"
Dữ liệu tử thần - Jeffery Deaver full prc, epub [Trinh thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dữ liệu tử thần - Jeffery Deaver full prc, epub [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
I
SỰ TƯƠNG ĐỒNG
Thứ Năm, ngày 12/5
Hànhvi xâm phạm đời tư nghiêm trọngnhất khôngphải làviệcphơibàynhữngbí mật cánhânghêgớm, màchỉ cầntiết lộnhững sự thật vặt vãnh… Giốngnhư những conong sát thủ, một conkhiếnngười takhóchịu,nhưng cảbầy cóthểđốt chếtngười. - ROBERT O’HARROW, JR.
CHƯƠNG 1
Dường như có một cảm giác bất an mơ hồ đang ám ảnh cô, song cụ thể là gì thì cô không thể nói rõ được. Giống như cơn đau chợt nhói lên đâu đó trong cơ thể bạn. Hay một người đàn ông bất thần xuất hiện sau lưng trên đường về nhà… Liệu hắn có phải là người đã theo dõi bạn trên tàu điện ngầm không? Cái bóng đen đang di chuyển tới sát giường ngủ của bạn đột nhiên biến mất. Là một Quả Phụ Đen[1] chăng?
Nhưng đúng lúc này vị khách đang ngồi trên chiếc đi văng đưa mắt nhìn cô, khẽ mỉm cười, vậy là Alice Sanderson quên biến đi sự bất an của mình – nếu đúng đó là cảm giác ấy. Arthur là một người thông minh với dáng vẻ mạnh mẽ, tự tin.
Trên hết, anh có nụ cười thật tuyệt vời, một thứ còn đáng giá hơn.
“Anh dùng một chút rượu vang nhé?” Cô hỏi trong khi đi vào khu bếp nhỏ của mình. “Tất nhiên. Bất cứ thứ gì em có.”
“Thật thú vị, chúng ta – hai kẻ đã lớn tướng vẫn còn chơi trò trốn học vào một ngày trong tuần. Em thích chuyện này.”
“Sinh ra để nghịch ngợm mà,” anh đùa cợt.
Ngoài cửa sổ, phía bên kia đường là một dãy nhà mặt tiền bằng đá nâu, cả đá thật lẫn đá sơn giả màu. Từ đây có thể nhìn thấy một phần đường chân trời của khu Manhattan, mờ mờ trong sương vào buổi chiều mùa xuân dễ chịu. Không khí mát mẻ nhẹ nhàng len vào mang theo mùi tỏi và lá oregano[2]từ một quán ăn Italia nằm trên đầu phố. Đó là phong cách ẩm thực cả hai đều ưa thích – một trong số rất nhiều sở thích chung mà hai người đã cùng khám phá ra kể từ khi gặp nhau vài tuần trước trong một buổi giới thiệu rượu vang tại SoHo.
Vào một ngày cuối tháng Tư, trong lúc Alice đang có mặt trong một nhóm khoảng bốn mươi người lắng nghe một nhân viên phục vụ rượu giới thiệu về các loại vang của châu Âu, cô chợt nghe thấy một giọng nam giới hỏi về một loại vang đỏ Tây Ban Nha.
Cô khẽ bật cười. Tình cờ cô có cả một thùng đầy loại vang đó ở nhà (tất nhiên, giờ thì chỉ còn lại lưng thùng). Đó là rượu của một vườn nho không nổi tiếng cho lắm, có thể nó chưa phải thứ tuyệt hảo nhất Rioja[3]từng tạo ra những loại vang này đem đến một hương vị khác lạ: hương vị của kỷ niệm ngọt ngào. Cô đã thưởng thức loại vang này trong suốt một tuần với một anh chàng người Pháp tại Tây Ban Nha. Đó là một mối quan hệ hoàn hảo và cần thiết với một phụ nữ sắp bước sang tuổi ba mươi và vừa chia tay bạn trai. Cuộc tình trong kỳ nghỉ đó rất mãnh liệt, nồng nàn và tất nhiên, chẳng hề có ngày mai. Và điều đó chỉ càng làm cho hương vị mối tình tuyệt vời hơn.
Alice vươn người ra trước để xem ai vừa nhắc đến loại vang đó, một người đàn ông không có gì nổi bật, mặc bộ đồ kiểu doanh nhân. Sau vài ly nữa của bộ sưu tập rượu ấy, cô đã trở nên mạnh dạn hơn. Cầm theo một đĩa đồ ăn nhẹ, cô đi tới chỗ người đàn ông, hỏi chuyện anh ta về sở thích với rượu vang.
Người đàn ông kể với cô về chuyến đi của anh tới Tây Ban Nha cùng một người bạn gái mấy năm trước. Sau đó, anh đã trở nên ưa thích loại vang này. Họ cùng ngồi xuống một chiếc bàn, trò chuyện huyên thuyên với nhau. Tình cờ, Arthur cũng thích những món ăn, những môn thể thao giống cô. Cả hai người đều tập chạy bộ và dành một giờ đồng hồ mỗi buổi sáng tại các câu lạc bộ thể thao có giá cắt cổ. “Nhưng tôi mặc những chiếc quần sooc hiệu JC Penny và áo phông rẻ nhất có thể,” anh nói. “Không bao giờ tôi động đến những đồ thời trang đắt tiền vớ vẩn…” Rồi anh bỗng đỏ mặt, nhận ra rất có thể mình đang xúc phạm cô.
Nhưng cô đã bật cười. Cô cũng có cách mua sắm tương tự, tất cả đồ thể thao của cô đều được mua tại Target[4] khi đến Jersey thăm gia đình. Tuy vậy, cô cố kìm lại không kể với anh, sợ rằng mình quá đường đột.
Họ đã cùng nhau chơi trò hẹn hò quen thuộc của người thành thị: vì những điểm chung giữa chúng ta. Họ cùng nhau xếp hạng các nhà hàng, so sánh các tập của bộ phim truyền hình ăn khách Curb Your Enthusiasm và phàn nàn về những nếp nhăn.
Họ hẹn hò một lần, rồi một lần nữa. Arthur quả là một người vui nhộn và nhã nhặn. Đôi lúc hơi thiếu tự nhiên, e dè, thậm chí né tránh. Cô nghĩ có lẽ đây là hậu quả của cuộc chia tay với người bạn gái lâu năm trước đó, điều mà anh mô tả như một cuộc đoạn tuyệt với địa ngục. Và cả vì lịch làm việc khủng khiếp của anh - một doanh nhân của Manhattan. Thời gian rảnh của anh rất ít.
Liệu mối quan hệ của họ sẽ đi đến đâu?
Anh vẫn chưa thực sự là bạn trai của cô. Nhưng khi hai người hôn nhau trong cuộc hẹn gần nhất, cô đã cảm nhận được cảm xúc thầm kín mà người ta gọi là xao xuyến. Tối hôm nay có thể cho cô biết họ sẽ đi đến mức độ nào, mà cũng có thể là không.
Cô nhận ra Arthur đã âm thầm kiểm tra bộ đồ màu hồng bó sát mà cô đã mua tại Bergdorf để dành riêng cho cuộc hẹn hò. Còn Alice đã chuẩn bị một số thứ trong phòng ngủ, cho trường hợp những nụ hôn chuyển sang hướng khác.
Thế nhưng cảm giác bất an mơ hồ và nỗi ám ảnh về Quả Phụ Đen lúc trước bất chợt quay trở lại. Điều gì đang ám ảnh cô?
Alice đoán đó chỉ là dư âm của cảm giác khó chịu cô phải trải qua trước đó khi một gã giao hàng giao một kiện hàng cho cô. Một gã với cái đầu cạo nhẵn bóng, đôi lông mày rậm, sặc mùi thuốc lá với giọng nói đặc sệt thổ âm Đông Âu. Khi cô ký các giấy tờ nhận hàng, gã nhìn cô từ đầu đến chân, rõ ràng muốn ỡm ờ, rồi hỏi xin một ly nước. Cô miễn cưỡng đi rót nước, lúc quay ra đã thấy gã đứng giữa phòng khách nhìn chăm chăm vào dàn âm thanh.
Cô nói mình đang chờ bạn đến chơi, vậy là gã sầm mặt cuốn gói, giận dữ như thể vừa bị làm cho mất mặt. Alice quan sát qua cửa sổ, phải gần mười phút sau, gã mới chịu leo lên chiếc xe tải dời đi. Gã đã làm gì trong khu nhà suốt quãng thời gian đó? Đi kiểm tra…
“Alô. Mặt đất gọi Alice…”
“Xin lỗi anh,” cô bật cười, tiếp tục bước lại gần đi văng, rồi ngồi xuống cạnh Arthur. Đầu gối hai người cọ vào nhau. Mọi ý nghĩ về gã giao hàng biến mất. Họ cụng ly, họ là hai con người hoàn toàn giống nhau trong mọi lĩnh vực phim ảnh, ẩm thực, du lịch và chính trị (họ đóng góp những khoản tiền tương đương nhau cho Đảng Dân chủ, tham gia quyên tiền trong những chương trình kêu gọi của NPR[5]. Và cả hai đều là những tín đồ Tin lành đã sa ngã.
Khi đầu gối họ lại chạm nhau, đầu gối anh cọ xát vào cô đầy lôi cuốn. Rồi Arthur mỉm cười hỏi: “À, bức tranh mà em thích, bức của Prescott ấy, em có mua được không?”
Đôi mắt cô sáng lên khi cô gật đầu. “Có! Em đã mua được bức tranh của Harvey Prescott.” Alice Sanderson không phải là một phụ nữ giàu có theo tiêu chuẩn của khu Manhattan, nhưng cô biết cách đầu tư và sẵn sàng chiều theo đam mê đích thực của mình. Cô đã theo dõi sự nghiệp của Prescott, một họa sĩ gốc Oregon[6] chuyên vẽ những bức họa có độ chân thực cao, giống như ảnh chụp, về đề tài gia đình. Những nhân vật không phải là người thực mà do chính ông sáng tạo ra. Một số mang tính truyền thống, một số lại không, với các nhân vật là những ông bố, bà mẹ đơn thân, những cặp đôi khác màu da hoặc đồng tính. Rất khó tìm thấy tranh của ông trên thị trường trong mức cô có thể trả được, song Alice vẫn có mặt trong danh sách liên lạc của các phòng tranh bán các tác phẩm của ông. Tháng trước, cô được một phòng tranh ở miền Tây cho biết có một bức họa nhỏ thuộc thời kỳ đầu sự nghiệp của Prescott có thể sẽ được bán với giá một trăm năm mươi nghìn đô la. Chủ bức tranh gần như chắc chắn đã quyết định bán và cô đã vét sạch tài khoản của mình để có đủ tiền.
Đó chính là kiện hàng cô được giao hôm nay. Nhưng giờ đây niềm vui được sở hữu bức họa lại chìm xuống khi ý nghĩ về gã giao hàng lóe lên. Cô nhớ lại mùi tỏa ra từ người gã, đôi mắt dâm đãng của gã. Alice đứng dậy, lấy lý do muốn kéo rộng rèm cửa và nhìn ra ngoài. Không có chiếc xe tải giao hàng nào, không có cái đầu trọc lốc nào dưới góc phố ngước mắt nhìn lên căn hộ của cô. Cô chợt nghĩ đến chuyện đóng cửa sổ rồi khóa trái lại, nhưng hành động như vậy quá hoang tưởng và cô sẽ phải giải thích với anh.
Cô quay lại bên Arthur, đưa mắt nhìn quanh các bức tường và nói với anh rằng cô vẫn chưa biết nên treo bức tranh ở đâu trong căn hộ. Một kế hoạch nhỏ đầy mơ mộng đã được cô vẽ ra: Arthur sẽ ở lại từ tối thứ Bảy sang ngày Chủ nhật và sau một bữa ăn gộp cho cả sáng và trưa, anh sẽ giúp cô tìm ra vị trí đắc địa nhất để treo bức họa.
Giọng cô hiện rõ niềm vui và tự hào khi cô hỏi anh, “Anh muốn xem nó không?” “Em thử đoán coi.”
Họ cùng đứng dậy, bước vào phòng ngủ và cô tin chắc mình vừa nghe thấy tiếng bước chân ai đó trên lối đi bên ngoài. Vào giờ này, tất cả những cư dân khác của khu nhà đáng lẽ đều đang bân ở chỗ làm. Liệu có phải là gã giao hàng không?
Ít nhất lúc này cô cũng không đơn độc.
Họ bước tới cửa phòng ngủ.
Đúng khoảnh khắc đó dường như Quả Phụ Đen bỗng vụt quay trở lại và hung hãn tấn công cô. Sững người lại, Alice lúc này chợt hiểu điều gì đang ám ảnh mình và điều này không hề liên quan tới gã giao hàng. Nó xuất phát từ Arthur. Ngày hôm qua, lúc họ trò chuyện với nhau anh đã hỏi khi nào bức tranh của Prescott sẽ được mang đến.
Cô đã kể với anh chuyện cô mới mua một bức tranh, song chưa bao giờ đả động tới tên họa sĩ. Giờ đây ngay trên ngưỡng cửa phòng ngủ, cô dần dần vỡ lẽ. Hai bàn tay cô chợt ướt đẫm mồ hôi. Nếu anh ta đã
biết về bức tranh, rất có thể anh ta đã tìm hiểu trước mọi thứ về cuộc sống của cô. Nếu tất cả những điểm chung giữa hai người chẳng qua chỉ là một màn dối trá? Nếu anh ta đã biết trước về sở thích của cô là loại vang Tây Ban Nha đó? Nếu anh ta đã có mặt tại buổi giới thiệu vang chỉ để tìm cách tiếp cận cô? Tất cả những nhà hàng những chuyến đi, các chương trình truyền hình…
Chúa ơi! Và ngay lúc này đây cô đang dẫn một người đàn ông vừa mới quen vài tuần vào phòng ngủ của mình. Cô đã quá mất cảnh giác…
Những hơi thở nặng nề dần… Cô rùng mình ớn lạnh.
“A, bức tranh kia rồi,” anh khẽ nói khi nhìn qua phía sau cô. “Nó đẹp quá.”
Nghe thấy giọng nói bình thản, dễ chịu của anh, Alice chợt cười thầm chính mình. Cô điên rồi sao? Chắc hẳn cô đã nhắc đến Prescott với Arthur mà lại không nhớ. Cô cố xua đuổi cảm giác bất an ra khỏi đầu. Bình tĩnh lại nào. Mình đã sống một mình quá lâu rồi. Hãy nhớ lại những nụ cười, những câu bông đùa của anh ấy. Anh suy nghĩ đúng như cách mình vẫn nghĩ mà.
Thư giãn nào.
Cô cười khẽ và nhìn chăm chú vào bức tranh kích thước mỗi chiều sáu mươi phân, những gam màu bình lặng, sáu người ngồi ăn tối quanh một chiếc bàn, tất cả cùng quay mặt ra, vài người có khuôn mặt vui vẻ, một số đang suy tư, số khác đang lo lắng.
“Không tin nổi,” anh nói.
“Cấu trúc của bức tranh thật tuyệt vời nhưng chính tâm trạng của những nhân vật trong tranh mới là thứ được họa sĩ nắm bắt đến mức hoàn hảo. Anh có nghĩ vậy không?” Alice quay về phía anh. Nụ cười của cô biến mất. “Có chuyện gì vậy, Arthur? Anh đang làm gì vậy?” Anh ta đã xỏ tay vào đôi găng màu be và lúc này đang đưa tay vào trong túi. Rồi cô nhìn vào đôi mắt của vị khách, lúc này đã co lại thành hai rãnh hẹp tăm tối dưới hàng lông mày đang cau lại trên khuôn mặt cô không còn nhận ra.
II
MỐI LIÊN HỆ
Chủ nhật, ngày 20/5
Bạn vẫn hay nghe đến câu chuyện cũ rích rằng toàn bộ thể xác một người nếu tính lẻ từng phần chỉ trị giá bốn đô rưỡi. Thật ra, dấu hiệu nhậndạng cánhâncònđáng giáhơnnhiều.
- ROBERT 0’HARROW JR.
CHƯƠNG 2
Dấu vết bắt đầu từ Scottsdale tới San Antonio kéo dài đến một trạm nghỉ ở Delaware ngay gần tuyến đường liên bang số 95 chật ních xe tải và những gia đình nhộn nhạo, rồi cuối cùng kết thúc ở một điểm khó lòng tin nổi: London.
Vậy con mồi đã chuồn mất theo con đường này là ai? Một gã sát thủ chuyên nghiệp mà Lincoln Rhyme đã truy đuổi suốt một thời gian dài, anh đã kịp ngăn không cho gã gây ra một tội ác khủng khiếp, song gã đã kịp chuồn chỉ vài phút trước khi cảnh sát ập đến, như Rhyme cay cú mô tả ‘nhởn nhơ tung tăng ra khỏi thành phố như một gã du khách chuẩn bị phải quay lại làm việc vào sáng thứ Hai’.
Mọi dấu vết đã bốc hơi. Kết quả là cảnh sát cũng như FBI đều không tìm được manh mối gì về nơi ẩn náu cũng như dự định tiếp theo của gã. Nhưng mấy tuần trước Rhyme đã được một mối quen từ Arizona cho biết rất có thể gã này chính là kẻ tình nghi trong vụ sát hại một binh sĩ quân đội Mỹ tại Scottsdale. Manh mối sót lại cho thấy, có lẽ gã đã lẩn về phía đông, ban đầu là Texas sau đó tới Delaware.
Tên của kẻ tình nghi là Richard Logan, cũng có thể đây chỉ là tên giả. Dường như gã tới từ miền Tây của Mỹ hoặc Canada. Những cuộc tìm kiếm ráo riết đã tìm ra một số người có tên Richard Logan, song không có ai phù hợp với đặc điểm của kẻ sát nhân.
Thế rồi một cách rất ngẫu nhiên (Lincoln Rhyme không bao giờ động đến từ ‘may mắn’), anh được biết từ Interpol rằng một tay sát thủ chuyên nghiệp từ Mỹ đã được thuê thực hiện môt phi vụ ở Anh. Gã đã giết một người ở Arizona để lấy giấy tờ tùy thân và thông tin quân sự rồi tới gặp đồng bọn tại Texas, được ứng trước tiền công tại một bến dừng xe tải nào đó ở vùng bờ biển miền Đông. Gã đã bay tới Heathrow, giờ đây đang ở trên đất của vương quốc Anh, song chính xác ở đâu thì không ai biết.
Mục tiêu của ‘kế hoạch được tài trợ chu đáo và đặt hàng từ những nhân vật cấp cao’ của Richard Logan - Rhyme chỉ có thể mỉm cười khi đọc những lời mô tả bóng bẩy của Interpol - là một mục sư Tin lành đến từ châu Phi. Ông này đang điều hành một trại tị nạn và mới gặp rắc rối với một vụ tai tiếng lớn, liên quan đến việc đánh cắp thuốc điều trị bệnh AIDS đem bán lấy tiền mua vũ khí.
Lực lượng an ninh đã chuyển ông ta tới London, sau khi ông mục sư đã thoát được ba âm mưu ám sát nhằm vào mình ở Nigeria và Liberia, và một xảy ra ngay tại khu vực quá cảnh của sân bay Malpensa, Milan, nơi có những nhân viên cảnh sát lăm lăm trong tay tiểu liên, luôn chăm chú xăm xoi và không để bất cứ động tĩnh nào lọt khỏi mắt.
Mục sư Samuel G. Goodlight[7] (Rhyme cũng không tưởng tượng ra được một cái họ nào tuyệt hơn thế cho một đấng chăn chiên) đang ở tại một địa điểm an toàn ở London, dưới sự giám sát chặt chẽ của các nhân viên từ Scotland Yard, trụ sở của sở cảnh sát London. Ngài đang giúp đỡ các cơ quan tình báo Anh và nước ngoài lắp ghép các đầu mối của kế hoạch “đổi thuốc lấy vũ khí.”
Thông qua những cuộc điện thoại vệ tinh được mã hóa cùng các email, Rhyme cùng Longhurst, thanh tra sở cảnh sát London, đã giăng ra chiếc bẫy để tóm cổ kẻ tình nghi. Tương xứng với những mưu mô hoàn hảo mà Logan từng vạch ra, kế hoạch này bao gồm những màn ngụy trang đánh lạc hướng và sự giúp đỡ quan trọng của một gã ba hoa khoác lác người Nam Phi từng làm nghề lái súng. Danny Krueger mang đến một mạng lưới cung cấp thông tin rất hữu ích. Gã đã thực hiện vô số vụ buôn bán vũ khí một cách trót lọt, trôi chảy và thản nhiên chẳng khác gì việc những doanh nhân bán điều hòa nhiệt độ hay si rô chữa ho vậy. Nhưng chuyến đi tới Daríur năm trước đã khiến gã bị chấn động sâu sắc khi chứng kiến thảm cảnh mà những món đồ chơi gã cung cấp gây ra. Sau đó, gã đã đoạn tuyệt với nghề lái súng và tới Anh định cư. Các lực lượng khác tham gia vào kế hoạch có các sĩ quan của MI5[8], người từ văn phòng FBI tại London và một đặc vụ từ Tổng cục An ninh Hải ngoại, một dạng FBI phiên bản Pháp.
Thậm chí, họ còn chưa biết Logan đang ẩn náu ở vùng nào tại Anh để chuẩn bị hành động, nhưng anh chàng Danny Krueger lắm lời đã nghe được thông tin gã sát thủ sẽ bắt đầu hành động trong vài ngày tới. Anh chàng người Nam Phi có không ít mối quen trong thế giới ngầm quốc tế và đã bóng gió đề cập tới một địa điểm ‘bí mật’ - nơi sẽ diễn ra cuộc gặp giữa Goodlight và các nhà chức trách. Đó là tòa nhà có một khoảng sân rất trống trải, xung quanh là hai tòa nhà cao tầng. Tóm lại là một địa điểm lý tưởng để ra tay cho một tên xạ thủ.
Đó cũng là nơi lý tưởng để nhận diện và tiêu diệt Logan. Hệ thống theo dõi đã được thiết lập, lực lượng cảnh sát vũ trang cũng như các đặc vụ của MI5 và FBI luôn ở trong trạng thái báo động hai tư trên hai tư. Nhưng kể từ đó, Logan đã biến mất và không để lại một chút tăm hơi.
Lúc này, Rhyme đang ngồi trong chiếc xe lăn điện chạy nhờ bộ ắc quy màu đỏ, trên lầu ngôi nhà của
anh tại Central Park West. Tầng lầu này không còn là căn phòng khách kiểu Victoria lạ lẫm trước đây, mà đã trở thành phòng thí nghiệm pháp y được trang bị hiện đại, quy mô hơn cả phòng thí nghiệm của một thành phố bậc trung. Anh đang thực hiện việc đã quá quen thuộc với mình từ vài ngày qua: nhìn chăm chăm vào chiếc điện thoại với nút bấm quay số nhanh gọi ngay vào một đường dây ở Anh kết thúc bằng số 1212. Theo truyền thống, hầu hết các phòng ban của sở cảnh sát London tại Scotland Yard có số điện thoại kết thúc bằng mấy con số trên, một cách gợi nhớ tới số điện thoại đầu tiên của sở: Whitehall 1212.
“Điện thoại vẫn hoạt động tốt, đúng không?” Rhyme hỏi.
“Có lý do nào khiến nó trục trặc sao?” Thom, điều dưỡng viên phục vụ anh, hỏi với giọng chừng mực, câu hỏi mà Rhyme coi như tương đương với một tiếng thở dài ngán ngẩm.
“Tôi không rõ. Có thể do quá tải dòng. Hay đường dây điện thoại bị sét đánh. Mọi thứ đều có thể xảy ra.”
“Vậy có lẽ ông nên thử kiểm tra xem, để đảm bảo chắc chắn thôi mà.”
“Nhận lệnh,” Rhyme nói, thu hút sự chú ý của hệ thống nhận dạng giọng nói kết nối với thiết bị điều khiển đã được vi tính hóa, nó cho phép thay thế các chức năng sinh lý của anh về nhiều mặt. Lincoln Rhyme là một người liệt cả tứ chi, chỉ có thể vận động một cách cực kỳ hạn chế phần cơ thể nằm phía dưới đốt sống cổ thứ tư ngay gần sàn xương sọ, bị tổn thương trong một tai nạn tại hiện trường vụ án xảy ra nhiều năm trước. Bây giờ anh ra lệnh: “Quay số tổng đài trợ giúp.”
Âm thanh quay số vang lên trong loa, tiếp theo là những tiếng kêu bip bip bip… Chúng làm Rhyme điên đầu hơn cả một chiếc điện thoại hỏng. Tại sao thanh tra Longhurst không gọi lại? “Nhận lệnh,” anh cấm cẳn gằn giọng. “Ngừng kết nối.”
“Có vẻ vẫn ổn,” Thom đặt một cốc cà phê lên giá đỡ cốc trên xe của Rhyme, nhà chuyên gia tội phạm học uống cà phê qua ống hút. Anh nhìn về phía chai whisky Glenmorangie mười tám năm tuổi làm hoàn toàn từ lúa mạch trên chiếc giá ngay gần đó, nhưng tất nhiên vẫn luôn ngoài tầm với của Rhyme. “Bây giờ là buổi sáng,” Thom nói.
“Tất nhiên bây giờ là buổi sáng. Tôi có thể thấy. Tôi không muốn điều gì… chỉ là…,” anh đang đợi một lý do nào đó để lái anh chàng Thom trẻ tuổi trở về đúng chủ đề mình quan tâm. “Tôi vừa nhớ ra tối qua tôi đã bị cắt khẩu phần quá sớm. Chỉ có hai cốc. Gần như chẳng kịp có cảm giác.”
“Đúng ra là ba.”
“Nếu cậu cộng thể tích của chúng lại thì vẫn chỉ là hai cốc nhỏ không hơn không kém.” Tính khí nhỏ nhen cũng giống như rượu mạnh, hoàn toàn có thể khiến người ta mất hết phong độ. “Được thôi, nhưng không được uống rượu Scotch vào buổi sáng.”
“Nó giúp tôi suy nghĩ sáng suốt hơn.”
“Không hề.”
“Có đấy. Và giúp tôi sáng tạo hơn.”
“Lại càng không.”
Thom mặc sơ mi là phẳng phiu, quần vải, đeo cà vạt. Quần áo của anh ta đỡ nhàu nhĩ hơn trước đây. Phần lớn công việc của điều dưỡng viên đều là việc tay chân. Nhưng chiếc ghế mới của Rhyme, chiếc Invacare TDX được thiết kế để “đem đến trải nghiệm điều khiển tự chủ hoàn toàn,” có thể kéo ra thành chiếc giường thực thụ, đã giúp công việc của Thom dễ dàng hơn nhiều. Nó thậm chí có thể tự leo lên cầu thang bậc thấp và di chuyển nhanh không kém tốc độ chạy bộ của một người trung niên chăm chỉ luyện tập.
“Tôi muốn một chút Scotch. Kia kìa. Tôi đã nói rõ mong muốn của mình rồi đó. Không được sao?” “Không.”
Rhyme cười giễu cợt rồi lại nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại. “Nhỡ đâu anh ta đi ra ngoài…,” giọng nói của anh trở nên nhỏ dần. “Tại sao anh lại không làm như mọi người vẫn làm nhỉ?” “Ý ông là sao, Lincoln?” Anh chàng trẻ tuổi vóc người mảnh khảnh này đã cùng làm việc với Rhyme từ nhiều năm qua. Anh chàng đã từng bị đuổi việc, thậm chí đã có lần tự bỏ việc. Thế nhưng anh ta vẫn còn đó. Một chứng cứ hùng hồn của tính kiên nhẫn hay sự ngang bướng của cả hai nhân vật có liên quan. “Khi tôi nói ‘Nhỡ đâu anh ta đi ra ngoài’, anh hãy trả lời lại ‘ồ, không đâu. Đừng lo lắng’. Và thế là coi như tôi đã được trấn an. Người ta vẫn làm thế mà. Họ trấn an người khác trong khi bản thân chẳng biết mình đang nói về cái gì.”
“Nhưng tôi đâu có nói vậy. Chúng ta đang tranh luận về điều tôi chưa từng nói nhưng đáng ra phải nói. Như thế có khác gì một cô vợ nổi cơn tam bành với chồng chỉ vì cô ta nhìn thấy một phụ nữ xinh đẹp dưới phố và nghĩ chắc hẳn ông chồng sẽ nhìn chằm chằm vào cô nàng nọ nếu đang có mặt ở chỗ cô ta đứng?”
“Tôi không biết cảm giác đó ra sao nữa,” Rhyme lơ đãng nói, tâm trí đang để cả vào kế hoạch đang diễn ra tại Anh để tóm cổ Logan.
Liệu có lo hổng nào chăng? Tình hình an ninh ra sao? Liệu có thể tin những kẻ bán thông tin sẽ không để hở ra điều gì lọt tới tai kẻ sát nhân không?
Điện thoại reo, hộp thoại thông báo danh tính người gọi hiện trên màn hình phẳng ngay gần Rhyme. Anh thất vọng vì số gọi đến không từ London mà ngay gần nhà, từ Big Building, tên gọi đám cảnh sát dành cho tổng hành dinh của sở Cảnh sát New York, số 1 Police Plaza ở khu Manhattan. “Nhận lệnh, trả lời điện thoại.” Cuộc gọi được kết nối. “Gì vậy?”
Cách đó năm dặm, một giọng nói khẽ vang lên, “Đang bực à?”
“Vẫn chưa có hồi âm gì từ Anh.”
“Anh đang ngồi chầu chực hay còn gì nữa?”
“Logan biến mất rồi. Hắn có thể hành động bất cứ lúc nào.”
“Cứ như anh đang trông con mọn vậy,” Sellitto nói.
“Cũng chẳng sai. Có việc gì anh nói mau đi. Tôi không muốn đường dây bận lâu quá.” “Anh có đủ thiết bị như trong phim viễn tưởng vậy mà không có thiết bị chờ gọi sao?” “Lon!”
“Okay. Có vài điều anh cần phải biết. Đã xảy ra một vụ đột nhập tư gia cướp của giết người thứ Năm tuần trước. Nạn nhân là một phụ nữ sống ở khu Village, Alice Sanderson. Kẻ sát nhân đã đâm cô ta đến chết và cướp đi một bức tranh. Chúng tôi đã tóm được kẻ tình nghi.”
Tại sao anh ta lại gọi vì chuyện này? Một vụ án mạng bình thường và kẻ tình nghi đã ngồi sau song sắt. “Có rắc rối về chứng cứ à?”
“Không hề.”
“Vậy tại sao tôi phải quan tâm đến nó?”
“Tay thám tử phụ trách vụ này vừa nhận được điện thoại cách đây nửa tiếng.”
“Lon! Cuộc săn lùng.” Rhyme nhìn chăm chăm vào tấm bảng mô tả chi tiết kế hoạch tóm cổ tên sát thủ tại Anh. Một kế hoạch rất chu đáo.
Và cũng cực kỳ mong manh.
Sellitto khiến anh bừng tỉnh khỏi dòng suy tưởng. “Tôi xin lỗi, Linc, nhưng kẻ tình nghi là anh họ anh, Arthur Rhyme. Tội giết người cấp độ một. Anh ta có thể lĩnh hai mươi năm tù. Ủy viên công tố nói đây là một vụ rất khó gỡ.”
CHƯƠNG 3
“Thế mà cũng đã lâu rồi.”
Judy Rhyme đang ngồi trong phòng thí nghiệm của anh. Hai bàn tay đan vào nhau, khuôn mặt tái xám, chị tránh nhìn vào đôi mắt của nhà tội phạm học.
Có hai cách phản ứng với cơ thể liệt của Rhyme khiến anh nổi giận. Đó là khi những người đến thăm cố gắng giả vờ như anh không hề tàn tật. Hoặc khi họ coi đó là lý do để cư xử như người bạn thân thiết nhất của anh, tếu táo pha trò và luẩn quẩn xung quanh, huyên thuyên những chuyện đao to búa lớn như thể đã cùng anh vào sinh ra tử suốt một cuộc chiến tranh.
Judy rơi vào loại thứ nhất, rụt rè cân nhắc từng từ trước khi nói với Rhyme. Thế nhưng, dù sao chị vẫn là người nhà và anh vẫn giữ được kiên nhẫn trong khi cố kìm mình không đưa mắt về phía điện thoại. “Một quãng thời gian thật dài,” nhà tội phạm học đồng ý.
Thom đang giúp bổ khuyết những cách thức xã giao mà Rhyme luôn quên bẵng. Thom mang cà phê mời Judy, nhưng chiếc tách vẫn nằm nguyên trên bàn, trước mặt chị, chưa hề được đụng đến. Rhyme liếc nhìn lần nữa chai whisky, cái nhìn lén lút đầy thèm thuồng và Thom thản nhiên lờ đi.
Vị khách nữ có mái tóc sẫm màu trông rất cuốn hút, gọn gàng và khỏe khoắn hơn so với lần cuối Rhyme gặp chị, khoảng hai năm trước khi anh bị tai nạn. Judy đánh bạo thầm quan sát khuôn mặt của nhà tội phạm học. “Chị rất xin lỗi vì vợ chồng chị chưa bao giờ đến đây thăm cậu. Thật đấy. Chị đã muốn đến.”
Ý Judy không phải là một cuộc ghé thăm xã giao trước khi anh bị thương, mà muốn nói tới một lời chia sẻ đồng cảm sau tai nạn. Những ai đã sống sót qua tai họa có thể hiểu được những gì không được nói ra cũng rõ ràng không kém gì mỗi từ trong từng câu nói đó.
“Cậu nhận được hoa chứ?”
Nhớ lại thời gian sau vụ tai nạn, Rhyme đã thực sự choáng váng: những can thiệp về y tế, những chấn thương thể xác, cũng như cuộc vật lộn tinh thần kinh hoàng với một điều phi lý là anh sẽ không bao giờ đi lại được nữa.
Anh không còn nhớ về bất cứ bông hoa nào họ gửi tới nhưng anh biết gia đình đã gửi hoa cho mình. Nhiều người đã làm như thế, gửi mấy bông hoa thật dễ dàng, cất công đến thăm khó khăn hơn nhiều. “Có, cám ơn chị.”
Im lặng. Chị nhìn nhanh, gần như vô thức về phía đôi chân của nhà tội phạm học. Người ta hay nghĩ: nếu bạn không đi được, chằc chắn đôi chân của bạn có gì đó không bình thường. Nhưng chúng hoàn toàn ổn. Rắc rối nằm ở việc sai bảo chúng.
“Trông cậu khỏe lắm,” chị nói.
Rhyme không biết anh có cảm thấy mình khỏe hay không. Chưa bao giờ anh bận tâm nghĩ đến điều đó. “Chị nghe nói cậu đã ly hôn.”
“Vâng.”
“Chị rất tiếc.”
Tại sao? Anh tự hỏi. Nhưng đó là một ý nghĩ quá chua chát, anh khẽ gật đầu, đón nhận sự thông cảm ấy. “Blaine, cô ấy giờ ra sao rồi?”
“Cô ấy chuyển tới Long Island và đã tái hôn. Chúng em cũng không hay liên lạc. Cũng là chuyện thường tình vì không có con chung.”
“Chị đã rất vui, hồi ở Boston ấy, khi hai đứa tới chơi vào kỳ nghỉ cuối tuần.” Một nụ cười hiện lên, mà cũng không hẳn. Nó giống nét vẽ chết cứng trên một chiếc mặt nạ.
“Phải, hồi đó đúng là vui thật.”
Đó là một kỳ nghỉ cuối tuần tại New England[9]. Họ đã đi mua sắm, lái xe về phía nam tới Cape Cod[10], có một buổi picnic bên bờ biển. Lúc đó, anh thầm nghĩ nơi đó thật đẹp biết bao. Trong khi ngắm nghía những tảng đá màu xanh bên bờ biển, anh chợt nảy ra ý tưởng lập một bộ sưu tập các loại tảo lấy từ xung quanh thành phố New York, để làm cơ sở dữ liệu cho phòng thí nghiệm điều tra tội phạm của sở cảnh sát New York. Anh đã dành một tuần liền lái xe lượn lờ khắp thành phố để lấy mẫu.
Và trong suốt chuyến đi thăm Arthur và Judy, anh và Blaine đã không cãi cọ lần nào. Thậm chí, chặng dừng chân tại nhà trọ ở Connecticut lúc quay về cũng thật tuyệt vời. Họ đã tựa vào bức vách phía sau căn phòng và làm tình với nhau trong bầu không khí sực nức mùi cây kim ngân.
Chuyến thăm đó là lần cuối cùng anh gặp mặt trực tiếp người anh họ. Họ còn trò chuyện một lần ngắn ngủi nữa nhưng chỉ qua điện thoại. Sau đó là vụ tai nạn và sự im lặng kéo dài.
“Đúng kiểu biến mất tăm khỏi thế giới của Arthur.” Chị bật cười - một tiếng cười có phần bối rối. “Cậu biết bọn chị đã chuyển tới New Jersey chưa?”
“Thật sao?”
“Arthur từng dạy ở Princeton nhưng đã bị sa thải.”
“Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Anh ấy là trợ giảng và nghiên cứu viên. Bọn họ không ký hợp đồng giảng viên chính thức với anh ấy. Art nói nguyên nhân là do chính sách của trường. Cậu cũng biết điều đó là thế nào ở các trường đại học mà.”
Henry Rhyme, cha của Art, một giáo sư Vật lý danh tiếng tại Đại học Chicago, con đường hàn lâm là một sự nghiệp được coi trọng trong nhánh đó của họ Rhyme. Ở trường trung học, Arthur và Lincoln từng tranh luận về giá trị của công tác nghiên cứu và giảng dạy tại trường đại học so với một công việc cho tư nhân. “Trong môi trường sư phạm, anh có thể đóng góp nghiêm túc cho xã hội,” Art từng nói khi hai cậu nhóc cùng nhau chia sẻ hai lon bia một cách bất hợp pháp khi chưa đủ tuổi. Arthur cũng cố gắng giữ vẻ nghiêm chỉnh trên khuôn mặt khi Lincoln đưa ra câu bổ sung: “Đúng thế và các cô trợ giảng có thể cực kỳ nóng bỏng.”
Rhyme chẳng hề ngạc nhiên khi Art lựa chọn làm việc tại một trường đại học.
“Anh ấy vẫn có thể làm công việc trợ giảng nhưng đã quyết định ra đi. Anh ấy rất phẫn nộ, cho rằng mình có thể tìm thấy một công việc khác ngay lập tức. Nhưng anh ấy đã thất nghiệp một thời gian trước khi vào làm cho một công ty tư nhân sản xuất thiết bị y tế.” Lại một cái nhìn vô thức nữa, lần này mục tiêu là chiếc xe lăn hiện đại phức tạp. Chị đỏ mặt như vừa làm một việc đầy xúc phạm. “Đó không phải là công việc mơ ước của anh ấy và anh ấy không cảm thấy vui vẻ. Chị biết chắc anh ấy muốn đến thăm cậu. Nhưng có lẽ anh ấy xấu hổ vì đã không thành công trong sự nghiệp khi so với danh tiếng cậu có được.”
Cuối cùng chị nhấp một chút cà phê. “Hai người có thật nhiều điểm chung, giống như hai anh em ruột vậy. Chị vẫn nhớ về Boston, về tất cả những câu chuyện cậu từng kể. Chúng ta đã thức trò chuyện đến nửa đêm và cùng phá lên cười. Có những điều chị chưa bao giờ biết về anh ấy. À, bố chồng chị khi còn sống vẫn nhắc đến cậu luôn.”
“Thật vậy sao?” Anh và bác vẫn hay viết thư cho nhau. Anh đã nhận được một lá thư của bác chỉ vài ngày trước khi ông qua đời.
Rhyme có không ít kỷ niệm khó quên với bác anh nhưng có một hình ảnh luôn khiến anh nhớ hơn cả. Người đàn ông cao lớn, đầu hói, với khuôn mặt hồng hào khỏe mạnh ngả đầu ra sau phá lên cười đến độ đinh tai nhức óc, khiến hầu như mọi thành viên gia đình đang quây quần quanh bàn tiệc Giáng sinh phải bối rối trừ bản thân Henry Rhyme, bà vợ nhẫn nhịn của ông và chàng trai trẻ Lincoln, cậu cũng phá lên cười thoải mái cùng ông. Rhyme rất quý người bác này và thường xuyên tới thăm Henry cùng gia đình, khi ấy sống cách đó chừng ba mươi dặm, ngay bên bờ hồ Michigan, Evanston, tiểu bang Illinois.
Thế nhưng lúc này Rhyme không còn tâm trí đâu cho hoài niệm, anh thực sự thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng cửa mở, rồi tiếng bước chân dứt khoát vang lên từ ngưỡng cửa vào tới thảm trải sàn. Tiếng bước chân cho Rhyme biết người mới đến là ai. Lát sau, một người phụ nữ tóc đỏ cao ráo, mảnh mai, với quần jean, áo phông đen bên trong áo khoác đỏ tía bước vào. Chiếc áo phông khá rộng so với vóc dáng người mặc, trong khi hình dáng góc cạnh của chiếc báng khẩu súng ngắn Glock hằn lên rõ mồn một bên hông cô.
Khi Amelia Sachs mỉm cười đặt một nụ hôn lên môi Rhyme, nhà tội phạm học có thể thấy rõ câu trả lời bằng ngôn ngữ cơ thể của Judy vẫn đang ngồi ngay gần đó. Thông điệp này quá rõ ràng và Rhyme tự hỏi chuyện gì đã khiến vị khách bất ngờ như vậy. Hoặc là chị đã nghĩ chị quá sơ suất không hỏi xem Lincoln có hẹn với ai không. Hoặc chị đã tự cho rằng một người tàn tật không thể có được đối tượng hấp dẫn đến mức làm người ta ngơ ngẩn như Sachs, vốn từng làm người mẫu trước khi vào học trường cảnh sát.
Anh giới thiệu hai người với nhau. Sachs lắng nghe câu chuyện về vụ bắt giữ Arthur với sự quan tâm rõ rệt rồi hỏi Judy đang xử trí ra sao với tình thế hiện tại. Rồi cô hỏi một câu riêng tư: “Hai người đã có con chưa?”
Rhyme nhận ra trong khi anh đang xăm xoi những câu lỡ lời của Judy thì bản thân anh cũng thất thố khi không hỏi han gì về cháu trai mình, thậm chí tên cậu bé anh cũng đã quên mất. Hóa ra gia đình họ đã có thêm thành viên mới. Bên cạnh Arthur Nhỏ, đã vào trung học, còn có thêm hai đứa bé nữa. “Một cháu trai chín tuổi, Henry và một cháu gái, Meadow, sáu tuổi.”
“Meadow?” Sachs ngạc nhiên hỏi.
Judy bật cười bối rối. “Chúng tôi sống ở Jersey. Nhưng cái tên Meadow[11] chẳng liên quan gì tới chương trình truyền hình cả . Cháu được sinh ra trước khi tôi xem chương trình đó.” Chương trình truyền hình?
Judy phá vỡ khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi. “Chắc cậu đang tự hỏi sao chị lại gọi cho ông sĩ quan cảnh sát đó hỏi số của cậu. Nhưng trước hết chị cần cho cậu hay Art không biết chị đến đây.” “Không biết ư?”
“Nói thật với cậu, bản thân chị đã không nghĩ sẽ làm thế. Chị lo lắng đến mất ăn mất ngủ, không thể suy nghĩ được gì. Khi chị nói chuyện với Art vài ngày trước trong trung tâm tạm giam, anh ấy đã nói: ‘Anh biết em đang nghĩ gì nhưng đừng gọi cho Lincoln. Đây chỉ là một trường hợp nhầm lẫn danh tính. Chúng ta sẽ sớm ổn thôi mà. Hãy hứa với anh, em sẽ không gọi.’ Anh ấy không muốn làm cậu phải bận tâm… Cậu biết tính Art mà. Lúc nào cũng tốt tính, luôn nghĩ đến người khác.”
Rhyme gật đầu.
“Nhưng càng nghĩ nhiều về việc gọi cho cậu, chị càng thấy đúng đắn. Chị sẽ không yêu cầu cậu nhờ đến các mối quan hệ hay làm bất cứ điều gì không minh bạch, chỉ cần cậu gọi một hai cuộc điện thoại. Cậu nghĩ sao?”
Rhyme có thể hình dung ra việc đó sẽ diễn ra như thế nào ở Big Building. Là chuyên gia tư vấn pháp y của sở cảnh sát New York, công việc của anh là tìm ra sự thật, cho dù sự thật đó dẫn tới đâu. Rõ ràng bên cảnh sát sẽ cảm thấy thích hơn nhiều nếu anh giúp họ kết án các nghi phạm thay vì giúp những người này thoát tội.
“Chị đã đọc mấy bài cắt từ báo ra viết về cậu.”
“Bài cắt từ báo ra?”
“Art luôn theo dõi những bước đi của mọi người trong gia đình. Anh ấy đã cắt hàng tá bài viết về các vụ án của cậu từ các tờ báo. Những điều cậu làm được thật đáng kinh ngạc.”
Rhyme nói: “Em chỉ là một người làm công ăn lương thôi mà.”
Cuối cùng Judy cũng bộc lộ cảm xúc chân thành bằng một nụ cười trong khi chị chăm chú nhìn thẳng vào mắt Rhyme. “Art nói anh ấy chưa bao giờ tin cậu là người khiêm tốn, cho dù chỉ trong một phút.” “Thật vậy sao?”
“Vì chính cậu cũng chẳng bao giờ tin vào điều đó.”
Sachs khẽ cười thành tiếng.
Rhyme bật ra tiếng cười mà anh nghĩ có thể coi là thành thật. Sau đó anh trở lại nghiêm túc. “Em không rõ có thể giúp được gì nhiều hay không. Nhưng hãy cho em biết những gì đã xảy ra.” “Chuyện xảy ra thứ Năm tuần trước, hôm Mười hai. Art luôn về sớm vào những ngày thứ Năm để chạy bộ một lúc trong công viên tiểu bang trên đường về nhà. Anh ấy rất thích chạy.”
Rhyme nhớ lại trước đây đã không biết bao nhiêu lần, hai cậu bé chỉ cách nhau vài tháng tuổi cùng nhau chạy đua trên vỉa hè hay băng qua những đồng cỏ ngả vàng gần những ngôi nhà của gia đình chúng, khiến những con châu chấu có mặt trên đường đua phải bay đi tứ tán, trong khi những con muỗi nhỏ li ti dính bết lên làn da đàm đìa mồ hôi của hai đứa khi chúng dừng lại thở lấy hơi. Art có vẻ khá hơn nhưng Lincoln lại lọt được vào đội tuyển điền kinh của trường. Vì ông anh họ của anh chẳng hề bận tâm thử tham gia tuyển chọn.
Rhyme tạm gác những hồi ức sang bên để tập trung lắng nghe những gì Judy đang nói. “Anh ấy rời chỗ làm ba rưỡi chiều và đi chạy như thường lệ, sau đó về đến nhà khoảng bảy giờ hay bảy rưỡi tối. Hôm sau, cảnh sát tìm đến nhà, hai người từ New York và một người từ New Jersey. Họ hỏi anh ấy rất nhiều câu hỏi, rồi kiểm tra chiếc xe. Họ tìm thấy những vết máu, chị không biết nữa…” Giọng nói của chị hiện rõ những dư âm sót lại của cú sốc trong buổi sáng tai họa đó. “Họ khám xét ngôi nhà và lấy đi một vài thứ. Sau đó quay lại và bắt anh ấy vì tội giết người.” Phải khó khăn lắm chị mới nói ra được câu cuối cùng.
“Chính xác thì người ta tình nghi anh ấy đã làm gì?” Sachs hỏi.
“Họ tuyên bố anh ấy đã giết một người phụ nữ và ăn cắp một bức tranh quý của cô ta.” Người phụ nữ mỉa mai đầy cay đắng: “Ăn cắp một bức tranh? Để làm gì? Lại còn giết người nữa. Tại sao? Arthur chưa bao giờ làm hại ai trong cả cuộc đời anh ấy. Anh ấy không có khả năng làm điều đó.” “Những vết máu được tìm thấy thì sao? Họ có giám định ADN không?”
“Họ làm rồi. Có vẻ như kết quả hoàn toàn khớp. Nhưng những xét nghiệm đó cũng có thể sai, đúng không?”
“Đôi khi,” Rhyme nói trong khi thầm nghĩ: Rất, rất hiếm khi.
“Hoặc có thể kẻ sát nhân thực sự đã tạo ra vết máu đó.”
“Arthur có đặc biệt quan tâm tới bức tranh đó không?” Sachs hỏi.
Judy mân mê chiếc vòng tay to bản bằng nhựa đen và trắng đeo trên cổ tay trái của chị. “Có, anh ấy từng có một bức tranh của họa sĩ đó. Anh ấy rất thích nó nhưng đã buộc phải bán đi khi mất việc.” “Bức tranh được tìm thấy ở đâu?”
“Nó chưa được tìm ra.”
“Nhưng làm sao họ biết nó đã bị lấy đi?”
“Có một nhân chứng nói đã nhìn thấy một người đàn ông mang nó từ căn hộ của người phụ nữ ra xe vào đúng khoảng thời gian cô ấy bị giết. Ôi, tất cả chỉ là một mớ hỗn độn khủng khiếp. Những trùng hợp ngẫu nhiên…” Giọng nói của chị chìm đi trong những tiếng nấc.
“Anh ấy có biết người phụ nữ đó không?”
“Lúc đâu Art nói anh ấy không biết, nhưng rồi sau đó anh ấy nghĩ có thể họ đã từng gặp nhau tại một phòng tranh mà thỉnh thoảng anh ấy có lui tới. Nhưng anh ấy khẳng định chưa từng nói chuyện với người phụ nữ đó.” Giờ đây đôi mắt của vị khách nữ đã thay thế tấm bảng vẽ kế hoạch tóm cổ Logan trong suy nghĩ của Rhyme.
Rhyme chợt nhớ lại quãng thời gian anh và Arthur từng trải qua bên nhau.
Chạy thi tới cái cây đó đi… Không, đồ nhát như cấy… Cái cây thích ở đảng kia kìa. Chạm vào thân cây! Đếm đến ba. Một… hai… chạy!
Anh đâu có đếm đến ba.
“Vẫn còn nữa đúng không, Judy?” Sachs hỏi.
Rhyme đoán Sachs đã nhìn thấy điều gì đó trong mắt vị khách nữ.
“Tôi chỉ thấy lo lắng thôi, cả về bọn trẻ nữa. Đối với chúng, đúng là một cơn ác mộng. Hàng xóm láng giềng đối xử chẳng khác gì chúng tôi là những tên khủng bố.”
“Tôi rất xin lỗi phải hối thúc nhưng chúng tôi cần biết toàn bộ những gì đã xảy ra, điều đó rất quan trọng.”
Khuôn mặt Judy lại đỏ bừng lên, hai đầu gối ép chặt vào nhau. Rhyme và Sachs có một người bạn làm đặc vụ cho văn phòng Cục Điều tra liên bang ở California, Kathryn Dance. Cô là một chuyên gia nghiên cứu ý nghĩa của ngôn ngữ cử chỉ. Rhyme từng coi những kỹ năng này chỉ có ý nghĩa thứ yếu trong khoa học hình sự. Nhưng dần dần, anh trở nên thực sự tôn trọng Dance và đã học được ít nhiều chuyên ngành của cô. Lúc này anh có thể dễ dàng nhận thấy Judy Rhyme đang ở trong trạng thái căng thẳng tột độ.
“Tiếp tục đi nào,” Sachs động viên.
“Cảnh sát đã tìm ra một vài bằng chứng khác mà thực ra cũng không hẳn là bằng chứng. Nhưng… chúng khiến họ nghĩ rất có thể Art và người phụ nữ kia đang hẹn hò với nhau.”
Sachs hỏi: “Chị nghĩ sao về chuyện này?”
“Tôi không nghĩ anh ấy lại làm thế.”
Rhyme nhận thấy động từ trong câu trả lời trở nên rụt rè hơn. Không còn là lời phủ nhận mạnh mẽ cương quyết như với các tội danh giết người cướp của. Người phụ nữ khốn khổ mong muốn câu trả lời là không, cho dù cô gần như chắc chắn đã có cùng suy nghĩ như Rhyme: việc người phụ nữ bị giết là tình nhân của Arthur sẽ là một chi tiết có lợi cho anh ta. Sẽ dễ dàng cướp của một người xa lạ hơn của người ta đang bồ bịch.
Thế nhưng, là một người vợ và một người mẹ, Judy vẫn mong câu trả lời ngược lại. Sau đó chị ngước mắt lên, cái nhìn đã bớt thận trọng khi quan sát Rhyme, chiếc ghế anh đang ngồi cũng như các máy móc luôn đồng hành cùng anh.
“Cho dù chuyện gì đã xảy ra đi nữa, anh ấy không giết người phụ nữ đó. Anh ấy không thể. Chị linh cảm được điều đó… Cậu có thể giúp bọn chị được không?”
Rhyme và Sachs nhìn nhau. Anh nói: “Xin lỗi, Judy, lúc này bọn em đang có vào một vụ rất quan trọng. Bọn em sắp tóm được một gã sát nhân rất nguy hiểm. Em không thể dứt ra khỏi vụ này được.” “Chị không muốn cậu phải làm thế. Nhưng, hãy giúp anh ấy, chỉ một điều gì đó thôi. Chị không còn biết phải làm gì nữa.” Đôi môi chị run rẩy.
Anh nói: “Bọn em sẽ gọi điện thoại để xem có thể làm được gì. Em không thể cho chị biết bất cứ thông tin nào ngoài những gì luật sư có thể nói cho chị, nhưng em sẽ nói thật về cơ hội kháng án thành công của Arthur.”
“Ôi, cảm ơn cậu, Lincoln.”
“Luật sư của anh ấy là ai?”
Chị cho hai người biết tên và số điện thoại của vị luật sư. Một luật sư chuyên bào chữa cho các vụ án hình sự, thành tích thuộc loại đầu bảng, kèm theo mức giá thù lao cũng ngất ngưởng không kém. Rhyme biết rõ người này, ông ta là một người cực kỳ bận rộn và có nhiều kinh nghiệm về các vụ án tài chính hơn là các tội ác bạo lực.
Sachs hỏi về người sẽ đại diện cho bên nguyên.
“Bernard Grossman. Chị có số điện thoại của ông ta.”
“Không cần đâu,” Sachs nói. “Tôi có rồi. Tôi đã từng làm việc với ông ấy, một con người hiểu biết. Tôi đoán ông đã đề nghị chồng chị nhận tội để hưởng các tình tiết giảm nhẹ?”
“Ông ta đã đề nghị và luật sư của chúng tôi cũng muốn chấp nhận. Nhưng Art từ chối. Anh ấy một mực nói đây chắc chắn là một sự nhầm lẫn, tất cả sẽ được làm sáng tỏ. Nhưng chuyện đó đâu phải lúc nào cũng diễn ra. Người ta vẫn có thể phải vào tù cho dù hoàn toàn vô tội, đúng không?”
Phải, vẫn có thể đấy, Rhyme nghĩ thầm, sau đó nói: “Bọn em sẽ gọi điện thoại thử xem sao.” Cô đứng dậy. “Chị không biết nói sao để cậu biết chị cảm thấy có lỗi đến thế nào khi bọn chị đã để mặc cậu khi xảy ra chuyện. Không gì có thể bào chữa được cho việc đó.” Bằng cách khiến anh hoàn toàn bất
ngờ, Judy Rhyme bước thẳng tới chiếc xe đẩy, cúi xuống, má chị áp sát vào má anh. Rhyme ngửi thấy mùi mồ hôi của một người đang bối rối cùng hai thứ mùi khác là chất khử mùi và keo xịt tóc tỏa ra từ chị. Không có mùi nước hoa. Chị dường như không thuộc về kiểu phụ nữ hay dùng nước hoa. “Cảm ơn cậu, Lincoln.” Chị bước tới phía cửa, rồi chợt dừng bước. Chị nói với cả hai người: “Cho dù hai người có tìm ra bất cứ điều gì về người phụ nữ đó và Arthur thì cũng không sao hết. Điều duy nhất chị quan tâm là anh ấy không phải vào tù.”
“Em sẽ làm những gì có thể. Bọn em sẽ gọi điện cho chị nếu tìm thấy điều gì đó khả quan.” Sachs tiễn vị khách nữ ra về.
Khi cô quay lại Rhyme nói: “Hãy bắt đầu kiểm tra với các luật sư trước đã.”
“Em rấy tiếc, Rhyme.”
Anh cau mày. Cô nói thêm: “Em chỉ muốn nói là việc này hẳn rất nặng nề với anh”. “Tại sao lại thế?”
“Một người họ hàng thân thuộc bị bắt về tội giết người.”
Rhyme nhún vai, một trong những cử chỉ hiếm hoi anh còn tự làm được. “Ted Bundy[12] cũng là con trai của ai đó. Có thể còn là anh họ của một người nào nữa.”
“Nhưng dẫu sao thì…,” Sachs nhấc ống nghe lên. Cô bấm số của vị luật sư bào chữa, cuộc gọi bị rơi vào hộp thư thoại và cô để lại một tin nhắn. Rhyme thầm tự hỏi không biết lúc đó tay luật sư đang đứng ở cạnh lỗ golf thứ mấy.
Sau đó, Sachs liên lạc được với trợ lý ủy viên công tố quận, Grossman, ông này không tận hưởng ngày nghỉ mà vẫn có mặt tại văn phòng. Ông không hề ngờ đến mối liên hệ họ hàng giữa nghi phạm và nhà tội phạm học. “Lincoln, tôi thực sự rất tiếc,” ông ta chân thành nói. “Nhưng tôi cần phải nói rằng, đây là một vụ rất rõ ràng. Tôi không tung hỏa mù đâu. Tôi sẽ nói cho anh biết nếu có kẽ hở nào. Nhưng không hề có. Bồi thẩm đoàn chắc chắn sẽ đóng đinh anh ta. Nếu có thể thuyết phục anh ta nhận tội, anh sẽ giúp được anh ta một việc lớn đấy. Rất có thể tôi sẽ giảm xuống, chỉ còn mười hai năm không giảm án.”
Mười hai năm, không trả tự do trước thời hạn. Chừng đó sẽ giết chết Arthur, Rhyme thầm nghĩ. “Rất cảm ơn ông,” Sachs nói.
Người trợ lý ủy viên công tố quận nói thêm, ông có một phiên tòa rất phức tạp sẽ bắt đầu vào sáng hôm sau, vì thế không thể dành thêm thời gian trao đổi với Rhyme hay Sachs. Nếu họ muốn, trong tuần sau ông sẽ gọi lại.
Tuy vậy, ông cũng cho họ biết tên thám tử phụ trách vụ án, Bobby LaGrange.
“Em biết anh ta,” cô nói, đồng thời gọi điện đến nhà viên thám tử. Lại hộp thư thoại. Nhưng khi cô gọi vào di động, anh chàng thám tử lập tức trả lời.
“LaGrange đây.”
Tiếng rít của những cơn gió cùng tiếng sóng vỗ cho biết viên thám tử đang bận rộn làm gì trong ngày đẹp trời ấm áp này.
Sachs nói tên mình.
“À phải rồi. Cô vẫn khỏe chứ, Amelia? Tôi đang đợi điện thoại của một tay bán tin. Chúng tôi đang chờ một thứ sẽ tới Red Hook vào bất cứ lúc nào.”
Vậy là anh ta không phải đang ngồi trên chiếc thuyên câu cá của mình.
“Tôi có thể không nói lâu được đâu.”
“Hiểu rồi. Anh đang ở loa ngoài đấy.”
“Thám tử, tôi là Lincoln Rhyme.”
Một thoáng chần chừ. “Ồ, vâng.” Một cuộc gọi của Lincoln Rhyme luôn nhanh chóng khiến người nghe tập trung chú ý.
Rhyme giải thích về anh họ mình.
“Đợi đã… Tôi nghĩ Rhyme là một cái họ thật buồn cười. Ý tôi muốn nói là khác thường. Nhưng tôi đã không nhận ra mối liên hệ giữa họ của hai người. Trong suốt các cuộc thẩm vấn, cậu ta cũng không hề nói gì về ông. Tôi thực sự rất tiếc.”
“Thám tử, tôi không muốn can dự vào vụ án. Nhưng tôi đã hứa sẽ gọi điện hỏi tình hình vụ việc. Tôi biết nó đã lên tới trợ lý ủy viên công tố quận. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy.”
“Tôi buộc phải nói vụ này rõ như ban ngày rồi. Tôi đã điều tra các vụ án mạng từ năm năm nay và trừ trường hợp ai đó trong phiên tuần tra tận mắt trông thấy một vụ thanh toán băng đảng thì đây là vụ chắc chắn nhất tôi từng chứng kiến.”
“Đầu đuôi câu chuyện ra sao? Vợ của Art chỉ cho tôi biết vài chi tiết rời rạc.”
Tay thám tử trả lời bằng giọng nói cứng nhắc, khô khốc, hoàn toàn vô cảm mà những anh chàng cớm luôn dùng đến mỗi khi thuật lại tình tiết của một tội ác: “Anh họ ông rời chỗ làm sớm. Anh ta tới căn hộ của một phụ nữ có tên Alice Sanderson ở khu Village. Cô ta cũng rời chỗ làm sớm. Không rõ anh ta ở đó bao lâu nhưng vào khoảng sáu giờ chiều, cô gái đã bị đâm chết bằng dao và một bức tranh đã bị đánh cắp.”
“Tranh hiếm phải không?”
“Phải. Nhưng chưa đến mức như tranh của Van Gogh.”
“Tác giả là ai?”
“Một tay Prescott nào đó, qua đời cách đây chưa lâu.”
“Vậy là tranh của ông ta đang lên giá?”
“Đoán vậy. Nhưng bức tranh này cũng chỉ có giá khoảng một trăm năm mươi nghìn đô. À, chúng tôi cũng đã tìm thấy vài bức thư gửi trực tiếp, như kiểu tờ rơi quảng cáo, của một vài phòng tranh gửi cho anh họ ông về Prescott. Có vẻ không phải là những bằng chứng hay ho cho lắm.”
“Hãy cho tôi biết thêm về ngày Mười hai tháng Năm,” Rhyme nói.
“Vào lúc khoảng sáu giờ, một nhân chứng nghe thấy những tiếng thét, vài phút sau đó cũng nhân chứng này trông thấy một người đàn ông mang theo một bức tranh chạy ra ngoài, tới một chiếc Mercedes màu xanh sáng đỗ bên đường. Chiếc xe chạy ngay khỏi hiện trường. Nhân chứng chỉ nhìn thấy ba chữ cái đầu trên biển số, không rõ được tên tiểu bang nhưng chúng tôi đã tìm kiếm trong phạm vi thành phố. Sau đó thu hẹp danh sách tình nghi và thẩm vấn các chủ xe. Một trong số này là anh họ ông. Tôi, người cùng nhóm và một nhân viên cảnh sát tới Jersey để gặp anh ta. Chúng tôi phát hiện thấy những vết giống vết máu trên cửa sau xe và băng ghế sau. Có một chiếc khăn lau thấm đầy máu giấu dưới băng ghế. Chiếc khăn này trùng khớp với bộ khăn được dùng tại căn hộ của nạn nhân.”
“Và ADN cũng dương tính?”
“Phải, là máu của cô ta.”
“Nhân chứng đã nhận ra anh ấy trong một buổi nhận dạng trực tiếp?”
“Không, hoàn toàn nặc danh. Nhân chứng gọi đến từ một thuê bao trả trước và không cho biết tên vì không muốn gặp rắc rối. Nhưng chúng tôi cũng không cần thêm. Nhóm điều tra hiện trường đã thu hoạch được nhiều thứ. Bọn họ lấy được một dấu giày ngay trên lối vào căn hộ nạn nhân, cùng loại với giày anh họ ông đi và thu lượm được vài dấu vết hoàn hảo.”
“Bằng chứng ‘theo lớp’?”
“Phải, theo lớp. Vết kem cạo râu, đồ ăn vặt, phân bón cỏ lấy từ ga ra của anh ta. Hoàn toàn trùng khớp với những gì tìm thấy trong căn hộ nạn nhân.”
Không, chúng không trùng khớp, Rhyme thầm nghĩ. Bằng chứng gồm nhiều loại khác nhau. Bằng chứng ‘cá thể’ lấy từ một nguồn duy nhất, chẳng hạn như ADN hay dấu vân tay. Bằng chứng ‘theo lớp’ có chung một số đặc tính nhất định với các vật liệu tương tự, nhưng không nhất thiết từ cùng một nguồn. Chẳng hạn như sợi dệt thảm. Xét nghiệm ADN của mẫu máu lấy từ hiện trường vụ án có thể chắc chắn ‘trùng khớp’ với máu của thủ phạm. Nhưng việc so sánh giữa mẫu sợi dệt thảm từ hiện trường với những sợi thảm tìm thấy trong nhà kẻ tình nghi nếu ‘có mối liên hệ’ chỉ có thể cho phép bồi thẩm đoàn suy ra kẻ tình nghi đã có mặt tại hiện trường.
“Theo ông, nghi phạm có quen cô ta hay không?” Sachs hỏi.
“Anh ta khăng khăng là không, nhưng chúng tôi đã tìm thấy hai ghi chú nạn nhân đã viết. Một tại chỗ làm việc, một tại nhà. Ghi chú thứ nhất: ‘Art - đồ uống’. Ghi chú thứ hai chỉ vẻn vẹn: ‘Arthur’. Không có gì khác. À, tên anh ta có trong điện thoại của nạn nhân.”
“Số điện thoại của anh ấy?”
Rhyme cau mày.
“Không. Chỉ có số máy di động trả trước. Không có thông tin người dùng.”
“Vậy anh cho rằng hai người thậm chí còn hơn là bạn bè?”
“Cũng từng nghĩ đến. Nếu không tại sao chỉ đưa cho cô ta số di động trả trước, mà không phải số nhà riêng hay nơi làm việc?” Anh chàng thám tử bật cười. “Có vẻ như cô ta chẳng hề bận tâm, ông sẽ ngạc nhiên khi biết người ta sẵn sàng chấp nhận điều gì mà không hề đặt câu hỏi.”
Không ngạc nhiên đến mức đó đâu, Rhyme thầm nghĩ.
“Còn chiếc điện thoại?”
“Bốc hơi. Không tìm thấy dấu vết nào.”
“Anh có nghĩ anh ấy đã giết cô gái vì cô ta gây sức ép đòi anh ấy phải bỏ vợ?”
“Đó là một lý do ủy viên công tố sẽ moi đến.”
Rhyme so sánh giữa những gì anh từng biết về người anh họ đã hơn chục năm nay chưa gặp mặt với ý tưởng này, anh không thể khẳng định hay phủ nhận mối nghi ngờ.
Sachs hỏi: “Còn ai khác có động cơ không?”
“Không ai cả. Gia đình và bạn bè nói cô ta có hẹn hò vài người, nhưng đều là những cuộc gặp gỡ tình cờ. Không có cuộc đổ vỡ ghê gớm nào. Tôi thậm chí đã tự hỏi liệu có phải do cô vợ, Judy, ra tay không, nhưng vợ anh ta có bằng chứng ngoại phạm vào khoảng thời gian đó.”
“Arthur có bằng chứng ngoại phạm nào không?”
“Không hề. Anh ta nói đi tập chạy nhưng không ai xác nhận đã trông thấy anh ta ở Công viên Clinton
State. Đó là một chỗ rất rộng và cực kỳ vắng vẻ.”
“Tôi tò mò một chút,” Sachs nói, “thái độ anh ta trong lúc thẩm vấn ra sao?”
LaGrange cười. “Cô nhắc đến lại làm tôi buồn cười, đó là phần kỳ quặc nhất của cả vụ án này. Anh ta trông cực kỳ sửng sốt, chỉ đứng chết sững ra khi nhìn thấy bọn tôi. Tôi đã tóm cổ không ít loại người trong đời làm cảnh sát của mình, một số trong đó là những tay chuyên nghiệp thực sự. Còn anh chàng này diễn thật ngọt vở Tôi vô tội. Quả là một diễn viên xuất chúng. Chắc ông vẫn nhớ tài năng này của anh ta chứ, thám tử Rhyme?”
Nhà tội phạm học không trả lời. “Chuyện gì đã xảy ra với bức tranh?”
Một thoáng im lặng. “Đấy lại là chuyện khác. Đến giờ chúng tôi vẫn chưa tìm thấy. Nó không có trong nhà hay trong ga ra nhưng nhóm điều tra hiện trường phát hiện ra đất bám trên băng ghế sau và trong ga ra của anh ta trùng khớp với đất ở khu vực công viên tiểu bang nơi anh ta vẫn tới chạy mỗi tối. Chúng tôi đoán anh ta đã chôn bức tranh ở đâu đó.”
“Tôi có một câu hỏi, thám tử,” Rhyme nói.
Lại một khoảng im lặng ở đầu dây bên kia, trong khoảng thời gian đó có thể nghe thấy những tiếng không rõ ràng cùng tiếng gió thổi. “Cứ nói đi.”
“Tôi có thể xem qua hồ sơ không?”
“Hồ sơ?” Đây không phải là một câu hỏi, chỉ là một cách trì hoãn để cân nhắc của tay thám tử. “Vụ này đã quá rõ ràng. Chúng tôi đã làm y như sách dạy.”
Sachs nói: “Chúng tôi không hề nghi ngờ chuyện đó. Tuy nhiên, theo chúng tôi biết anh ta từ chối nhận tội.”
“À. Các vị muốn thuyết phục anh ta nhận tội chứ gì? Tôi hiểu rồi. Đó là cách tốt nhất cho anh ta. Tôi chỉ có bản sao, ông trợ lý ủy viên công tố quận nắm giữ tất cả hồ sơ gốc và bằng chứng. Nhưng tôi có thể tìm cho hai vị các báo cáo trong một hay hai ngày nữa, được chứ?”
Rhyme lắc đầu. Sachs nói với anh chàng thám tử: “Anh có thể nói chuyện với bên Lưu trữ và thuyết phục họ đồng ý được không? Tôi sẽ tự tới đó lấy hồ sơ về.”
Tiếng gió lại ập vào đầu dây bên kia, rồi tắt lịm đi đột ngột không kém. Chắc LaGrange vừa chạy vào chỗ nào đó kín gió.
“Được thôi. Tôi sẽ gọi bọn họ ngay.”
“Cảm ơn.”
“Không có gì. Chúc may mắn.”
Sau khi ngắt liên lạc, Rhyme khẽ mỉm cười. “Ý tưởng vụ nhận tội để hưởng giảm án đó quả thực không tồi chút nào.”
“Anh phải hiểu rõ thính giả của mình thì mới làm việc hiệu quả được chứ,” Sachs nói rồi quàng túi lên vai, quay người đi ra cửa.
CHƯƠNG 4
Sachs từ Police Plaza trở về nhanh hơn nhiều so với việc đi bằng phương tiện giao thông công cộng hay phải quan sát đến các loại đèn tín hiệu. Vì cô đã gắn một chiếc đèn nháy của xe cảnh sát lên nóc xe mình, một chiếc Camaro SS đời 1969, đã được sơn lại thành màu đỏ như lửa cho tương xứng với tông màu Rhyme ưa thích cho chiếc xe lăn của anh. Sachs chẳng khác nào một cô nhóc vị thành niên, luôn tận dụng mọi cơ hội để bắt chiếc động cơ phải gầm hết công suất và xé tung lớp cao su của những lốp xe.
“Em đã copy mọi thứ rồi,” cô nói trong khi mang một cặp hồ sơ dày cộp đi vào phòng. Mặt cô hơi nhăn lại khi đặt nó xuống bàn.
“Em vẫn ổn chứ?”
Bị bệnh viêm khớp dày vò cuộc sống, Amelia Sachs phải uống Glucosamin, Chondroitin cùng các thứ thuốc như Advil hay Naprosyn như cơm bữa. Song, cô ít khi chịu thừa nhận tình trạng của mình, sợ rằng cơ quan sẽ bắt cô phải ngồi chết dí sau bàn giấy theo ý kiến của bên y tế nếu phát hiện ra bệnh trạng của cô. Ngay cả những lúc chỉ có cô và Rhyme, cô vẫn luôn kìm nén cơn đau. Nhưng hôm nay cô thừa nhận: “Thỉnh thoảng em lại có cơn đau tồi tệ hơn.”
“Em muốn ngồi không?”
Cô lắc đầu.
“Được rồi. Chúng ta có gì vậy?”
“Những bản báo cáo, danh sách bằng chứng và bản chụp lại các bức ảnh, không có các đoạn video. Chúng bị giữ ở chỗ ủy viên công tố quận.”
“Hãy ghi mọi thứ lên bảng. Anh muốn xem qua mô tả hiện trường vụ án và nhà Arthur.” Cô bước đến bên một tấm bảng trắng và ghi các thông tin lên trong khi Rhyme chăm chú theo dõi.
Vụ sát hại Alice Sanderson
Căn hộ của Alice Sanderson:
• Vết gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội.
• Vụn bánh giòn, loại Pringles không chất béo, vị thịt nướng.
• Dao hiệu Chicago Cutlery (MW).
• Phân bón hiệu TruGro.
• Dấu giày loại Alton EZ-Walk, cỡ 10½.
• Vết găng tay cao su.
• Những ghi chép nhắc đến ‘Art’ và một số điện thoại di động trả trước trong sổ ghi số điện thoại, không còn liên lạc được. Không lần ra được dấu vết (có khả năng về một mối quan hệ tình ái giữa nghi can và nạn nhân). • Hai ghi nhớ: ‘Art – đồ uống’ (tìm thấy ở văn phòng) và ‘Arthur’ (ở nhà riêng).
• Nhân chứng nhìn thấy chiếc Mercedes màu xanh sáng, một phần biển số có các chữ cái NLP.
Xe của Arthur Rhyme:
• Sedan hiệu Mercedes C-Class đời 2004 màu xanh sáng, biển New Jersey số NLP 745, đăng ký dưới tên Arthur Rhyme.
• Vết máu trên cửa và sàn phía sau xe (ADN trùng khớp với nạn nhân).
• Khăn lau dính máu, trùng khớp với bộ khăn tìm thấy tại căn hộ của nạn nhân (ADN trùng khớp với nạn nhân). • Đất với thành phần giống như mẫu đất tại Công viên Clinton State.
Nhà Arthur Rhyme:
• Gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội, có liên hệ với loại tìm thấy tại hiện trường.
• Bánh giòn hiệu Pringles, không chất béo, vị thịt nướng.
• Phân bón hiệu TruGro (tìm thấy trong ga ra).
• Bộ dao Chicago Cutlery, cùng loại MW.
• Giày Alton EZ-Walk cỡ 10½ với dấu giày tương tự như dấu tìm thấy tại hiện trường.
• Thư quảng cáo gửi trực tiếp từ phòng tranh Wilcox, Boston và phòng tranh Mỹ thuật Anderson-Billings, Carmel, đều về các buổi triển lãm tranh của Harvey Prescott.
• Một hộp găng tay cao su Safe-Hand có thành phần cao su tương tự như vết tìm thấy tại hiện trường (tìm thấy trong ga ra).
“Quỷ tha ma bắt, đúng là hoàn toàn đủ để buộc tội,” Sachs nói, lùi xa ra tấm bảng, hai tay chống nạnh. “Một số điện thoại di động trả trước, rồi những ghi chép nhắc đến ‘Art’, nhưng chẳng hề có địa chỉ nơi anh ấy sống hay làm việc. Điều này hiển nhiên khiến người ta nghĩ đến một mối quan hệ… Còn chi tiết nào khác không?”
“Không. Ngoại trừ những bức ảnh.”
“Chiếu chúng lên đi,” vừa nói anh vừa xem qua các ghi chép trên tấm bảng, thầm tiếc vì đã không được tự mình kiểm tra hiện trường theo cách gián tiếp mà hai người vẫn hay thực hiện. Anh sẽ theo dõi hiện trường thông qua một tai nghe cỡ nhỏ và một chiếc máy quay video độ nét cao mà Amelia Sachs mang theo người. Những ghi chép này có vẻ là kết quả của một nhóm điều tra hiện trường có năng lực, nhưng chưa thể được coi là xuất sắc. Chỉ có những bức ảnh của căn phòng nơi hành động gây án xảy ra. Không có bức ảnh nào của những căn phòng khác.
Và cả con dao nữa… Anh nhìn thấy bức ảnh hung khí dính đầy máu nằm dưới gầm giường. Một viên cảnh sát đang nâng một góc diềm đăng ten của tấm ga trải giường lên để có được góc chụp rõ nét. Không có hình chụp con dao khi diềm ga trải giường được buông xuống. Nếu con dao bị che khuất khi diềm ga trải giường được buông xuống, có nghĩa là thủ phạm hoàn toàn có khả năng bỏ sót nó trong lúc vội vã. Nếu con dao vẫn có thể được trông thấy, đồng nghĩa với việc nó đã được để lại một cách có chủ ý để làm tang vật theo một âm mưu sắp đặt trước. Nhưng cảnh sát đã không để ý tới vấn đề này.
Anh xem xét kỹ lưỡng bức ảnh chụp đống vật liệu đóng gói bưu kiện vương vãi trên sàn nhà, có thể đó là những thứ đã được dùng để bảo quản bức tranh của Prescott khi vận chuyển.
“Có gì đó không đúng,” anh lẩm bẩm.
Sachs vẫn đang đứng gần tấm bảng trắng, hai tay chống nạnh, liếc nhìn về phía anh. “Bức tranh,” Rhyme nói tiếp.
“Có vấn đề gì với nó sao?”
“LaGrange đưa ra hai động cơ gây án. Một, Arthur đánh cắp bức tranh của Prescott như một vỏ bọc vì anh ấy muốn giết Alice để loại bỏ cô ta khỏi cuộc đời mình.”
“Phải.”
“Nhưng,” Rhyme tiếp tục, “để làm cho hành động giết người trông có vẻ chỉ là tình cờ xảy ra trong một vụ trộm, một kẻ thủ ác khôn ngoan sẽ không đánh cắp thứ trong căn hộ có thể khiến người ta lần theo tới hắn. Nhớ lại xem, Art từng có một bức tranh của Prescott. Và anh ấy có những bức thư quảng cáo liên quan tới những bức tranh của tác giả này.”
“Đúng vậy, làm thế thật vô lý.”
“Cứ giả thiết rằng anh ấy thực sự muốn có bức tranh đó song không đủ tiền, vậy sẽ vừa dễ dàng vừa an toàn hơn nhiều so với chuyện phải sát hại gia chủ nếu đột nhập vào căn hộ và nhẹ nhàng nẫng nó đi trong lúc chủ nhà vắng mặt.”
Cho dù thái độ của người anh họ không phải là một chi tiết có nhiều sức nặng với Rhyme khi đánh giá sự có tội hay vô tội của ai đó, nhưng cũng làm anh khó hiểu.
“Rất có thể anh ấy không giả vờ. Rất có thể anh ấy thực sự vô tội… Em vừa nói hoàn toàn đủ chứng cứ để buộc tội, đúng không? Không chỉ đủ đâu mà là quá nhiều.”
Anh thầm nghĩ: Hãy thử giả thiết là anh ấy không làm chuyện đó, vậy thì sẽ rất nghiêm trọng. Vì đây không chỉ đơn thuần là một vụ nhầm lẫn danh tính, các bằng chứng trùng khớp một cách quá hoàn hảo… kể cả mối liên hệ không thể phủ nhận giữa máu nạn nhân và chiếc xe của anh ấy. Nếu Art vô tội, chắc chắn có kẻ nào đó đã lao tâm khổ tứ để đẩy anh ấy vào tròng.
“Anh nghĩ anh ấy bị giăng bẫy.”
“Tại sao?”
“Động cơ ư?” Anh lẩm bẩm. “Vào lúc này, chúng ta tạm chưa quan tâm vội. Câu hỏi cần đặt ra là kẻ sát nhân đã làm như thế nào. Nếu trả lời được, nó sẽ dẫn chúng ta tới kẻ nào. Có thể trong quá trình điều tra, sẽ biết lý do tại sao, nhưng hiện giờ đó không phải là ưu tiên. Vì thế bắt đầu với giả thiết rằng một ông X nào đó, đã sát hại Alice Sanderson và đánh cắp bức tranh, sau đó đẩy Arthur vào bẫy. Vậy hắn đã làm chuyện này như thế nào, Sachs?”
Cô nhăn mặt khó chịu, lại là căn bệnh viêm khớp. Cô buộc phải ngồi xuống, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Ông X đã theo dõi cả Arthur và Alice. Hắn nhận ra họ có chung một sở thích về mỹ thuật nên đã bày cách nhử họ cùng tới phòng tranh và tìm hiểu danh tính của họ.”
“Ông X biết cô gái có một bức tranh của Prescott. Hắn thèm khát muốn có một bức nhưng không đủ khả năng nên đã nghĩ tới việc sát hại nạn nhân để chiếm đoạt.”
“Chính xác.” Sachs gật đầu nhìn vào danh sách bằng chứng. “Sau đó, hắn đột nhập vào nhà Arthur, biết được anh ta có ăn bánh giòn Pringles và dùng gel cạo râu Edge, phân bón TruGro cũng như bộ dao Chicago Cutlery. Hắn đánh cắp mỗi thứ một ít để dàn cảnh. Hắn cũng biết Arthur đi loại giày nào vì thế hắn có thể để lại dấu giày và hắn còn khôn khéo lấy một ít đất từ công viên dính vào chiếc xẻng của
Arthur…”
“Bây giờ, chúng ta hãy thử cùng nghĩ về ngày Mười hai tháng Năm. Bằng cách nào đó, ông X biết Art luôn rời chỗ làm sớm vào các ngày thứ Năm để đi chạy trong một công viên vắng vẻ, như vậy anh ấy không thể có bằng chứng ngoại phạm. Hắn đã tới căn hộ của nạn nhân, đâm chết cô gái, đánh cắp bức tranh và gọi từ một chiếc điện thoại trả trước tới cảnh sát, thuật lại những tiếng hét cũng như việc hắn nhìn thấy một người đàn ông mang theo bức tranh chui vào một chiếc xe rất giống với chiếc xe của Arthur, kèm theo một phần biển số. Sau đó, hắn tới nhà Arthur ở New Jersey và để lại những vết máu, đất, chiếc khăn lau và chiếc xẻng.”
Chuông điện thoại reo. Người gọi là luật sư bào chữa cho Arthur. Giọng ông ta tỏ ra khó chịu khi thuật lại những chi tiết ông trợ lý ủy viên công tố quận đã giải thích. Ông ta không cung cấp được gì có ích, không những vậy còn vài lần thuyết phục họ ép Arthur nhận tội. “Bọn họ sẽ kết án anh ta,” ông ta nói. “Hãy thuyết phục anh ta nhận tội. Tôi sẽ cố giúp giảm án xuống chỉ còn mười lăm năm.”
“Chừng đó năm ngồi tù sẽ hủy hoại anh ấy,” Rhyme nói.
“Vẫn còn hơn một án chung thân.”
Rhyme lạnh lùng chào tạm biệt rồi tắt máy. Một lần nữa anh lại nhìn chằm chằm vào tấm bảng ghi các bằng chứng.
Rồi một điều gì đó chợt lóe lên trong đầu anh.
“Có chuyện gì thế anh?” Sachs nhận thấy đôi mắt anh ngước lên trần nhà.
“Có thể trước đây hắn đã từng làm chuyện tương tự thì sao?”
“Ý anh là gì?”
“Giả thiết rằng động cơ của hắn là đánh cắp bức tranh, thì đây không phải là phi vụ hắn làm một lần trong đời. Nếu hắn cuỗm một bức Renoir[13] đáng giá mười triệu thì có thể lặn mất tăm mãi mãi. Nhưng vụ này có vẻ như một toan tính lâu dài. Thủ phạm tìm ra một phương thức hoàn hảo để thoát thân sau khi gây tội ác. Và hắn sẽ tiếp tục làm vậy cho tới khi bị bắt.”
“Phải, rất thuyết phục. Vậy là chúng ta cần tìm kiếm các vụ trộm tranh khác?”
“Không. Tại sao hắn chỉ trộm tranh không thôi? Hắn có thể trộm bất cứ thứ gì. Nhưng sẽ luôn có một chi tiết chung.”
Sachs cau mày trước khi đưa ra câu trả lời. “Án mạng.”
“Chính xác. Thủ phạm đã cài bẫy một người khác, nên hắn cần phải sát hại các nạn nhân vì họ có thể nhận diện hắn. Em hãy gọi cho ai đó ở phòng Án mạng, gọi đến nhà riêng nếu cần. Chúng ta đang tìm kiếm những vụ có bối cảnh tương tự: một tội ác làm nền, có thể là một vụ trộm, nạn nhân bị sát hại và những bằng chứng rất chi tiết tại hiện trường.”
“Có thể cả một mối liên hệ nào đó cho phép xác định được ADN.”
“Khá lắm,” anh nói rất phấn chấn với ý nghĩ có thể họ sắp tìm ra điều gì đó. “Nếu hắn vẫn trung thành với công thức của mình, sẽ có một nhân chứng nặc danh gọi đến 911 cung cấp những thông tin nhận dạng rất cụ thể.”
Cô đi tới chiếc bàn làm việc rồi ngồi xuống bấm số thực hiện cuộc gọi.
Rhyme ngả đầu ra sau trên chiếc xe lăn, quan sát người đồng nghiệp đang gọi điện thoại. Anh nhận ra có vết máu đã khô dính trên móng tay cô. Phải tinh ý mới nhìn thấy một vết xước nhỏ ngay phía trên tai, bị che lấp một phần dưới mái tóc thẳng màu đỏ. Sachs thường xuyên gãi đến xước da đầu và cắn móng tay, gây ra cho mình những tổn thương nho nhỏ vừa là một thói quen vừa là một dấu hiệu cho thấy cô đang căng thẳng.
Cô đang gật đầu lia lịa, đôi mắt tập trung cao độ trong khi ghi chép. Trái tim của anh đập mạnh hơn, dù anh không thể trực tiếp cảm nhận được điều ấy. Cô đã tìm hiểu được điều gì đó quan trọng. Chiếc bút đang dùng hết mực. Ném vội nó xuống sàn, cô hối hả vớ lấy một chiếc bút khác nhanh như lúc rút súng tại các buổi thi bắn trong điều kiện tác chiến.
Sau mười phút, cô gác máy.
“Rhyme, anh nghe nhé.” Cô ngồi xuống một chiếc ghế đan bằng liễu gai ngay cạnh anh. “Em đã nói chuyện với Flintlock[14].”
“À, một lựa chọn tuyệt vời.”
Joseph Flintick, với biệt danh Flintlock, khiến người ta hồi tưởng đến những khẩu súng cổ xưa, đã làm thám tử điều tra án mạng từ khi Rhyme còn là lính mới vào nghề. Ông già từng trải này biết rõ gần như toàn bộ các vụ án mạng xảy ra ở thành phố New York và khu vực lân cận trong suốt thâm niên phục vụ của mình. Ở tuổi đáng ra đã phải đi thăm cháu, Flintlock vẫn làm việc vào ngày Chủ nhật. Rhyme không hề ngạc nhiên về điều đó.
“Em cho ông ấy biết tất cả và ông ấy ngay lập tức nhớ ra hai vụ rất có thể khớp với những gì chúng ta đang tìm. Một vụ đánh cắp các đồng xu hiếm có giá trị khoảng năm mươi ngàn đô la. Vụ còn lại là một vụ cưỡng dâm.”
“Cưỡng dâm?” Chi tiết này góp thêm một khía cạnh khó lường và đáng lo ngại hơn cho vụ án. “Phải. Trong cả hai vụ, một nhân chứng nặc danh đã gọi điện thoại đến thông báo và cung cấp một số thông tin đóng vai trò rất quan trọng để nhận dạng thủ phạm, tương tự như vị nhân chứng đã gọi đến mô tả về chiếc xe của anh họ anh.”
“Và tất nhiên cả hai người gọi điện đều là đàn ông?”
“Chính xác. Chính quyền thành phố đã đặt giải thưởng song không ai trong hai người này lộ diện.” “Thế còn các bằng chứng?”
“Flintlock không nhớ chính xác. Nhưng ông ấy nói là luôn có các dấu vết để lại cùng các mối liên hệ rất chặt chẽ. Năm hay sáu bằng chứng theo lớp được phát hiện tại hiện trường và nhà nghi phạm, giống như những gì đã xảy ra với anh họ anh. Trong cả hai trường hợp, cảnh sát đều tìm thấy máu nạn nhân dính trên khăn lau hay một trang phục lấy từ nơi ở của nạn nhân.”
“Anh dám cược rằng không hề phát hiện ra vết dịch sinh học nào trùng khớp trong vụ cưỡng dâm.” Phần lớn những kẻ cưỡng dâm bị kết tội do để lại những dấu vết của một trong ba thứ dịch sinh học: tinh dịch, nước bọt hay mồ hôi.
“Không. Không hề có.”
“Những người gọi điện thoại nặc danh, có phải lúc nào họ cũng cho biết một phần biển đăng ký xe, đúng không?”
Cô nhìn vào bản ghi chép. “Chính xác, sao anh biết?”
“Vì gã thủ phạm của chúng ta cần câu giờ. Nếu hắn cung cấp toàn bộ biển số, ngay lập tức cớm sẽ lao thẳng đến nhà kẻ làm vật thí mạng, như thế hắn sẽ không kịp bố trí tang vật tại đó. Kẻ sát nhân đã lường trước mọi thứ. Tất cả những người bị tình nghi đều phủ nhận phải không?”
“Phải. Họ đều cố thử vận may với bồi thẩm đoàn nhưng đều thua cuộc.”
“Không, chuyện này quá trùng hợp,” Rhyme lẩm bẩm. “Anh muốn xem qua…”
“Em đã nhờ người lấy hồ sơ từ kho lưu trữ các vụ đã thụ lý xong.”
Anh bật cười. Như thường lệ, cô lại đi trước anh một bước. Anh nhớ lần đầu tiên hai người gặp nhau nhiều năm trước, Sachs lúc đó là một nhân viên tuần tra đã hoàn toàn vỡ mộng và sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp cảnh sát. Còn Rhyme đang muốn từ bỏ nhiều hơn thế. Kể từ lúc đó, họ đã cùng nhau đi một đoạn đường thật xa.
Rhyme nói vào micro điều khiển. “Nhận lệnh, gọi cho Sellitto.” Anh đang thực sự bị kích động. Anh có thể cảm nhận được cảm giác phấn khích không lẫn vào đâu được, một tâm trạng hồi hộp đến run người mỗi khi sắp bước vào một cuộc săn lùng. Trả lời cái điện thoại chết tiệt đó đi chứ, anh bực bội thầm nghĩ, và lần đầu tiên hoàn toàn quên bẵng nước Anh.
“Chào, Linc.” Giọng nói đậm chất Brooklyn của Sellitto vang lên khắp căn phòng. “Có chuyện gì vậy anh bạn?”
“Nghe này. Tôi có một rắc rối.”
“Còn tôi đang bận ngập cổ đây.”
Gần đây tâm trạng đồng đội cũ của Rhyme, Trung úy thám tử Lon Sellitto, không được tốt. Một vụ án lớn mà anh ta tham gia vừa bị chìm xuồng. Vladimir Dienko, tên đồ tể của một trùm xã hội đen Nga ở khu Brighton Beach, đã bị truy tố vào năm trước với các tội danh tống tiền và giết người. Rhyme đã hỗ trợ ban chuyên án cùng một số chuyên gia pháp y khác. Nhưng mọi người đều sững sờ khi vụ truy tố Dienko và ba đồng phạm của gã bị bãi bỏ vào hôm thứ Sáu, vì tất cả nhân chứng đều lật lại lời khai hoặc biến mất tăm. Sellitto cùng các đặc vụ liên bang đã bận bù đầu suốt dịp cuối tuần cố tìm ra các nhân chứng và người cung cấp tin mới.
“Tôi sẽ nói nhanh thôi.” Anh kể lại những gì đã tìm ra về vụ anh họ mình cũng như hai vụ án cưỡng dâm và đánh cắp tiền xu hiếm.
“Hai vụ khác? Lạ lùng thật. Thế anh họ anh nói sao?”
“Tôi chưa kịp gặp. Nhưng anh ấy phủ nhận tất cả. Tôi muốn điều tra lại vụ này.”
“Điều tra lại?”
“Tôi không tin Arthur gây ra vụ đó.”
“Anh ta là anh họ anh. Tất nhiên, anh không nghĩ anh ta là thủ phạm. Nhưng anh có bằng chứng gì không?”
“Giờ thì chưa. Chính vì thế tôi cần anh giúp. Tôi cần vài người.”
“Tôi ngập đến tận cổ với vụ Dienko ở Brighton Beach rồi.”
“Vụ này có thể to chuyện đấy, Lon. Ngoài ba vụ án có mùi sắp đặt tang vật kia, tôi dám cược còn có nhiều vụ khác nữa. Tôi biết anh khoái mấy câu cửa miệng của anh đến mức nào, Lon. Như thế nào nhỉ, năm từ ‘tóm cổ kẻ sát nhân’ không làm anh động lòng sao?”
Anh muốn nhét vào tai tôi bất cứ câu nào thì tùy, Linc, tôi bận rồi.”
“‘Tóm cổ kẻ sát nhân’ là một cụm từ, Lon. Một câu thì phải có đủ cả chủ ngữ lẫn vị ngữ.”
“Cái gì cũng được. Tôi đang cố cứu vãn vụ đám người Nga. Chẳng có ai ở Tòa thị chính hay Cục Điều tra liên bang tỏ ra vui vẻ với những gì vừa xảy ra.”
“Tôi hoàn toàn thông cảm với họ. Nhưng hãy cho điều tra lại vụ này đi.”
“Đó là việc của bên Án mạng. Tôi thuộc Ban Trọng án.”
Ban Trọng án của Sở Cảnh sát New York không điều tra các án mạng thông thường, nhưng câu viện cớ của Sellitto khiến Rhyme bật cười chua chát. “Anh sẽ nhảy vào các vụ điều tra án mạng khi nào anh muốn làm thế. Từ khi nào anh bắt đầu tôn trọng các nguyên tắc của ban vậy?”
“Tôi cho anh hay những gì tôi sẽ làm,” anh chàng thám tử lầm bầm. “Có một tay đại úy vẫn làm việc hôm nay, ở khu trung tâm – Joseph Malloy. Biết ông ta chứ?”
“Không.”
“Em biết,” Sachs nói. “Một người đàn ông cứng rắn.”
“Chào, Amelia. Cô vẫn sống sót được với đợt lạnh hôm nay sao?”
Sachs bật cười. Rhyme cằn nhằn.
“Vui quá nhỉ, Lon. Ông ta là gã quái nào thế?”
“Khôn lanh. Không bao giờ thỏa hiệp. Không hề có khiếu hài hước. Anh sẽ thích ông ta.” “Ngày nay có quá nhiều tay hề lảng vảng khắp nơi rồi,” Rhyme lẩm bẩm.
“Ông ta rất nghiêm túc. Một tín đồ của công lý thực thụ. Vợ ông đại úy này đã bị giết trong một vụ đột nhập tư gia năm hay sáu năm trước.”
Sachs nhăn mặt. “Tôi không hề biết chuyện đó.”
“Phải và ông ta tập trung một trăm năm mươi phần trăm vào công việc. Dân tình đồn rằng ông ta đang nhắm tới một vị trí trong văn phòng ở tầng trên. Hoặc thậm chí ngay cửa kế bên.” Tòa thị chính.
Sellitto nói tiếp: “Thử gọi cho ông ta xem ông ta có cho anh được vài người không.” “Tôi muốn chính anh cho người.”
“Quên đi, Linc. Tôi đang phải chỉ huy một chiến dịch giám sát bí mật liên tục. Một cơn ác mộng. Nhưng hãy cho tôi biết diễn biến tình hình và…”
“Tôi phải ngắt máy đây, Lon… Nhận lệnh, ngắt liên lạc.”
“Anh đã cúp máy ngay trước mũi anh ta đấy,” Sachs nhận xét.
Rhyme khẽ làu bàu rồi ra lệnh gọi điện thoại cho Malloy. Nếu rơi vào hộp thư thoại lần nữa, chắc hẳn anh sẽ phát khùng.
Nhưng viên đại úy trả lời ngay sau tiếng chuông thứ hai. Lại một sĩ quan cảnh sát cao cấp nữa làm việc ngày Chủ nhật. Rhyme cũng làm như vậy tương đối thường xuyên và vụ ly dị là bằng chứng quá rõ ràng. “Malloy đây.”
Rhyme xưng tên.
Một thoáng ngập ngừng. Rồi: “Thế này nhé, Lincoln… chúng ta chưa từng gặp nhau. Nhưng tất nhiên tôi biết về anh.”
“Tôi đang ở bên cạnh một trong các thám tử của ông, Amelia Sachs. Chúng ta đang nói qua loa ngoài, Malloy.”
“Buổi chiều vui vẻ, thám tử Sachs,” giọng nói lạnh lùng từ đầu dây bên kia vang lên. “Tôi có thể làm gì cho hai người?” Rhyme nói vắn tắt về vụ án và lý do khiến anh tin Arthur bị cài bẫy. “Anh họ anh? Rất tiếc phải nghe điều này.” Nhưng giọng ông ta chẳng hề lộ chút tiếc rẻ nào. Malloy có thể đang lo Rhyme muốn ông ta can thiệp giúp giảm nhẹ các tội danh, nhẹ nhất là tình cờ có mặt không đúng lúc. Còn xa nhất là viễn cảnh một cuộc điều tra nội bộ và giới truyền thông. Tất nhiên, ngược lại cũng chẳng hay ho gì vì ông không giúp người đã đem đến những trợ giúp vô giá cho Sở Cảnh sát New York, hơn nữa lại là người tàn tật. Cư xử đúng đắn đang là mốt thời thượng trong chính quyền thành phố. Nhưng rõ ràng những gì Rhyme đề nghị còn rắc rối hơn nhiều. Anh nói thêm: “Tôi tin rất có khả năng cũng thủ phạm này đã gây ra nhiều tội ác khác.” Rồi cung cấp chi tiết về vụ đánh cắp đồng xu và vụ cưỡng dâm.
Vậy là không chỉ một mà có tới ba người đã bị bắt oan bởi các nhân viên Sở Cảnh sát New York của Malloy. Có nghĩa là trên thực tế ba vụ án có liên quan chưa được phá xong và kẻ thủ ác thực sự vẫn đang lọt lưới. Nếu không giải quyết êm thấm vụ này có thể sẽ lại xuất hiện một cơn ác mộng nữa với phản ứng của công chúng.
“Quả thật rất lạ. Không bình thường… Tôi biết sự trung thành của anh với anh họ mình…” “Tôi có lòng trung thành với sự thật, Malloy,” Rhyme nói, chẳng hề bận tâm liệu câu trả lời của mình có khoa trương quá không.
“Được thôi…”
“Tôi chỉ cần một vài cảnh sát giúp chúng tôi tìm hiểu lại bằng chứng trong các vụ án kể trên. Có thể cả điều tra một chút.”
“Ồ, tôi hiểu… Thế này nhé, rất xin lỗi anh, Lincoln. Đơn giản là chúng tôi không có người cho những chuyện kiểu này. Nhưng tôi sẽ đề cập việc này với ông phó giám đốc sở ngay ngày mai.” “Anh nghĩ có thể gọi cho ông ấy ngay bây giờ không?”
Lại một thoáng chần chừ nữa. “Không. Hôm nay ông ấy có việc bận.”
Ăn trưa. Tiệc ngoài trời với thịt nướng. Hoặc cũng có thể là một suất diễn vào sáng Chủ nhật của Young Frankenstein hay Spamalot.
“Tôi sẽ đề cập đến yêu cầu của anh trong cuộc giao ban. Đây là một trường hợp lạ lùng. Anh không nên làm gì cho tới khi tôi hoặc ai đó gọi lại.”
“Tất nhiên rồi.”
Hai người gác máy. Rhyme và Sachs cùng im lặng trong vài giây.
Một trường hợp lạ lùng…
Rhyme nhìn đăm đăm lên chiếc bảng trắng, trên đó là bức ảnh hiện trường chụp thi thể nạn nhân đang nằm ở tư thế lúc từ giã cuộc sống.
Sachs lên tiếng hỏi, phá vỡ sự im lặng: “Không biết Ron đang làm gì?”
“Sao chúng ta không thử tìm hiểu xem nhỉ?” Anh dành cho cô một nụ cười chân thành hiếm hoi. Cô lấy điện thoại di động ra, bấm nút quay số nhanh, rồi bật loa ngoài.
Một giọng trẻ trung vang lên giữa tiếng lạo xạo: “Vâng, thưa bà thám tử.”
Sachs đã tìm mọi cách để cậu sĩ quan tuần tra trẻ tuổi Ron Pulaski gọi cô là ‘Amelia’ từ nhiều năm nay, nhưng chẳng bao giờ cậu ta quen cách xưng hô này.
“Cậu đang nói qua loa ngoài đấy, Pulaski,” Rhyme cảnh báo.
“Vâng, thưa ông.”
Từ ‘ông’ làm Rhyme thực sự không thoải mái, nhưng lúc này anh chẳng còn tâm trạng để chỉnh cậu thanh niên.
“Ông vẫn khỏe chứ?” Pulaski hỏi.
“Ổn cả,” Rhyme đáp. “Ngay lúc này cậu đang làm gì vậy? Việc đó quan trọng không?” “Ngay lúc này ấy à?”
“Tôi nghĩ tôi vừa hỏi xong.”
“Rửa bát. Jenny và tôi vừa dùng bữa với vợ chồng anh trai tôi xong. Chúng tôi đã cùng lũ trẻ tới chợ bán đồ nông sản. Rất tuyệt. Ông và thám tử Sachs đã bao giờ…?”
“Vậy là anh đang ở nhà và không bận việc gì?”
“Có đấy. Đống bát đĩa.”
“Bỏ chúng đấy. Tới đây ngay.”
Rhyme, một dân thường, không hề có quyền ra lệnh cho bất cứ người nào của Sở Cảnh sát New York, cho dù là đám cảnh sát giao thông. Nhưng Sachs là một thám tử cấp ba, cô không cần yêu cầu anh chàng này giúp họ, cô hoàn toàn có thể ra lệnh điều động. “Chúng tôi cần cậu, Ron, hôm nay và có thể cả ngày mai.”
Ron Pulaski thường xuyên làm việc với Rhyme, Sachs và Sellitto. Tham gia điều tra cho nhà thám tử pháp y nổi danh đã nâng cao không ít vị thế của cậu sĩ quan trẻ trong ban. Rhyme tin chắc cấp trên của cậu ta sẽ đồng ý để cậu làm việc cho họ trong vài ngày, chừng nào ông ta còn chưa gọi cho Malloy hay bất cứ ai ở Sở và phát hiện thực ra chẳng có vụ điều tra nào hết.
Pulaski cho Sachs tên của viên trưởng đồn. Sau đó hỏi: “Ồ, thưa ông, Trung úy Sellitto có tham gia vụ này không? Tôi có nên gọi và phối hợp với ông ấy không?”
“Không cần,” cả Rhyme và Sachs cùng buột miệng.
Một chút im lặng, rồi Pulaski nói với vẻ không chắc chắn: “Tôi sẽ có mặt sớm nhất có thể. Chỉ là, liệu tôi có thể lau khô mấy cái ly trước khi đi được không? Jenny ghét nhất là vết nước ố trên ly.”
CHƯƠNG 5
Những ngày Chủ nhật là những ngày tuyệt vời nhất.
Vì trong hầu hết những ngày Chủ nhật tôi đều được tự do làm việc mình thích.
Tôi thích sưu tập.
Sưu tập mọi thứ mà bạn có thể hình dung ra. Chỉ cần thứ đó thu hút sự chú ý của tôi và tôi có thể nhét được nó vào ba lô hay tủ của mình. Tôi không phải là một con chuột cống chuyên nhặt nhạnh đồ rác rưởi. Lũ gặm nhấm đó luôn để lại thứ gì đó để thế chỗ cho vật chúng tha đi. Còn một khi tôi tìm thấy thứ gì đó, nó sẽ là của tôi và tôi sẽ không bao giờ để nó rời khỏi tay mình. Không bao giờ.
Chủ nhật là ngày ưa thích của tôi. Bởi vì đó là ngày nghỉ của đám đông, những mười sáu chữ số gọi thành phố đáng kinh ngạc này là nhà của họ. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, luật sư, nghệ sĩ, vận động viên đua xe đạp, đầu bếp, trộm cướp, người vợ, người tình (tôi cũng sưu tập cả DVD nữa), chính trị gia, người tập chạy bộ và mục sư…
Thật khó tin nổi số lượng những thứ mà các mười sáu chữ số đó thích làm. Họ lang thang như những chú linh dương đầy hạnh phúc trong thành phố và các công viên ở New Jersey, Long Island và khu vực phía bắc tiểu bang New York.
Và tôi tự do săn đuổi họ.
Đó cũng chính là việc tôi đang làm lúc này, sau khi đã bỏ qua những trò giải trí nhạt nhẽo khác của ngày Chủ nhật – tiệc tùng, phim ảnh và cả một lời mời đi chơi golf. À, nhu cầu tâm linh cũng luôn là công việc ưa thích của những chú linh dương, tất nhiên với điều kiện sau lễ cầu nguyện tại nhà thờ phải là một bữa ăn muộn thịnh soạn hoặc chín lỗ golf đầy cám dỗ.
Săn đuổi…
Ngay lúc này tôi đang nhớ lại mục tiêu gần đây nhất, những ký ức về nó đã ghi sâu vào óc tôi: mục tiêu 3895 – 0967 – 7524 – 3630, một con mồi rất tuyệt, rất hấp dẫn. Tất nhiên cho đến khi con dao chen vào. Alice 3895 trong chiếc váy hồng duyên dáng làm tôn lên bộ ngực đầy đặn, vòng eo mời gọi (tôi cũng nghĩ tới cô nàng như với cô ả 38 – 26 – 36, tất cả chỉ là trò đùa thôi). Cô ta khá xinh, mang mùi hương của các loài hoa châu Á.
Kế hoạch của tôi với cô nàng cũng chỉ vì liên quan đến bức tranh của Harvey Prescott mà Alice 3895 đã vợt được trên thị trường một cách may mắn (hay không may, như kết cục của cô nàng). Sau khi tôi biết chắc cô nàng đã nhận được bức tranh, tôi định lôi cuộn băng dính ra và sau đó tận hưởng vài giờ vui vẻ với nàng trong phòng ngủ. Nhưng cô nàng đã làm hỏng tất cả. Đúng lúc tôi áp sát đến sau lưng, cô nàng quay lại và gào lên như gặp ác mộng. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài cắt phanh cổ của ả ra như cắt một quả cà chua, giật lấy bức Prescott dễ thương của tôi và chuồn ra ngoài, qua cửa sổ, như người ta vẫn nói.
Tôi không thể không nghĩ đến cô nàng xinh xắn Alice 3895 trong chiếc váy hồng hở hang, với làn da thoang thoảng mùi hoa như không khí trong một phòng trà. Nói cho cùng, tôi cần một người đàn bà. Tôi rảo bước dọc những hè phố, ngắm nhìn các mười sáu chữ số qua kính râm của mình. Ngược lại, họ không để ý tới tôi, đúng như tôi muốn. Manhattan là nơi tuyệt vời nhất nếu muốn được người khác coi là vô hình.
Tôi rẽ qua góc phố, đi dọc theo một con hẻm, mua vài thứ lặt vặt bằng tiền mặt, tất nhiên rồi, sau đó đi vào một khu vực vắng vẻ của thành phố, trước đây là khu công nghiệp, giờ trở thành khu dân cư và thương mại, gần quận SoHo. Ở đây thật yên tĩnh. Rất tốt. Tôi muốn mọi thứ thật êm đềm cho mục tiêu Myra Weinburg: 9834 – 4452 – 6740 – 3418, một mười sáu chữ số mà tôi đã để mắt tới một thời gian.
Myra 9834, tôi biết rất rõ cô nàng. Các dữ liệu đã nói cho tôi tất cả (à, lại là cuộc tranh cãi đó: dữ liệu… số nhiều hay số ít nhỉ? Dữ liệu đã nói hay Các dữ liệu đã nói? Từ điển Merriam-Webster cam đoan cả hai cách đều đúng. Về phần mình, tôi có xu hướng của người theo chủ nghĩa thuần túy: Các dữ liệu. Nhưng trước mặt người khác tôi cố hết sức để sử dụng ở số ít giống như phần lớn xã hội vẫn dùng và hy vọng rằng mình không bị nói hớ. Ngôn ngữ giống như một dòng sông, nó chảy về nơi nó muốn, nếu định bơi ngược lại dòng chảy đó bạn sẽ bị chú ý ngay lập tức. Tất nhiên đó là điều cuối cùng trên đời tôi muốn xảy ra).
Bây giờ, đến lượt các dữ liệu về Myra 9834: Cô nàng sống trên phố Waverly Place, khu Greenwich Village, trong một tòa nhà mà người chủ sở hữu đang muốn bán dưới dạng bất động sản thương mại qua một kế hoạch thu hồi tài sản (tôi biết chuyện này mặc dù những người thuê nhà khốn khổ vẫn chưa hề hay biết và nếu nhìn nhận từ góc độ lợi tức và tín dụng, hầu hết bọn họ đều hoàn toàn bị bịp).
Cô nàng có mái tóc sẫm màu, với vẻ đẹp lạ lẫm – Myra 9834 đã tốt nghiệp Đại học New York và làm
việc tại một công ty quảng cáo ở New York được vài năm. Mẹ vẫn còn sống nhưng ông bố thì đã chết. Kẻ sát nhân bị dính đạn và trốn mất, lệnh truy nã vẫn còn treo lơ lửng từng ấy năm. Cảnh sát không bao giờ đặt dấu chấm hết cho những tội ác kiểu đó.
Lúc này Myra 9834 đang không có bạn trai và gặp trục trặc trong các mối quan hệ bạn bè, bằng chứng là ngày sinh nhật lần thứ ba mươi hai gần đây của cô nàng chỉ được kỷ niệm với một suất thịt lợn nấu kiểu Bắc Kinh được mang tới từ nhà hàng Hunan Dynasty ở đường West Fourth (một lựa chọn không tồi) và một chai Caymus Conundrum trắng (trị giá hai mươi tám đô la tại cửa hàng Village Wines luôn bán giá cắt cổ). Sau đó, cô nàng tới Long Island hôm thứ Bảy, tổ chức tiệc với những thành viên còn lại trong gia đình và người quen, hóa đơn thanh toán nặng trịch, với Brunello đổ ào ào trong nhà hàng Garden City (một nơi được tờ Newsday đánh giá rất cao). Tất cả làm nên một đêm tuyệt hảo cho tình thân ái, tôi cho là vậy.
Myra 9834 đi ngủ với một chiếc áo lót Victoria’s Secret T, tôi suy luận ra vì cô nàng sở hữu loại đó với ngực của cô quá to. Cô nàng luôn dậy sớm, ăn sáng với một chiếc bánh ngọt kiểu Đan Mạch của hãng Entenmann (không bao giờ là loại ít chất béo, tôi thực sự tự hào về cô vì chuyện này) cùng một cốc cà phê Starbucks tự pha. Cô nàng hiếm khi tới các quán cà phê. Tôi thực sự thích tự mình quan sát con linh dương đã nhắm đến, các cửa hàng cà phê Starbucks giống như những đồng cỏ, là nơi tốt nhất để làm việc đó. Khoảng tám giờ hai mươi phút, cô nàng rời khỏi căn hộ tới chỗ làm ở khu Midtown[15], cô làm một nhân viên kế toán cho công ty quảng cáo Maple, Reed & Summers ở đó.
Tôi tiếp tục thong thả bước đi, đầu đội chiếc mũ của vận động viên bóng chày (thống kê được có đến 87,3% đàn ông ở thành phố này dùng nó làm vật đội đầu). Như mọi khi, hai mắt nhìn xuống đất. Nếu bạn nghĩ một chiếc vệ tinh không thể ghi lại được khuôn mặt đang cười của bạn từ trên cao ba mươi dặm, hãy nghĩ lại đi. Đâu đó từ trên không trung, trong số mười hai máy chủ bố trí khắp Trái Đất, đang có hàng trăm bức ảnh chụp bạn. Hãy hy vọng rằng khi họ mở ống kính chụp, điều bạn đang làm chỉ là đưa tay lên che nắng trong lúc ngước nhìn một chiếc khinh khí cầu của hãng Goodyear lơ lửng trên không hay đang liếc trộm khuôn mặt ai đó vừa xuất hiện sau cửa sổ.
Tôi không chỉ quan tâm tới những chi tiết thường ngày của họ mà còn những gì nằm trong bộ óc của các mười sáu chữ số, Myra 9834 cũng không là ngoại lệ. Cô đi uống cùng bạn bè khá đều đặn và rất hay trả tiền cho cả đám, quá thường xuyên theo quan điểm của tôi. Chắc hẳn cô nàng đang cố mua cảm tình của bọn họ, đúng không, bác sĩ Phil[16]? Chắc chắn cô nàng từng bị mụn trứng cá vào giai đoạn vị thành niên khủng khiếp. Cho tới tận bây giờ thỉnh thoảng cô nàng vẫn hay đi khám da liễu, mặc dù hóa đơn thanh toán cũng khá nhẹ nhàng, có lẽ cô nàng chỉ muốn lột da mặt (hoàn toàn không cần thiết từ những gì tôi đã nhìn thấy) hay kiểm tra để đảm bảo các đốm mụn không lén lút quay trở lại như những ninja trong đêm.
Tiếp theo, sau ba chầu Cosmopolitan với mấy cô bạn, hay ghé qua một câu lạc bộ thể dục thẩm mỹ, cô quay về nhà gọi điện thoại, làm bạn với chiếc máy tính và một gói thuê bao truyền hình cáp phổ thông, không phải gói cao cấp. Tôi rất thích lần theo sở thích xem truyền hình của cô nàng, việc lựa chọn chương trình thể hiện sự trung thành cao độ, cô nàng lập tức chuyển kênh khi xê ri Seinfeld, đổi kênh phát sóng và từng bỏ qua hai cuộc hẹn hò để dành cả đêm cho Jack Bauer.
Kế đó là giờ đi ngủ, đôi khi cô nàng tự cho phép mình giải trí một chút (Việc mua số lượng lớn pin loại AA chứng tỏ chuyện này, vì máy ảnh kỹ thuật số lẫn chiếc iPod của cô nàng đều dùng pin sạc). Tất nhiên, đây là những dữ liệu về cuộc sống ngày thường của cô nàng. Nhưng hôm nay là một ngày Chủ nhật kỳ diệu và vốn dĩ những ngày Chủ nhật luôn khác biệt. Đó là lúc Myra 9834 leo lên chiếc xe đạp yêu quý và cũng rất mắc tiền của mình để ra ngoài lượn quanh phố phường thành phố. Các tuyến hành trình luôn thay đổi. Lộ trình có thể đi qua Công viên Trung tâm, cũng như Công viên Riverside và Công viên Prospect ở khu Brooklyn. Nhưng dù là tuyến đường nào, Myra 9834 luôn dừng tại một điểm bất di bất dịch vào cuối tua đạp xe của cô nàng: nhà hàng Hudson’s Gourmet Deli ở Broadway. Sau khi đã có đồ ăn thức uống, cô nàng chọn con đường nhanh nhất bằng xe đạp để quay về nhà, con đường đó, do sự điên rồ của giao thông tại khu thương mại, lại đi ngang qua chính nơi tôi đang đứng lúc này.
Tôi đang đứng trước mặt một khoảng sân rộng dẫn tới căn nhà của Maury và Stella Griszinski (tưởng tượng xem, họ mua mười năm trước với giá hai trăm bảy mươi tám nghìn đô la). Vợ chồng Griszinski hiện không có nhà, họ đang tận hưởng chuyến du xuân ở Scandinavia. Họ đã ngừng không nhận thư báo, không thuê người tưới nước và trông coi vật nuôi. Cũng không hề có hệ thống báo động trong nhà.
Vẫn chưa thấy bóng dáng cô nàng. Chẳng lẽ đã có gì xảy ra sao? Rất có thể tôi đã sai lầm. Nhưng tôi hiếm khi sai.
Năm phút chờ đợi nặng nề trôi qua. Tôi nhớ lại trong đầu những hình ảnh về bức tranh của Harvey Prescott từ bộ sưu tập. Tôi khoan khoái ngắm nhìn chúng trong tưởng tượng trước khi quay lại thực tế. Liếc nhìn xung quanh và cố cưỡng lại nỗi thèm muốn tột độ đang thôi thúc, tôi bước tới chiếc thùng rác đầy ắp, khám phá xem bên trong là những báu vật quý giá nào.
Đứng dưới bóng râm… Tránh xa hàng rào. Nhất là vào những thời điểm như thế này và tránh khỏi tầm
nhìn của các ô cửa sổ bằng mọi giá. Hẳn bạn sẽ phải ngạc nhiên khi biết sức hấp dẫn của việc nhìn trộm và số người đang theo dõi bạn từ phía sau những khung cửa kính, trong khi bạn thấy chúng chỉ là những tia sáng phản chiếu chói mắt.
Cô nàng đang ở đâu? Ở đâu?
Nếu tôi không sớm chộp được mục tiêu của mình…
Và rồi, a, tôi thấy cảm giác đắc thắng bùng lên bên trong cơ thể khi thấy cô nàng: Myra 9834 đây rồi. Cô đang đạp xe thong thả, líp xe cài ở vòng số thấp, đôi chân tuyệt đẹp nhịp nhàng chuyển động. Một chiếc xe đạp trị giá hơn một nghìn đô la, còn đắt giá hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của tôi. A, bộ đồ mặc đi xe đạp của cô mới bó sát làm sao. Nhịp thở tôi nhanh dần. Tôi khao khát cô nàng biết chừng nào.
Liếc mắt nhanh về hai đầu phố. Vắng tanh, ngoại trừ người con gái đang đạp xe tới, lúc này đã đến rất gần, khoảng cách chỉ còn chín mét. Tôi mở chiếc điện thoại di động vẫn tắt ra áp vào tai, chiếc túi đựng đồ ăn của hãng Food Emporium đung đưa trong không khí. Tôi liếc về phía cô nàng lần nữa. Bước tới mép vỉa hè, trong khi vẫn sôi nổi tiếp tục cuộc đàm thoại tưởng tượng, tôi dừng lại đợi cô nàng lao tới. Cau mày, nhìn lên. Rồi mỉm cười. “Myra?”
Cô nàng đạp chậm lại. Bộ đồ đi xe bó vào người thật sát. Kiềm chế, kiềm chế… Hành động thật thận trọng.
Không có ai trên những khung cửa sổ nhìn ra phố. Cũng không có ai khác trên đường. “Myra Weinburg?”
Chiếc xe phanh két lại. “Xin chào.” Câu chào cùng bộ dạng làm ra vẻ nhớ ra gì đó là hành động tất yếu mà người ta làm để không tỏ ra bối rối.
Tôi hoàn toàn nhập vai một doanh nhân trưởng thành trong khi bước tới bên cô nàng, đề nghị người bạn tưởng tượng gọi lại sau và gấp chiếc điện thoại lại.
Cô gái đáp: “Tôi xin lỗi.” Kèm theo một nụ cười lúng túng. “Anh là?”
“Mike. Tôi chính là anh chàng giám đốc phụ trách khách hàng của Ogilvy đây mà. Chúng ta đã gặp nhau ở… à, phải rồi… buổi chụp hình quảng cáo cho hãng National Foods tại David’s. Trong phòng chụp thứ hai, tôi bước vào, gặp cô và… tên anh ta là gì nhỉ? Richie. Các vị có một người thợ ảnh tốt hơn nhiều so với chúng tôi.”
Lần này cô nở một nụ cười hoàn toàn thoải mái. “Ồ, phải rồi.” Cô nàng đã nhớ ra David’s, National Foods, Richie cũng như tay thợ ảnh của phòng chụp. Nhưng cô ta không thể nhớ ra tôi vì tôi chưa bao giờ có mặt ở đó. Thực ra chẳng có ai tên là Mike, song cô nàng không để ý đến chi tiết này vì tình cờ đây cũng là tên ông bố đã quá cố của cô.
“Thật vui được gặp lại cô.” Tôi nói, khoản đãi cô bằng nụ cười rạng rỡ nhất tôi dành cho ‘cuộc gặp gỡ tình cờ’. “Cô sống gần đây sao?”
“Village. Còn anh?”
Một cái hất hàm về phía ngôi nhà của gia đình Griszinski. “Đằng kia.”
“Oa, một ngôi nhà riêng. Tuyệt quá!”
Tôi hỏi thăm công việc của cô nàng, cô ta hỏi chuyện công việc của tôi. Rồi tôi làm bộ nhăn mặt. “Vào nhà tôi nhé. Tôi vừa chạy ra ngoài mua nước chanh.” Và giơ bịch nước chanh lên. ” Có vài người bạn tới nhà tôi chơi.”
Giọng tôi nhỏ lại khi một ý tưởng thiên tài chợt lóe lên trong đầu. “À, tôi không biết cô có kế hoạch gì chưa, nhưng chúng tôi chuẩn bị tận hưởng một bữa ăn muộn. Cô có muốn tham dự cùng không?” “Ồ, cảm ơn anh, nhưng tôi đang nhễ nhại mồ hôi thế này.”
“Làm ơn đi… người đồng nghiệp và tôi đã mất cả buổi tham gia cuộc đi bộ gây quỹ từ thiện giúp đỡ bệnh nhân.” Một chi tiết đắt giá, tôi thầm nghĩ và hoàn toàn ứng khẩu tức thời: “Chúng tôi còn nhễ nhại mồ hôi hơn cả cô, tin tôi đi. Không phải giữ ý đâu. Sẽ rất vui cho mà xem. Có một giám đốc phụ trách khách hàng cao cấp của Thomson đến dự. Cùng mấy anh bạn từ Burston. Sành điệu nhưng rất thẳng thắn.” Tôi giả vờ nhăn mặt khổ sở. “À, chúng tôi còn có một khách mời bí mật là diễn viên nữa. Nhưng tôi sẽ không cho cô biết là ai đâu.”
“Nhưng mà…”
“Thôi nào. Nhìn cô là thấy cô đang cần gấp một ly Cosmo… Chẳng phải ở buổi chụp hình chúng ta đều nhất trí đó là món đồ uống ưa thích nhất của mình sao?”
CHƯƠNG 6
Nhà tù Tombs.
Đây thực ra không còn là khu nhà tù nguyên bản Tombs được xây từ thế kỷ mười chín nữa. Nó đã biến mất từ lâu, nhưng mọi người vẫn sử dụng cái tên cũ khi nói đến nơi này: Nhà tù Trung tâm Manhattan, ở giữa thành phố, nơi Arthur Rhyme đang ngồi. Trái tim của anh vẫn đều đều giữ nguyên nhịp đập tuyệt vọng thịch, thịch, thịch kể từ khi anh bị bắt.
Nhưng cho dù được gọi là Tombs, MDC[17] hay Trung tâm Bernard Kerik (tên của nó trong một thời gian ngắn trước khi cựu cảnh sát trưởng và giám đốc hệ thống cải huấn bị thất sủng), với Arthur, nó chỉ đơn giản là địa ngục.
Một địa ngục khủng khiếp.
Anh đang mặc một bộ áo liền quần màu cam như những kẻ cùng bị giam khác, song tất cả sự tương đồng giữa anh và họ chỉ dừng lại ở đó. Người đàn ông cao một mét bảy mươi tám, nặng tám mươi sáu kilogam với mái tóc nâu cắt ngắn này khác biệt ở mức rõ rệt nhất với những kẻ đang chờ xét xử khác tại đây. Anh không hề béo tròn và có ‘lăn mực’ (anh đã biết được điều đó có nghĩa là xăm mình), cũng không cạo trọc đầu, hay ngu ngốc, không phải da đen hay gốc Latinh. Nghi phạm tương tự như Arthur, một doanh nhân bị truy tố vì một tội ác trong giới trung lưu không mấy khi phải tạm trú ở Tombs cho tới khi ra tòa, đám này thường được tại ngoại nhờ bảo lãnh. Cho dù bọn họ có phạm tội gì đi nữa, những hành động phạm pháp đó cũng không đến mức phí bảo lãnh bị ấn định ở hai triệu đô như với Arthur.
Vậy là Tombs trở thành nhà của anh kể từ hôm Mười ba tháng Năm, quãng thời gian dài nhất, khó khăn, đau khổ nhất trong đời anh.
Thật điên rồ.
Có thể Arthur đã gặp người phụ nữ mà người ta cho rằng chính anh đã sát hại, nhưng anh không thể nhớ gì về cô ta. Phải, anh từng lui tới phòng tranh ở khu SoHo đó, nơi nạn nhân từng ghé qua, nhưng anh không hề trò chuyện với cô ta. Phải, anh đam mê các tác phẩm của Harvey Prescott và đã từng rất khổ sở khi phải bán bức tranh của mình sau khi mất việc. Nhưng đánh cắp một bức tranh? Giết người? Có phải bọn họ phát rồ hết rồi không? Trông anh giống một tên sát nhân lắm sao?
Đó là một bí ẩn không lời giải với anh, giống như bài toán của Fermat mà ngay cả sau khi đọc lời giải anh vẫn không tài nào hiểu nổi. Máu của người phụ nữ nọ trong xe anh? Rõ ràng anh đã bị cài bẫy. Thậm chí anh từng nghĩ chính đám cảnh sát đã làm trò đó.
Sau mười ngày ngồi tại Tombs, vụ bào chữa cho 0.J. Simpson[18]trở nên ít kỳ quặc hơn. Tại sao, tại sao, tại sao? Kẻ nào đứng đằng sau chuyện này? Anh nghĩ tới những lá thư đầy phẫn nộ mình đã viết khi Princeton gạt bỏ anh. Một số rất ngớ ngẩn, nhỏ mọn, thậm chí toàn mùi đe dọa. Có thể kẻ tâm thần bất ổn nào đó trong giới học thuật muốn báo thù sau khi đọc những chỉ trích anh đã nhắm vào họ. Rồi còn cả cô ả sinh viên lớp anh giảng đã đến tiếp cận anh. Anh đã nói dứt khoát với cô ta, anh không muốn một mối quan hệ bồ bịch. Vậy là cô nàng nổi xung.
Sức hấp dẫn chết người…
Cảnh sát đã kiểm tra cô sinh viên nọ và xác định cô ta không đứng đẳng sau vụ án mạng nhưng họ đã kiểm tra bằng chứng ngoại phạm của cô ta kỹ lưỡng tới đâu?
Anh nhìn quanh khu sinh hoạt chung rộng thênh thang, quan sát mấy chục gã ‘phạm’ đứng gần đó, đây là từ dùng để gọi các tù nhân ở nơi này. Thoạt đầu, anh thu hút khá nhiều sự tò mò. Vị thế được nâng cao khi đám ‘phạm’ biết anh bị bắt vì tội giết người, nhưng sau đó rớt xuống nhanh chóng khi tin tức cho hay nạn nhân không ăn cắp ma túy hay lừa đảo anh, hai lý do có thể chấp nhận cho việc giết phụ nữ.
Sau đó thì đã rõ, anh được coi là một trong số những gã da trắng đã làm một điều ngu ngốc và sắp tàn đời.
Xô đẩy, thách thức, cướp giật hộp sữa anh đang cầm trên tay, không khác gì ở trường trung học. Không giống như những gì người ta vẫn nghĩ, những trò lạm dụng tình dục không có ở đây. Tất cả những kẻ bị giam tại nhà tù này đều mới bị bắt, vì thế đều có thể để yên ‘của quý’ trong quần một thời gian. Nhưng anh đã được vài gã trong đám ‘bạn’ mới cam đoan rằng ‘đời trai tân’ của anh sẽ không giữ được lâu một khi anh bị đưa tới nơi giam giữ dài hạn, như Attica chẳng hạn, nhất là nếu lĩnh một án nặng, từ hai mươi lăm năm đến chung thân.
Anh đã bị đấm vào mặt bốn lần, hai lần bị gã điên Aquilla Sanchez lột trần ra và đè xuống sàn, mồ hôi của gã nhỏ ròng ròng xuống mặt anh trong khi gã gào thét bằng thứ tiếng hổ lốn nửa Anh, nửa Tây Ban
Nha, đến tận lúc mấy tay ‘thị’ phát chán xông tới lôi gã ra.
Arthur đã tiểu ra quần hai lần, nôn mửa hơn chục lần. Anh bị coi như một gã sâu bọ, rác rưởi. Anh tin chắc tim mình có thể vỡ tung ra bất cứ lúc nào với cái cách nó đang đập như quai búa. Tương tự điều đã xảy đến với Henry Rhyme, cha anh. Tất nhiên, vị giáo sư danh tiếng không qua đời tại một nơi kinh tởm như Tombs mà trên một con đường tản bộ sạch sẽ lát đá đàng hoàng ở Công viên Hy de, Illinois. Tại sao tất chuyện này lại xảy ra? Một nhân chứng và các tang vật… Thật vô lý!
“Hãy nhận tội, ông Rhyme,” vị trợ lý ủy viên công tố quận đã nói. “Tôi khuyên ông nên làm thế.” Luật sư của anh cũng vậy. “Tôi biết rõ mọi thứ rồi, Art. Rõ ràng như thể tôi đang nhìn vào một chiếc bản đồ GPS vậy. Tôi có thể nói với anh một cách chính xác chuyện này sẽ đi tới đâu, nghiêm trọng nhưng chưa tới mức là một cái kim tiêm thuốc độc đâu.
Nhưng khả năng anh phải chịu hai mươi lăm năm là rất cao. Tôi có thể giúp anh giảm xuống còn mười lăm. Hãy chấp nhận đi.”
“Nhưng tôi không làm chuyện đó.”
“Câu nói đó chẳng có ý nghĩa gì với bất cứ ai đâu, Arthur.”
“Tôi không phạm tội.”
“À phải.”
“Tôi sẽ không nhận tội. Bồi thẩm đoàn sẽ hiểu. Khi họ nhìn tôi, họ sẽ biết tôi không phải là một tên sát nhân.”
Im lặng. Rồi: “Tốt thôi.” Thực tế, mọi việc chẳng có gì tốt cả. Dĩ nhiên, gã luật sư đánh bài chuồn, bất chấp sáu trăm đô mỗi giờ mà gã đang bỏ túi và rồi số tiền đó sẽ từ chỗ chết tiệt nào chui ra? Gã… Bỗng Arthur ngẩng lên và thấy hai gã ‘phạm’ đang xăm xoi nhìn mình, cả hai đều có vẻ là dân gốc Latinh. Chúng nhìn anh nhưng không có bất cứ thái độ nào trên mặt. Không thách thức, không dọa nạt nhưng cũng chẳng thân thiện. Có vẻ hai gã đang tò mò.
Trong khi chúng tiến lại gần, anh tự hỏi mình nên đứng lại hay bỏ đi.
Đứng lại.
Nhìn xuống.
Nhưng khi anh nhìn xuống, một trong hai gã đã đứng trước mặt, đôi giày thể thao mòn vẹn lọt vào tầm mắt.
Gã thứ hai đi vòng sau lưng.
Sắp chết. Arthur Rhyme biết điều đó. Hãy nhanh lên và chấm dứt luôn mọi thứ khốn kiếp này đi. “Mày,” gã sau lưng anh cao giọng gọi.
Arthur ngước mắt nhìn lên gã thứ hai đang đứng trước mặt. Gã có đôi mắt đỏ vằn, đeo một chiếc hoa tai ngoại cỡ, hàm răng cải mả. Arthur không thốt nên lời.
“Mày,” giọng nói từ phía sau lại vang lên.
Arthur nuốt nước bọt. Không muốn nhưng cũng không dừng được.
“Bọn tao đang nói chuyện với mày đấy, tao và bạn tao. Mày không biết lịch sự gì cả. Sao mà đờ ra thế?” “Xin lỗi. Tôi chỉ… Xin chào.”
“Mày làm nghề gì?” Giọng nói phía sau lưng anh hỏi.
“Tôi là…” Đầu anh như đông cứng lại. Môi mấp máy: “Tôi là một nhà khoa học.” Gã đeo hoa tai nói: “Chết tiệt. Nhà khoa học? Thế mày làm gì, chế tạo tên lửa hả?” Cả hai gã phá lên cười.
“Không, thiết bị y tế.”
“Giống như trong phòng cấp cứu, bọn chúng hô ‘sẵn sàng’ rồi gí điện cho giật tung người lên chứ gì?” “Không, phức tạp hơn nhiều. Các anh không hiểu được đâu.”
Gã đeo hoa tai cau mày.
“Tôi không có ý đó,” Arthur vội vàng nói. “Các anh không phải là không thể hiểu được. Chỉ là rất khó giải thích. Các hệ thống kiểm tra chất lượng dung dịch thẩm phân. Và…”
Gã giọng cao: “Kiếm bộn tiền, đúng không? Nghe nói mày diện bộ đồ bảnh lắm khi bị chộp mà.” “Tôi bị…?” À, bị bắt. “Tôi cũng không biết. Tôi mua nó ở Nordstrom.”
“Nordstrom. Nordstrom là cái mắc dịch gì?”
“Một cửa hàng.”
Trong khi Arthur lại cúi xuống nhìn chân gã có hoa tai, gã tiếp tục: “Tao vừa hỏi mày kiếm bộn tiền phải không? Bao nhiêu?”
“Tôi…”
“Mày không định nói là mày không biết đấy chứ?”
“Tôi…” Phải, đúng là anh không biết thật.
“Mày kiếm được bao nhiêu?”
“Tôi không… khoảng sáu chữ số.”
“Chết tiệt.”
Arthur không rõ câu ấy có nghĩa số tiền anh kiếm được quá ít hay quá nhiều.
Rồi gã giọng cao cười sằng sặc. “Mày có gia đình đúng không?”
“Tôi sẽ không nói gì về họ với các anh.” Một lời thách thức.
“Vậy là mày có một gia đình?”
Arthur Rhyme nhìn về phía bức tường gần đó, nơi có một chiếc đinh đóng vào mạch vữa giữa hai khối bê tông, mà anh đoán nó từng dùng để giữ một tấm biển đã bị hạ xuống hay bị lấy trộm từ vài năm trước. “Hãy để tôi yên. Tôi không muốn nói chuyện với các người.” Anh cố làm cho giọng nói của mình trở nên mạnh mẽ. Nhưng giọng anh nghe chẳng khác giọng một cô gái bị gã chán ngắt nào đó quấy rầy trong một buổi khiêu vũ.
“Chúng tao đang cố nói chuyện một cách văn minh, anh bạn.”
Hắn nói gì nhỉ? Nói chuyện một cách văn minh?
Anh nghĩ, quỷ tha ma bắt, biết đâu hai gã này chỉ muốn bắt chuyện. Biết đâu chúng có thể trở thành những người bạn, chống lưng cho anh. Có Chúa chứng giám, anh cần kết bạn với bất kỳ ai có thể. Liệu có thể cứu vãn tình thế không?
“Tôi xin lỗi. Chuyện này thực sự là một điều kỳ quặc. Tôi chưa bao giờ gặp phải rắc rối thế này. Tôi chỉ…”
“Vợ mày làm gì? Cô ta cũng là nhà khoa học chứ? Chắc là một cô ả ngon lành lắm hả?” “Tôi…,” những từ anh định nói bỗng bay biến hết.
“Cô ả có bộ ngực bự chứ?”
“Mày có ‘làm’ cô ả từ đằng sau không?”
“Nghe này, thằng nhà khoa học chết tiệt, hãy làm theo lời tao. Con vợ ngon lành của mày sẽ rút ít tiền từ ngân hàng. Mười ngàn đô la. Sau đó lái xe mang đến chỗ anh họ tao ở Bronx. Và…” Những tiếng oang oang của gã giọng cao chợt câm tịt.
Một tù nhân da đen, cao khoảng một mét tám mươi lăm, cả cơ thể là một khối cơ và mỡ đồ sộ, hai tay áo xắn cao, bước tới gần chỗ ba người. Gã nhìn chằm chằm vào hai tên Latinh, cặp mắt nheo lại. “Này, hai con chó Chihuahua. Cút ngay khỏi đây.”
Arthur Rhyme lạnh toát người. Anh không thể nào cựa quậy được nếu có ai đó nhìn chằm chằm vào mình, bình thường không có gì khiến anh phải ngạc nhiên, ngay cả trong lĩnh vực các loại máy đo từ trường.
“Thằng nhọ khốn kiếp,” gã đeo hoa tai lên tiếng.
“Đồ cặn bã,” gã giọng cao đế theo. Câu nói làm gã da đen phá lên cười, quàng một tay quanh người gã đeo hoa tai, lôi gã đi và thì thầm điều gì đó vào tai gã. Đôi mắt gã Latinh chợt đờ ra, rồi gã gật đầu ra hiệu cho đồng bọn, tay này lập tức đi đến. Cả hai chuồn ra góc xa nhất, vừa đi vừa làm ra vẻ khinh bỉ. Nếu Arthur không quá hoảng sợ, anh có thể thấy tình huống này thật thú vị, những kẻ chuyên bắt nạt người khác bỗng dưng phải cúp đuôi bỏ chạy, hệt như ở trường học khi anh còn nhỏ.
Gã da đen vươn vai, tiếng khớp xương kêu răng rắc. Anh nghe thấy tiếng tim mình đập còn mạnh hơn. Lời cầu nguyện còn dang dở hiện lên trong đầu: mong sao những sợi mạch đang căng như dây đàn giúp anh biến khỏi đây ngay lập tức.
“Cam ơn.”
Gã da đen nói: “Hai thằng khốn nạn. Chúng nó biết cách phải làm thế nào. Mày hiểu tao đang nói gì chứ?”
Không, một chút cũng không. Nhưng Arthur Rhyme nói: “Dù sao thì… Tên tôi là Art.” “Tao biết cái tên thối tha của mày. Ở đây mọi người đều biết rõ mọi thứ. Trừ mày. Mày chẳng biết cái khỉ gì hết.”
Nhưng có một thứ Arthur Rhyme biết và biết chắc chắn: Anh sắp toi rồi.
Anh nói: “Okay, vậy cho tao biết mày là thằng nào, đồ thối tha.”
Khuôn mặt khủng long quay về phía anh. Mùi mồ hôi cùng những hơi thở khét nồng khói thuốc. Arthur chợt nghĩ về gia đình, lũ trẻ, Judy. Tiếp theo là cha mẹ anh, trước hết là mẹ, rồi đến cha. Thế rồi, thật bất ngờ, anh nghĩ tới em họ mình, Lincoln. Nhớ lại cuộc chạy thi qua cánh đồng ở Illinois một ngày nóng bức khi cả hai còn là những cậu nhóc vị thành niên.
Chạy thi tới cái cây đó đi… Không, đồ nhát như cáy… Cái cây sồi ở đằng kia kìa. Chạm vào thăn cây! Đếm đến ba. Một… hai… chạy!
Gã da đen quay đi, bước qua khu nhà tới chỗ một tù nhân da đen khác. Bọn họ đập tay với nhau và Arthur Rhyme hoàn toàn bị lãng quên.
Anh nhìn cử chỉ thân thiết của bọn họ, cảm thấy càng lúc càng tuyệt vong. Rồi anh nhắm nghiền mắt, gục đầu xuống. Arthur Rhyme là một nhà khoa học. Anh tin rằng sự sống tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên, quyền năng tối cao không có vai trò gì hết.
Nhưng lúc này, chìm vào cơn suy sụp tàn khốc, lạnh lẽo như gió bấc, anh không khỏi tự hỏi liệu có một hệ thống vô hình nào giúp lấy lại sự công bằng đang tồn tại hay không? Có phải ngay lúc này đây nó đang vận hành và trừng phạt anh vì những điều xấu xa anh đã làm trong đời mình? Ôi, anh đã làm không ít điều tốt đấy chứ.
Nuôi con cái, dạy chúng những bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung, là người bạn đời chung thủy của vợ, giúp cô chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác và đóng góp cho ngành khoa học quan trọng của thế giới.
Thế nhưng những điều xấu xa vẫn luôn tồn tại.
Ngồi đây trong bộ quần áo màu cam nặng mùi, anh vật lộn để tin rằng dựa vào những ý nghĩ, những lời thề đúng đắn và niềm tin vào cái hệ thống anh đã tận tụy ủng hộ vào mỗi lần bầu cử, anh có thể làm cân bằng lại cán cân công lý và được đoàn tụ với gia đình, trở lại với cuộc sống tự do.
Anh đang cố tin rằng có thể chiến thắng số phận với tinh thần quyết tâm và suy nghĩ đúng đắn, với nỗ lực đến tột cùng như anh đã thực hiện để đánh bại Lincoln khi dốc hết sức bình sinh lao về phía cây sồi trên cánh đồng nóng bức đầy bụi đất đó.
Rằng rất có thể anh sẽ được cứu thoát. Rất có thể…
“Xéo.”
Cho dù giọng của người nói rất nhẹ nhàng, anh vẫn giật mình khi nghe thấy từ đó. Một gã tù nhân da trắng khác, mái tóc bù xù, chi chít hình xăm nhưng không còn lấy một cái răng trong miệng, thân hình không ngừng rậm rật trong lúc ma túy ngấm dần vào cơ thể, đã xuất hiện sau lưng anh từ lúc nào. Gã nhìn chằm chằm vào băng ghế của Arthur, dù rằng có thể tìm thấy chỗ ngồi ở bất cứ đâu. Khuôn mặt gã trắng bệch, hàm ý trong đôi mắt hoàn toàn rõ ràng.
Hy vọng thoáng qua của Arthur, về một hệ thống công lý có thể cân đo đong đếm được một cách khoa học, tưởng như hoàn toàn lụi tắt. Nhưng từ duy nhất của gã đàn ông nhỏ thó, bệnh hoạn và nguy hiểm thốt ra là:
Xéo…
Cố kìm mình để không òa khóc, Arthur Rhyme làm đúng như gã ra lệnh.
CHƯƠNG 7
Chuông điện thoại reo vang khiến Lincoln Rhyme cực kỳ bực bội vì sự tập trung bị gián đoạn. Anh đang suy ngẫm về ông X và các nguyên tắc dàn cảnh tang vật của hắn. Nhưng rồi thực tế cũng kéo anh quay lại. Điện thoại đang đổ chuông, nhìn thấy số 44, mã quốc gia của nước Anh, anh lập tức ra lệnh: “Nhận lệnh, trả lời điện thoại.”
Click.
“Vâng, thanh tra Longhurst phải không?” Anh đã từ bỏ việc xưng hô bằng tên riêng. Các mối quan hệ với Scotland Yard luôn đòi hỏi một mức độ nghiêm chỉnh nhất định.
“Xin chào, thám tử Rhyme,” nữ thanh tra nói. “Chúng tôi có vài biến động ở bên này.” “Cứ nói tiếp đi.”
“Danny Krueger nghe ngóng được từ một trong những mối chạy hàng cũ của anh ta. Có vẻ như lý do Richard Logan rời khỏi London là để kiếm thứ gì đó tại Manchester. Chúng tôi không rõ là thứ gì, nhưng ở Manchester chắc chắn đầy rẫy những tay buôn bán vũ khí chợ đen.”
“Có biết được chính xác hắn đang ở đâu không?”
“Danny đang cố lần ra. Sẽ rất tuyệt nếu chúng ta có thể chộp được hắn ở Manchester, thay vì dài cổ đợi ở London.”
“Danny có cẩn thận không?” Rhyme nhớ lại chương trình truyền hình trực tiếp về một anh chàng người Nam Phi đô con, to bụng và chiếc nhẫn vàng đeo ờ ngón tay út đều thuộc hàng ngoại cỡ. Bản thân Rhyme từng điều tra một vụ có liên quan tới Darfur và anh đã dành không ít thời gian trao đổi với Krueger về cuộc xung đột bi thảm tại quốc gia này.
“Ồ, Danny biết mình đang làm gì. Anh ta luôn cẩn thận và dữ tợn như một con chó săn khi cần thiết. Anh ta sẽ khai thác được mọi chi tiết cho chúng ta. Chúng tôi đang làm việc với các đồng sự của mình ở Manchester để huy động một đội đột kích. Chúng tôi sẽ liên lạc lại với anh khi biết thêm thông tin.” Anh cảm ơn thanh tra, sau đó ngắt liên lạc.
“Chúng ta sẽ tóm được hắn, Rhyme,” Sachs nói. Không phải chỉ để động viên anh, cô cũng quan tâm riêng tới việc tìm ra Logan, bản thân Sachs đã suýt mất mạng trong một vụ gây án của hắn. Điện thoại Sachs đổ chuông. Cô nghe máy và nói sẽ tới trong mười phút nữa. “Hồ sơ mấy vụ án mà Flintlock đã nhắc đến đã có rồi.
Em qua lấy chúng đây… À, mà có khi Pam sẽ ghé qua đây đấy.”
“Con bé đang làm gì?”
“Đang học nhóm với người bạn ở Manhattan - một cậu bạn trai.”
“Tốt quá. Ai vậy?”
“Một cậu nhóc nó quen ở trường. Em đang nóng lòng muốn gặp cậu ta đây. Con bé suốt ngày chỉ nhắc đến mỗi cậu ta. Nó tin rằng đây là con người đàng hoàng mà nó xứng đáng gặp được trong đời. Nhưng em chỉ không muốn nó bập vào thằng nhóc kia quá vội vàng. Em sẽ cảm thấy yên tâm hơn sau khi đã gặp cậu ta và đích thân điều tra thật kỹ lưỡng.”
Rhyme gật đầu trong lúc Sachs rời đi, nhưng tâm trí anh đang ở tận đâu đâu. Anh nhìn chằm chằm vào tấm bảng ghi các thông tin về vụ án Alice Sanderson, rồi ra lệnh cho máy điện thoại. “Xin chào?” Một giọng nam nhẹ nhàng trả lời ở đầu dây bên kia trên nền một điệu waltz đang vang lên. Rất ồn ào.
“Mel. Phải anh không đấy?”
“Lincoln?”
“Thứ nhạc quỷ quái đó là gì vậy? Anh đang ở đâu?”
“Cuộc thi Khiêu vũ cổ điển New England,” Mel Cooper đáp.
Rhyme thở dài. Rửa bát đĩa, xem kịch buổi sáng, thi khiêu vũ. Anh căm ghét những ngày Chủ nhật. “Thế này nhé, tôi cần anh giúp đỡ. Tôi có một vụ án độc nhất vô nhị.”
“Vụ nào với anh chả độc nhất vô nhị, Lincoln.”
“Vụ này độc nhất vô nhị hơn nhiều những vụ khác, mặc dù cách diễn đạt này không được hợp ngữ pháp cho lắm. Anh tới được không? Anh vừa nhắc đến New England. Đừng nói với tôi anh đang ở Boston hay Maine đấy.”
“Midtown. Tôi nghĩ mình đang chẳng có việc gì làm - Gretta và tôi vừa mới bị loại. Đội của Rosie Talbot và Bryan Marshall sắp thắng rồi. Thật là nhục nhã.” Câu cuối cùng nghe có vẻ cay cú thực sự. “Có
gấp lắm không?”
“Ngay bây giờ.”
Cooper tặc lưỡi. “Trong bao lâu?”
“Có thể khá lâu đấy.”
“Đến sáu giờ tối nay? Hay là thứ Tư?”
“Tốt nhất hãy gọi điện cho cấp trên của anh báo rằng anh đang bị điều động. Tôi hy vọng sẽ không quá thứ Tư.”
“Tôi sẽ phải cung cấp cho ông ấy một cái tên. Ai đang chỉ đạo cuộc điều tra, Lon? ” “Tôi đề nghị thế này: hãy nói mơ hồ một chút.”
“Này, Lincoln, anh vẫn nhớ làm cớm có nghĩa là thế nào chứ? ‘Mơ hồ’ sẽ không ăn thua đâu. ‘Rất cụ thể’ thì may ra.”
“Nói đúng ra thì không có thám tử phụ trách.”
“Anh đang làm một mình à?”
Giọng anh chàng cảnh sát có vẻ không tin tưởng lắm.
“Không hẳn. Còn có cả Amelia và Ron nữa.”
“Chỉ thế thôi sao?”
“Còn anh nữa.”
“Hiểu rồi. Thế kẻ tình nghi là ai?”
“Thực ra, những kẻ tình nghi lúc này đang ngồi khám rồi. Hai bị kết án, một chờ xử.” “Và anh nghi ngờ chúng ta chưa mời đúng khách.”
“Đại loại như vậy.”
Là một thám tử trong Đội Điều tra hiện trường sở cảnh sát New York, Mel Cooper chuyên về công việc phòng thí nghiệm. Anh là một trong những nhân viên xuất sắc nhất đội và cũng là người hiểu biết nhất. “À, vậy là anh muốn tôi tìm ra lý do vì sao các sếp của tôi bị mắc lỡm và tóm nhầm người, sau đó yêu cầu họ mở ba cuộc điều tra mới toanh và cực kỳ tốn kém để lùng bắt những thủ phạm thực thụ, còn những gã này hẳn sẽ không lấy gì làm khoái khi biết rốt cục cũng không thoát khỏi ngồi bóc lịch. Đây là kiểu tình huống mà người ta gọi là ai cũng có lỗi cả, đúng không, Lincoln?”
Sachs đi được nửa đường tới chỗ chiếc Camaro SS đỏ chót của mình thì nghe tiếng gọi: “Chào chị, Amelia!”
Cô quay lại, trông thấy một cô bé vị thành niên xinh xắn với mái tóc dài màu hạt dẻ nhuộm những sợi đỏ, mỗi bên tai có bấm vài chiếc khuyên trông rất có gu. Cô bé đang xách hai chiếc túi hành lý bằng vải bạt. Khuôn mặt lấm chấm những nốt tàn nhang nhỏ, đang rạng rỡ vì hạnh phúc. “Chị đang đi đâu à?”
“Chị có một vụ quan trọng và chuẩn bị vào khu trung tâm. Em muốn đi cùng không?” “Tất nhiên rồi. Em sẽ bắt tàu ở chỗ Tòa thị chính.” Pam leo lên xe.
“Chuyện học hành thế nào?”
“Chị biết rồi mà.”
“Thế bạn em đâu?” Sachs nhìn quanh.
“Chị vừa bỏ lỡ dịp gặp anh ấy rồi.”
Stuart Everett là một sinh viên cùng trường cao đẳng mà Pam đang theo học ở Manhattan. Cô bé đã hẹn hò với cậu ta được vài tháng nay. Hai cô cậu làm quen trên lớp và phát hiện ra tình yêu chung dành cho sách và âm nhạc. Cả hai đang cùng tham gia Câu lạc bộ Thơ của trường, việc này làm Sachs cảm thấy yên tâm, ít nhất cậu chàng nọ cũng không phải là một tay đua xe hay một kẻ cộc cằn thô thiển.
Pam quẳng chiếc túi đựng đầy sách giáo khoa lên băng ghế sau, rồi mở chiếc túi thứ hai. Một chú chó chó lông xù thò đầu ra.
“Chào mày, Jackson,” Sachs vừa nói vừa xoa đầu nó.
Chú chó nhỏ giống Havanese đớp lấy chiếc bánh hiệu Milk-Bone mà cô thám tử bỏ vào chiếc cốc có giá đỡ được lắp vào chiếc xe với mục đích duy nhất để thết đãi những chú chó, vì những cú tăng tốc và rẽ ngoặt theo thói quen của Sachs không cho phép bất cứ chất lỏng nào ở yên được trong chiếc cốc đó. “Stuart không đưa em đến đó sao? Quý ông kiểu gì vậy?”
“Anh ấy phải tới trận bóng đá. Anh ấy mê thể thao lắm. Chẳng phải phần lớn đàn ông đều thế sao?” Vừa đánh tay lái hòa vào dòng xe cộ đang di chuyển, Sachs vừa nhăn nhó bât cười. “Phải.” Phần lớn các cô gái vào tuổi nay đã biết rõ tất cả về các chàng trai và thể thao. Nhưng Pam Willoughby
không hề giống số đông, có vẻ như đó là một câu hỏi quá lạ lẫm với cô. Bố của Pam qua đời trong khi làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc khi cô còn rất nhỏ. Còn người mẹ thần kinh bất ổn đã dấn thân vào các nhóm cực hữu bất hợp pháp và trở nên ngày càng cực đoan. Hiện tại bà ta đang phải thụ án chung thân vì tội giết người (chính bà ta là kẻ đã gây ra vụ đánh bom tại Trụ sở Liên Hợp Quốc mấy năm trước khiến sáu người thiệt mạng). Amelia Sachs và Pam đã quen nhau vào thời kỳ đó, khi nữ thám tử cứu thoát cô bé khỏi tay một kẻ bắt cóc hàng loạt. Sau đó cô bé biến mất, nhưng một cách tình cờ, cách đây
chưa lâu, Sachs lại cứu cô bé lần nữa.
Được giải thoát khỏi gia đình của mình, Pam được gửi đến một gia đình nhận cô bé làm con nuôi ở Brooklyn - tất nhiên là sau khi Sachs đã điều tra về đôi vợ chồng này kỹ lưỡng không kém gì một nhân viên đặc vụ chuẩn bị cho chuyến thăm của tổng thống. Pam rất hạnh phúc với cuộc sống ở gia đình mới. Nhưng cô bé và Sachs vẫn tiếp tục gắn bó với nhau. Trong khi người mẹ nuôi của Pam thường bận rộn dành hết thời gian chăm sóc cho năm đứa bé nhỏ tuổi hơn, Sachs nghiễm nhiên đóng vai trò người chị cả của Pam.
Đây là một điều tuyệt vời với cả hai. Sachs vẫn luôn muốn có con nhưng luôn gặp trở ngại. Cô từng dự định xây dựng gia đình với người bạn trai nghiêm túc đầu tiên của mình, không may chuyện này đã thất bại. Anh chàng đồng thời cũng là đồng nghiệp này của Sachs đã chứng tỏ anh ta là lựa chọn tồi tệ nhất trên đời (bức cung, hành hung và ngồi tù, tất cả mới chỉ là màn khởi đầu). Sau anh ta, cô đã không qua lại với ai cho tới khi gặp Lincoln Rhyme và gắn bó với anh kể từ khi đó. Rhyme không muốn có con, nhưng anh là một người đàn ông tốt bụng, chính trực và thông minh, có thể phân định rạch ròi giữa tính chuyên nghiệp sắt đá trong công việc với cuộc sống gia đình, điều mà nhiều người đàn ông khác không thể làm được.
Nhưng bắt đầu xây dựng một gia đình sẽ là việc thực sự khó khăn vào thời điểm này đối với cả hai người, họ đành bằng lòng với những hiểm nguy và khó khăn trong công việc điều tra vì niềm đam mê nghề nghiệp, ngoài ra vấn đề sức khỏe của Rhyme cũng chưa có gì chắc chắn. Họ cũng còn một rào cản sinh lý nhất định cần vượt qua, mặc dù vấn đề thuộc về Sachs chứ không phải Rhyme (anh hoàn toàn có khả năng làm bố).
Vì thế, vào lúc này, mối quan hệ với Pam là đủ. Sachs trân trọng vai trò của mình và thực hiện nó một cách nghiêm túc, cô bé đã bớt khép kín hơn và tìm lại niềm tin vào người lớn. Rhyme cũng thực sự rất quý cô bé. Hiện anh đang giúp cô bé dựng đề cương nội dung cho một cuốn sách kể lại những trải nghiệm của Pam liên quan tới các nhóm cực hữu hoạt động trái phép - dự kiến tên của cuốn sách là Cầm tù. Thom đã nói rất có thể cô bé sẽ có cơ hội được xuất hiện trên chương trình Oprah.
Sau khi tăng tốc vượt qua một chiếc taxi, Sachs lên tiếng: “Em chẳng bao giờ trả lời chị chuyện học hành thế nào?”
“Tuyệt.”
“Em tham gia kiểm tra vào thứ Năm chứ?”
“Thôi nào. Không có vấn đề gì đâu.”
Sachs bật cười. “Hôm nay thậm chí em còn chưa giở sách ra, đúng không?”
“Chị Amelia, thôi nào. Hôm nay là một ngày đẹp trời thế cơ mà! Thời tiết đã tồi tệ suốt cả tuần rồi. Bọn em phải ló mặt ra ngoài chứ.”
Trực giác mách bảo cô cần nhắc nhở cô bé về tầm quan trọng của việc đạt kết quả tốt trong kỳ thi tốt nghiệp. Pam rất thông minh, với chỉ số IQ cao và là một con mọt sách chính hiệu, nhưng sau quá trình học hành kỳ lạ của cô bé, Sachs cảm thấy cô bé sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu muốn vào được một trường đại học danh tiếng. Tuy vậy, cô bé có vẻ rất vui vì Sachs không truy hỏi nữa. “Thế em đã làm gì?”
“Bọn em chỉ đi bộ thôi. Tới tận Harlem, vòng quay tháp nước. À, còn tới cả buổi hòa nhạc cạnh nhà thuyền nữa, họ là một ban chuyên chơi lại các bài hát cũ thôi, chị biết đấy, nhưng hoàn toàn hơn đứt Coldplay… Pam hồi tưởng lại. “Nhưng phần lớn thời gian Stuart và em chỉ trò chuyện với nhau. Toàn những chuyện linh tinh. Đó là điều tuyệt nhất, nếu chị muốn hỏi.”
Amelia Sachs không thể không đồng ý. “Cậu ấy dễ thương lắm phải không?”
“Ồ vâng. Cũng dễ thương.”
“Có tấm ảnh nào không?”
“Amelia! Thế thì chán lắm.”
“Khi vụ này kết thúc, em nghĩ sao nếu chúng ta cùng ăn tối, cả ba chúng ta?”
“Thật chứ? Chị thực sự muốn gặp anh ấy à?”
“Bất cứ anh chàng nào hẹn hò với em tốt hơn nên biết em có ai trông nom sau lưng. Một người luôn mang bên mình một khẩu súng ngắn và còng tay. Okay, giữ lấy con chó nhé, chị đang muốn một chút tốc độ đây.”
Sachs vào số thật mạnh, đạp hết ga, để lại hai vệt bánh xe hằn rõ trên mặt đường rải nhựa đen nhánh.
CHƯƠNG 8
Kể từ khi Amelia Sachs bắt đầu thỉnh thoảng ở lại qua đêm tại nhà Rhyme, căn nhà mang phong cách thời Victoria đã có sự thay đổi. Khi anh sống một mình sau vụ tai nạn và trước khi Sachs xuất hiện, ngôi nhà ít nhiều có thể coi là ngăn nắp (còn phụ thuộc vào việc anh có sa thải điều dưỡng viên và người dọn dẹp hay không) nhưng ‘như ở nhà’ không phải là cách mô tả đúng đắn trong trường hợp này. Không có bất cứ thứ gì mang tính chất cá nhân được treo trên tường. Những chứng chỉ, bằng cấp, bằng khen và huy chương anh nhận được trong suốt thời gian nổi danh trong lĩnh vực điều tra hiện trường của sở cảnh sát New York hay những bức ảnh của Teddy, Anne, bố mẹ anh, hoặc của gia đình bác Henry cũng không hề xuất hiện.
Sachs không tán thành chuyện này. “Điều đó rất quan trọng.” Cô lên lớp. “Quá khứ của anh, gia đình anh. Anh đang xóa sạch chính cuộc đời mình, Rhyme.”
Anh chưa bao giờ nhìn tận mắt căn hộ cô đang ở, một nơi người tàn tật không thể tiếp cận được nhưng anh biết mọi căn phòng đều đầy ắp dấu ấn của cuộc đời Amelia.
Tất nhiên anh đã xem qua khá nhiều những bức ảnh đó: Amelia Sachs khi còn là một cô bé xinh xắn (những nốt tàn nhang đã biến mất từ lâu) nhưng không hay cười, khi cô là học sinh trung học với đồ nghề cơ khí trên tay, rồi trở thành một cô sinh viên đại học bị kèm chặt trong kỳ nghỉ giữa một ông bố cảnh sát đang cười hết cỡ và một bà mẹ nghiêm nghị, khi cô làm người mẫu cho tạp chí và chụp ảnh quảng cáo, đôi mắt thể hiện đúng vẻ lạnh lùng, kiêu kỳ thời thượng (nhưng Rhyme biết rõ trên thực tế đó là biểu thị của sự coi thường trước cách đối xử với người mẫu như thể họ chỉ là những chiếc mắc áo).
Còn hàng trăm bức ảnh khác nữa, phần lớn được chụp bởi bố cô, người sở hữu một chiếc máy Kodak với tốc độ chụp nhanh.
Sachs đã xem xét kỹ những bức tường trống trong ngôi nhà và lần mò cả đến chỗ mà điều dưỡng viên như Thom chưa từng ngó qua: những chiếc hộp dưới tầng hầm, hàng chục chiếc hộp các tông chứa những bằng chứng về cuộc sống trước đây của Rhyme. Những đồ vật đã bị cất giấu và trở thành cấm kỵ, không được đả động tới, giống như người ta luôn tránh nhắc tới người vợ đầu trước mặt người vợ thứ hai. Giờ đây những bằng cấp, chứng chỉ và những bức ảnh gia đình đó phủ kín các bức tường và kiêu hãnh ngự trên mặt tủ, mặt bàn.
Trong đó có bức ảnh mà lúc này anh đang chăm chú ngắm nhìn, bức ảnh của anh khi còn là một cậu thanh niên mảnh khảnh trong trang phục thi đấu, được chụp ngay sau khi anh vừa tham gia một cuộc thi điền kinh ở trường đại học. Anh với mái tóc ngỗ ngược, chiếc sống mũi cao như Tom Cruise, đang cúi gập người về phía trước, hai tay chống vào đầu gối, có lẽ vừa kết thúc cuộc thi chạy cự ly một dặm. Rhyme chưa bao giờ thi chạy nước rút, anh thích nhịp điệu và sự tao nhã của các cự ly dài. Anh coi chạy là “một quá trình.”
Hẳn lúc đó, gia đình anh đang có mặt trên khán đài, cả bố và bác anh đều sống ở vùng ngoại ô Chicago, mặc dù ở hai khu khác nhau. Nhà Lincoln nằm về phía tây, ở một khu vực bằng phẳng trống trải, lúc đó một phần vẫn là đất canh tác, là mục tiêu lý tưởng của cả những nhà thầu xây dựng thiển cận lẫn cả những cơn vòi rồng khủng khiếp. Henry Rhyme và gia đình của ông có thể nói là được miễn nhiễm vấn đề trên vì họ sống ngay bên hồ ở Evanston.
Hai lần mỗi tuần, Henry tới dạy Vật lý cao cấp tại Đại học Chicago. Đó là chuyến đi dài, trên hai tuyến tàu cắt ngang các khu vực sống của nhiều thành phần xã hội trong thành phố. Vợ ông, Paula, dạy tại Đại học Tây Bắc. Hai vợ chồng có ba người con: Robert, Marie và Arthur, tất cả đều được đặt theo tên các nhà khoa học, trong đó nổi tiếng hơn cả là Oppenheimer và Curie. Art được đặt tên theo tên của Arthur Compton, người lãnh đạo Phòng thí nghiệm Luyện kim nổi tiếng của Đại học Chicago vào năm 1942, khởi đầu cho dự án đầu tiên trên thế giới tạo ra phản ứng hạt nhân dây chuyền kiểm soát được. Tất cả những người con của họ đều được theo học tại các ngôi trường tốt. Robert tại trường Y của Đại học Tây Bắc, Marie tại Đại học California ở Berkeley, Arthur theo học tại Học viện Công nghệ Massachussetts.
Robert qua đời nhiều năm trước trong một tai nạn nghề nghiệp ở châu Âu. Marie đang làm việc trong ngành môi trường tại Trung Quốc. Còn về hai đôi bố mẹ Rhyme, giờ chỉ còn lại một trong bốn người: bác Paula hiện đang sống trong một trung tâm chăm sóc, còn nhớ tất cả những gì của sáu mươi năm trước, trong khi ý thức về hiện tại lại vô cùng rời rạc.
Rhyme tiếp tục nhìn chăm chăm vào bức ảnh. Anh không thể rời mắt khỏi nó, nhớ lại cuộc gặp gỡ ngay bên đường chạy… Trong các lớp mà ông giảng bài, Giáo sư Henry Rhyme thể hiện sự tán thưởng đứa cháu bằng cử chỉ nhướn mắt rất tế nhị. Nhưng trên sân đấu, ông luôn đứng bật dậy trên khán đài, huýt sáo và hò
reo thúc giục Lincoln: “Cố lên, cố lên, cố lên, cháu làm được mà!” Cổ vũ anh về đích đều tiên (và thường thì anh làm được điều đó).
Sau cuộc gặp, Rhyme nhớ anh hay đi đâu đó cùng Arthur. Mỗi khi rảnh, hai cậu thanh niên luôn ở bên nhau để bù lại khoảng trống tình thân không có được từ anh chị em ruột, cả Robert và Marie đều lớn tuổi hơn Arthur khá nhiều, còn Lincoln là con một.
Thế là Lincoln cùng Art tự coi nhau như anh em ruột. Phần lớn các dịp cuối tuần và mọi kỳ nghỉ hè, hai người anh em họ luôn cùng nhau dấn thân vào những cuộc phiêu lưu trên chiếc Corvette của Arthur (bác Henry dù là một giáo sư, vẫn kiếm được hơn nhiều lần so với bố của Rhyme, Teddy cũng là một nhà khoa học, ông thường cảm thấy thoải mái hơn khi đứng ngoài ánh hào quang). Những cuộc phiêu lưu của hai chàng trai cũng là những trò vui quen thuộc của tuổi mới lớn, các cô gái sàn nhảy, phim ảnh, cãi vã, ăn hamburger hay pizza, uống bia và triết lý về thế giới. Và lại là các cô gái.
Lúc này, ngồi trong chiếc xe lăn TDX kiểu mới, Rhyme băn khoăn tự hỏi chính xác anh và Arthur đã đi những đâu.
Arthur, người đã thay thế vị trí người anh trai ruột…
Người đã không hề tới thăm anh sau khi cột sống của anh bị gãy nát như một cành củi mục. Tại sao, Arthur? Hãy nói cho tôi biết tại sao…
Dòng hồi ức bị cắt ngang khi tiếng chuông cửa reo lên. Thom chạy ra mở, một khoảnh khắc sau, người đàn ông hói đều, dáng người dong dỏng, mặc bộ đồ dạ hội bước vào phòng. Mel Cooper đẩy cặp kính dày cộp trên sống mũi mỏng dính của anh ta và gật đầu chào Rhyme. “Một buổi chiều tốt lành.” “Khách sáo thế?” Rhyme vừa hỏi vừa nhìn chăm chú vào bộ đồ dạ hội.
“Bọn tôi vừa bị loại ở vòng bán kết cuộc thi khiêu vũ, nếu không tôi cũng không thể đến đây được.” Anh ta cởi áo khoác và chiếc nơ bướm ra, sau đó xắn tay áo chiếc sơ mi có xếp li lên. “Vậy vụ độc nhất vô nhị mà anh đã nói với tôi ấy thế nào?”
Rhyme thuật lại tình hình.
“Rất tiếc cho anh họ anh, Lincoln. Tôi chưa từng nghe thấy anh nhắc đến anh ta.” “Anh nghĩ sao về phương thức gây án?”
“Nếu đúng thế thì quả thật là xuất sắc.”
Cooper chăm chú nhìn vào tấm bảng liệt kê danh sách bằng chứng.
Vụ sát hại Alice Sanderson
Căn hộ của Alice Sanderson:
• Vết gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội.
• Vụn bánh giòn, loại Pringles, không chất béo, vị thịt nướng.
• Dao hiệu Chicago Cutlery (MW).
• Phân bón hiệu TruGro.
• Dấu giày loại Alton EZ-Walk, cỡ 101/2.
• Vết găng tay cao su.
• Những ghi chép nhắc đến ‘Art’ và một số điện thoại di động trả trước trong sổ ghi số điện thoại, không còn liên lạc được. Không lần ra được dấu vết (có khả năng về một mối quan hệ tình ái giữa nghi can và nạn nhân). • Hai ghi nhớ: ‘Art - đồ uống’ (tìm thấy ở văn phòng) và ‘Arthur’ (ở nhà riêng).
• Nhân chứng nhìn thấy chiếc Mercedes màu xanh sáng, một phần biển số có các chữ cái NLP.
Xe của Arthur Rhyme:
• Sedan hiệu Mercedes C- Class đời 2004 màu xanh sáng, biển New Jersey số NLP 745, đăng ký dưới tên Arthur Rhyme.
• Vết máu trên cửa và sàn phía sau xe (ADN trùng khớp với nạn nhân).
• Khăn lau dính máu, trùng khớp với bộ khăn tìm thấy tại căn hộ của nạn nhân (ADN trùng khớp với nạn nhân). • Đất với thành phần giống như mẫu đất tại Công viên Clinton State.
Nhà Arthur Rhyme:
• Gel cạo râu Edge Advanced, có chứa lô hội, có liên hệ với loại tìm thấy tại hiện trường.
• Bánh giòn hiệu Pringles không chất béo, vị thịt nướng.
• Phân bón hiệu TruGro (tìm thấy trong ga ra).
• Bộ dao Chicago Cutlery, cùng loại MW.
• Giày Alton EZ-Walk cỡ 10 1 /2 với dấu giày tương tự như dấu tìm thấy tại hiện trường.
• Thư quảng cáo gửi trực tiếp từ phòng tranh Wilcox, Boston và phòng tranh Mỹ thuậy Anderson-Billings, Carmel, đều về các buổi triển lãm tranh của Harvey Prescott.
• Một hộp găng tay cao su Safe-Hand có thành phần cao su tương tự như vết tìm thấy tại hiện trường (tìm thấy trong ga ra).
“Anh nghĩ sao?”; Rhyme hỏi.
“Một nửa trong số tang vật tìm thấy tại nhà anh họ nằm trong xe hoặc ga ra. Đặt lén tang vật vào những chỗ đó dễ hơn trong nhà nhiều.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
Chuông cửa lại reo. Một lát sau, Rhyme nghe tiếng bước chân của Thom chỉ có một mình. Rhyme thầm nghĩ liệu có phải ai đó vừa giao một bưu kiện hay không. Nhưng rồi một ý nghĩ khác lóe lên: hôm nay là chủ nhật. Ai đó có thể trong trang phục dã ngoại và giày chạy đang bước vào, loại giày này sẽ không gây ra bất cứ tiếng động nào trên sàn nhà.
Tất nhiên rồi.
Ron Pulaski xuất hiện, rụt rè gật đầu chào.
Cậu ta không còn là lính mới vào nghề, mà đã là nhân viên tuần tra mặc đồng phục được vài năm. Nhưng trông vẫn chẳng khác gì lúc mới vào ngành, vì thế Rhyme coi cậu ta như là lính mới. Mà có khi sẽ mãi mãi như thế.
Dưới chân cậu ta đúng là một đôi Nike không gây ra chút tiếng động nào, nhưng cậu ta diện một chiếc sơ mi Hawaii lòe loẹt phủ ra ngoài quần jean xanh. Mái tóc vàng được vuốt keo khá sành điệu, một vết sẹo to trên trán, kỷ niệm từ vết đánh khiến cậu ta suýt chết trong vụ đầu tiên tham gia cùng Rhyme và Sachs. Cú đòn mạnh đến mức gây chấn thương sọ não, thiếu chút nữa cậu ta đã phải ra khỏi ngành, chàng trai trẻ đã quyết tâm luyện tập phục hồi chức năng và trụ lại được trong lực lượng cảnh sát New York, một quyết tâm mà Rhyme là lý do quan trọng (tất nhiên, cậu ta chỉ tâm sự chuyện này với Sachs, chính cô đã kể lại với nhà tội phạm học).
Cậu cảnh sát trẻ ngẩn người ra nhìn bộ đồ dạ hội của Cooper rồi lên tiếng chào cả hai người. “Bát đĩa đã sạch bong rồi chứ, Pulaski? Tưới hoa chưa? Đồ ăn thừa đã cất vào ngăn lạnh chưa?” “Tôi đã đến đây ngay lập tức, thưa ông.”
Ba người đang xem xét vụ án thì nghe thấy tiếng Sachs vang lên từ cửa. ‘Một vũ hội hóa trang’ cô ngắm nhìn bộ đồ dạ hội của Cooper và chiếc áo lòe loẹt của Pulaski. Quay về phía anh chàng chuyên gia phòng thí nghiệm, cô nói, “Trông anh bảnh lắm… Khi khen anh chàng nào đó trong trang phục dạ hội, người ta dùng từ ‘bảnh’ đúng không?”
“Buồn thay, bây giờ trong đầu tôi chỉ có sáu chữ: bị loại ở vòng bán kết.”
“Gretta đón nhận thất bại không đến nỗi nào chứ?”
Cô bạn gái người Scandinavia xinh đẹp của anh, như anh ta nói, “đang bù khú với đám bạn và nhấn chìm nỗi buồn bằng Aquavit. Món đồ uống quốc hồn quốc túy ở quê cô ấy. Nhưng, quả thực đó là một thứ không thể nào uống nổi.”
“Mẹ anh dạo này thế nào?”
Cooper sống cùng mẹ, từ xưa đến nay vốn là một quý bà hay bẳn gắt.
“Mẹ tôi vẫn ổn. Bà đang ra ngoài ăn trưa ở Nhà hàng Boat House.”
Sachs cũng hỏi thăm về cô vợ của Pulaski và hai đứa con nhỏ. Rồi nói thêm: “Cảm ơn vì đã đến vào ngày chủ nhật,” cô nói với Rhyme: “chúng ta đánh giá rất cao điều ấy, đúng không anh?” “Chắc chắn rồi,” anh trả lời. “Bây giờ, chúng ta có thể bắt tay vào việc… Vậy em đã có gì rồi?”; anh nhìn chăm chăn vào cặp tài liệu màu nâu dày cộm cô đang cầm.
“Danh sách bằng chứng và ảnh chụp hiện trường vụ trộm tiền xu và vụ cưỡng dâm.” “Các tang vật hiện đang nằm ở đâu?”
“Tại kho lưu trữ tang vật ở Long Island.”
“Được rồi, hãy cùng xem nào.”
Cũng như cô từng làm với hồ sơ vụ án của anh họ Rhyme, Sachs cầm lấy cây bút và bắt đầu viết lên một tấm bảng khác.
Ngày 27 tháng 3
• Tội danh: Giết người, cướp sáu hộp tiền xu hiếm
• Nguyên nhân tử vong của nạn nhân: mất máu, sốc do bị đâm nhiều nhát.
• Địa điểm: khu Bay Ridge, Brooklyn.
• Nạn nhân: Howard Schwartz.
• Nghi phạm: Randall Pemberton.
Bằng chứng trong nhà nạn nhân:
• Mỡ bôi trơn.
• Vết keo xịt tóc đã khô.
• Sợi polyeste.
• Dấu giày cỡ 9 7/2 loại Bass Walker.
• Nhân chứng thông báo nhìn thấy một người đàn ông mặc áo vét màu nâu vàng leo lên một chiếc Honda Accord màu đen.
Bằng chứng tại nhà và trong xe của nghi phạm:
• Mỡ bôi trơn dính trên cán ô, trùng khớp với loại tìm thấy ở nhà nạn nhân.
• Một đôi giày cỡ 9 1/2 loại Bass walker.
• Keo xịt tóc clairol, trùng khớp với vết tìm thấy ở nhà nạn nhân.
• Dao/Vết dính trên cán:
+ Vết đất không khớp với dấu vết nào tại hiện trường và nhà nghi phạm.
+ Vết bìa các tông cũ.
• Dao/Vết trên lưỡi dao:
+ Máu. Kết quả xét nghiệm trùng khớp với máu nạn nhân.
• Nghi phạm sở hữu một chiếc Honda Accord màu đen đời 2004.
• Tìm thấy một đồng xu được xác định nằm trong bộ sưu tập của nạn nhân.
• Một chiếc áo vét màu nâu vàng hãng Culberton Outdoor Company. Mẩu sợi polyester trùng khớp với mẫu tìm thấy tại hiện trường.
• Một thảm len trong xe. Mẩu sợi len trùng khớp với mẫu tìm thấy tại hiện trường.
Ghi chú: Trước phiên tòa, các nhân viên điều tra đã kiểm tra những người môi giới tiền xu hiếm trong khu vực thành phố hoặc qua Internet. Không ai có những đồng xu bị đánh cắp.
“Như vậy kẻ tình nghi của chúng ta đánh cắp những đồng xu đó, hắn đã giữ chúng lại. Và vết đất không khớp với dấu vết nào tại hiện trường… Có nghĩa là, rất có thể nó xuất phát từ nơi ở của kẻ tình nghi. Nhưng đó là loại vết đất quái quỷ gì? chẳng lẽ bọn họ không phân tích nó sao?” Rhyme lắc đầu. “Okay, anh muốn xem các tấm ảnh. Chúng đâu?”
“Em đang lấy ra đây. Đợi chút.”
Sachs lấy một cuộn băng dính và dán bản sao của các tấm ảnh lên chiếc bảng trắng thứ ba. Rhyme điều khiển xe lăn lại gần hơn, nheo mắt nhìn chăm chú vào những tấm ảnh chụp hiện trường. Nơi ở của người sưu tập tiền xu rất ngăn nắp, trong khi nhà nghi phạm thì ngược lại. Nhà bếp rất bừa bộn, đồng xu và con dao được tìm thấy dưới bồn rửa, bàn ăn đầy bát đĩa bẩn và các hộp các tông đựng thức ăn. Trên mặt bàn có một tập bưu phẩm, phần lớn đã bị xé mở. “Vụ tiếp theo,” anh ra lệnh. “Bắt đầu đi.” Anh cố không để giọng mình lộ ra sự sốt ruột.
• Tội danh: giết người, cưỡng dâm.
• Nguyên nhân tử vong của nạn nhân: bị bóp cổ.
• Địa điểm: Brooklyn.
• Nạn nhân: Rita Moscone.
• Nghi phạm: Joseph Knightly.
Bằng chúng trong căn hộ nạn nhân:
• Vết xà phòng rửa tay hiệu Colgate-Palmolive.
• Chất bôi trơn bao cao su.
• Sợi thừng.
• Vết bụi đất dính vào băng dính, không trùng khớp với mẫu nào trong căn hộ.
• Băng dính hiệu American Adhesive.
• Vết găng cao su non.
• Sợi len/Polyester, màu dden.
• Tàn thuốc lá trên người nạn nhân (xem ghi chú bên dưới).
Bằng chứng tại nhà nghi phạm:
• Bao cao su Durex có chất làm trơn tương tự như loại tại nơi ở của nạn nhân.
• Một cuộn dây thừng, mẫu sợi trùng khớp với sợi tại hiện trường.
• Một đoạn dây thừng cùng loại trên dài sáu mươi centimet, có dính máu của nạn nhân, cùng một sợi BASF B35 nylon 6 dài năm centimet, rất có thể từ tóc của một con búp bê.
• Xà phòng hiệu Colgate-Palmolive.
• Găng cao su non, trùng khớp với vết tại hiện trường.
• Tất nam giới bằng sợi len/polyester màu đen, trùng khớp với mẫu sợi tại hiện trường. Một đôi tương tự tìm thấy trong ga ra, có dính máu nạn nhân.
• Tàn thuốc lá từ thuốc lá điếu hiệu Tareyton (xem nhi chú bên dưới).
“Nghi phạm giữ lại đôi tất dính máu nạn nhân và đem theo về nhà? Thật lố bịch. Bằng chứng được sắp đặt trước.” Rhyme đọc lần nữa bản danh sách. “Cái ‘ghi chú bên dưới’ đó là gì vậy?” Sachs đã tìm ra: Vài đoạn ghi chú của thám tử phụ trách điều tra nhằm nhắc nhở ủy viên công tố về những rắc rối có thể xảy ra với vụ này. Cô đưa chúng cho Rhyme.
Kẽ hở:
Một số kẽ hở tiềm tàng mà bên bào chữa có thể đưa ra trước tòa:
• Bằng chứng chưa xác định được nguồn gốc: vết tàn thuốc lá giống nhau được tìm thấy tại hiện trường vụ án và nhà nghi phạm nhưng cả nạn nhân và nghi phạm đều không hút thuốc. Đã kiểm tra các cảnh sát bắt giữ nghi phạm cùng nhân viên điều tra hiện trường, nhưng thám tử phụ trách điều tra cam đoạn họ không phải là người để lại dấu vết này. • Không tìm ra dấu vết nào cho thấy mối liên quan về ADN, ngoại trừ vết máu của nạn nhân.
• Nghi phạm có một bằng chứng ngoại phạm, có nhân chứng khẳng định chính mắt mình nhìn thấy nghi phạm ở bên ngoài nơi ở của mình, cách nơi xảy ra vụ án khoảng bốn dặm, vào khoảng thời gian xảy ra vụ án. • Nhân chứng là một người vô gia cư bị nghi ngờ được nghi phạm cho tiền.
“Có bằng chứng ngoại phạm,” Sachs chỉ ra “Nhưng nhân chứng không được bồi thẩm đoàn tin tưởng. Rõ ràng là vậy rồi.”
“Anh nghĩ sao, Mel?” Rhyme hỏi.
“Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Mọi thứ liên kết với nhau một cách quá thuận lợi.” Pulaski gật đầu. “Keo xịt tóc, xà phòng, các mẫu sợi, vết chất bôi trơn… mọi thứ.” Cooper nói tiếp: “Chúng đều là những lựa chọn hiển nhiên khi muốn sắp đặt tang vật. Và hãy nhìn ADN
xem, không phải của nghi phạm tại hiện trường, mà là của nạn nhân tại nhà nghi phạm. Dễ dàn xếp hơn nhiều.”
Rhyme tiếp tục chậm rãi xem xét kỹ lưỡng các bản danh sách.
Sachs nói thêm: “Nhưng không phải mọi dấu vết đều trùng khớp, vết bìa các tông cũ và vết đất không hề khớp với bất cứ hiện trường nào cả.”
Rhyme nói: “Và vết tàn thuốc lá nữa, cả nạn nhân lẫn gã bị gài bẫy đều không hút thuốc. Có nghĩa là rất có thể chúng xuất phát từ thủ phạm thực sự.”
Pulaski hỏi: “Thế còn sợi tóc búp bê thì sao? Điều đó có nghĩa là hắn có con không?” Rhyme ra lệnh: “Dán những bức ảnh lên. Hãy thử cùng xem qua xem sao.”
Cũng như các hiện trường, căn hộ của nạn nhân cũng như ngôi nhà và ga ra của nghi phạm đã được Đội Điều tra hiện trường chụp lại một cách chu đáo. Rhyme xem qua các bức ảnh. “Không hề có búp bê. Chẳng có món đồ chơi nào hết. Rất có thể kẻ sát nhân thực sự có con hay từng tiếp xúc với đồ chơi. Hắn hút thuốc, hay ít nhất có tiếp xúc với thuốc lá. Tốt, ồ, chúng ta đang hướng tới một điều gì đó.”
“Hãy lập ra một bản danh sách các đặc điểm. Chúng ta đã gọi hắn là ông X. Nhưng cần thêm điều gì đó cho tên thủ phạm này… Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
“Hai mươi hai tháng Năm,” Pulaski nói.
“Okay. Đối tượng bí ẩn Năm Hai Hai. Sachs, nếu em có thể…” Anh gật đầu hướng về phía một tấm bảng trắng. “Hãy bắt đầu bản mô tả đặc điểm.”
Mô tả đặc điểm ĐTBA 522
• Nam giới.
• Có thể hút thuốc hay sống/làm việc với người hút thuốc, hoặc ở gần nguồn gây ra tàn thuốc.
• Có con hoặc sống/làm việc gần nơi có trẻ con hay nơi có nguồn đồ chơi.
• Quan tâm tới tác phẩm nghệ thuật, tiền xu cổ?
Bằng chứng không sắp đặt trước
• Vết bụi đất.
• Vết bìa các tông cũ.
• Tóc búp bê, sợi BASF B35 nylon 6.
• Tàn thuốc lá hiệu Tareyton.
Được rồi, dù sao cũng là bước khởi đầu, anh thầm nghĩ, dù chưa có gì đáng kể.
“Chúng ta có nên gọi cho Lon và Malloy không?” Sachs hỏi.
Rhyme giễu cợt: “Và nói với họ cái gì đây?” Anh hất hàm về phía tấm bảng. “Anh nghĩ cuộc điều tra
nhỏ lén lút của chúng ta sẽ nhanh chóng bị khép lại.”
“Ý ông là chuyện này hoàn toàn không chính thức?” Pulaski hỏi.
“Chào mừng đến với thế giới ngầm,” Sachs nói.
Anh chàng cảnh sát trẻ cố tìm cách tiêu hóa thông tin vừa được cập nhật.
“Vì thế chúng tôi phải hóa trang,” Cooper đế thêm, đồng thời chỉ tay vào những dải sọc sa tanh đen trên chiếc quần dạ hội đang mặc. Có lẽ anh còn nháy mắt nữa nhưng Rhyme không chắc cặp mắt sau đôi kính dày cộp của anh ta vừa làm những gì.
“Bước tiếp theo của chúng ta là gì?”
“Sachs, hãy gọi đến Đội Điều tra hiện trường ở Queens. Chúng ta sẽ không thể tiếp cận trực tiếp các bằng chứng liên quan tới vụ của anh họ tôi. Vì phiên tòa sắp diễn ra nên toàn bộ bằng chứng nằm dưới sự giám sát tại văn phòng của ủy viên công tố. Nhưng tìm hiểu xem liệu kho lưu trữ tang vật có thể gửi các bằng chứng liên quan tới hai vụ án trước đây cho chúng ta, cưỡng dâm và đánh cắp tiền xu. Tôi muốn vết đất, bìa các tông và mẫu sợi dây thừng. Còn Pulaski, cậu hãy chạy tới Big Building. Tìm hiểu hồ sơ của tất cả các vụ án mạng xảy ra trong sáu tháng vừa qua.”
“Tất cả các vụ án mạng?”
“Ngài thị trưởng đang làm sạch thành phố nên cậu không lo là có phải tìm quá nhiều đâu. Hãy tạ ơn Chúa là chúng ta không phải đang ở Detroit hay Washington, nơi đầy rẫy các loại tội phạm. Flintlock là người nhớ ra hai vụ này. Tôi dám cá vẫn còn nhiều vụ nữa. Hãy tìm những động cơ phạm tội có thể là trộm cắp, hoặc cưỡng dâm và kết thúc bằng án mạng. Bằng chứng theo lớp rõ ràng, kèm theo một cú điện thoại nặc danh ngay sau khi tội ác diễn ra. À, và cả một nghi phạm luôn thề rằng anh ta vô tội nữa.”
“Okay, thưa ông.”
“Còn chúng ta?” Mel Cooper hỏi.
“Chúng ta đợi,” Rhyme lẩm bẩm, như thể từ anh vừa nói là điều gì thô tục.
CHƯƠNG 9
Một chuyến đi săn tuyệt hảo.
Lúc này tôi hoàn toàn cảm thấy hài lòng. Bước xuống phố, tâm trạng hạnh phúc, mãn nguyện. Những hình ảnh mà tôi vừa bổ sung vào bộ sưu tập lướt qua trong tôi – những hình ảnh của Myra 9834. Những hình ảnh do thị giác thu nhận đã được lưu vào trí nhớ. Phần còn lại đã được thu vào chiếc máy quay kỹ thuật số.
Nhẹ nhàng bước xuống phố, quan sát những mười sáu chữ số xung quanh.
Hoàn toàn như một người vô hình, tôi quan sát họ qua những khung cửa sổ.
Những mười sáu chữ số… Tất nhiên tôi không là người duy nhất dùng cách gọi này để ám chỉ con người. Đó là một cách mã hóa thông dụng trong công nghiệp. Nhưng chắc hẳn tôi là người duy nhất thích nghĩ về họ như những mười sáu chữ số và hoàn toàn cảm thấy thoải mái với ý nghĩ đó.
Một con số gồm mười sáu chữ số chính xác và có tác dụng hơn nhiều một cái tên. Những cái tên khiến tôi phát bực. Và sẽ chẳng hay ho gì cho bất cứ ai khi tôi bực bội. Những cái tên… trời ơi, thật kinh tởm. Chẳng hạn, họ ‘Jones’ và ‘Brown’, mỗi cái đều chiếm tới 6% dân số Mỹ. ‘Moore’ chiếm 3% trong khi ‘Smith’, hay được đưa ra làm ví dụ nhất, ngạc nhiên thay, chỉ chiếm có 1%, khoảng ba triệu người trên đất nước này (còn nói về tên, nếu bạn quan tâm: ‘John’ là quán quân chăng? Sai bét. Cái tên này chiếm vị trí á quân: 3,2%. ‘James’ mới là nhà vô địch với 3,3%).
Vậy hãy thử nghĩ tới những rắc rối. Ai đó nói: ‘James Smith’. Được thôi, anh ta muốn nói tới James Smith nào đây, khi có tới hàng trăm nghìn gã có cái tên đó và đấy mới kể những kẻ còn đang sống. Thử đếm luôn tất cả những anh chàng James Smith từng xuất hiện trong lịch sử mà xem. Ôi, Chúa ơi.
Chỉ nghĩ đến đó thôi cũng đủ khiến tôi phát điên.
Bực bội…
Và hậu quả của sự nhầm lẫn có thể rất nghiêm trọng. Giả dụ ta đang ở Berlin vào năm 1938. Liệu Wilhem Frankl[19]là gã Do thái Wilhem Frankl hay một công dân đáng kính cùng tên khác? Đó là cả một khác biệt lớn lao. Chỉ có những gã hacker là những thiên tài không thể chối cãi được mới có thể lần tìm được danh tính cá nhân (và bọn họ cũng phải dùng đến máy tính để làm điều đó!).
Những cái tên dẫn tới nhầm lẫn. Nhầm lẫn là nhiễu loạn. Nhiễu loạn gây ra tạp nhiễm. Tạp nhiễm cần phải bị loại trừ.
Có thể có hàng tá Alice Sanderson nhưng chỉ có duy nhất một Alice 3895, người đã biến mất để tôi có thể sở hữu bức tranh vẽ một gia đình Mỹ của ngài Prescott đáng mến.
Myra Weinburg? À, cái tên này không phổ biến lắm. Nhưng vẫn nhiều hơn một. Thế nhưng chỉ có một Myra 9834 hy sinh bản thân cô nàng để tôi có được cảm giác thỏa mãn.
Tôi dám cược thế giới này không thiếu gì DeLeon Williams, nhưng chỉ có 6832 – 5794 – 8891 – 0923 sẽ phải ngồi tù suốt đời vì tội cưỡng dâm và sát hại cô gái kia, để sau đó tôi có thể tự do lặp lại điều mình muốn.
Lúc này tôi đang trên đường tới nhà anh ta (trên lý thuyết là nhà của bạn gái anh ta), mang theo đủ bằng chứng để đảm bảo anh chàng tội nghiệp sẽ bị kết án vì tội cưỡng dâm hoặc giết người sau một giờ tranh tụng.
DeLeon 6832…
Tôi đã gọi tới 911, báo lại đã trông thấy một chiếc Dodge màu be, đúng loại xe của anh ta, lao như điên khỏi nơi xảy ra tội ác, trong xe có một người đàn ông da đen. “Tôi trông thấy rõ hai tay hắn ta! Chúng dính đầy máu! Ôi, các vị hãy tới đây ngay! Tiếng thét thật khủng khiếp.”
Anh bạn sẽ là một kẻ tình nghi hoàn hảo, DeLeon 6832. Khoảng một nửa số kẻ tình nghi thực hiện hành động cưỡng dâm vì rượu hay ma túy (anh chàng này chỉ uống bia một cách chừng mực, nhưng đã phải đi cai nghiện rượu cách đây vài năm). Đa số nạn nhân bị cưỡng dâm quen biết thủ phạm (DeLeon 6832 đã từng làm mộc tại cửa hàng nơi Myra 9834 quá cố thường đến mua hàng, vì vậy hoàn toàn hợp lý khi giả thiết rằng họ có biết nhau, mặc dù trên thực tế là không).
Phần lớn thủ phạm cưỡng dâm đều từ ba mươi tuổi trở xuống (đúng là tuổi của DeLeon 6832). Không giống như đám buôn bán hay dùng ma túy, những kẻ này thường hiếm khi có tiền sự, với ngoại lệ là những vụ bạo hành gia đình và chàng trai của tôi đã một lần bị kết tội hành hung bạn gái, quá hoàn hảo đúng không? Hầu hết, đều xuất thân từ các tầng lớp thấp trong xã hội và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn (anh
chàng này đã thất nghiệp nhiều tháng).
Và bây giờ, thưa quý ông quý bà bồi thẩm đoàn, làm ơn ghi nhớ rằng hai ngày trước khi xảy ra vụ cưỡng dâm, bị cáo đã mua một hộp bao cao su Trojan Enz, cùng loại với hai chiếc tìm thấy trên thi thể nạn nhân (còn về hai chiếc bao cao su đã thực sự được sử dụng của chính tôi, tất nhiên đã biến mất từ lâu. Mọi thứ dính dáng đến ADN đều rất nguy hiểm, đặc biệt lúc này khi cảnh sát New York đang tập hợp mẫu vật từ mọi loại tội phạm, không chỉ riêng các vụ cưỡng dâm. Ở Anh, không lâu nữa bạn sẽ bị lấy mẫu ADN khi dính trát hầu tòa chỉ vì chú cún cưng của bạn tè bậy ra hè phố hay vì bạn quay xe nguy hiểm trên đường).
Còn một dữ liệu nữa rất có thể cảnh sát sẽ điều tra đến nếu bọn họ thuộc bài. DeLeon 6832 là một cựu binh, đã phục vụ một thời gian ở Iraq, có vài câu hỏi được đặt ra với khẩu súng ngắn 45-caliber (tỷ số giữa chiều dài và đường kính trong của nòng súng) của anh ta khi anh chàng được giải ngũ. Anh ta đã không nộp lạo vũ khí. Nó đã bị ‘thất lạc’ trong chiến đấu.
Thế nhưng, lạ lùng thay, vài năm trước anh ta lại đi mua đạn dùng cho súng 45-caliber. Nếu đám cảnh sát biết được chuyện này, một chuyện dễ như bỡn với bọn họ, có thể họ sẽ đi đến kết luận kẻ tình nghi có vũ khí. Điều tra kỹ hơn chút nữa, họ sẽ phát hiện ra anh ta từng điều trị tại một bệnh viện dành cho cựu chiến binh vì hội chứng căng thẳng sau sang chấn tâm lý.
Một kẻ tình nghi thần kinh không ổn định, có vũ khí?
Có cảnh sát viên nào lại không lựa chọn nổ súng trước?
Hãy hy vọng là thế. Không phải lúc nào tôi cũng hoàn toàn tin tưởng vào những mười sáu chữ số tôi đã chọn. Chẳng thể nào biết trước về những bằng chứng ngoại phạm từ trên trời rơi xuống. Hay những bồi thẩm đoàn ngu ngốc đến không tưởng tượng nổi. Rất có thể DeLeon 6832 sẽ kết thúc ngày hôm nay trong một chiếc bao đựng rác. Tại sao không? Chẳng lẽ tôi không đáng được có chút vận may để bù lại những bực bội Chúa đã trút lên đầu sao? Không phải lúc nào cuộc sống cũng dễ dàng.
Sẽ mất chừng nửa tiếng đi bộ để tới được nhà anh chàng tại khu Brooklyn. Vẫn nguyên cảm giác thỏa mãn từ chuyến đi săn Myra 9834, tôi thực sự thấy thích chuyến đi bộ. Chiếc ba lô đè nặng lên cột sống. Trong đó không chỉ chứa đựng những bằng chứng cần xếp đặt như chiếc giày để lại dấu vết không lẫn vào đâu được của DeLeon 6832, mà cả một số báu vật tôi đã tìm thấy trong khi dạo phố hôm nay. Trong túi quần, một chiếc móng tay. Tôi muốn thứ gì đó riêng tư hơn nhưng ở Manhattan những vụ án mạng đều trở nên to chuyện và đồ vật bị mất sẽ gây quá nhiều chú ý.
Tôi rảo bước nhanh hơn, khoan khoái cảm nhận nhịp va đập đều đặn của ba lô vào lưng mình. Tận hưởng ngày Chủ nhật ấm áp quang đãng cũng như những kỷ niệm về chuyến đi săn Myra 9834. Tận hưởng cảm giác thư thái hoàn toàn khi biết rõ rằng, cho dù là kẻ nguy hiểm nhất ở thành phố New York, tôi cũng hoàn toàn không thể bị chạm đến, vô hình với tất cả những mười sáu chữ số muốn làm hại tôi.
- - * - -
Ánh sáng nháy lên khiến anh ta chú ý.
Từ dưới đường chiếu lên.
Đỏ.
Lại một chớp nháy nữa. Xanh.
Chiếc điện thoại như bị bóp nát trong bàn tay DeLeon Williams. Anh đang gọi cho một người bạn, cố tìm ra kẻ từng thuê anh ta làm việc. Gã này đã chuồn khỏi thành phố sau khi việc làm đồ mộc của gã thất bại. Chỉ để lại sau lưng những món nợ, trong đó có hơn bốn nghìn đô của DeLeon Williams, người làm thuê đang lâm vào tình cảnh khốn cùng nhất.
“Leon,” gã bạn ở đầu dây bên kia nói, “chính tao cũng không biết thằng khốn nạn đó đang ở đâu. Nó làm tao phải gánh…”
“Tao sẽ gọi cho mày sau.”
Click.
Hai lòng bàn tay của người đàn ông vạm vỡ tứa mồ hô khi anh ta ghé mắt nhìn qua tấm rèm treo ngày thứ Bảy (DeLeon Williams cảm thấy rất, rất tồi tệ vì Janeece, cô bạn gái anh đã phải trả tiền, trời ơi, anh căm ghét cảnh thất nghiệp hiện tại). Anh nhận thấy những ánh đèn nháy xuất phát từ hai chiếc xe cảnh sát không số hiệu. Hai tay thám tử ra khỏi xe, cởi khuy áo khoác, chắc chắn không phải vì ngày mùa xuân quá nóng. Những chiếc xe rồ máy lao đi chặn hai đầu đường.
Bọn họ nhìn quanh một cách thận trọng, sau đó bước thẳng tới chiếc Dodge màu be của Williams, kiểm tra biển số và ngó vào trong xe. Một người lấy bộ đàm ra nói gì đó. Những hy vọng mong manh cuối cùng của anh ta rằng đây chỉ là một sự tình cờ lạ lùng nào đó bỗng chốc tan thành mây khói. Hai mi mắt Williams nhắm nghiền lại trong cơn tuyệt vọng cùng lúc một tiếng thở dài nặng trịch thoát
ra từ hai buồng phổi.
Con đĩ đó lại giở trò rồi.
Con đĩ đó…
Năm ngoái, Williams đã dính dáng đến một người đàn bà không chỉ gợi cảm mà còn thông minh và tử tế. Hay ít ra lúc đầu có vẻ là như vậy. Tuy nhiên, khi hai người bắt đầu một mối quan hệ nghiêm túc, cô ả đột nhiên biến thành một mụ phù thủy điên khùng. Trái tính trái nết, ghen tuông, hằn học. Một ả đầu óc có vấn đề… Anh sống cùng người đàn bà này chừng bốn tháng. Đó là quãng thời gian tệ hại nhất trong đời anh. Suốt thời gian đó, anh ta phải làm mọi cách để bảo vệ những đứa con của cô ả khỏi chính mẹ ruột chúng.
Kết cục là sự tử tế đã khiến anh phải vào tù. Một buổi tối, Leticia đã vung nắm đấm với con gái mình vì rửa nồi không sạch. Theo phản xạ, Williams đã nắm lấy cánh tay cô ta, trong khi đứa bé khóc nấc lên và hoảng hồn bỏ chạy. Anh dỗ cho cô ả dịu xuống và mọi việc có vẻ được thu xếp ổn thỏa. Nhưng mấy tiếng đồng hồ sau, khi anh đang ngồi ngoài hiên nhà thầm suy nghĩ xem làm cách nào có thể đưa bọn trẻ thoát khỏi đây, có thể là trở lại với bố chúng, thì cảnh sát tới và anh bị bắt.
Leticia một mực tố cáo rằng cô ta bị hành hung, đồng thời đưa ra cánh tay bị bầm lúc anh giữ cô ta lại để làm bằng chứng, Williams sững sờ. Anh giải thích chuyện gì đã xảy ra song các nhân viên cảnh sát không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc bắt anh. Vụ việc bị đưa ra tòa xử nhưng Williams không muốn để đứa bé gái ra làm chứng cho mình, măc dù cô bé muốn như vậy. Anh bị buộc tội hành hung cấp độ nhẹ và bị kết án lao động công ích.
Nhưng trong quá trình diễn ra phiên tòa, anh đã chứng minh được sự tàn nhẫn của Leticia. Công tố viên tin lời anh và chuyển tên người đàn bà tới Bộ Phúc lợi xã hội. Một nhân viên công tác xã hội đến nhà cô ta điều tra về tình trạng lũ trẻ và chúng được đưa khỏi đó, quyền nuôi dưỡng được chuyển cho người cha.
Leticia bắt đầu quấy nhiễu Williams. Chuyện đó diễn ra suốt một thời gian dài, sau đó cô ta biến mất, từ mấy tháng trước và Williams vừa mới bắt đầu cho rằng anh đã thoát nạn…
Giờ lại xảy ra chuyện này. Anh biết rõ cô ả chắc chắn là kẻ đứng đằng sau.
Jesus, Chúa của chúng con, liệu một người bình thường có thể chịu đựng được đến mức nào nữa đây? Anh lại nhìn xuống. Không! Hai gã thám tử đã rút súng ra!
Một cảm giác kinh hoàng khiến cả người anh gai lạnh. Chẳng lẽ cô ta đã hành hung một trong những đứa con của mình rồi tố cáo anh là thủ phạm? Anh sẽ không hề ngạc nhiên nếu đúng là vậy. Hai tay Williams run bần bật, anh khóc nấc lên, nước mắt chảy thành dòng lăn xuống khuôn mặt to bè. Anh cảm thấy đúng cảm giác hoảng loạn đã ám ảnh mình từ hồi chiến tranh trong sa mạc. Khi đó, anh ngoảnh sang phía cậu bạn, đúng lúc chứng kiến khuôn mặt đang cười cợt của chàng trai người Alabama biến thành một đám bầy nhầy đầy máu vì một quả lựu đạn từ súng phóng lựu của đám quân Iraq. Trước khoảnh khắc đó, Williams ít nhiều vẫn ổn. Phơi mình dưới ánh nắng chói chang, trở thành mục tiêu ngắm bắn, tối tăm mặt mũi vì cát hất lên người khi những viên đạn cày tung sa mạc. Nhưng tận mắt chứng kiến Jason biến thành một thứ khủng khiếp như thế đã làm anh bị chấn động sâu sắc. Kể từ đó, anh phải vật lộn chung sống với hội chứng căng thẳng sau sang chấn tâm lý. Giờ đây nó đang bùng lên dữ dội trong anh. Nỗi sợ hãi hiển hiện, vô phương kháng cự.
“Không, không, không, không.” Há hốc miệng, vật vã cố thở lấy hơi. Anh đã ngừng uống thuốc từ nhiều tháng nay vì tin rằng mình đã khá hơn.
Nhưng lúc này, chứng kiến mấy tay thám tử lượn lờ vờn quanh ngôi nhà, DeLeon Williams hoảng hốt thầm nghĩ: Chuồn khỏi nơi này ngay lập tức, chạy mau!
Anh cần phải lánh xa nơi này. Để Janeece không hề liên quan đến mình, để cô và con trai cô được yên, anh thực lòng yêu quý hai mẹ con họ. Cần phải biến mất. Anh cài xích an toàn cửa trước, khóa chặt chốt cửa rồi vội vàng chạy lên cầu thang tìm một chiếc túi, hối hả nhét vào đó tất cả những gì có thể nghĩ ra được. Những sự lựa chọn chẳng có chút hợp lý nào: kem cạo râu nhưng không có dao cạo, đồ lót nhưng quên áo sơ mi, một đôi giày song chẳng có lấy một chiếc tất.
Anh lấy ra một thứ khác từ trong phòng vệ sinh.
Khẩu súng quân dụng, một khẩu Colt 45-caliber. Đã được tháo đạn. Anh không hề nghĩ đến chuyện bắn ai nhưng có thể sử dụng nó để mở đường thoát qua đám cảnh sát hoặc cướp một chiếc xe nếu cần. Tất cả những gì anh có thể nghĩ được chỉ là: Chạy trốn!
Williams nhìn lần cuối bức ảnh chụp cùng Janeece và con trai cô trong một lần đi chơi ở khu giải trí Six Flags. Anh lại bật khóc, sau đó gạt nước mắt, khoác chiếc túi lên vai, nắm chặt khẩu súng lục nặng trịch và lao xuống cầu thang.
CHƯƠNG 10
“Xạ thủ bắn tỉa tuyến đầu đã vào vị trí chưa?”
Bo Haumann, một cựu thượng sĩ quân đội, hiện đang chỉ huy Đơn vị Can thiệp khẩn cấp, đội SWAT của Sở cảnh sát New York, chỉ về phía một tòa nhà cho phép tầm ngắm hoàn hảo, khống chế toàn bộ khoảng sân sau của ngôi nhà biệt lập, nơi DeLeon Williams đang sống.
“Rồi, thưa ngài,” một sĩ quan đứng gần đó nói. “Johnny đã được yểm trợ phía sau.” “Tốt.”
Haumann, người đàn ông với mái tóc xám cắt ngắn, rắn như hòn đá tảng, ra lệnh cho hai toán đặc nhiệm vào vị trí. “Cẩn thận, tránh bị lộ.”
Khi một cuộc gọi đến thông báo về một vụ cưỡng dâm, giết người và một manh mối chắc chắn dẫn tới kẻ tình nghi, Haumann đang ở trong sân sau nhà mình, cách chỗ này không xa, loay hoay tìm cách nhóm chỗ than còn sót lại năm ngoái, ông giao lại nhiệm vụ nhóm than cho cậu con trai, mặc đồ, mang vũ khí lên người rồi hối hả rời khỏi nhà, thầm tạ ơn Chúa vẫn chưa đụng đến lon bia đầu tiên trong ngày. Haumann hoàn toàn có thể lái xe sau khi đã uống vài lon, nhưng ông không bao giờ bắn súng trong vòng tám giờ sau khi dùng đồ có cồn.
Và bây giờ, vào ngày Chủ nhật đẹp trời này, rất có thể họ sẽ có cơ hội chứng kiến một màn đấu súng. Bộ đàm của ông kêu lạch tạch, ông nghe thấy trong tai nghe, “T và T Một gọi Căn cứ, hết.” Đội Tìm kiếm và Theo dõi (T và T) đã băng qua bên kia đường cùng xạ thủ bắn tỉa thứ hai. “Căn cứ đây. Tiến về phía trước, hết.”
“Đã bắt được vài hình ảnh hồng ngoại. Có lẽ có ai đó trong nhà. Không nghe thấy gì.” Có lẽ, Haumann bực bội nghĩ thầm, ông đã xem qua ngân sách dành cho trang bị. Dù không thể nói được cỡ giày và sáng hôm đó bọn họ có dùng chỉ nha khoa không, thì cũng phải biết được chính xác có ai trong nhà chứ.
“Kiểm tra lại.”
Sau một hồi tưởng như vô tận, ông nghe thấy, “T và T Một. Okay, chúng tôi chỉ phát hiện một người trong nhà. Nhìn được tận mắt qua cửa sổ. Chác chắn đó là DeLeon Williams, đã đối chiếu với ảnh nhận dạng, hết.”
“Tốt. Rút lui.”
Haumann gọi tới hai toán đột kích đang bí mật tiếp cận vị trí xung quanh ngôi nhà. “Không có nhiều thời gian để phổ biến mệnh lệnh. Nghe cho rõ đâu. Nghi phạm là một kẻ cưỡng dâm và giết người. Chúng ta muốn tóm sống hắn, nhưng hắn là một kẻ quá nguy hiểm, không được phép để sổng. Nếu hắn có bất cứ hành động kháng cự nào, các anh được bật đèn xanh.”
“Trưởng toán B. Đã nghe rõ. Chúng tôi đã vào vị trí. Đường hẻm, các con phố phía bắc và cửa sau đã được khống chế, hết.”
“Trưởng toán A gọi Căn cứ. Đã nghe rõ đèn xanh. Chúng tôi đã vào vị trí ở cửa trước, khống chế toàn bộ các khu phố phía nam và phía đông.”
“Xạ thủ bẳn tỉa,” Haumann gọi vào bộ đàm. “Các anh nghe rõ đèn xanh chưa?”
“Rõ.” Họ báo thêm đã ‘kéo khóa và nạp đạn’ (câu nói này là một cái cớ quen thuộc để Haumann vặn vẹo vì thực ra nó chỉ đúng với những khẩu súng trường quân dụng MI cổ lỗ, phải kéo khóa nòng ra sau, nạp một kẹp đạn từ trên xuống; với một khẩu súng trường hiện đại không cần phải làm thế. Nhưng giờ không phải lúc lên lớp ai).
Haumann mở dây cài bao đeo khẩu Glock của mình, rồi trườn vào trong con hẻm phía sau ngôi nhà, cũng có mặt tại đây còn có nhiều nhân viên cảnh sát khác mà ngày Chủ nhật, cũng như trường hợp của ông, đã bị thay đổi đột ngột một cách chóng mặt.
Đúng lúc đó một giọng nói vang lên trong tai nghe của ông, “T và T Hai gọi Căn cứ. Tôi nghĩ chúng tôi có gì đó.”
- - * - -
Quỳ trên hai đầu gối, DeLeon Williams thận trọng nhìn qua một khe nứt trên cánh cửa, khe nứt tự nhiên trên mặt gỗ mà anh đã định sửa lại và thấy mấy nhân viên cảnh sát không còn ở ngoài đó. Không, anh thầm chữa lại, không còn nhìn thấy họ nữa. Một sự khác nhau lớn. Anh cảm thấy một tia
lóe sáng của kim loại hay kính sau các bụi cây. Có thể từ những bức tượng chú lùn kỳ quặc hay tượng con hươu trang trí thảm cỏ của cô hàng xóm.
Cũng có thể là từ khẩu súng của một tay cớm.
Kéo theo chiếc túi, anh bò ra sau ngôi nhà, nhìn lén lút ra ngoài. Lần này, anh mạo hiểm nhìn qua cửa sổ, gồng hết sức kiểm soát cơn hoảng loạn của bản thân.
Khoảng sân sau cũng như con hẻm sau nó vắng tanh.
Nhưng một lần nữa anh thầm chỉnh: có vẻ vắng tanh.
Anh cảm thấy một cơn ớn lạnh hoảng hốt của hội chứng cũ, cùng một khao khát lao ra khỏi cửa, rút súng, chạy vào con hẻm, đe dọa bất cứ ai trông thấy, gào thét ra lệnh bắt họ lùi lại. Trong lúc đầu óc anh quay cuồng, anh đưa tay với lấy nắm cửa một cách vô thức. Không…
Hãy khôn ngoan.
Anh ngồi xuống, tựa đầu vào tường, cố làm chậm lại nhịp thở.
Một lát sau, anh đã bình tĩnh trở lại và quyết định thử cách khác. Dưới tầng hầm, có một khung cửa mở ra một khoảng trống hẹp bên hông ngôi nhà. Băng qua hai mét rưỡi bãi cỏ lơ thơ cằn cỗi sẽ có khung cửa dẫn vào tầng hầm nhà bên cạnh. Gia đình Wong đang đi nghỉ cuối tuần, anh đã nhận lời tưới cây giúp họ. Williams nghĩ có thể luồn vào trong, leo lên trên và đi bằng cửa sau nhà họ. Nếu may mắn, đám cảnh sát sẽ không khống chế khoảng sân hẹp đó. Sau đó anh sẽ đi dọc con hẻm ra phố chính và chạy tới ga tàu điện ngầm.
Kế hoạch khó có thể coi là thiên tài, nhưng chí ít cũng cho anh một cơ hội sáng sủa so với việc ngồi im chờ đợi ở đây. Nước mắt lại chảy, cùng cảm giác hốt hoảng.
Thôi đi. Anh từng là lính cơ mà.
Anh đứng dậy, loạng choạng bước xuống tầng hầm.
Phải thoát ngay khỏi chỗ này. Đám cớm có thể phá cửa trước lao vào bất cứ lúc nào. Anh mở chốt khung cửa, trèo lên và chui ra ngoài. Sau đó, bò về phía khung cửa ở tầng hầm ngôi nhà của gia đình Wong, bất giác nhìn về phía tay phải. Lạnh cóng người.
Ôi, lạy Chúa Jesus…
Hai thám tử, một nam một nữ, tay phải lăm lăm súng, đang cúi người ngồi khom lưng trong mảnh sân hẹp bên hông nhà. Bọn họ không nhìn về phía anh mà chăm chú quan sát con hẻm và cửa sau ngôi nhà. Cơn hoảng hốt lại bùng lên. Anh sẽ phải rút khẩu Colt ra đe dọa họ. Bắt họ ngồi xuống, tự còng tay mình, rồi ném bộ đàm đi. Anh ghét phải làm chuyện này, đây là một hành động phạm tội thực thụ. Nhưng không còn lựa chọn nào khác. Rõ ràng bọn họ nghĩ anh đã phạm tội rất khủng khiếp. Phải lấy được súng của họ và bỏ chạy. Rất có thể có một chiếc xe không số hiệu của họ đỗ gần đó. Phải lấy được cả chìa khóa xe.
Liệu có ai đó mà anh không thể trông thấy đang yếm trợ cho họ không?
Anh chỉ còn cách thử vận may của mình.
Nhẹ nhàng đặt chiếc túi xuống, anh bắt đầu lần tìm khẩu súng.
Đúng lúc đó người nữ thám tử quay về phía anh. Williams rên thầm. Mình toi rồi. Janeece, anh yêu em…
Nhưng người phụ nữ chỉ nhìn vào một mảnh giấy, sau đó hơi nheo mắt khi thấy anh. “DeLeon Williams phải không?”
Anh líu cả lưỡi:“Tôi….” Rồi gật đầu, hai tay buông thõng xuống. Anh chỉ biết nhìn chằm chằm vào khuôn mặt xinh đẹp của cô gái, mái tóc đỏ buộc túm đuôi ngựa và đôi mắt lạnh lùng của cô. Cô gái giơ chiếc phù hiệu cảnh sát đang đeo trên cổ lên. “Chúng tôi là nhân viên cảnh sát. Làm cách nào anh ra khỏi nhà được?” Rồi cô nhìn về phía khung cửa sổ và gật đầu. “Anh Williams, chúng tôi đang thực hiện một chiến dịch tại đây. Anh có thể quay vào trong nhà không? Ở đó anh sẽ an toàn hơn.” “Tôi…,” sự hoảng hốt làm giọng anh lạc đi. “Tôi…”
“Ngay lập tức,” cô cương quyết nói. “Chúng tôi sẽ tới gặp anh ngay khi mọi việc xong xuôi. Hãy im lặng. Đừng tìm cách ra khỏi nhà nữa.”
“Tất nhiên. Tôi… Tất nhiên.”
Anh ta bỏ lại chiếc túi và bắt đầu quay trở vào qua khung cửa.
Cô gái nói vào bộ đàm, “Sachs đây. Tôi sẽ mở rộng vành đai, Bo. Hắn ta hẳn sẽ rất thận trọng.” Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy? Williams không mất thời gian đoán già đoán non. Anh ta uể oải chui vào tầng hầm rồi leo lên cầu thang. Lên đến nơi, anh chạy thẳng vào phòng tắm. Nhấc nắp bồn xả nước, thả khẩu súng vào trong. Sau đó, bước về phía cửa sổ, định nhìn ra ngoài lần nữa. Nhưng anh chững lại, chạy cuống cuồng vào nhà vệ sinh, nôn thốc nôn tháo khi vừa kịp đến nơi.
- - * - -
Đúng là kỳ cục, nhưng quả thực tôi thấy thiếu vắng cảm giác khi ở văn phòng, nhất là vào một ngày đẹp trời như hôm nay và những gì tôi vừa có được từ Myra 9834.
Trước hết, tôi luôn yêu công việc. Và tôi thích bầu không khí ở chỗ làm, mối quan hệ đồng nghiệp với các mười sáu chữ số, như một gia đình vậy.
Và không thể không kể đến cảm giác mình là người hữu ích. Được tham gia vào guồng máy kinh doanh chóng mặt của New York (chắc bạn cũng từng nghe tới hai từ ‘số một’, đó là cách nói tôi ghét cay ghét đắng, kiểu ngôn ngữ của số đông. Những nhà lãnh đạo vĩ đại như FDR, Truman, Ceasar, Hitler không cần khoác lên mình chiếc áo khoác kệch cỡm dệt từ thứ ngôn từ khoa trương rẻ tiền của những kẻ đầu óc ngu si đó).
Quan trọng là công việc trợ giúp được cho thú vui ưa thích của tôi. Không, còn quan trọng hơn thế. Nó đóng vai trò cốt tử.
Tình hình của tôi có thể nói là tốt, thậm chí rất tốt. Mỗi khi muốn, chỉ cần vài lời cam kết giả dối là tôi có thể thu xếp được thời gian để theo đuổi đam mê của bản thân. Nếu nhìn vào khuôn mặt hay vị thế của tôi khó ai có thể ngờ sâu thẳm trái tim, tôi là một con người rất khác biệt. Tôi hay làm việc vào dịp cuối tuần. Đó là một trong những khoảng thời gian ưa thích của tôi, tất nhiên nếu tôi không bận bịu thực hiện chuyến đi săn một cô gái xinh đẹp như Myra 9834 hay mua một bức họa, vài cuốn truyện tranh, những đồng tiền xu cổ hoặc một món đồ sứ quý hiếm. Ngay cả khi chỉ có lác đác vài mười sáu chữ số ở văn phòng vào một ngày nghỉ như thứ Bảy, Chủ nhật, những gian phòng vẫn rì rầm âm thanh các bánh xe đang chậm rãi đưa xã hội tiến lên phía trước vào một thế giới mới và mạnh mẽ.
A, một cửa hàng đồ cổ. Tôi dừng bước, nhìn qua cửa kính. Có vài bức họa, đồ lưu niệm, cúp và cả những tờ áp phích khiến tôi rất thích thú. Thật buồn, tôi sẽ không thể quay lại nơi này vì nó nằm quá gần ngôi nhà của DeLeon 6832. Nguy cơ có ai đó tìm ra một mối liên hệ giữa tôi và ‘kẻ cưỡng dâm’ là vô cùng nhỏ, tôi không nên mạo hiểm (tôi chỉ mua tại các cửa hàng hay đi bới đồ cũ. eBay ngó qua thì cũng hay đấy, nhưng mua thứ gì đó qua mạng thì chắc bạn bị điên mất rồi). Vào thời điểm hiện tại dùng tiền mặt vẫn còn là một cách tốt. Nhưng chẳng bao lâu nữa chúng cũng sẽ bị đánh dấu nhận dạng như những thứ khác. Những con chíp RFID (nhận dạng bằng sóng radio) tí hon gắn lên từng tờ giấy bạc hai mươi đô la nào vừa được bạn rút ra từ máy ATM hay chi nhánh ngân hàng nào.
Họ sẽ biết bạn dùng nó để mua một lon côca, chiếc áo lót cho cô bồ hay để thuê một kẻ giết mướn. Thỉnh thoảng, tôi lại nghĩ có lẽ chúng ta nên quay lại với vàng.
Ngoài-vòng-kiểm-soát.
A, anh chàng DeLeon 6832 tội nghiệp. Tôi biết rõ khuôn mặt anh ta nhờ bức chân dung trên giấy phép lái xe, một cái nhìn ngơ ngác, vô hại thẳng vào máy ảnh của nhân viên công vụ. Tôi có thể mường tượng ra vẻ mặt anh chàng khi cảnh sát gõ cửa, chìa ra lệnh bắt giữ vì tội danh cưỡng dâm và giết người. Tôi cũng có thể thấy rõ mồn một cái nhìn kinh hoàng của anh chàng về phía cô bạn gái, Janeece 9810, cũng như cậu con trai mười tuổi của cô nàng, nếu hai người này tình cờ có mặt ở nhà khi đó. Không biết anh ta có phải là một kẻ thích kêu ca không.
Tôi còn cách ba tòa nhà nữa. Và…
Đợi đã… Có gì đó không bình thường.
Hai chiếc Crown Victoria mới tinh đang đậu trên con phố nhỏ rợp cây xanh. Nếu tin vào môn xác suất, sẽ khó có chuyện nhìn thấy loại xe đó ở tình trạng còn ngon lành quanh khu vực này. Hai chiếc giống hệt nhau lại càng khó có khả năng xảy ra, thêm nữa chúng lại đậu kề nhau, trên mui và nóc không hề có lá rụng hay phấn hoa như những chiếc xe khác đậu quanh đó. Chúng vừa tới chưa lâu.
Một cái nhìn lơ đãng vào bên trong, phản xạ tò mò thông thường của khách vãng lai, cho tôi biết chúng là xe cảnh sát.
Không phải là điều cảnh sát hay làm một vụ cãi cọ hay ẩu đả gia đình. Theo con số thống kê, những vụ lôi thôi như thế xảy ra khá thường xuyên ở khu vực này của Brooklyn, nhưng hiếm khi chúng diễn ra vào giờ này, khi mà những két bia vẫn chưa xuất hiện. Và chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy những chiếc xe không phiên hiệu kín đáo, ngoài những chiếc xe tuần tra sơn màu xanh, trắng xuất hiện công khai. Chúng đậu cách chỗ ở của DeLeon 6832 ba tòa nhà… Cần phải cân nhắc tới chi tiết này. Tay chỉ huy đám cảnh sát hoàn toàn có thể nói với nhân viên của mình:” Đây là một thủ phạm cưỡng dâm. Hắn rất nguy hiểm. Chúng ta sẽ xông vào sau mười phút nữa. Đậu xe cách ba tòa nhà rồi qua lại đây. Ngay lập tức.”
Tôi giả vờ hờ hững liếc xuống con hẻm gần nhất. Tệ hơn rồi đây. Một chiếc xe của Đơn vị Can thiệp khẩn cấp thuộc sở cảnh sát New York đang nằm im lìm trong bóng râm. Đám đặc nhiệm. Bọn họ vẫn hay hỗ trợ cho cảnh sát khi vây bắt những kẻ như DeLeon 6832. Nhưng tại sao họ có mặt ở đây sớm vậy được? Tôi mới gọi 911 cách đây nửa giờ (nếu để quá lâu sau chuyến đi săn mới gọi điện thoại, đám cớm có thể đặt ra nghi vấn tại sao đến tận lúc đó tôi vẫn chỉ báo đã nghe thấy tiếng kêu hoặc cho rằng tôi đã nhìn thấy một kẻ đáng ngờ trước đó).
Có hai khả năng giải thích sự có mặt của cảnh sát. Khả năng có lý nhất: ngay sau cú điện nặc danh của
tôi, bọn họ đã tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu tất cả chiếc Dodge màu be đã sử dụng trên năm năm trong thành phố (ngày hôm qua con số chính xác là 1357 chiếc) và bằng cách nào đó đã may mắn moi ra chiếc này. Họ hoàn toàn tin chắc, mà không cần đến những bằng chứng tôi đang định bố trí trong ga ra của anh chàng, rằng chính DeLeon 6832 là kẻ đã cưỡng bức và giết Myra 9834. Họ đang chuẩn bị tóm cổ hoặc phục sẵn chờ anh ta
Khả năng thứ hai đáng quan ngại hơn nhiều. Đám cảnh sát đã đi đến kết luận: anh chàng đã bị gài bẫy. Và họ đang rình rập chờ tôi.
Mồ hôi tôi túa ra. Như thế thật không hay chút nào. Nhưng đừng vội hoảng hốt. Những báu vật và căn phòng của tôi vẫn an toàn. Thư giãn đã.
Tuy nhiên, dù chuyện gì đang xảy ra đi nữa tôi vẫn phải tìm hiểu rõ. Nếu sự có mặt của cảnh sát tại đây chỉ là một sự trùng hợp oái oăm, không liên quan tới DeLeon 6832 hay tôi, tôi sẽ bố trí các bằng chứng vào chỗ của chúng rồi chuồn thật nhanh về căn phòng của mình.
Nhưng nếu bọn họ đã lần ra manh mối về tôi, họ hoàn toàn có thể lần ra những người khác. Randall 6794, Rita 2907 và cả Arthur 3480…
Kéo chiếc mũ sụp xuống sát mắt, đôi kính râm được đẩy cao lên sống mũi, thay đổi hoàn toàn lộ trình, tôi đi vòng qua ngôi nhà, băng qua các con hẻm, khu vườn, sân sau. Luôn giữ khoảng cách ba tòa nhà, mà thật may họ đã vạch ra như giới hạn an toàn giành cho tôi bằng cách đậu hai chiếc Crown Victoria ở đó làm mốc đánh dấu.
Đi vòng thành đường bán nguyệt, tới một bờ đất cao đầy cỏ dẫn đến xa lộ. Trèo lên đó, có thể nhìn thấy những khoảng sân sau nhỏ xíu và mái hiên của những ngôi nhà trong khu DeLeon 6832 đang sống. Tôi bắt đầu đếm từng ngôi nhà để tìm ra chỗ ở của anh ta.
Nhưng tôi không cần phải làm điều đó. Tôi thấy rõ một nhân viên cảnh sát đang ở trên nóc ngôi nhà hai tầng bên kia con đường hẻm đối diện nhà anh ta. Hắn có khẩu súng trường. Một tay bắn tỉa! Rồi tôi nhìn thấy một tay bắn tỉa nữa, đang cầm ống nhòm. Một số cảnh sát khác mặc cảnh phục hoặc thường phục, đanh nằm nấp sau những bụi cây cạnh ngôi nhà.
Thế rồi hai gã cớm chỉ tay về phía tôi. Tôi nhìn thấy một tay nữa trên nóc ngôi nhà bên kia đường. Hắn cũng chỉ về phía tôi. Tôi không hề cao một mét tám mươi tám, nặng một trăm linh tư kilogam, cũng chẳng sở hữu làn da đen nhánh như gỗ mun. Vậy là bọn họ không phải đang đợi DeLeon 6832. Họ đang đợi tôi.
Hai bàn tay tôi bắt đầu run lẩy bẩy. Thử tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra nếu tôi chui thẳng vào cái bẫy đó với tất cả bằng chứng đang nhét đầy trong ba lô.
Hàng chục cảnh sát đang chạy về phía xe của họ hay lao thẳng về phía tôi. Hùng hổ như một con sói. Tôi quay người lại, leo lên bờ đất, hoảng hốt thở không ra hơi. Chưa kịp leo đến đỉnh, tiếng còi đầu tiên đã vang lên.
Không, không!
Kho báu của tôi, căn phòng của tôi…
Xa lộ bốn làn xe đang đông nghịt, các mười sáu chữ số sẽ phải cho xe chạy chậm. Tôi có thể luồn lách cực tốt, ngay cả khi phải cúi gằm mặt xuống. Dám chắc không ai kịp nhìn rõ khuôn mặt tôi. Sau đó, trèo qua rào chắn và lao người trượt xuống bên kia bờ đất. Sự bình tĩnh cũng như hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa chân và tay đã giúp tôi trượt xuống an toàn. Lập tức, tôi vùng dậy chạy thục mạng tới ga tàu điện ngầm gần nhất. Tôi chỉ dừng lại một lần để đeo đôi găng tay vải bông, đồng thời moi chiếc túi ny lông đựng các bằng chứng ra khỏi ba lô, ném vào thùng rác. Không thể để mình bị bắt với nó trên người. Không thể. Còn cách nhà ga nửa tòa nhà, tôi dạt vào con hẻm sau một nhà hàng. Tôi lộn mặt trong chiếc áo jacket mặc được cả hai mặt ra, đổi mũ và lại xuất hiện ngoài phố chính, chiếc ba lô được nhét vào trong túi mua hàng.
Cuối cùng cũng tới được ga điện ngầm và xin cảm ơn vô vàn, tôi có thể cảm nhận được sự rung động của đường hầm, báo trước một chuyến tàu sắp vào ga. Sau đó, tiếng động rầm rầm của đoàn tàu cồng kềnh, tiếng kim loại cọ vào nhau ken két.
Nhưng trước khi bước qua khung cửa của toa tàu, tôi dừng lại. Cơn sốc đã trôi qua nhưng thay thế là cảm giác bực bội. Tôi hiểu không thể cứ thế mà đi được.
Sự nghiêm trọng của vấn đề hiện rõ mồn một trước mắt. Có thể chưa biết danh tính nhưng họ đã đoán ra tôi đang làm gì.
Có nghĩa là họ muốn lấy đi những báu vật của tôi, căn phòng của tôi… mọi thứ.
Tất nhiên điều đó là không thể chấp nhận được.
Cẩn thận tránh xa các camera an ninh, tôi trở lại cầu thang, vừa rời khỏi ga vừa đưa tay thọc vào chiếc túi mua hàng.
- - * - -
“Ở đâu?” Giọng của Rhyme vang lên trong tai nghe của Amelia Sachs. “Hắn đang ở chỗ chết tiệt nào rồi?” “Hắn phát hiện ra bọn em, lập tức chuồn ngay.”
“Em có chắc đó là hắn không?”
“Chắc chắn. Nhóm giám sát nhìn thấy ai đó cách vài tòa nhà. Có lẽ, hắn ta phát hiện mấy chiếc xe của đám thám tử và thay đổi lộ trình. Hắn quan sát bọn em rồi bỏ chạy. Đã cử người đuổi theo hắn.” Cô đang đứng trên sân trước ngôi nhà của DeLeon Williams cùng Pulaski, Bo Haumann và sáu người thuộc Đội Can thiệp khẩn cấp. Kỹ thuật viên điều tra hiện trường cùng nhân viên tuần tra đang tìm kiếm dấu vết và nhân chứng trên tuyến đường kẻ tình nghi bỏ chạy.
“Có dấu hiệu cho thấy hắn có xe không?”
“Không biết. Hắn đi bộ khi bọn em trông thấy hắn.”
“Chúa ơi! Được rồi, cho anh biết ngay khi em tìm thấy gì mới.”
“Em sẽ…”
Click.
Cô cau có nhìn Pulaski, cậu ta đang áp chiếc bộ đàm vào tai, lắng nghe diễn biến của cuộc truy đuổi. Haumann cũng đang theo dõi tiến triển. Từ những gì cô có thể nghe được, không có gì khả quan. Không ai trên đường xa lộ thấy mặt kẻ tình nghi hoặc sẵn sàng thừa nhận nếu họ thực sự thấy mặt hắn. Sachs quay về phía ngôi nhà và thấy DeLeon Williams đang nhìn qua khung cửa sổ buồng rèm, khuôn mặt hiện rõ sự quan tâm cùng vẻ lúng túng.
Anh thoát khỏi việc trở thành vật thế thân cho Năm Hai Hai là nhờ sự ngẫu nhiên và hành động hiệu quả của cảnh sát.
Tất cả mọi người phải cảm ơn Ron Pulaski về việc này. Cậu cảnh sát trẻ với chiếc áo sơ mi Hawaii lòe loẹt đã làm đúng những gì Rhyme yêu cầu: lập tức tới Số 1 Police Plaza và bắt tay tìm kiếm các vụ phù hợp với phương thức gây án của Năm Hai Hai. Cậu ta chẳng tìm thấy gì nhưng đã nói chuyện với một thám tử ở Ban Án mạng. Ban này nhận được báo cáo từ Trung tâm về cú điện thoại nặc danh. Một người đàn ông đã nghe thấy những tiếng la hét từ ngôi nhà gần khu SoHo và trông thấy một người da đen bỏ chạy trên chiếc xe Dodge màu be. Nhân viên tuần tra đã tới hiện trường và phát hiện một phụ nữ trẻ, cô Myra Weinburg, bị cưỡng bức và giết chết.
Pulaski chú ý ngay tới cuộc điện thoại nặc danh, chi tiết tương tự như các vụ trước đó, lập tức gọi cho Rhyme. Nhà tội phạm học lập luận nếu Năm Hai Hai thực sự là kẻ đứng sau tội ác này, chắc chắn hắn sẽ bám theo kế hoạch quen thuộc: bố trí bằng chứng để gài bẫy kẻ thế thân. Họ cần tìm ra chiếc xe Năm Hai Hai đã lựa chọn trong số hơn một nghìn ba trăm chiếc Dodge màu be cũ. Đương nhiên, rất có thể thủ phạm không phải là Năm Hai Hai, dù vậy, họ cũng có cơ hội tóm cổ một kẻ cưỡng dâm và giết người.
Theo chỉ thị của Rhyme, Mel Cooper đối chiếu các hồ sơ của Bộ phận Đăng kiểm phương tiện cơ giới với các hồ sơ tội phạm. Lọc ra được bảy người Mỹ gốc Phi đã bị kết án vì những hành vi phạm pháp nặng hơn vi phạn luật giao thông. Trong đó, một trường hợp nhiều khả năng nhất: bị kết án vì hành hung phụ nữ. DeLeon Williams rõ ràng là lựa chọn lý tưởng để thế thân.
Ngẫu nhiên và nghiệp vụ cảnh sát.
Để ra lệnh thực hiện chiến dịch vây bắt có lực lượng đặc nhiệm tham gia, cần có một sĩ quan cấp trung úy trở lên. Đại úy Joe Malloy vẫn chưa biết gì về chuyên án Năm Hai Hai vụng trộm, vậy là Rhyme gọi Selitto. Anh ta cằn nhằn nhưng rồi cũng đồng ý ra lệnh cho Bo Haumann thực hiện chiến dịch với Đơn vị Can thiệp khẩn cấp.
Amelia Sachs đã gặp Pulaski bà đội đặc nhiệm tại nhà của Williams, ở đó họ được Đội Tìm kiếm và Giám sát cho biết trong nhà chỉ có Williams, không thấy bóng dáng của Năm Hai Hai. Vậy là họ triển khai phục kích để chộp kẻ sát nhân khi hắn xuất hiện để ngụy tạo bằng chứng. Kế hoạch khá mạo hiểm và triển khai tùy biến một cách vội vã. Tuy không thành công nhưng họ đã cứu một người vô tội khỏi bị bắt oan vị tội danh cưỡng dâm và giết người, rất có thể cũng đã phát hiện ra vài bằng chứng quan trọng lần tới thủ phạm.
“Có gì không?” Cô hỏi Haumann, lúc này đang trao đổi với mấy nhân viên của mình. “Không.”
Bộ đàm của ông lại kêu lạch tạch, Sachs nghe thấy tiếng báo cáo vang lên. “Đơn vị Một, chúng tôi đang ở bên kia xa lộ. Có vẻ như hắn không hề hấn gì và chạy về phía ga tàu điện ngầm.” “Chết tiệt,” cô lẩm bẩm.
Haumann cau mày nhưng không nói gì.
Người cảnh sát tiếp tục báo cáo: “Chúng tôi đã lần theo tuyến đường nhiều khả năng hắn chọn. Có thể hắn đã quẳng bằng chứng vào một thùng rác dọc đường.”
“Ít nhất cũng được một điều gì đó,” cô nói. “Ở đâu?”
Cô ghi lại địa điểm viên cảnh sát báo lại. “Hãy bảo hộ khống chế toàn bộ khu vực. Tôi sẽ có mặt tại đó sau mười phút nữa.”
Sachs bước lên bậc thềm và gõ cửa. DeLeon Williams ra mở.
“Tôi xin lỗi vì không có dịp giải thích. Một kẻ chúng tôi đang lùng bắt định đột nhập vào nhà anh.” “Nhà tôi?”
“Chúng tôi nghĩ vậy. Nhưng hắn đã chạy mất.” Cô giải thích về Myra Weinburg. “Chúa ơi, cô ấy chết rồi sao?”
“Tôi e là vậy.”
“Tôi lấy làm tiếc, thực sự lấy làm tiếc.”
“Anh có biết cô gái này không?”
“Không, chưa từng nghe nói đến.”
“Có thể thủ phạm định đổ tội cho anh.”
“Tôi ư? Tại sao?”
“Chúng tôi chưa rõ. Sau khi điều tra được nhiều hơn, chúng tôi muốn nói chuyện với anh.” “Tất nhiên rồi.” Anh đưa cho cô số điện thoại nhà riêng và di động. Sau đó cau mày. “Tôi có thể hỏi câu này không? Cô có vẻ hoàn toàn chắc chắn tôi không phải thủ phạm. Làm sao cô biết tôi vô tội?” “Cảnh sát đã kiểm tra chiếc xe và ga ra của anh và không tìm thấy bất cứ dấu vết nào từ hiện trường vụ án. Chúng tôi tin chắc rằng thủ phạm đang chuẩn bị để lại thứ gì đó nhằm gây rắc rối cho anh. Nếu chúng tôi tới đây sau khi hắn hoàn tất, anh sẽ gặp rắc rối thực sự.” Sachs nói thêm: “À, còn một câu nữa, anh Williams. Một chi tiết vặt vãnh. Anh có biết sở hữu một khẩu súng ngắn không được đăng ký ở New York là một tội nghiêm trọng không?”
“Tôi nghĩ đã từng nghe điều này ở đâu đó.”
“Đang có một chương trình ân xá ở khu anh sống. Không có bất cứ câu hỏi nào nếu anh giao nộp vũ khí… Okay, bảo trọng nhé. Hãy cố tận hưởng phần còn lại của kỳ nghỉ cuối tuần.” “Tôi sẽ cố.’
CHƯƠNG 11
Tôi quan sát nữ cảnh sát khi cô ta tìm kiếm trong thùng rác, nơi tôi đã ném các bằng chứng. Ban đầu thực sự hoảng hốt nhưng tôi hiểu không nên thế. Nếu đã đủ khôn ngoan để tìm ra tôi, bọn chúng cũng sẽ đủ khôn ngoan để tìm ra cái thùng rác.
Tôi nghĩ bọn chúng chưa biết rõ mặt mình song vẫn rất thận trọng. Tất nhiên, tôi không xuất hiện ngay gần thùng rác đó mà đang ngồi trong một nhà hàng ở bên kia đường, vừa cố gắng nuốt trôi một chiếc hamburger vừa nhấp từng ngụm nước. Cảnh sát gọi những nhân viên này là lực lượng ‘Chống tội phạm’ theo tôi đó là một khái niệm thật ngớ ngẩn. Nếu vậy, theo đúng logic, sẽ phải có lực lượng ‘Ủng hộ tội phạm’. Các cảnh sát chống tội phạm mặc thường phục, lượn lờ quanh hiện trường vụ án tìm nhân chứng và cả thủ phạm trong trường hợp chúng quay trở lại. Phần lớn những kẻ phạm tội làm thế vì quá ngu ngốc hoặc không bình thường. Tôi có mặt ở đây vì hai lý do rất cụ thể. Thứ nhất, vì tôi đã nhận ra mình đang gặp rắc rối. Tôi cần một giải pháp. Không thể giải quyết được rắc rối nếu không hiểu rõ về nó. Lúc này tôi đã biết được vài điều.
Chẳng hạn, tôi đã biết một vài người trong số những kẻ đang truy đuổi tôi, ví dụ như cô ả cảnh sát có mái tóc đỏ rực trong bộ áo liền quần màu trắng đang tập trung nghiên cứu hiện trường theo đúng cách tôi luôn tập trung chú ý vào các dữ liệu của mình.
Tôi thấy cô ta ra khỏi khu vực hiện trường bao quanh bằng những dải băng vàng với vài cái túi. Cô ta xếp chúng vào những chiếc hộp nhựa màu xám và cởi bỏ bộ áo liền quần màu trắng. Bất chấp cảm giác kinh hoàng còn vương lại sau tai họa chiều nay, tôi lại cảm thấy nhức nhối trong người khi thấy chiếc quần jean bó sát của cô nàng. Cảm giác thỏa mãn từ cuộc đi săn Myra 9834 đã tan biến hẳn.
Trong khi đám cảnh sát quay trở lại xe, cô ả lấy điện thoại ra gọi.
Tôi thanh toán tiền, bình thản bước ra khỏi nhà hàng, như thể bất cứ vị thượng đế nào trong buổi chiều muộn đẹp trời của ngày Chủ nhật này.
Ngoài-vòng-kiểm-soát.
À, còn lý do thứ hai khiến tôi có mặt tại đây?
Rất đơn giản. Bảo vệ những báu vật của tôi, bảo vệ tính mạng của tôi, làm bất cứ việc gì cần thiết để tống khứ bọn chúng.
- - * - -
“Năm Hai Hai đã để lại những gì trong thùng rác?” Rhyme đang đàm thoại qua điện thoại điều khiển bằng giọng nói.
“Không nhiều lắm. Chắc chắn đó là những món hắn bỏ lại. Khăn giấy thấm máu và một ít máu tươi đựng trong túi nylon, như thế hắn có thể để lại trong xe hay ga ra của Williams. Em đã gửi mẫu tới phòng thí nghiệm để kiểm tra ADN. Ảnh nạn nhân in từ máy vi tính. Một cuộn băng dính hiệu Home Depot. Một chiếc giày chạy vẫn còn mới.”
“Chỉ một chiếc?”
“Đúng thế. Giày phải.”
“Có thể hắn đã lấy cắp từ nơi ở của Williams nhằm để lại dấu giày tại hiện trường. Có ai trông thấy hắn không?”
“Một xạ thủ bắn tỉa và hai người trong nhóm T và T. Nhưng lúc đó hắn vẫn chưa tới gần. Có lẽ là đàn ông, da trắng hoặc sáng màu, vóc người trung bình. Đội mũ màu nâu vàng, đeo kính râm, khoác ba lô. Không rõ độ tuổi, không rõ màu tóc.”
“Chỉ thế thôi?”
“Phải.”
“Được rồi, hãy mang các bằng chứng đến đây ngay. Sau đó anh muốn em tới chỗ hiện trường vụ cưỡng dâm ở Weinburg. Họ sẽ không động tới bất cứ thứ gì đến khi em tới.”
“Em có một manh mối nữa, Rhyme.”
“Thật chứ? Là gì vậy?”
“Bọn em tìm thấu một mảnh giấy ghi chú dính vào đáy chiếc túi nylon đựng bằng chứng. Năm Hai Hai muốn ném chiếc túi đi nhưng em không nghĩ hắn muốn dán kèm cả mảnh giấy này.” “Trên đó viết gì vậy?”
“Số phòng của một khu nhà cho thuê ở Upper East Side, Manhattan. Em muốn kiểm tra.” “Em nghĩ đó là nơi ở của Năm Hai Hai?”
“Không, em gọi đến thường trực và họ nói người thuê phòng này không ra ngoài suốt cả ngày. Một người tên là Robert Jorgensen.”
“Được rồi, chúng ta cần kiểm tra hiện trường vụ cưỡng dâm, Sachs.”
“Hãy cử Ron đi. Cậu ta có thể làm được.”
“Anh vẫn muốn em làm hơn.”
“Em cho rằng chúng ta cần tìm xem có mối liên hệ nào giữa gã Jorgensen và Năm Hai Hai không. Phải thật nhanh.”
Anh không thể tranh luận về quan điểm của cô. Ngoài ra, hai người đã bỏ ra không ít công sức hướng dẫn Pulaski về cách điều tra khám nghiệm hiện trường, chia khu vực hiện trường thành mạng lưới những ô nhỏ, đây là phương pháp toàn diện nhất để thu thập bằng chứng.
Rhyme cảm thấy mình vừa là chỉ huy vừa là người thầy và cậu thanh niên sớm muộn gì cũng sẽ phải một mình điều tra hiện trường một vụ án mạng. “Được thôi,” anh hầm hừ. “Hy vọng đầu mối từ ghi chú này đem lại điều gì đó hữu ích.” Anh không đừng được thêm vào một câu: “Và mong là việc này không phí công vô ích.”
Cô bật cười. “Chẳng phải anh và em luôn hy vọng vậy sao, Rhyme?”
“Nhắc Pulaski đừng có làm hỏng việc đấy.”
Hai người dừng liên lạc, Rhyme quay sang báo với Cooper rằng bằng chứng đang trên đường đến. Nhìn chăm chăm vào bản danh sách bằng chứng, anh lẩm bẩm: “Hắn đã chuồn mất.” Anh ra lệnh cho Thom viết toàn bộ những mô tả sơ sài về Năm Hai Hai lên tấm bảng trắng. Da trắng hoặc sáng màu…
Chi tiết này liệu có ích gì không?
Amelia Sachs ngồi trên ghế trước chiếc Camaro của cô, cửa xe để mở. Không khí buổi chiều muộn một ngày mùa xuân lùa vào trong xe, mang theo thứ mùi hỗn hợp của dầu và đồ da lâu ngày. Cô đang ghi lại các thông tin cho bản báo cáo kiểm tra hiện trường. Cô luôn làm việc này ngay sau khi kiểm tra hiện trường vụ án. Trí nhớ con người có thể quên nhiều thứ chỉ sau một thời gian ngắn. Nhầm lẫn màu sắc, biến phải thành trái, cửa chính, cửa sổ chuyển chỗ từ bức tường này sang bức tường kia, thậm chí biến mất hoàn toàn.
Cô dừng lại vì những chi tiết kỳ lạ của vụ án lại cắt ngang sự tập trung. Làm cách nào mà kẻ sát nhân suýt chút nữa đã thành công trong việc quàng tội danh cưỡng dâm và giết người lên cổ một người vô tội? Cô chưa bao giờ gặp phải một tên tội phạm nào giống như gã này; ngụy tạo bằng chứng để đánh lừa cảnh sát không phải là chuyện hiếm gặp, song gã này quả thực là một thiên tài trong việc lừa họ đi sai hướng.
Con phố nơi cô đậu xe cách chỗ phát hiện thùng rác hai tòa nhà, đang chìm trong bóng tối và không một bóng người qua lại.
Mắt cô chợt phát hiện thấy có thứ gì đó đang chuyển động. Vụt nghĩ tới Năm Hai Hai, tim cô đập rộn lên đầy bất an. Cô ngước mắt lên, qua gương chiếu hậu thấy ai đó đang đi về phía mình. Cô nheo mắt, cẩn thận quan sát người đó, mặc dù người đàn ông trông có vẻ hoàn toàn vô hại: một doanh nhân ăn mặc chỉnh chu. Tay anh ta xách chiếc túi đựng đồ ăn sẵn cho khách mang về và đang bận rộn nói chuyện qua chiếc điện thoại di động, khuôn mặt tươi cười. Một cư dân điển hình đang đi mua đồ ăn Trung Quốc hay Mexico về cho bữa tối.
Sachs quay lại với các ghi chép của mình.
Cuối cùng cô cũng hoàn tất và nhét chúng vào cặp. Nhưng cô chợt nhận ra điều gì đó thật lạ lùng. Đáng ra đến lúc này người đàn ông trên vỉa hè đã phải đi qua chiếc Camaro. Nhưng không thấy anh ta đâu cả. Có phải anh ta đã rẽ vào một tòa nhà? Cô ngoái lại nhìn về vỉa hè nơi trước đó cô đã nhìn thấy người lạ mặt. Không!
Đập vào mắt cô là chiếc túi đựng đồ ăn sẵn cho khách mang về đang ở trên vỉa hè, ngay phía trái, đằng sau chiếc xe. Đó chỉ là một đòn đánh lạc hướng!
Bàn tay cô lập tức tìm khẩu Glock. Nhưng trước khi cô kịp rút súng, cửa xe bên phải đã bị giật tung ra, trước mắt cô là kẻ sát nhân với đôi mắt đang nheo lại và khẩu súng ngắn chĩa thẳng vào mặt cô.
- - * - -
Chuông cửa reo lên, chỉ một khoảnh khắc sau Rhyme nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc. Và nặng nề. “Tôi ở đây, Lon.”
Thám tử Lon Sellitto gật đầu chào vị chủ nhà. Thân hình to bè, chắc nịch của anh ta được che kín dưới quần jean và chiếc sơ mi hiệu Izod tím sẫm, trong khi chân xỏ đôi giày tập chạy, một chi tiết khiến Rhyme rất ngạc nhiên. Nhà tội phạm học hiếm khi thấy anh ta ăn mặc thoải mái như vậy. Anh cũng phát hiện ra,
trong khi trang phục của Sellitto thường nhàu nhĩ đến thảm hại thì những gì anh ta diện trên người lúc này trông như mới được là cẩn thận. Chỉ có vài vết căng ra trên mặt vải ở chỗ bụng phệ cùng chỗ phồng đằng sau lưng nơi giắt khẩu súng của anh ta.
“Tôi nghe nói hắn đã lẩn mất.”
Rhyme cay cú thở hắt ra, “Hoàn toàn mất tăm.”
Sàn nhà kêu răng rắc dưới sức nặng của người đàn ông vạm vỡ khi anh ta bước tới chỗ danh sách bằng chứng, nhìn qua một lượt. “Đó là cách anh gọi hắn à? Năm Hai Hai?”
“Hai mươi hai tháng Năm. Vụ đám người Nga thế nào rồi?”
Sellitto không trả lời. “Ông Năm Hai Hai này có để lại gì không?”
“Chúng ta sắp biết được điều đó. Hắn đã quẳng lại một chiếc túi đựng các bằng chứng được đem đi dàn cảnh. Nó đang được mang đến đây.”
“Chu đáo quá.”
“Trà đá hay cà phê?”
“À phải,” anh chàng thám tử khẽ nói với Thom. “Cảm ơn cậu. Cà phê. Cậu có sữa ít béo không?” “Loại hai phần trăm.”
“Tuyệt. Loại bánh quy lần trước có còn không? Những chiếc bánh sô cô la ấy?”
“Chỉ có bánh yến mạch thôi.”
“Cũng được.”
“Mel?” Thom hỏi. “Anh muốn thứ gì đó không?”
“Nếu tôi dám ăn hay uống gần bàn xét nghiệm, tôi sẽ bị mắng ngay lập tức.”
Rhyme cằn nhằn: “Chẳng phải lỗi của tôi nếu đám luật sư bào chữa nghĩ ra trò loại bỏ các bằng chứng bị tạp nhiễm. Tôi đâu có đưa ra luật lệ.”
Sellitto nhận xét: “Anh vẫn chẳng cải thiện tính khí của mình được chút nào. Tình hình ở London thế nào rồi?”
“Chủ đề đó tôi không muốn bàn đến lúc này.”
“Được thôi, để cải thiện tinh thần cho anh, xin nói luôn là chúng ta vừa có thêm một rắc rối nữa.” “Về phía Malloy phải không?”
“Phải. Ông ta đã biết chuyện Amelia kiểm tra hiện trường và tôi phê chuẩn điều động Đơn vị Can thiệp khẩn cấp. Ban đầu ông ta nghĩ rằng đó là vụ của Dienko và thoải mái chấp nhận hết, sau đó đã cực kỳ buồn bực khi phát hiện ra không phải thế. Ông ta đã hỏi có dính dáng gì đến anh không. Tôi sẵn sàng đỡ một quả thụi vào cằm giúp anh, Linc, nhưng một viên đạn thì không. Tôi đã xì anh ra… A, cảm ơn cậu.” Anh ta gật đầu khi Thom mang đồ ăn vặt đến. Anh chàng điều dưỡng cũng bày một suất tương tự lên chiếc bàn ngay gần Cooper, lúc này đã tháo đôi găng cao su và nhón lấy một chiếc bánh quy.
“Làm ơn cho tôi ít Scotch,” Rhyme vội vàng nói.
“Không.” Thom lại biến mất.
Rhyme cau có nói: “Tôi đã lường trước Malloy sẽ gõ đầu chúng ta ngay khi Đơn vị can thiệp khẩn cấp dính dáng vào. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp của cảnh sát vì đây là một vụ cực kỳ nghiêm trọng. Chúng ta sẽ làm gì đây?”
“Hãy mau mau nghĩ ra điều đi vì ông ta muốn chúng ta gọi cho ông ta từ nửa tiếng trước đây.” Anh ta nhấp thêm một ngụm cà phê, rồi miễn cưỡng đặt một phần tư chiếc bánh quy còn lại xuống, có vẻ kiên quyết không đụng tới nó nữa.
“Được thôi, tôi muốn cảnh sát tham gia vụ này. Cần phải có người tìm kiếm gã khốn đó.” “Vậy gọi điện thôi. Sẵn sàng rồi chứ?”
“Được rồi, được rồi.”
Sellitto bấm số. Rồi bấm nút bật loa ngoài.
“Hạ âm lượng xuống,” Rhyme nói. “Tôi e là sẽ đinh tai nhức óc đấy.”
“Malloy đây.” Rhyme nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng người nói chuyện, tiếng đồ sứ hay thủy tinh va vào nhau lanh canh. Có lẽ ông ta đang ở trong một quán cà phê ngoài trời.
“Đại úy, ông đang nói chuyện qua loa ngoài với Lincoln Rhyme và tôi.”
“Okay, chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy? Đáng ra anh phải cho tôi biết việc điều động Đơn vị Can thiệp khẩn cấp có liên quan tới vụ Lincoln đã nói lúc trước. Anh có biết tôi đã đình chỉ mọi hoạt động liên quan đến vụ án cho tới ngày mai không?”
“Không, anh ấy không biết,” Rhyme nói.
Anh chàng thám tử buột miệng: “Đúng thế, nhưng tôi có thể hình dung được.”
“Tôi rất cảm động trước tinh thần đỡ đòn giúp nhau của hai vị nhưng câu hỏi ở đây là tại sao anh không nói gì với tôi?”
Sellitto nói: “Bởi vì chúng tôi có cơ hội rất tốt để tóm cổ một kẻ cưỡng dâm và giết người. Tôi đã quyết định rằng không thể chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào.”
“Tôi không phải là trẻ con, trung úy. Anh trình bày vụ án với tôi và tôi sẽ đưa ra quyết định. Đó là cách mọi việc đáng nhẽ phải diễn ra.”
“Xin lỗi, đại úy. Những gì tôi đã làm là quyết định đúng đắn nhất vào thời điểm đó.” Im lặng.
“Nhưng hắn đã lẩn mất.”
“Phải, đúng vậy,” Rhyme nói.
“Làm sao hắn thoát được?”
“Chúng tôi tập hợp một đội nhanh nhất có thể được, nhưng việc đảm bảo bí mật không được tốt. Kẻ tình nghi đã có mặt gần hơn chúng tôi nghĩ. Tôi đoán hắn đã phát hiện một chiếc xe không phù hiệu hay một cảnh sát nào đó và bỏ chạy. Nhưng hắn đã vứt lại dọc đường vài bằng chứng có thể sẽ hữu ích cho chúng ta.”
“Bằng chứng đang trên đường tới phòng thí nghiệm pháp y ở Queens? Hay tới chỗ các anh?” Rhyne liếc nhìn Sellitto. Người ta thăng tiến nhanh trong những tổ chức như Sở Cảnh sát New York nhờ vào kinh nghiệm, nghị lực và đầu óc nhanh nhạy. Malloy đã đi trước họ một bước. “Tôi đã yêu cầu mang chúng tới đây, Joe,” Rhyme nói.
Lần này không còn là im lặng. Từ chiếc loa ngoài phát ra tiếng thở dài cam chịu. “Lincoln, anh hiểu rõ rắc rối ở đây, đúng không?”
Một sự mâu thuẫn, Rhyme thầm nghĩ.
“Anh là chuyên gia tư vấn cho Sở nhưng lại đang cố xóa tội cho anh họ mình. Đằng sau nó, việc này ám chỉ đã có một người bị bắt nhầm.”
“Nhưng đó chính xác là những gì đã diễn ra. Và có hai trường hợp bị kết án oan nữa.” Rhyme nhắc để Malloy nhớ lại về hai vụ cưỡng dâm và đánh cắp tiền xu mà Flintlock đã đề cập. “Tôi tin còn nhiều trường hợp khác… Anh biết nguyên tắc Locard mà, đúng không Joe?”
“Nó nằm trong cuốn sách anh đọc ở học viện, đúng không?”
Nhà tội phạm học người Pháp Edmond Locard cho rằng, bất cứ khi nào một tội ác diễn ra, luôn có sự di dời bằng chứng từ kẻ thủ ác tới hiện trường hoặc nạn nhân. Đặc biệt là bằng chứng liên quan đến các loại bụi, đất. Mối liên hệ có thể rất khó tìm ra nhưng luôn tồn tại.
“Những gì chúng ta làm đều dựa theo nguyên tắc Locard, Joe. Nhưng có một tên tội phạm đang sử dụng nó như một vũ khí chống lại chúng ta. Đó là phương pháp hành động của hắn. Hắn giết người và tẩu thoát, còn một người khác bị kết án vì tội ác đó. Hắn biết chính xác thời điểm thích hợp để gây án, loại bằng chứng nào nên ngụy tạo, và ngụy tạo vào thời điểm nào. Các đội điều tra hiện trường, các thám tử, các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, các công tố viên và thẩm phán… hắn biến tất cả thành đồng lõa của mình. Việc này không có gì liên quan tới anh họ tôi hết, Joseph. Nó liên quan tới việc chặn đứng một kẻ cực kỳ nguy hiểm.”
Lần này là im lặng hoàn toàn, không có tiếng thở dài nào nữa.
“Okay, tôi sẽ phê chuẩn.”
Sellitto nhướn một bên mày.
“Với điều kiện tôi phải được báo trước. Các anh phải báo lại cho tôi mọi tiến triển trong vụ này. Tất cả mọi thứ.”
“Tất nhiên thưa ngài.”
“Và, Lon, nếu cố qua mặt tôi lần nữa, tôi sẽ chuyển anh sang bên Ngân sách. Hiểu ý tôi rồi chứ?” “Vâng, thưa đại úy. Rất rõ.”
“Vì anh đang tham gia vào vụ của Lincoln, Lon, tôi chắc anh muốn rút khỏi vụ Vladimir Dienko.” “Petey Jimenez đã bắt nhịp với công việc. Cậu ta còn chạy đi chạy lại nhiều hơn tôi và chính cậu ta đã thiết lập toàn bộ kế hoạch cài bẫy.”
“Còn Dellray đảm nhiệm việc liên lạc với dám cung cấp tin cũng như với các nhà chứ trách liên bang đúng không?”
“Đúng thế.”
“Okay, anh được rút khỏi vụ đó. Một cách tạm thời. Hãy gửi tới đây một báo cáo về hồ sơ mà các anh đã bắt đầu thiết lập về gã ma lanh này. Nghe cho rõ đây, tôi sẽ không đả động một lời nào và với bất cứ ai về chuyện những người vô tội bị tuyên án nhầm. Các vị cũng thế. Vấn đề này không được lật lại nữa. Tội ác duy nhất các vị điều tra là một vụ cưỡng dân giết người xảy ra chiều nay. Phương pháp gây án của kẻ tình nghi là tìm cách đổ tội cho người khác nhưng đó là tất cả những gì các vị có thể nói và chỉ trong trường hợp chủ đề này xuất hiện. Đừng tự gợi chuyện ra và vì Chúa, không được hé răng với đám nhà báo về bất cứ chuyện gì.”
“Tôi không nói với đám nhà báo,” Rhyme nói. Không ai làm thế nếu có thể tránh được. “Nhưng chúng tôi cần xem qua các vụ án khác để hiểu hơn về phương thức hoạt động của hắn.”
“Tôi đâu có nói các anh không thể,” viên đại úy nói, cứng rắn nhưng không lên giọng. “Hãy báo cáo lại
với tôi.” Ông ta tắt máy.
“Xong. Chúng ta đã có một cuộc điều tra,” Sellitto nói và chén nốt một phần tư chiếc bánh quy còn lại, chiêu thêm một ngụm cà phê.
- - * - -
Đứng bên lề đường cùng ba người mặc thường phục khác, Amelia Sachs đang trò chuyện với người đàn ông vóc người chắc nịch trước đó đã mở tung cửa chiếc Camaro và chĩa súng vào cô. Hóa ra anh ta không phải là Năm Hai Hai mà là một đặc vụ liên bang làm việc DEA (cơ quan bài trừ ma túy của Mỹ).
“Chúng tôi đang cố chắp nối các đầu mối,” anh ta nói, đồng thời liếc nhìn về phía cấp trên của mình, đặc vụ phụ trách văn phòng DEA ở khu Brooklyn.
Người trưởng nhóm nói: “Chúng ta sẽ biết nhiều hơn sau vài phút nữa.”
Trước đó không lâu, Sachs ngồi trong chiếc xe của mình ngay trước mũi súng, từ từ đưa hai tay lên, xác nhận mình là một sĩ quan cảnh sát. Người đặc vụ tước súng và kiểm tra thẻ cá nhân của cô tới hai lần. Sau đó trả súng lại cho cô, lắc đầu. “Tôi không hiểu nổi nữa,” anh ta nói. Anh ta xin lỗi song chẳng hề có biểu hiện nào cho thấy anh ta áy náy. Nói cho đúng, khuôn mặt đó chỉ thể hiện là anh ta không hiểu gì cả.
Một lát sau, sếp của anh ta cùng hai đặc vụ nữa xuất hiện.
Lúc này người trưởng nhóm nhận được một cuộc điện thoại và nghe máy trong vài phút. Sau đó, anh ta nóng nảy gập máy lại và giải thích với mọi người. Không lâu trước đó, đã có một cú điện thoại nặc danh từ điện thoại trả trước trình báo về một phụ nữ có đặc điểm nhận dạng hoàn toàn khớp với Sachs vừa bắn một người khác trong một cuộc tranh chấp liên quan tới ma túy.
“Chúng tôi đang tiến hành một chiến dịch tại khu vực này để điều tra về vài vụ hạ sát những kẻ bán lẻ và cung cấp ma túy.” Anh ta nói và gật đầu ra hiệu cho một nhân viên của mình, chính là người đã định bắt Sachs. “Anthony sống cách đây một tòa nhà. Anh ấy được cử tới đây để đánh giá tình hình trong khi tập hợp lực lượng.”
Anthony nói thêm: “Tôi nghĩ cô đang định chuồn, vậy là tôi nhặt mấy chiếc túi đựng đồ ăn cũ và tiếp cận. Tôi không biết…” Giờ đây anh ta mới nhận ra sự nghiêm trọng của vấn đề suýt nữa mình đã gây ra. Mặt anh ta tái xám, còn Sachs chợt nhớ ra những khẩu Glock có cò rất nhạy. Suýt chút nữa cô đã gặp nguy hiểm tới tính mạng.
“Cô đang làm gì ở đây vậy?” Trưởng nhóm đặc vụ hỏi.
“Chúng tôi có một vụ cưỡng dâm giết người.” Cô không nói gì về chuyện thủ phạm cài bẫy người vô tội làm vật thế thân. “Tôi đoán kẻ đó đã phát hiện ra tôi và gọi cú điện thoại để làm chậm bước truy đuổi của chúng tôi.”
Hoặc khiến tôi bị hạ trong một vụ bắn nhầm.
Viên đặc vụ lắc đầu, trán cau lại.
“Gì vậy?” Sachs hỏi.
“Tôi đang nghĩ gã này quả là ma mãnh. Nếu hắn gọi Sở Cảnh sát New York, như phần lớn mọi người sẽ làm, họ chắc chắn biết rõ về chuyên án của cô cũng như cô là ai. Nhưng hắn lại gọi cho chúng tôi. Tất cả những gì chúng tôi biết, cô là kẻ vừa bắn người và chúng tôi sẽ phải tiếp cận một cách thận trọng, sẵn sàng bắn hạ cô nếu cô rút vũ khí.” Một cái cau mày. “Quả là ma mãnh.”
“Và thực sự khiến người ta có thể phát điên,” Anthony nói, mặt vẫn trắng bệch.
Sau khi nhóm đặc vụ dời đi, Sachs lập tức bấm nút quay số nhanh.
Khi Rhyme trả lời, cô thuật lại cho anh biết sự kiện vừa xảy ra.
Anh lắng nghe chăm chú, sau đó hỏi: “Hắn gọi cho đặc vụ liên bang?”
“Phải.”
“Có vẻ hắn biết rõ bọn họ đang thực hiện một chiến dịch truy quét ma túy và cũng biết được tay đặc vụ định còng tay em sống ngay gần đó.”
“Hắn không thể biết được,” cô phản đối.
“Điều gì?”
“Hắn biết chính xác em đang ở đâu. Có nghĩa là hắn đang theo dõi em. Hãy cẩn thận, Sachs.” Rhyme đang thuật lại cho Sellitto chuyện kẻ họ đang săn đuổi đã cài bẫy Sachs ra sao ở khu Brooklyn. “Hắn đã làm thế ư?”
“Có vẻ là vậy.”
Họ còn đang thảo luận xem thủ phạm đã có được thông tin bằng cách nào và chưa đi tới một kết luận hữu ích thì chuông điện thoại réo vang. Rhyme nhìn danh tính người gọi và khẩn trương trả lời. “Chào thanh tra.”
Giọng Longhurst vang lên trong loa ngoài. “Thám tử Rhyme, anh khỏe chứ?”
“Vẫn ổn.”
“Tốt quá. Tôi muốn báo cho anh biết: Chúng tôi đã tìm ra nơi ẩn náu của hắn. Không phải Manchester. Mà là Oldham, ngay gần đó. Phía đông thành phố.” Sau đó nữ thanh tra cho anh biết những người bán tin cho Danny Krueger xác định có một người đàn ông, mà họ tin là Richard Logan, đã đặt mua một số bộ phận súng. “Không phải là những khẩu súng hoàn chỉnh nhưng nếu có cấu kiện cần thiết để sửa chữa, hoàn toàn có khả năng tạo ra một khẩu.”
“Là các bộ phận súng trường?”
“Phải. Loại caliber lớn.”
“Có danh tính gì không?”
“Không, nhưng họ cho rằng Logan là một quân nhân Mỹ. Có vẻ hắn đã hứa sẽ kiếm cho đám này nguồn cung cấp đạn giá thấp với số lượng lớn. Có thể hắn có đủ tài liệu chính thức của quân đội về danh sách và đặc tính kỹ thuật của những bộ phận đó.”
“Vậy hắn sắp thực hiện vụ ám sát tại London.”
“Có vẻ như vậy. Bây giờ, về địa điểm ẩn náu của hắn: Chúng tôi có nội gián trong cộng đồng sử dụng tiếng Hindi ở Oldham. Hoạt động của họ rất tốt. Họ biết được một người Mỹ thuê một ngôi nhà cũ ở ngoại ô thị trấn. Đã xác định được ngôi nhà. Vẫn chưa tiến hành lục soát. Đội chúng tôi đã có thể thực hiện việc này, nhưng tốt nhất cần trao đổi trước với anh.”
Longhurst tiếp tục: “Thám tử, tôi cảm thấy lúc này hắn vẫn chưa biết chúng ta đã phát hiện ra nơi ẩn náu của hắn. Tôi ngờ rằng rất có thể trong ngôi nhà đó chứa đựng nhiều thông tin hữu ích. Tôi đã gọi điện cho MI5 và mượn được một thiết bị chuyên dụng đắt tiền. Một chiếc camera quay phim độ nét cao. Nhân viên của chúng tôi sẽ đeo chiếc camera đó và anh sẽ hướng dẫn người này trong toàn bộ quá trình lục soát hiện trường sau đó nói cho chúng tôi biết những gì anh nghĩ. Thiết bị đó sẽ sẵn sàng tại hiện trường trong khoảng bốn mươi phút nữa.”
Để kiểm tra kỹ lưỡng ngôi nhà kể cả các lối ra vào, ngăn kéo, phòng vệ sinh, nhà kho, chăn đệm… sẽ mất gần hết một đêm.
Tại sao lại đúng lúc này? Năm Hai Hai đang là một mối đe dọa thực sự trước mắt. Trên thực tế, nếu xem xét về trình tự thời gian, so sánh với các vụ trước, vụ của anh họ anh và vụ án mạng vừa xảy ra hôm qua, các tội ác của hắn đang diễn ra mỗi lúc một gần nhau hơn. Và anh đặc biệt quan ngại về sự kiện sau chót: Năm Hai Hai đã quay sang tấn công chính họ và suýt nữa đã khiến Sachs bị bắn.
Phải lựa chọn thế nào đây?
Sau một khắc đắn đo suy nghĩ, anh nói: “Thanh tra, tôi lấy làm tiếc, tại đây đang xảy ra một việc rất nghiêm trọng. Một loạt các vụ án mạng xảy ra. Tôi cần tập trung vào chúng.”
“Tôi hiểu.” Vẫn là sự tế nhị và điềm tĩnh bất di bất dịch của người Anh.
“Tôi đành phải để lại toàn bộ vụ này cho cô.”
“Tất nhiên, thám tử. Tôi hiểu mà.”
“Cô có toàn quyền đưa ra mọi quyết định.”
“Tôi đánh giá cao sự tin cậy của anh. Chúng tôi sẽ giải quyết vụ này và thông báo lại sau. Có lẽ tôi phải gác máy rồi.”
“Chúc may mắn.”
“Anh cũng vậy.”
Với Lincoln Rhyme, thật nặng nề khi phải từ bỏ một cuộc săn lùng, nhất là khi mục tiêu chính là tên tội phạm này.
Nhưng anh đã đưa ra quyết định. Giờ đây Năm Hai Hai sẽ là đối tượng săn đuổi duy nhất của anh. “Mel, gọi điện thoại hỏi xem những bằng chứng lấy được ở Brooklyn đang ở chỗ quái quỷ nào rồi.”
CHƯƠNG 12
Okay, quả là một bất ngờ.
Henderson House Residence, địa chỉ trên mẩu giấy ghi chú ở khu Upper East Side cùng với việc Robert Jorgense là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình đã khiến Amelia Sachs trông đợi nó sẽ là một nơi khá hơn thế này nhiều.
Đây hóa ra là một khu nhà cho thuê bẩn thỉu, tạm bợ của những gã nghiện ma túy và nát rượu. Gian tiền sảnh kê một mớ đồ đạc luộm thuộm, cũ kỹ, mốc meo, sặc mùi của tỏi, chất sát khuẩn và nước hoa xịt phòng rẻ tiền quyện với mùi mồ hôi chua khẳn. Chỗ trú ngụ của những kẻ vô gia cư khác đa số còn tiện nghi, sạch sẽ hơn nhiều.
Trước ngưỡng cửa xập xệ, cô dừng chân, quay đầu nhìn ra sau. Vẫn còn cảm thấy bất an về sự theo dõi của Năm Hai Hai, cũng như việc gã dễ dàng dắt mũi các đặc vụ liên bang ở Brooklyn, cô thận trọng quan sát đường phố xung quanh. Dường như không có ai để ý đến cô, nhưng lúc trước kẻ sát nhân cũng đã có mặt ngay gần nhà của DeLeon Williams và cô đã hoàn toàn bỏ qua hắn. Cô chăm chú quan sát một tòa nhà bỏ hoang nằm bên kia đường. Liệu có ai đang theo dõi cô từ một trong những khung cửa sổ bụi bặm đó không?
Hay đằng kia! Trên tầng hai có một cửa sổ lớn đã vỡ kính và cô dám chắc đã nhìn thấy thứ gì đó chuyển động trong bóng tối. Là một khuôn mặt? Hay một tia sáng chiếu xuống từ lỗ thủng trên mái nhà? Sachs bước lại gần và quan sát kỹ lưỡng tòa nhà. Cô không tìm thấy ai và đi đến kết luận đôi mắt cô đã nhầm lẫn. Quay trở lại khu nhà cho thuê, cô cố hít thở thật nhẹ và bước vào. Đến bàn thường trực, cô giơ phù hiệu cảnh sát trước mặt anh chàng trực ban béo phì hết thuốc chữa. Anh ta chẳng hề ngạc nhiên hay ái ngại trước sự xuất hiện của cớm. Cô được chỉ đường tới thang máy. Cửa thang máy vừa mở, mùi xú uế xông ra nồng nặc khiến cô không chịu nổi và quyết định lên bằng cầu thang bộ.
Nhăn mặt vì cơn đau từ khớp xương bị viêm, cô đẩy cánh cửa dẫn vào tầng sáu và tìm tới phòng 672. Cô gõ cửa, sau đó lùi sang một bên. “Cảnh sát đây, ông Jorgensen? Làm ơn mở cửa.” Không biết người đàn ông này có mối quan hệ như thế nào với kẻ giết người, cô thận trọng để sẵn một bàn tay lên khẩu Glock, một vũ khí tốt, đáng tin cậy.
Không ai trả lời song cô đã nghe thấy tiếng miếng kim loại đậy lỗ quan sát trên cánh cửa mở ra. “Cảnh sát đây,” cô lặp lại.
“Để thẻ cảnh sát của cô dưới cánh cửa.”
Cô làm theo.
Một khoảng im lặng, sau đó là tiếng chuỗi xích và một then ngang được tháo ra. Cánh cửa hé mở nhưng vẫn được giữ lại bằng một thanh chống an toàn. Khoảng trống tuy rộng hơn so với khe hở chiếc xích an toàn cho phép nhưng vẫn chưa đủ để một người có thể lách vào.
Một người đàn ông trung niên ló đầu ra. Mái tóc ông ta để dài, cáu bẩn, râu ria lởm chởm. Đôi mắt hiện rõ vẻ bối rối xen lẫn bực bội.
“Ông là Robert Jorgensen?”
Người đàn ông nhìn chằm chằm vào mặt cô rồi lại nhìn chiếc thẻ cảnh sát, quay nó giơ lên ánh sáng, mặc dù ô cửa kính hình chữ nhật đã mờ đục. Ông ta trả lại chiếc thẻ, tháo xích an toàn ra. Cánh cửa mở rộng. Người đàn ông ngó nghiêng kiểm tra gian sảnh phía sau lưng cô rồi ra hiệu cho cô vào phòng. Sachs thận trọng bước vào, tay vẫn đặt sát khẩu súng. Cô kiểm tra phòng và nhà vệ sinh. Trong phòng không còn ai khác và ông ta cũng không có vũ khí. “Ông là Robert Jorgensen?” Cô hỏi lại.
Ông ta gật đầu.
Cô xem xét kỹ lưỡng hơn căn phòng tồi tàn. Trong phòng có một chiếc giường, một chiếc bàn, một chiếc ghế dựa, một ghế bành và một chiếc trường kỷ rách tướp. Tấm thảm sàn màu xám đậm lấm đầy vết bẩn. Một chiếc đèn duy nhất tỏa thứ ánh sáng vàng nhợt nhạt, những tấm mành đều được kéo xuống. Toàn bộ của nả của ông ta đều nằm trong bốn chiếc va li lớn và một chiếc túi thể thao. Căn phòng không có bếp nhưng góc phòng đặt một tủ lạnh cỡ nhỏ, hai chiếc lò vi sóng và một máy pha cà phê. Thực đơn của người đàn ông này chủ yếu là súp và mì ăn liền. Khoảng một trăm cặp tài liệu được sắp cẩn thận dựa vào tường.
Quần áo ông đang mặc có lẽ thuộc về một quãng thời gian khác, tốt đẹp hơn nhiều trong cuộc đời ông ta. Chúng là những món đồ đắt tiền nhưng giờ đây đã sờn trơ sợi và đầy vết bẩn. Đôi giày sang trọng gót đã mòn vẹt. Có thể đoán: ông ta đã mất giấy phép hành nghề y vì một rắc rối liên quan tới ma túy hay chứng nghiện rượu.
Lúc này, ông chủ nhà đang bận bịu làm công việc lạ lùng: cắt rời từng mảnh một cuốn sách y khoa dày bìa cứng. Một chiếc kính lúp đã được kẹp chặt vào bàn, ông ta đang xé các trang sách rồi cắt chúng thành những dải nhỏ.
Một chứng bệnh tâm thần có thể đã dẫn tới sự xuống dốc của ông ta.
“Cô đến đây vì những bức thư. Đã đến lúc rồi.”
“Những bức thư?”
Ông ta nhìn cô nghi ngờ. “Không phải sao?”
“Tôi không biết về bất cứ bức thư nào cả.”
“Tôi đã gửi thư tới Washington. Cô đã đọc chúng đúng không? Tôi đã gửi tới tất cả nhân viên công vụ, nhân viên an ninh của các vị. Chắc chắn cô phải biết, ai cũng phải biết… Cơ sở dữ liệu tội phạm và tất cả những thứ đó…”
“Tôi thực sự không hiểu ông muốn nói gì.”
Người đàn ông có vẻ tin cô. “Vậy thì…,” đôi mắt ông ta mở to, nhìn xuống túi cô. “Đợi đã, điện thoại di động của cô có mở máy không?”
“Tất nhiên là có.”
“Lạy Chúa trên thiên đàng! Cô bị làm sao vậy?”
“Tôi…”
“Tại sao cô không cởi tuột hết quần áo luôn rồi lao xuống phố nói địa chỉ của mình cho bất cứ kẻ lạ mặt nào mà cô bắt gặp? Tháo pin ra. Không chỉ tắt máy. Lấy pin ra!”
“Tôi sẽ không làm thế.”
“Lấy chúng ra. Nếu không, mời cô cuốn xéo khỏi đây nhau lập tức. Cả máy PDA (máy hỗ trợ kỹ thuật số cá nhân) và máy nhắn tin nữa.”
Có vẻ như đây là một yêu cầu tiên quyết. Nhưng cô cương quyết nói: “Tôi không muốn bị mất bộ nhớ. Tôi sẽ tháo pin điện thoại và máy nhắn tin.”
“Okay,” ông ta hầm hừ và cúi người về phía trước trong khi cô tháo pin điện thoại và máy nhắn tin, đồng thời tắt chiếc PDA.
Tiếp đó, cô yêu cầu xem giấy tờ tùy thân của ông ta. Ông ta cự nự nhưng vẫn lấy ra một tấm bằng lái xe. Địa chỉ cấp ở Greenwich, Connecticut, một trong những đô thị sang trọng, lịch sự nhất trong nước. “Tôi không đến đây vì những bức thư, ông Jorgensen. Tôi chỉ có vài câu hỏi. Tôi sẽ không làm tốn nhiều thời gian của ông đâu.”
Người đàn ông ra hiệu cho cô ngồi xuống chiếc trường kỷ nặng mùi đồng thời cũng ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn. Như thể không đừng nổi, ông ta quay lại với cuốn sách và dùng dao cạo cắt ra một mảnh gáy sách. Ông ta điều khiển con dao một cách thành thạo, tự tin và nhanh chóng. Sachs lấy làm mừng giữa họ vẫn có chiếc bàn ngăn cách, khẩu súng của cô có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không gặp trở ngại.
“Ông Jorgensen, tôi đến đây vì một tội ác vừa xảy ra sáng nay.”
“À, phải, tất nhiên rồi,” môi bĩu lại, ông ta liếc nhìn Sachs lần nữa, thái độ hoàn toàn rõ ràng: cam chịu và khinh bỉ. “Vậy lần này tôi bị cho là đã làm những gì?”
Lần này?
“Đây là một vụ cưỡng dâm và giết người. Nhưng chúng tôi biết rõ ông không liên quan. Ông đã ở đây tại thời điểm án mạng xảy ra.”
Một nụ cười tàn nhẫn hiện ra trên khuôn mặt vị chủ nhà. “Ái chà, theo dõi dấu vết tôi. Tất nhiên rồi.” Rồi khuôn mặt ông ta cau lại. “Quỷ tha ma bắt.” Câu này được dùng để dành cho thứ gì đó ông ta vừa tìm thấy hoặc không tìm được, trong mảnh gáy sách đã cắt rời. Người đàn ông vứt nó vào sọt rác. Sachs để ý thấy trong những chiếc túi rác mở hé miệng nhét đầy những mảnh vụn của quần áo, sách, tạp chí, thậm chí cả những chiếc hộp nhỏ. Bên trong chiếc lò vi sóng lớn hơn có một cuốn sách.
Chứng sợ mầm bệnh, cô đoán thầm.
Ông ta nhận ra cái nhìn của cô. “Dùng vi sóng là cách tốt nhất để hủy diệt chúng.” “Vi khuẩn? Hay virus?”
Người đàn ông phá lên cười trước câu hỏi, như thể cô đang bông đùa. Ông ta hất hàm về phía cuốn sách trước mặt mình. “Thực sự khó mà tìm ra chúng. Nhưng cô vẫn phải tìm thôi. Cô cần phải thấy rõ kẻ thù của mình trông ra sao.” Lần này là một cái hất hàm về phía chiếc lò vi sóng. “Không lâu nữa bọn họ sẽ sản xuất ra những thứ mà cô không thể tiêu diệt được bằng cả vũ khí hạt nhân. Tốt hơn là hãy tin tôi đi.”
Bọn họ… chúng… Sachs từng là nhân viên tuần tra trong Ban Tuần tra nhiều năm liền – một “di động,” tiếng lóng trong giới cảnh sát. Cô đã làm việc ở khu vực Quảng trường Thời Đại ngay từ thuở ban đầu, trước khi nơi đó càng ngày càng giống với Bắc Disneyland. Nhân viên tuần tra Sachs đã có khá nhiều kinh nghiệm với những người vô gia cư hoặc có vấn đề về tâm thần. Cô nhận ra ngay những triệu chứng của chứng hoang tưởng, thậm chí cả bệnh tâm thần phân liệt.
“Ông có quen ai tên là DeLeon Williams không?”
“Không.”
Cô đưa ra tên của các nạn nhân và những người bị cài bẫy khác, bao gồm cả anh họ Rhyme. “Không, chưa bao giờ nghe nói đến ai trong số họ.” Có vẻ như câu trả lời là thành thật. Cuốn sách thu hút toàn bộ sự chú ý của ông ta gần nửa phút. Ông ta cắt rời một trang sách, giơ lên cao và lại nhăn mặt, rồi ném trang sách đi.
“Ông Jorgensen, địa chỉ phòng ông đang ở đã được tìm thấy trên một mảnh ghi chú gần hiện trường vụ án mạng xảy ra hôm nay.”
Bàn tay cầm con dao chợt sững lại như hóa đá. Ông ta nhìn cô với đôi mắt hốt hoảng như lên cơn sốt. Ông ta hỏi như người nghẹt thở: “Ở đâu? Cô đã tìm thấy nó ở chỗ nào vậy?”
“Trong một thùng rác ở Brooklyn. Nó bị dính vào bằng chứng. Có thể kẻ sát nhân đã vứt nó đi.” Ông ta thì thào hỏi, giọng lạc đi, “Cô có một cái tên chứ? Trông hắn thế nào? Nói cho tôi biết!” Ông ta nhổm người dậy, khuôn mặt đỏ lựng. Đôi môi run bần bật.
“Bình tĩnh nào, ông Jorgensen. Hãy bình tĩnh. Chúng tôi không hoàn toàn khẳng định chính hắn là kẻ đã vứt lại mảnh ghi chú.”
“Ồ, chính là hắn đấy. Dám cược với cô chính là hắn. Thằng khốn nạn đó!” Ông ta chồm người ra phía trước. “Cô có một cái tên chứ?”
“Không.”
“Chết tiệt, nói cho tôi biết! Hãy làm điều gì đó vì tôi, chứ không phải với tôi!”
Cô nghiêm giọng nói: “Nếu tôi có thể giúp ông, tôi sẽ giúp. Nhưng ông cần phải bình tĩnh. Ông đang nói về ai vậy?”
Người đàn ông buông rơi con dao, ngồi phịch xuống ghế, hai tay buông thõng. Một nụ cười cay đắng xuất hiện trên khuôn mặt ông ta. “Ai? Ai? Tất nhiên là Chúa, còn ai vào đây nữa.” “Chúa?”
“Và tôi là Job – con người vô tội phải chịu đựng sự hành hạ kinh khủng nhất của Chúa. Tất cả những thử thách ông ta phải chịu đựng chẳng là gì với những gì tôi đã phải trải qua… Ôi, chính là hắn. Hắn đã tìm ra nơi tôi đang sống và ghi lại trong mảnh ghi chú mà các người tìm thấy. Tôi nghĩ mình đã trốn thoát. Nhưng hắn lại tìm thấy tôi.”
Sachs nghĩ cô đã nhìn thấy những giọt nước mắt trào ra. Cô hỏi: “Tất cả chuyện này là gì? Hãy nói cho tôi biết đi.”
Jorgensen đưa tay lên vuốt mặt. “Mấy năm trước tôi từng là một bác sĩ có giấy phép hành nghề ở Connecticut. Tôi có người vợ và hai đứa trẻ tuyệt vời. Tiền trong ngân hàng không thiếu, cuộc sống về hưu được đảm bảo, chúng tôi có cả một căn nhà nghỉ nữa. Cuộc sống thoải mái, tôi đã rất hạnh phúc. Thế rồi mọi chuyện bắt đầu xảy ra, ban đầu chưa có gì lớn. Tôi làm thủ tục đề nghị cấp thẻ tín dụng mới, để hưởng ưu đãi trong chương trình dành cho khách hàng trung thành của hãng hàng không. Nhưng tôi đã bị từ chối, công ty nói tôi là người có nguy cơ về tín dụng vì đã chuyển nhà đến ba lần trong sáu tháng trước đó. Tôi nghĩ đó chỉ là một sự nhầm lẫn. Tôi kiếm được ba trăm nghìn đô la một năm, chưa bao giờ quá hạn thanh toán thẻ tín dụng hay trả tiền vay thế chấp trong đời mình… Và tôi không hề chuyển nhà. Một kẻ nào đó đã lấy tên tôi, số bảo hiểm xã hội và thông tin tín dụng của tôi để thuê những căn hộ nhưng không trả tiền. Trước đó hắn còn mua sắm đồ đạc hết gần một trăm nghìn đô la và cho chuyển tới những căn hộ đó.”
“Đánh cắp danh tính?”
“Ôi, đó là tội đánh cắp danh tính khủng khiếp nhất có thể xảy ra. Hắn đã dùng tên tôi lập các thẻ tín dụng, tạo ra những hóa đơn thanh toán khổng lồ, gửi đơn đặt hành tới nhiều địa chỉ khác nhau. Và tất nhiên không bao giờ thanh toán chúng. Khi tôi vừa biết được một vụ, hắn đã lại gây ra một vụ khác. Mọi thông tin riêng tư về tôi hắn đều biết. Tên thời con gái của mẹ tôi, ngày sinh của bà, tên con chó đầu tiên của tôi, chiếc xe đầu tiên của tôi, mọi thứ mà các công ty hay hỏi để làm mật khẩu. Hắn có tất cả số điện thoại cũng như số thẻ gọi của tôi. Hắn đã tạo ra hóa đơn điện thoại đến mười nghìn đô la. Bằng cách nào ư? Hắn gọi điện hỏi thời gian và nhiệt độ ở Mát xcơ va, Singapore hay Sydney rồi để máy treo như thế trong hàng giờ liền.”
“Tại sao?”
“Tại sao? Cô còn hỏi tôi ư. Bởi vì hắn là Chúa. Còn tôi là Job… Thằng khốn nạn đó đã dùng tên tôi mua cả một ngôi nhà! Và sau đó không thanh toán tiền. Tôi chỉ phát hiện ra chuyện này khi một luật sư của công ty chuyên thu nợ tìm đến phòng khám của tôi ở New York và hỏi về việc thanh toán khoản tiền ba trăm bảy mươi nghìn đô la. Hắn cũng tạo ra một khoản nợ đánh bạc trực tuyến nữa.
“Hắn giả mạo tôi để tạo ra những yêu cầu thanh toán bảo hiểm, vậy là công ty bảo hiểm bỏ rơi tôi. Tôi không thể mở phòng khám mà không có bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp bác sĩ. Chúng tôi đành phải bán nhà, đến đồng xu cuối cùng đều phải dùng vào việc trang trải những hóa đơn đòi nợ đang ào ào ập xuống đầu, lúc đó đã lên tới khoảng hai triệu đô la.”
“Hai triệu?”
Jorgensen nhắm nghiền hai mắt lại trong khoảnh khắc. “Mọi việc còn trở nên tồi tệ hơn nữa. Khi tất cả những chuyện vừa rồi xảy ra, vợ tôi luôn có mặt bên tôi… cho tới khi hắn gửi những món quà đắt tiền được mua bằng thẻ tín dụng của tôi tới vài y tá từng làm việc ở phòng khám, kèm theo những lời mời mọc và nhận xét đầy ngụ ý. Một người trong số họ để lại lời cảm ơn và nói rằng cô ta sẵn sàng đi chơi với tôi vào dịp cuối tuần. Con gái tôi nghe được lời nhắn này và khóc nức nở khi kể lại với mẹ tôi. Tôi nghĩ cô ấy tin tôi không làm gì sai trái. Nhưng bốn tháng trước cô ấy vẫn bỏ tôi để chuyển tới sống cùng chị gái ở Colorado.”
“Tôi rất tiếc.”
“Tiếc ư? Được thôi, rất cảm ơn cô. Nhưng tôi vẫn chưa kể xong đâu. Sau khi vợ tôi bỏ đi, tôi phải đối mặt với việc bị bắt giữ. Những khẩu súng được mua bằng thẻ tín dụng cùng một bằng lái xe giả mang tên tôi đã được dùng trong những vụ cướp có vũ trang ở phía đông New York, New Haven, Yorkers và làm trọng thương một nhân viên ngân hàng. Văn phòng Cục Điều tra Liên bang tại New York đã bắt tôi. Cuối cùng họ thả tôi ra nhưng tôi vẫn có tiền sử bị bắt giữ trong lý lịch. Một vết nhơ mãi mãi không xóa được. Sau đó, đến lượt Cơ quan Bài trừ ma túy bắt giữ tôi vì họ đã tìm ra dấu vết liên quan tới việc nhập khẩu trái phép một số loại thuốc cần kê đơn trong nhà tôi.
“À, tôi đã phải ngồi tù một thời gian, tất nhiên không phải là tôi mà là kẻ hắn đã bán cho thẻ tín dụng và bằng lái xe giả mang tên tôi. Tên thật của kẻ đó là gì thì không ai biết. Nhưng với thế giới này, tài liệu lưu trữ của chính phủ cho biết Robert Samuel Jorgensen, số bảo hiểm xã hội 923 674 182, cư trú ở Greenwich, Connecticut, là một tù nhân. Nó cũng nằm trong lý lịch của tôi. Mãi mãi.”
“Đáng ra ông phải kiện, phải báo cảnh sát.”
Ông ta chế nhạo: “Ồ, thôi đi. Cô cũng là cớm mà. Cô biết quá rõ một vụ kiểu này sẽ ở đâu trong thứ tự ưu tiên của cảnh sát chứ? Chỉ ngay trên vụ xử phạt đi bộ sai luật giao thông.”
“Ông có biết được điều gì có thể giúp ích cho chúng tôi không? Bất kỳ điều gì về hắn? Độ tuổi, màu da, học vấn, nơi ở?”
“Không, chẳng có gì hết. Cho dù nhìn vào đâu tôi cũng chỉ thấy có mỗi một người: chính tôi. Hắn đã cướp mất bản thân tôi khỏi con người tôi… Ôi, người ta lúc nào chả nói các biện pháp an toàn, quy trình bảo vệ. Nhảm nhí hết. Phải, nếu cô mất thẻ tín dụng, có thể cô vẫn an toàn ở một mức độ nào đó. Nhưng nếu kẻ nào muốn hủy hoại cuộc đời cô, cô chẳng thể làm gì được. Người ta luôn tin vào những gì mà chiếc máy tính cung cấp. Nếu chúng nói cô đang nợ tiền thì có nghĩa là cô đang nợ tiền. Nếu chúng nói cô là một mối rủi ro tồi tệ về bảo hiểm thì cô đúng là vậy. Báo cáo nói cô không còn khoản tín dụng nào thì là cô đã hết sạch tín dụng, cho dù cô có là triệu phú đi nữa. Loài người tin vào dữ liệu và bất cần sự thật… À, cô muốn biết công việc mới đây nhất của tôi là gì không?”
Người đàn ông đứng bật dậy, mở chiếc tủ lấy ra một bộ đồng phục của người giao đồ ăn nhanh. Rồi Jorgensen quay lại bàn và tiếp tục cắt xẻ cuốn sách, vừa làm vừa lẩm bẩm, “Tao sẽ tìm ra mày, đồ mắc dịch.” Ông ta ngước mắt lên. “Cô có muốn biết phần tệ hại nhất của tất cả chuyện này không?” Cô gật đầu.
“Hắn không bao giờ sống trong những căn hộ mà hắn thuê dưới tên tôi. Hắn không bao giờ bán những lô thuốc nhập bất hợp pháp. Cũng chẳng hề nhận những món hàng hắn đã đặt. Đám cảnh sát tìm thấy tất cả những thứ đó. Hắn cũng chưa từng sống trong ngôi nhà xinh xắn mà hắn đã mua. Hiểu chứ? Mục đích duy nhất của hắn là hành hạ tôi. Hắn là Chúa, tôi là Job.”
Sachs nhìn thấy một bức ảnh trên mặt bàn. Bức hình chụp Jorgensen và người phụ nữ tóc vàng trạc tuổi ông ta, hai người đang vòng tay ôm lấy một cô bé vị thành niên và một cậu bé con. Ngôi nhà đằng sau trông rất đẹp. Cô tự hỏi nếu đúng kẻ đứng sau việc này chính là tên tội phạm họ đang tìm kiếm – Năm Hai Hai – thì tại sao hắn lại nhọc công làm tất cả việc đó để hủy hoại cuộc đời một con người. Liệu có phải hắn đang thử nghiệm phương pháp sẽ sử dụng để tiếp cận nạn nhân và cài bẫy người thế thân? Liệu Robert Jorgensen có phải là vật thí nghiệm của hắn?
Hay Năm Hai Hai là một gã bệnh hoạn độc ác? Những gì hắn gây ra cho Jorgensen có thể gọi là một vụ bạo hành tinh thần.
“Tôi nghĩ ông nên tìm một nơi khác để sống, ông Jorgensen.”
Một nụ cười cam chịu đáp lại cô. “Tôi biết. Như thế an toàn hơn.”
Sachs thầm nghĩ tới cách diễn đạt bố cô từng sử dụng. Nó mô tả khá chính xác cách nhìn của cô về cuộc đời. “Khi ta vận động, họ không thể bắt được ta…”
Người đàn ông hất hàm về phía cuốn sách. “Cô có biết làm cách nào hắn tìm ra tôi ở đây không? Mọi thứ bắt đầu trở nên tồi tệ sau khi tôi mua cuốn sách đó. Tôi nghĩ rằng câu trả lời ẩn chứa trong đó. Tôi đã dỡ tung nó ra nhưng vô ích. Chắc chắn phải có câu trả lời bên trong cuốn sách đó. Chắc chắn phải có!” “Chính xác thì ông đang tìm kiếm cái gì?”
“Cô không biết sao?”
“Không.”
“Tất nhiên là thiết bị định vị rồi. Người ta gắn chúng vào sách, quần áo… Chẳng bao lâu nữa chúng sẽ có mặt trong mọi thứ.”
Vậy là không phải mầm bệnh.
“Lò vi sóng vô hiệu hóa được các thiết bị định vị sao?” Cô hỏi, tìm cách gợi chuyện. “Phần lớn. Cô có thể phá hủy ăng ten nhưng ngày nay thường thiết bị định vị đã trở nên quá nhỏ, chỉ có thể nhìn qua kính hiển vi.” Jorgensen chợt im bặt, cô nhận ra ông ta đang nhìn cô đầy ngụ ý như thể đang suy nghĩ điều gì đó. Rồi lên tiếng. “Cô cầm lấy nó đi.”
“Cái gì?”
“Cuốn sách.” Đôi mắt ông ta đảo quanh phòng như một người điên. “Nó chứa đựng câu trả lời bên trong, câu trả lời cho mọi thứ xảy đến với tôi… Xin cô đấy! Cô là người đầu tiên đã không đảo mắt lảng tránh khi tôi kể câu chuyện của mình, là người duy nhấy đã không nhìn tôi như thể tôi là một gã điên.”
Người đàn ông ngồi xuống, cúi người về phía trước. “Cô cũng muốn tóm cổ hắn chẳng kém gì tôi. Tôi dám cược cô có trong tay mọi thiết bị cần thiết. Máy quét hiển vi, các loại cảm biến… Cô có thể tìm ra nó! Nó sẽ dẫn cô tới hắn. Phải!” Ông ta chìa cuốn sách về phía cô.
“Thú thực, tôi không rõ chúng tôi đang tìm cái gì nữa.”
Người đàn ông gật đầu ra vẻ thông cảm. “Ồ, cô không cần phải giải thích với tôi đâu. Rắc rối là ở chỗ đó. Chúng luôn thay đổi không ngừng. Chúng luôn đi trước chúng ta một bước. Nhưng hãy làm ơn…” Chúng…
Cô cầm lấy cuốn sách, băn khoăn không biết có nên nhét nó vào chiếc túi đựng bằng chứng và gắn tấm thẻ kiểm soát lên không. Cô mường tượng mình trông sẽ lố bịch thế nào khi quay về nhà của Rhyme. Có lẽ chỉ nên lặng lẽ cầm theo cuốn sách.
Người đàn ông nhô người qua bàn, nắm chặt lấy tay cô. “Cảm ơn cô.” Và ông ta lại bật khóc. “Vậy ông sẽ chuyển đi?”
Ông ta nói: “Đó là điều tôi phải làm,” rồi cho cô biết tên của một nhà trọ tạm bợ nằm ở khu vực Lower East Side. “Đừng ghi lại địa chỉ. Đừng nói với bất cứ ai. Đừng nhắc đến tôi qua điện thoại. Bọn chúng lúc nào cũng lắng nghe.”
“Hãy gọi tôi nếu ông nhớ ra điều gì về… Chúa.” Cô đưa cho ông ta tấm card của mình. Người đàn ông ghi nhớ những thông tin trên tấm thẻ rồi xé vụn ra từng mảnh. Sau đó, ông ta đi vào nhà vệ sinh, ném một nửa chúng xuống bồn cầu rồi giật nước. Ông ta nhận ra vẻ tò mò của cô. “Tôi sẽ xả nốt nửa còn lại sau. Xả đi toàn bộ một thứ gì đó cùng một lúc cũng ngu ngốc không kém gì để lại các hóa đơn trong hộp thư mà không thèm khóa. Con người ta ngu ngốc như vậy đó.”
Người đàn ông dẫn cô ra cửa, đứng sát cạnh cô. Mùi quần áo đã lâu ngày chưa giặt xộc vào mũi. Đôi mắt đỏ ngầu của ông ta nhìn cô dữ dằn. “Cô cảnh sát, hãy nghe tôi nói đây. Tôi biết cô có một khẩu súng to đùng. Nhưng nó chẳng có ích gì với một gã như hắn đâu. Cô cần phải tiếp cận thật gần trước khi có thể bắt hắn. Nhưng hắn lại chẳng cần phải tiếp cận cô. Hắn có thể ngồi trong một căn phòng tối tăm ở đâu đó, vừa nhâm nhi một ly rượu vang vừa nghiền nát cuộc đời tôi thành từng mảnh.” Jorgensen hất hàm về phía cuốn sách đang nằm trong tay cô. “Và giờ đây khi cô đã cầm nó trong tay, cô cũng bị theo dõi.”
CHƯƠNG 13
Tôi đã kiểm tra các bản tin, ngày nay có vô số cách thức hữu hiệu để thu thập thông tin và không thấy nói gì về một nhân viên cảnh sát tóc đỏ bị đồng nghiệp trong lực lượng bảo vệ pháp luật bắn hạ ở Brooklyn. Nhưng ít nhất bọn chúng đã có một phen phát hoảng.
Giờ hẳn bọn chúng đang rất bực bội
Tốt. Tại sao chỉ có tôi phải cảm thấy bực bội?
Vừa bước đi tôi vừa suy nghĩ: Việc này đã diễn ra như thế nào? Tại sao lại có thể xảy ra được? Chuyện này thật không tốt, không tốt chút nào hết…
Bọn chúng biết chính xác tôi đang làm gì, nạn nhân của tôi là ai.
Và biết rằng tôi đang trên đường tới nơi ở của DeLeon 6832, vào đúng thời điểm đó. Bằng cách nào?
Tìm kiếm, tập hợp và phân tích các dữ liệu. Không, tôi không thể hiểu bọn chúng đã làm được điều đó bằng cách nào.
Ít nhất là chưa thể. Cần phải suy nghĩ nhiều hơn nữa.
Tôi không có đủ thông tin. Làm sao tôi có thể rút ra kết luận nếu không có dữ liệu? Bằng cách nào? A, chậm lại, chậm lại đã, tôi tự nói với mình. Khi các mười sáu chữ số bước đi quá nhanh, họ để rò rỉ các dữ liệu, bộc lộ ra đủ loại thông tin, ít nhất với những người thông minh, có khả năng suy luận như tôi có thể nhận ra được.
Chủ nhật đối với tôi đã không còn đẹp nữa. Những con phố toàn một màu xám xịt. Ánh sáng mặt trời thật bức bối, ô uế. Thành phố lạnh lẽo, những bờ hè xác xơ nham nhở. Đám mười sáu chữ số đang cười cợt, vênh vang với bộ mặt thật phô trương.
Tôi ghét tất cả chúng!
Nhưng hãy cúi đầu xuống, làm bộ tận hưởng một ngày đẹp trời đi.
Nhất là hãy suy nghĩ. Thử phân tích xem. Một chiếc máy tính, khi đối diện với một vấn đề, sẽ phân tích dữ liệu ra sao?
Suy nghĩ. Bọn chúng đã phát hiện ra bằng cách nào?
Một tòa nhà, hai tòa, ba tòa, bốn…
Không có câu trả lời nào xuất hiện. Chỉ có kết luận: Bọn chúng khá thông minh. Một câu hỏi nữa: Chính xác bọn chúng là những kẻ nào? Tôi cho rằng…
Tôi chợt sững người trước một ý nghĩ khủng khiếp. Ôi, không… Tôi dừng lại, thò tay vào trong ba lô. Không, không, không, nó biến mất rồi! Mảnh giấy ghi chú, dính vào túi đựng các bằng chứng, tôi đã quên gỡ nó trước khi vứt túi đi. Địa chỉ của mười sáu chữ số mà tôi ưa thích nhất: 3694 – 8938 – 5330 – 2498, con vật cưng của tôi – được thế giới biết đến dưới tên bác sĩ Robert Jorgensen. Tôi vừa tìm ra nơi hắn lẩn trốn và ghi lại vào một mảnh giấy. Tôi giận điên người vì đã không ghi nhớ địa chỉ đó rồi hủy đi.
Tôi ghét chính mình, ghét mọi thứ. Làm sao tôi có thể bất cẩn vậy chứ?
Tôi muốn gào lên
Robert 3694 của tôi! Suốt hai năm trời, hắn là chú chuột lang của tôi, là vật thí nghiệm trên nhân loại của tôi. Thông tin cá nhân, đánh cắp danh tính, thẻ tín dụng…
Nhưng, hơn tất cả, quá trình hủy hoại hắn quả là một đỉnh cao vĩ đại. Cực điểm của cảm xúc, không thể tả bằng lời. Giống như cocain hay heroin vậy. Chọn ra người đàn ông của một gia đình hoàn toàn bình thường, hạnh phúc, một bác sĩ giỏi, tận tụy và hủy hoại ông ta.
Tôi không thể để xảy ra bất cứ sai sót nào. Giả thiết rằng ai đó đã tìm thấy mảnh giấy và tìm tới hắn ta. Hắn sẽ chạy trốn… và tôi sẽ phải để cho hắn chạy.
Lại có một thứ gì đó của tôi bị lấy đi mất trong ngày hôm nay. Tôi không thể mô tả nổi cảm giác của mình. Đau đớn như bị lửa thiêu, sợ hãi như trong cơn hoảng loạn. Nó khiến tôi cảm thấy như mình đang rơi tự do và sẽ đập xuống mặt đất mờ ảo bên dưới bất cứ lúc nào nhưng… không… hẳn.
Tôi lách qua bầy linh dương, những mười sáu chữ số đang đổ xô ra đường trong ngày nghỉ. Hạnh phúc của tôi đã bị hủy hoại, cảm giác thư thái, dễ chịu biến mất hoàn toàn. Chỉ mới vài giờ trước đây thôi, tôi đang ngắm nhìn bọn chúng với sự tò mò vô hại và cảm giác thèm muốn, thì nay tôi chỉ muốn trút giận lên đầu một kẻ nào đó, cắt lát làn da trắng bệch của hắn thành những miếng mỏng như vỏ cà chua bằng một trong những con dao cạo kiểu 89 của tôi.
Đó là dao cạo hiệu Krusius Brothers, kiểu cuối thế kỷ mười chín. Nó có một lưỡi dài, cán cầm bằng
sừng hươu rất đẹp và cũng là niềm tự hào trong bộ sưu tập của tôi.
- - * - -
“Các bằng chứng, Mel. Chúng ta hãy xem xét chúng.”
Rhyme đang nói tới những thứ đã được lấy từ chiếc thùng rác gần nhà DeLeon Williams. “Có dấu vân tay nào không?”
Vật đầu tiên Cooper kiểm tra vân tay là những chiếc túi nilon, gồm chiếc túi đựng những bằng chứng mà Năm Hai Hai định sử dụng để sắp đặt và những chiếc túi bên trong, đựng một ít máu vẫn chưa đông và một chiếc khăn giấy dính đầy máu. Nhưng kết quả thật đáng thất vọng: trên những chiếc túi này không hề có dấu vân tay, mặc dù chất liệu của chúng lưu giữ dấu vân tay rất tốt (hoàn toàn có thể nhìn thấy được dấu vân tay một cách rõ ràng chứ không chỉ là dấu ẩn và không cần đến các hóa chất hay nguồn chiếu sáng đặc biệt). Cooper tìm thấy những dấu vết cho thấu kẻ tình nghi đã đeo găng tay bằng vải bông khi tiếp xúc với những chiếc túi. Những kẻ tội phạm giàu kinh nghiệm ưa dùng loại này hơn găng cao su vì cao su giữ dấu vân tay bên trong các ngón của găng rất tốt. Sử dụng nhiều loại hóa chất và đèn soi khác nhau, Mel Cooper tiếp tục kiểm tra những vật còn lại và cũng không tìm ra được dấu vân tay nào.
Rhyme hiểu rõ những vụ án Năm Hai Hai là thủ phạm khác biệt rõ rệt với những vụ thông thường ở chỗ nó chứa đựng hai loại bằng chứng. Thứ nhất, những bằng chứng giả mà kẻ sát nhân chủ định sắp đặt để đổ tội cho người khác mà lần này là DeLeon Williams, thủ phạm chắc hẳn đã đảm bảo rằng không có thứ nào trong đó có thể trở thành đầu mối giúp lần ngược trở lại hắn. Thứ hai, những bằng chứng thực sự mà hắn đã vô tình để lại và rất có thể sẽ dẫn tới nơi ở của hắn, chẳng hạn như vết tàn thuốc lá và mẫu tóc búp bê.
Chiếc khăn giấy đẫm máu cùng chỗ máu chưa đông thuộc về loại thứ nhất, được để lại một cách có chủ định. Tương tự là cuộn băng dính, có lẽ theo dự kiến sẽ được bỏ vào ga ra hay xe hơi của Williams, chắc chắn sẽ phù hợp với những đoạn băng dính được dùng để bịt mồm hay trói Myra Weinburg. Nhưng chắc hẳn cuộn băng dính này đã được cẩn thận giữ cách xa nơi ở của Năm Hai Hai để không tạo ra bất cứ dấu vết nào.
Chiếc giày chạy hiệu Sure-Track cỡ 13 có lẽ sẽ không được bỏ vào nhà Williams nhưng nó vẫn thuộc về loại bằng chứng ‘sắp đặt’ vì Năm Hai Hai chắc chắn đã dùng nó để tạo ra vết giày tương tự như vết giày của Williams. Tuy vậy, Mel Cooper vẫn kiểm tra và tìm ra vết bia dính vào đế giày. Theo tài liệu về các nguyên liệu sử dụng trong đồ uống lên men, được Rhyme xây dựng cho Sở Cảnh sát New York nhiều năm trước, vết bia này có nhiều khả năng thuộc về nhãn bia Miller. Dấu vết này có thể thuộc về một trong hai loại – được sắp đặt hay thực thụ. Họ cần đợi xem Pulaski thu thập được những gì từ hiện trường vụ sát hại Myra Weinburg để biết chắc chắn.
Trong túi cũng có một bức ảnh Myra được in từ máy tính, có lẽ để tạo giả thiết Williams đã làm quen với cô gái trên mạng; có nghĩa đây cũng là một bằng chứng được sắp đặt. Tuy vậy, Rhyme vẫn yêu cầu Cooper kiểm tra kỹ bức ảnh, nhưng xét nghiệm với thuốc thử Ninhydrin không phát hiện được vết vân tay nào. Các phân tích hiển vi và hóa học cho biết bức ảnh được in trên một loại giấy thông dụng không thể lần ra được nguồn gốc, trên một chiếc máy in laser hiệu Hewlett-Packard, ngoài ra không có gì khác.
Nhưng họ đã có một phát hiện rất có thể sẽ hữu ích. Rhyme và Cooper tìm thấy thứ gì đó dính trên giấy: vết của loại nấm mốc Stachybotrys Chartarum. Đây là chính là loại ‘mốc nhà’ mà ai cũng biết. Vì lượng tìm thấy rất nhỏ nên rất ít khả năng Năm Hai Hai cố ý dính chúng lên đó. Có thể những vết nấm mốc xuất phát từ chỗ ở hay nơi làm việc của kẻ sát nhân. Sự có mặt của loại nấm mốc vốn gần như chỉ tìm thấy trong nhà này cũng đồng nghĩa với việc ít nhất một phần chỗ ở hay nơi làm việc của hắn luôn ở trong tình trạng tối tăm ẩm thấp. Nấm mốc không thể phát triển được ở nơi khô ráo.
Mảnh giấy ghi chú, cũng nhiều khả năng không phải là bằng chứng sắp đặt, là sản phẩm sắp đặt, là sản phẩm của hãng 3M. Nó không phải loại thông dụng rẻ tiền nhất nhưng vẫn không thể lần ra nguồn gốc. Cooper không tìm thấy dấu vết nào ngoài một ít bào tử nấm mốc trên mảnh giấy, ít nhất chi tiết này cũng cho họ biết nhiều khả năng mảnh giấy thuộc về Năm Hai Hai. Mực viết trên đó là của một loại bút dùng một lần được bán rộng rãi ở các cửa hàng trên khắp đất nước.
Đó là tất cả bằng chứng có được. Trong lúc Cooper đang tập hợp kết quả, một kỹ thuật viên từ phòng thí nghiệm bên ngoài gọi tới báo rằng xét nghiệm sơ bộ xác nhận máu tìm thấy trong những chiếc túi chính là của Myra Weinburg.
Selitto có một cuộc gọi, mở máy trao đổi vài câu rồi ngắt máy. “Thế đấy… Đám DEA đã lần theo cuộc gọi báo về Amelia tới một chiếc điện thoại trả trước. Không ai trông thấy người gọi. Cũng có không ai trên đường nhìn thấy hắn. Các camera an ninh tại hai nhà ga điện ngầm gần đó cũng không ghi được hình ảnh nào đáng nghi ngờ vào khoảng thời gian hắn bỏ chạy.”
“Đúng thôi, giờ thì hắn sẽ không làm điều gì gây nghi ngờ nữa. Đám phụ trách camera an ninh nghĩ gì không biết nữa. Một kẻ giết người đang đào tẩu chẳng lẽ bỗng dưng quay mòng mòng hay lột phăng quần
áo trên người ra để biến thành một siêu anh hùng chắc?”
“Tôi cũng chỉ báo lại những gì họ nói thôi, Linc.”
Vừa cau mặt bực bội, Rhyme vừa yêu cầu Thom viết toàn bộ kết quả cuộc kiểm tra bằng chứng lên một chiếc bảng trắng.
Trên phố gần nơi ở của DeLeon Williams
• Ba túi nilon, loại ZipLoc Freeze, dung tích một gallon.
• Một chiếc giày phải, kiểu giày chạy Sure-Track cỡ 13, dưới đế dính vết bia đã khô (có thể là bia hiệu Miller), chưa từng được đi. Không có dấu vết đáng chú ý nào khác. Mục đích có thể để tạo ra vết giày tại hiện trường án mạng. • Khăn giấy thấm máu trong túi nilon. Xét nghiệm sơ bộ xác nhận là máu của nạn nhân.
• Hai cc máu đựng trong túi nilon. Xét nghiệm sơ bộ xác nhận là máu của nạn nhân.
• Mảnh giấy ghi chú có ghi địa chỉ Henderson House Residence, phòng 672, người đang ở là Robert Jorgensen. Không lần ra được nguồn gốc bút, giấy, mực được sử dụng viết địa chỉ. Tìm thấy nấm mốc Stachybotrys Chartarum trên giấy. • Ảnh màu nạn nhân in từ máy tính. Mực in của máy Hewlett-Packard. Ngoài ra không lần ra được nguồn gốc. Giấy in ảnh không lần ra được nguồn gốc. Tìm thấy nấm mốc Stachybotrys Chartarum trên ảnh.
• Băng dính, hiệu Home Depot, không lần ra được nơi bán.
• Không tìm thấy dấu vân tay.
Chuông cửa reo lên. Ron Pulaski hối hả bước vào, bê theo hai chiếc thùng, bên trong đựng các túi nilon bằng chứng từ hiện trường Myra Weinburg đã bị giết.
Rhyme có thể thấy vẻ mặt cậu cảnh sát trẻ đã thay đổi. Pulaski thường tỏ ra dè dặt, lúng túng đôi khi lại có vẻ kiêu hãnh, đầy tự hào, thậm chí có lúc cậu ta còn đỏ mặt nhưng lúc này đôi mắt cậu trống rỗng, ánh mắt quả quyết vốn có đã biến mất. Cậu ta liếc nhìn Rhyme, gật đầu, lầm lì bước vào bàn xét nghiệm bàn giao bằng chứng cùng các tấm thẻ ghi nhận dạng bằng chứng lại cho Cooper, chuyên gia kỹ thuật khám nghiệm vừa nhận lấy vừa thở dài.
Cậu cảnh sát trẻ lùi lại, nhìn về phía tấm bảng mà Thom vừa viết lên. Hai tay đút vào túi quần jean, áo sơ mi Hawaii bỏ ngoài, cậu ta không hề nhìn một từ cụ thể nào cả.
“Cậu ổn chứ, Pulaski?”
“Tất nhiên.”
“Trông cậu không được ổn lắm,” Sellitto nói.
“Không, không có gì đâu.”
Không đúng. Điều gì đó trong lần đầu tiên tự mình khám nghiệm hiện trường án mạng đã làm cậu ta khó chịu.
Cuối cùng cậu ta lên tiếng: “Cô gái vẫn còn nằm đó, mặt ngửa lên, nhìn chằm chằm vào trần nhà. Cứ như cô ấy vẫn còn sống và đang nhìn vào thứ gì đó, hơi cau mày, giống như tò mò vậy. Tôi cứ nghĩ người ta đã phủ lên cô ấy một tấm vải.”
“Cậu không nên bứt rứt vì chuyện này nữa,” Sellitto khẽ nói.
Pulaski nhìn qua cửa sổ. “Chuyện này thật điên rồ. Nhưng… cô ấy trông hơi giống Jenny.” Lincoln Rhyme và Amelia Sachs có nhiều điểm tương đồng trong công việc. Đối với họ, sự thấu cảm trong khi khám nghiệm hiện trường các tội ác cần thiết. Nhờ nó, bạn sẽ cảm nhận được những gì thủ phạm, cũng như nạn nhân, đã trải qua. Điều đó giúp hiểu rõ hơn hiện trường và tìm ra những bằng chứng mà rất có thể bạn sẽ bỏ sót.
Những người có được kỹ năng này là những bậc thầy trong khám nghiệm hiện trường. Dù rằng hậu quả đi kèm với nó đôi khi khiến họ khổ sở.
Nhưng Rhyme và Sachs khác nhau ở một điểm quan trọng. Sachs tin rằng, điều quan trọng là không được mất cảm giác khi đứng trước hiện trường kinh hoàng của tội ác. Phải luôn có cảm giác thấu cảm mỗi lần tới hiện trường và cả sau đó. Nếu không, trái tim người cảnh sát sẽ trở nên chai lì, tâm hồn sẽ ngày càng giống với nội tâm tăm tối của kẻ mà anh ta đang truy đuổi.
Rhyme lại cảm thấy cần phải bình thản đến mức tối đa. Chỉ bằng cách gạt bỏ bi kịch sang một bên mới có thể trở thành một cảnh sát xuất sắc nhất mà năng lực cho phép và các bi kịch có thể tái diễn trong tương lai sẽ được ngăn chặn hiệu quả hơn (“không được coi đó là một thân thể con người nữa,” anh thường lên lớp cho những người mới. “Đó là một nguồn bằng chứng. Và là một nguồn rất quan trọng”).
Nhà tội phạm học tin tưởng Pulaski có tiềm năng giống mình hơn, nhưng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp, cậu ta đang rơi vào vùng ảnh hưởng của Amelia Sachs. Lúc này, Rhyme thông cảm với cậu nhưng bọn họ đang có một vụ án cần giải quyết. Tối nay, khi đã về nhà, Pulaski có thể ôm chặt lấy cô vợ của mình và thầm than khóc cho cái chết của người phụ nữ có ngoại hình giống cô.
Anh hỏi cộc lốc: “Cậu vẫn tỉnh táo đấy chứ, Pulaski?”
“Vâng, thưa ông. Tôi ổn.”
Không hẳn là vậy, nhưng câu nói của Rhyme đã mang lại hiệu quả nhất định. “Đã kiểm tra xác nạn nhân rồi chứ?”
Một cái gật đầu. “Tôi và bác sĩ pháp y đã cùng tiến hành khám nghiệm. Tôi đảm bảo ông ấy đã choàng tấm bọc cao su quanh giày.”
Để tránh nhầm lẫn khi kiểm tra dấu chân và giày dép, Rhyme đã quy định các nhân viên điều tra hiện trường làm việc cho anh phải dùng các tấm bọc cao su quanh chân, ngay cả khi họ đang mặc bộ đồ liền quần chuyên dụng bằng chất dẻo, để tránh gây tạp nhiễm bằng chứng bới tóc, da và những thứ khác xuất phát từ chính cơ thể họ.
“Tốt lắm.” Sau đó Rhyme hăm hở nhìn về phía hai chiếc thùng. “Bắt đầu thôi. Chúng ta đã làm hỏng một kế hoạch của hắn. Rất có thể hắn đang điên lên và chuyển sang săn lùng mục tiêu khác. Cũng có thể hắn đang mua vé đi Mexico. Dù là khả năng nào đi nữa, tôi muốn chúng ta thật khẩn trương.” Cậu cảnh sát trẻ mở cuốn sổ ghi chép của mình ra. “Tôi…”
“Thom, vào đây nào. Cậu đang ở xó xỉnh nào vậy?”
“Bình tĩnh, Lincoln,” anh chàng điều dưỡng vừa bước vào phòng vừa lên tiếng kèm theo nụ cười hồ hởi. “Anh phải biết yêu cầu một cách lịch sự chứ.”
“Một bản danh sách nữa. Cậu hãy ghi lại trên bảng.”
“Thế ư?”
“Thôi nào.”
“Tôi không nghĩ thế.”
“Thom.”
“Thôi được.”
“Bắt đầu: Hiện trường vụ sát hại Myra Weinburg.”
Anh chàng Thom viết đầu đề lên bảng và đứng sẵn sàng với cây bút trong tay, trong lúc Rhyme hỏi, “Pulaski, theo tôi hiểu nơi đó không phải là căn hộ của nạn nhân đúng không?”
“Đúng thế, thưa ông. Một cặp vợ chồng sở hữu ngôi nhà đó. Họ đang du lịch trên biển. Tôi đã liên lạc được với họ. Họ nói chưa từng bao giờ nghe tới tên Myra Weinburg. Trời ơi, giá mà ông nghe được giọng nói của họ lúc ấy, quả thực rất bực bội. Như vậy, thủ phạm đã phá khóa để lọt vào trong.”
“Vậy là hắn biết không có ai ở nhà và không có hệ thống báo động,” Cooper nói. “Thú vị đây.” “Anh nghĩ sao?” Sellitto lắc đầu. “Hắn chỉ tình cờ chọn nơi đó làm địa điểm gây án sao?” “Quanh đó thực sự rất vắng vẻ,” Pulaski chen vào.
“Còn cô gái lúc đó đang làm gì?”
“Tôi tìm thấy xe đạp của cô ấy bên ngoài, trong túi nạn nhân có chiếc chìa Kryptonite (tên một công ty chuyên sản xuất các loại khóa), hoàn toàn khớp với khóa của xe.”
“Đi xe đạp. Có thể hắn đã theo dõi lộ trình của nạn nhân và biết cô sẽ có mặt ở đó vào một thời điểm nhất định. Bằng cách nào đó, hắn biết chủ nhà đã đi vắng, sẽ không bị ai quấy rầy… Okay, Rookie, hãy trình bày những gì cậu tìm thấy. Thom, nếu cậu không thấy phiền, hãy viết lại tất cả.” “Ông đang cố quá mức đấy.”
“Không sao. Tiếp: nguyên nhân tử vong?” Rhyme hỏi Pulaski.
“Tôi đã yêu cầu bên pháp y chuyển ngay kết quả giải phẫu cho chúng ta ngay khi có.” Sellitto cười cộc cằn, “Ông ta bảo sao?”
“Hình như là ‘Phải, tất nhiên rồi’. Và vài câu nữa.”
“Trước khi có thể yêu cầu kiểu đó, cậu cần phải được thăng chức đã. Nhưng tôi đánh giá cao cố gắng của cậu. Còn kết quả sơ bộ?”
Cậu ta nhìn xuống các ghi chép của mình. “Thủ phạn đã đánh một số cú vào đầu nạn nhân. Nhằm mục đích khuất phục, ông bác sĩ nghĩ vậy.” Cậu cảnh sát trẻ chợt dừng lại, có lẽ cậu đang nhớ lại chấn thương tương tự chính mình đã phải chịu mấy năm trước. Mấy giây sau, cậu tiếp tục: “Nguyên nhân gây tử vong là do bị ngạt thở. Xuất huyết trên mắt và bên trong mí mắt, những điểm chảy máu rất nhỏ….”
“Tôi biết chúng là gì, Rookie.”
“Tất nhiên rồi… Thêm hiện tượng căng phồng tĩnh mạch vùng da đầu, mặt. Đây là vật có khả năng chính là hung khí.” Anh ta giơ lên chiếc túi, bên trong đựng một đoạn dây thừng dài khoảng một mét hai. “Mel?”
Cooper cầm lấy, thận trọng mở nó ra trên tờ giấy sạch khổ lớn dùng để in báo, quét nhẹ để tìm các dấu vết có thể còn dính trên đó. Anh ta xem xét kỹ lưỡng rồi lấy được một ít mẫu sợi. “Gì vậy?” Rhyme sốt ruột hỏi.
“Kiểm tra.”
Anh chàng cảnh sát trẻ quay lại với các ghi chép của mình. “Còn về hành động cưỡng dâm, theo bác sĩ, nó được thực hiện trong cả đường âm đạo và hậu môn sau khi nạn nhân đã chết.” “Tư thế của thi thể?”
“Không có gì đặc biệt… nhưng tôi nhận thấy một điều, thám tử,” Pulaski nói. “Tất cả các móng tay của cô gái đều để dài, trừ một ngón. Móng của ngón đó bị cắt rất ngắn.”
“Đến chảy máu?”
“Phải. Bị cắt sâu tới tận lớp thịt dưới móng.” Anh ta ngần ngừ trước khi nói tiếp. “Có lẽ trước khi nạn nhân chết.”
Vậy là Năm Hai Hai có ít nhiều tính cách của một kẻ tàn bạo, bệnh hoạn, Rhyme thầm nghĩ. “Hắn thích sự đau đớn.”
“Kiểm tra những bức ảnh chụp hiện trường từ vụ cưỡng dâm trước.”
Viên cảnh sát trẻ vội vàng đi tìm các bức ảnh. Cậu ta lướt nhanh qua chúng và tìm ra một bức. Mắt cậu ta nheo lại. “Hãy nhìn xem, thám tử. Ở đây hắn cũng cắt cụt một móng tay nạn nhân. Cũng ở ngón đó.” “Chàng trai của chúng ta thích các chiến lợi phẩm. Một chi tiết rất hữu ích.”
Pulaski hăng hái gật đầu. “Hãy thử nghĩ về chi tiết này xem, ngón tay đeo nhẫn. Điều đó liên quan tới quá khứ của hắn chăng? Có thể vợ hắn đã bỏ hắn, hoặc hắn bị mẹ hắn bỏ rơi, hay hình bóng một người mẹ…”
“Cừ lắm, Pulaski. Cậu giúp tôi nhớ ra chúng ta đã quên mất một thứ khác.”
“Gì vậy, thưa ông?”
“Cậu có đọc tử vi hàng ngày của mình sáng nay trước khi chúng ta bắt đầu cuộc điều tra không?” “… Của tôi?”
“À, và ai đã được giao việc bói lá chè nhỉ? Tôi quên mất.”
Sellitto tặc lưỡi. Pulaski đỏ bừng mặt.
Rhyme cấm cẳn: “Việc dựng chân dung tâm lý như thế chẳng ích lợi gì hết. Điều hữu ích từ những chiếc móng tay là biết được Năm Hai Hai đang sở hữu dấu vết liên hệ về ADN tới tội ác hắn gây ra. Đó là chưa kể, nếu chúng ta xác định được hắn đã dùng dụng cụ nào để cắt món chiến lợi phẩm đó, rất có thể chúng ta có cơ hội tìm ra hắn. Bằng chứng, Rookie. Không phải những suy đoán vu vơ về tâm lý học.”
“Tôi hiểu.”
“Lincoln chỉ muốn tốt thôi mà.”
“Tất nhiên rồi.”
“Đoạn dây thừng thế nào, Mel?”
Cooper đang tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu về các loại sợi. “Loại sợi gai thông dụng, có trong hàng nghìn đại lý bán lẻ trên cả nước.” Anh ta phân tích hóa học. “Không có dấu vết gì.”
Thế là vứt đi.
“Còn gì nữa không, Pulaski?” Sellitto hỏi.
Anh ta lần theo danh sách. Dây câu, dùng để trói tay cô gái đã cứa sâu vào da đến mức gây chảy máu. Băng dính để bịt mồm nạn nhân. Loại băng dính hiệu Home Depot, tất nhiên được lấy từ chính cuộn băng dính Năm Hai Hai đã vứt đi, các đầu băng dính bị xé khớp nhau hoàn toàn. Hai chiếc bao cao su chưa dùng tìm thấy gần thi thể nạn nhân, anh chàng cảnh sát trẻ giải thích, đồng thời giơ chiếc túi đựng chúng lên. Đều là hiệu Trojan Enz.
“Còn đây là những miếng gạc đã được dùng để lấy mẫu dịch từ âm đạo và hậu môn. Bên pháp y hẳn sẽ cung cấp một báo cáo chi tiết hơn, nhưng đã có thể thấy rõ trong những thứ tìm thấy có vết của chất bôi trơn giống với các bao cao su hiệu Enz. Không hề tìm thấy vết tinh dịch tại hiện trường.
Một miếng gạc nữa, dùng để lấy mẫu trên sàn, nơi Pulaski tìm thấy dấu của một chiếc giày chạy có vết bia. Xét nghiệm chứng tỏ đây là bia Miller. Đương nhiên, hình ảnh tĩnh điện của dấu giày cho thấy đây là một chiếc giày phải cỡ 13, hiệu Sure-Track – cũng chính là chiếc giày Năm Hai Hai đã phi tang vào thùng rác.
“Chủ nhân ngôi nhà chẳng hề có lon bia nào, đúng không? Cậu có kiểm tra nhà bếp và nơi cất thực phẩm đấy chứ?”
“Có kiểm tra, thưa ông. Tôi không tìm thấy chút bia nào.”
Lon Sellitto gật đầu. “Cá mười đô với anh, bia hiệu Miller chính là loại đồ uống của DeLeon.” “Tôi không nhận cược với anh về vụ này đâu, Lon. Còn gì nữa không?”
Pulaski giơ lên chiếc túi nilon đựng một hạt nhỏ màu nâu mà cậu ta tìm thấy trên tai nạn nhân. Phân tích cho biết đó là thuốc lá. “Có tìm thấy gì với nó không, Mel?”
Kết quả kiểm tra cho thấy đó là một mảnh thuốc lá được cắt rất nhỏ, loại được dùng trong thuốc lá điếu, nhưng không hề tương đồng với các mẫu thuốc hiệu Tareyton có trong cơ sở dữ liệu. Lincoln Rhyme là một trong số hiếm hoi những người không hút thuốc ở quốc gia này phản đối các lệnh cấm hút thuốc. Thuốc lá và tàn thuốc là những mối liên hệ pháp y tuyệt vời giữa tội phạm và hiện trường tội ác chúng gây ra. Cooper không thể nói rõ nó thuộc hiệu nào. Tuy vậy, anh khẳng định mảnh thuốc lá có độ ẩm rất thấp, rất có thể nó đã được mua từ lâu.
“Myra hay những người chủ nhà có hút thuốc không?”
“Tôi không thấy dấu vết nào nói lên điều này. Tôi đã làm đúng những gì ông vẫn nói, ngửi kỹ mùi tại hiện trường khi vừa tới đó. Không có mùi khói thuốc.”
“Tốt.” Cho tới lúc này, Rhyme thực sự hài lòng với kết quả khám nghiệm hiện trường. “Tình hình tìm kiếm vân tay ra sao?”
“Đã tìm hiểu mẫu vân tay của các chủ nhà, từ cả tủ thuốc và những đồ vật để trên bàn đầu giường…” “Vậy là cậu không chỉ quấy quá cho qua chuyện. Cậu đã thực sự đọc kỹ cuốn sách của tôi.” Rhyme đã dành ra vài đoạn trong cuốn sách pháp y của mình để nêu lên tầm quan trọng của việc thu thập các dấu vân tay tại hiện trường và vị trí nào tốt nhất để tìm ra chúng.
“Đúng thế, thưa ông.”
“Tôi rất vui. Thế tôi có kiếm được khoản thu nhập nào từ nó không đấy?”
“Tôi mượn của anh trai mình.” Người anh song sinh của Pulaski là một nhân viên cảnh sát tại Đồn Cảnh sát số 6 ở Greenwich Village.
“Hy vọng là anh cậu đã trả tiền mua nó.”
Rhyme giải thích rằng phần lớn dấu vân tay tìm thấy trong ngôi nhà là của vợ chồng chủ nhà, điều này khẳng định được từ các mẫu vật. Những dấu vân tay có thể từ khách đến thăm, nhưng không có khả năng Năm Hai Hai lại bất cẩn đến thế. Cooper quét tất cả dấu vân tay vào Hệ thống Nhận dạng vân tay tự động. Họ sẽ sớm có kết quả.
“Okay, Pulaski, cậu có ấn tượng gì về hiện trường?”
Câu hỏi có vẻ làm cậu ta bất ngờ. “Ấn tượng?”
“Đây là những cái cây đơn lẻ.” Rhyme hướng mắt về phía các túi dựng bằng chứng. “Cậu nghĩ gì về cả khu rừng?”
Cậu cảnh sát trẻ ngẫm nghĩ. “Đúng là tôi có một ý nghĩ. Mặc dù có vẻ hơi ngớ ngẩn.” “Cậu biết rõ tôi sẽ là người đầu tiên nói toạc ra nếu cậu đưa ra một giả thiết ngớ ngẩn, Rookie.” “Khi vừa tới đó, tôi cảm nhận là không có vật lộn xảy ra ở bên ngoài.”
“Ý cậu là gì?”
“Ông thấy đấy, xe đạp của cô gái được khóa vào cột đèn bên ngoài ngôi nhà như thể chính nạn nhân đã dựng nó vào đó, không hề nghĩ rằng có điều gì không hay sắp xảy ra.”
“Vậy là hắn không chỉ đơn giản vồ lấy cô gái ngay ngoài đường.”
“Đúng thế. Để đi vào trong nhà, ông phải đi qua một chiếc cổng, sau đó tới một lối đi dài dẫn đến cửa trước. Lối đi đó thực sự rất hẹp, chất đầy những thứ mà đôi vợ chồng chủ nhà tích trữ, chai lọ, đồ thể thao, dụng cụ làm vườn, mấy đồ để tái chế. Nhưng không có gì lộn xộn ở đấy.” Cậu ta chỉ vào một bức ảnh khác. “Nhưng hãy nhìn vào bên trong, đây chính là nơi cuộc vật lộn bắt đầu. Chiếc bàn và những bình hoa. Ngay cạnh cửa trước.” Giọng cậu ta lại có vẻ xúc động. “Dường như cô gái đã chống cự rất quyết liệt.”
Rhyme gật đầu. “Được rồi. Vậy là Năm Hai Hai đã khôn khéo tán chuyện với nạn nhân để lừa cô vào trong nhà. Cô gái khóa chiếc xe đạp lại, đi theo lối đi và họ bước vào trong nhà. Cô gái dừng lại trước cửa, phát hiện ra hắn nói dối và tìm cách thoát ra ngoài.”
Anh ngẫm nghĩ về chi tiết này. “Vậy chắc chắn hắn phải biết khá nhiều về Myra để khiến cô cảm thấy thoải mái và có thể tin tưởng hắn… Đúng thế, hắn có tất cả những thông tin về bản thân những người đó, họ mua gì, họ đi nghỉ khi nào, họ có lắp đặt hệ thống báo động hay không, họ sẽ có mặt ở đâu… Không tồi, Rookie. Giờ chúng ta đã biết điều gì đó chắc chắn về hắn.”
Pulaski cố giữ một nụ cười trên khuôn mặt.
Tiếng báo hiệu hoàn thành việc tìm kiếm từ máy tính của Cooper vang lên. Anh ta nhìn kết quả trên màn hình. “Không có dấu vân tay nào thuộc về hắn. Một số không tròn trĩnh.”
Rhyme nhún vai, không lấy làm ngạc nhiên. “Tôi quan tâm tới ý tưởng rằng hắn biết rất nhiều. Hãy gọi cho DeLeon Williams. Liệu Năm Hai Hai có lựa chọn chính xác những bằng chứng hắn muốn sắp đặt không?”
Cuộc đàm thoại ngắn ngủi của Sellitto đã cho thấy câu trả lời là có, Williams đi giày hiệu Sure-Track cỡ 13, thường xuyên mua bao cao su hiệu Trojan Enz. Anh ta sở hữu dây câu loại bốn mươi cân Anh, uống bia Miller và mới đây đã tới một cửa hàng của Home Depot mua băng dính và dây thừng bằng sợi gai.
Nhìn vào danh sách bằng chứng trong vụ cưỡng dâm trước, Rhyme nhận thấy những chiếc bao cao su Năm Hai Hai sử dụng là hiệu Durex. Tên sát nhân đã chọn chúng vì Joseph Knightly mua bao cao su loại này.
Qua điện thoại, anh hỏi Williams: “Có phải anh bị mất một chiếc giày không?”
“Không.”
Sellitto nói: “Vậy là hắn đã mua một đôi cùng kiểu, cùng cỡ như đôi giày anh đi. Làm thế nào hắn biết được điều này?”
“Gần đây anh có bắt gặp ai lảng vảng quanh nhà và ga ra của mình, đi qua gần xe hơi hay thùng rác không? Nơi ở của anh gần đây có bị đột nhập không?”
“Không, chúng tôi chắc chắn là không. Tôi đang thất nghiệp và ngồi gần như cả ngày để trông nhà. Có điều gì thì chắc chắn tôi sẽ biết. Hàng xóm láng giềng quanh đây cũng chẳng phải loại tốt đẹp gì, chúng tôi có lắp hệ thống báo động. Luôn trong trạng thái hoạt động.”
Rhyme cảm ơn anh ta và họ dừng liên lạc.
Anh ngả đầu ra sau, nhìn về phía bản danh sách và đọc cho Thom những gì cần viết.
Hiện trường vụ án mạng Myra Weinburg:
• Nguyên nhân tử vong: ngạt thở. Đang đợi báo cáo cuối cùng của pháp y.
• Không có hiện tượng cắt xẻo hay sắp đặt tư thế thi thể nạn nhân, nhưng móng tay ngón đeo nhẫn trên bàn tay trái bị cắt cụt. Có thể thủ phạm cắt móng tay nạn nhân để giữ làm chiến lợi phẩm.
• Chất bôi trơn từ bao cao su hiệu Trojan Enz.
• Hai chiếc bao cao su chưa mở, hiệu Trojan Enz.
• Không tìm thấy bao cao su đã sử dụng hay vết dịch sinh học của thủ phạm.
• Vết bia Miller trên sàn (có nguồn gốc bên ngoài hiện trường vụ án).
• Dây câu sợi đơn loại 40 cân Anh, rất thông dụng.
• Một đoạn dây thừng sợi gai dài một mét hai (MW).
• Băng dính miệng nạn nhân.
• Mảnh thuốc lá cũ, không xác định được nguồn gốc.
• Dấu giày, loại giày chạy Sure-Track của nam giới, cỡ 13.
• Không có dấu vân tay.
Rhyme hỏi: “Anh chàng của chúng ta đã gọi 911 để báo về chiếc Dodge đúng không?” “Phải,” Sellitto xác nhận.
“Tìm thông tin về cuộc gọi đó. Hắn đã nói gì, giọng hắn nghe ra sao.”
Sellitto nói thêm: “Những vụ trước đó nữa – vụ anh họ anh, vụ trộm tiền xu và vụ cưỡng dâm.” “Tốt, đúng thế. Tôi đã không nghĩ đến việc này.”
Sellitto liên lạc tới trung tâm chuyển cuộc gọi. Những cuộc gọi tới số 911 đều được ghi âm và lưu lại. Anh ta yêu cầu thông tin. Mười phút sau, anh ta nhận được một cuộc gọi lại. Những cuộc gọi nặc danh tới 911 trong vụ Arthur cũng như vụ vừa xảy ra hôm nay vẫn được lưu trong hệ thống. Người phụ trách trung tâm chuyển cuộc gọi thông báo rằng những bản ghi âm được gửi tới địa chỉ email của Cooper dưới dạng file đuôi wav. Những vụ xảy ra trước đó đã được ghi vào đĩa CD và gửi tới kho lưu trữ. Có thể phải mất cả ngày để tìm ra chúng.
Khi các file ghi âm tới nơi, Cooper mở ra, bật lên. Trong đó là một giọng nam giới kêu cảnh sát khẩn trương tới địa chỉ nơi anh ta nghe thấy có tiếng kêu. Người đàn ông mô tả lại chiếc xe chạy khỏi hiện trường. Giọng nói trong hai đoạn ghi âm có vẻ giống nhau.
“Lấy mẫu giọng nói chứ?” Cooper hỏi. “Nếu tìm được một đối tượng tình nghi, chúng ta có thể so sánh với nó.”
Mẫu giọng nói được đánh giá cao hơn nhiều trong thế giới khoa học hình sự so với các thiết bị phát hiện nói dối và được chấp nhận ở một số tòa án, tùy thuộc vào thẩm phán. Nhưng Rhyme lắc đầu. “Hãy nghe xem. Hắn nói qua một chiếc ‘hộp.”
Chiếc ‘hộp’ là thiết bị cho phép che giấu giọng thật của người gọi điện. Nó không làm giọng nói trở nên kỳ quặc như tiếng nói của Darth Vader (nhân vật phản diện trong phim Cuộc chiến tranh giữa các vì sao), âm sắc vẫn hoàn toàn bình thường, chỉ trở nên hơi ồm ồm. Nhiều tổng đài trợ giúp và bộ phận dịch vụ khách hàng sử dụng thiết bị này để làm giọng nói của tất cả nhân viên tương tự nhau.
Đúng lúc này cửa phòng mở, Amelia Sachs bước vào, dưới nách kẹp một vật khá lớn. Rhyme không thể đoán ra được là thứ gì. Gật đầu chào mọi người, sau đó cô nhìn vào tấm bảng bằng chứng, rồi nói: “Có vẻ như cậu làm việc chu đáo đấy, Pulaski.”
“Cảm ơn.”
Rhyme nhận ra vật cô đang mang theo người là một cuốn sách. Đã bị gỡ tung ra một cách dở dang. “Cái quái quỷ gì thế?”
“Một món quà từ Robert Jorgensen, ông bạn bác sĩ của chúng ta.”
“Một bằng chứng?”
“Cũng khó nói. Trò chuyện với ông ta quả là một điều kỳ lạ.”
“Kỳ lạ là sao, Amelia?” Sellitto hỏi.
“Thử tưởng tượng rằng Batboy[20], Elvis[21] và người ngoài hành tinh đứng đằng sau vụ ám sát Kenedy. Kiểu kỳ lạ như vậy đó.”
Pulaski bật cười và bắt gặp ngay một cái nhìn coi thường từ Lincoln Rhyme.
CHƯƠNG 14
Cô kể lại câu chuyện về một người đàn ông bị ám ảnh nặng nề, danh tính bị tước đoạt, cuộc đời bị hủy hoại. Một người đã mô tả kẻ thù vô hình luôn truy đuổi hành hạ ông ta là Chúa, còn bản thân mình là Job. Rõ ràng người đàn ông khốn khổ đã ít nhiều mất trí, hai chữ ‘kỳ lạ’ vẫn chưa đủ mạnh mẽ để mô tả đúng tình cảnh của ông ta. Cho dù chỉ có một phần là thật thì câu chuyện của ông ta thực sự xúc động, khiến người nghe khó có thể cầm lòng. Một cuộc đời bị hủy hoại hoàn toàn và một tội ác không rõ mục đích.
Rồi Sachs cũng chiếm được hoàn toàn sự chú ý của Rhyme khi cô nói: “Jorgensen cam đoan rằng kẻ đứng đằng sau tất cả chuyện này đã luôn bám theo ông ta kể từ khi ông mua cuốn sách này hai năm trước. Dường như hắn biết rõ mọi thứ ông ta làm.”
“Biết mọi thứ,” Rhyme lặp lại, nhìn vào tấm bảng ghi bằng chứng. “Cũng chính là điều bọn anh vừa trao đổi với nhau vài phút trước. Hắn có được mọi thông tin cần thiết về các nạn nhân cũng như những người sẽ trở thành kẻ thế thân cho hắn.” Anh thuật lại cho cô những gì họ đã biết được.
Cô đưa cuốn sách cho Mel Cooper và nói với anh ta Jorgensen tin bên trong cuốn sách có gắn một thiết bị định vị.
“Thiết bị định vị?” Rhyme giễu cợt. “Ông ta đã xem quá nhiều phim của Oliver Stone[22]… Được thôi, cứ tìm đi nếu em muốn. Nhưng đừng sao nhãng những manh mối thực sự.”
Sachs gọi cho cảnh sát ở những nơi xảy ra các vụ việc trong đó Jorgensen bị biến thành nạn nhân, nhưng việc này đã không đem lại kết quả nào hữu ích. Đúng là đã có hành vi giả mạo danh tính, không còn nghi ngờ gì nữa. “Nhưng,” một anh chàng cớm ở Florida hỏi lại, “cô có biết có bao nhiêu vụ kiểu này đang diễn ra không? Chúng tôi tìm thấy một địa chỉ của bọn giả mạo nhưng khi đến nơi để tiến hành khám xét thì chẳng còn gì nữa. Bọn chúng đã khuân đi mọi thứ mua bằng tài khoản của nạn nhân và tếch đi Texas hay Montana.”
Phần lớn bọn họ đã nghe nói tới Jorgensen (“đúng là ông ta đã viết rất nhiều thư”) và tỏ ra thông cảm. Nhưng không ai có đầu mối dẫn tới một cá nhân hay một băng nhóm nào cụ thể có khả năng đứng sau những tội ác đó và họ không có đủ thời gian để điều tra những vụ việc này như họ mong muốn. “Dù có thêm một trăm nhân viên nữa chúng tôi vẫn không thể đạt được bất cứ tiến triển nào.”
Sau khi đã gác máy, Sachs cho mọi người biết vì Năm Hai Hai biết địa chỉ của Jorgensen, cô đã yêu cầu anh chàng thường trực của khu nhà báo cho cô biết ngay lập tức nếu có ai đó gọi điện hay đến hỏi về ông ta. Nếu anh chàng này chấp nhận làm thế, Sachs sẽ lờ đi, không đả động gì về khu nhà cho thuê này với cơ quan quản lý nhà đất thành phố.
“Làm tốt lắm,” Rhyme nói, “em đã biết trước có vi phạm gì sao?”
“Không hề, cho tới khi anh chàng kia đồng ý. Ồ, nhanh gần bằng tốc độ ánh sáng.” Sachs đi tới bên các bằng chứng Pulaski đã mang về từ ngôi nhà gần SoHo, cúi xuống xem xét.
“Có ý tưởng nào không, Amelia?” Sellitto hỏi.
Cô đứng nhìn chăm chằm vào chiếc bảng, các đầu ngón tay áp chặt vào nhau trong khi cố gắng tìm ra điều gì đó có ý nghĩa từ tập hợp bằng chứng rời rạc này.
“Hắn đã lấy được những thứ này từ đâu?” Cô giơ lên chiếc túi chứa chân dung Myra Weinburg in từ máy tính – một khuôn mặt dịu dàng tươi vui, đôi mắt cô gái nhìn thẳng vào ống kính. “Chúng ta cần tìm cho ra.”
Một điểm đáng giá. Rhyme chưa hề nghĩ tới nguồn gốc của bức ảnh mà chỉ đơn giản cho rằng Năm Hai Hai đã tải nó xuống từ một trang web nào đó. Anh đã quan tâm nhiều hơn tới tờ giấy in ảnh như một nguồn dấu vết.
Trong bức ảnh, Myra Weinburg đang đứng bên một thân cây nở đầy hoa, mỉm cười nhìn thẳng vào ống kính. Cô cầm trong tay một thứ đồ uống màu hồng đựng trong một ly thủy tinh loại chuyên đựng rượt martini.
Rhyme nhận ra Pulaski cũng đang nhìn chằm chằm vào bức ảnh, đôi mắt cậu ta lại có vẻ bất an. Cô ấy trông hơi giống Jenny.
Rhyme nhận thấy những đường viền ảnh rất đặc biệt, cùng những vệt có vẻ như nét một số chữ cái ở phía phải, kéo dài ra ngoài khuôn ảnh. “Chắc chắn hắn đã lấy bức ảnh trên mạng. Để có vẻ như DeLeon Willians đã tìm kiếm nạn nhân.”
Sellitto nói: “Biết đâu chúng ta có thể lần ra dấu về của hắn qua địa chỉ mà hắn đã tải bức ảnh. Làm thế
nào để biết hắn tìm thấy bức ảnh ở đâu?”
“Thử tìm theo tên cô gái trên Google xem,” Rhyme gợi ý.
Cooper thử làm theo và có được một tá kết quả, một số trong đó dẫn đến một Myra Weinburg khác. Những câu trả lời liên quan tới nạn nhân đều là trang web của các tổ chức chuyên nghiệp. Song không có bức ảnh nào của cô gái giống với bức hình Năm Hai Hai đã in ra.
Sachs nói: “Tôi có ý này. Để tôi gọi cho chuyên gia máy tính của mình.”
“Ai thế, anh chàng ở Bộ phận Tội phạm tin học à?” Sellitto hỏi.
“Không, một người giỏi hơn anh ta.”
Cô nhấc điện thoại lên bấm số. “Chào, Pammy. Em đang ở đâu thế?… Tốt. Chị có việc cần nhờ em đây. Hãy lên mạng để chat qua webcam đi. Chúng ta sẽ trao đổi phần tiếng qua điện thoại.” Sachs quay sang Cooper. “Anh bật webcam của mình lên được chứ, Mel.”
Anh chàng chuyên gia pháp ý gõ lên bàn phím và một khoảnh khắc sau trên màn hình xuất hiện hình ảnh căn phòng của Pam tại nhà bố mẹ nuôi cô bé tại Brooklyn. Khi cô bé ngồi xuống, một khuôn mặt xinh đẹp tuổi vị thành niên xuất hiện. Hình ảnh hơi biến dạng do các thấu kính góc rộng. “Chào Pam.”
“Xin chào, ông Cooper,” một giọng nói du dương vang lên qua loa ngoài của điện thoại. “Nhường chỗ cho tôi nào,” Sachs nói và thế chỗ Cooper trước bàn phím. “Bé con, bọn chị vừa tìm thấy một bức ảnh và nghĩ nó được tải về từ Internet. Em có thể xem qua và nói cho bọn chị nếu em biết nó được tải về từ đâu không?”
“Tất nhiên rồi.”
Sachs giơ tờ giấy in ảnh lên trước webcam.
“Lóa quá. Chị lấy nó ra khỏi túi nilon được không?”
Cô xỏ tay vào một đôi găng cao su, rồi thận trọng lấy bức ảnh ra, giơ lên lần nữa. “Rõ hơn rồi đấy. Chắc chắn nó được tải từ OurWorld.”
“Đó là cái gì vậy?”
“Chị biết đấy, một mạng xã hội. Kiểu như Facebook hay MySpace. Một mạng mới đang rất nổi. Ai cũng truy cập vào đó.”
“Anh có biết về nó không, Rhyme?” Sachs hỏi.
Anh gật đầu. Cũng thật lạ, gần đây anh rất hay nghĩ về chủ đề này. Anh đã đọc một bài trên Thời báo New York về các mạng liên kết và thế giới không gian ảo như Cuộc đời thứ hai. Anh rất ngạc nhiên khi biết con người đang ngày càng dành ít thời gian cho thế giới thực và nhiều thời gian trong thế giới ảo hơn, từ avatar đến mạng xã hội, rồi làm việc từ xa qua Internet. Có vẻ như đám trẻ ngày nay đang dành ít thời gian ra ngoài hơn bất cứ thời kỳ nào của lịch sử nước Mỹ. Trớ trêu thay, nhờ vào một chế độ luyện tập cho phép cải thiện thể trạng, cũng như sự thay đổi về thái độ của anh, bản thân Rhyme ngày càng bớt chìm đắm vào thế giới ảo và đánh bạo ra ngoài nhiều hơn. Ranh giới ngăn cách giữa người lành lặn và tàn tật đang mờ dần.
Lúc này Sachs hỏi Pam: “Em có chắc bức ảnh này được tải từ trang đó không?”
“Đúng mà. Bọn họ có kiểu viền ảnh đặc biệt đó. Nếu chị nhìn thật gần, nó không chỉ là một đường viền; nó được ghép lại từ những hình quả cầu nhỏ xíu, giống như Trái Đất, xếp lặp đi lặp lại.” Rhyme nheo mắt. Phải, khung viền của bức ảnh đúng như cô bé mô tả. Rồi anh nhớ ra từng đọc thấy OurWorld trong bài báo nọ. “Chào Pam, mạng đó có nhiều thành viên lắm đúng không?” “Ồ, xin chào ông Rhyme. Đúng thế. Khoảng ba mươi hay bốn mươi triệu người. Cô gái đó thuộc ‘lãnh địa’ nào?”
“Lãnh địa?” Sachs hỏi.
“Đó là cách họ gọi trang cá nhân. ‘Lãnh địa’ của bạn. Cô ấy là ai vậy?”
“Chị rất tiếc, cô ấy vừa bị giết hôm nay,” Sachs nói bằng giọng đều đều. “Đây chính là vụ điều tra mà chị đã nói với em đấy.”
Rhyme sẽ không đời nào đề cập đến vụ án mạng với một đứa trẻ vị thành niên. Nhưng đây là cuộc gọi của Sachs và cô biết rõ những gì có thể chia sẻ, cái gì không.
“Ôi, em xin lỗi.” Pam có vẻ đồng cảm nhưng không hề sốc hay hốt hoảng trước sự thật phũ phàng. Rhyme hỏi: “Pam, liệu có người nào đó có thể truy cập và xâm nhập vào lãnh địa của người khác không?”
“Thế này nhé, đáng ra cần đăng nhập. Nhưng nếu không muốn đăng bài hay lập lãnh địa riêng cho mình, ông vẫn có thể xâm nhập vào để nhìn ngó một chút.”
“Vậy theo cháu người đã in bức ảnh này ra biết rõ về máy tính.”
“Đúng thế, cháu đoán là anh ta phải biết. Có điều không phải anh ta in bức ảnh ra.” “Gì cơ?”
“Ông không thể in hay tải về bất cứ thứ gì. Thậm chí ngay cả khi dùng lệnh in hình ảnh trên màn hình.
Có một cơ chế lọc trong hệ thống để ngăn chặn những kẻ xâm nhập trái phép. Ông không thể bẻ khóa được. Nó cũng giống như biện pháp được dùng để bảo vệ các cuốn sách điện tử có bản quyền trên mạng.” “Vậy làm cách nào hắn có được bức ảnh?” Rhyme hỏi.
Pam bật cười. “Ồ, chắc là anh ta làm theo cách tất cả bọn cháu làm ở trường nếu muốn có ảnh của một anh chàng dễ thương hay một người có phong cách lạ lùng kỳ quái nào đó. Bọn cháu chỉ việc dùng máy ảnh kỹ thuật số chụp lại màn hình thôi. Ai cũng làm thế mà.”
“Hẳn rồi,” Rhyme vừa nói vừa lắc đầu. “Thế mà tôi chưa từng nghĩ đến.”
“Ồ, đừng lo, ông Rhyme,” cô bé nói. “Không hiếm khi người ta bỏ quên mất câu trả lời hiển nhiên nhất đâu.”
Sachs liếc nhìn Rhyme, lúc này đang mỉm cười trước lời an ủi của cô bé. “Okay, Pam. Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ gặp cháu sau.”
“Bye!”
“Hãy bổ sung vào bức chân dung anh bạn của chúng ta.”
Sachs cầm lấy chiếc bút và bước tới bên tấm bảng trắng.
Mô tả đặc điểm ĐTBA 522
• Nam giới.
• Có thể hút thuốc hay sống/làm việc với người hút thuốc, hoặc ở gần nguồn gây ra tàn thuốc.
• Có con hoặc sống/làm việc gần nơi có trẻ con hay nơi có nguồn đồ chơi.
• Quan tâm tới tác phẩm nghệ thuật, tiền xu cổ?
• Nhiều khả năng da trắng hoặc sáng màu.
• Vóc người trung bình.
• Khỏe – có khả năng siết cổ nạn nhân.
• Có cơ hội tiếp cận thiết bị ngụy trang giọng nói.
• Nhiều khả năng biết rõ về máy tính, mạng xã hội OurWorld. Còn các trang mạng xã hội khác? • Lấy chiến lợi phẩm từ nạn nhân. Một kẻ tàn bạo biến thái?
• Một phần nơi ở/nơi làm việc thường xuyên trong tình trạng thiếu ánh sáng, ẩm thấp.
Bằng chứng không sắp đặt trước:
• Vết bụi đất.
• Vết bìa các tông cũ.
• Tóc búp bê, sợi BASF B35 nylon 6.
• Tàn thuốc lá hiệu từ thuốc lá điếu Tareyton.
• Mảnh thuốc lá cũ, không phải Tareyton, nhưng không rõ loại.
• Vết nấm mốc Stachybotrys Chartarum.
• Nhiều khả năng biết rõ về máy tính, mạng xã hội OurVVorld. Còn các trang mạng xã hội khác? • Lấy chiến lợi phẩm từ nạn nhân. Một kẻ tàn bạo biến thái?
• Một phần nơi ở/nơi làm việc thường xuyên trong tình trạng thiếu ánh sáng, ẩm thấp.
Rhyme đang xem xét lại các chi tiết thì nghe thấy Mel Cooper phá lên cười. “Ái chà chà.” “Gì thế?”
“Chuyện này thú vị đây.”
“Nói cụ thể đi. Tôi không cần sự thú vị. Tôi cần thực tế.”
“Dù gì đi nữa vẫn rất thú vị.” Cooper đang chiếu chùm sáng mạnh vào phần gáy đã bị cắt tung ra trên cuốn sách của Robert Jorgensen.
“Anh cho rằng ông bác sĩ này đã hóa rồ khi nói về thiết bị định vị đúng không? Được thôi, thử đoán xem. Oliver Stone có thể làm được một bộ phim về chuyện này đấy. Có thứ gì đó được cài vào cuốn sách. Chính xác là vào phần gáy sách.”
“Thật sao?” Sachs nói, lắc đầu. “Tôi đã nghĩ ông ấy hơi lẩn thẩn.”
“Để tôi xem nào,” Rhyme nói, sự tò mò bắt đầu bị đánh thức, trong khi tâm trạng ngờ vực nhất thời được xếp sang một bên.
Cooper đưa một chiếc camera nhỏ có độ phân giải cao lại bàn thí nghiệm, chiếu một chùm tia hồng ngoại vào cuốn sách. Phía dưới lớp dán gáy hiện lên một vật hình chữ nhật nhỏ xíu, trên bề mặt có những vạch ngang dọc.
“Lấy nó ra,” Rhyme nói.
Cooper thận trọng tách gáy sách và lấy ra một mảnh dài chừng một inch làm bằng giấy có phủ chất dẻo, trên bề mặt có những đường vạch nhỏ chạy giống như trên một bản vi mạch máy tính. Trên đó cũng có một dãy số cùng tên nhà sản xuất DMS, Inc.
Sellitto hỏi: “Cái chết tiệt gì thế này? Có đúng là một thiết bị định vị không?”
“Tôi không hiểu cách thức hoạt động của nó. Không thấy pin hay bất cứ nguồn cung cấp năng lượng nào,” Cooper nói.
“Mel, hãy tìm công ty này.”
Một cuộc tìm kiếm nhanh trong danh mục các công ty cho biết đó là công ty Data Management Systems, có trụ sở ở ngoại ô Boston. Anh ta đọc to lên một đoạn mô tả về công ty này, trong đó có bộ phận chuyên sản xuất những thiết bị tí hon như thứ họ vừa tìm thấy, những con chíp RFID, nhận dạng bằng tín hiệu ở tần số radio.
“Tôi đã nghe nói về chúng,” Pulaski nói. “Trên CNN”
“À, nguồn thông tin tuyệt vời cho khoa học hình sự,” Rhyme nói với giọng mỉa mai chua chát. “Không, đó là trong CSI[23]”, Sellitto nói, khiến Ron Pulaski bật cười rồi vội vàng im bặt. Sachs hỏi: “Vậy thứ thiết bị này có tác dụng gì?”
“Một điều khá là thú vị đấy.”
“Lại một lần nữa, thú vị.”
“Về nguyên tắc, đây là một con chíp đã được lập trình để có thể hoạt động được nhờ vào một máy quét tín hiệu radio. Không cần đến pin, ăng ten của chúng thu nhận sóng radio và nguồn sóng này cung cấp đủ năng lượng để chúng hoạt động.”
Sachs nói: “Jorgensen nói cần phá hủy ăng ten để vô hiệu hóa chúng và có thể phá hủy một số loại thiết bị kiểu này bằng lò vi sóng. Nhưng thứ đó…,” cô chỉ về phía con chíp họ vừa phát hiện ra, “ông ta không thể phá hủy được. Hay ít nhất ý ông ta là vậy.”
Cooper nói tiếp, “Chúng được sử dụng để kiểm soát hàng hóa tại các cơ sở sản xuất và bán lẻ. Trong vài năm tới, mọi sản phẩm bán ra tại Mỹ sẽ được gắp chíp RFID. Hiện tại, một số tập đoàn bán lẻ đã đưa ra yêu cầu này trước khi họ nhập về một dòng sản phẩm nào đó.”
Sachs bật cười. “Đúng là điều Jorgensen đã nói với tôi. Có thể ông ta không đến mức ngớ ngẩn như tôi nghĩ.”
“Mọi sản phẩm?” Rhyme hỏi.
“Phải. Như thế các cửa hàng sẽ biết số hàng đó ở đâu trong kho, họ đang có trong tay bao nhiêu hàng, thứ gì bán chạy hơn những thứ khác, khi nào cần bổ sung hàng lên kệ bán, khi nào cần nhập hàng. Chúng cũng được dùng trong việc kiểm soát hành lý ở các hãng hàng không, nhờ vậy họ luôn biết rõ hành lý của các vị đang ở đâu mà không cần phải trực tiếp quét mã vạch kiểm tra. Và cả trong thẻ tín dụng, bằng lái xe, thẻ nhân viên. Người ta gọi chúng là những chiếc ‘thẻ thông minh’”
“Jorgensen muốn nhìn tận mắt thẻ cảnh sát của tôi. Ông ta đã kiểm tra nó rất kỹ lưỡng. Có thể ông ta muốn biết nó có thuộc loại thẻ này không.”
“Chúng có mặt ở khắp mọi nơi,” Cooper tiếp tục. “Trong những chiếc thẻ chiết khấu các vị sử dụng tại các cửa hàng tạp hóa, trong thẻ khách hàng quen thuộc của các hãng hàng không, cũng như các thẻ thông minh dùng thanh toán phí cầu đường.”
Sachs hất hàm về phía bảng ghi các bằng chứng. “Thử nghĩ về điều đó xem, Rhyme. Jorgensen nói rằng kẻ mà ông ta gọi là Chúa biết mọi thứ về cuộc sống của ông ta. Đủ để đánh cắp được danh tính, mua đủ thứ dưới tên ông ta, thực hiện các khoản vay, lấy thẻ tín dụng, cũng như tìm ra nơi ông ta ẩn náu.”
Rhyme cảm nhận được sự hưng phấn, đầy kích thích khi tiến lên phía trước trong cuộc săn lùng. “Năm Hai Hai biết đủ rõ về các nạn nhân của hắn để tiếp cận họ, vượt qua sự cảnh giác của họ. Hắn biết đủ rõ về những kẻ hắn chọn làm vật thế thân để sắp đặt trước những bằng chứng tương tự như những thứ họ có ở nhà.”
“Và,” Sellitto nói thêm, “hắn biết chính xác họ ở đâu vào thời điểm hắn gây án. Vì thế họ không thể có được bằng chứng ngoại phạm.”
Sachs chăm chú nhìn thiết bị định vị nhỏ bé. “Jorgensen nói cuộc đời ông ta bắt đầu tan nát kể từ khi ông ta có cuốn sách này.”
“Ông ta đã mua nó ở đâu vậy? Có hóa đơn hay nhãn giá không, Mel?”
“Không gì hết. Nếu có chắc ông ta đã cắt đi mất rồi.”
“Hãy gọi cho Jorgensen. Đưa ông ta đến đây.”
Sachs lấy điện thoại di động ra và gọi tới khu nhà cho thuê nơi cô vừa gặp người bác sĩ. Cô cau mày. “Đi rồi sao?” Cô hỏi anh chàng thường trực.
Có vẻ không được ổn lắm, Rhyme thầm đoán.
“Ông ta đã chuyển đi,” cô nói sau khi ngắt liên lạc. “Nhưng em biết ông ta đi đâu.” Cô lấy ra một mảnh giấy, thực hiện một cuộc gọi khác. Tuy nhiên sau vài câu trao đổi ngắn, cô ngắt liên lạc, thở dài thất vọng. Jorgensen không hề có mặt tại khách sạn đó, thậm chí ông ta cũng không hề gọi điện tới để đặt phòng. “Em có số di động không?”
“Ông ấy không có điện thoại di động. Không tin tưởng chúng. Nhưng ông ấy biết số của em. Nếu chúng ta gặp may ông ấy sẽ gọi.” Sachs đi tới gần con chip nhỏ xíu. “Mel. Cắt dây dẫn đi. Chính là ăng ten đấy.”
“Cái gì?”
“Jorgensen nói một khi chúng ta cầm cuốn sách, cũng có nghĩa chúng ta đã bị theo dõi. Cắt nó đi.” Cooper nhún vai liếc nhìn về phía Rhyme, anh thầm nghĩ ý kiến của Sachs thật ngớ ngẩn. Nhưng Amelia Sachs không phải là người dễ dàng sợ bóng sợ gió. “Cứ làm thế đi. Chỉ cần ghi thêm một dòng ghi chú trên tấm thẻ mô tả bằng chứng: ‘Bằng chứng đã được vô hiệu hóa’”
Một cách diễn đạt thường được dang cho các loại bom và súng.
Sau đó Rhyme không còn quan tâm tới RFID nữa. Anh ngước mắt lên. “Được rồi. Cho tới khi chúng ta có được tin tức từ ông ta, hãy cùng nghiên cứu tiếp vụ này đã… Tiếp tục nào, mọi người. Hăng hái lên. Tôi cần vài ý tưởng ở đây! Chúng ta có một tên tội phạm có thể tiếp cận được tất cả những thông tin cá nhân của người khác. Bằng cách nào? Hắn biết về mọi thứ mà những kẻ thế thân thường mua. Dây câu, dao làm bếp, kem cạo râu, phân bón cỏ, bao cao su, băng dính, dây thừng, bia. Đã có bốn nạn nhân và bốn người bị vu oan – ít nhất là vậy. Hắn không thể theo dõi tất cả mọi người ở khắp mọi nơi cùng một lúc, hắn cũng không hề đột nhập vào nơi ở của họ.”
“Có thể hắn là nhân viên tại một trong những cửa hàng đại hạ giá,” Cooper đề xuất. “Nhưng DeLeon mua một vài thứ trong số những đồ vật được lựa chọn làm bằng chứng tại cửa hàng Home Depot. Tại đó, anh không thể mua được bao cao su hay đồ ăn vặt.”
“Có thể Năm Hai Hai làm việc cho một công ty thẻ tín dụng thì sao?” Pulaski gợi ý. “Hắn có thể biết được những gì người ta mua bằng thẻ tín dụng.”
“Không tồi, Rookie… Nhưng cũng có những lúc các nạn nhân buộc phải thanh toán bằng tiền mặt.” Thật ngạc nhiên, Thom chính là người đưa ra được một câu trả lời. Anh ta moi chùm chìa khóa của mình ra. “Tôi nghe thấy Mel vừa nhắc đến những chiếc thẻ giảm giá.” Anh ta chìa ra mấy chiếc thẻ nhựa nhỏ gắn vào dây móc chìa khóa. Một dùng cho A&P, một cho Food Emporium[24]. “Tôi quẹt thẻ và hưởng một khoản khấu trừ. Cho dù tôi trả tiền mặt, cửa hàng vẫn biết tôi mua những gì.” “Tuyệt lắm,” Rhyme nói. “Nhưng từ đó chúng ta sẽ đi tới đâu? Chúng ta vẫn đang lần tìm theo hàng tá những nơi các nạn nhân và những người bị đổ tội thường hay mua hàng.”
“A”
Rhyme nhìn Sachs, lúc này đang chăm chú nhìn vào tấm bảng danh sách bằng chứng và hơi mỉm cười. “Em nghĩ em tìm ra rồi.”
“Cái gì?” Rhyme hỏi, hy vọng nghe được một lập luận thông minh dựa trên nguyên tắc khoa học hình sự và áp dụng được trên thực tế.
“Giày,” cô nói gọn lỏn. “Câu trả lời chính là những chiếc giày.”
CHƯƠNG 15
“Hắn không chỉ biết chung chung về những thứ nạn nhân thường mua,” Sachs giải thích. “Đáng nói ở đây là hắn biết được những chi tiết cụ thể. Hãy nhìn vào ba vụ án. Vụ anh họ anh, vụ Myra Weinburg và vụ đánh cắp tiền xu. Năm Hai Hai không chỉ biết rõ những người hắn sẽ cài bẫy đi giày loại nào. Hắn biết cả cỡ giày.”
Rhyme nói: “Tốt lắm. Hãy tìm hiểu xem DeLeon Williams và Arthur hay mua giày dép ở đâu.” Một cuộc gọi chóng vánh cho Judy Rhyme và một cuộc gọi khác cho Williams đã chứng tỏ những đôi giày đều được mua từ thư đặt hàng trực tuyến – một đôi qua ca ta lô, đôi kia qua một trang web nhưng cả hai trường hợp đều là đặt hàng trực tiếp từ các công ty.
“Được rồi,” Rhyme nói, “hãy chọn ra một trong số hai công ty đó, gọi điện cho họ và tìm hiểu xem công việc bán hàng được tiến hành ra sao. Tung một đồng xu để chọn nào.”
Sure-Track là cái tên thắng cuộc. Chỉ cần bốn cuộc gọi là họ tiếp cận được với một nhân vật có liên quan tới công ty này, không ai khác ngoài vị chủ tịch hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc. Có thể nghe thấy tiếng nước chảy, tiếng đập nước bì bõm, tiếng trẻ con cười đùa trong khi người đàn ông ở đầu dây bên kia hỏi với giọng không được chắc chắn lắm, “Một tội ác?”
“Nó không liên quan trực tiếp tới ông,” Rhyme trấn an người đối thoại với mình. “Một trong những sản phẩn của ông là bằng chứng trong vụ án này.”
“Nhưng chắc không phải gã đó định làm nổ tung máy bay bằng cách giấu bom trong giày đấy chứ?” Ông ta dừng lại, như thể đề cập đến việc này là hành vi xâm phạm đến an ninh quốc gia vậy. Rhyme giải thích tình hình, kẻ thủ ác nắm được thông tin cá nhân của các nạn nhân, bao gồm những thông tin chi tiết về đôi giày Sure-Track, cũng như về đôi giày Alton của anh họ anh và đôi Bas Walker của một người bị cài bẫy khác. “Ông có bán hàng qua đại lý phân phối lẻ nào không?” “Không hề. Chỉ phân phối trên mạng.”
“Ông có chia sẻ thông tin với các đối thủ cạnh tranh không? Thông tin về khách hàng?” Một thoáng ngần ngừ.
“Thưa ông?” Rhyme hỏi lại sau khi không có câu trả lời.
“À, chúng tôi không thể chia sẻ thông tin. Như thế sẽ vi phạm luật chống độc quyền.” “Được rồi, có cách nào để một ai đó có thể tiếp cận được thông tin về các khách hàng mua giày Sure Track?”
“Đó là một tình huống nhạy cảm.”
Rhyme nhăn mặt.
Sachs nói: “Thưa ông, kẻ chúng tôi đang tìm kiếm là một tên sát nhân và cưỡng dâm. Ông có ý tưởng nào về cách thức hắn biết được thông tin về khách hàng của ông không?”
“Thực sự là không.”
Lon Sellitto chen vào: “Vậy thì bọn này sẽ kiếm bằng được một cái trát chết dẫm và gỡ tung các hồ sơ lưu trữ của ông ra từng tờ một.”
Không phải là phương thức tế nhị Rhyme sẽ sử dụng, nhưng kiểu tiếp cận đao to búa lớn này cũng hiệu quả chẳng kém.
Người đàn ông ở đầu dây bên kia tá hỏa: “Đợi đã, đợi đã, tôi có ý này.”
“Gì vậy?” Sellitto gằn giọng.
“Nếu hắn có được thông tin từ nhiều công ty khác nhau, rất có thể hắn lấy được từ một nhà khai thác dữ liệu.”
“Đó là cái gì vậy?” Rhyme hỏi.
Dường như lần này khoảng im lặng là do ngạc nhiên. “Ông chưa bao giờ nghe nói đến bọn họ sao?” Rhyme đảo mắt một vòng, “Chưa bao giờ. Bọn họ là ai?”
“Đúng như tên gọi vậy. Những công ty làm dịch vụ cung cấp thông tin, bọn họ bới móc các dữ liệu về khách hàng, những vụ mua bán của những người này, nhà cửa, thẻ tín dụng, lịch sử tín dụng, tóm lại là mọi thứ. Đám này phân tích những dữ liệu đó rồi bán chúng. Ông biết đấy, để giúp các công ty phát hiện ra những xu hướng của thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, tìm ra mục tiêu phù hợp để gửi các loại thư tín trực tiếp, rải tờ rơi quảng cáo. Những việc đại loại như thế.”
Mọi thứ về họ…
Rhyme thầm nghĩ: rất có thể chúng ta đang tìm thấy điều gì đó. “Bọn họ có lấy được thông tin từ các
con chip RFID không?”
“Tất nhiên là có. Đó là một trong những nguồn dữ liệu lớn nhất.”
“Công ty của ông sử dụng nhà khai thác dữ liệu nào?”
“Ồ, tôi cũng không rõ nữa. Một vài nguồn khác nhau.” Giọng ông ta có vẻ dè dặt. “Chúng tôi thực sự cần phải biết,” Sachs nói, trưng ra củ cà rốt sau khi Sellitto đã giơ cây gậy. “Chúng tôi không muốn có thêm ai bị tổn thương nữa. Tên tội phạm này rất nguy hiểm.”
Một tiếng thở dài kết thúc sự do dự của ông tổng giám đốc. “Được rồi, tôi nghĩ rằng SSD là nguồn chính. Họ là một công ty lớn. Nhưng nếu các vị nghĩ rằng ai đó tại công ty này dính dáng đến một tội ác, thì quả là không thể. Bọn họ là những gã xuất sắc nhất thế giới. Ngoài ra còn hệ thống an ninh, còn…” “Trụ sở của họ ở đâu?” Sachs hỏi.
Thêm một lần do dự nữa. Tiếp tục đi nào, chết tiệt, Rhyme nghĩ thầm.
“Ở New York.”
Địa bàn hoạt động của Năm Hai Hai. Nhà tội phạm học bắt gặp cái nhìn của Sachs. Anh mỉm cười. Có vẻ hứa hẹn đây.
“Có còn nhà cung cấp nào khác ở khu vực này không?”
“Không. Axciom, Experian và Choicepoint – những nhà khai thác dữ liệu lớn khác không đặt trụ sở gần đây. Nhưng hãy tin tôi đi, không thể có chuyện ai đó tại SSD dính dáng vào việc này. Tôi xin thề.” “SSD có nghĩa là gì?” Rhyme hỏi.
“Strategic Systems Datacorp”[25]
“Ông có đầu mối liên lạc nào đó không?”
“Cũng không có ai đặc biệt,” ông ta đáp lại rất nhanh.
“Không ư?”
“Được rồi, có những đại diện bán hàng mà chúng tôi cùng làm việc trực tiếp. Vào lúc này tôi không thể nhớ ra tên của họ. Tôi có thể kiểm tra để tìm.”
“Ai là chủ của công ty này?”
Thêm một khoảng im lặng. “Chắc là Andrew Sterling, người sáng lập và Tổng Giám đốc. Nghe này, tôi đảm bảo không ai ở đó làm bất cứ điều gì phạm pháp. Không thể.”
Thế rồi Rhyme hiểu ra một điều: Người đàn ông này đang hoảng sợ. Sợ chính SSD. “Ông lo lắng về điều gì vậy?”
“Chỉ là…,” bằng giọng xưng tội, ông ta nói, “chúng tôi không thể hoạt động được nếu không có họ. Chúng tôi thực sự… hợp tác chặt chẽ với họ.”
Tuy nhiên, nếu suy từ giọng nói của ông ta thì cách diễn đạt chính xác phải là “phụ thuộc vào.” “Chúng tôi sẽ rất kín đáo,” Sachs nói.
“Cảm ơn cô. Thực sự cảm ơn cô.” Có thể dễ dàng nhận ra vẻ nhẹ nhõm trong giọng nói của ông ta. Sachs lịch thiệp cảm ơn ông tổng giám đốc về sự hợp tác và cô nhận được một cái nhìn đầy ngụ ý từ Sellitto.
Rhyme ngắt liên lạc. “Khai thác dữ liệu? Đã ai nghe nói đến chuyện này chưa?”
Thom nói: “Tôi không biết gì về SSD nhưng tôi đã nghe nói đến những người khai thác dữ liệu. Đó là ngành kinh doanh của thế kỷ hai mươi mốt.”
Rhyme nhìn vào danh sách bằng chứng. “Vậy nếu Năm Hai Hai làm việc cho SSD hay là một trong những khách hàng của họ, hắn có thể tìm ra mọi thứ hắn cần biết về việc ai đó mua kem cạo râu, dây thừng, bao cao su, dây câu, tất cả những bằng chứng hắn có thể sắp đặt.” Thế rồi một ý tưởng nữa chợt đến với anh. “Ông chủ công ty giày có nói rằng bọn họ bán dữ liệu về danh sách địa chỉ gửi thư. Arthur đã nhận được vài bức thư gửi trực tiếp liên quan tới tranh của Prescott, nhớ chứ? Năm Hai Hai hẳn đã tìm ra thông tin này từ danh sách địa chỉ gửi thư của họ. Rất có thể Alice Sanderson cũng có tên trên một danh sách.”
“Và nhìn xem, những bức ảnh chụp hiện trường này.” Sachs bước tới chỗ những tấm bảng và chỉ vào mấy bức ảnh chụp tại hiện trường vụ đánh cắp tiền xu. Những bức thư gửi trực tiếp nằm đầy trên các mặt bàn và sàn nhà.
Pulaski nói: “Ông nhớ chứ? Thám tử Cooper có nhắc tới thẻ E-Zpass (một loại thẻ thông dụng để thanh toán phí cầu đường tại Mỹ). Nếu cái công ty SSD này khai thác dữ liệu từ chúng, kẻ sát nhân có thể sẽ biết được chính xác khi nào anh họ ông có mặt trong thành phố và khi nào ông ấy quay về nhà.”
“Lạy Chúa Jesus!” Sellitto lẩm bẩm. “Nếu đúng thế, anh chàng này đã vấp phải một cái bẫy thực sự khốn kiếp.”
“Kiểm tra về vụ khai thác dữ liệu này đi, Mel. Tôi muốn biết chắc SSD là nhà cung cấp duy nhất ở thành phố này.”
Sau vài động tác gõ bàn phím. “Hừm. Tôi nhận được hơn hai mươi triệu câu trả lời cho ‘khai thác dữ liệu’”
“Hai mươi triệu?”
Suốt một giờ đồng hồ sau đó, cả nhóm cùng theo dõi Cooper thu hẹp dần danh sách những nhà khai thác dữ liệu hàng đầu trong nước, có khoảng sáu công ty loại này. Anh ta tải về hàng trăm trang chủ của họ kèm các chi tiết khác. So sánh danh sách khách hàng của một số công ty khai thác dữ liệu khác nhau với những sản phẩm được Năm Hai Hai sử dụng làm bằng chứng, dường như có nhiều khả năng SSD là nguồn duy nhất của tất cả thông tin. Trên thực tế, đây cũng là công ty duy nhất có các cơ sở nằm trong hoặc ngay gần thành phố New York.
“Nếu anh muốn,” Cooper nói, “tôi có thề tải về các bản quảng cáo chào hàng của họ.” “Ồ, rất cần đấy, Mel. Hãy cùng xem xem.”
Sachs ngồi xuống cạnh Rhyme, hai người cùng nhìn lên màn hình trong khi trang chủ của SSD xuất hiện, trên cùng là biểu tượng của công ty: một tháp canh và khung cửa sổ, từ khung cửa tỏa ra những tia sáng.
Tìm kiếm những khung cửa sổ mở ra cơ hội cho bạn
‘Tri thức là Sức mạnh’… Hàng hóa giá trị nhất trong thế kỷ hai mươi mốt là thông tin và SSD là doanh nghiệp hàng đầu đi tiên phong trong việc sử dụng tri thức để tạo lập nên các chiến lược, tái thiết các mục tiêu và giúp bạn đề ra các giải pháp để đương đầu với vô vàn thách thức bạn sẽ phải đối diện trong thế giới hiện đại ngày nay. Với hơn bốn nghìn khách hàng tại Mỹ và nước ngoài, SSD đề ra các tiêu chuẩn của lĩnh vực khai thác với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ tri thức ưu việt nhất trên trái đất.
Cơ sở dữ liệu
innerCircle® là cơ sở dữ liệu tư nhân lớn nhất thế giới, với các thông tin thiết yếu về hai trăm tám mươi triệu người Mỹ và một trăm ba mươi triệu công dân của những quốc gia khác. innerCircle® được lưu trữ trong Hệ thống Mạng máy tính song hành quy mô lớn (MPCAN®¹) thuộc quyền sở hữu của chúng tôi, hệ thống máy tính thương mại mạnh nhất từng được thiết lập.
innerCircle® hiện đang lưu giữ hơn năm trăm petabyte thông tin, tương đương với hàng triệu triệu trang dữ liệu và chúng tôi dự kiến hệ thống này sẽ sớm đạt tới một exabyte (1 petabyte = 2 lũy thừa 50 byte), một lượng dữ liệu lớn đến mức chỉ cần năm exabyte là đủ để ghi lại mọi lời mà từng người đã nói ra trong suốt tiến trình lịch sử! Chúng tôi có trong tay các thông tin cá nhân và công cộng: số điện thoại, địa chỉ, biển đăng ký phương tiện đi lại, thông tin về các giấy phép, lịch sử mua sắm và sở thích, thói quen đi lại, hồ sơ lưu trữ tại các cơ quan công quyền và các số liệu thống kê quan trọng về đời tư, lochj sử tín dụng, thu nhập và rất nhiều điều nữa. Chúng tôi đưa các dữ liệu này đến tận tay bạn với tốc độ ánh sáng, dưới hình thức dễ dàng tiếp cận và có thể sử dụng tức thời, được tối ưu hóa theo đúng các nhu cầu cụ thể của bạn.
innerCircle® tăng trưởng với hàng trăm nghìn lần bổ sung dữ liệu mỗi ngày.
Các công cụ
Watchtower DBM®, hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu toàn diện nhất trên thế giới. Là đối tác của bạn trong quá trình hoạch định chiến lược, Watchtower® giúp bạn xác lập các mục tiêu của mình, lựa chọn lấy những dữ liệu hữu ích nhất từ innerCircle® và đem đến tận tay bạn một chiến lược đảm bảo cho thắng lợi, hai mươi tư trên bảy, thông qua hệ thống máy chủ tốc độ cao và được bảo mật cao độ của chúng tôi. Watchtower® đáp ứng và vượt qua những tiêu chuẩn mà SQL đã thiết lập nhiều năm nay.
Xpectation®, phần mềm dự đoán hành vi, dựa trên các công nghệ mới nhất về trí tuệ nhân tạo và mô hình hóa. Các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, nhà phân phối bán buôn và bán lẻ… muốn biết thị trường của bạn đang đi theo hướng nào và khách hàng của bạn sẽ muốn gì trong tương lai? Nếu vậy đây chính là sản phẩm dành cho bạn. Các cơ quan bảo vệ pháp luật, hãy lưu ý: Với Xpectation®, các vị có thể dự đoán trước tại đâu và khi nào các tội ác sẽ xảy ra, ai là kẻ có khả năng sẽ gây ra tội ác đó.
FORT® , một sản phẩm độc nhất vô nhị mang tính cách mạng, thực hiện việc phân tích hàng triệu sự kiện dường như không có quan hệ với nhau để xác định các mối liên hệ mà bản thân con người không thể tự phát hiện ra được. Dù bạn là một công ty thương mại muốn biết nhiều hơn về thị trường (hay các đối thủ cạnh tranh của bạn) hay một tổ chức bảo vệ
pháp luật đang phải đối mặt với một vụ án hình sự hóc búa, FORT® sẽ đem lại cho bạn bước đột phá! ConsumerChoice®, phần mềm và thiết bị theo dõi cho phép bạn xác định được phản ứng chính xác của người tiêu dùng với các chương trình quảng cáo, marketing cũng như các sản phẩm mới hay các sản phẩm đang được đưa ra thăm dò. Hãy quên đi các quan điểm theo nhóm tập trung vào từng chủ đề. Giờ đây, thông qua theo dõi sinh trắc học, bạn có thể tập hợp và phân tích những cảm xúc thực của mỗi cá nhân về những kế hoạch dự kiến của bạn – trong khi họ thường không hề biết mình đang bị quan sát!
Hub Overvue®, phần mềm tổng hợp thông tin. Sản phẩm dễ sử dụng này cho phép bạn kiểm soát mọi cơ sở dữ liệu trong tổ chức của bạn và với những hoàn cảnh thích hợp, có thể trong cả khuôn khổ những hoạt động của các công ty khác.
SafeGard®, phần mềm và các dịch vụ kiểm tra an ninh và nhận dạng. Dù mối quan tâm của bạn là các mối đe dọa khủng bố, bắt cóc con tin tập thể, gián điệp công nghệ hay bị cướp mất nhân viên hoặc khách hàng, SafeGard® đảm bảo các cơ sở vật chất của bạn luôn được đảm bảo an ninh, cho phép bạn tập trung vào công việc kinh doanh cốt yếu của mình. Bộ phận này bao gồm cả những công ty hàng đầu thế giới về kiểm tra nguồn gốc, đảm bảo an ninh và sàng lọc đối tượng, được sử dụng bởi đối tượng khách hàng là các tập đoàn và chính phủ trên khắp thế giới. Bộ phận SafeGard® của SSD cũng nắm giữ tên tuổi hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp phần mềm và thiết bị phần cứng phục vụ sinh trắc học, Bio Chek®.
NanoCure®, dịch vụ và phần mềm nghiên cứu y học. Chào mừng đến với thế giới của các hệ thống vi sinh học thông minh dùng trong chẩn đoán và điều trị bệnh. Các chuyên gia y tế, các chuyên gia về công nghệ nano của chúng tôi đang tạo dựng các giải pháp cho những vấn đề sức khỏe phổ biến mà nhân loại ngày nay đang phải đương đầu. Từ việc theo dõi các vật chất di truyền để báo trước các chứng bệnh nguy hiểm đến tính mạng tới phát triển các thiết bị có thể tiêm vào cơ thể cho phép chữa khỏi các chứng bệnh nguy hiểm chết người khó điều trị, bộ phận NanoCure® của chúng tôi đang làm việc để tạo ra một xã hội khỏe mạnh.
On-Trial®, các dịch vụ và hệ thống hỗ trợ trong các tranh chấp dân sự. Từ trách nhiệm liên quan đến các sản phẩm cho tới các vụ kiện chống độc quyền, On-Trial® hỗ trợ quá trình xử lý và đệ trình hồ sơ cũng như việc kiểm soát bằng chứng.
PublicSure®, phần mềm trợ giúp cho lực lượng bảo vệ pháp luật. Đây chính là hệ thống dành cho việc thống nhất và quản lý các hồ sơ tội phạm và các hồ sơ công cộng có liên quan được lưu trữ tại các cơ sở dữ liệu quốc tế, của liên bang, tiểu bang và các địa phương. Thông qua PublicSure®, các kết quả tìm kiếm có thể được tải về máy tính tại các văn phòng, trên các xe tuần tra, hay về các PDA cũng như điện thoại di động chỉ vòng vài giây sau khi gửi truy vấn, giúp các nhân viên điều tra đẩy nhanh tốc độ phá án và tăng cường mức độ sẵn sàng và an ninh cho các nhân viên hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật.
EduServe®, các dịch vụ và phần mềm hỗ trợ giáo dục. Quản lý những gì trẻ em học là điều tối quan trọng với một xã hội thành công. EduServe® giúp Hội đồng Quản lý và giáo viên tại các cơ sở giáo dục từ mầm non đến lớp mười hai sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn lực của họ và cung cấp dịch vụ đào tạo đảm bảo đem lại chất lượng giáo dục tốt nhất trên mỗi đô la tiền thuế sử dụng.
Rhyme phá lên cười, vẻ không tin nổi. “Nếu Năm Hai Hai có thể tiếp cận được tất cả những thông tin này… nếu thế, quả thực hắn là một kẻ biết hết mọi điều.”
Mel Cooper nói: “Okay, nghe nhé. Tôi đang tìm kiếm những công ty mà SSD sở hữu. Đoán xem một trong số này là công ty nào.”
Rhyme đáp: “Tôi sẽ chọn công ty có ba chữ cái đầu là DMS, cho dù nó có nghĩa là cái chết tiệt gì đi nữa. Nhà sản xuất ra con chíp RFID trong cuốn sách, đúng không?”
“Phải. Anh thắng rồi.”
Không ai nói gì trong một hồi lâu. Rhyme nhận thấy tất cả những người có mặt trong phòng đều đang nhìn vào biểu tượng có khung cửa sổ phát sáng của SSD trên màn hình máy tính. “Vậy đấy,” Sellitto lẩm bẩm, mắt dán chặt vào danh sách bằng chứng. “Từ đây chúng ta sẽ đi đến đâu?” “Theo dõi,” Pulaski đề xuất.
“Có lý đấy,” Sellitto nói. “Tôi sẽ gọi cho bên Tìm kiếm và Theo dõi, cử đến một vài đội.” Rhyme liếc nhìn anh ta nghi ngờ. “Tiến hành theo dõi một công ty, với gì nhỉ? Một nghìn nhân viên?” Anh lắc đầu, sau đó hỏi: “Anh biết nguyên tắc Occam chứ, Lon?”
“Occam là gã mắc dịch nào thế? Một tay thợ cạo đúng không?”
Rhyme thở dài, “Một triết gia. Con dao cạo là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ việc cắt bỏ đi những lời diễn giải dài dòng lủng củng về một hiện tượng. Ông ta nói rằng khi bạn có nhiều cách tiếp cận khác nhau, cách đơn giản nhất gần như luôn là cách đúng.”
“Vậy thì lý thuyết đơn giản đó của anh là gì?”
Nhìn chăm chăm vào trang thông tin quảng cáo, nhà tội phạm học trả lời Sachs: “Anh nghĩ em và Pulaski nên đến hỏi thăm SSD một chuyến vào sáng mai.”
“Và làm gì ở đó?”
Anh nhún vai. “Hỏi xem có ai làm việc tại đó là một kẻ giết người không.”
CHƯƠNG 16
A, cuối cùng cũng về đến nhà.
Tôi đóng cửa lại.
Khóa chặt cả thế giới ở bên ngoài.
Tôi hít một hơi thật sâu, đặt chiếc ba lô xuống đi văng, bước vào gian bếp sạch tinh tươm, uống một ít nước tinh khiết. Lúc này tôi không muốn động đến bất cứ loại chất kích thích nào. Lại là thứ đáng bực mình đó.
Căn nhà này quả là ngôi nhà đẹp trong thành phố. Xây từ trước chiến tranh, rộng thênh thang (cần phải như vậy khi bạn đang sống như tôi và sở hữu bộ sưu tập mà tôi đang có). Không dễ để tìm được một địa điểm hoàn hảo. Tôi đã mất một khoảng thời gian dài để tìm ra nó. Và giờ tôi đang ở đây, hầu như không bị nhòm ngó. Trở nên hoàn toàn vô danh ở New York là một việc dễ dàng đến kỳ lạ. Một thành phố mới tuyệt diệu làm sao! Ở đây, phương thức tồn tại mặc định là sống ngoài vòng kiểm soát. Ở đây, bạn cần phải nỗ lực vật lộn để người ta nhận ra mình. Nhiều mười sáu chữ số đã làm như thế, tất nhiên rồi. Nhưng biết làm sao được, thế giới vẫn tồn tại nhiều kẻ ngu ngốc hơn mức chấp nhận được.
Thế nhưng, hãy nghe cho rõ, cần phải duy trì vẻ bề ngoài. Những căn phòng nằm ở mặt trước ngôi nhà của tôi được bài trí đơn giản và rất có gu (xin cảm ơn, Scandinavia[26]) . Tôi không quan hệ xã giao ở đây nhiều lắm nhưng vẫn cần phải có một diện mạo có vẻ bình thường. Bạn cần phải hoạt động trong thế giới thực. Nếu không, các mười sáu chữ số sẽ bắt đầu đặt ra câu hỏi liệu có chuyện gì đang xảy ra không hay liệu bạn có phải là một con người khác hẳn so với những gì bạn vẫn thể hiện không.
Từ đó, chỉ cần thêm một bước ngắn nữa thôi là sẽ có ai đó lượn lờ quanh nhà, lẻn vào căn phòng của bạn và cuỗm đi mọi thứ. Mọi thứ mà bạn đã phải khổ cực bỏ công sức ra mới có được. Mọi thứ.
Đó là điều tồi tệ nhất trong những điều tồi tệ nhất.
Vậy là bạn cần đảm bảo rằng căn phòng của bạn hoàn toàn bí mật. Bạn cần đảm bảo rằng những khung cửa sổ kéo kín rèm hay lắp song sắt, trong khi bạn tiếp tục duy trì cuộc đời kia của mình trước bàn dân thiên hạ, giống như nửa được Mặt trời rọi sáng của Mặt trăng. Tránh xa khỏi vòng kiểm soát là cách tốt nhất để có được một không gian sống thứ hai. Bạn nên làm những gì tôi đã làm: giữ cho cuộc sống bề ngoài luôn sạch sẽ ngăn nắp, cho dù việc này khiến tất cả dây thần kinh của bạn bị hành hạ chẳng kém gì phải nghe tiếng một đồ vật bằng thép cạo ken két trên nền đá hoa.
Bạn có một ngôi nhà bình thường. Bởi vì đó là thứ ai cũng có.
Và bạn duy trì một mối quan hệ thân tình với đồng nghiệp và bạn bè. Bởi vì đó là điều ai cũng làm. Thỉnh thoảng bạn lại có một cuộc hẹn hò, dụ dỗ cô gái ở lại qua đêm và thực hiện đủ loại tư thế. Bởi vì đó cũng là điều ai cũng làm. Cũng chẳng quan trọng nếu cô nàng không khiến bạn phấn khích
bằng việc bạn vừa ngọt ngào tán tỉnh, vừa bước vào phòng ngủ của cô nàng, mỉm cười thật sảng khoái, nói với cô nàng rằng anh và em là hai tâm hồn đồng điệu bởi chúng ta có rất nhiều điểm giống nhau. Nằm sẵn sàng trong túi áo jacket của bạn là một cuộn băng dính và một con dao cạo.
Lúc này, tôi kéo rèm che kín những khung cửa sổ trông ra vịnh rồi bước lại phía cuối phòng khách. “Ái chà, chỗ này quả là sạch sẽ ngăn nắp… Nhìn từ bên ngoài trông có vẻ to hơn.” “Đúng thế, một cảm giác rất thú vị.”
“Mà này, anh có một cửa ra vào nữa trong phòng khác của mình. Đằng sau cánh cửa đó là gì thế?” “À, chỗ đó ấy à. Chỉ là chỗ chứa đồ thôi. Một nhà kho. Chẳng có gì để nhìn đâu. Một chút vang nhé?” Được thôi, thứ nằm đằng sau đó chính là nơi tôi đang đi tới. Ngôi nhà thực sự của tôi. Căn phòng của
tôi, tôi gọi nó như vậy. Nó giống như một tòa tháp cố thủ – tuyến phòng ngự cuối cùng của một tòa lâu đài trung cổ – nơi trú ẩn kín đáo nhất nằm giữa trung tâm. Khi mọi thứ khác đã bị mất, nhà vua cùng gia đình sẽ rút lui vào tòa tháp cố thủ.
Tôi bước vào tòa tháp cố thủ của mình qua khung cửa thần kỳ đó. Đây đúng là một căn phòng, hay chính xác hơn là một căn phòng nhỏ để đồ, bên trong bạn sẽ nhìn thấy những bộ quần áo được treo trên móc, những chiếc hộp đựng giày. Nhưng gạt chúng sang bên, bạn sẽ tìm thấy một cánh cửa thứ hai. Nó mở sang phần còn lại của ngôi nhà, có diện tích rộng hơn rất nhiều so với phần mặt tiền bị co hẹp lại tối đa màu vàng Thụy Điển kinh tởm.
Căn phòng của tôi…
Giờ tôi đã bước vào nó, khóa trái cánh cửa sau lưng mình và bật hệ thống chiếu sáng lên.
Cố thư giãn. Nhưng sau ngày hôm nay, sau tai họa vừa xảy ra, tôi không tài nào rũ bỏ được cảm giác bực bội.
Chuyện này thật không tốt, không tốt chút nào hết…
Tôi gieo mình xuống chiếc ghế kê trước bàn làm việc, khởi động chiếc máy tính trong khi nhìn chăm chú vào bức họa của Prescott treo trước mặt, một món quà của Alice 3895. Ông ta có nét vẽ mới tinh tế làm sao! Những đôi mắt của các thành viên gia đình trong bức họa thật ấn tượng. Prescott đã thành công trong việc đem đến cho mỗi con mắt một cái nhìn khác nhau. Nhìn thoáng qua tất cả đều có liên hệ với nhau, trạng thái biểu cảm cũng tương tự nhau. Thế nhưng chúng đều khác biệt, như thể mỗi con mắt là hình ảnh một khía cạnh của cuộc sống trong một gia đình: hạnh phúc, trắc trở, giận dữ, bí hiểm, khống chế, bất lực.
Tất cả những gì tạo nên một gia đình.
Tôi cho là vậy.
Tôi mở chiếc ba lô, lấy ra những báu vật đã thu được ngày hôm nay. Một chiếc hộp thiếc, một bộ bút chì, một cái nạo pho mát cũ. Tại sao lại có ai đó vứt đi những thứ này chứ? Tôi cũng lấy ra những vật hữu dụng mà tôi sẽ dùng đến trong vài tuần tới: một vài bản xin vay tín dụng đã được ký khống mà người ta bất cẩn bỏ đi, biên lai thẻ tín dụng, hóa đơn điện thoại… Những gã ngốc, tôi có thể nói như vậy.
Tất nhiên còn có một hiện vật nữa cho bộ sưu tập của tôi, nhưng tôi sẽ ghi hình nó lại sau. Không phải là một chiến tích huy hoàng như mong muốn vì tôi đã phải dùng đến băng dính để làm im lặng những tiếng kêu la chói tai của Myra 9834, lúc đó tôi đã lo ngại về những người qua đường. Nói gì thì nói, không thể có chuyện hiện vật nào trong một bộ sưu tập cũng là một món trang sức hoàng gia, bạn cần một chút đời thường để tạo nên những điểm nhấn đặc biệt.
Sau đó tôi đi lững thững trong căn phòng của mình, đặt các báu vật vào vị trí thích hợp. Cho tới hôm nay, tôi có 7403 tờ báo, 3243 số tạp chí (National Geographics là chủ đạo, tất nhiên rồi), 4235 kẹp diêm… và, bỏ qua về số lượng, còn có: mắc áo, dụng cụ nhà bếp, hộp đựng suất ăn trưa, chai sô đa, vỏ hộp đựng ngũ cốc, kéo, đồ cạo râu, những cái xỏ giày và miếng cốt giày (Miếng gỗ, chất dẻo hoặc kim loại có hình bàn chân được đặt ở trong để giữ dáng của giày), cúc áo, những chiếc hộp đựng măng sét, lược, đồng hồ đeo tay, quần áo, những dụng cụ cả loại hữu dụng và đã lỗi thời. Những đĩa hát đựng trong vỏ in màu hay in đen trắng. Các vỏ chai, những món đồ chơi, bình đựng mứt, nến và giá nến, đĩa đựng đường, vũ khí. Còn nhiều, nhiều nữa.
Ngoài ra trong căn phòng còn gì nữa? Những gian trưng bày về các mười sáu chữ số, giống như một viện bảo tàng, từ những gian trưng bày những món đồ chơi đáng yêu (dù rằng Howdy Doody[27]là một gã công tử bột khốn kiếp khiến người ta phát ớn) cho tới những gian dành lữu giữ những thứ mà tôi trân trọng như báu vật nhưng phần lớn người khác, than ôi, sẽ cảm thấy không thích thú gì. Những lọn tóc, móng tay và vài món kỷ vật đã nhăn nheo, khô quắt thu lượm được từ các chuyến đi săn khác nhau. Giống như chuyến đi săn chiều hôm nay. Tôi đặt chiếc móng tay của Myra 9834 vào một vị trí nổi bật. Việc này thông thường phải đem đến cho tôi đủ hưng phấn để đạt được cực khoái nhưng bây giờ đã trở nên u âm và bị hủy hoại hoàn toàn.
Tôi căm thù bọn chúng biết chừng nào…
Với hai bàn tay run rẩy, tôi đậy nắp chiếc hộp đựng xì gà lại, không còn chút hứng thú nào với kho báu của mình lúc này nữa.
Căm thù, căm thù, căm thù…
Quay trở lại máy tính, tôi bắt đầu suy nghĩ: Có khi chẳng hề có nguy cơ nào cả. Có thể đó chỉ là một chuỗi những biến cố ngẫu nhiên kỳ lạ đã dẫn bọn chúng tới nhà của DeLeon 6832. Nhưng tôi không thể mạo hiểm.
Rắc rối: Nguy cơ các báu vật sẽ bị tước đoạt khỏi tay đang hoàn toàn ám ảnh tôi.
Giải pháp: Tiếp tục những gì tôi đã bắt đầu ở Brooklyn. Giáng trả. Loại bỏ bất cứ mối đe dọa nào. Điều mà phần lớn mười sáu chữ số, bao gồm cả những kẻ săn lùng tôi, không hiểu và cũng là điều đẩy họ vào tình thế bất lợi một cách thảm hại là: Tôi tin vào sự thật rằng, hoàn toàn không có gì sai trái về đạo đức khi cướp đi một mạng sống. Bởi vì tôi biết có một sự tồn tại vĩnh hằng hoàn toàn độc lập với những cái túi da đựng các nội tạng mà chúng ta đang tạm thời mang trên mình. Tôi có bằng chứng hẳn hoi: Chỉ cần nhìn vào những bản dữ liệu về cuộc đời bạn, được thiết lập bắt đầu từ giây phút bạn chào đời. Tất cả luôn còn đó, được lưu trữ ở hàng nghìn địa điểm, được sao chép, cập nhập, vô hình và không thể hủy diệt được. Sau khi hình hài của mỗi con người biến mất, thân xác biến mất, các dữ liệu vẫn tồn tại mãi mãi. Nếu đó không phải là định nghĩa của một linh hồn bất tử thì tôi không biết nó còn có thể là gì khác nữa.
CHƯƠNG 17
Phòng ngủ hoàn toàn yên ắng.
Rhyme đã để Thom về nhà qua đêm Chủ nhật cùng Peter Hoddins, bạn gái lâu năm của anh chàng điều dưỡng. Rhyme đã hành cậu ta không ít. Anh không đừng được chuyện đó, nhiều lúc cũng cảm thấy thật tệ vì đã làm vậy. Nhưng anh cố gắng bù lại cho cậu ta những khi Amelia Sachs ở lại qua đêm với anh, như đêm này chẳng hạn, anh giải phóng cho Thom. Cậu thanh niên cần một cuộc sống bên ngoài ngôi nhà này nhiều hơn việc suốt ngày quanh quẩn chăm sóc một gã què bẳn tính.
Anh nghe thấy những âm thanh khẽ vọng ra từ phòng tắm. Những âm thanh cho biết một phụ nữ đang chuẩn bị lên giường ngủ. Tiếng thủy tinh va vào nhau lanh canh, tiếng cửa lùa bằng nhựa lạch xạch, tiếng xịt nước thơm, tiếng nước chảy cùng mùi hương tỏa ra từ bầu không khí ẩm ướt của phòng tắm.
Anh thích những khoảnh khắc này. Chúng gợi anh nhớ lại cuộc đời anh trước đây. Tâm trí anh lại hiện lên những bức ảnh treo trong phòng thí nghiệm dưới nhà. Bên cạnh bức ảnh chụp Lincoln mặc bộ đồ thi đấu điền kinh là một bức ảnh đen trắng. Trong ảnh có hai chàng thanh niên ngoài hai mươi tuổi gầy gò, cao lêu đêu, mặc com lê đang đứng cạnh nhau. Hai cánh tay của hai người đều giơ thẳng, như thể đang băn khoăn có nên ôm lấy người kia không.
Bố và bác của Rhyme.
Anh vẫn thường nhớ về bác Henry. Còn về bố anh thì lại không nhiều đến thế. Điều này đúng trong suốt cuộc đời anh. Ồ không, không có gì đáng chê trách về Teddy Rhyme cả. Chỉ đơn giản là ngời trẻ hơn trong hai anh em ruột cũng là người thường e dè thu mình lại. Ông yêu thích công việc của mình, hàng ngày cặm cụi vùi đầu từ chín giờ sáng tới năm giờ chiều trong các phòng thí nghiệm khác nhau, thích đọc sách, một thú vui ông luôn tìm đến mỗi buổi tối trong khi thư thái ngồi trong chiếc ghế bành bọc đệm dày đã sờn, còn vợ ông, Anne, bận bịu may vá hoặc xem ti vi. Teddy yêu thích lịch sử, nhất là cuộc Nội chiến, một sở thích mà Rhyme đoán chính là nguồn gốc dẫn đến cái tên của anh.
Cậu con trai và người cha chung sống khá vui vẻ, dù Rhyme vẫn nhớ rõ những khoảnh khắc im lặng đầy lúng túng, ngượng nghịu khi chỉ có hai bố con với nhau. Những gì đem đến rắc rối cũng thúc đẩy con người ta nhập cuộc. Những gì đem đến thách thức cũng khiến bạn cảm thấy sức sống cuộn chạy trong mình. Teddy không bao giờ đem đến rắc rối hay thách thức.
Nhưng bác Henry thì có, với những lời nói thẳng tuột.
Anh không thể ở trong cùng một căn phòng với ông nhiều hơn vài phút mà không bị sự chú ý của ông soi tới như một ngọn đèn pha. Sau đó sẽ là những câu đùa cợt, những chuyện bông lơn, những tin tức mới nhất về gia đình. Và luôn có những câu hỏi, một số được đặt ra bởi ông thực sự tò mò muốn biết thêm. Nhưng phần lớn được hỏi chỉ để gợi ra một cuộc tranh luận với anh. Ôi, Henry mới say mê những cuộc đấu trí làm sao. Anh có thể co lại khép nép, có thể đỏ mặt, có thể nổi cáu. Nhưng anh cũng nóng bừng người lên vì hãnh diện về những lời khen ngợi hiếm hoi nhận được từ ông, vì anh biết mình đã giành được một cách xứng đáng. Chưa bao giờ một lời khen ngơi giả tạo hay những lời động viên vô căn cứ được phát ra từ miệng của bác Henry.
“Cháu gần tới đích rồi đấy. Cố suy nghĩ thêm đi nào! Cháu đã có tất cả chúng trong con người mình. Einstein đã thực hiện tất cả các nghiên cứu quan trọng nhất khi ông ta mới chỉ nhỉnh hơn cháu vài tuổi.” Nếu anh đưa ra được đáp án đúng, anh sẽ được thưởng bằng một cái nhướn mày tán đồng, tương đương với việc giành được giải thưởng tại Hội chợ Khoa học Westinghouse. Nhưng cũng rất thường xuyên anh đưa ra những lý lẽ hoàn toàn sai bét, những giả thiết ngớ ngẩn, những lời chỉ trích đầy cảm tính, những nhận xét thiên lệch… Nhưng mục đích của ông không phải là giành phần thắng trước anh, ông chỉ có mục đích duy nhất là đi tới chân lý và đảm bảo anh hiểu rõ con đường cần phải đi. Một khi ông đã phá tan tành lập luận của anh ra thành từng mảnh và đảm bảo anh hiểu được tại sao, cuộc tranh luận đến đó là kết thúc. “Vậy cháu hiểu mình đã bắt đầu sai lầm ở đâu rồi chứ? Cháu đã tính toán nhiệt độ với một tập hợp giả thiết sai lầm. Chính xác là vậy! Bây giờ, hãy cùng đi gọi vài cú điện thoại, tập hợp thêm vài người nữa và cùng đi xem White Sox vào thứ Bảy này. Bác cần một chiếc bánh mì kẹp xúc xích nóng hổi ngay tại sân bóng chày và chắc chắn chúng ta sẽ không kiếm nổi lấy một cái ở Comiskey Park vào tháng Mười đâu.” Lincoln luôn thích thú với những cuộc so tài trí tuệ, thường lái xe đến tận Công viên Hyde ngồi dự các buổi tọa đàm hay các cuộc thảo luận nhóm không chính thức do bác anh làm chủ tọa tại trường đại học, thực ra, anh còn có mặt thường xuyên hơn Arthur, người luôn có những mối bận tâm khác. Nếu bác anh vẫn còn sống, chắc hẳn lúc này ông đã bước thẳng vào căn phòng của Rhyme mà không
buồn để ý tới cơ thể bất động của anh, chỉ tay về chiếc máy sắc ký khí và nói thẳng tuột, “Tại sao cháu vẫn còn xài cái thứ thối tha này?” Rồi bước qua trước mặt những tấm bảng trắng ghi lại các bằng chứng, ông hẳn sẽ bắt đầu lục vấn Rhyme về cách anh xử trí vụ Năm Hai Hai.
“Phải rồi, nhưng liệu cho rằng gã này có phương thức ứng xử như thế đã hợp lý chưa? Hãy nói lại lần nữa các lập luận của cháu cho bác nghe.”
Anh lại nhớ tới buổi tối mà anh đã thường hồi tưởng đến: Đêm Giáng sinh năm cuối của anh ở trường trung học, tại nhà bác anh ở Evanston. Tại đó có mặt vợ chồng Henry – Paula cùng những người con của họ, Robert, Arthur và Marie; vợ chồng Teddy – Anne cùng Lincoln; vài người cô bác họ hàng cùng các anh chị em họ; một hai người láng giềng.
Lincoln và Arthur đã giành gần hết buổi tối chơi be a pool trong phòng chơi ở dưới nhà và trò chuyện về những dự tính cho mùa thu năm sau cũng như về trường đại học. Trái tim của Lincoln đặt cả vào Học viên Công nghệ Massachussetts. Arthur cũng dự định sẽ nộp đơn xin học ở đó. Cả hai đều tin tưởng vào khả năng được nhận, tối hôm đó hai anh em tranh luận với nhau về việc sẽ ở chung một phòng trong ký túc xá hay tìm một căn hộ ở ngoài trường (tình huynh đệ giữa các chàng trai phải tranh đấu với viễn cảnh nhen nhóm một tổ ấm yêu đương cùng một cô bạn gái).
Sau đó, đại gia đình tập hợp quanh chiếc bàn lớn trong phòng ăn, gần đó, mặt nước hồ Michigan đang gợn sóng ì oạp, những cơn gió rít lên qua những cành cây khẳng khiu xám xịt ngoài sân sau. Henry ngự trị tại bàn ăn với cùng phong cách khi ông ngự trị trên bục giảng, rất có trách nhiệm và ý thức, với một nụ cười thoáng hiện trên đôi mắt nhanh nhẹn không bỏ qua một chi tiết nhỏ nào của những cuộc trò chuyện đang diễn ra quanh mình. Ông kể những câu chuyện đùa, những giai thoại thú vị, hỏi thăm về cuộc sống của các vị khách. Ông luôn quan tâm, luôn tò mò và có những lúc ông thật lôi cuốn. “Nào, Marie, giờ tất cả mọi ngời đều đã có mặt đông đủ, hãy kể cho chúng ta cùng nghe về suất học bổng nghiên cứu sinh ở Georgetown đi. Bố nghĩ tất cả mọi người ở đây đều đồng ý nó sẽ rất phù hợp với con. Jerry có thể tới thăm con ở đó vào các dịp cuối tuần trên chiếc xe đồng bóng mới toanh của cậu ta. À mà hạn chót để nộp hồ sơ là khi nào vậy? Đợi chút nào, dường như là bố nhớ ra rồi.”
Cô gái có mái tóc lưa thưa vừa né tránh cái nhìn của ông vừa nói do dịp lễ Giáng sinh và các bài thi tốt nghiệp, cô vẫn chưa hoàn thành xong giấy tờ. Nhưng chắc chắn sẽ hoàn thành. Chắc chắn. Tất nhiên mục tiêu của Henry là buộc con gái ông phải cam kết trước mặt những người chứng kiến, bất chấp việc cô sẽ phải xa vị hôn phu của mình thêm sáu tháng nữa.
Rhyme luôn tin tưởng bác anh hoàn toàn có thể trở thành một luật sư biện hộ hay một chính khách xuất sắc.
Sau khi những gì còn lại của món gà tây và món pa tê đã được dọn đi, thay thế bằng Grand Marnier (một loại rượu dùng sau bữa ăn, làm từ cognac và tinh dầu chanh đắng) cà phê và chè, bác Henry kéo mọi người ra phòng khách, nổi bật lên trong căn phòng là một chiếc lò sưởi với gộc cây đang cháy bùng bùng và một bức chân dung nghiêm nghị của ông nội Lincoln – một người có ba bằng tiến sĩ và là giáo sư tại Harvard. Đã đến giờ cho cuộc thi tài.
Bác Henry sẽ đưa ra một câu hỏi khoa học, người đầu tiên tìm ra câu trả lời sẽ được một điểm. Ba người đạt điểm số cao nhất sẽ giành được các phần thưởng đích thân ông đã lựa chọn và được bác Paula gói lại rất chu đáo.
Không khí căng thẳng có thể cảm nhận được thật rõ ràng, luôn là như vậy khi bác Henry đóng vai chủ trì và là một người tham gia thi đấu cực kỳ nghiêm túc. Bố Lincoln là một đối thủ lợi hại trong rất nhiều câu hỏi về Hóa học và nếu chủ đề thi tài liên quan tới những con số, mẹ anh, một giáo viên Toán bán thời gian, có lúc còn đưa ra câu trả lời trước khi bác Henry kịp nói xong câu hỏi. Tuy nhiên, những người về đầu tiên trong toàn bộ cuộc thi lại là những người anh chị em họ – Robert, Marie, Lincoln và Arthur cùng chồng chưa cưới của Marie.
Đến giai đoạn cuối, khoảng gần tám giờ tối, những người tham gia thi dấu đều đã nhỏm cả dậy khỏi chỗ ngồi, theo đúng nghĩa đen. Thứ tự xếp hạng thay đổi sau từng câu hỏi. Những lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Khi chỉ còn vài phút theo chiếc đồng hồ đếm thời gian của bác Paula, Lincoln trả lời đúng liên tiếp ba câu hỏi và vươn lên vị trí số một. Đứng thứ hai là Marie, thứ ba là Arthur.
Trong những tràng vỗ tay tán thưởng, Lincoln cúi chào như thể đang đứng trên sân khấu và nhận giải quán quân từ tay bác anh. Anh vẫn còn nhớ rõ cảm giác ngạc nhiên khi mở tờ giấy gói màu nâu: một chiếc hộp nhựa trong suốt đựng một khối bê tông kích thước chừng một inch. Thế nhưng đây không hề là một trò đùa. Lincoln đang cầm trong tay một mảnh của Sân vận động Stagg cũ tại Đại học Chicago, nơi phản ứng hạt nhân dây chuyền đầu tiên đã được thực hiện dưới sự chỉ đạo của nhà bác học cùng tên với anh họ anh, Arthur Compton và đồng sự Enrico Feri. Ông Henry có lẽ đã lấy được một mảnh khi sân vận động này bị phá đi vào những năm 1950. Lincoln đã rất xúc động trước giải thưởng mang dấu ấn lịch sử này và đột nhiên cảm thấy vui mừng vì mình đã tham gia cuộc chơi một cách nghiêm túc. Anh vẫn còn giữ lại mảnh bê tông ở đâu đó, trong một thùng các tông dưới tầng hầm.
Nhưng lúc đó Lincoln không còn thời gian để chiêm ngưỡng phần thưởng quý báu của mình. Tối hôm đó anh có một cuộc hẹn muộn với Adrianna.
Cũng giống như gia đình vừa đột nhiên chen vào dòng suy nghĩ, lúc này cô huấn luyện viên thể dục tóc đỏ xinh đẹp cũng có vị trí của mình trong ký ức của Lincoln.
Adrianna Waleska – phát âm với một âm V nhẹ, vẫn còn giữ lại trong họ của mình gốc gác Gdansk (Một thành phố cảng ở Ba Lan) từ hai thế hệ trước – làm việc tại văn phòng của chuyên gia tư vấn đại học tại trường trung học của Lincoln. Vào đầu năm cuối cấp, trong khi mang mấy bản đăng ký đến nộp, anh đã nhìn thấy trên bàn làm việc của cô cuốn Stranger in a strange land, một cuốn tiểu thuyết của Heinlein, với các mép trang đã quăn sờn. Hai người đã bỏ ra cả giờ đồng hồ sau đó để trò chuyện về cuốn sách, thường là nhất trí với nhau, đôi chỗ tranh luận, kết quả là Lincoln nhận ra anh đã lỡ giờ Hóa học. Không vấn đề gì. Ưu tiên vẫn là ưu tiên.
Đó là một cô gái cao dong dỏng, mảnh dẻ, hai hàm răng đều tăm tắp, một thân hình gợi cảm dưới những chiếc áo len xù dài tay và những chiếc quần jean ống loe. Nụ cười của cô có thể xếp hạng từ nóng bỏng đến quyến rũ. Chẳng bao lâu sau hai người bắt đầu hẹn hò, trải nghiệm đầu tiên vào thế giới của những mối quan hệ lãng mạn thực thụ. Mỗi người đến dự các buổi thi đấu thể thao của người kia, cùng nhau tới tham quan Thorne Rooms (Phòng Thiết triều của Hoàng gia Anh) tại Học việc Mỹ thuật Chicago, tới các câu lạc bộ Jazz ở khu Old Town và thỉnh thoảng cùng tới thăm băng ghế sau chiếc Chevy Monza của cô, một chiếc xe khó có thể nói là có một băng ghế sau đúng nghĩa và do đó chỉ là một cái cớ. Adrianna sống cách nhà anh một quãng chạy ngắn, xét theo các tiêu chuẩn chạy băng đồng dã ngoại của anh, nhưng cách di chuyển này chẳng ổn chút nào, không thể xuất hiện trước cửa nhà nàng với thân hình mồ hôi nhễ nhại, vậy là anh mượn chiếc xe của gia đình mỗi khi có thể và phóng đi gặp cô.
Họ trò chuyện với nhau hàng giờ liền. Cũng như với bác Henry, anh và Adie đã cùng nhau cam kết. Cũng có những trở ngại tồn tại. Sang năm sau, anh sẽ tới Boston học đại học; còn cô, tới San Diego để theo đuổi nghiên cứu sinh học và làm việc tại vườn bách thú. Nhưng chúng chỉ đơn thuần là những trở ngại và Lincoln Rhyme, vào lúc đó cũng như bây giờ, không bao giờ chấp nhận trở ngại như cớ để bỏ cuộc. Sau này – sau vụ tai nạn và sau khi anh và Blaine đã chia tay, Rhyme đôi lúc vẫn tự hỏi liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh và Adrianna ở lại bên nhau và tiếp tục những gì họ đã bắt đầu. Buổi tối Giáng sinh đó, thực ra anh đã đi rất gần tới cầu hôn. Anh dự kiến trao cho cô không phải một chiếc nhẫn mà là, như anh đã khéo léo chuẩn bị trước, ‘một loại đá rất đặc biệt’ – phần thưởng được bác anh trao trong cuộc thi hiểu biết khoa học nho nhỏ.
Nhưng anh đã không thể nói ra, tất cả bởi thời tiết. Trong khi hai người ngồi sát bên nhau trên một băng ghế, tuyết bắt đầu rơi xuống mỗi lúc một dày từ trên bầy trời đêm yên ả của miền Trung Tây và chỉ sau vài phút, tóc và áo khoác của họ đã phủ một lớp tuyết trắng xóa. Cô gái chỉ kịp quay về nhà mình còn Lincoln về tới nhà anh, trước khi mọi con đường bị ngừng trệ. Tối hôm đó, anh nằm thao thức trên giường, bên cạnh là chiếc hộp nhựa đựng mảnh bê tông, tập đi tập lại bài cầu hôn của mình.
Lời cầu hôn đã không bao giờ được nói ra. Những biến cố chen vào cuộc đời họ, đẩy họ đi theo những hướng khác nhau, dường như đều là những biến cố nhỏ nhoi vô nghĩa, cho dù sự nhỏ nhoi đó, cũng giống như những nguyên tử vô hình đã va đập vào nhau để phân hạch trong một sân vận động bỏ hoang lạnh lẽo, đã thay đổi thế giới mãi mãi.
Mọi thứ hẳn đã khác đi…
Rhyme thoáng nhìn thấy Sachs đang chải lại mái tóc dài màu đỏ của cô.
Anh nhìn cô một lúc lâu, cảm thấy vui vì cô đã ở lại tối nay, một cảm giác khiến anh thư thái hơn thường lệ. Rhyme và Sachs không phải là hai người không thể tách rời. Họ đều là những con người cực kỳ độc lập và thường ưa thích có thời gian riêng cho mình. Nhưng tối nay anh muốn cô ở lại đây. Cảm nhận sự hiện diện của cơ thể cô ngay bên anh, một cảm giác – ở những chỗ hiếm hoi anh vẫn còn khả năng cảm nhận – càng mãnh liệt hơn bởi sự hiếm hoi của nó.
Tình yêu anh dành cho cô là một tong những động lực để anh duy trì chế độ luyện tập với một máy tập chạy được vi tính hóa và máy tập đạp xe Electrologic. Nếu các tiến bộ y học bước qua được điểm dừng đó và cho phép anh có thể đi lại, các cơ bắp của anh sẽ được chuẩn bị sẵn sàng. Anh cũng đang cân nhắc tới một cuộc phẫu thuật nữa rất có thể sẽ cho phép cải thiện thể trạng của anh cho tới ngày đó. Về mặt thực nghiệm, phương pháp phẫu thuật này vẫn còn gây nhiều tranh cãi, nó được gọi là phẫu thuật điều chỉnh đường dẫn thần kinh ngoại vi, một kỹ thuật đã từng được bàn đến nhiều và đôi khi được thử nghiệm trên thực tế trong nhiều năm mà không đem lại nhiều kết quả tích cực. Nhưng gần đây một số bác sĩ nước ngoài đã thực hiện loại phẫu thuật này với ít nhiều thành công, bất chấp sự dè dặt của cộng đồng y học Mỹ. Quy trình này sử dụng can thiệp phẫu thuật để nối các đầu dây thần kinh ở phía trên bị trí bị tổn thương với phần thần kinh nằm phía dưới. Có thể gọi đó là việc bắc một chiếc cầu mới để đi vòng qua vị trí một cây cầu đã đổ.
Những trường hợp thành công thường có được ở những cơ thể bị tổn thương ít nghiêm trọng hơn so với
cơ thể của Rhyme, nhưng kết quả đúng là rất ấn tượng: có lại kiểm soát bàng quang, cử động của các chi, thậm chí có thể đi lại được. Kết quả cuối cùng này sẽ không thể có được với trường hợp của Rhyme, nhưng những cuộc trao đổi cùng một bác sĩ Nhật đi tiên phong trong phương pháp phẫu thuật này và với một đồng nghiệp đang giảng day tại bệnh viện của trường y thuộc trường đại học Ivy Leaque (Một hiệp hội các trường đại học ở khu vực Đông Bắc Mỹ gồm tám trường thành viên: Brown, Columbia, Cornell, Dartmouth, Harvard, Pennsylvania, Princeton và Yale) đã đem đến hy vọng sẽ cải thiện được đáng kể một số chức năng. Có thể là khả năng cảm nhận và cử động hai cánh tay, hai bàn tay và bàng quang.
Cả quan hệ tình dục nữa.
Những người bị liệt, thậm chí cả những người liệt tứ chi, vẫn hoàn toàn có khả năng quan hệ tình dục. Nếu như nguồn kích thích tạo ra hưng phấn xuất phát từ nguyên nhân tinh thần – nhìn thấy một người đàn ông hay một phụ nữ mà chúng ta thích – thì không, thông điệp này không thể đi qua được vị trí bị tổn thương trên cột sống. Nhưng cơ thể con người là một cỗ máy tuyệt vời, và có một cơ chế thần kinh kỳ diệu nào đó hoạt động tự động một cách độc lập bên dưới nơi bị tổn thương. Có một chút kích thích tại chỗ, những người bị liệt nặng nhất thậm chí cũng có thể làm tình được.
Ánh đèn trong buồng tắm vụt tắt và anh dõi theo bóng dáng cô đang tiến lại gần, leo lên cái mà từ lâu cô đã gọi là chiếc giường tiện nghi nhất thế giới.
“Anh…,” anh vừa mới bắt đầu thì giọng nói của anh đã bị đôi môi cô làm cho tắt lịm khi cô ôm ghì lấy anh hôn thật mãnh liệt.
“Anh vừa nói gì?” Cô thì thầm, lướt đôi môi xuống cằm anh, rồi xuống cổ.
Anh đã quên mất. “Anh quên mất rồi.”
Đôi môi anh ngậm lấy tai cô và rồi nhận ra đống chăn trên giường đã bị kéo xuống. Việc này đã khiến cô phải tốn sức không ít, Thom đã chuẩn bị giường không khác gì một anh lính sợ chết khiếp thượng sĩ giám thị của mình. Không lâu sau, anh đã nhìn thấy đống chăn bị vun thành đống dưới chân. Chiếc áo phông của Sachs cũng gia nhập vào đó.
Cô hôn anh lần nữa. Anh đáp lại thật say mê.
Đúng lúc đó chuông điện thoại của cô reo lên.
“Ú ù,” cô thì thầm. “Em chẳng nghe thấy gì cả.” Sau bốn lần đổ chuông, tín hiệu của hộp thư thoại vang lên như sự giải thoát. Song chỉ một nháy mắt sau chuông lại reo.
“Có khi mẹ em gọi đấy,” Rhyme nói.
Rose Sachs đã trải qua một số liệu trình điều trị để giải quyết bệnh tim. Tình hình khá tốt song gần đây bà có vài vấn đề về sức khỏe.
Sachs vừa hầm hừ cằn nhằn vừa mở máy, lập tức thân thể cả hai người đều chìm vào một quầng sáng xanh. Nhìn thông tin người gọi, cô nói: “Là Pam. Em nên nghe máy.”
“Tất nhiên rồi.”
“Chào em. Có chuyện gì thế?”
Khi cuộc đối thoại tiếp tục, Rhyme đoán có chuyện gì không ổn.
“Okay… chắc rồi… Nhưng chị đang ở nhà Lincoln. Em muốn qua đây không?” Cô liếc nhìn Rhyme, anh gật đầu tán thành. “Okay, em yêu. Bọn chị vẫn còn thức, chắc mà.” Cô đóng máy. “Có chuyện gì thế?”
“Em không biết. Con bé không nói. Nó chỉ nói bố mẹ nuôi nó, Dan và Enid có hai đứa bé phải nhận khẩn cấp tối nay. Vậy là tất cả đám trẻ lớn tuổi hơn phải ở chung phòng. Con bé buộc phải chuồn ra ngoài. Nó không muốn ở lại nhà em một mình.”
“Đến chỗ anh cũng được. Em biết mà.”
Sachs lại nằm xuống, miệng cô say sưa thám hiểm thân thể anh. Cô thì thầm: “Em đã tính thử rồi. Con bé sẽ phải cho đồ vào túi, lấy xe khỏi ga ra… phải mất bốn mươi lăm phút nữa mới đến đây được. Bọn mình vẫn còn chút thời gian.”
Cô cúi người ra trước định hôn anh lần nữa.
Đúng lúc đó chuông cửa reo inh ỏi. Máy đàm thoại nội bộ kêu lạch tạch: “Ông Rhyme? Amelia? Xin chào, Pam đây mà. Chị mở cửa cho em được không?”
Rhyme bật cười, “Có lẽ con bé vừa gọi điện từ ngay ngoài bậc thềm.”
"""