"Dưới Mái Học Đường - Cao Văn Thái full mobi pdf epub azw3 [Tuổi Hoa] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dưới Mái Học Đường - Cao Văn Thái full mobi pdf epub azw3 [Tuổi Hoa] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG Tác giả : CAO VĂN THÁI Nhà xuất bản : THANH-ĐẠM Năm xuất bản : 1970 ------------------------ Nguồn sách : Sadec TVE-4U Đánh máy : Rosie Nguyễn Kiểm tra chính tả : Vũ Minh Anh, Tào Thanh Huyền, Đỗ Thúy Nhi, Vũ Thị Xuân Hương Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 03/09/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U. ORG Cảm ơn tác giả CAO VĂN THÁI và nhà xuất bản THANH-ĐẠM đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC LỜI SOẠN GIẢ BUỔI TỰU TRƯỜNG LỄ CHÀO CỜ THẦY GIÁO TÔI ANH BẠN DI CƯ ANH HÙNG DÂN TỘC CÁC BẠN TÔI VÌ BẠN KIÊU NGẠO CÔ GIÁO CŨ MỘT VÁN BI THƯ XIN LỖI CẢNH NGHÈO LÀM NGƯỜI PHẢI HỌC THẰNG BÉ ĐÁNH GIẦY CHỌN BẠN MÀ CHƠI BÀI HỌC LÝ THÚ CÔ GIÁO CỦA EM TÔI LÒNG CHA GƯƠNG HIẾU HỌC ÔNG HIỆU-TRƯỞNG TRƯỜNG TÔI VÌ NƯỚC CHE CHỞ BẠN NGƯỜI HỌC-TRÒ ĐẦU LỚP LÒNG THƯƠNG KẺ KHÓ LÁ LÀNH ĐÙM LÁ RÁCH ANH THỦ QUỸ TỰ XÉT MÌNH THÚ TỘI BA BỨC THƯ LÒNG TƯƠNG TRỢ KIÊN NHẪN LÀ MẸ THÀNH CÔNG ƠN THẦY MỘT LỜI CẢM HÓA HIẾU THẢO HỌP BẠN HỌC SINH « CAO BỒI » GHEN TỊ TẤM LÒNG VÀNG KHỔ VÌ CON NGOÀI ĐƯỜNG PHỐ TẤM HUY CHƯƠNG XỨNG ĐÁNG TỰ HỨA QUÝ BẠN CÁI NGHIÊN MỰC CÔNG MẸ GIỜ THỂ THAO CON MẮT QUÝ THĂM THẦY GIÁO ỐM LỚP HỌC BÌNH DÂN BÊNH EM PHÍ CỦA THƯ VIỆN CỦA ANH TÁC LÒNG YÊU NƯỚC TRỌNG QUỐC KỲ ĐẠI LƯỢNG HỐI HẬN KẺ CÓ LÒNG MỘT ĐỜI TẬN TỤY QUA TRẬN ỐM TÌNH BẠN NGƯỜI CON MẤT MẸ LÒNG CON MÙA NẮNG MỚI MỘT NGÀY VUI NHỮNG TẤM GƯƠNG NHẪN NẠI GHI ƠN LỜI MẸ TIN VUI CHÀO VĨNH BIỆT ĐÂY, NHỮNG DÒNG CẢM TƯỞNG BỐN PHƯƠNG CAO VĂN THÁI DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG TỦ SÁCH GIÁO DỤC MỚI THANH-ĐẠM XUẤT-BẢN 1970 « …DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG của ông còn dạy cho học sinh lối làm văn nữa. Chữ dùng đã khéo, lời văn lại trong sáng, tự-nhiên, nhiều nhạc điệu ». Cô NGUYỄN-THỊ-NGA (Bộ Kinh-Tế) « …DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG không phải chỉ dành riêng cho học sinh các lớp mà còn là món quà tinh-thần giá-trị cho người lớn nữa, đọc để hiểu rõ tâm-sự tư-tưởng con cháu mình, thấy rõ sự quan-hệ của giáo-dục, để đôi khi hối tiếc rằng đã sao lãng sự dạy dỗ con em ». VŨ-QUỐC-CHU (V.N. Công thương ngân-hàng) « …DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG không làm cho học-sinh xa lạ với những nhân-vật trong chuyện bỡ-ngỡ với những phong-tục, tư-tưởng, tâm-lý của người Tây phương. Ở đây, ta thấy những mẩu chuyện có thực, đã xẩy ra ở dưới mái trường Việt-Nam và giữa những học-sinh Việt-Nam. Cho nên tôi tin rằng nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới tâm-hồn con em chúng ta ». NGUYỄN-KHẮC-NGỮ (Giáo-sư) « …Đọc xong DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG, ai cũng phải thích nghề dạy học, và nếu đôi khi chán-nản với nghề, sẽ thấy bội phần hăng-hái. Cho nên, tôi đã có lúc hối hận rằng đã đổi nghề ». TRẦN-MẠNH-QUÝ (Cựu Giáo-học) Tủ sách Pháp-Văn Tiểu-học Đủ các trình-độ, từ lớp Năm đến lớp Nhất - BÉ HỌC VẦN PHÁP (lớp Năm) Cao-văn-Thái. In lần thứ 7, Chữ lớn, Nhiều tranh… - VẦN PHÁP (lớp Tư) Cao-văn-Thái. Bài giản dị, Vừa sức học sinh… - EM HỌC PHÁP VĂN (lớp Ba) Cao-văn-Thái. In lần thứ 6, Gần 500 hình vẽ… - PHÁP VĂN MỞ LÒNG (lớp Ba) Cao-văn-Thái. Chữ lớn, In đẹp, Nhiều tranh… - PHÁP VĂN LỚP NHÌ của Cao-văn-Thái. In lần thứ 7, Đầy đủ môn học, Dẫn giải bằng tiếng Việt… - PHÁP VĂN LỚP NHẤT Cao-văn-Thái. In lần thứ 7, Đầy đủ môn học, Chỉ dẫn kỹ càng… - PHÁP VĂN TIỂU HỌC của Cao-văn-Thái. In lần thứ 2, Dùng cho lớp Nhất, Đủ môn học… - LECOURS UNIQUE DE FRANÇAIS AU COURS MOYEN của Cao-văn-Thái… - LE COURS UNIQUE DE FRANÇAIS AU COURS SUPÉRIEUR. Cao-văn-Thái. Sách soạn công phu đã được nhiều người khen ngợi. In lần thứ 8, Đủ môn học, Nhiều bài tập… « Mỗi trẻ nhỏ được dạy dỗ là một con người được thành thân ». (V. HUGO) EM LUYỆN VIỆT VĂN 165 BÀI LUẬN LỚP NHÌ, LỚP NHẤT LUYỆN THI TIỂU HỌC, THI ĐỆ NHẤT NHỮNG BÀI LUẬN MẪU NHỮNG ĐOẠN VĂN HAY NHỮNG CHỈ DẪN CÁC LOẠI * SẮP IN : MỘT TÂM HỒN TRONG TRẮNG Chuyện xã hội giáo dục lành mạnh. Xem ham mê từ đầu chí cuối. Nhiều đoạn thương tâm, rơi lệ Saigon, ngày 26-12-1955 Thưa ông, Trước hết tôi lấy làm vui vẻ và thành thực cảm ơn ông đã có nhã ý cho phép tôi – một phụ huynh học sinh, đồng thời lại là một nhà giáo – được đọc cuốn DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG của ông trước khi cho in. Thưa ông, Trong khi những loại sách giáo dục dành riêng cho các em học sinh còn rất khan hiếm, thì DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG ra đời thật là đúng lúc. Tôi tin rằng với một cuốn sách bổ ích cho các em học sinh thân yêu của chúng ta thì sự tham góp ý kiến của giới Phụ huynh không những là một điều hữu ích mà còn là một điều cần thiết nữa. Là vì vai trò của ông thầy ở nhà trường, chẳng khác gì vai trò của phụ huynh ở gia-đình ; cả hai đều là những bàn tay thợ khéo, nhào nặn, xây dựng, hướng dẫn các em trên con đường « nên người hữu dụng » yêu nước, yêu nhà. Là một phụ huynh được quen biết ông, tôi vui mừng được thấy nơi đây là một dịp cho tôi cùng với Học-Đường góp phần vào việc giáo dục của con em, bên những ý kiến tham góp khác của các đơn vị Giáo-chức, công, tư lão-thành và của giới Phụ-huynh bốn phương. Tôi thành thực nhận thấy DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG là một cuốn phóng tác khéo léo, trong đó ông đã trình bày những mẩu chuyện tâm tình, mà không kém phần cảm động, dí dỏm mà không kém phần thắm thiết, hấp dẫn các em, đi sâu vào tư tưởng, tình-cảm, để khi đọc lên, với óc tưởng tượng mạnh mẽ, các em sẽ thấy hòa mình vào cuộc sống của đồng bạn, trong lớp, ngoài sân trường hay trên đường phố. Các em sẽ thông cảm mối liên-hệ nồng nàn giữa thầy trò, bạn hữu, cha con, đồng-bào, sẽ thấy tâm-hồn rung động nao nao, rồi tự mình sửa chữa, để mỗi ngày một tiến, mỗi ngày một hay. Thêm vào đấy, với những nhân-vật linh hoạt và thực-tế, với lối hành văn tự nhiên, đôi khi chải chuốt, bóng bẩy, DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG quả là một món quà tinh-thần quý báu cho tất cả các em học-sinh về nội dung cũng như về hình thức. Nó sẽ đẩy lui các loại tiểu thuyết « ba xu » còn sót lại dưới thời thực dân, đã trong bao nhiêu năm, đầu độc con em chúng ta và đánh lạc hướng nền giáo-dục nhi-đồng xứ này. DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG không những là một loại tiểu thuyết giáo-dục hấp dẫn, mà còn là một cuốn giáo khoa nhiều giá trị nữa. Các bạn nhà giáo, các bậc phụ huynh có thể tìm thấy ở đây những tài liệu để làm chính tả, tập đọc, hoặc tập làm văn, thích hợp với hướng giáo dục mới. Các em sẽ quen với lối hành văn gọn gàng, vương tính chất văn nghệ. Các em sẽ quen với việc suy luận thường xuyên tại trường, tại lớp, ngoài phố hay trong gia-đình, về những cử-chỉ, hành-động của các em, tập kiểm thảo bản thân để « tự tu về đạo-đức ». Ở đây các em sẽ « đọc chơi » mà là « học thực ». Là một phụ huynh học-sinh, mà cũng còn là một giáo chức ngót 30 năm trong nghề hằng thiết tha với ý niệm « làm lại thế hệ trẻ em » tôi tin rằng vài thiển kiến trên đây của tôi, cộng với thiện ý của ông bạn, có thể tạo nên một dịp tốt để chúng ta cùng nhau thông cảm rồi rào trên con đường giáo dục con em, mầm non của một thế-hệ vừa bước sang giai-đoạn lịch-sử mới. Kính chào thông cảm và đoàn kết NGUYỄN-HỢP Thanh-Tra Tiểu-học Đalat LỜI SOẠN GIẢ Để được góp một viên gạch nhỏ vào công cuộc xây dựng một nền giáo-dục mới cho nước nhà đang bắt đầu chuyển hướng dưới chính-thể Cộng-Hòa, tôi viết cuốn DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG phỏng theo Grands Coeurs, cuốn tiểu-thuyết trứ-danh của nhà văn hào AMICIS. 1 Như tên đặt cho sách, tôi chỉ chọn và thêm vào những chuyện thuộc phạm-vi nhà trường, và chung quanh nhà trường. Ở đây, các em sẽ thấy gần gũi với những nhân-vật trong chuyện. Đó là những học-sinh vẫn gặp ở các trường, là những bạn cùng chơi hàng ngày, là chính ngay các em, với những ý nghĩ, những tình-tiết, những bổn-phận làm trò, làm bạn, làm con… Dành cho các em những phút giải-trí lành mạnh, tiếp tay các vị phụ-huynh trong công cuộc giáo-dục con em, giúp cho các bạn nhà giáo một ít tài-liệu giáo-khoa xây dựng, viết với một tinh thần mới, đó là mục-đích nhỏ mọn của tôi. Song tôi vẫn phàn nàn rằng ngọn bút của mình chưa đủ tài tình sâu sắc đủ làm rung động tâm-hồn người đọc. Điều đó hẳn các Ngài, các Bạn cũng đã biết thế mà khoan thứ cho rồi. SOẠN GIẢ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA BỘ QUỐC-GIA GIÁO-DỤC Số 8. 082/GD/VP/BT Saigon, ngày 18-6-1956 BỘ TRƯỞNG QUỐC-GIA GIÁO-DỤC Kính gửi : ÔNG CAO-VĂN-PHÁI – Giám đốc nhà sách THANH-ĐẠM. Số 481, đường Lê Văn Duyệt (Hòa Hưng) SAIGON Tôi đã nhận được cuốn sách nhan đề « DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG » do Ông có nhã ý gửi đến tặng tôi. Xin cảm ơn Ông và có lời khen ngợi Ông đã cố gắng để học-sinh có thêm một quyển sách hữu-ích. Ông có thể liên lạc với các Ông Giám-đốc Học chánh để mỗi Nha mua một số cuốn phát-thưởng cho học-sinh. Trân trọng kính chào ông. NGUYỄN-DƯƠNG-ĐÔN VIỆT-NAM CỘNG-HÒA BỘ XÃ-HỘI VÀ Y-TẾ Số 8. 375 VT/VP Saigon, ngày 11-6-1956 BỘ TRƯỞNG BỘ XÃ-HỘI và Y-TẾ Kính gửi : ÔNG CAO-VĂN-PHÁI – Giám đốc Nhà xuất bản THANH ĐẠM. Số 481, đường Lê-văn-Duyệt (Hòa-Hưng) SAIGON. Thưa Ông, Tôi hân hạnh báo tin Ông rõ tôi đã nhận được cuốn sách : « DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG » mà Ông gửi biếu tôi. Tôi trân trọng cảm ơn nhã ý của Ông. Sách trình bày rất khéo, cách bố cục gọn gàng và các đề tài giảng dạy trong sách rất hợp thời ; tôi hân hoan gởi lời khen ngợi ông và chúc ông thành công trong việc xuất hành những loại sách hữu ích như cuốn sách trên. Tôi cũng không quên giới thiệu sách đó với các cơ quan giáo huấn để khích lệ thiện-chí xây dựng của ông. Trân trọng chào ông. VŨ-QUỐC-THÔNG QUỐC-GIA VIỆT-NAM NAM-VIỆT NHA Y-TẾ 59, đường Hồng-Thập-Tự Số điện thoại : 23.431 – 21.432 Số 3. 655 NYT/4C Saigon, ngày 27-6-1956 GIÁM-ĐỐC NHA Y-TẾ NAM-VIỆT Kính gửi : Ông Giám-đốc – Nhà xuất-bản THANH-ĐẠM. Số 481, đường Lê-văn-Duyệt (Hòa-Hưng) SAIGON Thưa ông Giám-Đốc, Tôi rất hân hạnh nhận được quyển sách DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG mà ông có mỹ ý gửi tặng. Tôi đã giới thiệu cho các Văn-phòng ở Nha Y-Tế và đồng thời đã nhờ các ông Giám-đốc Bịnh-viện địa phương giới thiệu cùng toàn thể nhân-viên. Sách có tánh cách giáo dục lành mạnh, xây dựng, soạn rất công phu, rất hạp thời và hữu ích. Xin ông nhận nơi đây lời cảm ơn nồng nhiệt của tôi và chúc ông thâu nhập được nhiều kết quả. Bác-Sĩ NGUYỄN-VĂN-NGUYỆN TÒA ĐẠI-BIỂU CHÁNH PHỦ Tại TRUNG-VIỆT NHA THÔNG-TIN Số 3. 432 TT/VP Trích yếu VIỆT-NAM CỘNG-HÒA Huế, ngày 3-7-1956 GIÁM-ĐỐC NHA THÔNG-TIN TRUNG-VIỆT Kính gửi : ÔNG CAO-VĂN-THÁI. Số 481, đường Lê-văn Duyệt (Hòa-Hưng) SAIGON Kính ông, Chúng tôi rất hân hạnh nhận được cuốn « DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG » do ông có nhã ý gởi tặng. Qua cuốn sách này chúng tôi nhận thấy ông đã dành lắm công phu để đem lại cho giới học-sinh một luồng tư-tưởng lành mạnh, một ý chí xây-dựng quý hóa, rất đáng khích-lệ. Cũng trong dịp này chúng tôi đã giới-thiệu tác-phẩm ấy với toàn thể nhân viên cộng sự và lưu-ý họ một sáng-tác bổ-ích, vừa để giải trí, vừa để giáo-dục con em. Xin thành thật cảm ơn ông và kính chúc ông thành công trên đường sự-nghiệp. Trân trọng chào ông. NGUYỄN-HÂN QUỐC-GIA VIỆT-NAM NAM-VIỆT TỈNH GIA-ĐỊNH Số 1. 895/VP Gia-định, ngày 9-6-1956 TỈNH TRƯỞNG Kính gởi : Ông Giám-đốc – Nhà xuất-bản THANH-ĐẠM. Số 481, đường Lê-văn-Duyệt (Hòa-Hưng) SAIGON Kính ông, Thiểm-tỉnh thành thật cảm tạ ông đã có mỹ-ý gởi biếu quyển « DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG », một quyển sách giáo dục xây-dựng, lành mạnh cho giới học-sinh, nêu cao ý nghĩa thầy trò, đạo làm con, tình bằng hữu, ung-đúc các em học sinh có « những tâm hồn cao cả ». Một lần nữa tôi xin cảm tạ ông và tin ông rõ tôi đã đề nghị cùng ông Thanh-tra Tiểu-học tỉnh-lỵ mua quyển sách này để phát thưởng cho học-sinh trong dịp cuối niên học 1955-1956. Trân trọng chào ông. Trung-tá LÊ-QUANG-HIỀN BUỔI TỰU TRƯỜNG Ngày 1 tháng 9 Mới 6 giờ sáng mà trên phố tiếng giầy guốc đã khua vang, báo hiệu ngày tựu trường đã tới. Hai tháng hè trôi qua mau chóng quá ! Từng đoàn học-sinh lũ lượt đi, tay xách cặp, miệng bi bô kể chuyện. Tôi vội chải đầu, thay bộ quần áo mới rồi gọi em cắp sách cùng theo mẹ đến trường. Tuy chân bước đi mà lòng tôi vẫn ngổn ngang trăm nỗi. Phần còn luyến tiếc những cảnh trăng nước đồng quê trong những ngày hè vui thú, phần hân hoan được gặp thầy, gặp bạn, lại pha nỗi lo âu, sợ lên lớp trên học khó. Cứ thế, tôi dắt em, chân bước theo mẹ, óc đầy ý nghĩ vẩn vơ, rồi đến cửa trường lúc nào không biết. Quang cảnh trường học hiện ra náo-nhiệt lạ thường ! Hàng quà, hàng bánh, nước mía, mực khô… không biết kéo đến tụ họp tự lúc nào, mà đủ cả, khiến cho đông lại thêm đông. Chỉ khổ cho bác gác trường ! Mọi ngày đối với lũ trò nhỏ « oai vệ » là thế, mà hôm nay, thêm người cảnh binh giúp sức, bác cũng phải luôn mồm hò hét, rát cổ bỏng họng, mới giữ nổi trật-tự lối ra vào. Sắp sửa tiến qua cổng trường, tôi bỗng thấy có bàn tay vỗ nhẹ vào vai. Tôi ngoảnh lại. Cô giáo cũ lớp Năm âu-yếm nhìn tôi mà bảo : « Năm nay Dũng học trên gác rồi nhỉ ? Thế là cô lại không trông thấy Dũng qua cửa lớp cô nữa. Dũng chưa quên cô đấy chứ ? » Tôi chẳng biết nói gì, chỉ nhìn cô mà lòng se lại. Mẹ tôi vội nói đỡ : « Hôm nào rỗi mời cô lại chơi. Cháu vẫn nhắc đến cô luôn đấy ạ ». Cô mỉm cười, hứa hôm nào lại thăm mẹ tôi, véo má em Huyền, rồi lanh lẹn bước vào cổng trường. Trong sân, túm năm, túm ba, đủ các hạng người : đây, một bà sang trọng dắt cậu con, mới từ đầu đến chân ; kia một cụ già, tuy đứng dưới bóng cây mà vẫn chịu khó che ô cho cháu ; nọ, một ông cúi xuống vỗ về cậu con trai, trông mặt mũi sáng sủa đáo để mà mồm cứ mếu sệch đi, định khóc. Tôi đưa mắt nhìn ngôi trường sừng sững trước mặt : tường vôi mới quét, thềm gạch sạch bóng, như hớn hở chào mừng chúng tôi, những người bạn cũ đã trở về. Trông thấy những nếp nhà rộng lớn mà suốt bốn năm trời dòng dã, tôi hàng ngày lui tới học hành, lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui chan chứa. Bao nhiêu miễn cưỡng lo âu bỗng tiêu tan đâu mất cả. Tôi hoan hỷ đưa mắt nhìn theo các bạn cũ của tôi đang tung tăng chạy nhảy khắp sân. Bác nào trông cũng lớn hẳn lên. Có bác đen như củ súng, cơ hồ cháy nắng. Chả bù cho mấy chú « lính mới », nét mặt ngơ ngác sợ sệt, cứ túm chặt lấy áo mẹ nước mắt vòng quanh. Vừa lúc ấy, ông Hiệu-Trưởng đi tới. Trông ông vẫn thế. Chỉ có bộ ria trắng bạc hơn năm ngoái ít nhiều. Thấy bóng ông ra, các bà các cô vây tròn lấy ông, vẻ mặt giận hờn vì nỗi không còn chỗ học cho con, cho cháu. Song ông vẫn tươi cười, an ủi người nầy, cắt nghĩa cho người kia, giải thích những trường hợp không đúng với lệ của nhà trường. Nhưng một hồi chuông đã nổi lên… Các thầy giáo, các cô giáo cầm bản danh-sách học-sinh, đứng ra cửa lớp gọi tên. Em Huyền tôi được vào lớp mẫu giáo của cô Đào. Còn tôi học lớp Nhất A của thầy Bích trên gác. Ngồi an-vị rồi, tôi đưa mắt nhìn chung quanh. Lớp học cũng chẳng khác lớp Nhì năm ngoái. Nhưng tôi tưởng như lạ hơn nhiều : căn phòng như rộng hơn, tấm bảng đen như lớn hơn ; đến cái tranh bộ xương người tôi coi cũng rắc rối hơn bức tranh học năm ngoái. Mới cách đây có một phút đồng-hồ, mà tôi có cảm giác như mình nhớn hẳn lên và cũng quan trọng hẳn lên ! Chả gì cũng là học-sinh lớp Nhất rồi cơ mà ! Mà lớp Nhất thì cái gì cũng phải nhất chứ : lớn nhất, giỏi nhất, đàn anh nhất… mà học cũng khó nhất. Thế rồi tôi bất giác giật mình lo sợ. Còn đang lan man nghĩ ngợi, tôi thấy có tiếng gọi khẽ đằng sau. Tôi quay lại. Đó là anh Sinh, anh bạn bao giờ cũng ngồi đầu lớp, đang nháy tôi ra hiệu. Tôi mỉm cười với anh, rồi đưa mắt một lượt nhìn các bạn. Vô số là bạn mới. Nhiều gương mặt đáng yêu, khiến tôi thoạt nhìn đã chan chứa cảm tình. Qua cửa sổ, bóng lá chập chờn, đàn chim nhỏ lách tách chuyền cành. Tôi chợt nhớ đến cảnh non cao, biển rộng mà tôi đã sống mấy tuần vừa qua, rồi so với ngôi trường chật hẹp, trang nghiêm, tôi bỗng cảm thấy lòng buồn hiu hắt, thương nhớ vẩn vơ. Chợt có tiếng nói oang oang. Đó là thầy giáo tôi năm nay, đặc biệt với cái dáng người mảnh khảnh, mái tóc hoa râm, với những đường nhăn trên vầng trán rộng. Giọng thầy to và đĩnh đạc. Thầy chẳng cười bao giờ. Thầy mới nghiêm làm sao ! Thầy chăm chú nhìn vào tận mặt từng đứa chúng tôi như muốn soi rõ đến tận tâm-hồn. Tôi liên-tưởng đến thầy giáo cũ lớp Nhì, lành như cục đất, lúc nào cũng nhìn tôi mủm mỉm. Những nụ cười trìu mến ấy tôi quên làm sao được ? Chả mấy chốc giờ về đã điểm. Tôi thu xếp sách vở, ngao ngán nghĩ thầm : « Chà ! đây mới là ngày đầu ! Còn những 9 tháng nữa mới lại nghỉ hè. Rồi sắp sửa chúi mũi vào học bài, làm bài, rồi lại còn thi, còn cử… Chao ôi ! bao nhiêu là khó khăn, bao nhiêu là cố gắng… » Thấy tôi uể oải ra về, vẻ mặt buồn thiu, mẹ tôi biết ý, ôm tôi vào lòng : « Con mẹ chưa lên lớp mà đã nản rồi ! Can đảm lên cho em bắt chước chứ con ? Bài có khó đâu mà con sợ ? Đã có Ba giảng lại cho con cơ mà ! Học-sinh lớp Nhất rồi còn làm nũng. Cười đi nào ! » Tôi xấu hổ, rúc đầu vào ngực mẹ… LỄ CHÀO CỜ Mùng 4 tháng 9 Nhân đầu niên-học nhà trường tổ-chức buổi lễ chào cờ, có mời thêm phụ-huynh học-sinh đến dự. Trên sân rộng, trước cửa lớp Nhất, một bồn hoa nhỏ, mầu hoa đỏ, tím, chen lẫn sắc cỏ xanh rờn làm nổi bật cái cột cờ đang vươn mình thẳng tắp, sừng sững đứng ngạo nghễ và oai nghiêm ! Sát vào hiên trường, bàn thờ Tổ-quốc đã được dựng lên, cùng với tấm bản đồ Việt-Nam. Bài-trí tuy sơ sài mà không kém vẻ tôn nghiêm ! Một hồi chuông rung lên. Chúng tôi bỏ cuộc chơi, vội vã chạy lại dưới cột cờ. Trước mệnh lệnh của anh đoàn-trưởng, lớp nào lớp ấy yên lặng bỏ mũ, xếp hàng ngay ngắn, tề chỉnh. Lá quốc-kỳ đã được buộc sẵn vào dây. Một anh lớp Ba, quần áo sạch-sẽ, được chỉ định trước, đã túc-trực sẵn bên chân cột. Bầu không khí lặng-lẽ thêm uy-nghiêm ! Trên thềm cao, các vị phụ-huynh cùng các thầy giáo và các cô giáo nghiêm-trang nhìn xuống. Ông Hiệu-Trưởng đứng ra đọc một bài diễn-văn ngắn nói qua về ý-nghĩa buổi lễ hôm nay. Ông cũng không quên nhấn mạnh rằng dưới sự lãnh-đạo của tân Tổng-thống, nước Việt-Nam Cộng-Hòa đang cần nhiều thanh-niên ưu-tú. Bổn phận học-sinh chúng tôi lúc này rất nặng nề, phải cố gắng học hành để một ngày kia, ngược qua Bến-Hải, thống nhất xứ sở. Giọng ông trầm hùng mới cảm động làm sao, khiến cho một bà tới dự lễ luôn tay đưa mùi-xoa chấm mắt. Rồi ông quay lại, hô to : « Nghiêm ! » Dứt tiếng hô dõng dạc, chúng tôi đứng ngay ngắn lại, ưỡn ngực, chụm gót chân, hai tay để sát vào đùi. - Chào cờ ! Chào ! Tiếng hô lại hùng dũng nổi lên. Chúng tôi đầu ngửng cao, mắt nhìn thẳng, lòng đầy tin tưởng. - Quốc ca ! Một ! Hai ! Tất cả trường, ngót một ngàn học-sinh cùng cất tiếng hát. Bài ca hùng tráng vang lên, lúc lên bổng, lúc xuống trầm. Quốc-kỳ từ từ kéo lên. Nhịp với lời ca quyến-rũ, bao nhiêu trái tim cùng xao xuyến đập mạnh. Vì non sông nước xưa Truyền muôn năm chớ quên ! Giọng ca lanh lảnh, mắt chúng tôi ngời sáng : hình-ảnh các đấng tiền-nhân hiện ra trong ánh hào-quang chói-lọi. Quốc-kỳ reo mừng trước gió, phần-phật tung bay, như ném ra muôn ngàn sóng lửa. Thanh-niên ơi ! hăng hái đi tới cùng, Thanh-niên ơi ! ta nguyền đem hết lòng… Tiếng ca cứ thế, nhịp nhàng và hùng dũng vang lên, cuốn lên cao, tràn ra xa… Chúng tôi hồi hộp say sưa lòng đầy tin tưởng vào tương-lai rực-rỡ của Tổ-Quốc và cảm thấy cái trách-nhiệm nặng nề của đám Thanh-Niên chúng tôi. Tiến lên ! cùng tiến ! Vẻ vang đời sống Chớ quên rằng ta là giống Lạc-Hồng ? Tiếng ca đến đây im bặt. Quốc-Kỳ cũng vừa lên đến đỉnh cột cao. Chúng tôi thong thả vào lớp, tâm-hồn còn rung động nao nao, lời ca bên tai còn văng vẳng. Quốc-Kỳ nào phải mảnh vải vô hồn ! Đó là biểu-hiệu của Tổ-Quốc, tượng trưng cái ý-chí quật-cường của dân-tộc. Chúng tôi hàng ngày đứng trước Quốc-Kỳ như cảm thấy một sức mạnh thiêng liêng thúc đẩy chúng tôi cố chí học hành để sau nầy làm cho Quốc-Kỳ được thêm rạng rỡ. Đáng giận thay những kẻ không biết tôn trọng Quốc Kỳ ! THẦY GIÁO TÔI Ngày mồng 8 tháng 9 Chúng tôi đi học thế mà đã được tuần-lễ. Vậy mà chẳng thấy thầy giáo tôi cười bao giờ. Đôi khi còn thấy thầy thẫn thờ nhìn ra xa, xem như có điều phiền muộn. Cứ xét cái bề ngoài ấy, ai chẳng bảo thầy giáo tôi nghiêm, mà đối với học-trò như cũng ít cảm tình thì phải. Nhưng chúng tôi đã lầm. Câu chuyện sáng hôm nay chứng tỏ điều đó, và còn làm cho chúng tôi thêm bội phần cảm mến. Lúc ấy là giờ Đức-dục. Thầy đang giảng bài thốt nhiên ngừng lại, đi xuống giữa lớp, đặt tay lên trán một anh ngồi ngay đầu bàn tư. Tôi để ý thấy thầy khẽ lắc đầu, rồi móc túi lấy lọ dầu xoa lên thái-dương cho anh. Còn đang hỏi han, thì đằng sau lưng thầy, một anh đứng lên, phồng má trợn mắt, rồi giơ quả thụi ra để làm trò cười. Bất ngờ thầy quay lại, bắt gặp cử-chỉ hỗn xược ấy. Anh chàng sợ quá, mặt đỏ gay, ngồi thụp xuống ghế, cúi gầm mặt xuống mà chịu tội. Chúng tôi sợ hãi, lấm lét nhìn nhau, chờ cơn thịnh nộ của thầy. Nhưng chỉ thấy thầy đặt tay lên vai chàng ta mà dịu dàng bảo : « Đừng dại dột thế nữa con ! » Thế rồi thầy về chỗ, tiếp tục giảng bài, thản nhiên như chẳng có gì xảy ra. Bài Đức-dục chép xong, thầy giáo yên lặng nhìn chúng tôi một lúc, rồi cất tiếng lên, cái giọng trang-nghiêm, to tát, những cũng âu yếm ngọt ngào làm sao, khiến tôi nhớ mãi không quên : - Các con ơi ! nghe thầy nói đây ! Thầy trò ta sẽ cùng nhau học tập trong một năm. Thầy biết những gì sẽ mang ra giảng dạy cho các con không tiếc, cả đến sức khỏe của thầy, thầy cũng không từ. Vậy chúng ta hãy cố gắng làm sao cho niên-học được nhiều kết quả. Còn riêng thầy không có gia-đình. Mẹ thầy năm ngoái hãy còn, nhưng giờ đây người đã khuất, bỏ lại thầy trơ trọi một mình. Các con ơi ! Các con mới thật là con của thầy, mà thầy cũng chỉ còn có các con để làm khuây những giờ trống trải. Ngoài các con ra, hỏi thầy còn ai để mà thương yêu nữa ? Thầy yêu mến các con, và các con cũng nên thương mến thầy, cố tránh cho thầy những nỗi tủi phiền mới phải. Thầy chỉ xin các con có một điều là cố gắng học hành, đừng để phí thời-giờ vô-ích, để cho thầy đây và cha mẹ các con cũng được hả lòng. Có thế mới tỏ ra xứng đáng là những học-sinh của một nước Việt-Nam độc-lập và hùng-cường. Trường ta chẳng khác gì một gia-đình mà các con là nguồn an-ủi, mối kiêu hãnh của thầy. Các con ngoan ngoãn nết na, thầy vui lòng hả dạ ; các con hư hỏng biếng lười, thầy buồn phiền chán nản. Nếu rồi đây có phải trừng phạt một đứa con nào của thầy, ấy cũng là điều bất-đắc-dĩ và sẽ làm cho thầy phải đau lòng, sót ruột. Các con nên hiểu cho thầy như thế… Vừa nói đến đây, có tiếng chuông rung. Giờ học đã hết. Chúng tôi yên lặng đứng lên, xếp hàng ra về. Anh học-trò hỗn xược ban nãy, rụt rè đến bên thầy giáo, cặp mắt đỏ hoe, cúi đầu khẽ nói : « Thầy tha cho con… » Không nói nhiều, thầy nâng cằm anh lên mà rằng : « Thôi con về… » Đến bữa ăn, thấy tôi có vẻ âu sầu nghĩ ngợi, cha tôi gặng hỏi. Song tôi chỉ nói được một câu : « Thưa ba con xấu hổ vì đã có những ý nghĩ sai lầm về thầy giáo… » Thế rồi tôi nghẹn ngào, không nói lên được nữa… ANH BẠN DI CƯ Ngày 15 tháng 9 Bữa chiều qua, chúng tôi đang nghe thầy giáo giảng bài, bỗng có tiếng gõ cửa, rồi ông Hiệu-trưởng tiến vào giữa lớp, theo sau một anh học-trò mới, tóc ngắn húi cao, da ngăm ngăm đen, nét mặt khắc-khổ đăm-chiêu, nhưng vẻ đầy cương quyết. Anh ta đi một đôi giép cao-su trắng và vận một quần ca-ki ngắn cũn cỡn với một chiếc sơ-mi nâu đã bạc màu. Thấy anh cao lớn như ông Hộ-Pháp, chúng tôi khúc khích bấm nhau cười. Sau khi trao đổi vài lời khe khẽ với thầy giáo tôi, ông Hiệu-trưởng vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống, rồi đi ra. Ông đi khỏi rồi, anh học-trò mới quay xuống, cặp mắt đen lay láy nhìn chúng tôi ra chiều bẽn lẽn. Thầy cầm tay anh thân mật dắt lên đứng trên bục, rồi hướng về chúng tôi, thầy nói : « Các con ơi ! Những câu thầy sắp nói ra đây các con chớ lấy làm thường và mong các con ghi nhớ vào lòng… Bắt đầu từ hôm nay, các con có một người bạn mới, ở xa xôi lắm, tận miền Bắc di-cư vào, tìm tự-do bên chúng ta. « Người bạn ấy đã bỏ quê cha đất tổ, bỏ những phần mộ tổ tiên, bỏ lại tất cả những gì thân mến trên đời, để vào đây sống một cuộc đời mới, bên cạnh các con. Thầy mong rằng các con xem anh như người ruột thịt, và vui vẻ cùng nhau học tập. Mà có như thế mới phải. Thực-dân phân chia Nam, Bắc, nhưng dù Bắc, Nam có khác, chúng ta cũng cùng một nòi, một gốc. « Các con ơi ! Anh bạn mới này đây, sinh trưởng tại thủ đô Hanoi, trung-tâm hoạt-động của bao vị anh-hùng cứu nước, nơi phát sinh ra cả một nền văn-hóa rực rỡ đã hàng bao thế-kỷ làm chói lọi trang sử Việt-Nam. Giờ đây, đất Bắc rên xiết đau thương, anh vào đây với một tấm lòng yêu nước thiết tha, cùng chúng ta sát cánh để một ngày kia xây lại Tự-do đang bị dày xéo. « Các con đừng xem anh là người xa lạ. Hãy coi anh như người trong thân tộc để cho anh khỏi tủi hờn vì nỗi chia ly và để cho anh hiểu rằng : « đất Việt đâu cũng là nhà, người Việt đâu cũng là anh em ». Giọng thầy run lên vì cảm-động, còn anh bạn di cư tay mân mê cặp sách mà hai dòng nước mắt cứ chảy đầm đìa trên má. Nhìn lên bản-đồ Việt-Nam treo cao trên tường ở trước mặt chúng tôi, thầy chỉ vào Bắc-Việt, rồi lớn tiếng gọi to : « Sinh ! Lên thầy bảo ! » Anh Sinh đứng dậy, bước lên : « Con là học-sinh giỏi nhất lớp. Con hãy thay mặt anh em bắt tay anh bạn miền Bắc để tỏ tình thân ái nào ! » Trong khi đôi bạn hai miền xiết chặt tay nhau, cuối lớp có tiếng hô lớn : « Nam-Bắc một nhà ! Di-cư là yêu nước ! » Thế là chúng tôi vỗ tay hoan nghênh rầm rĩ. Thầy giáo nghiêm nét mặt, ra hiệu bảo im : « Thầy vui lòng thấy các con biết Đoàn-Kết. Chỉ có Đoàn-Kết mới diệt được thù trong, giặc ngoài, đem lại tự-do cho dân-tộc. Nhưng làm ầm ỹ trong lớp như thế là phạm kỷ-luật… » Tuy thầy nói vậy, nhưng trong thâm tâm, xem chừng thầy cũng cảm động vì mối tình nồng-nhiệt của chúng tôi. Riêng anh bạn di-cư, hẳn cũng vui lòng, vì thấy anh nhìn chúng tôi bằng cặp mắt cảm ơn. Thầy chỉ một chỗ cho anh ngồi xuống, rồi lại nói : « Đất Bắc với những núi non hùng-vĩ, thắng cảnh danh lam, phản ánh sự sống còn của dân tộc ; người Bắc với tinh-thần bất khuất, tượng-trưng cho sự đấu tranh của chính-nghĩa. Tám mươi nhăm vạn người Bắc di-cư, cùng với mười triệu người Nam vùng lên, sẽ đem lại ngày mai huy hoàng cho đất nước. Các con hãy coi nhau như anh em một nhà. Kẻ nào nhạo báng anh là di-cư thế nọ, di-cư thế kia, là vô tình mắc bẫy tuyên-truyền của địch. Kẻ ấy không xứng đáng là con Rồng, cháu Tiên, và sẽ tủi hổ trước lá quốc-kỳ ». Anh bạn di-cư vừa ngồi xuống ghế, các bạn đã xúm nhau lại tặng anh nhiều vật : bút, thước, bi ve… Một anh ở cuối lớp cũng góp vào phần ấy một tập ảnh ô-mai để làm kỷ-niệm. Không hiểu tại sao, lòng tôi thấy thương anh, rồi phục, rồi mến anh quá. Tôi bỗng có cảm-tưởng gần người bạn đau-khổ nhưng hiên ngang ấy rồi đây sẽ học được lắm điều hay ! ANH HÙNG DÂN TỘC Ngày 21 tháng 9 Anh bạn di-cư tên là Tôn. Anh mới vào được có mấy hôm đã làm cho chúng tôi mến phục vì bài VIỆT-SỬ sáng nay với đầu đề : « Anh hùng dân tộc ». Mọi lần, anh Sinh vẫn nhất bất cứ môn nào nhưng vì hôm thi anh nghỉ, nên khi thầy đọc đến tên anh Tôn cả lớp đều ngạc nhiên, quay xuống nhìn. Đây là bài của anh đã được thầy sửa lại. Tôi mượn chép về cho cha tôi xem : « Trang sử nước nhà ngày thêm rực rỡ bởi sự-nghiệp lớn lao của biết bao nhiêu đấng anh hùng liệt nữ ! Quần thoa như bà Trưng, bà Triệu đã đem tấm thân đào tơ liễu-yếu bảo-vệ non sông. Nam nhi thì nào Lê-Lợi, Nguyễn-Huệ, xuất thân trong đám người áo vải ; nào Ngô-Quyền, Lý-thường Kiệt, Trần-quốc-Tuấn những bậc danh tướng ; cả đến những kẻ đầu xanh như Trần-quốc-Toản cũng hết sức đem thân mình để trả nợ non sông. Lại còn Phan-đình-Phùng, Nguyễn-thái-Học, cùng nhiều chiến sỹ vô danh khác nữa, cũng đã đem xương máu mình để mưu sống còn cho dân tộc. « Tất cả các vị nào đó, vị nào cũng nêu gương muôn thuở, đáng cho ta kính phục cả. Riêng theo ý tôi, tôi cho ông Nguyễn-Huệ là hơn hết. « Trước sự tham tàn, phản quyền lợi dân tộc của Trương-phúc-Loan làm cho máu căm hờn sục sôi giữa đám người nông-dân bần bách, ông đã vùng lên, dựng cờ khởi nghĩa. « Hạ được kẻ thù chung rồi, ông không quên đem binh diệt Trịnh để trả nước cho vua Lê, bấy lâu khuất phục dưới nanh vuốt quyền thần. Hành-động cao-thượng thay ! « Cho tới khi ông vua vong quốc Lê-Chiêu-Thống nhục nhã sang Tàu, cõng rắn cắn gà nhà, thì 20 vạn quân Thanh, binh hùng tướng mạnh, giả danh phù Lê để cướp nước, thế mạnh như vũ bão, ầm-ầm kéo xuống chiếm đóng Thăng Long. Quân Tàu từ đó đã gây bao tàn hại, reo rắc bao nhiêu tang tóc trên đất Việt thân yêu của chúng ta. « Người Việt thuở ấy đã rên xiết dưới sự áp bức của ngoại bang. Dân tộc Việt-Nam tính mạng treo trên sợi tóc ! Giang-sơn Việt-Nam quằn quại dưới gót thù ! Già, trẻ, lớn, bé, ngày đêm cầu nguyện an-ninh, mong nuốt sống kẻ thù truyền kiếp. « Trong cơn giông tố đó, với một đạo binh bằng nửa, với cách chuyển-vận thần tốc, Nguyễn-Huệ đã lên ngôi Hoàng Đế, và chỉ trong 5 ngày, từ Trung-Việt kéo ra đánh tan lũ quân Thanh tàn ác. Các danh tướng Tàu đều tử trận ; Tôn Sĩ-Nghị bỏ cả ấn tín chạy lấy thân. Giữa tiếng reo hò vang trời dậy đất của nhân dân, quân ta trèo qua xác địch, đuổi theo cho đến tận biên thùy. « Vinh quang thay ! « Thanh thế của Ngài rực rỡ đến nỗi vua Thanh phải mời sang xem mặt, hết lòng trân trọng tiếp đãi. Trong lịch sử ta, từ xưa đến nay chưa từng được rạng rỡ đến như thế. « Võ công của ngài thì như vậy, chính sự của Ngài cũng chẳng tầm thường. « Là người của dân, Ngài luôn luôn nghĩ đến dân, lo mưu đồ hạnh-phúc cho dân. Ngài lại dùng chữ Nôm thay chữ Hán, để được độc-lập về văn-hóa. Ngài còn có mộng tưởng chiếm phá nước Tàu để mở rộng bờ cõi. « Nhưng than ôi ! Nghiệp lớn chưa thành, người con cưng của lịch sử đã mất, trong khi dân-tộc Việt-Nam còn cần đến Ngài. Dẫu sao, sự nghiệp của Ngài cũng còn lưu lại muôn đời, khiến cho người sau, mỗi lần nhắc tới tên Ngài ai cũng phải kính cẩn cúi đầu. « Nước Việt-Nam ta ngày nay trong cảnh chia hai đất nước, chẳng khác gì thời Lê-Chiêu-Thống. Còn nhỏ, nhưng chúng ta sẽ là một lực lượng hùng hậu để rồi đây đứng trong hàng ngũ các bậc đàn anh, thống nhất xứ sở ». * Tôi còn nhớ sau khi đọc xong bài anh, thầy bảo : « Bài này đủ ý, câu gọn, lời hùng. Anh Sinh nếu có đi chưa chắc đã hơn. Các con ạ, Quang-Trung anh hùng như thế mà lũ người vong bản ngoài kia dám xuyên tạc công-trạng của Người, có đáng giận không ? » Cha tôi, lúc xem xong, cũng chép miệng nói : « Bạn con tuy ngồi đây làm bài, nhưng hẳn lòng vẫn hướng về đất Bắc. Khí khái như anh quả không thẹn là con dân nước Việt ». Mà trong số những anh hùng dân tộc ta đừng quên anh Tôn cùng với tất cả đồng-bào di-cư với một niềm tin mãnh liệt, đã can-đảm vượt dòng Bến-Hải với bao nỗi gian lao nguy-hiểm. Con nên chọn anh kết bạn mà chơi ! CÁC BẠN TÔI Ngày 24 tháng 9 Từ đầu năm đến giờ, tôi mới có dịp giới thiệu các bạn. Quả như lời tôi ức đoán, anh Tôn sau bài thi Việt-Sử đã hoàn toàn chiếm được lòng tín nhiệm của toàn thể chúng bạn. Lớn nhất, lại tỏ ra hoạt động-nhất, anh được tất cả chúng tôi bầu làm đoàn-trưởng và được thầy giáo cho giữ sổ điểm. Thật là cái vinh-dự cho anh. Anh năm nay 17 tuổi, nhưng trường-hợp đặc-biệt của anh long đong vì chiến sự, sự học luôn luôn bị gián đoạn nên ông Hiệu-Trưởng cũng thuận để anh ngồi học lớp Nhất. Người anh lớn, đầu to, vai rộng. Với nụ cười thường nở trên môi, người ta cũng biết rằng anh tốt bụng. Tuy vậy xem ra anh lúc nào cũng như tư lự, mơ màng, có lúc ngồi gốc cây đến hàng giờ không nói. Biết anh nhớ về quê cũ, chúng tôi bảo nhau không ai đến làm rộn anh. Anh là người tôi mến nhất lớp, mà coi như anh cũng nhiều cảm tình với tôi thì phải. Ngoài anh, tôi còn được làm quen với vô số bạn khác. Trước hết phải kể đến anh Tý, là đội trưởng đội tôi. Lúc nào chân anh cũng đi guốc đệm cao-xu, đầu đội cái mũ nồi lệch sang một bên. Cha anh là một hạ-sĩ trong quân-đội cộng hòa, vì bị thương trong cuộc tiễu-trừ phiến loạn miền Tây nên được mãn lính trở về. Gom góp được ít vốn liếng, cha mẹ anh mở một cửa hàng bán than, củi, làm kế sinh nhai. Ngồi bên cạnh anh là anh Ninh. Tội-nghiệp cho anh quá, chẳng may mang tật từ buổi lọt lòng, nên người anh bé bằng cái nắm tay, lại thêm một cái bướu nặng trên lưng. Sở dĩ tôi chú ý đến anh chỉ vì những bài Việt-Sử. Thật thế, khi chép bài, viết đến tên những vị anh hùng như Ngô Quyền, Phạm-ngũ-Lão… anh nắn nót như viết tập đồ. Vậy mà đến những tên Tô-Định, Liễu-Thăng thì anh bôi ra nguệch ngoạc, có khi lại còn rỏ thêm mực vào nữa. Ngồi trước mặt tôi, ở đội Lê-Lợi, là anh Bích, làm đỏm chẳng khác gì con gái, quần áo lúc nào cũng diêm dúa, tay luôn luôn vuốt lại nếp quần. Bên cạnh anh Bích là anh « Tư-Húi » sở dĩ có tên như vậy là vì cha anh làm nghề thợ cạo. Mặt anh tròn như mặt trăng và mũi thì tẹt dí. Anh ta có biệt-tài làm « mắt lác » rất thần tình, khiến chúng tôi thường đem anh ra làm trò cười với nhau. Ngồi phía bên kia là anh Phi, đội-trưởng đội Quốc-Toản người cao như cò hương, với cái mũi nhòm mồm, đôi mắt ti hí. Luôn luôn anh ta mua đi bán lại chẳng từ một thứ gì : từ cái ngòi bút đến cái vỏ diêm. Thật là một bộ óc thương-mại hiếm có ! Tôi còn làm quen với anh Vân. Anh Vân ngồi giữa hai anh bạn mà tôi cũng mến lắm : một bên là Côn, con một người thợ chữa xe máy, mặc cái áo chữa lại của cha dài đến đầu gối, mặt xanh nhợt như người ngã nước, hai mắt buồn rầu ngơ ngác, chẳng dám nhìn ai lâu ; một bên là anh Sỹ, đầu húi trọc, cánh tay bị liệt, đeo lên ngực. Anh lành như con gái và học chăm rất mực. Người ta nói cha anh sang Tân-Thế-Giới đã lâu, làm gì không biết ; còn mẹ anh bán đậu phọng rang. Nhưng bà ta sợ con xấu hổ, không dám bén mảng đến cửa trường bao giờ. Hai anh hiền lành ngồi cạnh nhau thật là tương đắc ! Giới thiệu các bạn khác tôi quên anh bạn ngồi ngay bên trái. Tên anh là Tác, một nhân vật kỳ-khôi, mình tròn, cổ rụt vào đến tận vai, lúc nào cũng lầu bầu học bài trong miệng, chẳng trò chuyện với ai. Coi bộ anh đần độn, nhưng tôi chưa từng thấy ai chăm chú đến như anh. Trong khi thầy giảng bài, mắt anh nhìn thẳng, vầng trán cau lại, hai môi mím chặt lấy nhau. Liệu hồn bạn nào lúc đó hỏi anh cái gì ! Miệng không trả lời, nhưng chân anh ở dưới thế nào cũng đạp ngầm cho mấy cái nên thân. Phía bên kia, ngồi cuối lớp, là anh Pha, mặt mũi vênh váo, lúc nào cũng sừng sộ như muốn cà khịa với ai. Tôi thú thật cứ trông thấy anh ta là hãi, giờ ra chơi chẳng dám đến gần. Còn người thông minh và ngoan nết hơn cả là anh Sinh, người suốt bốn năm, bao giờ cũng ngồi đầu lớp. Anh được bầu làm đội-trưởng đội Quang-Trung, kiêm thêm chức trưởng ban Tương-Tế Học-Sinh của toàn trường. Ông Hiệu Trưởng mến anh lắm và thường gọi đùa anh là « viên ngọc quí của nhà trường » làm anh thẹn đỏ ửng cả mặt. Trong số những bạn ấy, không biết sao tôi đem lòng quí mến anh Côn, con người thợ sửa xe đạp mà tôi đã nói ở trên. Tôi ở gần nhà anh nên biết anh phải đòn luôn và thầy anh dữ đòn đã có tiếng. Khốn nạn, vì thế anh trở nên rút rát, đến nỗi chưa chạm phải người ta mà miệng đã ấp úng sẵn câu xin lỗi. Nhưng thật ra, trong số từng ấy bạn, cũ và mới, theo ý tôi, anh Tôn mới là người hơn hết bọn chúng tôi. Cái đó tại sao ? Tôi không rõ. Tôi chỉ biết rằng đã linh cảm thấy thế mà thôi. VÌ BẠN Ngày 26 tháng 9 Chúng tôi quí anh Tôn, coi anh như người anh Cả trong trường, cũng không phải vô lý. Thực thế, sáng nay khi thầy giáo còn ở văn phòng ông Hiệu-Trưởng chưa lên, thì ba bốn anh, nhân dịp vắng thầy, chọc ghẹo anh Sỹ, anh bạn bé nhỏ, có cánh tay liệt và bà mẹ bán đậu phọng rang. Kẻ thì lấy vỏ hạt dưa ném vào mặt anh. Có kẻ hung tợn hơn, cầm thước gõ côm cốp vào đầu. Kẻ thì bĩu mỏ bĩu môi, gọi là « thằng què, thằng cụt », thôi thì đủ tình, đủ tội. Sỹ sợ hãi ngồi nép mình vào đầu ghế, cặp mắt sợ sệt, hết nhìn người nọ đến người kia, như van lơn, như cầu khẩn, những tưởng các bạn để cho được yên thân. Nhưng cái bọn tai ác kia đâu có biết thương người yếu đuối ! Thấy anh nhút nhát, chúng lại càng làm già cho đến lúc anh không chịu nổi nữa, hai mắt đỏ ngầu rướm lệ. Bỗng nhiên, anh Pha – anh chàng có bộ mặt sừng sỏ – đứng hẳn lên trên ghế, khèo hai cánh tay lại như người cắp thúng, miệng cất tiếng rao : « Ai mua đậu phọng ra nào ? » Trước điệu-bộ ấy mọi người cười ồ lên. Anh Sỹ tái mặt đi, toàn thân run lên và tức giận. Rồi vớ lấy lọ mực trên bàn, anh thẳng tay ném mạnh. Nhưng anh chàng Pha nhanh mắt, tránh được ; mà lọ mực cũng không ném ra ngoài vì nó trúng ngay giữa ngực thầy giáo, lúc ấy vừa bước vào cửa lớp. Mọi người đều sợ hãi, nem nép về ghế ngồi, im thin thít. Lớp học vừa đây ồn ào, bỗng yên lặng như tờ, không một tiếng động. Thầy giáo giận tái mét mặt, kéo ghế, ngồi vào bàn, cất tiếng hỏi : « Ai ném ? Ai ? » Không một người lên tiếng. Thầy giáo lại càng giận : « Ai ném nói ngay ? » Ở cuối lớp, anh bạn di-cư mạnh dạn đứng lên : « Thưa thầy, con chót dại… » Thầy trừng mắt nhìn anh, trong khi chúng tôi nhìn nhau, hết sức ngạc nhiên. Nhưng đã hiểu, thầy bớt giận, lắc đầu thong thả nói : « Không phải anh. Ta biết ! » Ngừng một giây, thầy tiếp : « Ai ném cứ can đảm đứng lên thú đi. Ta tha không phạt… » Sỹ lúc ấy mới lập cập đứng lên, giọng đầy nước mắt : « Thưa thầy… chính… chính con ạ… Các anh ấy chòng con, đánh con… Con chót lỡ tay… » Thầy giáo nhìn cánh tay đau của anh khẽ thở dài : « Thôi con ngồi xuống. Còn những anh nào chòng ghẹo anh ấy hãy mạnh dạn đứng lên nào ! » Ba bốn anh rụt rè đứng dậy, mặt xám như gà cắt tiết, chẳng dám ngửng lên. - Các anh xúm nhau vào bắt nạt một người cô thế, không trêu ghẹo gì các anh. Các anh chế riễu một người bạn tàn tật, đánh đập người bạn yếu đuối… như thế có phải loài người không ? Đêm nằm vắt tay lên trán nghĩ lại xem nào ? Có xứng đáng là con dân nước Việt không ? Thật là hèn mạt ! Có học-trò như các anh, ta lấy làm xấu hổ. Tổ quốc có những đứa con như các anh, Tổ-quốc cũng nhục lây… Hừ ! hỏi còn trông cậy gì được nữa ? Nói dứt lời, thầy bước xuống bục, đi xuống cuối lớp. Anh Tôn thấy thầy tiến về phía mình, sợ hãi, cúi đầu. Thầy lại gần, lấy tay nâng cằm anh lên, nhìn thẳng vào mặt anh mà bảo : « Thầy vui lòng có những học-trò như con ! » Anh Tôn lúc bấy giờ mới yên tâm, nghiêng đầu về phía thầy, lắp bắp những gì không rõ. Lập tức, thầy quay về phía bốn kẻ tội nhân, lên tiếng : « Thôi ngồi xuống ! Nể anh Tôn ta tha cho… Bận sau còn thế cứ chết đòn ». Lúc ra về, bàn tán về anh Tôn, thì anh Sinh thủng thẳng nói : « Có vậy mới xứng đáng với tấm lòng cao-thượng của thầy ». KIÊU NGẠO Ngày 1 tháng 10 Kiêu ngạo nhất lớp tôi là anh Bảo, vừa mới ở trường Lê Lợi đổi sang. Anh con nhà lịch sự giàu có. Nghe đâu cha anh là một vị y-sĩ nổi tiếng về đức hạnh. Bởi giàu có, lại được cha mẹ nuông chiều, nên đi học mà anh ăn mặc sang lắm : giầy da, đồng-hồ vàng, quần áo bảnh bao, đầu tóc chải bóng mượt, bắt chước người lớn. Cũng do đó mà anh tự-kiêu, tự-đắc, tưởng trên đời chỉ có mình anh. Anh Côn đi qua, chạm vào người anh một chút, mà anh vội lấy mùi-xoa ra phủi, như sợ lây vi trùng độc. Có lẽ đó là do tính người, vì anh Lưu cũng con nhà sang trọng mà có khinh người thế đâu ! Như anh Bảo thì chẳng còn ai chịu nổi nữa ! Anh chỉ muốn ngồi một mình một ghế, sợ ngồi chung, người ta rây bẩn vào người. Lúc đi thì anh ưỡn ngực ra, vênh mặt lên, chẳng thèm nhìn ai. Ai anh cũng gọi là thằng ; nói với ai cũng mày tao chi tớ, coi người bằng nửa con mắt. Hơi một tí là anh bỉ người ta, hoặc mang bố ra dọa. Trong lớp anh chẳng thân với ai ; chẳng ai thân với anh thì đúng hơn. Lúc anh đến cũng như lúc anh về, cư lùi lũi mà đi, tưởng như mình có xe hơi thì ai cũng nể, ai cũng sợ ? Thực ra chẳng ai muốn hỏi anh. Cả đến khi anh không thuộc bài cũng vậy, không ai nhắc, mà có quên sách cũng chẳng ai cho mượn. Thế mà anh còn ra bộ khinh-bỉ mọi người, khinh anh Sinh vì anh học giỏi nhất lớp, khinh anh Tôn, vì anh được chúng bạn mến yêu, nghĩa là anh ghen với họ vì thấy họ hơn mình, chỉ có thế ! Còn anh Sinh tuy vậy mà khá. Khi có người nói đến tai rằng anh Bảo nói xấu anh, thì anh điềm nhiên gạt đi : « Không, tôi biết ! Anh ấy nói đùa đấy mà ! » Sáng hôm nay lúc anh Ninh xếp hàng ra chơi, lúng túng thế nào dẫm ngay phải chân anh Bảo, anh cũng vào thưa thầy. Anh Ninh cứ tình thực trình với thầy rằng chót lỡ phải. Thầy bèn bảo anh : « Con đến là hay nhiễu sự ! Bạn bè chơi nhau phải tha thứ cho nhau mới phải chứ ! » Bảo xấu hổ, lúc xuống sân bám ngay lấy tôi cho đỡ ngượng. Nể anh tôi miễn cưỡng đi theo. Loanh quanh một lát, anh kéo tôi ra ghế, lúc ấy đã có anh Lãm đang chăm chú ngồi xem quyển chuyện Lỗ-bình-Sơn. Thì ra anh rủ tôi ra đấy để khoe đôi giày mới đóng. Giơ một chân lên, anh nói : « Trông « tớ » đi đôi giầy kiểu « uy-ních » này có được không ? » Anh cố ý để cho anh Lãm ngồi bên nom thấy ; nhưng Lãm còn mải đọc, chẳng để ý. Bảo lại sắn tay áo rõ cao, để lộ chiếc đồng-hồ vàng lẩm bẩm : « Sáng nay giá không có cái đồng-hồ vàng này thì tớ đi chậm mất năm phút… Đồng hồ « chiến » thế này mà hôm nọ chú mèo suýt làm vỡ của mình, có « oán » không chứ ? » Bảo vừa nói vừa nhìn sang bên cạnh, nhưng vô ích, anh Lãm vẫn ngồi điềm-nhiên đọc sách, chẳng thèm liếc mắt. Lần này thì xem Bảo ta bực mình lắm rồi ! Anh rút kính râm ra, soi lên phía mặt trời. Tôi hỏi : « Kính anh « mác » gì thế ? » - Trông kính này mà cậu không biết mác « zét » à ? Cậu xoàng quá. Nhìn mà xem ! Có dấu hiệu ở mắt kính này ! Tôi nhìn theo tay anh trỏ, nhưng chẳng trông thấy gì cả. Được dịp ấy, anh quay ngay sang bên cạnh, dí cái kính vào tận mũi anh Lãm : « Này nhìn hộ xem này ! Có phải có chữ Z.O. ở đây không ? » Anh Lãm giật mình, sửng sốt, bỏ sách xuống. Giữa lúc ấy có tiếng chuông vào học. Mọi người bỏ cả cuộc chơi, tất cả chạy đến cửa lớp xếp hàng. Anh Lãm cũng vội vã gấp sách đứng lên, mỉm cười : « Chuông rồi đấy ! Thôi ta để lúc khác nhé ! » Anh Bảo tức quá, tưởng đến phát điên lên được, vừa đi vừa lầu nhầu trong miệng : « Hừ ! Cái đồ nhà quê ấy thì còn biết cái gì nữa ! » Vào học được một lát, thầy giáo đưa ra một tờ giấy để học-sinh chúng tôi lần lượt kê khai tên tuổi, cùng là nghề nghiệp, địa-chỉ bố mẹ. Người này, rồi người khác, tờ giấy được chuyển đến tay Bảo, ngồi cuối bàn ba. Anh trề môi ra liếc đọc nghề nghiệp của cha mẹ các bạn. Có lẽ anh thấy toàn những thợ thuyền, buôn bán mà anh khinh chăng ? Rồi anh trịnh trọng rút bút máy ra, nắn nót viết : BÙI HỮU-HỮU – y-sĩ… Viết xong anh đắc chí xoa tay đọc lại, ra dáng thú vị lắm, rồi chẳng thèm đưa, quăng mạnh xuống bàn dưới cho anh Lãm. Lúc anh Lãm đang viết, anh khẽ quay lại, ý chừng chờ xem anh Lãm thấy nghề nghiệp của cha anh mà giật mình chăng ? Nhưng chính anh đỏ mặt giật mình, vì anh vừa thấy Lãm đặt bút xuống bàn, dòng chữ hãy còn rành rành, chưa ráo mực : ĐÀO-THẾ-THẾ – Giám-Đốc Nha Y-Tế. Anh toát mồ hôi, ngồi đờ ra, cắm mặt xuống bàn. Đợi học-sinh khai xong, thầy thu lấy bản danh sách rồi bắt đầu cho thi vẽ. Các bạn đã bắt đầu vẽ mà tôi vẫn thấy anh loay hoay mở cặp, lục hết ngăn nọ đến ngăn kia, rồi hết thục tay vào trong ô kéo, lại thò tay vào túi áo : thì ra anh quên mất bút. Mọi người đã vẽ xong gần nửa chẳng ai để ý đến anh. Anh cứ ngồi ngay ra. Anh biết có hỏi mượn cũng chẳng ai cho, vả lại anh đã chót tuyên-bố không thèm nhờ ai. Thế mới chết ! Anh phát khóc đến nơi ! Mặt anh lúc tái, lúc tía, mồ-hôi rỏ giọt. Ngồi bàn dưới, anh Lãm vẫn nghiêng đầu cặm cụi nắn nót từng nét. Bất chợt anh ngẩng đầu nhìn lên. Lập tức anh cúi xuống ngăn bàn, mở hộp bút ra, rồi nhổm người, với tay lên bàn trên : « Bảo ơi ! Bút đây ! Vẽ nhanh lên ! » Giờ tan học, anh Ninh xếp hàng qua mặt anh, lúng túng đánh rơi quyển vở xuống đất. Anh Ninh chưa kịp cúi xuống thì đã thấy anh Bảo nhặt lên, bỏ vào cặp cho anh. Chúng tôi nhìn nhau, ngạc nhiên hết sức. Lúc đi đường, anh Sinh bảo chúng tôi : « Đấy, các anh cứ thường chê anh Bảo là xấu ! Theo tôi, không phải ai cũng hoàn toàn xấu mãi, phải không các anh ? » Nói xong anh cù tôi một cái, mà nói : « Đã phục Sinh chưa ? » Rồi anh nhoẻn miệng cười, rẽ sang phố khác… CÔ GIÁO CŨ Ngày 5 tháng 10 Như lời hứa, cô giáo cũ lớp Năm hôm nay đến chơi. Dễ đến một năm cô không lại chơi, nên vừa gặp ai cũng tay bắt mặt mừng. Cô vẫn thế, không khác chút nào, vẫn cái dáng người thon mảnh ẩn trong bộ áo giản dị, xẫm màu. Mái tóc cô bắt đầu đốm trắng từ năm ngoái. Nước da xanh thêm một chút, còn bệnh ho quái ác vẫn đeo đẳng chưa thôi. Thầy cô ho luôn, mẹ tôi ái ngại, nắm tay cô : « Cô mệt đấy ! Cô phải chịu khó tẩm bổ, thuốc men vào chứ ! » Cô mỉm nụ cười buồn : « Được đến đâu hay đến đó mà ! » - Cô thì lúc nào cũng nói thế được. Nghề dạy học vất vả lắm cô ạ. Đối với học-trò, cô đã hy-sinh nhiều quá rồi, đến lúc cô phải nghĩ đến sức khỏe của cô mới được… Mẹ tôi nói đúng. Cô giáo chịu khó thật, ai cũng phải công nhận. Đi ngoài đường đã nghe thấy tiếng cô vang trong lớp. Nhưng lũ trò nào có biết thương cô ! Chúng lơ đễnh nhiều quá, khiến cô cứ phải nói luôn mồm đi luôn chân, chẳng lúc nào được nghỉ. Cô hứa đến chơi, mà quả nhiên thật, vì cô không quên học-trò cũ bao giờ. Cô nhớ tên từng đứa một, có đứa nhớ cả ngày sinh, tháng đẻ. Như một người mẹ hiền, cô chăm nom săn sóc học trò chẳng khác con đẻ, vui khi chúng cười, buồn khi chúng khóc. Tôi chưa từng thấy một người nào dịu dàng, tận-tụy hơn cô, cho nên thôi học đã mấy năm rồi, mà tôi còn nhớ mãi. Cả những anh học-trò cũ đã lớn, tuy học lên trường trung-học mà thỉnh thoảng vẫn còn ghé lại thăm cô với một lòng biết ơn tha thiết. Hôm ấy nhân ngày thứ năm, cô đưa học-trò đi thăm Sở Thú. Đó là lệ thường của cô : cứ ngày đó, dù bận, cô cũng đưa chúng đi chơi chỗ này chỗ nọ, để cho chúng có dịp trông thấy tận mắt những điều bổ ích. Cuộc đi chơi bữa nay không xa, nhưng lúc trở về, cô cũng hơi thấy mệt trong người, nhưng không quên tạt đến thăm mẹ tôi như lời đã hứa. Khốn nạn, trông cô gầy yếu mà tôi thương quá ! Thế mà, động nói đến việc trường, việc học, là mắt cô sáng lên, miệng nói thao thao không biết mỏi. Ngồi chơi một lát, cô ngỏ ý muốn xem lại tấm hình mà cách đây hai năm, khi tôi bị ốm, cô đến thăm rồi chụp cho. Tôi cũng nhân dịp ấy đem ra mấy tập sách cũ để cùng cô ôn lại những kỷ-niệm đã qua. Rồi cô đứng lên ra về, vì còn vội đến thăm một học-sinh nghỉ đã lâu vì bệnh đậu mùa. Vả lại cô cũng còn lắm việc ở nhà : chồng sách phải chấm, áo len cho cháu đan dở chưa xong, rồi lại còn giờ dạy tối tại một nhà tư nữa. Cô xoa đầu tôi : « Dũng còn nhớ cô giáo nữa không ? Giờ Dũng nhớn rồi không khiến cô cầm tay tập viết nữa nhỉ ? » Xuống đến chân thang, cô quay lại nắm tay tôi : « Đừng quên cô, Dũng nhé ! » Nhìn cô đi khuất lòng tôi se lại. Cô ơi ! Cô nói chi điều ấy cho tủi lòng con ? Dù xa dù gần có bao giờ con quên được cô ! Rồi đây khi con khôn lớn, có lưu lạc phương nào, con cũng sẽ trở về nơi cũ thăm cô, người đầu tiên đã khai sáng khối óc còn tăm tối của con, người đã suốt một năm trời dòng dã, dạy bảo, khuyên răn, tập cho con đọc, tô cho con viết, uốn nắn con, khác nào chăm bón một cây non hoang dại. Con quên làm sao được những nỗi khó nhọc vì con, những phút tận tụy của cô bên chúng con, để mong dạy dỗ chúng con nên người khá giả. Cô quả là người mẹ hiền, đã sống cho chúng con, sống vì chúng con. Không ! Con sẽ nhớ cô cho đến tận phút cuối cùng và công ơn ấy con xin ghi lòng khắc dạ. MỘT VÁN BI Ngày 14 tháng 10 Giờ chơi buổi sáng hôm qua, sân trường bày ra quang cảnh náo nhiệt, vui vẻ : các anh bé đánh vòng, đánh bi, chơi quay, chơi đáo, các anh lớn người thì dựa cột xem sách, người túm năm, tụm ba bàn chuyện thi cử học hành. Trên hè cao, các thầy thủng thỉnh đi đi lại lại, trông ra sân, âu yếm nhìn đàn con thơ dại nô đùa. Đang lúc chạy nhảy vui vẻ bỗng sau trường có tiếng huyên náo, người xúm lại vòng trong, vòng ngoài. Một vài bọn hiếu kỳ vội bỏ cuộc chơi chạy lại xem. Thì ra anh Phi, anh bạn có óc con buôn, và anh Vân, chả biết đánh bi được thua ra sao, đâm ra cãi lộn. Lúc tôi len vào đến nơi, thấy hai anh quần áo sốc sếch, mồ hôi nhễ nhại, đỏ mặt tía tai. Anh Phi gân cổ lên : « Thế mà cũng đòi chơi ! Bận sau thì đừng hòng… » Anh Vân không chịu kém : « Ừ ! Ai ăn gian nó bày ra đấy ! » Anh Phi trợn mắt lên : « Ai ăn gian ? Ai ăn gian ? Đây không thèm… » Người đứng xung quanh, người bảo Phi phải, người cho Vân được. Anh Pha xấu bụng lại cố hẩy thêm vào cho hai anh cãi nhau, đánh nhau cho mà xem. Anh Phi giơ hai tay như phân vua : « Phải ! Không thèm ! Đấy, anh em xem hộ… rõ cái đồ… » Anh Vân mặt đỏ gay như con gà chọi, hùng hổ xấn vào : « Đồ gì ? Đồ gì ? Có giỏi ra đây ! » Mọi người sợ xảy ra xô xát, vội vã can hai anh ra, trong khi những anh bé reo ầm lên như vỡ chợ. Thầy giáo nghe tiếng huyên náo, vội chạy ra. Thấy thầy đến, không ai bảo ai, mọi người xem lảng đi hết, còn trơ lại hai anh, phùng mang trợn mắt nhìn nhau, như chưa hả cơn tức giận. Trước vẻ mặt nghiêm khắc của thầy, hai anh sợ hãi, rối rít thưa thưa, bẩm bẩm. Thầy không nghe ai cả, bắt cả hai anh đứng quay mặt vào tường. Học sinh các lớp lại được dịp « ê, ê » ầm ỹ, cho đến lúc thầy phải quay lại, quắc mắt lên họ mới chịu thôi. Anh Vân và Phi lúc ấy trông thật thảm hại ! Mặt anh nào anh nấy xám ngoét vì sợ hãi, vì hổ thẹn, cứ cúi gằm xuống như hai kẻ tội nhân. Anh Tôn gọi tôi ra một chỗ, chép miệng mà bảo rằng : « Rõ thật là xấu hổ ! Hai anh bây giờ có hối hận thì cũng đã muộn rồi… Anh em bạn học, cùng thầy, cùng trường phải nhường nhịn, thương yêu nhau như anh một nhà mới phải chứ, gà cùng một mẹ đá nhau làm gì ». Tôi còn đang suy nghĩ về câu anh nói, thì chuông vào học đã bắt đầu. THƯ XIN LỖI Ngày 15 tháng 10 Vừa ở trường ra được mấy bước, thấy anh Phi lật đật chạy theo tôi, vừa thở, vừa nói : « Dũng ạ, nhờ Dũng một tí nhé !… nhờ Dũng đưa hộ cái thư này cho Vân nhé !… Đây là cái thư tôi xin lỗi… nhưng tôi ngượng không dám đưa… Dũng xem hộ xem viết thế này có được không ? Hộ tí nhé ! » Tôi mỉm cười bảo anh : « Ai bảo cãi nhau cho lắm vào rồi lại viết thư cho tốn giấy mực ! » Anh cười gượng : « Thế mới là « thân nhau lắm, cắn nhau đau » chứ ! » Tôi cầm lấy thư. Anh đi rồi tôi còn trêu anh : « Này ! Mai đãi tớ cái kem đấy nhé ! » Anh gật đầu, rẽ sang phố khác. Tôi vừa đi vừa xem thư anh : « VÂN, « Sáng nay, chắc Vân giận tôi lắm đấy nhỉ ? Riêng tôi về nhà nhìn lại chiếc áo nhầu nát, đứt khuy, tôi lại hối rằng đã quá nóng. « Vân thế nào không biết, chứ từ lúc ở trường ra, tôi băn khoăn nghĩ ngợi mãi về chuyện ấy. Từ xưa tới nay có cuộc đi chơi nào mà không có chúng ta ? Giờ ra chơi nào chúng ta không chơi cùng nhau ? Mà có bao giờ xẩy ra giận dỗi, bất hòa đâu. Học cùng học, chơi cùng chơi, khác nào anh em ruột thịt ? Vậy mà sáng nay chỉ vì một chút cỏn con, một ván bi không không rõ được thua, mà chúng ta cãi cọ nhau, suýt sô sát nhau là đằng khác. « Tôi nghĩ lại mà hối quá Vân ạ. Lúc đó chắc trông chúng ta khả ố lắm đấy nhỉ ? Đứa nào đứa ấy trợn mắt, phùng má, giơ tay, giơ chân, giằng giằng, co co chẳng khác gì hai kẻ say rượu, điên cuồng. Rồi mày tao chí tớ, văng tục, văng bẩn, không còn ra thể thống gì nữa. Ấy cũng chỉ vì tại chúng ta nhiều tự ái, chẳng chịu nhường nhau. « Tự ái như thế thật là không đúng chỗ, có phải không Vân ? Học hành hơn kém, ganh nhau cho bằng anh bằng em, đó mới là tự ái chứ ! Tự ái vì mấy hòn bi, thật là quá đáng ! « Nhớ lại những lúc chúng ta thân thiết với nhau mà tôi lại tự khinh tôi, tự trách tôi. Vẫn biết rằng câu chuyện đã qua rồi, còn làm sao mà gỡ lại được nữa ? Nhưng tôi thiết tưởng lòng hối hận có thể chuộc được lỗi xưa một phần, Vân nhỉ ? « Tôi mong Vân nghĩ đến tình bạn của chúng ta, quên lỗi vừa qua để chúng ta nối lại sợi dây thân ái,và thư này khi đến tay Vân, thì Vân đã quên hết rồi. « Đó cũng là bài học hay cho chúng ta, để từ đây chúng ta sẽ thân nhau hơn, quý nhau hơn. Có thế thầy giáo, cha mẹ chúng ta biết chuyện mới được hả lòng, và sau này ra đời, chúng ta không đến nỗi trông thấy nhau mà phải quay đi. « Vân ơi ! anh tha lỗi cho Phi nhé ! Vân đừng giận Phi nữa nhé ! Đừng giận người bạn đã tự biết mình trái và đang bị hối hận dày vò. Mong rằng tình bè bạn thiêng liêng của chúng ta rồi đây sẽ bền chặt mãi mãi chẳng bao giờ phải lạt. « Phi chờ Vân sáng mai đến rủ đi học như mọi khi, nhớ nhé, Vân nhé ! Chúc Vân vui luôn. « Bạn Vân chờ Vân hết giận. « PHI » CẢNH NGHÈO Ngày 19 tháng 10 Mới có từ đầu tháng mà anh Sỹ để đến 10 lần bị ăn « trứng thối ». Mà tôi cũng chẳng thấy ai to gan như anh ! Bữa trước thầy đã dặn đi dặn lại, hôm nay phải trình bản-đồ « Việt-Nam sông ngòi » để thầy chấm. Cả lớp ai cũng có. Riêng mình anh không. Chẳng những bản-đồ anh không có, mà đến bài anh cũng chẳng thuộc được quá hai câu. Anh « ư, a, ư, ơ » được mấy tiếng, rồi đứng đực ra như tượng gỗ mặt đỏ bừng lên như gấc chín, nước mắt ứa ra dòng dòng. Thầy đập bàn : « Anh không biết xấu hổ, còn khóc hay sao ? Dễ đến một tháng nay, ta để ý xem ra anh chán nản sự học, không bài nào anh học, không bài nào anh làm. Ta hết lời khuyên bảo, anh chẳng thèm nghe, anh khinh nhờn ta quá lắm !… » Anh Sỹ cứ gằm mặt xuống mà thút thít. Thầy đang cơn giận, hầm hầm nói tiếp : « Không biết xấu ! Không biết nhục ! Đi học mà không chịu học thì còn cắp sách đến trường làm gì cho tốn cơm cha mẹ ? » Đến đây, anh Sỹ bật khóc thành tiếng, phải đưa vạt áo lên miệng cắn, mà vẫn cứ nức nở không thôi. Còn thầy thì thở hổn hển, rút mùi xoa trong túi ra lau mồ hôi lấm tấm trên trán, rồi gập mạnh sách vào, dằn từng tiếng : « Hừ ! Lười biếng ! Hư thân ! học không học ! làm không làm ! Ngữ ấy rồi sau này ăn cậy, sống nhờ, chứ còn trông mong gì được nữa ? Thế mà ta cứ ngỡ anh khá… » Chúng tôi lấm lét nhìn nhau, ngồi im chẳng ai dám động đậy. Một lát sau, thầy quay lại nhìn anh, khẽ lắc đầu, giọng chán chường, mệt nhọc : « Ta hết lòng răn dạy anh, nhưng xem ra anh không cần học, ta không biết làm thế nào bây giờ ?… Ta làm nghề dạy học chỉ mong có cái vui thấy các anh chăm chỉ, vậy mà… » Anh Sỹ sụt sịt nói : « Xin… thầy… thầy tha cho con… lần nầy… » - Ta đã tha cho anh nhiều lần. Rồi ngày mai, rồi ngày kia, anh vẫn chứng nào tật ấy, làm gương xấu cho anh em, làm khổ tâm cho ta, làm nhục lây cho trường, cho lớp. Sỹ ơi ! nếu con không thương ta thì con cũng thương cha, thương mẹ con mà sửa đổi đi mới phải… Người ta mỗi ngày một khá một hay, còn con mỗi ngày một hư, một đốn. Mà trước kia con có thế đâu ! Anh Sỹ, nhích lại gần bàn thầy, nghẹn ngào nói qua nước mắt : « Bận sau… con… con xin chừa… » Thầy lại chợt nổi nóng lên : « Đã nhiều lần anh nói với ta câu ấy, khiến ta quen tai quá rồi, nghe mà thêm bực. Thôi ! Anh về chỗ, kẻo anh đứng đấy ta trông thấy mà đau lòng xót ruột ». Anh Sỹ lập cập cầm lấy sách, nước mắt, nước mũi chan hòa, lủi thủi về chỗ. Thầy nhìn theo chép miệng thở dài : « Chẳng may có học-trò thế ấy ta cũng đành mang cái tiếng với đời ». Chúng tôi ai cũng nửa thương, nửa giận. Thương vì nỗi thấy anh hiền lành, giận vì nỗi anh không chịu học, lời thầy khuyên, anh dường như bỏ ngoài tai. Từ ít lâu nay anh bỗng đổi tính, đổi nết, trước kia chăm bao nhiêu thì bây giờ lười bấy nhiêu. Đến nỗi, cứ thấy gọi đến tên anh là chúng tôi đã bấm nhau, chờ xem anh ăn « trứng thối ». Mới đầu còn thấy hay hay, nhưng rồi sau thấy anh vẫn chứng nào tật ấy thì chúng tôi đâm ra ác cảm, bảo nhau tẩy chay anh là đằng khác. Chẳng mấy chốc giờ tan học đã hết. Chúng tôi thu gọn sách vở, ra xếp hàng ngoài hiên. Anh Sỹ một mình đứng ở đằng cuối, vì chẳng ai chịu đứng với anh. Mặt anh tái mét. Nước mắt chưa ráo, anh cứ cúi gầm xuống không dám ngẩng lên. Tôi trông anh mà ái ngại. Chờ cho mấy lớp dưới ra trước, thầy vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi, rồi bước vào văn-phòng ông hiệu-trưởng. Vừa ra đến cổng trường, bỗng có thấy tiếng đàn bà chu chéo đằng sau : « Thằng trời đánh thánh vật kia, về mà xem nồi cá ! Mày bỏ mày đi học để cá của tao cháy vụn thành than ! Mày hại tao ! Mày giết tao, mày có biết không ? » Chúng tôi ngoảnh lại thấy một người đàn bà to lớn, bộ lông mày chổi xể, đôi mắt sắc như dao, đang nhẩy chồm lên mà sỉa sói vào mặt anh Sỹ : « Rồi tao về tao bảo mẹ mày ! Tao có nhờ mày không đâu ? Chẳng qua mẹ mày nợ tao, cho mày sang làm trừ nợ. Tưởng mày đỡ đần tao, quét dọn, cơm nước cho tao, ai ngờ mày thiết việc học của mày cơ ? Mày thiết làm ông trạng cơ, để đến mỗi tam tứ phen cơm sống, cá khê… Tao cần mày làm, chứ tao có cần mày học đâu. Mặt mũi thế kia có đáng cắp sách đến trường không, hử ? hử… » Rồi bà ta cứ chồm lên, túm lấy ngực anh mà lôi như con nhái bén. Khốn nạn thân anh ! Cứ run lên cầm cập, mặt tái mét, chẳng còn hạt máu. Anh rên rỉ : « Bà tha cho cháu… Cháu chót lỡ… Cháu van bà… » Nhưng bà ta không hề cảm động, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau ken két, rít lên những tiếng ghê người : « Tha gì ? Lạy gì ? Thôi ở nhà đóng vai đứa ở mà trừ nợ cho xong, còn sĩ-diện cắp sách đi học làm gì không biết nhục ? » Rồi bà ta túm lấy tóc anh định tát. Nhưng một người sấn vào, gỡ tay bà ra. Đó là thầy giáo. Cặp mắt xót xa thương cảm, Thầy cúi xuống bảo anh : « Nín đi con ! Yên chí chớ hãi… Từ ngày mai con lại có đủ thời-giờ để học bài như chúng bạn… » Rồi thầy nghiêm khắc quay lại bảo bà kia : « Còn bà bớt nóng, theo tôi về nhà, rồi công nợ thế nào, đâu có đó, phân minh… » Bà ta cứ há hốc mồm ra, chẳng nói được câu nào, rồi trước cái vẻ nghiêm nghị của thầy giáo, bà ta cúi mặt xuống, lùi lũi đi theo… Chúng tôi đã hiểu đầu đuôi, nhìn nhau cảm động. Anh Tôn, anh Tý xúm vào, đưa anh Sỹ về nhà… Lúc đi đường, mẹ tôi ngậm ngùi bảo : « Con có trông thấy anh Sỹ đấy không ? Nghèo mà thiết học. Còn con, nhờ trời cái ăn cái mặc sẵn sàng, chỉ có một việc học thôi mà lắm lúc chẳng chịu học cho, vẫn lấy sự học làm khổ. Dũng con ơi ! con theo gương anh Sỹ đấy mà chịu thương, chịu khó học hành cho ba mợ vui lòng… » Nghe mẹ nói, tôi cúi đầu ngẫm nghĩ, vừa thương bạn, vừa tự nhủ thầm phải cố gắng hơn lên. LÀM NGƯỜI PHẢI HỌC Ngày 22 tháng 10 Ba tôi được mẹ tôi thuật lại câu chuyện hôm qua, nên sáng nay thấy viết trong nhật-ký của tôi những dòng chữ sau đây : « Dũng ơi, « con lấy sự học làm khổ ». Mẹ con nói vậy chẳng ngoa chút nào thật thế, chẳng mấy khi Ba thấy con đi học với cái dáng điệu tung tăng, nụ cười hớn hở. « Con thử tưởng tượng xem, nếu một ngày kia con ở nhà, trong khi các bạn con đi học cả, thì cái ngày ấy vô vị đến thế nào ! Nếu có vui thì cũng chỉ được ngày đầu. Rồi chỉ một tuần sau, Ba chắc con lại đòi đi học ngay đấy. Là vì, với tuổi con, chỉ có đi học là vui thôi… « Dũng ạ, con hãy nhìn ra chung quanh mà xem ! Trẻ nhỏ ngày ngày cắp sách đến trường, ông già bà cả buổi tối theo lớp Bình-dân. Thợ thuyền, những ngày chủ-nhật, binh lính, những lúc nghỉ ngơi, ai nấy đều mang sách học thêm. « Cả đến những trẻ câm, trẻ mù, tàn tật thế ấy cũng không chịu để thời giờ vô ích mà đều gia công gắng sức học hành, cho đến biết đọc, biết viết mới thôi. Nào có ai chịu dốt nát đâu hả con ? « Tiếc rằng con sinh sau, ít tuổi, không biết rằng thời ông bà ta ngày xưa, các nhà nho đã treo cao gương hiếu học đến thế nào ! « Có những trò nghèo, hàng ngày vào rừng kiếm củi đành treo sách vào đầu đòn gánh, vừa đi vừa học. Lại còn chuyện ông Đào-Duy-Từ ngồi học trên mình trâu mà rồi sau cũng được nổi tiếng danh-sĩ một thời. « Vậy mà các cụ ta ngày xưa, đâu được diễm phúc như các con bây giờ, có trường sở rộng mát, có đường đi lối lại phong quang, có xe hơi, xe máy đưa đón tận trường ? « Các cụ xưa đi bộ năm, bẩy cây số mới đến nhà thầy, mang theo cơm nắm muối rang. Sách thì đựng vào ống tre đeo lủng lẳng trước ngực, làm gì có cặp da lợn, da bò. Ăn mặc thì quần nâu áo vải, sang trọng lắm mới được đôi dép da trâu, còn thì chỉ guốc mộc, đi đất quanh năm. « Ấy trong cái hoàn cảnh thiếu thốn như vậy mà các cụ vẫn chịu khó học hành, óc chứa hàng trăm ngàn pho sách. Gần đến kỳ thi, có cụ buộc cả tóc lên xà nhà để khỏi ngủ gật, có cụ bắt đom đóm đựng vào chai thủy tinh làm đèn, vì nỗi không dầu. « Có biết bao nhiêu hàn sĩ, chỉ nhờ có học mà rồi sau nên danh, nên phận, mười tám đôi mươi, đã-tiến sĩ, trạng nguyên, để lại tiếng thơm muôn đời : Chu-văn-An, ngàn năm treo gương tiết-liệt, Mạc-đĩnh-Chi sang Tàu làm rạng rỡ nước non nhà… và biết bao nam nữ danh nhân tài-tử, nhiều không kể xiết, đã vì sự học tô điểm cho rừng văn học nước nhà, làm chói lòa sử cũ. « Xem như ông nội con, nào phải ai đâu xa ! Nhà nghèo, suốt đời đi học không được manh áo lành. Lên đến trung học rồi mà vẫn hàng ngày kéo lê đôi guốc gỗ, với cái áo vải thâm bạc vai. Về nhà lại phải cắp rá ra chợ mua rau đậu về làm cơm. Sách thì chẳng có lấy một quyển, quanh năm đi mượn, đi chép ; thế mà người cũng biết chịu thương chịu khó, nên đỗ ra rất sớm. Có được tấm bằng rồi người đành gạt nước mắt từ giã nhà trường, từ chối cả việc được cử đi du học để còn ra đời kiếm kế sinh nhai. Có thế mới nuôi được cha đây và các chú con ăn học, không đến nỗi phải thất học, lam lũ lầm than. So sánh với các con bây giờ thật là một trời một vực, vậy mà con không biết sướng hay sao ? « Dũng con ơi ! đã làm người thì phải học. Mà không phải chỉ có mình con. Buổi sáng, khi con bước chân ra, thì cũng trong giờ ấy, riêng một thành-phố này có đến hàng nghìn, vạn đứa trẻ như con, cắp sách đến trường. « Lại còn biết bao nhiêu trẻ khác, khắp mặt thế gian, trên đất nước khác nhau, trong những bộ quần áo khác nhau và nói những thứ tiếng khác nhau, cũng đều nô nức kéo nhau đến lớp. « Con hãy tưởng tưởng đến sự hoạt-động vĩ-đại của đám đông học-sinh ấy, thuộc hàng ngàn dân tộc khác nhau, và con hãy tự bảo rằng : Nếu sự hoạt-động kia có một ngày chẳng may ngừng lại thì tất cả nhân loại sẽ quay trở về vòng man dã, có khi bị tiêu diệt chẳng còn. Sự hoạt động ấy chính là sự tiến-bộ đã làm cho loài người đứng đầu muôn loại, thắng cả thiên nhiên và đem lại ấm no, hạnh-phúc cho toàn dân. « Dũng ơi ! cố gắng lên con ! Con cũng là một tên lính nhỏ trong cái đạo quân khổng-lồ kia đấy. Nhưng dù chỉ là lính nhỏ, con cũng đừng là lính hèn. « Có thế con mới là con của Ba. Có thế con mới xứng đáng là mầm non đất Việt. « Ba của con chỉ mong con cố học ». THẰNG BÉ ĐÁNH GIẦY Ngày 24 tháng 10 Sau khi chuyển giúp anh Phi cái thơ cho anh Vân, thấy hai anh đã hòa với nhau, tôi cũng vui lây. Để giữ lời hứa và để cám ơn tôi, lúc ra cổng trường hai anh nhất định mua kem mời tôi. Ba chúng tôi vừa đi, vừa ăn, chuyện trò như pháo ran. Anh Vân rủ tôi sang bên trường nữ học để đón cô em gái. Đến nơi thì vừa gặp buổi học tan. Các cô gái nhỏ, cặp sách dưới tay, tóc xén ngang vai, áo màu sặc sỡ, tung tăng đi như đàn bướm lượn. Bỗng tôi nhìn sang bên kia đường thấy có một đứa trẻ, gục đầu vào tường, hai tay ôm lấy mặt mà khóc nức, khóc nở. Loắt choắt trong manh áo cũ, vá chằng vá đụp, hai vai nó rung lên sau những tiếng nấc. Hai ba cô nữ-sinh vừa đi tới, dừng chân lại hỏi. Nhưng nó chẳng trả lời, chỉ cứ thút thít khóc hoài : « Sao vậy em ? Sao em khóc thế ? » Hỏi đến ba bốn câu, nó mới ngẩng đầu lên, cặp mắt đỏ hoe còn ngấn lệ. Thì ra em nhỏ đó, làm nghề đánh giầy, từ sáng được gần hai chục bạc, vô ý đánh rơi mất cả. Khốn nạn thằng bé, ky cóp cả ngày được món tiền nhỏ định mang về cho mẹ, lại thành công cốc. Phần tiếc của, phần lo mẹ rầy, nó sợ chẳng dám về nhà, cứ đứng đấy mà ti tỉ khóc. Giây lát, bọn nữ-sinh đi sau đã tới, xúm quanh lấy nó, cô nọ nhìn cô kia. Bỗng một cô lớn tuổi nhất bọn, mặc áo dài xanh – thấy gọi tên là Như Lan – móc túi lấy ra hai đồng nói : « Các chị ạ, tôi có hai đồng đây ! Chúng ta chung nhau vào vậy. Giúp em làm phúc, tội nghiệp !… » Cả bọn hưởng ứng ngay. Cô nào cũng nắn túi, móc cặp, chả mấy chốc đã được đống tiền kha khá. Như-Lan đếm vừa được 15 đồng : « Còn thiếu, các chị ạ. Ta cố gắng bớt tiêu đi thì có đủ… » Một cô nói : « A ! Các chị lớp Nhất ra kia rồi ! Thế nào cũng đủ đấy… » Quả nhiên các cô lớn đến thì số tiền cũng tăng lên được ngót ba chục. Như-Lan xếp tiền lại đưa cho nó. Nó đứng ngây ra như phỗng, chẳng dám cầm. Cô bèn cúi xuống, mở nắp hộp của nó ra, xếp xuống dưới đáy. Mấy em bé cũng cố len để vứt thêm vào hộp cho nó vài chiếc kẹo, mấy tấm ảnh « tác-dăng ». Em Huyền tôi sờ túi còn dăm vòng cao-su, ném vào nốt. Giữa lúc tíu tít ấy, có tiếng nói : « Chị em ơi ! bà Đốc đã ra… » Thế là đám nữ-sinh, tản nát mỗi người một phía, như đàn chim vỡ tổ. Còn lại một mình em nhỏ đánh giầy. Nó như người mê ngủ, đứng sững nhìn theo bầy « tiên non » đang khuất đi các ngả. Nước mắt nó lúc nãy đã khô, giờ lại trào ra đẫm má. CHỌN BẠN MÀ CHƠI Ngày 18 tháng 10 Ngày lễ vừa qua, chúng tôi được nghỉ có hai ngày. Vậy mà không được gặp anh bạn di-cư, tôi đã lấy làm sốt ruột. Càng biết anh bao nhiêu, tôi càng mến anh bấy nhiêu, mà xem ra anh cũng không đến nỗi vô tình với tôi. Không phải riêng tôi quý anh. Tất cả các bạn khác cũng vậy, đối với anh đều có cảm tình nồng-nhiệt. Trừ mấy anh đầu bò đầu bướu là không kể, vì họ bị anh luôn luôn thẳng tay phê-bình. Mỗi lần họ bắt nạt ai, đều thấy anh đứng ra can thiệp và cực-lực phản-đối, thành thử họ phải kiêng dè. Thầy anh Tôn làm thợ máy ở sở Hỏa-xa. Hiệp-định Giơ ne cắt đôi nước Việt đã làm ông rỏ nhiều nước mắt. Và tuy chỉ là công-nhân vô sản, ông không nghe người ta, nhất định đem gia-đình vào Nam, và ở đây, ông lại được tiếp nhận vào làm sở cũ. Vì chiến-tranh, sự học của anh luôn luôn gián-đoạn, nên học chậm. Bởi thế trong lớp tôi, anh là người nhiều tuổi hơn cả, quá tuổi là đằng khác và cũng sức lực hơn hết. Chả thế mà cái ghế lim dài nặng, anh chỉ một tay nhắc bổng như chơi. Tuy vậy anh lành như hòn đất, và tốt với tất cả mọi người. Ai cần thứ gì anh cũng giúp ngay : chép hộ bài, mua hộ sách… Đồ dùng của anh, ai mượn cũng được, không trả cũng thôi. Có lần tôi thấy anh sắp mua quà ăn sáng, lại nhịn để đưa tiền cho một chú bé lớp Năm mua bút viết. Trong giờ học, không bao giờ thấy anh nói chuyện hay đùa nghịch. Trên cái ghế thấp quá đối với anh, anh ngồi thu hình như bụt mọc, cái lưng dài khom xuống, đầu thụt vào tận vai. Đôi khi tôi quay lại, thế nào cũng bắt gặp đôi mắt anh long lanh nhìn tôi như muốn nói : « Anh em mình thân nhau, Dũng nhỉ ? » Chưa ai dám chế nhạo anh bao giờ. Cứ trông cái thân hình lực lưỡng với quả phật thủ khổng-lồ của anh là ai cũng phải kiêng dè. Anh lớn quá, nên quần áo của anh cứ là căng nứt ra, cơ hồ không đủ sức che đậy những bắp thịt rắn chắc bên trong. Đôi giầy « sắng-đá » của anh mới lớn làm sao chứ ! Giá có đá ai tưởng đến vỡ mông người ta ra mất ! Anh có một con dao con của người bạn tặng anh lúc di cư. Anh cất đi cẩn thận lắm. Thỉnh thoảng đem ra lau chùi ngắm nghía, coi như vật báu. Có hôm mang gọt bút chì, lỡ cắt phải tay, máu chảy lênh láng. Thế mà anh vẫn cứ điềm nhiên như không, chẳng suýt soa nửa tiếng, e cha mẹ anh hoảng sợ. Anh tha hồ cho các bạn nói đùa, chẳng bao giờ giận. Nhưng nếu bảo anh là « nói dối » thì không được nhất là những khi anh kể chuyện miền Bắc cho nghe. Mắt anh quắc lên, nẩy ra lửa, tay anh đập xuống mặt ghế thình thịch, như sắp đấm vỡ đến nơi. Về nhà, anh thường giúp cha mẹ những công việc : xách nước, quét nhà, giặt giũ. Tuy làm việc khó nhọc như vậy, anh chẳng hề ta thán nửa lời, lại còn lấy thế làm vui. Anh bảo : « Chúng tôi di-cư, phải chịu khó mới được chứ ! Không thể sống bám, sống hèn được ! » Thầy giáo thấy thế lại càng thương anh lắm. Mỗi lần đi qua thầy lại véo má anh. Còn tôi, ngày nào không gặp được anh, tôi thấy như thiếu xót cái gì. Người anh cục mịch, giọng anh khàn khàn, nhưng trong giọng nói, dáng người của anh, người ta nhận thấy cả một tấm lòng quảng đại, vị tha. BÀI HỌC LÝ THÚ Ngày 3 tháng 11 Tôi dám đánh cuộc rằng chả bao giờ anh Tôn mở miệng nói những câu như anh Bích. Anh Bích tự-đắc là phải, vì anh vốn con nhà sang trọng. Cha anh làm Chánh-án ở tòa Thượng-Thẩm, hàng ngày đưa anh đến trường bằng xe hơi trước khi đến sở. Ông ăn vận lịch-sự, dáng dấp trang-nghiêm, khiến ai trông thấy cũng phải kính nể. Buổi sáng hôm qua, anh Bích không hiểu vì đâu, cà-khịa với anh Bá – anh bạn bé nhất lớp – con một bà bán rau. Sau một hồi tranh luận, anh Bích đuối lý, phát khùng, chỉ ngay vào mặt anh Bá mà bảo : « Hừ, không thèm nói với cái đồ ăn cắp, con thằng mõ ! » Trước mặt mọi người, Bá xấu-hổ quá, mặt đỏ nhừ, không biết trả lời sao, chỉ giàn giụa nước mắt, chạy ra chỗ khác. Buổi trưa về, anh đem chuyện thuật lại với cha, rồi nhứt định đòi ở nhà, không đi học nữa. Bởi vậy, buổi học chiều, cha anh phải nghỉ hàng, đưa anh lên thưa thầy giáo. Vừa lúc ấy, ông Chánh-án theo lệ thường, dẫn con vào học, chợt nghe nói đến mình, vội tiến vào cửa lớp. Thầy giáo trông thấy, nói : « Kìa may có ông. Cha của trò Bá đây vừa đến thưa tôi thằng cháu Bích bảo nó là đồ ăn cắp, con thằng mõ ». Ông Chánh-án ngượng quá, đỏ mặt lên. Ông nhíu cặp lông mày, quay lại hỏi con : « Con có nói anh Bá thế không ? » Bích đứng giữa lớp, cúi mặt xuống, không trả lời một câu. Ông Chánh-án bèn đẩy con đến trước mặt anh Bá, mà bảo : « Xin lỗi anh Bá ngay ! » Cha anh Bá thấy vậy, đứng lùi sang một bên, ấp úng nói : « Bẩm… thưa Ngài… thôi ạ… cháu, cháu nó không dám ạ… » Ông Chánh-án gạt phắt đi, trừng mắt bảo con : « Xin lỗi ngay đi ! Nói thế này « Tôi xin lỗi đã chót nói phạm đến thầy anh, người mà Ba tôi muốn được hân hạnh làm quen ». Anh chàng Bích chẳng dám cưỡng lời, như cái máy, lắp bắp nhắc lại từng câu cha bảo. Đợi con nói xong, ông Chánh-án bấy giờ mới chìa tay ra, thân mật bắt tay cha anh Bá mà bảo : « Cháu còn dại lắm, có lớn mà chẳng có khôn, Ông cũng đừng chấp ». Rồi quay lại nói với thầy giáo : « Trăm sự nhờ ông để tâm rèn cặp cho, chúng tôi cám ơn ông nhiều lắm. Nếu không có điều gì bất tiện, xin ông cho hai trẻ được ngồi cạnh nhau ». Chờ thầy giáo xếp chỗ xong, ông Chánh-án lại xin lỗi một lần nữa, rồi mới đi, trong khi cha anh Bá còn tần ngần đứng lại âu yếm ngắm hai anh bạn đã hết giận, đang ngồi sát bên nhau. Chờ ông ta ra khỏi rồi, thầy giáo chậm rãi nói : « Bài học lý thú này dành chung cho tất cả các con để các con nhớ rằng : chúng ta đến đây học chữ, chứ không phải để phân biệt sang, hèn… » Rồi thầy quay sang anh Bích, dịu dàng bảo : « Con hãy chơi bời thân mật với các bạn đi nào ! Trường học không phân biệt ai cả. Ở đây có con nhà lao động, con nhà buôn, con nhà giầu, con công chức… Tất cả cùng nhau đến đây học hành, coi nhau như anh em một nhà, thân yêu nhau như ruột thịt tay chân. Tại sao con không yêu chúng bạn như chúng bạn yêu con ? Anh em chơi bời thế có vui vẻ không ? Ra đời gặp nhau còn tay bắt mặt mừng, chào hỏi nhau chứ ! Con nghe ta nói có phải không ? » Anh Bích cúi đầu sẽ nói : « Thưa phải ạ ». Nhưng bỗng thấy anh tủm tỉm cười : thì ra anh Tư Húi vừa quay xuống làm mắt lác trêu anh. CÔ GIÁO CỦA EM TÔI Ngày 7 tháng 11 Em tôi mệt, nghỉ học mới có 2 hôm, mà cô giáo em đã đến thăm. Anh Bá trước cũng có học cô. Nhắc đến anh, cô vừa cười vừa thuật lại chuyện bà mẹ anh có lần mang đặt lên bàn cả một rổ xà-lách đầy để biếu cô, chỉ vì tháng ấy anh được lên bảng danh-dự. Rồi vui chuyện, cô lại còn kể có em mang đến tặng cô cả một cái lọ đựng cá vàng mà cô còn nuôi được sống đến nay… Cô giáo kể chuyện có duyên, ai nghe cũng không chán. Em Huyền tôi thấy nói cô giáo đến, ngồi nhỏm dậy uống ực một hơi hết cốc thuốc đầy. Chả bù với mọi khi, cô ả còn ưỡn ẹo mãi, chẳng chịu uống cho. Dạy lớp mẫu giáo như cô thật là vất vả ! Một lũ lau nhau, động một tí thì nhè mồm ra. Suốt buổi « e, a » vài chữ rồi thưa với gửi suốt ngày, nào đổ mực, nào quên bút, quên sách ; chưa dỗ xong đứa nọ đã đến đứa kia, đứa đòi đi giải, đứa đòi uống nước, thôi thì bận bịu chẳng khác gì con mọn. Mỗi chị vú chỉ phải coi sóc có một đứa, chứ còn cô trông nom cả một bầy hàng bốn năm chục trẻ, hò hét luôn mồm, dạy dỗ, uốn nắn thế nào cho biết đọc, biết viết, cho ngoan ngoãn, nết-na. Còn cái lũ trẻ ! Ngoan cũng có, mà hư cũng nhiều. Cứ mở cặp chúng ra khám là đủ thứ : sỏi, kẹo, bi, rồi cúc áo, nút chai, chẳng thiếu thứ gì… Có đứa vác cả ve sầu vào lớp để bất thình lình ve kêu ầm lên. Có đứa nghịch tinh đút châu-chấu vào lọ mực để nó bay lên, vẩy mực lung tung cả lên tường, lên áo… Thế đã xong tội đâu ! Cô còn thay mẹ chúng làm đủ mọi việc : mặc áo, cài khuy, lau mũi, trông cho chúng học, coi cho chúng chơi, nhìn cho chúng lấy mũ, áo, kẻo lầm… chẳng còn thiếu việc gì không đến tay cô. Vậy mà thỉnh thoảng còn có bà mẹ đến phàn nàn rằng con mất bút, con dây mực, hoặc con học chậm. Thậm chí còn có bà đến trách rằng con bà học khá thế mà không được lên bảng Danh-dự, hoặc không nhổ cái đanh ở góc bàn đi, làm con bà thủng cả đũng quần. Một đôi khi, không thể nhẫn-nại được nữa, cô có rầy la lũ trẻ, để rồi nhìn chúng khóc mà hối hận. Có đứa cô dọa mách ông Đốc đuổi ra khỏi trường, nhưng thấy nó sụt sịt, cô lại phải mất công vỗ về cho nín. Đôi khi cô còn trách cả đến những bậc phụ-huynh nghiêm khắc, thường khi bắt chúng nhịn cơm. Ngắm cô giáo xinh tươi, đôi mắt dịu hiền, miệng như hoa nở, mẹ tôi bảo : « Học-trò mến cô là phải… » Cô lơ đãng nhìn ra xa, chép miệng ngậm ngùi : « Ấy thế mà có đứa lên đến lớp trên là quên cô giáo, gặp chẳng thèm ngả mũ nữa. Các em đó học lên cao tưởng chào cô giáo lớp dưới là xấu hổ ». Riêng tôi, tôi cũng chẳng để ý ; chỉ biết rằng gần chúng suốt một năm trời, chăm nom, dạy dỗ chúng, đến khi chúng lên lớp khác, không được trông thấy chúng hàng ngày, tưởng buồn đến héo ruột, héo gan. Có một vài đứa tôi nghĩ thầm : « Ừ ! thằng bé này coi bộ nhớ đến ta mãi đây ! Nhưng năm sau, học lớp khác rồi, nó trông thấy tôi như gặp người lạ ». Nói rồi cô quay sang em tôi, hôn chụt vào má, mà bảo : « Huyền của cô không thế nhỉ ? Huyền nhớ cô giáo mãi phải không ? » LÒNG CHA Ngày 11 tháng 11 « Dũng ơi ! sao con lại mặt sưng mày sỉa với cha như hôm qua thế nhỉ ? « Sở dĩ Ba cấm con xem tiểu-thuyết nhảm vì nó rất hại cho trí óc còn non nớt của con, chẳng khác gì một liều thuốc độc. « Con có biết rằng mẹ thấy con cau có khi bị Ba mắng mỏ, mà mẹ chết trong lòng không ? Con hãy nghĩ đến một ngày kia, lúc cha con hấp hối trên giường bệnh, gọi con vào mà bảo : « Dũng ở lại, Ba đi đây ! » « Hỡi ơi ! Lời vĩnh-biệt cuối cùng của người cha sắp lìa bỏ cõi đời, con có can đảm bình tĩnh nghe không, hay sẽ làm con tan nát cõi lòng mà bật ra tiếng khóc ? « Thế rồi, suốt cả đời con, cho đến khi con nhắm mắt, lời nói ấy sẽ theo rõi con hoài, ám ảnh con mãi mãi, làm cho con khổ sở, tự mắng mình đã có lúc bạc bẽo với cha. « Con chỉ có biết cha con nghiêm-khắc, đôi khi mắng phạt con, rồi tủi thân, con khóc ; nhưng con không biết rằng, những lúc thấy con đau khóc, Ba con phải ngoảnh mặt đi mà gạt thẫm giọt lệ. « Con ơi ! hãy nhớ lại những năm sống vất vưởng ở ngoài hậu phương, một mình cha vất vả lo sinh kế cho cả gia-đình để mẹ con ta được no ấm. Chắc con chưa quên những lúc trước làn súng giặc, cõng con trên lưng, Ba con lội bùn, vượt ruộng, đi hàng chục cây số. Như thế vì ai ! Có phải vì con không ? Nếu không có cha con thì mẹ con ta sẽ phải khốn đốn thế nào rồi ? « Con đâu có biết những lúc Ba ốm đau sầu não, mà trông thấy con vẫn phải gắng gượng làm vui ! Mà nếu Ba con có lo, có sợ ấy cũng chỉ vì nghĩ rằng, nếu chẳng may chết đi, thì để lại các con côi cút, bơ vơ, không nơi nương tựa. « Đã biết bao lần, ý tưởng đen tối ấy quay lộn trong đầu, khiến Ba con có những đêm thức giấc mà thở ngắn, thở dài. Mẹ còn nhớ, có một đêm nằm trong bệnh-viện Bạch-Mai cha mơ thấy con đau nặng thế là Ba tung chăn ngồi lên khóc nấc. Ấy chỉ mới tưởng tượng thấy con ốm mệt, mà cha con đã kinh sợ thế rồi, đủ biết cha thương con đến thế nào ? « Những lúc phiền lòng, những cơn đau đớn hay những khi thất vọng trong công việc hàng ngày, cha con có các con để làm nguồn an-ủi, và nếu con hư hỏng ấy là làm cho cha con chán đời, không thiết sống. « Đây là những lời Ba viết cho các con, để đề tựa một cuốn sách mà Mẹ muốn chép ra đây cho con suy nghĩ : * « Các con, « Nhà ta, đã bao đời nay sống một cuộc đời thanh bạch. Nên đến cha cũng không còn có gì để lại cho các con. « Mà những người đau ốm như cha thì chẳng hy-vọng sống được trên đời mấy nỗi. Như vậy các con sẽ phải bơ-vơ, không người dìu dắt. Vậy cha phải để lại cho các con cái gì đây ? « Không phải là nhà văn, cha chỉ có thể mượn sách nước ngoài, viết quyển sách này cho chị em con đọc. Cuốn sách này để lại, thì dù không còn cha nữa, các con vẫn hưởng được những lời cha muốn nói. « Trong lúc viết, luôn luôn cha nghĩ đến các con, nên văn dù không hay, mà thực đã viết ra với cả một tấm lòng. « Nếu sau này lớn lên, chị em con hiểu được ý-nguyện của cha qua những dòng chữ viết trong đây, biết thương Mẹ, yêu nhau, biết giữ gìn danh dự của nhà và trở nên những người hữu-ích, ấy là thỏa lòng cha mong ước. « Cầu cho các con nhiều nghị lực để chóng thành công ! Ba của các con. * « Ấy đó, con đã hiểu lòng Ba chưa ? Con ngoan-ngoãn bao nhiêu thì liều thuốc bổ cho cha công hiệu bấy nhiêu, để cho Ba con đủ sức chống lại với những nỗi thất-vọng, ưu phiền. « Con ơi, hãy thương cha, đừng làm cho cha con phải âu-sầu, phiền tủi. Cha con đã chẳng đau ốm lắm rồi sao ? Nếu con chẳng nghe lời cha khuyên, mẹ dạy, cứ đọc sách nhảm nhí, cứ bướng-bỉnh hư lười, ấy là con sẽ giết cha. """