" Đứa Con Gái Hoang Đàng - Jeffrey Archer full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đứa Con Gái Hoang Đàng - Jeffrey Archer full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Download and Join at Notion tinyurl.com/cappuccinoebooks Đứa Con Gái Hoang Đàng - Hai Số Phận - Phần II Jeffrey Archer Trang KNT dịch Bách Việt Phát hành NXB Lao Động LỜI MỞ ĐẦU “Tổng thống Hoa Kỳ.” Cô gái nhắc lại. “Ba có thể nghĩ ra một lí do đáng giá hơn cho việc tự làm mình phá sản đấy.” Người cha vừa nói vừa tháo chiếc gọng kính nửa vầng trăng trên đầu mũi và nhìn chăm chú cô con gái từ phía trên tờ báo đang đọc. “Ba đừng phi lý vậy chứ. Tổng thống Roosevelt đã chứng minh với chúng ta rằng không có sự cống hiến nào vĩ đại hơn việc phục vụ cộng đồng đó thôi.” “Điều duy nhất mà Roosevelt đã chứng minh là...” Người cha cất lời, rồi ông ngừng lại và quay trở về với tờ báo của mình khi nhận ra cô con gái có thể nghĩ lời nhận xét của ông là đùa giỡn. Cô gái tiếp tục câu chuyện bởi rất muốn biết điều gì đang diễn ra trong đầu cha mình. “Con nhận thấy là mọi việc sẽ vô nghĩa nếu con theo đuổi những đam mê như thế mà không được ba ủng hộ. Vấn đề giới tính của con đã thừa đủ rắc rối mà không cần thêm sự bất lợi bởi việc có xuất thân là người Ba Lan đâu.” Tờ báo ngăn giữa người cha và cô con gái đột ngột bị hạ xuống. “Đừng bao giờ nói một cách khinh thường như vậy về người Ba Lan.” Ông nói. “Lịch sử đã chứng minh chúng ta là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Ba của ta từng là một Nam tước...” “Vâng, con biết. Đó cũng là ông nội của con còn gì, nhưng ông làm gì có ở đây để giúp con trở thành Tổng thống.” “Điều đó lại càng đáng tiếc hơn” cha cô thở dài, “bởi vì ông chắc chắn sẽ trở thành một nhà lãnh đạo tuyệt vời cho cộng đồng chúng ta.” “Thế sao cháu gái ông lại không nên làm điều đó cơ chứ?” “Chẳng tại sao cả.” Abel nói và nhìn xoáy vào đôi mắt màu xám kim loại của đứa con độc nhất. “Vậy thì ba à, ba sẽ ủng hộ con chứ? Bởi vì con không hi vọng thành công nếu không có sự hỗ trợ tài chính của ba.” Người cha lưỡng lự đôi chút trước khi trả lời. Ông đặt gọng kính lên mũi và chậm rãi gập tờ Chicago Tribune1 lại. “Ba sẽ có một thỏa thuận với con, con yêu xét cho cùng thì chính trị cũng chính là những chuyện như vậy. Nếu kết quả của cuộc bầu cử cơ sở tại New Hampshire chuyển sang hướng có lợi, cha sẽ ủng hộ con hết khả năng. Ngược lại, con phải dẹp bỏ ngay ý tưởng đó đi.” “Ba định nghĩa hướng có lợi là thế nào?” Ngay lập tức cô con gái đáp lời. Một lần nữa, người đàn ông lại do dự, cân nhắc những lời nói của mình. “Nếu con thắng cuộc bầu cử cơ sở, hoặc giành được hơn 30% số phiếu bầu, ba sẽ đi với con đến vòng bầu chọn nội bộ Đảng cho vị trí ứng viên Tổng thống, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc ba sẽ khánh kiệt.” Cô gái thả lỏng người lần đầu tiên trong suốt cuộc nói chuyện. “Cảm ơn ba. Con không đòi hỏi gì hơn thế được nữa.” “Không, tất nhiên là không rồi” ông đáp lại. “Giờ thì ba có thể quay lại với việc tìm hiểu xem làm thế nào mà The Cubs2 lại có thể để thua trận thứ bảy trong mùa giải bởi The Tigers3 được chưa?” “Họ là đội yếu nhất, không còn nghi ngờ gì nữa, với cái kết quả thua tận 9-3.” “Quý cô trẻ tuổi à, con có thể cho rằng mình biết một, hai điều gì đó về chính trị, nhưng ba có thể khẳng định với con là con chẳng biết chút gì về bóng chày cả.” người đàn ông nói trong khi mẹ cô gái bước vào phòng. Ông quay thân hình nặng nề của mình về phía vợ. “Con gái chúng ta muốn chạy đua vị trí Tổng thống Hoa Kỳ đấy. Em thấy điều đó thế nào?” Cô gái ngẩng lên nhìn mẹ, háo hức đợi câu trả lời. “Em sẽ nói cho anh điều em nghĩ nhé” người mẹ trả lời. “Em nghĩ là đã quá giờ đi ngủ của con bé rồi, và đấy là lỗi của anh vì đã cho phép nó thức khuya như vậy.” Abel nhìn đồng hồ. “Em nói đúng.” Ông thở dài. “Về giường ngủ thôi, bé con.” Cô gái đến bên cạnh cha, hôn lên má ông và thì thầm. “Con cảm ơn ba.” Ánh mắt người đàn ông dõi theo bước chân của cô con gái mười một tuổi lúc cô bé rời khỏi phòng và ông nhận thấy những ngón tay trên bàn tay phải của cô đang nắm lại với nhau, tạo thành một nắm đấm nhỏ và chặt, một điều mà cô bé luôn làm khi tức giận hoặc quyết tâm. Ông tin rằng cô đang có cả hai cảm xúc đó lúc này, nhưng ông biết là sẽ vô ích nếu cố gắng giải thích cho Zaphia – người vợ của mình – rằng đứa con duy nhất của họ không phải người tầm thường. Abel lâu nay đã từ bỏ cố gắng làm cho vợ có cùng đam mê với mình, và ít nhất hãy cảm ơn Chúa là bà ấy cũng không can thiệp sâu vào sở thích của con gái họ. Ông quay lại với tin tức về đội bóng Chicago Cubs cùng thất bại của họ ở mùa giải này, và phải thừa nhận đánh giá của con gái ông có lẽ là đúng trong chủ đề này. Florentyna Rosnovski không đề cập đến cuộc đối thoại ngày hôm đó thêm một lần nào nữa trong suốt hai mươi hai năm sau, nhưng khi cô nhắc lại chuyện này, cô cho rằng cha mình sẽ thực hiện phần của ông trong thỏa thuận giữa họ. Xét cho cùng, như cách ông luôn nhắc nhở cô, người Ba Lan là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. QUÁ KHỨ 1934 – 1968 1 Đ ó không phải là một ca sinh nở dễ dàng, nhưng đối với Abel và Zaphia Rosnovski thì chưa bao giờ có điều gì được coi là dễ dàng cả, và theo cách riêng của bản thân, họ luôn bình thản với chuyện phải vật lộn khi cố gắng giành được một điều gì đó. Abel muốn có một cậu con trai, một người thừa kế mà ngày nào đó sẽ là chủ tịch của tập đoàn Baron. Đến lúc cậu bé sẵn sàng thừa kế vị trí đó, Abel tự tin rằng, tên tuổi của anh sẽ sánh ngang với Ritz4 và Statler5, và khi ấy “Baron” sẽ là tập đoàn khách sạn lớn nhất trên thế giới. Abel đi lên đi xuống dọc hành lang đơn điệu của bệnh viện St Luke's, chờ đợi tiếng khóc đầu tiên cất lên, bước chân tập tễnh của anh trở nên nặng nề hơn với mỗi giờ trôi qua. Thỉnh thoảng anh xoay xoay chiếc vòng bạc bao quanh cổ tay và nhìn chăm chú vào dòng tên được khắc ngay ngắn trên đó. Abel chưa bao giờ nghi ngờ, thậm chí dù chỉ một khoảnh khắc, rằng đứa con đầu lòng của anh sẽ là một cậu bé. Anh quay người và lặp lại những bước chân của mình một lần nữa thì thấy bác sĩ Dodek hướng về phía mình. “Chúc mừng ngài Rosnovski” ông ta gọi. “Cảm ơn bác sĩ” Abel trả lời, thầm đoán rằng lời cầu nguyện của anh đã trở thành hiện thực. “Ngài có một cô con gái vô cùng xinh đẹp” ông bác sĩ nói khi đến gần. “Cảm ơn” Abel khẽ đáp lại, cố gắng không để lộ ra sự thất vọng. Không nói thêm một lời nào, anh đi theo bác sỹ sản khoa vào một căn phòng nhỏ ở tít cuối hành lang. Qua khung cửa quan sát, Abel đối diện với một hàng những khuôn mặt nhăn nheo. Ông bác sĩ chỉ cho người cha đứa con đầu lòng. Không giống những đứa trẻ khác, mấy ngón tay nhỏ xíu của con bé cuộn tròn lại thành một nắm đấm chặt. Abel đã đọc được ở đâu đó rằng một đứa trẻ bình thường không thể làm điều đó sau ít nhất là ba tuần. Anh mỉm cười một cách tự hào. Hai mẹ con ở lại bệnh viện St Luke's thêm sáu ngày nữa và Abel tới thăm họ mỗi buổi sáng, sau khi bữa ăn sáng cuối cùng tại Chicago Baron được phục vụ, và mỗi buổi chiều sau khi vị khách ăn trưa cuối cùng rời khỏi phòng ăn. Những bức điện tín, hoa và những tấm thiệp chúc mừng kiểu mới bày la liệt xung quanh chiếc giường khung sắt của Zaphia như minh chứng cho thấy người khác cũng vui mừng với sự ra đời này. Vào ngày thứ bảy, người mẹ và đứa trẻ chưa được đặt tên – Abel đã chọn một cái tên con trai từ lâu trước ngày sinh – trở về nhà. Một tuần sau đó, họ đặt tên cho cô bé là Florentyna, theo tên của chị gái Abel. Khi đứa bé sơ sinh ấy được đưa vào phòng trẻ vừa được trang hoàng trên tầng cao nhất của ngôi nhà, Abel dành hàng giờ chỉ để nhìn ngắm con gái mình, xem cô bé ngủ và thức dậy, nhận ra rằng anh cần phải làm việc chăm chỉ hơn nữa nếu muốn đảm bảo cho tương lai của con bé. Anh quyết tâm rằng Florentyna sẽ được trao một khởi đầu tốt đẹp hơn mình khi xưa. Con bé sẽ không phải chịu những sự bần thỉu và đói khổ, thiếu thốn như tuổi thơ của anh, hay là sự khinh thường khi đặt chân đến Ellis Island như một người nhập cư chẳng có gì ngoài vài đồng rúp Nga vô giá trị được khâu vào mặt trong chiếc áo khoác của bộ quần áo tử tế duy nhất. Anh muốn đảm bảo rằng Florentyna sẽ nhận được sự giáo dục đầy đủ mà mình không có – nhưng anh không than phiền gì về việc đó cả. Franklin D. Roosevelt sống trong tòa Bạch Ốc, trong khi tập đoàn khách sạn nhỏ của Abel thì còn phải xem chừng có trụ nổi qua thời kỳ suy thoái này không. Nước Mỹ trước giờ vẫn đối tốt với người nhập cư này6. Mỗi khi ngồi một mình bên cô con gái nhỏ ở căn phòng dành cho trẻ trên gác, anh ngẫm lại quá khứ của mình và mơ mộng về tương lai của con bé. Thời gian đầu đặt chân đến nước Mỹ, Abel làm việc trong một xưởng đóng gói thịt ở Lower East Side, New York, nơi anh đã làm trong hai năm dài đằng đẵng trước khi xin vào vị trí phụ bàn tại khách sạn Plaza. Ngay ngày đầu tiên của Abel, Sammy – tay quản lý khách sạn – đã đối xử với anh như thể anh là thành phần cặn bã của xã hội. Sau bốn năm, ngay cả một kẻ buôn nô lệ cũng phải bị ấn tượng với số giờ làm việc tăng ca mà kẻ cặn bã xã hội đó đã làm để leo lên vị trí trợ lý chính cho Sammy ở Căn phòng Gỗ sồi. Và trong lúc không ai để ý đến, Abel dành năm buổi chiều mỗi tuần cặm cụi đọc sách của khóa cử nhân tại Đại học Columbia, và sau khi bữa tối được dọn dẹp sạch sẽ, tiếp tục đọc cho đến khuya. Những đối thủ thắc mắc không biết anh ngủ vào lúc nào. Abel không biết liệu tấm bằng mới nhận có thể mang lại lợi ích gì cho mình, trong khi anh vẫn chỉ là một người phục vụ bàn. Câu hỏi đó của anh đã được giải đáp bởi một vị khách được chăm sóc tốt đến từ Texas tên là Davis Leroy, người vẫn thường quan sát Abel phục vụ khách trong Căn phòng Gỗ sồi. Thì ra quý ông Leroy sở hữu mười một khách sạn, và ông đã đề nghị Abel trở thành trợ lý quản lý khách sạn quan trọng nhất của mình, Richmond Continental tại Chicago, với nhiệm vụ chính là điều hành chuỗi nhà hàng. Abel bị đưa về hiện tại khi Florentyna trở mình, và bắt đầu đấm vào mặt bên của chiếc cũi. Anh đưa một ngón tay ra, cô con gái nắm lấy nó như nắm sợi dây cứu hộ được thả xuống từ một con tàu đang chìm. Cô bé bắt đầu cắn ngón tay anh với thứ mà cô tưởng tượng là những chiếc răng của mình... Khi Abel lần đầu đặt chân đến Chicago, anh nhận thấy Richmond Continental đang thất thoát tiền rất nhanh. Anh nhanh chóng phát hiện ra nguyên nhân. Tay quản lý, Desmond Pacey, đã bòn rút lợi nhuận, và theo như Abel có thể thấy thì điều đó đã diễn ra trong vòng ba mươi năm trở lại đây. Người trợ lý mới đã dành sáu tháng đầu tiên của mình vào việc thu thập chứng cứ cần thiết để buộc tội Pacey, trước khi anh trình bày cho ông chủ tập hồ sơ chi tiết những hành vi gian dối của hắn. Khi Davis Leroy biết được những gì đang diễn ra sau lưng mình, ông lập tức sa thải Pacey, thay thế vị trí của anh ta bằng tay chân mới của mình. Điều này thúc đẩy Abel thậm chí càng làm việc chăm chỉ hơn, và anh trở nên chắc chắn vào việc có thể khiến vận may của tập đoàn Richmond quay lại, nên khi người chị gái lớn tuổi của Leroy rao bán 25% cổ phần của bà ta ra thị trường, Abel đã bán tất cả mọi thứ anh có để mua số cổ phiếu đó. Davis Leroy rất xúc động với sự cam kết cá nhân của người quản lý trẻ đối với công ty nên đã ủng hộ bằng cách bổ nhiệm anh làm giám đốc điều hành của tập đoàn. Kể từ giây phút đó, họ trở thành cộng sự, một sự gắn kết trong công việc phát triển dần thành tình bạn thân thiết. Abel có lẽ là người đầu tiên hiểu được rằng phải khó khăn thế nào mới khiến một người Texas chấp nhận một người Ba Lan ngang hàng với mình. Lần đầu tiên kể từ khi Abel định cư tại Mỹ, anh có cảm giác đảm bảo – cho đến khi anh nhận ra người Texas cũng là một cộng đồng cao ngạo giống người Ba Lan vậy. Abel vẫn không thể tin những gì đã xảy ra. Giá như Davis tin vào anh, nói cho anh sự thật về những rắc rối tài chính đang gia tăng của tập đoàn – xét cho cùng thì có ai là không có vấn đề trong thời kỳ suy thoái đâu kia chứ? – thì họ có thể cùng nhau tìm ra cách giải quyết nào đó. Nhưng đã quá trễ, bởi Davis Leroy đã nhận được lời cảnh báo từ ngân hàng rằng giá trị chuỗi khách sạn của ông không còn đủ để bù cho khoản nợ hai triệu đô la và ông cần phải nộp thêm những khoản thế chấp trước khi ngân hàng có thể xuất tiền chi trả cho kỳ lương nhân công tháng tới. Đáp lại lời cảnh báo cuối cùng từ phía ngân hàng, Davis Leroy đã dùng bữa tối với con gái trong phòng ăn của khách sạn, trước khi về nghỉ tại phòng Tổng thống7 ở tầng mười bảy cùng với hai chai rượu Bourbon8. Một tiếng đồng hồ sau, ông mở cửa sổ, bước ra ngoài bậu cửa và nhảy xuống. Abel không bao giờ quên được lúc đứng ở góc đại lộ Michigan vào một giờ sáng để xác định danh tính một cơ thể mà anh chỉ có thể nhận ra được nhờ cái áo khoác Davis Leroy đã mặc tối hôm trước. Viên trung úy đến thu thập thông tin về người đã mất nói rằng đây là vụ tử tự thứ bảy Chicago ngày hôm đó. Việc ấy chẳng có tác dụng gì cả. Làm sao viên cảnh sát có thể hiểu Davis Leroy có ý nghĩa như thế nào đối với anh, hay biết rằng có bao điều nữa Abel Rosnovski dự định thực hiện để đền đáp tình bạn quý giá đó? Trong bản di chúc viết ở mặt sau một tờ thực đơn, Davis đã để lại 75% số cổ phiếu của tập đoàn Richmond cho giám đốc điều hành, nhắc nhở Abel rằng cho dù số cổ phiếu đó vô giá trị nhưng 100% quyền sở hữu tập đoàn có thể giúp anh có cơ hội lớn hơn trong việc đàm phán những điều khoản mới với nhà băng. Mắt Florentyna chớp chớp mở và cô bé bắt đầu khóc toáng lên. Abel bế cô bé lên một cách trìu mến, ngay lập tức hối hận với quyết định đó bởi anh cảm thấy một sự ẩm ướt không mấy dễ chịu dưới mông cô bé. Anh nhanh chóng thay tã cho con, lau khô đứa trẻ một cách cẩn thận, sau đó quấn vải bọc thành hình tam giác, không để cho bất kì một cái ghim lớn nào chạm vào cơ thể cô bé, bất kì bà đỡ nào cũng sẽ phải thừa nhận sự thành thạo của anh. Florentyna nhắm mắt và gục đầu ngủ thiếp đi trên vai cha. “Đúng là đồ chuột nhắt vô ơn” anh lầm bầm âu yếm và hôn lên trán con. Sau đám tang của Davis Leroy, Abel ghé thăm Kane & Cabot, ngân hàng sở hữu tập đoàn Richmond tại Boston, và đưa ra lời đề nghị nghiêm túc với một trong những giám đốc cơ sở về việc không rao bán mười một khách sạn ra thị trường tự do. Anh cố gắng thuyết phục anh ta rằng nếu ngân hàng ủng hộ mình, anh có thể – cùng với thời gian – biến bảng cân đối kế toán từ đỏ thành đen trở lại. Người đàn ông với vẻ ngoài giả tạo, lạnh lùng ngồi phía sau chiếc bàn lớn tỏ ra không hợp tác. “Tôi có trách nhiệm với các cổ đông của mình nên cần xem xét” anh ta nói điều đó như một lời từ chối khéo. Abel không bao giờ quên được cái cảm giác nhục nhã khi phải gọi một người bằng tuổi mình là “Ngài” mà vẫn phải ra về tay trắng. Người đàn ông đó hẳn phải có tâm hồn của một cái máy thu tiền khi không nhận thấy biết bao nhiêu người sẽ bị mất việc bởi quyết định của hắn. Abel tự hứa với lòng mình, lần thứ một trăm, rằng sẽ có ngày anh đứng ngang hàng với Quý ngài William "Ivy League9" Kane. Abel quay về Chicago và tự hỏi liệu còn chuyện tồi tệ gì khác có thể xảy ra với cuộc đời anh nữa, rồi phát hiện ra Richmond Continental đã bị thiêu trụi và cảnh sát buộc tội anh đã phóng hỏa. Chuyện phóng hỏa là thật, nhưng được thực hiện bởi bàn tay của tên cựu quản lý, Desmond Pacey với mục đích trả thù. Khi bị bắt, hắn lập tức thừa nhận tội trạng, điều duy nhất hắn muốn là thấy Abel mất tất cả. Pacey có lẽ đã thành công nếu như công ty bảo hiểm không cứu nguy cho Abel. Cho đến lúc ấy, anh thậm chí còn thắc mắc liệu mình có hạnh phúc hơn nếu ở lại trại tù binh chiến tranh của Nga nơi anh đã bỏ trốn trước khi tháo chạy sang Mỹ. Nhưng rồi vận may của anh đã thay đổi khi một chủ ngân hàng giấu tên, người mà theo Abel nghĩ là David Maxton của khách sạn Stevens, đã mua lại tập đoàn Richmond và đề nghị Abel đảm nhiệm vị trí giám đốc điều hành như cũ, với một cơ hội cho anh chứng minh mình có thể giúp công ty mang lại lợi nhuận. Khi nhìn xuống Florentyna, Abel hồi tưởng lại thời điểm anh hội ngộ Zaphia, cô gái tràn đầy tự tin mà anh gặp lần đầu tiên trên chuyến tàu đã đưa họ cũng tới nước Mỹ. Cô gái khiến cho anh cảm thấy mình chưa trưởng thành đến mức nào khi lần đầu tiên họ quan hệ, nhưng chuyện khác hẳn chỉ vài năm sau đó, lúc anh phát hiện ra cô làm phục vụ bàn tại khách sạn Stevens. Đã ba năm trôi qua kể từ ngày đó, và mặc dù tập đoàn Baron non trẻ chưa có lợi nhuận vào năm 1932, nó chỉ bị thua lỗ hai mươi ba ngàn đô trong năm tiếp theo nhờ sự kiện Chicago kỷ niệm một trăm năm thành lập, thu hút hơn một triệu khách du lịch tới thành phố để tham gia Hội chợ Thế giới. Sau khi Pacey bị kết tội phóng hỏa, Abel đã đòi tiền bảo hiểm và ngay lập tức bắt tay vào xây dựng lại khách sạn tại Chicago. Anh đã tận dụng khoảng lặng tạm thời để tới thăm mười khách sạn còn lại thuộc tập đoàn, sa thải tất cả nhân viên có biểu hiện biển thu tiền giống như Desmond Pacey và thay thế họ bằng những người nằm trong cái danh sách thất nghiệp dài, trải rộng khắp nước Mỹ. Zaphia bắt đầu bực bội với những chuyến đi triền miên của Abel từ Charleston đến Mobile, từ Houston đến Memphis, từ Dallas tới Chicago, để kiểm tra liên tục các khách sạn của anh ở phía Nam. Nhưng Abel chấp nhận rằng nếu anh muốn thực hiện giao ước phần mình với ông chủ ngân hàng bí ẩn nọ, thì thời gian quanh quẩn ở nhà buộc phải ít đi, thế nhưng anh vô cùng yêu thương con gái mình. Abel được cho mười năm để hoàn trả tiền nợ ngân hàng; nếu anh thành công, một điều khoản trong bản giao kèo cho phép anh mua loại toàn bộ cổ phiếu của tập đoàn với giá ba triệu đô la. Zaphia cảm tạ Chúa Trời hằng đêm bởi những gì họ đã đạt được, và mong muốn Abel hãy chậm lại, nhưng không gì có thể ngăn cản anh thực hiện những điều khoản trong bản hợp đồng một cách chính xác. “Bữa tối đã dọn xong rồi” Zaphia hét to với tông giọng cao nhất của cô, Abel vờ như chưa nghe thấy trong khi tiếp tục nhìn chăm chú cô con gái đang ngủ. “Anh có nghe em không thế?” Cô hét to lần thứ hai. “Bữa tối đã sẵn sàng rồi.” “Xin lỗi, anh không nghe thấy. Anh tới đây." Albel lưu luyến con gái để xuống cùng vợ ăn bữa tối. Chiếc chăn phủ màu đỏ ấm áp của Florentyna nằm trên sàn nhà, bên cạnh đùi của cô bé. Anh nhặt cái vật mềm mại đó lên, trùm một cách cẩn thận bên ngoài tấm chăn đang bọc con gái mình. Anh không bao giờ muốn con bé cảm thấy sự lạnh giá. Abel vươn tay tắt điện. 2 L ễ rửa tội và đặt tên thánh cho Florentyna là một sự kiện mà mọi người có mặt sẽ luôn nhớ đến – trừ Florentyna, cô bé con ngủ say sưa suốt cả quá trình ban phép. Sau buổi lễ tại Hội truyền giáo Đức thánh Ba ngôi của người Ba Lan10, các vị khách di chuyển về khách sạn Stevens, nơi Abel đã đặt một phòng riêng. Anh mời hơn một trăm người tới chia vui nhân dịp này. Bạn thân nhất của anh, George Novak – người anh em Ba Lan đã ngủ ở chiếc giường tầng trên của con tàu đi qua Constantinople, sẽ là Kum11, và một trong những anh em họ của Zaphia, Janina, sẽ là người còn lại12. Các vị khách xử lý rất nhanh bữa tối truyền thống gồm mười món, bao gồm cả pierogi13 và bigos14 trong khi Abel ngồi ở đầu bàn ăn nhận những món quà mừng thay mặt cho con gái. Có một chiếc lắc nhạc bằng bạc, trái phiếu tiết kiệm, một cuốn Huckleberry Finn, và món quà đẹp nhất trong số đó là một chiếc nhẫn ngọc lục bảo cổ từ một mạnh thường quân giấu tên của Abel. Anh mong rằng người đó cũng cảm thấy mãn nguyện khi trao đi món quà, giống như tâm trạng con gái anh đã thể hiện khi nhận được nó. Để ghi nhớ sự kiện này, Abel tặng con gái một con gấu bông to màu nâu với đôi mắt làm bằng những chiếc cúc đỏ. “Nhìn nó giống như Franklin D. Roosevelt vậy.” George nói và giơ cao con gấu cho mọi người đều nhìn thấy. “Cần có lễ đặt tên thứ hai nhé – FDR15.” Abel nâng cốc lên. “Dành cho ngài Tổng thống” anh chạm cốc – hay ngài Tổng thống Gấu như cách Florentyna gọi nó. Bữa tiệc cuối cùng cũng kết thúc khoảng gần ba giờ sáng, sau khi Zaphia đưa Florentyna về nhà một lúc lâu. Abel buộc phải huy động một chiếc xe chở đồ giặt là của khách sạn để chuyển đống quà tặng về phố Rigg. George vẫy tay chào khi Abel đi xuống đường Lake Shore, vừa đi vừa đẩy chiếc xe dọc vỉa hè. Người cha hạnh phúc huýt sáo một mình trong lúc nhớ lại từng khoảnh khắc của buổi tối tuyệt vời. Chỉ khi ngài Tổng thống Gấu rơi khỏi xe lần thứ ba Abel mới nhận ra anh đã đi vòng vèo qua đường Lake Shore như thế nào. Anh nhặt con gấu lên và nhét nó vào giữa đống quà, tính chọn một con đường thẳng hơn thì một bàn tay chạm vào vai anh. Abel nhảy sang bên, sẵn sàng đánh trả bất kì kẻ nào muốn cướp những món đồ đầu tiên của Florentyna. Anh nhìn trừng trừng vào gương mặt của một viên cảnh sát trẻ. “Chắc anh có một lời giải thích dễ hiểu cho việc đẩy một chiếc xe chở đồ giặt của khách sạn Stevens dọc đường Lake Shore vào lúc ba giờ sáng như thế này chứ?” “Vâng, thưa ngài cảnh sát” Abel trả lời. “Nào, hãy bắt đầu bằng việc cho tôi biết có gì trong những gói hàng?” “Ngoài Franklin D. Roosevelt, thì tôi cũng không biết chúng có gì.” Viên cảnh sát không thấy bị thuyết phục nên đã bắt Abel vì tình nghi ăn trộm đồ. Trong khi chủ nhân của những món quà ngủ say sưa với chiếc chăn trùm ấm áp trong căn phòng dành cho trẻ trên tầng cao nhất của một ngôi nhà trên đường Rigg, cha cô đã có một đêm thức trắng trên chiếc đệm lông ngựa cũ kĩ trong một phòng giam của nhà tù khu vực. George xuất hiện tòa án vào sáng sớm tinh mơ ngày hôm sau để xác nhận câu chuyện của Abel. **Ca pp u ccino Team** Abel bắt đầu không thoải mái với việc phải rời Chicago cùng Florentyna đáng yêu của anh dù chỉ trong vài ngày, lo sợ việc có thể anh sẽ bỏ lỡ mất những bước đi đầu tiên của con bé, từ đầu tiên con bé nói hay tất cả những thứ đầu tiên khác nữa. Kể từ ngày con gái chào đời, anh đã dõi theo sự lớn lên từng ngày của con, không bao giờ cho phép một từ Ba Lan nào được nói ra trong nhà, anh rất cương quyết với việc không chấp nhận dù chỉ một chút ngữ điệu Ba Lan nào có thể khiến cô bé cảm thấy xấu hổ với bạn bè cùng trang lứa. Abel rất mong chờ từ đầu tiên cô bé nói ra, hi vọng đó chính là “ba”, trong khi Zaphia thì lo sợ nó có thể là một từ Ba Lan nào đó và sẽ làm lộ việc cô không nói tiếng Anh với đứa con đầu lòng của mình mỗi khi chỉ có hai mẹ con ở bên nhau. “Con gái anh là người Mỹ” anh giải thích cho Zaphia, “và vì vậy nó cần phải nói tiếng Anh. Quá nhiều người Ba Lan tiếp tục giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng của mình, chỉ đảm bảo rằng thế hệ con cháu sống cả đời ở cái xó xỉnh tây bắc Chicago này bị người ta gọi là 'lũ trộm cướp Ba Lan16 ngu ngốc' và bị cười nhạo bởi mọi đối tượng mà chúng vô tình bước qua trước mặt.” “Ngoại trừ những người đồng hương của họ vẫn còn cảm thấy chút ít lòng trung thành cho hoàng đế Ba Lan” Zaphia nói một cách ngoan cố. “Hoàng đế Ba Lan ư?” Abel lặp lại. “Em đang sống ở thế kỷ nào vậy, Zaphia?” “Thế kỷ 20” cô cao giọng trả lời. “Cùng với Dick Tracy17 và Những cuộc vui nổi tiếng18 chứ gì?” “Có vẻ như anh không còn thái độ của một người mà tham vọng cuối cùng là trở về Warsaw trong vai trò là đại sứ đầu tiên của Ba Lan nữa.” “Anh đã nói với em là đừng bao giờ đề cập chuyện đó, Zaphia. Đừng bao giờ.” Zaphia, với vốn tiếng Anh vẫn còn yếu, không tiếp tục đáp lại nữa nhưng sau đó tâm sự với người chị họ của mình rằng cô cảm thấy hai vợ chồng đang dần trở nên xa cách. Đồng thời, cô tiếp tục nói tiếng Ba Lan bất cứ khi nào Abel không ở nhà. Zaphia không hề bị ấn tượng với sự thật – mặc dù Abel liên tục nhắc nhở cô – rằng doanh số của General Motor thậm chí còn lớn hơn cả ngân sách nhà nước Ba Lan. *** Năm 1935, Abel tin tưởng rằng nước Mỹ đã vượt qua cơn nguy kịch và thời kỳ suy thoái chỉ còn là chuyện của quá khứ, nên anh quyết định đã đến thời điểm xây dựng khách sạn Chicago Baron mới bên cạnh Richmond Continental đã cũ. Anh lựa chọn kiến trúc sư và bắt đầu dành nhiều thời gian ở Thành phố của Gió19 hơn việc chạy trên đường, quyết tâm biến khách sạn thành nơi tốt nhất ở vùng Midwest20 này. Chicago Baron đã làm lễ cất nóc vào tháng Năm năm 1936, được Chủ tịch đảng Dân chủ Edward J. Kelly cắt băng khánh thành. Cả hai Thượng nghị sĩ của bang Illinois hết sức ủng hộ và giúp đỡ, bởi họ đều nhận thấy quyền lực đang lên của Abel. “Chà, có vẻ như một triệu đô la đã được sử dụng đúng chỗ đấy” Thượng nghị sĩ cao cấp Hamilton Lewis nói. “Không thể chính xác hơn được, thưa ngài” Abel nói trong khi vị thượng nghị sĩ trầm trồ trước những căn phòng công cộng được phủ lớp thảm dày với trần nhà trát vữa cao vút có những hình trang trí với tông xanh lá nhạt nhã nhặn. Điểm nhấn cuối cùng là chữ “B” trạm nổi màu xanh lá đậm tô điểm cho tất cả mọi vật dụng từ những chiếc khăn trong phòng tắm đến những lá cờ bay phấp phới trên đỉnh của tòa nhà bốn mươi hai tầng. “Khách sạn này đã mang trong mình dấu ấn của thành công rồi” Hamilton Lewis phát biểu trước đám đông hai ngàn khách, “bởi vì, những người bạn của tôi ơi, chính người đàn ông này, chứ không phải tòa nhà, sẽ luôn được biết tới với tên gọi Nam tước Chicago.” Abel cảm thấy thỏa mãn với những tràng tung hô vang dội và mỉm cười với bản thân. Cố vấn quan hệ công chúng của anh đã gợi ý một vài gạch đầu dòng cho người viết những bài phát biểu của vị Thượng nghị sĩ hồi đầu tuần. Abel bắt đầu cảm thấy thoải mái, tự tin khi đứng chung với những doanh nhân lớn và các chính trị gia cao cấp. Tuy nhiên, Zaphia chưa bắt kịp với những thay đổi trong lối sống của chồng, và đứng thu mình đầy lo lắng ở hậu trường, uống hơi nhiều rượu sâm-panh, cuối cùng lặng lẽ rời đi sau khi bữa tối được phục vụ, để lại lời cáo lỗi vụng về rằng muốn xem Florentyna ngủ có ngon giấc hay không. Abel dẫn người vợ lặng lẽ của mình ra cánh cửa quay mà không hề giấu giếm sự khó chịu. Zaphia không hề quan tâm cũng như không hiểu mức độ thành công của Abel, và không muốn trở thành một phần của thế giới mới ấy. Cô chỉ để ý được rằng thái độ của mình khiến Abel khó chịu đến mức nào và không thể cưỡng lại việc nói với chồng, khi anh đẩy nhanh cô vào trong xe, “Không cần phải vội về nhà đâu anh.” “Anh sẽ không về sớm đâu” anh nói với chiếc cửa quay lúc trở lại bên trong, đẩy nó mạnh tới nỗi chiếc cửa còn хоау thêm ba vòng nữa sau khi anh đi qua. Anh quay về phòng giải trí của khách sạn để tìm ngài Ủy viên hội đồng Henry Osborne đang đợi anh ở đó. “Đây chắc hẳn là đỉnh cao của cuộc đời anh nhỉ?” Vị ủy viên hội đồng bình luận. “Đỉnh cao ư? Mình vừa mới bước sang tuổi ba mươi mà thôi” Abel tự nhủ. Một ánh đèn máy ảnh lóe sáng khi anh đặt tay quanh vị chính trị gia cao lớn, da sậm và điển trai. Abel nở nụ cười trước ống kính, thưởng thức việc được đối xử như một người nổi tiếng, và nói, chỉ vừa đủ cho những kẻ nghe lén nghe được, “Tôi sẽ đưa chuỗi khách sạn Baron vươn ra toàn cầu. Tôi dự định khiến mình quan trọng đối với nước Mỹ giống như Cesar Ritz đối với châu Âu vậy. Bất cứ lúc nào một người Mỹ đi du lịch, anh ta sẽ phải nghĩ ngay tới Baron như ngôi nhà thứ hai của mình.” Vị ủy viên hội đồng thành phố và Abel rảo bước thong thả trở lại phòng ăn cùng nhau, và ngay khi họ thoát khỏi những đôi tai lén lút kia, Abel nói thêm, “Mời ngài dùng bữa trưa cùng tôi ngày mai, ngài Henry. Có một vài thứ tôi muốn thảo luận với ngài.” “Rất vinh hạnh, ngài Abel. Một ủy viên hội đồng thành phố hạnh phúc sẽ luôn luôn có thời gian cho Nam tước Chicago." Cả hai bật cười sảng khoái, dù chẳng ai thấy lời bình luận hài hước chút nào. Đó lại là một đêm dài nữa của Abel. Khi trở về nhà, anh đi thẳng vào một căn phòng trống để không làm Zaphia tỉnh giấc – hay chí ít đó là lời anh nói với cô vào sáng hôm sau. Lúc Abel vào bếp để cùng Zaphia ăn bữa sáng, Florentyna đang ngồi trên chiếc ghế cao của cô bé và bôi đầy quanh miệng với một bát ngũ cốc hết sức nhiệt tình, và cắn hầu hết mọi thứ với được trong tầm tay – ngay cả khi những thứ đó không phải là đồ ăn. Sau khi thưởng thức xong chiếc bánh quế có rưới xi-rô lá phong, Abel đứng dậy khỏi ghế và nói với Zaphia rằng anh sẽ ăn trưa cùng với Henry Osborne. “Em không thích người đàn ông đó” Zaphia nói một cách cảm tính. “Anh cũng không quá ái mộ ông ta đâu” Abel thừa nhận. “Nhưng đừng quên rằng ông ta có một vị trí cao trong Hội đồng thành phố, nên ông ta có thể làm nhiều việc có lợi cho chúng ta.” “Và nhiều việc gây hại nữa.” “Đừng lo lắng đến mất ngủ vì ông ta. Em cứ để anh xử lý chuyện với tay Ủy viên Osborne này” Abel nói khi anh vuốt má vợ và chuẩn bị rời đi. “Tổng tống” một tiếng nói vang lên, và cả hai người quay lại nhìn chằm chằm vào Florentyna, giờ đang khoa chân múa tay chỉ xuống sàn chỗ con gấu Franklin D. Roosevelt hai-tuổi-rưỡi nằm bẹp trên khuôn mặt lông lá của nó. Abel cười lớn, nhặt con gấu rất-được-yêu-thích lên và đặt trả lại chỗ mà Florentyna dành cho nó ở trên chiếc ghế cao. “Tổng thống” Abel nói một cách từ tốn và rõ ràng. “Tổng thống” Florentyna nhắc lại. Abel lại cười vang và vỗ đầu Franklin D. Roosevelt. Như vậy là FDR không những phải chịu trách nhiệm về Chính sách mới21 mà còn cho cả phát ngôn chính trị đầu tiên trong đời của Florentyna nữa. Abel rời khỏi nhà, thấy người tài xế đang đứng cạnh chiếc Cadillac, cửa sau xe đã mở sẵn. Khả năng lái xe của Abel ngày càng xuống cấp khi anh có thể chi trả cho những chiếc xe ngày càng cao cấp hơn. Khi anh mua chiếc Cadillac này, George đã khuyên anh nên thuê một tài xế riêng. Sáng hôm đó anh yêu cầu tài xế đi chậm lại khi họ đến Gold Coast22. Abel nhìn chằm chằm vào ánh sáng lấp lánh phản chiếu trên những tấm kính của tòa tháp Chicago Baron và không tin rằng có nơi nào khác trên trái đất này có thể có người đạt được nhiều thứ một cách mau chóng đến thế. Những gì mà người Trung Quốc hạnh phúc vì gây dựng được trong mười thế hệ thì anh đạt được trong chưa đầy mười lăm năm. Abel nhảy ra khỏi xe trước khi tay tài xế phải đi một vòng để mở cửa. Anh bước nhanh vào khách sạn và đi thang máy tốc hành riêng lên tầng bốn mươi hai, nơi anh dành cả buổi sáng để xem xét mọi vấn đề tốt nhất mà mọi khách sạn mới phải trải qua như một trong những thang máy dành cho khách không vận hành trơn tru, hai tay phục vụ đã tham gia vào một cuộc ẩu đả bằng dao trong nhà bếp và bị George sa thải ngay trước khi Abel tới, và một danh sách những thiệt hại sau ngày khai trương cao một cách đáng ngờ, Abel phải xem xét tới khả năng có những vụ trộm gây ra bởi nhân viên phục vụ được ghi trong sổ sách núp dưới danh mục Hỏng hóc. Anh không muốn bỏ sót bất kì rủi ro nào tồn tại trong chuỗi khách sạn của mình, từ việc ai đang nghỉ trong những căn phòng Tổng thống đến giá của tám ngàn cuộn giấy mới mà khách sạn cần mỗi tuần. Anh dành buổi sáng để xử lý những tồn đọng, các vấn đề và cách giải quyết, chỉ dừng lại khi ngài Ủy viên Hội đồng Osborne được dẫn tới văn phòng của mình. “Chào buổi sáng, ngài Nam tước” Henry nói, có ý ám chỉ tới danh hiệu gia đình Rosnovski. Trong những năm tháng trước đây khi Abel còn làm phụ bàn tại khách sạn Plaza ở New York, tước vị này được nhắc tới như một trò đùa bỡn. Tại Richmond Continental khi anh là một trợ lý giám đốc, nó được thì thầm sau lưng anh. Gần đây, mọi người đều nói danh xưng ấy với sự tôn trọng. “Chào buổi sáng, ngài Ủy viên” Abel nói khi liếc nhìn chiếc đồng hồ để bàn. Đã một giờ năm phút chiều, “Chúng ta cùng đi ăn trưa thôi.” Abel dẫn Henry vào phòng ăn riêng liền kề. Đối với một người quan sát bình thường, Henry Osborne không có vẻ gì là bạn tri kỉ trời sinh của Abel Rosovski, Được giáo dục tại Choate và sau đó là Harvard, như cách ông ta liên tục nhắc Abel, sau đó phục vụ với vai trò là một trung úy trẻ của Thủy quân lục chiến trong Đại chiến thế giới. Cao hơn một mét tám, mái tóc đen dày điểm xuyết một chút bạc, ông ta trông trẻ hơn so với bề dày lịch sử cá nhân mà ông ta luôn khăng khăng nói. Hai người lần đầu gặp nhau bởi vụ cháy khách sạn Richmond Continental cũ. Henry khi đó làm việc cho Công ty Bảo hiểm Tai nạn miền Tây, mà nếu ai còn nhớ, đã đứng ra bảo hiểm cho tập đoàn Richmond khi ấy. Abel đã rất kinh ngạc khi Henry gợi ý rằng một khoản tiền mặt nhỏ có thể đảm bảo cho những giấy tờ khiếu nại được xét duyệt nhanh chóng hơn qua trụ sở chính. Anh đã không chi trả “khoản tiền mặt nhỏ” khi ấy – mặc dù những giấy tờ đền bù bằng cách nào đó vẫn được thông qua bởi Henry cũng tin tưởng vào tương lai của Abel. Lần đầu tiên trong đời, Abel học được rằng kiểu người như thế nào thì có thể mua chuộc được. Thời điểm Henry Osborne được chọn vào Hội đồng Thành phố Chicago với vai trò ủy viên, Abel đã có thể chi ra một khoản tiền mặt nhỏ, và giấy phép xây dựng cho khách sạn Baron mới được thông qua ở Tòa thị chính nhanh chóng, giống như kiểu hồ sơ xét duyệt được gắn đôi giày trượt vậy. Khi Henry sau đó tuyên bố ông ta sẽ ứng cử cho vị trí đại diện của quận Chín bang Illinois vào Hạ viện, Abel là một trong những người đầu tiên gửi tấm séc lớn cho quỹ tranh cử. Trong khi Abel giữ sự cảnh giác với đồng minh mới của mình, anh cũng đồng thời nhận ra một chính trị gia ba phải có thể là trợ thủ đắc lực cho tập đoàn Baron. Abel rất thận trọng để đảm bảo rằng không một khoản tiền mặt nho nhỏ nào – anh không nghĩ chúng là sự hối lộ – bị ghi lại trên sổ sách và cảm thấy rất tự tin rằng mình có thể chấm dứt mối quan hệ của họ bất cứ khi nào anh cảm thấy thích hợp. Phòng ăn được trang trí với cùng sắc xanh lá cây nhã nhặn giống phần còn lại của khách sạn, nhưng không có sự xuất hiện của chữ B dập nổi ở bất cứ đâu trong phòng. Toàn bộ nội thất đều từ thế kỷ 19, làm hoàn toàn bằng gỗ sồi. Xung quanh phòng treo những bức chân dung sơn dầu cùng thời kỳ, tất cả đều được nhập khẩu. Khi cánh cửa phòng khép lại, người ta hoàn toàn có thể tưởng tượng mình đang ở một thế giới khác, cách xa sự nhộn nhịp của một khách sạn hiện đại. Abel ngồi xuống vị trí đầu của một chiếc bàn được trang trí rất công phu, có thể đủ cho tám người ngồi thoải mái, nhưng giờ chỉ đặt cho hai. “Cảm giác có chút gì đó giống như đang ở Anh Quốc thế kỷ 17” Henry nhận xét khi ngắm nghía căn phòng. “Còn chưa kể đến Ba Lan thế kỷ 16 nữa” Abel nói trong lúc một người bồi bàn mặc đồng phục chỉnh tề đang phục vụ món cá hồi hun khói và một người khác thì rót cho mỗi người họ một ly rượu Bouchard Chablis. Henry nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa đầy đồ ăn trước mặt mình. “Bây giờ thì tôi có thể hiểu vì sao anh tăng cân nhiều như vậy rồi, ngài Nam tước ạ.” Abel cau mày và nhanh chóng đổi chủ đề. “Anh sẽ xem trận đầu của the Cubs ngày mai chứ?” “Để làm gì? Họ có thành tích sân nhà tệ hơn cả những người Cộng hòa nữa. Dù tôi có vắng mặt thì tờ Tribune cũng sẽ miêu tả trận đấu là giành giật-điểm-số mặc cho kết quả thế nào đi nữa, và rằng nếu trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác thì có lẽ đội Cubs đã có thể giành được một chiến thắng vang dội.” Abel cười. “Một điều chắc chắn nữa là” Henry tiếp tục, “anh sẽ không bao giờ được xem một trận đấu ban đêm trên sân Wrigley. Chơi dưới ánh đèn pha không được ưa chuộng được ở Chicago.” “Anh cũng nói điều tương tự về bia lon hồi năm ngoái.” Đến lượt Henry cau mày. “Anh không mời tôi ăn trưa để nghe quan điểm của tôi về bóng chày hay bia lon, Abel, vậy lần này tôi có thể giúp đỡ anh với một kế hoạch nho nhỏ nào đây?” “Đơn giản thôi. Tôi muốn xin anh lời khuyên về việc nên làm gì với William Kane.” Henry dường như bị mắc nghẹn. Mình cần nói chuyện với tay đầu bếp: không nên còn xương trong món cá hồi xông khói, Abel nghĩ, trước khi tiếp tục nói: “Anh từng nói với tôi, Henry, bằng một bản mô tả chi tiết, về những gì đã xảy ra khi đường đời của anh giao cắt với anh ta, và cuối cùng thì anh ta đã lừa anh về chuyện tiền bạc thế nào. Chà, tay Kane này còn làm nhiều chuyện tệ hại hơn thế với tôi nữa kìa. Trong thời kỳ Suy thoái, anh ta đã vắt kiệt Davis Leroy – cộng sự và cũng là người bạn thân nhất của tôi, và đó là nguyên nhân trực tiếp khiến Leroy tự sát. Để khiến mọi chuyện tồi tệ hơn, tay Kane này còn từ chối giúp đỡ khi tôi muốn gánh trách nhiệm quản lý chuỗi khách sạn và cố gắng làm cho chúng có nền tảng tài chính hợp lý.” “Cuối cùng thì ai đã giúp đỡ anh?" Henry hỏi. “Một nhà đầu tư cá nhân có tài khoản ở quỹ đầu tư ủy thác Continental. Người quản lý chưa bao giờ cho tôi biết nhiều thông tin, nhưng tôi luôn nghĩ đó là David Maxton." “Ông chủ của khách sạn Stevens sao?” “Chính là người đó.” “Điều gì khiến anh nghĩ là ông ta?” “Khi tôi tổ chức tiệc cưới cho mình và làm lễ rửa tội cho Florentyna tại khách sạn Stevens, hóa đơn của tôi luôn được chi trả bởi một người tài trợ.” “Điều đó vẫn khó có thể dẫn đến kết luận được.” “Tôi đồng ý, nhưng tôi khá chắc đó là Maxton, bởi vì ông ấy từng đề nghị tôi điều hành khách sạn Stevens. Tôi đã nói rằng tôi quan tâm đến việc tìm người ủng hộ tập đoàn Richmond hơn, và trong vòng một tuần, ngân hàng của tập đoàn ở Chicago đã nhận được một khoản tiền từ ai đó không muốn để lộ danh tính, bởi việc ấy có thể đụng chạm đến những lợi ích kinh doanh khác của họ.” “Điều đó nghe có vẻ thuyết phục hơn đấy. Vậy thì hãy nói xem anh bận tâm điều gì về William Kane” Henry nói trong khi đùa giỡn với ly rượu trong tay và đợi Abel tiếp tục. “Một điều không chiếm mất quá nhiều thời gian của anh, Henry, nhưng nó đáng giá cả về mặt tài chính và, bởi anh cũng đánh giá Kane cao như tôi vậy, nên cả về mặt cá nhân nữa.” “Tôi đang nghe đây," Henry nói, mắt vẫn không rời ly rượu trong tay. “Tôi muốn sở hữu một số lớn cổ phần của ngân hàng Kane ở Boston.” “Việc này không dễ đâu!” Henry nói. “Phần lớn cổ phiếu được giữ trong quỹ đầu tư ủy thác của gia đình và không được phép bán mà không có sự đồng ý của anh ta.” “Anh có vẻ biết nhiều thông tin nhỉ” Abel nói. “Kiến thức thông thường thôi mà” Henry trả lời. Abel không tin người đàn ông này. “Vậy thì hãy bắt đầu bằng việc tìm hiểu xem những ai là cổ đông trong công ty Kane & Cabot và có ai trong số họ hứng thú với việc từ bỏ cổ phần của mình với một mức giá đáng kể so với giá gốc không.” Abel quan sát ánh mắt Henry sáng lên khi ông ta bắt đầu suy tính xem vụ giao dịch này sẽ mang lại cho mình bao nhiêu, nếu có thể thỏa thuận với cả hai bên. “Nếu anh ta phát hiện ra ý định của anh, anh ta có thể sẽ chơi rất thô bạo đấy” Henry nói. “Anh ta sẽ không phát hiện ra được” Abel trả lời. “Và thậm chí nếu anh ta có thể đi nữa, thì chúng ta vẫn luôn đi trước anh ta hai bước. Anh có nghĩ mình đủ khả năng làm việc này không?” “Tôi chỉ có thể gắng thử thôi. Anh có kế hoạch gì rồi chăng? Abel nhận ra Henry đang cố gắng tìm hiểu xem mức giá nào ông ta có thể trông đợi, nhưng anh vẫn chưa nói xong. “Tôi muốn có một bản báo cáo trên giấy vào ngày đầu tiên của mỗi tháng chỉ rõ số cổ phần của Kane ở bất kì công ty nào, những cam kết kinh doanh của anh ta, và mọi chi tiết mà anh có thể moi được về đời tư nữa. Tôi muốn mọi thứ anh có thể tìm hiểu được, thậm chí là những điều có vẻ tầm thường.” “Tôi nhắc lại nhé, việc này không đơn giản đâu.” Henry nói. “Liệu một ngàn đô mỗi tháng có khiến nó dễ dàng hơn chút nào không?” “Một ngàn năm trăm thì chắc chắn hơn đấy” Henry đáp lại. “Một ngàn đô mỗi tháng trong vòng sáu tháng đầu tiên. Và nếu anh đưa ra được những thông tin có giá trị thì tôi sẽ nâng con số lên một ngàn năm trăm đô.” “Thỏa thuận vậy đi” Henry nói. “Tốt” Abel nói và lấy ví từ túi áo trong, rút ra từ chi phiếu đã được chuyển sẵn thành một ngàn đô la tiền mặt. Henry xem xét tờ séc. “Anh dường như tự tin rằng tôi sẽ đồng ý thì phải?” “Không, hoàn toàn không” Abel nói và rút ra một tờ ngân phiếu thứ hai từ trong ví. Nó được ghi mệnh giá một ngàn năm trăm đô la. Cả hai người đàn ông cười vang. “Bây giờ hãy thảo luận một chủ đề dễ chịu hơn nhé” Abel nói. “Chúng ta sẽ thắng chứ?” “Đội Cubs ư?” “Không, cuộc bầu cử ấy.” “Chắc chắn rồi. Landon đang bị dần cho tơi tả. Kansas Sunflower không hi vọng đánh bại FDR được.” Henry nói. “Ngài Tổng thống đã nhắc nhở chúng ta rằng, một bông hoa đặc biệt màu vàng, với một trái tim đen, thì chỉ có giá trị như thức ăn dành cho vẹt mà thôi, và sẽ luôn chết trước tháng Mười một.” Abel lại cười. “Vậy cá nhân ông thì sao?” “Không có gì đáng lo lắng cả. Luôn có một ghế an toàn cho đảng Dân chủ. Thách thức là chiếm được quyền đề cử của nội bộ đảng, chứ không phải cuộc bầu cử.” “Tôi rất trông đợi việc ông trở thành một nghệ sĩ, Henry." “Tôi chắc chắn làm được, Abel ạ. Và tôi mong được phục vụ anh cũng như những thành viên khác của đảng.” Abel nhìn ông ta với một chút ngưỡng mộ. “Có vẻ tốt hơn đấy, tôi hi vọng thế” anh bình luận trong lúc một miếng bít tết lớn được đặt xuống trước mặt, đồng thời ly thứ hai được rót đầy với loại rượu Cote de Beaune 1929. Thời gian còn lại của bữa trưa được dành cho việc thảo luận về những chấn thương của Gabby Hartnett, bốn huy chương vàng của Jesse Owen tại Thế vận hội mùa hè Berlin cũng như khả năng Hitler có thể xâm chiếm Ba Lan. “Không bao giờ” Henry nói và bắt đầu hồi tưởng lại lòng can đảm của người Ba Lan tại Mons23 trong cuộc Đại chiến. Abel không bình luận gì về thực tế rằng không có trung đoàn Ba Lan nào được nhìn thấy thực sự hành động ở Mons cả. Vào lúc hai rưỡi chiều, Abel trở lại bàn làm việc, tiếp tục xem xét những vấn đề liên quan đến phòng Tổng thống cũng như tám ngàn cuộn giấy mới. Mãi chín giờ tối hôm đó anh mới trở về nhà, và Florentyna thì đã đi ngủ. Nhưng cô bé tỉnh dậy khi cha bước vào phòng trẻ và mỉm cười với anh. “Tổng thống, Tổng thống, Tổng thống.” Abel mỉm cười, “Không phải ta. Con thì có thể, nhưng không phải ta.” Anh cúi người xuống và hôn lên má cô bé trong khi cô lặp đi lặp lại từ duy nhất trong vốn từ vựng hiện giờ. 3 Tháng Mười một năm 1936, Henry Osborne được bầu vào Hạ viện Hoa Kỳ, đại diện cho quận Chín bang Illinois. Tỷ lệ phiếu bầu của ông ta thấp hơn so với người tiền nhiệm, một thực tế cho thấy sự thiếu cam kết cá nhân của ông ta, bởi Roosevelt đã thắng ở mọi tiểu bang trừ Vermont và Maine, và tại Quốc hội, đảng Cộng hòa đã tụt xuống còn mười bảy Thượng nghị sĩ và một trăm linh ba Hạ nghị sĩ. Nhưng tất cả những gì Abel quan tâm là người đàn ông của anh đã có một ghế trong Quốc hội, và ngay lập tức anh đề nghị Henry chiếc ghế chủ tịch của ủy ban kế hoạch tập đoàn Baron. Henry đã nhận lời một cách biết ơn. Abel dồn tất cả sức lực của mình vào việc xây dựng thêm ngày càng nhiều khách sạn – với sự giúp sức của Nghị sĩ Osborne, người dường như có thể thay đổi giấy tờ cấp phép xây dựng bất cứ chỗ nào mà tập đoàn Baron để mắt tới. Số tiền mặt Henry đòi hỏi đối với những ưu đãi này luôn được thanh toán dưới những hóa đơn đã được sử dụng. Abel không biết Henry làm gì với số tiền đó, nhưng có chứng cứ để tin rằng một phần trong đó được trao cho những người phù hợp, dù anh không mong muốn biết chi tiết. Mặc dù mối quan hệ của anh với Zaphia có chiều hướng xấu đi, Abel vẫn muốn có một đứa con trai, và bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng khi vợ anh không thụ thai. Anh ban đầu đổ lỗi cho Zaphia, người cũng mong mỏi có đứa con thứ hai, và cuối cùng cô khăng khăng yêu cầu anh đi gặp bác sỹ. Abel đồng ý và kinh hoàng khi biết anh có lượng tinh trùng thấp: bác sỹ cho biết điều đó là bởi anh bị suy dinh dưỡng hồi còn nhỏ và anh rất có thể không còn khả năng làm cha thêm lần nữa. Chủ đề này không bao giờ được đề cập thêm một lần nào, và Abel dồn hết tình cảm cũng như hi vọng lên Florentyna, người đã lớn lên một cách mạnh mẽ. Điều duy nhất phát triển nhanh hơn là tập đoàn Baron. Abel xây một khách sạn mới ở miền Bắc, và một cái nữa ở miền Nam, trong khi hiện đại hóa và trang bị lại những khách sạn cũ thuộc tập đoàn. *** Ở tuổi lên bốn, Florentyna lần đầu tiên đến trường mẫu giáo. Cô bé khăng khăng muốn Abel và Franklin D. Roosevelt đi cùng vào ngày khai giảng. Hầu hết các bé gái khác đều được tháp tùng bởi những người phụ nữ, mà Abel rất ngạc nhiên khi phát hiện ra không phải ai cũng là mẹ đứa trẻ, mà thường là nhũ mẫu, và một trường hợp, như anh nhẹ nhàng chỉnh lại, là một gia sư riêng. Đêm hôm đó anh nói với Zaphia rằng mình muốn một ai đó có đủ trình độ chịu trách nhiệm về Florentyna. “Nhưng tại sao?” Zaphia hỏi một cách gay gắt. “Để không đứa trẻ nào ở ngôi trường đó bắt đầu cuộc sống thuận lợi hơn con gái của chúng ta được.” “Em nghĩ rằng đó là một sự lãng phí tiền bạc ngu ngốc. Một cô giáo thì có khả năng làm gì cho con gái của em mà em lại không thể chứ?” Abel không trả lời, nhưng sáng hôm sau anh cho đăng tin quảng cáo trên tờ Chicago Tribune, New York Times và Times, nhằm tìm kiếm ứng viên cho vị trí gia sư, nêu rõ ràng các điều kiện cần thiết. Anh nhận được hàng trăm thư hồi đáp từ khắp cả nước của những phụ nữ có trình độ cao, những người muốn được làm việc cho vị chủ tịch của tập đoàn Baron. Những bức thư đến từ Radcliffe, Vassar và Smith; thậm chí có cả một bức đến từ hội Cải cách Liên Bang cho phụ nữ. Nhưng một bức thư hồi đáp đến từ một phụ nữ Anh, người rõ ràng chưa bao giờ nghe nói đến Chicago Baron đã thu hút anh nhất. The Old Rectory Much Hadham Hertfordshire 12 tháng Chín năm 1938 Thưa ngài, Đáp lại quảng cáo của ngài trong mục Rao vặt trên trang nhất số báo hôm nay của tờ Times, tôi mong muốn ứng tuyển cho vị trí gia sư riêng của con gái ngài. Tôi năm nay ba mươi hai tuổi, là con thứ sáu của Very Rev. L. H. Tredgold và là một người chưa lập gia đình của giáo xứ Much Hadham, hạt Hertfordshire. Tôi hiện nay đang giảng dạy tại trường nữ sinh địa phương, đồng thời phụ giúp cha mình trong vai trò là trưởng tu viện khu vực. Tôi được đào tạo tại trường tư thục nữ Cheltenham, nơi tôi học ngôn ngữ Latinh, Hy Lạp, Pháp, và ngôn ngữ Anh để chuẩn bị vào đại học, trước khi nhận được học bổng giới hạn của trường Newnham, thuộc Đại học Cambrige. Ở bậc đại học, tôi đạt được bằng hạng nhất ở cả ba phần của khóa học Ngôn ngữ hiện đại. Tôi không có bằng Cử nhân Nghệ thuật bởi quy định của trường ngăn cản việc trao những phần thưởng như vậy cho phụ nữ. Tôi sẵn sàng nhận lời phỏng vấn bất kì lúc nào mà tôi rất chào đón cơ hội làm việc ở Tân thế giới24. Tôi đợi câu trả lời của ngài, trong khi sẵn lòng làm tôi tớ trung thành của ngài. W. Tredgold. Abel cảm thấy khó chấp nhận việc có một tổ chức kiểu như trường Nữ sinh Cheltenham, hay thực sự là có một nơi gọi là Much Hadham, và anh chắc chắn nghi ngờ tuyên bố đạt hạng nhất mà không có bằng cấp chứng minh. Anh bảo thư ký của mình thực hiện một cuộc gọi tới Washington. Khi cuối cùng anh cũng gặp được người mà mình muốn nói chuyện, anh đọc to bức thư lên. Giọng nói từ đầu Washington xác nhận những tuyên bố trong thư có thể chính xác, và không có lí do gì để nghi ngờ độ tin cậy của nó. “Bạn có chắc chắn rằng có một cơ sở gọi là trường Nữ sinh Cheltenham chứ?” Abel căn dặn. “Tôi chắc chắn, ông Rosnovski. Chính tôi cũng được đào tạo ở đó” thư ký của đại sứ Anh Quốc trả lời. Đêm hôm đó, Abel đọc bức thư cho Zaphia. “Em nghĩ sao?” Anh hỏi, mặc dù trong đầu đã có dự tính. “Em không thích cách nói chuyện của cô ta. Zaphia trả lời, mắt vẫn không rời tờ tạp chí đang đọc. “Nếu chúng ta buộc phải thuê ai đó, tại sao lại không phải là người Mỹ cơ chứ?” "Hãy nghĩ tới những lợi thế mà Florentyna có thể nhận được nếu con bé được dạy dỗ bởi một bảo mẫu người Anh đi.” Abel ngừng lại. “Cô gái ấy thậm chí có thể là một người bạn cho em.” Lần này Zaphia đã ngước mắt lên. “Tại sao? Anh hi vọng cô ta sẽ dạy dỗ cả em nữa sao?” Abel không bình luận gì nữa. Sáng hôm sau anh gửi một bức điện tín tới Much Hadham mời cô Tredgold tới làm gia sư riêng. Ba tuần sau Abel đón cô gái từ chuyến tàu Twentieth Century Limited tại nhà ga La Salle. Anh ngay lập tức biết rằng mình đã có một quyết định đúng đắn. Cái cách mà cô đứng một mình trên sân ga, ba chiếc vali với những kích thước khác nhau và có vẻ cổ điển bên cạnh, cô không thể là ai khác ngoài cô Tredgold. Cô cao, gày và có chút gì đó hơi cao ngạo, và búi tóc trên đỉnh đầu khiến cô trông cao hơn ông chủ của mình đến năm xăng ti mét. Tuy nhiên Zaphia đối xử với cô Tredgold như một kẻ xâm nhập trái phép, kẻ tới để làm suy yếu vị trí làm mẹ của cô, và khi cô cùng gia sư mới tới phòng con gái, Florentyna trốn đâu mà không ai biết. Hai con mắt nhìn lên từ dưới gầm giường đầy nghi ngờ. Cô Tredgold phát hiện ra cô bé trước tiên và quỳ xuống sàn. “Cô e rằng mình không thể giúp con nhiều cho lắm nếu con cứ ở dưới đó, cô bé ạ. Cô quá to lớn để có thể ở dưới gầm giường mất rồi.” Florentyna cười phá lên và bò ra. “Giọng cô buồn cười thế ạ” cô bé nói. “Cô từ đâu đến vậy?” “Anh Quốc” cô Tredgold đáp, và ngồi xuống bên cạnh cô bé trên giường. “Đó là ở đâu vậy ạ?” “Cách đây khoảng một tuần.” “Vâng, nhưng là bao xa ạ?” “Điều đó còn phụ thuộc vào việc con di chuyển như thế nào trong tuần nữa. Có bao nhiêu cách cô có thể di chuyển một quãng đường xa như vậy nhỉ? Con có thể chỉ ra được ba cách không?” Florentina tập trung nghĩ. “Từ nhà con sẽ đi bằng xe đạp, khi con tới tận cùng nước Mỹ, con sẽ...” “Bờ biển nước Mỹ” cô Tredgold chỉnh lại. Không ai trong hai cô trò nhận ra Zaphia đã rời khỏi phòng. Chỉ vài ngày sau Florentyna đã biến cô Tredgold thành anh và chị mà cô bé chưa bao giờ có. Florentyna có thể dành hàng giờ chỉ để lắng nghe người bạn mới của mình, và Abel quan sát với niềm tự hào khi người phụ nữ trung niên chưa chồng ấy – anh không bao giờ có thể nghĩ cô giáo đã ba mươi hai tuổi, bằng tuổi mình – dạy cô con gái bốn tuổi của anh các chủ đề bao trùm nhiều lĩnh vực mà chính anh cũng muốn được biết nhiều hơn. Một buổi sáng Abel hỏi George liệu anh ta có thể kể tên sáu người vợ của vua Henry VIII không — nếu anh ta không thể, có lẽ sẽ khôn ngoan hơn khi họ thu nhận thêm một cô giáo nữa từ trường Nữ sinh Cheltenham trước khi Florentyna biết nhiều hơn cả họ. Zaphia chẳng muốn biết về vua Henry VIII cũng như những người vợ của ông ta, và cô vẫn cho rằng Florentyna nên được nuôi dạy theo cách truyền thống đơn giản của người Ba Lan mà cô cảm thấy đã có hiệu quả đối với mình, nhưng cô đã từ bỏ từ lâu việc cố gắng thuyết phục Abel trong chuyện này. Zaphia thiết lập một thói quen khiến cô có thể tránh mặt cô gia sư gần như cả ngày. Ngược lại, thói quen hằng ngày của cô Tredgold lại theo một khuôn mẫu giống như một quân nhân thuộc trung đoàn Grenadier Guards25, tuân theo phương pháp của Maria Montessori26. Florentyna dậy lúc bảy giờ sáng và trong tư thế ngồi thẳng không chạm phần dựa lưng ở ghế, cô bé được dạy về những quy tắc ứng xử tại bàn ăn và cứ giữ nguyên tư thế như vậy cho đến lúc rời phòng ăn sáng. Từ bảy rưỡi cho đến bảy giờ bốn nhăm, cô Tredgold sẽ lựa ra hai đến ba tin tức mới từ tờ Chicago Tribune, đọc và thảo luận với Florentyna, sau đó sẽ hỏi cảm nghĩ của cô bé một tiếng sau đó. Florentyna ngay lập tức bị thu hút với những dự định của Tổng thống, có lẽ bởi tên của ông được đặt giống con gấu của cô. Cô Tredgold nhận ra rằng mình phải dùng phần lớn thời gian rảnh rỗi cần mẫn tìm hiểu về hệ thống lạ lùng của chính phủ Mỹ để chắc chắn mọi câu hỏi của cô học trò sẽ luôn có câu trả lời. Từ chín đến mười hai giờ, Florentyna và FDR đến trường mẫu giáo, nơi chúng tham gia vào những hoạt động bình thường hơn với bạn bè đồng trang lứa. Khi có Tredgold đến đón cô bé mỗi buổi chiều, thật dễ nhận ra liệu Florentyna đã chọn đất nặn, những cây kéo và keo dán hoặc tranh vẽ bằng ngón tay cho ngày hôm đó. Hết giờ chơi cuối ngày ở trường, cô bé sẽ được đưa thẳng về nhà để tắm rửa và thay quần áo với tiếng chép miệng của cô giáo và thỉnh thoảng là “Cô không thể hiểu chuyện gì đã xảy ra nữa.” Vào buổi chiều, cô Tredgold và Florentyna sẽ chơi một số trò thám hiểm mà gia sư của cô bé đã cẩn thận lên kế hoạch từ sáng không để Florentyna biết – mặc dù việc này không bao giờ ngăn được cô bé luôn cố gắng tìm hiểu trước những gì cô Tredgold đã sắp đặt. “Hôm nay chúng ta sẽ làm gì thế ạ?” hay “Chúng ta đi đâu vậy ạ?” Florentina sẽ hỏi. “Kiên nhẫn đi bé con.” “Chúng ta sẽ vẫn thực hiện nó kể cả khi trời mưa chứ ạ?" “Chỉ có thời gian mới trả lời được thôi. Nhưng nếu chúng ta không làm được, thì chắc chắn là cô có kế hoạch dự phòng rồi.” “Kế hoạch dự phòng là gì thế ạ?” Florentyna thắc mắc. “Một thứ con có thể dựa vào khi những thứ khác con sắp đặt không còn khả thi nữa” cô Tredgold giải thích. Những buổi chiều thám hiểm như thế thường là đi dạo xung quanh công viên, đi thăm sở thú, thậm chí thỉnh thoảng là những chuyến đi trên nóc xe kéo hành lý, việc mà Florentyna coi là một phần thưởng tuyệt vời. Cô Tredgold cũng dùng thời gian này để giới thiệu với cô bé một vài từ tiếng Pháp, và cô ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy đứa học trò nhỏ thể hiện năng khiếu tự nhiên với các ngôn ngữ. Khi họ trở về nhà, cô bé sẽ dành nửa tiếng với mẹ trước bữa tối, sau đó đi tắm một lần nữa trước khi bị ép lên giường ngủ lúc bảy giờ. Cô Tredgold sẽ đọc một vài dòng trong Kinh thánh hay là truyện của Mark Twain – có vẻ như không nhiều người Mỹ biết sự khác biệt giữa chúng. Cô Tredgold sẽ nói một chút những gì cô nghĩ là phù phiếm — sau đó tắt đèn phòng ngủ của đứa trẻ, cô ngồi với cô bé và FDR cho đến khi tất cả đều chìm vào giấc ngủ. Thói quen này được tuân thủ chặt chẽ và chỉ bị phá vỡ trong một vài dịp hiếm có như sinh nhật, hay ngày lễ quốc gia, thời điểm mà cô Tredgold cho phép Florentyna đồng hành cùng cô đến Nhà hát Hiệp hội Nghệ sĩ để xem những bộ phim như Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, nhưng chỉ sau khi cô đã xem trước buổi biểu diễn đó để chắc chắn rằng nó phù hợp với cô học trò nhỏ của mình. Walt Disney được cô giáo chấp nhận, cũng như Laurence Olivier, người đóng vai Heathcliff và được Merle Oberon theo đuổi. Vì anh ta, cô đã đi xem ba buổi chiều thứ Năm liên tiếp, trong thời gian cô được nghỉ, với giá vé là hai mươi xu mỗi xuất công chiếu. Cô tự thuyết phục rằng sáu mươi xu là hoàn toàn xứng đáng, bởi xét cho cùng thì Đồi gió hú cũng là một tác phẩm kinh điển. Cô Tredgold không bao giờ ngăn cản Florentyna đặt câu hỏi về Đức Quốc xã, thời kỳ Kinh tế mới và thậm chí là cách một gia đình vận hành, mặc dù đôi khi cô cũng không biết hết câu trả lời. Cô gái nhỏ nhanh chóng nhận ra mẹ không thỏa mãn được tính hiếu kì của mình, và một vài dịp thậm chí cả cô giáo Tredgold, để không đưa ra một câu trả lời thiếu chính xác, đã biến mất vào phòng cô ấy và tham khảo cuốn Bách khoa toàn thư Britannica. Lên năm tuổi, Florentyna học mẫu giáo ở trường Nữ sinh Latinh ở Chicago, nơi mà chỉ trong vòng một tuần cô bé đã được chuyển lên lớp trên bởi cô vượt xa bạn bè đồng trang lứa. Trong thế giới của cô mọi thứ đều tuyệt vời. Cô có mẹ và ba, cô giáo Tredgold và Franklin D. Roosevelt, và trong khoảng trời của cô thì không có gì mà không thể chạm tới được. Florentyna dễ dàng vượt qua lớp một, vượt cả kỳ vọng chỉ cần duy trì việc học tập bằng với bạn bè cùng lớp, chỉ có duy nhất vóc dáng của cô bé là nhắc khiến người ta nhớ rằng cô nhỏ hơn các bạn một tuổi. Chỉ “những gia đình xuất sắc nhất”, như cách Abel miêu tả, gửi con em đến học tại trường Latinh. Nhưng có một điều khiến cô Tredgold kinh ngạc là khi cô mời một vài người bạn của Florentyna tới nhà uống trà, lời mời của cô đều bị từ chối một cách lịch sự. Những người bạn thân nhất của Florentyna như Mary Gill và Susie Jacobson vẫn thường xuyên tới chơi, nhưng bố mẹ của một vài cô bé khác gửi những lời xin lỗi thiếu thuyết phục vì đã khước từ, và cô Tredgold sớm nhận ra rằng mặc dù “Nam trước Chicago” có thể đã phá vỡ sợi xích ràng buộc của sự nghèo túng, anh vẫn chưa thể bước chân vào những phòng khách đẳng cấp ở Chicago. Zaphia không giúp gì trong vấn đề này, có rất ít hoặc gần như không bỏ chút nỗ lực nào để tìm hiểu những phụ huynh khác, không tham gia bất kì hội nhóm từ thiện, hội đồng quản trị bệnh viện, hoặc các câu lạc bộ thời trang nào mà rất nhiều người trong số họ tham gia. Cô Tredgold cố gắng hết sức để cải thiện tình hình, nhưng cô chỉ là một người giúp việc trong con mắt của hầu hết các bậc phụ huynh ấy. Cô cầu nguyện rằng Florentyna sẽ không bao giờ nhận ra những định kiến đó – nhưng mọi chuyện không được như vậy. 4 A bel quá bận rộn với việc xây dựng đế chế của mình nên không có nhiều thời gian suy nghĩ về vị trí xã hội của bản thân hoặc bất kì vấn đề gì mà cô giáo Tredgold có thể đang phải đối mặt. Tập đoàn đang thể hiện sự phát triển vững chắc, và Abel cảm thấy tự tin rằng anh có thể trả được khoản vay của mình cho người hậu thuẫn vào năm 1939. Thật sự thì Abel dự tính có thể thu được lợi nhuận vào khoảng hai trăm năm mươi ngàn đô cho năm nay, dù cho có một hạng mục xây dựng khổng lồ. Mối bận tâm thực sự của Abel không đặt ở trường mẫu giáo, hay là với chuỗi khách sạn của mình, mà là cách đó hơn bốn ngàn dặm ở nơi quê nhà dấu yêu. Nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của anh đã trở thành hiện thực vào ngày 1 tháng Chín năm 1939, khi Hitler hành quân tiến vào Ba Lan, và hai ngày sau đó, Anh Quốc tuyên chiến Đức. Cùng với sự bùng nổ của một cuộc chiến tranh thế giới nữa, anh xem xét nghiêm túc việc trao quyền điều hành tập đoàn Baron cho George – người đã trở thành cánh tay phải đáng tin cậy – trong thời gian anh tới London để gia nhập trung đoàn người Ba Lan lưu vong. George và Zaphia đã xoay sở để thuyết phục anh từ bỏ ý định ấy. Thay vào đó, Abel tập trung vào việc huy động tiền mặt và gửi cho tổ chức Chữ thập đỏ Anh Quốc, đồng thời vận động các chính trị gia đảng Dân chủ tham gia cuộc chiến cùng với người Anh. FDR cần mọi người bạn mà ông ấy có thể kết thân được, Florentyna nghe cha mình tuyên bố như vậy vào một buổi sáng. Tại sao chú gấu của cô lại cần có bạn bè, Florentyna thắc mắc. Quý cuối năm 1939, Abel, cùng với sự trợ giúp từ một khoản vay nhỏ của Ngân hàng số một quốc gia27 tại Chicago, đã trở thành chủ sở hữu toàn bộ tập đoàn Baron. Anh dự đoán trong bản báo cáo hàng năm của Tập đoàn rằng lợi nhuận trong năm 1940 có thể đạt mức nửa triệu đô la Mỹ. Chú gấu Franklin D. Roosevelt với đôi mắt đỏ và bộ lông nâu rậm rạp hiếm khi tách rời Florentyna ngay cả khi cô bé lên lớp hai. Cô Tredgold cho rằng đã đến lúc FDR nên ở nhà. Trong hoàn cảnh bình thường cô sẽ cứng rắn – có thể sẽ khiến cô bé nhỏ một vài giọt nước mắt nhưng vấn đề sẽ được giải quyết – nhưng dù cho những nhận định của cô đúng đắn hơn, cô vẫn để đứa trẻ làm theo cách của nó. Đó hóa ra lại là một trong những quyết định sai lầm hiếm hoi của cô Tredgold. Thứ Hai hàng tuần, trường Nam sinh Latinh sẽ tham gia cùng với trường nữ sinh trong giờ học tiếng Pháp của quý cô Mettinet, giáo viên môn ngôn ngữ hiện đại. Đối với mọi người, trừ Florentyna, đây là lần đầu tiên chúng được tiếp xúc với một thứ tiếng mới, tất nhiên là các cậu bé cũng vậy. Khi mà cả lớp đang tập đọc boucher, boulanger và épicier cũng với cô giáo, Florentyna, vì buồn chán nhiều hơn là tự phụ, đã bắt đầu một cuộc trò chuyện với FDR bằng tiếng Pháp. Cậu bạn hàng xóm, một bé trai cao, khá lười biếng tên là Edward Winchester, có vẻ không thể nắm bắt được sự khác biệt giữa le và la, nghiêng người sang bảo Florentyna đừng thể hiện nữa. Cô bé đỏ mặt. “Tớ chỉ đang cố gắng giải thích cho FDR sự khác biệt giữa giống đực và giống cái thôi mà.” “Thật vậy sao?” Edward nói. “Được thôi, tớ sẽ chỉ cho cậu biết sự khác biệt28 đó, thưa Quý cô Biết-tuốt.” Thằng bé nắm lấy FDR và với tất cả sức mạnh mà bản thân có thể có, bứt đứt một cánh tay của con gấu. Florentyna như mọc rễ tại chỗ vì sốc khi Edward sau đó lấy lọ mực từ bàn mình và đổ xuống đầu chú gấu bông. Cô Mettinet, người chưa bao giờ tán thành việc để con trai học chung lớp với con gái, vội vàng chạy xuống cuối lớp nhưng đã muộn. FDR đã nhuộm một màu xanh dương từ đầu đến chân và nằm trên sàn giữa một vòng tròn từ thứ ruột nhồi bung ra khỏi cánh tay bị đứt của nó. Florentyna nắm lấy người bạn yêu quý của cô bé, nước mắt nhạt nhòa hòa vào vũng mực. Cô Mettinet dẫn Edward đến phòng hiệu trưởng và hướng dẫn những đứa trẻ khác ngồi yên cho đến khi cô quay lại. Trong lúc cô giáo đi khỏi, Florentyna bò quanh sàn, cố gắng trong vô vọng nhét đống ruột nhồi bông trở lại vào FDR, thì một đứa con gái có mái tóc vàng nhạt mà Florentyna chưa bao giờ nói chuyện trước đây cúi xuống và rít lên “Mày đáng bị thế, đồ Polack ngu ngốc.” Cả lớp cười rúc rích trước lời nhận xét của con bé đó và một vài đứa bắt đầu nhắc đi nhắc lại “Đồ Ba Lan ngu ngốc, đồ Ba Lan ngu ngốc, con Ba Lan ngu ngốc.” Florentyna bám chặt FDR và cầu mong cô Mettinet trở lại. Cảm giác như hàng giờ đã qua, mặc dù thực tế mới chỉ vài phút, trước khi cô giáo tiếng Pháp xuất hiện trở lại cùng với Edward theo sau, trông như đã bị trừng phạt thích đáng. Tiếng rì rầm ngưng bật khi cô Mettinet bước vào phòng, nhưng Florentyna không thể khiến bản thân ngước nhìn lên. Tiếp theo đó là một sự im lặng bất thường, Edward bước tới chỗ Florentyna và xin lỗi với một giọng lớn đến mức thiếu thuyết phục. Thằng bé trở lại chỗ của mình và cười toe toét với đám bạn cùng lớp. Khi cô Tredgold đón cô học trò từ trường buổi chiều hôm đó, không khó để nhận ra gương mặt đứa trẻ đỏ bừng lên vì khóc và cô bé vừa đi vừa cúi đầu, giữ chặt gương mặt xanh lè của FDR với cánh tay còn lại của nó. Cô Tredgold đã dỗ dành Florentyna kể lại toàn bộ câu chuyện trước khi họ về tới nhà. Sau đó, cô đã cho cô bé được ăn bữa tối yêu thích với bánh hamburger và kem, hai món mà bình thường cô luôn không đồng ý, rồi đưa đứa trẻ lên giường sớm, hi vọng rằng nó sẽ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Sau một tiếng đồng hồ vô ích cùng với bàn chải và xà phòng, cố gắng làm sạch con gấu bị dính vết bẩn lì lợm, cô Tredgold buộc phải thừa nhận là đã thất bại. Khi đặt con vật ẩm ướt xuống cạnh Florentyna, cô nghe một giọng nói nhỏ vang lên từ dưới tấm khăn trải giường, “Cảm ơn cô, cô Tredgold. FDR cần mọi người bạn mà nó có thể kết thân được.” Khi Abel trở về nhà sau mười giờ tối một vài phút – anh gần đây luôn về nhà muộn mỗi đêm – cô Tredgold muốn có một cuộc nói chuyện riêng với anh. Abel rất ngạc nhiên với lời yêu cầu đó và ngay lập tức dẫn cô tới phòng đọc sách của mình. Trong suốt mười tám tháng làm việc, cô Tredgold luôn báo cáo tiến độ hàng tuần cho ông Rosnovski vào sáng Chủ nhật, từ mười giờ đến mười rưỡi, khi Zaphia dẫn Florentyna đến buổi lễ Chủ nhật29 ở Hội truyền giáo Holy Trinity Polish. Báo cáo của cô Tredgold luôn công bằng và chính xác; nếu có gì khác thường thì đó là cô có xu hướng đánh giá thấp những thành tựu đạt được của đứa trẻ. “Có chuyện gì vậy, cô Tredgold?” Abel hỏi, cố gắng không tỏ ra lo lắng. Với việc phá vỡ thói quen bình thường như thế, ý nghĩ đầu tiên của anh là cô sẽ nộp đơn xin nghỉ việc. Cô Tredgold vẫn đứng một chỗ. Cô không bao giờ nghĩ đến việc sẽ ngồi trong khi trình diện chủ nhân. Cô nhắc lại chi tiết mọi việc đã diễn ra ở trường ngày hôm đó. Khuôn mặt Abel cứ đỏ dần, đỏ dần theo diễn biến của câu chuyện và trở nên đỏ bừng trước khi cô Tredgold kể hết mọi thứ. “Không thể chấp nhận được” là điều đầu tiên anh nói. “Florentyna cần phải được chuyển trường ngay lập tức. Tôi sẽ đích thân đến gặp cô Allen ngày mai và nói với cô ấy chính xác những gì tôi nghĩ về ngôi trường đó. Tôi chắc rằng cô sẽ tán đồng quyết định của tôi, cô Tredgold." “Không, thưa ngài, tôi không nghĩ vậy” đáp lại là một câu trả lời mạnh mẽ khác thường. “Cô giáo nói sao cơ?” Abel hoang mang hỏi lại. “Tôi nghĩ rằng ngài cũng đáng trách như cha mẹ của cậu Edward Winchester vậy.” “Tôi ư? Albel hỏi. “Tôi đã làm gì cơ chứ?” "Đó là bởi những gì ngài đã không làm” cô Togold đáp lại. “Ngài nên nói với con gái mình từ lâu vì thực tế của việc là một người Ba Lan và cách đối phó với những vấn đề có thể phát sinh do nguồn gốc của mình. Ngài cũng nên giải thích sự không tin tưởng người Ba Lan đã ăn sâu trong lòng người Mỹ, thứ định kiến mà cá nhân tôi cho rằng đáng trách giống thái độ của người Anh đối với người Ai Len, và cũng không khác lắm so với những hành vi dã man của Đức Quốc xã đối với người Do Thái.” Abel vẫn im lặng. Đã lâu rồi mới có người bảo với anh rằng anh đã sai lầm trong chuyện gì đó. “Cô còn điều gì khác muốn nói không?” Khi anh nghĩ rằng cô giáo đã kết thúc vấn đề. “Có, ngài Rosnovski. Nếu ngài đưa Florentyna rời khỏi trường Nữ sinh Latinh, tôi sẽ xin nghỉ việc ngay lập tức. Nếu ngay lần đầu tiên đứa trẻ gặp những vấn đề mà ngài lại chọn cách chạy trốn, làm sao tôi có thể dạy cô bé cách đối mặt với thế giới thực? Tôi đã chứng kiến đất nước mình bị lôi kéo vào cuộc chiến bởi chúng tôi từng muốn tiếp tục tin rằng Hitler là một người đàn ông hiểu lý lẽ, dù tư tưởng có đôi chút lệch lạc. Tôi nghĩ rằng mình không thể dạy cách suy nghĩ sai lầm đó cho Florentyna. Thật sự đau khổ nếu tôi phải rời bỏ cô bé, tôi không thể yêu nó nhiều hơn nữa ngay cả khi nó là con ruột của mình, nhưng tôi cũng không thể chấp nhận việc che chắn con bé khỏi hiện thực chỉ bởi ngài có đủ tiền để dễ dàng làm điều đó thêm vài năm nữa. Tôi phải xin thứ lỗi vì sự thẳng thắn của mình, ngài Rosnovski, nhưng tôi không thể lên án định kiến của người khác đồng thời lại tán đồng với những sai lầm của ngài được.” Abel ngồi dựa hẳn vào ghế và im lặng hồi lâu. “Cô Tredgold, đáng lý ra cô phải là một đại sứ chứ không phải là một gia sư. Tất nhiên cô có lý. Vậy cô khuyên tôi nên làm đây?” Cô Tredgold không hề do dự. “Đứa trẻ nên dậy sớm hơn ba mươi phút mỗi ngày trong tháng tới và học về lịch sử Ba Lan. Cô bé cần phải biết vì sao Ba Lan là một dân tộc tuyệt vời và lí do gì khiến người Ba Lan sẵn sàng thách thức sức mạnh của người Đức ngay cả khi họ không hề có hi vọng chiến thắng. Và cô bé sẽ có thể đối mặt với những kẻ cứ làm phiền nó về tổ tiên của mình bằng kiến thức, chứ không phải sự thiếu hiểu biết, và không ai có thể dạy cô bé tốt hơn là chính ngài.” Abel nhìn thẳng vào mắt cô. “Tôi đã hiểu George Bernard Shaw30 có ý gì khi ông ấy nói rằng bạn trước tiên phải gặp một gia sư người Anh nếu bạn muốn biết vì sao nước Anh vĩ đại.” Cả hai cùng cười. “Tôi ngạc nhiên rằng cô không muốn làm nhiều điều hơn trong cuộc đời mình đấy, cô Tredgold ạ.” Abel nói. “Cha tôi có sáu cô con gái. Ông rất mong muốn một cậu con trai, nhưng việc đó đã không xảy ra.” “Thế năm người còn lại hiện nay thế nào?” “Họ đều kết hôn rồi” cô trả lời mà không hề tỏ ra bất mãn. “Thế còn cô?” “Cha từng nói với tôi rằng tôi sinh ra để làm một giáo viên, và kế hoạch của Đức Chúa đã định sẵn cho chúng ta trên chiếc la bàn của người, vì thế có lẽ cuối cùng tôi sẽ dạy cho ai đó mang trên mình một sứ mệnh lớn lao.” “Chúng ta hãy cùng hi vọng thế, cô Tredgold.” Abel muốn gọi cô bằng tên riêng, nhưng anh không biết nó là gì. Tất cả những gì anh biết là cô ký tên mình trên thư rằng “W. Tredgold” nhưng nó chẳng gợi mở điều gì. Anh mỉm cười với cô. “Cô sẽ uống với tôi một ly chứ, cô Tredgold?” “Cảm ơn, ngài Rosnovski. Một ly sherry sẽ rất tuyệt.” Abel rót cho cô một ly sherry không ngọt và cho mình một ly whishkey lớn. “FDR bị hỏng nặng đến mức nào?” “Tàn tật suốt đời, tôi e là vậy, điều đó sẽ làm cho cô bé yêu những con vật bị đánh đập nhiều hơn. Trong tương lai, tôi đã quyết định FDR sẽ phải ở nhà và chỉ được đồng hành khi tôi đi cùng.” “Cô bắt đầu giống Eleanor Roosevelt khi nói về Tổng thống rồi đấy.” Cô Tredgold lại cười vang một lần nữa và nhấm nháp ly Sherry của mình. “Tôi có thể đưa ra một gợi ý nữa liên quan đến Florentyna không?” “Chắc chắn rồi” Abel nói, tiếp tục chăm chú lắng nghe những gợi ý của cô Tredgold. Vào lúc họ uống hết ly rượu thứ hai, Abel gật đầu chấp thuận. “Tốt rồi” cô Tredgold nói. “Vậy là với sự đồng ý của ngài, tôi sẽ giải quyết vấn đề đó ngay khi có cơ hội thuận lợi đầu tiên.” “Chắc chắn rồi” Abel nhắc lại. “Tất nhiên, khi nói đến những giờ học buổi sáng như thế này, đối với tôi nó không thực tế để thực hiện cả tháng liên tục mà không có sự gián đoạn.” Cô Tredgold định lên tiếng thì Abe nói tiếp, “Có những cuộc hẹn mà tôi không thể sắp xếp lại trong thời gian ngắn. Tôi chắc cô giáo hiểu.” “Ngài phải làm thế, ngài Rosnovski, hãy làm những gì mà ngài nghĩ là tốt nhất, và nếu ngài cảm thấy có điều gì đó quan trọng hơn tương lai của con gái ngài, thì tôi chắc rằng cô bé sẽ hiểu.” Abel biết rằng mình đã bị hạ gục. Anh hủy mọi cuộc hẹn ngoài Chicago trong vòng một tháng và thức dậy mỗi ngày vào lúc sáu giờ. Lần đầu tiên, ngay cả Zaphia cũng chấp thuận đề nghị của cô Tredgold. *^Cappuccino <3^* Ngày đầu tiên Abel bắt đầu bằng việc kể cho Florentyna chuyện anh đã được sinh ra như thế nào trong một cánh rừng ở Ba Lan, và được một gia đình chuyên đặt bẫy thú nhận nuôi, rồi sau đó anh trở thành bạn với một Nam tước vĩ đại, người đã đưa anh tới tòa lâu đài của ông ở Slonim, trên ranh giới Ba Lan – Nga. “Ông ấy đã đối xử với ba như chính con đẻ của mình vậy” Abel nói với con gái. Thời gian trôi qua, Abel kể cho con gái làm sao mà Florentyna – chị gái của anh, người mà con gái anh được mang tên, về sống cùng ở tòa lâu đài, và bằng cách nào anh phát hiện ra Nam tước chính là cha ruột của mình. “Con biết, con biết làm sao ba phát hiện ra rồi.” Florentyna kêu lên. “Làm sao con biết, cô gái bé nhỏ?” “Ông ấy chỉ có một đầu vú” Florentyna nói. “Chắc chắn là thế, chắc chắn. Con đã thấy ba trong nhà tắm. Ba cũng chỉ có một núm vú, vậy nên ba nhất định là con của ông. Tất cả những đứa con trai ở trường đều có hai...” Abel và cô Tredgold chăm chú nhìn đứa trẻ, không tin nổi những gì cô bé tiếp tục nói, “... nhưng nếu con là con gái ba, tại sao con lại có hai bên?” “Bởi vì nó chỉ di truyền từ cha cho con trai, và gần như không ai thấy trên những cô con gái.” “Điều đó không công bằng, con cũng muốn có một bên thôi.” Abel bắt đầu cười. “Chà, nếu con có một cậu con trai, có lẽ nó cũng sẽ có một bên đấy.” “Đến lúc con đi tết tóc và chuẩn bị đến trường rồi đấy” cô Tredgold nói. “Nhưng mọi thứ mới bắt đầu hấp dẫn mà.” “Hãy làm như con được bảo đi, bé con.” Florentyna miễn cưỡng rời xa cha mình và đi vào phòng tắm. “Cô nghĩ điều gì sẽ diễn ra vào ngày mai, cô Tredgold?” Florentyna hỏi trên đường đến trường. “Cô không biết, bé ạ, nhưng giống như ông Asquith31 từng khuyên, hãy đợi mà xem.” “Ông Asquith đã ở trong lâu đài với bà con hả cô Tredgold?" Những ngày sau đó, Abel giải thích cuộc sống trong trại tù của Nga diễn ra như thế nào và điều gì đã khiến anh bị khập khiễng như hiện giờ. Anh tiếp tục dạy con mình những câu chuyện mà ngài Nam tước đã dạy anh trong ngục tối hơn hai mươi năm trước. Florentyna dõi theo lịch sử của vị anh hùng huyền thoại người Ba Lan – Tadeusz Kosciuszko32, và tất cả những nhân vật vĩ đại đã theo bước ông cho đến tận ngày nay, trong lúc cô Tredgold chỉ lên một tấm bản đồ mà cô đã ghim sẵn trên tường phòng ngủ. Abel cuối cùng cũng giải thích cho con gái điều đã dẫn anh tới việc sở hữu sợi dây bạc anh luôn đeo nơi cổ tay. “Nó nói gì vậy ạ?” Florentyna hỏi, mắt chăm chú nhìn vào những con chữ được khắc nhỏ xíu. “Cố gắng đọc những từ đó đi, bé con” Abel nói. “Na-m t-ước Ab-el Ros-nov-ski” cô bé lắp bắp. “Nhưng đó là tên ba mà” cô nhấn mạnh. “Nó cũng là tên của ông nội con nữa.” Sau một vài ngày, Florentyna có thể trả lời tất cả những câu hỏi của cha cô bé, ngay cả khi Abel không phải lúc nào cũng có thể trả lời mọi câu hỏi của cô. Ở trường, Florentyna đợi tới lúc Edward Winchester lại gây sự với cô, nhưng dường như cậu ta đã quên đi tai nạn đó, một lần còn thậm chí đề nghị chia sẻ quả táo cho cô bé. Tuy nhiên, không phải ai trong lớp cũng quen chuyện ấy, và đặc biệt là một con bé mập mạp, khá tối dạ, lấy làm đặc biệt vui thích khi thì thầm câu “Con Ba Lan ngu ngốc” bất cứ khi nào Florentyna ở trong phạm vi có thể nghe thấy tiếng nó. Florentyna không trả đũa, nhưng đợi một vài tuần đến khi con bé đó đứng bét lớp trong môn Lịch sử, còn Florentyna thì đứng đầu. Con bé thì thầm đủ lớn để tất cả mọi người đều nghe thấy “Ít nhất thì tao cũng không phải là một con Ba Lan ngớ ngẩn.” Edward Winchester cau mày, nhưng một vài đứa trong lớp thì cười khúc khích. Florentyna đợi cho tất cả im lặng trước khi cô đáp trả. “Đúng thế. Bạn không phải là một con Ba Lan, bạn là thế hệ người Mỹ thứ ba, với một bề dày lịch sử chưa đến một trăm năm. Dân tộc của tôi có thể truy tới cả ngàn năm, đó là lí do vì sao bạn đứng chót trong môn lịch sử còn tôi thì đứng đầu.” Không ai trong lớp còn gọi cô bé là con Ba Lan ngu ngốc nữa. Khi cô Tredgold nghe câu chuyện đó trên đường về nhà, cô đã mỉm cười với chính mình. “Chúng ta sẽ kể cho ba nghe tối nay chứ ạ?” “Không đâu, bé yêu. Kiêu hãnh không bao giờ là một đức tính tốt. Trong một vài trường hợp, khôn ngoan đơn giản là giữ im lặng.” Cô bé sáu tuổi gật đầu tư lự trước khi hỏi: “Cô có nghĩ một người Ba Lan có thể trở thành Tổng thống Hoa Kỳ không ạ?” “Có thể chứ, khi mà người Mỹ có thể vượt qua được định kiến của chính họ.” “Thế một người Công giáo thì sao ạ?” “Điều đó không liên quan, thậm chí ngay cả ở thời kỳ của cô.” “Một người phụ nữ thì sao ạ?” Florentyna hỏi tiếp. “Vấn đề này sẽ cần thời gian dài hơn, bé con ạ.” Tối hôm ấy, cô Tredgold báo cáo lại cho ông Rosnovski rằng những bài học của anh đã được minh chứng là đáng giá. “Và khi nào thì cô sẽ triển khai phần thứ hai trong kế hoạch của mình, cô Tredgold?” Abel hỏi. “Ngày mai” cô đáp mà không giải thích gì thêm. *** Ba rưỡi chiều hôm sau, cô Tredgold đứng ở góc phố đợi cô học trò nhỏ tan trường. Florentyna đang nói chuyện với những người bạn khi bước qua cổng, và hai cô trò đi bộ qua vài dãy nhà trước khi đứa trẻ nhận ra họ không đi con đường bình thường về nhà. “Chúng ta đang đi đâu vậy, cô Tredgold?” “Kiên nhẫn, cô bé, mọi việc sẽ được tiết lộ mà." Cô Tredgold mỉm cười khi Florentyna dường như chỉ quan tâm nói về việc mình đã làm tốt như thế nào trong bài kiểm tra tiếng Anh sáng hôm đó, một cuộc độc thoại mà cô bé duy trì cho đến phố Menomonee, nơi cô Tredgold bắt đầu để ý tới những con số trên cửa hơn là những thành tựu thật hoặc tưởng tượng của Florentyna. Cuối cùng, họ dừng lại bên ngoài một cánh cửa màu đỏ có ghi số 218. Cô Tredgold gõ vào cánh cửa hai lần bằng đốt ngón tay đang đeo găng. Florentyna đứng bên cạnh cô, lần đầu tiên im lặng kể từ khi rời trường. Một lúc trôi qua trước khi cánh cửa bật mở để lộ một người đàn ông mặc áo len xám và quần bò xanh dương. “Tôi đến theo lời quảng cáo trên tờ The Sun” cô Tredgold nói trước khi người đàn ông có cơ hội mở lời. “À vâng” ông ta đáp. “Mời cô vào.” Cô Tredgold bước vào nhà, theo sau là cô bé Florentyna đầy bối rối. Họ được dẫn qua một hành lang hẹp treo đầy ảnh và những chiếc dây nơ sặc sỡ trước khi đến cửa hậu dẫn ra một khoảnh sân. Florentyna nhìn thấy chúng ngay lập tức. Chúng nằm trong một cái giỏ ở tít đầu kia sân và cô bé chạy nhanh về phía ấy. Sáu con chó Labrador nhỏ màu vàng rúc sát vào người mẹ. Một con trong số đó rời bỏ chỗ ấm áp trong đàn và tập tễnh trèo ra khỏi giỏ về phía Florentyna. “Con này bị tập tễnh” Florentyna nói, ngay lập tức nhấc cô chó nhỏ lên và xem xét chân con vật. “Phải, ta e là như vậy” người bán chó thừa nhận. “Nhưng vẫn còn năm con nữa trong tình trạng hoàn hảo cho cháu lựa chọn đấy.” “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu không ai nhận nó ạ?” “Ta e là...” ông chủ bầy chó do dự.”... nó sẽ được tiêm trợ tử thôi.” Florentyna tuyệt vọng nhìn chằm chằm vào cô Tredgold trong khi tay giữ chặt con chó nhỏ đang bận liếm mặt cô bé. “Con muốn con cún này” Florentyna nói, lo sợ phản ứng của cô Tredgold. “Nó giá bao nhiêu vậy?” Cô Tredgold hỏi trong khi mở ví cầm tay. “Miễn phí, thưa cô. Tôi hạnh phúc khi nó được về một gia đình tốt.” “Cảm ơn cô, cảm ơn ông.” Florentyna nói. Đuôi cô chó nhỏ không ngừng vẫy suốt cả chặng đường về nhà mới, trong khi trước sự ngạc nhiên của cô Tredgold, Florentyna không nói tiếng nào. Thực tế là cô bé không rời con thú cưng mới của mình cho đến tận khi nó được an toàn trong căn bếp của gia đình. Zaphia và cô Tredgold nhìn con chó Labrador non nớt tập tễnh lết đi trên sàn nhà bếp tới cái bát đựng sữa ấm. “Nó gợi cho con nhớ tới ba, Florentyna nói. “Không được thiếu lễ độ thế, bé con” cô Tredgold nhắc nhở. Zaphia nín cười. “Chà, Florentyna, con sẽ đặt tên nó là gì?” “Eleanor ạ.” 5 L ần đầu tiên Florentyna tranh cử “Tổng thống" là vào năm 1940, ở lứa tuổi lên sáu. Cô Evans, chủ nhiệm lớp hai của cô bé, quyết định tổ chức một cuộc bầu cử mô phỏng. Những cậu bé của trường Latinh cũng được mời tham gia cuộc thi, và Edward Winchester, đứa con trai mà Florentyna chưa bao giờ thật sự tha thứ vì đã đổ mực xanh lên con gấu của cô, được lựa chọn để đóng giả ngài Wendell L. Willkie33. Florentyna hiển nhiên là đóng vai FDR. Mọi người đã thống nhất rằng mỗi ứng cử viên sẽ có bài nói chuyện dài năm phút trước hai mươi bảy thành viên còn lại của cả hai lớp. Cô Tredgold, dù không mong muốn gây ảnh hưởng lên Florentyna, đã ngồi nghe cô bé trình bày bài phát biểu tới ba mươi mốt lần – hay là ba mươi hai nhỉ? – như cô đã nhấn mạnh với ngài Rosnovski vào sáng Chủ nhật trước cuộc bầu cử vĩ đại. Florentyna đọc to mục tin tức chính trị trên tờ Chicago Tribune mỗi ngày cho cô Tredgold, tìm kiếm mọi thông tin vụn vặt có thể bổ sung vào bài phát biểu. Kate Smith dường như hát bài “Chúa phù hộ nước Mỹ" ở mọi nơi và chỉ số Dow Jones đã vượt qua một trăm năm mươi điểm lần đầu tiên, dù là gì đi nữa thì nó dường như đều có lợi cho người đương nhiệm. Florentyna cũng đọc về tiến triển của cuộc chiến tranh tại châu Âu và sự ra mắt của Washington – chiến hạm Mỹ có tải trọng 36,600 tấn, chiếc tàu chiến đấu lớn đầu tiên mà họ xây dựng được trong mười chín năm qua. “Tại sao chúng ta lại chế tạo chiến hạm nếu như ngài Tổng thống đã hứa rằng người Mỹ sẽ không bao giờ phải tham chiến ạ?” “Cô đoán điều đó là vì lợi ích tốt nhất cho vấn đề quốc phòng của chúng ta” cô Tredgold gợi ý, trong khi đang điên cuồng đan tất cho những người lính ở quê nhà, “trong trường hợp nếu người Đức quyết định tấn công nước Mỹ.” “Họ sẽ không dám đâu” Florentyna nói. Vào ngày mà Trotsky34 bị giết hại dã man bằng một cái rìu cuốc đất ở Mexico, cô Tredgold đã giấu những tờ báo khỏi cô học trò, trong khi một sáng khác, cô gần như không thể giải thích được ni lông là gì và tại sao 72,000 đôi tất đầu tiên đã được bán sạch trong vòng tám tiếng đồng hồ, các cửa hàng phải giới hạn mỗi khách chỉ được mua hai đôi mà thôi. Cô Tredgold, người thường có thói quen mặc quần tất dài bằng cotton mềm màu be – sắc màu được đặt tên một cách kỳ vọng là “Quyến rũ”, đã cau mày khi tìm hiểu về vật phẩm đó. “Cô chắc chắn là mình sẽ không bao giờ mặc chất liệu ni lông” cô khẳng định, và quả thật cô giáo không bao giờ mặc chúng. Vào ngày Bầu cử, đầu óc Florentyna bị nhồi nhét đủ các thông tin và số liệu, một vài thứ cô bé cũng không thực sự hiểu, nhưng chúng giúp cô tự tin rằng mình sẽ chiến thắng. Vấn đề duy nhất đáng lo ngại là Edward to lớn hơn cô. Florentyna cho rằng đó là một lợi thế nhất định, bởi cô bé đã đọc được đâu đó rằng hai mươi bảy trên tổng số ba mươi hai Tổng thống Hoa Kỳ đều cao hơn những đối thủ của họ. Hai đối thủ tung một đồng niken Jefferson35 mới đúc để quyết định thứ tự phát biểu. Florentyna thắng và chọn sẽ nói trước, một sai lầm mà cô không bao giờ lặp lại trong đời. Cô bé bước lên phía trước cả lớp, một dáng điệu yếu đuối, và lẩm nhẩm trong đầu lời khuyên của cô Tredgold – “Hãy đứng thẳng nhé, bé con. Nhớ rằng con không phải là một dấu hỏi36” – cô bé đứng thẳng lưng ở trung tâm bục gỗ trước bàn cô Evans và đợi hiệu lệnh bắt đầu. Một vài câu đầu tiên của cô bé được thốt ra ngập ngừng. Cô giải thích chính sách của mình về việc đảm bảo ổn định tài chính quốc gia đồng thời hứa hẹn sẽ giữ Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc chiến. “Không cần thiết để một người Mỹ phải hi sinh mạng sống của mình chỉ bởi các quốc gia ở châu Âu không thể duy trì nền hòa bình”, cô tuyên bố – một câu trong bài phát biểu của ngài Roosevelt mà cô đã thuộc lòng. Mary Gill bắt đầu vỗ tay, nhưng Florentyna không để ý và tiếp tục nói, trong khi cùng lúc kéo váy xuống một cách lo lắng với đôi bàn tay đẫm mồ hôi. Mấy câu cuối của cô nói ra hết sức vội vã, và cô bé ngồi xuống trong những tràng vỗ tay và nụ cười. Edward Winchester đứng dậy sau, và một vài đứa con trai trong lớp cổ vũ cậu bé khi nó bước lên bảng đen. Đây là lần đầu tiên Florentyna nhận ra rằng một vài phiếu bầu đã được quyết định thậm chí trước cả khi bài phát biểu bắt đầu. Cô bé chỉ hi vọng rằng điều đó cũng đúng với cả phía cô nữa. Edward nói với các bạn cùng lớp rằng chiến thắng ở môn bóng đá cũng giống như chiến thắng dành cho đất nước của bạn, và trong bất cứ trường hợp nào Willkie cũng đại diện cho mọi thứ mà cha mẹ họ tin tưởng. Họ có muốn bỏ phiếu chống lại những mong ước của cha và mẹ mình không? Bởi vì nếu họ ủng hộ FDR, họ có thể sẽ mất tất cả. Câu nói này được hưởng ứng với một tràng vỗ tay, vì thế cậu bé nhắc lại nó. Cuối bài phát biểu, Edward cũng được tán thưởng với những tiếng vỗ tay và nụ cười, nhưng Florentyna tự thuyết phục rằng chúng không lớn hơn hay dài hơn sự tán thưởng cô bé nhận được. Sau khi Edward ngồi xuống, cô Evans chúc mừng cả hai ứng cử viên và đề nghị hai mươi bảy cử tri lấy một trang trắng trong vở ghi chép và viết tên của Edward hoặc Florentyna, tùy theo người nào mà chúng cảm thấy xứng đáng làm Tổng thống. Những cây bút chấm một cách điên cuồng vào bình mực và rào rào lướt trên giấy. Phiếu bầu được thấm khô mực, gập lại và sau đó chuyển cho cô Evans. Khi cô giáo nhận lá phiếu cuối cùng, cô bắt đầu mở những hình chữ nhật nhỏ đó ra và đặt chúng trước mặt thành những chồng riêng biệt, quá trình ấy đối với Florentyna như dài hàng tiếng đồng hồ vậy. Cả lớp im lặng như tờ trong suốt cuộc kiểm phiếu, một điều thực sự bất thường. Khi đã mở mọi tớ phiếu, cô Evans đếm hai mươi bảy phiếu một cách từ tốn và cẩn thận, sau đó kiểm tra lại lần nữa. “Kết quả của cuộc bầu cử mô phỏng” – Florentina nín thở -“cho vị trí Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với mười ba phiếu dành cho Edward Winchester” – Florentyna gần như đã reo mừng: cô bé đã thắng – "và mười hai phiếu cho Florentyna Rosnovski. Hai người bỏ giấy trắng, điều đó được gọi là “phiếu trống." Florentyna không thể tin nổi vào kết quả này. “Vì vậy cô tuyên bố Edward Winchester, đại diện cho Wendell Willkie là Tổng thống mới.” Đó là cuộc bầu cử duy nhất mà FDR thua vào năm ấy, nhưng Florentyna không thể che giấu được sự thất vọng và trốn vào phòng thay đồ dành cho con gái để chắc chắn rằng không ai nhìn thấy cô bé khóc. Khi bước ra ngoài, cô thấy Mary Gill và Susie Jacobson đang đợi mình. “Không sao đâu” Florentyna nói, cố gắng thể hiện ra một gương mặt dũng cảm. “Ít nhất mình biết rằng hai bạn ủng hộ mình.” “Chúng mình đâu có.” “Các bạn không ư?” Florentyna hỏi lại đầy hồ nghi. “Chúng mình không muốn cô Evans phát hiện ra rằng chúng mình không biết chắc cách đánh vần tên của bạn” Mary nói. Trên đường về nhà, sau khi cô Tredgold đã nghe câu chuyện đến bảy lần, cô bạo gan hỏi xem đứa trẻ có học được gì từ bài tập đó. “Ồ, có chứ ạ” Florentyna đáp một cách đầy quả quyết. “Con sẽ lấy một người đàn ông với cái tên đơn giản thôi.” Abel cười phá lên khi anh nghe câu chuyện vào tối hôm ấy và nhắc lại cho Henry Osborne vào bữa tối. “Tốt nhất là hãy để mắt đến con bé, Henry, bởi vì không lâu nữa đâu, nó sẽ chiếm ghế của anh đấy.” “Tôi vẫn còn mười lăm năm nữa trước khi con bé có thể bầu cử, và đến lúc đó tôi sẽ sẵn sàng nhường quyền đại diện cho nó.” “Anh định làm gì để thuyết phục Ủy ban Quan hệ Quốc tế rằng chúng ta nên tham chiến, chứ không phải quan sát nó từ một khoảng cách an toàn?” “FDR sẽ không làm bất cứ điều gì cho đến khi kết quả của cuộc bầu cử được công bố. Tất cả chúng ta đều biết thế, kể cả Hitler.” “Nếu vậy thì, tôi chỉ cầu nguyện sao cho nước Anh không bị đánh bại trước khi chúng ta tham chiến bởi vì nước Mỹ sẽ vẫn phải đợi đến tháng Mười một để xác nhận FDR là Tổng thống.” *** Trong suốt năm ấy, Abel đã khởi công xây dựng thêm hai khách sạn nữa, ở Philadelphia và San Francisco, và bắt đầu thương lượng cho chi nhánh đầu tiên của anh ở Canada, khách sạn Montreal Baron. Mặc dù suy nghĩ của anh hiếm khi tách rời những thành công của tập đoàn, vẫn có một điều gì đó khác tồn tại trong đầu anh. Anh muốn có mặt ở châu Âu, và không phải để xây dựng những khách sạn. *** Cuối kỳ học mùa thu, Florentyna đã nhận lấy hình phạt đầu tiên của mình. Sau này cô luôn liên hệ chuyện này với tuyết. Bạn học của cô quyết định đắp một người tuyết khổng lồ, và mỗi thành viên trong lớp sẽ mang một thứ gì đó đến để trang trí cho nó. Kết quả là người tuyết đó có đôi mắt làm từ nho khô, mũi cà rốt, tai khoai tây, một đôi găng tay làm vườn cũ, một điếu xì gà và chiếc mũ do Florentyna đóng góp. Vào ngày cuối cùng của kỳ học, tất cả phụ huynh được mời đến để ngắm người tuyết, và rất nhiều người đã bình luận về chiếc mũ tuyệt vời đó. Florentyna cực kì hạnh phúc vì tự hào cho đến khi cha và mẹ cô đến. Zaphia cười phá lên, nhưng Abel không thích thú gì với cảnh chiếc mũ lụa cao cấp của mình ngự trên đầu thằng người tuyết cười toe toét. Khi họ trở về nhà, Florentyna được đưa vào phòng đọc sách của ba và nhận một bài giảng dài về sự vô trách nhiệm khi lấy những thứ không thuộc về mình. Abel đè cô bé trên đầu gối mình và đánh ba roi rất mạnh bằng chiếc lược chải tóc. Đêm thứ Bảy đó là ngày cô không bao giờ quên. Sáng Chủ nhật là ngày người Mỹ sẽ luôn ghi nhớ. Lá cờ Mặt trời mọc xuất hiện khắp bầu trời Trân Châu cảng trên đôi cánh của những chiếc máy bay địch và làm tê liệt hạm đội chiến đấu của Hoa Kỳ, gần như xóa sổ toàn bộ căn cứ và giết 2,403 binh sĩ Mỹ. Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật ngay ngày hôm sau và với Đức ba ngày sau đó. Abel ngay lập tức triệu tập George và thông báo với anh ta rằng mình sẽ gia nhập quân đội Mỹ trước khi họ di chuyển đến châu Âu. George phản đối, Zaphia van xin và Florentyna thì khóc. Cô Tredgold không đưa ra ý kiến gì. *** Abel biết mình phải sắp xếp một chuyện nữa trước khi rời nước Mỹ. Anh gọi Henry tới. “Anh có phát hiện ra thông báo trên tờ Wall Street Journal không, Henry? Tôi suýt bỏ qua nó bởi những tin tức liên quan đến Trân Châu cảng.” “Ý anh là sự hợp nhất của Lester với Kane & Cabot, điều mà tôi đã dự đoán trong bản báo cáo cuối tháng trước? Có, tôi còn có đầy đủ chi tiết rồi.” Henry lấy một tập tài liệu từ cặp của mình và đưa nó cho Abel. “Tôi đoán đó là lí do anh muốn gặp tôi.” Abel lật tập tin đến khi anh thấy bài viết liên quan mà Henry đã gạch chân màu đỏ. Anh đọc đoạn văn hai lần và sau đó bắt đầu gõ nhịp ngón tay trên bàn. “Sai lầm đầu tiên mà Kane mắc phải.” "Tôi nghĩ là anh có thể đúng” Henry nói, "Anh đang kiếm được một nghìn rưỡi đô la một tháng rồi đấy, Henry” “Có lẽ đã đến lúc tăng nó lên hai nghìn rồi đó.” "Tại sao vậy?” “Bởi vì Mục bảy trong những luật mới của ngân hàng." Abel nghiên cứu các bài viết của ngân hàng một vài lần trước khi nói, “Anh nghĩ tại sao anh ta lại chấp thuận cho điều khoản mới được đưa lên vị trí đầu tiên?” Anh hỏi. “Để bảo vệ chính anh ta. Kane không cho rằng một ai đó có thể lợi dụng điều khoản hợp đồng để tiêu diệt anh ta, bởi việc đổi tất cả cổ phiếu cá nhân tại Kane & Cabot lấy lượng cổ phiếu tương đương tại Lester, anh ta đã đánh mất quyền kiểm soát ngân hàng nhỏ hơn nhưng chưa giành được quyền kiểm soát đối với ngân hàng lớn hơn. Khi anh ta chỉ nắm giữ 8% cổ phiếu của liên doanh mới, anh ta yêu cầu điều khoản đó phải được chèn vào để ngăn chặn bất kì giao dịch nào có thể được thông qua bởi ban quản trị trong vòng ít nhất mười hai tháng, bao gồm cả việc chỉ định một vị chủ tịch mới.” “Vì thế tất cả những gì chúng ta cần làm là nắm giữ 8% cổ phiếu của Lester, và biến điều khoản được thêm vào một cách cẩn trọng đó chống lại chính anh ta, vào thời điểm thích hợp với chúng ta” Abel ngừng lại. “Tôi không hình dung điều đó sẽ dễ dàng.” “Đó là lí do vì sao tôi đề nghị anh một khoản tăng thêm.” *** Abel cảm thấy nhiệm vụ tìm cách được chấp thuận phục vụ trong lực lượng vũ trang có vẻ khó hơn những gì anh tưởng tượng ban đầu. Quân đội không nhân nhượng về thị lực, cân nặng, trái tim hay tình trạng thể chất chung của anh. Chỉ sau khi bí mật sử dụng ảnh hưởng của mình, anh mới xoay sở tìm được chân làm sỹ quan hậu cần trong Quân đoàn số Năm37 dưới quyền Đại tướng Mark Clark, người đang chờ di chuyển đến châu Phi. Abel đã nắm lấy cơ hội duy nhất được tham gia cuộc chiến và đến trường đào tạo sỹ quan. Cô Tredgold không hề nhận ra mãi cho đến khi anh rời khỏi phố Rigg, rằng Florentyna nhớ cha cô bé nhiều đến mức nào. Cô cố gắng thuyết phục đứa trẻ rằng chiến tranh sẽ nhanh chóng kết thúc, nhưng bản thân cô cũng không tin lời của chính mình. Cô Tredgold đã đọc quá nhiều về lịch sử. Abel rời trường huấn luyện với vị trí là một thiếu tá, gày hơn và rắn rỏi hơn, nhưng Florentyna ghét nhìn cha mình trong bộ quân phục, bởi tất cả những người khác mà cô bé biết trong bộ quân phục đều rời Chicago và dường như không bao giờ trở về. Ngày 17 tháng 4 năm 1942, Abel vẫy tay chào tạm biệt vợ cùng cô con gái, và rời New York trên con tàu SS Bonnguen. Florentyna, bấy giờ mới tám tuổi, nghĩ rằng tạm biệt có nghĩa là mãi mãi. Người mẹ khẳng định với con gái rằng cha cô sẽ trở về nhà sớm thôi. Cũng giống như cô Tredgold, Zaphia không tin điều đó – và lần này cả Florentyna cũng vậy. Khi Florentyna vào lớp bốn, cô bé được chỉ định làm thư ký lớp học, đồng nghĩa với việc cô giữ biên bản họp hằng tuần của lớp. Khi cô bé đọc to bản báo cáo của mình trước lớp mỗi tuần, không ai ở lớp bốn tỏ vẻ quan tâm, nhưng trong cái nóng bức và bụi bặm của mảnh đất Algiers, Abel – giằng xé giữa những tràng cười và nước mắt, đọc từng dòng công việc nghiêm túc của cô con gái như thể đó là tác phẩm bán chạy nhất. Sở thích mới nhất của Florentyna, rất được cô Tredgold tán đồng, là làm hướng đạo sinh Brownie, nơi cho phép đứa trẻ được mặc đồng phục giống cha mình. Cô bé không chỉ thích thú với việc mặc bộ trang phục màu nâu thanh lịch, mà cô còn sớm phát hiện ra mình có thể phủ đầy ống tay áo với những phù hiệu màu sắc khác nhau cho các dự án đa dạng từ việc giúp đỡ trong nhà bếp đến thu gom tem thư đã qua sử dụng. Florentyna được trao rất nhiều phù hiệu, một cách nhanh chóng, làm cho cô Tredgold phải liên tục khâu chúng trong khi cố gắng tìm một khoảng trống mới cho mỗi chiếc; thắt dây, nấu ăn, thể dục thể thao, chăm sóc động vật, làm đồ thủ công, sưu tầm tem, leo núi, chúng nối bước nhau rất nhanh chóng. “Sẽ dễ dàng hơn nếu con là một con bạch tuộc đấy” cô Tredgold bình luận. Nhưng chiến thắng cuối cùng đã thuộc về cô, khi cô học trò thắng chiếc huy hiệu ở môn đan lát, và phải tự khâu cái hình tam giác vàng nhỏ đó cho mình. Khi Florentyna lên lớp năm, hai trường học chung nhau gần như mọi môn học, Edward Winchester được bầu làm trưởng lớp của cậu ta, chủ yếu bởi thành tích trên sân bóng, trong khi Forentyna vẫn giữ chức vụ thư ký mặc dù có điểm số tốt hơn hẳn bất kì ai khác, kể cả Edward. Thảm họa duy nhất của cô bé là môn hình học, khi cô chỉ đứng vị trí thứ hai, cả trong lớp học nghệ thuật nữa. Cô Tredgold luôn luôn đọc đi đọc lại những bản kết quả của Florentyna và thích thú đồng tình với những nhận xét của giáo viên nghệ thuật. “Có lẽ nếu Florentyna kiểm soát được việc vẽ nhiều hơn trên giấy thay vì những thứ xung quanh đó, thì cô bé có hi vọng trở thành một họa sỹ hơn là một thợ sơn tường nhà.” Nhưng dòng khiến cô Tredgold không bao giờ quên là từ giáo viên chủ nhiệm của Florentyna, “Cô trò này không nên khóc khi bé chỉ đứng vị trí thứ hai.” *** Nhiều tháng trôi qua, Florentyna nhận thấy nhiều đứa trẻ trong lớp của cô cũng có cha phải tham gia chiến trận. Cô sớm nhận ra rằng nhà mình không phải là nơi duy nhất phải đối diện với sự vắng mặt của người cha. Cô Tredgold đăng ký cho Florentyna học múa ba-lê và đàn dương cầm để những lúc rảnh rỗi cô luôn có việc gì đó để làm. Cô thậm chí còn cho phép cô bé đưa Eleanor đến quân đoàn K-9 để làm một thú nuôi trợ giúp, nhưng cô chó Labrador được gửi trả về nhà bởi nó bị khập khiễng. Florentyna ước họ cũng làm như thế với cha của mình. Khi tới kỳ nghỉ hè, cô Tredgold, được sự cho phép của mẹ Florentyna, đã mở rộng chân trời của họ đến tận New York và Washington, mặc dù việc đi lại bị hạn chế bởi chiến tranh. Zaphia tận dụng cơ hội vắng mặt của con gái để tham gia những buổi gây quỹ viện trợ cho các binh sĩ Ba Lan trở về từ tiền tuyến. Florentyna rất hào hứng với chuyến đi đầu tiên đến New York, mặc dù cô phải bỏ lại Eleanor. Có nhiều tòa nhà trọc trời, những cửa hàng bách hóa lớn, Công viên Trung tâm với nhiều người chạy lên xuống vỉa hè hơn cô từng thấy trước đây, nhưng bất chấp tất cả những sự phấn khích, Washington là nơi cô muốn đến thăm hơn cả. Chuyến đi này là lần đầu tiên Florentyna lên máy bay, và cô Tredgold cũng vậy. Khi máy bay theo hướng của sông Potomac tiến vào sân bay quốc gia Washington, Florentyna nhìn chăm chú đầy ngưỡng mộ xuống Nhà Trắng, tượng đài Washington, đài tưởng niệm Lincoln. Cô bé thắc mắc liệu nó là một đài tưởng niệm hay tượng đài, và đề nghị cô Tredgold giải thích sự khác biệt. Cô Tredgold do dự và nói rằng họ sẽ tìm kiếm hai từ này trong từ điển Webster khi trở về Chicago, bởi cô cũng không chắc chúng có sự khác biệt nào không. Đây là lần đầu tiên Florentyna nhận ra rằng cô Tredgold không phải biết hết mọi thứ. “Chúng giống hệt như trong những bức tranh.” cô bé nói khi nhìn xuống tòa nhà Quốc hội từ ô cửa kính bé xíu của máy bay. “Con đã hi vọng thấy gì?” Cô Tredgold hỏi. Henry Osborne đã thu xếp một chuyến viếng thăm đặc biệt đến Nhà Trắng cùng cơ hội theo dõi Thượng viện và Hạ viện trong phiên hoạt động. Khi Florentyna ngồi trên khán đài dành cho công chúng tại Thượng viện, cô bé bị mê hoặc và lắng nghe một cách cẩn thận khi mỗi thượng nghị sĩ đứng dậy để phát biểu trước viện. Cô Tredgold phải kéo cô bé đi như lôi một cậu nhóc khỏi sân bóng đá, nhưng việc đó không ngăn cản cô bé hỏi Henry Osborne ngày càng nhiều câu hỏi. Ông ta rất ngạc nhiên trước lượng kiến thức mà cô bé chín tuổi có được, ngay cả khi cô là con gái của Nam tước Chicago. Florentyna và cô Tredgold ngủ lại tại khách sạn Willard. Cha cô chưa kịp xây một khách sạn Baron ở Washington, mặc dù Nghị sĩ Osborne đã đảm bảo với họ rằng một cái như vậy đang nằm trong kế hoạch rồi, thực tế, ông ta nói thêm, một tòa nhà đang được tiến hành sửa chữa. “ ‘Sửa chữa’ có nghĩa là gì vậy, ông Osborne?” Florentyna không nhận được câu trả lời thỏa mãn từ cả Henry Osborne lẫn cô Tredgold, và quyết định sẽ tìm hiểu cả từ đó trong cuốn từ điển Webster. Đêm hôm đó cô Tredgold đặt đứa trẻ vào chiếc giường rộng rãi của khách sạn và rời khỏi phòng, chắc mẩm rằng sau một ngày dài như vậy cô học trò sẽ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Florentyna đợi cánh cửa đóng lại trước khi bật đèn. Sau đó cô lấy quyển hướng dẫn về Nhà Trắng từ dưới gối ra. FDR trong một chiếc áo choàng đen nhìn chăm chăm vào cô bé. “Không có vinh dự nào lớn hơn việc phục vụ đất nước” được in thành một dòng đậm ngay dưới tên ông. Cô bé đọc quyển hướng dẫn hai lần, nhưng trang cuối khiến cô bị thu hút nhất. Cô bắt đầu cố ghi nhớ nó và thiếp ngủ vài phút sau hơn một giờ sáng, với ngọn đèn vẫn bật. Trong suốt chuyến bay trở về, Florentyna cẩn thận học lại một lần nữa trang cuối của quyển giới thiệu Nhà Trắng, trong khi cô Tredgold theo dõi tiến trình cuộc chiến tranh trên tờ Washington Times-Herald. Nước Ý gần như đã đầu hàng mặc dù rõ ràng người Đức tin rằng họ vẫn có thể chiến thắng. Florentyna không hề làm phiền cô Tredgold dù chỉ một lần suốt quãng đường từ Washington về Chicago, và cô giáo tự hỏi phải chăng cô bé chỉ đơn giản là đã kiệt sức bởi di chuyển quá nhiều. Khi về nhà, cô cho phép Florentyna đi ngủ sớm, nhưng chỉ sau khi cô bé viết bức thư cảm ơn cho Nghị sĩ Osborne. Khi cô Tredgold vào phòng để tắt điện, Florentyna vẫn đang nghiên cứu quyển hướng dẫn của Nhà Trắng. Lúc đó là mười rưỡi, cô Tredgold đi xuống nhà bếp để pha cho mình một cốc ca cao hằng đêm trước khi đi ngủ. Lúc đang lên cầu thang, cô nghe thấy âm thanh gì đó như tiếng tụng kinh. Cô nhón chân đi chầm chậm về phía cửa phòng ngủ của Florentyna và giữ nguyên như vậy khi nghe những tiếng thì thầm: “Một, Washington; hai, Adams; ba, Jefferson; bốn, Madison.” Cô bé nhắc lại tất cả các đời Tổng thống mà không sai lần nào. “Ba mươi mốt, Hoover; ba mươi hai, FDR; ba mươi ba, chưa biết; ba mươi tư, chưa biết; ba mươi lăm, chưa biết; ba mươi sáu, chưa biết; ba mươi bảy, chưa biết; ba mươi tám, chưa biết; ba mươi chín, chưa biết; bốn mươi, chưa biết; bốn mươi mốt, chưa biết; bốn mươi hai,...” Sau đó là một khoảng im lặng nhỏ và: “Một, Washington; hai, Adams; ba, Jefferson...” Cô Tredgold nhón chân quay lại phòng mình và ngồi như vậy nhìn trần nhà một lúc, cốc ca cao vẫn chưa được động tới nguội dần bên cạnh, trong lúc cô nhớ lại những lời cha mình nói: “Con được sinh ra để làm giáo viên và Đức Chúa đã sắp đặt cho tất cả chúng ta trên chiếc la bàn của Người, có lẽ con sẽ dạy dỗ một đứa trẻ của định mệnh.” Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Florentyna Rosnovski? Không, cô Tredgold nghĩ Florentyna đã đúng, cô bé sẽ kết hôn với một người nào đó có cái tên đơn giản. *** Florentyna thức dậy sáng hôm sau, chào cô Tredgold bonjour38 và biến mất vào trong phòng tắm. Sau khi cho Eleanor ăn, nó dường như giờ đây ăn còn nhiều hơn cả cô bé, Florentyna đọc được từ tờ Chicago Tribune rằng FDR và Churchill đã cùng trao đổi về sự đầu hàng vô điều kiện của nước Ý, và nói với mẹ một cách vui mừng rằng chắc chắn như vậy có nghĩa là cha cô sẽ sớm trở về. Zaphia hi vọng rằng cô bé đúng và nhận xét với cô Tredgold rằng Florentyna trông rất vui vẻ. “Và con có thích chuyến đi đến Washington của mình nhiều không bé yêu?” “Rất thích, mẹ ạ. Con nghĩ là đến một ngày nào đó con sẽ sống ở đó.” “Tại sao, Florentyna, con có thể làm gì ở Washington chứ?” Florontyna nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của cô Tredgold. Cô bé ngập ngừng trong giây lát rồi quay lại phía mẹ mình, “Con không biết nữa. Cô có thể vui lòng đưa cho con món mứt không, cô Tredgold?” F 6 lorentyna không biết bao nhiêu trong số những bức thư hằng tuần của cô bé đến được tay cha, bởi chúng phải đi bằng đường bưu điện đến một kho ở New York để kiểm tra trước khi được gửi đến bất cứ nơi nào mà Thiếu tá Rosnovski đóng quân vào thời điểm đó. Những bức hồi âm về một cách thất thường, đôi khi Florentyna nhận được tận ba lá thư trong một tuần và có khi chẳng có một chữ nào trong vòng ba tháng. Nếu một tháng trôi qua mà không có lá thư nào, cô bé bắt đầu lo sợ rằng cha mình đã bị giết trong khi làm nhiệm vụ. Cô Tredgold phải giải thích rằng điều đó là không thể, bởi quân đội luôn gửi một bức điện để thông báo với gia đình nếu thân nhân của họ bị giết hoặc mất tích. Mỗi buổi sáng, Florentyna sẽ là người đầu tiên đi xuống dưới nhà để xem qua đống thư từ, tìm thư tay của cha hoặc bức điện tín đáng sợ nọ. Mỗi khi cô bé tìm thấy một lá thư từ cha mình, cô thường thấy vài từ đã bị che đi bằng mực đen. Cô cố gắng giữ chúng lên ánh sáng nhưng vẫn chẳng hiểu gì cả. Cô Tredgold giải thích rằng việc này vì sự an toàn của chính cha cô bé, bởi vì có thể ông vô tình viết một điều gì đó trở thành thông tin hữu ích cho kẻ thù, nếu bức thư bị rơi vào tay những người không phù hợp. “Tại sao người Đức lại có thể có hứng thú với việc con đứng thứ hai trong môn hình học cơ chứ?” Florentyna thắc mắc. Cô Tredgold lờ đi và hỏi cô bé đã ăn no chưa. “Con muốn một miếng bánh mì nướng nữa.” “Một lát, bé con, một lát bánh. Miếng39 là cái con dùng để buộc miệng ngựa ấy.” *** Cứ sáu tháng một lần, cô Tredgold đưa cô học trò và Eleanor đến phố Monroe, nơi cô bé sẽ ngồi trên một chiếc ghế cao cùng với cô chó đặt trong cái hộp bên cạnh, và mỉm cười trước đèn flash, để Thiếu tá Rosnovski có thể thấy con gái ông và cô chó Labrador lớn lên như thế nào qua những tấm ảnh. “Chúng ta không thể để ông ấy không nhận ra đứa con duy nhất của mình khi ông trở về nhà phải không?” Cô nói một cách trịnh trọng. Florentyna sẽ in tuổi của cô bé và tuổi của Eleanor, tính theo năm của loài chó, một cách chính xác ở mặt sau mỗi tấm ảnh và trong lá thư kể chi tiết về sự tiến bộ của cô ở trường, việc cô đã thích thú với môn quần vợt và bơi lội vào mùa hè, cũng như bóng chuyền và bóng rổ vào mùa đông như thế nào, kể cả việc giá sách của cô chất đầy những hộp xì-gà cũ của cha, giờ đựng những con bươm bướm được bắt bởi cái vợt lưới tuyệt vời mà mẹ tặng cô nhân dịp Giáng sinh. Cô bé nói thêm rằng cô Tredgold đã cẩn thận ướp xác những con bướm trước khi gắn chúng vào và xác định danh tính mỗi loài với tên Latinh. Mẹ cô đã tham gia một ủy ban từ thiện và bắt đầu quan tâm đến Liên đoàn Phụ nữ Ba Lan. Hay việc cô đang trồng rau trong khu vườn chiến thắng của mình, cả cô và Eleanor đều không thích việc thiếu thịt nhưng đều thích món pudding bơ và bánh mì, mặc dù Eleanor thích những chiếc bánh quy giòn hơn. Cô bé luôn kết thúc mỗi bức thư với cùng lời nhắn: “Xin hãy trở về nhà ngay ngày mai đi ạ.” *** Cuộc chiến kéo dài sang tận năm 1944, và Florentyna theo dõi tiến trình của quân Đồng minh qua tờ Chicago Tribune cũng như nghe những bản báo cáo của Edward R. Murrow từ London qua đài phát thanh. Eisenhower trở thành thần tượng của cô bé, và cô nuôi dưỡng sự ngưỡng mộ bí mật dành cho Đại tướng George Patton bởi ông ấy có chút gì đó giống cha cô, và cũng có nuôi một con chó. Vào ngày 6 tháng Sáu, cuộc xâm chiếm của Tây Âu bắt đầu. Florentyna cho rằng cha cô đang đóng quân trên bờ biển và tự hỏi làm thế nào ông có thể hi vọng sống sót được. Cô theo dấu chân quân Đồng minh tiến về phía trước tới Paris trên chiếc bản đồ châu Âu vẫn còn treo trong phòng ngủ kể từ lúc cô học về lịch sử Ba Lan. Cô bé bắt đầu tin rằng chiến tranh cuối cùng cũng đi tới kết thúc và cha mình sẽ sớm trở về nhà. Cô bé dành hàng giờ ngồi trên bậc tam cấp trước cửa nhà trên phố Rigg với Eleanor kế bên, nhìn về nơi góc phố. Nhưng nhiều giờ đã chuyển thành nhiều ngày, rồi trở thành nhiều tuần lễ, và Florentyna chỉ bị phân tâm khỏi việc canh chừng của mình bởi sự kiện Đại hội đề cử ứng viên tranh chức Tổng thống của cả hai đảng diễn ra tại Chicago trong suốt mùa hè, và cho cô bé cơ hội được nhìn thấy người hùng chính trị của mình tận mắt. Đảng Cộng hòa đã chọn Thomas E. Dewey là ứng cử viên của họ vào tháng Sáu này, và cuối tháng Bảy phe Dân chủ tiếp tục lựa chọn Roosevelt. Nghị sĩ Osborne đưa Florentyna đến Nhà hát La Mã40 để nghe Tổng thống đọc bản diễn văn chấp thuận sự đề cử trước Đại hội. Cô bé thấy bối rối với việc mỗi lần gặp ngài Nghị sĩ Osborne, ông ta đều đi cùng với một người phụ nữ khác nhau. Cô phải hỏi cô Tredgold xem việc đó có nghĩa là gì, cô giáo chắc sẽ có lời giải thích. Sau bài phát biểu của ứng cử viên, Florentyna đứng chung vào một hàng người dài chờ đợi được bắt tay Tổng thống, nhưng cô bé rất lo sợ rằng mình sẽ không ngước nhìn lên khi ông lướt qua. Đó là ngày thú vị nhất trong cuộc đời cô bé, và trên đường đi bộ về nhà cô đã nói với Nghị sĩ Osborne về sự quan tâm của mình đối với chính trị. Ông ta đã không chỉ ra cho cô thấy rằng mặc dù đã có những đấu tranh nhưng vẫn không có một phụ nữ nào ở Thượng viện, và chỉ có đúng hai người trong Quốc hội mà thôi. Tháng Mười một, Florentyna viết thư cho cha kể về điều mà cô tự tin rằng ông không biết. FDR đã giành thắng lợi nhiệm kỳ thứ tư. Cô đã đợi hàng tháng thư trả lời của ông. Và rồi một bức điện tín đến. Cô Tredgold không thể đọc bức thư trước khi đứa trẻ nhận ra cái phong bì nhỏ hơi có màu vàng nâu ấy. Cô giáo ngay lập tức mang bức điện tín đến cho bà Rosnovski đang ngồi đợi trong phòng khách lớn, cùng với Florentyna run rẩy theo sau, tay bám chặt váy cô, và Eleanor đi sau cùng, đuôi vẫy vẫy. Zaphia xé bao thư với những ngón tay run sợ, đọc nội dung rồi bật khóc không kiềm chế nổi. “Không, không” Florentyna cũng khóc, “đó không thể là sự thật, mẹ ơi. Hãy nói với con là ba chỉ bị mất tích mà thôi” và giật lấy bức điện từ tay người mẹ đang không nói nên lời để đọc nội dung trong đó. Bức điện viết: GIẤY XUẤT NGŨ ĐÃ ĐƯỢC BAN HÀNH. SẼ VỀ NHÀ SỚM NHẤT. YÊU THƯƠNG. ABEL Florentyna bật ra một tiếng kêu vui mừng và nhảy lên lưng cô Tredgold, khiến cô ngã nhào vào chiếc ghế mà bình thường cô sẽ không bao giờ ngồi. Eleanor, như thể biết rằng những quy tắc thông thường có thể được gỡ bỏ, cũng nhảy lên ghế và bắt đầu liếm cả hai người, trong khi Zaphia phá lên cười. Cô Tredgold không thể thuyết phục được Florentyna rằng sớm nhất cũng cần mất một thời gian, bởi vì quân đội có một hệ thống nghiêm ngặt trong việc quyết định xem ai sẽ được trở về nhà trước, ưu tiên cho những người phục vụ lâu nhất hoặc đã bị thương trên chiến trường. Florentyna vẫn lạc quan, nhưng nhiều tuần lễ trôi qua một cách thật chậm chạp. Một buổi tối, khi cô bé trở về nhà cũng với một huy hiệu Hướng đạo sinh khác, lần này là về lĩnh vực cứu sinh, cô phát hiện ánh sáng chiếu ra từ một ô cửa sổ nhỏ đã chìm trong bóng tối hơn ba năm qua. Cô đánh rơi huy hiệu cứu sinh của mình, chạy một mạch dọc con phố và gần như xô đổ cả cánh cửa trước khi cô Tredgold tới để mở nó. Cô lao lên lầu vào phòng đọc sách của cha, nơi cô tìm thấy ông đang trò chuyện say sưa với mẹ. Cô chạy bổ vào ông, vòng tay ôm choàng cổ ông và không buông ra cho đến khi cuối cùng ông đẩy cô lùi lại để nhìn gần hơn cô con gái mười một tuổi của mình. “Con trông còn xinh đẹp hơn trên ảnh đấy.” “Và ba vẫn nguyên vẹn, ba ơi.” “Phải, và ba sẽ không đi đâu nữa hết.” “Nếu không có con theo cùng, thì ba sẽ không đi đâu hết” Florentyna nói, và bám chặt lấy ông lần nữa. Trong vài ngày tiếp theo, cô lẵng nhẵng theo đuôi cha mình và đòi ông kể cho nghe những câu chuyện về chiến tranh. Ông đã gặp Tướng Eisenhower chưa? Chưa. Vậy Tướng Patton? Rồi, khoảng mười phút gì đó. Còn Tướng Bradley? Rồi. Ông có thấy người Đức nào không? Không, nhưng trong một lần ông đã giúp đỡ giải cứu những người lính bị thương do kẻ thù phục kích tại Remagen. “Và ba có...” “Đủ rồi, quý cô trẻ tuổi, đủ rồi. Con còn phiền nhiễu hơn một anh thượng sĩ trong nghi thức diễu hành đấy.” Florentyna vô cùng phấn khích với sự trở về của cha đến nỗi tối đó dù đã lên giường muộn hơn một tiếng, cô vẫn không ngủ được. Cô Tredgold nhắc cô bé nhớ rằng cô thật may mắn vì cha mình đã sống sót trở về, không bị thương tật hay biến dạng, không như rất nhiều những người cha của đám trẻ cùng lớp. Khi Florentyna biết tin cha của Edward Winchester đã mất một cánh tay ở nơi nào đó gọi là Bastogne, cô bé cố gắng nói với cậu ta rằng cô rất lấy làm tiếc vì điều đó. *** Không ai nhận ra Abel khi anh sải bước lần đầu vào Chicago Baron: anh đã giảm rất nhiều cân do nhiệm vụ của người huấn luyện đòi hỏi như vậy. Quyết định đầu tiên mà Abel phải đưa ra là đặt năm bộ quần áo mới từ Brooks Brothers41 do không một món đồ nào trước đây của anh còn vừa nữa. George Novak, theo như Abel có thể rút ra từ những bản báo cáo hằng năm, đã làm việc rất tốt để giữ cho tập đoàn bình ổn trong suốt thời gian anh vắng mặt, ngay cả khi họ không có nhiều bước tiến lớn. George cũng nói với anh rằng Henry Osborne đã tái đắc cử vào Quốc hội nhiệm kỳ thứ năm. Anh bảo thư ký của mình thực hiện một cuộc gọi tới Washington. "Xin chúc mừng anh, Henry. Về việc anh đã được lựa chọn vào Hội đồng.” “Cảm ơn Abel, và mừng anh trở về. Anh sẽ vui mừng khi biết rằng” Henry nói, “tôi đã giành được 6% cổ phiếu của Lester trong khi anh đi xa làm cái việc xào nấu những bữa tối thịnh soạn trên bếp lò Primus cho các thành viên quân sự cao cấp của chúng ta.” “Tốt lắm, Henry. Có hi vọng nào cho việc chúng ta sẽ đạt được con số 8% ma thuật đó không?” “Khả năng rất lớn đấy.” Henry đáp. “Peter Parfitt, người hi vọng trở thành chủ tịch của Lester trước khi Kang xuất hiện, đã bị xóa tên khỏi Hội đồng quản trị, và dành tình cảm cho Kane như một con cầy mangut dành cho một con rắn chuông. Parfitt đã nói rất rõ ràng rằng anh ta sẵn sàng chia tay với 2% sở hữu của mình.” “Vậy thì điều gì còn ngăn cản chúng ta?” “Anh ta đòi một triệu đô la cho số cổ phần của mình, bởi vì tôi chắc rằng anh ta đã biết số cổ phiếu đó là thứ anh cần để lật đổ Kane, và không còn nhiều cổ đông khác để tôi tiếp cận. Nhưng một triệu là hơn nhiều lần con số 10% giá trị cố phiếu hiện giờ mà anh ủy quyền cho tôi tiến hành.” Abel xem xét số liệu mà Henry để lại cho anh ở trên bàn. “Đề nghị anh ta bảy trăm năm mươi nghìn” là tất cả những gì anh nói. George đang nghĩ về một số tiền nhỏ hơn rất nhiều khi Abel đặt điện thoại xuống. “Tôi đã cho Henry vay một khoản trong khi anh vắng mặt, và đến giờ ông ta vẫn chưa hoàn trả số tiền đó” anh thừa nhận. “Một khoản vay ư?” “Cách nói của Henry, không phải tôi,” George đáp. “Ai đang đùa giỡn ai vậy? Bao nhiêu?" Abel hỏi. “Năm ngàn đô. Tôi xin lỗi, Abel.” “Quên nó đi. Nếu đó là sai lầm duy nhất anh gây ra trong vòng ba năm qua, thì tôi vẫn là một người may mắn. Anh nghĩ là Henry sử dụng số tiền đó vào việc gì?” “Rượu, đàn bà và ca hát. Không có gì đặc biệt bất thường về vị đại biểu quốc hội của chúng ta. Cũng có một lời đồn đại quanh các quán rượu ở Chicago rằng ông ta bắt đầu đánh bạc khá lớn.” “Đó là tất cả những gì tôi cần từ thành viên mới nhất của hội đồng quản trị. Hãy để mắt canh chừng ông ta và cho tôi biết nếu tình hình trở nên xấu đi.” George gật đầu. “Còn bây giờ tôi muốn nói về sự mở rộng, thứ sẽ tiêu tốn nhiều hơn năm nghìn đô la một chút đấy” Abel nói, “Với việc Washington bơm ba trăm triệu đô mỗi tuần vào nền kinh tế, chúng ta cần chuẩn bị cho một sự bùng nổ mà có lẽ nước Mỹ chưa bao giờ trải qua trước đây. Chúng ta cũng phải nghĩ về việc xây dựng Baron ở châu Âu, nơi mà đất đai rất rẻ và con người thì chỉ nghĩ đến việc tồn tại. Hãy bắt đầu với London.” “Lạy Chúa lòng lành, Abel, nơi đó phẳng lì như một cái bánh kếp rồi.” “Càng tốt để bắt đầu xây dựng, bạn thân mến ạ.” *** “Cô Tredgold” Zaphia nói, “tôi sẽ tới một buổi trình diễn thời trang tối nay, sự kiện gây quỹ cho Dàn nhạc giao hưởng Chicago, và có lẽ tôi không trở về trước giờ đi ngủ của Florentyna được.” “Rất tuyệt, bà Rosnovski.” “Con cũng muốn đi," Florentina nói. Cả hai người phụ nữ nhìn đứa trẻ đầy kinh ngạc. “Nhưng chỉ còn hai ngày nữa là tới kỳ kiểm tra của con rồi” Zaphia nói, đoán rằng cô Tredgold sẽ không tán thành nếu Florentyna tham gia thứ gì đó phù phiếm như một buổi biểu diễn thời trang. “Con dự định làm gì chiều nay?” “Lịch sử Trung cổ” cô Tredgold đáp không chút do dự. “Từ Đại đế Carolus đến Hội đồng Trent.” Zaphia rất buồn là con gái cô không bao giờ được phép có bất kì hứng thú nào với những sở thích của nữ giới, thay vào đó được kỳ vọng sẽ cư xử như một đứa con trai thế thân, lấp đầy khoảng trống trong nỗi thất vọng của chồng cô khi không có một cậu con trai. “Vậy thì có lẽ chúng ta để lần sau nhé” cô nói. Zaphia rất muốn đề nghị con gái đi cùng, nhưng nhận ra rằng nếu để Abel phát hiện ra, cả cô và con bé sẽ phải chịu đựng hậu quả về sau. Tuy nhiên, lần đầu tiên cô Tredgold khiến cô ngạc nhiên. “Tôi không chắc là mình tán thành với bà chuyện này, bà Rosnovski ạ” cô nói. “Dịp này có thể là một cơ hội lý tưởng để giới thiệu đứa trẻ với giới thời trang, và thực sự là cả xã hội nữa.” Quay sang Florentyna, cô nói thêm, “Và một sự nghỉ ngơi giữa quá trình học tập của con vài ngày trước kỳ kiểm tra cũng không có hại gì.” Zaphia nhìn cô Tredgold với sự tôn trọng mới. “Có lẽ cô cũng muốn đến đó chứ?” Cô đề nghị. Đó là lần đầu tiên Zaphia thấy cô Tredgold đỏ mặt. “Không, cảm ơn bà, không, tôi không thể.” Cô lưỡng lự. “Tôi có những bức thư, đúng vậy, những bức thư cần phải xem xét, và tôi đã dự định dành buổi chiều hôm nay để đọc và trả lời chúng.” Chiều hôm ấy, Zaphia đứng đợi trước cổng chính của trường trong bộ vét màu hồng, thay thế cô Tredgold với bộ đồ màu xanh nước biển nền nã quen thuộc. Florentyna nghĩ rằng mẹ của cô trông vô cùng thời thượng. Cô bé muốn chạy thật nhanh đến khách sạn Drake, nơi buổi trình diễn thời trang được tổ chức. Khi họ tới nơi, cô cảm thấy rất khó để ngồi yên một chỗ mặc dù chỗ ngồi của cô đã là hàng ghế đầu. Cô bé có thể chạm vào những người mẫu kiêu kì khi họ lướt qua một cách duyên dáng xuống sàn catwalk rực rỡ. Những chân váy xếp li xoay tròn, những chiếc áo khoác chiết eo được cải ra để khoe đôi vai trần thanh lịch, và những quý cô sành điệu trong những chiếc áo lụa ni lông màu nhạt rộng hằng thước Anh bồng bềnh cùng với những chiếc mũ lụa lướt đi một cách lặng lẽ tới một nơi bí ẩn phía sau tấm màn nhung đỏ. Florentyna ngồi trước lối đi. Khi cô người mẫu cuối cùng xoay đúng một vòng tròn báo hiệu buổi biểu diễn đã kết thúc, một phóng viên ảnh xin phép Zaphia được chụp ảnh cô. “Mẹ ơi” Florentyna nói một cách gấp gáp trong khi anh ta sắp xếp chân máy, “mẹ phải kéo mũ xuống phía trước một chút nữa nếu muốn trông thật sang trọng.” Người mẹ làm theo lời đứa trẻ lần đầu tiên. Khi cô Tredgold đưa Florentyna lên giường đi ngủ đêm hôm đó, cô hỏi cô bé có thích trải nghiệm vừa qua không “Ồ, có chứ ạ” Florentyna nói. “Con không ngờ rằng quần áo có thể khiến chúng ta trông đẹp đến như vậy.” Cô Tredgold mỉm cười , thoáng chút suy nghĩ. “Và cô có biết họ đã kêu gọi được hơn tám nghìn đô la cho Dàn nhạc giao hưởng Chicago không? Ngay cả ba cũng sẽ thấy ấn tượng với điều đó.” “Đúng là ông ấy sẽ thấy như vậy” cô Tredgold đáp, "và một ngày nào đó con sẽ phải quyết định việc sử dụng sự giàu có của bản thân như thế nào vì lợi ích của người khác. Không phải lúc nào cũng dễ dàng thừa kế tiền của ai đó.” Ngày hôm sau, cô Tredgold chỉ cho Florentyna bức hình của mẹ cô bé trên tờ Women's Wear Daily dưới tiêu đề “Nữ Nam tước Rosnovski bước vào làng thời trang Chicago.” “Khi nào con sẽ được đi xem buổi biểu diễn thời trang nữa ạ?” Florentyna hỏi. “Cho đến khi con có thể thông qua thời kỳ Đại đế Carolus và Hội đồng Trent” cô Tredgold đáp. “Con thắc mắc Đại đế Carolus đã mặc như thế nào khi ông lên ngôi Hoàng đế của Đế chế La Mã” Florentyna nói. Đêm hôm đó, sau khi khóa mình trong phòng, dưới ánh sáng của một ngọn đèn pin, cô bé hạ gấu váy đồng phục và cắt bỏ năm xăng ti mét ở phần eo. F 7 lorentyna đang hoàn thành kỳ học cuối của mình ở trường cấp hai và Abel hi vọng cô bé có thể giành được học bổng danh dự của trường trung học. Florentyna biết rằng cha có đủ khả năng cho mình học cấp ba ngay cả khi cô không giành được học bổng, nhưng cô cũng đã có kế hoạch cho món tiền mà cha sẽ tiết kiệm được mỗi năm nếu có được miễn học phí. Cô bé đã chăm chỉ học hành suốt cả năm, nhưng cũng không có cách nào để biết mình đã làm tốt hay chưa khi kỳ thi cuối cùng diễn ra, bởi có tới một trăm hai mươi hai đứa trẻ tại Illinois dự thi, nhưng chỉ có bốn học bổng được trao đi mà thôi. Florentyna được cô Tredgold báo trước rằng mình sẽ không biết kết quả ít nhất là trong vòng một tháng. “Kiên nhẫn là một đức tính tốt” cô Tredgold nhắc nhở, và bồi thêm một giả định kinh hoàng rằng cô giáo sẽ trở về Anh Quốc trên chuyến tàu tiếp theo nếu Florentyna không nằm trong nhóm ba người xuất sắc nhất. “Đừng đùa nữa, cô Tredgold, con sẽ đứng đầu mà” Florentyna đáp một cách tự tin, nhưng khi nhiều ngày trong tháng lần lượt trôi qua, cô bé bắt đầu thấy hối tiếc về sự khoe khoang của mình và tâm sự với Eleanor trong suốt cuộc tản bộ dài, rằng có lẽ cô đã viết cos trong khi cô có ý là sin42? trong một câu hỏi, và đã tạo ra một tam giác bất khả thi. “Có lẽ con sẽ chỉ đứng thứ hai thôi” cô bé thận trọng nói trong một bữa ăn sáng. “Vậy thì ta có lẽ nên tìm công việc ở chỗ ba mẹ đứa trẻ đứng đầu rồi” cô Tredgold đáp. Abel mỉm cười khi ngước nhìn lên từ tờ báo buổi sáng. “Nếu con giành được học bổng” anh nói, “con sẽ tiết kiệm cho ba cả nghìn đô la mỗi năm. Nếu con đứng đầu, sẽ là hai nghìn đô đấy.” “Vâng thưa ba, và con đã có sẵn kế hoạch cho số tiền đó rồi.” “Ồ, thế cơ đấy, cô thiếu nữ. Vậy ba có thể được phép biết con có dự định gì không vậy?” “Nếu con giành được học bổng, Con muốn ba đầu tư số tiền đó vào cổ phiếu của tập đoàn Baron cho đến khi con hai mươi mốt tuổi, và nếu con đứng đầu con muốn ba làm điều tương tự cho cô Tredgold.” “Ôi Chúa ơi, không” cô Tredgold nói, vươn thẳng người hết mức, “đó là điều sai trái nhất. Tôi xin ngài thứ lỗi, ngài Rosnovski, vì sự khinh suất của Florentyna.” “Đó không phải khinh suất, ba à. Nếu con đứng đầu, một nửa công lao là của cô Tredgold.” “Nếu không muốn nói là hơn thế.” Abel đáp, “và ba đồng ý với những yêu cầu của con. Nhưng với một điều kiện.” Anh gập tờ báo lại một cách cẩn trọng. “Là gì vậy ạ?” Florentyna hỏi. “Con có bao nhiêu trong tài khoản tiết kiệm, cô gái trẻ?” “Ba trăm mười hai đô ạ” lời hồi đáp ngay lập tức đưa ra. “Rất tốt, nếu con thất bại trong việc giành vị trí thứ nhất đến thứ tư, con sẽ phải chịu hi sinh số tiền đó để giúp ba chi trả khoản học phí mà con đã không tiết kiệm được.” Florentyna lưỡng lự. Abel chờ đợi và cô Tredgold thì không bình luận câu nào. “Con đồng ý” cuối cùng Florentyna nói. “Tôi chưa bao giờ đặt cược trong đời” cô Tredgold nói, “và tôi chỉ có thể hi vọng người cha thân yêu của tôi sẽ không biết gì về việc này.” “Điều này không can dự gì đến cô cả, cô Tredgold.” “Chắc chắn là có đấy, ngài Rosnovski ạ. Nếu đứa trẻ này sẵn sàng mạo hiểm ba trăm mười hai đô duy nhất của cô bé do ảnh hưởng của những điều tôi làm cho nó, thì tôi phải đáp trả lòng tử tế đó và cũng đề nghị ba trăm mười hai đô cho việc học của bé nếu nó không giành được học bổng.” “Hoan hô” Florentyna nói, và choàng tay ôm lấy gia sư của mình. “Có một kẻ ngốc sắp phải chia tay với số tiền của mình rồi” cô Tredgold tuyên bố. “Đồng ý” Abel đáp, “vì những gì tôi vừa đánh mất.” “Ba nói vậy là có ý gì ạ?” Florentyna hỏi. Abel lật tờ báo để lộ một dòng tiêu đề nhỏ và đọc: “Con gái của Nam tước Chicago đã giành học bổng cao nhất.” “Ngài Rosnovski, ngài đã biết từ đầu.” “Đúng thế, cô Tredgold ạ, nhưng hóa ra chính cô mới là người chơi poker giỏi hơn.” Florentyna quá vui sướng và tận hưởng những ngày cuối cùng của cô bé ở trường cấp hai như một nữ anh hùng trong lớp. Ngay cả Edward Winchester cũng chúc mừng cô. “Hãy đi uống để ăn mừng nhé” cậu ta đề nghị. “Gì cơ?” Florentyna nói. “Mình chưa bao giờ uống rượu từ nhỏ đến giờ.” “Không bây giờ thì bao giờ” Edward nói và dẫn cô đến một phòng học nhỏ ở cuối khu học xá nam. Khi hai đứa đã ở bên trong, cậu ta khóa cửa lại. “Không muốn bị bắt gặp ấy mà” cậu ta giải thích. Florentyna đứng đó trong sự hoài nghi âm thầm khi Edward nhấc nắp bàn của cậu ta lên và lấy """