"
Du Khách Bất Đắc Dĩ - Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Du Khách Bất Đắc Dĩ - Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
ANNE TYLER
Dạ Thảo dịch
—★—
Du Khách Bất Đắc Dĩ • THE ACCIDENT TOURIST •
NHÃ NAM & NXB HÀ NỘI ebook♥vctvegroup | 27-12-2020
Tác Giả
Anne Tyler sinh ngày 25 tháng Mười năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota. Mười chín tuổi bà tốt nghiệp Đại học Duke, và hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngành Nga học tại Đại học Columbia (New York). Bà làm công việc thủ thư và sưu tầm danh mục một thời gian rồi chuyển tới Maryland. Năm 1963, Tyler kết hôn với Taghi Mohammad Modarressi, nhà tâm thần học đồng thời là tiểu thuyết gia người gốc Iran. Họ có hai con gái. Năm 1997, Modarressi qua đời. Tyler vẫn tiếp tục sống tại Baltimore (Maryland), vùng đất đã trở thành bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của bà.
Sự nghiệp văn học của Anne Tyler có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bà là người khiêm tốn, không khoa trương. Bà không tổ chức các chuyến đi tuyên truyền sách, không phỏng vấn trực tiếp mà chỉ trả lời email, cũng không xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Cuốn tiểu thuyết thứ chín với nhan đề Dinner at the Homesick Restaurant, tác phẩm bản thân bà hài lòng nhất, đã lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1983. Cuốn tiểu thuyết thứ mười một của bà, Breathing Lessons, đã giành được giải thưởng Pulitzer năm 1989.
The Accident Tourist (Du khách bất đắc dĩ) cũng là một cuốn sách hết sức thành công của Anne Tyler, tác phẩm được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim vào năm 1988 với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis.
Chương 1
Họ đã nghĩ sẽ ở lại bãi biển một tuần, nhưng chẳng ai cảm thấy hứng thú gì nên quyết định quay về sớm. Macon lái xe. Sarah ngồi ghế bên cạnh anh, đầu tựa vào của xe. Những mảng trời đầy mây lấp ló sau những lọn tóc nâu rối tung của cô.
Macon mặc một bộ vest mùa hè chỉn chu, bộ anh vẫn thường mặc mỗi khi đi du lịch - anh luôn cho rằng so với đồ jean thì bộ này phù hợp cho du lịch hơn nhiều. Quần jean thì cứng, đường may thô mà lại có nhiều đinh rivê. Sarah mặc chiếc đầm hở vai bằng vải bông - loại thường mặc khi dạo biển. Trông họ giống như đi nghỉ về từ hai nơi hoàn toàn khác nhau. Sarah có làn da rám nắng, còn Macon thì không. Anh có dáng người cao lớn, đôi mắt màu xám, nước da trắng xanh, tóc hoe vàng được cắt tỉa gọn gàng. Và làn da anh mỏng đến độ rất dễ bắt nắng. Anh hầu như chẳng bao giờ bước chân ra ngoài vào buổi trưa.
Xe vừa chạy lên đường cao tốc thì bầu trời chợt tối sầm lại và dăm ba hạt mưa khổng lồ quất lộp bộp vào kính chắn gió. Sarah ngồi bật dậy, “Mong sao trời không mưa.”
Macon bảo, “Mưa ít ít thì chả sao.”
Sarah trở lại tư thế cũ, nhưng mắt dán vào con đường trước mặt. Ấy là một buổi sáng thứ Năm. Trên đường không có nhiều xe cộ. Họ vượt qua một chiếc xe tải nhỏ không mui, rồi một chiếc xe tải cỡ lớn trên thùng chi chít miếng nhãn dính lòe loẹt nhưng cũng khá bắt mắt. Mưa quất vào kính chắn gió mỗi lúc một dày hơn, dữ dội hơn.
Macon bật cần gạt nước. cần gạt nước đưa qua đưa lại với âm thanh đều đều soàn soạt soàn soạt và mưa đã bắt đầu tí tách xuống mui xe. Thi thoảng một cơn gió mạnh ào tới. Mưa ập xuống rạp cả những vạt cỏ úa dài hai bên đường. Mưa xiên thẳng xuống các bến thuyền, những trại gỗ, các cửa hàng nội thất giảm giá, mọi thư trông tối sầm mù mịt như thể mưa đã đến từ lâu lắm rồi.
“Thấy đường chứ anh?” Sarah lên tiếng.
Macon bảo, “Hẳn rồi, có gì đâu.”
Xe họ đang ở ngay sau một xe moóc vói hai bánh sau xé nước mưa trên đường thành những vạt nước hình vòng cung. Macon đánh tay lái sang trái và vượt. Một màn nước dày đặc táp thẳng vào hông phải xe họ, rồi chiếc xe moóc tụt lại phía sau. Sarah bấu chặt một tay vào bảng đồng hồ xe.
“Thật không hiểu anh làm thế nào thấy đường mà lái như vậy,” cô nói.
“Có lẽ em nên đeo kính của em vào.”
“Anh có thể nhìn đường nếu đeo kính của em hả?”
“Không phải anh, em ấy,” Macon nói. “Em cứ để ý kính chắn gió thay vì nhìn đường.”
Sarah tiếp tục bấu lấy bảng đồng hồ xe. Khuôn mặt cô khoáng đạt và trầm mặc khiến người ta có cảm giác cô đang điềm tĩnh, nhưng nếu nhìn gần một chút có thể thấy nét căng thẳng ánh lên nơi khóe mắt cô.
Chiếc xe quây lấy họ như một căn phòng. Hơi thở họ phả ra làm mờ cả các cửa kính. Mới đây điều hòa chạy và đến giờ vẫn còn quanh quất chút hơi lạnh phả ra từ máy, thoáng cái không khí trong xe đã chuyển sang ngột ngạt khó chịu kèm theo mùi ẩm mốc. Xe
phóng nhanh qua một đường hầm. Ngay lập tức không còn cảm thấy mưa nữa. Sarah chực thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô chưa kịp thở phào thì tiếng mưa đã lại đập liên hồi lên mui xe. Cô ngoái nhìn khắc khoải về phía đường hầm. Macon tiếp tục nhấn ga về phía trước, tay đặt lơi trên vô lăng.
“Anh có thấy cậu bé với chiếc mô tô không?” Sarah lên tiếng. Cô phải nói thật to, cố át đi cái âm thanh ầm ĩ dai dẳng ở bên ngoài. “Cậu bé nào?”
“Cái cậu dựng xe bên dưới đường hầm ấy.”
“Thật khùng điên mới đi mô tô vào lúc thời tiết như thế này,” Macon nói. “Mà chẳng cứ gì hôm nay, thật điên khùng mới đi mô tô. Em cứ hay để ý những thứ vặt vãnh.”
“Ta có thể làm vậy mà,” Sarah bảo. “Dừng xe lại đợi mưa tạnh rồi hãy đi anh à.”
“Sarah, nếu cảm thấy chúng mình sẽ gặp nguy hiểm dù chỉ một chút thôi, anh đã tấp vào vệ đường lâu rồi.”
“Ồ, em không biết là anh đã có ý như thế đấy."
Họ chạy ngang qua một cánh đồng, ở đây mưa dường như nặng hạt hơn, từng mảng từng mảng nước lớn ập xuống oằn những thân ngô, ngập cả những rãnh đất. Vô số vạt mưa khổng lồ tiếp tục quất thẳng vào tấm kính chắn gió. Macon chuyển cần gạt sang tốc độ nhanh hơn.
Em không biết anh thật sự để ý nhiều đến điều đó,” Sarah bảo. “Phải chứ?”
“Để ý?”
“Có một ngày em đã nói với anh, em bảo, ‘Macon, Ethan đã bỏ chúng ta mà đi, thế nên có đôi khi em tự hỏi cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa không.’ Anh có nhớ đã trả lời ra sao không?” “À, anh chưa thể nhớ ngay được.”
“Anh đã nói, ‘Em yêu, nói thật, dường như với anh chưa bao giờ có nhiều ý nghĩa để bắt đầu.’ Chính xác lời anh nói đấy.” “Ừm...”
“Và anh thậm chí cũng không biết điều đó có gì không ổn.” “Không, chắc là anh không biết.”
Xe chạy ngang qua một hàng dài ô tô đậu ngay bên đường, cửa kính mờ đục, mưa rơi trên mặt kính trơn bóng nảy lên những đốm nước trắng lóa. Có một chiếc xe hơi nghiêng như thể sắp đổ xuống dòng bùn đục ngầu bị khuấy tung đang chảy trong rãnh. Macon vẫn duy trì vận tốc cũ.
“Chẳng bao giờ anh làm cho em cảm thấy được an ủi,” Sarah nói. “Em yêu, anh đang cố làm điều ấy mà.”
“Anh chỉ sống theo cách anh từng sống trước đây. Công việc hàng ngày tầm thường, những lề lối, những thói quen nhàm chán, ngày nào cũng thế. Chẳng có chút gì khiến em có cảm giác được an ủi.”
Chứ em nghĩ anh không cần được an ủi sao?” Macon hỏi. "Đâu phải một mình em, Sarah. Anh không hiểu sao em cứ cho rằng nỗi mất mát ấy chỉ có riêng em chịu.”
“À, đôi lúc em nghĩ thế thật.”
Họ im lặng một hồi. Một vũng nước rộng, có vẻ như thế, ở ngay giữa đường dội nước ngược lên gầm khiến xe đảo sang bên phải.
Macon ghìm phanh, rồi chạy tiếp.
“Cơn mưa này, chẳng hạn,” Sarah nói. “Anh biết nó khiến em hoảng sợ. Đợi một chút thì có hại gì cơ chứ? Lẽ ra anh nên tỏ ra quan tâm đến cảm giác của em. Lẽ ra anh nên nói với em rằng, có anh ở đây, bên cạnh em lúc này, chẳng còn gì phải lo lắng nữa.”
Macon chăm chú nhìn qua kính chắn gió, nước mưa chảy thành dòng trên kính khiến nó trông như cẩm thạch. Anh lên tiếng, “Sarah, anh biết cách. Em biết là anh lái đúng lề lối mà.”
“Dẹp anh và những cái cách chết tiệt của anh đi!”
“Thêm nữa,” anh tiếp, “nếu em không tìm thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống, anh chẳng thể hiểu nổi tại sao một cơn mưa lớn lại khiến em căng thẳng.”
Sarah ngồi thụp xuống ghế.
“Nhìn kìa!” anh nói. “Một cái nhà lưu động đã bị hất tung qua bãi đậu xe moóc kìa.”
“Macon, em muốn ly hôn,” Sarah lên tiếng.
Macon đạp phanh và liếc nhanh sang cô. Cái gì? Chiếc xe loạng choạng. Anh lại phải hướng mắt về phía trước. “Anh đã nói gì chứ? anh hỏi. “Em nói vậy là có ý gì?”
“Chỉ là em không thể sống cùng anh được nữa.”
Macon tiếp tục dõi mắt về con đường phía trước, nhưng mũi anh dường như buốt hơn và nhợt hơn, như thể toàn bộ da mặt anh bị kéo căng. Anh hắng giọng, “Em yêu. Nghe này. Một năm qua thật khó khăn. Chúng mình đã phải trải qua một quãng thời gian đầy khó khăn. Ai mất con cũng thấy như vậy; ai cũng nói như thế; ai cũng cho rằng chuyện đó khiến vợ chồng sống trong căng thẳng...”
“Em muốn tìm chỗ ở riêng cho em ngay khi mình về đến nhà,” Sarah nói với anh.
“Chỗ ở riêng cho em,” Macon lặp lại lời vợ, nhưng giọng anh quá nhẹ, mà mưa ngoài trời đập vào mui xe thì quá ầm ĩ, nên giống như anh chỉ mấp máy môi. “À, được. Nếu em thật sự muốn vậy.”
“Anh có thể giữ lại ngôi nhà ấy. Anh không bao giờ thích chuyển đi mà.”
Vì một lý do nào đó, đây chính là điều rốt cuộc khiến Sarah thấy sụp đổ. Cô vội quay đi. Macon bật đèn xi nhan bên phải lên. Anh rẽ vào ga Taxeco, đỗ lại bên dưới mái hiên, tắt máy. Anh xoa xoa lòng bàn tay vào hai đầu gối. Sarah dúi mình vào một góc ghế xe. Âm thanh duy nhất còn nghe thấy được là tiếng mưa rơi vỗ lên mái hiên ở phía xa bên trên đầu họ.
Chương 2
Macon đã tưởng rằng sau khi vợ anh bỏ đi ngôi nhà sẽ trở nên rộng hơn. Trái lại, giờ đây anh cảm thấy nó thật chật chội. Những ô cửa sổ như co mình lại. Trần nhà thấp xuống. Có gì đó xảy ra với đống đồ đạc, như thể chúng đang dồn cả vào anh.
Tất nhiên Sarah đã dọn hết những vật dụng cá nhân của mình, chỉ là những đồ nhỏ như quần áo, nữ trang. Nhưng rõ ràng những đồ đạc lớn trong nhà mang hơi hướng của cô nhiều hơn anh tưởng. Này là cái bàn gập đặt nơi phòng khách, ngăn kéo đầy những bì thư đã xé và cả những lá thư chưa bóc của cô. Này là chiếc radio trong nhà bếp, định vị kênh chương trình 98 Rock. (Cô thích giữ liên lạc với sinh viên của mình, trong lúc lúng búng ngâm nga và bồn chồn đi quanh bàn ăn sáng, trước đây cô thường nói như vậy.) Này là chiếc ghế dài không có lưng tựa nơi cô từng nằm sưởi nắng, được đặt ngay chỗ duy nhất có được chút ánh mặt trời rọi vào trong cả ngôi nhà. Anh nhìn những chiếc gối ôm bọc vải hoa và tự hỏi làm thế nào một không gian trống trơn lại có thể đong đầy hình ảnh một người đến thế - cái mùi dầu dừa thoang thoảng luôn khiến anh thèm uống một ly cocktail rum pha nước dừa của cô; khuôn mặt tròn trịa sáng sủa ẩn sau đôi kính mát của cô; thân hình chắc lẳn của cô trong bộ đồ bơi kèm váy mà cô đã cố nài mua cho được sau dịp sinh nhật lần thứ bốn mươi. Những sợi tóc rụng của cô còn vương lại nơi đáy bồn rửa mặt. Cái kệ của cô trong tủ y tế, trống trơn, chỉ còn sót lại những giọt chất lỏng đã khô ánh lên màu hồng sậm đặc trưng khiến ngay lập tức trong tâm trí anh hình ảnh cô trở nên rõ nét. Anh đã luôn chê
bai sự đểnh đoảng của cô nhưng giờ đây những giọt thuốc nước rơi vãi kia dường như gợi nên một niềm thương yêu, chúng giống như thể những món đồ chơi đầy màu sắc bọn trẻ bỏ lại trên sàn khi đi ngủ.
Ngôi nhà không rộng cũng không chật, nhìn cũng không nổi bật gì, nằm ở khu phố cũ của Baltimore trong một dãy phố gồm những ngôi nhà giống hệt nhau. Những ngôi nhà xung quanh cũng có kiểu tương tự thế. Quanh nhà có những cây sồi to phủ tán, che rợp bóng suốt mùa hè oi bức, nhưng lại cũng chắn luôn cả những cơn gió mát. Bên trong là những căn phòng vuông vức và thiếu ánh sáng. Trong phòng riêng của Sarah không còn lại gì ngoài chiếc khăn choàng lụa màu nâu treo trên móc; trong các ngăn kéo tủ của cô còn sót lại những cuộn xơ vải buộc vết thương, những lọ nước hoa đã dùng hết. Căn phòng cũ của cậu con trai được dọn dẹp ngăn nắp, đẹp đẽ như phòng trong nhà nghỉ. Ở đâu đó, từ các bức tường dội lên cái gì như tiếng vọng. Macon nhận thấy mình đang áp chặt hai tay quanh người, nem nép đi qua đồ đạc trong phòng như thể anh đang tưởng tượng ra rằng ngôi nhà hầu như không thể chứa nổi anh. Anh thấy mình trở nên cao lớn quá cỡ. Đôi chân dài vụng về dường như đang kéo giãn ra một cách bất thường. Anh cúi đầu xuống thật nhanh khi bước qua những ô cửa.
Anh tự nhủ với lòng rằng cơ hội để anh sắp xếp lại mọi thứ đã đến. Anh đã bị lún vào một sở thích có phần phi lý. Thật ra trông nom một ngôi nhà cần phải có một kiểu lề lối, mà Sarah lại chẳng bao giờ hiểu được điều đó. Cô là kiểu phụ nữ hay đặt lẫn lộn những thứ như dao, thìa, nĩa với nhau... Cô khởi động máy rửa chén khi bên trong chỉ có một nắm nĩa mà chẳng nghĩ gì. Còn Macon lại thấy khổ sở vì điều đó. Nói chung Macon phản đối việc dùng máy rửa chén; anh cho
rằng chúng lãng phí năng lượng. Có thể nói rằng tiết kiệm năng lượng cũng là một thú vui của anh.
Anh bắt đầu thói quen giữ cho bồn rửa chén luôn đầy nước, cho vào một ít clo để khử trùng. Mỗi lúc dùng bữa xong, anh thả đĩa ăn vào bồn. Đến khi bồn đầy chén dĩa, anh rút nút chặn và xịt nước nóng lên những thứ trong bồn. Rồi anh xếp chén dĩa đã được xả sạch vào cái máy rửa chén trống không - bây giờ theo lề lối mới của anh nó đã trở thành một kho chứa khổng lồ.
Khi anh lom khom xịt nước bên bồn rửa chén dĩa, anh thường có cảm giác Sarah đang quan sát mình. Anh cảm thấy chỉ cần nhướng mắt lên một chút sang bên trái thì sẽ thấy cô đang đứng khoanh tay, nghiêng nghiêng đầu và đôi môi cong mím chặt đầy tư lự. Ở cái liếc đầu tiên thì cô đang quan sát cách anh làm, ở cái liếc tiếp theo (anh biết) là cô đang cười anh. Mắt cô luôn ánh lên tia bí mật mà anh đã quá quen thuộc. “Em biết mà,” cô sẽ nói như vậy, gật đầu theo những câu giải thích dài dòng của anh; rồi anh sẽ ngước lên bắt gặp ánh nhìn ấy và khóe môi nhếch khẽ của cô.
Trong sự hiện diện này của cô - nếu có thể coi đó là sự hiện diện, vì xét cho cùng anh chưa bao giờ thực sự liếc mắt sang phía cô - cô đang mặc chiếc đầm màu xanh sáng mua từ hồi họ mới cưới. Anh không hề biết từ khi nào cô đã thôi mặc nó, nhưng chắc là rất lâu rồi. Anh gần như có cảm tưởng rằng đấy là hồn ma của Sarah - rằng cô đã chết. Ở một mặt nào đó (anh nghĩ, rồi tắt vòi nước), cô đã chết, cô gái Sarah trẻ trung, mạnh mẽ nơi căn hộ đầu tiên tràn ngập hạnh phúc của họ trong con hẻm Cold Spring ấy. Khi anh cố nhớ lại những hồi ức ấy thì bất cứ hình ảnh nào của Sarah hiện lên cũng ngay lập tức bị thay thế bởi một sự thật rằng Sarah đã bỏ anh đi. Khi anh hình dung lại ngày đầu tiên quen nhau - khi họ vừa qua hết tuổi thơ -
dường như đấy chính là dấu hiệu ban đầu cho sự chia tay sau này của họ. Khi cô ngước nhìn anh và khua lách cách những mẩu đá lạnh trong chiếc cốc giấy vào cái đêm đầu tiên ấy, họ đã bắt đầu hành trình tiến tới cái năm căng thẳng, khổ sở cuối cùng bên nhau, tới những tháng ngày mà bất cứ điều gì người kia nói ra đều sai, tới cái cảm giác về sự kết nối cơ hồ đã đứt ấy. Họ giống như hai người đang chạy tới để gặp nhau, nắm lấy tay nhau nhưng cái đích họ hướng đến lại khác nhau; họ lướt qua nhau và cứ thế chạy. Và cuối cùng, tất cả còn lại là con số không. Anh nhìn chằm chằm vào bồn rửa chén, hơi nóng trong bồn nhẹ nhàng phả lên mặt anh.
Vậy đấy, mày phải tiếp tục. Mày phải tiếp tục. Anh quyết định chuyển tắm sáng sang tắm tối. Anh thấy mình đã bắt đầu thích nghi - tâm hồn anh vô cùng sảng khoái. Khi tắm dưới vòi hoa sen, anh hứng nước lại trong bồn rồi dò dẫm quanh bồn, chân đạp bì bõm lên đống quần áo bẩn mặc trong ngày. Sau đó, anh vắt khô quần áo móc lên dây phơi. Rồi anh mặc đồ lót ngày mai để không bao giờ phải giặt pyjama. Thật ra, thứ duy nhất anh giặt là khăn tắm và ga trải giường, mỗi tuần một lần - chỉ có hai chiếc khăn nhưng cả đống ga. Đó là do anh đã tiến hành lề lối giúp mình có thể ngủ trên chiếc ga sạch sẽ vào mỗi đêm mà không phải đổi giường. Anh đã áp đặt lề lối đó cho Sarah trong nhiều năm, nhưng cô lại chỉ thích làm theo ý mình. Thế là anh lột hết bọc nệm ra, rồi thay chúng bằng cách lấy một trong bảy cái ga dùng máy khâu may lại thành một thứ gì đó tựa như cái bao lớn. Anh nghĩ về phát minh này như là một cái Túi Ngủ Macon Leary. Một cái túi ngủ không cần phải gấp, khó bẩn, dễ thay, và là một chiếc mền hoàn hảo cho mùa hè. Vào mùa đông, anh phải nghĩ ra cách làm một thứ gì đó ấm hơn, nhưng anh chưa kịp nghĩ đến mùa đông. Anh vừa mới làm xong nó một ngày trước.
Có những lúc - khi đang chèn cái nút vải đã tả tơi vào chỗ rút nước trong bồn tắm hay đang lùng nhùng trong cái túi ngủ của mình trên chiếc đệm trần loang lổ vét gỉ sét - anh nhận thấy có lẽ mình đang khiến mọi việc đi quá xa. Mà anh cũng chẳng biết giải thích ra làm sao nữa. Anh luôn có thú vui nghĩ ra các phương pháp, nhưng đó không thể gọi là chứng gàn dở được. Nghĩ lại cái tính thiếu phương pháp của Sarah, anh tự hỏi phải chăng giờ đây mọi việc đã không còn trong tầm kiểm soát nữa. Có lẽ trong suốt những năm tháng đó, họ đã đi theo những con đường khác nhau phù hợp cho họ. Bằng cách nào đó họ dạt ra khỏi nhau như hai thỏi nam châm cùng cực, tất yếu họ lờ lững trôi xa nhau. Anh hình dung căn hộ mới của Sarah - căn hộ anh chưa hề thấy - chắc là bừa bộn đến phát điên, nào là giày vứt vào lò, nào là sofa đầy cả chồng chén dĩa. Chỉ nghĩ thế thôi cũng khiến anh ngán ngẩm. Anh nhìn xung quanh mình mà lòng đầy khoan khoái.
Hầu như mọi công việc của anh đều được làm tại nhà; nếu không anh đã không thể coi sóc nhà cửa như thế được. Anh có một chỗ làm việc nhỏ trong căn phòng trống tách biệt với nhà bếp. Ngồi vào ghế dành cho nhân viên tốc ký, gõ vào chiếc máy đánh chữ - cái máy đã theo anh suốt cả bốn năm đại học, - anh viết một loạt các cuốn sách hướng dẫn những người buộc phải đi lại vì công việc. Thật buồn cười là Macon vốn ghét đi du lịch. Anh lướt một vòng chớp nhoáng qua các đất nước bằng cách khép mắt lại, nín thở và thả mình vào trạng thái lơ lửng, đôi lúc chìm trong tưởng tượng, và rồi quay về thực tại lòng đầy khấp khởi bắt tay vào viết các cuốn sách bìa mềm dày với kích thước của một tấm hộ chiếu. Du khách bất đắc dĩ ở Pháp. Du khách bất đắc dĩ ở Đức. Ở Bỉ. Không tên tác giả, chỉ là một cái logo: một chiếc ghé bành có hai cái cánh ở ngoài bìa.
Trong sách anh chỉ đề cập tới các thành phố, vì những người đi công tác thường chỉ hay bay đến các thành phố rồi lại bay về chứ không đến miền quê bao giờ. Và vì lẽ đó, họ lại cũng không ngó ngàng gì đến các thành phố nữa. Điều họ quan tâm là làm cách nào để có thể giả vờ như chưa hề ra khỏi nhà. Khách sạn nào ở Marid quảng cáo về những tấm đệm ngủ kích cỡ lớn hơn bình thường? Nhà hàng nào ở Tokyo có phục vụ đồ ăn ít ngọt? Amsterdam có cửa hàng McDonald không? Thành phố Mexico có quán Taco Bell không? Có nơi nào ở thành Rome bán bánh bao Chef Boyardee không? Những khách du lịch bình thường khác thường mong đợi được khám phá các loại rượu vang địa phương hảo hạng, còn độc giả của Macon thì chỉ muốn tìm kiếm sữa tiệt trùng thanh khiết.
Ghét đi du lịch bao nhiêu, anh lại thích viết bấy nhiêu - trong niềm khoái cảm đầy tự hào, anh sắp xếp lại các miền đất hỗn độn, gạt bỏ những thứ không cần thiết và những cái hạng hai, phân loại những thư còn lại trong các đoạn viết mạch lạc và súc tích. Anh đạo từ các cuốn sách hướng dẫn khác, chộp lấy một vài ý cốt lối có giá trị và loại bỏ phần còn lại. Anh thích thú bỏ ra hàng giờ cần mẫn với những dấu chấm câu. Một cách chính đáng và tàn nhẫn, anh trừ khử hết thảy thể bị động. Cái nỗ lực gõ liên hồi vào máy đánh chữ khiến khóe môi của anh trễ xuống, thế nên chẳng ai có thể đoán được anh đang thích thú công việc này đến đâu. Tôi thật vui khi nói rằng, những ngón tay anh mổ vào bàn phím, nhưng nét mặt thì vẫn căng thẳng và cau có. Tôi thật vui khi nói rằng giờ đã có thể mua gà rán Kentucky ở Stockholm. Cả bánh mì pita nữa, anh thêm vào ý nghĩ vừa mới nảy ra đó. Anh không biết chắc nó đã xảy ra theo cách nào, nhưng gần đây bánh mì pita dường như đã mang chất Mỹ ngang bằng xúc xích.
❀ ❀ ❀
“Đương nhiên anh có thể xoay sở được,” em gái anh nói qua điện thoại. “Em có nói anh không làm được đâu? Nhưng ít ra anh cũng cho bọn em biết chứ. Ba tuần rồi cơ đấy! Chị Sarah đã bỏ đi được ba tuần mà mãi đến hôm nay em mới nghe nói. Mà cũng chỉ là tình cờ nữa chứ. Nếu em không bảo muốn nói chuyện với chị Sarah, liệu anh có bao giờ cho bọn em biết chị ấy đã bỏ anh không?”
“Cô ấy không bỏ anh,” Macon lên tiếng. “Ý anh là không phải như em nghĩ đâu. Bọn anh đã bàn bạc như những người lớn với nhau rồi quyết định chia tay, vậy thôi. Điều cuối cùng anh cần là người thân của anh vây quanh anh và bảo, ‘Ôi, thật tội nghiệp cho Macon, làm thế nào mà Sarah có thể đối xử như vậy...’ ”
“Tại sao em phải nói vậy?” Rose hỏi. “Ai cũng biết thật khó sống với những người đàn ông nhà Leary mà.”
“Ồ,” Macon nói.
“Giờ chị ấy ở đâu?”
“Cô ấy thuê nhà dưới phố,” anh nói. “Mà này,” anh nói thêm, “em cũng không việc gì phải thương cảm và rồi đến kêu cô ấy đi ăn tối hay gì gì đó. Cô ấy có gia đình của mình. Anh tưởng trong chuyện này em đứng về phe anh.”
“Em tưởng anh không muốn bọn em đứng về phe nào cả.” “Không, không, anh không nghĩ vậy. Ý anh là em không nên đứng về phe cô ấy, đó chính là lời anh muốn nói.”
“Khi vợ chồng Charles ly dị,” Rose nói, “Giáng sinh nào bọn em cũng đến đưa chị ấy đi ăn tối, như đã luôn như vậy. Nhớ không?” “Anh nhớ,” Macon uể oải nói. Charles là anh cả của họ.
“Em cho là chị ấy vẫn sẽ đến, nếu như chưa lấy chồng xa.” “Cái gì? Nếu chồng chị ấy là người khu Baltimore, thì em cũng tiếp tục đi mời cả hai người chắc?”
Chị ấy và vợ Porter và Sarah thường ngồi trong bếp - ấy là cái dạo trước khi vợ chồng Porter ly hôn - và họ liên tục nói về đàn ông nhà Leary. Ồ, nào là đàn ông nhà Leary thì như thế này, nào là đàn ông nhà Leary thì như thế kia: làm sao mà họ cứ phải bắt mọi thứ trật tự ngăn nắp, cứ phải lường trước mọi thứ, cứ phải kiểm soát chặt chẽ thế giới như thể họ thật sự nghĩ rằng họ có thể khiến nó nằm im trong trật tự vậy. Ôi đàn ông nhà Leary! Em vẫn còn có thể nghe thấy họ nói. Em phải bật cười: Vào một ngày lễ Tạ ơn nọ, Porter và June đang chuẩn bị đi, hồi bọn trẻ nhà họ vẫn còn nhỏ ấy, June đang bế đứa bé tiến ra phía cửa còn Danny đang bám riết vào áo mẹ với cả đống đồ chơi và các thư lỉnh kỉnh khác thì Porter la to, ‘Dừng lại!’ rồi bắt đầu đọc to một trong những tờ hóa đơn thanh toán mà ở đó anh ấy luôn liệt kê các thứ như: chai lọ, mền, sữa bột lấy từ tủ lạnh, tã giấy... June chỉ liếc nhìn hai đưa bé và đảo tròn mắt thôi.”
“Ồ, đó đâu phải là một ý tệ lắm,” Macon nói, “khi em nghĩ cho June.”
“Không, và anh cũng phải để ý là danh sách đó được viết theo thứ tự alphabet,” Rose nói. “Em thì em nghĩ đặt theo alphabet có thể giúp sắp xếp mọi thứ chút đỉnh.”
Rose có một căn bếp trong đó mọi thứ được sắp xếp hoàn toàn theo một trật tự alphabet - tiêu sọ có thể được tìm thấy ngay cạnh thuốc diệt kiến. Cô đúng là người thích hợp để nói về những người đàn ông nhà Leary.
“Dù gì,” cô nói. “Từ hôm đi đến giờ, chị Sarah có về nhà chứ?”
Cô ấy có về một hai bận. Thật ra là một,” Macon nói. Chỉ để lấy ít đồ cần đến.”
“Đồ gì?”
“À, cái nồi đun đôi. Những thứ tương tự như thế.”
"Vậy thì chỉ là cái có thôi,” Rose nói nhanh. “Chị ấy có thể mua cái ấy ở của hàng bán đồ rẻ tiền nào chả được.”
“Cô ấy bảo thích cái cũ.”
“Chị ấy chỉ muốn kiểm tra xem anh sống thế nào thôi. Chị ấy vẫn còn quan tâm đấy. Anh có trò chuyện gì không?”
“Không,” Macon nói, “anh chỉ đưa cô ấy chiếc nồi. Và cả cái khui nút chai nữa.”
“Ôi, Macon. Lẽ ra anh nên bảo chị ấy vào nhà.”
“Anh sợ cô ấy từ chối,” anh nói.
Họ im lặng. Cuối cùng Rose nói, “Vậy đấy. Sao cũng được.” “Nhưng anh đang ổn cả mà!”
“Ừ, đương nhiên là thế,” cô bảo.
Rồi cô bảo đang nướng gì đó trong lò và gác máy.
Macon đến bên cửa sổ phòng làm việc. Ấy là một ngày đầu tháng Bảy nắng nóng, bầu trời xanh đến độ khiến anh chói mắt. Anh áp sát trán vào kính và nhìn ra vườn, tay đút vào hai túi sau của chiếc quần ka ki. Tít trên cao một cầy sồi, có chú chim hót điệu giống như ba nốt nhạc dạo trong bài hát “My little gypsy sweetheart”. “Ngủ... ngoan... nào,” nó như hót vậy. Macon tự hỏi liệu chăng một ngày nào đó, ngay cả giây phút này cũng sẽ trở thành một điều gì đấy mà anh nhìn lại với bao tiêc nuối. Anh không thể hình dung được; suốt cả đời mình anh không thể nghĩ được lúc nào lòng anh trống trải hơn lúc này,
nhưng anh nhận thấy thời gian có cách khiến mọi vật trở nên đầy màu sắc như thế nào. Chẳng hạn như chú chim kia có một giọng hót thật trong veo, ngọt ngào, lảnh lói.
Anh quay vào, phủ chiếc máy đánh chữ lại, và ra khỏi phòng. ❀ ❀ ❀
Anh đã không còn ăn uống theo đúng nghĩa nữa. Thấy đói thì uống một cốc sữa, hoặc xúc một chút kem từ trong hộp. Chỉ ăn qua loa như vậy thôi nhưng anh lại thấy mình no căng và nặng nề, tuy vậy sáng dậy mặc quần áo vào anh lại thấy mình dường như gầy đi. Cái cổ áo sơ mi không còn khít cổ anh nữa. Nhân trung hõm vào khiến anh thấy thật khó cạo chỗ ria ấy. Còn mái tóc của anh - mái tóc trước đây Sarah thường cắt cho anh - xìa ra trước trán như một cái giá. Và cái gì đó đã khiến mi dưới của anh chảy xệ. Anh vốn có đôi mắt nhỏ màu xám; giờ đây đôi mắt ấy lồi ra và mang vẻ thảng thốt. Phải chăng đó là dấu hiệu của sự thiếu dưỡng chất?
Bữa sáng: Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất. Anh đặt bình pha cà phê và chảo rán điện bên cạnh chiếc radio có đồng hồ điện tử trên bậu cửa sổ phòng ngủ. Cứ như anh đang muốn để đồ ăn nhiễm độc, để mặc hai quả trứng sống cả đêm ở nhiệt độ phòng, nhưng một khi anh đổi thực đơn thì chẳng có bất trắc gì xảy ra cả. Con người ta phải thích nghi trong mọi hoàn cảnh mà. Giờ anh được đánh thức hẳn bởi mùi cà phê mới và món bắp chiên bơ nóng hổi, và anh có thể chén sạch cả hai món kia mà không cần phải ra khỏi giường. Ồ, anh đã có thể xoay xở tốt, rất tốt. Mọi thứ đều tốt đẹp cả.
Nhưng ban đêm thì thật kinh khủng với anh.
Không phải anh gặp rắc rối trong chuyện đi vào giấc ngủ. Dễ lắm. Anh xem ti vi cho đến khi hai mắt rát lại; rồi anh leo lên lầu. Lại vặn vòi hoa sen, rồi cho đồ bẩn vào bồn tắm. Đôi khi anh nghĩ đến việc bỏ qua thủ tục này, ngoại trừ điều đó có nguy cơ khiến anh rớt lại đằng sau cái trật tự do mình tạo ra ấy. Thế nên anh thực hiện từng bước một: treo đồ đã giặt, chuẩn bị thức ăn sáng, làm sạch răng bằng chỉ nha khoa - anh không thể nào đi ngủ mà không làm việc đó. Chẳng rõ vì lý do gì mà Sarah thấy phát cáu với thói quen này của anh. Nếu Macon bị kết án tử hình, đã có lần cô nói thế, và họ bảo anh sẽ bị đem xử bắn vào lúc bình minh, thể nào đêm hôm ấy anh cũng vẫn miệt mài ngồi làm sạch răng cho mà xem. Macon, sau khi nghĩ chín ra, cũng gật đầu đồng tình. Ừ, chắc sẽ như thế thật. Liệu anh có chà răng trong khi vùi mình trong căn bệnh viêm phổi? Hay vật vã với bệnh sỏi mật trong bệnh viện? Hay tại nhà trọ dành cho khách đi đường trong cái đêm con trai anh bị giết? Anh soi răng mình trong gương. Chúng chưa bao giờ hoàn toàn trắng sáng, dù cho anh đã bỏ ra bao công sức chùi chà. Và giờ đây dường như làn da anh cũng bắt đầu hơi ngả sang vàng.
Anh tắt đèn, dịch con mèo sang một bên, đỡ con chó lên giường. Ấy là một giống chó xứ Wales, chân cực ngắn, nhưng lại cứ thích ngủ trên giường, do vậy mà tối nào nó cũng đứng thẳng lên, tựa chân trước lên giường nhìn Macon cầu khẩn cho đến khi anh đỡ nó lên giường mới thôi. Rồi cả ba đều yên vị. Macon trườn vào cái bao của anh, con mèo cuộn mình ấm áp ngay dưới cánh tay anh, còn con chó thì phóc đến cuối giường gần chân anh. Rồi Macon nhắm mắt lại và chìm vào giấc ngủ.
Vậy mà rốt cuộc anh lại thấy mình tỉnh như sáo với những giấc mơ - không phải chịu đựng chúng mà là dựng chúng lên một cách tẻ
nhạt, mổ xẻ chúng đến từng chi tiết. Khi anh nhận thấy mình tỉnh giấc, anh mở mắt và liếc nhìn chiếc radio. Nhưng mới có một giờ sáng. Muộn nhất là hai giờ. Thế là vẫn còn trằn trọc nhiều giờ nữa mới đến sáng.
Đâu anh ong lên với những âu lo nhỏ nhặt. Có khi nào anh quên khóa cửa sau không nhỉ? Hay anh đã viết séc cho khoản nợ ngân hàng thay vì hóa đơn tiền ga? Anh sực nhớ mình đã mở hộp nước trái cây V8 và rồi đặt chiếc hộp vào ngăn đá. Các chỗ riềm kim loại sẽ bị ô xy hóa! Thể nào cũng nhiễm độc chì cho xem!
Những âu lo kiểu thế mỗi lúc một tăng lên. Anh tự hồi đã có gì sai lầm trong cuộc hôn nhân của hai người. Sarah là mối tình đầu tiên và cũng là duy nhất của anh; giờ đây anh lại nghĩ lẽ ra mình nên thực hành trước với ai đó đã. Trong cái quãng hai mươi năm chồng vợ ấy đã có những khoảnh khắc - những ngày tháng - anh cảm thấy họ không là một thể thống nhất như vẫn thường thấy ở các đôi vợ chồng khác. Đúng thế đấy, họ đã luôn là hai thực thể khác biệt, thậm chí bạn bè cũng không phải. Lại có những lúc họ giống như hai địch thủ đang gờm nhau, đua tranh xem lối sống của ai tốt hơn. Là Sarah, bừa bãi và dễ lung lay? Hay là Macon, ngăn nắp và kiên định?
Khi Ethan ra đời, nó chỉ mang lại thêm nhiều khác biệt giữa ba mẹ nó. Những điều họ đã cố lờ đi nay lại hiện lên mồn một. Sarah chẳng bao giờ đặt con trai vào một nề nếp nào cả, không nghiêm và cứ để mặc kệ. Còn Macon (ồ, anh biết điều đó, anh thừa nhận điều đó) lại quá chú ý đến việc lường trước cho cu cậu mọi tình huống có thể xảy ra đến độ anh chẳng còn chút thời gian nào để vui chơi cùng con. Ethan lên hai, rồi lên bốn - tất cả hiện lên trước mặt anh như một cuốn phim màu được chiếu lên trần nhà phòng ngủ. Cu cậu lúc nào cũng cười như nắc nẻ với Macon mỗi khi anh khom người xuống siết
chặt lấy tay nó. Năm nó lên sáu, Macon đã rất quyết liệt trong việc dạy cậu vợt bóng; anh hẳn sẽ cảm thấy hết sức khổ sở nếu Ethan là người cuối cùng được chọn vào bất cứ đội nào. “Tại sao?” Sarah hỏi. “Nếu nó được chọn cuối cùng, thì nó được chọn cuối cùng. Sao anh không cứ để mọi chuyện xảy ra tự nhiên đi.” Cứ để vậy! Cuộc đời có quá nhiều điều ta không thể làm gì được; ta phải cố làm những gì có thể. Cô cười to khi Macon bỏ ra cả một mùa thu để góp nhặt Wacky Pack* bên trong có những tấm nhãn dính có hình Ethan thích để dán lên cửa phòng ngủ của nó. Macon dám cá là không đưa nào ở khối lớp ba có thể có nhiều thứ ấy hơn nó. Mãi rất lâu sau khi Ethan không còn hứng thú với cái trò đó nữa, Macon vẫn tiếp tục kiên trì mang thứ nhãn dính ấy về nhà. Macon biết mình đang làm một việc ngớ ngẩn, nhưng vẫn còn có những cái nhãn mà cha con anh chưa sưu tầm được...
Wacky Pack: Những tấm card thương mại mô tả nét nổi bật của các sản phẩm tiêu dùng vùng Bắc Mỹ do công ty Topps sản xuất lần đầu vào năm 1967, thường ở dạng nhãn dính.
Mười hai tuổi, Ethan đi cắm trại xa nhà - cách đây một năm, gần như tròn trặn. Bọn con trai hầu như đều đi cả, nhưng Macon lại lần lữa. Có con để làm gì, anh hỏi Sarah, khi mà em chỉ chực gửi nó đến một chỗ khỉ ho cò gáy nào đó ở Virginia? Cái lúc mà rốt cuộc anh cũng chịu thua, Ethan đã là đứa nổi bật trong nhóm bạn cùng lứa - một cậu con trai cao ráo tóc vàng với nét mặt thân thiện và cởi mở, có thói quen đáng yêu là nhịp nhịp các ngón chân mỗi khi thấy căng thẳng.
Đừng nghĩ về điều ấy.
Cậu đã bị giết tại tiệm bánh Burger Bonanza vào đêm cắm trại thứ hai. Ấy là một trong những cái chết không gây đau đớn gì cả - cái
lối cướp của mà tên cướp sau khi lấy xong tiền và đã chực bước đi thì bỗng thấy tốt hơn nên nã vào sọ mỗi nạn nhân một phát đạn cho xong.
Thậm chí chẳng ai nghĩ Ethan lại ở đó. Cậu đã luồn ra khỏi khu vực cắm trại với một cậu bạn cùng lều, đứa lúc ấy đang đứng canh chừng bên ngoài.
Chỗ cắm trại thật đáng trách vì không có giám sát gì cả. Burger Bonanza thật đáng trách vì an ninh lỏng lẻo. Cậu bạn cùng lều kia thật đáng trách vì không chịu vào cùng luôn và biết đâu có thể thay đổi việc đã xảy ra. (Canh chừng cái gì cơ chứ, lạy Chúa?) Sarah thật đáng trách vì đã để Ethan ra khỏi nhà; Macon thật đáng trách vì đã đồng ý; Ethan cũng thật đáng trách (vâng, khỉ thật!). Ethan thật đáng trách vì đã muốn tham gia cái hội trại đó và vì đã lẻn ra khỏi trại, và vì đã vào Burger Bonanza như một tên ngốc gàn dở khi một vụ cướp của đang diễn ra. Cậu thật đáng trách vì đã ngoan ngoãn cùng với những người khác đi vào nhà bếp, vì đã đặt hai tay áp sát tường khi được bảo làm thế, và thế nào cũng khẽ nhịp các ngón chân...
Đừng nghĩ về điều ấy.
Người quản lý trại, vì không muốn báo tin dữ qua điện thoại, đã đích thân lái xe đến Baltimore cho họ biết việc xảy ra. Rồi lái ngược về Virginia. Macon thường hồi tưởng lại cái ông quản lý đó. Tên ông ta là Jim, Jim Robinson hay có thể là Roberton - một người đàn ông lực lưỡng, có ria mép màu sáng, với mái tóc húi cua, mặc một chiếc áo bành tô, bên trong là áo phông hiệu Redskins. Ông ta dường như thấy kém thoải mái khi không ai nói gì nên đã cố hết sức khỏa lấp sự im lặng bằng những mẩu chuyện rời rạc chắp nối. Macon đã không nghe, hoặc giả anh nghĩ rằng anh đã không nghe; nhưng giờ đây những mẩu chuyện không đầu đuôi đó lại kéo nhau về. Nào là bà mẹ
của Jim đã là một người Baltimore ra sao, Jim đã chịu đựng cái năm Babe Ruth chơi cho đội Orioles như thế nào. Nào là cái đám cà chua của Jim ỏng eo ra sao, chúng chỉ cho ra toàn những quả bé tẹo rớt khỏi cành trước khi kịp chín. Nào là vợ Jim rất sợ phải lùi xe và luôn cố tránh các tình huống đòi hỏi phải vào số lùi thế nào. Giờ đây, nằm trên giường, Macon miên man suy nghĩ về điều ấy. Liệu có ai có thể lái xe mà không bao giờ phải cài số lùi không nhỉ? Vậy chỗ các ngả ba, ngả tư thì sao, ở những chỗ mà mấy bác xe buýt cứ chực thò đầu ra cửa sổ réo mình lùi xe lại một chút để mấy bác có thể rẽ trái hay phải. Chẳng lẽ cô ta không chịu à? Macon hình dung cô ta im lặng, thách thức, một mực nhìn về phía trước và giả vờ như chẳng nghe thấy gì cả. Thế là bác xe buýt nọ bật ra câu chửi thề, rồi nhấn còi inh ỏi, rồi những lái xe khác thì la ó, “Này, cô kia!” Một hình ảnh thật thú vị. Macon cứ giữ riết hình ảnh ấy trong đầu.
Rốt cuộc anh ngồi dậy và luồn ra khỏi cái bao của mình. Con chó, thở dài, tỉnh ngủ hẳn và vọt xuống giường, thẽ thọt xuống lầu sau ông chủ. Ván sàn mát rượi dưới chân, vải sơn lót nhà bếp lại còn mát lạnh hơn; một dòng sáng phát ra từ tủ lạnh khi Macon rót cho mình một ly sữa. Anh đi lên phòng khách và bật vô tuyến. Ti vi đang chiếu một bộ phim đen trắng gì đấy - đàn ông vận com lê và mũ nỉ, phụ nữ áo tay bồng. Anh không cố theo dõi cốt truyện. Anh chậm rãi nhấp từng ngụm sữa nhỏ, cảm thấy dòng can xi như tan chảy nhanh vào xương. Có phải anh đã đọc đâu đó rằng can xi có thể giúp trị chứng mất ngủ? Anh lơ đãng vuốt ve con mèo không biết bằng cách nào đã trườn vào nằm trong lòng anh từ bao giờ. Thật quá nóng nực khi để một con mèo nằm trong lòng như thế, nhất là con mèo này - một con mèo cái rậm rạp lông xám như thể làm từ một thứ chất liệu gì đó dày một cách bất thường. Và con chó thì cũng lại đang nằm ngay dưới
chân anh. “Chỉ còn lại tao và tụi mày thôi, bạn thân mến.” Macon bảo chúng thế. Con mèo liếm một vệt hình dấu phảy ngang qua bắp đùi trần của anh.
Sau cùng anh tuồn ra khỏi hai con vật và tắt ti vi. Anh cho ly vào bồn nước rửa chén trong nhà bếp đã pha chất tẩy clo. Rồi leo lên lầu. Anh đứng cạnh cửa sổ phòng ngủ nhìn quanh quất sang nhà hàng xóm - những nhánh cây đen kịt ngoằn ngoèo trên nền trời đêm tím sẫm, đây đó lấp lóa một tấm che bằng ván trắng, đôi khi là một ánh đèn. Macon luôn cảm thấy dễ chịu khi phát hiện ra một ánh đèn. Anh cho rằng có ai đó cũng mất ngủ như anh. Anh không thích nghĩ đến bất kỳ khả năng nào khác - một bữa tiệc chẳng hạn, hay tâm sự giữa những người bạn cũ lâu ngày gặp. Anh thích nghĩ đến khả năng người kia cũng như anh, đang ngồi tỉnh như sáo có gạt những suy nghĩ ra khỏi đầu. Như vậy khiến anh dễ chịu hơn rất nhiều. Anh quay về giường. Đặt mình xuống. Nhắm mắt lại và thậm chí chẳng cần cố gắng gì, anh trôi ngay vào giấc ngủ.
Chương 3
Sarah gọi điện hỏi Macon liệu cô có thể về nhà lấy tấm thảm xanh hải quân trong phòng ăn không.
“Thảm xanh hải quân,” Macon lặp lại. (Anh đang đánh trống lảng để câu giờ.)
“Em không định lấy nó đâu, nhưng tại vì anh chẳng bao giờ thích tấm thảm ấy,” Sarah bảo. “Anh nói trải thảm phòng ăn là sai lầm.” Đúng thế thật, anh đã từng nói như vậy. Một thứ chỉ tổ bám bụi, anh đã bảo thế. Mất vệ sinh. Thế thì có sao đột nhiên trong anh lại cuộn lên mong muốn giữ lại tấm thảm ấy?
“Macon, anh còn đó không?”
“Anh đây.”
“Vậy em tới lấy nhé, anh không phiền chứ?”
“Không, chắc là không.”
“Ồ, vậy được rồi. Căn hộ của em sàn nhà vẫn chưa có thảm trải và anh không biết là...”
Cô sẽ ghé qua lấy tấm thảm ấy, và anh sẽ đón cô vào. Anh sẽ mang cho cô một cốc rượu sherry. Hai người sẽ ngồi trên trường kỷ với cốc sherry của mình và anh sẽ nói, Sarah à, em có nhớ anh không?” À không, anh sẽ nói, “Anh nhớ em, Sarah à.”
Cô sẽ nói...
Cô lên tiếng, “Em nghĩ nếu tiện sáng Chủ nhật em sẽ ghé qua.” Thế nhưng người ta chẳng ai lại uống sherry vào buổi sáng.
Và hơn thế nữa: Hôm ấy anh không có nhà. “Chiều mai anh bay sang Anh,” anh bảo.
“Ồ, lại đến lúc đi Anh nữa rồi à?”
“Hay là em về tối nay?”
“Không được, xe em đang sửa.”
“Xe em? Hỏng gì?”
“À, em đang lái và... anh có biết cái đèn đỏ nhỏ xíu bên phải bảng đồng hồ xe không?”
“Cái gì, đèn báo áp suất dầu hả?”
“Ừ, em cũng nghĩ vậy. Vậy đấy, em sẽ muộn giờ hẹn với bác sĩ răng nếu kiểm tra xem nó thế nào và dù sao thì cái xe có vẻ chạy rất ổn, thế nên...”
“Gượm đã. Có phải em nói là cái đèn đó sáng lên? Nhưng rồi em vẫn cứ thế cho xe chạy?”
“À, tiếng xe không có gì khác, cách nó chạy cũng vẫn bình thường, thế nên em nghĩ...”
“Chúa ơi, Sarah.”
“Như thế có gì tệ lắm sao?”
“Có thể em đã làm hỏng động cơ rồi đấy.”
“Không đâu, em không làm hỏng động cơ như anh nói đâu. Em chỉ phải mang nó đi sửa chút thôi, không may lại mất vài ngày mới xong. Ồ, không sao đâu. Em có chìa khóa nhà mà. Em sẽ tự mở cửa vào khi ghé qua vào thứ Bảy.”
“Hay là để anh mang tấm thảm qua cho em.”
“Thứ Bảy em sẽ qua lấy.”
“Để anh xem căn hộ của em thế nào,” Macon nói. “Anh chưa vào trong lần nào, em biết rồi đấy.”
“Không được, em chưa dọn dẹp ngăn nắp.”
“Anh không quan tâm đến điều đó đâu.”
“Lộn xộn lắm. Em chưa mó tay vào việc gì.”
“Làm thế nào mà như thế được chứ? Em đã ở đó hơn một tháng rồi còn gì.”
“À, em đâu phải là người có năng lực cực kỳ xuất sắc như anh, Macon.”
“Em không cần phải có năng lực để...”
“Có những hôm,” Sarah nói, “thậm chí em tìm mãi không thấy áo choàng tắm đâu nữa kia.”
Macon im lặng.
“Lẽ ra em nên nhận dạy hè,” Sarah nói. “Có việc gì đó để làm nhiều khi lại tốt hơn. Mỗi sáng em thức dậy, mở to mắt và nghĩ, 'Sao lại phải dậy nhỉ?’ ”
“Anh cũng thế,” Macon nói.
“Sao lại phải ăn? Sao lại phải hít thở?”
“Em yêu, anh cũng như vậy.”
“Macon à, anh có cho rằng cái người đó cũng có suy nghĩ không? Em muốn xông thẳng vào nhà tù để nhìn cho tận mặt hắn, Macon à. Em muốn ngồi bên ngoài song sắt, hay khung lưới hay bất kể là cái gì và em sẽ nói, ‘Nhìn vào tao đây này. Nhìn đi. Nhìn vào những gì mày gây ra đây này. Mày không chỉ giết chết những người mày bắn hôm ấy; mày còn giết cả những người khác nữa. Hậu quả của những gì mày làm sẽ không bao giờ kết thúc. Mày không chỉ giết
chết con trai tao; mày còn giết cả tao; cả chồng tao. Tao thậm chí còn không thể kéo nổi cái rèm cửa nữa; mày có hiểu những gì mày gây ra không hả?’ Khi đã biết chắc rằng hắn đã thật sự nhận ra, rằng hắn cảm thấy việc hắn làm thật kinh khủng, em sẽ mở ví, rút súng ra, và nhắm vào giữa trán hắn mà bóp cò.”
“Ồ, em yêu...”
“Anh nghĩ em chỉ nói vậy cho hả thôi chứ gì. Nhưng Macon, em thề đấy, em có thể cảm thấy cái giật nhẹ của báng súng vào lòng bàn tay khi em bóp cò. Trong đời mình em chưa một lần bắn súng – Thề có Chúa, em chưa từng thấy súng. Điều đó chẳng phải là kỳ quặc lắm sao? Ethan đã thấy súng; Ethan đã có một trải nghiệm mà cả anh và em đều không hề có một ý niệm nào. Nhưng đôi khi em giơ tay ra, ngón tay cái vống lên giống như bọn trẻ chơi trò cao bồi, và ngón tay trỏ hơi cong lại, em thầy trong lòng dâng lên một cảm giác thỏa mãn.” “Sarah, em nói thế anh thấy không ổn chút nào.”
“Hả? Thế anh bảo em phải nói sao bây giờ?”
“Ý anh là nếu em cứ giữ sự căm giận trong người mãi như thế em sẽ... quỵ mất. Em sẽ tự thiêu cháy mình mất thôi, bằng ngọn lửa căm hờn đó. Chẳng lợi lộc gì.”
“Lợi lộc! Trời ơi, không phải chứ, đừng phí hoài thời gian vào bất cứ thứ gì không mang lai lợi lộc.
Macon xoa xoa trán. Anh nói, “Sarah, anh chỉ cám thấy chúng mình không đủ sức để đắm chìm mãi trong những suy nghĩ kiểu ấy.” “Anh nói thật dễ.”
“Quái quỷ! Không dễ dàng gì...”
“Cứ đóng cửa lại, Macon, cứ đi đi. Cứ giả vờ như chưa hề có gì xảy ra. Hãy đi mà sắp xếp lại cái đống dụng cụ của anh đi, sao lại
không chứ; hãy cứ cố xoay chuyển cái tồi tệ nhất thành điều nhẹ nhàng nhất, thay vì từ điều nhẹ nhàng nhất đến cái tồi tệ nhất; thế mới vui.”
“Mẹ kiếp, Sarah, em...”
“Không phải anh đang chửi thề vào mặt em đấy chứ, Macon Leary!”
Họ im lặng một lúc.
Macon lên tiếng trước, “Được.”
Sarah bảo, “Ừm, sao cũng được.”
“Em cứ về nhà trong lúc anh đi vắng,” anh nói.
“Nếu được.”
“Hẳn rồi,” anh bảo thế mặc dù khi gác ống nghe xuống anh có cảm giác khó chịu không lý giải nổi, như thể anh đã để cho một kẻ xa lạ vào nhà mình. Như thể cô về sẽ khuân đi nhiều thứ khác nữa chứ không chỉ mỗi tấm thảm nơi phòng ăn.
❀ ❀ ❀
Chuẩn bị cho chuyến đi Anh, Macon chọn bộ đồ khiến anh thấy thoải mái nhất. Một bộ là đủ, anh đã viết như thế trong những cuốn sách hướng dẫn du lịch của mình, nếu bạn đem theo chất tẩy đựng trong các gói cỡ nhỏ dành cho du lịch. (Macon biết tất tần tật mọi thứ người ta có thể cho vào các gói nhỏ kiểu như vậy, từ chai nước thơm khử mùi cho đến hộp xi giày.) Nên mặc bộ đồ hơi xám. Màu như vậy không những lâu bẩn, mà còn rất tiện khi ngộ nhỡ phải dự một đám tang bất ngờ, hay phòng khi phải tham gia những sự kiên
trọng đại. Và màu ấy cũng không quá sẫm, thế nên có thể mặc thường ngày được.
Anh cho vào va li số quần áo ít nhất có thể và một bộ dao cạo râu. Một cuốn sách anh viết gần đây về những chỉ dẫn khi đi du lịch ở Anh. Một cuốn tiểu thuyết để đọc trên máy bay.
Hãy mang những thứ vừa vặn với cái túi có thể mang theo bên mình. Gửi và nhận hành lý chỉ tổ rước thêm phiền phức. Hãy bỏ thêm một vài gói bột giặt cỡ nhỏ dành cho du lịch vào túi, để bạn khỏi rơi vào tay những bà chủ tiệm giặt ngoại quốc.
Sau khi sắp xếp hành lý xong, anh ngồi nghỉ trên chiếc trường kỷ. Hay nói đúng ra là anh không nghỉ mà chỉ ngồi như thế để trấn tĩnh lại - giống như một người đang hít thật sâu nhiều lần để chuẩn bị cho cú lặn của mình.
Đồ đạc được sắp đặt đâu ra đó thành những đường thẳng tắp và những mép cong vui mắt. Những hạt bụi lơ lửng trong vạt nắng chiếu nghiêng. Cuộc sống của anh lúc này mới bình yên làm sao! Nếu hôm nay không phải đi Anh, nếu hôm nay là một hôm nào đấy khác, anh có thể đã đi pha một tách cà phê hòa tan rồi. Anh sẽ thả chiếc muỗng rơi tõm vào bồn rửa chén và đứng đó nhâm nhi từng ngụm cà phê trong khi con mèo cọ qua cọ lại dưới chân. Và rồi anh có thể sẽ mở hộp thư. Những việc như thế lúc này mới đáng yêu và thư thái làm sao. Thế thì anh còn ta than gì được nữa? Ở nhà mọi thứ đã ổn thỏa, anh không cần phải lo lắng gì. Chuyến đi cũng đã được chuẩn bị xong từ những thứ nhỏ nhặt nhất sau nhiều nỗ lực và cân nhắc.
Khi chỉ còn hai giờ nữa là máy bay cất cánh, anh đứng dậy. Sân bay cách nhà chừng ba mươi phút lái xe, nhưng anh không thích cảm giác vội vã. Anh đảo một vòng hết các phòng trong nhà, dừng lại
nơi phòng tắm tầng một - cái phòng tắm đích thực (theo cách nghĩ của anh) mà tuần sau anh mới được tắm trong đó. Anh huýt sáo gọi con chó. Anh xốc chiếc túi lên, và bước ra nơi cửa trước. Hơi nóng bên ngoài táp vào anh đặc quánh.
Con chó chỉ đi với anh một đoạn tới nhà bác sĩ thú y thôi. Nếu biết vậy, còn lâu nó mới chịu phốc lên xe. Ngồi bên cạnh Macon, con chó thở hào hển ra dáng hăng hái, cái bộ dạng trùng trục của nó loay hoay ra chiều mong ngóng. Macon nói với nó theo cách anh hy vọng rằng không khiến nó hoảng, “Nóng, phải không Edward. Mày muốn bật điều hòa lên không?” Anh điều chỉnh chế độ điều hòa. “Rồi đó. Dễ chịu hơn chưa?” Anh thấy có gì đó giả tạo trong giọng mình. Có lẽ Edward cũng có cảm giác như thế nên nó khựng lại và ném về phía anh ánh mắt ngờ vực thảng thốt. Macon quyết định không nói thêm gì.
Họ đi vòng vèo qua khu phố, chạy xuống những con đường rợp bóng cây. Rồi rẽ vào một khu phố nhiều nắng hơn với những cửa hiệu và dịch vụ. Khi họ đến gần đại lộ Murray, Edward bắt đầu rên ư ử. Tại bãi đậu xe của bệnh viện thú y trên đại lộ Murray, nó co rúm người lại như thể biến thành một chú chó con bé tẹo.
Macon ra khỏi xe và đi vòng ra sau để mở cửa. Khi anh nắm vòng cổ lôi nó ra, Edward bấu chặt lấy lớp da bọc ghế. Và cứ thế con Edward bị lôi đi với bốn chân cào soàn soạt xuống mặt đường bê tông bỏng nắng cho tới tận tòa nhà.
Phòng đợi không có ai. Một bể cá vàng sủi tăm nơi góc nhà, trên bể cá là một tấm áp phích sặc sỡ mô tả vòng đời của con bọ chó. Phía sau quầy, một cô gái đang ngồi trên chiếc ghế đẩu, dáng người nhỏ xíu trong chiếc áo đầm hở vai có thắt dây vòng qua cô.
“Tôi mang chó đến gửi,” Macon nói. Anh phải lên giọng để át đi tiếng rên rỉ của Edward.
Vẫn nhai kẹo cao su, cô gái đưa anh một tờ đơn in sẵn và cây bút chì. “Đã gửi ở đây lần nào chưa?” cô hỏi.
“Có, cũng thường.”
“Họ là gì?”
"Leary."
“Leary. Leary,” cô nói, lật nhanh các tấm thẻ trong hộp. Macon bắt đầu điền thông tin vào mẫu. Edward giờ đã đứng thẳng lên và bám chặt lấy đầu gối anh, trông giống như đứa bé mới biết đi sợ bị đưa vào vườn trẻ.
“Ôi chao,” cô gái nói.
Cô nhíu mày nhìn chiếc thẻ vừa mới lấy ra khỏi hộp.
“Edward?” cô nói. “Trên đường Rayford?”
“Đúng rồi.”
“Chúng tôi không nhận nó được.”
“Cái gì?”
“Có lần nó đã cắn một người phục vụ. Này, trên thẻ có ghi rõ, ‘Đã cắn vào mắt cá chân của Barry, không được nhận lần sau. ‘Có ai nói cho tôi biết đâu.”
“Ồ, lẽ ra họ phải nói rồi chứ.”
Chẳng ai nói gì cả! Vào tháng Sáu tôi đã gửi nó lại đây khi chúng tôi đi biển; tôi về và họ trao nó lại cho tôi.”
Cô gái chớp mắt nhìn anh, không biểu lộ cảm xúc gì.
“Cô trông đây này,” Macon nói. “Tôi đang trên đường tới sân bay, đến giờ rồi. Tôi phải tới đúng giờ lên máy bay.”
“Tôi chỉ làm theo lệnh thôi,” cô gái bảo.
''Vậy giờ phải làm gì với nó đây?” Macon hỏi. “Đã có ai tìm hiểu việc đó chưa? Có thể con Edward làm vậy là vì một lý do nào đó!” Cô gái lại chớp mắt. Edward giờ đã đứng xuống bằng bốn chân và nhìn lên với vẻ hóng hớt, như đang dõi theo cuộc nói chuyện. “Ôi chết tiệt,” Macon nói. “Thôi đi nào, Edward.”
Giờ thì anh không cần phải lôi cổ nó đi như lúc vào nữa. Edward chạy chồm về phía trước phóng thẳng tới bãi đậu xe. Chỉ có một lúc mà nhiệt độ trong xe tăng lên như trong lò nung. Macon mở cửa kính và ngồi im đó, không khởi động xe. Làm thế nào bây giờ? Anh nghĩ đến việc tới gửi nhà em gái, nhưng có lẽ cô cũng không chịu nhận Edward. Thật ra, đây không phải lần đầu tiên anh nghe phàn nàn về Edward. Nói đâu xa, mới tuần rồi, anh trai Macon - Charles - tạt qua mượn cái bào soi, và Edward lao ra như tên bắn làm một vòng ngoạn mục quanh chân anh, nhay lấy nhay để gấu quần anh. Charles kinh ngạc đến độ chỉ biết từ từ ngoái đầu lại đằng sau và nói như hụt hơi, “Cái gì khiến nó dở chứng ra như thế hả? anh hỏi. Trước đây có bao giờ nó cư xử vậy đâu chứ.” Và rồi khi Macon chộp lấy vòng cổ nó, Edward đã gừ lên. Nó xếch hai mép trên lên và gừ. Lẽ nào chó cũng có chuyện suy sụp tinh thần sao? Macon không mấy thân thiện với lũ chó. Anh thích mèo hơn. Anh thích cái cách lũ mèo trầm ngâm tư lự. Chỉ gần đây Macon mới để ý đến Edward. Giờ thì anh quá cô đơn, thế nên bắt đầu trò chuyện huyên thuyên với nó, hay có lúc anh chỉ ngồi ngắm nó thôi. Anh ngưỡng mộ đôi mắt xám thông minh và nét mặt hao hao mặt cáo của
nó. Anh ngắm nghía những lọn lông xoắn màu mật ong ánh lên hai bên sống mũi của nó. Và cái dáng đi của nó nữa chứ! Trước đây Ethan hay nói rằng Eward đi như thể trong bộ da của nó chứa toàn là cát vậy. Nó ngoáy mông không ngớt; bốn cái chân ngắn mập thì trông như được xếp đều đặn hơn bất cứ chân của con chó cao nào.
Giờ Macon đang lái xe về nhà, vì chẳng nghĩ ra được ý tưởng khả dĩ nào cho Edward. Anh tự hỏi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu anh để Edward ở nhà như cái cách anh vẫn thường làm với con mèo, để sẵn nhiều đồ ăn và nước uống. Không được. Hay là liệu Sarah có thể đến trông chừng nó ngày vài ba bận gì đấy không nhỉ? Anh vội gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu; điều đó có nghĩa là phải nhờ vả đến cô. Có nghĩa là phải quay cái số điện thoại mà lâu nay anh không hề dùng tới để nhờ cô giúp đỡ.
Trông thấy biển hiệu BỆNH VIỆN THÚ Y MEOW-BOW, Macon nhấn phanh, con Edward nảy chồm về phía trước. “Xin lỗi mày,” Macon nói với nó. Anh cua trái vào bãi đỗ xe.
Phòng đợi nồng nặc mùi tẩy uế. Đứng phía sau quầy là một phụ nữ trẻ gầy gò khoác chiếc áo blouse có diềm đăng ten nơi cô. Tóc cô màu đen được uốn xoăn, và dày đến độ phủ xuống hai bên vai trông như chiếc khăn trùm đầu của người Ả rập. “Xin chào,” cô nói với Macon.
Macon hỏi, “Ở đây có nhận gửi chó không?”
“Có chứ.”
“Tôi muốn gửi con Edward lại đây.”
Cô chồm người qua quầy để trông Edward cho rõ. Edward nhìn lên hí hửng ra mặt. Rõ ràng là nó không ý thức được mình đang ở chỗ nào.
“Anh có đăng ký trước không?” người phụ nữ hỏi Macon. “Đăng ký trước? Không.”
“Hầu như ai cũng đăng ký trước cả.”
“Ồ, tôi đâu có biết.”
“Đặc biệt là trong mùa hè thế này.”
“Không thể có ngoại lệ được sao cô?”
Cô ngẫm nghĩ, nhíu mày nhìn Edward. Cô có đôi mắt nhỏ tí hệt như quả caraway*, khuôn mặt thì sắc nét và nhợt nhạt. Caraway hay còn gọi là carum, xuất xứ ở châu Âu và Tây Á. Giống như cây cà rốt, quả (hay bị gọi nhầm là hạt) có hình trăng lưỡi liềm.
“Làm ơn đi cô,” Macon nói. “Tôi sắp bay rồi. Tôi phải đi vắng một tuần mà không ai trông coi nó cả. Nói thật với cô, tôi hết cách rồi.” Qua cái liếc nhanh của cô anh có cảm giác mình đã khiến cô ngạc nhiên. “Anh không thể để nó ở nhà cho vợ trông sao?” cô hỏi. Anh tự hỏi thế quái nào mà óc cô nàng lại nảy ra cái ý như thế. “Nếu tôi mà có thể làm vậy,” anh nói, “thì việc gì tôi phải đứng đây chứ?”
“Ồ”, cô nói. “Anh không có vợ hả?”
“À có chứ, nhưng cô ấy... đang sống nơi khác. Chỗ ấy họ không cho nuôi thú cưng.”
“Ồ.”
Cô bước ra khỏi quầy. Vận chiếc quần soóc ngắn màu đỏ, cô để lộ đôi chân khẳng khiu như hai cái que. “Tôi cũng đã ly dị,” cô nói. “Tôi hiểu cảm giác của anh.”
“Cô xem,” Macon nói, “nơi tôi vẫn thường gửi Edward đột nhiên buộc tội nó cắn người. Cắn một nhân viên phục vụ, và thế là họ không chịu nhận nó nữa.”
“Edward này? Mày có cắn không đấy?” cô hỏi.
Macon chợt thấy lẽ ra anh không nên đả động đến chuyện đó, nhưng cô dường như chẳng để tâm. “Sao mà mày có thể làm thế được chứ, nhỉ?” cô hỏi Edward. Edward lộ vẻ sung sướng, vểnh cả hai tai lên ra chiều muốn được vỗ về. Cô khom người vuốt vuốt đầu nó.
“Thế cô nhận nó chứ?” Macon hỏi.
“Ồ, chắc là được,” cô nói, giọng dứt khoát. “Nếu anh không còn cách nào khác.” Cô nhấn mạnh từ không - đôi mắt nhỏ màu nâu nhìn thẳng vào anh - như thể muốn anh thấy câu nói đó của cô nằm vượt xa mong đợi của anh. “Hãy điền vào đây,” cô bảo rồi lấy một mẫu đăng ký trên quầy đưa cho anh. “Tên của anh, địa chỉ, và ngày về. Đừng quên ghi rõ ngày anh về đấy nhé.”
Macon gật đầu, mở nắp cây bút mực.
“Có thể tôi sẽ gặp lại anh khi anh đến nhận lại con chó,” cô nói. Ý tôi là nếu anh ghi rõ thời gian anh về để tôi còn biết. Tên tôi là Muriel.” “Ở đây buổi tối có mở cửa không cô?” Macon hỏi.
“Tối nào cũng mở, trừ Chủ nhật. Mở đến tám giờ.”
“Ồ, vậy thì tốt.”
“Muriel Pritchett,” cô nói.
Macon điền vào mẫu đăng ký trong khi cô quỳ xuống bên Edward nới lỏng dây cổ cho nó. Edward liếm liếm gò má cô; hẳn là nó nghĩ cô chỉ đang tỏ ra thân thiện thôi. Thế nên khi Macon điền xong phiếu,
anh không chào tạm biệt, đặt phiếu lên quầy và bước nhanh ra ngoài, thọc tay vào túi quần để giữ chùm chìa khóa khỏi va nhau loẻng xoẻng.
❀ ❀ ❀
Trên chuyến bay đến New York, anh ngồi cạnh một người đàn ông để ria có vẻ giống người ngoại quốc. Ông ta đang nghe nhạc qua tai nghe. Thật lý tưởng: không phải trò chuyện gì. Macon ngả người ra ghế hài lòng.
Anh luôn ủng hộ việc đi lại bằng máy bay. Khi thời tiết êm ả, ta thậm chí chẳng thể biết được là ta đang di chuyển. Ta có thể vờ như đang ngồi yên ổn tại nhà. Phong cảnh bên ngoài luôn giống nhau - không khí và không khí - còn bên trong máy bay thì gần như có thể thay thế cho bất cứ nơi nào khác.
Anh không lấy bất cứ thứ gì từ chiếc xe đẩy phục vụ đồ uống, nhưng người đàn ông ngồi cạnh anh tháo tai nghe ra gọi mọt ly cocktail Bloody Mary. Một giai điệu Trung Đông rối rắm rỉ ra từ hai núm xốp màu hồng. Macon nhìn xuống chiếc máy nhỏ tí và tự hỏi liệu anh có nên mua môt chiếc không. Chẳng phải để nghe nhạc gì sất, thề có Chúa - thế giới này đã đủ ồn ã rồi - mà chỉ là để tránh nói chuyện với người khác thôi. Anh có thể gắn tai nghe vào và thế là chăng ai có thể quấy quả gì anh được. Anh có thể cho máy chạy một cái băng trống: ba mươi phút im lặng. Đảo băng lại và thêm ba mươi phút nữa.
Máy bay đáp xuống Kennedy anh lên xe buýt để chuẩn bị bay chuyến kế tiếp vào buổi tối. Khi đã yên vị ở phòng chờ, anh bắt đầu chơi trò ô chữ được cắt ra từ thời báo New York Times từ Chủ nhật
trước để dành cho dịp này. Anh ngồi như kiểu phòng thủ “ túi trên ghế bên này, áo khoác trên ghế bên kia. Người qua kẻ lại trước mặt nhưng anh vẫn dán mắt lên mẩu báo, cứ thế hoàn thành trò chơi ghép từ ngay sau khi hoàn tất trò điền từ vào ô trống. Lúc anh chơi xong cả hai trò ô chữ thì cũng vừa vặn đến giờ lên máy bay.
Người ngồi cạnh anh chuyến bay lần này là một phụ nữ tóc xám đeo kính. Bà ta mang theo chiếc chăn mỏng bằng len đan. Anh có cảm tưởng đây chẳng phải dấu hiệu tốt lành, nhưng anh đã có cách. Thoạt đầu anh ra vẻ hối hả, nới lỏng cà vạt, tháo giày và lấy ra khỏi túi một cuốn sách. Sau đó anh mở sách và với điệu bộ khoa trương anh bắt đầu đọc.
Tên cuốn sách là Miss MacIntosh, người yêu dấu dày 1.198 trang. (Hãy luôn mang theo một cuốn sách, đó là cách để bạn khỏi phải tiếp xúc với người lạ. Tạp chí chẳng ăn thua. Báo mang theo từ nhà chỉ khiến ta thêm nhớ nhà thôi, còn báo nơi khác thì lại nhắc nhở ta rằng ta chẳng thuộc về nơi ấy. Bạn biết kiểu chữ của một tờ báo từ nơi khác có vẻ lạ lẫm như thế nào rồi đấy.) Anh đã chui đầu vô Miss MacIntosh nhiều năm nay rồi. Cuốn này có cái hay là chẳng có cốt truyện gì, chỗ nào cũng thú vị cả, thế nên anh cứ đọc ngẫu nhiên bất cứ trang nào. Thỉnh thoảng anh ngước mắt lên cẩn thận đánh dấu dòng đang đọc bằng một ngón tay và thể hiện trên mặt một nét gì đó như muốn chứng tỏ cho người khác thấy rằng anh đang rất hứng thú với cuốn sách.
Như thường lệ, một giọng êm ái phát ra từ loa phóng thanh về việc thắt dây an toàn, cửa thoát hiểm, và mặt nạ ô xy. Anh thầm nghĩ sao cô tiếp viên hàng không lại cho trọng âm rơi vào những từ đó như thế. “Trên chuyến bay tối nay, chúng tôi sẽ cung cấp...” Người phụ nữ ngồi cạnh hỏi anh có muốn nhai một thanh kẹo cao su
Lifesaver không. “Không, cảm ơn chị,” Macon nói và tiếp tục cắm cúi với cuốn sách của mình. Anh nghe thấy bà ta loạt xoạt bóc vỏ kẹo, và rồi tiếp sau đó là mùi hương bạc hà thoang thoảng.
Anh không lấy ly cocktail và từ chối luôn cả khay thức ăn, chỉ lấy mỗi hộp sữa được kèm theo khay thức ăn. Anh ăn một quả táo và một chút nho khô mang theo, hút sữa, rồi vào nhà vệ sinh làm sạch răng bằng chỉ nha khoa. Khi anh trở ra, khoang máy bay đã tắt điện, đây đó rải rác những chiếc đèn đọc sách được bật lên. Một vài hành khách đã ngủ. Người phụ nữ ngồi cạnh anh cuộn tóc lại thành những hình chữ O nhỏ xinh và cố định chúng bằng kẹp xước. Macon thấy ngạc nhiên khi người ta có thể làm những điều vô ý vô tứ đến thế ở nơi đông người. Nào là những ông mặc cả pyjama lên máy bay. Lại có những bà trét lên mặt cả một lớp phấn dày. Rõ ràng họ không cảm thấy dè dặt gì cả.
Anh đặt nghiêng cuốn sách bên dưới ánh sáng tỏa nhẹ từ chiếc đèn đọc sách và lật một trang. Tiếng động cơ máy bay rì rì dai dẳng. Anh nghĩ khoảng thời gian đó là một quãng thật dài - đoạn nghỉ giữa bữa ăn khuya và bữa ăn sáng khi họ đang lơ lửng trên đại dương, đợi ánh bình minh của một ngày mới, mặc dầu tất nhiên là chẳng thể nào giống với một ngày mới ở nhà. Với Macon, buổi sáng ở những múi giờ khác giống như cảnh trí trên sân khấu - cảnh mặt trời đang mọc được vẽ trên nền tối của một tấm phông.
Anh lại ngả đầu ra thành ghế và nhắm nghiền mắt lại. Giọng cô tiếp viên hàng không đâu đó gần khoang trước máy bay, nghe tiếng được tiếng mất, lẫn vào tiếng rì rì của động cơ. “Chúng ta chỉ ngồi không và chẳng có việc gì làm; tất cả những gì chúng ta có chỉ là tờ báo thứ Tư và chúng ta biết rằng những tin tức ấy dường như chẳng phải chỉ xảy ra vào một ngày thứ Tư nào đó không thôi...”
Macon nghe thấy một giọng đàn ông đều đều bên tai. “Macon.” Nhưng anh thậm chí không quay đầu lại. Anh không lạ gì những trò trêu ngươi của âm thanh trên máy bay vào ban đêm. Dưới đôi mắt nhắm nghiền anh lại nhìn thấy cái đĩa đựng bánh xà phòng đặt trên bồn rửa chén ở nhà - lại một trò đùa nữa, tính cụ thể của hình ảnh. Ấy là một cái đĩa bằng sứ hình oval in hình những bông hồng vàng trên bề mặt, trong đĩa đựng một miếng xà phòng đã mòn vẹt và hai chiếc nhẫn của Sarah, nhẫn đính hôn và nhẫn cưới, cô đã để lại đó trước khi ra đi.
“Con đã có vé rồi,” anh nghe thấy giọng Ethan. “Họ sẽ mở cửa sau năm phút nữa.”
“Được rồi,” Macon bảo, “hãy vạch ra chiến lược đi.”
“Chiến lược?”
“Mình sẽ ngồi đâu này.”
“Tại sao mình lại cần chiến lược cho điếu ấy chứ?”
“Chính con đòi đi xem bộ phim đó mà, Ethan. Ba nghĩ con cần quan tâm đến chỗ ngồi thích hợp chứ. Kế hoạch của ba này. Con đi vòng đến hàng đó qua bên trái. Đếm thử có bao nhiêu cậu nhóc. Còn ba sẽ đi vòng sang phải.”
“Ba này...”
“Thế con có muốn ngồi gần những cậu nhóc ầm ĩ không?” “À thì không.”
“Và con chọn cái nào: một chiếc ghế ngay lối đi được không? “Con không quan tâm.”
“Ethan, ngay lối đi? Hay ở giữa hàng? Con phải có ý kiến gì đi chứ.”
“Không biết nữa.”
“Giữa hàng nhé con?”
“Có gì khác đâu chứ?”
“Ethan. Khác nhiều chứ con. Ngay lối đi, con sẽ ra ngoài nhanh hơn. Vậy nếu con có ý định đi mua bánh snack, hay đi vệ sinh thì con sẽ muốn ngồi ngay lối đi. Nhưng nếu ngồi chỗ đó người ta sẽ chen lấn ghê lắm. Vậy nếu con không nghĩ đến việc sẽ bỏ chỗ đang ngồi, thì ba đề nghị...”
“Trời ơi! Ba thật là...” Ethan nói.
“Được,” Macon nói. “Nếu con cứ như thế thì mình sẽ ngồi cái chỗ chết tiệt đó và rồi chẳng hay hớm gì đâu.”
“Được,” Ethan đáp.
“Được,” Macon nói.
Giờ thì anh xoay đầu, rồi lắc lắc. Nhưng mắt vẫn nhắm nghiền, và dần dần giọng nói kia đã không còn vẳng bên tai nữa, và anh thấy mình chìm trong thứ ánh sáng mờ mờ đó – thứ ánh sáng khiến ta dễ rơi vào giấc ngủ khi đi du lịch.
❀ ❀ ❀
Lúc rạng sáng anh có lấy một tách cà phê, và uống một viên vitamin mang theo. Những hành khách khác trông có vẻ nhếch nhác và nhợt nhạt. Người phụ nữ ngồi cạnh anh kéo lê một chiếc va li nhỏ vào nhà vệ sinh và rồi trở ra với quần áo đầu tóc gọn ghẽ nhưng gương mặt thì sưng húp. Macon thấy việc đi lại thế này luôn khiến cơ thể bị ứ nước. Lúc mang giày anh thấy chúng quá bé so với chân anh, và khi vào nhà vệ sinh cạo râu anh nhận thấy có gì khang khác
nơi bọng mắt. Dầu vậy trông anh vẫn ổn hơn hầu hết bọn họ, vì anh chẳng hề đụng một chút đồ ăn nào có chứa muối hay rượu cả. Rượu ở lại trong cơ thể rất lâu. Uống rượu trên máy bay thể nào cũng khiến đầu óc ta mụ mị đi, anh tin như vậy.
Cô tiếp viên hàng không thông báo giờ Luân Đôn, và mọi người nhộn nhạo chỉnh lại giờ. Macon cũng chỉnh lại giờ cho chiếc đồng hồ báo thức trong hộp đựng dao cạo, còn chiếc đeo tay anh cứ để nguyên như thế.
Máy bay hạ cánh đột ngột. Như thể gợi lại cho anh những sự kiện khó khăn nào đó - những va chạm bất ngờ, nhanh như cắt, ầm ĩ và gây xáo trộn. Trên loa phóng thanh vẫn ra rả những câu nhắc nhở lịch sự. Người phụ nữ ngồi cạnh anh gấp chăn len lại. “Tôi hồi hộp quá chừng,” bà nói. “Tôi sắp nhìn thấy cháu nội rồi, lần đầu tiên đấy nhé.” Macon mỉm cười và bảo bà anh hy vọng rằng mọi điều sẽ tốt đẹp. Giờ thì anh không phải lo bị sập bẫy nữa nên anh nhận thấy bà khá dễ mến. Ngoài ra, vẻ ngoài của bà trông đậm chất Mỹ.
Tại sân bay Heathrow, anh lại chứng kiến cảnh nhếch nhác thường thấy tại đây - như thể vừa sau một thảm họa nào đó. Mọi người nhốn nháo qua lại, có những người đứng trông như dân tị nạn với nào thùng nào gói bao quanh, và những nhân viên mặc đồng phục đang cố giải thích các vấn đề khách hàng yêu cầu. Vì không phải đợi để lấy hành lý, Macon chẳng phải nhì nhằng với mớ thủ tục rườm rà nên anh đi ra trước những người khác. Rồi anh đổi tiền và lên tàu điện ngầm. Tôi khuyên mọi người nên dùng tàu điện ngầm, trừ người nào sợ độ cao, và ngay cả những người sợ độ cao cũng có thể đi nếu họ tránh được các ga tàu có những bậc thang đi xuống với độ dốc khác thường...
Trong khi tàu điện ầm ào tiến về phía trước, Macon ngồi phân loại tiền vào các phong bì mang theo - mỗi phong bì đã được anh đánh dấu bên ngoài một đơn vị tiền khác nhau. (Nếu tách riêng và phân loại sẵn ngoại tệ, ta sẽ không phải lóng ngóng với những đồng xu lạ lẫm, lọ mọ với những tờ tiền dễ gây nhầm lẫn.) Những khuôn mặt trải ra trước mắt anh. Mọi người ở đây trông có vẻ khác lạ, dù anh không thể nói được chính xác họ khác như thế nào. Anh nghĩ họ vừa khỏe mạnh hơn lại vừa ẻo lả hơn. Một phụ nữ bế một đứa trẻ quấy khóc luôn miệng bảo, “Ngoan nào, mẹ yêu. Ngoan nào, mẹ yêu,” bằng một giọng Anh rõ ràng, nhẹ và mỏng. Trời nóng, và trán cô lấm tấm mồ hôi. Trán của Macon cũng thế, hẳn rồi. Anh cho những chiếc phong bì vào túi trước ngực. Tàu dừng và nhiều người nữa bước lên. Họ đứng ở ngay phía trên anh, không bám vào mấy cái đai da mà bấu vào mấy cái núm đính vào các thanh ngang không cố định, thứ mà lần đâu tiên đến đây anh nhầm tưởng là một loại micro.
Như thường lệ, anh ở Luân Đôn. Tại đây anh có thể thực hiện những cuộc viếng thăm chớp nhoáng đến các thành phố khác, và tại mỗi nơi anh liệt kê vài ba khách sạn, vài ba nhà hàng khá gần nhau để tiện cho du khách chọn lựa; vì những cuốn cẩm nang du lịch của anh hầu như không sót một thứ gì. (“Nhiều cuốn cẩm nang khác chỉ cho ta biết cách tham quan một thành phố càng nhiều địa điểm càng tốt,” sếp anh bảo. “Ông anh nên cho biết cách làm thế nào để trông thấy nó càng ít càng tốt.”) Khách sạn nơi Macon lưu lại có tên Jones Terrace. Anh vẫn thích một trong những khách sạn nằm trong chuỗi khách sạn của Mỹ, nhưng lại quá tốn kém. Jones Terrace cũng được, dù có hơi nhỏ nhưng gọn ghẽ tươm tất. Anh ngay lập tức bắt tay dọn dẹp căn phòng theo ý mình, bóc tấm khăn trải giường xấu xí ra nhét vào ngăn tủ quần áo, lấy đồ đạc ra và cất túi đi. Anh thay quần áo,
giặt giũ rồi treo trong phòng tắm. Sau khi ném về phía chiếc giường ánh mắt thèm thuồng, anh ra ngoài ăn sáng. Chẳng thể nào giống với một ngày mới ở nhà, nhưng bữa sáng là bữa ăn mà những người đi công tác thường phải tự xoay sở lấy. Đi bất cứ đâu anh cũng cẩn thận chọn lựa nơi ăn uống.
Anh đi bộ đến Yankee Delight, gọi món trứng bác và một cốc cà phê. Phục vụ ở đây không chê vào đâu được. Cà phê được mang ra ngay lập tức, và cốc của anh luôn được giữ đầy. Trứng không có vị giống như ở nhà, nhưng có bao giờ vậy đâu chứ. Có thể nói gì với món trứng của nhà hàng đây nhỉ? Chẳng phong cách gì, cũng chẳng đặc sắc mấy. Thế nhưng anh vẫn mở cuốn cẩm nang ra và đánh một dấu ngay bên cạnh Yankee Delight. Đến cuối tuần, những trang này sẽ hầu như không thể đọc được. Anh đã xóa đi mấy cái tên, chèn thêm vài tên khác, và ngoằn ngoèo mấy dòng ghi chú bên lề. Anh luôn ghé lại mấy nơi đã từng vào - mọi khách sạn và nhà hàng. Thật tẻ nhạt nhưng sếp anh, Julian, cứ khăng khăng bảo, “Hãy cứ hình dung xem sẽ ra sao nếu một độc giả nào đấy vào một tiệm cà phê do anh giới thiệu và phát hiện ra giờ nó đã được sang tay cho một người chuyên bán đồ ăn chay.”
Sau khi thanh toán, anh bước xuống đường tới tiệm New America, lại gọi món tráng và cà phê. “Loại đã lọc hết cafein nhé,” anh nói thêm. (Giờ đầu anh đã ong lên rồi.) Người bồi cho biết ở đây không có loại đó. “Ồ, không có à,” anh nói. Sau khi người bồi đi khỏi, anh viết một dòng lưu ý vào cuốn cẩm nang.
Nơi anh đến tiếp theo là một nhà hàng có tên U.S Open. Xúc xích ở đây khô không khốc đến độ tưởng như chúng được phơi trên mái nhà vậy. Giờ thì đã rõ: Một độc giả đã giới thiệu nhà hàng U.S Open. Ôi chao, những nơi do độc giả giới thiệu, đúng thật là! Macon đã
từng (giờ thì anh khôn ra rồi) đăng ký trước một phòng tại một nhà nghỉ dựa vào cái kiểu giới thiệu ấy - ở đâu đó tại Detroit hay Pittsburgh, hay một thành phố nào đó, dành cho Du khách bất đắc dĩ tại Mỹ. Anh trả phòng ngay tắp lự và dông thẳng sang đường đến một khách sạn nằm trong chuỗi Hilton. Tại đây người gác cửa ào ra đón và chộp lấy túi xách của anh kèm theo một tiếng kêu thương hại như thể anh vừa lết được về đây từ một hoang mạc nào đó. Không có lần hai, Macon đã thề như thế. Anh bỏ miếng xúc xích lại đĩa và gọi tính tiền.
Vào buổi chiều (có thể nói như vậy), anh tới các khách sạn. Anh nói chuyện với nhiều quản lý và xem xét kỹ các loại phòng. Tại đây anh kiểm tra giường, thử dội toa lét, liếc nhìn vòi hoa sen. Hầu hết các khách sạn ít nhiều vẫn còn đạt chuẩn, nhưng có gì đó không ổn mấy với Royal Prince. Như thế nào nhỉ, dường như có vẻ... à, vẻ ngoại quốc. Những gã đàn ông ngăm đen điển trai vận đồ lụa mỏng thì thào ngay sảnh đợi trong khi bọn nhóc da nâu rượt đuổi nhau quanh các ống nhổ. Macon có cảm tưởng như anh bị lạc đường đến mức tuyệt vọng, hơn bất kỳ lúc nào, và thấy mình như đang ở Cairo. Những cô đeo mạng che mặt màu đen nép người đi qua lối cửa xoay vào khách sạn lỉnh kỉnh những túi hàng mua sắm. Gì ấy nhỉ? Anh cố hình dung những thứ họ mua, này là những chiếc quần jean soóc lửng, này là những đôi bốt cao nghều với lưới đan màu hồng - những thứ anh thường vẫn thấy ở hầu hết các cửa hiệu. “Ơ này...,” anh nói với viên quản lý. Nói thế nào đây nhỉ? Anh ghét cái lối hẹp hòi thiển cận, nhưng mà độc giả của anh không muốn va phải những gì mang tính ngoại lai. “À này, khách sạn đổi chủ rồi phải không?” anh hỏi. Viên quản lý hình như ngửi thấy điều gì đó bất ổn liền đứng bật dậy cho biết khách sạn này do một tập đoàn sở hữu, đã luôn như vậy và
sẽ luôn như vậy, chỉ có tập đoàn đó thôi. “Tôi hiểu rồi,” Macon nói. Anh bỏ đi với cảm giác phân vân.
Vào giờ ăn tối, lẽ ra anh nên thử đi một chỗ nào đó trang trọng một chút. Anh phải liệt kê được ít nhất mỗi thành phố một nhà hàng hạng sang chuyên tổ chưc tiệc chiêu đãi. Nhưng tối nay anh thấy không hứng thú. Thay vì đó, anh vào tiệm cà phê ưa thích của mình có tên là My American Cousine. Khách ở đây nói rặt giọng Mỹ, và một vài nhân viên cũng vậy. Cô gái đứng đón khách tại cửa trao cho mỗi người một tấm vé có đánh số. Người nào có số được gọi trên loa phóng thanh có thể nhận được một chiếc ti vi hay bét nhất cũng là một bức ảnh màu đóng khung chụp hình nhà hàng.
Macon gọi một phần ăn nhỏ có rau luộc đơn giản và hai miếng sườn cừu, cùng với một ly sữa. Người đàn ông bên cạnh cũng đang dùng bữa. Ông ta đang ăn món pa tê lợn trông ngon mắt, và khi cô phục vụ mang món tráng miệng đến ông ta bảo, “Ồ, xem nào, ta thử một ít chứ nhỉ,” bằng chất giọng lè nhè chầm chậm, mãn nguyện và vỗ về của người luôn được đám đàn bà con gái trong nhà khuyến khích tăng trọng mỗi ngày. Macon thì dùng món bánh gừng phết kem, giống hệt cách bà nội anh từng làm.
Quãng tám giờ, theo đồng hồ đeo tay, anh đã yên vị trên giường. Đương nhiên giờ này vẫn còn quá sớm nhưng anh chỉ có thể kéo ngày dài đến thế thôi; ở Anh giờ đã là nửa đêm. Ngày mai anh sẽ bắt đầu cuộc viếng thăm chớp nhoáng đến những thành phố khác. Anh sẽ lấy một vài đồ lưu niệm của khách sạn, thử một vài món ăn sáng tiêu biểu. Cà phê còn chất cafein và cà phê đã lọc chất cafein. Thịt lợn hun khói chín tái và chín kỹ. Nước cam tươi và đóng hộp và ướp lạnh. Nhiều vòi sen hơn, nhiều nệm giường hơn. Máy sấy tóc có được mang tới khi yêu cầu không? Có ổ điện 110 vôn dùng cho dao
cạo chạy bằng điện không? Khi thấy buồn ngủ, anh nghĩ về những căn phòng không tên tuổi đang quay mòng mòng quanh vòng xoay ngựa gỗ. Anh nghĩ về những chiếc giá để va li chằng chịt mạng nhện, những bình phun nước gắn dưới trần nhà, và những tờ rơi gồm danh mục các nội quy chống hỏa hoạn chờn vờn thoắt gần thoắt xa, cứ thế suốt thời gian còn lại trong ngày. Anh nghĩ về Ethan lúc nó đang cưỡi con lạc đà bằng thạch cao và gọi anh, “Đỡ con đi ba!” và rơi xuống, nhưng Macon không thể đến đúng lúc và khi anh vươn tay ra, Ethan đã biến mất.
❀ ❀ ❀
Một trong những thói quen xấu của Macon là mỗi khi đi đâu cũng cứ ngóng chờ ngày về cho thật sớm. Cho dù đã trù tính thời gian ở lại ngắn đến đâu, anh vẫn quyết định rằng cần phải về sớm, rằng anh đã tự cho mình quá nhiều thời gian, rằng mọi thứ tối cần thiết đã được làm xong - hoặc hầu hết mọi thứ gần như đã hoàn tất. Thế là phần còn lại của chuyến đi anh dành để gọi điện cho những đại lý du lịch và thực hiện những chuyến đi chẳng mang lại hiệu quả gì tới các văn phòng hàng không, đợi rũ cả người ở đó để rồi rốt cuộc lại phải quay trở về khách sạn vừa trả phòng xong. Anh luôn tự nhủ rằng lần sau sẽ không có chuyện tương tự, nhưng bằng cách nào đấy nó vẫn cứ xảy ra. Anh đã lâm vào cảnh như vậy vào buổi chiều thứ tư lưu trú tại Anh. Còn có thể làm gì hơn nữa chứ? anh tự hỏi. Chẳng lẽ anh không biết gì về nơi này hay sao?
À, đúng rồi: Hôm nay là thứ Bảy. Khi ghi ngày vào sổ công tác phí, anh vô tình biết rằng ở nhà hôm nay là thứ Bảy. Là ngày Sarah ghé qua nhà lấy tấm thảm.
Cô sẽ mở cửa trước và khịt khịt mũi. Cô sẽ đi qua các phòng nơi cô đã có những năm tháng hạnh phúc. (Mà cô có hạnh phúc không nhỉ?) Cô sẽ thấy con mèo nằm ườn trên trường kỷ, lừ đừ lười nhác, và cô sẽ ngồi bên nó mà nghĩ, Làm thế nào mà tôi có thể rời bỏ nơi này ra đi được chứ?
Thật không may, đang là mùa hè và các chuyến bay đã đăng ký trước quá nhiều. Anh bỏ ra hai ngày mải miết theo dõi những khả năng dù nhỏ nhoi nhất nhưng đến khi gần đạt được thì hầu như chúng lại tan biến đi hết cả. “Sao cũng được! Tôi có thể đi bất cứ chuyến bay nào! Tôi không phải đi New York nữa; tôi sẽ đi Dulles. Tôi sẽ đi Montreal! Chicago! Nào, tôi sẽ đi Paris hay Berlin, xem thử còn chuyến nào không. Có thể đi bằng đường thủy không? Giờ mà đi bằng đường thủy thì mất bao lâu? Sẽ ra sao nếu đây là trường hợp khẩn cấp chứ? Ý tôi là mẹ tôi đang hấp hối hay gì gì đó tương tự thế? Cô có định báo là chẳng có cách nào ra khỏi nơi này không?”
Những người tiếp chuyện anh luôn có thái độ nhã nhặn và vui vẻ - thật ra, nếu không vì sự căng thẳng do việc đi lại gây nên anh đã có thể thực sự có cảm tình với người Anh - nhưng họ chẳng giải quyết được rắc rối của anh. Rốt cuộc thì anh cũng phải tiếp tục ở lại. Những ngày còn lại của tuần lễ ấy anh rúc vào phòng xem ti vi, gặm đốt ngón tay, sống cầm hơi với những đồ tạp phẩm khó ôi và đồ uống ấm vì anh không thể ló mặt tới một nhà hàng nào nữa.
Thế nên vào ngày về đương nhiên anh là người đầu tiên đứng xếp hàng trước quầy đăng ký lên máy bay. Anh đã có chỗ ngồi như ý nhất: cạnh cửa sổ, không thuốc lá. Ngồi cạnh anh là một đôi quấn lấy nhau suốt chuyến bay; vì vậy anh không cần đến cuốn Miss MacIntosh nữa, thay vì đó cả buổi chiều dài lê thê buồn tẻ ấy anh ngồi nhìn đăm đăm vào những đám mây.
Anh không bao giờ ưa những buổi chiều; đó là điều tồi tệ nhất cho những chuyến bay về như thế này. Buổi chiều dài lê thê, hết thức uống lại đến đồ ăn trưa, rồi lại thức uống - anh chẳng lấy thứ gì. Chính vì buổi chiều nên họ cho chiếu phim; hành khách phải kéo chụp đèn xuống. Một thứ ánh sáng màu cam choán đầy cả khoang máy bay, nặng nề và gây bức bối.
Lần nọ anh có một chuyến đi gay go bất thường đến Nhật - cái nơi mà ta thậm chí không thể nhớ nổi các biển hiệu chỉ đường để trở lại được nơi ta đã xuất phát - Sarah đã đến đón anh tại sân bay New York. Đó là dịp kỷ niệm mười năm ngày cưới của họ, và Sarah muốn làm anh ngạc nhiên. Cô gọi Becky ở hãng du lịch để hỏi số chuyến bay của anh và rồi bỏ Ethan lại cho bà ngoại, cô bay đến Kennedy, mang theo chiếc giỏ mây picnic đựng rượu vang và phô mai, họ đã cùng nhau nhấm nháp những món đó tại phòng chờ ở sân bay trong lúc đợi chuyến trở về. Mọi chi tiết về bữa ăn đó vẫn còn đọng lại trong tâm trí Macon: những miếng phô mai ánh lên màu cẩm thạch, rượu vang trong cốc thủy tinh có đế - không hiểu vì sao vẫn còn nguyên lành sau chuyến đi như thế. Anh vẫn còn thấy nơi đầu lưỡi vị phô mai Brie óng ánh như xa tanh. Anh vẫn còn có thể trông thấy bàn tay nhỏ nhắn quyến rũ của Sarah khi cô cắt từng lát bánh mì một cách dứt khoát.
Nhưng hôm nay cô không gặp anh tại New York.
Ngay cả ở Baltimore cũng không.
Anh lấy xe ra khỏi bãi và lái về thành phố trong ánh chiều chạng vạng đầy vẻ đe dọa như báo hiệu điều gì - một trận bão hay một cơn sấm sét, một thứ gì đó đầy kịch tính. Có thể nào cô đang đợi anh ở nhà không nhỉ? Cô có đang mặc chiếc váy sọc dài kiểu Thổ Nhĩ Kỳ
có đai lưng mà anh cực thích không? Có phải bữa tối đã được dọn sẵn trên bàn ăn không?
Để không bị sập vào cái bẫy tưởng tượng của chính mình, anh ghé lại tiệm Seven-Eleven mua ít sữa. Anh lái xe đến bệnh viện thú y đón Edward. Khi anh đến Meow-Bow, chỉ còn vài phút nữa là tới giờ đóng cửa; chẳng hiểu sao anh lại đi lộn đường vào đó. Không còn ai đứng quầy. Anh phải rung chuông gọi. Một cô gái tóc đuôi ngựa thò đầu ra cửa, kéo theo một dàn hợp ca đủ mọi âm thanh của những con vật nuôi được gửi tại đây rộ lên từ nhiều hướng. “Gì đấy anh?” cô hỏi.
“Tôi đến đón con chó.”
Cô bước lại mở hộp hồ sơ nằm trên quầy. “Họ anh là gì?” “Leary.”
“Ồ,” cô nói. “Anh đợi chút nhé.”
Macon tự hỏi không biết lần này con Edward có gây rắc rối gì không.
Cô gái biến đi, và một lát sau một cô khác xuất hiện, cô tóc xoăn hôm nọ. Tối nay cô vận váy đen cổ chữ V, điểm xuyết những bông hồng màu hồng to tướng, có lót đệm ở hai vai và hơi bó từ eo trở xuống; cô đi đôi giày cao gót kệch kỡm. “Ồ, xin chào,” cô nói với nét mặt sáng lên. “Chuyến đi của anh thế nào?”
“Ồ, chuyến đi... Edward đâu? Nó ổn chứ cô?”
“Hẳn rồi, nó ổn. Nó ngoan ngoãn, dễ bảo và thân thiện nữa!” “Ồ, vậy thì tốt.”
“Chúng tôi như lửa phải rơm ấy. Có vẻ như ngay từ đầu nó đã thích tôi, chẳng biết vì sao nữa.”
“Tuyệt đấy.” Anh hắng giọng, “Thế cho tôi đón nó về bây giờ được chứ?”
“Caroline sẽ mang nó đến ngay đây.”
“À.”
Cả hai không nói thêm gì. Người phụ nữ đứng đối diện anh chờ đợi với nụ cười tươi rói trên môi, những ngón tay đan vào nhau đặt lên quầy. Macon thấy móng tay của cô sơn màu đỏ sẫm và đôi môi được thoa một thứ son hơi sậm màu khiến miệng cô mang một kiểu dáng rắc rối lạ thường - đầy góc cạnh, giống như hình quả táo.
“À,” cuối cùng Macon lên tiếng. “Chắc tôi có thể trả lệ phí chứ.” “Ồ, vâng.”
Cô thôi cười và cúi xuống hộp hồ sơ kẹp đang để ngỏ. “Bốn mươi hai đô,” cô nói.
Anh trao cho cô thẻ tín dụng. Cô lóng ngóng với cái máy rập nổi vì phải làm mọi thao tác bằng lòng bàn tay, còn móng tay thì chừa ra. Cô rề rà điền vào các chỗ trống và rồi chìa hóa đơn về phía anh. “Chữ ký và số điện thoại,” cô nói. Cô tựa vào quây khom người xuống xem anh viết. “Số điện thoại nhà hay cơ quan anh đấy?”
“Cả hai. Sao vậy? Có chuyện gì à?” anh hỏi.
“Tôi chỉ hỏi vậy thôi,” cô bảo anh. Cô xé rời tờ bản sao hóa đơn anh vừa đưa, theo cách không cho những móng tay chạm vào, và cho phần còn lại của tờ hóa đơn vào ngăn kéo. “Tôi không biết đã đề cập đến chuyện này chưa, chứ tôi cũng là một người huấn luyện chó đấy.”
“Thật vậy sao?”
Anh nhìn về phía cửa nơi cô gái anh gặp lúc đầu đã biến vào đó. Anh luôn ở trong trạng thái căng thẳng khi thấy họ lâu mang Edward ra. Họ làm gì trong ấy - có phải là xóa sạch chứng cớ gì đấy không?
“Chuyên nghiệp của tôi là huấn luyện chó hay cắn người,” người phụ nữ lên tiếng.
“Chuyên môn.”
“Sao ạ?”
“ ‘Chuyên môn’ mới đúng.”
Cô ném về phía anh một cái nhìn khó hiểu.
“Hẳn đó là một công việc nguy hiểm,” Macon nói một cách nhũn nhặn.
“Ồ, với tôi thì không phải vậy. Dưới gầm trời này tôi chẳng sợ thứ gì cả.”
Có tiếng cửa kéo phía sau cô. Edward lao vọt ra, theo sau là cô gái với cột tóc đuôi ngựa. Edward kêu lên ăng ẳng và nhảy chồm chồm về phía trước lộ vẻ vui mừng nhặng xị đến độ Macon cúi xuống muốn vỗ về nó mà không được.
“Nào, dừng lại,” cô gái tóc đuôi ngựa bảo Edward. Trong khi đó, người phụ nữ đứng sau quầy vẫn tiếp tục nói, “Chó hay cắn này, chó sủa dai này, chó điếc, chó nhát gan, chó bị ngược đãi, chó nhiễm thói xấu, chó lớn lên trong tiệm bán thú cưng và chẳng tin tưởng vào con người... Tôi xử lý được tất.”
“Ồ, tốt,” Macon nói.
“Không phải vì nó sẽ cắn tôi, dĩ nhiên,” người phụ nữ nói. “Nó chỉ quý mến tôi, hình như có lần tôi đã bảo với anh rồi đấy.” “Tôi rất vui khi nghe vậy,” Macon đáp.
“Nhưng tôi có thế huấn luyện nó không cắn bất cứ ai vào bất cứ khi nào nữa. Hãy suy nghĩ kỹ đi và gọi cho tôi nhé. Muriel, anh nhớ không? Muriel Pritchene. Để tôi đưa anh tấm danh thiếp.”
Cô trao anh tấm danh thiếp màu hồng cam chẳng biết lấy từ đâu ra. Anh phải cố đi vòng qua con Edward đang nhảy chồm chồm kia mới có thể lấy được tấm card. “Tôi đã học cùng một người từng huấn luyện chó hay tấn công người,” cô nói. “Anh thấy đấy, chẳng phải nghiệp dư đâu nhé.”
“À, tôi sẽ ghi nhớ chuyện đó,” Macon nói. “Cảm ơn cô rất nhiều.” “Hoặc chỉ gọi mà không cần có lý do nào nhé! Gọi để nói chuyện thôi.”
“Nói chuyện?”
Chứ sao! Nói về Edward này, những rắc rối của nó này, nói về... bất cứ thứ gì! Cứ nhấc ống nghe lên và nói thôi. Chẳng lẽ anh chưa bao giờ có thôi thúc làm điều đó?”
“Không hẳn.”
Rồi con Edward kêu ẳng lên một tiếng, và anh cùng con chó lao vội về nhà.
❀ ❀ ❀
Ồ, đương nhiên là cô không hề có ở đó. Anh biết thế ngay khi bước vào trong nhà, khi anh ngửi thấy không khí nóng ẩm và đặc quánh vì cửa đóng lâu ngày. Thật ra, anh đã biết trước vậy. Anh đã tự dối gạt mình. Anh đã bịa ra những câu chuyện cổ tích.
Con mèo phóng sượt qua anh và biến ra khỏi cửa, kêu ngao ngao với vẻ tố cáo. Con chó sục vào phòng ăn định lăn tròn trên tấm thảm
hòng làm mất đi cái mùi cũi nhốt mấy bữa nay. Nhưng thảm đâu mất rồi - chỉ còn lại sàn nhà trống trơn với những gạch sọc, và con Edward khựng lại, trông thật ngố. Macon hiểu cảm giác của nó lúc này.
Anh dọn chỗ sữa đi và lên lầu dỡ đồ ra khỏi va li. Anh đi tắm, dẫm chân lên bộ đồ bẩn, và dọn gường. Khi anh tắt đèn phòng tắm, hình ảnh bộ quần áo mới giặt vẫn còn đẫm nước treo bên trên bồn tắm khiến anh nhớ lại chuyến đi vừa qua. Điểm khác nhau thật sự là ở chỗ nào nhỉ? Du khách bất đắc dĩ tại nhà, anh nghĩ rồi mệt mỏi chuồi vào chiếc túi ngủ.
Chương 4
Khi điện thoại reo, Macon mơ đó là Ethan. Anh mơ thấy Ethan gọi về từ khu cắm trại, muốn biết sao ba mẹ không đến đón nó. “Nhưng chúng ta tưởng con đã chết rồi,” Macon nói, và Ethan hỏi – với giọng nói vụn vỡ nơi âm tiết cuối - “Sao ba mẹ lại có thể nghĩ thế?” Điện thoại lại reo, và Macon bừng tỉnh. Một cái gì như thất vọng chùng xuống đâu đó trong lòng anh. Giờ anh mới hiểu tại sao người ta nói lòng “chùng xuống.”
Một cách chậm chạp, anh với lấy ống nghe. “A lô.”
“Macon! Chào mừng ông anh đã trở về!”
Là Julian Edge, sếp anh, vẫn cái giọng oang oang và rổn rảng như thường lệ cho dù chỉ mới sáng sớm. “Ồ,” Macon nói. “Chuyến đi thế nào?”
“Ổn.”
“Ông anh vừa về tối qua à?”
“Vâng.”
“Có tìm thấy chỗ mới nào xuất sắc không?”
“À, không quá xuất sắc nhưng cũng được.”
“Thế giờ ông anh có thể bắt tay vào viết được rồi đấy nhỉ.” Macon không nói gì.
“Ông anh tính khi nào đưa cho tôi bản thảo đấy?” Julian hỏi. “Tôi chưa biết.”
“Thế có tính đưa tôi sớm không?”
“Tôi chưa biết.”
Cả hai không nói gì một lúc.
“Chắc tôi đã làm mất giấc ngủ của ông anh rồi,” Julian nói. “Ừm.”
“Macon Leary trên giường,” Julian nói. Câu anh ta nói nghe như tiêu đề của một cuốn sách hay bộ phim gì đó. Julian ít tuổi hơn Macon, bỗ bã, liến thoắng và không phải loại đàn ông nghiêm túc. Dường như anh ta thích thú với cái lối giả bộ xem Macon là một nhân vật nào đấy. “Dù gì thì cuối tháng tôi cũng có bản thảo chứ?”
“Chưa đâu.”
“Sao chưa?”
“Tôi chưa sắp xếp được.”
“Chưa sắp xếp được! sắp xếp gì chứ? Tất cả những gì ông anh cần làm là đổ rượu mới vào bình cũ thôi, về cơ bản là vậy mà.” “Không chỉ thế thôi đâu.”
“Ông anh ơi, nhìn đây này...” Julian hạ giọng. Anh ta hẳn là đang chau mày cúi xuống chiếc đồng hồ vàng chóe với dây đeo bằng da kiểu dáng thể thao có hiện lịch năm. “Giờ là ngày ba tháng Tám rồi. Tôi muốn có bài viết lên khuôn vào tháng Mười. Có nghĩa là ngày ba mốt tháng Tám ông anh phải có bản thảo cho tôi.”
“Không thể được.”
Quả thật anh thấy sửng sốt vì không hiểu mình lấy sức ở đâu ra mà có thể tiếp tục cuộc nói chuyện như vậy.
“Ngày ba mốt tháng Tám, nhé Macon. Còn những bốn tuần nữa cơ mà.”
“Không đủ.”
“Không đủ,” Julian nói. “Được. Vậy mười lăm tháng Chín nhé. Chẳng phải là cách tối ưu, nhưng tôi sẽ gia hạn cho ông anh đến ngày mười lăm tháng Chín. Thế nào?”
“Tôi không biết.”
Nghe giọng nói uể oải của mình khiến Macon thinh thích. Anh cảm thấy thật xa lạ với bản thân anh. Julian có thể đã cảm nhận được điều đó, nên sau một lúc im lặng anh ta nói, “Này, ông anh ổn chứ?”
“Tôi ổn.”
“Tôi biết ông đã phải cố rất nhiều để có thể vượt qua, ông anh à...” “Tôi ổn! Rất ổn! Có vấn đề gì được chứ? Tất cả những điều tôi cần là thời gian để sắp xếp. Tôi sẽ có bản thảo cho anh vào giữa tháng Chín. Có thể sớm hơn. Ừ, chắc là sẽ sớm hơn. Có thể vào quãng cuối tháng Tám gì đấy. Được chưa?”
Rồi anh gác máy.
❀ ❀ ❀
Nhưng phòng làm việc của anh quá tối và ngột ngạt, mùi mực in bốc lên khiến đầu óc anh váng vất. Anh bước vào và thấy choáng ngợp trước cả một đống việc đang lù lù nằm chờ, có vẻ như rốt cuộc thì cái mớ hỗn độn kia đã thắng thế. Anh quay trở ra.
Có thể anh không làm sao sắp xếp được thông tin để bắt tay vào viết cuốn cẩm nang, nhưng dọn dẹp nhà cửa cho tinh tươm lại là chuyện hoàn toàn khác. Có gì đó như khiến lòng anh dịu lại, như thể được an ủi - hoặc trên cả cảm giác được an ủi; anh thấy mình như thoát ra khỏi một mối hiểm nguy nào đấy. Cả tuần sau đó anh đi khắp
các phòng sắp xếp chúng lại theo một trật tự mới. Anh rốt ráo dọn lại tất cả tủ bếp, tống khứ hết thảy những thứ chất lỏng ôi thiu nhớp nhúa đựng trong đủ loại chai lọ mà bao nhiêu năm nay Sarah không mở ra lấy một lần. Anh cắm phích điện máy hút bụi vào ổ cắm có dây điện dài gần bốn mươi mét trước đây dùng cho máy cắt cỏ. Anh bước ra sân và làm cỏ, cắt tỉa lá, xén cành - dọn sạch và ngắm nghía. Trước đây công việc làm vườn là của Sarah, thế nên có không ít điều khiến anh sửng sốt. Đủ loại cỏ dại bắn hạt ra tứ tung khi anh vừa đụng vào, một sự kháng cự đến cùng hết sức cừ khôi, trong khi những loại khác thì chịu thua một cách dễ dàng - quá dễ dàng, đứt lìa thân ngay tấp lự, chỉ còn trơ lại gốc trong lòng đất. Thật can trường! Thật đúng là bản năng sống còn! Sao con người lại không làm được như thế chứ?
Anh giăng dây phơi quần áo ngang qua tầng hầm để khỏi phải dùng máy sấy. Cái bọn máy sấy đến là lãng phí năng lượng. Rồi anh tháo cái ống xả rộng bằng nhựa dẻo ra khỏi máy sấy, và dạy con mèo chui ra chui vô cái ô trống nơi gắn ông xả. Vậy là chả cần một chỗ nằm cho nó nữa. Ngày nào con mèo cũng mấy bận nhảy vọt tới chỗ bồn giặt một cách êm ru, đứng thẳng lên bằng hai chân sau dài và dẻo dai rồi phóng cái vèo ra cửa sổ.
Thật tiếc là Edward chẳng làm được điều tương tự. Macon ghét dắt nó đi dạo; Edward chưa bao giờ được tập luyện đứng trên hai chân và cứ xoắn dây xích quanh chân anh. Ôi, bọn chó thật phiền nhiễu. Khẩu phần ăn khổng lồ nữa chứ; đồ ăn của Edward anh phải khệ nệ lôi về từ siêu thị, ì ạch kéo lê từ cốp xe lên bậc tam cấp khá dốc nơi cửa trước, lếch thếch xách vào nhà rồi cho tất cả vào tủ đồ ăn. Nhưng chí ít thì rốt cuộc anh đã nghĩ ra được một giải pháp. Ngay chân máng đổ rác cũ dưới tầng hầm anh đặt cố định một thùng
rác bằng nhựa đã cắt ở đáy một ô trống hình vuông. Rồi anh rót phần còn lại của túi đồ ăn vào thùng rác, thật kỳ diệu, giờ nó đã trở thành một cái máng ăn như cái máng của con mèo. Lần tới mua đồ ăn cho chó, anh chỉ cần lái xe vòng qua hông nhà và cho đồ ăn vào lối xuống máng đổ rác dưới tầng hầm.
Điều không ngờ tới là tự nhiên Edward đâm ra sợ căn hầm. Sáng sáng nó vào phòng để đồ ăn trước đây Macon thường đặt đồ ăn sáng cho nó, ngồi xuống trên hai cái đùi béo ục và ư ử. Macon phải xềnh xệch lôi nó qua các bậc thang xuống tầng hầm, anh bước chuệnh choạng trong khi con Edward hai chân trước khua khoắng loạn xạ. Toàn bộ giải pháp kia là để giúp Macon thoát khỏi cái lưng hay trở chứng của anh, vậy nên tới lúc này anh cảm thấy mình không đạt được mục đích như ban đầu. Dẫu vậy anh vẫn cứ cố.
Cũng để đối phó với cái lưng hay dở chứng ấy, anh cột giỏ đựng quần áo vào chiếc ván trượt cũ của Ethan và thả một cái túi có dải rút buộc miệng xuống tủ đựng quần áo ở một đầu dây. Vậy là anh không còn phải khệ nệ ôm đống đồ lên xuống cầu thang, hoặc thậm chí băng qua tầng hầm. Mặc dù vậy, có đôi khi – cần mẫn cho chiếc giỏ có bánh xe ấy lăn từ dây phơi đến tủ quần áo, nhồi những tấm ga sạch thơm vào chiếc túi, chạy lên lầu để kéo chúng lên bằng một sợi dây thừng dài và chắc chắn - Macon chợt thấy nhói lên một cảm giác ngượng ngùng. Có thể nào đây là một dạng ngớ ngẩn không nhỉ?
Ồ, mọi điều đều ngớ ngẩn, khi ta suy xét thật kỹ.
Hàng xóm giờ hẳn là đã tường tận việc Sarah bỏ đi. Họ bắt đầu điện cho anh vào những buổi tối trong tuần và mời anh sang ăn tối “potluck”* với họ. Thoạt đầu Macon nghĩ chắc họ đề cập đến một kiểu tụ tập mà ở đó mỗi người mang theo một cái tô đựng đồ ăn gì đấy và nếu ai may mắn thì sẽ có một bữa ăn đủ dưỡng chất. Anh đã
qua nhà vợ chồng Sue và Bob Carney mang theo một tô mì ống và phô mai. Do hôm ấy Sue lại nấu món mì sợi nên anh không thấy mình may mắn chút nào. Cô đặt tô mì ống của anh phía đầu bàn và chẳng ai đụng lấy một miếng trừ cô bé Delilah mới lên ba tuổi. Mặc dù nó còn có vài món ăn khác nữa.
Potluck: có gì ăn nấy. Pot: cái tô. Luck: may mắn.
Macon không thích trẻ con có mặt nơi bàn ăn. Anh thấy mình giờ như một ai đó khác, một ông chú chưa vợ được cho là thỉnh thoảng cũng cần phải dòm ngó cuộc sống gia đình một chút. Nhưng thực tế là anh chưa bao giờ thấy yêu thích con cái của người khác. Và các buổi tụ tập dưới bất cứ hình thức nào cũng khiến anh thấy ngán ngẩm. Những tiếp xúc mang tính xã giao có chút đụng chạm về thể xác với những người dưng - một cái bá vai, một cái khoác tay - đều khiến anh co rụt lại như con ốc sên. “Macon này, anh biết đấy,” Sue nói, chồm người qua bàn ăn chực vỗ vào tay anh, “bất cứ lúc nào thấy cần, cứ ghé qua nhà chúng tôi. Đừng đợi gọi nhé.”
“Chị thật tốt bụng, Sue,” anh nói. Anh tự hỏi tại sao anh lại thấy làn da của người dưng không thật đến thế - gần như sáp, tựa hồ có một lớp gì đấy mà mắt thường không thấy được trên chỗ da tiếp xúc. Ngay lập tức, anh dịch tay ra.
“Nếu anh cứ sống theo cách anh muốn,” Sarah đã có lần nói với anh như vậy, “em cho rằng thể nào rốt cuộc anh cũng sẽ sống trên một hoang đảo không có lấy một bóng người.”
“Tại sao chứ! Chẳng đúng chút nào cả,” anh nói. “Anh đã có em này, Ethan này, em gái anh này, các anh em trai này...” “Nhưng không ai khác nữa. Ý em là, anh không thể hòa nhập được với những người anh gặp tình cờ, những người anh chưa biết
ấy.”
“Ồ, không, anh nghĩ là không,” anh nói. “Em thì làm được phải không?”
Nhưng đương nhiên cô ấy làm được - ấy là nói về trước đây. Trước khi Ethan mất. Cô luôn là một người quảng giao. Khi không phải làm việc gì, cô hào hứng loanh quanh khắp siêu thị - với Macon nơi này đúng là địa ngục, hàng bao nhiêu cái vai cứ sườn sượt qua vai anh. Sarah lại thích chỗ đông người. Cô thích gặp gỡ người lạ. Cô say sưa với tiệc tùng, ngay cả tiệc cocktail. Có họa điên mới mê tiệc cocktail - chỉ toàn là những tình huống ngượng ngập, Macon nghĩ vậy - cô lôi anh đi bằng được đến những nơi khiến anh thấy mình như phạm một tội gì đó nếu tình cờ lâm vào một cuộc trò chuyện hơi thân mật một chút. "Nào, làm một vòng đi anh. Nào.” Sarah huýt sáo, tay cầm ly đi ngang qua sau lưng anh.
Năm qua mọi thứ đã đảo ngược hết cả. Sarah không còn hứng thú với đám đông nữa. Cô không bao giờ đến gần trung tâm mua sắm, không còn kéo anh đi bằng được đến các buổi tiệc. Họ chỉ dự những bữa cơm tối không ồn ào và cô không hề tổ chức một bữa cơm tối nào mời khách từ sau cái chết của Ethan. Có lần anh hỏi cô, “Sao mình không mời nhà Smith và nhà Millard dùng cơm, em? Họ đã mời mình mấy lần rồi.”
Sarah bảo, “Ừ, đúng đấy anh. Làm ngay đi.” Thế rồi cô lờ đi. Anh và cô đã gặp nhau trong một buổi tiệc. Lúc ấy cả hai chỉ mới mười bảy. Đó là tiệc giao lưu giữa trường anh và trường cô. Ngay cả ở tuổi ấy Macon cũng chẳng ưa gì tiệc tùng, song anh đang âm thầm mong ước được yêu do vậy đã gồng mình lên để đến dự buổi giao lưu ấy, nhưng rồi lại chỉ đứng nép mình trong góc, cố tỏ ra hờ hững,
nhấm nháp ly rượu ướp gừng. Đó là vào năm 1958. Cả thế giới mặc sơ mi cài khuy, Macon diện áo len cổ lọ màu đen, quần đen, và đi xăng đan. (Anh đang ở độ tuổi thanh niên mới lớn đầy mơ mộng.) Và Sarah, một thiếu nữ phổng phao với mái tóc xoăn màu nâu đồng rối tung và khuôn mặt tròn trĩnh, đôi mắt to xanh da trời, và môi dưới hơi trễ - một chút son hồng phớt bên trên, anh nhớ như thế, khiến gương mặt cô như bừng sáng lên. Bao nhiêu anh chàng ngưỡng mộ vây quanh cô. Cô có dáng người thấp gọn, và có gì đó khá dạn dĩ trong cách sóng đôi vững chãi của hai bắp chân nhỏ nhắn màu nâu vàng, như thể cô nhất quyết không để mình trố mắt ra ngạc nhiên trước sự xuất hiện từ xa của một dàn sao bóng rổ hoặc bóng đá nào đó. Macon ngay lập tức thôi quan sát cô. Không, thậm chí không phải thế - anh thậm chí không nhìn cô, không một giây nào, mà chỉ nhìn sang phía ấy để chú ý đến những cô gái khác, những cô anh có cơ may với tới hơn. Thế nên Sarah tiếp cận anh trước. Cô đến bên anh và hỏi sao anh lại có vẻ hợm mình, chẳng chịu hòa đồng gì cả thế. “Hợm mình!” anh nói. “Không phải thế.”
“Thế mà.”
“Không, tớ chỉ thấy... chán thôi,” anh bảo.
“Được rồi, thế cậu muốn nhảy không?”
Họ nhảy với nhau. Anh không chuẩn bị trước cho một tình huống như vậy nên nó trôi qua thật nhạt nhòa. Anh chỉ tận hưởng trải nghiệm ấy sau khi về nhà - khi đầu óc anh trở về trạng thái tĩnh lặng hơn để anh có thể nghĩ về nó thật kỹ lưỡng. Và vì suy nghĩ kỹ đến thế nên anh nhận thấy nếu trông anh không có vẻ hợm mình hẳn cô đã chẳng thèm để ý đến anh. Anh là cậu con trai duy nhất không công khai theo đuổi cô. Sau này anh sẽ đủ khôn ngoan để không
theo đuổi cô; không ra vẻ quá sốt sắng, không bộc lộ cảm xúc. Anh có cảm tưởng rằng với Sarah ta cần phải giữ phẩm giá của mình. Dẫu vậy chỉ có Chúa mới biết giữ phẩm giá đâu phải dễ dàng gì. Macon sống với ông bà, và họ một mực tin rằng không ai dưới mười tám tuổi được cấp bằng lái xe. (Chẳng hề lưu tâm đến việc liệu luật bang Maryland có làm ngược lại hay không.) Vậy nên ông nội Leary lái xe chở Macon và Sarah vào những buổi hẹn hò. Ấy là một chiếc Buick dài màu đen với ghế sau bọc nhung xám và Macon ngồi một mình ở đó, vì ông nội cho rằng thật khó coi khi để cả hai ngồi chung với nhau. “Ta không phải tài xế lái thuê,” ông nói, “và thêm nữa, hai đứa mà ngồi chung ghế sau thể nào cũng dễ mang tiếng xấu.” (Hầu hết những năm tháng tuổi trẻ của Macon luôn bị chi phối bởi nỗi lo mang tiếng xấu như thế.) Thế nên Macon ngồi một mình ở ghế sau và Sarah ngồi ghế trước bên cạnh ông nội Leary. Mái tóc cắt ngắn của cô sáng lóa qua ánh đèn pha, khiến Macon liên tưởng đến một bụi cây đang bốc cháy. Anh thường phải chồm về phía trước, dọn giọng, và hỏi, “Ừm, cậu làm xong bài kiểm tra chưa?” Sarah nói, “Sao?”
“Bài kiểm tra,” ông nội Leary nói lại với cô. “Cậu chàng muốn biết cháu đã làm xong chưa.”
“Ồ, vâng, xong rồi.”
“Nó làm xong rồi,” ông nội Leary nhắc lại cho Macon. “Con có tai mà, nội.”
“Có muốn ra ngoài dạo chút không? Vì ta chẳng thể chịu được các con cứ ngậm tăm mãi thế khi có ta bên cạnh. Còn ta có thể về nhà với những người thân yêu của ta, chứ không phải cứ chạy xe loanh quanh trong đêm tối thế này.”
“Nội, con xin lỗi.”
Điều duy nhất Macon muốn là im lặng. Anh ngồi ngả người ra ghế, nín thinh và cách biệt, biết rằng nếu Sarah có ngoái nhìn thì cô cũng chẳng thấy được gì ngoài vầng sáng nhạt nhòa bao quanh mái tóc hoe vàng và khuôn mặt vô cảm - khoảng tối còn lại, chiếc áo cổ lọ màu đen cũng lẫn vào bóng tối. Đúng như thế. “Cậu nghĩ gì thế? Lúc nào trông cậu cũng như đang tư lự điều gì ấy,” cô ghé vào tai anh hỏi khi cả hai sóng bước quanh phòng thể dục của trường. Anh chỉ khẽ nhếch môi, như thể lấy làm vui thích lắm, nhưng chẳng trả lời gì cả.
Khi anh được cấp bằng lái mọi việc cũng không khác là bao. Cũng chẳng khác gì mấy khi anh vào đại học, cho dù anh đã chịu bỏ chiếc áo cổ lọ màu đen và trở thành một sinh viên trường đại học Princeton, năng động, ăn vận bình thường như bao người - sơ mi trắng và quần ka ki. Vắng bóng Sarah bên cạnh, anh thấy lòng trống trải, nhưng trong những lá thư viết cho cô anh kể toàn chuyện học hành. Sarah hồi âm cho anh từ quê nhà Goucher rằng, “Không phải là cậu nhớ mình rất ít đấy chứ? Mình chẳng thể đi đến những nơi mà bọn mình đã từng đến vì sợ rằng sẽ nhìn thấy cậu với vẻ mặt khó hiểu đang băng ngang qua căn phòng.” Cô đề dưới các lá thư viết cho anh Mình yêu cậu còn anh thì Thân mến. Ban đêm anh mơ thấy cô nằm cạnh anh, mái tóc xoăn của cô cọ lào xào vào gối của anh, mặc dù trong thực tế tất cả những gì họ làm với nhau chỉ là những nụ hôn dài. Nói thật, anh cũng không chắc rằng anh có thể kiềm chế nhiều đến thế mà không làm chuyện... thế nào mà họ có thể như vậy được vào dạo đó nhỉ? Anh thấy mất bình tĩnh. Đôi khi, anh suýt nổi nóng với Sarah. Anh thấy mình bị đẩy lùi vào một vị thế sai lầm. Anh buộc phải thể hiện nét mặt dửng dưng nếu muốn cô yêu anh. Ôi, đàn ông sao lại muốn nhiều đến vậy!
Cô viết cho anh rằng hiện cô không hẹn hò với ai cả. Macon cũng không, nhưng dĩ nhiên anh không nói vậy. Anh về nhà vào mùa hè và làm việc ở nhà máy ông nội anh; Sarah làm tại một hồ bơi trong vùng. Khoảng chừng giữa mùa hè, cô nói cô muốn biết tại sao anh chưa bao giờ đòi ngủ với cô. Suy nghĩ một lúc, anh hết sức thật thà nói rằng thật ra anh thích đòi ngay bay giờ. Họ về nhà ba mẹ cô; hai người đã đi nghỉ hè ở Rehoboth. Họ leo lên lầu vào căn phòng bé xíu của cô, chỗ nào cũng sơn trắng, nắng nóng như thiêu khiến căn phòng xộc lên mùi sơn mới. “Cậu có mang theo cái đó không?” Sarah hỏi, và Macon, không muốn thừa nhận rằng anh hầu như chẳng biết cái đó hình thù tròn méo ra sao, quát lên, “Không, tớ chẳng mang theo cái gì đó nào cả, cậu nghĩ tớ là ai chứ?” - một câu hỏi chẳng mang ý nghĩa gì, nếu ta dừng lại để suy xét, nhưng Sarah lại cho rằng cô khiến anh bị sốc, rằng trong suy nghĩ của anh cô thật quá sành sỏi, cô vội nói, “Ồ, xin lỗi!” và chạy ào xuống lầu lao ra ngoài. Anh mất nửa giờ mới tìm được cô, và mất hơn khoảng thời gian đó mới dỗ cho cô nín khóc. Anh bảo thật ra anh chỉ nghĩ cho cô: Chứ theo như anh biết thì cái đó chẳng an toàn chút nào. Anh cố làm ra vẻ hiểu biết và làm như không bị ảnh hưởng bởi những xúc cảm mạnh mẽ của khoảnh khắc ấy. Anh cho rằng cô nên gặp bác sĩ anh quen - tình cờ lại là người đã chữa chứng rối loạn Female Complaint cho bà nội anh. Sarah lau khô mắt và mượn Macon cây bút để viết tên vị bác sĩ lên mặt sau của mảnh giấy bọc kẹo kẹo cao su. Nhưng ông bác sĩ sẽ không từ chối cô chứ? cô hỏi. Ông sẽ không bảo cô ít nhất là phải đính hôn đã chứ? Ồ, được rồi, Macon nói, họ sẽ đính hôn. Sarah nói vậy thì thật là hay.
Thời gian từ lúc đính hôn đên khi cưới kéo dài ba năm, hết cả thời gian học ở trường đại học. Ông nội Leary cảm thấy nên hoãn
đám cưới lại lâu hơn nữa kia, chờ cho đến khi Macon ổn định công ăn việc làm hẵng; nhưng vì sẽ làm ở Leary Metals, nhà máy chuyên sản xuất nút chai cho các loại đồ uống giải khát, nên Macon chẳng thể thấy mình có chút tâm trí nào với chuyện đó. Thêm nữa, việc nhào vào nhào ra phòng ngủ của Sarah vào những ngày đi làm tình nguyện cho hội Chữ Thập đỏ của mẹ cô đã bắt đầu khiến cả hai thấy mỏi mệt.
Vậy là họ kết hôn vào mùa xuân ngay khi Macon vừa tốt nghiệp đại học, và Macon đi làm ở nhà máy trong khi Sarah dạy tiếng Anh tại một trường tư thục. Bảy năm sau Ethan ra đời. Đến lúc đó Sarah không còn gọi Macon là “người bí hiểm” nữa mà cái tính trầm của anh giờ đây khiến cô không chịu được. Macon biết hết, nhưng anh không biết phải làm sao. Một cách khá kỳ cục, anh bị khóa chặt vào trạng thái thờ ơ xa cách như vào buổi đầu gặp gỡ của hai người. Anh bị đóng băng ở đó. Nó giống như một lời răn đe trước đây của bà nội anh: “Đừng chụi mắt thế kẻo chúng chết gí ở đó luôn cho mà xem.” Cho dù anh đã cố gắng biết bao nhiêu để thay đổi tính nết của mình thì Sarah vẫn đối xử với anh như thể anh là một người nào đó có tính trầm tĩnh bất bình thường, điềm đạm hơn cô nhưng có lẽ cũng thiếu cảm xúc hơn.
Có lần Macon thấy Sarah đang cắm cúi chọn đáp án cho mục câu hỏi trắc nghiệm tâm lý trong một tạp chí phụ nữ - có câu “Cuộc hôn nhân của bạn hạnh phúc tới đâu?” - và Sarah đã tích dấu Đúng cho đáp án Tôi nghĩ rằng tôi yêu chồng tôi hơn anh ấy yêu tôi. Điều đáng lo ngại là sau khi khịt mũi một cách vô thức tỏ ý phủ nhận, anh đã tự hỏi liệu rốt cuộc thì điều ấy có quả thực như vậy không. Trong chừng mực nào đó, vai trò của anh không còn chút trọng lượng nào. Ngay cả giờ đây anh vẫn là một người đàn ông khá lạnh lùng xét về bản
chất, và nếu không tính đứa con trai (nó thật dễ dàng, dễ dàng; một đứa trẻ chẳng khó như một bài trắc nghiệm), thì không một ai khiến anh phải thật sự đớn đau.
Lúc này đây khi nghĩ về điều đó, anh chợt nghe lòng nhẹ nhõm khi thấy rằng rốt cuộc thì anh đã có nhớ Sarah. Nhưng rồi sự nhẹ nhõm ấy của anh dường như cũng chỉ là do anh cố tạo ra, anh lầm bầm lắc đầu và bứt mạnh tóc.
❀ ❀ ❀
Có một phụ nữ nào đó gọi cho anh, “Macon phải không?” Anh có thể ngay lập tức nhận ra đó không phải Sarah. Giọng Sarah nhẹ và nghe rõ cả tiếng thở; còn giọng người này cứng, thô, sang sảng. “Muriel đây.”
“Muriel.”
“Muriel Pritchett.”
“À, vâng,” anh nói, nhưng vẫn chưa nhớ được cô là ai. “Bệnh viện thú y chứ đâu nữa? Ai đã trông nom tử tế con chó của anh nhỉ?”
“Ồ, bệnh viện thú y!”
Anh đã hình dung được cô, dù vẫn còn chưa rõ nét. Anh trông thấy cô nói tên mình, âm u dài ra và âm p với hai vành môi son màu đỏ sậm mím chặt.
“Không biết con Edward ra sao rồi.”
Macon đưa mắt nhìn Edward. Anh và nó đang ở phòng làm việc của anh, Macon cố gõ mãi mới được nửa trang giấy. Edward nằm áp bụng xuống sàn, hai chân xoãi ra phía sau - những cái chân ngắn,
núc mỡ giống như hai cẳng của một người trong bộ đồ vịt nhồi tại công viên giải trí Long Island. “Tôi thấy nó vẫn ổn,” Macon nói. “Ý tôi là nó có cắn ai nữa không?”
“À, gần đây thì không, nhưng nó trở một chứng mới. Nó trở nên cáu bẳn khi tôi ra khỏi nhà. Nó sủa và nhe nanh ra.”
“Tôi vẫn nghĩ là nó cần được huấn luyện.”
“Ồ, cô biết đấy, nó đã bốn tuổi rưỡi và tôi cho rằng...” “Như thế đâu có quá già! Tôi có thể làm lúc nào cũng được, tuổi không thành vấn đề. Thế này nhé, có thể tôi sẽ ghé chỗ anh và ta trao đổi thêm. Anh và tôi có thể uống rượu hoặc gì đó và nói chuyện xem rắc rối của Edward là do đâu.”
“Ồ, tôi thật sự không nghĩ...”
“Hay anh có thể đến chỗ tôi. Tôi sẽ đãi anh bữa tối.”
Macon tự hỏi làm sao để lôi được con Edward tới ăn tối tại nhà một người lạ nào đấy.
“Macon? Anh nghĩ sao?” cô hỏi.
“Ồ, à, ưm... Tôi nghĩ lúc này tôi sẽ cố tự xoay sở.”
“Biết mà, tôi có thể hiểu điều đó,” cô nói. “Tin tôi đi. Tôi đã từng trải qua thời kỳ ấy. Vì vậy điều tôi sẽ làm là đợi anh liên lạc lại. Anh vẫn còn giữ danh thiếp của tôi chứ?”
Macon nói anh còn giữ, mặc dù anh chẳng biết nó đã lẫn đi đằng nào.
“Tôi không muốn bị xem là quá sốt sắng đâu!” cô nói. “Không, à... ” Macon nói. Rồi anh gác máy và tiếp tục với cuốn cẩm nang của mình.
Anh vẫn còn dang dở phần mở đầu, mà giờ đã là cuối tháng Tám. Làm sao anh có thể đúng hạn đây? Anh ngồi, sống lưng hơi lệch so với thành ghế. Phím s vẫn cứ mắc kẹt luôn. Anh gõ những từ như có thể nghe thấy được. “Không thể bắt chước.” Tiếng anh gõ nghe giống hệt cách Sarah nói “không thể bắt chước được”. “Anh với cách cái không thể bắt chước được...” cô bảo anh thế. Anh vội lắc mạnh đầu. Nhìn chung đồ ăn ở Anh không khiến người ta bực bội như ở những nước khác. Rau nấu vừa chín, đồ ăn chung với nước xốt trắng, bánh nhân táo tráng miệng... Tôi không hiểu tại sao một số khách du lịch lại chê thức ăn Anh.
***
Vào tháng Chín, anh quyết định thay đổi cách ăn mặc. Nếu anh mặc đồ thể thao ở nhà - loại không có dây kéo, không làm anh bị trầy xước và mắc kẹt - anh có thể tắm hai lần mà không cần thay bộ khác. Đồ thể thao có thể dùng như đồ ngủ và cả đồ mặc trong nhà ban ngày.
Anh mua hai bộ, màu xám không đậm không nhạt. Đêm đầu tiên anh mặc một bộ lên giường để tận hưởng cảm giác trong bộ quần áo ấy, và anh thấy thích thú khi không phải thay ra vào sáng hôm sau. Thật ra, anh chợt nghĩ rằng mình có thể mặc một bộ trong hai ngày; bỏ tắm một bữa. Cũng chỉ để tiết kiệm điện nước thôi mà. Sáng ra anh chỉ cạo râu thôi. Anh tự hỏi mình có cần phải để ria không.
Dù vậy vào quãng trưa ngày thứ hai anh bắt đầu thấy mình hơi thấp đi. Lúc anh đang ngồi bên máy đánh chữ, có gì đó khiến anh chú ý đên bộ dạng của mình - dáng gù xuống và nhếch nhác. Anh đổ lỗi cho bộ đồ thể thao. Anh đứng dậy, đi tới trước tấm gương dài trong phòng lớn. Hình ảnh phản chiếu từ tấm gương làm anh liên
tưởng đến một bệnh nhân trong bệnh viện tâm thần. Có lẽ một phần của vấn đề là do đôi giày mà ra - đôi giày màu đen có dây cột nhằm làm cho trang phục bảnh hơn. Anh có nên mua một đôi giày đế mềm không nhỉ? Nhưng anh ghét bị hiểu nhầm là đi chạy bộ. Anh để ý thấy nếu không đeo nịt ngang hông, bụng anh có thể sẽ xệ xuống. Anh rướn thẳng người lên. Tối đó lúc giặt bộ đồ thể thao đầu tiên, anh dùng nước nóng hơn bình thường một chút để làm nó co rút lại.
Sáng hôm sau anh thấy còn tồi tệ hơn nhiều. Tối qua thời tiết hơi oi nên lúc tỉnh dậy người anh nhớp nhúa mồ hôi và bức bối. Anh không thể chịu được cái ý nghĩ sẽ ăn sáng với bỏng ngô. Anh giặt một đống ga và rồi trong lúc phơi anh thấy mình đứng bất động, đầu cúi xuống đất, hai tay buông thõng qua dây phơi như thể bị ghim chặt ở đó. “Nhanh nào,” anh nói to. Giọng anh nghe rin rít vì ít dùng đến.
Hôm nay là ngày mua thực phẩm – thứ Ba, ngày siêu thị vắng người nhất. Chẳng biết vì lẽ gì anh không thể khiến mình phấn chấn lên để đi được. Anh hãi cái công việc đó với những cuốn sổ ghi địa chỉ, ba cuốn sổ nhật ký mua sắm. (Một cuốn lưu những dữ liệu từ tạp chí của Hiệp hội Người tiêu dùng Consumer Reports - nhãn hiệu bánh mì hàng đầu, chẳng hạn vậy, được liệt kê trên mặt giấy có đánh dấu chữ B. Trong một cuốn khác anh ghi các mức giá, và cuốn thư ba anh lưu những phiếu mua hàng, phiếu dự thưởng.) Anh cứ phải dừng lại để lật soàn soạt xem hết những thông tin trong đó, lẩm nhẩm giá cả trong họng, so sánh nhãn hiệu nội với nhãn hiệu ngoại. Ôi chao, mọi thứ dường như quá phức tạp. Sao lại phải tự làm khổ mình như thế? Sao lại phải ăn chứ?
Nhưng mà, anh cần sữa. Và đồ ăn cho con Edward sắp cạn rồi, con Helen thì hầu như không còn chút thức ăn nào cả.
Anh làm một việc chưa từng làm trước đây. Anh gọi cho The Market Basket - một cửa hàng tạp hóa nhỏ đắt đỏ chuyên giao hàng tận nhà. Và anh không chỉ gọi khẩu phần cho trường hợp khẩn cấp. Không, anh gọi cho cả tuần. “Chúng tôi mang đến cửa trước hay cửa sau ạ?” cô thư ký nói giọng màu mè.
“Lối sau,” Macon nói. “Không, chờ đã. Mang thực phẩm ra lối sau, nhưng đặt đồ ăn cho chó ngay cạnh máng đổ rác ấy.” “Máng đổ rác,” cô thư ký lặp lại, và hình như đang hí hoáy ghi vào giấy.
“Máng đổ rác ở bên hông nhà. Nhưng đồ ăn cho mèo thì không, cô mang theo vào cùng với thực phẩm.”
“Ồ, đợi đã...”
“Và các thứ dùng trên lầu thì mang đặt ở cửa trước.” “Thứ dùng trên lầu là gì?”
“Kem đánh răng, bánh xà bông hiệu Ivory, bánh quy cho chó...” “Tôi tưởng bánh cho chó anh bảo mang xuống cạnh máng đổ rác.”
“Không phải bánh quy cho chó, mà là đồ ăn cho chó! Đồ ăn cần được mang xuống chỗ cái máng đổ rác ấy, mẹ kiếp.” “Này, anh,” cô thư ký nói. “Không ai gọi đến mà lại thô lỗ thế đâu.” “Ồ, tôi xin lỗi,” Macon bảo cô, “nhưng tôi chỉ muốn những thứ đơn giản nhất, với tôi dường như là vậy: một hộp nhỏ bánh quy Milkbone để phía trên cạnh giường ngủ. Nếu cho con Edward ăn bắp rang bơ nó sẽ bị ách bụng. Nếu không thì tôi cũng chẳng việc gì mà không cho nó ăn bắp rang bơ cùng tôi; không phải tôi giành ăn hay gì gì đó, nhưng nó nhạy cảm với thức ăn béo và tôi sống chỉ một mình, chính
tôi là người phải lau dọn cho nó nếu nó lăn ra ốm. Tôi là người duy nhất làm điều đó; tôi chỉ sống một mình; một mình tôi; dường như ai cũng cứ... dạt ra khỏi tôi, tôi không biết nữa, tôi đã đánh mất họ; tôi bị bỏ lại đứng đây một mình và tự hỏi, ‘Họ đã đi đâu? Họ đâu mất rồi? Ôi, Chúa ơi, chẳng lẽ những điều con đã làm lại tồi tệ đến thế sao?’”
Giọng anh không được ổn và anh gác máy. Anh đứng bên điện thoại day day trán. Anh đã cho cô ta biết tên anh rồi? Hay là chưa. Anh không tài nào nhớ nổi. Cầu trời anh chưa cho cô ta biết tên.
Anh thấy rã rời; rõ ràng là vậy. Anh phải cố làm chủ bản thân. Điều trước tiên là: dẹp cái bộ đồ thể thao này đi. Nó chỉ đem lại xui xẻo thôi. Anh vỗ mạnh hai tay vào nhau rồi leo lên lầu. Trong phòng tắm, anh cởi phăng bộ đồ thể thao ra và quăng vào chậu giặt. Bộ đồ hôm qua treo trên khung màn quây ở phòng tắm vẫn còn ẩm. Chẳng thể nào nó khô nổi trước tối nay. Sai lầm quá! Anh thấy mình giống một thằng khờ. Chỉ một ly nữa thôi là anh sẽ chẳng khác gì một trong những gã rượu chè bê tha người ta vẫn hay thấy hàng ngày - chẳng tắm gội, chẳng cạo râu, dáng dấp chẳng ra hồn, lảm nhảm một mình, và bước đi khệnh khạng.
Giờ đây khi đã gọn ghẽ trong áo sơ mi trắng, quần ka ki, anh gom bộ đồ thể thao vẫn còn ẩm lại và mang nó xuống tầng hầm. Ít ra vào mùa đông anh có thể mặc nó để ngủ. Anh cho nó vào máy sấy, lại chèn cái ống xả nơi cửa sổ, và bật chế độ. Thà tốn một ít điện còn hơn là khổ sở với bộ đồ thể thao sũng nước.
Ngay bậc thang đầu tiên dẫn xuống tầng hầm, Edward dừng lại rên rỉ. Nó thấy đói nhưng không đủ táo gan để tự xuống đó. Khi thấy thấp thoáng bóng Macon, nó nằm rạp xuống mũi thúc lia lịa vào bậc thang trên cùng với hy vọng rằng Macon sẽ đưa nó xuống dưới. “Đồ nhát gan,” Macon nói với con chó. Macon xốc nó lên bằng hai tay và ì
ạch lôi nó xuống. Răng của Edward bắt đầu va vào nhau - lập cà lập cập lập cà lập cập. Macon chợt lóe lên ý nghĩ rằng có thể Edward biết điều gì đó, còn anh thì không. Liệu có ma ở tầng hầm không nhỉ, hay có gì khác? Đã mấy tuần rồi mà Edward vẫn còn hãi đến độ có vài bận anh đặt nó xuống trước chỗ thức ăn rồi mà nó vẫn cứ đứng rũ ra đó vãi tè mà không buồn nhấc một chân sau lên. “Mày đúng là đồ ngốc, Edward,” Macon nói với nó.
Rồi ngay sau đó, một tiếng tru đầy ma quái phát ra từ... từ đâu nhỉ? Từ ngay trong tầng hầm, dường như là vậy. Âm thanh đó tiếp tục phát ra, dai dẳng. Edward, từ lúc giờ hẳn đã chuẩn bị tinh thần cho cái âm thanh đó, ngay lập tức đá bật đôi chân sau chắc khỏe đầy móng vuốt của nó vào ngực Macon làm anh chới với. Edward phóng vút vào dãy túi ngủ còn ẩm đang treo trên dây phơi, bị đẩy bật ra, và rơi vèo xuống ngay chính giữa bụng Macon. Anh dẫm đại một chân vào trong cái giỏ có bánh xe và hai chân anh như hẫng đi.
Anh nằm ngửa trên sàn xi măng lạnh ẩm với chân trái gập lại bên dưới. Cái âm thanh khiến mọi thứ lộn tùng phèo chợt bẵng đi trong tích tắc rồi lại rộ lên. Giờ thì đã rõ, tiếng động đó phát ra từ ống xả máy sấy. “Này,” Macon nói với Edward đang nằm sõng soài hổn hển. “Mày không nghĩ con mèo ngốc nghếch biết cái máy sấy đang chạy chứ?”
Anh có thể thấy mọi việc đã xảy ra như thế nào. Con mèo bị luồng khí trong ống xả máy sấy cản lại nhưng nó vẫn bướng bỉnh cố vào sâu hơn cho bằng được. Anh thấy đôi mắt nó dán chặt vào các kẽ hở, hai tai bị thổi bật ngược ra phía sau. Miệng kêu gào ầm ĩ, nó vẫn tiếp tục đánh vật với luồng khí kia mà không chịu chùn bước. Gan lì hết chỗ nói!
Macon hất Edward xuống và sấp người lại. Chỉ một cử động nhỏ thế thôi cũng khiến anh đau đớn cực độ. Anh thấy có gì đó chèn ngay họng khiến anh buồn nôn, nhưng anh cố gượng dậy và đứng lên đi với một chân kéo lê theo sau. Cắn chặt răng lại, anh cố bước tới cửa máy sấy và mở ra. Bộ đồ thể thao chầm chậm ngừng quay. Con mèo thôi kêu gào. Anh quan sát cái dáng vụng về của nó đang nhích từng chút một về phía cuối ống xả. Ngay khi nó tới được lối ra, toàn bộ cái ống rơi khỏi cửa sổ và lộn nhào xuống bồn giặt, nhưng Helen không rơi cùng cái ống. Anh nghĩ chắc nó không sao. Anh quan sát cho đến khi nó phóng vút qua cửa sổ kia, trông khá nhàu nhĩ. Rồi anh hít một hơi thật sâu và bắt đầu chậm chạp lê từng bước đầy khó khăn lên các bậc cấp để nhờ người giúp đỡ.
Chương 5
“Ôi, tôi đi lang thang và trượt chân suýt ngã,” em gái Macon hát trong nhà bếp, “tôi sai lầm và thiếu sáng suốt...”
Cô có giọng nữ cao hơi run nghe giống như giọng của một quý bà đứng tuổi mặc dù cô ít tuổi hơn Macon. Có thể hình dung một giọng như vậy trong nhà thờ, một giai điệu nhạc đồng quê trong dàn hợp xướng gồm các quý bà vẫn còn đội mũ rơm rộng vành.
Tôi chỉ là một người hành hương may mắn
Trên đường lên Thiên đàng.
Macon nằm trên chiếc sofa trong phòng nắng* ở nhà ông bà. Chân trái của anh, bó bột từ giữa đùi cho tới nửa trên bàn chân, cảm giác đau đớn không lớn bằng cái cảm giác rằng nó không hề tồn tại. Cảm giác ấy khiến Macon cứ muốn cấu cẳng chân của mình để xem
nó có còn đó không. Dĩ nhiên là anh chẳng thể làm được điều đó. Anh bị tách ra khỏi bản thân mình. Đầu anh ong lên bởi cảm giác ấy cứ như nghe phải một cú nện vào tường từ phòng bên cạnh. Sun porch: căn phòng với những cửa sổ kính lớn và thường có mái bằng kính, được thiết kế để đón nhiều ánh sáng.
Dẫu vậy anh vẫn thấy dễ chịu. Anh nằm nghe cô em gái chuẩn bị bữa sáng, hờ hững gãi con mèo đang nằm cuộn trên chiếc chăn. “Tôi gian nan, tôi buồn nản,” Rose thích thú hát với giọng rung rung, “Tôi sầu não mà không nề hà...” Khi đã pha cà phê xong, cô đến giúp anh
băng qua phòng khách xuống phòng tắm dưới lầu. Anh vẫn còn cảm thầy khó đi lại, đặc biệt là trên sàn nhà bóng loáng thế này. Giờ đây anh thấy ngưỡng mộ những người phải di chuyển bằng đôi nạng, điều mà trước đây anh cho rằng đương nhiên phải thế. Anh thấy họ như một bầy chim có dáng đi lắc lư, thành thạo một cách đáng kinh ngạc với các bước nhảy lò cò đầy sức sống và những cú xoay yêu đời. Thế nào mà họ làm được như vậy?
Cái nạng của anh, quá mới đến nỗi đầu bịt cao su chưa trầy xước tí nào, được dựng chống vào tường. Áo choàng tắm vắt trên ghế. Bên dưới cửa sổ là một chiếc bàn có thể xếp gọn lại, mặt gỗ có vân và chân thì đã lung lay. Ông bà anh mất đã nhiều năm nay, nhưng cái bàn vẫn đứng đó tựa hồ để dành cho một trong những ván bài bridge bất hủ của họ. Macon biết rằng mặt dưới cái bàn có một nhãn hiệu màu vàng với dòng chữ ATLAS MFG. CO. chạm trổ bằng thép hình sáu người đàn ông vận lễ phục với áo cổ cồn dựng cao trang nghiêm đứng trên một tấm ván ngang qua một cái bàn giống y hệt cái bàn này. Lời chú thích bên dưới - CUNG CẤP ĐỒ DÙNG TAO NHÃ GIẢ TẠO - khiến Macon liên tưởng đến bà nội anh: sự tao nhã giả tạo. Hồi còn bé khi nằm dài trên sàn phòng nắng, Macon thường săm soi đôi chân yếu ớt của bà, đôi chân với hai mắt cá nhô ra như hai nắm đấm cửa. Đôi giày thấp, màu đen, đóng chắc chắn, dán chặt xuống đất, chân nọ cách chân kia chừng ba mươi phân, chẳng bao giờ chuệch choạc hay gây tiếng động gì.
Anh nghe thấy tiếng Porter, anh trai anh, lên lầu, huýt sáo theo bài Rose đang hát. Anh biết đích xác đó chính là Porter, ấy là vì Charles chả huýt sáo bao giờ. Có tiếng nước chảy từ vòi hoa sen. Em gái anh nhìn qua cửa phòng nắng, Edward lấp ló đằng sau và thở hổn hển như thể đang cười cợt với Macon.
“Macon? Anh thức không đấy?” Rose hỏi.
“Anh đã thức được mấy giờ đồng hồ rồi,” anh bảo cô, do cái tính có phần thiếu dứt khoát của cô nên các anh trai cứ hễ lúc nào cô tình cờ để mắt đến là lại tỏ ra vờ vĩnh để được nuông chiều. Cô thật ưa nhìn với phong cách nghiêm trang, đứng đắn, mái tóc màu be búi gọn ra phía sau. Dáng vóc cô vẫn còn trẻ trung, nhưng cách ăn bận thì theo lối già nua và thâm nghiêm kín đáo.
Cô khoác áo choàng tắm lên cho anh và giúp anh đứng dậy. Giờ thì chân anh đau kinh khủng. Dường như chính lực hấp dẫn đã gây ra cơn đau ấy. Một cơn đau nhói lan xuống từ từ dọc theo xương chân. Rose đỡ một bên, chiếc nạng đỡ bên kia, anh tập tễnh ra khỏi phòng nắng, băng qua phòng khách nơi có những thứ đồ đạc với các vòng xoắn trang trí cũ kỹ. Con chó vẫn quẩn theo. “Chắc anh phải nghỉ một chút đã,” Macon nói khi họ đi ngang qua chiếc trường kỷ.
“Còn chút nữa thôi mà.”
Họ đi vào phòng để đồ ăn. Rose mở cửa phòng tắm và giúp anh vào trong. “Lúc nào xong thì gọi em nhé,” cô nói, và đóng cửa lại. Macon nghiêng người tựa vào bồn rửa.
Lúc ăn sáng, Porter hào hứng nói luôn mồm trong khi những người còn lại ăn trong im lặng. Porter ưa nhìn nhất trong đám đàn ông nhà Leary - rắn rỏi hơn Macon, tóc anh cũng màu vàng hoe nhưng sáng hơn. Mọi người có ấn tượng anh là người đầy sức sống và có khả năng lãnh đạo – điều mà các anh em trai anh không có. “Hôm nay nhiều việc đây,” anh nói khi đang nhồm nhoàm nhai. “Họp với Herrin, mấy cuộc phỏng vấn cho công việc cũ rích của Dave, Cates bay về từ Atlanta...”
Charles chỉ nhâm nhi cà phê. Trong khi Porter đã áo quần tề chỉnh, Charles vẫn còn mặc đồ ngủ. Anh là người ôn hòa, có khuôn mặt trầm lặng, dường như chẳng lúc nào biểu lộ điều gì; bất cứ khi nào ai đó nhìn anh sẽ bắt gặp một ánh mắt âu sầu dè dặt.
Rose mang cà phê từ bếp ra. “Tối qua, Edward gọi em dậy hai lần đòi ra ngoài,” cô nói. “Anh có nghĩ là nó gặp rắc rối gì đó về thận không?”
“Chỉ là một chút điểu chỉnh thôi mà,” Macon nói. “Điều chỉnh theo sự thay đổi. Anh không hiểu sao nó biết là không được đánh thức anh.”
Porter nói, “Có thể ta nên làm tạm một cái gì đó. Một chỗ ra vào nhỏ dành cho thú cưng hay gì đó chẳng hạn.”
“Cái bộ dạng béo tròn béo trục của Edward không thích hợp với chỗ ra vào kiểu thế đâu,” Macon nói.
“Thêm nữa,” Rose nói, “sân không có hàng rào. Ta chẳng thể cho nó ra ngoài một mình chỗ không có hàng rào bảo vệ như thế.” "Vậy một cái sọt rác nhé,” Porter đề xuất.
“Sọt rác! Cho chó?”
Tại sao không chứ? Nếu nó đủ to cho con Edward.”
Macon nói, “Thôi dùng cái bồn tắm đi. Dưới tầng hầm có một cái. Từ lâu rồi không ai dùng đến.”
“Nhưng ai sẽ cọ rửa cái bồn đây?”
“À.”
Mấy cặp mắt đổ dồn vào Edward đang nằm dưới chân Rose. Nó giương mắt lên nhìn lại.
“Mà sao em có nó vậy?” Porter hồi Marcon.
“Của Ethan đấy.”
“Ồ, ra vậy,” Porter nói. Anh hắng giọng. “Động vật ấy mà!” anh nói một cách hứng thú. “Có bao giờ ta để ý đến việc liệu chúng nghĩ gì về chúng ta không? Ý anh là, chúng ta ra quầy thực phẩm lôi về hàng đống thứ - nào là thịt gà, thịt lợn, rồi cả tảng thịt bò to tướng. Chúng ta ra khỏi nhà lúc chín giờ và trở về lúc mười giờ, và rõ ràng là chộp về cả bầy động vật đủ loại. Hẳn bọn chúng sẽ phải nghĩ rằng ta đích thị là những gã thợ săn cừ khôi nhất trên thế gian này.”
Macon ngả người ra ghế với ly cà phê lọt thỏm trong hai bàn tay khum lại. Ánh mặt trời khiến cho bàn ăn sáng ấm lên, và nhà bếp thoang thoảng mùi bánh mì nướng. Kỳ thực, anh tự hỏi có phải là từ tiềm thức, anh đã từng bước gây ra thương tật này cốt là để có thể quay trở về bên những người thân yêu đã sống cùng anh những năm tháng đầu đời.
❀ ❀ ❀
Charles và Porter đi làm ở nhà máy, còn Rose lên lầu hút bụi. Macon, định tiếp tục với cuốn cẩm nang, khó nhọc khập khiễng quay ra phòng nắng và từ từ buông người xuống sofa. Từ khi về nhà anh đâm ra ngủ quá nhiều. Cơn buồn ngủ cứ ập tới như thể một viên đạn đen thui to tướng đang chạy khắp hộp sọ anh khiến cho đầu anh trĩu nặng và rồi gục xuống.
Trên tường phía cuối căn phòng có treo một bức tranh bốn anh em nhà Leary: Charles, Macon, Porter và Rose tụ lại bên một chiếc ghế bành. Ông nội cho họa bức ảnh đó vài năm trước khi cả bốn anh em về sống với ông. Lúc đó họ vẫn còn sống tại California cùng mẹ -
"""