"
Đường Hầm Ôđetxa - Valentin Petrovich Kataev full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Hầm Ôđetxa - Valentin Petrovich Kataev full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐƯỜNG HẦM ÔĐETXA
Valentin Kataep (Trần Lê Huy, Thương Thục, Hoài Dân dịch) - Nhà xuất bản Văn học
- Năm xuất bản: 1968
Dịch theo bản dịch Pháp văn LES CATACOMBES D'ODESSA của Esfir Berstein và Olga Wormsber — (Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc-tư-khoa — Nhà xuất Editeurs Francaís Réunis — Paris)
- Nguồn sách: www.quansuvn.net
- Tạo ebook: Mountain King
Chân thành cám ơn bác Dr.No và inno14 tại diễn đàn tve 4u.org đã tận tình chỉ điểm để tôi có thể hoàn thành cuốn ebook này.
Đ
LỜI GIỚI THIỆU
ường hầm Ôđetxa của Valentin Kataep[1] cho ta một khái niệm về chiến tranh nhân dân ở Liên-xô và chứng minh qui luật chiến tranh nhân dân nhất định thắng lợi.
Ôđetxa là một thành phố cảng lớn của Liên-xô, nằm trên bờ Hắc-hải, có truyền thống lâu đời chống ngoại xâm, đã từng chứng kiến cuộc thất trận thảm hại của quân Thổ-nhĩ-kỳ, cũng như đã từng đập vỡ cuộc can thiệp của mười bốn nước đế quốc vào nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười.
Trong lòng đất dưới thành phố và miền phụ cận, có một hệ thống hầm, hào chằng chịt, có từ lâu đời, tạo nên cả một thành phố ngầm với hàng trăm ngàn đường, ngõ ngoắt ngoéo, được mệnh danh là những hầm mộ ở Ôđetxa. Hệ thống hầm ngầm ấy đã từng được sử dụng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đã từng là cơ sở bí mật của các chiến sĩ bônsêvich hồi Cách mạng tháng Mười. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, trước khi đội thiết giáp Đức tiến vào thành phố, những hầm mộ ấy lại trở thành những căn cứ vững chắc của các đội du kích, các đội công tác bí mật, các cơ quan kháng chiến nằm trong lòng địch để bám đất, bám dân.
Bọn phát-xít chiếm đóng có biết điều ấy không? Biết. Nhưng không phải bất kỳ lúc nào chúng cũng dám sục xuống cái mê hồn trận ấy. Những tên liều mạng đã phải trả bằng một giá rất đắt vì nhưng quả mìn tự động, vì những tràng đạn rất chính xác từ các ngóc ngách tối om bắn ra. Những vòm hầm đổ ụp xuống làm hàng đơn vị địch bị tan xác, thậm chí những đống xác chết
chồng chất của chính bọn chúng cũng tạo nên những vật chướng ngại vít hẳn đường vào. Bọn phát xít dùng đủ mọi cách, đại bác, bom, mìn, hơi độc, chẹn kín các cửa lên, xuống... Nhưng kết quả không hoàn toàn như ý đồ đen tối của chúng. Trong suốt thời kỳ phát-xít chiếm đóng, đội công tác bí mật của Secnôivanenkô, cũng như bao nhiêu đội khác, vẫn tồn tại và phát triển, vẫn phá hoại có kết quả trong lòng địch, vẫn đánh cho địch những đòn ác liệt làm cho chúng điên cuồng lồng lộn, ăn không ngon ngủ không yên. Họ vẫn nắm được nhân dân và gắn bó với nhân dân, vẫn đem được luồng sinh khí của Đảng đến thổi cao ngọn lửa căm thù, chiến đấu trong lòng nhân dân.
Những ai đã nhảy vào cuộc vật lộn gay go, dai dẳng trong lòng địch như vậy?
Đó là Secnôivanenkô, một cán bộ Đảng lãnh đạo trực tiếp đội công tác bí mật, người chỉ huy rất sáng suốt, kiên quyết, không khoan nhượng với địch, đồng thời yêu thương đồng đội một cách sâu sắc.
Đó là bác công nhân già Xiniskin Jêleznư, con người “bằng sắt”, tuy mắc bệnh lao phổi nhưng có một ý chí chiến đấu không gì lay chuyển nổi.
Đó là Kôletnisuc, một cán bộ ngoài Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ của Đảng, cùng vợ là Raitxa Lvôpna, một phụ nữ gốc Do-thái, muốn ở bên chồng để chia sẻ nỗi gian nguy.
Đó là bà Matriôna Têrenchiepna, vợ người chủ tịch một ngư trang tập thể ở vùng phụ cận thành phố, một phụ nữ rất kiên cường, sôi nổi.
Đó là đại úy Hồng quân Drujinin với những hoạt động táo bạo và tinh thần bất khuất đáng kính.
Đó là anh thanh niên dũng cảm và rất yêu đời Xviatôxlap.
Đó là Batsây trầm tĩnh, từ Mạc-tư-khoa xuống, ngẫu nhiên tham gia và tham gia kiên trì vào cuộc chiến đấu trong mấy năm ròng rã.
Đó là nhà tri thức Xêrêđôpxki khảng khái nhất định không chịu cộng tác với quân thù.
Đó là các em thiếu niên tiền phong Pêchya và Valentin. Các em đã góp phần không nhỏ vào việc tết vòng hoa chiến thắng cho thành phố Ôđetxa thân yêu.
Tính chất nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước của Liên-xô là như vậy. Nhiều người đã hy sinh. Những “hầm mộ“ từ bao đời đã trở thành hầm mộ thực sự của những người con bỏ mình vì sự nghiệp vinh quang bảo vệ đất nước xô-viết. Khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn giữ vững một niềm tin tưởng lạ lùng ở chiến thắng. Những ngày cuối cùng ở dưới hầm mộ, nhóm của Secnôivanenkô bị lạc trong cái mê hồn cung trăm ngàn ngõ ngách ấy, họ không tìm được lối lên mặt đất trong khi bi-đông của họ chỉ còn một giọt dầu cuối cùng. Họ đã kiệt sức, hấp hối trong cơn khát, nhưng vẫn tin là “không thể chết được“. Chúng ta hãy nghe Secnôivanenkô truyền niềm tin tưởng say sưa đó cho người bạn chiến đấu Batsây trong hoàn cảnh nguy nan: “Chúng ta sẽ tiêu diệt được bọn chúng, vì chúng ta làm một cuộc chiến tranh chính nghĩa, một cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh kiểu mới. Một cuộc chiến tranh vì tương lai của tất cả nhân loại cần lao, một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa cộng sản!“.
Cuộc chiến tranh nhân dân đã tôi luyện cho họ một nhân sinh quan cách mạng chân chính, một tình đoàn kết sâu sắc, một tinh thần dũng cảm đầy sáng tạo và một lòng tin tưởng vô bờ bến. Đó là những nền tảng không thể thiếu được của chiến thắng.
*
Valentin Kataep có một phong cách nghệ thuật độc đáo khi thể hiện chủ đề của mình. Trước hết là vấn đề nhân vật. Trong các tác phẩm của ông, các em thiếu niên thường đóng một vai trò quan trọng. Một nhà phê bình văn học viết: “Trong tâm hồn nhà văn Kataep, vẫn còn một thằng bé ẩn náu ở đâu đó!“ Đúng.
Lần này,“thằng bé“ đáng yêu đó lại xuất hiện và hoạt động dưới hình dạng của chú thiếu niên tiền phong Pêchya Batsây với nhiệm vụ mở đầu và kết thúc cuốn sách. Trong suốt câu chuyện chú bé không phải chỉ là người chứng kiến thời đại mà còn là một thủy thủ trên con tàu thời đại. Hành động tham gia chiến đấu đầu tiên của chú bé là nhận lá cờ đẫm máu của một chiến hạm Liên-xô từ tay anh thủy binh hấp hối Lavrôp. Tác giả đã miêu tả một cách lý thú sự diễn biến tâm lý của chú bé, từ trạng thái rụt rè sự hãi chuyển sang thái độ can đảm, hăng say. Tâm hồn lãng mạn cách mạng của tuổi thiếu niên được miêu tả rất đúng qua cử chỉ giơ tay tuyên thệ trước xác anh thủy thủ Hồng quân. Lá cờ thiêng liêng được cất giấu giữa đêm đoàn xe tăng phát-xít tiến vào chiếm đóng Ôđetxa. Từ đó Pêchya đi vào cuộc chiến đấu, cùng chia nỗi vui, buồn, gian khổ với các bạn đồng đội vào tuổi cha, chú. Cuốn truyện chấm dứt bằng cuộc “khải hoàn” của chú bé từ thành phố Ôđetxa giải phóng trở về Mạc-tư khoa, với tấm huân chương chiến công chói lòa trên ngực bộ quân phục nhỏ bé. Chú đã giữ đúng lời thề của thiếu niên tiền phong hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng khi tìm ra và trao lá cờ nói trên cho bộ tư lệnh Hồng quân.
Tác giả gắn vào hình tượng thiếu niên tất cả tấm lòng ưu ái và tin tưởng, quí trọng lớp măng non tương lai của đất nước. Trong truyện, chúng ta gặp lại nhiều nhân vật trong các tác phẩm trước của ông. Hai chú bé Pêchya và Gavrick trong Cánh buồm trắng tham gia sôi nổi vào làn sóng Cách mạng từ đầu thế kỷ đã trở nên bác Batsây rất trung thành và đồng chí Secnôivanenkô giàu nghị lực. Thế là lớp trước trưởng thành, lớp sau bước tiếp. Niềm hy vọng nồng nhiệt, thiết tha của thế hệ trước gửi lại thế hệ sau được gói ghém trong bức thư của Đrujinin trước giờ bị hành quyết, ghi trên bức tường của ngục tối gửi cho con gái yêu quí của mình. Sức sống của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc xô
viết thực là bất diệt.
Tuy cấu trúc và nội dung tác phẩm dành cho tuổi trẻ một địa vị quan trọng, nhưng tác phẩm của ông không phải chỉ viết riêng cho thiếu niên. Pêchya cũng như Valentin đều không phải
là nhân vật chính. Nhân vật chính là cả một tập thể chiến đấu. Tâm hồn, ý chí, cảm nghĩ của mỗi người được ngòi bút sắc sảo của Kataep phân tích tỉ mỉ, đúc thành những dạng điển hình.
Tác phẩm ông không phải chỉ có con người bàng bạc trong thời gian và không gian rộng rãi, ta luôn thấy hình ảnh thành phố quê hương thân yêu của ông, với đường phố, lâu đài, bến cảng, cầu tàu, cần trục, bờ dốc đứng, thảo nguyên... khi ẩn khi hiện, với tất cả buồn, vui, thương, giận. Không phải chỉ có con người xô-viết đánh giặc mà cả thiên nhiên xô-viết cũng vùng lên, tiêu diệt bọn cướp nước hung tàn.
Phong cách sáng sủa, cách bố cục chặt chẽ, chia chương ngắn gọn, khiến câu chuyện tuy dài mà vẫn dễ theo dõi, tiếp thu.
*
Đường hầm Ôđetxa đến với chúng ta giữa lúc cả nước ta đang quyết liệt tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước.
Những hầm ngầm chiến đấu nổi tiếng của thành phố Ôđetxa khiến chúng ta liên tưởng đến hệ thống địa đạo vô cùng vĩ đại của đồng bào miền Nam đánh giặc. Tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, địa lý mỗi nơi mỗi khác, phương thức chiến đấu cũng không hẳn giống nhau, nhưng có một khía cạnh có thể cung cấp cho chúng ta nhiều suy nghĩ bổ ích. Ấy là vấn đề con người trong chiến tranh nhân dân.
Con người được giác ngộ sâu sắc, được lãnh đạo tốt, được tổ chức tốt, nhất định sẽ làm nên những sự nghiệp thần kỳ.
Với ý nghĩ ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc Đường hầm Ôđetxa.
Hà-nội, 16-3-1967
LÊ HUY
TẬP I
1
Đ
ó là giấc mơ thầm kín từ lâu lắm của Pêchya: đi du lịch tay đôi một chuyến. Phải, đúng thế, đi tay đôi, không có mẹ, không có bọn con gái. Chỉ chú và bố chú thôi, không
ai khác nữa. Thế mới thật là tuyệt. Vào một ngày hè đẹp trời, hai con người can tràng và không lệ thuộc vào ai, một bố một con, sẽ khoác ba-lô, tay cầm gậy, giang hồ bốn phương một chuyến. Đi đường, họ chỉ đem theo những thứ tối cần thiết: cái nồi phải có để bắc lên đống lửa củi thổi bữa ăn xoàng, một túi con bột lúa mạch, một ít muối, đường, cái ấm, bao diêm, kim chỉ, có thể là hai bánh sô-cô-la, hay ba bốn bánh càng tốt, tất nhiên không phải vì sô-cô-la ngon, mà vì có giá trị ở chỗ có nhiều ca-lo. Thế là đủ. Hai nhà du lịch dày dạn, quen với một cuộc sống gian khổ, màn trời chiếu đất, đầy nguy hiểm và thiếu thốn, thì còn cần gì hơn thế nữa? Không cần chăn, không cần gối. Đêm ngủ đắp áo mưa của bố, đầu gối lên ba-lô. Thế đã là tốt lắm rồi, nhất là lại còn phải thay phiên nhau mà ngủ: một người ngủ, trong khi người kia đứng gác ở cửa hang. Tất nhiên phải đem theo khẩu súng và đồ lề câu cá. Về đồ câu thì dễ, nhưng về khoản vũ khí — và đây là điểm xuất phát của những sự bất đồng nghiêm trọng — thì bố chú bảo chỉ cần một con dao xếp thật tốt là đủ. Pêchya cứ nằng nặc đòi phải mang theo một khẩu súng trường, ít nhất cũng một khẩu súng lục.
— Không, — bố chú nói — súng chỉ tổ nặng vô ích. Không mang súng.
— Thì súng lục vậy — Pêchya nói.
— Súng lục để làm gì?
— Nhưng súng lục không có thì rồi ra sao? — Pêchya gần như kêu lên, giọng nói oang oang xúc động của chú làm cả nhà váng tai. — Chúng bò đến tận chỗ ta, và lúc đó ta sẽ giơ súng... pằng, pằng, pằng, pằng!
— Khoan đã, ông tướng, khoan đã..., — ông bố ngắt lời chú, và thấy Pêchya kêu ầm lên như thế, ông cau mày — Nhưng cái gì sẽ bò tới chỗ ta mới được chứ?
Câu hỏi ấy, mỗi năm Pêchya lại đáp lại một khác. Năm lên sáu, chú trả lời, nét mặt sầm xuống:
— Thú dữ!
Năm tám chín tuổi thì chú thốt lên:
— Địch!
Và lần nào cũng thế, bố chú cũng mỉm một nụ cười hoài nghi, trả lời:
— Con thử ngẫm mà xem, có địch nào hay thú dữ nào ở cái vùng Ôđetxa được? Không có bóng đáng một con thú dữ nào ở đó đâu.
— Được, — Pêchya nói — nhưng ngộ nhỡ nó xuất hiện thì sao?
— Nó sẽ không xuất hiện.
— Thế nhỡ nó cứ xuất hiện? — chú khăng khăng nhắc lại, say sưa nhấn vào tiếng “cứ”.
Những buổi chuyện trò kiêu như vậy diễn ra vào mùa đông, trong những buổi tối hiếm hoi có bố chú ở nhà. Cả nhà nghe mãi đã quen, và khi nó diễn ra vào lúc ngồi uống trà thì Jênva, em gái của Pêchya, bé hơn chú hai tuổi, lại khinh bỉ nhún vai, bắt chước
mẹ nói hệt như người lớn:
— Đấy, mấy ông tướng nhà ta lại sắp đi du lịch rồi đấy! — Và cái chót mũi đầy nốt tàn hương của nó nhăn lại với một vẻ bỉ báng.
— Im mồm đi, ranh! — Pêchya cau cảu nói, và tỳ hẳn ngực lên bàn, chú tiếp tục ghi bằng bút chì lên một tờ giấy xé ở cuốn vở số học bản kê những thứ cần phải mang đi: “Dao săn, 1, bàn chải răng, 2, ấm đun nước, 1...“.
Trong khi đó, bà mẹ hết nhìn bố lại nhìn con, rồi cắn môi mỉm một nụ cười chế giễu và buồn buồn.
Chỉ mới nghĩ đến chuyện con trai bà rồi ra có thể ngủ đêm ở một nơi nào đó cách xa bà hàng nghìn cây số, bên đống lửa, trên thảo nguyên, nằm dưới đất, đầu gối ba-lô, là bà đã thấy ruột gan rối bời. Vậy mà tất cả những cái đó chỉ là chuyện nói chơi và thằng con nhỏ của bà sẽ chẳng đi đâu cả. Tuy vậy, nhờ cái bản năng làm mẹ không bao giờ nhầm, trong thâm tâm bà biết những chuyện đó sẽ có ngày xảy ra. Và bà bồi hồi lo sợ, muốn khóc. Nhưng bà đã kìm lại được và chỉ cắn môi nửa khóc nửa cười, nhắc lại:
— Được, được, càng hay! Cứ đi đi, tôi đã có thể hình dung thấy trước bộ dạng của hai bố con khi trở về...
— Dễ mình tưởng hai bố con tôi nói đùa đấy hẳn, — bố chú làm ra vẻ rầu rầu, nói — này, mình cứ yên trí là hai bố con tôi không nói đùa đâu. Pêchya, có đúng thế không, con?
— Đúng thế đấy, không nói đùa đâu — Pêchya nói.
— Được, tốt lắm, — mẹ chú nói — Cứ đi đi! Ai giữ. Nhưng Pêchya ạ, con hãy nhớ rằng con mà đi thì sẽ không còn là con của mẹ nữa. Mẹ không cần gì có một đứa con bỏ mẹ đi lang thang.
— Không, con vẫn cứ là con của mẹ! — Pêchya cãi, đôi mày mỗi lúc một cau lại — Con sẽ đi du lịch với bố, những con vẫn là con mẹ.
— Dứt khoát rồi đấy! — Bố chú thốt lên — Hè này bố sẽ nghỉ phép và hai bố con ta sẽ đi về hướng Ôđetxa!
Mẹ chú mỉm cười, và cười ra tiếng nữa là khác, bà cố xoay tất cả mọi chuyện ra thành trò đùa.
Hè tới, và người ta quên bẵng chuyện du lịch đi. Pêchya buồn rười rượi, cùng với mẹ, bà và mấy đứa em gái về quê nghỉ mát, ở đó cứ chủ nhật là bố chú lại rời Mạc-tư-khoa về thăm. Nhưng, thực ra mà nói, vùng nông thôn gần Mạc-tư-khoa cũng tuyệt lắm. Trại hè thiếu nhi năm ngoái chú được đi cũng không phải xoàng. Nó cũng có đôi chút giống như cuộc du lịch mà Pêchya vẫn cùng với bố mơ ước một cách say sưa. Đám thiếu nhi cũng ngủ đêm trong lều, cũng quấy bánh đúc ngỏ trên lửa trại, cũng lấy lá thuốc, cũng trông sao tìm hướng và, một lần, còn bắt được cả một chú sóc nữa. Nhưng dầu sao, như thế vẫn chưa phải, chưa phải một tý nào là “cái ấy” cả...
Cuộc du lịch chỉ có trong tưởng tượng đã hoàn toàn xâm chiếm tâm hồn chú bé. Như tất cả những mơ ước dai dẳng kéo dài hết năm này sang năm khác, giấc mơ ấy đối với chú đã trở thành một cuộc sống thứ hai. Trong cuộc sống thứ hai này chỉ có hai người: Pêchya và bố chú. Hai người cứ cuốc bộ đi, đi mãi, ba-lô trên vai, con thì bé nhỏ, bố thì cao lớn, lực lưỡng khỏe mạnh, cả hai đều là những con người kiêu hãnh, đơn độc, sống giữa thiên nhiên tuyệt diệu! Đằng xa kia là biển cả, là thảo nguyên mà Pêchya chưa bao giờ được thực mắt trông thấy, nhưng đã từng bao lần nhìn thấy trong mơ. Trong các giấc mơ ấy, biển cả là một cái hồ rất xanh, không to lắm, hình dáng rất đặc biệt, với những bờ khúc khuỷu, màu xanh nhạt, với hai chữ “Hắc-hải” in thành hình cánh cung trên mặt nước bóng như đánh si của nó. Còn thảo nguyên là một bãi sa mạc màu vàng, lác đác có những bụi cỏ cứng đờ, những tảng núi đá xếp thành tầng thành lớp. Chú bé cùng với người cha cao lớn, nhanh nhẹn tiến bước, không sợ hãi, trên cái biển Hắc-hải xanh lè kia, trên những núi đá màu vàng kia có những con sư tử đang phủ phục nằm nghỉ ở trong, và gắn liền một cách thần diệu vào tất cả
những cái đó là chữ “Ôđetxa”.
Từ lâu lắm, Pêchya thấy đâu như từ ngày xửa ngày xưa, bố chú đã rời Ôđetxa về ở Mạc-tư-khoa. Ông là một dân Mạc-tư khoa “kỳ cựu”. Nhưng lòng ông vẫn ôm giấc mộng được về sống một thời gian ở quê nhà. Thường thường giấc mơ đó chỉ âm ỉ. Tuy vậy, đôi lúc nó bất thần dấy lên, bùng bùng mãnh liệt khác thường. Thông thường, chuyện đó xảy ra khi bác Kôletnisuc, một người bạn thuở nhỏ của bố, xuất hiện — lần nào cũng xuất hiện bất ngờ — đến ở chơi nhà vài ba hôm.
2
Kôletnisuc là kế toán trưởng chi nhánh Ôđetxa của công ty Glapsai[2]. Với bộ mặt nhăn nheo và đôi mi mắt hùm hụp, trông bác không còn trẻ trung gì nữa. Bộ quần áo mới bác vừa sắm tại cửa hàng may mặc chẳng lấy gì làm vừa lắm; một chiếc cà-vạt Ukren hẹp khổ, đôi giày “dôn“ mới tinh, một cái cặp to tướng đã tàng tàng mà Pêchya biết là chứa đầy những “thống kê“ bí hiểm và những bản báo cáo hàng năm, những cử chỉ đột ngột, ngập ngừng của bác, một chiếc áo mưa mới tinh nhưng loại xoàng làm cả nhà sực một mùi cao-su: tất cả những cái đó vẽ nên bức chân dung của Kôletnisuc, một đồng chí tỉnh nhỏ “đi công tác“. Bác ở Mạc-tư-khoa cả thảy chỉ năm ngày rồi lại trở về Ôđetxa. Nhưng cuộc ghé thăm của bác đã đem đến cho cuộc sống gia đình Batsây biết bao nhiêu lủng củng.
Do tính ngại phiền, bác nhất định không chịu nằm ngủ trên tấm đi-văng bố chú nhường cho bác. Thế là phải thu xếp cho bác một chỗ nằm ở ngay sàn cái buồng ăn chật chội. Vẫn do tính ngại phiền, bác từ chối không mượn chăn, và chỉ đắp áo mưa.
Bác lấy cái cặp làm gối. Bác tìm mọi cách tránh bữa ăn. Cả nhà cứ chờ. Còn vắng mặt bác thì gia đình còn chưa ăn. Mọi người cứ đi vơ vơ vẩn vẩn trong nhà, bụng đói meo. Còn bác thì, bất thình lình, hai giờ sau mới dẫn thân về, hai tay ngập ngừng xoa xoa vào nhau, và tuyên bố là đã ăn qua quýt cho xong ở trên cơ quan rồi, điều đó ai cũng thừa biết là bác nói dối.
Bác có tật hút thuốc lá đêm. Ấy thế là trong cái tịch mịch đêm khuya, nghe có tiếng giày vải rón rén. Trong bóng tối, có ai va vào đồ đạc, ghế đổ loảng xoảng, mặc dầu người đó đã hết sức thận trọng. Đó là bác Kôletnisuc ngại phiền, sợ làm rày gia đình Batsây vì khói thuốc lá của mình, đã mò mẫm vào nhà tắm làm một điếu. Rồi nghe thấy tiếng ho khe khẽ, cố nén của con người nghiện ngập, tiếng bàn chải đánh răng và hộp xà-phòng va rơi lạch cạch, và một mùi kỳ quặc của len cháy tỏa ra: số là ông khách hút một loại thuốc lá đặc biệt, mua tại một chi nhánh của cửa hàng ở ngoại ô Ôđetxa, thuốc ấy bác tự tay thái lấy và lấy làm hãnh diện lắm. Đôi khi Kôletnisuc mang từ Ôđetxa đến làm quà nào cá nướng, nào phó-mát cừu đựng trong một cái bình và độ chục quả cà tím mà bác âu yếm gọi là “thỉ xa cúc“ theo lối gọi của miền Nam. Bố chú sướng mê, bảo đó là món ăn ngon nhất trần đời, là thức ăn của thần tiên! Quả thực, món cà nướng thì cả nhà ai cũng thích. Không phải bàn gì nữa, loại cà này là loại hảo hạng. Thực ra, mang đi đường cà cũng hơi bị ôi và có mùi thum thủm. Nhưng khi đã bóc cái lằn da mỏng như vàng lá ra và để lộ làn thịt nướng mềm, thơm phức, thì ai cũng phải nhỏ nước miếng... Còn cái khoản phó-mát cừu và “thỉ xa cúc“, trừ bố ra không kể, không ai thú vị nó cả. Món phó-mát hơi sặc mùi thịt cừu, phải đem cất xuống bếp. Còn món “thỉ xa cúc“, nấu nướng như thế nào thì cũng trừ bố ra, không ai biết. Mẹ và bà người làm cứ mân mê cái loại rau bí hiểm kia với một nụ cười dè bỉu. Loại rau ấy, màu xanh tím, nói đúng hơn màu hoa cà sẫm, gần như đen sì, lạnh cứng như da thuộc.
— Lạy Chúa! Của gì mà quái gở thế này, — bà người làm nhăn mặt nói — Của này mà lại ăn được ư? Khéo không lại ngộ độc.
Bố chú thì cứ khăng khăng, bắt phải đem chỗ “thỉ xa cúc“ kia ra làm ngay món cà nghiền. Không phải cái thứ lèo nhèo vàng vàng, nhạt thếch bán ở các cửa hàng đồ hộp, mà là món cà nghiền chính cống, nghiền lấy ở nhà, thứ cà nghiền của Ôđetxa, xanh xanh, có gia thêm nhiều hành, dấm và tỏi, kinh khủng, ăn vào đến rộp cả môi. Để làm món cà nghiền ấy, nhất định không được luộc cà, không được bỏ vào nồi nấu, cũng không được rán bằng chảo, mà phải xếp cà lên than củi nướng. Nướng xong vỏ ngoài sẽ cháy thành than. Lúc ấy, người ta bóc vỏ, lấy cái ruột xanh màu lá cây, chín dở dang, nóng bỏng, với những hột trắng nho nhỏ ra băm vụn. Có điều là chớ có băm bằng dao hay nghiền bằng máy xay mà chết! Gặp sắt, ruột cà sẽ mất cái màu xanh tự nhiên, và món cà nghiền kia chỉ còn đáng đổ đi. Chỉ có độc một cách, băm cà bằng dao gỗ. Băm như thế xong là được món cà nghiền chính cống Ôđetxa. Còn gì dễ cho bằng! Nhưng mẹ và Tania cứ ương một cách vô lý: hai người nhún vai và đưa mắt giễu cợt nhìn nhau. “Được, — bố chú nói với một vẻ kiên quyết, — nếu thế thì Jorka và tôi, chúng tôi sẽ tự tay làm lấy món cà nghiền“.
Ai nấy đều kinh ngạc khi thấy bố và cái bác Kôletnisuc hay ngại phiền kia cởi phăng áo ngoài ra và bắt tay vào việc. Cái bếp Mạc-tư-khoa nhỏ bé với cái lò hơi đốt của nó rõ ràng không thích hợp với việc làm món cà nghiền. Những quả “thỉ xa cúc” không chịu cháy đen lại. Thế là bố thử liều một chuyến. Ông dứt khoát nhấc mấy cái xoong trong đó món thức ăn tầm thường của Mạc-tư-khoa đang sôi lục sục sang một bên, và đặt cà trực tiếp lên bếp hơi. Cà không chịu cháy thành than, chỉ phủ kín một lớp muội dày. Rốt cuộc chúng vỡ bục và chảy nước ra. Rõ ràng là sẽ không làm gì có món cà nghiền.
Các bà nhịn cười không được, nhưng hai ông vẫn không chịu thua. Các ông đòi một con dao gỗ. Tất nhiên là chẳng có rồi. Họ bảo cho xin một cái thước kẻ. Thước kẻ không có, Pêchya thấy thế, đi lấy một cái ê-ke ngập ngừng đưa ra: hai ông bắt đầu đánh vật với “thỉ xa cúc” chín dở, bằng cái ê-ke nhọ nhem những vết mực láng biếc. Mấy quả cà cứng cưỡng lại, không chịu vụn ra. Bố
và bác Kôletnisuc đứng phân vân một lát. Rồi bố đành phải thỏa hiệp trên một mức độ nhất định: ông đòi “xoay” cho ông một cái máy xay thịt. Mặc dầu máy xay thịt bằng sắt và nhất định sẽ gây phản ứng hóa học tai hại, bố vẫn cứ đòi. Vừa ngoảnh mặt đi, bố vừa nói là có một số các bà nội trợ Ôđetxa, trong những trường hợp đặc biệt, vẫn dùng máy nghiền thịt để nghiền “thỉ xa cúc”. Pêchya trông thấy một đống nâu nâu kỳ quặc tuôn qua những lỗ thông máy xay, thành từng dây dài như sợi bún và rơi xuống đĩa. Bố và bác Kôletnisuc cầm thìa nếm. Rành rành là hai ông phải cố để khỏi nhăn nhó: trên nét mặt hoang mang của mình, hai ông còn cố tỏ ra mê ly nữa.
— Gớm này thôi đi! - Sao lại có thể liều lĩnh mà đi nuốt cái của nợ ấy vào bụng thế được! — mẹ chú nói.
Pêchya buồn cười lắm, nhưng đồng thời chú cũng khó chịu thấy bố và bác Kôletnisuc làm ra vẻ ngon lành ăn cái đống đen đen sượng sượng kia (cái phản ứng hóa học tai hại kia đã xảy ra rồi!) mà chỉ nhìn thôi chú cũng đã thấy lợm giọng.
Vả lại, bố và bác Kôletnisuc cũng không ngoan cố lâu, hai ông không phải thiếu đầu óc hóm hỉnh.
— Thành công thế này mới là thành công chứ! — bố mặc lại áo ngoài vào, nói.
Rồi hai người bắt đầu cười. Bố có cái cười từng tràng giòn tan. Bác Kôletnisuc thì cười hì hì bẽn lẽn, vừa cười vừa ho. Nhưng Pêchya thấy thương hại hai ông. Chú cảm thấy đây không phải một thất bại bình thường về tài nấu nướng, mà về một phương diện nào đó, là sự sụp đổ của một thế giới quan. Chỉ có điều, chú không thể diễn đạt được nó ra bằng lời lẽ, bởi vì chú chưa biết thế giới quan là thế nào. Cả nhà thở phào nhẹ nhõm khi thấy món cà nghiền trứ danh bị đem đổ vào thùng rác. Chỗ “thỉ xa cúc” còn lại cứ lay lắt mãi trên bàn làm việc của bố, phản chiếu rất rõ cái hình cửa sổ buồng làm việc. Rồi lũ em gái chú lấy để lên xe búp-bê kéo chơi. Thế là chấm hết những thí nghiệm về nấu nướng của bố và bác Kôletnisuc.
Nhưng tai hại nhất không phải là cái ấy. Chuyện này, mẹ chú sẵn lòng bỏ qua, không trách. Nó không đe dọa gì cảnh yên vui của gia đình cả. Cái tai hại nhất thường thường bắt đầu xảy ra buổi chiều, vào giờ uống trà, khi bố và bác Kôletnisuc ngồi gợi lại những kỷ niệm. Pêchya buồn ngủ rũ: mẹ bắt chú đi nằm nhưng chú nhất định không chịu rời khỏi buồng ăn. Chú cứ ngồi ỳ ra đấy mà ngủ, má áp xuống miếng vải sơn dinh dính, tiếng thốt, tiếng cười ồn ào của bố và bác Kôletnisuc như ru chú. Hai người ngắt lời nhau luôn và hút liên hồi kỳ trận: buông đặc những khói thuốc lá; mẹ chú ngán ngẩm luôn tay mở cửa thông hơi, tìm cách cho có gió lùa. Bà giục bác Kôletnisuc và bố chú đi ngủ. Nhưng hai ông không rứt ra nổi khỏi những kỷ niệm xưa và cứ nói, nói mãi...
Trong giấc ngủ, Pêchya loáng thoáng nghe thấy tiếng hai ông. — Anh là một kẻ hoài nghi chủ nghĩa — bác Kôletnisuc nói.
— Tôi mà hoài nghi chủ nghĩa ư? — bố chú kêu lên — Ừ thì tôi thích thế đấy!
— Phải, đúng thế, hoài nghi. Tôi nhắc lại là một lão hoài nghi chủ nghĩa đã chán chường.
— Còn anh thì lúc nào cũng nhiệt tình.
— Tôi rất hãnh diện về điều đó. Tôi muốn biết anh nghĩ gì khi được nhìn những công trình xây dựng hải cảng của chúng tôi.
— Nó làm sao?
— Phải trông tận mắt mới thấy được!
— Thế cơ?
— Nhất định rồi. Đẹp không tả được! Nhưng những công trình hải cảng có nghĩa lý gì so với nhà máy Xtalin? Một trong những công trình sản xuất máy bơm và máy nén tiên tiến nhất Liên-bang xô-viết! Ghê lắm. Tóm lại là một thành phố tuyệt diệu! Trung tâm công nghiệp lớn nhất, hòn ngọc của Hắc-hải! Anh tưởng đùa đấy hẳn?
— Xin chịu anh rồi! — bố vui vẻ kêu lên.
— Đã hết đâu. Còn cái sân vận động mới nữa. Anh có mường tượng được cái sân vận động ấy nó thế nào không? Không, anh không thể tưởng tượng được đâu.
— Thôi anh đừng có tuyên truyền tôi!
— Tuyên truyền anh hẳn đi chứ! Một sân vận động hai vạn người ngồi ở ngay bờ bể! Đây là bể, đây là sân vận động. Anh hình dung thấy chưa, hả?
— Xin chịu anh, chịu anh rồi! — bố cười, kêu lên.
— Chưa hết! — bác Kôletnisuc ngắt lời.
Và vừa ngủ, Pêchya vừa nghe thấy: “Nhà máy sửa chữa tàu bể”,”Nhà máy gai“,”Nhà máy công cụ”,”Viện sư phạm“,“Viện nghiên cứu đồ hộp“,“Filatôp“,“Lixenkô”...
Câu chuyện thông thường kết thúc bằng việc bố chú vừa cười vang vừa nhảy chồm lên một cái và, bất ngờ vỗ vào vai chú bé đang ngủ, kêu lên:
— Được rồi! Thế nào, Pêchya, con có muốn đi du lịch không?
Pêchya khó nhọc mở mắt ra và thì thầm bằng cái giọng ngái ngủ, lè nhè và mơ màng:
— Có, con thích lắm!
Một lúc sau, chú tỉnh lại, thoáng nhìn thấy cái không khí gian phòng xanh lè khói thuốc, thấy bộ mặt lo âu của mẹ, rồi lại nhẹ nhàng thiếp đi.
Trong hai ba ngày tiếp theo hôm bác Kôletnisuc ra đi, bố ở trong một trạng thái phấn khởi hơn hớn. Pêchya và ông sửa soạn đi du lịch. Rồi sau đó, tất cả tự nó hình như lại rơi vào quên lãng.
Nhưng một lần, vào mùa xuân, việc mà mẹ chú rất sợ đã xảy ra. Bác Kôletnisuc đến và, sau khi bác đi, bố chú quyết định dứt khoát hai bố con sẽ lên đường. Ông ra cửa hàng bán dụng cụ thể
thao “Đynamô“ mua ba-lô và một cái phích nước.
Mọi việc rất ăn khớp với nhau: vừa vặn lúc đó, bố chú có việc phải dàn xếp ở Ôđetxa. Một việc không đâu, nhưng cứ kéo lằng nhằng, và dầu sao cũng phải xuống đấy giải quyết. Thế là vừa được việc vừa được đi chơi. Trong lòng Pêchya lâng lâng phấn khởi. Bà mẹ bực bõ cảm thấy thằng con nhỏ của bà không thuộc về bà nữa. Từ nay, mười phần nó thuộc về bố nó cả mười.
3
Đêm trước buổi ra đi, — họ phải đáp máy bay, — Pêchya hầu như không ngủ. Lát chú lại dậy và nhìn ra cửa sổ xem đã sáng chưa. Hồi ấy đang vào đầu tháng sáu. Mẹ, bọn em gái và bà chú đã về nông thôn. Còn mình bố và Pêchya nằm ngủ trong căn nhà vắng vẻ, bụi bậm và tĩnh mịch như lệ thường vào mùa hè. Trong buồng tắm, nước ở hoa sen rơi tí tách giọt một; trong bếp, nước cũng chảy, nhưng đường hoàng, đĩnh đạc hơn và cái máy ướp lạnh thỉnh thoảng lại lách cách. Bên cửa, cái công-tơ điện kêu xè xè. Tất cả những tiếng động kín đáo cứ như rót vào tai ấy của những căn nhà thành phố chứng tỏ trong nhà còn tối om. Nhưng ở ngoài, bên trên những mái nhà màu hồng gỉ sắt của khu phố Damôxvôretsiê đã sáng trắng. Những cây dương liễu vàng ánh nom rất yêu kiều, những đám mây nhỏ mịn màng sáng rực bay trên không trung, bầu trời phía sau tháp chuông cổ kính hình kim tự tháp tràn ngập ánh nước màu xanh lá cây của buổi rạng đông, thơm ngát, tưởng như có ngâm một cành phúc bồn. Bên dưới, trên hè đường, trong cảnh thanh vắng, tiếng chân hối hả của người qua đường sớm vang lên nghe càng rộn rã.
Bố ngủ say, trùm chăn kín mít. Cậu con trai thất vọng nằm nghe tiếng ngáy bình thản, nhịp nhàng của bố, nhưng không dám gọi bố dậy: vì tối hôm qua, lúc đi ngủ, bố chú đã nghiêm khắc ra lệnh không được mới tờ mờ sáng đã mò dậy và không được đánh thức ông.
— Bố biết tính con, thế nào con cũng không ngủ thẳng giấc, rồi lại quấy bố, không cho bố ngủ. Cứ nho nhoe đánh thức bố rồi mà xem! Bố sẽ lên máy bay và để con ở lại đây. Nhớ lấy đấy!
— Vâng ạ.
— “Vâng ạ”... Cứ liệu cái thần hồn!
— Thế nhỡ ta ngủ quên mất thì sao?
— Ngủ quên thế nào được!
— Được, thế ngộ nhỡ tự nhiên ta cứ ngủ quên?
— Đã bảo là không ngủ quên mà lại! Bốn rưỡi sẽ dậy. Điện thoại sẽ gọi. Bố đã nhờ người ta rồi.
— Được rồi, thế nhỡ điện thoại hỏng thì sao?
— Điện thoại không thể hỏng được.
— Vâng, nhưng ngộ nó cứ hỏng.
— Con cứ quấy rầy bố mãi! Lên giường, ngủ đi. Mọi việc đâu sẽ vào đó, nhưng nếu con cứ quấy rầy, bố sẽ không cho con đi theo nữa, thế là xong.
Chú bé còn biết làm sao nữa? Chú đã đem ba-lô lèn chặt để lên cái ghế bên đầu giường. Chú đã kiểm tra lại cái phích lúc chiều đổ đầy nước chè đường nóng. Chú đã đi nằm và cố hết sức ngủ. Nhưng tất nhiên không tài nào ngủ được! Chú đã lò mò dậy, lặng lẽ mặc vào người bộ quần áo mới tinh, may cốt để đi du lịch, áo vét-tông mới, quần cộc thể thao, xỏ bít-tất, xỏ đôi giày mới đế to, và rón rén đi vào bếp để ngó qua cửa sổ nhìn về phía điện Kremlanh.
Điện Kremlanh đang ngủ, chìm trong bóng đêm mờ sương
lam, và trên loạt tháp đẹp, những ngôi sao đỏ nhỏ lấp lánh, le lói, nhưng trông rất rõ. Ở nhiều cửa sổ của Cung lớn, thấy rõ ánh sáng vàng rực như gấm và bóng chiếc chụp xanh của cây đèn bàn.
Đồng hồ tháp Xpaxkaia điểm mười lăm phút, ngân nga trong trẻo khác thường. Tiếng chuông thanh trong tựa pha-lê, từng tiếng một theo nhau cuồn cuộn, như lần xuống một chiếc cầu thang không gian vô hình, rồi lan ra xa và ngưng tắt. Nhưng không trung trên điện Kremlanh còn ngân vang một hồi lâu. Và bỗng dưng Pêchya cảm thấy trong lòng nao nao. Lần đầu tiên, chú vừa mới hiểu được rõ ràng, sâu sắc, là chú sắp bay khỏi Mạc tư-khoa, khỏi thành phố quê hương của chú. Nghĩ đến đấy, chú lại thấy nóng ruột: chà, sao cho mau mau hơn lên! Cố bước cho giày mới khỏi kêu cót két, cho khỏi vấp, chú đi ra phía cửa, nhấc máy nói và quay hỏi giờ.
— Ba giờ bốn mươi bảy phút, — một giọng đàn ông lạnh lùng, từ tốn đáp lại.
Pêchya đợi một lát, rồi nín thở, lại quay hỏi giờ.
— Ba giờ năm mươi hai phút, — cái giọng lạnh lùng kia thản nhiên trả lời.
Pêchya lắng tai. Bố chú vẫn ngủ. Vươn vai ngáp, chú lê về giường, để ngả lưng một lát, và định khi nào tiếng chuông điện thoại như xé tai, thình lình cất lên, vang cả căn nhà vắng tanh, chú mới tỉnh dậy.
Nhìn lên tường, phía trên giường, đã thấy khung cửa sổ rực màu đỏ mềm mại của mặt trời sớm tháng sáu đang nhìn vào phòng, qua những mái nhà khu phố Damoxvôretsiê. Bố chú, tóc rối bù, đang đứng bên giường chú, hấp tấp thắt ca-vát và vui vẻ kêu lên:
— Thế nào, nhà du lịch! Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian! Rửa mặt đi, sửa soạn mau lên!
Và trong mười phút, hai bố con đã uống xong ấm nước chè
đun trên bếp hơi, tắt hơi đốt, khóa buồng lại, rồi giao chìa cho bà thường trực ở cầu thang máy, Pêchya và bố đã bước ra tới ngoài đường, ba-lô trên vai. Họ đợi chiếc xe khách đến đưa họ ra sân bay. Chú bé sốt ruột nhìn đăm đăm về cuối phố vắng tanh, trong sạch của buổi mai, và cũng được ánh mặt trời sớm đỏ rực chiếu suốt dọc phố, là là mặt đất. Ngộ nhỡ người ta quên, ngộ nhỡ người ta không đến đưa mình đi thì sao? Nói thực ra, có đôi lúc, chú thực lòng mong xe đừng đến nữa. Chú đang khắc khoải với cái cảm giác lo ngại, mơ hồ, rất quen thuộc của con người lần đầu tiên phải xa nhà. Một mặt, người ta muốn mau mau ra đi, rứt khỏi cuộc sống quen thuộc, cắt đứt với mọi thứ; mặt khác, cuộc du lịch đang chờ đợi anh làm cho anh sờ sợ, anh thấy nó vô ích quá, thiếu tự nhiên quá. Tại sao lại ra đi, dù là đi đâu, khi ở nhà mọi thứ đều thật yên ấm, thân mật?
Cả đời Pêchya chưa bao giờ đi máy bay. Nói thực ra, chú thấy hơi sợ. Nhưng chú không bao giờ thú nhận điều đó, ngay cả thú nhận với chính mình.
— Sao không thấy người ta đến, hả bố? — Pêchya làm bộ sốt ruột, nói. — Con cam đoan chúng ta đến bị muộn mất.
— Không! Không muộn đâu! — bố chú trả lời với một nụ cười tươi tỉnh, dễ dãi.
Ông thừa hiểu cái gì đang diễn ra trong tâm hồn đứa con trai, nhưng cứ thích trêu nó một tý.
— Này cậu cả, bố thấy hình như con hơi... sợ, có phải không? — Con thề danh dự là không! — chú bé sôi nổi thốt lên.
Mặt mũi chú rửa nước lạnh rạng rỡ như một bông hồng. Quả thật lúc này, chú cảm thấy hình như chẳng sợ gì cả. Có cái gì đặc biệt có thể làm chú sợ được? Thiên hạ đều đi tàu bay. Vậy thì chú, chú cũng sẽ đi. Nhưng đến khi bất thình lình, ở đầu phố xuất hiện một chiếc ô-tô khách sơn màu xanh lam đặc biệt, với hai chiếc đèn bí hiểm, màu xanh hồng, như ở nhà những người mắc bệnh phổi, thì hai bàn tay chú bé giá ngắt đi. Thin thít như một người chịu tội, chú theo bố chui vào trong xe. Vài hành
khách ngủ gà ngủ vịt mang cặp da và va-li nhỏ, thờ ơ nhìn Pêchya đang phân vân quay ngang quay ngửa, va ba-lô vào ghế. Pêchya cảm thấy vẻ thờ ơ ấy như một điều gì hết sức gở.
Để khỏi lộ nỗi lo âu của mình, Pêchya đi ra đầu xe, ngồi xuống gần người tài xế, dán mặt vào tấm kính đằng trước, làm ra bộ chăm chú. Chiếc xe khách lăn bánh chạy và những đường phố đẹp đẽ hồng ánh nắng mai chạy ngược lại phía chú bé, như trong giấc mộng. Trên chiếc cầu mới rộng rãi, đèn điện còn sáng và lơ lửng thành hai đường song song, gù gù như những chiếc đòn gánh. Pêchya chưa bao giờ được thấy Mạc-tư-khoa buồn và đẹp như trong cái giờ thanh bình, mát rượi và vắng vẻ của một buổi sớm tinh sương tháng sáu này. Mạc-tư-khoa đi ngược lại phía chú, quen thuộc quá, gần gũi và thân mật quá... Chiếc xe khách qua trước cửa nhà thờ Baxin Người diễm phúc; bao giờ nó cũng gợi cho Pêchya hình ảnh một cái mâm khổng lồ chạm trổ trong Nghìn lẻ một đêm chất đầy hoa quả tiên: dưa, nho, lê, dứa, thanh yên, cao lên đến tận mây xanh. Rồi Baxin Người diễm phúc biến đi như một ký ức. Trên Hồng trường rộng lớn, vẫn còn những vạch hồng và trắng của cuộc diễu hành ngày Mồng một tháng Năm.
Một lần bố đã dẫn Pêchya đi dự cuộc diễu hành ấy. Và mãi đến bây giờ, trước mắt chú bé, xe tăng vẫn diễu qua như những quân cờ trên bàn cờ đam, cho đến bây giờ, trước mắt chú, bầu trời vẫn vươn thẳng, dày đặc máy bay đen, từng tốp ba chiếc, bảy chiếc, chín chiếc, bay cao mãi, thẳng giữa hai cái tháp của Viện bảo tàng lịch sử...
Tháp Xpaxkaia với chiếc đồng hồ khổng lồ viền vàng, bức tường hồng, bờ răng cưa của điện Kremlanh và những cây tùng xanh mọc trước tường, những dẫy lan can trắng của các khán đài bằng đá, lăng Lênin, tất cả, xe đã chạy vượt qua.
Hôm nay xung quanh lăng vắng ngắt và, phía sau bãi cỏ xanh rờn và luống đất ẩm, hai học sinh trường Võ Bị đang đứng gác trước cái cửa đồng đen để ngỏ. Bên trong cánh cửa ẩy, rung rinh những màn tối âm u và bí hiểm... Pêchya đã đến thăm lăng
nhiều lần. Lần đầu, bố đã nắm lấy khuỷu tay Pêchya, nhấc bổng chú lên tới tận cái lan can đá. Pêchya đã thình lình được thấy dưới tấm quan tài kính, Lênin mặc áo khoác dài hung hung với tấm Huân chương Cờ đỏ, một bàn tay đưa thẳng và nắm chặt lại như đang cầm một cây bút chì, bàn tay kia đưa lên ngực, tự nhiên, nhẹ nhàng, như người sống vậy. Và vẻ mặt của người nằm ngủ trông giản dị quá, đồng thời vĩ đại quá, làm cho Pêchya cứ ngây người ra trong tay bố, nhìn mãi không thôi...
In bóng loang loáng lên những mặt đá hoa cương đỏ và đen, chiếc xe buýt chạy qua Hồng trường; và Hồng trường, lăng Lênin, tượng Minin và Pôjarxki, hàng tùng xanh mọc trước bức tường hồng hình răng cưa của điện Kremlanh, lá cờ đỏ rực trên vòm mái của tòa nhà Xô-viết tối cao, tất cả những cái đó đã diễn qua trước mắt Pêchya và tan đi như một giấc mộng buổi sớm.
4
Giờ đây, chiếc xe buýt đang leo qua phố Gorki. Tòa nhà nhiều tầng của khách sạn Mạc-tư-khoa mới, với tất cả những khung cửa sổ, những ban-công, những hàng rào sắt, những cổng tò vò của nó, hồng lên phơn phớt dưới ánh nắng. Bên cái cổng đi xuống đường xe điện ngầm đóng kín, đã tụ tập những hành khách sớm sủa đầu tiên, và giữa họ, một người công an mặc áo xanh, đeo găng trắng, đang vừa đi bách bộ, vừa hút thuốc. Những người gác cổng đeo huy hiệu kim khí lấp lánh dưới ánh mặt trời, đang quét hè. Người thiếu nữ bằng thạch cao với tà áo xòe cố định, đang như bay bổng, nhẹ nhàng, trên tháp cửa hàng bánh mứt kẹo ở dãy nhà. Pêchya biết tất cả những cái đó từ thuở bé, tất cả những cái đó không thể nào lại xa rời chú! Kể cả cái mẩu giấy bạc bị bánh xe ô-tô gắn chặt xuống nhựa đường kia, và
lấp lánh hay hay dưới ánh mặt trời, ở đâu đó, xa, xa lắm, gần như mãi tận Quảng trường Maiakôpxki.
Người bố vẫn ngồi thản nhiên, dựa vào lưng ghế. Cái mũ phớt mới hất ngược ra đằng sau nom rất nhộn. Vầng trán nhăn rám nắng, trông sáng sủa, thanh thản, và trong đôi mắt không còn trẻ gì nữa của ông đang lim dim mơ màng, có những ánh nâu nâu trẻ trung. Pêchya đặc biệt yêu bố khi ông đang ở trong trạng thái bình thản và vui vẻ ấy. Bố chẳng lo lắng gì cả. Vậy cũng không có lý do gì để cho Pêchya lo ngại. Và chú bé cũng thấy yên tâm. Chỉ có điều là chú rất muốn biết bố chú đang nghĩ gì. Chú quay đầu lại một lần nữa và tò mò nhìn vào mắt bố. Nhưng chú chẳng đọc thấy gì trong đôi mắt ấy cả, ngoài cái vẻ yên tâm và hạnh phúc.
Quả vậy, trong buổi sáng tuyệt diệu này, Piôt Vaxiliêvich Batsây là một người hạnh phúc. Bản chất ông không ngồi yên được một chỗ. Ông mê du lịch và thường nói rằng suốt đời ông, ông vẫn nghe văng vẳng “tiếng gọi của nàng tiên viễn du“. Thế nghĩa là thế nào, Pêchya không hiểu lắm, nhưng ngược lại, chú hoàn toàn cảm giác được. Lúc đi du lịch là lúc đầu óc ông suy nghĩ thoải mải hơn lúc nào hết. Vừa lên đường, ông đã chìm đắm vào trong mơ màng và ký ức. Ông lơ đãng nhìn qua cửa chiếc xe buýt. Hai bố con đều nhìn thấy như nhau: điện Kremlanh, lăng Lênin, đường xe điện ngầm, những tòa nhà dài và nhiều tầng của phố Gorki. Nhưng ông nhìn những cái đó bằng con mắt khác hẳn. Cái thế giới bao quanh chú bé Pêchya thì già cỗi, bởi vì hầu như mọi thứ trong cái thế giới ấy đều nhiều tuổi hơn chú. Cái thế giới bao quanh người bố thì lại trẻ, bởi vì hầu như mọi thứ quanh ông đều ít tuổi hơn ông. Những cây tùng xanh của điện Kremlanh, xe điện ngầm, khách sạn Mạc-tư-khoa, phố Gorki..., những cái đó ít tuổi hơn ông thật.
Chìm đắm trong ký ức, Piôt Batsây trông thấy rõ, nơi bây giờ là khách sạn Mạc-tư-khoa, cửa hàng cũ Ôkhôtnưi Biat với những quán nhỏ chất đầy gà vịt, cá và nấm ngâm dầu dấm. Ông trông thấy nhà thờ Paraxevơ-Thứ Sáu nay không còn nữa, và cây cột
đá Ai-cập lớn dựng trước mặt tòa nhà hai màu trắng, đó của Xô viết Mạc-tư-khoa. Hình ảnh Mạc-tư-khoa cổ xưa với tất cả cảnh buôn bán nhộn nhịp, đông đúc của nó, với tất cả những nhà thờ, những tháp chuông, những lâu đài, những ngõ cụt cứ thoáng hiện xen kẽ với những đường phố lớn mới thẳng tắp, những ngôi nhà mới đồ sộ. Và Batsây vừa lim dim nhìn qua cửa sổ xe buýt vừa nghĩ, không phải không có một chút buồn thầm kín, đến biết bao nhiêu cái ở trên đời này đã đổi thay trước mắt ông. Dĩ nhiên, tất cả những gì đổi thay ở nước Nga, ở Mạc-tư-khoa, là đổi thay theo chiều hướng tốt hơn, nhưng dầu sao ông vẫn nao nao thấy thời gian đã trôi qua và ông đã già đi, rồi chẳng mấy lúc nữa chính bản thân ông, cũng như ngôi nhà thờ Paraxevơ Thứ Sáu kia chẳng hạn, cũng chỉ còn là một ký ức mờ nhạt.
Tuy nhiên những ý nghĩ u buồn ấy chẳng làm giảm cái hồ hởi của ông đi tí nào. Trái hẳn lại, nó còn cho ông thêm nghị lực. Mặc đầu đã bốn mươi nhăm tuổi, ông vẫn cảm thấy mình khỏe mạnh, gần như trẻ trung. Và cái sức cường tráng đang rừng rực bốc lên trong ông vào buổi sáng tuyệt diệu này, còn có nhiều hứa hẹn mới mẻ, bất ngờ và tuyệt diệu.
Trong khi đó, xe buýt đã tới sân bay. Và chỉ một lúc sau, bố con Pêchya đã đứng trên thảm cỏ đường băng, bên chiếc máy bay du lịch.
5
Pêchya chưa bao giờ được thấy gần một chiếc máy bay to như thế. Bên cái máy bay khổng lồ nhưng lịch sự, có đôi cánh mênh mông dang thẳng trên đầu, Pêchya cảm thấy mình bé lũn cũn, lố bịch. Pêchya đứng dưới đôi cảnh thon dần ấy, như đứng dưới
một mái nhà. Động cơ nổ. Cánh quạt thổi thốc một cơn lốc bụi chạy trên cỏ, lay động và đè bẹp những bông hoa xuống đất. Bàng hoàng vì tiếng ầm ầm, Pêchya đứng bên bố, nắm chặt lấy tay bố qua túi áo mưa. Mắt đăm đăm mở to, đôi môi hơi run run. Chú không rời được mắt khỏi cửa máy bay và chiếc thang nhôm nhỏ lắp vào cái cửa ghê gớm, bí hiểm kia. Hành khách chưa được lên. Người ta đang bốc xếp những bao da của bưu chính và những tấm vải bạt che động cơ. Một phi công mặc bộ áo liền quần lững thững bước trên cánh và chui tọt vào trong máy bay bằng một cái cửa tròn nào đó.
Động cơ quạt gió mạnh thêm lên. Pêchya càng bíu chặt vào túi áo bố; chiếc mũ cát-két dạ mới cầm trong bàn tay lạnh giá, chú ngước mắt nhìn bố. Bố chú mỉm cười. Chà! Ông hiểu tâm trạng của thằng con ông lắm! Ông âu yếm đặt tay lên vai nó:
— Làm sao thế con, con sợ à?
Pêchya nghe không rõ, nhưng cảm biết bố định nói gì và cười gượng.
Trong khi đó, người phi trưởng mặc áo va-rơ da và đội mũ cát-két màu lơ nhạt có phù hiệu hàng không dân dụng thêu kim tuyến, rảo bước đi tới chỗ máy bay. Tay ông cầm bản danh sách hành khách. Mọi việc đều xong. Pêchya chưa kịp định thần, bố chú đã túm lấy hai khuỷu tay đẩy chú lên cái thang nhôm rung rinh, ấn vào trong máy bay.
Từ phía đuôi lên tới đầu máy, chiếc sàn dài dốc khá ngược, đi thật khó. Nhưng Pêchya cứ bước như trong chiêm bao, trên vai cảm thấy chiếc ba-lô nặng trĩu đang kéo mình về đằng sau. Khó khăn lắm mới giữ được thăng bằng, chú cứ bám vào lưng những chiếc ghế bành sâu, cho đến lúc lăn kềnh vào một trong những ghế đó. Chú lấy lại hơi và đưa mắt nhìn quanh. Cũng chẳng có gì ghê gớm lắm: trong máy bay cũng giống như trong ô-tô-buýt. Cửa sổ có nhỏ hơn và trông chênh chếch. Các hành khách đều cầm cặp và va-li nhỏ xách tay như thường lệ khi người ta đáp máy bay, và ngồi vào chỗ thản nhiên như không. Bố chú cũng
thế, bình tĩnh lắm. Ông từ tốn đặt cái cặp đựng giấy tờ xuống chân, đội lại mũ cho ngay ngắn, và hiền hậu nháy mắt với con. Pêchya cũng cố gắng để nháy mắt một cái với bố, nhưng trông không ra thế nào cả. Chú chỉ gượng rướn được đôi lông mày lên một tý thôi.
Mãi vẫn không hết sợ. Trái lại, nghe tiếng động cơ rú càng thấy sợ. Lúc này động cơ gầm thét như một thác nước. Nhìn qua cửa sổ, cỏ dưới cánh máy bay đảo điên quay cuồng tứ phía.
— Nào! — Có ai quát thật to.
Pêchya quay lại và trông thấy người phi công mặc bộ áo liền quần kéo thang vào trong buồng lái và đóng chặt cánh cửa nhôm lại. Trong máy bay tối và tĩnh hơn một chút. Nhưng cái tĩnh tương đối đó, Pêchya thấy như một điểm đặc biệt gở. Với nụ cười rất dễ thương của một người vui tính, người phi trưởng bước vào lối đi giữa hai dãy ghế. Trông ông có vẻ một vị chủ nhà hào hiệp đang tiếp những khách thân.
— Xin mời các đồng chí ngồi vào chỗ! Đằng trước, có hai giường nằm rất êm. Đồng chí nào muốn nghỉ ngơi, hoặc muốn ngủ thì xin mời... Đồng bào trẻ tuổi này chắc hẳn mới bay lần đầu? — Ông vừa nói vừa dừng lại bên Pêchya, và âu yếm nhìn vào mắt chú — Tôi không lầm chứ?
Pêchya cố lắm mới gật được một cái: cổ chú cứ cứng đơ. — Vậy xin chúc mừng đồng bào về lần cất cánh đầu tiên này. Pêchya mỉm cười gượng gạo.
— Can đảm lên, anh bạn trẻ! Bay trên trời, chỉ mười lăm vạn cây số đầu tiên là vất vả thôi. Về sau thì cũng chóng quen...
Và người phi trưởng, hóm hỉnh nhăn cái mũi tẹt lại, khoái trí vuốt vuốt bộ râu nhỏ màu hạt dẻ hơi chẽ ra làm hai chòm.
Hành khách đã cười vui vẻ trước câu pha trò của người phi trưởng. Phần lớn họ là những hành khách đã có kinh nghiệm và biết rất rõ ông Kôrôpkôp nổi tiếng đã từng bay hơn một triệu
cây số an toàn. Pêchya cảm thấy trong lòng có phần nhẹ nhõm. Chú cố hết sức, mở được miệng và đột ngột nói, giọng the thé:
— Ta có bay là là mặt đất không bác?
— Từ đây đến Khackôp, nếu đồng bào cho phép thì ta sẽ bay ở trên mây, — phi trưởng ngọt ngào đáp lại — sau đó, nếu đồng bào thấy không có điều gì trở ngại, ta sẽ thử bay là là một tý.
Hành khách một lần nữa lại hưởng ứng vui vẻ câu pha trò. Điều đó làm chú bé càng thêm mạnh dạn.
— Bác ạ, cháu thích bay là là lắm, một tý thôi cũng được, — chú vừa nói vừa nhìn người phi trưởng bằng đôi mắt đen long lanh.
— Đâu sẽ có đó, — phi trưởng vừa trả lời vừa đeo đôi găng tay đen to có cổ, rồi biến mất hút vào trong buồng máy.
Máy bay chuyển bánh chạy. Lòng hơi bồi hồi thú vị và có phần nào sợ hãi một cách khoan khoái, Pêchya nhìn qua cửa sổ, thấy mặt đất mấp mô đang chạy ngược lại. Chú bám thật chặt vào hai tay ghế, và ngả toàn thân về phía sau, như muốn bảo: “Đỗ lại!”.
— Bay rồi à? — chú cất tiếng nói, giọng lạc đi.
— Còn đang chạy; — người phi công mặc bộ y phục bay vui vẻ đáp lại và bỗng dưng trịnh trọng nói to — Đề nghị các đồng chí hành khách cho đến lúc cất cánh không nên đổi chỗ và không dồn về phía đuôi!
Trong "hai phút đồng hồ mà Pêchya thấy dài đằng đằng, máy bay chạy trên bãi cỏ, không nhanh lắm, ngật ngưỡng, vụng về. Ra đến đường băng bằng bê-tông, nó rẽ ngoặt, và động cơ gầm lên dữ dội đến nỗi Pêchya thấy người nổi hết gai ốc. Đường băng bị bỏ lại phía sau, giờ đây chỉ như một vết xám mờ mờ. Pêchya nhắm tịt mắt một lúc. Máy bay vẫn chạy mỗi lúc một nhanh và thỉnh thoảng gặp chỗ đường gồ ghề lại nhảy chồm lên. Cái đuôi cất lên, sàn máy bay bỗng thăng bằng và cửa sổ trông cũng như hết chếch. Pêchya nhìn thấy ở phía dưới có một cái ô-tô bé tí, rồi
một người đang vẫy lá cờ đỏ. Một tiếng ầm ì đều đều tràn ngập tất cả. Pêchya hiểu ở máy bay đã có một cái gì khác. Nó vẫn chạy nhanh như thế, nhanh hơn là khác, nhưng người ta cảm thấy mặt đất không gồ ghề nữa, không xóc nữa. Pêchya nép người vào cửa sổ và rất ngạc nhiên thấy ở phía dưới có một con suối nhỏ ngoằn ngoèo to bằng cái ống cao-su, một bãi cát và hai con ngựa bé tẹo giữa một bãi cỏ mờ sương. Lúc bấy giờ chú mới hiểu rằng mình đang sống cái giờ phút thần kỳ mà con người thích ứng được sao mà khó thế. Chú rụng rời nhận thấy mình đang bay trên trời, rồi bỗng dưng, chú lại hoàn toàn bình tĩnh. Không những cái sợ đã biến mất, chú còn bắt đầu thấy phần nào vững tâm nữa. Chú còn táo bạo đến mức dám đứng dậy, lấy chân giẫm khe khẽ để có thể yên trí là cái sàn chắc chắn. Và nó chắc thật. Quả cũng kỳ lạ và cũng khá đáng kinh là dưới cái sàn vững chắc này, không có gì cả, không có gì đỡ nó cả. Bên trên cái trống không đó, Pêchya đang lơ lửng. Chú đang lơ lửng và cử động, ngồi trên ghế, hoặc đứng, hoặc nằm, tùy thích. Pêchya thường chiêm bao thấy mình bay. Chú biết cái cảm giác vừa kỳ diệu vừa khắc khoải của người đang lơ lửng trên không lắm, nhưng trong chiêm bao, đó là cái bay lặng lẽ và thoải mái của con chim. Trong chiêm bao, Pêchya cứ bơi ở trên trời, hai tay sải rộng. Chú bay bổng lên được là nhờ sức mạnh huyền bí của ham muốn, của ý chí.
Nhưng giờ đây, chú bay “thật“, một ý chí mạnh mẽ, xa lạ, nâng chú lên khỏi mặt đất và đưa chú, đưa bố chú, đưa những cái ghế, những hành khách khác, những, cửa sổ, đôi cánh, đưa tất cả cái máy bay đi. Sức mạnh đó là gì vậy? Đó là sức mạnh của hai động cơ khổng lồ, với tiếng gầm rú liên tục đầy tin tưởng, làm quay những cánh quạt ba cánh, tạo nên xung quanh máy bay một cơn lốc vô hình. Tất cả phụ thuộc vào mấy cái động cơ. Chúng mà dừng lại là rơi, không thoát được.
Giờ đây, vô tình Pêchya đã lắng tai nghe tiếng động cơ nổ. Một điệu nhạc hùng mạnh, đều đều, hợp xướng của nhiều giọng. Sống hay chết là phụ thuộc vào điệu nhạc ấy. Nó có những lúc trầm bổng nghe thật tinh mới thấy. Lúc ấy chú bé bắt đầu lo và
nghi ngại nhìn qua cửa sổ xem động cơ có làm sao không. Nhưng cái động cơ bên phải mà Pêchya nép vào cửa sổ thì thấy, vẫn đó, nặng nề và không nhúc nhích, gắn chặt vào cánh, loang vết dầu đen đen. Và không trông thấy cánh quạt, cũng chẳng trông thấy cái quầng trong trong, loang loáng đâu cả. Nó quay nhanh quá, tưởng như đã biến mất. Mỗi lần tiếng nhạc động cơ đổi giọng, Pêchya thấy thế gian có những đổi thay bí hiểm. Chẳng hạn, khu rừng lúc nãy xê dịch từ từ ở bên dưới, giống như một tấm lông cừu xanh hoa lý ánh bạc, thì bây giờ như xù lên giống một chiếc khăn lông cừu quăn quăn. Thở thấy dễ hơn. Trong lòng cũng nhẹ nhõm hơn.
6
Bỗng nhiên, bố chú phấn khởi hẳn lên, cựa quậy trong chiếc ghế, và kêu to:
— Pêtrusa, lại đây con! Nhanh lên, nhanh lên! — Ông túm lấy vai con và kéo ra phía cửa sổ — Trông, trông kìa!
Pêchya nhìn xuống dưới cánh, và không thấy gì đặc biệt. Đường sắt như một sợi dây chạy dài chênh chếch, và bên trên một đoàn tàu đang bò như một con giun nhiều đốt. Một cái ao hình chữ nhật gắn vào giữa đám cây cỏ xanh.
— Thế nào? hiểu chưa? — bố chú hét vào tai chú.
Pêchya lắc đầu:
— Con chả hiểu gì cả!
— Đấy là Nemsinôpka!
— Nemsinôpka đâu?
— Kia, nó kia kìa! không nhận ra ư?
Pêchya chưa bao giờ được thấy Nemsinôpka từ trên xuống.
Vô lý. Cái đám nhà bé bé kia, cái ao như cái gương con con kia, cái nhà ga duyên dáng và xinh xinh như một cái đồ chơi kia, mà lại là Nemsinôpka! Tuy nhiên trông cũng có vẻ quen thuộc. Pêchya nép vào cửa sổ, suy nghĩ, và bỗng dưng hiểu rằng đúng đó là Nemsinôpka, cái làng mà nhà chú đã ở bao nhiêu mùa nghỉ mát, nơi mà ngay lúc này mẹ, bà và các em gái chú đang sống. Kỳ khôi thật, Pêchya chẳng nghĩ tý gì đến Nemsinôpka cả, ấy thế mà nó kia, có lạ không?
— Nemsinôpka! Đúng rồi! Nemsinôpka! — Pêchya bồi hồi nói — Bố ơi, nhà ta đâu hả bố?
— Kia thôi!
— Đâu, đâu?
— Thộn quá! Có trông thấy cái máy bơm không?
— Có
— Trông kìa. Ở bên trái máy bơm, đằng sau cái ao, thấy chưa? — Con không thấy.
— Kia thôi! Cái mái xanh xanh ấy!
— Đâu, cái mái xanh đâu?
— Khổ quá, kia kìa! Đằng sau đám cây ấy! Đằng sau những cây liễu bạc ấy!
— Con nhìn chẳng thấy.
— Thôi, bây giờ thì không thấy nữa. Đi quá rồi.
Pêchya giương mắt nhìn xuống phía dưới, nhưng không còn đâu là ao, là máy bơm, là đoàn tàu nữa. Phía dưới thấy tiến lại một nhà máy lạ lạ, trông màu ngói đủ biết là mới xây dựng xong, to, nhưng nhìn trên xuống thì như rất bé, với một ống khói cao, mới. Pêchya nhìn xuống như thế là thừa, vì
Nemsinôpka đã xa rồi, chú không thể thấy được nữa.
— Vượt quá rồi, — chú bé nhắc lại, chán ngắt, và trong lòng tự nhiên buồn muốn khóc.
Chú mường tượng thấy rất rõ cái nhà nghỉ mát của gia đình, cái hàng hiên với những viên đá hoa nhiều màu, cây tùng xanh, cái võng, vườn cây, giếng nước, cái thùng hứng nước máng... và mẹ chú mặc tạp-dề hoa đang đứng ở ban-công, giơ tay lên che nắng nhìn theo bóng chiếc máy bay màu xanh bạc vừa bay qua trên đầu trong màn sương mai xuyên nắng. Có lẽ bà đang bế bé Luxya và thì thào vào tai nó: “Trông kìa, con, bố với anh Pêchya đang bay ở trên trời kia kìa!”. Có lẽ bà đang cầm mùi-xoa vẫy chú, và có những con ong vằn đen vằn vàng đang bay lượn trên mái đầu óng ánh của ba như quanh một bông hoa. Và hai giọt nước mắt long lanh trên đôi mắt mẹ chú.
— Con khỉ con! — ông bố vừa nói vừa ôm lấy thằng bé đang buồn tênh...
Nhưng, nói thực ra, chú bé buồn không lâu. Cái ý thức mình đang đi máy bay, mình chẳng thấy sợ gì nữa, và mình đang hành động như một đứa bé dũng cảm, đã xua tan những ý nghĩ buồn rầu. Chú đã quên ngay cả Nemsinôpka, cả mẹ, và tất thảy những cái mà chú bay vượt qua, bỏ hết lại phía sau và có lẽ mãi mãi.
7
Pêchya đã vững dạ lắm rồi, chú đã dám đi lại trong máy bay một cách thận trọng. Chú bắt đầu tha thẩn một tý ở khoảng giữa hai dãy ghế, hết tới lại lui, rất dè dặt, ba bốn bước thôi; chẳng có gì ghê gớm xảy ra cả. Rồi chú đi về phía đuôi máy bay,
nơi để va-li và các túi bưu chính. Chú dừng lại một lát trước cánh cửa nhôm khóa chặt. Chú sờ vào cái thang nhôm dựa ở vách, chỗ treo hàn thử biểu. Chú nhìn vào hàn thử biểu, một cái hàn thử biểu rất bình thường, nó chỉ mười chín độ.
Xa hơn tý nữa là một cánh cửa nhỏ lót bông. Pêchya do dự một hồi lâu trước khi đưa tay ra mở. Chắc chắn đằng sau nó có một cái gì quan trọng lắm, bí mật lắm: những máy móc phức tạp! Có lẽ là cái người phi công máy mà Pêchya đã được biết, nhờ đọc một bài của báo Sự thật Thiếu niên. Không phải vô cớ mà người phi trưởng vào trong đó. Pêchya nhìn quanh. Không ai để ý đến chú. Sợ và tò mò đến tái người, chú đưa tay vặn quả nắm nhôm nhỏ và mở cánh cửa bí mật ra... Một chuồng xí với một bồn rửa mặt treo, một tấm gương và hai bàn chải — một vàng để chải áo, và một đen để chải giày. Chú nhòm vào lỗ chuồng tiêu. Xa tít phía dưới, một mẫu rừng như một tấm lông cừu. Chú thử giật nước, Nước chảy. Chú đậy sập cái nắp xuống và xấu hổ rời khỏi nơi bí hiểm.
Pêchya thất vọng: không, máy bay không có gì ghê gớm cả. Nó bay, đúng; nhưng trừ điều thần kỳ ấy ra không kể, thì chẳng có gì nữa.
Còn buồng máy. Ở đó có những người phi công ngồi lái máy bay. Thỉnh thoảng cánh cửa ở đó mở ra, và tiếng động cơ ầm ầm lọt vào buồng hành khách, nghe to gấp bội. Hai cái lưng mặc áo da, với hai cái mũ phi công và những bàn tay đeo găng da to tướng đang làm gì đó, đưa đẩy cái gì đó. Pêchya không dám mơ tưởng đến hạnh phúc được bước vào chỗ cung cấm ấy của máy bay. Chú tha thiết muốn được nhìn tận nơi, ít nhất cũng bằng một mắt, xem có gì trong đó.
Hai tay chắp sau lưng giống bố, rồi làm ra vẻ như đi dạo, chú bé tiến lên và dừng chân bên buồng phi công đóng kín. Chú quyết định đợi hễ có người mở cửa là nhòm vào. Pêchya sẵn sàng để đợi lâu. Nhưng hầu như ngay lúc đó cánh cửa kẹt mở, và người phi trưởng hiện ra, đứng vươn vai ở ngưỡng cửa. Tiếng gầm dồn dập của động cơ thốc vào tai, và cánh cửa khép lại
nhanh quá đến nỗi Pêchya không kịp nhìn thấy gì cả.
— Thế nào, chàng trai? Ta đang bay chứ? — phi trưởng vừa xoa tay vừa vui vẻ nói. Ông quả thật là vui tính. — Chú không sợ chứ?
— Cháu sợ cái gì mới được chứ? — Pêchya cắn đôi môi mòng mọng, thản nhiên trả lời.
— Ấy bác cũng nghĩ thế đấy: có cái gì mà sợ? — ông vuốt râu đáp.
Bỗng dưng — chính chú cũng thấy sửng sốt — Pêchya đứng nghiêm trước mặt người phi trưởng đáng yêu, đưa tay lên vành mũ cát-két dạ như anh bộ đội, và nghe thấy miệng mình nói bằng một giọng báo cáo chính quy rất kỳ khôi:
— Báo cáo đồng chí chỉ huy, thay mặt đội thiếu niên tiền phong trường số 12, Mạc-tư-khoa, em tha thiết xin phép vào buồng hoa tiêu trong khi họ lái máy bay. — Rồi chú nói tiếp với một giọng nhỏ nhẹ và van nài: — Bác ơi, cho cháu xem một tý!
Chú ngước đôi mắt dịu dàng có đôi lông mày tơ trông như mắt con gái, e dè nhìn lên khuôn mặt có cái mũi tẹt của người phi trưởng. Chú thừa hiểu trên đời này làm gì có chuyện thần kỳ. Chú chưa hề gặp một thằng bé nào dám khoe khoang đã được ở trong buồng hoa tiêu khi đang bay cả.
Nhưng chuyện thần kỳ đã xảy ra. Quả thật cái ngày huyền diệu này là ngày của những chuyện thần kỳ. Người phi trưởng kiêu kỳ nhìn chú từ đầu đến chân, làm ra mặt dữ tợn và đưa ngón tay trỏ ấn vào mũi Pêchya:
— Nhưng chú phải nhớ tuyệt đối không được sờ mó vào cái gì cả, — ông nghiêm khắc nói — Thiếu nhi các chú, tôi biết lắm... Chú mà sờ vào cái gì là tôi quẳng chú ra ngoài, cho rơi xuống đất, không có dù, hiểu chưa?
Nói xong, người phi trưởng mở cửa ra, và Pêchya không ngờ được cái diễm phúc bước theo hành lang nhỏ dẫn vào buồng lái.
Chú bước vào và một điều thần kỳ mới khiến chú vội túm lấy áo da người phi trưởng. Buồng lái không có người. Dưới cái vòm chất dẻo trong suốt, trước mặt, dãy đồng hồ, hai cái ghế bành da nhỏ bỏ trống. Trước ghế, hai tay lái không ai cầm vẫn đồng thời quay đi quay lại. Và cũng đồng thời như thế, bốn cái bàn đạp không có chân ai dận vẫn chuyển động. Tưởng đâu như hai phi công đã trở thành vô hình. Nhưng có phải thế đâu. Một người, là ông phi trưởng, đang đứng bên Pêchya: còn người kia, lúc đó đang lom khom bước từ trong một cái buồng xép ra, nhét vào mồm nửa chiếc bánh mì con với xúc-xích; thật may mắn cho Pêchya, đó đúng là phút thần diệu mà máy bay bay một mình, không cần người điều khiển. Và chú bé cứ đứng ngây ra, mê hoặc trước cái phép màu mới kia.
Tay vẫn bám vào áo ca-pốt người phi trưởng, Pêchya nhìn những mặt đồng hồ đang chạy như đồng hồ thường, nhìn bầu trời bên trên cái vòm trong suốt của buồng lái, cái bầu trời mờ đục với những mảng sương lớn màu xám mà dưới đất nhìn lên hẳn là thấy ra màu trắng và nhẹ như bông, đang hay ngược lại phía máy bay.
8
Trong khi đứa con đang đi từ chuyện thần kỳ nọ đến chuyện thần kỳ kia thì Piôt Batsây vẫn ngồi thụt sâu trong ghế hành, chân duỗi thẳng, tận hưởng cái nhàn rỗi bắt buộc của cuộc du hành. Lúc đầu, ông có nghĩ đến công việc vì, mặc dầu có tính mơ mộng, ông là người bản chất cương nghị không chịu được cái cảnh vô công rồi nghề. Ông đã rút tất cả tập hồ sơ trong cặp ra và chăm chú nghiên cứu tài liệu quanh vụ ông sắp phải làm trọng tài. Việc nhạt hoét, hồ sơ đã được chuẩn bị và nghiên cứu
kỹ lưỡng cả rồi. Không có tý hứng nào làm việc cả.
Piôt Vaxiliêvich lại xếp tài liệu vào cặp, nhưng không chịu ngả theo cái lười mơ mộng đang xâm chiếm mình, ông lấy quyển sổ có ghi những ý nghĩ và dụng ngữ cho bản luận án tiến sĩ luật học sau này của ông. Bản luận án đầu đề là “Vấn đề bồi thường trong luật pháp xô-viết“. Batsây thấy nó có một tầm rộng lớn. Ông thích đầu đề luận án ấy vì phạm vi rộng rãi và tính chất mới mẻ về nguyên tắc của những vấn đề ông định đưa vào đó, và giải quyết trong phạm vi “cá nhân, xã hội và nhà nước”, bằng cách quy ba khái niệm ấy lại trong một thể thống nhất xã hội chủ nghĩa. Là một luật gia tên tuổi chuyên về các vấn đề trọng tài, ông thường phải đi xuống tận địa phương và thích nghiên cứu bản luận án của mình dọc đường... Nhưng hôm nay đầu óc ông rất xa với quan niệm bồi thường trong luật pháp xô-viết. Có lẽ vì đó là lần đầu tiên ông không đi du lịch một mình, mà đi với đứa con trai. Xúc động của thằng bé không thể không truyền sang bố. Cũng có thể ông đã đặc biệt bị xúc động được trở lại thành phố quê hương sau bao năm xa cách. Dù thế nào thì lần này ông cũng chẳng còn tý tâm thần nào để tập trung vào công việc.
Ông khẽ thở dài và bắt đầu lim dim ngủ, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn theo thằng con. Sau khi được vào thăm buồng lái, thằng bé đã quen với máy bay và chạy khắp, hỏi han căn vặn hết hành khách lại đến các nhân viên phục vụ. Có thể là bốn mươi năm nữa, — bố chú nghĩ — vẫn cái thằng Pêchya này sẽ âu yếm và bùi ngùi nhớ lại buổi hôm nay, cũng như bố nó giờ đây đang nhớ tới cuộc du lịch đầu tiên của mình bằng xe ngựa, rồi bằng tàu thủy Tuôcghêniep. Hồi ấy, ông coi cái tàu bé nhỏ có bánh xe và lắp thêm buồm khi xuôi gió như một bước tiến mạnh về kỹ thuật, và giờ đây nhớ đến cái máy hơi nước cục mịch, đến những bánh xe sơn đỏ và đến đội nhạc của nó, ông khòng thể không mỉm cười. Rất có thể là trong bốn mươi năm nữa, đi du lịch trên một con tàu vũ trụ nào đó, Pêchya của ông — lúc bấy giờ đã là một thành viên tên tuổi của xã hội cộng sản — sẽ nhớ lại ngày xưa, nhớ đến chiếc xe buýt, chiếc máy bay du lịch kiểu
cổ, và sẽ mỉm cười cũng với một niềm âu yếm bùi ngùi như lúc này Piôt Vaxiliêvich Batsây đang mỉm cười.
Máy bay vẫn bay mãi với một điệu nhạc không dứt, mạnh mẽ, hòa tấu của nhiều dây, nhưng cùng một âm điệu. Nó bay ở một độ cao trên dưới hai nghìn mét. Giữa hai tầng mây hè cao, một tầng ở trên, một tầng ở dưới. Tiếng động cơ đã lại đổi giọng. Máy bay lên cao và bắt đầu xuyên thủng tầng mây thứ ba. Khí trời lạnh hơn và thở thấy nhẹ hơn. Tai vo vo. Phía ngoài cửa sổ, mọi thứ đều phủ một lớp sương mù xám bị thổi bạt đi ngay. Máy bay thoát ra khỏi tầng mây thứ ba. Giờ đây, phía trên nó là bầu trời lạnh, trong, xanh ngắt. Mặt trời phóng ra những tia lửa rực, nhưng đồng thời khí trời lại lạnh như ở trên núi.
Cái bóng lớn của máy bay vẫn nhảy nhót không ngừng. Nó leo lên tầng mây trên cùng, rồi bất thình lình tách ra và lao xuống, nhỏ hẳn đi, lướt trên tầng mây thứ hai, đâm bổ xuống tầng mây dưới cùng, lại leo lên và to ra, thụt hồi lâu xuống một túi không khí sâu kinh khủng, bay ngang qua một cánh đồng cỏ, nhỏ như một cái kim, nhảy lên những tầng mây mới như những bậc thang khổng lồ.
9
Tiếng động cơ bắt đầu đổi giọng nhanh chóng. Thoạt đầu, nó to lên, rồi nhỏ lại, chuyển sang lắp bắp và bất thình lình lịm hẳn. Trên trời, máy bay đã đảo đi. Pêchya kinh hãi bám lấy lưng ghế và nhìn qua cửa sổ tối sầm lại. Cửa tối vì cái cánh máy bay chếch lên rất kỳ lạ đã che kín tất cả bề mặt cửa. Chú bé lao sang cửa sổ đối diện. Cửa sổ này, trống rỗng đáng sợ, đang rực ánh mặt trời. Pêchya không trông thấy cánh đâu cả. Nó đã biến mất,
Pêchya nhìn qua cửa sổ như nhìn vào giếng. Đâu đó, thăm thẳm dưới kia, mặt đất đang quay tròn, chậm chạp và nhịp nhàng.
— Tàu bay rơi! — Pêchya nói.
— Cứ yên trí, Khackôp đấy, — bố chú vừa cười vừa nói. Ông ôm vai con. — Tàu bay tạm dừng ở đây.
Pêchya nhìn xuống phía dưới, thấy những ô vuông đều đặn của một thành phố, một quảng trường, một tòa nhà nhỏ, nhưng chắc hẳn là phải đồ sộ, và nhiều dãy nhà quần tụ lại trông như những tinh thể lưu huỳnh.
— Đấy là Phòng công nghiệp Khackôp, — bố chú nói.
Rồi ở phía dưới, xuất hiện và lướt qua một nhà máy, rộng mênh mông, trông như cắm ở lưng chừng sườn đồi, với những ống khói nghiêng nghiêng và một cái hố rộng màu hồng nước độc mà trông từ trên cao tưởng như bé nhỏ.
— Đấy là nhà máy hóa chất, — bố chú nói.
Mặt đất bằng phẳng ra và tiến lại gần. Pêchya nhìn nó như nhìn qua kính lúp; chú cảm thấy trong toàn cơ thể có một sức mạnh đang hút chú về phía mặt đất. Đôi lúc, chú có cảm giác như đang lơ lửng trong không trung, bên trên ghế bành. Tim chú thắt lại và ngừng đập. Những cột dây thép và những đường sá có ô-tô chạy, lướt qua nhanh đến nỗi Pêchya vội ngửa ra sau. Rồi chú nhìn thấy ngay gần mình những đám cỏ đầy bụi chạy ngược chiều máy bay. Trong cỏ, chú phân biệt được các bông cúc dại và những thứ hoa lạ khác, lông lá, màu hồng tím trông như những cái đuôi con con có vẩy. Máy bay chạm sát với mặt đất, nhưng nó không bay nữa. Nó chạy. Cái đuôi từ từ hạ xuống và nảy lên nhiều lần. Máy bay nặng nề chạy trên mặt đất chẳng khác gì một chiếc ô-tô thường. Pêchya cảm thấy bị xúc phạm nặng nề vì không được bay nữa, đồng thời lại có một cảm giác nhẹ nhõm khó tả được thấy mình đã đứng trên mặt đất chắc nịch.
Tai bị yên tĩnh làm cho ù đặc, chú bé lần theo chiếc thang
nhôm, bước xuống cỏ ấm. Chú loạng choạng, chóng mặt, nhức tai, ánh nắng gắt của miền Nam làm chú chói mắt. Gió lộng đón tiếp chú với những mùi vị cay cay của những loài cỏ lạ thảo nguyên. Buổi sớm Ukren mới bắt đầu ấm nắng. Thật hết sức kỳ lạ và ấm lòng khi nhận thấy đây cũng vẫn là cái buổi sáng vừa bắt đầu mới đây thôi ở Mạc-tư-khoa. Rất có thể là giờ này mẹ còn đang ngủ, thế mà chú đã ở Khackôp, và quanh chú, tất cả mọi thứ đều khác quá... cỏ cây, khí trời và ánh nắng...
— Thế nào, nhà phi hành trẻ tuổi cảm thấy thế nào? — Người phi trưởng vui tính vừa nói vừa duỗi hai cái cẳng dài cho đỡ mỏi.
Pêchya thản nhiên nhún vai.
— Cừ lắm, cháu ạ!
Toàn thân như ớn lạnh, Pêchya thú vị ngả người nằm xuống cỏ ấm. Giờ đây, nằm duỗi dài trên mặt đất chắc nịch và bất động, mà nhìn trời, nhìn mây, nhưng trời mây đối với chú không còn xa lạ như xưa nữa. Chú vừa ở trên ấy với chúng và trong mười lăm phút nữa, chú sẽ lại gặp lại chúng. Chú nhìn chim, kiêu hãnh như nhìn những đứa em nhỏ. Bay mệt chú nghĩ: không những thể xác nghỉ, mà để cho cả tinh thần vừa chịu đựng một sự căng thẳng đến như thế trong ba tiếng đồng hồ ở trên trời cũng được nghỉ ngơi.
Pêchya đã vạch trước một chương trình hoạt động trong thời gian du lịch. Theo chương trình đó, trong lúc đang bay chú phải luôn luôn quan sát tất cả các hiện tượng thiên nhiên và ghi ngay lập tức những nhận xét của mình vào một cuốn sổ đặc biệt. Không kể những điều ghi chép đó có thể có một ý nghĩa quan trọng đối với câu lạc bộ của những nhà tự nhiên học trẻ tuổi mà Pêchya là phó chủ tịch, còn phải thấy rằng thật là thú vị được đặt bút ghi lên trên đầu mỗi đoạn ghi chép: “vào hồi mấy giờ... mấy phút... mấy giây, theo giờ Trung Âu, nhiệt độ bao nhiêu, ghi chép trên máy bay số mấy...” Giá trị biết chừng nào, cuốn sổ “hàng không” lời lẽ vắn tắt này! Ngoài việc báo cáo mà Pêchya
định tổ chức sau khi du lịch về, cũng không nên loại trừ khả năng in những số liệu khoa học quý báu đó trên báo Sự thật Thiếu niên. Pêchya khoái trá nghiền ngẫm cái câu tuyệt diệu “viết trên máy bay”.
Chú đã mang theo nhiều phong bì và giấy để viết thư cho gia đình và bạn bè. Pêchya định viết những lá thư đầu tiên ngay trên máy bay. Có thể tưởng tượng thấy những tiếng rú của mấy đứa em gái, thấy sự bồi hồi của bà, và niềm kiêu hãnh của mẹ chú khi người đưa thư đưa tấm bưu thiếp do tay đứa con trai uyên bác của bà viết ở trên máy bay, từ trên trời gửi xuống. Và đám bạn trai, bạn gái nữa! Cô Ôlia Netsaêva nào đó chắc sẽ tiếc đứt ruột vì đã cự tuyệt cái tình cảm sâu sắc của một cậu con trai đứng đắn, nhũn nhặn, lại dũng cảm, là Pêchya, để nhận cái tình bạn hời hợt, phất phơ của Victo Xađôpnikôp, một đứa đẹp trai thật, nhưng ngốc nghếch, dốt đặc, không có gì đặc sắc ngoài cái xe đạp và một bộ tóc húi theo kiểu người lớn. Pêchya sẽ không trách Ôlia Netsaêva. Lời lẽ chú viết sẽ lễ độ lạnh lùng và đường hoàng nghiêm chỉnh. Tóm lại là vừa vặn đúng mức: “6 giờ 45 phút, giờ Mạc-tư-khoa... trên máy bay số... nhiệt độ: 19 độ. Chào Ônga. Mình giữ lời hứa và viết cho Ônga mấy dòng này trên máy bay. Lúc này mình đang bay, ở độ cao 1400 mét so với mặt biển. Trời sương mù, tầm nhìn xa từ 800 đến 900 mét, gió nhẹ. Cho tới lúc này, không có sương giá. Mình vừa vào thăm buồng lái và làm quen với tổ hoa tiêu. Tốc độ bay 250 cây số; máy ăn dầu đều đặn. Ônga ạ, thật đáng tiếc chủ nhật vừa rồi, Ônga không đi Kliazma đến nhà Tania Biriukôva với chúng mình được, hôm ấy vui lắm (phải gạch đít ba lần chữ ”lắm”). Ônga, xin lỗi Ônga là đã viết ngắn thế này, nhưng thật mình không có thời giờ, mình phải luôn luôn theo dõi và ghi kết quả những nhận xét khoa học. Đáng tiếc là Ônga đã không muốn đi Kliazma. Mình đã kết bạn rất thân với Tatiana Biriukôva (gạch đít ba lần “rất thân”). Chúng mình đã phát hiện ra rằng giữa chúng mình có rất nhiều điểm hợp nhau. Pêchya Batsây, người bạn cũ của Ônga (gạch đít hai lần “cũ”). Gửi lời chào Victo”.
Pêchya đã dự định viết cho tất cả các bạn, đại loại đều bằng
những lời lẽ như thế. Bởi dự định ghi một cuốn nhật ký khoa học, v.v... Nhưng chú chưa thực hiện được điều gì cả. Chú đang quá mải với việc bay. Thời gian cũng chưa có gì là bỏ phí. Bây giờ sực nhớ lại, chú quyết tâm hành động. Chú rút ở trong túi ra tập bưu thiếp đã ghi sẵn địa chỉ, cây bút chì “Thiếu niên” vót nhọn và cục tẩy. Nằm dài thoải mái lên cỏ xong, Pêchya bắt đầu, cố hết sức để viết cho có vẻ cầu thả, đúng kiểu một bức thư gửi từ máy bay. Chú đã viết lên tấm bưu thiếp đầu: “Viết trên máy bay số 2897”. Nhưng ngay lúc đó chú cảm thấy ngường ngượng. Vì Pêchya tính thật thà; chỉ hơi nói dối một tý chú cũng đã thấy nó thế nào ấy. Mười phút trước, chú còn ngồi trên máy bay, nhưng bây giờ chú đang nằm sấp bụng dưới đất. Máy bay có đậu bên cạnh chú thực và đang lấy thêm xăng từ một chiếc ô-tô chở xăng to tướng sang, và trong mười lăm phút nữa nó sẽ lại bay tiếp. Nhưng tất cả những cái đó không làm thay đổi được sự thực là: Pêchya đang không ngồi trên máy bay. Nhưng thư chú gửi đi mà không có những chữ: “viết từ trên máy bay” thì nó nhạt thếch. Chú không thể viết: “nằm dài dưới đất bên cạnh máy bay số 2897“. Thế thì ngây ngô quá!
Pêchya rất muốn bỏ bưu thiếp vào thùng thư Khackôp để nó đến Mạc-tư-khoa được càng sớm càng tốt. Nhưng chú không thể nói dối được. Khó xử quá! Chú đã định đành tiếc rẻ mà xóa những chữ thần diệu: “viết trên máy bay” đi. Nhưng bất thình lình chú nảy ra một sáng kiến tuyệt vời, nó lóe lên như một ánh chớp: chú sẽ lên ngồi trên máy bay và như vậy là có thể viết được câu “viết trên máy bay“. Thế cũng như thật. Còn những “trời sương mù”,“tầm nhìn xa” và “độ cao” thì, ôi chào, cũng không phải là dối trá gì nghiêm trọng lắm. Có chuyện trời sương mù không? Có. Tầm nhìn xa có không? Có. Về độ cao thì tạm cho là 1400 mét. Mới lúc nãy, trước khi tới sân bay Khackôp, họ đã chẳng bay trên cao 1400 mét là gì? Như vậy không thật hoàn toàn đúng, nhưng độ cao có không? Có đứt đi rồi. Cái lập luận lô gích đó làm lương tâm Pêchya hết cắn rứt; chú thu các giấy tờ mang đi đường lại và với tay nắm lấy thang để trèo lên ngồi “viết trên máy bay”. Nhưng vừa lúc đó một tốp hành khách mới
đến thu hút hết sự chú ý của chú.
10
Họ tiến đến gần máy bay. Người phi trưởng bước những bước dài, cõng trên vai một cô bé mặc áo màu sặc sỡ. Một bà lão loắt choắt lon ton chạy bên cạnh, theo khướt mới kịp ông. Một tay bà lão cầm cái giỏ đan đựng đầy hành lý, còn tay kia cố túm lấy chân em bé. Bám chặt vào cổ người phi trưởng, em bé cứ kêu rú lên, cười giòn tan và giãy giụa hai chân.
Đến gần sát máy bay, người phi trưởng thận trọng đặt cô bé xuống bãi cỏ đầy những bông hoa cúc tím. Bà lão sửa lại váy cho em bé đang ngồi giận dỗi ra mặt. Không phút nào đứng yên chỗ, nó luôn luôn ngó ngoáy, đưa đảo mắt rất nhanh tò mò nhìn Pêchya.
Dễ nó phải lên tám, nhưng trông khổ người thì có vẻ bé hơn. Pêchya tò mò nhìn em bé vui tính và nhanh nhẹn. Chú chưa bao giờ gặp một em bé dễ thương như thế. Nó không đẹp, theo nghĩa một cậu con trai Mạc-tư-khoa thường hiểu. Nó có cái duyên đáng miền Nam của một cô gái Ukren. Tất cả ở em làm cho người ta ngạc nhiên vì những màu sắc lạ mắt, rực rỡ đồng thời lại êm dịu: chân đi đôi giày cao cổ màu đỏ, mình mặc váy cộc xinh xinh, áo sơ-mi thêu tay rộng, tóc tết đuôi sam với những dải băng xanh đỏ. Một chuỗi hạt pha-lê đung đưa trên cái cổ mảnh khảnh sạm nắng. Trên mái đầu bé xinh xinh tóc đen bóng, chênh chếch một vòng hoa cúc tím mà em đã kịp tết trong khi chờ đợi máy bay. Nhưng duyên đáng nhất ở em là nước da rám nắng đến nỗi đôi má hồng tươi khó khăn lắm mới lọt qua được lần da sạm. Cặp mắt hạnh nhân màu nâu với lòng trắng
bóng nhẫy long lanh dưới hàng mi đen trông như những cánh chè khô. Ở chỗ khác, trên miền Bắc em có vẻ lòe loẹt quá đây, nhưng ở đây, trên sân bay miền Nam này, giữa những đóa hoa cúc tím, những hoa anh túc dại, em lại rất đúng chỗ như bông cẩm quỳ hay đóa hướng dương mọc trước một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng.
— Thế nào? — người phi trưởng nói với Pêchya, — chú có ưa cô bé Ukren này không? Chú có thể làm quen được đấy. Galôska, bắt tay chú bé này đi.
Cô bé giơ cho chú một bàn tay đen sạm mà lòng bàn tay lại trắng hồng và nhìn thẳng vào mắt chú, rồi từ chân lên đầu. Pêchya thẹn quá đưa tay ra bắt và mỉm cười ra vẻ kẻ cả.
— Galina, — cô bé nói.
— Pêchya, — chú bé trả lời.
— Làm quen thế là xong, — người phi trưởng nói. Hành khách lại một lần nữa cười ồ.
Mọi người trèo lên máy bay. Pêchya để ý thấy bà lão bé nhỏ vẫn đứng dưới đất: em bé đi một mình.
Vừa bước vào buồng lái, phi trưởng vừa nói với Pêchya: — Đừng có trêu chọc em nhá! tôi giao nó cho chú trông đấy! — Vâng! — Pêchya làu bàu đáp.
Chú liếc nhìn em bé mặc dầu hơi loạng choạng vẫn cứ đứng ở trên sàn trong khi máy bay đang tăng tốc độ. Pêchya ngồi vào ghế, đặt giấy tờ lên đùi, định viết.
Chú bảo cô bé:
— Em đừng sợ. Trông anh đây, anh có sợ đâu. Cứ bám vào ghế ấy, hay tốt hơn là ngồi vào.
— Em không thích ngồi, — cô bé nói.
— Thì đứng, nhưng đừng đứng trước mặt anh, và đừng có
quấy rầy anh, anh đang muốn viết thư.
— Không đâu!
Pêchya thật không ngờ nó lại trả lời thế. Chú đứng dậy sửng sốt.
— Cái gì, thế nào là không đâu? — Chú nghiêm khắc hỏi.
— Không đâu! — cô bé nhắc lại. — Em không thích đứng. Em thích chạy. Ta cùng chạy nào!
— Đi tàu bay thì phải ngồi ngay ngắn, — Pêchya nghiêm nghị phê bình, — và nhất là không được chạy.
Đứng đây mà nhìn ra cửa sổ. Giúp anh ghi những nhận xét về khí tượng — chú nắm lấy vai cô bé và dí đầu nó vào cửa kính. — Nhìn đi, quan sát đi. Khi nào máy bay cất cánh, thì báo hiệu cho anh ngay. Lúc ấy là lúc quan trọng lắm đấy. Anh sẽ ghi ngay vào cuốn nhật ký bay của anh.
— Không đúng! — cô bé vừa lắc lắc cái đầu tết băng vừa ương ngạnh nói.
— Thế nào, không đúng là thế nào?
— Không đúng. Máy bay đã bay từ nãy rồi.
Pêchya mỉm một nụ cười kẻ cả.
— Chưa bay đâu, đang chạy đấy thôi.
Phía dưới chiếc cánh lớn, cây cỏ dưới sân bay như ướt sướt mướt, chạy ngược về phía sau. Trông gần quá, tưởng như có thể giơ tay sờ được. Bất thình lình, từ phía dưới, một cái cây khổng lồ đột ngột hiện ra. Nó khua cá cái khối tối sầm của nó vào thẳng giữa mặt Pêchya và mặt trời như lấp lánh trên muôn vàn cánh lá của nó. Chú bé lùi xa ra khỏi cửa sồ và kêu thốt lên:
— Ối!
Chú co dúm người lại, nhắm mắt chờ đợi cái va chạm khủng khiếp, tan tành ra từng mảnh. Nhưng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe thấy tiếng cười khiêu khích và giòn tan của cô bé đang reo lên:
— Thế mà không biết xấu hổ, anh sợ à? Lêu lêu! Tái mặt lại kìa!
Pêchya rụt rè mở mắt nhìn ra cửa sổ. Phía dưới cánh, một mái ngói lướt tới vùn vụt. Sát quá, tưởng như máy bay sắp quệt vào loạt ngói đen đen và hất đổ cột ống khói có con mèo đang thản nhiên sưởi nắng bên cạnh. Chú bé lại lùi lại và nhắm mắt.
Lần này cô bé nhìn Pêchya tái mặt bằng con mắt tò mò.
— Thấy chưa, thế mà anh cứ cãi mãi, cứ bảo là tàu hay đang chạy chứ không phải bay. Em nhất định không phải nó đang chạy mà nó đang bay đấy. Em nói mới đúng. — Rồi tiếp bằng giọng kẻ cả — Chưa gì đã hoảng lên như thế là không nên. Đội viên ai lại thế!
— Anh thấy hình như..., — Pêchya xấu hổ lắp bắp.
— Hình như, hình như, — cô bé chua ngoa nhại lại, tay giơ lên sửa vòng hoa trên đầu, tất nhiên là bắt chước cử chỉ của một người nào đó, của bà nó, chắc thế.
Cô bé mắng thêm Pêchya một hai câu nữa, rồi xoa:
— Không sao, dần dần rồi quen thôi. Chắc anh đi máy bay lần đầu? Phải không?
— Lần đầu tiên, — Pêchya thừa nhận.
— À, thảo nào.
— Sao lại “thảo nào”?
— Thảo nào. Anh thấy bay là là thì sợ đấy thôi! Phải không? — cô bé nhún vai.
Pêchya bứt rứt ngọ ngoạy trên ghế.
— Sao, bay là là à? — chú quay ngang quay ngửa nhìn tứ phía, hỏi.
Cô bé mỉm cười ra dáng kẻ cả:
— Cái anh chàng này buồn cười thật! Chúng mình bay như
thế từ bao lâu rồi. Đừng sợ! Chả có gì đâu.
Nó kéo chú bé ra cửa sổ. Dưới cảnh máy bay, những con đường diễu qua với những cột dây thép, những luống có, những giếng nước. Cái bóng lớn máy bay với đôi cánh nhọn trải ra trên những vườn cây, gẫy gập lại trên những dẫy hàng rào, nhảy lên những cây cao, rồi lại tụt xuống, hùng dũng lao trên những cánh đồng lúa mì rộng của nông trường, rậm rạp và lởm chởm như một tấm lông thú. Động tác mạnh mẽ của máy bay làm ngợp đến đứt hơi. Trêu ngươi sức hút của trái đất, nó chẳng thèm bay cao trên các tầng mây, cứ là là mặt đất, gầm thét nạt nộ những con cừu làm chúng kinh hãi chạy trốn tán loạn, khua lên những đám mây bụi trắng.
Pêchya không sợ nữa, tâm hồn chú rạo rực một cảm xúc đặc biệt, khác hẳn với cái thích thú khi bay trên độ cao hai nghìn mét, chậm rề rề và hầu như không nhận thấy, giữa những tầng mây lớn mây nhỏ lững lờ trôi như đang ngủ trên núi đồi của thế giới. Ở trên ấy, mặc dầu tai nghe ù ù và mặc dầu có bản đồng ca hùng tráng của các động cơ, vẫn chỉ là một sự chiêm ngưỡng bình thản. Còn đây là cơn mê loạn của động tác nhanh ngợp kinh hồn, của cuộc chiến đấu đầy nguy hiểm với không gian và thời gian. Ở đây, máy bay không còn là một cánh chim nữa. Nó cắm đầu lao thục mạng, như một chiếc ô-tô bay, gần như sạt mặt đất, nhảy chồm chồm qua bao nhiêu cây cối và những đống rơm rạ. Pêchya có cảm giác như chính tay mình, nằm vào lưng ghế đằng trước, đã ra sức đẩy chiếc máy bay tới trước, tới trước mãi, về hướng nam, đi tìm một hạnh phúc mới lạ.
11
Máy bay bay nhanh quá, thiên nhiên đổi thay nhịp nhàng quá đến nỗi Pêchya mất hẳn khái niệm về thời gian. Chú mải mê với màu sắc của đất trời miền Nam đang bao quanh chú. Đã từ lâu không còn trông thấy những cánh rừng thông nữa. Những cây bạch dương đã biến mất. Khắp bốn bề thảo nguyên trơ trụi và vắng lặng lạ thường trải ra mãi đến tận chân trời. Những cối xay gió mà Pêchya chưa từng thấy, xuất hiện. Dọc các khe nổi lên những ngôi nhà nhỏ trắng của những thôn xóm lớn. Quanh các ao nhỏ, trông cứ tưởng như nước ấm lắm, có những lùm cây bụi bậm hắt lên những ánh mờ bàng bạc dưới nắng. Tất cả đều mới, đều lạ. Nhưng mới lạ nhất là cái ánh nắng chói chang. Không khí đỏ rực và thấm đầy không phải chỉ những tia có thể thấy được, mà cả những tia cực tím bí hiểm bên ngoài, chúng lướt trên mặt da với một sức mạnh hầu như sờ thấy được và gần như đốt cháy da.
Trong máy bay mỗi lúc một thêm nóng. Nhưng đó là một hơi nóng nhẹ nhõm, tốt lành. Pêchya toát mồ hôi. Chú buồn ngủ. Bỗng, chú nhớ rằng mình còn phải ghi những nhận xét về hiện tượng thiên nhiên, phải chuẩn bị tài liệu khoa học cho báo Sự thật Thiếu niên, viết những tấm bưu thiếp gửi từ trên máy bay đi cho bạn bè thân thuộc. Lúc này, các tấm bưu thiếp ấy mới thật là giá trị. Không những nó sẽ có câu chú thích hấp dẫn lòng người “Viết từ trên máy bay”, mà còn có thể ghi thêm bằng một nét viết tháu gần như đọc không rõ: “trong khi bay là là mặt đất“. Để rồi xem Ôlia Netsaêva sẽ phản ứng như thế nào, và cái thằng Victo Xađôpnikôp chúa ba hoa tự đắc kia sẽ ngẩn tò te như thế nào. Không phải là chuyện đùa nữa đâu. Không, các bạn ạ, người ta không thể bỏ lỡ một cơ hội như vậy ở trên đời. Một dịp như thế này chỉ xảy ra một lần thôi. Pêchya cựa mình và lục tìm ở túi áo trong những thứ để viết. Chúng đã biến đâu mất cả. Chú bé giật mình ngồi thẳng dậy và cảm thấy có cái gì đang tụt xuống trán. Chiếc mũ lưỡi trai đã biến mất và thay vào chỗ nó là một vòng hoa cúc tím. Galia đang ngồi trên đống va-li ở đuôi máy bay, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai của Pêchya, chân đung đưa, và đang cầm bút chì hí hoáy vẽ lên các tấm bưu thiếp của chú.
— Đích con bé này rồi! — chú đỏ mặt thốt lên.
Điều mà Pêchya sợ nhất trên đời là sự lố bịch! Ấy thế mà bây giờ, đúng vào lúc trang nghiêm đang bay là là mặt đất một cách hào hùng này, trước mặt đông đủ hành khách chú lại đóng vai một thằng ngốc mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đầu tóc bờm xờm, mặt đỏ bừng và bối rối, thậm chí trên đầu lại đội một vòng hoa chứ không phải chiếc mũ lưỡi trai bị đánh cắp. Rõ thật là đẹp trai! Chú tức giận và nhục đến phát khóc lên được.
— Trả ngay các thứ cho tao, — Pêchya nói, đôi mắt đen nhánh long lên sòng sọc — Hiểu chưa? Ngay lập tức!
Nhưng câu nói của chú không gây một tác động gì cho em bé cả. Nó nhìn Pêchya đang giận dữ, xua xua tay, và bỗng dưng cười như nắc nẻ; tiếng cười của nó trong trẻo và thơ ngây đến nỗi người ta có cảm giác như trong máy bay có một cái chuông nhỏ xíu bằng pha-lê đang rung.
— Liệu hồn, đừng có mà làm bẩn bưu thiếp của tao, — Pêchya tuyên bố, nghiêm nghị dằn từng tiếng — Đừng có mà vẽ vào giấy của tao. Giấy tao để nghiên cứu khoa học đấy. Hiểu chưa?
Nhưng chú thấy rõ là con ranh không cần hiểu gì cả. Nó xun mũi lại và thè lưỡi ra với chú. Chú bé mất hết bình tĩnh. Chú quên phắt cả địa vị quan trọng của một nhà hoạt động chính trị, phó chủ tịch câu lạc bộ những nhà khoa học tự nhiên trẻ tuổi thủ đô, và xông lên chiến đấu với những tiếng hò thét hùng hổ.
— Trả bưu thiếp tao đây! Trả mũ tao đây! Mày mà không trả thì...
Nhưng tóm được con bé chẳng phải dễ gì. Nó nhảy thoăn thoắt từ chiếc va-li nọ sang chiếc va-li kia như một con vượn. Nó lánh, ngã, cười sằng sặc. Những hạt trai nhảy lên, những dải băng bay phất phới. Vị phó chủ tịch vất vả lắm mà vẫn không làm gì được con bé ranh ma và mau lẹ như một quả cầu bằng bạc long lanh kia.
— Bố ơi! Bố ơi! — Pêchya sụt sịt khóc — Bố bảo nó trả ngay cho
con những thứ của con đi!
Nhưng ông bố hình như không muốn bênh thằng con vụng về của mình. Tất cả cảm tình của ông hướng về phía em bé khôn khéo và nhanh nhẹn.
— Thiếu niên với lại phó chủ tịch gì mà lại chịu thua một em bé tí xíu thế kia! — ông vừa nói vừa thú vị ngắm nhìn bé Galina mặt đỏ như gấc; lợi dụng cơ hội ấy nó vớ lấy vòng hoa trên đầu chú thiếu niên, cuộn tròn lại trong tay và tung lên trời.
Pêchya đưa mắt thảm hại nhìn đám hành khách, nhưng chẳng tìm thấy ở họ một chút thông cảm nào cả. Họ cười trước cuộc đọ sức ngộ nghĩnh, trước cái trò tiêu khiển nhỏ này. Chú bé hiểu là họ chê chú vụng, đồng thời về hùa với con bé. “À ra thế! — chú nghĩ bụng — rồi sẽ biết tay”. Và nhảy thoắt lên đống va-li, chú túm được vai em bé.
— Trả đây! — chú rít lên.
Nhưng ngay lúc đó, con bé đã co người lại và luồn xuống phía dưới như rơi tuột khỏi tay chú. Trong chớp mắt nó đã rời khỏi đống va-li và lách như một con trạch xuống dưới đống vải bạt che động cơ. Pêchya lao bổ sấp xuống. Nhưng em bé đã kịp chui từ dưới đống bạt ra phía đầu đàng kia. Nó đứng phắt dậy trên đôi chân nhỏ, thanh, rắn chắc và chạy về phía buồng lái. Pêchya xoa cái đầu gối đau, đâm bổ theo, nhưng nó đã kịp chui vào trong buồng, thè lưỡi ra với Pêchya và đóng sập cánh cửa nhỏ bằng nhôm vào mũi chú. Pêchya đẩy mạnh cửa và vừa đập vừa kêu:
— À, à! Hèn lắm! À, à! mày sợ ư? Trả ngay bưu thiếp của tao đây.
Cánh cửa mở ra và ngay trước mũi Pêchya xuất hiện cái thân hình cao lớn của ông phi trưởng.
— Thôi, bầy chim non của tôi, thế là đủ rồi, — ông nói với vẻ không bằng lòng — Định phá máy bay thì bảo. Đùa thế đủ rồi, không tôi ném cả ra ngoài trời đấy. Thôi!
— Nhưng nó phải trả bưu thiếp và mũ của cháu đã, — Pêchya nói, nét mặt sa sầm, và cố lách vào bên ông phi trưởng để chui vào buồng lái.
— Bác Vaxya ơi, đừng cho anh ấy vào, — em bé từ đằng sau người phi công ngó ra, kêu nheo nhéo và thè lưỡi ra với Pêchya.
— Bác bảo nó đừng trêu cháu nữa. Làm sao lúc nào nó cũng thè lưỡi ra với cháu?
— Thôi, lũ nhỏ này! Bác không nhịn được nữa đâu! — và làm ra vẻ giận dừ ghê gớm, một tay túm chặt lấy cổ Pêchya và tay kia túm cổ Galôska, ông kéo hai đứa trẻ đến gần nhau — Dàn hòa di!
— Nó phải trả các thứ của cháu đã.
— Nhưng anh ấy không được đuổi cháu cơ.
— Dàn hòa đi! — người chỉ huy gầm lên.
— Lỗi tại nó. Nó phải dàn hòa trước!
— Không, không. Tại anh ấy gây sự trước!
— Ganka, đừng nói dối, — người chỉ huy nghiêm nghị nói — Bác thừa biết tính cháu rồi. Chắc chắn là cháu đã gây sự trước cũng như mọi lần. Dàn hòa đi! Cháu nghe rõ không?
Bé Galina ngước đòi mắt màu nâu sáng nhìn ông từ dưới lên trên, hơi nhíu mắt và như có phép lạ, trở ngay thành một em bé ngoan ngoãn dịu dàng. Em nhũn nhặn nhìn xuống, sửa lại cái váy xinh xinh và, mắt không thèm nhìn Pêchya, từ sau lưng người phi trưởng chìa ra cho chú cả bưu thiếp và mũ, Pêchya cầm lấy và ngạc nhiên thấy bưu thiếp và giấy của chú chẳng bị vẽ bẩn tí nào.
— Em chỉ giả vờ thôi. Em có vẽ đâu — Galina lễ phép nói, mắt vẫn không nhìn vào Pêchya.
— Cảm ơn, — Pêchya lầu bầu, hơi xấu hổ nhưng vẫn tức. — Thế nào? — Phi trưởng hỏi.
Em bé, vẫn nấp sau lưng phi trưởng, chìa ra cho Pêchya một
bàn tay với ngón tay út sạm nắng cong cong.
— Thế nào? — Phi trưởng nhìn Pêchya, nhắc lại.
Pêchya, vẫn xấu hổ, nhìn phi trưởng và ngón tay út cong cong, không hiểu người ta muốn gì mình.
— Thế nào, — phi trưởng nhắc lại và đẩy Pêchya về phía em bé, — chú không biết phải làm thế nào hay sao?
— Cháu không biết.
— Cái anh chàng này buồn cười thật! Thế chưa rõ hay sao? — Rõ cái gì cơ ạ?
— Em nó muốn dàn hòa với chú.
— Có lẽ ở Mạc-tư-khoa người ta dàn hòa không giống như ở đây, — cô bé nhận xét.
— Thế ở Ukren bạn, người ta dàn hòa như thế nào? — Pêchya hỏi, trong bụng rất tò mò.
— Tùy từng nơi. Ở chỗ em, Khackôp chẳng hạn, thì dàn hòa như thế này. — Và có bé thích thú trình bày cách dàn hòa ở Khackôp. Em móc hai ngón tay út vào với nhau, lắc lắc mấy cái rồi lại bỏ ra. — Anh có muốn làm thế không?
Pêchya nhún vai ra đáng kẻ cả.
— Làm thì làm.
Chú giơ cho em ngón tay út gập cong lại như cái quai chén. Hai đứa trẻ móc những ngón tay bé tí vào với nhau và thẹn thùng như thường tình sau một cuộc dàn hòa, chúng lắc lắc tay rồi rụt lại.
— Hòa chứ? — cô bé vui mừng hỏi.
— Hòa, — Pêchya thản nhiên đáp lại, mặc dầu trong thâm tâm chú cảm thấy nhẹ nhõm vui vui, và có phần phấn khởi nữa là khác.
— Cuộc tranh chấp kết thúc, — phi trưởng tuyên bố, và vị
thần hòa bình bệ vệ rút lui vào trong buồng lái.
Hai đứa trẻ liếc trộm nhau một lát. Chúng không biết sau khi đã chính thức ký kết hòa bình thì nên có thái độ như thế nào. Cô bé phá tan băng giá trước.
— Này, em bảo cái này, — em nói với Pêchya bằng một giọng bí mật làm như vừa khám phá ra được một cái gì vô cùng nghiêm trọng.
— Cái gì?
— Chúng mình đi chơi trong máy bay đi!
— Để làm gì? — Pêchya giữ vững cương vị một đội viên thiếu niên vững vàng và chín chắn, phó chủ tịch câu lạc bộ những nhà khoa học tự nhiên trẻ tuổi, hỏi.
— Để chơi! — cô bé lắc lắc những dải băng và hạt trai, nhởn nhơ trả lời.
— Ừ thì đi, — bị cái vẻ nhởn nhơ duyên đáng của em bé lôi cuốn, Pêchya hiên ngang đáp lại một cách đột ngột.
Giờ cuối cùng của cuộc du lịch bằng máy bay trôi qua mà hai đứa trẻ không hề hay biết. Thoạt đầu, chúng diễu đi diễu lại trên lối đi nhỏ hẹp giữa hai dãy ghế. Chúng không đi bên nhau, mà đứa trước đứa sau, thân mật, đẩy lưng nhau, lúc thì Pêchya đẩy lưng Galia, lúc thì Galia đẩy lưng Pêchya. Rồi Galia xin được phép bác Vaxya cho vào chơi một lát trong buồng lái, ngồi ở cái góc chật chội bí hiểm, nơi mà người báo vụ viên lầm lì ngồi cúi bên máy vô tuyến điện khẽ dập dập cái cần và luôn luôn nói chuyện với sân bay Ôđetxa. Rồi chúng lại nối đuôi nhau đi dạo trong máy bay, trịnh trọng ngồi xuống đống vải bạt che máy. Cô bé nói huyên thuyên và Pêchya được biết khối điều lý thú về em.
Em sống ở Khackôp với bà nội, và bây giờ em đi Ôđetxa thăm bố là chiến sĩ biên phòng; bác Vaxya, ông phi trưởng, là một bạn cũ của bố, và mỗi lần em đi thăm bố, bác Vaxya lại đưa em đi bằng máy bay. Em còn kể rằng mình có đi học, lớp một, và hiện nay đã lên lớp hai; em tham gia câu lạc bộ múa dân gian, đã hai
lần múa ở sân khấu câu lạc bộ đường sắt. Pêchya cũng biết thêm rằng mẹ của Galia chết từ lâu và bố bà ta tức ông ngoại Rôđiôn Ivanôvich Jukôp, trước là lính thủy của hạm đội Hắc-hải, một người đã tham gia cuộc khởi nghĩa của chiến hạm Pôtemkin nổi tiếng. Ông ngoại hiện đang ở thành phố Nikôlaiep.
Thế đấy! Ra đây không phải là một em bé tầm thường tý nào. Trí tưởng tượng của Pêchya đặc biệt bị kích động vì người ông ngoại kia ở chiến hạm Pôtemkin, chiếc chiến hạm lịch sử mà Pêchya đã từng được đọc chuyện ở trong sách, được thấy trong phim ảnh và được bố thỉnh thoảng kể cho nghe. Thật không ai ngờ, và cũng hơi đáng kinh sợ khi tưởng tượng rằng ở một thành phố xa lạ tên là Nikôlaiep, hiện nay đang có một người đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa cách mạng đầu tiên trên hạm đội Nga hoàng.
Đối với Pêchya thì ngay cả Tháng Mười vĩ đại cũng hình như xa xôi lắm, bên ngoài giới hạn của cuộc sống. Và cuộc cách mạng đầu tiên năm một nghìn chín trăm linh năm, đối với chú hoàn toàn là lịch sử cổ đại chỉ được biết qua sách vở và phim ảnh, với những chiến lũy đường phố của nó, với những đội kỵ binh Cô-dắc, những sinh viên, công nhân, những lá cờ đỏ, với trận cháy phố Prexnya, với những người cảnh binh và những đường dây điện thoại bị cắt đứt rơi lằng nhằng buông thõng nặng nề xuống tận đất. Và có biển Hắc-hải mù mịt làn khói ghê rợn của hạm đội, và bóng đen của chiếc chiến hạm ba ống khói, như một bóng ma, xuất hiện từ trong đêm tối bão táp bên bờ biển cao cao với một lá cờ nhỏ cắm trên tháp súng. Bão táp lồng lộn trong cổ áo các lính thủy, những dải băng thánh Jorjơ màu đen và da cam với chiếc mỏ neo bằng vàng, những con chim hải âu vừa kêu vừa sà xuống thành từng hàng trăng trắng từ mặt sóng màu xanh đồng lại bay vọt lên; một thủy thủ trẻ tuổi, chắc, mập, Rôđiôn Jukôp, đang ưỡn ngực đứng trên ngọn cột buồm, tay cầm mũ vẫy vẫy. Và Pêchya thấy khó tưởng tượng được rằng anh ấy chính là ông Rôđiôn Jukôp đang sống ở trên đời, tại Liên xô, trong thành phố Nikôlaiep, và chính anh là người mà em bé ranh mãnh kia gọi một cách rất bình thường là ông ngoại
Rôđiôn Ivanôvich.
12
— Ồ, cái gì thế kia? — Pêchya bỗng kêu lên — Bố ơi, trông kia, xe tăng!
Bốn chiếc xe tăng đang khua bụi, bò trên đồng cỏ, dàn thành đội hình chiến đấu. Bỗng một chiếc dừng lại, quay tháp bắn. Cùng lúc đó, chú bé để ý thấy ở trên thảo nguyên có những đơn vị bộ đội khác, nữa, chứ không phải chỉ có xe tăng. Một hàng dài bộ binh nằm phủ phục dưới đất. Đúng lúc ấy, họ bắt đầu thay đổi vị trí. Một chiến sĩ đứng bật dậy, cúi lom khom, lao lên phía trước, nằm xuống, rồi người thứ hai, thứ ba. Họ nối tiếp nhau chạy và nằm xoài xuống bãi cỏ bụi. Trên đường cái, một xe bọc sắt nhỏ mở hết tốc độ lao lên. Một máy kéo, thở khói xanh, kéo một chiếc xe vận tải khổng lồ nhảy chồm chồm trên ổ gà.
Hai chiến sĩ nhỏ tí xíu vác sào và những cuộn dây đang rải dây điện thoại. Xa xa, mãi gần chân trời, xuất hiện những đám lửa và những cột khói đen phụt tung lên trời.
Pêchya thoảng nhìn thấy tất cả những cái đó cùng một lúc.
— Chiến tranh! — chú kêu lên, với một niềm xúc động bất ngờ, má không hiểu gì về mối đe dọa và sự kinh khủng chứa đựng trong hai tiếng đó.
— Không phải chiến tranh đâu, diễn tập đấy, — em bé nói — Hiện lúc này ở quân khu Ôđetxa đang diễn tập quân sự.
Em bé đã nói lên những tiếng “quân khu Ôđetxa” với một vẻ hiểu biết và một giọng bình thường quá, khiến Pêchya phải vì nể, ganh tị liếc nhìn về phía có bé gì cũng biết kia.
Trong buồng lái, không khí mỗi lúc một thêm nóng. Cảnh đất nước lại đổi thay một lần nữa. Giờ đây là vùng thảo nguyên thực sự của Hắc-hải, đôi chỗ có một vẻ hoang vu cổ xưa, khô cằn và vàng ệch, mặc dầu đang độ tháng sáu. Vài cái hồ lớn bằng phẳng xuất hiện trên đồng cỏ. Hành khách xôn xao và bắt đầu nhìn qua cửa sổ. Bóng máy bay lướt trên các vịnh nước thấp có những vệt lăn tăn đang chạy. Nhiều dải cát xanh xám hiện qua lần nước sánh màu hoa mua, sâu đến nỗi đôi chỗ nó ánh hồng, thậm chí đỏ tía.
— Đầm nước mặn Tiligun! Đầm nước mặn Tiligun! — em bé kêu lên và mừng quýnh vỗ tay — sắp tới Ôđetxa rồi, em sắp được nói chuyện với bố rồi.
Em bé xúc động quá đến nỗi bắt đầu chuyển sang nói tiếng Ukren, và vừa liếc trộm Pêchya, em vừa đỏ mặt thẹn.
— Chúng mình sắp qua Đôlinôpka, em xem xét địa thế rồi nói.
Nghe những tiếng kỳ dị: đầm nước mặn Tiligun, Đôtinôpka, Pêchya cảm thấy tim hơi lạnh thót lại. Vì thế chú cũng đỡ ngó ngoáy. Chú tiến lại gần bố — ông vẫn không rời mắt khỏi cửa sổ và hau háu nhìn ra ngoài — rồi nép mình vào bố như muốn yêu cầu ông chia sẻ nỗi bồi hồi của đứa con trai. Piôt Batsây hiểu tâm trạng của con. Ông lột cái mũ lưỡi trai trên đầu con và, vò rối mớ tóc nóng ẩm của nó, ông âu yếm nói:
— Thế nào, Pêchya, đi tàu bay có thích không?
— Thích lắm, — chú bé dịu dàng đáp lại.
Ông bố bồi hồi chẳng kém gì con, có phần hơn nữa. Cả hai chen chúc bên khung cửa sổ hẹp, cố nhìn lên phía trước, bên trên cánh, nơi không khí ban mai long lanh ánh bạc.
Một cái gì trông khô khô, hồng hồng chạy ngược tới phía hai bố con.
— Đôfinôpka, — ông bố tỳ trán lên khung kính không vỡ, nói. Pêchya cố nhìn, nhưng chẳng thấy gì cả ngoài vật hồng hồng,
khô khô kia.
Lối bay đã thay đổi rõ. Máy bay bắt đầu bay lên mỗi lúc một cao hơn, nhịp nhàng và nhanh, nhưng mắt hầu như không nhận thấy được. Chỉ thấy trong tai ù ù. Máy bay lên cao, cao dần, tưởng chừng như leo từng bậc một trên những dải không gian rộng lớn.
— Biển! — người phi trưởng hiện ra ở bực cửa buồng lái, vui vẻ nói.
— Biển! — bé Galina kêu lên — Biển!
— Hắc-hải! — Piôt Vaxiliêvich ôm chặt con trai vào người, dịu dàng nói. Nhưng Pêchya vẫn không trông thấy gì cả, Đôfinôpka cũng không, mà biển cũng không.
— Đâu? Biển đâu? — chú bối rối thốt lên, trố mắt nhìn để thấy được biển, nhưng vẫn chẳng thấy gì cả, ngoài cái ánh sáng bạc lấp lánh phía chân trời.
— Biển kia thôi! Ở đây này, bên dưới. Bên dưới chúng ta. Sao, con không thấy à?
Pêchya cố giương mắt nhìn xuống phía dưới, và bỗng dưng chú nhìn thấy, thăm thẳm ở phía dưới, một mầu bản đồ địa dư màu. Chú thấy rất rõ nét một đường ngoằn ngoèo ngăn cách đất liền màu gỉ sắt với nước biển xanh thẫm. Lượn về phía nam, máy bay vượt qua bờ biển. Nhiều nếp nhăn xanh dài xếp thành hàng dọc chạy theo bờ biển, vẽ lại rất chính xác đường cong của bờ.
— Cái gì đấy hả bố? — Pêchya không hiểu gì cả, hỏi. — Biển đấy, sóng đấy.
Đây đó trên bờ biển không biết có những hình quả trám nho nhỏ gì đen bóng, trông tưởng như in bằng thạch bản.
Đó là những thuyền đánh cá và tàu đáy bằng. Chúng nằm chổng đáy lên trời. Đáy sơn bằng hắc ín.
Pêchya chăm chú nhìn. Đúng, hoàn toàn đúng. Đó là những
y g g g chiếc thuyền đáy sơn hắc ín nằm sấp. Chú còn trông thấy nhiều vật nhỏ xíu rất lạ. Chú không kịp nghĩ xem đó là những cái gì vì trong nháy mắt chú đã hiểu được ngay. Đó là những mái chèo để bắt chéo nhau và những tấm lưới phơi lên trên. Chú trông thấy một đàn ngựa bóng loáng như những tấm gương để ngoài nắng, có lẽ vừa được tắm xong và người ta đang dẫn trở về thảo nguyên. Pêchya để ý thấy những hàng nếp nhăn xanh dài kia di chuyển và vào đến gần bờ thì gộp lại với nhau, biến thành những dải bọt trắng như tuyết. Nhưng còn chính bản thân biển thì đâu? Pêchya đã chuẩn bị tinh thần để được thấy biển Hắc-hải rất to, rất dữ tợn. Nếu nó không đen kịt — chú nghĩ thế — thì ít nhất màu nó cũng phải tối sẫm với một đường chân trời hằn rõ. Thế mà chú chí thấy những chi tiết lặt vặt. Còn tất cả khoảng mênh mông của biển cả thì hòa lẫn vào trong cái ánh bạc chói chang của không khí, khiến lúc hướng về phía mặt trời gay gắt ban mai, người ta không thể trông thấy nó, mà chỉ đoán thấy nó. Nhưng cứ nghĩ rằng biển đã gần ngay đây kia, với tay là thấy, lòng chú bé cũng đã tràn ngập hân hoan. Bỗng trong cái ảo ảnh sáng lòa của ánh nắng, chú nhận ra một con tàu. Không phải một con tàu trên sông, mà là một con tàu thực sự, với một vành sơn đỏ trên chiếc ống khói đen và một dải khói nâu tỏa trên cái mặt nước sáng rực không trông thấy. Cử tưởng như con tàu đậu yên, không nhúc nhích. Nhưng chú bé biết là nó đang chạy. Nó chạy cùng một chiều với máy bay, về phía Ôđetxa.
Máy bay lại lượn vòng một lần nữa. Con tàu đã khuất. Lại bay trên đất liền. Máy bay vòng theo một thành phố lớn. Thành phố dường như gần lắm, với những làn khói nhà máy, với bóng dáng những xí nghiệp, những bến tàu, những tháp nước có rào sắt, những máy trục, những nhà ga, những cầu chui. Pêchya nhìn thấy rõ những mái nhà chen chúc, những khu phố hình ô vuông, cái vịnh với con đê cảng[3] ngoằn ngoèo và ngọn tháp hải đăng nhỏ, trắng như tuyết.
Tất cả những thứ đó không gợi lên một cảm xúc gì đặc biệt hết, trừ cái thú được từ trên cao nhìn xuống thành phố, trông nó giống một bát chữ in, như những bát chữ mà gần đây Pêchya đã
được xem ở Mạc-tư-khoa, lần đội thiếu niên đến tham quan nhà in báo Sự thật thiếu niên. Nhưng Piôt Vaxiliêvich thì phấn khởi lạ lùng, trông trẻ ra nữa. Pêchya chưa bao giờ được thấy bố bồi hồi như thế. Ông nhảy từ cửa sổ nọ sang cửa sổ kia, cố không bỏ sót một tý gì. Cái mà Pêchya coi rất bình thường là một cây đèn pha, một cái đê cảng, một cái vịnh, thì đối với bố chú đó là cây đèn pha Ôđetxa nổi tiếng, là cái đê cảng Ôđetxa nổi tiếng, là hải cảng Ôđetxa nổi tiếng, với vô số những công trình bê-tông mới nhiều tầng, những cần trục rất khỏe, những máy ướp lạnh, những đê gỗ, vô vàn những phương tiện máy móc bốc dỡ khác nhau. Tất cả những cái ấy hợp thành một thành phố riêng biệt. Ông bố lẩm bẩm nhắc tên những phố, ngoại ô, quảng trường. Chốc chốc ông lại kéo thằng con đến bên cửa sổ, bắt nó nhìn xuống phía dưới.
— Trông, trông mau lên kìa! Thấy không, đây là cái mái tròn Nhà hát thành phố nổi tiếng của Ôđetxa đấy.
Ông giơ ngón tay chỉ qua cửa sổ và âu yếm mỉm cười với cái mái tròn nổi tiếng. Chú bé vất vả lắm mới phát hiện ra cái mái nổi tiếng trông như cái vỏ ốc xanh; nó không gợi cho chú một chút say sưa nào cả.
— Trông, trông kìa! Kia là Tsumka, kia là Xakhalinsic, kia là Cối xay Gần... Nhanh lên! Sắp bay khuất rồi!
— Đâu, cối xay đâu? — chú bé rối tinh lên, hỏi, không thấy bóng dáng một cái cối xay nào cả, và cũng chẳng hiểu Tsumka, Xakhalinsic là cái gì và có gì là ghê gớm.
— Khỉ ơi, nói ít chứ, để mà nhìn! Làm gì có cối xay nào, tên gọi như thế thôi.
— Nhưng đâu, nó đâu?
— Bay qua rồi, — ông bố rầu rầu đáp lại, — con thật là thộn quá! Đã để qua mất chỗ Cối xay rồi. Trông kia! Kia là cái máy trục. Thấy không? Cái máy trục nổi tiếng của Ôđetxa.
— Đâu? Cái máy trục nổi tiếng đâu? — Pêchya quýnh lên hỏi.
— Đây kia thôi! Con không trông thấy gì cả sao? Kia kìa, chỗ màu xám ấy. Hai ngôi nhà cạnh nhau. Và kia là trường bắn.
Pêchya cố nhìn kỹ xuống bên dưới. Nhưng máy bay lại lượn, và chú bé lại thấy thảo nguyên quen thuộc, khô cằn và xam xám.
13
Ở Ôđetxa, miền Nam độc quyền thống trị. Buổi sớm oi bức chói lòa trên cảnh lặng ngắt của đồng cỏ. Người ta cảm thấy nó nồng nặc mùi ngải non, mùi chĩa ba, mùi cúc tím và hương cây cỏ. Không khí phía chân trời nóng như lửa. Những bụi cây tua tủa và những ngôi nhà trắng của sân bay, rải rác trên những khu đất đã trở lại tình trạng hoang dại, động đậy, tỏa ra xa những làn sóng như những ảnh phản chiếu trên một dòng nước chảy.
Pêchya được bố giúp đeo ba-lô lên vai và hai người đi ra cửa sân bay. Đám người ra đón bà con đi ngược lại phía họ.
— Bố yêu! — Bỗng Galia chạy lao tới, kêu nheo nhéo.
Với đôi chân bé nhỏ, sạm nắng, trên người lấp lánh hạt trai và dải băng, bé chạy thật nhanh về phía một người đàn ông đang ngồi xổm giơ hai tay ra trước mặt em... Em nhào vào giữa, hai cánh tay dang thẳng ôm ngay lấy em tung hê lên trời.
— Bố yêu! Bố yêu của con! — em vừa kêu vừa cười như nắc nẻ, vui không để đâu hết.
Còn người kia thì tung hê em lên rất cao, đỡ lấy, vần em như vần củ khoai. Cái mũ lưỡi trai chiến sĩ biên phòng rơi xuống bãi cỏ trắng hụi. Vòng hoa bay tung lên. Mái tóc đen của em bé nhảy múa trên vầng trán sạm nắng và đẫm mồ hôi.
— Thôi, bố! Bố ơi, đừng làm nữa!
Em bé không kêu nữa, nó rên rỉ, gù gù như một con bồ câu, vui sướng đến mệt lả. Cuối cùng, ông đặt nó ngồi cưỡi lên trên cái cổ sạm đen của mình, nhặt mũ lưỡi trai lên phủi phủi.
— Anh Pêchya ơi, lại đây, trông này! Bố yêu của em đấy, — em líu tíu nói rất cảm động.
— Này, bố yêu ơi, anh ấy là Pêchya đấy. Anh ấy là một đội viên ở Mạc-tư-khoa. Chúng con cùng đi với nhau. Ở trên máy bay, con đã lấy hết bưu thiếp của anh ấy. Chúng con đã dàn hòa với nhau rồi. Bác Vaxya đã đứng ra dàn hòa cho chúng con. Mẹ anh ấy vẫn ở lại Mạc-tư-khoa. Anh ấy đi công tác với bố về Ôđetxa. Họ đang đi công tác đấy.
Em bé ríu rít mãi không thôi. Em vui sướng một cách thơ ngây thấy rằng mọi sự ở trên đời đã được xếp đặt khéo như thế. Em có một người bố và Pêchya cũng có; hai đứa cùng đáp máy bay đi du lịch; hai đứa đã giận nhau tí ti và rồi, nhờ trời, đã dàn hòa được và mọi việc đều yên lành. Nhìn chung, cuộc đời đẹp quá.
— Tốt lắm, — người bố yêu, xem chừng cũng cùng một tính tình với con gái, nói. — Chú này là chàng hiệp sĩ mắt xanh mới của con chứ gì. Có bạn mà đánh quen thì thích đấy.
Và bố Galina chìa ra cho Pêchya bàn tay to, rắn, đen sạm với những móng tay trắng rất to bản.
— Cháu không phải là hiệp sĩ — Pêchya vừa lầm bầm vừa chào rất ngượng nghịu.
— Cháu là phó chủ tịch đấy, — bố Pêchya nói — đùa dai với ông phó chủ tịch là không xong với ông ấy đâu.
— Bố cứ...! — Pêchya nói bằng một giọng đau khổ và trách móc.
— Càng tốt — người chiến sĩ biên phòng thốt lên. — Chúng tôi thích các ông phó chủ tịch lắm. Phải không, Galina?
Pêchya sắp tự ái đến nơi, nhưng ông bố Galina có một vẻ mặt ân cần cởi mở quá, với đôi mắt xanh lam, cái miệng rộng gió thổi se khô lại, và những giọt mồ hôi long lanh trên mũi; trông ông rắn rỏi quá, thoải mái quá trong đôi bốt dày bụi, trong chiếc áo va-rơ vải bạc màu, cô bé gập xuống, viền thêm một cái cổ khác khâu rất cẩn thận. Ông đậm đà mùi đồng cỏ quá làm cho Pêchya bỏ qua không nỡ giận, và cảm thấy tự hào được một vị chỉ huy biên phòng thực sự nói đùa mình. Nhân cơ hội gặp người am hiểu, chú định tranh luận về chuyện biên phòng, chuyện bọn khiêu khích, chuyện chó săn; nhưng vừa lúc đó, một chiếc xe tải xuất hiện.
— Thôi, Galina, con từ biệt chàng hiệp sĩ của con đi. Bắt tay ông phó chủ tịch đi.
— Chào anh Pêchya. Khỏe nhé. Chúng tôi đi đây, — cô bé nói. — Galina về đâu? — Pêchya hỏi, giọng luyến tiếc.
Chú cảm thấy cuộc gặp gỡ đẹp đẽ này sắp đứt quãng đến nơi rồi. Chú sẽ không bao giờ còn được thấy cô bé vui tính và ăn mặc sặc sỡ này nữa.
— Em đi Betxarabi, — Galina vui vẻ nói, rõ ràng là em không có một chút luyến tiếc gì phải xa rời Pêchya mãi mãi.
Điều đó đã chạm lòng tự ái của chứ bé.
— Thế mà anh cứ tưởng Galina về Ôđetxa ở?
— Không mà.
— Thế chúng mình sẽ không gặp nhau nữa ư?
— Không, sẽ không gặp nhau nữa!
— Thôi, con ơi, từ biệt thế đủ rồi. Ta lên xe thôi, bố chỉ được phép đến ba giờ. Chào ông phó chủ tịch!
Người chiến sĩ biên phòng đặt em bé ngồi bên người lái xe. Rồi ông tự giới thiệu với bố Pêchya:
— Trung úy Paplôp.
— Batsây, — ông này đáp lại.
— Tôi có biết đồng chí, — Paplôp nói, đôi mắt tươi cười — Hai năm trước, đồng chí đã đến nói chuyện ở một câu lạc bộ về lịch sử luật pháp xô-viết. Đồng chí có nhớ không? Tôi nhận ra ngay đồng chí. Đồng chí ở Ôđetxa có lâu không?
— Hai ba tuần. Tùy tình hình công việc. Tôi có việc phải trọng tài ở đây.
— Đồng chí có định đi thăm Betxarabi chúng tôi không?
— Muốn lắm. Đó là cái mộng từ lâu của tôi. Có thể nói Betxarabi là quê hương thời thơ ấu của tôi. Bugadơ, Sabô, Akecman, Buđaki...
Đôi mắt Piôt Vaxiliêvich long lanh khi ông nhắc đến những tiếng đó, nó đối với Pêchya cứ như những câu thần chú.
— Vậy thế nào?
— Có cần giấy phép không?
— Cần.
— Cứ coi như là tôi xin được giấy phép, thì đi như thế nào? Tàu Tuôcghêniep không còn chạy nữa.
— Tàu Tuôcghêniep ư? — Trung uý Paplôp tò mò nhìn Batsây, cho là ông nói đùa.
— Thời tôi ở đấy, có chiếc tàu thủy nổi tiếng tên như thế. Tàu đóng giữa thế kỷ thứ 19, có hai ống khói.
— À, vâng! Tôi hiểu. Không, tàu Tuôcghêniep không chạy nữa. Nhưng đồng chí có thể tìm ô-tô mà đi, và...
— Được, được, tôi sẽ hỏi thăm.
— Vậy, xin mời đồng chí! Đồng chí nên đi thăm Betxarabi giải phóng. Có thể đồng chí sẽ có dịp bàn bạc với anh em sĩ quan chúng tôi về các vấn đề luật pháp. Anh em sẽ hoan nghênh lắm. Và, đối với lũ trẻ thì mê lắm: biển, cát, đầm nước mặn... Này, ông phó chủ tịch, — người sĩ quan nói với Pêchya, — ông có muốn du
lịch bằng tàu thủy trên Hắc-hải một chuyến không? — Muốn thì có được không ạ? — chú ngập ngừng hỏi.
— Muốn là được tất. Tôi chắc ông phó chủ tịch sẽ không phản đối. Vậy, xin mời đồng chí. Đồng chí sẽ không phải tiếc đâu. Đồng ý chứ?
— Đồng ý! — Piôt Vaxiliêvich thốt lên vui vẻ — Đồng chí gửi cho tôi xin một giấy phép.
— Chúng tôi sẽ gửi. Địa chỉ như thế nào?
— Khách sạn đó.
— Đồng chí nói thực đấy chứ?
— Thực trăm phần trăm.
— Vậy chúng tôi sẽ chờ.
Trung úy bắt tay Batsây thật chặt rồi nhảy tót lên chiếc xe tải; nó lôi xốc trung úy Paplôp và đứa con gái của ông đi trong một đám mây bụi, — cái thứ bụi đặc biệt của bờ biển Hắc-hải với tất cả những dải băng, hạt trai, những bím tóc xinh xinh, cái làn của bà nó, vòng hoa cúc tím của Khackôp đặt lệch xuống bên tai.
Còn lại một mình hai bố con Pêchya, và trong giây lát Piôt Vaxiliêvich cảm thấy trong lòng một nỗi lo âu khó tả, một tâm trạng nặng nề kỳ lạ, chẳng hiểu cái bóng râm kia đã bỗng dưng từ đâu tới, phủ lên mặt đất khô bóng ánh nắng tháng sáu.
14
Không ai đến đón họ cả. Quả thực là ít lâu trước khi đi, Batsây có gửi cho Kôletnisuc một bưu thiếp, và cả một bức điện nữa,
trước hôm lên đường. Nhưng không nên tin tưởng vào ông ta. Batsây biết tính Kôletnitsuc lắm.
— Chậc — ông nhìn sân bay vắng vẻ, nói — thành phố cũng chẳng xa lắm, năm sáu cây số thôi. Đối với những nhà du lịch dày dạn thì ăn thua gì, phải không Pêchya?
— Đúng thế, bố ạ — chú bé hòa theo thái độ vui vẻ của bố, mau mắn đáp lại.
Piôt Vaxiliêvich cầm lấy tay Pêchya và hai bố con cất bước đi, dũng cảm như trong những giấc mơ của Pêchya: ông bố lớn tướng như thế và chàng con trai bé tẹo như thế, vai đeo ba-lô, hãnh diện, kiên cường, đơn độc.
Thoạt đầu, họ bước trên cỏ rìa sân bay, rồi trên con đường bụi bậm của thảo nguyên, đi về phía thành phố. Pêchya thú vị ngắm nhìn bố mình trẻ lại, vui vẻ và can trường. Batsây bỏ mũ ra, vừa khua khua vừa huýt sáo bài hành khúc vui nhộn trong phim: chiến sĩ vui tính: “Ai suốt đời ca hát sẽ không bao giờ chết“. Ông nới cà-vạt, cởi khuy cổ áo ra. Mải tóc sẫm màu hơi hoa râm của ông rẽ đường ngôi giữa, trên đỉnh dựng ngược cái chỏm bướng bỉnh như chỏm tóc trẻ con, đôi mắt ông long lanh như mắt con nít hau háu nhìn mọi vật quanh mình.
— Thích không, hả Pêchya?
— Thích lắm.
Chú bé đã nói thật. Chú thích được đi tay khoác tay với người bố cao lớn và vui tính, chú cảm thấy mình không những là đứa con yêu, mà còn là người đồng chí trẻ tuổi được quyền tự do và cái quyền độc lập đặc biệt đến mức nào đó, rất hiên ngang. Nhưng về cảnh vật miền Nam thì chú mong chờ nhiều hơn thế. Nó đã làm chú vỡ mộng. Nó khô cằn quá, tẻ ngắt quá. Hai bên đường, có những con trạch trên mọc dạ hợp. Đây là lần đầu tiên chú bé được thấy loại cây vô duyên ấy: đó là một thứ bụi rậm, thân rất mảnh và dài, lằng nhằng, vào nhau, phủ lên bờ đất những lùm lá bụi bám đen, lác đác ít hoa cánh sao xinh xinh hầu như trông không thấy, và màu tử đinh hương bạc bạc, có
thể gọi là những bông hoa “mồ côi“. Đôi chỗ, phía sau con trạch lại trông thấy một cái mái lợp bằng đá đen, hoặc bằng lau sậy của một ngôi nhà dài trát đất sét trắng, cái cần giếng nghiêng nghiêng, những lùm lá xanh của một loại cây lạ, lăn tăn màu lạp phách biêng biếc, bụi trắng, giống như cây hồ ngươi. Bố chú kiêu hãnh nói đó là cây dạ hợp trắng nổi tiếng của Ôđetxa. Nó nặng trĩu những chùm hoa trắng, đã khô nên hóa ra vàng vàng. Hoa rụng. Những ổ gà sâu trên đường đầy ắp những cánh hoa. Một làn gió nóng thỉnh thoảng thổi qua, nhẹ bốc cánh hoa rắc lên mặt đường, nghe lao xao như tiếng lụa và trông như những con bướm chết đã để lại đó những đôi cánh khô.
Chú bé thấy oi bức khó chịu. Chú bắt đầu kéo lê chân. Nhưng Piôt Vaxiliêvich thì hình như không biết cả đến cái nóng nực nữa. Bỗng, ông cất bước chạy, nhảy qua con trạch, rồi trở lại, người trắng những bụi, tai gài một cành nhỏ dạ hợp trắng.
Vừa vặn lúc ấy, từ sau một quãng đường ngoặt xuất hiện một chiếc ô-tô. Đó là một chiếc xe cỗ lỗ sĩ mui bằng vải bạt. Trên ghế đằng sau, hai tay bám chặt vào mép mui, Kôletnisuc đang nhảy cẫng lên. Mặt ông toát lên một vẻ phấn khởi.
— Đỗ lại, Xviatôxlap! — Kôletnisuc trông thấy Piôt Vaxiliêvich và Pêchya, ra lệnh.
Nhưng không phải dễ gì dừng được cái xe rõ ràng là đúng đến lúc này mới chịu bằng lòng chạy tử tế. Xe chưa đỗ, Kôletnisuc đã lựa lúc nhảy xuống, chạy tới chỗ Batsây. Chà, trông ông ta khác hẳn cái bác Kôletnisuc nhút nhát, vụng về đã đem đến Mạc-tư
khoa những bản báo cáo hàng năm và món “thỉ xa cúc“! Thật là một con người hoàn toàn khác. Mặc toàn vải, chẳng lúng túng ngượng nghịu tý nào, chân để trần, đã sạm nắng sớm, xỏ trong đôi dép, vẻ mạnh bạo, trông ra vẻ một vị đại úy hơn là một kế toán viên.
— Sao anh không ra sân bay đón chúng tôi, hả đồ súc sinh? — Piôt Vaxiliêvich đôi mắt long lanh, ôm chặt lấy ông ta và vỗ vỗ vào lưng, hỏi.
Ấ
— Ấy, tại cái xe nó giở quẻ. À mà anh xem cái xe của tôi chưa? ... Xviatôxlap, cho xe lại đây, mau lên!
Và thế là Pêchya đã ngồi bên anh tài xế Xviatôxlap, một chàng thanh niên kiêu kỳ đi giày thể thao, mặc áo may-ô đá bóng màu hoa li-la, gắn đặc những huy hiệu địa phương và những thứ linh tinh gì không biết. Bố chú và bác Kôletnisuc ngồi đằng sau. Xe ô
tô chạy nhong nhong về thành phố. Nó gầm gừ, đánh rắm phành phạch, lắp bắp và xoay xở mọi cách để hất những người cưỡi nó xuống đất bụi. Đôi lúc Pêchya thấy hình như nó lồng lên nữa. Nhưng không phải vô cớ mà Kôletnisuc đã đánh giá anh chàng Xviatôxlap kiêu kỳ kia là một tay lái cự phách, người tài xế kiêm thợ máy giỏi nhất vùng Ôđetxa. Với một vẻ kiên nghị không gì lay chuyển nổi và một vẻ lạnh như tiền, Xviatôxlap nắm vững tay lái chiếc xe bất kham, không cho phép nó chuệnh choạng tí nào. Nghiêm nghị, với cái mũi La-mã, với mái tóc bóng hất ngược ra sau và chụp trong một cái lưới, Xviatôxlap luôn tay luôn chân, đẩy, đạp những cần và những bàn đạp ít ra cũng phải nhiều gấp đôi so với những ô-tô bình thường. Đôi lúc, người ta có cảm tưởng xe chạy được không phải nhờ đốt cháy khí nén trong động cơ, mà nhờ người lái nó đã đạp một cách không mệt mỏi lên những bàn đạp, như một người đi xe đạp vậy.
15
Dầu sao, trước sự ngạc nhiên của Pêchya, xe ô-tô chạy cũng khá nhanh. Thoạt tiên là những bờ tường đá dài màu cát chạy ngược tới phía họ. Rồi bắt đầu đi ngang qua những ngôi nhà một tầng và đôi chỗ hai tầng cũng xây bằng thứ đá ấy, với mái tôn và những cái cửa vòm tròn ở giữa mặt nhà. Trong bóng tối thăm
thẳm của một lò rèn, bên cạnh có những bánh xe mới làm nằm lỏng chỏng dưới đất, một ngọn lửa da cam đang phun phì phì, và một thanh sắt đỏ rực đang ánh lên những ánh âm thầm.
Giờ đây, đường thành phố cũng như con đường lúc nãy, lắc rắc hoa dạ hợp. Bắt đầu vào thành phố. Một phố rộng và thẳng kéo dài mãi. Nếu không có dạ hợp trồng suốt dọc đường thì nhìn nó có thể thấy tẻ ngắt. Nhưng như thế này nó lại duyên đáng, với cái vẻ hài hòa giữa ánh nắng và bóng râm. Qua lớp lá cành yếu ớt và trong xanh như màu nho, ánh lên những mặt nhà màu vàng cát của những ngôi nhà lớn nhỏ trong thành phố, với những cổng tròn và những lan can sắt, có những cây cảnh được đưa ra đặt ở đó để chờ mưa. Khắp nơi, cửa sổ đều để ngỏ. Trên hè phố lát đá xanh ánh các ô kính rung rinh chỗ tỏ chỗ mờ.
Pêchya tò mò nhìn dân phố kéo cả gia đình ra ngồi ngoài hè trước cửa nhà để hưởng phút nghỉ ngơi ngày chủ nhật. Có cái gì đặc biệt miền Nam, hay hay và hơi quê mùa trong cảnh ngay ở đây, ngoài đường, dưới bóng dạ hợp trổ hoa cuối mùa, có những bếp cồn đang reo trên ghế đẩu.
Các bà nội trợ đang nấu bữa ăn chiều; mùi cá bể rán khen khét nhưng thơm ngon hòa vào mùi dạ hợp trắng dìu dịu. Trước cửa một nhà, còn có cả cái giường gối đỏ, khiêng ở trong nhà ra, trên có một thằng cu con tóc quăn nằm ngủ. Những chú bé đi đất, quần xắn móng lợn, vác những chiếc cần câu tre dài ghê gớm (“Đi câu bể đấy!“ Pêchya phục lăn nghĩ thế), đầu rất cong, rất mảnh, khua hoa héo ở trên cây rơi xuống rào rào. Vài ba đứa đeo lủng lẳng ở cổ tay những chùm cá con dính đầy cát trông như tẩm bột bánh.
Xe đi một lát lâu dọc theo những công xưởng và nhà máy cũ, mới. Pêchya để ý thấy các công xưởng cũ từ trước cách mạng thì trông âm u như trại lính bằng gạch và cửa sổ mở toang ra đường. Từ trong vang ra tiếng máy dệt và tiếng vù vù của dây truyền lực. Các xưởng bằng bê-tông và kính của những nhà máy mới, do chính quyền xô-viết xây dựng trong những kế hoạch năm năm đầu, thấp và rộng rãi, thì nằm giữa những vườn cây
non xanh tốt. Trên con đường rải nhựa, một chiếc xe nhỏ chạy điện đang lăn bánh, kéo theo một toa “moóc“ hòm lớn. Giữa một lùm cây khẽ rung rinh tia nước nhỏ và óng ánh của một vòi phun nước. Trên những cảnh cửa sắt của nhà máy, dưới bóng dạ hợp, có treo những tấm bảng gỗ to tướng đính chân dung các chiến sĩ Xtakhanôvich; bóng cây trụi hoa hắt lên những phân số thập phân ghi mức vượt kế hoạch ba tháng, lên những biểu đồ ghi mức tăng của sản xuất hàng ngày, nom như một tấm đăng ten.
Cuối cùng, hết khu nhà máy. Bắt đầu xuất hiện những cửa hiệu với những tấm bảng đề bằng chữ Ukren và chữ Nga. Theo tiếng Ukren thì hiệu thợ cạo gọi là “pêru- kacnia”; kem gọi là “môrôxivô”; hòm thư “pôxtôva srinka”; hiệu sách “knigacnia”; bến tàu điện “dupinka“.
Pêchya kính cẩn đọc những chữ có âm điệu hay hay ấy, mặc dầu đối với tai người Mạc-tư-khoa của chú, những tiếng Ukren ấy có hơi kỳ dị một chút; chú thích nhất tiếng “môrôxivô”, nghĩa là kem, nghe như lởm chởm những gai đá lạnh nho nhỏ và gợi cho người ta thèm muốn được đặt lên cái lưỡi khô bỏng một thìa kem nhỏ trông tựa kim cương.
Xa xa, trong tiếng ầm ầm như vỡ chợ, một toa xe điện nhỏ chạy, chở đầy ních; từ các cửa sổ và chỗ đứng tua tủa ra cả một rừng cần câu dài màu vàng ánh.
Một chiếc xe hai ngựa, thành buông thõng, chở đầy nước đá. Những tảng đá dài, hai đầu đã chảy lõm vào, nhảy lộc xộc trên ván xe. Một chùm ánh sáng khô khan, phản chiếu lại từ đâu trong lòng một tảng nước đá, vỗ vào mắt. Pêchya hấp háy mắt, và bỗng cảm thấy sâu sắc đặc biệt tất cả cái mới mẻ của buổi trưa miền Nam oi ả tại một thành phố xa lạ, ở một nơi cùng trời cuối đất, bên một biển cả chưa trông thấy đâu. Chú bỗng thấy khát nước ghê gớm, thèm một ly “môrôxivô”.
Piôt Vaxiliêvich nửa biết nửa không thành phố này. — Này, — ông bồi hồi nói, — mình nhớ như, ở ngay chỗ này,
xưa là chợ giời.
— Bây giờ còn làm gì ra “chợ giời“ — Kôletnisuc hãnh diện cười, đáp lại — Nói chuyện chợ giời thì anh hãy thử nhìn kia, xem bây giờ là một vườn hoa như thế nào. Thật là một công viên!
Và Piôt Batsây ngạc nhiên thấy ở ngay chỗ xưa kia là chợ giời với tất cả cái bẩn thỉu, nghèo khổ và ô hợp của nó, nay là một vườn hoa râm mát, tắm trong ánh nắng, rực rỡ hoa hè trong những lùm cây giữa những bãi cỏ xanh màu ngọc bích. Từ vườn hoa đó, tỏa ra khắp các hướng, những lối đi thẳng tắp, râm mát, và rất xa thấp thoáng những ngói nhà mới nhiều tầng, có hoa nở trên các bao lơn bê-tông.
Trước khi tới trung tâm thành phố, xe ô-tô lượn qua các phố hẹp.
— Ê, này, anh đưa chúng tôi đi đâu vậy? — Piôt Vaxiliêvich kêu lên.
— Đưa đến chỗ cần đưa, — Kôletnisuc trả ỉời.
— Đưa chúng tôi đến Khách sạn Đỏ!
— Không có đỏ điếc gì cả! Tôi chỉ huy hành quân. Ở Mạc-tư khoa, tôi đã quấy anh nhiều rồi. Bây giờ đến lượt anh phải quấy lại tôi.
— Điên à, đỗ lại, — Batsây tiên sinh vừa cười vừa kêu lên — Mình đã hẹn một đồng chí...
— Mặc!... Xviatôxlap, bảo này: về nhà nghỉ mát.
— Anh có nhà nghỉ mát ư? — Piôt Vaxiliêvich sửng sốt kêu lên.
— Còn phải nói!
— Lâu chưa?
— Năm nay là hai năm. Mình đã tự tay xây lấy. Hỏi Xviatôxlap mà xem... Phải không, Xviatôxlap?... Tóm lại, đó là một biệt thự
hách ra phết. Từ Luxdof đến Ludanôpka, không đâu có cái biệt thự như vậy!
— Đùa đấy chứ?
— Mình không có tính đùa.
— Tôi không tin.
— Rồi xem.
— Dầu sao, tôi thấy ở Khách sạn Đỏ vẫn hơn...
Nhưng Kôletnisuc nhất định không nghe. Ông vẽ cho Piôt Vaxiliêvich những bức tranh mê ly quá về cái biệt thự nổi tiếng, ở đó “bà lão” nhà ông đang đợi họ và hứa chuẩn bị cho các vị khách Mạc-tư-khoa cái món cà Ukren và món cá Hy-lạp, đến nỗi Batsây tiên sinh đã sổ toẹt lên cả Khách sạn Đỏ, lẫn Betxarabi và công tác, và nói với một giọng lâng lâng:
— Cũng được! Không sao! Không quan trọng lắm. Đưa bố con tôi về biệt thự của anh!
Pêchya nhận thấy từ lúc nhảy ở trên cái thang nhôm xuống sân cỏ trường bay Ôđetxa, bố chú như đã thay đổi hẳn: ông trở nên nhanh nhẹn, vui vẻ và dễ tính khác thường. Hình như ông rất thú vị được nhanh nhẩu không chút phàn nàn, phục tùng hoàn cảnh. Đi bộ ư? ừ thì đi hộ. Đi ô-tô ư? Thì đi ô-tô. Về biệt thự ư? Thì về. Số phận ném đi đâu, không quan trọng, đâu cũng tốt cả, không cần gì hơn, bởi vì quanh ông đều là Tổ quốc, là thanh xuân, là hạnh phúc của ông cả.
Và, hệt như bố, Pêchya thấy trong lòng lâng lâng cái say sưa phảng phất và vô tư lự của sự phục tùng. Thực ra cũng hơi đáng tiếc là không được xem ngay từ hôm nay cái Nhà hát thành phố nổi tiếng của Ôđetxa, cái cầu thang nổi tiếng, khẩu đại bác đặt ở đại lộ, pho tượng công tước Risơliơ với quả trái phá của chiếc thuyền Anh-cát-lợi cắm ngập trong bệ, phố Ribat, và một lô những cảnh lạ khác của thành phố mà chú bé đã từng bao lần được nghe bố kể. Nhưng bù lại, Pêchya đã sung sướng biết bao, tâm hồn chú đã rung động lên biết mấy khi ở Đại lộ Vô sản vòng
ra, giữa những dãy nhà an dưỡng lộng lẫy, giữa lùm lá xanh phủ bụi của những vườn hoa có vòi phun nước, giữa những pho tượng trắng và những bộ áo ngủ kẻ sọc của những người nghỉ an dưỡng, chú bỗng trông thấy biển cả. Biển trông gần quá, tưởng có thể ném hòn đá tới như bỡn. Biển xanh biếc đột ngột ở cuối cái ngõ kẹp giữa hai hàng tường đá xám có cắm mảnh chai. Lùm lá nho dại trắng bụi ở trong vườn xòa qua bờ tường, buông trĩu xuống đất cái đầu tóc bù xù và những tay leo dài loăn xoăn của những lá răng cưa. Đó là một ngõ hình thường thôi. Biển cắt ngang ngõ với cái vòm xanh lam của nó và tạo thành một ngõ cụt.
Ô-tô xóc lên một cái cuối cùng rồi đứng sững lại như chết. — Tới rồi! Đi xuống!
— Nào, xem nào, xem cái biệt thự của anh nó thế nào nào!
Họ xuống xe và đi thọc vào trong ngõ. Họ càng đi tới, biển càng rộng ra, lùi lại. Chú bé trông thấy bờ biển ở phía dưới. Giữa bờ dốc họ vừa tới và mép nước là một bãi thoai thoải nhăn nhúm, đất đen, đầy gai góc và những bụi li-la dại. Dấu vết của những lớp đất lở liên tiếp, cả cũ và mới vẫn còn nguyên. Bờ bể bị nước ngầm ăn ruỗng, lở xuống thành từng bậc từng bậc ra tới biển.
Đối với Pêchya, cảnh đó, tuy đẹp thật, cũng chỉ là một hình ảnh khá tẻ nhạt của một lớp đất lở. Nhưng Piôt Vaxiliêvich bỗng đứng sững lại, ngây người trước hình bóng của một ký ức xa xôi nào đó, nó hiện ra trước mắt ông với tất cả cái vẻ mới mẻ và trong sáng của nó: đây là chú bé Gayrick, đây là cô bé Môehya đã sẽ sàng đặt tay lên vai Piôt Vaxiliêvich — hồi ấy cũng là một chú Pêchya — đây, chiếc xà-lan của ông nội đã chở người thủy thủ đi ra nước ngoài, và đây, biển rộng trong không gian xanh biếc mờ sương che khuất cánh buồm nhỏ, nhẹ, phấp phới như một cánh hải âu.
16
— Tỉnh lại thôi, ông bạn! — Kôletnisuc chạm vào tay áo ông, nói — Rồi sẽ tha hồ ngắm.
Piôt Vaxiliêvich giật mình hồi tỉnh lại.
— Nào, ta đi xuống — Kôletnisuc nói — Anh còn biết chạy không?
Rồi cả hai người, Piôt Vaxiliêvich và Kôletnisuc, nhảy từ cái bờ thấp xuống khá vụng về, chạy thẳng một mạch xuống phía dưới, qua cái bãi bể mấp mô, khua lên những đám bụi đen. Tay bám vào các bụi li-la dại và những sợi rễ giòn của cỏ gai, Pêchya theo khướt mới kịp hai ông.
— Cái anh chàng Gayrila Xêmlônôvich, anh có gặp anh ta luôn không? — Batsây hỏi.
— Ai? Secnôivanenkô ấy ư? Còn phải nói! Sáng nay, mình đã chú tâm qua nhà anh ấy để rủ lên ôtô ra sân bay với mình. Nhưng anh ta bận một công tác khẩn cấp ở trong vùng, đi vắng mười ngày. Tiếc quá.
— Giá được gặp anh ta thì thú quá.
— Được thôi, rồi tha hồ mà hú hí. Anh gặp anh ta lần cuối hồi nào?
— Ờ..., chưa gặp từ hồi...
— Anh ta có đến Mạc-tư-khoa bao giờ không?
— Có, cách đây mười năm. Lủng củng chán kinh... Anh ta gọi dây nói cho mình, mình không có nhà. Anh ta dặn số dây nói khách sạn anh ta ở. Mình gọi đến, anh ta đi vắng. Mình đến khách sạn, viết lại mấy chữ. Nhưng anh ta bị gọi cấp tốc đi Kiep. Cứ hụt nhau như vậy. Bây giờ anh ta làm gì?
— Vẫn như cũ, công tác Đảng ở Đảng ủy miền.
— Nói chung, anh ta có khỏe không?
— Vẫn như thường. Làm như trâu. Chả biết anh ta ngủ lúc nào.
— Có già đi nhiều không?
— Ông anh ơi, cái tuổi của chúng ta, không trẻ lại được nữa — Kôletnisuc thở dài, nhận xét.
Cả hai im lặng.
— Nhưng, cái biệt thự của anh đâu? — Piôt Vaxiliêvich không muốn để cái buồn lấn chiếm, sốt sắng hỏi — Anh bạn ơi, cái biệt thự thần kỳ của anh, tôi chả thấy nó đâu cả.
— Thế kia là cái gì?
Kôletnisuc đã đứng dừng lại và, bằng một cử chỉ đường bệ, giơ tay lên phía trước. Như người ta có thể dự đoán, cái “biệt thự” nổi tiếng kia chỉ là một ngôi nhà khá dơ dáng do một bàn tay nghiệp dư xây dựng, không có tý hơi hướng kế hoạch nào, với những nguyên liệu chắp vá. Tường thì xây nửa bằng gạch cũ, nửa bằng thứ đá màu vàng nhạt mà Pêchya đã để ý thấy người ta dùng để xây phần lớn những nhà và hàng rào ở Ôđetxa. Những tảng đá của ngôi nhà Kôletnisuc đều xây ghép bằng đất sét, thay cho vôi vữa. Còn mái thì dùng những tấm sắt cũ cong cong, ngói, lá tôn, gỗ dán. Để cho chắc, phải xây đá dăm đè lên trên. Một bên nhà, nhô ra một thứ đại loại như cái sân trời, dưới bóng một cây bìm bìm um tùm leo tít lên cao, lác đác điểm những hoa kèn xanh nho nhỏ nhụy tím biếc. Gần tường, Pêchya thấy những chiếc bơi chèo sơn đỏ và cái bánh lái tháo rời của một chiếc thuyền. Cách nhà không xa, giữa đám gai góc, cái mâm đất của một bếp lò mùa hè đang bốc khói, trên có đặt một cái nồi gang nho nhỏ mất đáy cho ống khói cao thêm. Trên mâm đất, cá nướng xèo xèo. Một bà, tóc đen xanh, cứng, xoăn và vấn cao, mép lún phún râu, mặc sơ-mi Ukren thêu, to béo, mặt đỏ bừng bừng, đang líu tíu quanh bếp, chịu đựng cả hai cái nóng:
nóng mặt trời và nóng lửa phân khô. Những con gà mái béo, trông cũng có cảm tưởng như mặc sơ-mi thêu, đang dạo bước trong các bụi gai: bên trên chúng, những cánh hoa thì là xinh xinh khẽ xao động. Và tất cả những cái đó, nhìn gộp lại, trên một nền sóng biển bọt trắng, cuồn cuộn và réo ầm ầm — những làn sóng lớn, màu vàng đục, trông như một thứ canh chua me có gia một ít kem trắng — tất cả những cái đó có một vẻ hồn nhiên quá, đầm ấm quá và nhất là mến khách quá, làm cho Piôt Vaxiliẽvich vô tình đã phải thốt lên:
— Chà, quỷ bắt anh đi! Nhà anh quả thật là thiên đường trần gian!
— À, vậy là cả đến anh cũng phải kết nốt! — Kôletnisuc đắc chỉ nói với vẻ huênh hoang hai tay chống nạnh — Tôi đã bảo với anh là một biệt thự hách lắm mà. Xin mời các bạn vào chơi!
Vừa lúc đó, người đàn bà mặc áo thêu, như người ta có thể đoán trước là bà chủ “biệt thự”, vợ của Kôletnisuc vừa chùi hai bàn tay đỏ nhẫy vào tạp-dề, vừa chạy le te từ chỗ bếp lò ra đón khách.
Như phần đông các bà chủ nhà ở Ôđetxa, Raitxa Lvôpna rất thích làm các món ăn miền Nam và tiếp khách. Bộ mặt của bà, đỏ bừng hơi nóng mặt trời và bếp lửa, hứng khởi trong cái hoạt động bà ưa thích nhất, rạng rỡ một nụ cười hoàn toàn mãn nguyện, ân cần, có vẻ gì uể oải và hơi châm biếm một tí.
17
... Và một cuộc sống bên bờ Hắc-hải bắt đầu, khác hẳn với cuộc sống mà Pêchya thiếu sinh tưởng tượng ở Mạc-tư-khoa mỗi khi chú nghĩ đến cuộc du lịch Ôđetxa. Trong cuộc sống đó,
chẳng có gian nan, nguy hiểm gì cả. Trái lại, bên trên ngôi nhà nhỏ của gia đình Kôletnisuc, một ngôi nhà thật nhố nhăng và thật ấm cúng, luôn luôn rạng rỡ bóng dáng thăm thẳm và vàng ánh của mùa hè rực nắng miền Hắc-hải. Theo khoảng cách đều đều, những làn sóng dài xô đến đập vào bờ, không biết mệt, và không bao giờ hết. Biển cả thở dài tha thiết, bốc lên cái mùi tanh tanh của sò, ốc và bùn. Trong căn phòng quét vôi trắng, nơi dành cho Pêchya tiên sinh và Pêchya thiếu sinh ngủ trên hai giường vải, đêm đêm có một con bướm to, cánh tam giác, đến đậu, bao giờ cũng ở một góc trần; thỉnh thoảng nó lại run rẩy vỗ cánh, đập phành phạch một cách huyền bí và đáng sợ. Một màn trời đen ngòm, lốm đốm những vì sao hè trắng đục, treo lơ lửng bên cửa sổ. Ánh sáng cây đèn pha hòa lẫn với ánh sao. Và biển cả cứ thở dài mãi mỗi lúc một não nuột...
Tất cả đều rối rắm, lẫn lộn, khiến Pêchya mất hẳn cảm giác về thời gian. Trong hai tháng rưỡi vừa trôi qua kể từ hôm chủ nhật buồn thảm kia, biết bao sự việc đã xảy ra, đến nỗi chú bé không còn nhớ nữa và phải cố lắm mới xếp đặt lại được theo thứ tự thời gian. Piôt Vaxiliêvich và Pêchya đã bị đứt liên lạc với Mạc-tư khoa. Họ bị tắc lại ở Ôđetxa. Các chuyến máy bay thư đã ngừng. Các chuyến xe lửa chở khách đã bãi bỏ. Người ta chỉ nhận những bức điện quân sự và công điện. Trong thành phố, công việc tổng động viên đang tiếp diễn với tất cả những gì liên quan với nó. Batsây đã chạy chọt tìm cách rời Ôđetxa bằng đường bể. Nhưng tất cả những tàu thủy chở khách, đã sơn lại màu xám chì và sửa thành tàu vận tải, đều dùng để chở bộ đội và đạn được. Họ đã phải rời bỏ biệt thự, dọn vào trong thành phố ở, vì toàn bộ bờ biển đã được tuyên bố là khu cấm. Nhưng lúc này chẳng còn gì là cái thành phố mà Pêchya đã được nhìn dọc đường khi đi từ sân bay về cái biệt thự nổi tiếng nữa. Sau lần bị máy bay đột kích đêm, phố xá sáng rực một cách nguy hiểm dưới một ánh mặt trời hầm hập, trắng đặc biệt và không hồn, nhưng chói gắt, trông dại lạ thường và hoang vắng. Trên tường, những tờ lệnh động viên trắng và giống nhau một loạt, đang ngả sang màu vàng...
Và thế là một hôm, Pêcbya thấy bố mặc quân phục, tóc cắt ngắn hơn thường lệ...
Piôt Vaxiliêvich vì lý do tuổi tác và công tác quan trọng, có thể được hoãn động viên, và khi trở về Mạc-tư-khoa, có thể được miễn. Nhưng ông lại muốn ra mặt trận. Ông quyết định rất nhanh, không do dự một chút nào. Ông không tưởng tượng rằng mình lại có thể hành động khác. Kôletnisuc đã được chỉ định làm quản lý cấp ba và phụ trách một đơn vị hậu cần, còn Batsây thì từ chối không nhận công tác hành chính hoặc kinh tế, và đề nghị được vào một đơn vị chiến đấu. Là pháo thủ cũ, ông được đưa vào một trung đoàn pháo binh đúng lúc ấy đang được xây dựng ở thành phố.
Trong khi chờ đợi nhận ngựa và ổn định các vấn đề về trang bị, Batsây cố chạy chọt một lần nữa để đưa Pêchya về Mạc-tư khoa. Lúc ấy, giao thông đường sắt đã khá hơn được đôi chút, và Piôt Vaxiliêvich đã đưa được Pêchya lên một đoàn tàu hỗn hợp đầy lèn. Chú bé phải đi một mình. Nhưng, xét cho cùng, chú cũng chẳng còn bé bỏng gì nữa, và sớm muộn chú cũng phải bắt đầu sống một cuộc sống tự lập chứ! Piôt Vaxiliêvich, mặc quân phục, ấn chú bé vào một toa, giao chú cho một nữ nhân viên phục vụ mệt phờ, nhờ trông nom hộ, đưa cho chú một trăm rúp làm tiền ăn đường và một lá thư cho vợ, xoa tóc chú, rồi hai bố con chia tay nhau.
Pêchya đã ra đi. Nhưng đoàn tàu không đi quá ga Kôtôp. Trước mặt họ, cầu đã bị bom phá sập. Tàu nằm lại ba ngày ba đêm rồi phải quay trở về Ôđetxa. Nhưng khi Pêchya từ ga quay trở về nhà bác Kôletnisuc, qua những phố hầu như không nhận ra được nữa vì nhà cửa đã ngụy trang hết, thì chỉ là để nhận được tin bố chú đã ra mặt trận, bác Kôletnisuc đã đi công tác, và thấy một bác Raitxa Lvôpna đầm đìa nước mắt đang thu xếp hành lý, vì trong mấy ngày ấy, tình hình mặt trận đã gay go lên nhiều và nhân dân đã bắt đầu tản cư.
Kể từ ngày thành phố bị bao vây, với những trận máy bay bắn phá liên miên, với những loạt đại bác như sấm rền ở ngoại vi
thành phố, với khói lửa, hơi nóng rừng rực, ít ra đã một tháng rưỡi. Thế rồi, mãi vào đầu tháng chín, bà Raitxa Lvôpna cùng với Pêchya và hành lý mới ra đứng trên bến tàu nóng hầm hập, bị tàn phá gần hết, giữa đám đông những người dân phố định xuống chiếc tàu thủy sắp rời khỏi Ôđetxa bị bao vây để đi Nôvôrôxich. Ở bến, Raitxa Lvôpna cùng với tất cả va-li, tay nải bị xô vào hàng rào sắt của một nhà kho, và bà trông thấy Pêchya bị cuốn theo đám đông, ép vào cầu tàu và được những bàn tay từ thiện kéo lên boong tàu. Raitxa Lvôpna lọt lại trên bến. Giờ đây chỉ có Pêchya một mình giữa đám người xa lạ. Đến đêm, trong tiếng còi báo động rú, trong cái rung chuyến do cao xạ pháo bắn đồng loạt, dưới ánh lửa đó rực của những đám cháy bốc lên trong thành phố, chiếc tàu rời khỏi bến. Tàu vừa tới Đôfinôpka thì bị máy bay phát-xít tấn công.
18
Ba giờ sáng, khi Pêchya trèo lên boong thì tàu đã cháy nhiều chỗ. Ngay gần mình, chú bé trông thấy một quả bom cháy cỡ nhỏ vừa rơi xuống và bắt đầu bốc lửa. Pêchya sợ lắm, nhưng vẫn không thể rời được mắt khỏi cái vật bằng nhôm ấy. Nó đang xì xì và chảy nước, vãi ra xung quanh những giọt nhỏ chói rực.
Một thủy thủ mang bốt cao su tiến qua gần Pêchya, tay đeo bao vải thò hất quả bom đi. Xung quanh tíu tít những người. Né mình tránh các tia lửa, người thủy thủ tóm lấy đuôi “củ chuối“ nhưng lại lập tức buông ra: “củ chuối” đã đốt cháy bao tay anh. Anh giơ chân giận dữ đả vào “củ chuối“. Nó lăn lông lốc văng đi, để lại phía sau những luồng lửa. Người thủy thủ ngật ngưỡng bước theo sau, và đá thật mạnh một cái nữa vào phía dưới quả bom như đá bóng. Quả bom va vào các tay vịn và dây cáp, lăn
qua mạn tàu và, vẫn tóe lửa, vừa rít vừa rơi tòm xuống nước đen ngòm bọt sóng.
Một thủy thủ khác, đeo mặt nạ bảo vệ bằng a-mi-ăng trắng có đôi mắt kính hình chữ nhật trông thật khiếp, cầm thùng cát đổ lên chỗ boong tàu bị cháy xém. Pêchya nhận thấy cái thùng sơn bằng một thứ sơn dầu màu ngụy trang xỉn xỉn, và ở trong cát có lẫn nhiều vỏ trai, vỏ ốc vằn. Cái mặt nạ bảo vệ trông cũng tựa như một cái thùng úp lên đầu.
Rồi, trên nền trời tối, cùng một lúc hai quả pháo sáng bừng lên, do một chiếc máy bay không ai trông thấy ném xuống. Chúng lập lờ phía trên cột buồm, chao đi một lát, rồi khắp bốn bề sáng rực lên như giữa trưa nắng. Một ánh sáng gay gắt, có một vẻ gì nhân tạo, hóa học, từ trên cao tàn nhẫn rọi xuống mọi ngóc ngách của chiếc tàu đang cháy, xóa mất hẳn bóng các cột buồm và dây cáp, khiến bà con trên tàu kinh hoảng mất một lúc. Rồi tất cả xô về phía hầm tàu. Nhưng bỗng họ lại kinh hãi đứng sững lại. Lần này, cái làm cho họ như chết đứng tại chỗ là tiếng rú của một quả bom vô hình vừa từ một máy bay vô hình rơi xuống. Lúc đầu, tiếng đó nghe rất nhỏ, gần như lẫn hẳn trong những tiếng động khác của cái đêm thê thảm này: tiếng người kêu, tiếng hơi nước xì, tiếng tạch tè của máy điện báo, tiếng thuyền trưởng gào trong máy phóng thanh ra lệnh, tiếng máy đi-ê-den chạy ầm ầm thỉnh thoảng lại làm cho thân tàu rung lên, tiếng chuông báo động liên hồi, tiếng liên thanh nổ từng tràng, tiếng bốt cao su dận thình thịch, tiếng lửa cháy nghe như vò giấy, tiếng nước từ trong vòi cứu hỏa phun ra. Nhưng tiếng rú của quả bom đang bay cứ mỗi lúc một mạnh lên, lan ra, và mau chóng át hết tất cả mọi tiếng động khác. Từ trên cao, quả bom rít lên khủng khiếp, lao gần xuống tàu.
— Nằm xuống! — Không biết tiếng ai kêu thất thanh.
Pêchya bủn rủn hai chân và tối tăm mặt mũi. Tai chú rền lên những tiếng chuông đau xót. Chú lao người nằm sấp xuống boong tàu, chúi mũi vào giữa những tấm ván ướt, hai tay ôm lấy đầu, tưởng làm như thế thì có thể tránh được tai họa. Chắc chắn
chú đã ngất đi nếu toàn bộ sức mạnh tinh thần và thể xác của chú không mải mê tập trung vào một mục đích duy nhất: muốn gì thì gì, phải chú ý, nghe, nghe, nghe tiếng quả bom rít. Và bất thình lình, một sức mạnh khủng khiếp, nóng ran, vồ lấy Pêchya, hất chú qua mạn tàu và quăng xuống biển, đầu chúc ngược.
Pêchya hầu như không biết bơi. Chú cảm thấy bị khối nước đen sì từ bốn bề ôm lấy mình mỗi lúc một chặt. Mặc cho chìm như một vật nặng và mềm nhũn, chú biết mình thế là tuyệt đường hy vọng. Nhưng cái sức sống không gì khuất phục được, từ nãy chỉ leo lét trong người chú, bỗng bừng tỉnh dậy và bắt đầu hoạt động. Không nghĩ gì cả, cũng không hiểu gì cả, mà chỉ nhắm mắt tuân theo sức mạnh to lớn ấy, Pêchya dốc toàn lực chân đạp tay sải, để cố thoát khỏi cái mồ nước này.
Đầu nhô lên mặt nước, cổ vươn dài, chú đớp vội được một ít không khí mát qua những dòng nước chảy trên tóc, trên mắt xuống, Pêchya thoảng thấy cái thành cao của mạn tàu đang bị hơi nước đỏ rực phủ kín ở ba chỗ, thấy một kiểu ca-nô là lạ và một làn sóng đen ngòm úp chụp lên đầu chú cái ngọn đục ngầu, khum khum của nó. Pêchya vùng vẫy như muốn bám vào ngọn sóng trắng bọt ấy. Lúc đó, chân chú thôi không đạp nước nữa và đầu lại chìm nghỉm. Bỗng, có một vật gì từ trên lướt xuống, như một cái gậy nặng và bẹt, đập vào đầu chú. Chú bám chặt vào cái gậy trơn nhẫy ấy. Tức thì một bàn tay túm lấy tay chú và kéo chú ra khỏi mặt nước. Trước khi ngất, Pêchya còn kịp cảm thấy đau lúc bị kéo qua mạn ca-nô cao. Mạn ca-nô xé toạc ngực áo chú ra. Đầu gối chú va vào cọc chèo gỗ đau quá.
19
Chú hồi tỉnh và thấy mình nằm dài trong lòng một con thuyền. Đầu gối lên chiếc áo vét rách và ướt sũng. Pêchya nghe có tiếng mái chèo cót két. Hai người đàn bà ngồi ở ghế phía trên, trước mặt chú, đang chèo, nghển lên rồi lại cúi xuống theo nhịp những mái chèo to bản. Sóng vỗ vào đáy thuyền bằng và rì rào nhịp nhàng lướt dọc theo mạn thuyền. Chú bé không nhìn rõ hai người đàn bà. Chú chỉ thoáng thấy bóng dáng đen đen của họ. Một người cao to, một người nhỏ nhắn. Đầu, vai họ nhô lên, cúi xuống nhịp nhàng trên nền trời đêm nhợt nhạt có những ngôi sao sớm to mờ đang đung đưa. Pêchya muốn chống tay ngồi dậy, nhưng chú yếu quá, không cựa được nữa. Chú rên lên để lưu ý hai người đàn bà kia. Nhưng họ không nghe thấy. Pêchya rùng mình. Ruột gan chú ngấm phải nước biển nuốt vào, rát bỏng. Đó là một thứ khát cồn cào không thể lấy gì so sánh được. Chú vẫn nằm sóng soài, mặt nhìn trời, chân tay dang thẳng, bất lực, áo sơ-mi rách toạc, cái nút khăn quàng đỏ ướt sũng trên cổ, một đầu gối sưng, tóc bết gió biển lạnh đã hơi se. Chú nằm sóng soài trong một tư thế rất khó chịu, nhức nhối, nhưng không còn sức để trở mình. Cả đời, chú chưa bao giờ đau đớn như thế. Nhiều lần chú ngất đi. Và mỗi lần hồi tỉnh, chú lại thấy cái cảnh cũ: hai người đàn bà, một lớn một nhỏ — và giữa hai người, một mảnh trời mờ nhạt, với một chòm sao đang tắt. Sóng vẫn làm chú khó chịu, nước ở lòng thuyền, dưới cái phên gỗ, vẫn lăn đi lăn lại những hòn sỏi tròn nhỏ với một điệu đều đều như thế. Và từ một phía xa xôi nào đó, gió tây lồng lộn vẫn lúc ngừng lúc thổi thốc tới tiếng gầm rú nạt nộ của bão táp.
Pêchya cố mãi mới hiểu được những việc đã xảy ra. Nhưng bây giờ người ta mang chú đi đâu, hai người đàn bà kia là ai, chiếc tàu thủy đã biến đâu rồi, chú hoàn toàn không biết và cũng chẳng muốn biết. Một cơn bàng hoàng nặng trĩu mê man đã xâm chiếm lấy chú. Chú chỉ thấy xót xa, mòn mỏi, thương thân mình. Chú lại rên. Lần này, người ta nghe thấy. Người đàn bà nhỏ ngừng chèo, đưa chèo cho người kia rồi vén váy bước qua ghế và ngồi xồm xuống bên chú. Dưới ánh sao mai bàng bạc trong vắt, chú thấy rõ một khuôn mặt rộng có cái mũi ngắn, cái
"""