" Đứa Trẻ Cát - Tahar Ben Jelloun full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đứa Trẻ Cát - Tahar Ben Jelloun full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo ĐỨA TRẺ CÁT Tahar Ben Jelloun Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên tác phẩm: ĐỨA TRẺ CÁT Tác giả: Tahar Ben Jelloun Nguyên tác: L'enfant de sable Dịch giả: Phạm Văn Ba NXB: Hội Nhà Văn Năm XB: 2000 Số trang: 311 Khổ sách:13x19cm Giá bìa: 30.000 đồng Đánh máy: Thảo Đoàn, Minh Khuyên, Thúy Dung, Minh Huy, Nguyễn Vân Anh, Hoàng Thành Kiểm tra: Thảo Đoàn Chế bản ebook: Thảo Đoàn Ngày thực hiện: 16/04/2011 Making Ebook Project #115 - www.BookaholicClub.com Bạn đang đọc ebook ĐỨA TRẺ CÁT của tác giả Tahar Ben Jelloun do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. MỤC LỤC GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ GIỚI THIỆU NỘI DUNG TÁC PHẨM 1 NGƯỜI ĐÀN ÔNG 2 CÁNH CỬA NGÀY THỨ NĂM 3 CÁNH CỬA NGÀY THỨ SÁU 4 CÁNH CỬA NGÀY THỨ BẢY 5 BAB EL HAD 6 CÁNH CỬA BỊ LÃNG QUÊN 7 CÁNH CỬA BÍT KÍN 8 CHỐNG LẠI MỌI ĐIỀU ĐỊNH SẴN 9 “TẠO MỘT KHUÔN MẶT CŨNG NHƯ XÂY MỘT NGÔI NHÀ” 10 NGƯỜI KỂ CHUYỆN BỊ NGÔN TỪ VÒ XÉ 11 ĐÀN ÔNG CÓ VÚ ĐÀN BÀ 12 NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ RÂU 13 MỘT ĐÊM KHÔNG LỐI THOÁT 14 SALEM 15 AMAR 16 FATOUMA 17 NHÀ THƠ MÙ 18 ĐÊM AN-ĐA-LU-DI 19 CÁNH CỬA CỦA CÁT GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ Tahar Ben Jelloun (Tiếng Ả Rập: جلون بن الطاھر) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1944 tại thành phố Fes, Ma-rốc) là một nhà thơ, nhà văn người Ma rốc. Mặc dù ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Ả rập nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp. Học trung học ở một trường song ngữ (tiếng Ả Rập và tiếng Pháp), sau đó Ben Jelloun học tiếp tiếng Pháp ở thành phố Tangier miền bắc Ma-rốc cho tới năm 18 tuổi. Đỗ vào trường đại học Mohamned-V ở Rabat, ông theo học ngành triết học. Trong những năm học đại học, ông đã viết nên những bài thơ đầu tiên của mình (được tập hợp trong tập thơ Hommes sous linceul de silence (1971)). Tốt nghiệp, Ben Jelloun trở thành giáo sư dạy triết học ở Tetouan rồi sau đó ở Casablanca, Ma-rốc. Năm 1971, sau sự việc môn triết không được dạy bằng tiếng Ả Rập nữa, ông rời Ma rốc và đến Pháp để tiếp tục sự học môn triết của mình. Ở Pháp, ông bắt đầu viết nhiều hơn. Đầu năm 1972, Ben Jelloun bắt đầu viết bài cho tờ Le Monde (Thế giới). Năm 1975, ông được công nhận học vị tiến sĩ về tâm thần học. Với những kinh nghiệm về tâm lý liệu pháp (nhờ vào những khảo cứu và lòng say mê), ông viết cuốn La Réclusion solitaire vào năm 1976. Năm 1985, Ben Jelloun xuất bản cuốn tiểu thuyết L'enfant de sable (Đứa trẻ cát) được ca tụng rộng khắp. Ông được trao giải Goncourt năm 1987 cho tiểu thuyết La Nuit Sacrée (Đêm thiêng). Năm 1997, cuốn Le Racisme expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) được ông cảm tác dựa trên những thực tế trong gia đình mình được xuất bản. Ông thường xuyên được mời diễn thuyết hoặc thỉnh giảng tại các trường đại học ở Ma-rốc và trên khắp châu Âu. Năm 2004, Ben Jelloun giành được giải thưởng văn học quốc tế IMPAC Dublin cho tác phẩm This Blinding Absence of Light (do Linda Coverdale dịch sang tiếng Pháp). Ông cũng giành được giải Prix Ulysse vào năm 2005 cho toàn bộ sự nghiệp của mình. Tháng 9 năm 2006, Ben Jelloun giành được giải đặc biệt vì “hòa bình và tình hữu nghị giữa người với người” tại Lễ hội văn hóa Lazio between Europe and the Mediterranean Festival được tổ chức tại Rome, Lazio nước Ý. Ngày 1/2/2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh. Ben Jelloun có 4 người con và hiện đang sống tại Paris. Hai cuốn tiểu thuyết L'Enfant de sable (Đứa trẻ cát) và La Nuit sacrée (Đêm thiêng) đã được dịch ra 43 thứ tiếng. Cuốn Le racism expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) đã được dịch ra 33 thứ tiếng. Bản thân ông cũng tham gia vào việc chuyển ngữ những tác phẩm của chính mình. Tác phẩm chính: Harrouda (1973) Solitaire (Cô đơn) (1976) The Sand Child (Đứa trẻ cát) (1985) The Sacred Night (Đêm thiêng) (1987) Silent Day in Tangiers (Ngày yên lặng ở Tangier) (1990) With Downcast Eyes (Mắt cúi gằm) (1991) Corruption (Tham nhũng) (1995) The Fruits of Hard Work (Thành quả lao động) (1996) Praise of Friendship (Ca ngợi tình bạn) (1996) L'Auberge des pauvres (1997) Racism Explained to My Daughter (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) (1998) Islam Explained (Về đạo Hồi) (2002) This Blinding Absence of Light (2003) La Belle au bois dormant (Người đẹp ngủ trong rừng) (2004) The last friend (Người bạn cuối cùng) (2006) Yemma (2007) Leaving Tangier (Rời bỏ Tangier) (2009) The Rising of the Ashes (Tàn tro bốc cao) (2009) GIỚI THIỆU NỘI DUNG TÁC PHẨM Tahar Ben Jelloun sinh năm 1944, nhà văn người Ma-rốc viết bằng tiếng Pháp. Đứa trẻ cát xuất bản năm 1985, được báo chí Pháp ca ngợi và độc giả đón đọc say mê ngay từ khi vừa phát hành. Đêm thiêng là phần tiếp nối và bổ sung cho đề tài Đứa trẻ cát nổi tiếng đã đưa ông đến với giải Goncourt 1987. Chuyện xảy ra tại một khu đông dân của một thành phố Ả Rập, ông chủ lò gốm cay cú vì vợ sau bảy lần sinh chỉ toàn là con gái. Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì không có con trai thừa kế, ông ta đã đi đến một quyết định thách thức với số mệnh rằng dù thế nào đi nữa, đứa con sắp ra đời dứt khoát phải là một thằng con trai. Thật oái oăm, đứa thứ tám chào đời vẫn là con gái. Thế rồi Ahmed - tên đứa trẻ sơ sinh - được trình làng và nuôi dạy như một đứa con trai. Nhưng sau bao năm tháng, cậu bé lớn lên, bối rối khám phá ra ý nghĩa đích thực của cái mà người ta vẫn che giấu cậu: giới tính. Những di chứng quái gở của tôn giáo, sự ngu muội ở một bộ phận cộng đồng là lí do dẫn dắt ông bố đi đến một quyết định sai lầm kéo theo sau đó bao nhiêu tai họa cho gia đình, cho đứa con mà ông bất chấp mọi quy luật áp đặt nên. Và đó cũng là mục tiêu mà tác giả cũng đã tập trung phê phán trong một số tiểu thuyết khác của ông. Và không chỉ có vậy, François Nourissier, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, trong khi đánh giá về tiểu thuyết của Tahar Ben Jelloun, đã gọi đó là những tiểu thuyết của sự lưu đày, của trạng thái không thể hòa nhập, của sự chia rẽ của hai nền văn hóa! 1 NGƯỜI ĐÀN ÔNG Ấn tượng đầu tiên là khuôn mặt ấy dài ngoẵng bởi những nếp nhăn chạy dọc, những nếp nhăn giống như những vết sẹo bị cày xới bởi những trận mất ngủ triền miên, một khuôn mặt râu cạo nham nhở, bị thời gian tàn phá. Cuộc sống - cuộc sống nào đây? Một ngoại hình kì dị được sinh ra để rồi bị lãng quên - có bổn phận ngược đãi, ngáng trở, và thậm chí phải làm cho anh ta tức tối. Người ta có thể đọc hoặc có thể đoán ra được trên gương mặt ấy nỗi đau khổ ê chề mà chỉ cần một cử chỉ vụng về của bàn tay, một ánh mắt bênh vực, một con mắt dò xét hoặc ác ý cũng đủ làm cho vết thương ấy lại tấy lên nhức buốt. Anh ta thường tránh phô bày thân hình ra giữa ánh sáng chói chang và giấu hai con mắt vào sau làn tay áo. Ánh sáng của ban ngày, của một ngọn đèn, hoặc của mặt trăng rằm, đều làm cho anh ta đau đớn: tia sáng ấy muốn lột trần thân xác anh ta, len lỏi vào từng làn da thớ thịt và khám phá ra ở đó nỗi tủi hổ xót xa và những giọt nước mắt thầm kín. Anh ta cảm thấy luồng ánh sáng đó lướt qua cơ thể như một ngọn đuốc thiêu cháy tất cả những chiếc mặt nạ của anh, như lưỡi dao lần lần lột bỏ tấm voan bằng thịt ngăn cách anh ta với những người khác. Anh ta sẽ ra sao nếu khoảng không gian bảo vệ, ngăn cách anh ta với những người khác bị xóa bỏ? Lẽ nào anh ta lại bị phơi ra trần truồng, không một phương tiện tự vệ, trong tay những kẻ luôn rượt đuổi anh chỉ vì muốn thỏa mãn thói tò mò, tính đa nghi và thậm chí chỉ vì một mối hận thù dai dẳng; bọn họ không bao giờ bằng lòng với sự im lặng và trí thông minh của một kẻ luôn gây phiền hà cho họ bằng sự hiện diện độc đoán và đầy bí ẩn. Ánh sáng lột trần cơ thể anh ta. Tiếng ầm ĩ làm cho anh ta bấn loạn. Từ ngày giam mình trong căn phòng nhìn ra sân thượng, anh ta không còn bị cái thế giới ồn ào kia tra tấn nữa, mỗi ngày một lần, anh ấy tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua việc mở cửa cho Malika, bà giúp việc vẫn thường đưa thức ăn, đồ uống, báo chí và một bát hoa cam vào phòng cho anh. Anh ta rất quý mến bà lão vì bà đã trở thành một thành viên của gia đình. Kín đáo và dịu dàng, bà không khi nào lục vấn anh ta bất cứ điều gì, mà cả hai cứ như những kẻ tòng phạm, nhờ vậy họ rất gắn bó với nhau. Tiếng ồn. Tiếng ồn của những giọng nói the thé hoặc nhạt nhẽo. Tiếng ồn của những tiếng cười thô lỗ, từ những tiếng hát chói tai phát ra từ chiếc radio. Tiếng ồn của những xô nước hắt ra ngoài sân. Tiếng ồn của lũ trẻ đang hành hạ một con mèo mù hay một con chó chỉ còn ba chân bị lạc vào giữa những đường phố hẹp, nơi những con vật và những người điên thường bị vướng bẫy. Tiếng ồn của những lời than vãn, nỉ non của những người ăn mày. Tiếng ồn chói tai của một chiếc loa phóng thanh, năm lần mỗi ngày, rè rè phát lời mời cầu nguyện. Đôi khi tiếng loa không còn là lời gọi mời cầu nguyện nữa mà là một cử chỉ xúi giục làm loạn. Tiếng ồn của mọi giọng nói và những tiếng la ó từ ngoài phố vọng vào và neo lại ở kia, ngay phía trên căn phòng của anh ta, đã đến lúc gió hãy cuốn chúng đi hoặc giảm bớt âm lượng của chúng. Anh ta đã khuếch trương những dị ứng đó; cơ thể quá nhạy cảm và dễ xúc động của anh ta đón nhận mọi thứ dị ứng dù chỉ là một chấn động rất nhỏ, hấp thụ và giữ cho chúng luôn phát huy tác dụng, vì thế giấc ngủ của anh ta thật khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Các giác quan của anh ta không hề bị rối loạn như người ta vẫn nghĩ. Mà ngược lại, chúng trở nên đặc biệt sắc sảo, năng động và không biết mệt mỏi. Chúng thực sự phát triển và chiếm lĩnh toàn bộ vị trí trong cái thân xác mà cuộc sống đã làm đảo lộn và số phận bị đổi hướng. Khứu giác của anh ta có khả năng phân biệt được tất cả. Lỗ mũi đem đến cho anh ta mọi thứ mùi, ngay cả những thứ mùi không còn ở đó nữa. Anh ta nói rằng anh ta có khứu giác của người mù, thính giác của một xác chết đang ấm nóng và thị giác của một nhà tiên tri. Nhưng cuộc sống của anh ta không phải là cuộc sống của một vị thánh, tuy nhiên, cuộc sống ấy cũng có thể trở nên tốt đẹp như thế nếu như anh ta không có quá nhiều thứ phải làm. Từ khi lui về ẩn dật trong căn phòng trên cao này, anh ta chẳng tiếp chuyện bất cứ ai. Anh ta cần một thời gian dài, có thể là nhiều tháng để thu nhặt các bộ phận của mình, sắp xếp lại quá khứ theo trình tự thời gian, sửa chữa cái hình ảnh bi thảm mà mọi người xung quanh đã dành cho anh ta trong thời gian gần đây, thu xếp một cái chết mà anh ta đã kí thác vào đó tất cả: cuốn nhật ký riêng tư, những điều bí mật của anh ta - có thể chỉ có cuốn sổ này là điều bí mật duy nhất - và cũng có thể đây là bản phác thảo một câu chuyện mà chỉ mình anh ta nắm giữ chìa khóa mà thôi. Một màn sương mù dày đặc bao bọc dai dẳng xung quanh anh ta, che chắn cho anh những ánh mắt đầy ngờ vực và những lời thị phi của những người bà con và hàng xóm vẫn to nhỏ với nhau trước ngõ. Bức màn màu trắng này làm cho anh ta bình tâm trở lại, đưa anh ta vào giấc ngủ yên lành và nuôi dưỡng những giấc mơ tuyệt vời của anh. Chuyện ẩn cư của anh ta không làm cho gia đình phải suy nghĩ nhiều. Họ đã quen với cảnh nhìn anh ta đắm chìm trong sự câm lặng ghê người, hoặc trong những cơn cáu giận bùng phát hết sức phi lí. Có cái gì đó không thể xác định được một cách minh bạch đã xen vào giữa anh ta và những người còn lại trong gia đình. Chắc hẳn là anh ta có những lí do riêng, và chỉ có mình anh ta là có thể nói ra được thôi. Anh ta quả quyết rằng thế giới của anh ta chỉ thuộc về anh ta mà thôi, và rằng cái thế giới ấy ưu việt hơn rất nhiều so với thế giới của bà mẹ và các chị của mình - nói tóm lại là rất khác nhau. Thậm chí anh ta còn nghĩ rằng mẹ và các chị không thể có một thế giới riêng nào hết. Họ bằng lòng sống ở bề ngoài sự vật, không đòi hỏi gì lớn, tuân theo quyền uy, những luật lệ và ý muốn của anh ta. Mặc dù không nói với nhau, nhưng phải chăng bà mẹ và những người chị gái đều cho rằng anh ta đã lựa chọn và chấp nhận lối sống lặng lẽ ấy, bởi lẽ anh ta không còn làm chủ được bản thân, không làm chủ được hành vi và sự biến thái trong con người mình do những cú sốc thần kinh căng thẳng tột độ lúc nào cũng chực làm anh ta mất trí? Ít lâu nay, bước chân của anh ta đã bớt đi dáng vẻ của một người đàn ông độc đoán, một chủ nhân không bị ai tranh ngôi đoạt vị trong gia đình, một người đàn ông thay cha quán xuyến mọi việc trong gia đình. Lưng anh ta đã bắt đầu còng xuống, đôi vai buông xuôi một cách vô duyên, trở nên nhỏ hẹp và mềm nhũn, chúng k còn ý định làm chỗ dựa êm ái cho mái đầu của người tình hoặc là chỗ đặt bàn tay thân tình của bạn bè. Anh ta cảm thấy một khối nặng vô hình đè lên lưng, đến nỗi mỗi bước đi phải gắng ngẩng mặt lên và giữ cho thật cân bằng để khỏi ngã. Anh ta lết đi từng bước, nặng nhọc di chuyển thân mình, âm thầm chống chọi với những cơn đau dồn dập ập đến. Tình hình đột ngột xấu đi một cách tồi tệ mà trước đó không có một dấu hiệu nào báo trước sự biến đổi này. Mất ngủ đã trở thành một căn bệnh kinh niên và không thể chế ngự được. Nhưng, từ khi mà giữa anh ta và cơ thể có một sự đoạn tuyệt, một kiểu đổ gãy, thì khuôn mặt anh ta trở nên già nua, dáng đi như một kẻ tật nguyền. Nơi nương náu của anh ta chỉ còn là trong sự cô độc hoàn toàn. Có như thế, anh mới có thể điểm lại tất cả những gì đã xảy ra và chuẩn bị cho chuyến đi vĩnh viễn của mình về với thế giới câm lặng vĩnh cửu. Anh ta biết rõ nguyên nhân cái chết đến với mình không phải do một cơn nhồi máu cơ tim cũng chẳng phải vì một căn bệnh hiểm nghèo đại loại như xuất huyết não hay xuất huyết đường ruột. Chỉ có nỗi buồn sâu lắng, một kiểu buồn vô cớ do một bàn tay vụng về bày đặt, mới có thể đặt dấu chấm hết, đương nhiên là trong giấc ngủ, cho một cuộc đời ngoại lệ và không chịu gục ngã sau bao năm tháng và qua biết bao thử thách trong cái tầm thường của đời sống thường ngày. Cái chết của anh ta sẽ ở tột đỉnh của sự cao quí mà cuộc đời của anh ta đã đốt cháy hết những tấm mặt nạ của mình, đã trần trụi, hoàn toàn trần trụi, không một mảnh vải liệm, lăn lóc trong lòng đất, rồi đất cát sẽ gậm nhấm dần những bộ phận thân thể, trả lại con người thực cho anh ta, dù sự thực đó là một gánh nặng suốt đời của anh. Đến ngày thứ 30, kể từ khi lui vào khép mình trong phòng kín, anh ta bắt đầu nhìn thấy sự chết chóc xâm chiếm khắp căn phòng. Anh ta đã chạm được tới nó nhưng cố giữ ở một khoảng cách nhất định như muốn nói rằng nó đến quá sớm mà anh lại đang còn một số việc cần phải giải quyết khẩn trương. Ban đêm, anh ta đến trình diện cái chết dưới hình hài của một con nhện lảng vảng rình mò, mệt mỏi, nhưng vẫn còn khỏe. Việc hình dung ra kết cục một cái chết như vậy làm cho cơ thể anh ta cứng đờ ra. Sau đấy, anh ta lại nghĩ đến những bàn tay mạnh mẽ, cứng như thép, từ trên cao thò xuống chộp lấy con nhện đáng ngờ; những bàn tay ấy sẽ tước đi trong quỹ thời gian của anh ta, phần thời gian mà anh ta cần có để kết thúc mọi việc. Hừng đông, con nhện không còn ở đó nữa. Chỉ còn lại mình anh, xung quanh là vài thứ đồ đạc hiếm hoi. Anh ta ngồi đọc lại những trang giấy viết ra hồi đêm rồi ngủ mê man suốt cả buổi sáng. Một hôm, anh ta nghe nói có một nhà thơ Ai Cập, trong khi đọc một cuốn nhật kí, đã nhận xét: “Con người ta, nếu đi đâu xa về, sẽ không bao giờ còn là mình nữa. Một cuốn nhật ký đôi khi thật cần thiết để chứng minh một điều rằng con người ấy không còn tồn tại nữa.” Ý đồ của anh ta chính xác là như thế này: cần phải nói ra những điều không còn tồn tại nữa. Vậy anh ta là ai? Câu hỏi bật ra sau một hồi im lặng, do dự và chờ đợi. Người kể chuyện ngồi giữa chiếu, hai chân gập lại, rút trong cặp ra một cuốn sổ dày cộp đưa lên cho mọi người ngồi xung quanh trông thấy. Bí mật chính là ở đây, ngay trong những trang viết đầy chữ và hình vẽ này. Anh ấy đã trao gửi cuốn sổ này cho tôi ngay trước lúc lìa đời. Anh ta bắt tôi phải thề rằng chỉ được mở cuốn sổ đó ra sau khi anh ta qua đời được bốn mươi ngày, thời gian đủ để cho một cái chết được trọn vẹn, đối với chúng ta, đó là bốn mươi ngày tang tóc, còn đối với anh ta là bốn mươi ngày viễn du về miền tối tăm của đất. Tôi đã mở cuốn sổ đó vào đêm của ngày thứ bốn mươi mốt. Tôi thực sự bị cuốn hút và ngây ngất trong một thứ hương thơm dịu ngọt, một mùi hương đậm đặc đến nỗi tôi suýt nghẹt thở. Tôi đọc câu đầu tiên và chẳng hiểu gì cả. Tôi đọc đoạn thứ hai và cũng chẳng hiểu gì hơn. Đọc hết trang đầu tiên thì tôi thực sự như đã được thông tỏ mọi chuyện. Những giọt nước mắt kinh ngạc từ từ lăn xuống gò má tôi. Hai bàn tay ẩm ướt vì nước mắt; dòng máu nóng trong tôi dường như không được bình thường nữa rồi. Khi đó tôi biết rằng cuốn sổ quý giá này thực sự đã thuộc về tôi, cuốn sổ chứa những điều bí mật của một cuộc đời ngắn ngủi nhưng mạnh liệt, dữ dội, được viết ra, được lưu giữ dưới những viên đá tảng và được những thiên thần của Chúa coi giữ. Các bạn thân mến, cuốn sổ này không thể đem ra công khai được. Nó chỉ có thể được đọc bởi những tâm hồn trong trắng không lấm lem bụi trần. Nguồn ánh sáng phát ra từ cuốn sổ ấy sẽ làm bạn lóa mắt, làm mù những đôi mắt vì vô ý nhìn vào do chưa chuẩn bị sẵn một cái gì cả. Tôi đã đọc cuốn sổ này, tôi thực sự hiểu được nó vì tâm hồn tôi trong sáng. Các bạn không thể đọc và hiểu hết được nó mà lại không phải trải qua những đêm dài trăn trở và suy tư. Vâng tôi chính là cuốn sổ này đấy. Tôi đã trở thành cuốn sổ chứa đựng những điều kì bí; tôi đã trả giá bằng cả cuộc đời tôi để hiểu, để đọc được tất cả những bí mật ấy. Cuối cùng, thì tôi cũng chạm tay được tới đích cuối cùng của cuộc hành trình thấm đẫm gian khổ và nước mắt. Sau những đêm dài mất ngủ, tôi đã cảm nhận được rằng toàn bộ cuốn sổ chứa đựng những điều bí mật ấy đã thuộc về tôi. Bởi lẽ, nó cũng chính là số phận đã được định đoạt của cuộc đời tôi. Để có thể kể lại cho các bạn nghe câu chuyện này, tôi thậm chí không cần phải mở cuốn nhật ký đó ra nữa, trước hết, bởi vì tôi đã thuộc lòng từng đoạn trong đó và hơn thế nữa, tôi là một người cẩn trọng. Ôi, chẳng mấy chốc nữa, những con người nhân hậu của tôi ơi, màn đêm sẽ buông xuống, chỉ còn lại mình tôi với cuốn sách, còn các bạn, tôi biết các bạn đang rất nôn nóng muốn nghe câu chuyện đó. Các bạn hãy chế ngự sự nôn nóng xấu xa đó lại, thứ nọc độc chết người đang rượt đuổi theo các bạn. Nào hãy kiên nhẫn lên! Hãy đào sâu tất cả những vấn đề này giúp tôi - chỉ là những điều sáo rỗng thôi - mà là đợi chờ những khúc hát từ biển cả vọng về, nó sẽ khởi đầu dẫn dắt các bạn trên con đường của cuốn sách để cùng lắng nghe những tiếng thổn thức, xao động của thời gian. Các bạn cũng nên biết rằng cuốn sổ ấy có cả thảy bảy cánh cửa được mở ra trong những bức tường thành rộng khoảng hai mét và ít nhất cao bằng ba người đàn ông khỏe mạnh. Tôi sẽ lần lượt đưa chìa khóa cho các bạn để mở bảy cánh cửa này. Thực ra các bạn đang cất giữ những chìa khóa đấy thôi, nhưng rất tiếc các bạn không biết được; và rồi ngay cả khi các bạn biết được điều đó thì các bạn cũng chẳng biết xoay sở chúng thế nào, lại càng không biết chúng được chôn giấu dưới viên đá tảng lát mộ nào nữa. Bây giờ thì các bạn biết khá nhiều rồi đấy. Tốt hơn hết là chúng ta tạm chia tay nhau ở đây trước khi bầu trời còn chưa rực hồng ánh lửa. Ngày mai, các bạn hãy trở lại đây nếu như cuốn sách chứa những điều bí mật ấy không bỏ rơi các bạn. Mọi người im lặng đứng cả lên và dần tản đi mỗi người mỗi ngả, chẳng ai nói với nhau điều gì cả. Người kể chuyện sau đấy cũng gấp lại tấm da cừu vẫn dùng để ngồi, cất bút và mực vào một cái túi nhỏ, còn cuốn sổ, ông cẩn thận gói lại bằng một miếng vải màu đen, rồi cất vào chiếc cặp. Trước lúc ra đi, một chú bé trao cho ông một chiếc bánh mì đen và một cái phong bì. Người kể chuyện chậm rãi rời quảng trường và biến mất trong ánh nắng chiều hoàng hôn. 2 CÁNH CỬA NGÀY THỨ NĂM Các bạn là những người từ tâm, hãy biết rằng chúng ta được kết nối với nhau bởi điều thần bí của ngôn từ giữa một con phố thông nhau hoặc có thể là trên một con tàu trong chuyến đi mà tôi không biết được lộ trình. Câu chuyện này có điều gì đó vẫn được che phủ bởi một bức màn đêm tối sẫm; nó thật khó hiểu nhưng lại rất giàu hình ảnh và có một sức cuốn hút kì lạ; nó tỏa ra một thứ ánh sáng huyền ảo, yếu ớt, dìu dịu; nếu đến vào lúc bình minh, chúng ta sẽ được giải thoát, chúng ta sẽ già đi sau một đêm dài nặng nề bằng cả một phần hai thế kỉ và vài tờ giấy trắng nằm rải rác trên sân lát bằng đá cẩm thạch trắng của ngôi nhà của chúng ta làm kỉ niệm. Một số người trong các bạn sẽ có ý định sống tại nơi ở mới này hoặc ít nhất cũng kiếm cho mình một chỗ vừa với khổ người. Tôi biết ý muốn đó là vĩ đại nhưng phải quên đi: có một vòi nước tinh khiết, không bao giờ được phép xáp lại gần vì bất cứ một lí do nào kể cả khi đang bị cơn khát dày vò. Vì câu chuyện này cũng là một sa mạc. Chúng ta sẽ phải đi bằng những bước chân trần trên cát bỏng, bước đi và im lặng, tin tưởng vào những điều tốt đẹp sẽ hiện lên ở phía chân trời và phải bước đi và đừng ngoái nhìn lại phía sau nếu không muốn mình bị chóng mặt. Cứ đi, bước chân của chúng ta sẽ tạo ra đường đi; sau lưng, những bước chân của chúng ta không để lại những dấu vết, mà là một khoảng không trống rỗng, một vực thẳm, là hư không. Do vậy, chúng ta sẽ luôn phải nhìn về phía trước, đặt hết mọi niềm tin vào những bước chân. Những bước chân đó sẽ đưa chúng ta đi xa, thật xa như niềm tin mà chúng ta đặt vào câu chuyện này. Bây giờ các bạn biết rằng sự nghi ngờ cũng như những lời mỉa mai không thể đồng hành với chúng ta trong chuyến viễn du. Một khi tới được cánh cửa thứ bảy, chúng ta sẽ có thể trở thành những con người từ tâm. Đây là một cuộc phiêu lưu hay một cuộc thử thách lớn? Tôi cho là cả hai. Những ai trong số các bạn quyết đi cùng tôi hãy giơ tay phải lên, thề vì một lòng trung thành tuyệt đối. Những người còn lại có thể đi về phía những câu chuyện khác cùng với những người kể chuyện khác. Với tôi, kể chuyện với các bạn không chỉ vì mục đích duy nhất là để giết thời gian, mà những câu chuyện này đến với tôi, đã sống lại trong tôi và đã làm biến đổi con người tôi. Tôi cần phải trút bỏ chúng ra khỏi con người tôi để giải phóng bớt những ô, những ngăn đã quá tràn đầy và để đón nhận những câu chuyện mới mẻ hơn. Tôi cần đến các bạn và cùng với các bạn tham dự vào cuộc đấu thầu của tôi. Tôi sẽ đưa các bạn cùng đi trên suốt cuộc hành trình, mỗi một chặng dừng chân là một khoảnh khắc cho sự im lặng và cùng suy ngẫm, không có lời cầu nguyện nào ở đây cả mà là một niềm tin bất diệt. Ngày hôm nay, chúng ta sẽ đi con đường của cánh cửa đầu tiên, cánh cửa của ngày thứ năm. Tại sao chúng ta lại bắt đầu từ cửa này và tại sao nó lại có tên như thế? Thứ năm, đó là ngày thứ năm của tuần, ngày của sự trao đổi. Một số người cho rằng đó là ngày đi chợ, ngày mà những người nông dân ra thành phố, ngồi bên cánh cửa này để bán những sản phẩm đã thu hoạch được trong tuần. Có thể như thế là đúng đấy, nhưng tôi cho rằng đó là một sự trùng hợp và ngẫu nhiên. Nhưng không sao! Cánh cửa mà các bạn nhận thấy từ đằng xa ấy cũng thật uy nghi làm sao, nó thật tuyệt vời. Năm mươi lăm nghệ nhân đã gửi gắm tâm hồn mình qua những nét chạm khắc trên gỗ, trên các bức chạm trỗ đó các bạn có thể nhìn thấy hơn năm trăm họa tiết khác nhau. Chính vì thế cánh cửa tuy nặng nề nhưng rất đẹp đẽ này chiếm giữ vị trí lối vào đầu tiên trong cuốn truyện này. Lối vào và điểm đến. Lối vào và sự sinh thành. Vâng chuyện là thế này: nhân vật chính của chúng ta chào đời vào sáng thứ năm, và có lẽ muộn mất vài ngày so với dự tính. Bà mẹ đã sẵn sàng từ hôm thứ hai nhưng có lẽ bà đã rất thành công khi mang nó đến tận thứ năm vì bà biết được rằng ngày này trong tuần thường chỉ cho ra đời những bé trai. Chúng ta hãy gọi nó là Ahmed, một cái tên rất phổ biến. Sao, cái gì? Bạn nói nên gọi nó là Khémaiss ư? Không đâu. Tôi xin được tiếp tục câu chuyện của mình vậy: Ahmed chào đời vào một ngày nắng đẹp. Người cha đã khẳng định và quyết đoán rằng trời sẽ phủ đầy mây vào sáng ngày hôm đó và Ahmed đã làm được điều thần diệu nhất là đã mang được nguồn ánh sáng đẹp đẽ ấy từ bầu trời xuống với vạn vật. Đứa trẻ được sinh ra sau một khoảng thời gian dài mong đợi. Người cha thật không may mắn; ông cho rằng một sự trừng phạt nặng nề của Chúa từ cõi xa xăm lúc nào cũng đè nặng lên cuộc đời ông: vợ ông đã bảy lần sinh nở, và cả bảy lần đều sinh con gái. Ngôi nhà của ông được mười người đàn bà trị vì, bảy cô con gái, bà mẹ, dì Aicha và Malika, bà già giúp việc. Rủi ro ấy cứ tiếp nối nhau theo thời gian, người cha nghĩ một đứa con gái thôi cũng đã đủ, đằng này những bảy cô thì thật là quá đáng và là một thảm họa lớn với gia đình. Rất nhiều lần, ông đã hồi tưởng lại lịch sử của những người Ả Rập vào thời mà Hồi giáo chưa xuất hiện, họ đã chôn sống những đứa con gái của họ! Vì ông không thể loại được những đứa con gái bất hạnh đó, nên dần dà, cho dù chưa đến mức ông căm thù chúng, nhưng rõ ràng là ông tỏ ra rất thơ ơ lãnh đạm với chúng. Ông sống trong ngôi nhà ấy cứ như chả có đứa con nào sống chung cả. Ông làm việc tất bật để quên chúng đi, xua đuổi chúng ra khỏi tầm mắt. Ông không bao giờ đặt tên cho chúng. Bà mẹ và người dì làm việc ấy thay ông, còn ông tự tách mình ra khỏi tất cả, đôi khi chỉ biết ngồi khóc một mình trong nỗi trống vắng câm lặng. Ông cho rằng mình thật đáng hổ thẹn, rằng cơ thể ông, con người ông luôn luôn ẩn chứa tiềm tàng mầm sống của sự bất hạnh đáng nguyền rủa, ông tự coi mình là một người chồng vô sinh hoặc một người đàn ông độc thân. Ông chẳng bao giờ nhớ được là mình đã đặt tay lên khuôn mặt của một trong những đứa con gái của mình hay chưa nữa, giữa ông và các con, vô hình trung, ông đã dựng lên một bức tường dày ngăn cách. Ông chẳng trông nhờ được vào ai, chẳng có được một niềm vui nho nhỏ và không thể chịu đựng được những lời chế nhạo của hai người em trai, những người mà cứ mỗi lần vợ ông sinh con, đều mang quà đến mừng, lúc thì một chiếc áo dài lót lông, lúc thì những chiếc bông tai, mặt cười cợt, chế nhạo ông cứ như họ là những người thắng cuộc, là những người thao túng được hết mọi tai họa, rủi ro. Họ hớn hở ra mặt và chỉ bàn tán xung quanh mỗi chủ đề về quyền thừa kế. Các bạn thân mến, các bạn thừa biết rằng tôn giáo của chúng ta không tha thứ cho những người đàn ông không sinh hạ được người thừa kế. Bởi thế, hai người em trai kia rất mong người anh cả của họ chết đi để chia phần lớn số tài sản và sự thù hằn đã ngấm ngầm chia rẻ họ. Bản thân người cha đã cố gắng hết sức mong đảo ngược qui luật của định mệnh cuộc đời, ông đã đi hỏi rất nhiều bác sĩ, cầu cứu những nhà pháp thuật, những người bán thuốc rong, thầy lang trên khắp mọi miền đất nước. Thậm chí, ông cũng đã đưa vợ đến nhà một đạo sĩ và ở lại đó bảy ngày, bảy đêm chỉ ăn bánh mì khô và uống nước suông. Bà vợ được vấy nước tiểu của lạc đà, sau đấy, bà mang tro của mười bảy nén hương vứt ra biển. Bà mang trên mình những lá bùa và những lời tiên tri xin được trong cuộc hành hương tới La Mecque[1]. Không chỉ thế, bà còn ăn nhiều loại cỏ hiếm được nhập từ Ấn Độ và Yémen, uống thứ thuốc lờ lợ và đắng ngắt do một thầy phù thủy gì pha chế. Rồi bà bị những trận sốt triền miên kéo theo những cơn buồn nôn khủng khiếp, những trận đau đầu dồn dập ập đến dày vò con người khốn khổ bất hạnh này. Cơ thể bà ngày một héo hon, gày guộc. Khuôn mặt bà hằn thêm những nét nhăn. Bà gầy đi trông thấy và thương xuyên bị ngất. Cuộc sống của bà thực sự đã trở thành một địa ngục, còn ông chồng thì vẫn luôn luôn không bằng lòng, bởi lòng tự hào của ông đã bị tổn thương nghiêm trọng, danh dự cũng theo đó mà bị vấy bẩn, tất cả những nguyên cớ đó làm cho cuộc sống của bà trở nên bi thảm và buộc bà phải chịu trách nhiệm về nỗi bất hạnh đang chằm vào gia đình. Một hôm, ông ta đã đánh bà rất đau vì bà dám từ chối thử vận may một lần cuối cùng: cầm bàn tay của một xác chết vuốt từ trên xuống dưới cái bụng trần của bà rồi dùng bàn tay đó như một chiếc thìa để ăn món cútxcút. Cuối cùng, bà vợ đành phải chấp nhận. Ôi các bạn thân mến, thật vô ích khi kể cho các bạn biết người đàn bà đáng thương ấy đã ngất đi và đổ sụp xuống cái xác chết lạnh giá kia như thế nào. Ông chồng bà đã chọn một gia đình láng giềng nghèo khổ có người ông vừa qua đời, một ông già mù lòa, móm mém. Để cảm ơn sự giúp đỡ của người láng giềng, ông chồng đã cho họ một món tiền nhỏ. Người vợ luôn sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh và ấp ủ, nuôi dưỡng những hi vọng điên rồ trong mỗi lần mang thai. Nhưng sau mỗi lần vượt cạn, tất cả mọi niềm vui, mọi tia hi vọng đều tan biến, lịm tắt. Bà bắt đầu chẳng quan tâm tới những đứa con gái vô tội của bà nữa. Bà căm giận vì sự có mặt của chúng ở trong nhà bà, và đấm vào bụng mình để tự trừng phạt. Người chồng cũng đã thử đủ mọi cách, kể cả việc tính toán thời điểm ông ta gần gụi vợ phải theo sự chỉ dẫn của thầy phù thủy, nhưng rồi cũng chẳng được ích lợi gì cả. Hết đứa con gái này lại đến đứa con gái khác chào đời cho đến khi chính cha mẹ chúng phải căm thù bản thân họ và căm thù nỗi bất hạnh, tăm tối cứ bao phủ lấy gia đình, cuộc sống của họ. Mỗi một lần sinh đều được đón tiếp như thế nào thì chắc các bạn cũng có thể đoán được, đứa trẻ được đón chào bằng những tiếng kêu trời đầy uất ức căm giận, bằng những giọt nước mắt bất lực của cha mẹ chúng. Mỗi lễ đặt tên đều được diễn ra trong không khí im lặng, nặng nề, giống như trong gia đình có tang. Có những bảy lần nỗi bất hạnh đến gõ cửa ngôi nhà của họ. Thay vì giết một con bò hoặc chí ít cũng là một con bê thì người chồng chỉ mua về một con dê gầy guộc, rồi hướng về phía La Mecque nhanh chóng chọc tiết con dê làm lễ, miệng lẩm bẩm một cái tên nào đó, không một ai nghe có thể nghe được rồi sau đấy nhanh chóng lủi mất hoặc đi lang thang đâu đó vài ba ngày mới trở về nhà. Bảy lần làm lễ đặt tên thì cả bảy lần đều làm sơ sài qua quýt. Nhưng với lần đặt tên thứ tám này, ông chồng đã chuẩn bị từ nhiều tháng nay, sửa soạn những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ông ta chẳng còn tin vào các thầy lang nữa. Số phận của ông đã được đấng tối cao quyết định rồi. Đến một hôm khi trời đã về đêm, mọi cánh cửa đã được cài then, người chồng đã đi đến quyết định cuối cùng chấp nhận cuộc chơi với định mệnh nghiệt ngã. Ông có một giấc mơ hãi hùng: trong nhà, mọi thứ vẫn đâu nguyên đó; thần chết đã bất ngờ đến thăm viếng khi ông còn đang say giấc mộng. Thần chết lại có khuôn mặt đáng yêu của một cậu thiếu niên. Nó nghiêng mình cúi xuống và đặt lên trán ông một nụ hôn. Cậu thiếu niên có một vẻ đẹp thật sự khó tả, gương mặt luôn biến đổi, lúc thì mang vẻ mặt của một cậu thiếu niên như khi mới xuất hiện, lúc thì lại là gương mặt của một cô bé mảnh mai, mờ ảo tựa như sương khói. Ông cũng chẳng biết ai đã hôn mình nữa nhưng có một điều chắc chắn rằng thần chết đang rất để tâm đến ông mặc dù nó đã cải trang trong bộ dạng một đứa trẻ tràn đầy sức sống. Sáng ngày hôm sau, ông ta quên mất ý nghĩ về cái chết, chỉ đọng lại trong tiềm thức hình ảnh duy nhất của cậu thiếu niên. Ông không kể chuyện này cho bất cứ ai và để mặc cái ý nghĩ có thể làm đảo lộn cuộc sống của ông và của toàn thể gia đình chín muồi trong ông. Ông cảm thấy sung sướng vì đã nảy ra một ý nghĩ tuyệt vời. Đó là ý gì vậy? Các bạn thử đoán hộ tôi xem nào. Vâng, nếu các bạn cho phép, tôi xin ngừng lời ở đây để nghỉ ngơi một lát; còn về phía các bạn, các bạn sẽ có một khoảng thời gian tương đối dài từ bây giờ cho đến tận sáng ngày mai để tìm hiểu và khám phá ra cái ý tưởng thần diệu của người đàn ông đó, một người đang đứng bên bờ vực thẳm của nỗi chán chường, tuyệt vọng, cuối cùng đã tìm ra một ý tưởng tốt đẹp chỉ cách vài tuần trước khi nhân vật chính trong câu chuyện của chúng ta cất tiếng chào đời. Các bạn thân mến, các bạn là những người nhân hậu, ngày mai lại đến đây nhé. Ngày mai sẽ là một ngày dài, chúng ta sẽ vượt qua nhiều con phố nhỏ hẹp. Như các bạn nhận thấy đó, nhóm chúng ta đã vượt qua được một chặng ngắn trên con đường đi đến cánh cửa đầu tiên rồi đấy. Tôi nhận thấy mỗi người chúng ta đều đã chuẩn bị đầy đủ thức ăn, nước uống cho cả cuộc hành trình này. Đêm hôm qua, tôi đã không thể nào chợp mắt được. Tôi luôn bị các bóng ma rình rập, rượt đuổi. Tôi đã phải bỏ nhà đi ra ngoài phố, nhưng lại gặp ở đó bọn người say xỉn, những kẻ côn đồ vô lại. Bọn chúng chỉ chực lột sạch tôi, nhưng cuối cùng, chúng cũng chẳng tìm được cái gì cả. Mờ sáng, tôi trở về nhà và các bạn biết không, tôi đã làm một giấc đến tận trưa. Chính vì thế mà tôi đã đến đây muộn hơn so với giờ hẹn. Tôi cảm thấy được trong ánh mắt của các bạn, vẻ lo lắng bồn chồn vì các bạn muốn biết tôi sẽ đưa các bạn tới đâu phải không. Đừng sợ nhé, đừng sốt ruột nhé, chính tôi đây cũng còn chưa biết được điều đó nữa là. Tôi còn đọc được trên nét mặt của các bạn một sự tò mò chưa được thỏa mãn, liệu rằng một ngày nào đó nó có nguôi ngoai đi được không? Các bạn đã chọn tôi để nghe tiếp câu chuyện này, vậy thì hãy đi theo tôi đến tận cùng…, tận cùng cái gì ư? Những đường phố chạy lòng vòng, thông nhau sẽ không bao giờ có điểm cuối cùng đâu! Ý tưởng của người cha thật đơn giản nhưng không dễ gì thực hiện được, và với sức lực còn lại của ông ta cũng khó mà duy trì: đứa trẻ sắp sinh ra nhất định phải là một thằng con trai, cho dù nó là một đứa con gái chăng nữa. Đó là bước quyết định cuối cùng của ông, không gì lay chuyển nổi, một sự ấn định vô phương cứu vãn. Một buổi tối, ông ta gọi bà vợ đang mang bầu vào một căn phòng trên sân thượng, đóng kín cửa lại rồi thủ thỉ nói với vợ bằng một gọng nhỏ nhẹ trầm ấm nhưng rất nghiêm túc rằng: “Cuộc sống của chúng ta cho đến tận bây giờ chỉ là một sự chờ đợi vô cùng ngu ngốc, luôn tìm cách chống lại định mệnh, nhưng vô hiệu. Sự kém may mắn của chúng ta trên cõi đời này, nếu không muốn nói thẳng ra là sự bất hạnh, lại không phụ thuộc vào chúng ta. Bà là một người phụ nữ tận tụy và có đức hi sinh cao cả, luôn biết phục tùng và vâng lời, nhưng kể từ khi đứa con gái thứ bảy của chúng ta chào đời thì tôi hiểu rằng bà đang mang trên mình một khiếm khuyết lớn: cái bụng của bà không thể đẻ ra được một đứa con trai như tôi vẫn hằng mong muốn, mãi mãi nó chỉ có thể sinh ra những đứa con gái mà thôi. Bà chẳng thể làm gì khác được đâu. Rõ ràng đó là một dị tật, vả lại, bà cũng thiếu cả sự hào hứng đón nhận cái mầm sống nhú lên trong cơ thể bà thế thì làm sao bà biết được có thể sinh cho tôi một đứa con trai hay không. Tôi không thể giận bà được. Tôi là một người chồng tốt, rất biết điều với vợ đấy chứ. Tôi sẽ không bỏ rơi bà và tôi sẽ không bao giờ lấy thêm một phụ nữ thứ hai làm vợ. Tôi cũng khổ sở vì cái bụng khốn khổ này của bà lắm rồi, tôi muốn làm người chữa khỏi căn bệnh bất hạnh này cho nó, tối muốn là người có thể thay đổi được cái trật tự lô gích này và thói quen của nó. Tôi đã đưa ra một lời thách thức với cái bụng của bà rằng nó sẽ phải đẻ cho tôi một thằng con trai. Như thế thì cuối cùng danh dự của tôi sẽ được phục hồi; niềm tự hào của tôi sẽ được hồi sinh, mặt tôi có thể đỏ hồng lên được, cuối cùng thì tôi cũng là một người đàn ông đáng mặt nam nhi, một người cha có thể yên lòng nhắm mắt vì đã ngăn chặn được thói tham lam vô độ của hai thằng em trai lúc nào cũng chực cướp phá, xáo tung tài sản của tôi, đẩy vợ con tôi vào sự thiếu thốn, cùng quẫn. Tôi đã rất kiên nhẫn với bà. Chúng ta cũng đã đi khắp đất nước này những mong thoát khỏi ngõ cụt. Ngay cả trong cơn giận dữ, tôi cũng biết tự kiềm chế và nén mình lại để không trở thành một người chồng độc ác, vũ phu. Chắc là bà cũng không thể trách tôi là đã không dịu dàng với những đứa con gái của bà được, chúng là của bà đấy. Tôi đã đặt tên cho chúng, nhưng tôi không thể mang tình thương yêu đến cho chúng được, bởi vì tôi không bao giờ mong muốn chúng có mặt trên cõi đời này. Chúng cứ lần lượt chào đời, đó quả là cả một lỗi lầm lớn vì chúng đã thay thế vị trí của đứa con trai mà tôi vẫn hằng chờ đợi, ước ao. Cuối cùng thì bà cũng đã hiểu được tại sao tôi không muốn gặp mặt chúng và cũng chẳng quan tâm đến số phận chúng rồi chứ. Chúng cũng đã lớn lên bên cạnh bà nhưng không hiểu liệu chúng có biết rằng chúng có một người cha hay không? Đối với tôi sự ra đời của chúng chẳng khác gì một sự chết chóc nào đó. Và vì thế tôi đã quyết định rằng lần thứ tám này sẽ là một ngày hội, một nghi lễ lớn nhất đối với tôi, niềm vui này sẽ được kéo dài suốt ngày đêm. Bà sẽ là một người mẹ, một người mẹ thật sự đấy, bà sẽ là một công nương vì bà đang mang thai một đứa con trai. Đứa bé bà sinh ra lần này dứt khoát phải là một đứa con trai, nó sẽ là một người đàn ông thực thụ, tên nó là Ahmed, cho dù nó có là một đứa con gái đi chăng nữa. Tôi đã thu xếp, trù tính mọi việc, đã dự báo những gì sẽ xảy ra. Chúng ta sẽ mời bà đỡ già Lalla Radhia tới đây; sau khi đứa trẻ ra đời, bà ta sẽ ở lại đây một hai năm gì đó, tôi sẽ cho bà ấy một ít tiền đủ để bà ta giữ kín điều bí mật. Tôi đã nói ý định này với bà ta và rất may là bà ta tán thành ý tưởng này. Chúng ta cần nhanh chóng thống nhất ý kiến thôi. Còn bà, bà nghe cho rõ này, bà sẽ là một cái giếng sâu để chôn chặt điều bí mật này ở dưới đó. Hạnh phúc của bà và thậm chí cuộc sống của bà sẽ phụ thuộc vào điều đó. Đứa trẻ này sẽ được đón chào, dạy dỗ với tư cách là một người đàn ông thực thụ, người sẽ làm rạng rỡ ngôi nhà lâu nay quá ư tẻ nhạt bằng sự hiện diện của nó. Đứa con này của chúng ta sẽ được nuôi dạy theo truyền thống dành cho những người đàn ông và chắc chắn nó phải là người chỉ đạo, sai khiến những đứa con gái kia, nó là đứa che chở bảo vệ cho bà sau khi tôi chết đi. Vậy là chỉ có ba chúng ta cùng chia sẻ bí mật này thôi, rồi sau đó, chắc sẽ chỉ còn lại hai thôi, Lalla Radhia thì đã quá già rồi và chẳng bao lâu nữa bà ấy sẽ chia tay với chúng ta, tiếp sau nữa, thì bà sẽ chỉ còn lại một mình thôi bởi vì tôi nhiều hơn bà những hai tuổi, và dù gì đi nữa thì tôi cũng sẽ ra đi trước bà. Ahmed rồi sẽ còn lại một mình, sẽ thay tôi và bà coi sóc ngôi nhà toàn đàn bà này. Chúng ta sẽ đào sâu chôn chặt điều bí mật này, nào bà đưa bàn tay phải cho tôi, chúng ta sẽ đan những ngón tay vào nhau, cùng nâng hai bàn tay lên miệng lần lượt hôn rồi sau đó đưa hai bàn tay lên trán. Cuối cùng chúng ta hãy cùng thề giữ trọn lòng chung thủy cho đến lúc vĩnh biệt cõi đời này! Bây giờ hai chúng ta sẽ cùng làm lễ tắm gội để tẩy sạch bụi trần. Chúng ta sẽ cùng cầu nguyện và trước cuốn kinh Coran được mở sẵn kia, chúng ta hãy thề đi.” Như vậy, những qui ước giữ kín điều bí mật đã được niêm phong kín mít! Người vợ chỉ còn biết vâng lời mà thôi. Vẫn như thói quen thường ngày, bà chỉ biết vâng lời chồng mình, nhưng lần này bà có cảm giác nó còn liên quan đến một cái gì đó rất chung và cuối cùng bà lại vẫn chỉ là một kẻ “tòng phạm” cùng với đức ông chồng. Cuộc sống của bà chỉ có một con đường duy nhất, bà đã bị đưa lên một con tàu cực kì bí ẩn, khó hiểu, con tàu quanh năm suốt tháng chỉ biết lênh đênh trên những vùng biển xa xăm và đầy những bất trắc. Thế là ngày trọng đại nhất rồi cũng đến, ngày mà bà mang dến cho cuộc đời một sinh linh bé bỏng. Bà vẫn nuôi giấu một niềm hi vọng nhỏ nhoi, rằng số mệnh cuối cùng cũng sẽ mang đến cho bà một niềm vui thực sự, niềm vui ấy sẽ xóa sạch mọi mánh khóe lừa bịp khác. Than ôi! Số phận thật trung thành và bướng bỉnh làm sao! Lalla Radhia đã đến ở nhà bà từ hôm thứ hai, bà ta chuẩn bị rất kỹ càng cho lần sinh hạ này. Lalla biết rằng ca sinh nở này sẽ là một ngoại lệ và có thể là lần đỡ đẻ cuối cùng kết thúc sự nghiệp khá dài và cao cả của bà. Những đứa con gái trong gia đình không hiểu tại sao mọi người lại hối hả, tất bật đến thế Lalla Radhia rỉ tai cho chúng biết rằng một bé trai sắp ra đời, rằng trực giác của bà chưa bao giờ bộc lộ rõ như thế, đó là những điều mà lí trí không tài nào kiểm soát nổi. Bà ta cảm nhận được qua cũng cách đứa trẻ quẫy đạp trong bụng mẹ nó đó chỉ có thể là một đứa bé trai. Đứa trẻ này đạp rất dữ, như thế thì ắt phải là con trai rồi. Bọn con gái có vẻ rất lúng túng. Lần sinh nở này của mẹ chúng sẽ làm đảo lộn tất cả mọi sinh hoạt trong gia đình. Chúng chỉ biết nhìn nhau, chẳng chuyện trò gì cả. Dù gì đi nữa cuộc sống của chúng cũng chẳng thay đổi gì hết. Có thể đứa em trai này lại sẽ là người yêu thương chúng nhất! Tiếng đồn đã lan ra cả khu phố và tới tai những thành viên còn lại của gia đình rằng Hadj Ahmed sắp có một đứa con trai… Các bạn thân mến, bây giờ thời gian sẽ trôi rất nhanh và sẽ chi phối tất cả chúng ta. Chúng ta không phải là những khán giả bình thường, mà chúng ta đã bị lôi cuốn, dẫn dắt, hòa nhập vào câu chuyện này rồi, rất có thể nó sẽ chôn vùi chúng ta trong cùng một nghĩa địa. Bởi vì ý muốn của đất trời, của Thượng Đế rồi cũng bị ảo ảnh của tà đạo, lòng dối trá che khuất. Con suối sẽ bị đổi dòng, nó sẽ rộng lớn lên thành một dòng sông, dòng sông ấy sẽ nhấn chìm những chốn yên bình này. Chúng ta rồi sẽ là cái nghĩa địa nằm bên rìa cơn mộng mị, ở đó có những bàn tay độc ác đến xới tung mọi nấm mồ lên và thay vào đó là một loài cỏ hiếm, thứ cỏ ấy là nguồn cơn của sự lãng quên. Ôi, các bạn thân mến của tôi ơi, tia sáng đột ngột kia làm lóa mắt chúng ta thật đáng nghi ngờ; nó tiên liệu một cảnh tối tăm u muội sẽ tới. Nào hãy cùng giơ tay phải lên và xin nói theo tôi: Xin chào, người bạn đến từ cõi xa xăm, khuôn mặt của sự lỗi lầm, của sự ngây thơ trong trắng, của dối lừa, một phiên bản khác của chính hình bóng của bạn, ôi! Bạn là người mà người ta chờ đợi, ước mong gặp gỡ bấy lâu nay, người ta vời bạn tới đây để cải chính lại số mệnh, bạn mang đến niềm vui nhưng lại không mang đến cho người ta niềm hạnh phúc, bạn dựng nên một cái lều giữa sa mạc, làm thỏa mãn được niềm khao khát mong chờ của bao người nhưng tiếc thay đó chỉ là nơi trú ẩn của gió. Bạn là một phần tro hỏa táng. Cuộc sống của bạn sẽ rất dài, một sự thử thách trước lửa và lòng kiên nhẫn. Ôi, xin được chào đón bạn! Vì bạn là ánh sáng, là mặt trời! Bạn căm ghét cái ác, nhưng ai biết được bạn sẽ làm được những điều thiện tâm… Xin chào đón bạn… Chào đón bạn! Vậy, tôi xin nói với các bạn… Toàn bộ gia đình đã được triệu tập đến quây quần trong ngôi nhà Hadj ngay từ hôm thứ tư. Dì Aicha cứ lăng xăng rối rít. Chạy đi chạy lại như một người điên. Hai người em trai cũng với vợ và các con cũng đã có mặt, có vẻ lo âu, nôn nóng. Các anh chị em họ gần, xa cũng đã được mời đến. Bà đỡ Lalla Radhia thì ở lì trong buồng đẻ của bà vợ Hadj, không một ai có quyền làm phiền tới bà. Những người đàn bà da đen đang chuẩn bị bữa tối trong bếp, Khoảng chừng nửa đêm gì đó, người ta nghe thấy những tiếng rên rỉ: những cơn đau chuyển dạ đầu tiên. Đám đàn bà chấp tay cầu xin đấng Tiên Tri Mohamed trợ giúp. Ông Hadj đi đi lại lại ngoài phố. Hai người em trai của ông thì chủ trì một cuộc họp hội đồng chiến tranh, họ thì thào to nhỏ trong góc phòng khách. Đám trẻ con ngủ lăn quay ngay tại nơi chúng vừa ăn xong. Cái yên lặng, tĩnh mịch của màn đêm bị ngắt quãng bởi những tiếng kêu rên đớn đâu, quằn quại. Lalla Radhia chẳng nói gì cả, bà đun một chậu nước nóng và trải một đống tả lót trẻ con ra. Rồi mọi người đi ngủ chỉ trừ ông Hadj, bà đỡ và hai người em trai. Vào lúc rạng đông, người ta nghe thấy những lời cầu nguyện rì rầm, vài cái bóng lờ mờ trở dậy bước vào lảo đảo như những kẻ mộng du, rồi ngồi xuống cầu nguyện. Người sản phụ bỗng gào lên. Trời sáng rõ, một ngày mới trở lại với ngôi nhà, nơi mà tất cả mọi người và đồ vật đều đang trong tình trạng bừa bộn chưa từng thấy. Những người phụ bếp da đen sắp xếp dọn dẹp lại bếp núc, rồi chuẩn bị món súp cho bữa ăn sáng, món súp mừng lễ khai hoa và món súp dành riêng cho lễ rửa tội. Hai người em trai của gia chủ phải quay về với công việc hàng ngày của họ. Đám trẻ con tự coi đây là ngày nghỉ của chúng nên vẫn mãi miết chơi đùa nơi bậc thềm trước ngôi nhà. Vào chừng khoảng mười giờ sáng, buổi sáng thứ năm lịch sử, mọi người tập hợp đông đủ phía sau cánh cửa căn phòng sản phụ. Lalla Radhia hé mở cánh cửa, hét lên vui sướng, sau đó bà ta chỉ nói lặp đi lặp lại mỗi một từ, nghe như đứt hơi: một đứa con trai, con trai, con trai… Hadj đi vào giữa đám đông lúc này đang vây kín quanh ông như vây quanh một ông hoàng, lũ trẻ con dành nhau hôn tay ông. Đám phụ nữ chúc mừng ông bằng những tiếng reo chói tai, ngắt quãng, bằng những lời nguyện cầu đại loại: Xin Chúa phù hộ cho nó… Mặt trời đã mọc rồi… Thế là bóng tối đã qua… Chúa thật cao cả… Chúa sẽ luôn ở bên ông… Hadj bước vào phòng sinh, khóa trái cửa lại và bảo Lalla Radhia bỏ hết tả lót của đứa trẻ sơ sinh ra. Rõ ràng lại là một đứa con gái. Vợ ông đang lấy tay bưng mặt khóc. Ông ta bế đứa trẻ trong cánh tay trái, còn tay phải giật mạnh bàn tay vợ ra và nói: “Tại sao bà lại khóc kia chứ? Tôi nghĩ là bà đang khóc vì sung sướng cơ đấy! Hãy nhìn, nhìn cho kĩ đây, nó rõ ràng là một đứa con trai cơ mà. Bà đã mang đến cho tôi một đứa con, nhìn này, nó mới đẹp làm sao, bà thử chạm tay vào nơi nhạy cảm này mà xem, nó là một người đàn ông thực sự đấy!” Nói rồi, ông ta quay về phía bà đỡ và nói với bà ta rằng hãy để mắt chăm sóc cẩn thận cậu con trai của ông, không cho bất kì một người nào được tiến lại gần nó hoặc chạm vào nó. Nói đoạn, ông bước ra khỏi căn phòng, ngạo nghễ một nụ cười trên mặt… Ông bỏ đi, đôi vai và nét mặt thể hiện rõ sự sung mãn, khỏe mạnh! Ở vào tuổi 50, ông ta vẫn cảm thấy nhẹ nhõm khỏe mạnh như một chàng trai thực sự. Ông đã quên - hoặc cũng có thể ông ấy giả vờ quên - là chính ông đã sắp xếp trù liệu mọi thứ. Rõ ràng ông đã nhìn thấy, đã bế trong tay một bé gái thực sự thế mà ông ta lại tin chắc rằng đó là một đứa con trai. Ôi, những người bạn đồng hành của tôi ơi, câu chuyện của chúng ta chỉ mới bắt đầu nhưng những từ ngữ, tình tiết như cọ xát vào làn da của tôi, lưỡi tôi như cứng lại, cổ họng khô khốc, khắp mình mẩy đau nhức và vô cùng mệt mỏi. Chúng ta hết thảy đều là nạn nhân của sự dại dột của chính chúng ta. Sự dại dột ngốc nghếch luôn ẩn nấp sau từng khe nhỏ của lòng ham muốn, tham vọng mà không bao gờ chúng ta gọi đúng tên của nó. Hãy dè chừng với việc chúng ta đã triệu tập được những chiếc bóng hỗn độn của thiên thần, một thiên thần mang hai bộ mặt, nó trú ngụ trong trí tưởng tượng của chúng ta. Gương mặt của mặt trời bất động. Gương mặt của mặt trăng chết chóc. Thiên thần ấy cứ xô đẩy hết cái này đến cái khác theo cuộc sống mà chúng ta đang nhảy múa trên một sợi dây vô hình. Ôi, các bạn yêu mến ơi, tôi cũng đang đi trên sợi dây này đấy. Nếu ngày mai các bạn không nhìn thấy tôi thì hãy hiểu rằng thiên thần đã đẩy tôi xuống vực thẳm và tôi đã đến với cái chết. 3 CÁNH CỬA NGÀY THỨ SÁU Đã vài ngày nay, chúng ta được đan lại với nhau bằng những sợi chỉ len của cùng một câu chuyện. Từ tôi đến các bạn, từ mỗi người trong các bạn đến tôi, chúng ta đều bước đi trên những sợi dây đó. Những sợi chỉ rất mỏng manh. Tuy nhiên, chúng vẫn gắn kết chúng ta lại với nhau như một điều ước. Thôi hãy để lại đằng sau chúng ta cánh cửa đầu tiên, rồi một bàn tay vô hình nào đó sẽ khép nó lại. Cánh cửa của ngày thứ sáu là cánh cửa tập hợp để cho cơ thể thư giãn, vì sự tĩnh tâm của tâm hồn và để tụng ca một ngày mới. Vâng, cánh cửa của ngày thứ sáu mở ra cho một gia đình một ngày vui như ngày hội, một bầu trời thoáng đãng, không có mây mù che phủ, một mảnh đất màu mỡ, một người đàn ông cuối cùng đã dành lại được danh dự và niềm tự hào của mình. Ngày thứ sáu đáng nhớ ấy còn mang một điều gì đó thật khác thường cho một người phụ nữ, qua bao ngày tháng buồn khổ, gian nan, cuối cùng cũng được thừa nhận là một người mẹ đích thực. Cánh cửa mở vào ngày này chỉ nhường cho hạnh phúc đi qua, nó làm phận sự của chính nó nhưng ít ra điều đó cũng làm cho cái cánh cửa vốn bình thường trở thành nổi tiếng. Mỗi người trong chúng ta, một ngày nào đó cũng sẽ nhìn thấy cánh cửa mở ra với màn đêm tĩnh mịch, chiếu sáng màn đêm ấy bằng những tia sáng yếu ớt ngắn ngủi. Cánh cửa không khoét thủng một bức tường nào cả. Đó là cánh cửa duy nhất có khả năng tự di chuyển và tiến về phía trước từng bước, từng bước chậm chạp theo số mệnh. Và nó chỉ dừng lại với những người không bằng lòng với số phận mình. Nếu không như thế thì nó phục vụ cho cái gì đây? Ngưỡng cửa này cũng chứng nhận bước chân của một người, người đó là Lalla Radhia. Buổi lễ đặt tên được sửa soạn rất linh đình. Một con bò bị chọc tiết cho sự ra đời của một cái tên: Mohamed Ahmed, con trai của Hadj Ahmed. Tiếng lầm rầm cầu nguyện phía sau các luật sĩ[2]của thành phố. Các món ăn trong ngày hôm đó đều được chia cho những người nghèo trong vùng. Và quả thực như vậy, cho đến bây giờ, mọi người vẫn còn nhớ như in, buổi lễ thật nhộn nhịp và vui vẻ biết bao. Mọi người nhắc lại cái ngày hôm đó, kể rằng con bò thật là khỏe, nó đã bị chặt mất đầu mà vẫn chạy long nhong trên sân, những con cừu nguyên vẹn được bày ra trên hai chục chiếc bàn thấp đặt giữa sân, những bản nhạc vùng Andalousie[3]tưng bừng được dàn nhạc nổi tiếng nhất thành phố biểu diễn dưới sự chỉ huy của nhạc công lừng danh Moulay Ahmed Loukili… Rồi hội hè như thế kéo dài trong nhiều ngày. Còn đứa bé thì sao? Mọi người chỉ được ngắm nhìn thiên thần bé nhỏ ấy từ xa, không một ai có quyền hay vinh dự được chạm tay vào bé, chỉ có Lalla Radhia, bà đỡ già nua và người mẹ của bé được quyền chăm sóc. Bảy người con gái trong gia đình cũng đứng ngoài rìa nốt. Người bố đã nói với chúng rằng kể từ giây phút này, chúng phải yêu thương coi trọng đứa bé như chúng vẫn đối xử với bố của chúng. Chúng chỉ biết cúi mặt vâng lời mà không được hé răng nói một lời nào cả. Hiếm khi người ta thấy được ông chủ nhà vui vẻ, hạnh phúc đến như thế, gặp ai ông cũng muốn nói, muốn chia sẻ niềm vui của mình. Hứng chí, ông còn mua hẳn cả nửa trang báo của một tờ báo khá nổi tiếng trong vùng để đăng bức ảnh của ông kèm một bài viết nho nhỏ: Đức Chúa lòng lành Người vừa soi sáng cuộc đời và làm rạng danh gia đình Hadj Ahmed Souleimane, một người làm đồ gốm, tận tâm và hết lòng sùng kính Người. Xin Người che chở cho đứa con trai sinh ra lúc mười giờ, ngày thứ năm và cho nó một cuộc sống dài lâu. Chúng con đặt tên cho nó là Mohamed Ahmed. Cuộc sinh thành này báo hiệu đất đai trở nên màu mỡ, hòa bình và thịnh vượng cho đất nước. Ahmed muôn năm! Nước Marốc muôn năm! Mẩu tin này được đăng tải trên báo đã gây ra bao lời chê bai, xì xào, bàn tàn, bởi ở đây người ta thường không có thói quen phô bày một cách thái quá về đời tư của mình như thế. Nhưng Hadj Ahmed thì không, thậm chí, ông còn chế nhạo thói cổ hủ đó. Điều quan trọng nhất đối với ông ta là làm sao lan truyền cái tin vui mới mẻ này cho càng nhiều người biết càng tốt. Câu cuối cùng mới thật lắm chuyện. Cảnh sát Pháp không thích cái cụm từ “Marốc muôn năm!”. Những chiến binh theo chủ nghĩa dân tộc không biết rằng người nghệ nhân giàu có này cũng là một người yêu tổ quốc thiết tha. Khía cạnh chính trị của mẩu tin ngay sau đó rồi cũng rơi vào quên lãng nhưng toàn bộ thành phố, mãi về sau, vẫn còn nhớ đến ngày sinh của Ahmed. Suốt năm, ngôi nhà tràn ngập niềm vui, tiếng cười và những bữa tiệc như thế cứ tiếp nối nhau liên miên. Mọi thứ đều có thể biến thành cái cớ để mời một ban nhạc đến hát, múa tưng bừng. Còn nữa, lí do để họ mừng vui, ca hát suốt ngày chính là những tiếng bi bô đầu tiên, những bước chân chập chững đầu tiên của đứa trẻ mà ngay khi vừa cất tiếng khóc chào đời đã được đón tiếp, tung hô như một ông Hoàng. Lễ cắt tóc cho đứa bé kéo dài những hai ngày, người ta cắt tóc cho Ahmed, tô điểm cho mắt nó bằng một loại phấn đánh lông mày, rồi đặt nó lên một con ngựa bằng gỗ sau khi đã mặc cho nó một cái áo choàng dài màu trắng và đội lên đầu nó một cái mũ dấu[4] màu đỏ. Rồi bà mẹ dẫn đứa bé đi thăm vị thánh của Thành Phố. Bà cõng bé trên lưng và chạy bảy vòng xung quanh ngôi mộ, vừa chạy, vừa cầu xin đức thánh bẩm với Đức Chúa Trời cao cả để cho Ahmed được che chở khỏi những con mắt tò mò, độc ác, tránh mọi bệnh tật và sự ganh ghét, đố kị của lũ người xấu xa. Đức bé khóc ngằn ngặt giữa đám đông toàn đàn bà, họ chen lấn xô đẩy nhau để chạm cho được bàn tay vào cái áo màu đen phủ trên ngôi mộ của vị thánh. Rồi, đứa bé lớn lên hoàn toàn bình thường. Đến lượt người cha bắt đầu thấy lo lắng và suy nghĩ rất lung về một thử thách mà đứa bé sẽ phải trải qua theo tập tục trước khi trở thành người đàn ông thực thụ, đó là lễ cắt bao quy đầu cho đứa bé. Làm thế nào bây giờ đây? Làm sao cắt bao quy đầu tưởng tượng được? Làm sao lại không tổ chức một buổi lễ linh đình mừng cho đứa trẻ sắp bước vào ngưỡng cửa của một người đàn ông? Ôi các bạn thân mến của tôi ơi, có những điều khùng điên tới mức quỷ sứ cũng chẳng biết được. Làm thế nào để trốn tránh được những điều phiền toái, vượt thoát những khó khăn, để có thể tăng thêm sức mạnh và độ tin cậy cho kế hoạch của Hadj Ahmed đây? Tất nhiên là ông ta có thể, tôi giả thiết thôi, cắt bao qui đầu của một đứa trẻ khác thế chỗ cho con trai ông ta. Nhưng đấy lại là một cuộc phiêu lưu khác, sớm muộn gì cũng sẽ bị bại lộ! Các bạn cứ hình dung là ông ta mang đứa con trai của mình đến chỗ người làm nghề cắt tóc kiêm cắt bao qui đầu, đôi chân của đứa bé bị xoạt rộng ra, và có cái gì đó thật sự đã bị cắt đi, máu chảy ra, bắn tung tóe lên cả hai đùi của đứa trẻ và mặt mũi người thợ cát tóc. Đứa trẻ thậm chí đã khóc ré lên và sau đấy nó được phủ kín giữa đống quà cáp mà mọi gia đình họ hàng và láng giềng mang tới tặng. Hiếm người nhận ra ngón tay trỏ trên bàn tay phải của ông bố có một vòng băng quấn chặt. Ông ta giấu giỏi quá và chẳng một ai nghi ngờ tới điều thứ hai rằng dòng máu chảy ra nơi đứa bé chính là máu từ ngón tay của ông ta. Phải nói rằng Hadj Ahmed là một người mạnh mẽ và quyết đoán. Ai trong gia đình này có thể cảm thấy đủ sức mạnh để đối mặt với ông ta cơ chứ, kể cả hai người em trai. Vả lại, họ có nghi ngờ gì đi chăng nữa cũng chẳng dám đánh liều đùa cợt hay ẩn ý thắc mắc gì về giới tính của đứa bé. Mọi việc đều diễn ra tốt đẹp đúng như ông ta dự đoán và hi vọng. Ahmed lớn lên theo đúng mọi nguyên tắc, kỉ luật của người cha, chỉ một mình ông ta chịu trách nhiệm giáo dục nó. Bây giờ thì đã đến lúc ông ta đã làm cho nó trở thành một người đàn ông thực thụ. Hàng tháng, ông thợ cắt tóc lại đến cắt tóc cho nó. Ahmed và những đứa con trai khác theo học kinh Coran tại một trường tư thục, nó chơi đùa rất ít và hiếm khi lang thang trên phố quanh chỗ khu nhà nó ở. Cũng như mọi đứa trẻ khác cũng độ tuổi, nó thường thích theo mẹ đi tắm. Các bạn biết không, nơi này đã từng gây cho tôi những ấn tượng cực kì mạnh mẽ hồi chúng tôi chỉ là một lũ nhóc. Tất cả chúng tôi đã đi đến đó và thấy bình yên, vô sự. Đối với Ahmed thì cảm giác đó không làm chấn động tới nó lắm, nhưng đó lại là một sự khám phá lạ thường và cũng cay đắng không kém. Tôi biết vì chính nó đã bộc bạch cả trong cuốn nhật kí của mình. Hãy cho phép tôi được mở cuốn nhật kí này ra, đọc cho các bạn nghe những điều Ahmed đã viết trong những lần theo mẹ đi tắm giữa màn hơi nước nóng ấm: “Mẹ tôi cho vào cái giỏ xách tay nhỏ, nào là cam, trứng và những quả ô liu màu đỏ ngâm trong nước chanh. Bà choàng một cái khăn vẫn còn vương ít lá thơm lên mái tóc từ ngày hôm trước. Tôi thì chẳng có chút lá thơm nào cả, khi tôi muốn được làm như thế thì lập tức mẹ tôi cấm ngay, bà nói rằng: thứ đó chỉ dành cho những đứa con gái thôi. Tôi chán ngấy và vẫn phải theo bà đến nhà tắm hơi vì tôi biết rằng chúng tôi sẽ ở đó đến hết buổi chiều. Tôi sẽ buồn chán lắm đây nhưng tôi không thể làm gì khác hơn được. Thực lòng mà nói thì tôi thích đi tắm với bố tôi, ông tắm rất nhanh và như thế tránh được cho tôi thứ lễ nghi cứ liên miên thế này. Với mẹ thì hình như đó là dịp để bà đi chơi, để gặp gỡ những người phụ nữ khác để vừa nói chuyện vừa tắm. Tôi chết vì buồn chán mất. Số là vốn dĩ tôi hay có những cơn đau quặn thắt ở dạ dày, tôi như bị chết ngạt trong làn hơi nước dày đặc và xâm xấp lúc nào cũng quây kín quanh tôi. Đến nhà tắm, mẹ tôi quên luôn cả tôi, mẹ còn mải miết xếp những xô nước nóng cho mình và nói chuyện với những người bên cạnh. Họ cứ nói chuyện suốt, bất cứ chuyện gì họ cũng nói được, hình như họ có cảm giác là đang ở trong một căn phòng mà việc nói là việc không thể thiếu được cho sức khỏe của họ. Những từ, những câu chữ cứ như bay khắp mọi nơi trong căn phòng khép kín và tối như hũ nút này, những gì họ nói ra như được hơi nước quyện chặt lấy, bao bọc rồi treo lơ lửng ngay trên đầu họ. Rõ ràng tôi nhìn thấy các từ ngữ cứ chầm chậm bay lên dính vào trần nhà ẩm ướt, đọng lại trên đó như những đám mây nho nhỏ, gặp trần đá lạnh rơi xuống những giọt nước li ti phả khắp mặt tôi. Trò vui của tôi chỉ có vậy thôi. Tôi mặc kệ cho những đám mây từ ngữ đó phủ kín, chảy dàn dụa trên cơ thể tôi, nhưng chỉ ở phần phía trên chiếc quần của tôi thôi, phần bụng dưới của tôi được chừa ra không bị những lời nói đã biến thành những giọt nước làm ướt. Thực tế thì tôi nghe thấy thất cả, tôi cũng theo con đường mà những câu, những chữ này đã chọn, những câu chữ này là những kẻ còn nhanh chân hơn cả hơi nước. Tất cả những thứ này đều hòa lẫn vào nhau để tạo ra một thứ âm thanh hỗn độn, li kì và có gì đó thật buồn cười. Dù sao đi nữa thì tình cảnh này cũng làm cho tôi vui vẻ ít nhiều. Trần nhà trông như một bức tranh đủ màu sắc hoặc chí ít cũng như một cái bảng đầy chữ nghĩa, tất cả những thứ được vẽ, được viết trên đó không khó hiểu lắm. Và để giết thời gian, tôi tìm cách tháo gỡ mối dây liên hệ của câu chuyện này. Có những từ rơi xuống thường xuyên và nhanh hơn những từ khác, ví dụ như: đêm, lưng, ngực, rồi chân…, ngay khi chúng vừa được phát âm, tôi đã thấy chúng chảy tràn trên khuôn mặt mình nhưng tôi không biết phải làm gì khác hơn với chúng. Nhưng tôi đành phải gạt chúng sang một bên để chờ đợi những từ ngữ, những hình ảnh khác nữa tỏa xuống điểm tô thêm cho chúng. Lạ lùng làm sao, những giọt nước rơi xuống người tôi sao lại bẩn đến thế. Tôi thầm nghĩ rằng những từ ngữ ấy cũng có hương vị riêng của cuộc sống của chính nó. Và đối với những người đàn bà đang tắm ngoài kia, cuộc sống của họ nói đúng ra cũng thật ngắn ngủi, đơn điệu: làm bếp, thu vén nhà cửa, chờ đợi và mỗi tuần một lần đi đến nhà tắm này thư giãn, nghỉ ngơi. Trong thâm tâm, tôi rất hài lòng vì mình không thuộc vào cái thế giới quá ư hạn hẹp này. Đôi lúc, tôi chơi trò tung hứng với các từ ngữ, có những câu chữ cứ lơ lửng ngay trên đầu tôi, kiểu như “ban đêm mặt trời trên lưng trong một hành lang có ngón chân của người đàn ông người đàn ông của tôi trong cánh cửa thiên đường nụ cười…”, rồi đột nhiên có một câu rất trọn vẹn: “nước nóng quá…, cho tôi xin chút nước lạnh…”. Những câu đại loại như vậy không kịp có thời gian để hơi nước tiếp tục mang lên cao, bay xa hơn, bởi vì nó được nói ra bằng một giọng vô vị, sáo rỗng, nó hoàn toàn nằm ngoài lề của cuộc nói chuyện và chính vì thế, nó mới thoát khỏi vòng kiểm soát của tôi, tôi cũng chẳng bận tâm về những thứ đó. Tôi có thể làm gì với những câu sáo rỗng, không có khả năng thăng hoa và nhất là chẳng có chút lãng mạn nào khiến giấc mơ của tôi cất cánh. Có những từ vừa xuất hiện lại có sức cuốn hút tôi ngay, chúng được phát âm rất nhỏ như “mani”, “qlaoui”, “taboun”… Sau này, tôi mới biết đó toàn là những từ xoay quanh vấn đề tình dục, giới tính mà người phụ nữ không có quyền được sử dụng chúng: “tinh dịch”…, “chim”…, “bướm”… Những từ này không rơi xuống được, chúng bị dán chặt trên những phiến đá trên trần nhà vốn đã phủ một lớp bụi bẩn màu trắng đục hoặc màu nâu. Có một lần xảy ra một vụ cái lộn gay gắt giữa hai người đàn bà chỉ vì một xô nước, họ chửi rủa nhau bằng những lời tục tĩu và những thứ ngôn ngữ đó cứ lần lượt, lần lượt lật trở lại, liên tiếp rơi xuống như một trận mưa và tôi lại có được những trò chơi thú vị, được gom nhặt chúng lại rồi cất kín trong chiếc quần cộc! Tôi thật sự thấy bối rối và lúng túng đôi khi tôi sợ bố tôi tắm cho tôi sẽ phát hiện ra điều ấy vì từ lâu rồi ông rất thích tắm cho tôi. Tôi cũng không thể giữ chúng lâu được bên tôi bởi vì chúng lúc nào cũng như thọc lét tôi và khiến tôi cảm thấy mình bị kích thích. Khi mẹ tôi xoa xà bông lên người tôi, bà rất ngạc nhiên thấy người tôi bẩn khủng khiếp. Còn tôi thì cũng không thể giải thích với mẹ rằng lớp xà bông chảy trên người tôi đang mang đi tất cả những lời nói mà tôi đã nghe thấy và tích tụ lại trong suốt cả chiều nay. Khi tôi cảm thấy mình sạch sẽ là khi tôi cảm thấy mình trần trụi nhất như vừa trút bỏ lớp áo quần cũ từng giữ ấm cho tôi. Có lúc tôi len lỏi dưới háng những người đàn bà như một con quỷ nghịch ngợm. Sợ trượt và sự ngã nên tôi cứ bấu víu vào háng của những người đàn bà đang dạng ra, và tôi thoáng nhìn thấy phần bụng dưới đầy thịt, có cái gì đó đầy dục tính. Chẳng có gì là đẹp nếu không muốn nói nó làm cho tôi phát ngấy, ghê tởm. Tối hôm đó, tôi rơi vào trạng thái buồn ngủ rất nhanh bởi vì tôi biết rằng những hình bóng mờ ảo này sẽ đến thăm tôi, tay lăm lăm một cái roi vì chúng không chấp nhận việc nhìn chúng với con mắt thô kệch và chán ngấy đến thế. Tôi cố xua đuổi chúng đi vì tôi cũng biết rằng tôi sẽ không bao giờ như chúng và tôi sẽ không thể nào là những bóng hình như chúng. Đối với tôi, đó là một kiểu suy đồi không thể chấp nhận được. Tôi đóng cửa tự giam mình để được ngắm mình trong gương, phần gần bụng dưới của tôi: chẳng có vẻ gì là tàn tạ, suy thoái cả chỉ thấy một làn da trắng ngần, trong suốt, chạm vào thấy mềm mại làm sao, chẳng có lấy một nếp gấp hay một nếp nhăn nào. Hồi mẹ tôi vẫn hay thường xuyên xem xét những biến đổi trên cơ thể tôi thì bà cũng chẳng phát hiện ra một cái gì khác lạ ở đó cả. Nhưng ngược lại, bà lại thấy lo ngại bộ ngực của tôi, tôi đã được băng quấn lại bằng tấm vải mềm màu trắng, miếng băng vải siết chặt quanh lồng ngực luôn làm cho tôi có cảm giác nghẹt thở. Cần phải làm cho bộ ngực của tôi xẹp xuống. Tôi chẳng nói gì cả, để mặc cho mẹ tôi muốn làm gì thì làm. Định mệnh là một thứ bản năng gốc đầy những may rủi, bất trắc. Nhưng tôi lại thấy thích như vậy. Càng ngày, những dấu hiệu ngoại hình của tôi càng khẳng định với tôi về đường hướng này. Cho đến một hôm, người thủ quỹ khu nhà tắm không cho tôi vào tắm ở đây nữa bởi vì bà ấy cho rằng tôi không còn là một chú nhóc vô tư nữa mà đã là một chàng trai, sự hiện diện của tôi trong phòng tắm sẽ làm đảo lộn tiết hạnh lặng lẽ và những ham muốn thầm kín của những người đàn bà chất phác! Mẹ tôi phản đối thái độ của cô thủ quỹ nhưng trong thâm tâm, hình như bà có vẻ rất hài lòng về điều đó. Tối đến, mẹ tôi hào hứng kể lại cho bố tôi nghe về chuyện xảy ra ở nhà tắm. Nghe xong, bố tôi quyết định từ nay trở đi ông sẽ là người dẫn tôi đi tắm. Trong góc riêng của mình, tôi hồi hộp và rất tò mò chờ đợi bước thâm nhập mới vào thế giới đàn ông cho đến lúc này vẫn còn là điều bí ẩn đối với tôi. Đàn ông hình như nói ít hơn, họ ngồi yên để cho hơi nước phủ lấy cơ thể, rồi sau đấy, họ tắm rửa khá nhanh. Tắm mà cứ như đi làm việc, họ dội nước ào ào rồi rút vào một góc tối kì cọ bộ phân sinh dục, cuối cùng, họ ra đi. Còn tôi, đầu óc tôi cứ suy nghĩ lan man, cố gắng giải mã những phiến đá ẩm ướt trên trần. Chẳng có cái gì ở trên đó cả. Sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng va chạm của những xô nước hoặc bất chợt có tiếng kêu đột ngột bật ra một cách thỏa mãn của một ai đó đang mát xa. Chẳng có gì khác thường cả! Nhưng hình như có cái gì đó ám muội, nên họ mới phải tắm vội vàng như vậy. Sau này tôi mới biết rằng trong những gốc tối tăm ấy, đã có cái gì đó xảy ra, những người làm nghề mát xa không chỉ có mát xa không thôi, những cuộc gặp gỡ, hội ngộ đều diễn ra trong cảnh tối tăm đó, một sự im lặng thật đáng ngờ! Tôi thường đi cùng với bố tôi đến xưởng nghề của ông. Bố giải thích cho tôi về cung cách điều hành công việc, giới thiệu tôi với các nhân viên và với khách hàng của ông. Bố nói với họ rằng tôi đang và sẽ là chủ nhân ở đây. Tôi nói rất ít. Giải băng vải quấn quanh ngực lúc nào cũng như bó chặt lấy tôi. Tôi thường đến Nhà thờ, tôi rất thích được đặt chân vào trong tòa nhà rộng mênh mông này, nơi đây chỉ chấp nhận sự hiện diện của cánh đàn ông. Tôi thường xuyên cầu nguyện nhưng rất hay nhầm lẫn. Chẳng qua là tôi thích đùa vậy thôi. Chuyện đọc kinh Coran tập thể hay làm tôi xây xẩm mặt mày, nên hầu như tôi luôn bỏ rơi tập thể của mình và cầu nguyện bất cứ thứ gì mà tôi thích. Tôi lấy làm khoái chí khi làm cho lòng sùng đạo vốn có của mọi người bị thương tổn. Tôi có cảm giác mình đang báng bổ những lời cầu nguyện thiêng liêng. Bố tôi thì không chú ý đến những hành vi của tôi. Điều quan trọng nhất với bố, chính là sự hiện diện của tôi giữa những người đàn ông này mà thôi. Ở đó, tôi đã học cách làm một kẻ mộng mơ. Lần này, tôi ngắm nhìn lên những khoảng trần nhà được chạm trỗ tinh xảo, những câu chữ được khắc trên đó một cách cẩn thận, rõ nét. Chúng không tự nhiên rơi xuống khuôn mặt tôi như bình thường nữa mà chính tôi lại là kẻ muốn xích lại gần chúng hơn. Tôi trèo lên cái cột đỡ nhờ sự thăng hoa của những câu hát trong kinh Coran. Những tiết tấu, nhịp điệu trong những câu kinh thánh ấy đã đẩy tôi vút lên trên cao. Ngồi trong chùm đèn, tôi chăm chú quan sát sự chuyển động của những dòng chữ Ả Rập được khắc công phu trên lớp thạch cao và trên gỗ. Sau đấy, tôi ra đi trên lưng một lời nguyện cầu rất đẹp: “Nếu Thượng Đế đã dành cho bạn sự chiến thắng thì không có ai có thể làm cho bạn thất bại.” “Cứ vậy, tôi lướt qua những câu chữ và đã hiểu được sức mạnh kì bí của chúng. Chúng đã khiến tôi tò mò. Lời nguyện cầu kia tiếp tục bay lượn vòng quanh trần nhà rồi dịu dàng đưa tôi trở lại điểm xuất phát ban đầu trên đỉnh chiếc cột. Ở đó, tôi nhẹ nhàng trượt xuống như một chú bướm xinh. Tôi không hề gây xáo động hay phiền toái gì tới những mái đầu đang gật gù đọc kinh Coran. Tôi cảm thấy mình thật bé bỏng và nép mình vào bố tôi. Bố đọc kinh bằng một tiết tấu đều đều làm cho giấc ngủ cứ chầm chậm đến với tôi… Chỗ lối ra của nhà thờ, mọi người vừa đi vừa xô đẩy nhau, hình như những người đàn ông thích làm như thế thì phải. Ngay khi đi ra khỏi cửa đền thờ, tôi cũng biết len lỏi và tự bảo vệ đấy chứ. Bố tôi luôn luôn nhắc nhở tôi rằng lúc nào cũng cần phải biết tự bảo vệ lấy chính bản thân mình. Trên đường về, bố tôi tạt vào cửa hàng mua bánh sữa, sữa được cô đặc lại ép thành bánh trong một cái khuôn vải thấm nước. Rồi chúng tôi lại đến lò làm bánh mua bánh mì. Bố tôi đi vượt lên phía trước, ông thích nhìn tôi, quan sát xem một mình tôi sẽ xoay trở ra sao. Một hôm, tôi bị một bọn vô lại tấn công, chúng dám ngang nhiên sờ mó vào người tôi. Tôi không đánh lại được, chúng có những ba tên, tôi chỉ có một mình. Tôi chạy về nhà khóc nức nở. Bố tôi chẳng những không an ủi hay thông cảm với tôi mà còn thẳng tay cho tôi một cái tát rất đau cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ và nói với tôi rằng: “Con có phải là một đứa con gái đâu mà khóc lóc, kể lể như vậy! Một thằng đàn ông không bao giờ được khóc như thế cả!” Bố rất có lí, những giọt nước mắt kia làm cho tôi quá yếu đuối như đám con gái thì phải. Tôi lập tức lau khô nước mắt rồi chạy đi tìm bọn vô lại kia để trả thù. Bố tôi đuổi theo ra ngoài phố, ông nói với tôi rằng muộn quá mất rồi…” Vâng, bây giờ tôi xin khép lại cuốn nhật kí ở đây. Chúng ta tạm chia tay với thời thơ ấu và rời xa cánh cửa của ngày thứ sáu. Tôi không muốn nhìn thấy nó nữa. Tôi thấy mặt trời đang xế bóng hoàng hôn và trên khuôn mặt của các bạn, tôi đã nhìn thấy sự sốt ruột muốn đứng lên, ánh sáng ban ngày đang dần chia tay với chúng ta. Màn đêm buông xuống buộc chúng ta phải phân tán mỗi người mỗi ngã. Tôi không biết liệu rằng đấy thật sự có phải là một nỗi buồn cực kì sâu lắng - một vực thẳm bằng ngôn từ trong tôi, bằng ánh mắt - hay đó là một sự trớ trêu kì lạ, nơi những nhành cỏ kỉ niệm và khuôn mặt của người vắng bóng kia đang hòa quyện lấy nhau, mà lúc này đây, sự trớ trêu ấy lại như đang thiêu đốt làn da tôi. Những từ trong cuốn sổ này có vẻ như vô hại vậy mà khi đọc, tôi bỗng dưng bị xúc động lạ thường cứ như là người ta đang cướp đi chính thân xác tôi vậy. Ôi những người đàn ông vào buổi chiều tà của tôi ơi! Tôi có cảm giác rằng tư tưởng, ý nghĩ của tôi đang lang thang kiếm tìm nhau và đang suy nghĩ vớ vẩn ở đâu đó. Bây giờ, chúng ta hãy tạm xa nhau và xin hãy kiên nhẫn làm một kẻ hành hương! 4 CÁNH CỬA NGÀY THỨ BẢY Các bạn ơi, hôm nay chúng ta phải rời khỏi nơi này thôi, chúng ta sẽ đi đến chặng thứ ba, ngày thứ bảy của tuần, đến một nơi địa thế vuông vức, khu chợ bán nông sản, nơi người và vật ngủ chung với nhau, nơi giao lưu, trao đổi hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, xung quanh được bao bọc bằng những bức tường thấp và được tưới mát bằng một nguồn nước tự nhiên. Tôi chưa biết gì về những thứ mà nơi đó sẽ ưu đãi dành cho chúng ta. Cánh cửa hướng ra phía những bao lúa mì. Nhân vật của chúng ta chưa bao giờ đặt chân tới đó còn tôi thì ngày xưa tôi đã từng bán một chú lừa ở đó rồi. Đó chỉ là một cánh cửa được trổ ra giữa bức tường làm thành một đống đổ nát chẳng dẫn tới một nơi nào cả. Nhưng chúng ta vẫn phải tới thăm nó, bởi một phần là do mê tín và mặt khác là vì bắt buộc. Về nguyên tắc mà nói thì cánh cửa này tương ứng với giai đoạn tuổi thiếu niên. Bởi vậy, đó là một thời kì rất mù mờ. Chúng ta đã làm mất dấu những bước chân của nhân vật chúng ta. Được ông bố luôn cầm tay dìu dắt, cậu nhỏ chắc đã phải trải qua những thử thách cực kì khó khăn và gian khổ. Có những thời kì, cơ thể của cậu phải đối mặt với những rối loạn, đổi thay hàng ngày, bị dày vò bởi sự nghi ngờ; cậu luôn trong tình trạng ngập ngừng, lo sợ, phải mò mẫm, dựa dẫm bước đi. Đó là một giai đoạn mà tất thảy chúng ta đều phải tưởng tượng ra và nếu như các bạn đã sẵn sàng đi theo tôi thì mong các bạn hãy cùng tôi khôi phục lại giai đoạn này của câu chuyện của chúng ta. Trong cuốn sách này, đó là một khoảng không trắng tinh, những trang giấy vẫn còn bỏ ngỏ đang neo lại ở đó, với lòng mong muốn dành cho độc giả sự tự do tha hồ theo đuổi những suy nghĩ riêng tư nhất. Nào, mời các bạn hãy cùng khởi động trí tưởng tượng của mình đi! - Tôi nghĩ rằng đó là thời kì mà Ahmed ý thức được cái điều sẽ đến với cậu rằng cậu phải trải qua một thời kì khủng hoảng cực kì trầm trọng. Tôi tưởng tượng ra cậu luôn bị giằng co giữa biến đổi của cơ thể cậu với ý muốn cương quyết của người cha là kiên quyết biến đổi cậu hoàn toàn thành một người đàn ông đúng nghĩa. - Còn tôi, tôi không tin cái câu chuyện khủng hoảng linh tinh này. Tôi nghĩ rằng Ahmed đã được làm ra và phát triển hoàn toàn theo sự định hướng chiến lược của người cha. Cậu không hề đặt dấu hỏi nghi ngờ. Cậu muốn chiến thắng trong cuộc thách đấu và đạp bằng mọi trở ngại thách thức. Đó là một đứa trẻ hay mơ mộng và rất đỗi thông minh. Cậu đã nhanh chóng hiểu ra rằng xã hội này luôn quý trọng đàn ông hơn đàn bà. - Không! Chuyện xảy ra đơn giản thôi. Tôi biết rõ điều đó mà. Tôi là người lớn tuổi nhất trong số những người có mặt ở đây. Có lẽ tôi còn lớn tuổi hơn ông chủ đang kính của chúng ta và người kể chuyện nữa, tôi luôn luôn tôn trọng và đón chào họ. Tôi biết khá tường tận câu chuyện này. Tôi không cần phải phán đoán hoặc giải thích nhiều... Ahmed không bao giờ rời xa cha mình. Cậu tiếp nhận sự giáo dục ở bên ngoài ngôi nhà và xa lánh mẹ và các chị gái. Ở trường, cậu học cách đánh nhau và rất hay đánh nhau. Còn bố cậu thì sao ư, ông thậm chí còn luôn khuyến khích cậu ta làm như thế và thường hay nắn cơ bắp của cậu mỗi khi ông thấy nó có về mềm mềm chứ không săn chắc. Tiếp theo là cậu ta đối xử rất tệ hại với các chị gái của mình, làm cho họ khiếp sợ cậu. Đó là điều bình thường thôi! Thường thì người ta luôn phải chuẩn bị như vậy cho người kế nghiệp. Và cậu đã trở thành một người đàn ông thực thụ rồi. Dù sao đi nữa thì người ta cũng đã dạy cho cậu cách xử sự của một người đàn ông ở trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội. - Điều đó cũng chẳng làm cho chúng ta tiến thêm được chút nào đâu, thưa ngài trưởng lão đáng kính. Tôi nói với ngài điều đó là bởi vì câu chuyện của chúng ta cũng đang dừng lại tại chỗ. Chúng ta có khả năng bịa ra được nó hay không? Và liệu rằng chúng ta có thể không cần đến cuốn nhật kí này nữa hay không? - Còn tôi, nếu như mọi người cho phép tôi xin nói thật với các bạn: đó chỉ là một câu chuyện hoang tưởng! Nếu như Ahmed thật sự tồn tại thì hẳn cậu ta bị đưa vào một bệnh viện tâm thần rồi... Bởi vì, ngài nói rằng ngài có những bằng cớ trong cuốn sổ mà ngài cất thế thì tại sao ngài không đưa nó cho chúng tôi... Chúng tôi sẽ xem xét thật kĩ câu chuyên này có tương ứng với thực tế hay không hay là ngài đã bịa ra tất cả để đùa giỡn với thời gian và lòng kiên nhẫn của chúng tôi! Thế là cơn phong ba của cuộc cãi vã đầy mâu thuẫn bắt đầu trỗi dậy! Các bạn có quyền tự do tin hoặc không tin vào câu chuyện này. Nhưng dẫn dắt các bạn đến với câu chuyện, thực sự tôi cũng chỉ muốn biết xem sự quan tâm và say mê của các bạn đến đâu thôi... Sau đây, tôi sẽ đọc nó... Ôi câu chuyện mới tuyệt vời làm sao. Tôi mở cuốn nhất kí ra, tôi lật qua những trang giấy trắng... Nào các bạn hãy nghe đây! “Ðó là một sự thật, sự thật không thể nói hoặc tiết lộ ra ấy lại tồn tại trong một nỗi cô độc hoàn toàn, bao bọc xung quanh nó là những điều hết sức kì bí của tự nhiên. Những kì bí ấy tồn tại không mấy khó khăn và người ta còn thấy được ở đó tất cả vẻ bề ngoài lẫn mùi vị bên trong, thứ mùi của chuồng súc vật đã bị bỏ hoang phế từ lâu, hoặc hơn nữa là thứ mùi của một vết thương vẫn còn chưa liền sẹo, đôi khi từ đó lại bốc lên thứ mùi đặc biệt trong những khoảnh khắc chán chường mệt mỏi, người ta cứ để mặc cho sự hờ hững chế ngự, tuy rằng đó không phải là bước khởi đầu của một sự thối rữa nào đó của thể xác. Vâng, đó chính là một sự thay đổi hoàn toàn về thể chất so với hình ảnh nguyên vẹn ban đầu, bởi vì nỗi đau đớn đến từ một nơi sâu thẳm, nơi mà ngay cả cái tên của nó người ta cũng không thể hé lộ ra được lời nào hết. Người ta không biết được phải chăng nỗi đau đớn ấy tồn tại ngay trong bản thân con người ta hay ở một nơi nào khác, ví như trong một khu nghĩa trang nào đó, trong một huyệt mộ mới đào, một cơ thể héo tàn một ánh mắt chết chóc của một sinh vật sống vừa mới dứt mình khỏi những mối ràng buộc mật thiết với sự thật này, mọi ràng buộc mà người ta cứ ngỡ nó tựa hồ như một chú ong mải miết kiếm tìm mật ngọt, tựa hồ như một kẻ nô lệ cho những ảo vọng của riêng mình và cuối cùng thì kẻ đó cũng bị khép vào tội chết, bị chính cuộc sống ấy bóp nghẹt, dập tắt những hi vọng mong manh. Sự thật này là tầm thường như mọi thứ ở trên đời, nó làm cho thời gian và diện mạo tàn phai, nó trao cho tôi một tấm gương mà mỗi khi soi vào đó, tôi không khỏi bối rối và dường như bị rung động bởi một nỗi buồn sâu thẳm, không phải là thứ buồn man mác của tuổi trẻ làm dịu niềm kiêu hãnh của chúng ta, đưa chúng ta ngủ trong nỗi nhớ nhung nuối tiếc, đó là một nỗi buồn làm cho con người ta lầm lạc, tách con người ra khỏi vùng đất của mình và quăng quật nó như một thứ đồ vô dụng, đưa nó vào nơi tồn trữ những đồ đạc lượm lặt được, những vật dụng chẳng ai thèm đoái hoài, ngó ngàng gì tới nữa, thậm chí bị xếp vào trong một căn nhà ma ám, một vùng đất đầy chuột bọ bẩn thỉu. Chiếc gương đã trở thành con đường mà qua đó thân xác tôi được đưa đến tình trạng hiện nay, thành nơi mà thân xác sẽ bị hủy hoại trong đất, đào một huyệt mộ tạm thời và cuốn hút những rễ cây luồn lách qua những kẽ đá luồn sâu vào trong, thể xác sẽ bị đè bẹp ra dưới sức nặng của nỗi sầu thảm khủng khiếp mà chỉ có rất ít người may mắn, không phải là hiểu thấu đáo được nó, mà đơn giản chỉ đoán định được những hình dạng, trọng lượng và bóng tối mà thôi. Cho nên, tôi luôn luôn lẩn tránh mọi tấm gương. Không phải lúc nào tôi cũng có đủ can đảm để phản bội lại tôi, có nghĩa là phải bước xuống những nấc thang mà số mệnh của tôi đã vạch sẵn, và nó dẫn dắt tôi đến chốn tận cùng sâu thẳm của chính tâm hồn tôi, trong sự thân tình - không thể chịu nổi - của sự thật không thể nói được thành lời. Nơi ấy chỉ có đám côn trùng lúc nhúc là bạn đồng hành của tôi. Tôi thường có ý định tổ chức một nghĩa địa nhỏ trong góc sâu kín nhất của tâm hồn tôi để cho những linh hồn đã ngủ yên có thể đứng lên đi vòng quanh một tượng đài sinh dục được dựng lên, bộ phận sinh đục nam chẳng hạn, nó có thể sẽ là của tôi nhưng tôi không bao giờ có thể mang được cũng như không thể phô diễn nó ra. Tôi là linh hồn và là ánh sáng, ánh sáng sản sinh ra nó, chủ nhân của ngôi nhà - một đống đổ nát đang cố che giấu một cái hố tập thể rất lớn - đồng thời là khách mời, bàn tay đặt trên nền đất ẩm ướt và đá bị vùi lấp dưới một đám cỏ dại, ánh mắt tìm nhau và tấm gương, tôi là và cũng chẳng phải là giọng nói đang cố gắng khắc phục những khuyết tật cho thích hợp với cơ thể tôi, khuôn mặt của tôi đang bị trùm kín trong giọng nói này, nó là của tôi hay của bố tôi, ông là người lẽ ra phải hà hơi tiếp sức cho nó hay đơn giản là gửi gắm nó vào tôi khi tôi đang ngủ. Khi thì tôi thừa nhận nó, khi thì tôi lại gạt bỏ nó, tôi biết rằng giọng nói ấy là tấm mặt nạ mỏng manh nhất, điệu nghệ nhất mà tôi có được, là hình ảnh đáng tin cậy nhất của tôi, nó làm cho tôi bối rối và cũng làm cho tôi nổi giận; nó làm cho thể xác tôi cứng đờ ra, phủ lên nó một lớp lông tơ mà chẳng mấy chốc lớp lông tơ ấy trở thành những chiếc lông thực thụ. Nó đã làm cho làn da tôi mất đi sự mềm mại vốn có và khuôn mặt của tôi trở thành phiên bản của khuôn mặt của kẻ mang giọng nói này. Tôi là người cuối cùng có quyền được nghi hoặc. Nhưng không, điều đó đã không cho phép tôi. Giọng nói trầm, mạch lạc đã khiến tôi rụt rẻ, e sợ, xen lẫn vào đó cảm giác xúc động và cũng chính giọng nói ấy đã đẩy tôi vào giữa đám đông để tôi có dịp tỏ ra xứng đáng với nó, mang nó trên người với vẻ chắc chắn, tự nhiên hơn, để không tỏ ra tự hào thái quá, không cáu giận mà cũng không nổi khùng. Rõ ràng là tôi phải làm chủ được nhịp điệu, âm sắc, tiết tấu của nó và giữ kín trong lòng, trong từng làn da thớ thịt của tôi. “Sự thật thì luôn mai danh ẩn tích; chỉ cần tôi nói ra thôi thì sự thật sẽ bỏ đi xa mãi mãi, nó sẽ bị quên lãng ngay và như thế, tôi trở thành là kẻ đào mồ chôn, là người phải khai quật, vừa là chủ nhân, vừa là kẻ nô lệ của sự thật này. Giọng nói ấy là như thế này: sự thật không phản bội lại tôi... và ngay cả khi nếu tôi muốn nhìn thấy nó trong sự trần trụi, phản bội lại nó dưới một hình thức nào đó, thì tôi cũng không thể, thậm chí có thể tôi sẽ chết vì sự thật này. Những yêu sách của nó, tôi biết tất cả: nào là phải tránh cáu giận, gào thét, tránh sự mềm mỏng dịu dàng thái quá, tránh những tiếng thì thầm to nhỏ, nói tóm lại là dấu hiệu bất hình thường mà tôi thì lại là một kẻ bình thường. Và thế là tôi đành câm lặng dừng chân lại nơi cái hình ảnh làm tôi thật khó chịu này. Ôi Chúa ơi, sự thật này đè nặng lên con mới ghê gớm làm sao! Một yêu sách thật nghiệt ngã! Ôi tất cả thật khắc nghiệt. Tôi vừa là nhà kiến trúc vừa lại là chính ngôi nhà ấy, là cây và nhựa sống của nó, tôi chính là tôi nhưng cũng chính lại là một kẻ khác, tôi là tôi và lại là một người phụ nữ khác. Không một tình tiết nào, dù ở ngoài hay trong đáy hố sâu có thể bước đến làm đảo lộn cái sự thật nghiệt ngã này. Thậm chí đến cả máu cũng không thể. Một buổi sáng, bỗng dưng tôi thấy có vết máu vấy bẩn lên tấm ga trải giường. Dấu ấn của cơ thể tôi để lại trên tấm ga trong tư thế nằm cuộn tròn kia, có làm lay chuyển được lòng tin, hoặc phủ nhận những đường nét ngoại hình của cơ thể tôi. Trên đùi tôi là một vết máu nhỏ và mảnh, một đường nét bất bình thường có màu đỏ lợt. Phải chăng đó không phải là vết máu mà chỉ là một tĩnh mạch nào đó bị phồng lên được màn đêm tô màu nổi lên trên đùi tôi, rõ ràng tôi đã thấy vết máu trước khi ánh nắng ban mai của một ngày bắt đầu ló rạng; nhưng rõ ràng, tấm ga trải giường còn rất ấm nóng như nó vừa bao bọc lấy một cơ thể đang run rẩy vì mới được đưa lên khỏi mặt đất ẩm ướt. Ðúng là máu thật rồi, đây là thái đội chống đói phi thường của cơ thể, là vết vẩy bẩn trong buổi lễ cắt bao quy đầu muộn màng hôm nào. Thực ra mà nó, đó còn là một hồi ức về một kỉ niệm đã bị chôn vùi, được cất giấu rất kĩ; kỉ niệm về một cuộc sống, một cuộc đời mà tôi chưa từng được biết đến, cuộc đời mà có thể đã là tôi. Bởi thế, tôi cảm thấy thật lạ lùng khi trở thành một kẻ mang tâm hồn, kí ức không phải được trải nghiệm qua cuộc sống, mà nó được đưa đến cho tôi thật nhẹ nhàng kín đáo chẳng một ai hay biết. Tôi như chơi vơi trong một khu vườn xinh, trên một bồn đất của một đỉnh núi cao và tôi không biết mình có nguy cơ bị rơi xuống không rõ từ phía nào nữa. Tôi chới với trong tấm ga màu đỏ, máu đã hòa quyện với màu của tấm ga trải giường. Tôi cảm thấy cần phải tự chữa bệnh cho mình và trút bỏ nỗi cơ đơn nặng nề như một bức tường đón nhận tất cả những lời than phiền, những tiếng kêu tội nghiệp của những kẻ bị bỏ rơi, những ngôi đền trong sa mạc, nơi những người ở tuổi xế chiều có thể đến trút bỏ nỗi ưu phiền và dâng tặng chút máu của họ. Một giọng nói nhỏ nhẹ làm vỡ toác cả bức tường dày và nói với tôi rằng giấc mộng hão huyền đang làm lu mờ những ánh sao buổi sớm. Tôi ngước nhìn lên bầu trời, chỉ thấy ở đó một vệt màu trắng do một bàn tay cực kì điệu nghệ vạch ra. Trên con đường này, tôi phải đặt vài viên đá, vài cột mốc và điểm đánh dấu nỗi cô đơn của tôi, chìa đôi cánh tay thẳng căng như để vén bức màn đêm bất chợt buông xuống từ bầu trời sâu thẳm hoặc bầu trời sập xuống biến thành một mảnh đặc quánh của màn đêm mà tôi khoác vào như một khuôn mặt, một mái đầu mà tôi không thể bóp ngạt nó được. Vết máu mỏng manh đó có thể chỉ là một vết thương. Tôi thử đưa tay chặn lại dòng máu ấy. Tôi nhìn những ngón tay xòe ra, được kết dính lại với nhau bằng một viên bọt của dòng máu lúc này đã trở nên gần như bọt trắng xóa. Qua đó, tôi nhìn thấy khu vườn, rất nhiều cây cối đứng bất động và bầu trời bị những cành cây rất cao chia cắt. Tim tôi đập nhanh hơn bình thường. Do xúc động, sợ hãi hay hổ thẹn? Tuy nhiên, tôi vẫn phải chờ đợi. Rất nhiều lần tôi để ý thấy mẹ và các chị gái tôi đặt vào hoặc rút những mảnh vải nhỏ màu trắng nằm giữa hai đùi của họ. Mẹ đã cắt những tấm ga cũ thành nhiều mảnh nhỏ, cất vào một góc tủ, rồi các chị gái tôi lặng lẽ lấy chúng ra dùng. Tôi chú ý quan sát và nhìn thấy tất cả và tôi chờ đợi cái ngày mà chính tôi sẽ kín đáo mở chiếc tủ đó ra, tôi cũng sẽ đặt vào giữa háng của mình hai hoặc ba tấm vải gì đó. Ồ làm thế thì tôi trở thành một tên ăn trộm không hơn không kém. Suốt đêm tôi theo dõi, quan sát dòng máu ấy rồi tôi soi xét tỉ mỉ những vết máu trên tấm vải. Đúng đó là một vết thương. Một thứ định mệnh, một sự phản bội lại trật tự tự nhiên. Ngực tôi luôn luôn bị chèn ép chặt không cho nhú lên. Tôi tưởng tượng bộ ngực tôi phát triển vào bên trong, nó làm cho tôi ngột ngạt khó thở. Bây giờ thì tôi chẳng có ngực nữa, ít ra đấy cũng là một vấn đề. Sau sự kiện tôi nhìn thấy máu thì tôi đã đưa trở về chính tôi và tôi đã phân tích được những đường nét của bàn tay như số mệnh đã dành cho chúng.” Cánh cửa của ngày thứ bảy đã im lìm khép lại. Ahmed bước ra khỏi cánh cửa mà lòng cảm thấy nhẹ nhõm khuây khỏa hơn bao giờ hết, cậu đã hiểu được rằng bây giờ cuộc sống của cậu phụ thuộc vào việc giữ được diện mạo bề ngoài, việc giữ gìn ấy cũng không còn là ý muốn riêng của cha cậu nữa, nó sẽ trở thành ý muốn của riêng cậu mà thôi. 5 BAB EL HAD Đó là một chiếc cửa rất nhỏ; muốn qua được thì phải cúi gập mình xuống. Nó là lối vào của khu phố Ả Rập người sinh sống và thông với lối ra của khu nằm ở phía bên kia. Thực tế, đây là những lối ra vào ảo. Tất cả đều phụ thuộc vào mỗi một việc là bạn từ đâu đến: nhưng cũng tiện lợi khi biết rằng trong toàn bộ diễn biến của câu chuyện đều có những lối ra hoặc vào. Ahmed thường xuyên qua lại giữa hai cánh cửa này. Bây giờ, Ahmed tròn 20 tuổi. Đó là một chàng trai có giáo dục và bố cậu rất lo lắng khi nghĩ đến tương lai của cậu. Tôi cứ cho là tất cả mọi người đang chờ đợi bước ngoặt này của câu chuyện và mọi chuyện sẽ diễn ra theo cách như sau: Một ngày, Ahmed đến xưởng gặp bố mình và nói với ông rằng: - Bố ơi, bố thấy giọng nói của con thế nào? - Tốt chứ sao, không quá trầm mà cũng chẳng quá thanh. - Vậy thì tốt rồi. Ahmed trả lời. Thế còn làn da của con, bố thấy nó thế nào? - Nước da của con ư? Chẳng có gì là đặc biệt cả. - Thế bố không thấy là hàng ngày con không cạo râu à? - Ừ nhỉ, nhưng mà tại sao cơ chứ? - Thế bố nghĩ thế nào về các cơ bắp của con đây? - Cơ bắp nào hả Ahmed? - Ví thử như ngực con chẳng hạn… - Nhưng bố không biết gì cả. - Thế bố không thấy ngực con rất cứng sao? Bố ơi con sẽ để ria mép đấy. - Ồ con cứ để nếu con thấy điều đó làm con thoải mái và hài lòng. - Tới đây con sẽ ăn mặc thật đàng hoàng, sẽ đóng bộ hẳn hoi và thắt cả cra-vát nữa. - Con cứ làm như thế nếu con muốn Ahmed à! - Bố ơi con muốn lấy vợ… - Gì cơ? Con còn quá trẻ mà… - Nhưng bố cũng đã lập gia đình từ khi còn rất trẻ đấy thôi? - Ừ nhưng thời đó nó khác… - Ồ, vậy thời nay thì sao hả bố? - Bố không biết. Con đang làm bố khó xử đấy Ahmed ạ! - Đây không phả là lúc dối lừa hay phỉnh nịnh đấy chứ bố? Con làm một con người hay chỉ là một cái bóng, một thực thể hay là một quyền năng nào đó, là một hòn đá vô tri trong một khu vườn héo úa hay là một cái cây cứng nhắc? Bố nói với con đi nào, con là gì vậy? - Nhưng tại sao con lại đặt ra những câu hỏi này với bố? - Con làm như vậy để bố và con cùng nhìn thẳng vào sự thật. Cả bố và con đều không phải là những kẻ bịp bợm. Đối với địa vị của con, con không chỉ chấp nhận nó và sống vì nó nữa mà con còn yêu thích nó nữa cơ. Cái địa vị này thực sự cuốn hút con, nó còn làm cho con cảm thấy say mê nữa, nó cho phép con có được những đặc ân mà con sẽ chẳng bao giờ có thể biết được hết. Nó mở giúp con mọi cánh cửa và con rất thích điều ấy thậm chí có lúc ngay sau đấy, nó nhốt con vào trong một căn phòng nhỏ toàn bằng kính. Đôi khi sự ngột ngạt nào đó lại đến với giấc ngủ của con. Con ngập chìm trong chính bãi nước bọt của mình, cố bám víu lấy khoảng đất không yên bình. Và con chỉ tiến lại xích lại gần với những cái hư vô, vô nghĩa mà thôi. Nhưng khi con thức dậy thì con vẫn cảm thấy rất hạnh phúc với thực tại, với những gì con đang có, đang sở hữu. Con đã đọc tất cả những cuốn sổ về giải phẫu học, về sinh học, về tâm lý học thậm chí cả về thuật chiêm tinh nữa. Con đã đọc rất nhiều và con đã lựa chọn sự hạnh phúc làm mục tiêu của mình. Những nỗi phiền muộn, đau đớn của sự cô độc, con đều trút bỏ, trao gửi vào một cuốn sổ dày. Khi lựa chọn cuộc sống, cuộc đời riêng cho mình, con đã chấp nhận dấn thân vào một cuộc phiêu lưu và con muốn, rất muốn đi đến tận cùng câu chuyện này. Con là một người đàn ông. Tên con là Ahmed theo truyền thuyết của Đấng Tiên Tri của chúng ta. Và con cần phải lấy vợ. Chúng ta sẽ làm một bữa tiệc lớn, kín đáo cho buổi lễ đính hôn. Bố ơi, bố đã biến con trở thành một người đàn ông và con cần phải tiếp tục là thế. Và như Đấng Tiên Tri đáng kính của chúng ta đá nói rằng: “Một tín đồ Hồi giáo trọn vẹn phải là một người lập gia đình.” Người cha lúc ấy đã rơi vào một tình thế khó xử vô cùng. Ông không biết trả lời thế nào với đứa con trai của ông và cũng chẳng dám xin ai một lới khuyên. Ahmed cứ tiếp tục những lí luận lô gích của riêng mình, cậu không nói tất cả mọi điều cho cha mình vì cậu đã có một kế hoạch riêng. Một sự im lặng đến ngột ngạt, khó chịu bao trùm lên tất cả. Ahmed thực sự đã thành một con người độc đoán. Ở nhà, cậu bắt các chị gái phải phục dịch những bữa ăn cho cậu. Còn cậu thì cứ giam mình trong căn phòng ở trên cao. Cậu không hề biểu lộ một tí tị tình cảm dịu dàng đối với mẹ cậu. Bà rất hiếm khi được nhìn thấy cậu. Và việc quản lí xưởng thợ của gia đình, Ahmed cũng đã bắt đầu nắm bắt được mọi công việc. Hiệu quả, hiện đại, vô sỉ. Ahmed đã làm một kẻ điều hành công việc tuyệt vời nhất. Bố cậu thì đã quá lỗi thời mất rồi. Ông để mặc cho cậu cai quản mọi việc. Cậu chẳng hề có bạn bè. Kín đáo và nghi ngờ tất cả, cậu thực sự khiến người khác phải e ngại. Suốt ngày, cậu chễm chệ trong phòng riêng của mình, ngủ muộn nhưng dậy rất sớm. Cậu đọc rất nhiều và thường viết về ban đêm. Cậu tự giam mình trong ấy suốt buổi đêm đến năm ngày trong tuần. Chỉ có bà mẹ mới dám gõ cửa phòng cậu mà thôi. Cậu thường đằng hắng ho để khỏi phải nói gì và để chứng tỏ rằng cậu vẫn đang tồn tại trong đó. Một hôm, cậu mời mẹ cậu đến và nói với bà bằng một giọng dứt khoát, chắc nịch: - Con đã chọn được người vợ tương lai của con rồi! Bà mẹ đã được ông bố báo trước nên bà không nói năng gì và cũng chẳng ngạc nhiên chút nào trước lời thông báo của Ahmed. Bà nhủ thầm rằng có điều gì đó thật điên khùng đang ngự trị trong trí óc con trai bà. Bà không dám nghĩ rằng nó đã trở thành một con quỷ. Cách đối đãi xử thế của nó từ một năm nay đã biến nó thành một con người hoàn toàn khác, không thể nào nhận ra được nữa. Nó đã trở thành kẻ phá hoại, tàn nhẫn quá mức, và tóm lại thật là kì lạ. Bà ngước nhìn nó hồi lâu rồi hỏi: - Là ai vậy con? - Fatima… - Fatima là ai? - Fatima, em họ của con đây, con gái của chú con, em trai út của bố, người vẫn thường đắc thắng mỗi khi mẹ sinh ra một đứa con gái ấy mà… - Nhưng không thể được. Fatima thường xuyên ốm đau… lại mắc chứng động kinh và thọt chân… - Đúng như vậy đấy! - Ôi con đúng là một con quỷ mất rồi… - Không, con là con trai của mẹ không hơn không kém. - Nhưng con sắp làm cái điều tồi tệ nhất đấy! - Con chỉ biết vâng theo lời bố mẹ: mẹ và bố, các người đã vạch sẵn cho con một con đường; con đã đi theo con đường ấy, nhưng bởi quá tò mò, nên con đã đi quá xa một chút và mẹ biết con đã khám phá ra cái gì không nào? Mẹ có biết những gì tồn tại ở tận cuối con đường này không? Đó là một vực thảm đấy. Con đường hẳn sẽ dừng lại trên cao, trên một tảng đá thật lớn, tảng đá đang nghiêng xuống một vùng đất rộng mênh mông, nơi người ta thường quẳng những đồ bỏ đi. Và những thứ rác rưởi ấy đang được những dòng nước thải của thành phố tình cờ đổ ra tưới tắm và làm mục rữa; mọi thứ mùi cứ quyện vào nhau và nó không làm cho người ta buồn nôn mà làm cho người ta đam mê vì cái ác. Ồ! Nhưng mà mẹ cứ yên tâm, con chưa hề ở những nơi ấy đâu… Con chỉ tưởng tượng ra chúng, cảm nhận và nhìn thấy chúng mà thôi! - Còn mẹ, mẹ chẳng quyết định được điều gì hết cả. - Đúng là như vậy đấy mẹ ạ! Trong gia đình này, đám phụ nữ chỉ cuốn lại với nhau trong lớp phủ bùng nhùng của sự câm lăng…, họ chỉ biết có một điều là phải vâng lời…, các chị gái của con cũng biết vâng lời như thế; còn mẹ, mẹ thì cứ nín lặng và con thì cứ ra lệnh! Thật là một sự mỉa mai chua chát! Mẹ đã làm thế nào để không truyền cho những đứa con gái của mẹ, một hạt mầm mãnh liệt? Các chị ấy ở kia kìa, cứ đi đi lại lại, lướt qua lướt lại làm mòn vẹt những bức tường và chờ đợi một người chồng do ý Trời sắp đặt…, còn bất hạnh nào hơn thế cơ chứ! Mẹ đã thấy thân hình con rồi chứ? Nó đã lớn phồng lên rồi; nó đã khôi phục lại nơi trú ngụ của chính nó…, con cũng đã trút bỏ lớp vỏ bề ngoài đi rồi; nó thật mong manh và trong suốt làm sao. Con đã quen che giấu đi làn da. Cơ thể con đã lớn lên và con không còn say ngủ trong cơ thể, hình hài của một kẻ khác. Mẹ chẳng nói gì cả. Mẹ thật có lí. Con sẽ nói với mẹ một chuyện này nữa. Một số câu kinh Coran mà người ta đã bắt con phải học thuộc lòng ấy gần đây thường hay quay lại với con mà không vì một lý do nào hết. Chúng lướt qua đầu con, dừng lại một giây rồi lại tan biến đi. “Đây là điều mà Thánh Allar yêu cầu các người về phân chia tài sản cho những đứa con: phần của con trai phải bằng phần của hai đứa con gái gộp lại…”[5] Ôi! Nhưng mà con cũng chẳng cần nhớ đến những điều đó làm gì; con mặc kệ để cho gió cuốn chúng đi… Và con định lấy vợ, lập gia đình mẹ ạ, như người ta vẫn nói, một lò than hồng, ngôi nhà của con sẽ là một lồng kính trong suốt, chẳng có gì là to tát cả, chính xác chỉ là một căn phòng lắp thật nhiều gương hấp dẫn ánh sáng và thu nhận thật nhiều hình ảnh khác nhau… Trước hết, con sẽ đính hôn. Chúng ta sẽ không đốt cháy giai đoạn trước. Bây giờ, con sẽ viết, rất có thể những vần thơ tình cho người con gái đã chịu hiến sinh. Có thể đấy sẽ là cô gái ấy hoặc là con. Nào mọi người hãy chọn đi. Ôi các bạn đồng hành của tôi! Chúng ta đã để cho nhân vật của chúng ta tuột mất rồi. Trong kí ức của tôi, cậu ấy không thể trở thành một kẻ độc ác, thâm hiểm được. Tôi có cảm giác rằng cậu ấy đang bỏ rơi chúng ta. Bước chuyển hướng đột ngột này khiến tôi thấy thật lo ngại và tôi không biết điều ấy sẽ dẫn chúng ta tới đâu nữa. Tôi cũng phải thú nhận rằng điều đó cũng có tác động tới tôi! Nhân vật chính của chúng ta luôn bị đè nặng, bị ám ảnh bởi những lời nguyền rủa, bị biến đổi bởi những gã phù thủy ra tay làm phép. Sự tàn nhẫn, độc ác đã giúp cậu ta vượt qua tất cả. Các bạn có tin rằng, xin hãy nghe tôi nói đây, cậu ta là một gã đàn ông không bao giờ có một chút đắn đo, do dự, là một con quỷ không? Một con quỷ biết viết ra những vần thơ! Tôi nghi ngờ và tôi cảm thấy chẳng thoải mái, dễ chịu chút nào với khuôn mặt hoàn toàn mới mẻ này. Tôi quay trở lại với cuốn nhật kí. Màu mực đã phai lạt đi. Đâu đó, có những giọt nước mắt - có thể là những giọt nước mắt - làm cho trang viết trở nên không đọc nổi. Tôi phải vất vả lắm mới luận được chúng: “Trên hai cánh tay đau đớn nhức buốt của cơ thể tôi, tôi cố gắng kiềm chế cơn đau để có thể bước xuống thật sâu như để trốn chạy mọi nỗi đau khổ, âu lo. Tôi cứ để mặc cho mình trượt xuống theo một triền dốc định sẵn và tôi thấy thích thú, ngây ngất với những mùi hương kì diệu của thung lũng này biết bao. Bỗng nhiên, tôi giật nảy mình bởi tiếng hí vang của một con ngựa cái do kẻ vắng mặt gửi tới. Con ngựa màu trắng tinh trông mới tuyệt làm sao và tôi nhẹ nhàng khép lại hàng mi. Cơ thể tôi từ từ căng lên một ham muốn kì lạ. Tôi cố giữ lấy ham muốn ấy trong lòng bàn tay nhưng nó luôn luôn cưỡng lại. Con ngựa trắng biến mất vào khoảng không. Tôi thiu thiu ngủ trong cảm giác ấm nóng từ chính đôi tay của mình. “Có phải là biển đang thì thầm những lời tâm sự đằm thắm bên tai một chú ngựa hoang đã chết không? Và sự thật thì đó là một chú ngựa hay là một nàng tiên đây? “Nghi lễ nào của vụ đắm bị làn tóc biển cả đớp gọn đây? Tôi chợt khép mình lại trong một hình bóng và những đợt sóng lừng cứ thế rượt đuổi theo tôi. Tôi ngã xuống rồi ngất xỉu. Liệu rằng người ta có thể bị ngất đi ngay trong giấc ngủ, mất ý thức tự chủ và không còn nhận biết được những đồ vật không? Tôi đã xây ngôi nhà cho mình bằng những hình ảnh xoay tròn. Tôi không đùa đâu. Tôi cũng đang cố gắng để không vĩnh viễn rơi vào giấc ngủ ngàn thu và cả cuộc đời của tôi, ít nhất tôi cũng phải trả lời cho được câu hỏi: Tôi là ai? Và người kia là ai? Nó là một trận cuồng phong buổi sáng hay một cảnh quan bất động? Một chiếc lá run rẩy hay một làn khói trắng vờn bay phía trên một ngọn núi? Một tia nước mát lạnh hay một bãi sình lầy chỉ in nhưng dấu chân của những người đàn ông tuyệt vọng? Một cửa sổ hướng ra phía một vực thẳm hay mảnh vườn nằm ở phía bên kia của đêm tối? Một đồng tiền lẻ đã cũ rích hay một chiếc áo phủ lên một người đàn ông đã chết? Là một chút máu còn đọng lại trên đôi môi đan hé mở hay một chiếc mặt nạ đặt không đúng chỗ? Một bộ tóc giả màu vàng hoe chồng lên trên một mái tóc cũ màu xám xịt? Tôi ghi lại tất cả những ngôn từ này và tôi nghe thấy tiếng gió gào không phải là từ bên ngoài mà ngay ở trong đầu tôi; gió thổi rất mạnh và đóng sập lại mọi cánh cửa chớp, ngăn lấp lối tôi vẫn dùng để bước vào trong những giấc mơ của mình. Tôi nhìn thấy một cánh cửa đang bị nghiên xuống. Nó sẽ rơi xuống nơi mà tôi thường có thói quen đưa đầu mình ra để hứng lấy, đỡ lấy những cuộc sống khác, để vuốt ve ấp ủ những khuôn mặt khác, dù đấy là những khuôn mặt luôn tăm tối, u sầu hay vui vẻ thỏa thê, nhưng dù sao đi nữa thì tôi cũng vẫn rất yêu chúng, bởi vì chính tôi là người đã tạo ra chúng. Tôi đã tạo ra những khuôn mặt ấy thật khác với khuôn mặt của chính tôi, hình dáng xấu xí hoặc tao nhã tuyệt vời, ngời sáng trước ánh nắng của một ngày mới. Đôi khi, vẻ lạnh lùng của chúng như bỏ đi tìm kiếm ở một nơi khác. Tôi cầm những bàn tay. Tôi chọn lấy những bàn tay to và mỏng. Tôi siết chặt lấy những bàn tay ấy, hôn chúng và cứ thế tôi mút khắp lượt những ngón tay. Và tôi thực sự cảm thấy say sưa, ngây ngất. Những bàn tay không cưỡng lạ tôi một cách quyết liệt. Những bàn tay không thể nhăn mặt lại được. Còn những gương mặt thì trừng phạt sự tự do của tôi bằng cách lúc nào cũng nghiến răng ken két. Chính vì như thế mà tôi tìm cách tách chúng ra xa. Không quá thô bạo. Nhưng tôi đặt chúng sang một bên; và tôi xếp chúng lại thành một đống. Chúng nằm bẹp dí xuống đó, thở hồn hển đau đớn. Một số ít cuối cùng đã kêu lên được. Tiếng kêu của những con chim cú. Tiếng mèo kêu. Những tiếng nghiến răng kèn kẹt ghê rợn. Những khuôn mặt lạnh lùng. Không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà. Nhưng là những gương mặt mang một vẻ đẹp hoàn mĩ. Những bàn tay thậm chí cũng phản bội lại tôi, nhất là khi tôi cố gắng nối kết chúng với những khuôn mặt kia. Tôi sợ bị mất tất cả và tôi không muốn mình trong tình trạng dửng dưng với những người khác. Sự trần trụi của tôi là một đặc ân tuyệt vời của tôi. Tôi trở thành kẻ duy nhất ngắm nghía, và được quyền nguyền rủa nó. Tôi nhảy múa, xoay tròn, tay gõ nhịp, chân nện lên mặt đất. Tôi cúi xuống tấm nắp cửa, nơi tôi cất giấu những vật sáng tạo của mình. Tôi sợ bị ngã xuống và sợ bị nhầm lẫn với một trong những gương mặt không có lấy nổi một nụ cười kia. Tôi xoay người và bất giác cảm thấy chóng mặt. Mồ hôi rịn ra trên sàn. Cơ thể tôi vẫn nhún nhảy theo một điệu nhạc Phi Châu… Tôi lại lắng nghe điệu nhạc. Tôi nhìn thấy rõ trước mắt tôi hiện lên một khu rừng rậm rạp và tôi đang hòa vào đám đàn ông mình trần. Tôi quên mất ý nghĩ là tự hỏi xem mình là ai. Tôi khao khát trái tim mình có được giây phút bình yên êm ả. Tôi đang bị săn đuổi và tôi ghé mồm thổi vào ngọn lửa trong khu rừng. Không phải tôi đang ở châu Phi xa xôi mà ở trong khu nghĩa trang của biển cả, cái lạnh đang ngấm vào trong từng làn da, thớ thịt của tôi. Tất cả các ngôi mộ ở đây đều trống rỗng, đều bị lãng quên từ lâu. Ngọn gió rít lên rồi trở thành tù nhân của cái nghĩa địa này. Một chú ngựa khắp mình mang màu xanh thẳm của đêm tối đang chạy trong khu nghĩa trang. Đôi mắt tôi nhìn chằm chằm, dán chặt vào đầu chú ngựa không muốn rời. Bóng tối bao chặt lấy tôi, mang cho tôi cảm giác an toàn khó tả. Tôi được những bàn tay nóng ấm ghì chặt và ve vuốt trên lưng, tôi cố gắng đoán xem chúng là bàn tay của ai, nhưng điều chắc chắn là những bàn tay ấy không phải là của tôi. Tôi cảm thấy bị hẫng hụt nên đành lùi lại. Phải chăng đó chỉ là cảm giác mơ hồ nào đó xuất phát từ sự mệt mỏi và ý tưởng muốn quay trở về với chính tôi và ngôi nhà của tôi. Tôi muốn cười lên thật to, thật sảng khoái, vì tôi biết được rằng khi tôi phải chịu cảnh đơn độc, tôi sẽ không thể nào chiến thắng nổi nỗi sợ hãi. Người ta nói rằng đó là một nỗi kinh hoàng. Tôi cũng đã trải qua nhiều năm cố gắng làm cho nỗi sợ hãi quen dần với nỗi cô độc của tôi. Chính tôi là kẻ đã mong muốn, đã lựa chọn, đã yêu thích cuộc sống ẩn dật, cô độc này. Tôi sẽ chắt lọc từ trong cuộc sống cô độc đó những gương mặt và những bàn tay, những cuộc du ngoạn và những bài thơ. Từ chính sự đau khổ, tôi sẽ làm nên một tòa lâu đài, ở đó, không bao giờ có chỗ cho sự chết chóc. Thậm chí chẳng phải là tôi đẩy lùi sự đau khổ ấy đi, mà người ta còn cấm nó không bao giờ được đặt chân tới nữa, nhưng hình như bản thân sự đau khổ cũng thấy được sự hiện diện của nó như vậy là đủ lắm rồi. Chẳng cần đến một lực tác động mạnh mẽ nào cả, cơ thể này được hình thành từ những sợi cơ đã tích tụ quá nhiều đau khổ và làm cho chính cái chết phải e ngại. Đấy chính là sự tự do của tôi đấy. Nỗi lo sợ rồi cũng rời đi, chỉ còn lại một mình tôi phải chống chọi với chính bản thân mình cho tới tận lúc rạng đông. Sáng ra, tôi rơi vào trạng thái vừa mệt mỏi vừa xen lẫn những niềm vui không thể che giấu. Những người khác chằng hiểu gì hết. Họ không xứng đáng chia sẻ niềm vui của tôi. “Những đêm kì ảo thần tiên của tôi là như vậy đấy, thật tuyệt vời! Tôi cũng rất muốn sắp đặt những đêm tối ấy lên trên những mỏm đá cao và chờ đợi gió đến mơn man lay động nó, tắm gội cho nó, tách nó ra khỏi giấc ngủ, xua đi bóng tối ghê rợn, cởi bỏ hết quần áo chúng ra rồi cùng với tôi khoác lên mình bằng đám mây của những giấc mộng huyền ảo. Lúc bấy giờ, tất cả đều trở nên trong suốt, tinh khiết. Tôi như quên đi hết thảy mọi thứ rồi từ từ chìm đắm vào trong một cơ thể đầy sung mãn. “Tôi chẳng hỏi một ai nữa. Tôi uống cà phê và cứ sống như vậy. Không tốt mà cũng không xấu.Tôi chẳng hỏi thêm một ai nữa bởi vì những câu hỏi của tôi không có câu trả lời. Tôi biết điều ấy bởi vì tôi nhìn thấu được hai mặt của tấm gương. Thực tế, thì tôi chẳng nghiêm túc chút nào. Tôi chỉ thích chơi đùa, thậm chí tôi còn làm những điều chẳng ra đâu vào đâu nữa. Cách đây cũng đã lâu rồi, tôi còn là kẻ thờ ơ với mọi nỗi đau khổ, tôi chỉ nhìn chúng từ đằng xa, từ đỉnh điểm sự cô độc của chính bản thân mình. Thế cũng thật lạ lùng! Chính sự cứng nhắc, sự nghiệt ngã của tôi đã giúp tôi mở ra mọi cánh cửa và tôi không còn đòi hỏi gì hơn thế nữa. Tôi thích khoảng thời gian mà tôi có thể kiểm soát được. Bề ngoài, tôi có vẻ như bị bỏ rơi và thế là tôi trở thành một kẻ cứng nhắc, khắc nghiệt với mọi thứ. Tôi bước ra khỏi tuổi thơ ấu đầy những xáo trộn của mình sớm hơn dự định, tôi hối thúc hết người này đến người khác, tôi không cần tình yêu, nhưng cái mà tôi muốn, tôi cần lại là sự bỏ rơi. Tất cả mọi người đều chẳng biết gì hết. Từ đó làm nảy sinh nhu cầu cần thiết sống với địa vị của mình trong toàn bộ sự ghê tởm của nó. “Hôm nay, tôi lại thích thả dòng suy nghĩa của tôi về người phụ nữ tương lai sẽ là vợ tôi. Tôi chưa nói về những đòi hỏi, mong muốn hay khát khao mà tôi muốn nói về sự tận tâm, lệ thuộc của người phụ nữ ấy. Cô ta rồi sẽ đến, kéo lê một bên chân tội nghiệp, gương mặt dúm dó, ánh mắt đầy âu lo, thất thần mỗi khi tôi yêu cầu gì đó. Tôi sẽ bảo cô ấy lên phòng tôi rồi tôi sẽ kể cho cô ấy về những đêm dai đằng đẵng của mình. Tôi sẽ hôn lên bàn tay của cô ấy và sẽ nói rằng cô ấy là một người phụ nữ rất đẹp: sau nữa, tôi sẽ làm cô ấy phải khóc rồi sẽ bỏ mặc cô ấy trong cơn bệnh biến chứng; tôi sẽ quan sát cô ấy, xem cô ta xoay xở thế nào để chống chọi với cái chết, miệng sùi bọt mép, kinh ngạc, van xin: tôi sẽ hôn lên trán cô ta; cô ta bình tâm trở lại rồi đi về nhà mình và không quay trở lại nữa. “Tôi không phải là kẻ mang chứng bệnh trầm uất, chẳng qua, tôi đang cáu giận mà thôi. Tôi không buồn chán nhưng tôi lại là kẻ đang tuyệt vọng. Đêm tối chẳng cho tôi được một chút gì cả. Nó cứ lặng lẽ trôi qua mà tôi không nhận ra được. Tĩnh mịch, trống rỗng, đen ngòm.” Các bạn của tôi ơi, tôi đã nói với các bạn rằng cánh cửa này quá chật hẹp. Tôi đọc được trên khuôn mặt các bạn vẻ bối rối và lo lắng. Lời thú nhận này làm cho chúng ta hiểu thêm một chút nhưng nó cũng đồng thời tạo ra một khoảng cách với chúng ta và nó làm cho nhân vật của chúng ta ngày càng trở nên xa lạ. Từ rất nhiều những cuộc trao đổi thư từ khó hiểu sớm làm đảo lộn mọi dự định và cuộc sống của nhân vật chúng ta. Những bức thư được kí thác trong cuốn sổ nhật kí này không được ghi rõ ngày tháng. Tuy vậy, khi đọc những lá thư đó, người ta có thể xác định được chúng viết ra ngay ở thời kì mà chúng ta đến với câu chuyện. Mọi lá thư đều không có chữ kí hoặc giả nếu có thì cũng không thể nào đọc được. Đôi khi chỉ là một dấu chữ thập, những lần khác thì lại là chỉ có độc mỗi chữ viết tắt hay những dòng chữ Ả Rập xa lạ. Những chữ viết ra kia là của một người đàn ông hay một người đàn bà vô danh tính? Hay chúng chỉ do tưởng tượng ra thôi? Hay nhân vật của chúng ta viết cho chính mình trong những lúc đơn độc nhất?... Bức thư đầu tiên không ghi lại trong cuốn nhật kí. Chắc là nó đã bị thất lạc đâu đó. Bức thứ hai, đó là bức thư trả lời: “Lẽ ra tôi có một cuộc sống để trừng phạt như thế đấy! Bức thư của anh đã không làm tôi rất ngạc nhiên. Tôi đã đoán được anh làm như thế nào để biết được những chuyện riêng tư và uẩn khúc trong cuộc đời tôi. Anh cứ dằn vặt vì đã không gặp tôi hoặc nói ra những điều đó có thể là một sai lầm. Chính tôi, tôi cũng không phải là tôi nữa; có thể là tôi cũng có thể là một người khác! Nhưng hành vi của anh ẩn chứa trong những câu hỏi đó, sự bất cần của anh đã hòa trộn vào giấc mơ của tôi, đã biến anh thành một kẻ tòng phạm với tất cả những gì tôi có thể phạm phải hoặc gây ra như một sự bất hạnh. Chữ kí của anh nguệch ngoạc, cẩu thả, không thể nào đọc nổi. Thư thì chẳng đề ngày tháng. Phải chăng anh là thiên thần hủy diệt? Nếu đúng như vậy, thì hãy đến với tôi, có thể chúng ta sẽ cùng cười vang lên… Không địa chỉ! Những chữ cái đứng đầu! Quả thật là biết bao điều bí ẩn…” “Tôi đang tìm thấy bức thư của anh dưới viên đá tảng ngay lối vào khu vườn. Tôi cảm ơn anh đã trả lời tôi. Anh rõ ràng vẫn đang ở giữa ngã ba đường. Tôi chờ đợi anh đã lâu lắm rồi. Những câu hỏi của tôi hiển nhiên là không chính xác. Hãy hiểu cho tôi, tôi không thể vén bức màn che tấm căn cước của tôi mà lại không chuốc lấy một hiểm họa, nó có thể đem nỗi bất hạnh tới cho anh và tôi. Việc chúng ta gửi thư cho nhau cũng phải được giữ kín. Tôi tin tưởng vào sự cẩn trọng và kín đáo của anh. “Ý định dun dủi đưa tôi đến với anh được đóng dấu bằng cái không tưởng. Tuy thế, tôi vẫn thích được bước đi trên con đường này với lòng kiên nhẫn được nuôi dưỡng bằng niềm hi vọng trong mỗi giấc mơ, tôi đã gặp anh trong giấc mơ mỗi khi niềm đam mê dâng trào, những lúc như thế, tôi nhìn rõ được anh còn anh thì không nhìn thấy tôi; tôi nghe anh cất tiếng tâm tình với chính mình hoặc anh nằm ngủ trên những trang giấy trắng của cuốn nhật kí này, tôi nhìn anh rồi sẽ theo đuổi anh cho đến khi sức tàn lực kiệt, bởi vì, anh đi quá nhiều nơi, và chạy như một kẻ điên. Tôi chỉ mong anh dừng lại một lúc, một khoảnh khắc ngắn ngủi thôi, đề nhìn đôi mắt và lông mày của anh. Nhưng tôi chỉ có được một bóng hình mở ảo nơi anh mà thôi, và có thể như vậy sẽ tốt hơn!” “Vì anh cứ đến tận nhà tôi dò xét, quan sát mọi hành động và ý nghĩ của tôi nên tôi đã quyết định phải ra tay sắp xếp lại tất cả mọi thứ trong nhà. Căn phòng của tôi không được rộng lắm. Bên trong, những tấm gương đặt song song, ánh sáng của bầu trời, những cánh cửa sổ rộng và nỗi cô độc của tôi dường như làm cho căn phòng rộng lớn hơn gấp bội. Và tôi sẽ làm cho nó rộng lớn thêm bằng cách sẽ xóa sạch mọi dấu vết trong cuộc đời và trong kí ức ngập tràn những kỉ niệm của tôi, vì rằng, những điều mà thời gian làm đọng lại trong tầng kí ức không còn gây trở ngại, phiên toái nữa. (Mọi người nói đó là một góc của kí ức, nhưng tôi thì tôi biết rằng đó hẳn phải là một tầng vì có quá nhiều đồ vật được chất đống tại đó và chỉ chờ có một dấu hiệu nào đó sẽ sẵn sàng bung ra để chạy đến gây rắc rối phiền toái cho cuộc sống hiện tại của tôi). Lần tới anh đến đây, anh sẽ ngạc nhiên và thậm chí sẽ ngỡ ngàng đấy. Tôi không giấu giếm anh rằng tôi tìm mọi cách để quên anh, muốn anh biến đi đâu cho thật nhanh. Anh sẽ rơi vào tấm lưới dệt bằng chính sự can đảm của anh hoặc đơn giản là sẽ rơi xuống một cái hố bên vệ đường. Nhưng xin anh ở lại đây thêm chút nữa. Đừng để lạc mất nhau. Hẹn gặp lại anh!” “Tôi không có thời gian đến thăm anh và cũng không chắc là sự hiện diện của tôi có làm đảo lộn mọi thứ trong anh, Tôi vẫn thích được viết thư cho anh. Tôi sẽ không bàn về vẻ đẹp của anh cũng như về sự duyên dáng đang bao bọc xung quanh anh, tôi cũng không nói về những trò gian xảo, mưu mô của số phận của anh. “Tôi biết rằng anh rất muốn và đã sẵn sàng cho cuộc hôn nhân này. Một cử chỉ thật đẹp! Nhưng hình như tâm hồn anh đã bị lạc lối. Anh dám biến một con người đáng thương không chút phòng thân thành một nạn nhân ư? Không! Điều đó thật chẳng tương xứng với anh một chút nào. Tuy nhiên, nếu anh muốn làm điều gì đó xấu xa với một trong số những chú bác của anh thì tôi cũng có sẵn ý tưởng đề góp gió thành bão đây. Nhưng tôi tin chắc rằng thiên tài ẩn chứa trong con người anh có những tham vọng rất lớn khác nữa kia! “Chúng ta hãy dành những toan tính này cho mùa hè hoặc mùa thu nhé. Anh xem kìa mùa xuân đang ở bên chúng ta, dịu dàng gõ cửa trái tim chúng ta. “Tôi vẫn trú trong linh hồn của một kẻ vô danh, từ đó mọi đường ngang gõ thẳng đều có thể, nhất là những đường dẫn đến bên anh, đến với ý tưởng, tâm hồn anh và đến với dáng hình của anh đang duỗi dài bên tôi…” “Bố tôi là người đau khổ. Tôi phải từ bỏ mọi dự định. Tôi cảm giác rằng đây quả là một thời điểm cực kì khó khăn, ý nghĩ rằng một ngày nào đó bố tôi sẽ ra đi lúc nào cũng ám ảnh tôi. Khi nghe bố tôi ho nhiều, tôi thật đau lòng. Mẹ tôi thì hình như không được chuẩn bị gì cho cuộc thử thách nghiệt ngã này. Tôi rời căn phòng đến ngủ bên cạnh bố mẹ nhưng không thể nào ngủ nổi. Tôi chú ý tới từng nhịp thở của bố, canh chừng bố và khóc tấm tức cho số phận mình. “Hôm nay, tôi kể với anh về nỗi sợ hãi, đau đớn của tôi khi anh được đặt trong một chốn vô định, nhờ vậy tôi đến gần với anh hơn. Nhưng, tôi lại không muốn nhìn mặt anh, cũng không muốn nghe giọng nói quen thuộc của anh nữa. Hãy cứ để cho tôi đoán định diện mạo của anh qua những bức thư anh viết cho tôi. Đừng bực mình vì tôi trả lời anh muộn.” Thế là cuộc trao đổi thư từ bị gián đoạn tại đây nhường chỗ cho một sự kiện trọng đại hơn, một thử thách có tính chất quyết định hơn, một bước ngoặt quan trọng có thể làm đảo lộn cuộc sống nhân vật của chúng ta. Cái chết của người cha xảy ra trước một sự việc nho nhỏ, những âm mưu và toàn tính, sự việc này củng cố thêm ý chí của người kế thừa và trao cho nhân vật của chúng ta quyền thừa kế hợp pháp. Bab EL Had, như cái tên của anh ta đã chỉ ra điều đó, đó là một cánh cửa có giới hạn, bức tường được dựng lên đánh dấu chấm hết cho một hoàn cảnh nào đó. Đó sẽ là cánh cửa cuối cùng của chúng ta, bởi vì, nó đã được khép lại với chúng ta mà không báo trước. Còn tôi là kẻ kể cho các bạn nghe về bảy cánh cửa, đến ngày hôm nay, tôi thấy mình cũng đã vượt qua được chúng rồi. Câu chuyện của chúng ta không dừng lại ở ngay cánh cửa này đâu. Nó sẽ còn được tiếp tục, nhưng chỉ khác là nó sẽ không vượt qua được những cánh cửa bị đục ra trên một bức tường. Cánh cửa sẽ quay trong một khu phố thông nhau và chúng ta cần phải dõi theo nó ngày một thận trọng hơn. 6 CÁNH CỬA BỊ LÃNG QUÊN Bây giờ, chúng ta phải lẻn vào đó qua những lỗ hổng trên bức tường, đó chính là những lối vào bị lãng quên; chúng ta phải nhón bước trên đầu mũi bàn chân và chú ý lắng tai nghe. Ban ngày đã kết thúc, màn đêm đã buông xuống, đây chính là thời điểm mà ánh sáng vằng vặc, lung linh của mặt trăng không còn tỏa rạng lên câu chuyện của chúng ta, những vì sao tụ lại một góc của bầu trời và ngắm nhìn vạn vật đang đắm chìm trong giấc nồng. Các bạn thân mến của tôi ơi, tôi không dám nói với các bạn về Thượng Đế, đấng cao cả và lạnh lùng. Tôi vẫn còn nhớ, một nhà văn lớn đã từng nói và lời nói ấy vẫn còn khiến tôi tò mò: “Chúng ta không biết Đức Chúa đã đặt những dầu ấn của Người ở nơi nào, mà cuộc đời thì kín bưng như một tội lỗi.” Chúng ta tất thảy đều là nô lệ của Người và chúng ta luôn cảm thấy mệt mỏi. Phần mình, tôi chỉ là một người mù lòa khiêu vũ trên một khoảng đất trống, bất kì lúc nào, tôi cũng có thể ngã, và đó chính là sự phiêu lưu đấy các bạn ạ… Người cha đã chết, một cái chết chậm chạp. Thần chết viếng thăm ông vào một buổi sáng khi ông đang ngủ. Ahmed quán xuyến mọi việc một cách độc đoán. Cậu cho mời bảy người chị gái của mình đến và nói với họ đại loại như thế này: “Kể từ ngày hôm này, ta không còn là em trai của các chị nữa; ta cũng chẳng phải là cha của các chị, mà ta sẽ là một sát thủ của các chị đấy. Ta có nghĩa vụ và có quyền chăm sóc quán xuyến các chị. Các chị phải biết nghe lời và tôn trọng ta. Cuối cùng, chắc cũng không thừa, xin các chị nhớ cho rằng ta là một người đàn ông rất có kỉ luật và nếu như trong gia đình này, phụ nữ bao giờ cũng được đặt sau cánh đàn ông, thì đó không phải là vì Thượng Đế muốn hay Đấng Tiên Tri đã quyết định như vậy, mà là vì cánh phụ nữ các chị chấp nhận số phận này. Vậy thì các chị hãy cố mà chịu đựng và cứ thế mà sống trong im lặng!” Sau lời tuyên bố hùng hồn đó, Ahmed cho mời công chứng viên, các ông chú họ đến và quyết định về vấn đề kế thừa. Thế là trật tự mới đã được thiết lập. Ahmed, sau đây, nhận được thư ngắn đầy những lời an ủi. Vài ngày sau, Ahmed viết thư trả lời: “Dấu ấn của bố tôi vẫn còn lưu lại trên cơ thể tôi đây. Ông đã chết, nhưng tôi biết rằng ông sẽ lại về với tôi. Một tối nào đó, người sẽ từ ngọn đồi bước xuống, cứ thế, mở từng cánh cửa một trong thành phố. Dấu ấn này chính là dòng huyết nóng bỏng đang chảy trong cơ thể tôi, là con đường tôi đang theo đuổi mà không hề sợ lạc. Tôi không đau khổ. Nỗi đau của tôi cũng đang dần dần bị xóa nhòa trong kí ức. Nước mắt tôi cũng đã khô cạn. Những gì là ngây thơ, vô tội của anh cuối cùng đã mất đi một phần nhỏ. Con người tôi dường như đang biến thành một chất lỏng màu vàng lợt, nó gợi về nơi chốn và thời khác của cái chết. “Bây giờ, tôi là chủ nhân của ngôi nhà. Các chị gái của tôi, tất cả đều cam phận. Họ dường như tĩnh tâm và điềm đạm hơn bao giờ hết. Mẹ tôi thì tiếp tục giữ thái độ im lặng đến rợn người của ngày tang lễ. Còn tôi, tôi hoài nghi: tôi không biết sẽ mang được gì về từ tương lai: đồ vật nào, khu vườn nào, hay đêm bình yên nào. Tôi là một lữ khách, tôi không bao giờ say ngủ khi chưa qua được những con đường hẹp, tối tăm và xa lạ. Những con đường ấy đã được một bàn tay thân thuộc vạch sẵn - có thể là của tôi mà cũng có thể là của bố tôi - trên bãi biển trần trụi một màu trắng xóa, hoang vu, thậm chí đến gió cũng còn sợ sệt. Tương lai, chính là thế này đây, một pho tượng che mạng đơn độc bước đi giữa dải đất màu trắng mênh mông, một vùng đất đầy ánh nắng chói chang. Pho tượng ấy có thể là một người đàn bà đang chăm sóc những con ngựa trong cơn hấp hối, đằng xa kia, là phía cuối của con đường mà bố tôi đã vạch ra. “Hẹn gặp lại anh. “Tôi cần nhắc lại cho anh biết rằng, có thể anh không hiện hữu, rằng tôi không có khả năng để biểu lộ tình bằng hữu và tình yêu thì lại càng không. “TB. Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, qua cánh cửa sổ tôi quan sát xem trong khi ngủ say, bầu trời có dịch chuyển không và sao nó không tràn ra trong sân sau nhà như dòng nham thạch. Tôi quả quyết rằng một ngày nào đó mặt trời sẽ sa xuống nơi đây thiêu đốt tất cả những gì còn lại của tôi.” Trong khi người kể chuyện đang đọc bức thư này, một người đàn ông dáng cao ráo, mảnh dẻ cứ đi đi lại lại rồi bước ra khỏi chỗ, đi vòng quanh người kể chuyện, khua khoắng cây gậy như muốn phản đối hay muốn phát biểu chỉnh lý một điều gì đó. Sau đấy, ông ta ngồi vào giữa đám đông, tay vẫn cầm cây gậy, ông ta cất tiếng nói với tất cả mọi người có mặt ở đó: Người đàn ông này đã giấu các ông, các bà toàn bộ sự thật. Ông ấy sợ nói hết tất cả với các vị. Tôi chính là người đã kể lại câu chuyện này cho ông ta nghe. Câu chuyện thật khủng khiếp. Tôi không bịa ra mà đã chứng kiến nó từ đầu đến cuối. Tôi là một thành viên của gia đình. Tôi là anh trai của Fatima, vợ của Ahmed, mà thực ra, Fatima tội nghiệp chỉ đóng vai một bà vợ mà thôi, nhưng cô ấy cứ để mặc cho mình bị cuốn vào trong vòng quay chóng mặt của sự đồi bại mà đối với chúng ta, những con người nhân hậu, những tín đồ Hồi giáo trung thành, thì những tính nết ấy thật quá phức tạp. Về phía mẹ của Ahmed thì có khác, khi còn sống, bà có những bảy cô con gái lúc nào cũng sum vầy quanh bà. Họ cũng hay lui tới nhà tôi, lúc nào cũng vậy, mang tới khi thì quà cáp, khi thì một bó hoa thật lớn. Bà ấy thường hay rỉ tai mẹ tôi đại loại như: “Trong quá khứ, sự cùng chung huyết thống đã kết nối chúng ta lại với nhau, và bây giờ đây, một lần nữa, mối rằng buộc đó lại được củng cố vững chắc hơn nếu Thượng Đế muốn như vậy.” Rồi sau một loạt những cử chỉ, lời nói xã giao, bà ấy từ tốn, chậm rãi đánh vần từng chữ rành mạch tên Fa-ti-ma và còn cố nhắc lạ một lần nữa vì sợ mắc phải một sự nhầm lẫn ngốc nghếch nào đó. Mẹ tôi không cười nữa. Mẹ của Ahmed xin cưới Fatima bất hạnh cho con trai mình. Em gái tôi, một bên chân bị bại liệt và thường xuyên bị chứng động kinh hành hạ. Đây không biết là tin lành hay tin dữ đây. Ngay khi cái tên Fatima vừa nói ra một cách rành rẽ thì gia đình tôi đã cách li cô ấy bằng cách đem nhốt vào căn phòng trên gác. Gia đình chúng tôi không nói gì cả, chẳng đồng ý cũng chẳng phủ nhận. Chúng tôi chờ đợi một cuộc bàn tính với bố tôi. Mối quan hệ của hai gia đình từ xưa tới nay chẳng bao giờ tốt đẹp cả, đầy những ghen ghét, đố kị lại thêm vào đó là một cuộc chiến thầm lặng nhưng người ta luôn biết tạo vỏ bề ngoài để che đậy những điều xấu xa còn ẩn chứa bên trong. Đó là cái mà một số người gọi là đạo đức giả. Thực chất hai anh em nhà này chẳng yêu quý nhau là bao. Hai bà vợ cũng mặc nhiên đứng về hai phía với đức ông của họ. Tóm lại, cánh đàn ông thì ngấm ngầm ghét nhau còn đàm phụ nữ thì duy trì thường xuyên chê bai nhau bằng những lời độc địa mỗi khi họ gặp nhau ngoài nhà tắm hay trong các cuộc họp gia đình. Chăng ai nghĩ được rằng đến một ngày nào đó, cả hai gia đình sẽ được kết nối lại bằng một cuộc hôn phối. Bố tôi rất do dự. Ông ngờ rằng đằng sau cử chỉ này của Ahmed, rất có thể còn ẩn chứa một âm mưu nào khác. Vả lại, về nhân cách của Ahmed, chỉ riêng việc chả mấy khi trông thấy cậu ta ra ngoài, đã khiến bố tôi tò mò. Ông từng có những ý nghĩ không mấy đứng đắn và tốt đẹp về con người này, rồi lại tự trách mình đã nghĩ xấu về đứa cháu; ông chắp tay cầu nguyện và xin Thượng Đế mang lại cho ông sự công bằng, chân lí! Cả đời, ông luôn tính toán hòng chiếm đoạt hết mọi thứ của cải thừa kế của gia đình. Nhưng cho đến khi Ahmed chào đời thì mọi hi vọng, chờ đợi của ông chỉ còn lại là con số không vô nghĩa, ông ta đã làm đám tang cho sự chờ đợi này trong sự im lặng, và tự cảm thấy mình đúng là nạn nhân của những bất công của số phận hoặc không thì của một mưu đồ gì đó của định mệnh. Thời gian đầu, ông từ chối việc gả con gái mình cho Ahmed, nhưng sau đấy, thì ông lại có ý nói tất cả những điều ấy cho Fatima. Và chính Fatima lại muốn lấy chống. Cuối cùng, mọi người đành chấp nhận. Ahmed ra điều kiện rằng: Hai bên gia đình phải đứng ngoài cuộc hôn nhân này; cậu sẽ sống một mình với vợ. Fatima chỉ được ra khỏi nhà lúc cần đi tắm hoặc phải đến bệnh viện mà thôi. Ahmed có nghĩ đến chuyện sẽ đích thân dẫn vợ mình đến những bác sĩ có danh tiếng để có thể chữa khỏi bệnh cho cô. Vừa nói, Ahmed vừa lên mặt nghiêm giọng. Cậu nói những điều mà thoạt đầu mọi người không thể hiểu nổi, nhưng tư tưởng triết lý, những suy nghĩ khác thường của cậu. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ tất cả những điều ấy vì rằng cậu ta vẫn còn ám ảnh tôi và làm tôi khó chịu. Cậu ấy nói rằng: là người khách duy nhất của kẻ độc đoán, tôi phải bám víu vào vỏ bọc bề ngoài của tôi giữa điệp trùng muôn điều dối trá. Tôi đứng sau bức tường bằng thủy tinh hay pha lê trong suốt, nhìn ngắm cảnh buôn bán của mọi người diễn ra thật sôi động. Con người quá nhỏ bé nhưng luôn phải oằn mình lên bởi quá nhiều những áp lực khác. Lâu rồi, tôi đã từng cười cả chính tôi và người khác nữa, là con người đang nói chuyện với các người đây, là người mà tất thảy đều nghĩ rằng đã nhìn thấy và đã nghe. Tôi không phải là tình yêu, mà là một pháo đài bất khả xâm phạm, một điều kì diệu đang thối rữa. Tôi độc thoại và như thế rất có thể tôi sẽ làm mọi người rối tung lên bởi một thứ ngôn từ ấp a, ấp úng đầy vè kì dị của tôi… Rồi mọi người sẽ có được nhiều điều mới mẻ về tôi, chính xác về cái ngày tôi sẽ trở về bên Thượng Đế và đó sẽ là một ngày tốt lành và rực nắng, cũng là ngày mà chú chim non hồn hậu trong tôi cất cao tiếng hát ngọt ngào…” Chúng tôi thầm thì với nhau rằng Ahmed đã đi lạc đề mất rồi, rằng câu chuyện cậu ta đã đọc đã đẩy cậu ta vào trạng thái hoang tưởng. Cậu cứ nói, nói không ngơi nghỉ bằng những từ ngữ thật khó nghe, đầu tụt hẳn vào trong tấm áo choàng như đang cầu nguyện hay đang sẻ chia một bí mật nào đó với một kẻ vô hình. Diễn biến tiếp theo thế nào, các bạn thân mến của tôi ơi, các bạn không thể nào đoán được đâu. Người kể chuyện của chúng ta chỉ định đọc cuốn nhật kí của Ahmed để lại thôi. Ôi như thế thì quả là một sai lầm! Cuốn nhật kí rõ ràng đang tồn tại. Nhưng đó không phải là một cuốn sổ cũ kĩ ngả màu vàng dưới ánh nắng mặt trời mà người kể chuyện đã gói ghém kĩ lưỡng trong cái khăn quàng cáu bẩn kia. Vả lại, đó cũng chẳng phải là một cuốn sổ thật sự mà chỉ là một lần tái bản rẻ mạt của cuốn kinh Coran. Thật thú vị, ông ta đang đọc những câu chữ của Kinh Thánh và đọc nhật kí của một kẻ khùng điên, nạn nhân của những ảo giác của chính bản thân mình. Nhưng dù sao thì cũng đáng khen! Thật cam đảm! Thật mưu mẹo! Cuốn nhật kí của Ahmed đang ở chỗ tôi; hoàn toàn bình thường, bởi vì tôi đã ăn cắp cuốn nhật kí ngay sau ngày Ahmed qua đời. Đây này, nó đang được gói trong một tờ báo cũ thời đó, các bạn có thể đọc ngày tháng mà xem… Nó trùng với ngày Ahmed ra đi phải không? Người kể chuyện của chúng ta thật giỏi giang. Những gì ông ấy đang đọc cho chúng ta nghe xứng đáng được ghi vào trong cuốn sách này. Các bạn đồng hành thân mến của tôi ơi, đừng vội đi nhé! Hãy chờ thêm chút nữa, nhẫn nại và hãy nghe tôi nói đây, tôi thuộc về câu chuyện này, tôi đang trèo lên chiếc thang bằng gỗ này, xin các bạn hãy kiên nhẫn nhé, hãy chờ cho tôi ngồi xuống chắc chắn ở phía trên sân thượng, tôi trèo lên những bức tường của ngôi nhà, trèo lên ngồi trên tấm chiếu ở sân thượng một màu trắng toát, rồi tôi mở cuốn nhật kí kể cho các bạn nghe về câu chuyện kì lạ nhưng vô cùng đẹp đẽ này, về Fatima, người con gái bất hạnh được Chúa ban cho ân huệ và về Ahmed đang bị giam hãm trong màn sương khói của cái ác, là câu chuyện về đạo đức trong sáng đang bị hàng ngàn mũi tên độc xuyên thủng làm cho đau đớn. Các bạn đồng hành thân mến, hãy đến đây với tôi, đừng vội vã như thế, đừng chà đạp lên người kể chuyện của chúng ta như thế, hãy để cho ông ấy đi, hãy trèo lên những chiếc thang này, chú ý gió đang thổi mạnh đấy, hãy đứng lên nào và hãy leo lên những bức tường bao quanh đó, cố căng tai ra mà nghe, mở thật to mắt ra mà nhìn rồi chúng ta sẽ cùng nhau tiếp bước không phải trên một tấm thảm êm ái hay trên một đám mây bồng bềnh mà trên một tấm nệm dày đặc những câu chữ nhiều màu sắc và âm điệu. Câu hát mà các bạn đang nghe chính là câu hát mà Ahmed thích vô cùng. Nó vọng lại từ một nơi rất xa xăm từ tận phía Nam, vượt qua những rặng núi cao để đến nơi này. Câu hát thật buồn bã. Hình như là mặt đất đang nhẹ nhàng cựa mình rồi lần lượt nâng lên những tảng đá lớn và cho chúng ta nghe rõ tiếng rên rỉ vặn mình của một cơ thể đang bị chà đạp. Mọi người im lặng quá và tôi thấy trên gương mặt của các bạn có vẻ gì đó thật nghiêm trọng. Này các bạn, tôi nhìn thấy từ đằng xa người kể chuyện già nua của chúng ta đang quay trở lại. Ông sẽ ngồi với chúng ta. Vâng, xin được hân hạnh chào đón ông. Tôi chỉ làm có mỗi một việc làm dõi theo câu chuyện ông kể mà thôi. Có thể, tôi đã làm cho ông đánh mất thứ tự. Xin ông hãy tha thứ cho những cử chỉ thiếu kiên nhẫn của tôi. Chính lời bài hát đã đưa ông trở lại và nó đưa tất cả chúng ta trở về với mặt đất. Ông hãy lại gần đây; đến gần chỗ tôi đây này. Như thế, ông mới có thể bước được vào câu chuyện này. Bây giờ, tôi sẽ đọc cuốn nhận kí của Ahmed đang mở ra hay đang tiếp tục, tôi cũng không biết nữa, ở phần còn lại đang bỏ ngỏ: “Tháng ngày trôi qua là những viên đá cuội vô tri vô giác, cái nọ đè lên cái kia, xếp thành một đống…” Đó là lời thú nhận của một người đàn ông đang mang trong mình vết thương lòng khó xóa; anh ta muốn trao gửi cuộc đời mình vào một nhà thơ tài ba. 7 CÁNH CỬA BÍT KÍN Hai người đàn bà đã có tuổi dáng vẻ lạnh lùng và khô cứng, ánh mắt xét nét và buồn thảm đi cùng Fatima. Không ồn ã, cũng chẳng nổi đình đám gì, họ đang phải làm cái việc chả lấy gì làm vui vẻ là đưa đến cho tôi người con gái sẽ có phận sự trở thành một người vợ và một người đàn bà của gia đình. Trong làn áo choàng màu trắng, cô gái có đôi mắt luôn chỉ biết nhìn xuống; rồi khi cô dám cả gan ngẩng mặt nhìn lên thì hai người đàn bà kia ngay lập tức sẽ ngăn cản không cho phép cô làm như vậy. Ôi, sự kín đáo, e lệ, bẽn lẽn là như thế đấy! Là không được nhìn vào người đàn ông đối diện; là không được cưỡng lại ánh mắt phục tùng, quy thuận, một phần là bởi nghĩa vụ, và hiếm khi bởi sự kính trọng hoặc vì sự xúc động nào đó. Hai người đàn bà kẹp chặt hai cánh tay làm cho cô gái đau điếng. Hai người vội vã rảo bước, kéo lê cô gái trong nhịp chân gấp gáp và cương quyết. Nhưng cô gái hình như vẫn còn chưa quyết định được điều gì cả. Cô ấy thậm chí không thể mơ tưởng đến cả tình yêu nữa. Cô cũng không muốn dấn thân vào những ảo tưởng này. Cơ thể cô đang phản bội lại cô, nó bỏ rơi cô giữa tuổi tràn đầy sự trẻ trung, khát khao mãnh liệt. Những con quỷ trong thế giới xa lạ thường rất hay trỗi dậy, len lỏi vào trong huyết quản, làm cho cơ thể bị rối loạn; quay cuồng, chợt dến, chợt đi, thật bất bình thường. Dòng máu trong người luôn làm cô khó thở, khiến cô gục ngã và không tự chủ được bản thân mình. Cơ thể của cô đã bỏ đi, xa lánh ý thức, nó mải miết với những động tác múa máy chân tay không thể kiểm soát nổi, đơn độc chống chọi với gió và những con quỷ kia nữa. Người ta bỏ mặc cô phải tự xoay sở, gỡ rối những mối dây ràng buộc. Rồi thì cơ thể cô cũng chậm chạp trở về với cô, về đúng vị trí và chức năng của nó một cách mệt mỏi, thất thần, đau đớn, nhức nhối. Cô nằm dài nghỉ ngơi trên nền đất. Cô thầm cảm ơn Chúa đã mang lại cho cô quyền được hít thở một cách bình thường như bao người khác, được đứng dậy, bước đi và chạy nhảy trên phố. Tất thảy mọi người trong gia đình đều đã quen với việc nhìn thấy cô đập đầu liên hồi vào những bức tường vô hình. Chẳng ai xúc động và lo lắng gì cho cô cả. Họ còn nói rằng “Này! Hình như cơn động kinh hôm nay còn dữ và mạnh hơn dạo trước… chắc là trời nóng quá thôi!...” Và suốt ngày, cô phải chống chọi với những cơn co giật trong nỗi cô đơn buồn tủi và tất cả mọi chuyện đều đã được an bài. Các anh trai, chị gái của cô, họ đều có vị trí, đầy những dự định cho tương lai, vui mừng thực hiện những dự định của họ, đôi khi họ bực tức vì không có đủ tiền để khoe mẽ với xã hội, hơn nữa, bọn họ cũng phiền lòng vì có cô em gái chỉ mang đến những điều phiền toái, một nốt lạc điệu trong một bản giao hưởng. Cuối cùng, Fatima cũng đã tìm được một chốn yên thân cho mình: một căn phòng không có tiện nghi, gần sân thượng. Mọi người thường quên mất sự hiện diện của cô trong ngôi nhà này. Tôi đã từng bắt gặp hai hoặc ba lần gì đó cô ấy đang khóc, khóc vô cớ, khóc để quên đi, để giết thời gian. Cô rất buồn thảm, bởi vì, chẳng có một ai trong gia đình tỏ vẻ yêu thương trìu mến cô, suốt ngày, cô đắm chìm trong một không gian chật hẹp bủa vây bởi những mối u sầu thương thảm. Bị hiến sinh và chán bản, sự hiện diện của cô trên cõi đời này cũng là một sai lầm đáng tiếc, hoặc là một sự nguyền rủa căm hờn về một cuộc sống đơn điệu, nhàm chán quá ư chật hẹp. Cô được đặt hoặc được bó chặt vào cái bàn đặt ở tít tận góc sân, nơi chỉ có đầy chuột và đám ruồi nhặng bu bám. Cô ấy có đẹp không? Cho đến bây giờ, tôi vẫn vấn vương điều ấy. Phải thú thật rằng khuôn mặt cô ấy đã có nếp nhăn từ rất sớm, những nếp nhăn ấy có vẻ càng hằn sâu hơn mỗi lúc cơn bệnh đến thường xuyên hơn và hành hạ cô dữ dội hơn. Những đường nét của khuôn mặt lúc nào cũng dúm dó, khổ sở, ít khi giữ được nét thanh tú riêng của nó. Được cái, đôi mắt cô ấy rất sáng, mỗi khi chúng không bị những giọt nước mắt làm cho ẩm ướt, đôi mắt ấy tỏa ra một ánh nhìn thật dịu dàng, nó trở thành điểm sáng nhất trên gương mặt. Cô gái có cái mũi nhỏ, xinh xắn, hai gò má đầy những nốt tàn nhang li ti biểu hiện tuổi đang lớn. Cái mà tôi không thể yêu ở cô gái này chính là cái miệng, cứ mỗi khi cơn động kinh đến hành hạ là nó lại méo xệch, nó nhăn nhó, rúm ró tựa hồ như một dấu phẩy khổng lồ trên trang giấy trắng tinh. Thân hình cô ấy có vẻ rất rắn rỏi, rắn chắc và cứng cáp mặc dù chân phải của cô rất yếu. Đôi nhũ hoa nhỏ bé, xung quanh là vài chiếc lông tơ mới nhú. Khi tôi ôm ghì cô ấy vào lòng để an ủi, vỗ về những phiền muộn của cô ấy, lẽ dĩ nhiên, không phải để biểu lộ một ham muốn tình dục, tôi có cảm giác hình như cơ thể của cô co rúm lại như chỉ còn là một khung xương biết cử động, nó đang cố giãy giụa, vật lộn hòng chống chọi những bóng ma hoặc những cái vòi bạch tuộc vô hình nào đó. Tôi cảm nhận được từ nơi cơ thể ấy sự nóng ấm, sự khát khao cháy bỏng, rắn rỏi và cương quyết chiến thắng tất cả để tồn tại, để sống, để được hít thở một cách bình thường, để có thể chạy nhảy, bơi lội và vượt lên, như một vì sao nhỏ lấp lánh, trên những ngọn sóng bạc đầu cao vút và đẹp đẽ vô cùng. Tôi còn nhận thấy cơ thể đó đang chống chọi với tử thần bằng những phương tiện mà mình đang có: tinh thần và máu. Cô gái luôn bị những cơn xuất huyết. Cô ấy nói rằng máu của cô đang nổi giận và bảo rằng cô không xứng đáng được mang dòng máu đó, để mà biến nó thành một cái gì đó thật hữu ích. Cô ấy không muốn có con, mặc dù đêm nào cũng vậy, có rất nhiều bé con xuất hiện trong giấc mơ của cô. Cô ấy ngủ bên cạnh tôi, gối đầu lên cánh tay của tôi, ngón tay ngậm trong mồm, toàn thân thư giãn và tĩnh lặng. Ngay ngày đầu tiên về nhà tôi, cô ấy đã thầm thì với tôi tựa hồ như một lời tâm sự sẻ chia thầm kín: “Cám ơn anh đã đưa em ra khỏi ngôi nhà kia. Chúng ta sẽ là anh trai và em gái. Anh có được tâm hồn em và trái tim của em, nhưng cơ thể em lại thuộc về cát bụi, về ma quỷ đã từng hành hạ, dày vò nó!...” Ngay sau đó, cô ấy thiu thiu ngủ và tôi chỉ còn lại một mình để suy ngẫm về những lời nói ấp úng lúc đầu hôm. Tôi bắt đầu nghi ngờ về chính bản thân mình, về diện mạo về ngoài của tôi. Liệu cô ấy có biết tất cả không nhỉ? Hay cô ấy muốn nói trước những gì mà tôi đã cố công chuẩn bị bằng tất cả trí lực của mình mong báo trước cho cô ấy mà không tiết lộ ra những bí mật của tôi. Thật kì lạ! Cuối cùng, thì tôi chỉ nghĩ rất đơn giản rằng từ lâu lắm rồi, cô ấy đã tự mình khước từ và gạt bỏ đi tất cả bản năng giới tính, cô ấy đã chấp nhận cuộc hôn nhân này khi nghĩ rằng nếu tôi đòi hỏi cô ấy điều đó thì đấy không phải là vì tình yêu mà đó là do sự sắp xếp của xã hội, của tạo hóa để che giấu đi một sự thiếu sót, mất mát hay một điều gì còn khủng khiếp hơn thế nữa. Rõ ràng, cô ấy đã nghĩ rằng tôi là một kẻ đồng tính luyến ái, kẻ luôn cần một lớp vỏ bọc để bịt lại những lời gièm pha, đàm tiếu hoặc là một kẻ bất lực luôn muốn cố cứu lấy diện mạo của mình. Cuộc đời tôi rồi cũng sẽ trôi qua bằng chính trò chơi với mọi diện mạo bên ngoài, ngay cả với những cái mà có thể đã là thực tế, cái đã làm xuất hiện ở tôi một khuôn mặt thực sự, trần trụi, không mặt nạ, không lớp vải che, lồ lộ một khuôn mặt rất bình thường, chẳng có gì là đặc biệt để mà không phân biệt được với những người khác. Tôi không phải là không hài lòng và nhận thấy rằng chính sự táo bạo đã sắp xếp cho tất cả mọi điều tốt đẹp. Tôi cho người đặt trước một chiếc giường cho cô ấy đối diện với giường của tôi và chăm sóc cô ấy bằng tất cả những gì tôi có thể. Chẳng bao giờ cô ấy trút bỏ y phục trước mặt tôi, cả tôi cũng không làm như thế. Chỉ có sự bẽn lẽn, e lệ trong trắng ngự trị trong căn phòng lớn này của chúng tôi. Một hôm, tôi ngắm nhìn cô khi cô đang say giấc nồng xem cô có bị cắt bỏ hay may ghép môi âm đạo không. Tôi nhẹ nhàng nâng tấm chăn và phát hiện ra rằng cô ấy mặt một loại quần vải thô bao chặt xung quanh bụng dưới giống như một loại quần lót chắn chắn, cứng còng làm nản lòng mọi ham muốn hoặc khiêu khích kẻ muốn đạt được sự thỏa mãn thì phải cất công khó nhọc. Sự hiện diện của Fatima làm tôi rất bối rối. Ban đầu, tôi cảm thấy rất thích thú với những khó khăn và phức tạp, rối ren của tình hình. Sau đấy, tôi bắt đầu mất hết lòng kiên nhẫn. Tôi không còn làm chủ được cái vũ trụ bẻ nhỏ và nỗi cô độc của tôi nữa. Con người tội nghiệp, đáng thương đang ở bên cạnh tôi đây, sự xâm nhập này là do chính tôi bày đặt vào trong những điều bí mật, thầm kín của tôi, người đàn bà dũng cảm và tuyệt vọng này không còn là một người đàn bà nữa, cô đã trải qua một con đường khổ ải, đã chấp nhận chịu rơi xuống vực thẳm với lòng mong muốn làm thay đổi con người đang ẩn giấu bên trong, cởi bỏ cái mặt nạ cho nó, cắt bỏ nó đi. Người đàn bà này không hề cầu mong trở thành một người đàn ông, mà khao khát mình chả là cái gì cả, hay chỉ là một cái thùng rỗng, một thứ vô tình, một nỗi đau đớn giăng đầy trong tinh thần và thân thể mình. Người đàn bà này hầu như không bao giờ nói, thỉnh thoảng chỉ thì thầm to nhỏ một hai câu gì đó rồi lại thôi, suốt ngày lúc nào cũng khép mình trong câm lặng, thường hay đọc những cuốn sách chất chứa những điều bí ẩn, khi ngủ không bao giờ gây ra một tiếng ồn dù là nhỏ nhất. Cô ta ngăn cản mọi giấc ngủ của tôi. Rồi đến lúc chẳng hiểu bao giờ, tôi thường ngắm nhìn cô ấy đắm chìm trong giấc ngủ, tôi nhìn đắm đuối, có cái gì đó thật bí ẩn khiến tôi dán chặt mắt vào cô ấy cho đến khi mắt tôi nhòa đi làm mờ tất cả những đường nét, đường cong mềm mại trên khuôn mặt cô và rồi tôi hòa vào trong những suy nghĩ sâu thẳm đang bị chìm khuất trong cảnh tối tăm của cô lúc nào không hay. Tôi như mê sảng trong sự tĩnh lặng lạ kì khi bắt kịp những dòng suy nghĩ của cô ấy và thậm chí còn nhận ra chúng quá quen thuộc cứ như chính tôi là chủ nhân của chúng vậy. Đấy cũng là tấm gương phản chiếu chính tôi, là nỗi ám ảnh và sự yếu mềm của tôi. Trong sâu thẳm của màn đêm tĩnh mịch, tôi nghe thấy tiếng những bước chân của cô ấy chậm chạp bước trên tấm sàn gỗ cũ kĩ nghe cọt kẹt. Đúng ra thì đó không phải là tấm sàn gỗ, nhưng, tôi cứ mường tượng ra thứ âm thanh, thứ âm thanh đó đang vẽ lên những đường nét trên sàn gỗ, và sàn gỗ đang trải rộng ra trước mắt tôi một màu sáng loáng bóng của loại gỗ cũ kĩ, thứ gỗ được góp nhặt lại từ một ngôi nhà hoang tàn mà những lữ khách vội vã đã bỏ quên. Ngôi nhà ấy chính là ngôi nhà cổ kính trong khu rừng nọ, bao quanh nó là rất nhiều những cây sồi đã bị tàn phá bởi thời gian; tôi trèo lên một trong những cành cây vững chãi nhất còn sót lại và cuối cùng, tôi đã trèo lên được mái nhà đầy những lỗ thủng này và ánh mắt tôi dõi theo những vết dấu chân còn in hình trên lớp bụi, những dấu vết ấy dẫn tôi đến một căn hầm nơi có những chú chuột và những con vật khác mà tôi không biết tên đang cùng chung sống vui vẻ. Cái căn hầm tối tăm chẳng khác gì một cái hang thời tiền sử đó chính là nơi mai táng những ý tưởng, nghĩ suy của người đàn bà đang ngủ cùng phòng với tôi, người mà tôi dồn ánh mắt mình vào đó với một thứ tình cảm lẫn lộn, thương hại, trìu mến, cáu giận, tất cả được hòa quyện trong một cơn xoáy lốc, trong cơn xoáy lốc đó, tôi mất đi tri giác và lòng kiên nhẫn trước mọi việc, trong cơn xoáy lốc đó, tôi càng ngày càng trở thành kẻ xa lạ, lãnh đạm với chính số phận và những dự định của chính mình. Sự hiện diện dù căm lặng này, quả cân khi nặng, khi nhẹ này, cái sự hít thở khó khăn này, thứ đồ vật gần như không động đậy gì cả này, ánh mắt lúc nào cũng khép lại này, cái bụng như teo tóp này, bộ phận sinh dục hình như không tồn tại, luôn chối từ mọi ham muốn sinh lí này, con người này chỉ biết sống là để phải vật vã trong những tiếng kêu la, gào thét của căn bệnh động kinh, để đụng được những ngón tay vào khuôn mặt héo úa và lờ mờ của cái chết, rồi để tìm về cái hang động ẩn chứa những suy nghĩ chẳng buồn thảm mà cũng chẳng thú vị gì, mà chỉ đơn giản là chúng được đặt thành từng mớ rách bươm trong một cái túi đan bằng sợi đay. Lũ chuột đã cố gắng hết sức hòng chén sạch món tư tưởng đựng trong chiếc túi ấy nhưng cuối cùng chúng phải từ bỏ vì những thứ đó đã bị nhiễm một loại độc tố có tác dụng bảo vệ và giữ gìn cho chúng được nguyên vẹn. Cô ấy có thói quen ngủ rất nhiều và mỗi khi thức dậy, thường giam mình rất lâu trong phòng tắm, nhờ người giúp việc trao cho vài thứ lặt vặt, rồi một lẫn nữa, lại tự cô lập mình. Cô chẳng bao giờ hòa đồng với các chị gái của tôi, không bao giờ chấp nhận bất cứ một lời mời mọc nào và buổi tối, khi tôi trở về nhà, cô ấy thì thầm với tôi những lời cảm ơn, cứ như là cô ấy nợ tôi một cái gì đó. Các bà chị tôi không bao giờ hiểu nổi ý nghĩa của cuộc hôn nhân này. Mẹ tôi thì chẳng dám hé nữa lời nói với tôi về điều đó. Còn tôi, tôi cố gắng coi sóc, trong khả năng có thể, những công việc mà bố tôi còn bỏ dở. Dần dần, sự đắn đo và chứng mất ngủ đã chiến thắng tôi. Tôi muốn tách mình ra khỏi Fatima mà không làm cho cô ấy bị tổn thương. Và để đạt được ý nguyện ấy, tôi đã chuyển cô ấy sang một căn phòng khác cách xa phòng của tôi, rồi tôi bắt đầu, dù là rất chậm chạp, căm ghét cô ta. Tôi vừa mới bị đẩy vào một nơi không mấy thuận lợi trong cuộc hành trình mà tôi đã cố công chuẩn bị và phát động. Người đàn bà này, bởi vì bị tật nguyền nên tỏ ra mạnh mẽ, cứng cỏi và nghiêm khắc hơn tôi nghĩ. Tôi từng muốn sử dụng cô ấy như một thứ công cụ để hoàn thiện hơn diện mạo của tôi với xã hội, nhưng chính cô ấy lại là người sử dụng tôi tới mức hoàn hảo nhất và làm cho tôi ngày càng bị lún sâu vào nỗi thất vọng của cô ấy. Tôi ghi lại chuyện này và tôi cảm thấy chưa chắc chắn về ngôn từ cho lắm vì rằng tôi vẫn còn chưa biết hết tất cả sự thật. Người đàn bà này có một trí thông minh đặc biệt. Một lời nói mà cô ấy đã giữ im lặng, tất cả những hành vi kiệm lời mà cô ta đã có chủ đích, rồi cuối cùng đã được thổ lộ ra trong niềm tin không gì lay chuyển nổi của cô ta và củng cố những kế hoạch và dự định của cô ấy. Cô ấy đã từng chối bỏ cuộc sống, chắc chắn sẽ tìm đến một nơi quên lãng, đến nơi mọi vật cứ dần tàn lụi rồi biến mất. Đó chẳng phải là do một cái chết đột ngột, mà là một bước lùi chậm chạp về phía cái hố đang ngoác miệng phía sau đường chân trời. Cô ấy không dùng tới thuốc nữa, ăn ít và hầu như căm lặng. Cô ấy muốn chết và đưa tôi đi theo cô ấy xuống vực thẳm. Ban đêm, cô ấy xâm chiếm cả căn phòng tôi và bám víu vào mép giường tôi trước khi cơn động kinh lại ập đến. Cô ấy kéo tay tôi cho tận tới khi tôi buộc phải nằm xuống cạnh cô ấy hoặc bằng tất cả vốn sức lực của mình, cô ấy bóp cổ tôi cho đến khi tôi ngạt thở, mong sao có thể đẩy bật được đám ma quỷ đang khuấy đảo trong người cô ấy. Sự việc như thế mỗi một lần lại kéo dài hơn một chút. Tôi không biết phải phản ứng như thế nào nữa, cũng không biết phải tránh những sự việc khủng khiếp đó như thế nào. Cô ấy nói với tôi rằng tôi là chỗ dựa duy nhất của cô ấy, là người duy nhất mà cô ấy yêu quý và cô ấy muốn rằng tôi lúc nào cũng sát cánh bên cô trong mỗi lần thất bại của cô. Tôi chẳng hiểu gì cả cho đến tận một ngày, khi cô ấy sà vào giường tôi trong khi tôi đang ngủ và dịu dàng vuốt ve lên phần bụng dưới của tôi. Tôi bị đánh thức đột ngột, nhảy dựng lên, hất cô ấy ra một cách phũ phàng. Tôi thật sự cáu giận. Lần đầu tiên, cô ấy nở trên môi một nụ cười nhưng nụ cười này không làm cho tôi an tâm một chút nào cả. Tôi không thể chịu đựng nổi cô ta nữa. Tôi chỉ muốn cô ấy chết quách đi cho rảnh. Tôi oán giận vì sao cô ấy lại bị tật nguyền, oán thù vì sao cô ta lại là một mụ đàn bà, và vì sao cứ ở lì ra đó, tôi nguyền rủa cô ta nhằm thỏa mãn lòng độc ác, những toan tính và sự thù hằn chính bản thân tôi. Một buổi tối, cô ấy nói với tôi, đôi mắt của cô đã nhuốm màu u tối, khuôn mặt lộ vẻ thanh thản nhưng nhợt nhạt, cơ thể bé nhỏ cuộn tròn lại bên góc giường, đôi tay lạnh giá và dịu dàng hơn lúc nào hết, cô ấy nói với tôi, trên môi nở nụ cười cố làm vẻ tươi tỉnh: “Từ lâu, em đã biết anh là ai, chính vì điều đó mà em đã đến chết ở đây, chị gái và chị họ thân yêu của em ạ. Cả hai chúng ta đều đã được sinh ra, phải nghiêng mình soi bóng trên một phiến đá dưới đáy của một cái giếng cạn, phải gập mình lại trên một mảnh đất cằn cỗi, bị vây hãm bởi những ánh mắt không chút thiện cảm và tình thương yêu. Chúng ta đều là những người đàn bà trước khi bị tật nguyền như thế này hoặc chúng ta bị tàn tật thế này bởi vì mình là đàn bà…, em biết rõ vết thương lòng của chúng ta… Nó là của chung đấy… Em sẽ ra đi… Em là vợ anh và anh là chồng em… Rồi anh sẽ trở thành góa bụa và em… Cứ cho rằng em là một sai lầm… không nghiêm trọng lắm, là một chuyến lang thang ngắn ngủi bất động phải không nào… Ôi, em nói nhiều quá… em chả còn chút tỉnh táo gì nữa! Chúc ngủ ngon nhé… hẹn gặp lại trong một ngày gần đây…” Mãi sau, một giọng nói từ xa vẳng lại: “Hãy tiếp nhận cái dị hình của em trong cái vực thẳm đầy tình thương bao la của anh.” 8 CHỐNG LẠI MỌI ĐIỀU ĐỊNH SẴN Các bạn ạ, vậy là Ahmed đã trở thành góa bụa! Trong cuộc đời anh ta, đây là một giai đoạn thật cực nhọc, rối rắm và khó hiểu làm sao. - Ồ không! Nó hoàn toàn lô-gích đấy thôi! Một người đàn ông trong đám cử tọa phản ứng. Anh ta đã sử dụng người đàn bà tật nguyền đáng thương này để tự trấn an mình và củng cố thêm bức chân dung về mình. Điều ấy lại gợi cho tôi nhớ đến một câu chuyện khác xảy ra vào hồi cuối thể kỉ trước ở miền nam nước ta. Cho phép tôi kể nhanh cho các bạn nghe về câu chuyện này: một vị thủ lĩnh chiến binh tên là Antar, một con người rất tàn bạo, thô lỗ, một kẻ luôn gieo rắc nỗi khiếp đảm cho bọn phạm tội, tiếng tăm của ông ta đã vượt cả ra ngoài bộ tộc và bờ cõi của mình. Ông ta ra lệnh cho những người dưới quyền mà không cần phải lớn tiếng, không cần phải đốc thúc gì ở họ cả. Bằng giọng nói nhỏ nhẹ nhàng nhưng cực kì tương phản với những gì ông ta nói, ông ta ra lệnh và luôn được mọi người vâng lệnh, chấp hành. Ông ta có quân đội riêng, chống lại bất kì kẻ can thiệp nào mà không bao giờ làm phật ý những nhà cầm quyền trung ương. Ông ta luôn được người khác sợ hãi và kính nể. Antar không tha thứ, nhân nhượng cho một sự hèn kém, yếu đuối hay bất lực nào của những kẻ thuộc quyền. Ông truy tầm và trừng phạt những kẻ hối lộ và những kẻ bị mua chuộc, sử dụng quyền lực và công lí cá nhân nhưng không bao giờ độc đoán thực hiện đến cùng những ý tưởng ông đã đưa ra. Tóm lại, đó là một người đàn ông kiểu mẫu, có tinh thần dũng cảm đến mức huyền thoại, người đàn ông này, nhân vật Antar bí hiểm này, khi đi ngủ luôn mang theo một khẩu súng, ngày ông ta qua đời, người ta mới phát hiện ra rằng tất cả sự nhẫn tâm ấy, sức mạnh ấy lại cư ngụ trong cơ thể của một người đàn bà. Người ta đã xây cho người đàn bà ấy một cái lăng ngay tại nơi bà ấy chết; ngày hôm nay, bà ấy đã trở thành một bà thánh hay ông thánh, một đạo sĩ lang thang đây đó được nhiều người kính trọng, vị nể. Người ta còn nói rằng những ai bước chân ra khỏi ngôi nhà của họ là chính bởi họ đang bị nỗi nghi hoặc gặm nhấm dần và họ phải đi tìm khuôn mặt thật còn ẩn giấu của sự thật… Vào đúng lúc ấy, người kể chuyện của chúng ta góp lời bằng một nụ cười: Vâng, thưa các bạn, tôi cũng biết rõ câu chuyện này, nó đã lưu truyền đến đây khoảng chừng một trăm năm nay. Phải, đó chính là câu chuyện về “người thủ lĩnh cô đơn”, một con người đã từng mê hoặc tất cả những ai đến gần ông ta. Đôi khi con người ấy lại cố tình ngụy trang; đám lâu la của ông ta thì nghĩ rằng vị thủ lĩnh muốn dành cho họ sự bất ngờ thú vị. Thực tế, đêm đến, ông ta phó mặc sự an toàn của mình cho một gã thanh niên có vẻ đẹp rắn rỏi, một loại kẻ cướp du đãng, bên mình lúc nào cũng kè kè một con dao găm để tự vệ và sẵn sàng chấp nhận cái chết để bảo vệ cho chủ. Gã sống trong một cái động khá sâu, giết thời gian bằng thú vui hút cần sa và đợi chờ người đẹp của đêm đen. Tất nhiên, gã ta không bao giờ biết được rằng người đàn bà ấy chỉ là đàn bà khi nằm bên dưới gã và trong vòng tay gã mà thôi. Cô ta tặng cho gã tiền bạc nhưng gã đều từ chối. Cô ta mách cho gã những nơi có thể đào tường khoét gạch và đảm bảo sự an toàn đến mức tối đa cho hắn ta, rối biến mất và loại thoắt hiển hiện vào một đêm tối trời không có lấy một ánh sao. Chúng nói chuyện với nhau rất ít; hai tấm thân cùng hòa quyện vào nhau nhưng luôn trong trạng thái dè chừng lẫn nhau. Người ta kể lại rằng một đêm nọ, chúng đánh nhau, bởi vì, trong khi làm tình, cô ta xoay mình nằm được lên phía trên đè ngửa hắn ra rồi cô ta liên tục nhúng nhảy. Tức giận, hắn hét lên như một thằng điên, nhưng cô gái ghì chặt lấy hắn bằng tất cả sức lực, buộc hắn phải nằm im bất động úp mặt xuống đất. Đến lúc hắn bật dậy được, ngay lập tức giật lấy con dao găm, nhưng cô gái lại còn nhanh nhẹn hơn, nhảy bổ vào rồi quật ngã hắn ta ngã lăn kềnh trên mặt đất; bị ngã, con dao găm phập vào cánh tay làm cho hắn bật khóc; cô gái nhổ một bãi nước bọt vào mặt hắn, bồi thêm một cú đá nữa vào hạ bộ của hắn rồi bỏ đi. Mọi chuyện thế là kết thúc. Từ đấy, cô gái không bao giờ quay trở lại gặp hắn ta nữa. Còn kẻ du đãng bị thương này đã trở thành một kẻ điên, hay rời khỏi động, đi lang thang trước cửa các nhà thờ, một bệnh nhân si tình, lòng đầy hận thù khôn nguôi. Có lẽ hắn ta đã bị mất dạng giữa đám đông hay bị cơn cựa mình của mặt đất nuốt chửng. Còn về người thủ lĩnh, ông ta chết trẻ, ngay lúc đang ngủ mà không bệnh tật ốm đau gì. Lúc người ta trút bỏ hết áo quần của người ấy ra để lau rửa và khâm liệm thì thật sửng sốt, họ phát hiện ra, các bạn có biết không, đó là một người phụ nữ mà vẻ đẹp kiều diễm chợt bừng lên như bản chất của cái sự thật bị che giấu này, như một ẩn ngữ khó hiểu trồi lên ở giữa bóng đêm tối tăm và ánh sáng chói chang. Câu chuyện này lan truyền khắp đất nước và tồn tại với thời gian. Ngày hôm nay, câu chuyện được kể lại có ít nhiều thay đổi. Phải chăng đó là số phận của những câu chuyện lan truyền trong dân gian? Những câu chuyện ấy tồn tại lâu hơn cả cuộc sống của con người và nó giữ vai trò làm đẹp cho ngày tháng. - Nhưng nhân vật của chúng ta ra sao sau khi Fatima chết? Một giọng nói cất lên. Ahmed trở nên buồn thảm, buồn hơn trước đây, bởi vì, cả cuộc đời anh ta như một làn da khô nứt nẻ vì phải chịu đựng biết bao lần lột xác và đắp đủ các loại phấn. Anh ta lui vào cố thủ trong căn phòng, giao phó sự điều hành công việc cho một người đàn ông trung thành với gia đình, để bắt đầu viết những điều đang dâng trào lộn xộn và không luận ra được. Đó cũng là lúc mà anh ta nhận được những lá thư tâm tình của một kẻ nặc danh. Những bức thư vẫn còn kia, cùng một nét chữ, mảnh mai, bí ẩn và rất thực tế. Một giọng nói xa xôi, không bao giờ xưng danh, đã giúp cho Ahmed tồn tại và suy ngẫm về thân phận của mình. Anh ta duy trì quan hệ thân tình với người bạn tâm giao này; cuối cùng thì Ahmed cũng có thể nói, tồn tại trong sự thật của chính mình, sống mà không cần phải che đậy, tự do mặc dù có giới hạn và trong sự kiểm soát, có chút niềm vui, dù chỉ trong tâm và rất âm thầm. Và đây là lá thư anh ta đã nhận được sau khi Fatima chết: “Thứ Năm, ngày 8 tháng tư. Bạn thân mến, tôi biết, tôi cảm nhận được cái vết thương mà anh đang mang trên mình và tôi hiểu sự đau thương của những năm tháng mà anh phải chịu đựng trước cái chết của người con gái đáng thương kia. Anh có tin là chính mình đã gây ra những điều tàn bạo được khởi đầu bằng sự gọt tỉa thân xác anh và làm cho những ngày tháng của anh thêm đen tối không. Vì niềm kiêu hãnh hay bởi sự tham vọng, anh đã đem nỗi bất hạnh vào tận nơi sâu kín nhất của anh. Anh đã làm như vậy không phải vì sự thích thú mà là một trò chơi nguy hiểm mà trong trò chơi đó, anh đã lột bỏ lớp da của một trong số những mặt nạ của mình. Anh muốn có sự liên hệ này không phải bởi lòng thương mà bởi sự trả thù. Đấy, anh đã phạm phải một sai lầm và trí thông minh của anh đã trở nên u muội trong những mánh khóe không tương xứng với tham vọng của anh. Cho phép tôi bày tỏ thẳng thắn và thân tình với anh về tình cảm của tôi: tình cảnh này thật quá bi đát, quá căng thẳng đối với bất cứ ai, nhưng tôi nghĩ rằng tình cảnh ấy không phải là dành cho anh. Người con gái kia đã bị dìm chết đuối và nó đã nếm trải sự sụp đổ từ lâu nay rồi. Anh đã đến quá muộn. Bây giờ, anh còn giam mình trong căn phòng chất đầy sách vở và đèn nến xung quanh để làm gì? Tại sao anh không đi ra phố, trút bỏ tất thảy những thứ mặt nạ đeo trên người và nỗi sợ hãi đi? Tôi nói với anh điều đó và tôi biết rằng anh rất đau khổ. Là người anh rất rõ và đã theo dõi anh từ bao lâu nay, tôi cố khám phá những điều còn ẩn giấu trong trái tim anh và thấu hiểu nỗi buồn của anh cho dù chúng ta ở xa nhau và không có thể gặp nhau được. Bây giờ, anh định làm gì đây? Anh biết rõ là xã hội của chúng ta thật phi lí đối với những người phụ nữ, và tôn giáo của chúng ta lại thiên vị với cánh đàn ông biết nhường nào, anh biết rõ rằng, để sống được theo sự lựa chọn và sở thích của mình thì cần phải có quyền lực. Anh cũng từng thích thú với những đặc ân và dù anh không muốn điều này, thì anh cũng đã không hề biết đến. Anh còn có những người chị và anh đã khinh miệt họ. Và họ cũng rất căm ghét anh và đợi chờ sự ra đi vĩnh viễn của anh. Anh không có tình yêu và thiếu vắng cả sự tôn trọng đối với người mẹ của anh, một người đàn bà thật quả cảm, cả cuộc đời chỉ có biết vâng lời. Bà ấy luôn luôn chờ đợi anh và hi vọng một ngày nào đó anh trở về, trở về ngả đầu vào lòng bà, và tình cảm mẹ con là vĩnh cửu. Từ khi chồng bà ra đi vĩnh viễn, thì chứng điên và sự trầm cảm đã hủy hoại bà, còn anh, anh đã quên mất bà rồi; bà ấy chết vì sự bỏ rơi của anh, tai bà đã điếc, mắt bà đã mù. Bà vẫn đợi chờ anh. “Tôi cũng vậy, tôi đang chờ anh, nhưng tôi còn đủ kiên nhẫn. Tôi còn đủ tình thương để dành cho anh và số phận của anh… Hẹn gặp lại anh, bạn của tôi!” Lá thư này đã ngáng trở Ahmed. Anh ta cảm thấy mình bị phán xử và bị lên án một cách nghiêm khắc. Anh cố tình cắt đứt mối giao tình này nhưng lại mong mỏi muốn tìm hiểu và cắt nghĩa những gì đang diễn ra để chiến thắng sự im lặng và niềm kiêu ngạo. “Thứ bảy, đêm. Lá thư mới đây của anh làm cho tôi thật khó chịu. Lâu nay, tôi vẫn trong tâm trạng day dứt là có nên trả lời anh hay không đây. Nhưng về sự cô độc của tôi thì ắt hẳn anh là một người tâm tình, là người chứng kiến rồi. Nỗi cô đơn ấy là sự lựa chọn của tôi, là mảnh đất của riêng tôi. Tôi sống ở đó như một vết thương lở loét lâu ngày trên da thịt tôi và không chịu chấp nhận mọi dấu hiệu lên da non lành lặn trở lại. Tôi nói rằng tôi sống chung với vết thương đó, để suy nghĩ rất lung về sự cô đơn, với nỗi niềm kinh hãi, im lìm đè nặng và những khoảng không mênh mông đến vô cùng chiếm lĩnh. Sự cô đơn đã công nhận tôi như một lãnh thổ, như một nơi trú ngụ yên bình, nơi hạnh phúc sặc mùi chết chóc. Tôi biết rằng tôi cần phải sống trong đó mà không có hi vọng điều gì; thời gian chuyển biến và khẳng định nghĩa vụ này. Tôi muốn nói với anh rằng đó là một vấn đề vượt qua những khái niệm nghĩa vụ hay sự khôi hài của tâm hồn. Rồi một ngày, anh sẽ hiểu ra điều đó, rất có thể, nếu chúng ta gặp được nhau. “Từ khi tôi lui vào khép mình trong căn phòng này, tôi không còn được đặt bàn chân trên cát bỏng của sa mạc, nơi mà tôi chẳng bao giờ tìm thấy được lối ra, nơi mà chân trời chỉ hiển hiện ra là một đường thẳng xanh thẫm, bất động và tôi mơ được vượt qua lằn ranh giới màu xanh đó để bước đi vô định trên thảo nguyên mênh mông, chẳng phải suy nghĩ đến điều gì có thể xảy ra… Tôi bước đi để tự lột bỏ, tắm gội, và rũ bỏ một câu hỏi lâu nay vẫn ám ảnh tôi. Và tôi không bao giờ thổ lộ với ai: lòng khao khát. Tôi mệt mỏi mang trên mình những lời bóng gió của sự khát khao mà không thể nào loại trừ được cũng như không thể biến nó thành cái của mình. Tôi cứ vậy, hoàn toàn không được ai an ủi, với một bộ mặt không phải của chính tôi và một nỗi khao khát mà tôi không thể nào định danh được. “Cuối cùng, tôi muốn nói với anh rằng tại sao lá thư của anh lại làm cho tôi thất vọng: đội nhiên, anh lại sa đà bàn chuyện về đạo đức. Như anh biết đấy, tôi cực ghét triết lí vặt và tất cả những cái gì nuôi dưỡng tội lỗi. Tôi nghĩ rằng thuyết định mệnh Hồi giáo, (nó có thực sự tồn tại không?) đã chế ngự bớt cho chúng ta thứ tình cảm ti tiện, tiểu nhân và thối tha. Nếu như tôi viết cho anh, nếu như tôi đã chấp nhận duy trì với anh một cuộc đối thoại thư tín, thì đó không phải là để cho nền đạo đức xã hội được tái sinh. Cái bản sao to lớn và vĩ đại mà tôi đã nhìn thấy chỉ có ý nghĩa ở ngoài những tiểu biểu đồ tâm lí có dụng ý cho biết và cắt nghĩa tại sao một người phụ nữ luôn là phụ nữ và một người đàn ông luôn cứ là đàn ông. Hãy biết rằng, bạn thân mến, gia đình theo hình mẫu như nó đang tồn tại ở đất nước chúng ta, cùng với người bố có toàn quyền và những người đàn bà bị đày đọa trong chính gia đình mình với một chút ít quyền hành do giống đực trao lại cho họ. Đối với gia đình, tôi bác bỏ nó, tôi bao bọc nó bằng thứ sương mù dày đặc và tôi không thừa nhận nó nữa. “Tôi dừng lại ở đây thôi, bởi lẽ, tôi cảm thấy sự tức giận đang trào dâng lên trong con người tôi và tôi không thể nào cho phép mình có được sự thông thoáng để bắt sự thất vọng phải sống chung trong cùng một vết thương, sự thất vọng ấy đang buộc tôi phải sống và sự nổi giận ấy đang xuyên tạc bản chất tư tưởng của tôi, ý nghĩa mục đích cuộc sống của tôi ngay cả khi mục đích đó bị lạc lối giữa sa mạc mênh mông hay giữa thảo nguyên xanh mướt. Thôi, bây giờ tôi xin từ biệt anh, tôi lại phải đọc đây. Có thể ngày mai, biết đâu tôi sẽ mở toang cửa sổ. Hẹn gặp lại người bạn chia sẻ nỗi cô đơn của tôi!” Các bạn thân mến, tôi phải gập quyển sổ lại ở đây, hãy mở rộng con tim và kêu gọi lí trí: vào giai đoạn ẩn cư này, không ai nhìn thấy Ahmed nữa. Anh ta tự giam mình ở căn phòng trên cao và giao lưu với bên ngoài qua những cánh thư nhỏ mà phần lớn là không đọc được hoặc rất lạ lùng. Bà mẹ cũng không hiểu được. Bà từ chối không chấp nhận cách xử sự như vậy nên ném tất cả những mẩu thư được gửi đến cho bà vào sọt rác. Rất hiếm khi, anh ta viết thư cho các bà chị, có ba người chị không còn ở chung trong ngôi nhà nữa. Họ đã đi lấy chồng và chỉ thỉnh thoảng ghé qua thăm bà mẹ đau khổ của họ. Ahmed cai quản trong sự vắng mặt thậm chí không ai trông thấy anh ta. Tuy nhiên, mấy bà chị vẫn cảm thấy sự hiện diện của Ahmed trong ngôi nhà và thường xuyên tỏ thái độ sợ hãi. Họ thì thầm vì sợ làm phiền đến cậu em. Anh ta ở trên cao, không bao giờ đi ra ngoài nữa, chỉ có bà già giúp việc Malika, người đã chứng kiến lúc anh ta sinh ra, bởi thế mà anh ta còn có chút tình cảm âu yếm dành cho bà, là còn có thể dám mở cửa bước vào để chăm sóc cho Ahmed. Bà ta mang thức ăn đến - thậm chí còn mang vụng cả rượu vang và cần sa cho Ahmed - lau chùi, thu dọn phòng ngủ và buồng tắm nhỏ hẹp kế bên. Khi bà vào phòng, anh ta trùm kín chăn, ngồi trên một chiếc ghế ngoài ban công nhìn xuống dãy phố cổ. Lúc trở ra, bà mang theo vỏ chai rượu vang cất kĩ trong túi xách và thì thầm một vài lời cầu nguyện đại loại: “Xin Thánh Allah bảo vệ cho chúng con thoát khỏi mọi khổ đau, bất hạnh và sự điên rồ!” hoặc: “Xin Thánh Allah chỉ lối cho Ahmed đến với ánh sáng cuộc đời!” Cứ như vậy, Ahmed ấp ủ rồi một ngày, anh ta sẽ trở thành kẻ vô hình. Không một ai hiểu được ý nghĩa của sự lẩn trốn cuộc đời này. Bà mẹ là người rất lo lắng về điều đó, như đã từng lo lắng cho cái cơ thể ốm yếu và lí trí luôn dao động của anh ta. Phần lớn thời gian, Ahmed dùng để cạo râu và co duỗi chân tay. Anh ta đang hi vọng vào một sự thay đổi triệt để số phận mà ít nhiều anh ta đã dâng hiến cho nó. Và vì điều này, anh cần phải có thời gian, cần rất nhiều thời gian như là anh ta đang cần có một ánh mắt xa lạ ngắm nhìn khuôn mặt và cơ thể đầy sự khiếm khuyết của mình hoặc muốn trở về nguyên vẹn thuở ban đầu, về với những quyền năng của tạo hóa. Bất chấp một vài chuyện bực mình, anh ta lại viết thư tâm tình với người bạn giấu tên. Cho phép tôi, các bạn đồng hành thân mến, một lần nữa mở cuốn nhật kí và đọc cho các bạn nghe nhé: “Thứ ba, ngày 13 tháng 4. Bạn thân mến, tôi sẽ không bao giờ đề cập với anh về những vấn đề phương hại đến gia đình bạn. Nếu tôi đã vô tình chạm vào chuyện thầm kín đó, thì có lẽ đó là do thứ tình cảm thái quá đã giằng xé, xung đột làm cho tôi quá xúc động mà thôi. Tại sao tôi lại sa vào chuyện trao đổi tâm tình mà mỗi một lời gửi trao chỉ làm rắc rối thêm khu vườn đầy những mê lộ của chúng ta, nơi chúng ta đang dò dẫm từng bước đi, mắt bị bịt kín bưng và có nguy cơ không bao giờ gặp được nhau? “Tôi đã từng và hiện cũng đang là một sinh linh có một khả năng trực cảm rất tốt. Khi tôi tìm được các dấu vết của anh, thì cũng là lúc, cái tình cảm mãnh liệt và mơ hồ đã dẫn lối cho tôi. Từ xa, tôi đã đứng quan sát bạn và tôi thật sự xúc động - về mặt hình thể - bởi những làn sóng mà con người thực thể của bạn phát ra. Có thể anh không tin về cái khả năng thông tin kiểu này, nhưng, tôi biết ngay rằng tôi có việc cần phải giải quyết với một con người đặc biệt và con người đó đang di chuyển bên ngoài con người thực, bên ngoài thân xác của anh ta. Tôi cảm nhận được, về phương diện thể xác, rằng anh không phải là một người đàn """