1)thì đúng quá.
-----
(1) Đạn Xuyên. Một loại đạn của súng ĐK.
Đuông-chăn nhìn nhanh Sổm-si:
- Chiến sĩ thế đấy, họ giỏi đặt những tên phụ lắm.
Hai người cùng cười vang. Sổm-si đeo ba-lô lên đường ngay chiều hôm đó.
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Bảy
Bữa ăn sáng đã xong. Các tiểu đội mang soong nồi lại trả anh nuôi chồng thành một chồng cao ngoài thềm bếp. Đuông-chăn ngó quanh rồi ra ngồi dưới nắng, vén tay áo lên. Vết thương rạch một vệt dài ngang cánh tay trên, đã mọc da non, ngứa ngấy làm anh khó chịu. Đuông-chăn đưa tay xoa nhẹ quanh vết xẹo, mắt ngó sang một vết sẹo khác đã lành bên cạnh. Ngoài lối mòn có tiếng loạt xoạt cành lá và một bóng người đi nhanh tới. Đuông-chăn ngẩng lên kéo cánh tay áo xuống, nhìn ra.
- Anh Đuông-chăn không ngủ trưa à?-Cậu liên lạc đại đội hỏi - Không? Có việc gì thế?
- Đại đội trưởng gọi anh.
Đuông-chăn đứng lên đi theo cậu liên lạc sang lán ban chỉ huy. Sổm-si đang hí húi giở nhanh một xáp giấy có nhiều nét chữ khác nhau. Thấy Đuông-chăn vào, anh ngấng lên:
- Vào đây- Đại đội trưởng Sổm-si quay sang nhìn Đuông-chăn một cái nhanh rồi lại chăm chú lật giở xấp giấy.
Đuông-chăn ngồi xuống giường, bên cạnh đại đội trưởng với một vẻ phân vân.
- Đuông-chăn giấu ban chỉ huy nhá-Sổm-si đột nhiên nói nhỏ, miệng tủm tỉm cười-Lập công thế này mà không nói.
Sổm-si chìa xấp giấy ra.
- Thư của bà con mình ở các bản gửi đến báo cáo về thành tích diệt phỉ của Đuông-chăn đây. Mười ba lá.
Đuông-chặn ngỏ tập thư, cười ngượng nghịu:
- Mình đi mua rau quả gặp nó thì đánh thôi, có gì mà phải báo cáo - Đuông-chăn nói lúng búng.
Sổm-si ngửa mặt cười vang, anh vừa vui với những điều viết trong tập thư vừa mến cái nói rụt rè ngộ nghĩnh của Đuông-chăn:
- Thôi, bây giờ Đuông-chăn giao nhiệm vụ anh nuôi cho đồng chí khác, sang làm tiểu đội trưởng.
Đuông-chăn giật mình, nhìn Sổm-si, cặp mắt mở to bỡ ngỡ, nói buột ra: - Mình chưa làm được nhiệm vụ đó đâu.
- Đuông-chăn bảo chưa làm được, nhưng ban chỉ huy bảo làm được thì sao?
Đuông-chăn cúi đầu, gương mặt đó bừng lên như đứng trưỏc con gái. - Lúc nào mình nhận nhiệm vụ mới!
- Ngay bây giờ.
Đuông-chăn quê Phong-xa-ly một tỉnh thuộc bắc Lào. Phong-xa-ly có nhiều rừng cây “mạy may” (1). Mạy may mọc bát ngát trên những ngọn đồi cao, mạy may có sức sống rất dai, gió bão mạy may ngả rạp, lặng gió nó lại tựa nhau đứng thẳng lên vươn ngọn cao ngang trời và trổ hoa như một rừng cờ.
-----
(1) Cây sậy.
Ngày Đuông-chăn đi bộ đội cũng là ngày có đơn vị này. Nhưng trong mấy chục tay súng thì lại vắng Đuông- chăn. Anh được giao làm công việc nuôi quân. Thế rồi cứ mỗi bận đơn vị đi đánh, anh em nhộn nhịp chuẩn bị súng đạn, bộc-phá, tháo luận phương án chiến đấu, thì Đuông-chăn lại lo rau quả ăn dọc đường, cơm nắm cho các chiến sĩ và nước cho các bi-đông. Làm mãi công việc đó, cũng đến lúc Đuông-chăn thấy “nóng ruột”. Ai lại đi bộ đội gần hai năm trời mà chưa lần nào được dự với anh em một trận cho hẳn hoi. Sau mỗi lần đơn vị lập công, anh em người ta vác súng với chiến lợi phầm về, ngồi quây lại trong lán anh nuôi kể ran trận vừa đánh cho nhau nghe, thì lông Đuông-chăn lại xáo lên suốt buổi. Rồi công việc lại điễn ra đều đãn như những ngày hòm trước, Đuông-chăn đeo sọt không đi mua thức ăn. Bản anh đến ở cách xa chỗ trú quân nửa buổi đường. Và anh thì chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng mình đã lập công đầu tiên ở đây.
Một toán phỉ sục vào bản quấy nhiễu giữa lúc Đuông- chăn đang chất rau bí vào sọt. Quen thói làm càn, mà lại chưa một lần nào gặp cản trở, lũ phỉ lông nhông giữa làng, trông ghẹo những cô gái đi gánh nước và ngồi dệt vái dưới sàn nhà, lùa bắt gà vịt, vặt hái những trái đu đủ chín, trút gạo đang giã dưới cối sang ba-lô, cưòi nói sằng sặc trước vẻ mặt thất đám của dân làng, và, lũ phỉ xộc tới chỗ Đuông-chăn. Đuông-chăn chèn nốt quả bí xanh vào sọt thì lũ phỉ đã đến ngõ. Anh ngồi thụp ngay sau sọt bí, thoắt một cái anh đã xối một băng dài vào cả đám lính phỉ đang dồn hàng dọc kẹp giữa hai hàng vòng cao đây gai.
Những trận đánh khác, khi thì chúng phục kích anh, khi thì anh chặn chúng, và cùng với du kích bản chống càn. Bị vết thương nào, anh lấy lá rịt, giấu biến.
Trận đánh gần đây nhất, đã để lại một vết thương mới nữa trên cánh tay anh, cũng là trận anh bị lũ phỉ phục kích lúc anh gánh đây hai sọt rau. Chúng chặn anh ở rừng, quẳng một quả lựu đạn xuống trước mặt anh. Đuông-chăn đặt phịch gánh rau chụp ngay lấy quả lựu đạn quẳng sang bên kia một gốc cây, lựu đạn nổ phủ khói mù đặc. Toán phỉ la hét hốt hoảng:
- Ố tai lẹo! Tai lẹo (1) Chúng chen nhau xô xuống.
-----
(1) Chết rồi, chết rồi
Đuông-chăn ngồi sau sọt rau cũng chẳng trông thấy lũ phỉ vì khói và bụi đất vẫn chưa tan. Nhưng tiếng hô hoán, tiếng chân đạp loạn xạ trên lá rừng thì anh nghe rõ quá. Anh cứ áng chừng mà vỗ thẳng mặt lũ phỉ một loạt đạn thật dài, chia rất đều như người chia bài tú-lơ-khơ. Và vết thương ấy cũng lại được giấu kỹ cùng với trận đánh kỳ lạ ấy.
Buổi chiều. Người chiến sĩ mới tới lán nuôi quân nhận nhiêm vụ. Đó là một chiến sĩ thấp lùn, đầu to có cái miệng rộng. Đuông-chăn khoát tay một vòng quanh lán bếp và đưa cho anh ta cuốn sổ, một tệp tiền, chỉ lượng gạo sắp cho vào nồi của bữa cơm chiều nay; tất cả có thế. Nhưng đến lúc sắp sửa
phải xa những dụng cụ bếp núc, lúc nào cũng nhọ nhem đó, anh bỗng thấy bịn rịn. Đuông-chăn khoCác súng ra đến thềm lán nuôi quân, chẳng hiểu còn quên thứ gì, anh đứng lại nhìn bếp lửa, nhìn anh nuôi quân mới, cười bâng khuâng.
Đuông-chăn sang nhận chức tiểu đội trưởng tiểu đội mười ba người. Sổm si dặn:
Toàn người mới cả, Đuông-chăn cùng anh em tập bắn cho giỏi - Sổm-si nói rồi móc túi lấy ra tập giấy khen đưa cho Đuông-chăn-Mong Đuông-chăn
có nhiều thành tích nữa.
Mười ba chiến sĩ nhập ngũ được năm ngày. Nhận súng xong mỗi người vác một khẩu ra bờ suối ngắm nghia, mân mê cái báng, tí toấy mẩu cô và soi nòng súng ra nắng xem bên trong có cái gì mà sáng choang lên vậy. Lúc nghe quản khỉ dặn phải giữ gìn súng cho tốt, không được để hỏng, thì có người xắn luôn cả cánh tay áo ra làm khăn lau. Mẩu giẻ lúc nào cũng đẫm dầu nhờn, khẩu súng lúc nào cũng bóng nhoáng. Đi ngủ để súng ngay cạnh mình. Sáng ra, mở mắt đã thấy anh nào cũng khẩu súng chéo qua lưng, lủng lẳng. Còn Đuông-chăn, cái tính mê súng ấy của anh em, làm anh nhớ đến những ngày đầu đi bộ đội.
Toàn đơn vị bước vào tập bắn và học các chiến thuật. Đuông-chăn lăn lưng tập với các chiến sĩ, tập mê mải. Suốt ngày lăn, lê, bò, chạy, chui, luồn ngoài bãi có ven ruộng. Mê đến nỗi trời đứng trưa mà chẳng ai muốn nghĩ về ăn cơm. Thế thì Đuông-chăn chiều anh em vậy. Anh xuống bếp lĩnh phần gạo của tiểu đội, một cái soong con. Tất nhiên là cậu anh nuôi rất hài lông về sáng kiến này, liền sẻ luôn cho tiểu đội vài muôi mỡ, một ít cân thịt trâu và cho hẳn một ôm to rau cải. Vốn đã quá quen với công việc bếp núc, Đuông-chăn kiêm luôn. Vừa uốn nắn từng động tác xạ kích, Đuông-chăn vừa tbối cơm. Bếp lửa đục ngay vào bờ ruộng cao, các chiến sĩ thì kê súng lên những mô đất, nằm úp sấp nheo mắt ngắm. Đuông-chăn đi suốt lượt kiểm tra, rồi lại chạy vụt về bếp đẩy củi. Một lần, Sổm-si ra “bãi tập” của tiểu đội ngó quanh không thấy Đuông-chăn đâu, hỏi một chiến sĩ:
- Tiểu đội trưởng không giúp anh em mình tập à?
Cậu chiến sĩ hất đầu chỉ lại phía bờ ruộng cao gần bìa rừng: - Anh Đuông-chăn đang ngồi kia!
Sổm-si ngó theo, thấy Đuông-chăn đang chổng mông bên bờ ruộng và
trên đầu một đụn khói lớn. Sổm-si đi tới đứng ngay đằng sau Đuông-chăn, bụng không vui:
- Sao, Đuông-chăn không bảo anh em cách tập bắn à?
Đuông-chăn ngồi ngay lại, ngước khuôn mặt đó ửng vì than hồng, sắc lửa: - Mình bảo nhiều đấy.
- Cố nhé. Sắp vào bắn đạn thật rồi -Sổm-si nói thong thả, và thực tình chưa tin hẳn lời Đuông-chăn.
Ngoài mặt ruộng, ba bốn chiến sĩ ngồi lên, chụm đầu vào nhau đánh bài. Sổm-si nhìn thấy. Nhưng anh không muốn làm họ cụt hứng, trước lúc ra về anh nói với Đuông-chăn, tâm trạng phân vân:
- Nhớ tập cho giỏi. Mình để tiểu đội Đuông-chăn bắn đạn thật đầu tiên đấy.
Đợt thì xạ kích bắt đầu vào buổi chiều. Các chiến sĩ tụ tập cả ngoài băi cỏ, chỉ còn chờ tiểu đội Đuông-chăn. Sổm-si thì đi đi lại lại, thỉnh thoảng đưa mắt nhóng về lối mòn ven rừng. Đột nhiên cả đơn vị bật cười vang, còn Sổm si thì vừa cười vừa liếc nhìn vẻ hỏm hỉnh. Một tốp người đang đi tới, người đi trước là Đuông- chăn. Đuông-chăn vác trên vai khẩu súng như người vác cây sào dài, báng súng thì ngoắc một cái soong, với mớ rau cải; cứ mỗi bước, cái soong lại đập vào cò súng một tiếng côông.
Đuông-chăn đi thẳng ra trước mặt anh em, gỡ cái soong với mớ rau cái vứt xuống đất, cùng mười ba người dàn hàng ngang nhìn ra tấm bia. Tấm bia hiện lên, gọi nhanh một điểm xạ ngắn của khẩu súng Đuông-chăn. Năm viên
phủ đây mặt bia, cho đến người thứ mười bốn thì tấm bia phải thay vì bảy mươi phát đạn đã xé tướp.
Đuông-chăn cúi nhặt chiếc soong, mớ rau cải theo tiểu đội vòng ra sau giữa tiếng vỗ tay ran, tiếng hoan hô, những chuỗi cười giòn giã. Anh em tản thưởng, vì kết quả tuyệt điệu của tiểu đội Đuông-chăn, và cười vì cái vẻ ngộ nghĩnh của anh. Còn Sổm-si thì bằng lòng ra mặt, anh thoáng nghĩ: “Mình sống với nó gần hai năm mà bây giờ mởi hiểu được nó”.
Rồi những trận chiến đấu kế tiếp, mùa khô nối mùa mưa; những bản mới mở rộng ra những vùng giái phóng mới. Tiểu đội của Đuông-chăn bao nhiêu đôi thay, nhiều chiến sĩ gia nhập cái gia đình nho nhỏ đó, cũng nhiều chiến sĩ đã nằm lại trên dọc đường chiến đấu, ngã xuống trong những đợt xung phong, hay thuyên chuyển sang một phân đội khác. Lực lượng vũ trang của nhân dân cách mạng Lào đã thêm nhiều đội ngũ. Các đồng chí trong ban chỉ huy phải chia nhau về những đơn vị mới.
Sổm-si bàn giao cho đại đội trưởng mới Đuông-chăn, những sổ sách, những vấn đề còn đang giái quyết, những phân đội cần được chú ý nhiều của người chỉ huy, phương hướng mai sau của đại đội, trận đánh sắp tới và cuối cùng là việc về phép cưới vợ của một số chiến sĩ.
- Chắc lần xa nàv ít có lúc gặp lại anh em mình đấy. Chà, nhớ lắm mất thôi - Sổm-si xòe bật lửa, rít thật lâu chậm điếu thuốc thứ hai, như để nén xúc động.
- Sáu năm rồi, anh Sổm-si nhỉ!
- Ừ! Sáu năm.
- Mình mới, Bun-phêng mới, cách mạng lại giao cho nhiều nhiệm vụ, rồi ra sao đây? - Đuông-chăn đầu nghiêng nghiêng, mắt mở to nhìn Sổm-si như muốn nói với Sổm- si: “Anh hiểu mình nhiều, coi mình có thể gánh vác được không...?”.
- Mình thấy thế này, Đuông-chăn có một cái rất tốt là cách đánh của Đuông-chăn táo bạo, chỉ huy lính hoạt, gần gũi chiến sĩ. Trong quân sự, ta gọi cách Đuông-chăn vẫn sử dựng đó là đánh tập kích. Hoàn cảnh chiến trường của mình cách này hợp...
Đuông-chăn nhìn ra chỗ khác, mắt nheo lại. Anh hiểu, đây là lần đầu tiên Sổm-si nói với anh. Giọng nói chất phCác, ngập ngừng có một cái gì đó vừa là của tình bạn gắn bó vừa là của tình chiến hữu mật thiết, gian khổ, vui buồn, sống chết có nhau. Bây giờ phải xa nhau vì mục đích lớn, thấy phải gọi ra cho thật đúng những điều cần thiết, để người kế tục mình chỉ huy một đơn vị đã biết bao gắn bó này, làm thật tốt công việc còn lại, công việc trước mắt, công việc ngày mai; và cuối cùng là con đường dài sẽ phải đi tới.
Sổm-si chợt mỉm cười, đưa tay cầm lưỡi trai của chiếc mũ vái anh đang đội, day day mấy cái:
- Anh em trong trung đội cũ gọi cậu là Đuông-chăn- lục-chọ (1)thì đúng quá.
-----
(1) Đạn Xuyên. Một loại đạn của súng ĐK.
Đuông-chăn nhìn nhanh Sổm-si:
- Chiến sĩ thế đấy, họ giỏi đặt những tên phụ lắm.
Hai người cùng cười vang. Sổm-si đeo ba-lô lên đường ngay chiều hôm đó.
ĐƯỜNG VỀ CÁNH ĐỒNG CHUM Bùi Bình Thi
www.dtv-ebook.com
Chương Tám
Cách doanh trại của tiểu đoàn chừng năm, sáu phút đi bộ có vạt ruộng bỏ lâu ngày không cày cấy. Ban chỉ huy tiểu đoàn mượn tạm cho bộ đội làm sân bóng chuyền, bãi tập thể dục buổi sáng và chơi thể thao, xà một, xà đôi, đá bóng. Bãi này cũng còn là nơi tụ họp vui chơi của bà con dân bản trong vùng những dịp kỷ niệm lớn, ngày tết hàng năm, ngày thành lập quân đội, ngày lễ độc lập.
Sáng nay, ngoài bãi trống trở nên náo nhiệt, trẻ em trong bản rủ nhau đến xem các anh bộ đội Lào dựng khán đài, cột cờ. Lá cờ, màu cờ chia ba, hai phần đỏ đều nhau viền dọc hai bên, giữa phần to hơn là màu xanh cửa rừng núi và ông trăng tròn ở chính giữa. Lá cờ thiêng liêng, Đuông-chăn giữ gìn từ ngày tiểu đoàn anh mới chỉ có một hai đại đội. Cờ bay thẳng căng trong gió núi thổi từ Cánh Đồng Chum tới. Khán đài, các chiến sĩ căng lên một tấm vải lớn treo khẩu hiệu và trên cao là ảnh chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước Hoàng thân Xu-pha-nu-vông và ảnh đồng chí Khay-son Phôm-vi-ham.
Dân bản đến đông dần, đứng cả đằng gần cuối bãi. Buổi lễ bắt đầu lúc trời vừa hửng nắng sương tan tụ đặc trong những thung lũng. Đến dự lễ có các vị sư đáng kính của chùa bản, mặc áo vàng; ông chủ tịch Mường, và ông trưởng bản, nơi có tiểu đoàn đóng quân; có các chiến sĩ Ít-xa-la, bây giờ người nào cũng tóc bạc phơ, con cháu đầy nhà, con trai con gái cũng đang chiến đấu ở khắp đất nước Lào. Gần với khán đài chỗ các đại biểu đứng chủ tọa một quãng, bên trái là nam nữ dân quân du kích vai đeo những khẩu súng, người nào không có súng thì chống trước mặt cây giáo dài, búp dáo nào cũng đỏ áy một chùm tua rua và bên phải, các đại đội của tiểu đoàn Đuông-chăn đứng
nghiêm trang thành khối vuông đều đặn. Trước hàng quân, những khẩu cối, ĐK cũng xếp một hàng thẳng, nòng cối nghiêng đều tăm tắp, nòng ĐK dài thượt nằm trên càng ba chân tóe ra.
Buổi lễ thành lập tiểu đoàn Đuông-chăn bắt đầu sau phút chào cờ. Bun phênh mặc một bộ quân phục mới, đội mũ lưỡi trai đen. Bên sườn ngay ngắn bao da đựng khẩu súng ngắn, bao da nhẵn bóng, Bun-phênh lau bằng dầu luyn. Thắt lưng to bản vòng khít lấy thân hình cân đối tráng kiện của anh. Bun-phênh đọc quyết định của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang Lào yêu nước về việc thành lập tiểu đoàn. Xong, anh hướng về phía các đại biểu đứng bên khán đài, mở đầu cho những điều mình định nói; anh quay xuống lặng im giây lát nhìn lướt qua hàng quân, qua hàng nam nữ du kích đứng, tiếng anh nhỏ lại. Như anh vẫn nói chuyện với anh em chiến sĩ:
- Đây là một ngày đáng ghi nhớ. Bao lâu nay, tôi với anh Đuông-chăn, anh Khăm-on và tất cả các đồng chí chúng ta mong ước. Quân đội của chúng ta sinh ra từ trong lòng nhân dân, nhân dân nuôi ta từng bữa, ta chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, quân đội ấy ngày nay đã lớn mạnh -Bun-phênh vừa nói vừa nén xúc động -Và cũng vì mục đích to lớn đó, mà mỗi chiến sĩ chúng ta không tiếc xương máu hy sinh, các đồng chí ạ. Thưa các bố mẹ, thưa bà con dân bản, từ ngày bộ đội về đóng ở đây, bộ đội được các bố mẹ dân bản luôn luôn chăm sóc. Mối tình quân dân gắn bó không gì so sánh được. Hôm nay là ngày thành lập tiểu đoàn, thay mặt đơn vị, tới xin hứa với các bố mẹ bà con dân bản, bộ đội Pa-xa-xôn tiểu đoàn 902 đã đánh là chiến thắng! - Tiếng vỗ tay ran ran, lẫn trong tiếng trống trầm khỏe. Bun phênh nói tiếp - Các đồng chí chiến sĩ thân yêu. Ngày mai chúng ta bước vào luyện tập, ban chỉ huy mong các đồng chí ra sức hoàn thành thật tốt đợt huấn luyện. Các đồng chí ta rõ cả chứ?
- Rõ rõ rõ!
Cuộc múa lăm vông sôi nổi ngay sau buổi lễ, làm sao lại có thể thiếu
được. Bãi như phẳng rộng ra, dân bản, các ông già bà già, trẻ con, nam nữ thanh niên, bộ đội quây thành một vòng. Theo phong tục, ông chủ tịch Mường, ông trưởng bản, cán bộ ban chỉ huy tiểu đoàn, mở đầu cho cuộc múa. Bun-phênh, Đuông-chăn và Khăm-on, đến trước ba cô gái, chắp hai tay mời ba cô. Bu-pha múa với Bun-phênh. Gương mặt anh đó bừng, anh nói nhỏ:
- Anh múa vụng lắm, Bu-pha dừng chê anh nhé.
Bu-pha bước ra, khẽ lắc đầu:
- Anh Bun-phênh...! - Bu-pha gương mặt rạng rỡ, bước uyên chuyển đôi chân cô như lướt đi, đôi cánh tay mềm mại, đôi bàn tay như hình những cánh hoa Sen đang nở xòe ra.
Nắng chảy tràn trên bãi rộng; màu áo hoa, váy hoa của các cô gái lấp lánh, như đàn bướm đang bay.
Tiếng trống thúc dòn dập. Bập bập bùng. Đồng ca các cô gái ngân lên: - Ơ Đuồng chăm pa...
*
* *
Nơi tiểu đoàn diễn tập, một ngọn núi quang cây cối; nương cũ. Dân bản bỏ lại cách mùa cho đất hồi. Đỉnh núi giả định là chốt giặc. Bộ đội phải nhổ chốt trong một tình huống gay go, máy bay giặc kiềm chế bắn phá dữ đội, chốt giặc có rào kẽm gai, hào vành khăn, công sự kiên cố. Trông coi toàn bộ việc diễn tập là Đuông-chăn. Kiểm tra kỹ các khoa mục các chiến thuật tiến công, là Khăm-on. Còn Bun-phênh lo đi sát các đại đội trong từng việc nhỏ.
Bộ đội rời doanh trại sống như đang trong hoàn cảnh chiến đấu; suốt
những ngày diễn tập cơm nắm, ở hầm. Tất cả sườn núi xung quanh và mỏm núi, được chia ra từng khu vực. Từ lưng chừng núi lên đỉnh núi là các đại đội bộ binh, suốt ngày đào hào tập vượt hào rộng, vượt rào kẽm gai, phá mìn. Từng tốp chia nhau luyện các chiến thuật xung phong, lập các mũi tiến quân, cắt địch ra từng mảng nhỏ, chặn diệt hỏa lực địch. Từ lưng chừng núi trở xuống, các đại đội pháo, ba bốn chiến sĩ quây quanh một khẩu cối, tập tác xạ. Quang cảnh thao trường ồn ã, tấp nập. Một lớp người dự thính chăm chỉ và nồng nhiệt, lúc nào cũng có mặt đầy đủ là đám trẻ các bản. Bọn trẻ đem luôn cả xôi theo những nắm xôi to bằng cái bát to bọc lá chuối đựng trong túi vải chàm; em nào cũng một túi như thế, đeo kè kè bên người, để lúc nào đói có cái ăn ngay, khỏi phải về. Dự đến gần cuối đợt lũ trẻ thuộc vanh vách tất cả những gì mà chúng thấy được. Đến cả cách bắn cối và ĐK các em cũng biết.
Đuông-chăn vẻ bằng lòng ra mặt, anh nói với Khăm-on:
- Này cậu ạ. Đối với các bạn nhỏ này bây giờ chỉ còn chuyện tuổi nữa thôi. Tụi nó rồi sẽ là những chiến sĩ giỏi.
- Chính mình vào bộ đội cũng bắt đầu y như thế này mà. Mỗi lần đi dự diễn tập về chỉ ám ức là mình còn nhóc quá. Không thì xin đi ngay.
Đợt tổng diễn tập của các đại đội bộ binh, với pháo nhộn nhịp suốt đêm qua. Đuông-chăn, tham mưu trưỏmg Khăm-on và Bun-phênh thức để kiểm tra theo dõi “trận đánh”. Trời sáng rõ thì một hồi kèn dài vang lên. Chiến sĩ toàn tiểu đoàn hò reo mừng kết quả của trận tập dượt, huấn luyện và dồn về ngồi giữa bãi trống trên mỏm núi dự tổng kết. Đuông-chăn bàn với Khăm-on,
Bun-phênh thống nhất nhau làm nhanh gọn, cho bộ đội nghĩ sớm. Gần cả tháng trời, không một ngày ngơi tay, từ sáng đến tối mịt rồi lại từ nửa đêm cho tới lúc trời rạng, quần quật trong một khối lượng to lớn của công việc rèn luyện; bây giờ trông cậu nào cũng lấm láp, nhem nhuốc, quần áo rách xả như lá chuối gặp gió to, đầu tóc bù lên mọc trùm cả xuống tai, mặt mày hốc hác. Nhưng đó là cái vẻ ngoài, chứ thực ra có thấm tháp gì với sức lực tráng kiện
của anh em. Cho dù đợt diễn tập có vất vả đến đâu thì đối với mỗi người, nó vẫn là một cuộc vui dài ngày, náo nhiệt. Cho dù trong khi tiến hành diễn tập, nào “bẻ rào”, nào “xung phong”, nào “các mũi cắt địch ra thọc vào trung tâm”, có làm một cách khẩn trương ráo riết đến đâu đi nữa, thì cũng vẫn có thể xen vào một chút vui đùa, điểm những trận cười thỏa thích về một cậu lính “quân xanh” nào đó bị “chết” rồi lại còn nhập vào cánh “quân đỏ” vừa xung phong vừa la hét toáng cả lên, hay một “thằng đồn trưởng” trong lúc các mũi quân “địch” đánh lớn, súng mồm nổ ầm ầm “căng thẳng” thì lại mò ra chỗ tbam mưu trưởng Khăm-on xin thuốc lá, vấn một điếu rõ to rồi chạy vụt về “đồn”, miệng lẩm bẩm “Chết rồi, súng Pa-thét nổ nhiều quá chúng mày ơi”
Bộ đội ào xuống con suối chảy dưới chân nùi. Tắm gìặt kín đặc cả một quãng nước dài, làm cho những có gái trong bản đi gánh nước phải men suối ngược tận lên trên và tủm tỉm cười, hai má đỏ nháng vì những câu đùa giỡn của con nhà lính, mà họ nghe lỏm được.
Đuông-chăn, Khăm-on và Bun-phênh ngồi lại trên mỏm núi. Cái rẫy cũ bỏ hoang này, ngày mới chọn làm thao trường còn rậm, cây con mọc tua tủa từ những gốc cây to chặt cụt, mặt đất phủ đây cỏ lác và những bụi cây lá hôi nở những chùm hoa cánh nhỏ lăn tăn màu tím xám. Bây giờ hiện ra cả một quang cảnh sơ xác tan hoang với những đường hào hố chiến đấu, công sự, đào dũi ngang dọc, nham nhở và bừa bãi những cành lá tết vòng ngụy trang.
Sau những ngày dài túi bụi với công việc diễn tập, họ muốn có lúc ngồi với nhau như thế này, nói với nhau về nhiều chuyện. Nhất là bây giờ họ không phải chỉ có hai người, họ lại có thêm Khăm-on nữa. Bộ ba ấy qua đợt diễn tập chiến thuật đã thấy ăn ý nhau. Khăm-on là một người sống giản dị, anh cũng xấp xỉ tuổi Đuông-chăn và Bun-phênh, ba mươi, Đuông-chăn ba mốt, còn Bun-phênh, hai chín. Anh quê ở Xa-ra-van, nơi Đuông- chăn chưa hề tới. Những tối đi ngủ, anh thường hay kê về quê anh, anh kể lan man, nhớ
đâu kê đấy. Anh kể về vùng quê anh có voi, một đơn vị có độ ba bốn con voi thì thật là dễ chịu. Pháo, đạn, gạo nó mang hộ đã đành, nó lại có một trí khôn hiếm thấy ở các con vật khác. Tỉ như đang đi trong rừng nó có thể biết phía trước rất xa có mùi là lạ từ áo quần của quân địch. Nó tự động tránh máy bay, còn biết được máy bay bay như thế nào thì cứ đi, bay ra sao thì nên tìm chỗ nấp. Anh kể về miền đất đai trù mật. Những cánh rừng bằng phẳng thuần từng loại cây, không pha tạp, rất dễ dàng nếu có mở ra đó một công trường khai thác, rồi ruộng vườn. Những dóng mía dài cả gang to mập như cổ chân; những bắp ngô lớn như quả đạn cối “sáu mốt”. Còn làng bản thì đông vui, bản đông nhất có tới ngót nghìn nóc nhà. Khăm-on đi bộ đội được bốn năm thì quân khu cử anh về học trường quân chính. Anh ra trường với bài tốt nghiệp điểm ưu, nguyện vọng về Cánh Đồng Chum. Một vùng mà từ lâu anh nghí đến, ý nghĩ đó như một cái gì hết sức tự nhiên, anh thấy cần phải làm, cần phải giáp mặt với kẻ thù trong những trận chiến đấu lớn hơn. Nhiều năm rồi, ở đây chưa có lúc nào tắt tiếng súng. Cuộc chiến đấu đã diễn ra dai dẳng khốc liệt trên cao nguyên miên man đồi cỏ gianh, những bãi đất bằng phẳng lẫn với những dặng núi cao trùng trùng.
Hôm anh đeo ba-lô đến đơn vị nhận công tác thì Đuông- chăn và Bun phênh đang bản với nhau ngày tiểu đoàn ra mắt và công việc diễn tập sắp tới. Trông thấy anh Đuông-chăn reo lên
Đây rồi, mình đang lúng túng như chú chồn sa hố ấy, đồng chí ạ!
Còn Bun-phênh mắt mở rộng rực lên, nhìn Khăm-on chăm chăm miệng mủm mỉm một khóe cười hết sức dễ mến, thân thiết. Khăm-on chui vào lán, Bun-phênh đứng lên đỡ ba-lô cho anh, chiếc ba-lô dúm dó chẳng hiểu đựng những gì mà vừa đặt xuống đã lép kẹp. Rồi Bun-phênh tự đi dọn cho bạn một chỗ nằm ở giữa hai người, Đuông-chăn đùa:
Tham mưu trưởng thì phải nằm giữa tiểu đoàn trưởng và chính trị viên. Chúng mình phải bảo vệ cậu cẩn thận, không các cô trong bản bắt đi nốt thì
"""