"
Đứa Con Người Yêu - Pearl S. Buck full prc pdf epub azw3 [Lãng mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đứa Con Người Yêu - Pearl S. Buck full prc pdf epub azw3 [Lãng mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Đứa Con Người Yêu PearlS. Buck
vietmessenger.com
Dịch giả: Văn Hòa
Chương I
Chuông điện thoại reo.
Greta chùi tay vào chiếc khăn trắng quàng trước ngực, càu nhàu: "Lại gì nữa đây" rồi cầm lấy ống nghe.
Từ đầu dây, tiếng bà chủ của cô thánh thót, rõ ràng :
- Greta đấy à? Bà Winters đây. Tôi phải ở lại Nữu Ước. Nhà tôi đã xuống chưa?
- Thưa bà, ông chưa xuống.
- Ông không nên xuống, mà nếu đã xuống thì đừng đi đâu. Chiều qua, bác sĩ có điện thoại cho tôi biết nhà tôi bị cúm nặng, ông cần nghỉ ngơi và phải uống nước nhiều.
- Thưa bà, con không thể ép ông nằm nghỉ được. Ông không bằng lòng. Bà có về hôm nay không ạ?
- Tôi định về hôm nay, nhưng phải nán lại một bữa nữa vì bận phiên họp "dược vật học". Tôi phải thay thế một hội viên thường trực vắng mặt.
- Vâng.
Giọng nói dễ nghe của bà Winters còn vang trong điện thoại. - Cô cố gắng thuyết phục ông chủ nằm nghỉ nhé, Greta!
- Dạ, con sẽ cố. A, thưa bà, ông đang xuống kia. - Rồi cô quay về phía cửa - Thưa ông, bà muốn nói chuyện với ông.
- Thế à? Tốt!
Chris cầm lấy ống nghe. Cơn ho khiến ông không nói được gì... Vợ ông phàn nàn :
- Sức khỏe anh xuống quá.
- Không, anh vẫn khỏe.
- Anh định đi đâu hôm nay đây? Anh không thể nằm nghỉ được sao? - Không. Điểm tâm xong, Berman sẽ lại để cùng anh đến trụ sở. - Anh đi bác sĩ chưa?
- Đi chiều qua rồi.
- Gọi điện thoại cho em nghe mình, nhớ gọi đấy! Khoảng bảy giờ rưỡi là em đã trở về khách sạn rồi. Anh phải cho em biết tình trạng sức khỏe của anh, nếu không em sẽ trở về bằng chuyến máy bay đầu tiên đấy.
- Ừ, được.
- Anh.
- Gì nữa em?
- Anh có biết vì đâu em yêu anh không?
- Anh đã nói rồi mà!
- Nhưng em muốn nghe lại nữa cơ!
- A, anh biết rồi. Tại anh yêu em.
- Buổi sáng được nghe anh nói vậy thì thật chẳng có gì thú bằng. - "Cù lần"! - Chris mắng yêu vợ.
Chris đặt điện thoại xuống để vợ khỏi nghe tiếng mình ho.
Mặc dầu đã trấn an bà rằng ông đã khỏi bệnh, nhưng ông vẫn cảm thấy khó chịu trong người, đến nỗi, trái với thường lệ, ông không thay quần áo trước khi điểm tâm. Tắm rửa và cạo mặt xong Chris khoác một cái áo choàng cũ bằng len màu hạt dẻ. Ông đi vào phòng ăn, ngồi vào bàn và uống một ly nước cam tươi thật lớn. Vị cam chua làm ông nhăn mặt và thấy gắt trong cổ họng khô bỏng. Ông gọi Greta :
- Greta! Cho một ly cà phê đi.
- Dạ có ngay. Thưa ông, ông đau nặng rồi.
- Không, khá hơn hôm qua nhiều. Có thư từ gì chưa?
Greta mang đến một chiếc bình bằng bạc, rót cà phê nóng đầy tách, rồi đi ra cửa. Chris thường nhận thư từ lại văn phòng của ông, nhưng hôm đó có một phong thư gởi cho ông ở nhà. Greta đặt xuống bàn chồng thư để gởi cho bà Winters và nhìn phong thư mỏng đề tên ông, bên ngoài bì có hình một con tem ngoại quốc và hỏi :
- Thưa ông, bức thư này từ đâu gởi đến? Con tem đẹp quá! Ông cho con.
Chris cầm bức thư màu xám xanh :
- À, từ Triều Tiên.
- Triều Tiên, ông có quen ai ở đó sao?
- Cũng không biết nữa. Hồi chiến tranh Triều Tiên tôi có sang bên ấy. Đã mười hai năm rồi...
- Ông có thích xứ ấy không?
- Cũng thích mà cũng không. Tuy nhiên, được hồi hương vẫn là sở nguyện của tôi.
- Hồi ấy ông đã lập gia đình chưa?
- Rồi, mới cưới vợ được ba ngày. Cô mang cho tôi món trứng chiên đi.
- Vâng, để con đi lấy.
Greta đi khỏi, tà khăn choàng ngực của cô lất phất phía sau, Chris tò mò nhìn lại phong thư, ông thấy ở góc trái phong bì có tên một người Triều Tiên: Kim, Kim gì nhỉ? Những chữ còn lại bị nước làm nhòe. Chris cầm con dao quệt bơ để rọc phong thư, rút một tờ giấy mỏng và trải ra. Ông đọc mấy chữ đầu viết bằng một thứ tiếng Anh bập bẹ:
"Kính thưa người cha Mỹ yêu dấu của con".
Nó đã vào đề ngay từ hàng đầu:
"Mẹ bảo con đừng bao giờ viết thư cho cha".
Chris biết gì rồi, ông nhét bức thư xuống đống thư từ vừa lúc Greta mang món trứng chiên vào.
- Cám ơn, Greta.
Greta ra ngoài, còn lại mình Chris, ông cần phải bình tĩnh, nên vẫn để lá thư nằm yên dưới đống thư từ. Ông bắt đầu ăn, cố tránh xúc động.
Ờ, có thể lắm, khi người ta cho chàng hồi hương thì đứa trẻ mới đầy tháng. Chàng cố xin ở lại mà không được. Ít ra chàng cũng đã tỏ ra là người biết điều.
"Nín đi, nín đi đừng khóc nữa em. Sương!"
Sau nhiều năm Chris vẫn còn nghe cái giọng nói non dại, run run, đau khổ ấy của chàng, và chàng còn nghe thấy âm hưởng của cái giọng nói ấy vang lên ngay cả trong căn phòng im vắng của ngôi nhà sang trọng mà chàng đang sống hạnh phúc với Laura, dù chưa con cái, hạnh phúc mãi mãi cho đến trọn đời. Nhưng bây giờ cái bề ngoài quen thuộc ấy không còn nữa, cả cái chuyện mà Chris tưởng rằng đã chết hẳn, nay bừng sống lại như một thực tế phũ phàng. Hồi ấy, sao chàng lại có thể đần độn đến thế? Hai mươi bốn tuổi... Phải, ở tuổi này người ta đã chín chắn lắm rồi.
Cũng như ông cha chàng, Chris được sinh ra và sống một cuộc đời trưởng giả lại thành phố Philadelphia, ngay chính trong tòa nhà sang trọng này, và không hề nghĩ đến chuyện có ngày chàng phải sang một nước cổ xưa bên Á châu.
Lệnh nhập ngũ đến tay chàng một cách đột ngột, phũ phàng, khiến chàng không còn đủ thì giờ để suy nghĩ và sửa soạn hành trang. Sau sáu tháng huấn luyện đặc biệt, sư đoàn của chàng được chuyển sang Triều Tiên để tăng viện cho những trận đánh đẫm máu cuối cùng.
Tuy nhiên, chàng còn may mắn vì cuộc chiến đang hồi kết thúc. Tình trạng hưu chiến đẩy chàng đến chỗ ở không hoàn toàn. Chàng đâm chán nản. Chàng phải sống trong một xứ đầy dẫy những bất hạnh, đau khổ.
Chàng có thư từ liên lạc với Laura, nhưng thư từ đâu có phải là niềm an ủi của chàng. Hai người yêu nhau tha thiết, nhưng biết đến ngày nào, chàng mới được trở về quê hương xứ sở. Chàng không biết viết gì về cho nàng giữa cảnh xứ lạ quê người, nơi chàng chỉ còn biết giết thì giờ để chờ ngày hồi hương và phải mất đi mối tình chăn gối.
Những kỷ niệm ngắn ngủi về cuộc sống vợ chồng tan đi, để hiện ra
nỗi lo lắng, vẩn vơ mà chàng đã từng bị ám ảnh trước ngày cưới. Sợ gì? Vì Laura hay vì cuộc hôn nhân, chàng không biết nữa. Họ đã lấy nhau. Có nhiều lúc nằm trong sình lầy, tay hờm cò súng và sự chết chóc đe dọa, rình rập vây quanh, chàng đã tự hỏi, có thật chàng đã cưới vợ vào trước ngày nhập ngũ hay không? Một đám cưới huy hoàng với ba ngày trăng mật!
Trước mắt chàng cái gì cũng trở thành hư ảo, trừ những dãy núi xám xịt, hung hiểm của xứ Triều Tiên ẩm ướt, lạnh lẽo với một mùa đông dài bất tận cùng cảnh điêu tàn thời hậu chiến.
Chàng nhớ, chàng may mắn còn sống nhưng chẳng còn một niềm tin tưởng nào cả. Chung quanh là cảnh đổ nát hoang tàn, với những người sống sót khốn khổ, những trẻ thơ vất vưởng, những người lính Mỹ trẻ tuổi - không riêng gì một mình chàng - đã chịu đựng cái không khí bi thương ấy và muốn thoát ra mà không được. Cuộc chiến chấm dứt làm cho họ không còn tìm được lãng khuây trong chiến đấu. Cuối cùng vì thất vọng, chàng đành để bị lôi cuốn như mọi người khác.
"Thế nào, bố già, bố một mình giữ trại mãi sao? Bố chờ đợi gì chứ, ra phố chơi là 'nhất' bố ạ". Bạn bè của chàng thường khuyến dụ chàng như vậy.
Mới đầu, không có gì quan trọng. Họ đến chơi trong các vũ trường là những cái kho chứa đồ, xây cất giữa cảnh điêu tàn của thành phố Hán Thành với vài ngọn đèn treo lủng lẳng trên một sợi dây điện, vài chiếc ghế dài kê dọc sát tường và một chiếc dương cầm đàn sai nhịp. Họ nhảy với những cô gái Triều Tiên gầy ốm. Nhiều cô mặc váy đầm rẻ tiền, lòe loẹt, nhưng cũng có cô mặc chiếc váy Triều Tiên cổ truyền đã được sửa chữa.
Chiều hôm ấy, chàng nhất định chỉ ngồi xem người khác nhảy. Buổi khiêu vũ cuối cùng của chàng là buổi khiêu vũ với Laura, đánh dấu tuần trăng mật của hai người. Laura trong vòng tay chàng, biết bao gần gũi, biết bao âu yếm.
Cuộc chia ly của hai vợ chồng thật là giản dị. Sáng sớm hôm sau, chàng bị đẩy ngay vào những cuộc giao tranh trận địa chiến, du kích chiến, có khi chàng phải trèo lên những ngọn núi chênh vênh để đánh xáp lá cà với địch quân đang ẩn nấp sau những hốc đá nhỏ bé, hay
trong lòng suối khuất tịch.
Chàng làm quen được với nguy hiểm và chết chóc một cách nhanh chóng, nhưng mối tình của chàng thì mỗi ngày mỗi phai dần trong ký ức.
Chris đang ngồi trong tiệm nhảy, lòng cô đơn xa vắng, thì Tom bắt gặp. Tom là ngưòi bạn đồng ngũ thân thiết của Chris. Chàng đã cứu sống Tom khi hắn bị thương và chàng phải vượt núi băng đèo mới đem được hắn về bệnh viện cứu cấp.
Đến nơi, hai đứa máu me cùng mình khiến bác sĩ không biết phải chứa ai trước.
Tom nói với Chris :
- Bố già ơi, đứng dậy, "con" kiếm cho bố một "em" đây. Này Sương, anh giới thiệu với em: đây là anh Chris.
Tom kéo mộf "em" mặc chiếc "rốp" màu đỏ bó sát người ra nhảy. Chris miễn cưỡng đứng dậy, bẽn lẽn, vụng về, chàng lắp bắp :
- Cô... cô có muốn nhảy không?
Sương trả lời chàng bằng một nụ cười gượng gạo, chàng ôm nàng trong vòng tay, lòng không hứng khởi. Nàng mặc chiếc váy dài lụng thụng, bằng vải màu hồng, may theo lối nhà quê, bên trên là một áo chẽn bằng lụa trắng.
Chris nhận ra ngay nàng không biết nhảy, nhưng Sương đẹp, nàng có vóc dáng trung bình, mảnh mai, chứ không gầy ốm như những đồng bào của nàng. Trong đám này ít có cô đẹp.
Sương vẻ người thanh lịch, làn da trắng mịn, với đôi mắt to, nâu, điểm thêm cặp lông mi dài. Nàng có đôi bàn tay bé nhỏ, mềm mại như trẻ thơ. Đến nay đã bao năm qua, chàng vẫn còn nhớ được lúc ôm ấp đôi tay ấy trong lòng tay mình. Nàng nói tiếng Anh không sỏi. Vì vậy, đã dùng sự mơn trớn vuốt ve để bù đắp khuyết điểm này.
Chris đã hỏi Sương :
- Cô bao nhiêu tuổi?
Chàng thôi không nhảy nữa, nàng không có một chút kiến thức nào
về nhịp điệu, ít nhất là nhịp điệu Tây phương. Nhưng mãi sau này, chàng mới biết được nàng cũng say mê âm nhạc. Nàng đàn, một thứ đàn cổ và ca cho chàng nghe những bài hát Triều Tiên êm ái.
- Tuổi! Tuổi hở?
Nàng nhắc lại và trả lời cho chàng biết là nàng mười tám tuổi bằng cách xòe những ngón tay ra, rồi hai người cùng cười, Chris gọi cho Sương một chai coca cola và thấy nàng ngạc nhiên nhìn những cái "tăm" sủi trong chai, chàng nghĩ có lẽ đây là lần đầu tiên nàng ra tỉnh, nhưng chàng giấu hẳn ý nghĩ ấy.
Vừa lúc ấy Tom và người vũ nữ lại gần, nghỉ xả hơi. Trong tiệm nhảy không khí oi bức, mùi "kim chi" bốc lên nồng nặc.
Thay vì giới thiệu, Tom lấy tay chỉ vào người vũ nữ, nói :
- Đây là Dolly, tao không biết tên thật của "em". Dolly là tên con búp bê của tao. Em là Dolly của tao.
Dolly cười lớn, tán đồng :
- Đúng thế.
Tom tiếp :
- Nhờ tao đây "em" nhảy khá lắm, lúc đầu em toàn giẫm lên chân tao. Đúng vậy không "bà nội".
Dolly cười :
- Đúng thế.
- Ngữ ấy được đây chứ, hử? Tao khoái "típ" người như thế. Nếu "em" biết thêm chút tiếng Mỹ nữa thì tuyệt! Gái quê mới ra tỉnh lần đầu có phải không Dolly?
- Nó mới ở quê ra chiều hôm qua.
Hai người ra đi, quấn quít bên nhau, còn lại mình chàng với Sương. Chàng bị thu hút vì cảm thấy ở nàng có một cái gì khác biệt. E lệ, nàng im lặng và tránh những đụng chạm, nhìn chàng xem các cặp khác nhảy.
Chàng ý thức được sự hiện diện của những người chung quanh,
nhưng chàng nhất định không tán tỉnh gì chừng nào chàng vẫn còn do dự. Phải chăng, lúc còn ở Á châu, người ta muốn làm gì tùy thích mà không có ảnh hưởng đến gia đình ở quê nhà? Nếu không nghĩ như vậy thì sao người ta lại thay đổi đến thế? Như Tom chẳng hạn, hắn lấy vợ sớm như chàng, hắn cũng rời khỏi xứ Nebraska sang đây và lấy Dolly. Nhưng khi hồi hương, hắn có còn là hắn nữa không? Hay đã đổi thay rồi? Tom thường bảo chàng :
- Nói chuyện ấy làm quái gì, người ta đã nói Đông là Đông, Tây là Tây, vả lại Dolly cũng biết tao đã có vợ rồi.
Không khí trong tiệm nhảy trở nên ngột ngạt, nóng bức và bụi bặm. Chris liếc nhìn Sương, nàng chỉ đợi có thế và mỉm cười. Chàng đứng dậy tự nghĩ không biết làm gì cho nàng. Một lần nữa Tom và Dolly trở lại, quấn quít nhau. Tom hỏi :
- Thế nào! Đi đâu đây "bố"?
- Đâu cũng được, ở đây ngột ngạt quá.
Dolly đề nghị :
- Vậy về nhà, tôi làm "bún chả" cho mà ăn.
Chàng do dự, không biết khi theo họ về nhà trong một hai tiếng đồng hồ có xảy ra chuyện gì quấy chăng? Chàng quyết sẽ không ở lại.
° ° °
"Thưa ông, có ông Berman ạ!"
Câu nói đột ngột của Greta kéo Chris trở về với thực tại. Ông vội giấu lá thư vào chồng giấy tờ.
- Mời ông ấy vào, Greta.
Chris uống nốt chỗ cà phê còn lại và đặt tách xuống bàn, vừa lúc Berman vào tới cửa.
Berman nói :
- Thế nào, sáng nay có khá không, ngài Thống đốc tương lai? - Mời anh ngồi chơi, Greta, cho tôi thêm một tách cà phê. - Cám ơn anh.
Giọng Rerman ồm ồm vang dội khắp phòng. Ông ta rút trong cặp ra một tập tài liệu :
- Anh biết gì đây không? Bản kết quả cuộc thăm dò dư luận đây. Công chúng đang sôi nổi. Dư luận rất thuận lợi cho anh, luật gia siêu việt của thành phố.
- Khổ quá! Đừng đóng kịch nữa Joe.
- Sự thật mà! Tôi đâu có nói dối anh làm gì. Chúng tôi đã tự động mở một cuộc thăm dò dư luận trong các rạp hát và các siêu thị. Chắc chắn anh sẽ thu được tất cả số phiếu, không những ở thành phố mà còn khắp tiểu bang. Họ đang cần một người có lý tưởng như anh. Mọi người đều quý anh. Anh có hài lòng không?
Cơn ho làm Chris không trả lời được.
- Anh đau, cần phải điều trị.
- Tôi có uống thuốc rồi, và vừa mới hứa với nhà tôi không đi đâu hôm nay.
Berman sửng sốt hỏi :
- Vậy sáng nay tôi biết nói sao với đại biểu phụ nữ vào lúc mười một giờ?
- Tôi quen khuây đi mất. Thôi thế để tôi đi vậy.
- Anh đi thì tôi không chịu trách nhiệm đâu à. Vợ anh... - Vợ tôi làm sao?
- Bà ấy hả? Bà ấy đẹp, có duyên hoàn toàn cũng như những bà Thống đốc khác. Tôi nói thật đấy! Chris, anh thấy sao về cuộc bầu cử này. Anh làm Thống đốc trước, rồi làm Tổng thống chứ?
- Bây giờ thì chưa biết được, anh cứ lại trụ sở trước đi, nói với họ tôi sẽ đến sau. Được chứ?
- Được rồi.
Berman đi khỏi, căn phòng trở lại yên tĩnh. Chris lấy bức thư ra khỏi chồng giấy rồi nhét vào túi áo ngủ, vừa lúc Greta bưng ly cà phê bước vào.
- Greta! Cô đem hết giấy tờ lên lầu cho tôi. Tôi uống cà phê trên ấy. - Thưa ông, ông không đi đâu chứ?
- Có, tôi có việc phải đi.
- Bà có dặn con đừng để ông đi đâu, vậy lúc bà về, ông đi rồi con biết nói sao với bà?
Chris nháy mắt :
- Cô cứ nói với nhà tôi là cô bị bắt buộc phải nghe lời tôi. Cô muốn nói vậy hay muốn bị phạt một tuần lễ đây.
Greta bật cười :
- Thưa ông, bà nói có lý, ông nên ở nhà nghỉ ngơi.
Chris lên lầu, chàng vào phòng rửa mặt, lấy bức thư ra khỏi túi. Nếu đọc ngay bây giờ chàng sẽ bị bần thần suốt cả buổi. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ đó. Điều đáng kể là Laura.
Nói với nàng thế nào đây? Nàng có quyền biết sự thật về chuyện này không? Đó mới là vấn đề chính.
Chris thấy đầu nhức nhối khó chịu, hai bên thái dương đau buốt. Cơn ho lại tiếp tục lắm ông lảo đảo. Ông không dám nghĩ tới việc đến trụ sở với Berman nữa. Không thể đi đâu được, bác sĩ nói phải, vợ ông nói phải, với tay lấy cái điện thoại đặt ở đầu giường.
° ° °
- Anh, anh cảm thấy trong người thế nào?
Giọng nói trong trẻo của Laura làm Chris thức giấc, bàn tay mát dịu của bà đặt lên trán ông. Ông mở hé mắt, vẻ ngái ngủ.
- Greta nói lúc cô ta lên, anh hãy còn ngủ. Dường như anh đã ngủ suốt ngày. Sáng nay, trong điện thoại em nghe tiếng anh khan khan, em vội bỏ phòng họp ra về.
- Anh cảm thấy khó chịu trong người.
Chris không muốn làm nũng vợ nhưng không được. Ông nằm dài ra giường, tay vuốt tóc tiếp :
- Anh đau bất thình lình. Lúc ăn sáng xong Berman lại gặp anh, anh tưởng đã khỏi, lên lầu mặc quần áo, thì trong người thấy mệt mỏi rã rời.
- Như vậy là bệnh cúm rồi.
Laura cúi xuống hôn chồng, nhưng Chris quay đi.
- Đừng, bệnh cúm hay lây lắm em ạ.
- Chẳng có bệnh nào lây được em cả.
Hai tay ôm lấy đầu Chris, Laura đặt lên mặt chồng một cái hôn đằm thắm. Chris mỉm cười và cảm thấy như khỏe lại.
- Đôi khi em tự hỏi: phải chăng bệnh tình dai dẳng là điều mà anh lấy làm bực bội nhất! - Bà lộ vẻ nghĩ ngợi - Có đúng không anh? Nhưng em thì chẳng có cảm cúm gì cả. Có khi em còn cảm thấy bực mình vì sức khỏe của em nữa là đàng khác. Hồi còn bé, hai thằng em của em cứ đau ốm hoài mà em thì chẳng có ốm đau gì ráo. Vì thế chúng nó ghét em lắm.
Cảm thấy dễ chịu hơn, Chris ngồi nhỏm dậy, kéo Laura vào sát ngực, đặt môi hôn vào làn da mịn màng phía sau gáy vợ. Yêu Laura, tin tưởng ở vợ, Chris nghĩ có thể cho bà biết rõ hết sự thực.
Chris tìm bức thư để trong túi áo ngủ, nhưng chiếc áo ngủ lại treo trên thành nghế dựa, chẳng hiểu Laura đã biết gì chưa.
- Em đưa hộ anh chiếc áo ngủ kia, anh muốn dậy. Từ lúc em về anh thấy khỏe nhiều rồi.
- Anh phải cẩn thận mới được.
- Không sao đâu. Anh bảo đảm với em. Anh định... Nào đựa anh chiếc áo ngủ chứ?
Laura thấy trong câu nói của Chris có vẻ bực bội, bà đứng lên, ngoan ngoãn đem chiếc áo ngủ lại cho chồng. Chris khoác áo vào người, và dưới tam "drap", ông lần mò tìm lại bức thư. Bức thư còn đây. Chris muốn được đọc trước, nhưng sao trước đây lại không đọc nhỉ, và không biết lá thư có rơi ra ngoài lúc Greta dọn dẹp không?
Laura để tay lên trán chồng một lần nữa, nói :
- Anh còn sốt, để em đi mời bác sĩ.
Chris cảm thấy thư thái :
- Được rồi, em đo nhiệt độ anh đi, nếu anh còn sốt, em cho mời bác sĩ, bằng không, em phải thỏa thuận với anh thế nào?
Laura cười :
- Anh quả thật là một nhà chính trị, em đã biết anh từ lâu rồi mà.
Bà vừa nói vừa đứng dậy đi về phía tủ đựng thuốc trong phòng tắm. Lúc trở lại, tay bà cầm ống thủy vẩy vẩy và soi trước ánh đèn.
- Hôm nay em muốn nhờ đến sự khôn khéo của anh một chút. - Em cứ nói.
Laura để ống thủy vào miệng chồng. Trong khi Chris buộc lòng phải im lặng, bà giải thích :
- Như anh biết đây, em không hài lòng về phần ba cuối của tác phẩm. Nhưng Wilton thì lại quá tự tin. Phần em, không chắc có đo lường được tính chất xác thực với những thứ thuốc lấy từ các hải thực vật. Em tận tụy thế này chẳng qua cũng vì vấn đề tìm tòi dược liệu hơn là văn chương. Ngoài ra, em cũng không tin rằng người ta có thể bảo tồn các mô tế bào con người theo cách bảo tồn mô tế bào động vật.
Chris lẩm bẩm :
- Thế chúng ta đây không phải là động vật hay sao?
- Anh đừng ngắt lời em, để em có dịp trình bày chứ.
Chris mở to mắt làm bộ ngạc nhiên khiến Laura phì cười nhấn mạnh :
- Đúng! Chúng ta đều là động vật. Anh nói hay hơn em và bao giờ anh cũng có lý. Đó cũng là một lý do mà em yêu anh. Anh...
Laura ngả đầu vào ngực chồng, Chris đưa tay lên vuốt ve mái tóc bạch kim tuyệt đẹp của vợ. Laura thì thào :
- Chris ơi! Em yêu anh, yêu anh đến nỗi không sao em có thể diễn tả nỗi lòng mình. Em nghe thấy tiếng tim anh đập trên má em này. Mà sao tim anh đập nhanh và rộn ràng vậy? Anh có đau thật không? Anh có giấu em điều gì không?
Bà ngẩng đâu nhìn chồng dò xét. Đôi mắt màu tro dưới làn mi đen của bà như long lanh, tha thiết.
Rất may là Chris còn ngậm ống thủy trong miệng nên không trả lời được, nhưng khi Laura rút ống thủy ra thì bà không còn chú ý đến câu đã hỏi. Laura làm sao có thể biết được chồng đang giấu mình chuyện gì. Chắc chắn là bà không biết.
- Ồ! Anh vẫn còn sốt. Nhất thiết anh không được ra khỏi giường đây nhé, để em đi mang đồ ăn lên đây ăn với anh.
Chris chưng hửng ngồi xuống giường.
- Anh không thích ăn ở trên giường, ở đây nóng quá. Thôi thì bây giờ chúng ta hãy thỏa thuận như thế này: Anh đi tắm, thay quần áo, rồi xuống dưới nhà ăn với em. Anh không muốn quên sót điều gì, em hãy nói hết cho anh nghe đi. Berman bảo anh là mọi việc đều trôi chảy, tốt đẹp. Bọn họ đang mở cuộc trưng cầu ý kiến. Berman sắp lại đây.
- Greta nói Berman có điện thoại tới nhiều lần. Anh ấy muốn gặp lại anh chiều nay, nhưng em bảo để coi đã.
- Được. Anh đã cảm thấy khỏe rồi. Anh muốn gặp anh ấy, nếu không sẽ trễ mất. Mọi việc mình phải hành động trong vài tuần tới.
Laura đứng dậy, ngoan ngoãn như thường lệ vì bà cảm thấy chồng bà đã nhất quyết. Ít ra với thái độ ấy, Chris cũng có thể nhận thấy rằng vợ ông đã để ông làm chủ tuyệt đối và còn mong muốn ông như vậy. Chris chả thường nói, một người đàn ông tư cách phải có một người vợ tư cách là gì. Ông không ưa những người đàn bà hèn yếu. Chẳng hạn như trường hợp của Berman...
Laura cắt đứt nguồn tư tưởng của mình và hỏi chồng : - Anh nghĩ gì thế?
- Đâu, anh có nghĩ gì đâu. Anh nghĩ đến Berman. Anh không thể nào tin tưởng hoàn toàn ở anh ta được. Không biết có nên để anh ta hướng dẫn cuộc tranh cử này chăng.
- Anh là thần tượng của anh ấy.
- Anh nghĩ là vợ của anh ta...
Laura cười, ngồi xuống cạnh Chris, ở mé giường :
- Ờ nhỉ! Vợ của anh ta sẽ làm gì trong cuộc tranh cử này nhỉ? Hai người cùng cười.
- Anh biết, như vậy có vẻ kỳ khôi nhưng...
- Bà ta mới kỳ, có phải anh nghĩ vậy không?
- Đúng thế! Cái yếu của Berman là chỗ có một người vợ miệng mồm oang oác như gà đẻ. Vợ con gì mà cứ chạy lăng quăng như con ăn đứa ở.
- Anh nhận xét người chồng qua người vợ sao?
- Tự nhiên. Điều đó đã khuyến khích anh cưới em đây. - Ồ Chris, thật vậy à!
- Thật chứ. Em là một người đàn bà tuyệt diệu. Nhưng em thì... phải có can đảm mới lấy em được.
Chris ngạc nhiên nhìn thấy làn môi dưới của Laura run run. Ông đã nhận ra cái triệu chứng này. Laura không phải là người đàn bà mau nước mắt nhưng đôi khi những chuyện chẳng ra gì cũng đủ làm tổn thương lòng tự ái của bà.
- Này em, - Chris vừa nói vừa cầm lấy tay vợ - anh có nói gì phật ý em đâu? Anh chỉ muốn nói rằng anh hãnh diện đã có một người vợ như em. Chỉ có những người đàn ông xứng đáng là đàn ông mới làm chồng em được, không phải thế sao? Em không hãnh diện là vợ của anh à? Em chẳng đời nào chịu lấy một người đàn ông ti tiện, không ra gì, phải vậy không? Chắc là thế. Lòng thương quý lẫn nhau là dấu hiệu sự yêu quý của chúng ta đối với chính mình. Chúng ta rất xứng hợp, anh không thua kém gì em và anh tin rằng đối với em như vậy là đủ rồi. Anh nói thế là vì kiêu căng hay vì anh không tự hiểu mình nhỉ?
Laura ngả người vào cánh tay chồng, cười trong nước mắt :
- Ôi mình. Em tin tưởng ở mình tất cả. Quả thật, mình đã mang lại cho em quá nhiều hạnh phúc! Em biết em quá dạn dĩ, nhưng em không thể làm gì hơn được. Trí thông minh chẳng quan hệ gì đến tình yêu hết. Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận những gì chúng ta có.
Laura nhẹ nhàng gỡ mình ra khỏi vòng tay chồng. Chris đoán ngay được ý nghĩ của vợ. Hồi hai người còn hy vọng có con mà không trù tính đến điều trái ngược có thể xảy ra, họ thường nói đến số con cái của họ. Họ tưởng thấy chúng thật kháu khỉnh, con trai có mái tóc màu nâu của người cha, con gái xinh đẹp như người mẹ và hấp thụ được sự thông minh của cả hai người. Nhưng những đứa con mà họ đã tưởng nghĩ ấy chưa một đứa ra chào đời và có lẽ chúng sẽ chẳng bao giờ được sinh ra. Làm sao có thể nghĩ đến giả thuyết có sự xung khắc thể chất nơi một cặp vợ chồng hòa hợp như họ được? Ban đầu họ còn bám víu vào hy vọng, nhưng rồi thời gian đã làm hao mòn niềm hy vọng ấy đi, chẳng lưu lại được bao nhiêu.
Hai ông bà đã bắt đầu kiêng nói đến vấn đề con cái. Vì vậy, Chris đã đoán được tư tưởng của vợ khi Laura rời khỏi tay chồng. Ông chợt nhớ đến bức thư nằm trong túi. Chris đã có con, một đứa con trai, vậy lỗi không phải ở ông.
Chris gạt bỏ ngay cái ý nghĩ quái gở ấy. Vì nếu buộc tội thì chính Laura là người có lỗi. Chris đã lấy Laura hồi nàng còn ngây thơ, trong trắng, và cho đến nay vẫn còn ngây thơ trong một vài phương diện. Chris sẽ không bao giờ nói ra vì điều đó sẽ làm cho vợ ông hết sức đau khổ.
Chris bảo vợ :
- Anh đi tắm một chút.
- Em cũng phải đi thay quần áo. - Laura vừa nói vừa đi về phía phòng riêng.
Trong phòng tắm, Chris vừa tắm rửa vừa nghĩ ngợi: Có nên thú nhận với Laura ta đã có con hay không? Lá thư còn nằm trong túi đây. Có nên xé đi chăng? Không, ta cần phải cân nhắc trước một quyết định như thế! Nếu nói cho Laura biết, nàng sẽ đòi được đọc lá thư. Ta có nên viết thư trả lời đứa bé hay không? Chris lau khô người, khoác chiếc áo tắm lên vai rồi rút bức thư ra khỏi túi.
Vậy ra, Sương đã dặn con không được viết thư cho chàng. Những kỷ niệm êm ái nổi lên dạt dào như cơn sóng vỗ, ăm ắp trong đầu Chris. Chàng chưa quên được Sương. Nàng vẫn tồn tại trong đời chàng như một hiện hữu nóng bỏng mà người ta không thể đem so sánh với tình
yêu của chàng và Laura.
Chàng không biết tại sao thằng bé lại trái lời Sương? Chàng bóc lá thư ra và đọc mấy chữ đầu:
"Con không được đến trường học tử tế".
Trường học? Chàng đã nhìn thằng bé lần chót, lúc nó vừa được một tháng. Nó ra đời vào mùa thu, hậu quả của những ngày đông hiu quạnh, rét mướt. Trong túp lều nhỏ bé, vách mỏng manh, Chris chỉ còn cách quấn chặt chăn vào người để sưởi ấm. Gió lạnh, như gió ở sa mạc Tây Bá Lợi Á, thổi những kẻ tù tội làm vẹt những chỏm núi ở miền bắc, qua khe hở, lọt vào xương tủy Chris.
Nguồn an ủi vật chất duy nhất đối với chàng lúc bấy giờ là hơi ấm của người Sương, nằm sát bên chàng. Thật ra, nhờ thế bản năng sơ thủy của con người Chris được thỏa mãn và đồng thời chàng như thoát khỏi hố sâu tuyệt vọng. Làm sao Chris giải thích cho Laura hiểu nổi sự kiện này? Nàng có hiểu cho không? Với cái tầm mức hiểu biết của người đàn bà, liệu Laura có chấp nhận nổi sự kiện đó không? Ngay chính Chris cũng không biết gì hơn. Nhưng chàng vẫn còn giữ được những kỷ niệm về chuyện đó một cách rõ ràng. Và thằng bé - trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó, không dám để Sương biết, đã bắt chàng phải nhớ đến cái ngày nó chào đời! Ngày ấy Sương sung sướng đến cảm động, riêng chàng thì phải giả vờ như hạnh phúc. Điều này Chris vẫn còn nhớ rõ.
Nàng chỉ nói việc ấy cùng chàng trong mùa xuân, sau cái mùa đông lạnh lùng ghê gớm ấy... Vào những ngày tháng tư mà tiết trời đã trở nên ấm áp. Chàng và Sương đã tổ chức một cuộc sơn du với cơm nắm, kim chi (thức ăn của người Triều Tiên giống như dưa chua của ta) và cam tươi. Bên sườn núi cheo leo, gió thổi mạnh, họ phải tìm một hốc đá để ăn uống cho khuất gió. Trên những ngọn cỏ đã héo vàng vì mùa đông, họ nằm sát bên nhau. Chris rút ở trong túi ra những thỏi chocolat mà chàng biết Sương rất thích nên đã mua sẵn ở quân tiếp vụ.
Chàng thấy Sương hợp lý khi nàng đề nghị: "Ăn cơm trước, đồ ngọt ăn sau".
Tính Sương rất hóm hỉnh, nhưng thường thì Chris ít khi hiểu rõ ý
nghĩa sự hóm hỉnh của nàng. Nàng biết nhịn để được ăn ngon, nhưng đối với Chris nàng không từ chối chàng bao giờ. Ngày cũng như đêm, trong cái hiu quạnh của căn lều nhỏ bé ấy, Sương thường vui vẻ đáp lại những đòi hỏi của chàng và ngược lại nàng cũng đón nhận tình yêu của chàng một cách nồng nhiệt - phải chăng đó là tình yêu và ai có thể giải thích được tình yêu muôn mặt?
Vậy chàng phải thố lộ với Laura: chàng đã yêu Sương, chàng yêu Sương không như chàng yêu Laura, vì chàng yêu Laura với tất cả sự trong trắng từ tâm hồn đến thể xác của nàng. Còn với Sương, chàng đã thực hành được những kinh nghiệm đầu tiên về xác thịt và không e dè, câu chấp. Mãi sau này chàng mới thực hành những kinh nghiệm ấy với Laura. Chàng tưởng rằng đàn bà nào cũng như Sương và Laura cũng sẽ đón nhận những đòi hỏi của chàng bất cứ giờ phút nào. Nhưng chàng bị cụt hứng, lòng tự ái bị tổn thương rồi đâm ra bực bội. Chàng biết chàng không thể sống thiếu Laura và sự hiến dâng đúng lúc của nàng cũng có một giá to lớn đối với chàng và tạo cho chàng những rung động sâu đậm hơn là bản tính mộc mạc chất phác của Sương. Sương chiều chuộng chàng như một đứa trẻ, còn Laura yêu chàng với cả một tấm lòng kính trọng quá đáng.
Laura đã từng nói: "Phải như thế, niềm hoan lạc giữa đôi ta mới đáng kể".
Ở Triều Tiên hồi ấy, Chris chỉ quen có một mình Sương và vì quá trẻ nên chàng chưa hiểu được rằng sự toàn hảo của tình yêu chỉ có ở những đôi vợ chồng thật sự tương xứng. Đối với họ, đó là những giờ phút thú vị nhất, vì Sương sung sướng được ăn chocolat còn Chris thì được hưởng sự hiến dâng không điều kiện của nàng.
Cái hôm đi núi vào tháng tư năm ấy, nàng cũng lại nhượng bộ những đòi hỏi của chàng. Họ đã ăn cơm với kim chi và trong khi nhai chocolat. Sương thú nhận rằng nàng đã có thai. Lúc ấy vào giữa trưa, trong hốc núi nhỏ bé trời nóng như đang hè.
Chỉ mấy tiếng thế thôi, Chris tưởng như bị một gáo nước lạnh tạt vào người. Môi chàng se lại và tưởng chừng muốn xỉu, chàng mở miệng định chối nhưng thấy mặt nàng sáng rỡ hạnh phúc, một thứ hạnh phúc giản dị và thuần nhất, chàng không đủ can đảm để phản đối nữa và giả vờ như sung sướng. Đến nay chàng mới hiểu rằng Sương
muốn được cưới xin tử tế. Người con gái nào mà chả mơ ước như nàng? Nhưng than ôi! Sương đã không bao giờ thổ lộ nỗi lòng với chàng mà cứ âm thầm mơ ước một mình.
Bằng một giọng nói nghẹn ngào, chàng bảo Sương :
- Vậy hả em, thế thì bảnh quá.
Tại sao chàng lại sợ hãi đến như thế? Người đàn ông nào khi biết mình sắp có con cũng sợ như chàng sao? Đối với vấn đề con cái, chàng tưởng Sương đã có cách phòng ngừa, không ngờ nàng lại muốn có con. Còn chàng, chàng chỉ nghĩ có một điều là hưởng thụ những gì mà Sương dâng hiến cho chàng, cũng như làn hơi ấm của người Sương đã giúp chàng quên hết thực tại.
Nằm gọn trong vòng tay chàng, Sương sung sướng nhắc lại lời Chris :
- Ừ, bảnh lắm!
Không biết làm gì hơn, chàng đẩy Sương ra, làm nàng ngạc nhiên vì cử chỉ bất ngờ ấy.
Bằng một giọng trìu mến, nàng hỏi :
- Anh sao thế?
- Anh lạnh, mình nên về thôi.
Mặt trời đã khuất sau những đám mây xám đang vượt ra khỏi thung lũng. Sương mặc lại quần áo, rồi hai người dắt tay nhau xuống núi. Chris không đưa Sương về nhà như thường lệ nữa, chàng hôn nàng và im lặng bỏ đi. Nhìn chàng bỏ đi, gương mặt khả ái của Sương thoáng một nét buồn sửng sốt.
Liên tiếp năm ngày, Chris không lại nhà Sương.
Nhưng rồi không chịu đựng được nỗi buồn cô độc, chàng định chấp nhận cái địa vị làm cha và trở lại cùng nàng. Những tháng sau, khi đã có đứa bé, chàng bắt buộc phải chọn lựa một trong hai giải pháp: trở về Mỹ hoặc muốn ở lại thì phải xin tái đăng.
Khi nói cho Sương biết chàng đã quyết định về Mỹ, nàng ôm chặt lấy chàng khóc nức nở. Đứa bé nằm trên chiếc chiếu cói cũng khóc như
muốn hòa theo với tiếng khóc của nàng.
Chàng bảo Sương :
- Sương ạ, anh phải về vì ba má đang mong đợi anh.
Chàng không nhắc đến Laura vì chưa bao giờ chàng cho Sương biết chàng đã có vợ.
- Ờ... ờ... Em hiểu rồi, phải nghĩ đến cha mẹ trước. Nhưng anh có trở lại với em không?
- Anh sẽ cố gắng trở lại với em.
Chàng hối hận đã hứa hão như thế với Sương vì chắc chắn chàng sẽ không bao giờ trở lại cái xứ này nữa.
Cho đến bây giờ, kỷ niệm về buổi tiễn đưa cuối cùng ấy vẫn còn mãi mãi in sâu vào tâm khảm của chàng. Trước khi ra đi, chàng đã nhìn lại đứa bé lần cuối, mặt nó có vẻ lạnh lùng, hao hao giống như người châu Á. Nó nhìn Chris và hình như nhận biết chàng. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời, chàng đã cảm động vì tình phụ tử.
- Con mình đẹp không anh?
Sương hãnh diện hỏi chàng, nước mắt ràn rụa :
- Đó là cái chắc. Con em thì phải đẹp chứ!
Để chấm dứt, chàng đã gỡ tay Sương ra khỏi cổ mình. Nàng đã gục xuống đất với những tiếng nấc thê thảm, khiến Chris không đủ can đảm cúi xuống đỡ nàng lên nữa. Cổ họng chàng như se lại nói không nên lời, chàng rời khỏi nhà Sương thật mau.
Giờ đây đứa bé đã viết nổi thư cho chàng và gọi chàng là "người cha Mỹ của con".
Có tiếng gõ cửa, và Laura từ phòng bên gọi vọng vào : - Anh ơi, xong chưa anh.
Chris vội nhét bức thư vào túi áo, trả lời :
- Xong rồi, anh ra ngay.
Khoác chiếc áo ngủ vào người. Chris mở cửa bước ra, vì mải suy
nghĩ nên quên mất.
- Chà, em đẹp quá!
- Áo cũ mà đẹp gì! - Laura vẫn thường tỏ vẻ ngượng ngùng như thế, khi có người khen mình.
- Nhưng anh lại thích cái áo cũ này em ạ.
Áo ấy may bằng một thứ hàng tơ rất nhẹ nhàng, ống tay dài và rộng, cổ hở, để lộ hẳn làn da trắng mịn tươi mát và những khuỷu xương vai của Laura khiến Chris chợt nhớ đến Sương trong dĩ vãng. Sương cũng có cái dáng mảnh khảnh, thanh thanh nhưng nhỏ nhắn hơn vợ ông.
Chris mở ngăn kéo, tìm một chiếc khăn tay, để cố xua đuổi những kỷ niệm đang dâng đầy trong tâm trí.
- Anh xong rồi đây.
- Vậy để em xuống xem đã có cơm chưa.
Khi Laura đã xuống dưới nhà, Chris ngả người vào thành ghế với một dáng điệu mệt mỏi. Trong cái giai đoạn gay go của cuộc tuyển cử này, ông không muốn có những chuyện rắc rối.
Nhưng Chris không nên quan trọng hóa vấn đề. Nếu ông lặng thinh, không viết thư trả lời, đứa bé sẽ nghĩ rằng ông không nhận được thư của nó. Không, không, ông không thể xử sự như thế với con mình. Nếu Sương có thái độ giống như những cô gái lấy Mỹ khác, đã bảo con viết thư xin xỏ nọ kia thì có lẽ Chris sẽ xếp bỏ. Nhưng đây là do chính con của ông. Ông có trách nhiệm với nó, nếu không về mặt pháp lý, thì ít ra cũng về phương diện tinh thần. Chris còn nhớ, ở châu Á, người ta cho rằng đứa con thuộc phần trách nhiệm của người cha, vậy mà Chris đã quên mất. Ông đã quên thật, hay đã cố ý lãng quên? Không, chắc là vô tình, bởi vì...
Có tiếng gõ cửa lần nữa, Chris ngẩng đầu hỏi :
- Ai đó?
- Thưa ông, con Greta. Mời ông xuống xơi cơm, bà đang đợi. - Tôi xuống bây giờ.
Năm phút sau Chris sửa soạn xong. Ông phân vân không biết giấu bức thư vào đâu, nếu để trong túi áo thì thà cất trong cặp đựng hồ sơ lại kín đáo hơn.
Xuống phòng ăn, Chris thấy Laura đang đứng cạnh lò sưởi. Ánh lửa trong lò hắt lên khuôn mặt và mái tóc óng ả của bà, lóng lánh như nhảy múa. Lúc đến trước mặt vợ. Chris bảo :
- Anh sang văn phòng một chút.
Chris vào văn phòng, đóng cửa lại, cất bức thư vào cặp đựng tài liệu và giữ chìa khóa, rồi an tâm trở lại phòng ăn.
Chris lắng nghe Laura nói với một vẻ trìu mến lẫn ân hận. Bà khuyên dụ chồng, đồng thời cũng làm cho ông e ngại. Những lúc như chiều hôm ấy, Chris tự hỏi không biết mình có đủ thông minh để hiểu cái tính nết hay thay đổi này của Laura không. Ngay từ hồi mới lấy nhau, Chris đã khuyên Laura từ bỏ cái công việc bận rộn nghiên cứu sưu tầm những loại thuốc trụ sinh mới, tiềm ẩn trong một giống rong, ở miền biển Sargasses. Laura thường phải thực hiện những chuyến lặn thật sâu dưới đáy biển với những công cụ chuyên biệt gọi là "Scuba".
Ông đã hỏi vợ :
- "Scuba" là gì hả em?
- "Scuba" là tên một thứ máy lặn cá nhân, có bộ phận cung cấp dưỡng khí để thở.
Chris đã đặt sẵn câu hỏi, vì muốn hiểu rõ cái công việc nguy hiểm mà vợ ông đang theo đuổi.
Trước sự khẩn khoản của chồng, Laura đã từ khước hẳn việc đi biển. Tai nạn vì sự sút hơi ở bình dưỡng khí có thể xảy ra trong lúc lặn đã gây một ấn tượng nặng nề trong đầu óc Chris. Laura chỉ còn chăm chú vào các việc nghiên cứu tại phòng thí nghiệm thôi.
Chris hỏi :
- Buổi họp hôm nay bàn về vấn đề gì vậy em?
- Thảo luận về tác phẩm của Wiltob, và cố gắng định nghĩa giới hạn giữa thực vật và động vật. Thật ra vấn đề này cũng chẳng quan trọng gì. Nghĩ đến cuộc đời như nghĩ đến một dòng nước êm đềm, không
có sự ngăn cách nào giữa các sinh vật thì thật là một ý nghĩ tuyệt hảo. - Giải thích xem.
- Này nhé, có những hải động vật trông tựa như những thực vật, có màu xanh lá cây, nhưng lại biết bơi và tự nuôi sống mình như các động vật.
Được nói về nghề nghiệp của mình, đối với Laura là một điều hứng thú. Theo thói quen, bà say sưa diễn tả, đôi mắt long lanh, vẻ mặt rạng rỡ dưới ánh đèn làm cho Chris ngây ngất, ông chăm chú nhìn vợ như thất thần, khiến bà đỏ mặt, không nói tiếp được nữa.
Laura hỏi :
- Anh làm gì kỳ vậy?
Chris chậm rãi trả lời, mắt vẫn chăm chú nhìn vợ :
- Nghe em kể về những vật kỳ lạ ở dưới đáy biến, làm anh nhớ đến một cuộc trình diễn thời trang tại một nhà may. Lúc đó vào kỳ nghỉ hè, anh đến đấy để tập viết phóng sự và anh chú ý đến một cô gái vóc gầy, dong dỏng cao, có một vẻ đẹp làm anh ngây ngất. Nàng trình diễn một kiểu áo mùa hè, màu trắng và một kiêu mũ rộng vành. Có phải là em đó không nhỉ?
Laura cười :
- Và em, em còn nhớ đến một anh chàng bảnh trai, tóc đen, ngồi ở hàng ghế đầu, tay cầm một cuốn sổ làm bộ ghi chép, nhưng em biết anh chàng ấy không có vẻ gì là chú ý đến các kiểu áo hay các cô kiểu mẫu, mà là phải lòng một cô gái cao lớn.
- So với anh không cao lắm. Vả lại anh thích những người đàn bà cao, nhưng không được cao hơn anh. Khoảng cách lý tưởng là ba phân. Vài tuần lễ sau, đo lại, anh thấy đúng kích thước ấy. Anh còn nhớ, hôm ấy anh đã xin cưới em phải không?
- Hồi ấy em chỉ sợ anh không ngỏ lời xin cưới. Sao chúng mình khờ khạo đến thế nhỉ! Năm nay lão Milgrant mời em trở lại làm kiểu mẫu, anh biết không? Thú đấy chứ, nhỉ? Mình được trình diễn các kiểu áo "người thiếu phụ".
- Em cho anh biết rõ nghề nghiệp của em rồi thì ba tuần sau chúng
mình làm đám hỏi.
- Em vẫn sợ...
- Cho đến ngày anh nói với em rằng anh ước mong có được một người vợ thông minh như em.
Laura đặt dao và nỉa xuống bàn :
- Chris, nếu khi nào chúng mình không còn muốn hồi tưởng đến những kỷ niệm này nữa thì...
- Sẽ không bao giờ cả.
- Anh dám chắc với em điều đó không?
- Với sự trợ giúp của Thiên Chúa...
Greta mở cửa, như vậy là trái với lời căn dặn của ông chủ: "khi tôi đang dùng bữa với nhà tôi thì tuyệt đối không được quấy rầy".
- Xin lỗi ông bà, có ông Berman lại chơi.
Chris nhìn đồng hồ nói :
- À... y đến sớm. Mời ông ấy vào đây uống cà phê với chúng tôi. - Thưa vâng.
Greta đưa Berman vào, lúc nào ông ta cũng tỏ ra sống động, vui vẻ và liến thoắng.
- Kìa! Kính chào bà đệ nhất phu nhân, bà đã từ vùng sa mạc khoa học trở về! Nhìn thấy bà như thế này, ai có thể tưởng tượng được bà là một khoa học gia? Bà chẳng có vẻ gì là khô khan cả. Tôi nhận thấy các nhà tri thức đều gầy lỏng khỏng. Còn anh, thế nào đã khá chưa?
- Mời anh ngồi chơi. Greta sắp mang cà phê lên.
- Tôi đến đúng lúc biết bao! Thế nào, anh đã cho chị ấy biết vì sao anh được cảm tình của cử tri chưa?
- Còn sớm quá, mới chỉ là một cuộc thăm dò dư luận thôi Laura ạ.
- Các biến cố tương lai đã thấy phản ánh ở hiện tại rồi - Berman đổi giọng nói và ngồi xuống ghế - Tôi mong ngày mai anh trở lại sở được. Mình phải tính từng ngày một ngay từ bây giờ. Barrows không phải là
một đối thủ tầm thường, hắn thuộc lớp người cũ nên quen biết nhiều. Hôm nay có người bảo tôi về hắn: "Ít ra, người ta cũng nhận thấy hắn có nhiều khuyết điểm". Duy trì trật tự quốc gia cũng là điều làm cho người ta lo nghĩ.
- Việc này do nguồng máy hành chánh chứ.
- Vâng, đó mới là điều tôi muốn thảo luận với anh. - Rồi y quay về phía Laura - Đấy, chúng tôi lại đem chuyện chính trị ra bàn trước mặt đàn bà rồi!
Laura nhìn chồng, khẽ cắn làn môi dưới. Chris cười :
- Này Joe! Hãy cẩn thận, anh nói vậy là chạm đến tự ái của nhà tôi rồi đấy.
Berman hết nhìn Laura lại nhìn Chris ấp úng :
- Tôi... Tôi... chỉ muốn...
Thấy vậy Laura liền nói xen vào một cách rất bình thản :
- Anh đừng để ý! Nhà tôi chọc tôi đây. - Rồi bà nhìn chồng cười ròn rã.
- Ấy tôi nói cho vui mà anh. Anh còn lạ gì nhà tôi, chuyện gì bà ấy cũng biết. Đôi khi bà ấy giúp tôi những ý kiến chí lý nhất về đường lối tranh đấu của tôi. Trên thực tế chính nhà tôi là người vận động cho tôi chiếc ghế Thống đốc, khốn nỗi, chính tôi là người ao ước được chiếc ghế đó.
Laurau phản đối :
- Em đâu màng đến chiếc ghế Thống đốc của anh. Ngay nếu như người ta mang dâng cho em chức vụ đó em cũng từ chối. Như thế này, em đã hạnh phúc chán!
Có tiếng chuông điện thoại reo.
- Em xin lỗi - phòng thí nghiệm gọi.
Laura đứng dậy duyên dáng lướt qua người Chris. Ông nắm lấy tay bà và hôn vào lòng bàn tay thơm tho của vợ :
- Em có trở lại không?
- Có lẽ không anh ạ, để hai người nói chuyện. Chiều nay em có vài việc phải giải quyết.
- Thế chốc nữa nhé.
- Vâng.
Laura đi khỏi, Berman thở dài :
- Tôi tưởng tượng lúc chị ấy ở tòa Bạch Ốc, chị ấy sẽ đẹp tuyệt vời trong vai trò đệ nhất phu nhân của quốc gia.
- Ừ!
Chris ừ với một vẻ lơ đễnh và đột ngột đứng dậy :
- Mời anh sang văn phòng tôi uống cà phê, tôi có câu chuyện muốn nói với anh.
° ° °
Vào văn phòng, Chris đi nhóm lửa. Tiết trời vào đầu xuân còn lạnh. Và khi những thanh củi táo nổ cháy, Chris bắt đầu kể :
- Trước khi sửa soạn công việc cho ngày mai, tôi có câu chuyện muốn nói với anh. Thực ra, đây là chuyện riêng của tôi, không liên can gì đến ai. Nhưng từ lúc này, đời sống cá nhân có còn là của riêng tôi nữa không? Dường như ngay cả đến việc đau ốm tôi cũng không có quyền, nếu điều đó mang lại nhiều hậu quả công cộng. À, tôi bắt đầu từ chỗ nào rồi anh nhỉ, có lẽ tôi mới bắt đầu kể phải không anh.
Rồi Chris kể lại từ hôm chàng xuống tàu sang Triều Tiên và đến sáng hôm nay nhận được thư của đứa bé và kết luận :
- Câu chuyện như vậy đó anh ạ.
Than trên những đầu củi tàn dần. Berman im lặng nghe cho đến phút chót mới lên tiếng :
- Theo anh kể thì đây là chuyện riêng của anh, nhưng nó không còn là chuyện của anh nữa. Lớp người trẻ đều đã hành động như anh, nhưng điều ấy không quan hệ. Những đứa con lai không phải là hiếm. Điều này tôi chưa nghĩ tới, nhưng rồi cũng phải nghĩ tới. Vả lại...
Anh ta ngừng lại xoa cằm :
- Không có bản báo cáo nào về vấn đề này. Nhưng tôi cũng đã sống ở Đức rồi. Chị ấy biết chưa anh?
- Nhà tôi chưa biết!
- Anh có định cho chị ấy biết không?
- Ờ... Có. Nhưng tôi không biết nên nói như thế nào và nói lúc nào. - Có bắt buộc phải cho chị ấy biết không?
Chris nhìn Berman :
- Không bắt buộc sao?
Họ nhìn nhau một lúc, rồi Berman lên tiếng :
- Tôi không hiểu tại sao anh lại cho chị ấy biết. Nói ra chẳng ích lợi gì hơn. Đàn bà họ hay lôi thôi về những chuyện như thế này lắm. Họ đâu có hiểu được chuyện đàn ông chúng mình. Bà nào cũng vậy. Tốt hơn đừng để nhiều người biết quá. Nếu anh không trả lời, con anh sẽ tin rằng anh không nhận được thư của nó. Thôi thì xé nó đi, đừng nghĩ ngợi nữa. Anh không định có con ở bên ấy sao?
- Không anh ạ. Lúc nhìn đứa bé tôi phải khó khăn mới tưởng tượng nổi nó là con tôi đây.
- Hay nó không phải con anh?
- Phải mà.
- Anh có chắc chắn thế không?
- Nàng còn trong trắng.
- Tạm cho thế đi, nhưng...
- Hồi còn ở bên ấy, tôi là người duy nhất đi lại với nàng. Hai người lại im lặng nhìn lửa cháy trong lò sưởi. Berman thở dài :
- Chris, nếu anh cho phép, tôi xin khuyên anh giữ kín. Đối với một công dân thường, hay một ông Thống đốc tầm thường, thì điều đó chẳng quan hệ gì. Nhưng còn anh, anh đã biết những dự tính của đảng ta. Anh là thành phần ưu tú mà đảng ước vọng xây dựng để nắm quyền Tổng thống trong tương lai. Dĩ nhiên là con đường anh
theo đuổi còn dài, một năm nữa, hay ít ra cũng phải sau một nhiệm kỳ làm Thống đốc. Sau đó, còn gì cản bước chúng ta nữa đâu. Dân chúng thường ưa nghe những chuyện giật gân, nhưng khi họ đã chọn ai làm Tổng thống, họ muốn đem vinh quang lại cho người ấy. Dẫu họ biết rằng ông ta không đáng được vinh quang họ vẫn muốn được quyền trao tặng ông. Tôi khuyên anh giấu kín chuyện ấy. Nếu câu chuyện tiết lộ, anh sẽ mất thì giờ giải thích, nhưng họ sẽ không tin đâu và họ cũng sẽ không tin nếu anh không xác nhận. Và rồi các đối thủ của chúng ta khỏi phải xen vào.
Sau một phút yên lặng, Berman lại hỏi :
- Này anh, đã từ lâu tôi muốn biết đàn bà Á châu có khác gì với...
Câu hỏi làm Chris giật bắn người lên và bằng một cử chỉ giận dữ, ông đưa tay ngăn không cho Berman nói tiếp. Chris ghê tởm, chán ngán, nhưng ông tự nhủ sẽ không gây ra bất cứ một mối hiềm thù nào, kể cả với Berman. Ông đang cần Berman. Ông không trả lời và ngồi xuống :
- Thôi để mai hẳn tiếp tục. Tôi sẽ suy nghĩ kỹ đề nghị của anh. Có lẽ anh có lý.
° ° °
Nhưng đêm ấy, nằm trên giường một mình, Chris nghĩ Berman đã nhầm.
Vành trăng mùa xuân chiếu vào căn phòng của Chris một làn ánh sáng mờ nhạt, Chris không sao ngủ được, ông thao thức gần đến sáng. Chris đi nằm vào lúc quá nửa đêm.
Laura đã ngủ say rồi. Ông mở cánh cửa thông sang phòng vợ, nhìn nàng nồng say giấc điệp, một bàn tay đặt dưới má, tóc buông xõa trên gối.
"Mình!" Chris thầm gọi, nhưng Laura vẫn ngủ say. Vừa thất vọng vừa như được an ủi. Chris đóng cửa lại về phòng nằm. Ông chỉ ngủ được khoảng một tiếng đồng hồ rồi giật mình thức dậy. Dường như có tiếng ai than khóc. Nhưng không, giữa sự thanh vắng của đêm trường chỉ có tiếng những xà nhà cũ kêu răng rắc mà hồi còn nhỏ Chris cho rằng đó là tiếng chân ma bước đi trong ngôi nhà cổ.
Chris cảm thấy quá đỗi cô đơn. Bức thư đang nằm trong chiếc cặp để bên ông, ở dưới đất. Chris quyết định đọc xong rồi hủy đi. Nhưng Chris sẽ không hủy nó đêm nay. Ông không thể nào chịu nổi cảnh cô độc này thêm nữa.
Vả lại, liệu Chris có thể một mình quyết định được không? Niềm ưu tư cứ theo đêm dài mà tăng dần. Giả sử như Chris có quyền dối gạt đồng bào đi chăng nữa, ông cũng không có quyền dối gạt vợ ông. Dầu ông đã giấu diếm vợ, nhưng nếu Laura khám phá ra sự thực thì sao? Laura sẽ nghĩ gì khi biết rằng chồng bà đã thố lộ trước với Berman, một chính khách khá tò mò? Chris tự hỏi tại sao mình không đem tâm sự tỏ bày cùng Laura, một người vợ hiền, một người bạn tốt, mà lại đi nói với Berman để hắn nghe với một vẻ tò mò tà ý như thế?
"Chán thật!" Chris thầm nhủ và tự cho mình là hèn.
Tuy nhiên, Chris vẫn còn do dự. Chris tin chắc ở tình yêu của Laura, cũng như sự hiểu biết của vợ ông - Không, dầu sao cũng không nên quá tin tưởng vào sự hiểu biết của một người đàn bà, dẫu người đó là Laura. Thương hại, Chris không thể nào chịu đựng được hai tiếng ấy, hiện thời không phải là lúc ông cần đến tình thương. Ông phải nói để vợ ông hiểu rằng ông chẳng có trách nhiệm gì hết - rằng ông chỉ đi tìm hơi ấm của một người đàn bà. Hồi ấy giữa cái cảnh cô quạnh của chiến tranh, xa cách đời sống tiện nghi thường nhật, Chris đã chấp nhận sự an ủi mà Sương đã hiến dâng. Chris sợ bị sa ngả như một vài người bạn của mình nên đã bám víu vào cái phao mà Sương đã mang đến. Liệu Chris có thể nói cho Laura hiểu nổi điều đó không? Như vậy phải chăng là Chris đã ăn xin lòng thương trắng trợn với vợ thế này: "Anh cũng như các người khác, anh cần đàn bà". Nhưng kìa, Chris đâu có nghĩ rằng mình giống như những người khác!
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi giữa lúc trăng tàn và khi bình minh ló dạng. Chris chấm dứt suy tư bằng một quyết định. Trời vừa rạng sáng, Chris chỗi dậy, rửa mặt, khoác chiếc áo ngủ vào người, mở cánh cửa ăn thông sang phòng của Laura. Vợ ông đang ngủ, khuôn mặt chìm trong vùng bóng tối, hơi thở nhẹ nhàng, thơm tho. Trong cái thế nằm buông thả, trông Laura như một trẻ thơ. Chris cúi xuống khẽ hôn lên đôi môi khép kín của vợ. Laura giật mình mở mắt, mỉm cười không nói, giở cái chăn lên và Chris chuồi mình nằm xuống bên cạnh.
Laura nói, giọng còn ngái ngủ :
- Hôm qua, em cố thức để đợi anh.
- Em đừng có đợi anh. Anh đi ngủ trễ lắm.
Laura ép mình sát vào người chồng. Chris hiểu ngay đó là sự mời mọc của nàng. Sau mỗi lần bất hòa Laura vẫn thường phản ứng như vậy. Bà muốn dâng hiến trọn tình yêu cho chồng. Cử chỉ này đã nói lên điều đó. Chris chưa bao giờ khước từ, nhưng lần này đã phải từ chối vì nghĩ rằng mình chỉ xứng đáng đón nhận tình yêu của Laura sau khi đã nói rõ hết sự thực.
Phải chăng ông đã nghĩ sai khi khước từ chuyện gối chăn, một phương sách tốt để được bà thông cảm.
Laura đưa tay mơn trớn môi chồng. Bà khẽ hỏi :
- Sao anh trầm lặng quá vậy?
Chris nắm tay vợ, ôm sát vào ngực, nói :
- Em ạ, anh có chuyện muốn bàn với em.
Rồi ông vắn tắt kể lại cho bà nghe các sự việc đã xảy ra ngày hôm trước.
- Sáng hôm qua trong lúc anh đang điểm tâm thì Greta mang giấy tờ vào. Có một phong thư từ Triều Tiên gởi cho anh... mà anh không ngờ được.
Mắt nhìn trần nhà, Chris kể lại hết không lựa lời cũng chẳng thanh minh.
Laura không vùng chỗi dậy ngay mà vẫn nằm dài bất động. Khi Chris kể xong, ánh nắng đã chiếu tới các cây bạch phong ngoài đường. Chris nghe thấy tiếng Laura thở dài. Rồi bà ngồi dậy cuốn lại mái tóc dài thành búi tó.
- Ít ra anh đã cho em biết tất cả...
- Thế mới phải.
Laura bắt đầu nghĩ ngợi, mắt nhìn ra cửa sổ với một vẻ suy tư. Chris nhìn vợ chờ đợi.
Một lát sau, bà nói :
- Em tiếc rằng anh đã thổ lộ cùng Berman chuyện ấy!
- Ngày một ngày hai, thế nào rồi anh ta cũng sẽ biết. Berman chắc thế nào anh cũng nói với em chuyện này. Nhưng nếu anh ta coi đó là lý do để phản đối việc anh ứng cử, anh vẫn cứ nói cho em biết.
Laura dường như không để ý gì đến lời nói của chồng. Với vẻ mặt suy tư, bà hạ giọng :
- Anh đừng nói với anh ta là em biết nhé... Em muốn... - Ừ.
Bà giải thích :
- Bởi vì em không thể nào chịu được khi phải đề cập chuyện ấy với anh ta, hay phải nghe anh ta nói về chuyện ấy.
- Anh hiểu. Bây giờ chuyện này chỉ còn giữa hai chúng ta mà thôi.
- Anh muốn nói gì? Tại sao lại "bây giờ". Xưa nay bao giờ mà chả vậy. Duy có điều em không hiểu là...
- Đáng lý anh đã nói cho em biết chuyện này từ lâu. Nhưng anh xem như nó đã chấm dứt từ lâu rồi và đã quên hẳn.
- Quên thì có thể anh quên, nhưng chấm dứt thì chưa vì còn có đứa bé ấy.
- Em có muốn đọc thư của nó không?
Laura nghĩ ngợi rồi đáp :
- Không. Điều quan trọng lúc này không phải là đứa trẻ, mà là mẹ nó. - Laura, em! Cô ta... cô ta không phải là...
Chris muốn ôm lấy vợ vào lòng, nhưng Laura cưỡng lại. - Đừng anh, anh hãy để cho em suy nghĩ.
Chris khoát chăn ngồi dậy, chậm rãi nói :
- Vâng, anh để cho em suy nghĩ một mình.
Chris chỉ mong Larua giữ mình lại, nhưng bà chẳng nói gì hết. Bà
nhìn theo chồng với đôi mắt suy tư, cho đến khi ông bước tới cửa, chần chừ vì không thể bỏ bà lại một mình trong tình trạng bất quyết như thế, Laura mới gượng cười, Chris nhảy bổ về phía vợ :
- Laura, em! Những năm dài hạnh phúc của chúng ta mới là điều đáng kể có phải không em?
- Vâng, những năm dài hạnh phúc mới là điều đáng kể, không ai có thể lấy mất của chúng mình cả. Nhưng có điều em... đó là vấn đề.
Chris ngồi xuống thành giường, cố giữ để khỏi phải ôm siết vợ vào lòng.
- Vấn đề gì thế em?
- Em không biết chắc. Anh có biết nhân vật nào đã nói: "Tôi chỉ có thể giải đáp khi tôi đã tìm ra được vấn đề?"
- Gertrude Stein đã nói lúc gần chết.
- À, phải rồi câu ấy của Gertrude Stein mà em quên khuây đi mất! Lời nói thật đẹp. Nhưng anh rán đợi, để em có thì giờ...
- Được, chúng ta ai nấy bắt đầu công việc trong ngày như thường lệ và đồng thời suy nghĩ kỹ lưỡng; tối nay sẽ bàn lại.
- Laura, em nên nhớ rằng anh yêu em và chỉ yêu một mình em thôi. Anh không để em xa anh đâu. Nếu em bỏ anh, anh sẽ đi theo em. Em ở đâu, anh cũng tìm ra và sẽ sống bên em nếu không thể nào giữ em lại được. Ngày nào anh còn sống, em không thể xa anh được. Em nghe chưa?
Laura chỉ gật đầu, khiến Chris không hài lòng.
- Em phải trả lời anh chứ. Em có nghe không?
- Có. Em nghe rồi.
° ° °
Điểm tâm xong, Chris đi ngay đến sở - Chris ăn một mình vì Laura dặn Greta bảo ông đừng đợi bà. Berman đã đến và đang có vẻ bận rộn. Anh ta báo cho Chris biết có cụ Henry Allen đến thăm. Ông cụ là chủ nhà băng giàu nhất trong thành phố, theo đạo Quaker.
Cụ tiến tới bắt tay Chris và nói :
- Tôi hy vọng bà nhà sẽ tham dự cuộc tranh cử này với ông. - Tôi không biết nhà tôi có tham dự không.
Ông cụ ngồi trong một chiếc ghế bành đối diện với Chris, cụ Alien là một nhân vật có uy tín, mọi người đều biết cụ qua cái dáng người cao và còng của cụ.
Tuy ở trong một tòa nhà tại khu quan trọng và lâu đời nhất của địa phương nhưng gia đình họ Alien vẫn sống một cuộc sống thật đơn sơ, giản dị. Cụ nói chuyện với Chris rất lâu, trực tiếp đề cập đến một số vấn đề, rồi kết luận :
- Tôi rất tán thành chương trình của ông, nhất là việc mạnh dạn cải tổ thuế vụ, điều đó thật cần thiết. Tôi hy vọng bà nhà sẽ giúp ông trong việc vận động tranh cử, đó là một sự giúp đỡ quan trọng. Hình như bà nhà chuyên về môn hải dương học phải không ạ?
- Vâng. Nhà tôi làm phụ tá cho ông giám đốc hải học viện Nữu Ước. - Vậy, chắc bà phải vắng nhà luôn, có phải không?
- Thưa cụ không. Vì nhà tôi hiện đang viết một tác phẩm về các khoáng sinh mà bà đang nghiên cứu. Bà chỉ vắng nhà để đi dự hội nghị hoặc đến phòng thí nghiệm.
- Vậy, ông sẽ được bà giúp đỡ tận tình chứ?
- Vâng, tôi chắc nhà tôi sẽ giúp tôi tận tình.
- Ông bà được cháu nào chưa?
Ông cụ hỏi không một chút ẩn ý nhưng câu hỏi đó đã làm cho Chris bối rối sững sờ. Ông do dự rất lâu rồi mới trả lời một cách hết sức đột ngột :
- Dạ chúng tôi không có con.
- Tiếc thật! Theo tôi, con cái cũng có lợi cho những người làm lớn. Tôi có được sáu đứa, toàn là trai. Tuy tôi chưa từng giữ một chức vụ công cử nào, nhưng với tư cách là một chủ Băng, tôi thấy có con là một điều hữu ích. Có một yếu tố liên tục trong một gia đình đông đúc.
- Vâng, tôi thấy không con cũng là điều đáng tiếc.
Cụ Alien đứng dậy :
- Thôi, nói chuyện với ông đã một tiếng đồng hồ rồi, để khỏi mất thì giờ của ông, tôi xin xác nhận rằng, tôi rất hài lòng về việc ông ra ứng cử, tôi sẽ giúp ông bằng rất cả mọi phương tiện mà tôi có.
Chris đứng dậy chia tay :
- Xin cám ơn cụ hết sức. Nếu cụ nhận lời tham gia vào ban cố vấn của tôi thì quý hóa quá.
Cụ Alleti mỉm cười :
- Ở tuổi tôi, người ta không còn làm được việc gì lớn lao nữa, nhưng làm cố vấn thì tôi sẵn sàng ngay.
- Ông Joe Berman, người điều khiển chương trình vận động tranh cử của tôi sẽ xin tiếp xúc với cụ sau.
Chris siết chặt bàn tay khô khan và xương xẩu của cụ Alien một lần nữa và tiễn ra tận cửa. Berman gặp Chris ngay sau đó và hỏi :
- Sao? Ông cụ nói sao? Liệu có giúp mình không?
- Có, ông cụ hứa giúp mình. Ahh sẽ đến gặp ông.
- Bao giờ? Ngay bây giờ à?
- Không, ngay thế nào được. Việc gì mình cũng phải chờ vài hôm chứ. Joe, anh cho phép tôi suy nghĩ vài phút nhé.
Berman nhìn Chris một cách chăm chú :
- Ít ra anh chưa cho chị ấy biết chuyện đó chứ? Thôi, anh khỏi trả lời tôi. Không biết mà hay. Tôi không muốn anh bị quấy rầy. - Berman đi ra nhẹ tay khép cửa lại.
Còn lại một mình, Chris ngồi vào bàn giấy, đầu cúi xuống, hai hàm răng cắn lại, tay nắm chặt đè lên tập số để trên bàn.
Trong hoàn cảnh hiện tại, Chris phải liệu sắp xếp cho ổn thỏa. Ông làm sao có thế tiến hành cuộc vận động tranh cử được khi mà ông chưa biết phải xử trí như thế nào về vấn đề đứa bé, những gì ông phải làm chứ không phải là những gì ông muốn làm. Trao quyền
quyết định cho Laura thì nhu nhược quá. Chính ông phải quyết định lấy; vợ ông có tự do hoàn toàn trong việc chấp hay bác bỏ quyết định đó.
Bằng một cử chỉ nhất quyết, Chris mở cái cặp đựng tài liệu, lấy ra một phong thư màu xám. Cầm bức thư trong tay, ông chợt nhận thấy trong phong bì còn một cái gì khác nữa. Đó là tấm ảnh của đứa bé. Hai mắt nó nhìn Chris, mặt nó xương xẩu, cổ gầy guộc, đôi tai quá lớn. Tuy nhiên Chris nhận ngay ra được những đường nét của chính mình, nhưng còn đôi mắt thì lại đôi mắt của người Á châu.
Nước mắt Chris trào ra nóng hổi. Con ông đó! Cũng như mọi người ông đã mong có một đứa con trai, nhưng không phải đứa con trai lai Á như thế này! Cổ họng ông se lại, tim đập mạnh như muốn chống đối đứa bé do chính mình và người đàn bà ngoại quốc sinh ra.
Chris cầm lấy điện thoại, miệng khẽ gọi: "Laura". Từ nhà đến sở ông có đặt một đường điện thoại riêng. Chris chờ đợi khi tiếng chuông reo, tim ông đập mạnh.
- Chris, anh đây à?
- Anh đây, Laura, anh muốn nói với em...
Nói gì với nàng đây? Chris thấy khó nói quá, hơi thở dồn dập, ông im lặng để lấy lại bình tĩnh.
- Chris!
Vẫn không thấy chồng trả lời, Laura hét lên :
- Chris, anh có sao không? Anh muốn em đến đấy không?
Chris lấy lại bình tĩnh. Ông không muốn vợ ông thương hại; Ông đáp bằng một giọng khàn khàn :
- Đợi anh một chút.
Rồi Chris lấy lại giọng, tiếp :
- Anh không biết làm sao, tự nhiên anh không thể... Anh thấy cần phải gọi em. Có một tấm ảnh...
- Một tấm ảnh?
- Chiều qua anh không thấy. Nhưng bây giờ ở một mình, anh quyết định đọc bức thư ấy. Khi anh rút bức thư từ phong bì ra thì có một tấm ảnh...
- Ảnh đàn bà phải không?
- Không, không, ảnh của một đứa con trai. Em làm như anh là kẻ bê bối không bằng.
Đến lượt Laura im lặng. Chris cảm thấy như phải chờ rất lâu. Cũng như bà, ông nghĩ, hay Laura lại đau ốm gì, nhưng không nói ra. Chris chờ cho đến lúc vợ ông nói :
- Em lại đây nghe anh. Anh xuống đợi em ở lối đi vào. Ước gì chúng ta cùng đi... ra bờ bể chẳng hạn... Anh có rảnh không?
- Được; anh sẽ thu xếp.
Chris đã thu xếp xong, ông bảo Berman rằng hôm nay ông vắng mặt. Riêng với người thư ký thì Chris lấy cớ vì bận việc bất ngờ. Anh ta theo Chris đến tận thang máy, miệng ấp úng :
- Nhưng, thưa ông Winters, nhưng...
- Để ngày mai, ngày mai. - Vừa nói, Chris vừa bước vào phòng thang máy.
Bức thư và tấm hình đang nằm trong túi ông. Đã đến lúc ông phải xem lại cả hai và gặp Laura. Vô tình Chris nảy ra ý định sang Triều Tiên gặp thằng bé để xem tình trạng sức khỏe của nó, vì sao nó lại gầy ốm đến thế. Không phải Chris đi Triều Tiên vì Sương. Laura phải hiểu là ông chỉ nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với đứa bé. "Phải, Laura ạ, anh có trách nhiệm với đứa bé; Đáng lẽ anh phải phòng ngừa những gì sẽ xảy ra và không nên mạo hiểm. Bây giờ thì đã muộn, nhưng cũng không hẳn là muộn quá!" Ý nghĩ ấy lẩn quẩn trong đầu óc Chris, trong lúc ông chờ Laura ở lối vào cho mãi tới lúc ra đến đường phố. Bây giờ là mùa xuân, khí hậu ấm áp dễ chịu Chris cũng không hay.
Laura lái chiếc xe mà Chris đã tặng vào ngày sinh nhật của bà. Xe sơn màu xanh làm nổi bật mái tóc óng vàng của Laura. Bà mặc áo màu xám tro, tay mang găng, nhưng đầu để trần. Chris nhìn thấy mặt vợ tái xanh, tự hỏi phải chăng bà đã khóc? Ông không biết rõ, vì
khuôn mặt cũng như đôi mắt của vợ ông vẫn bình thản. Ông mở cửa bước vào xe nói :
- Em để anh lái cho.
- Vâng.
Laura đồng ý ngay khiến Chris ngạc nhiên, vì bà vốn là người thích được lái xe. Bà nhích người ngồi sang một bên. Họ im lặng lái xe chạy qua các đường phố. Thỉnh thoảng họ nhìn nhau mỉm cười. Cuộc tạm biệt ngắn ngủi hồi sáng đối với họ là một điều bổ ích, mỗi người mỗi nơi để suy nghĩ hơn là cùng ngồi chung với nhau. Khi chiếc xe ra khỏi thành phố, Chris mới nói với vợ :
- Anh có điều này muốn nói với em. Dầu thế nào anh cũng để chính em toàn quyền quyết định việc này theo ý em muốn.
- Em nghĩ rằng em sẽ chẳng quyết định gì hết. Quyết định nào thì cũng phải công bằng và phù hợp cho cả bốn người: thằng bé, mẹ nó, anh và em.
- Trước hết phải phù hợp với em đã.
- Không, không có người nào trước cả.
Yên lặng, xe chạy thêm được một vài cây số nữa Laura mới hỏi Chris :
- Anh có mang theo tấm ảnh đấy à? Cho em xem được không? Chris gật đầu đồng ý :
- Anh để trong túi ấy. Em lấy mà xem.
Laura cho tay vào túi Chris lấy bức ảnh ra ngắm nghía một hồi lâu, đoạn nói :
- Nó giống anh quá xá! Giả sử em chưa biết gì hết, mà có gặp nó ở ngoài phố bên Triều Tiên, hay bất cứ ở đâu, em cũng nhận ra ngay. Nó chính là anh, chỉ trừ cặp mắt, chắc là giống mẹ?
Chris định trả lời "Anh có còn nhớ gì đâu" nhưng lại thôi. Ông không cho phép mình dối trá dù chỉ sai sự thực một chút :
- Mắt Sương đen và đẹp, cũng như tất cả mọi người Triều Tiên khác.
- Em không biết - Laura cố gắng giữ giọng nói cho tự nhiên - Tại sao người xứ họ chỉ có một màu da mà người mình thì không?
- Vì họ là một dân tộc thuần nhất. Từ nhiều thế kỷ họ sống trên mảnh đất ấy mà không bị pha trộn với dân tộc khác. Nếu chúng mình cũng sống trên quê hương chúng mình được bốn ngàn năm xem, chúng mình cũng sẽ chỉ có một màu da thôi.
- Phải, vậy mà em không nghĩ đến.
- Em để tấm ảnh vào túi anh đi.
- Cho em xem chút nữa.
Trong im lặng, Chris liếc mắt nhìn Laura ngắm bức ảnh. Vài phút sau, bà để trả nó vào túi Chris, không nói một lời, Chris cảm thấy có một sự im lặng khó chịu. Từ chân trời, họ đã nhìn thấy biển rộng bao la, và đã ngửi thấy mùi muối. Chris đề nghị :
- Chúng ta lại vịnh đi. Vịnh của họ là chỗ bờ biển có những đụn cát bao quanh. Vào mùa này không có du khách. Hai người có thể nằm trên cát sưởi nắng.
- Em có mang gì để ăn không? Không thì mình vào nhà hàng "Sơn Hải" ăn.
- Vậy cũng được.
Chris lái xe vào một làng ven bể và ngừng trước một lữ điếm. Hai người đi vào nhà hàng, Laura không cầm tay Chris như mọi khi mà chỉ khoác tay chồng như một người bạn, trong khi chỉ vì một sự bất đồng ý kiến thoáng qua mà cả hai cần phải hết sức kiên nhẫn.
° ° °
Trên bãi bể, họ nhìn lên nền trời xanh, lằn vằn những cánh chim hải âu bay lượn! Chris phân trần với vợ một hồi lâu, ban đầu ông thấy khó nói nhưng về sau quen dần. Laura bắt đầu hiểu, hay ít ra Chris đã tưởng như vậy. Laura nằm dài trên cát, đầu gối trên cái áo vét của chồng gấp lại. Mặt trời chiếu vào đôi mắt u buồn của Laura làm cho làn mi dài màu nâu của bà óng ánh vàng. Chris thấy rõ những đốm đỏ trên màu trắng của làn da mặt vợ, mà từ lâu ông không hề để ý. Những đốm đỏ ấy hồi Laura còn nhỏ chẩc nhìn thấy rõ hơn bây giờ.
Laura nói :
- Anh ạ, chúng ta mỗi người có một phản ứng khác nhau. - Tại sao?
- Lúc nào anh cũng nhắc đến thằng bé, còn em thì chỉ nghĩ đến mẹ nó thôi.
- Mẹ nó không đáng kể.
- Có chứ. Nhiều là đằng khác. Em muốn biết mẹ nó.
- Để làm gì? Anh đã quên cô ta rồi.
- Ồ! Anh quên. Em còn biết rõ hơn thế nữa. Nếu anh chỉ là một kẻ quê mùa, tầm thường, đần độn, em tin anh ngay. Nhưng anh lại là người em yêu mến, em kính trọng...
Bà quay nhìn nơi khác, mắt như chìm vào khoảng trời xa thẳm :
- Em khổ tâm mà cho anh biết! Vì em đã quyết không bao giờ nhắc lại sự lầm lẫn của mẹ em. Kiến thức của em là do mẹ em, chứ không phải của ba em. Em đã thấy cái tuổi già đây cô độc và chán nản của bà. Đọc tiểu sử bà Marie-Curie, em tiếc cho mẹ em không có một người chồng hiểu và biết nghe bà. Hồi ấy em đã thề là sẽ không bao giờ lấy một người chồng mà kiến thức thấp kém hơn em. Còn anh, ít nhất anh cũng là người có thể nghe em nói hàng giờ về những công việc của em mà không thấy chán.
- Sao em lại muốn anh chán khi nghe em kể chuyện nhỉ? Những chuyện em kể đều là những chuyện thú vị mà anh chưa hề biết. Nghe em kể chuyện, anh nhìn thấy em đẹp hơn lên.
- Mẹ em quả quyết là đàn ông không ưa đàn bà thông minh. Bà đã tha thứ cho ba em, nhưng em vẫn ghét ông... Anh?
- Gì em?
- Nếu chỉ có sắc đẹp thôi, anh có lấy em không?
- Không.
- Hoặc em chẳng đẹp gì cả?
Chris ngần ngừ một lúc rồi nói :
- Cái đó không thể biết được.
- Thế tại sao anh lại muốn lấy em?
- Anh đã bị tiếng sét ái tình vào cái hôm em trình diễn bộ y phục màu trắng với chiếc mũ rộng vành.
- Thế lỡ em lại là người dốt nát thì sao?
- Anh sẽ quên em ngay. Ở đời không thiếu gì cái đẹp. Em ạ, nếu vì điều đó mà em phải nghĩ ngợi nhiều những lúc sau này thì anh xin thú thực với em, vừa có thể là một cô kiểu mẫu, vừa có thể là một chuyên viên hải dược học.
- Trước đây, em đâu có thấy anh để ý gì đến khoa học?
- Thì em cũng đâu có để ý gì đến chính trị? Chúng ta mở rộng tầm kiến thức lẫn cho nhau. Người đàn bà anh thích không phải chỉ đẹp vì biết ăn mặc mà còn - Anh thú thật với em điều này, vì ở đây chỉ có hai chúng mình - đẹp cả những lúc không có áo quần. Anh còn thích người đàn bà nào biết sử dụng trí thông minh của mình để biết rõ mức độ của sự cưng chiều, sự hiểu biết và sự chia sẻ cần yếu trong tình yêu.
Chris cúi nhìn vào mắt Laura và vuốt tóc vợ :
- Có thể là em không hiểu rõ anh yêu em đến mực nào? Laura đáp lại nét nhìn của chồng mà không lẩn tránh. - Vậy anh đối với cô Sương ra sao?
Chris rút tay về, nhưng Laura nắm lại đặt lên ngực mình.
- Không, anh nên cho em biết. Em muốn biết. Không phải vì chuyện ấy sẽ làm cho em đau khổ thêm - vì anh không nói ra thì em cũng đã nát gan nát ruột rồi - mà vì em muốn biết những gì anh đã cho cô ta mà không cho em. Ồ, em không định nói thế, em muốn nói khác cơ...
Nàng ngồi dậy, gục đầu vào hai đầu gối, suy nghĩ một hồi, rồi ngẩng lên nói tiếp :
- Cô ta có một cái gì quyến rũ anh mà em không có. Một cái gì đó. Có thể là em cũng có mà em không biết. Cô ta đã cho anh cái gì đó mà anh không tìm thấy lúc gần em, có phải không? Này anh đừng nghĩ là
em ghen, em không có ghen đâu em chỉ tủi thân thôi. Em sẽ hỏi cô ta, nếu có thể..
Bà ngừng lại, bất chợt nhìn chồng với một vẻ ngạc nhiên :
- Nếu có thể? Ơ, mà sao không? Không lý em đi hỏi cô Sương được sao?
- Ồ, em thật vô lý!
Chris phản ứng một cách nóng nảy, nhưng trấn tĩnh được ngay.
- Laura, em hãy nghe anh. Cô Sương không hiểu được những gì em muốn nói đâu. Đến anh mà cũng chẳng hiểu được nữa là. Vả lại, anh đi mới phải. Anh mới là người có lỗi, chứ không phải là em. Hơn nữa, anh muốn rõ tình trạng của đứa trẻ. Nếu nó chưa đi học, anh sẽ gởi nó vào nội trú.
- Anh không lý gì đến cô Sương sao? Cô ấy là mẹ nó mà! - Em thật kỳ cục. Đâu cần gì em phải bênh vực.
- Có lẽ anh mới kỳ cục, chứ không phải em. Lâu nay anh chẳng ngó ngàng gì đến nó, bây giờ lại nói đến việc cho nó vào nội trú. Cô ta chỉ có mỗi mình nó.
- Cái đó anh không chắc à.
- Anh muốn nói gì?
- Chắc đã có người khác thay anh rồi.
- Anh nói thế mà được, với người đàn bà mà anh... mà anh đã... - Trời ơi, nước lên kìa em. Mình sắp bị nghẽn lối về rồi.
Nước biển dâng lên thật, từng đợt sóng vỗ vào dải cát hẹp. Hai người vội chấm dứt câu chuyện, nắm tay nhau đi vòng quanh ghềnh đá, mà chỉ chậm một chút họ sẽ bị giữ lại đây.
Mệt đứt hơi, họ vẫn nắm tay nhau đi đến khu cát cao. Xa xa những con chim biển dập dình trên đầu sóng như chờ cho sóng vỗ vô bờ là cất cánh bay cao.
Chris vừa thở dốc, vừa hỏi vợ :
- Mình nói chuyện đến đâu rồi nhỉ?
- Anh bảo em muốn sang Triều Tiên gặp đứa bé. Em cũng muốn gặp nó, nhưng mà...
Chris buông tay vợ, châm thuốc hút.
- Laura, em muốn theo anh sang đây thật sao?
Laura nhìn chồng, ánh mắt như nài nỉ :
- Không, nếu anh không chịu thì thôi. Nhưng em chỉ muốn đi một mình.
- Tại sao vậy?
- Vì anh không trả lời câu hỏi của em.
- Anh không biết trả lời thế nào nữa. Nếu anh nói như thế này mà em không chịu hiểu thì anh cũng chẳng biết làm sao. Hồi ấy anh như một đứa trẻ bị thất lạc giữa lòng địa ngục, và lần đầu tiên anh vớ được một nguồn an ủi. Anh còn biết là chúng mình đã lấy nhau, nhưng anh không biết liệu có sống sót để trở về với em hay không. Hơn nữa, anh có biết bản chất đích thực của tình yêu ra sao đâu? Với một thanh niên bị những đòi hỏi của tình dục ám ảnh như anh hồi ấy, cô ta không phải là hạng gái dễ dãi.
- Em không tin rằng, trước kia anh là một thanh niên tầm thường. Trong thời gian anh ở Triều Tiên, không lúc nào là em không nghĩ đến anh. Em tự hỏi, không biết anh có phải là người mà em hằng mơ tưởng không.
- Em chưa kể cho anh nghe những mộng ước của em bao giờ.
- Dĩ nhiên, em không biết em đã qua khỏi thời kỳ mơ mộng hay chưa. Anh có thể bị giày vò khổ sở, nhưng em thì không thể như thế.
Chris thở dài :
- Em hãy nghe anh nói. Viện dẫn các sáo ngữ lỗi thời mà cho rằng người đàn ông và người đàn bà - nhất là các thanh niên và thiếu nữ - khác nhau trên bình diện sinh lý là một điều quá dễ dàng, vì anh đã có bằng chứng hiển nhiên là điều đó trái lại. Em là người yêu lý tưởng của anh.
- Em khác với cô ta chứ?
- Dĩ nhiên rồi.
- Khác gì?
- Khác vô cùng, em tốt đẹp hơn, hoàn toàn hơn nhiều. - Mà tốt đẹp ra sao, hoàn toàn ra sao chứ?
Chris phác một cử chỉ thất vọng :
- Kìa em, thật em đã đổi khác. Em có bao giờ gây sự với anh như thế này đâu!
Laura nhận ra ngay là mình vô lý và lấy làm ngạc nhiên về điều đó.
- Vâng, quả thật em có điều không phải với anh, như thế là vô lý. Vậy, em sẽ đi Triều Tiên. Em đi một mình. Em sẽ thu xếp gởi thằng bé vào nội trú. Nó là con của anh. Nó phải có tất cả những gì nó cần. Phần em, rồi em sẽ tính... có lẽ không...
Chris gắt :
- Laura, phải chăng em muốn gây gổ với anh?
Laura nhìn chồng, không tức giận mà rất bình tĩnh với một quyết định dứt khoát. Bà chậm rãi nói :
- Em muốn đi Triều Tiên. Em muốn sang bên ấy ngay và đi một mình.
Chương II
Laura qua nhìn ra cửa sổ phi cơ để được nhìn thấy Chris một lần chót. Ông đã phải hấp tấp chạy lên sân thượng để nhìn cho được chiếc phi cơ cất cánh. Tay ông vẫy vẫy chiếc khăn màu hạt dẻ.
Chưa bao giờ Laura sống với chồng ba ngày như vậy: ba ngày thật là gần gũi mà cũng thật là xa cách. Họ không nghi ngờ về mối tình của họ, họ biết rằng không gì chia rẽ họ được và tin vào lòng chung thủy của nhau, nhưng không ai nói ra. Suốt đêm, Laura phân vân: bà không biết có nên sang phòng của Chris không, nếu chồng bà không đến với bà? Chuyến viễn du của bà sẽ kéo dài bao lâu? Cái đêm cuối cùng này lẽ ra hai vợ chồng phải cận kề bên nhau, nhưng điều đó đã không xảy ra, như vậy nó có ảnh hưởng đến tâm trí họ một cách thái quá hay không, trong khi họ phải xa nhau, dẫu chỉ là một sự xa cách vắn vỏi? Theo Laura thì bà chỉ vắng mặt trong vài ngày.
Chris đã nói :
- Dầu sao đi nữa, anh cũng chỉ yên tâm khi nào em đã trở về. Hãy vì anh mà tương nhượng cũng như anh đã tương nhượng em. Để em đi một mình, anh không biết chuyện gì sẽ xảy đến với anh đây. Anh ăn sẽ không ngon, ngủ sẽ không yên cho đến bao giờ em trở về. Anh có cảm tưởng như là thân anh bị xẻ làm đôi. Ngay cả Triều Tiên bây giờ ra sao anh cũng không biết nữa.
Ngồi trong phi cơ, Laura hồi tưởng lại mấy ngày vừa qua. Nhửng ngày nặng nề làm sao! Để mặc Greta xoay xở việc nhà, bà lao mình vào công việc khảo cứu để tìm sự quên lãng. Dầu đau khổ đến đâu con người cũng chịu đựng được, miễn là làm việc. Bà đã viết xong một chương nói về sự ích lợi của các loài hải thực vật và hải động vật, chẳng hạn như loài điện ngư sản xuất được chất chống hơi độc, loài hải đởm giúp bạch huyết cầu ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm, loài sứa lửa được sử dụng trong công cuộc tìm kiếm những sự kích ứng của cơ thể. Nhờ có tinh thần kỷ luật, Laura đã tìm cho mình được một niềm an ủi tuyệt diệu trong sự làm việc và do đó đã tạo ra được sự quân bình về tâm trí.
Chiếc phản lực cơ chuyển động rồi bay lên cao. Laura dựa lưng vào
thành ghế, mắt nhắm lại. Bà đang đi đến một vùng đất mới, mới đối với bà ở tận Á châu, nơi mà bà chỉ biết qua sách vở. Hơn mười năm trước, lúc Chris hồi hương, vì quá vui niềm vui tái ngộ nên Laura không hỏi gì chồng về cái xứ Triều Tiên này.
Khi Laura mở mắt ra thì phi cơ đang bay ở cao độ. Trong đời bà chưa bao giờ bà cảm thấy đau khổ, cô đơn đến thế! Phải chăng bà đã có lý khi đem hết sức mình ra chống trả với dĩ vãng? Hay vì ghen tuông, bà không muốn để Chris gặp lại Sương. Có lẽ... bà phải chính mình gặp Sương để xem cô ta có ba đầu sáu tay thế nào và để biết cô ta duyên dáng và quyến rũ đến đâu. Bà không tin Chris có thể say mê một cô gái chẳng ra gì, không nhan sắc, không giá trị. Chồng bà tính tình phức tạp, có những sở thích khó chiều, nhưng đã làm cho bà hài lòng vì ông rất tế nhị.
Còn vấn đề thằng bé nữa, cố nhiên. Nhưng trước hết bà muốn gặp Sương để nhận xét về cô ta một cách khách quan như nhận xét về một mẫu hải thực vật, để biết rõ ai mới thật là người bạn lòng đầu tiên của chồng bà.
Theo dòng tư tưởng, Laura nhớ lại đêm tân hôn của mình. Là một cô gái còn tân, nàng cũng muốn biết chồng nàng có còn tân như nàng không, nhưng rồi vì quá tự ái, quá thẹn thùng và quá ngây thơ, nàng đành giữ im lặng. Đến bây giờ Laura mới nhận ra những điều mà Chris đã học được trong cái túp lều bé nhỏ bên xứ Triều Tiên là những điều đáng lý ra bà phải đoán được ngay khi ông mới hồi hương. Chris đã học hỏi ở Sương sự dạn dĩ và khéo léo trong tình chăn gối mà Laura không thấy ở chồng trong những ngày trăng mật ngắn ngủi. Chris thật sự đã "sống" với Sương ư? Không, không chắc, vì ông đâu có yêu Sương như đã yêu bà. Vả lại, Sương không thể yêu Chris như bà được. Sương chỉ là một con bé Triều Tiên ngu si vô học...
Trước ngày Laura khởi hành, Chris về nhà sớm. Hai vợ chồng ngồi uống rượu tại phòng khách, bà đã hỏi ông :
- Cô Sương làm nghề gì?
Lần đầu tiên trong đời, bà ngạc nhiên nhìn thấy chồng bà đỏ mặt. Ông hỏi vặn lại :
- Em hỏi thế này là có ý gì?
- Em chỉ muốn hỏi cô ấy làm nghề gì. Chẳng hạn như làm giáo viên, y tá hay các nghề nghiêp tương tự.
- Ồ, không. Cô ta chẳng có nghề gì cả, nhưng không phải cô ta mù chữ đâu. Người Triều Tiên thích âm nhạc. Cô ấy giọng tốt và hát luôn mồm.
Laura không hỏi gì nữa, bà sợ phải nghe Chris nói nhiều về Sương. Kỷ niệm đêm tân hôn một lần nữa lại hiện ra với Laura, dẫu bà đã cố gắng không nghĩ đến.
... Hồi đó, hai người làm lễ cưới thật đơn sơ, nhưng cũng thật là vui vẻ, trong một ngôi giáo đường cổ ở khu Park Avenue, nơi Laura đã được rửa tội. Nàng bận chiếc áo cưới của bà nội nàng, chiếc áo còn mang dấu hiệu của nhà may Worth de Paris và chiếc khăn voan viền đăng ten thứ thiệt. Tiếng đại phong cầm chấm dứt buổi lễ, chàng và nàng ra khỏi giáo đường như bồng bềnh đi trên ngàn vạn niềm vui. Ngày cha mẹ nàng thết tiệc tại nhà thật là vui vẻ. Laura đã nhìn thấy mọi nghi thức trang nghiêm và thích thú.
Hồi còn bé, nàng thường bảo sẽ sang Nouvelle Angleterre để hưởng tuần trăng mật và nàng đã thực hiện điều đó. Vợ chồng nàng đã được ông chú già tiếp đón ân cần. Hai vợ chồng đã về vùng quê chơi, trong lòng ngập tràn hạnh phúc. Việc gì đối với họ cũng đều mới mẻ, lúc bấy giờ Laura nghĩ rằng ngay chính họ cũng là những con người mới, họ chỉ sống cho nhau... Đến nay Laura mới biết rằng mình không phải là người đàn bà duy nhất trong đời chàng...
Bà tránh không muốn nghĩ thêm. Có thể, Chris đã nói hết sự thật với bà. Trong đêm cuối cùng ấy Laura đã đem hết can đảm nói với chồng :
- Anh ơi, không biết vì sao em lạnh quá!
Em rét run lên không sao giữ được.
- Lại đây với anh, anh ôm cho ấm.
Chris ôm vợ vào lòng, rồi hỏi :
- Trong người em có gì thay đổi không?
- Không, em không có gì thay đổi cả. Em cảm thấy ở trong một trạng thái kỳ lạ, người như vừa mới khỏi bệnh, yếu ớt, chán chường, không thể cử động. Thật là một cảm giác lạ kỳ... nhưng sắp hết rồi. Có lẽ em bị xây xẩm đây thôi.
Nàng gượng cười :
- Nó làm như vừa lặn sâu ở dưới nước lên, lên quá vội. Thân thể bị tê liệt hết.
Chris thì thầm, giọng như lạc đi :
- Em tha lỗi cho anh.
Laura ngẫm nghĩ xem trong mình có gì thay đổi không. Bà tự nhủ: "Không phải con người ta thay đổi mà là tất cả những gì còn lại đã thay đổi. Nếu ta không tin tưởng Chris nữa, lúc ấy tất cả sẽ thay đổi. Ta sẽ đi đến một nơi không ai biết".
Hết kỷ niệm này đến kỷ niệm khác cứ thể hiện ra trong đầu Laura. Trước ngày cưới, mẹ bà đã nói :
- Con ạ, mẹ không mong con thử thách chồng con với một mối tình quá lớn.
Laura đã trố mắt ngạc nhiên hỏi lại :
- Tại sao mẹ bảo tình của con đối với chồng con là quá lớn? - Tại vì sự lợi ích của chính con.
Hồi ấy mẹ bà đã giải thích như vậy nhưng Laura không hiểu gì hết.
Bây giờ bà mới hiểu. Bà đã hiến dâng trọn vẹn cho chồng cũng như đã hiến dâng cho công cuộc khảo cứu mà bà đang đeo đuổi và cho chính đời sống của bà. Bà không bị chia sẻ vì những tình bạn vớ vẩn và những trò vui giải trí lăng nhăng. Không có con, bà hoàn toàn hy sinh cho chồng và cho công việc. Khi nghe những người đàn bà khác nói chuyện bếp núc, chồng con, bà ngỡ rằng mình hơn họ. Bây giờ bà mới thấy tủi nhục. Nếu có một đứa con, có phải là cuộc đời của hai người đáng giá hơn không. Trong lòng bà, Chris hết là vị "chủ nhân ông" duy nhất rồi.
Laura thử tưởng tượng đến việc hai vợ chồng bà có một đứa con và
bà sẽ phải nghỉ việc - không, bà không thể nghĩ đến điều đó. Bà chợt nhớ lại trong mấy ngày gần đây, chồng bà đã cố gắng làm ra vẻ tự nhiên, nhưng Laura cũng đoán được là ông đã cảm thấy sự khác thường và đau khổ nơi bà. Lúc chia tay, Chris đã ôm chặt lấy Laura và bảo :
- Anh chỉ yêu em và mãi mãi chỉ yêu em.
Rồi ông hôn vợ say đắm.
Bây giờ bà vẫn còn cảm thấy chiếc hôn ấy như còn đọng lại ở trên môi, bà chợt hiểu rằng: Chris không có đổi thay gì mà mình cũng thế. Nhưng Laura đã lầm khi tưởng rằng mình đã hiểu Chris tường tận. Trong bao năm qua, Chris đã âm thầm giữ kín chuyện này, không nói cho bà biết. Nhưng bà hết sức yêu ông, tại sao bà không tiếp tục yêu ông như vậy được nhỉ? Bà tự hỏi với biết bao nhiêu tha thiết ở trong lòng, nhưng bà không sao tìm ra câu giải đáp.
Chiếc phi cơ chở Laura đang bay trong không gian, giữa cảnh trời và đất, chẳng khác nào tâm trạng của bà cũng đang đứng ở giữa ngã ba đường.
Mây trời dày đặc che kín cả không gian, qua những khoảng trống nhỏ bé, thấp thoáng màu xanh của biển cả, xanh thẫm như màu xanh của da trời. Trong khi đó, thủ tục hàng ngày vẫn tiếp diễn. Người ta mang đến cho bà những bứa ăn thịnh soạn, bà ăn thịnh soạn, bà ăn một cách uể oải, nhưng uống những hai ly rượu cốc-tay, một ly rượu mùi và một cốc cà phê sau điểm tâm.
Đêm ấy, Laura ngủ không yên giấc. Mới tảng sáng bà đã thức dậy. Sau khi rửa mặt, đánh răng, bà trang điểm và chải đầu, nhưng đó chỉ là những cử chỉ máy móc, cũng giống như những nụ cười xã giao mà bà đã đáp lễ những người xa lạ chung quanh khi họ mỉm cười với bà vì lịch sự. Bà có cảm tưởng rằng, "cái tôi đích thực" của bà không còn nữa, nó đã biến mất giữa cái khung cảnh bao la này, không còn quá khứ, không còn hiện tại, không có cội rễ, dứt bỏ tất cả. Giả sử bà mất đi giữa chuyến đi này không trở về với gia đình nữa thì sao? Không, bà đã vạch ra cho mình một sứ mệnh thì bà phải hoàn thành cho tới cùng.
° ° °
Khi đặt chân đến Hán Thành, Laura nhận thấy ngay những nét đặc biệt của người dân xứ này là đôi mắt và mái tóc màu đen. Chung quanh bà, người ta nói chuyện bằng một thứ tiếng xa lạ. Nhưng Chris đã chỉ dẫn cho bà rất kỹ lưỡng, nào là tên khách sạn, nào là địa chỉ, nào là thủ tục quan thuế v.v... Lòng bà nhẹ nhõm biết bao, khi nghe một nhân viên quan thuế trẻ tuổi hỏi bà bằng tiếng Anh :
- Thưa bà, bà ở lại đây bao lâu?
- Chưa biết.
- Hai tuần phải không ạ?
- Tôi hy vọng không ở quá hai tuần.
- Nếu bà ở trên hai tuần, bà phải xin phép.
- Tôi chắc là không quá hai tuần đâu.
Anh ta cười, hai hàm trăng trắng và đều :
- Thưa bà, ở đây có nhiều phong cảnh đẹp lắm. Tôi hy vọng bà sẽ ở chơi lâu.
Bà nhã nhặn cám ơn và cảm động vì sự tử tế của anh ta.
Để khỏi phải bỡ ngỡ Laura gọi taxi, đó là một chiếc xe Jeep có thùng bằng tôn. Người tài xế còn trẻ, mặc áo vải, vá nhiều miếng, hắn chỉ biết cười vì không biết nói tiếng Anh. Hắn biết ngay tên khách sạn ghi trên mảnh giấy của Laura, hắn hớn hở đưa bà đến đây.
Chiếc xe xịch đỗ, người tài xế nhảy xuống, hai tay xách hai cái va li và gọi ầm lên báo cho khách sạn biết. Rồi hắn nhã nhặn chỉ vào bảng giá biểu để đòi tiền, luôn luôn tươi cười, hàm răng trắng nhởn. Hắn lại tiếp tục phóng xe đi, nhập vào đám đông xe cộ đang lưu thông khắp phố phường. Lúc ấy, một tên tiểu đồng từ khách sạn bước ra xách hành lý cho Laura. Bà bước theo nó.
Chris đã lo liệu tất cả. Ông đã gởi điện tín báo trước cho khách sạn và nhân viên tiếp tân ở đây đã biết rõ tên bà.
Y nói :
- Thưa bà, có hoa gửi cho bà ở trong phòng đây ạ.
Chris gửi cả hoa đến cho bà nữa. Bà cầm bức điện tín trong tay và theo một tên tiểu đồng khác đến phòng khách của bà. Những bông hoa chờ đợi bà màu sắc rực rỡ, nhưng không có hương thơm. Laura cho tiền đứa nhỏ, khóa cửa lại, rồi mở bức điện tín ra đọc:
"Anh ở bên em - Anh ở bên em cả ngày lẫn đêm. Yêu em".
Bỗng dưng Laura bật khóc, bà chưa từng khóc bao giờ, nhưng bây giờ những giọt nước mắt này làm cho lòng bà vơi bớt đau khổ. Chồng bà vẫn yêu bà, vẫn nghĩ đến bà. Ở nơi xứ lạ quê người này bà không còn lẻ loi cô độc nữa. Laura nhớ nhà, nhớ Chris, hẳn chồng bà cũng đau khổ vì cô độc. Ôi gia đình yêu dấu! Mong sao đừng có gì xảy ra có thể phá hủy hạnh phúc gia đình và nhất là đừng có sự yếu hèn nơi những con người đang tìm một gia đình để làm nơi nương ẩn. Bà tự ép mình phải kiên nhẫn và tha thứ. Không tha thứ thì quả là hẹp hòi và là tự đầy ải mình vào trong một nỗi cô đơn khủng khiếp.
Laura thức dậy vì những tia nắng đầu tiên từ một đỉnh núi rọi vào. Hôm qua bà chỉ nhìn thấy đường phố, nhưng hôm nay, từ cửa sổ, bà được ngắm toàn cảnh của đô thị - những ngôi nhà cổ, nho nhỏ, chen lẫn với những toà nhà tân tiến nằm trong một thung lũng. Dãy núi ở đây không giống như những ngọn đồi ở Vermont. Một dãy núi đá hùng vĩ được mặt trời tô điểm ánh nắng vàng. Chính tại nơi đây, Chris, chồng bà, đã đau khổ, đã chiến đấu, đã bệnh hoạn vì mệt mỏi và cô độc. Tim bà thắt lại vì xót xa. Laura nhớ đến những điều Chris kể lại cho mình nghe về cái quốc gia đau khổ này. Thế nhưng, chồng bà đã không nói gì về Sương cả. Nghĩ đến đây, tim bà cứng rắn trở lại.
Một giờ sau Laura xuống phòng ăn điểm tâm. Thực khách đều là người Mỹ, xen lẫn một vài người Triều Tiên mặc Âu phục. Đứng ở ngưỡng cửa, Laura đưa mắt tìm chỗ, nhưng chỉ còn một chỗ trống nơi một bàn hai ghế kê gần cửa sổ trông ra vườn. Bàn ấy đã có một người ngồi rồi, một người đàn ông Triều Tiên đứng tuổi, cao ráo, đẹp đẽ, nước da tái xanh và vẻ mặt nghiêm nghị. Một tên bồi bàn tiến đến nói :
- Xin bà cảm phiền, lúc này không còn chỗ.
Bà hất hàm về phía chỗ trống hỏi :
- Tôi muốn ngồi chỗ kia, được không?
Tên bồi bàn do dự, rồi tiến về phía người Triều Tiên. Người này ngẩng đầu, ngạc nhiên nhìn Laura và đứng ngay dậy chỉ vào chỗ ghế trống :
- Xin mời bà.
- Cám ơn ông.
Laura vừa nói vừa ngồi xuống ghế. Bà gọi thức ăn và trong lúc chờ đợi, bà nhìn ra cửa sổ: một vườn non bộ với những lối đi trải cát. Bà ngắm những bông hoa nho nhỏ nép mình giữa những hốc đá, và những cây cảnh nhỏ bé nghiêng mình là là trên mặt hồ nước tí hon. Bà liếc nhìn người đàn ông ngồi đôi diện mà không nói gì. Ông ta lên tiếng trước. Ông nói tiếng Anh rất sỏi :
- Thưa bà, bà cho phép tôi được tự giới thiệu?
Ông rút ra ở ví một tấm danh thiếp, để lên bàn trước mặt Laura. Bà khẽ đọc:
"Chu Dự Liên".
- Nghiệp chủ - Giám đốc Dược phẩm cuộc. - Ông ta vừa cười, vừa đọc tiếp. Laura ngước mắt lên và bắt gặp nét nhìn đầy thiện cảm của ông Chu.
- Chào ông Chu.
Ông khẽ hỏi :
- Thưa bà, bà đi du lịch có một mình?
- Vâng. Tôi đi có việc nhà.
- Chắc bà ở lại đây lâu.
- Tôi mong rằng không phải ở lại đây lâu. Dạ, xin ông chớ hiểu lầm, vì tôi có việc bận phải về ngay. Vả lại, tôi ít có thì giờ đi du lịch. Thật tiếc, tôi chỉ ở lại được có mấy ngày.
Bà đoán ngay ông Chu là một người thượng lưu và giàu kinh nghiệm. Ông dùng điểm tâm theo lối người Anh: trứng chiên dăm bông, bánh mì nướng phết bơ, cà phê và trái cây.
Ông Chu nói :
- Xin bà thứ lỗi, tôi không dám khoe khoang. Thật tôi còn giữ được một kỷ niệm hết sức đẹp đẽ trong thời gian du học tại Đại học Yale năm 1935. Bây giờ, mỗi năm có việc trở lại đấy, tôi cảm thấy niềm vui như được đổi mới. Người nước bà thật hiếu khách.
Ông Chu ngập ngừng, rồi tiếp :
- Thưa, đây là lần đầu tiên bà sang Triều Tiên phải không? - Vâng.
Một lần nữa ông Chu lại ngập ngừng. Laura cảm thấy đôi mắt đen và đẹp của ông Chu như ngạc nhiên, như dò hỏi. Bà vẫn im lặng.
Tên bồi bàn mang điểm tâm đến cho Laura, gồm có cam, cà phê, trứng gà "la coóc" và bánh mì nướng phết bơ, khi hắn ta đi khỏi, ông Chu tiếp :
- Một lần nữa, xin bà tha lỗi cho tôi về tội đường đột, nhưng quả thật tôi rất ít khi có dịp đền đáp lại lòng tử tế mà người nước bà đã dành cho tôi lúc tôi còn ở bên ấy. Nếu tôi có thế giúp bà được việc gì ở đây thì thật hân hạnh cho tôi lắm. Nhà tôi thất lộc năm ngoái nên tôi cư ngụ luôn tại đây. Cuối mỗi tuần tôi về thăm thân mẫu tôi một lần. Con trai tôi cũng đang theo học tại Đại học Yale, nơi mà tôi đã theo học ngày xưa. Tôi chỉ có mỗi một mình nó.
Laura chăm chú nhìn ông Chu, vừa lắng nghe ông nói, vừa nhủ thầm rằng chưa bao giờ bà nhìn thấy một người đàn ông nào xinh trai hơn, cao lớn, thanh lịch. Ông bận Âu phục màu xám bằng hàng Ănglê cắt may thật tuyệt hảo. Mái tóc hoa râm làm nổi bật đôi mắt đen tuyệt đẹp của ông. Ngoại trừ đôi mắt hạnh đào ấy, người ta có thể tưởng nhầm ông là người Ý, hay người Tây Ban Nha. Cử chỉ của ông hòa nhã, thái độ của ông thẳng thắn đã khiến Laura tin tưởng. Tự nhiên bà mở ví lấy tấm danh thiếp của Chris đã ghi địa chỉ của Sương ra hỏi :
- Ông có thể chỉ giùm tôi địa chỉ này không?
Ông Chu nhìn thấm danh thiếp, vẻ mặt trở nên nghiêm trọng :
- Địa chỉ này khó kiếm lắm, vì rất xa, ở mãi tận cuối thành phố. Bà đi đến đây bằng gì? Bằng xe hơi phải không ạ?
- Tôi đi taxi.
- Bà không đi một mình chứ?
- Tôi không quen ai ở đây cả.
Ông Chu suy nghĩ :
- Bà có thể đi với một bà nhân viên Tòa đại sứ Mỹ?
Laura liền cự tuyệt :
- Ồ, không. Đây là một việc riêng.
Ông Chu trả lại Laura tấm danh thiếp, bà bỏ vào ví. Ông ta ngồi im lặng, suy nghĩ, trong lúc Laura ăn nốt bữa điểm tâm. Khi bà ăn xong, ông Chu đẩy những chiếc đĩa ra xa, rồi bất chợt hỏi :
- Bà có cho phép tôi đưa bà đi không?
Ngạc nhiên, Laura từ chối :
- Không dám. Ông bận. Tôi sợ làm phiền ông.
- Tôi sắp đặt lại thì giờ và chỉ cần điện thoại về sở là đủ. Bà hãy tin tôi. Chúng tôi không dám để một người đàn bà ngoại quốc đi một mình ở một vài khu vực trong thành phố này. Nếu bà muốn, ngày mai tôi sẽ bảo cô thư ký của tôi đưa bà đi, vì quả thật, bà chưa hiểu tôi.
Laura bối rối :
- Thưa ông, không phải vậy.
- Chắc bà muốn đi một mình? Nếu vậy, tôi có thể chờ bà ở ngoài taxi. Laura ngượng nghịu, bà cố gắng giải thích :
- Thật ra, tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này cả. Đây là chuyện của chồng tôi.
- Vậy, bà đã có gia đình?
- Vâng. Tôi là bà Winters, Christopher Winters.
- Bà ở tỉnh nào?
- Tôi ở Philadelphie.
Một nụ cười nở ra trên khuôn mặt nghiêm nghị của ông Chu :
- À, Philadelphie, tỉnh này đẹp lắm! Tôi có đến nghỉ lễ Noel ở đây với gia đình ông bà bác sĩ Harmsworth. Bà có biết ông ấy không nhỉ?
- Có phải ông ấy là một nhà khảo cứu Đông phương nổi tiếng không? - Vậy ra bà cũng có quen ông ấy.
- Chúng tôi có gặp nhau đôi ba lần.
- Vậy chắc bà con nhớ ông ta. Chúng tôi không thể nào quên ông ấy được. Tôi gọi ông ấy là "Người cha Mỹ của tôi". Bây giờ ông già lắm rồi. Mỗi lần sang Mỹ, tôi đều đến thăm ông ấy. Con trai tôi hiện nay cũng tiếp tục truyền thống ấy, nó đến nghỉ hè tại nhà ông. Tiếc quá, vợ ông đã mất rồi!
Lỗng nhiên Laura cảm thấy bà có thể hoàn toàn tin cậy ông Chu và yên tâm có được một người bạn ở đây. Bà chậm rãi :
- Tôi rất sung sướng được ông đưa đi.
Ông Chu hỏi :
- Bao giờ bà đi?
° ° °
Trong khi xe chạy qua các đường phố Hán Thành. Laura quyết không nói thêm điều gì nữa. Ngay từ hồi còn bé Laura đã học được tính không bộc lộ tâm sự và cũng không giải thích thái độ của mình. Mẹ bà có mắng mỏ hay rầy la, bà chỉ trả lời bằng cách im lặng. Nhờ cái thói quen ít lời mà bà đã sống được một cuộc sống yên tĩnh.
Là một người trí thức và lịch sự, ông Chu không hỏi những gì mà Laura không thể trả lời. Trên đường, ông chỉ cho Laura biết các đền đài quan trọng. Ông hy vọng bà có thì giờ đi thăm các cung điện, các viện bảo tàng, và ông sẽ tự nguyện là người hướng dẫn.
Tươi cười, Laura nhã nhặn từ chối và liếc trộm cái khuôn mặt nhìn nghiêng tuyệt đẹp của ông Chu. Làm việc chung với đàn ông đã quen, nhưng lần này bà nhận thấy mình đang ở trước một người đàn ông khác lạ, không những chỉ khác lạ bề ngoài mà còn khác lạ cả trong tâm hồn nữa.
Ông Chu làm cho người ta liên tưởng đến một thứ ngà voi già, trơn
tru, trắng đục, nhưng rắn chắc và quý giá. Phức tạp và khó hiểu thật - bà thầm nghĩ. Tự nhiên bà tin tưởng ông Chu, nhưng bà không chắc là...
Bà quan sát ông Chu với tất cả kiên nhẫn như quan sát một giống hải thực vật tại phòng thí nghiệm. Ông Chu vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, một sự mềm dẻo thiên bẩm. Ông đã tỏ ra ngay thẳng, không một chút e dè, tuy thế ông vẫn kín đáo. Ông biết đặt những câu hỏi khéo léo để Laura tùy ý trả lời.
- Thưa bà, bà là một nghệ sĩ phải không ạ?
- Không, tại sao ông nghĩ tôi là nghệ sĩ?
- Trông bà có vẻ như thế, bà vừa cởi mở vừa hiểu biết. - Tôi là nhà sinh vật học.
- Một nữ sinh vật học? Như thế có mâu thuẫn không?
- Ở nước tôi, đàn bà theo học ngành sinh vật học không có gì mâu thuẫn, nhưng cũng không có nhiều. Cũng như ông, tôi đã học được và đồng thời tôi học thêm cả nghành hải dương học để có thể khảo cứu sinh thực vật ở dưới biển.
- Bà có đi thám hiểm để lấy mẫu về điều chế thuốc không? Ở nước tôi người ta cũng dùng hải sản để chữa bệnh.
- Có, tôi có tham dự các cuộc thám hiểm, nhưng không thường xuyên bằng hồi tôi chưa lập gia đình.
- Bà nghiên cứu loại gì?
- Kỳ thám hiểm cuối cùng, chúng tôi thu thập các loại phiêu tảo tại biển Panama.
- Chắc không phải chỉ có một mình bà?
- Vâng, tôi và ba nhà khoa học khác. Chúng tôi nghiên cứu về địa thế các đáy bể, tính chất của nước bể về phương diện vật lý và hóa học, những luồng nước và các sinh thực vật. Đó là một công cuộc khảo cứu trường kỳ. Mỗi người chúng tôi đều có trách nhiệm riêng. Phần tôi, tôi thường nghiên cứu về các cơ thể hải sinh thực vật có đặc tính vừa là sinh vật vừa là thảo mộc.
- À ra thế. Vậy thì quan trọng thật. Nhưng bà đã làm cho tôi ngạc nhiên.
Laura chưa kịp nói gì thì chiếc taxi đã đậu ngay trước một căn nhà nhỏ nằm giữa hai ngôi nhà lớn hơn. Ông Chu nói tiếng Triều Tiên với người tài xế, anh ta gật đầu. Ông quay sang Laura :
- Thưa bà, đã tới nơi. Nếu bà cho phép, tôi sẽ đưa bà vào giới thiệu, rồi ra xe đợi bà.
Nhưng lúc ấy Laura cảm thấy không thể nào một mình đương đầu nổi với thử thách. Bà nói :
- Ông làm ơn đưa tôi đi. Tôi không hiểu gì hết. Tôi xin nói để ông rõ, tôi đến đây để tìm một đứa trẻ và mẹ của nó.
- Nếu vậy thì...
Ông Chu xuống xe và ra hiệu cho tài xê ngồi chờ.
- Bây giờ, bà cho phép tôi vào trước để hỏi thăm xem đã. Thưa bà, người ấy tên là gì?
- Cô ta tên Kim Sương.
Ông Chu bình thản gõ vào cánh cửa mở hé và hắng giọng thật to. Một bà già bận áo cộc xanh và váy đen, vá nhiều chỗ, đi ra mở cửa. Hai người trao đổi vài câu, rồi ông Chu quay lại nói :
- Thưa bà Winters, cô Sương còn ngủ. Cô đi làm đêm ở... làm đêm nên dậy muộn. Đây là bà cụ thân mẫu cô Sương. Bà cụ mời bà vào nhà chơi. Bà cụ sẽ đi đánh thức cô ấy.
Laura ngẫm nghĩ, định quay trở về.
Bà hỏi :
- Nhà có đứa trẻ nào không ông?
Ông Chu chuyển câu hỏi sang bà cụ và dịch câu trả lời : - Có.
- Con trai phải không ạ?
- Con trai.
- Nó có nhà không ạ?
Bà cụ lắc đầu rồi nói một thôi một hồi. Ông Chu giơ tay ra hiệu bảo bà cụ im và dịch lại :
- Bây giờ nó không có nhà. Nó nghịch ngợm lắm, trốn đi chơi, đói mới mò về. Bà cụ và mẹ nó không ai trị nổi nó. Nó là một đứa trẻ khó dạy. Nó mới có mười một tuổi.
- Để tôi vào nhà. Tôi muốn gặp mẹ nó để nói chuyện. Tôi ân hận đã làm cô ấy thức dậy khi cô còn mệt. Nhưng tôi ở xa đến và muốn trở về ngay càng sớm càng tốt.
Ông Chu trịnh trọng nói :
- Vâng, thưa bà tôi hiểu.
Hai người bước vào một căn phòng nhỏ, đồ đạc ngổn ngang, nền nhà sạch như chùi. Một chiếc bàn thấp, vài quyển sách, mấy chiếc đệm để ở đất. Một bức tranh phong cảnh treo trên tường, loại tranh cuốn. Ngoài ra không có thứ đồ gỗ nào khác. Bà cụ vỗ vỗ vào chiếc ghế đệm. Ông Chu nói :
- Bà cụ mời bà ngồi.
Hai người ngồi xuống đệm. Bà cụ đi khỏi.
Họ im lặng chờ đợi, Laura tự hỏi không biết có nên giải thích cho ông Chu rõ vì sao bà đến đây hay không, nhưng rồi với thói quen cố hữu, bà giữ im lặng. Bà mới biết ông Chu cách đây có mấy giờ và có lẽ không còn gặp lại ông nữa. Bà nhìn ông Chu và mỉm cười tỏ lòng biết ơn. Ông Chu giải thích như để bào chữa :
- Gia đình này nghèo quá. Tôi không biết cô Sương làm nghề gì. Nếu cô đã lấy chồng, có lẽ người chồng làm công cho một tiệm buôn, hay nhân viên bưu điện, hoặc một nghề gì tương tự. Tôi không nghĩ là chồng cô ấy ở trong ngành giáo chức, trừ phi là giáo viên Tiểu học. Có thể cô ấy là "gái bán ba". Phần nhiều các cô "bán ba" có chồng đều đi làm buổi tối, khi người chồng đã trở về trông nom con cái. Hơn nữa, cô Sương còn mẹ già phải nuôi dưỡng và có lẽ người chồng cũng phải đi làm đêm, vì giá sinh hoạt đắt đỏ quá!
Laura không trả lời. Cánh cửa mở từ từ, Sương đứng ngoài ngưỡng
cửa. Laura nhận ra ngay. Sương không còn ở cái thuở ban đầu của tuổi trẻ nữa. Nàng đang trong cái thời kỳ mà sắc đẹp nảy nở trọn vẹn. Nàng mặc quốc phục Triều Tiên, váy dài màu sẫm, thân áo trên màu trắng có thắt dây phía trước. Mái tóc của nàng đen nháy, cột thành búi trên gáy và dưới hai hàng mi tô đậm nét, đôi mắt nàng dịu dàng làm tươi khuôn mặt trắng xanh. Trông nàng thật dịu hiền, thật mềm mại và thật duyên dáng, đến nỗi Laura không thể nào không có thiện cảm. Bà tự tin vào thiên tư của mình và biết rằng cái tình cảm đầu tiên này đã dứt khoát. Lúc ấy Laura mới thành thật nhìn nhận rằng trước đây bà đã muốn coi Sương như một tình địch.
Bà đã nói với chồng :
- Em sẽ mặc người đàn bà ấy vì không muốn mắc mớ gì với cô ta. Nhưng còn đứa trẻ, nó là con anh, em muốn nó được đi học, không phải ở đây mà ở quê hương của nó.
Chris đã ngạc nhiên nhìn vợ :
- Ừ, thì ở quê hương của nó chứ sao.
Sương từ ngoài bước vào nhè nhẹ với đôi giày vải đế cao su. Nàng đến trước ông Chu và nói một tràng dài, giọng nàng trong thanh như giọng một đứa bé gái. Ông Chu lắng nghe, mỗi lúc một ngạc nhiên hơn, môi ông như mím lại.
Laura hỏi :
- Cô ấy nói gì đây ông?
- Cô ấy bảo là cô ấy biết tôi. - Ông Chu trả lời một cách vắn tắt. Laura chờ đợi, rồi bà lại hỏi :
- Cô ấy có nói gì khác không ông?
- Không. Bây giờ thì tôi nhớ ra cô ấy rồi.
Bà do dự, nhận ra sự bất lực của mình. Sương đã ngồi xuống và câu chuyện giữa hai người trở nên tương đắc như muốn bỏ quên Laura. Mẹ Sương bước vào, bà cụ ngồi xổm dưới đất, dựa lưng vào tường, ở ngoài cửa, trẻ con lối xóm tò mò bu lại, xô đẩy chen lấn nhau để được coi cho rõ. Ông Chu làm nghiêm, đe dọa, chúng mới tản đi chỗ khác. Nhưng khi câu chuyện tiếp tục, chúng lại lò dò bu đến trước
cửa như cũ.
Laura chờ đợi; mới có nửa giờ mà bà xem như đã suốt buổi. Khi ấy ông Chu mới quay sang nói với bà :
- Xin bà tha lỗi. Cô Sương đang có chuyện xích mích với chủ phố. Con cô ấy ngỗ nghịch nên người ta muốn cô ấy dọn đi nơi khác. Hình như nó đã ăn cắp đồ của lối xóm. Cô ấy không có chồng lại phải nuôi mẹ già con dại.
Laura hỏi :
- Thế cô ấy làm ở đâu?
Hơi khó nói, ông Chu lấy khăn thấm mồ hôi trán và lau tay :
- Tôi sẽ giải thích với bà sau. Cô Sương đã cho tôi biết nỗi lo lắng chính của cô. Con cô ấy không phải như những đứa trẻ khác. Nó là con của một người Mỹ. Cách đây mười hai năm, khi cuộc chiến chấm dứt, Sương đã gặp người Mỹ ấy ở đây. Hai người sống với nhau được một năm thì người Mỹ ấy về nước. Ông ta hứa sẽ trở lại và Sương hy vọng sẽ được làm lễ cưới. Lúc bấy giờ thằng bé mới được một tháng. Rồi từ bấy đến nay Sương không nhận được tin tức gì của người Mỹ ấy nữa. Bây giờ cô ta phải một mình nuôi dưỡng nó. Trách nhiệm đâu phải là cô ta.
Laura lắng nghe, tim đập mạnh. Bà không phản bội Chris. Nhưng bà mong được họ tin rằng bà đến đây với tư cách một người bạn, chứ không phải một người vợ.
Bà nói :
- Sao? Đây là trách nhiệm của cô ấy chứ. Cô ấy là mẹ đứa bé mà. Ông Chu bình tĩnh lắng nghe, hai bàn tay để trên gối :
- Ở nước chúng tôi, người cha có trách nhiệm về đứa trẻ. Không cha thì không có gia đình, đứa trẻ sẽ là đứa con hoang. Nó sẽ không được đi học và không thể kiếm được việc làm, vì không được người cha khai sinh cho. Đối với chúng tôi, nó kể như không có. Không có gia đình bảo vệ, người ta xem nó như chưa ra đời.
Laura kêu lên một cách bực bội :
- Kỳ cục thật! Nếu đứa trẻ đã ra đời, thì nó phải ở đây, nó phải sống chứ?
- Nhưng không được hợp pháp.
Laura im lặng; thật là một thế giới kỳ dị, lạ lùng, bà không làm sao hiểu nổi... Bà quay nhìn Sương, ánh mắt như van lơn. Là bạn đàn bà với nhau, chắc hẳn giữa hai người đã có sự liên đới, cảm thông? Như để đáp lại nét nhìn van lơn cầu khẩn ấy, Sương đứng dậy đến chiếc bàn thấp. Nàng rút ngăn kéo lấy chiếc phong bì bọc trong một vuông lụa. Nàng cầm hai tấm hình đưa cho ông Chu và dịu dàng giải thích.
Ông Chu nhìn hai tấm hình, rồi trao cho Laura và nói : - Đây là hình của cha đứa bé.
Laura không muốn nhìn hai tấm hình ấy, nhưng cứ cầm xem. Đúng Chris rồi, Chris của thời xuân trẻ mà Laura đã yêu say đắm với một mối tình trinh nguyên, e lệ, trong sáng và hạnh phúc. Tấm hình chụp Chris mỉm cười quàng vai Sương; Sương rất tươi trẻ, sung sướng ngước mắt nhìn chàng. Tấm hình kia chụp Chris bế con và Sương đứng tựa đầu vào vai chàng.
Laura buồn rầu tự nhủ: "Ta chưa bao giờ được diễm phúc nhìn Chris bồng con ta trong lòng".
Bà nén khổ đau trả lại Sương mấy tấm hình và từ phút ấy bà cảm thấy cần nói chuyện với cô ta.
- Cô còn nói được tiếng Anh không?
Sương lắc đầu :
- Bây giờ tôi còn nói được ít lắm.
Ông Chu khuyến khích :
- Cô đừng ngại. Bà đây là bạn, bà đến đây để gặp cô. Sương chỉ tay vào ngực nàng :
- Để gặp tôi?
- Vâng. Tôi từ xa đến đây để gặp cô.
Nếu bà không nói rõ sự thật thì làm sao có thể tiếp tục câu chuyện
được? Bà liếc nhìn Sương và ông Chu. Bà thấy trên khuôn mặt hai người một sự ngạc nhiên rất lễ độ, một sự kiên nhẫn đầy xã giao, họ im lặng như chờ đợi, như tò mò. Sương châm thêm trà nóng vào mấy cái tách để trên bàn. Chu cầm một tách trà lên vừa uống từng ngụm lớn vừa xuýt xoa. Sương ngồi ở chiếc đệm giữa nền nhà, khoanh tay trên gối. Cả hai đều nhìn Laura, chờ đợi. Laura hiểu rằng đã đến lúc phải nói hết. Bà mở ví lấy ra một khung ảnh bằng da. Đây là hình của Chris, chồng bà đang mỉm cười, nhưng Chris không còn trẻ như xưa nữa. Nét nhìn ngay thẳng. Laura lẳng lặng trao tấm hình cho Sương.
Sương chăm chú nhìn một hồi lâu, rồi quay sang Laura : - Chính anh ấy!
Giọng Sương nhỏ như tiếng thì thầm, nhưng Laura vẫn nghe và gật đầu. Sương đưa tấm hình cho ông Chu. Ông Chu quan sát :
- Cô ấy bảo đây là hình của cha đứa bé.
Laura bình tĩnh :
- Vâng.
Bà cảm thấy xây xẩm, tai ù, tim đập mạnh. Ông Chu quay sang hỏi Sương một câu bằng tiếng Triều Tiên. Nàng trả lời, một cách chậm rãi và rõ ràng :
- Chrit-to-pha Winter-s.
Ông Chu trao tấm hình lại cho Laura, và nói :
- Thưa bà, bà là một người chân thật, can đảm và độ lượng.
Laura sửng sốt thấy nước mắt mình trào ra và chảy dài xuống má. Bà tìm chiếc khăn tay của mình mà không thấy, nên đã nhận chiếc khăn lụa của ông Chu để lau nước mắt.
Bà nói :
- Tôi muốn được nói chuyện riêng với ông. Chúng ta ra xe thôi. - Vâng, xin tùy ý bà.
Ông Chu đáp rồi dịch lại cho Sương nghe. Sương đứng dậy ngập ngừng. Cô bước đến bên Laura như muốn nói điều gì, nhưng Sương
đã không nói, và Laura cảm thấy có một bàn tay nhè nhẹ lướt qua má bà như một cánh bướm.
Vào trong xe, ông Chu nhìn Laura ngồi bên cạnh, tay mang găng và đặt trên cái xắc. Từ khi rời khỏi ngôi nhà nhỏ bé của Sương, Laura không nói một lời. Bà bắt gặp nét nhìn của ông Chu và cố mỉm cười mà không được. Mặc dầu chỉ có hai người, nhưng bà cũng chẳng nói được lời nào.
Những con đường phố đông đúc với những tấm bảng hiệu khó hiểu này và những ngọn núi lạnh lùng vây quanh thành phố, tất cả đổi với bà đều có vẻ xa lạ, cả người đàn ông này nữa, đang ngồi ở bên cạnh bà, cũng là một kẻ mà bà chưa hề quen biết. Đi đâu một mình với ông ta bây giờ? Hơn nữa, bà đã nhất định nói chuyện với ông ta chưa? Bà chưa hề biết thổ lộ tâm tình với ai. Ít nói ngay từ hồi còn nhỏ, và sau này lấy chồng cũng vậy, tình yêu của bà được biểu lộ bằng hành động hơn là bằng lời nói. Nhưng, sáng nay, Chris ở quá xa, quanh bà chẳng có ai trừ người đàn ông này tình cờ bà đã gặp hồi sáng và có lẽ phải nhờ cậy vì ông ta là người nói được tiếng Anh.
Ông Chu hỏi :
- Bà mệt phải không? Bà nên uống một tách trà hay ăn một chút gì cho lại sức. Bây giờ cũng đã quá ngọ rồi. Tôi muốn mời bà...
Ông ngập ngừng, rồi tiếp :
- Ờ phải. Sao lại không nhỉ? Bà là người Mỹ. Tôi biết rõ phong tục của người Mỹ. Xin mời bà lại nhà tôi dùng cơm. Ở đây chúng ta có thể nói chuyện với nhau. Mẹ tôi đã già, không biết nói tiếng Anh, nhưng cụ sẽ hài lòng được biết bà. Cụ vẫn nhớ ơn người Mỹ đã tử tế với tôi hồi còn du học ở xứ bà. Sau tôi, bây giờ con trai tôi cũng được hưởng cái ân huệ ấy.
Laura khẽ nói :
- Xin đa tạ ông.
Chiếc xe lao mình qua những đường phố đông đúc, inh ỏi tiếng còi rồi rẽ vào một đám đông như một con tàu rẽ sóng. Ông Chu im lặng mãi cho đến khi hai người ra khỏi thành phố, tới một con đường trồng dầy bạch dương dẫn đến một chiếc cổng gỗ, sơn đỏ, tường gạch. Sau
tiếng gọi của người tài xế, một lão bộc ra mở cống.
Xuống xe, ông Chu giới thiệu :
- Đây là ngôi tổ đình của chúng tôi.
Ông dẫn Laura đi qua một khu vườn rộng rãi tĩnh mịch, có ngôi nhà một tầng xinh xắn, mái ngói cong cong, cột kèo đều sơn son đỏ chót rất chắc chắn.
Laura nói :
- Ở đây thật yên tĩnh.
- Bây giờ mới được yên tĩnh vậy đây. Hồi trước, người Nhật và sau đó, người Mỹ chiếm ngụ đâu có được như thế này. Chúng tôi mới thâu hồi lại được mười hai năm nay.
Một tỳ nữ đợi hai người ở cửa để cởi giày da và mang giày vải cho họ. Ông Chu khẽ bảo cô ấy lui ra và giải thích với Laura :
- Cô ấy đi báo tin cho bà cụ tôi biết là chúng ta đã về. Trong lúc chờ đợi, xin bà nghỉ ngơi chút đã, vội chi. Mời bà ngồi dậy. Chỗ này bà có thể trông ra vườn và hồ nước. Sau mùa đông, mùa này là mùa vạn vật được hồi sinh. Tôi mong đó là một điềm lành cho bà.
Gian phòng rộng rãi, trang hoàng theo lối Tây phương: một bộ salông, một chiếc đi-văng, một tấm thảm và màn gió hai lớp bằng xa tanh vàng óng ánh. Một trong những tường ngăn là một cánh cửa lùa, nhưng người ta không thể nào biết được sau đó có gì, Laura ngồi xuống ghế, bà nhìn ra lối đi lát đá, ngoằn ngoèo qua sân cỏ, dẫn đến một hồ nước, xa xa thấp thoáng những mái nhà cong cong.
Ông Chu mở một hộp sơn mài, khảm xà cừ hình một cành đào màu hồng, lấy thuốc ra mời Laura, nhưng bà lắc đầu từ chối. Ông Chu châm thuốc hút một mình. Người tớ gái đã bưng khay trà lên, một người khác bưng đĩa bánh mứt theo sau.
- Mời bà giải lao, rồi nghỉ ngơi cho lại sức. Bà bị xúc động nên mệt mỏi đấy.
Laura uống trà trong cảnh yên lặng và cảm thấy khỏe khoắn. Khi bà đặt chiếc tách xuống bàn, ông Chu châm đầy thêm trà nóng. Hai người nhìn nhau và bà nhận thấy đôi mắt ông đầy khích lệ.
Bà nói :
- Tôi thật có lỗi, không biết ông quen vđi cô Sương.
- Mọi người đều biết cô ấy. Mời bà xơi bánh. Bà cụ tôi làm đây. Chúng tôi rất thích thứ bánh này.
Laura cầm bánh lên ăn và khen :
- Ngon tuyệt! Mà sao ai cũng biết cô Sương vậy hả ông?
- Cô Sương nổi tiếng vì nghề nghiệp của cô ta. Bà có thể coi cô ta như một người chủ chứa, nhưng cô ta không phải là hạng người tầm thường. Bà cũng đã nhìn thấy nếp sống giản dị của cô ta. Trước đây, nhà cửa của cô ta, địa chỉ của cô ta ở đâu tôi cũng không biết. Ngay cả tên thật của cô ta tôi cũng mù tịt, vì tên gọi trong nghề là một tên khác. "Nhà Hoa" của cô được nổi tiếng là sang trọng, nhiều gái đẹp và hợp thời trang. Cô ta đã dạy cho họ ca và múa, mặc dầu cá nhân cô không còn hành nghề ca hát như xưa. Cô đặt ra một quy lệ hết sức khắt khe, là khách hàng phải là người Triều Tiên, thuộc hạng sang giàu và chịu chi nhiều tiền.
Ông Chu có thường lui tới chơi bời ở "Nhà Hoa" này hay không? Ông không nói ra. Tuy vậy, ông quen biết Kim Sương. Ồ, mà quan hệ gì đến bà? Bà đến đây chỉ vì Chris.
Bà sắp xếp câu chuyện cho có thứ tự và tiếp :
- Mười hai năm trước, nhà tôi đến xứ Triều Tiên. Anh ấy đã gặp cô Kim Sương khi cô còn là một thiếu nữ. Hai người đã có với nhau một đứa con. Lâu nay nhà tôi chẳng nói gì với tôi về chuyện ấy cả. Gia đình chúng tôi sống trong hạnh phúc. Có lẽ chồng tôi chẳng có lý do gì để nói ra chuyện ấy, phần tôi thì tin tưởng rằng hai chúng tôi chẳng có gì giấu diếm nhau. Nhưng vừa rồi đây đứa trẻ đã viết thư cho nhà tôi để phàn nàn rằng nó chẳng được đi học. Tôi đến đây để...
Ông Chu nghiêng về phía Laura và thân mật hỏi :
- Bà Winters thân mến, bà muốn nói rằng ông nhà đã gởi bà sang đây để...
Laura cắt ngang :
- Thưa ông, tôi sang đây là hoàn toàn do ý tôi muốn. Chúng tôi đang
trải qua một giai đoạn khó khăn. Nhà tôi không thể nào vắng mặt đi xa được. Vả lại, tôi cũng cảm thấy trách nhiệm của mình đối với tương lai của đứa trẻ đó. Tôi không muốn con trai của chồng tôi phải sống trong sự ngu dốt, và...
Laura ngập ngừng, và vì bản tính chân thật, bà không thể nói dối, bà tiếp :
- Và... tôi cũng muốn xem cho tận mắt người đàn bà ấy ra sao. Ông Chu dịu dàng nói :
- Còn gì tự nhiên hơn! Bà yêu chồng. Trong bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, người vợ cũng đau khổ khi khám phá ra bóng dáng một người đàn bà khác trong đời sống của chồng mình.
- Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau.
Bà nhìn ông Chu và đọc được trong đôi mắt ông biết bao niềm thông cảm, xót thương, đến đỗi bà không cầm được nước mắt. Tuy nhiên, bà đã cố mỉm cười nói tiếp :
- Vợ chồng chúng tôi sống hạnh phúc. Ngay cả... bất cứ điều gì xảy ra cũng không thể nào chia rẽ chúng tôi được. Điều đó xem ra khó tin, nhưng chúng tôi hiểu biết lẫn nhau và mỗi người cố gắng hòa dịu... chia sẻ...
Ông Chu trịnh trọng :
- Tôi hiểu. Nhưng vết thương còn đây phải chữa chạy cho nó lành đã. Bà đến đây trước tiên là để gặp cô Sương, sau đó mới đến đứa bé, có phải như thế không ạ? Vậy thì, thưa bà, bà nghĩ sao về cô Sương?
Laura nghĩ ngợi :
- Tôi cũng không rõ nữa. Trong trường hợp này, tôi đành phó thác cho tình cảm hơn là lý trí. Cô ta là một người dịu hiền và đáng thương.
- Ồ, thế nhưng cô ta cứng như thép đấy!
- Nhưng cô ta đã vuốt vào má tôi.
- Cô ta cũng có lòng thương hại.
- Thương hại tôi sao?
- Thương hại một người đàn bà khác. Đối với bọn đàn ông, cô ta chẳng có mơ tưởng gì. Bà nên nghe cô ta khuyến cáo lũ người làm công.
Ông cười thầm và tiếp :
- Tôi biết cô ta rất nhiều... biết nhiều lắm. Vả lại, tôi là khách hàng của cô ta. Bà nên biết, cô ta rất nổi tiếng. Cô ta hận... hận đời và trả thù đời bằng cách từ chối không tiếp bất cứ người khách ngoại quốc nào. Không một người Tây phương nào kể cả người Mỹ không được phép bước vào ngưỡng cửa "Nhà Hoa" của cô. Cô ta thường bực tức nói "bọn ấy chỉ đáng được tiếp ở những nơi mạt hạng!" Những người Triều Tiên sang giàu, chịu chi nhiều tiền, ít ra họ cũng tin được rằng gái ở "Vạn Hoa đình" không có tiếp khách ngoại quốc, hoặc tiếp những hạng người mạt lưu trong xã hội. Chúng tôi biết rằng gái tại đây đều sạch sẽ được chọn lựa kỹ càng và nhất là họ đều là người Triều Tiên.
Laura ngồi nghe, công phẫn và kinh ngạc, nhưng nhạy cảm về tính cách bi hài của hoàn cảnh. Thật đáng thương cho Chris...
Bà hỏi :
- Cô ta luôn luôn hận đời như thế sao?
- Không, không phải luôn luôn như thế. Lần đầu tiên tôi gặp cô ta... Ông Chu ngập ngừng, khẽ ho khan.
- Xin ông cứ nói, đừng ngại. Chúng ta đều đã trải qua giai đoạn đó cả rồi. Mặc dầu chúng ta vừa mới quen biết nhau.
Ông Chu cười :
- Vâng, bà là một người một người rất hiểu biết. Khi tôi gặp cô Sương, cô ấy chưa làm chủ cơ sở làm ăn bây giờ. Cô ta hát và vũ tại một nhà khác rất nổi tiếng. Nói tóm lại cô ta là một vũ nữ. Tôi đã bị thu hút bởi vẻ buồn ray rứt tiết ra từ khuôn mặt của cô, ngay cả khi cô diễn xuất một màn hài hước cũng thế. Tôi đã cho mời cô đến ngồi bàn với tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Cô cho tôi biết cô phải nuôi mẹ già và con dại. Mãi sau này tôi mới rõ sự thật về thằng bé ấy và biết rằng cô Sương vẫn còn nuôi hy vọng gặp lại người cha, mặc dầu ông ta chưa bao giờ trả lời thư cô ấy.
Ông cười :
- Tôi nhớ lại hồi đó tôi cũng có ghen hờn đôi chút. Nhưng tôi biết rõ cô Sương chẳng có nhận được thư từ gì cả, nên tôi đã khuyên cô mở một nhà hàng riêng. Tôi đã cho cô mượn tiền và sau đó cô đã trả lại đầy đủ. Cô Sương là một người đàn bà đáng tin cậy.
Laura thầm nghĩ và lấy làm ngạc nhiên rằng sự tình cờ quả đã run rủi bà gặp được nhiều điều hay, xui khiến bà gặp ông Chu, một người quen biết với Kim Sương. Bà chưa kịp nói gì thì người tớ gái đã hiện ra ở ngưỡng cửa và nói gì với ông Chu bằng tiếng bản xứ.
Ông Chu quay sang bà :
- Thưa bà, mẹ tôi đã sẵn sàng xin mời bà.
Người tớ gái đưa Laura và ông Chu vào gian phòng chính mà các bức tường gỗ ngăn dọc hành lang đã được mở rộng để có thể nhìn thấy các phòng khác chung quanh. Gian phòng tuyệt đẹp, sàn nhà sạch bóng như gương, những tấm đệm ngồi bọc nhung đỏ và xa-tanh đen, một cái bàn chân quỳ thấp và các tủ sách đều bằng gỗ sơn mài khảm xà cừ lóng lánh. Một bà cụ vóc người nhỏ nhắn đang ngồi đợi trong phòng. Dưới mái tóc bạc như tuyết, khuôn mặt của bà cụ vẫn còn giữ được những đường nét thanh tú với đôi mắt đen nồng ấm sáng ngời.
Ong Chu nghiêng mình chào và nói đôi lời bằng tiếng Triều Tiên. Bà cụ nhìn Laura, vẻ mặt cụ vẫn trang nghiêm. Bằng một giọng nói trầm bổng và hơi gay gắt, cụ hỏi một câu. Ông Chu thông dịch lại :
- Mẹ tôi muốn biết, bà đã có mấy cháu rồi?
- Tôi không có con.
Bà cụ nói và ông Chu dịch :
- Mẹ tôi khen bà đẹp, nhưng cụ không thích màu tóc và màu mắt của bà.
Nhận xét này đã khiến Laura bật cười :
- Tôi thường tiếc rằng mình không có được một mái tóc màu đen và đôi mắt đen. Nhưng biết làm sao được. Trời sinh ra sao đành phải chịu vậy.
Ông Chu thông dịch lại cho mẹ ông nghe, khiến một nụ cười phớt ra trên khuôn mặt trắng ngà của bà cụ.
Bà cụ khẽ nói với ông Chu và ông nghiêng mình nói với Laura :
- Cuộc diện kiến chấm dứt. Mẹ tôi sống gần như một thanh tu, không quen nói chuyện nhiều. Chúng tôi không bao giờ dám làm gì trái ý cụ và cụ càng sống lâu chúng tôi càng hãnh diện. Bà cụ là trung tâm điểm của gia đình.
Laura cúi thật thấp để chào bà cụ. Ông Chu kéo khép bớt một cánh cửa lùa để ngăn làn gió nhẹ từ vườn khẽ phất vào. Sau đó, ông đưa Laura ra xe, chiếc xe đang đậu chờ họ trước cổng.
Ông nói :
- Sau nửa ngày dài, bà đã mệt. Tôi xin đưa bà trở về khách sạn và nếu bà còn cần đến tôi thì chúng ta sẽ gặp nhau lại vào sáng mai...
Trên đường trở về khách sạn, lối nửa giờ đồng hồ, cả hai đều im lặng. Phải, Laura đã thấm mệt, bà bị bao vây bởi quá nhiều điều mới lạ và đồng thời quá nhiều xúc động. Sự im lặng này đã làm cho bà bình tĩnh trở lại.
Về đến khách sạn, ông Chu đưa bà tới tận cầu thang máy. Ông lễ phép nghiêng mình chào bà một cách thản nhiên và bà trở về phòng. Bà ngạc nhiên nhìn thấy trên bàn có một chậu sứ màu xanh, trồng một cây mận nhỏ đang trổ hoa mà những cành hoa mỏng manh lóng lánh bạc dưới ánh nắng trời chiều.
Bà liếc nhìn tấm danh thiếp và biết rõ đây là món quà của ông Chu. Không rời Laura một bước sao ông có thể mua được món quà này để tặng bà, có lẽ ông đã sai người đầy tớ gái. Dầu sao, ông cũng đã tế nhị nghĩ đến bà đang cô độc. Cây mận tượng trưng cho một cuộc sống trường tồn. Cuộc sống? Cuộc sống khá mệt nhọc đối với bà ngày hôm nay, bà chỉ muốn trốn thoát. Ở nhà bà có thể lẩn tránh vào phòng thí nghiệm hoặc có thể là dưới đáy biển sâu. Nhưng trong phòng khách sạn này thì chỉ có thể lánh mình vào giấc ngủ.
° ° °
Khi Laura thức dậy thì trời đã rạng đông. Bà lấy làm lạ là bà đã ngủ rất ngon, không mộng mị, bây giờ không còn âu lo mệt nhọc gì nữa.
Ngay cả sự nôn nóng bứt rứt như lúc ban đầu bà đến xứ này cũng đã biến mất. Vì thế bà nằm rán thêm một giờ nữa. Sau đó, bà dậy rửa mặt, đánh răng, và khoan thai thay áo quần.
Laura đi xuống phòng ăn, mặc dầu trời vẫn còn quá sớm. Bà chỉ nhìn thấy ở đấy có ba chàng thanh niên; ông Chu chưa tới vì lúc ấy còn quá sớm, vả lại bà muốn ngồi một mình. Bà muốn đi dạo sau bữa điểm tâm, rồi viết thư cho chồng. Sau đó, bà sẽ quyết định.
Khi Laura bước ra khỏi khách sạn thì đường phố đã tấp nập, đàn ông đi làm, đàn bà đi chợ, trẻ con đi học. Trên đường phố, cũ mới, sang hèn lẫn lộn. Phía trước khách sạn, nơi một khoảng đất tâm điểm của một ngã tư, có hai người phu đang lăng xăng thay những chậu kiêng nặng nề. Dường như họ đang bàn cãi nhau một cách linh động về việc làm sao xếp dọn cho được những chậu cây kiểng màu lá khác nhau. Laura nhìn họ và thích thú với ý nghĩ rằng, các điệu bộ ấy và cái khung cảnh ấy, có thể nhìn thấy trên bất cứ một quốc gia nào khác.
Bỗng nhiên bà cảm thấy như có ai đang rụt rè kéo chéo áo mình. Bà quay phắt lại và nhìn thấy năm sáu đứa trẻ áo quần rách rưới đang chìa những bàn tay dơ bẩn về phía bà để xin tiền.
Trước đây, chồng bà đã từng căn dặn :
- Em đừng có cho tiền lũ ăn mày. Bọn trẻ con cũng thế, đừng cho. Nếu không, em sẽ bị chúng quấy rầy mãi.
Bà sắp bỏ đi thì chợt nhìn thấy xa xa có một con bé gầy gò, khó lòng xác định được tuổi tác nó bao nhiêu. Không cần nghe đến tiếng van xin của lũ trẻ ăn mày, bà tiến về phía con bé. Bà đưa một ngón tay đỡ cằm nó lên để xem mặt. Hai mắt nó nhỏ và xếch, nhưng không phải màu đen mà là mắt thau, óng xanh xanh. Tuy đầu tóc dơ bẩn và rối tung, nhưng người ta cũng có thể đoán được nó màu hung hung đỏ chớ không phải màu đen. Đứa bé không có dáng dấp mảnh khảnh của giống người châu Á, chân tay nó to lớn hơn những đứa trẻ khác. Thế thì nó không phải là một người châu Á rồi.
Bà cúi xuống để nhìn cho kỹ hơn khuôn mặt của con bé. Mặt nó đầy cáu ghét nhưng rất xinh đẹp, tuy nhiên buồn ảm đạm.
- Con cái nhà ai như thế này?
Bà khẽ nói với nó, mặc dầu bà biết nó không hiểu.
Lũ trẻ ăn mày vây quanh Laura im lặng tò mò. Thằng bé lớn nhất thấy bà chú ý đến con nhỏ, liền cầm lấy tay nó, ép nó xin tiền. Nhưng con bé cưỡng lại vụt chạy đi một cách nhanh chóng và mềm mại.
- Ồ, nó chạy mất rồi!
Laura gạt lũ trẻ sang một bên và đuổi theo con bé. Bà đi vòng quanh khách sạn và tìm thấy nó đang đứng trước cửa nhà bếp, thông ra một con hẻm nhỏ. Bà nép mình vào một góc tường của khách sạn và quan sát đứa trẻ. Nó có vẻ như đang chờ đợi ai. Trong khi bà đang tìm hiểu thì chợt thấy một người lao công trong khách sạn mở cửa bếp và khuân một giỏ rác ra đường hẻm. Đứa trẻ nhìn quanh để được chắc rằng không có ai rình rập mình. Rồi nó thọc tay vào giỏ rác lục kiếm đồ ăn thừa. Nó ăn ngốn ăn ngấu những gì nó kiếm được nhanh như một con thú.
Biết làm gì bây giờ đây? Có nên ló mặt ra không? Thế nào con bé cũng bỏ chạy. Nhưng ví thử như bà có giữ nó lại được thì bà sẽ giúp đỡ nó bằng cách nào? Những đứa trẻ loại này thiếu khối! Bà đến đây để tìm một thằng bé và đã tìm ra rồi. Hoặc ít nữa là bà đã tìm ra chỗ ở của nó. Không, bà không nên mất công dây dưa vào những đứa trẻ khác. Bà sinh quán tại thành phố Boston, nơi mà con người vốn nổi tiếng là dè dặt và thận trọng. Ở đấy, người ta lo cho bản thân mình trước sau đó mới...
Nhưng con bé tóc hung đã nhìn thấy bà. Nó bốc lấy một nắm đồ ăn và vùng chạy nhanh như chớp, biến mất vào một khúc quanh của con đường hẻm. Laura không còn đuổi theo nó nữa, quay trở ra đại lộ, nhưng bà hết muốn đi dạo phố. Bà trở về khách sạn và bắt đầu viết thư cho chồng.
Lá thư này thật khó viết biết bao? Tuy nó không mấy dài nhưng hầu như là bà đã phí mất cả một buổi sáng. Làm sao để diễn tả cho được cảm tưởng của ông Chu về Kim Sương - sự trái ngược giữa việc hai bàn tay của Sương đã vuốt nhẹ lên má bà với câu nói của ông Chu, rằng: "Cô ta cứng như thép" Và rồi, bà vẫn còn chưa gặp đứa bé cơ mà. Tuy vậy, viết thư cho Chris, Laura vẫn cảm thấy được an ủi rất nhiều.
Bà viết:
"Bây giờ vẫn còn quá sớm để quyết định anh ạ, nhưng em đã bắt đầu công việc rồi. Em đã gặp cô Sương nhưng chưa nói gì hết. Nếu có thể hôm nay em sẽ đi gặp thằng bé. Em e rằng cô Sương sẽ không chịu xa nó. Em không muốn thằng bé sống với bà già cô Sương. Cô ấy..."
Bà xóa bỏ mấy chữ. Bà chưa nói gì với chồng bà về "Nhà Hoa" khi bà chưa thể viết sơ qua về ông Chu. Chỉ mới có một ngày thôi mà đã xảy ra biết bao nhiêu việc. Bà cũng không nói gì về con bé lai đói khổ. Điều đó thật khó nói. Nhưng bà viết những gì mà ông cho là quan trọng nhất, đó là hai chữ: "Em yêu anh". Rồi bà niêm phong bức thư lại.
Bây giờ bà phải trở lại nhà của Kim Sương, đi một mình, và tiếp xúc một mình với cô ấy. Có lẽ bà sẽ gặp đứa trẻ ở đấy. Bà phải đến vào buổi sáng, vì buổi chiều cô Sương bận đến "Vạn Hoa Đình". Trời quá nóng bức; cây mận lùn để trên bàn dường như đang héo đi vì thiếu nước. Bà lấy một cốc nước trong phòng tắm, cẩn thận tưới vào cây mận trước khi ra đi.
° ° °
Vì quen định hướng, bà kiếm nhà Kim Sương không khó theo sự chi dẫn của bà, dường như hôm nay chiếc taxi đi nhanh hơn ngày hôm qua bà đã đi với ông Chu. Kim Sương bước ra cửa vừa khi chiếc xe ngưng lại trước ngôi nhà gạch của nàng. Nhìn thấy Laura, nàng liền nhẹ nhàng cất cái ví và chiếc dù để niềm nở tiếp đón khách. Trong nhà chẳng còn ai khác, không có bà cụ già cũng không có đứa trẻ.
Laura hơi cảm thấy bối rối khi phải mặt đối mặt với Kim Sương như thế này, nhưng bà biết rằng như thế tiện hơn. Nhưng không biết Sương có thạo Anh ngữ để hiểu những gì bà nói hay không.
Vì Sương không tiếp khách người Mỹ tại "Vạn Hoa Đình" và những gì mà nàng đã học trước kia hẳn nàng đã phải quên đi ít nhiều. Hôm nay không còn có ông Chu để làm thông ngôn cho hai người nữa. Laura theo Kim Sương bước vào một căn phòng mà hôm qua bà chưa được biết, chắc là phòng ngủ, vì ở đây có một chiếc giường kiểu tây thật lớn, nhưng trên giường có che màn đôi hai màu rất tương hợp, và
trên sàn nhà rải rác mấy tấm đệm ngồi theo lối Triều Tiên. Trên bàn phấn của Sương có dựng một khung hình của Chris trẻ măng. Nhìn cái khuôn mặt chân thật, tươi cười của chàng thanh niên đầy tràn hy vọng ấy, Laura chỉ muốn ứa nước mắt. Phải chăng gian phòng này là tổ ấm của hai người?
Bắt gặp nét mặt của Laura, Sương quay khung hình vào tường. Nàng nói bằng tiếng Anh :
- Đã lâu rồi, quá lâu rồi! Bây giờ không còn người đàn ông ấy nữa. Ông ta là chồng của bà. Đối với tôi, chỉ là một kỷ niệm không hơn không kém.
- Nhưng còn đứa bé?
Sương liếc nhìn Laura :
- Bà muốn mang nó đi à?
- Không.
- Vậy thì bà đến đây làm gì?
Laura lắc đầu :
- Tôi cũng không biết nữa. Nhưng bởi vì thằng bé đã viết thư cho... cho nhà tôi, nói cho đúng ra thì tôi đến đây để xem nó có cần gì không, và có phải là nó không được đi học hay không?
Sương phản ứng liền :
- Đó không phải là lỗi tại tôi. Nó không đi học là vì không khai báo được. Và vì nó bị thiên hạ chế nhạo. Người ta nói với nó những lời lẽ đê tiện, bởi vì cha nó là dân Mỹ làm sao giải thích được, khó lắm. Tuy vậy nó cũng được dạy dỗ đối chút. Đôi khi rỗi rảnh tôi đã dạy cho nó học, dạy ở nhà.
Laura liếc nhìn Sương, hai người đang ngồi trên hai tấm niệm đặt giữa sàn nhà, trước một cái bàn thấp, chân quỳ. Cánh cửa lùa mở rộng trông ra một khu vườn non bộ mà ở đây một con chim đang cất tiếng hót.
Laura lẩm bẩm :
- Sao cha nó lại là người Mỹ nhỉ?
Sương im lặng một lật, rồi nói :
- Ban đầu tôi chẳng có yêu gì anh ấy hết. Nhưng nhà tôi quá nghèo. Sau chiến tranh mọi người đều túng thiếu. Cha tôi bị giết, nhà cửa nát tan vì bom đạn. Riêng tôi còn quá bé. Hạng gái như tôi quá nhiều. Vậy, nếu không đi hát, đi múa, hoặc đi lấy Mỹ thì làm gì? Ban đầu, tôi chỉ muốn đi hát đi vũ mà thôi.
- Hồi đó cô bao nhiêu tuổi?
Hai mắt Sương mở ra thật lớn :
- Tính theo tuổi Tây thì có lẽ hồi ấy tôi cũng đã được mười bảy mười tám tuổi gì đó. Về vóc dáng thì cũng đã cao lớn như bây giờ. Nhưng tôi rất sợ đàn ông, sợ tất cả mọi người đàn ông. Khi một người đàn ông nhìn tôi, tôi e thẹn quay mặt đi. Thế rồi, một buổi tối, tôi nhìn thấy một người đàn ông bước vào quán, anh ta hơn tất cả mọi người đàn ông khác.
- Hơn ra sao?
- Phải, hơn. Anh ta cao lớn, rất xinh trai nhưng vẻ mặt thật buồn, buồn không chịu được. Anh ta không cười đùa la hét như mọi người khác mà chỉ thinh lặng và buồn rầu. Anh ta chẳng hề nhìn đến gái. Một hôm, một người Mỹ xứ Texas la hét ồn ào, gã kéo tôi đến ngồi chung ghế với gã. Gã bắt ép tôi uống rượu. Tôi kêu van khóc lóc. Anh chàng buồn rầu và cao lớn ấy liền đứng dậy đến gỡ tôi ra và đưa tôi về ngồi chung cùng bàn. Tôi khóc anh ta đưa khăn tay cho tôi lau nước mắt và ân cần tử tế với tôi.
Câu chuyện không giống như những gì Chris đã kể. Có lẽ Sương đã nhầm với một người đàn ông khác, hoặc đã lẫn lộn một kỷ niệm này với một kỷ niệm khác. Nếu không, câu chuyện do Sương kể phải là chuyện thật. Sự hoài nghi đã lan dần. Hai mắt Sương rưng rưng ngăn lệ hồi tưởng đến những kỷ niệm xa xưa.
- Anh ấy thật tốt bụng, tôi chưa từng gặp ai tốt như thế bao giờ. Thế rồi, ngày hôm sau anh ta trở lại. Tôi liền chạy đến ngồi bàn với anh ta để được yên thân.
Kim Sương ngừng lại không kể tiếp, nàng lắc đầu và lấy khăn thấm
ngấn lệ. Ngoài vườn, con chim vành khuyên lại cất tiếng hót, thanh âm dịu dàng và buồn bã :
- Rồi sao nữa?
- Sau đó, chúng tôi đi dạo cùng nhau ở trong rừng, hoặc tối tối đi khiêu vũ tại các phòng trà. Chúng tôi chuyện trò. Tôi không biết anh ta đã có vợ. Tôi mơ ước được làm vợ anh ta. Lỗi tại tôi cả, vì tôi luôn luôn mơ mộng và mơ mộng quá nhiều! Tôi mơ ước anh ta cưới tôi và đưa tôi về Mỹ. Nước Mỹ quê hương của mộng mơ! Anh ta ôm lấy tôi hôn, rồi chúng tôi đi tìm mướn một túp lều nhỏ. Mùa đông quá nhiều tuyết giá và lạnh lẽo, chúng tôi không thể đi dạo núi, cũng không thể luôn luôn đi đến các vũ trường. Thế rồi, những gì phải xảy ra đã xảy ra...
Laura nói :
- Tôi hiểu. Anh ấy không bao giờ hứa hẹn cưới cô sao? - Không. Nhưng tôi hy vọng.
- Sau đó bao lâu thì cô biết cô đã có thai?
Hai bàn tay Kim Sương đang ôm lấy mặt liền buông xuống gối, bất động, lòng bàn tay ngửa ra như những cánh hoa sen.
- Tôi đã bảo, tôi không muốn có con. Nhưng anh ấy năn nỉ tôi sinh cho anh ấy một đứa.
Cái gì? Không, không có thể... Chris không bao giờ.
- Tại sao?
Sương khẽ cau mày :
- Anh ấy nói rằng, anh ấy có thể chết trước khi về đến nhà. Anh nói, đã hưu chiến, nhưng chiến tranh chưa chấm dứt. Nếu anh tử trận, anh sẽ tuyệt tự.
- Vì thế, cô đã sinh con cho anh ấy?
- Vì tôi quá yêu anh.
Laura nhìn thẳng vào đôi mắt hạt huyền của Kim Sương và nàng đã đón nhận nét nhìn ấy mà không chớp mắt.
Nàng giải thích :
- Tôi đã suy nghĩ, luôn luôn suy nghĩ rằng, anh ta không thể nào bỏ được con anh. Vì thế, anh sẽ đưa tôi cùng đứa trẻ về Mỹ. Nếu tôi sinh con cho anh thì chẳng khác nào tôi là vợ của anh. Và một hôm, anh ấy nhận được một lá thư.
- Thư nào?
- Thư của bà. Tôi biết đọc. Khi anh ấy ngủ, tôi lên móc bức thư ra đọc. Bà mong anh ấy trở về với bà. Đọc xong bức thư, tôi biết anh ấy sắp đi. Tôi lẳng lặng gấp bức thư đút lại vào túi áo cho anh ấy. Tôi không nói một tiếng. Có điều là tôi càng yêu anh ấy hơn trước. Tôi hy vọng. Nhưng toi công. Anh ấy đã nghe theo tiếng gọi của bà. Anh đã ra đi. Ngày hôm sau khi anh đi, bạn anh mang đến cho tôi một phong thư của anh kèm theo một số bạc. Anh ấy cho tôi biết địa chỉ, nơi anh ở với bố mẹ, để nếu cần gì thì tôi viết về đây.
Laura nói :
- Đó là địa chỉ của chúng tôi. Cha mẹ anh đã mất cả rồi. Cô còn giữ bức thư ấy không?
- Có. Tôi còn giữ mãi.
Sương mở một cái tủ nhỏ đặt ở góc tường và lục lọi trong một ngăn kéo. Nàng sững sờ trở lại chỗ Laura đang ngồi.
- Lạ thật, không biết ai đã lấy mất bức thư! Ờ, phải rồi. Chắc thằng bé đã lấy. Thằng quỷ sứ! Tôi đọc cho nó nghe luôn. Vì nó thường hỏi: Cha tôi là ai? Cha tôi ở đâu? Tại sao cha tôi không viết thư? Tại sao cha tôi không về? Tôi phải đọc bức thư ấy cho nó nghe và dặn dò nó đừng có động đến.
Vì thế thằng bé mới biết được địa chỉ.
Bây giờ Laura đã rõ rất cả. Nhưng bà đã viết gì cho Chris để đến nỗi anh ta phải bỏ rơi hai mẹ con người này mà không hẹn ngày tái ngộ? Và bà đã phải đền tội sự thiệt hại ấy ra sao? Không con. Bà đã không có con...
Sương bắt đầu khóc nức nở. Laura đến bên nàng, tim bà se lại. - Đừng khóc nữa cô Sương! Theo tôi, cô chẳng có trách nhiệm gì hết.
Chính anh ấy mới là người chịu trách nhiệm. Lẽ ra anh ấy phải biết, phải suy nghĩ.
Đột nhiên Sương có nghị lực, nàng ngẩng đầu, nói :
- Tôi cũng như anh ấy, không có ai trách nhiệm hết. Người chịu trách nhiệm chính là bà.
- Tôi? Nhưng tôi có biết gì đâu?
- Chính vì cái thơ ấy...
Bây giờ Laura mới nhớ lại. Hôm ấy là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ hai mươi ba của nàng, nhằm một ngày đông giá tháng mười một, Laura đang ở nhà cha mẹ tại Nữu Ước và đang chờ đợi các bạn bè đến dự tiệc mừng sinh nhật. Cửa sổ phòng nàng trông ra công viên Gramercy. Quang cảnh công viên lúc bây giờ thật tiêu điều, mưa không ngớt tạt vào cửa kiếng, đường phố u sầu ảm đạm, khiến bà buồn ray rứt. Ba năm trước đó. Chris và Laura ngày ngày đi dạo công viên, lần đầu tiên họ nắm tay nhau; rụt rè, e ấp, họ vụng về tìm hiểu nhau. Nhưng điều đó đối với Laura còn là quá sớm, vì nàng phải trở lại đại học để học cho xong cái ngành mà nàng hằng ước mơ. Với một giọng nói khàn khàn, Chris đã hỏi liệu nàng có thể trả lời thư của chàng không, và không nói gì thêm.
Lúc bây giờ họ chẳng bận tâm gì đến nước Triều Tiên cả. Có chăng, họ chỉ biết đó là một quốc gia bé nhỏ đang có chiến tranh. Nàng đã hứa hồi thư cho chàng, nhưng lại không giữ lời trọn vẹn. Sợ quá đi sâu vào tình trường, Laura chỉ viết cho chàng những bức thư ngắn và vô hại.
Lồi đó, Laura bị ảnh hưởng của Lawson, người mà nàng đã hứa đi theo với ba nhà bác học khác, trong một cuộc thám hiểm xuống đáy bể sâu. Lúc bây giờ Laura còn quá trẻ... Nhưng nàng có thật sự trẻ không? Đó là cái nhược điểm của một người đàn bà mà trời đã phú cho một "bộ óc siêu việt của nam giới", như những người đàn ông thường nói. Nhưng Laura không thể nào chịu đựng được cái phương thức làm cho người ta tưởng rằng trí thông minh là đặc hữu duy nhất của nam giới mà không kể gì đến sự di truyền và ngẫu nhiên.
Phải, Laura nhớ lại rất rõ cái hôm lễ sinh nhật thứ hai mươi ba của bà.
Trước đó, Laura có nhận được vài ba lá thư của Chris, nhưng bà không phúc đáp vì cảm thấy những lá thư ấy rỗng tuếch chẳng có gì. Ngồi bên cửa sổ, Laura bị giày vò vì những ý nghĩ đen tối và cảm thấy cần sự hiện diện của Chris đến đỗi bà đã viết cho chồng một bức thư náo cả lòng.
"Anh yêu mến,
Hôm nay kỷ niệm sinh nhật của em. Em vừa đúng hai mươi ba tuổi. Anh đã quên rồi hay sao mà không có thư từ gì về cho em cả vậy? Hôm nay em ước mong nhận được thư anh hoặc được anh điện thoại về, mặc dầu em biết rằng gọi điện thoại rất khó. Hôm nay anh có nghĩ gì đến em không? Trời mưa lạnh lẽo, gió cuốn sạch lá vàng ngoài công viên. Khi nào anh mới trở về với em hả anh? Em băn khoăn tự hỏi không biết bây giờ anh đã ra sao? Anh có thay đổi gì không? Và em, có gì thay đổi? Em không tin có sự đổi thay. Chỉ có điều, già thêm một tuổi em thấy mình càng chín chắn hơn. Nếu nhận dược tin anh, em đã từ chối không đi thám hiểm đáy bể với Don Lawson và các người khác. Anh ơi! Hãy viết cho em một bức thư thật dài. Hay là anh đã tái đăng bên ấy rồi? Nếu thế thì em sẽ đi với Don Lawson".
Phải, Laura đã nhớ lại rõ ràng bức thư ấy, nhớ lại từng chữ, từng hàng. Đợi thư chẳng được, Laura bèn tham dự cuộc thám hiểm đáy bể với Don Lawson và các bạn trên một chiếc du thuyền mà họ đã mượn được. Ngày ngày, trong khi Don Lawson thu lượm các hải tảo dưới đáy bể thì Laura vớt các phiêu sinh vật trong một cái lưới dòng theo hông tàu. Laura bận đồ tắm đứng trên bong tàu và mải mê theo công việc. Các bạn đàn ông đã nói: "Nàng chỉ nghĩ đến công việc". Nhưng họ đã nhầm, không giờ phút nào mà Laura không nghĩ đến Chris. Tại sao Chris không viết thư về như thế nhỉ? Cứ ba ngày một lần, Laura điện thoại về nhà hỏi :
- Có thư không mẹ?
Và đầu dây, tiếng mẹ nàng trả lời :
- Không có thư Triều Tiên con ạ.
Nhưng khi Laura trở về thì Chris đã ở nhà. Chàng vừa mới về tới. Phải, quả thật chàng muốn gia hạn quân vụ mà không tái đăng vì nếu
tái đăng thì chàng có thể sẽ được gởi sang Âu châu. Hoặc chàng chỉ muốn lưu lại Á châu là nơi định sở của người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng này, người đàn bà có một đôi mắt huyền bí.
Sương thở dài :
- Anh ấy đã bỏ tôi để trở về với bà.
Trong khi suy nghĩ, Sương đưa tay mân mê thân áo lụa của mình và gấp thành từng nếp nhỏ. Nhìn đôi mắt dài và cong giao nhau trên đôi má hòng mịn của Sương, Laura cảm nghe như tim mình thắt lại. Phải chăng Chris thích có được một người đàn bà biết hiến dâng mình cả tâm hôn lẫn thể xác? Vợ chồng bà thường thảo luận về điều đó trong những giờ phút thân mật, khi mà bà hiến dâng cho chồng trọn vẹn, nhưng cả hai đều biết rằng sự hiến dâng ấy chưa trọn vẹn. Vì, sau những giờ phút yêu đương, trí óc bà lại hướng về những vấn đề khó khăn phức tạp hơn thú vui vợ chồng nhiều. Nó đã làm cho bà quên hẳn chồng bà trong nhiều giờ, và cả trong nhiều ngày nữa. Nhưng Chris đã hóm hỉnh chế nhạo :
- Cưng ơi! Em không nghĩ gì đến anh cả sao? Anh là chồng của em đây này. Em hãy tạm quên cái "ông già biển cả" ấy đi một chút có được không. Chúng ta hãy lấy máy bay đi Banamas chơi.
Điều đó xảy ra rất thường đối với họ, mặc dầu bà cảm thấy như mình có lỗi nhưng bà đã gạt bỏ ý tưởng đó đi; trên bình diện cá nhân, dĩ nhiên bà cũng có toàn quyền sống tự do như ông. Phần ông, ông cũng đã quên hẳn bà khi ông mải mê tổ chức các cuộc vận động tranh cử và toan tính xem một ngày nào đó hai vợ chồng sẽ là chủ nhân của Tòa Bạch Ốc - đối với một người chồng như Chris, chẳng có gì là khó khăn cả. Những lúc như thế, ông đã quen bà, bà biết lắm. Bà chẳng nhận thấy gì đáng phiền trách ông cả. Đó chỉ là những quên lãng tạm thời và về phần bà, bà càng thích nữa là khác, vì những lúc ấy bà có thể miệt mài với công việc của mình và quên tất cả.
Bà đang miên man suy nghĩ về nhận xét của Kim Sương, thì đột nhiên tiếng bà cụ già hét ở trước cửa đã kéo bà trở về thực tại. Tiếng bà cụ khàn khàn gay gắt đối đáp với tiếng một đứa trẻ láu lỉnh xấc xược.
Sương ngẩng đầu lên và hai người nhìn nhau. Laura nói :
- Tôi muốn gặp đứa trẻ.
Sương đứng dậy, nhẹ nhàng bước ra vườn không một tiếng động. Nàng quay lại, tay vịn trên thành bức tường ngắn, nói :
- Tôi không trở lại đâu. Nó sẽ đến đây gặp bà.
Sương bước đi, và Laura nhìn thấy cái xiêm màu hồng của nàng thấp thoáng giữa các hàng cây trong vườn, rồi cuối cùng khuất sau một khóm lệ liễu nghiêng mình trên một bồ nước nhỏ?
° ° °
Bà phải chờ đợi trong bao lâu? Bà không biết, có thể rất lâu mà cũng có thể chỉ trong chốc lát. Trong khu vườn thanh vắng, con chim vành khuyên đã ngừng tiếng hót. Laura vẫn ngồi bất động, tinh thần căng thẳng. Đứa trẻ sẽ từ khu vườn bước vào hay từ cánh cửa lùa khép kín phía sau lưng bà bước ra? Bà chợt có ý nghĩ rằng, Sương có thể tưởng lầm bà, cô ta đã cùng với đứa bé trốn đi, để bà chờ đợi, rồi thất vọng ra về.
Chính vào lúc ấy, bà nhìn thấy đứa trẻ. Nó đi quanh ngôi nhà và đến đứng trước mặt bà. Hình dáng bé nhỏ của nó in lên nền cây xanh tươi của khu vườn. Laura cảm thấy như nghẹt thở vì nhận ra thằng bé giống hệt chồng bà. Có thể nói được rằng, đây là Chris hồi mười hai tuổi. Với tuổi mười hai, đứa trẻ như thế cũng đã là khá lớn. Thân mình nó rất cân đối. Nó mặc áo sơ mi ngắn tay màu trắng, bận quần cộc màu xanh đã rách, đi chân đất. Tóc nó mới cắt, đầu còn ướt. Phải, đó chính là hình bóng của Chris, ngoại trừ nước da chì và đôi mắt hạnh đào. Nhưng cái miệng thì giống Sương...
Đứa trẻ nói :
- Kính chào bà.
Rồi nó chờ đợi, rụt rè nhưng không một chút ngượng ngập. Nó có vẻ hết sức quan tâm đến bà nhưng với một niềm tin thầm lặng. Thật không ngờ nó đã sớm già trước tuổi. Dẫu sao đi nữa, nó cũng không còn là một trẻ thơ.
- Chào em - Bà đáp - Tên em là gì?
- Thưa bà, con cùng một tên với ba con: Christopher. Con tên là Kim
"""