"
Du Học 0 Đồng - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Self Help]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Du Học 0 Đồng - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Self Help]
Ebooks
Nhóm Zalo
du-hoc-0-dong_outline_17.12
Mục lục
1. Lời nói đầu
2. PHẦN I: ĐỊNH HƯỚNG SĂN HỌC BỔNG
3. Tổng quan về học bổng du học
4. Thái độ săn học bổng
5. Những điều bạn cần biết về ứng tuyển học bổng 6. Thư giới thiệu cho học bổng và những điều cần lưu ý 7. Bài luận xin học bổng: Nên và không nên
8. Chuẩn bị cho phỏng vấn học bổng
9. PHẦN 2: TRÒ CHUYỆN VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐÃ GIÀNH ĐƯỢC HỌC BỔNG
10. Học bổng chính phủ Mỹ Fulbright
11. Học bổng chính phủ úc Australia Awards Scholarship 12. Học bổng chính phủ New Zealand New Zealand Asean 13. Học bổng liên minh châu Âu Erasmus Mundus 14. Học bổng chính phủ Anh Chevening
15. Học bổng chính phủ Thụy Điển - SISS
16. Học bổng chính phủ Pháp - Eiffel
17. Học bổng chính phủ Ireland Irish Aid
18. Học bổng chính phủ Đức
19. Học bổng chính phủ Nhật MEXT
20. Học bổng phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản - JDS 21. Học bổng theo quỹ Hinrich Foundation
22. Học bổng Schwarzman Scholars
23. Trò chuyện cùng CEO Nguồn Học Bổng
24. Lời kết
25. Kế hoạch săn học bổng của bạn
26. Tủ sách trải nghiệm du học
1
Lời nói đầu
BẮT ĐẦU MỘT NGÀY làm việc bình thường, tôi kiểm tra email như thường lệ để xem có bạn nào cần hỗ trợ về học bổng du học hay không thì tôi nhận được email này:
“Em viết thư này để cảm ơn chị Hoài và mạng lưới Mentor1 mà chị sáng lập đã giúp em xem và chỉnh sửa hồ sơ học bổng của mình. Nhờ đó, em đã nhận được học bổng của Erasmus Mundus năm nay. Em mong chị sẽ tiếp tục những đóng góp của mình hỗ trợ các bạn đi du học bằng học bổng. Nếu chị cần gì ở em, em sẽ sẵn lòng giúp đỡ.”
– Lan Nguyễn
1 Người hỗ trợ săn học bổng.
Đây là cô học trò đầu tiên mà đội ngũ của tôi đã hỗ trợ săn học bổng thành công. Và trong hơn 3 năm qua, chúng tôi đều nhận được những email giống như vậy. Có bạn thì thành công với học bổng toàn phần của trường, có bạn thì đạt học bổng chính phủ, có bạn thì vừa chuyển trường thành công vừa được trường cấp học bổng, có bạn vừa nhận học bổng Tiến sĩ... Không thể kể hết những trường hợp săn học bổng Thạc sĩ, Tiến sĩ thành công mà đội ngũ của tôi trên khắp thế giới đã hỗ trợ.
Hơn 3 năm qua, tôi cùng đội ngũ của mình làm việc với rất nhiều bạn đã đạt học bổng, phân tích hàng ngàn hồ sơ từ thành công đến thất bại (có những bạn thất bại đến 4 năm liền), tìm hiểu từng quy trình xét duyệt học bổng của mỗi quốc gia (học bổng chính phủ), mỗi trường (học bổng trường), học bổng toàn phần…
2
Từ đó, tôi thấu hiểu được đặc điểm ứng viên và quy trình xét duyệt của mỗi loại học bổng. Với những kinh nghiệm đó, tôi cũng như đội ngũ của mình thật sự muốn viết một quyển sách để chia sẻ và truyền cảm hứng cho các bạn trẻ.
3
Sau rất nhiều lần lên ý tưởng để viết sách nhưng vẫn chưa ra ý tưởng nào hay, tôi chợt nhớ đến một chương trình của đài truyền hình Singapore – Channel News Asia (CNA) – kênh truyền hình yêu thích mà tôi vẫn xem hằng ngày. Mỗi sáng thứ tư hằng tuần, họ dành khoảng hơn mười phút phỏng vấn các nhân vật thành công. Đó có thể là giám đốc điều hành các công ty – tập đoàn, có thể là diễn viên điện ảnh nổi tiếng trên thế giới, có thể là nhân vật có ảnh hưởng trong một ngành nào đó…
Tôi nghĩ rằng đây là ý rất hay để triển khai viết một quyển sách chia sẻ kinh nghiệm từ những bạn đã đạt học bổng chính phủ cũng như học bổng toàn phần. Sẽ không ai biết rõ các loại học bổng này bằng chính họ. Họ cũng chính là đại sứ của học bổng đó và chắc chắn là
nguồn cảm hứng để tạo động lực cho các bạn trẻ. Đây cũng chính là lý do mà tôi phỏng vấn gần hết các bạn đại diện cho mỗi loại học bổng chính phủ khác nhau từ châu Á sang châu Âu, từ châu Mỹ đến châu Úc.
Quyển sách này được chia làm hai phần với nội dung khác nhau rõ rệt nhưng lại bổ sung ý cho nhau vì phần hai sẽ là phần làm rõ cho những chỉ dẫn phần một.
Phần một của quyển sách là loạt bài chia sẻ kinh nghiệm cho từng hạng mục giấy tờ nộp săn học bổng nên được chuẩn bị như thế nào để hiệu quả và gây ấn tượng. Ngoài ra, bạn sẽ được đọc hai bài viết rất chi tiết để hỗ trợ bạn định hướng lựa chọn học bổng du học và cần có thái độ như thế nào đối với việc săn học bổng. Tất cả đều là những lời tâm huyết viết ra từ một người có nhiều kinh nghiệm giúp đỡ hơn 100 bạn săn học bổng thành công trong hơn 5 năm qua.
Phần hai là loạt bài phỏng vấn các bạn đã đạt các loại học bổng chính phủ, học bổng toàn phần khác nhau với rất nhiều lĩnh vực và ngành nghề. Đây cũng là phần rất đặc biệt của quyển sách này.
Có hai ý nghĩa mà tôi rất thích khi triển khai phần hai của quyển sách này theo hình thức phỏng vấn. Đầu tiên, các bạn đạt học bổng chính phủ, học bổng toàn phần nào sẽ nói về học bổng đó theo góc nhìn của họ, bạn đọc sẽ có góc nhìn đa chiều và hiểu hơn về các loại học bổng khác nhau. Thứ hai là vì sao tôi chọn chủ đề xuyên suốt là học bổng chính phủ, học bổng toàn phần? Vì đây là phương án học bổng được rất nhiều bạn trẻ Việt Nam ưu tiên lựa chọn do các bạn sẽ được tài trợ toàn bộ học phí, sinh hoạt phí và các phụ phí khác.
Tóm lại du học bằng học bổng chính phủ hay học bổng toàn phần, đội ngũ Nguồn Học Bổng thường gọi là giải pháp “Du học 0 đồng”.
Thêm nữa là trong quyển sách này sẽ có những câu hỏi thảo luận về cùng một vấn đề. Bạn đọc sẽ có góc nhìn đa chiều hơn thông qua những suy nghĩ khác nhau của các bạn từng đạt học bổng.
Một điểm đáng chú ý trong quyển sách này chính là bài phỏng vấn người quản lý và điều hành website nguonhocbong.com. Đây là một dịp để bạn đọc được hiểu nhiều hơn về nguonhocbong.com và về góc nhìn của một người quản lý nền tảng kết nối giữa các bạn muốn săn học bổng và người hướng dẫn săn học bổng. Thành quả chúng tôi đạt được là hơn hai triệu đô mỗi năm – giá trị tiền học bổng cho học trò của mình.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn những người bạn đã cùng tôi xây dựng nội dung quyển sách này. Mỗi bạn là những miếng ghép đã làm nên tác phẩm rất đặc biệt này.
– TRẦN THỊ NGỌC HOÀI
Quản lý và Điều hành nguonhocbong.com
4
Phần I ĐỊNH HƯỚNG SĂN HỌC BỔNG
5
Tổng quan về học bổng du học
– HOÀNG ĐỨC LONG, CHEVENING 2015
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY, học bổng hay hỗ trợ tài chính đã trở thành những từ khóa quen thuộc. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nhầm lẫn giữa các thuật ngữ như học bổng, hỗ trợ tài chính, trợ cấp hay miễn giảm học phí. Hoặc, một số người không hiểu đặc tính và tiêu chí ưu tiên của các học bổng. Để tránh những sai lầm không đáng có trong việc tìm kiếm và chuẩn bị hồ sơ cho học bổng, các ứng viên cần thông tin chính xác về các dạng hỗ trợ tài chính cho học tập, các thuộc tính của học bổng và các loại học bổng. Mục đích của bài viết này là cung cấp những thông tin đó cho bạn đọc.
6
CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ HỖ TRỢ TÀI CHÍNH CHO HỌC TẬP Hỗ trợ tài chính cho sinh viên (student financial aid):
Là dạng hỗ trợ tài chính để các cá nhân chi trả những chi phí thiết yếu cho việc học tập, bao gồm học phí, sinh hoạt phí và tài liệu học tập. Hỗ trợ tài chính cho sinh viên bao gồm tất cả các dạng như học bổng học phí, học bổng học phí và cả sinh hoạt phí, trợ cấp tiền, khoản vay học tập và việc làm thêm trong học kỳ.
Học bổng (scholarship):
Là hỗ trợ tài chính bằng tiền, hoặc bằng việc miễn giảm một phần hoặc toàn bộ học phí. Học bổng khác các dạng hỗ trợ tài chính khác ở điểm: Ban xét duyệt học bổng hầu như luôn xem xét các tiêu chí về khả năng học thuật, tài năng và phẩm chất cá nhân của ứng viên. Ban xét duyệt học bổng cũng có thể dựa trên các đặc điểm về phông nền lý lịch của ứng viên như nơi sinh sống và làm việc, giới tính, chủng tộc hoặc tôn giáo để trao học bổng.
7
Trợ cấp (grant):
Là hỗ trợ tài chính bằng tiền, thường được xét dựa trên nhu cầu và khả năng chi trả của gia đình ứng viên.
Miễn giảm học phí theo chính sách:
Là hỗ trợ tài chính theo hình thức miễn giảm một phần hoặc toàn phần học phí khi ứng viên thỏa mãn tất cả các điều kiện chính xác của chính sách học phí. Miễn giảm học phí theo chính sách khác học bổng hay trợ cấp ở chỗ tất cả các sinh viên thỏa mãn điều kiện cơ bản của chính sách đều sẽ nhận được khoản hỗ trợ. Ứng viên không cần phải ứng tuyển hay cạnh tranh với ứng viên khác để giành được khoản hỗ trợ tài chính này.
Việc làm thêm trong học kỳ (work study):
8
Là một hình thức hỗ trợ tài chính trong đó ứng viên được trao cho một công việc tại cơ sở giáo dục mà người đó đang theo học. Công việc này có thể liên quan đến ngành học của ứng viên và cho phép ứng viên có một khoản tiền lương hoặc trợ cấp nhất định để trang trải phần nào sinh hoạt phí và học phí.
Như vậy, đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt học bổng với các dạng hỗ trợ tài chính khác bao gồm:
• Hình thức cấp: Hỗ trợ học phí hoặc hỗ trợ cả học phí lẫn sinh hoạt phí.
• Hình thức cạnh tranh: Các tiêu chí cạnh tranh phải bao gồm (nhưng không bị giới hạn trong) các tiêu chí về năng lực, phẩm chất ứng viên.
Những đặc tính cần quan tâm của học bổng
Nguồn học bổng
Nguồn học bổng là đơn vị, tổ chức hay chính phủ cấp học bổng. Nguồn học bổng chia làm các dạng sau:
• Học bổng chính phủ do các chính phủ hoặc tổ chức liên hiệp chính phủ cấp. Ví dụ: Học bổng Fulbright do chính phủ Mỹ cấp, học bổng Chevening do chính phủ Anh cấp, học bổng Erasmus Mundus do Ủy ban châu Âu cấp.
• Học bổng trường do các trường đại học cấp. Ví dụ: Học bổng Clarendon của Đại học Oxford.
• Học bổng quỹ do các tổ chức hoặc quỹ cấp. Ví dụ: Học bổng ADB do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cấp, học bổng OFID do Quỹ Phát triển Quốc tế của OPEC cấp.
Hiểu rõ loại nguồn cấp học bổng sẽ giúp ứng viên hiểu được mục tiêu quan trọng nhất của quỹ khi trao học bổng. Ví dụ: Các chính phủ thường hướng tới các mục tiêu phát triển xã hội – kinh tế và lợi ích dài hạn cho chính phủ đó, trong khi các trường đại học có thể quan tâm hơn tới các lợi ích về học thuật và mối quan hệ.
Tiêu chí cơ bản
Tiêu chí cơ bản (eligibility requirements) là các điều kiện tối thiểu mà ứng viên cần phải đạt được để được xét học bổng hoặc nhận học bổng. Các điều kiện này có thể bao gồm thời gian làm việc tối thiểu, khả năng sử dụng tiếng Anh trong môi trường học thuật, quốc tịch hoặc cam kết với đơn vị cấp học bổng. Tiêu chí cơ bản có thể có thể được chia thành hai dạng:
• Có cam kết: Là các học bổng yêu cầu ứng viên phải thực hiện một số cam kết sau khi kết thúc thời gian học. Cam kết phổ biến là quay trở lại Việt Nam làm việc ít nhất 2 năm sau khi hoàn thành chương trình học ở nước ngoài. Học bổng dạng này thường xuyên đi kèm với một tiêu chí cơ bản khác: Ứng viên có khoảng 2 năm kinh nghiệm (dao động tùy chương trình). Các học bổng này cũng
thường xét đến khả năng đóng góp của ứng viên cho Việt Nam để chọn người trao học bổng.
• Không cam kết: Là các học bổng không yêu cầu ứng viên phải thực hiện cam kết sau khi kết thúc thời gian học. Ứng viên hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn điểm đến tiếp theo về địa lý cũng như trong sự nghiệp. Học bổng dạng này thường không yêu cầu ứng viên có kinh nghiệm làm việc. Các học bổng trường thường nằm trong dạng này và thường xét đến các yếu tố năng lực cá nhân, đặc biệt là năng lực học thuật.
Facts and tips #1: Các tiêu chí cơ bản luôn được ghi rất rõ trên trang mạng chính thức của chương trình học bổng. Hãy đọc thật kỹ và hiểu thật rõ các tiêu chí này.
Nhóm học bổng cạnh tranh
Nhóm cạnh tranh bao gồm ba loại:
• Cạnh tranh quốc tế: Là các học bổng mà ứng viên phải cạnh tranh với những người đến từ nhiều nước khác nhau. Ví dụ: Học bổng Cambridge Gates, học bổng Clarendon của Đại học Oxford. Nhìn chung, các học bổng cạnh tranh quốc tế thường đòi hỏi ứng viên phải có năng lực học thuật xuất sắc và tầm phát triển cao về tư duy và tâm lý.
• Cạnh tranh khu vực: Là các học bổng mà ứng viên chỉ phải cạnh tranh với những người trong cùng một quốc gia hoặc một khu vực nhỏ. Ví dụ: Các học bổng chính phủ như Fulbright hay New Zealand Asean đều có một số suất học bổng cố định cho Việt Nam. Hoặc học bổng SISS chia các nước trên thế giới thành nhiều khu vực (category) và các ứng viên đến từ cùng một khu vực sẽ cạnh tranh với nhau. Việt Nam nằm trong khu vực hai và ứng viên Việt Nam sẽ cạnh tranh với ứng viên đến từ sáu nước khác, cụ thể là Brazil, Colombia, Ai Cập, Ghana, Indonesia, Iran và Việt Nam.
• Cạnh tranh hỗn hợp: Là các học bổng có quy trình tuyển chọn gồm nhiều vòng hoặc nhiều phần, mỗi vòng hoặc mỗi phần sử dụng một
nhóm cạnh tranh khác nhau. Ví dụ: Học bổng Erasmus Mundus có hai vòng xét tuyển. Ở vòng một, các ứng viên đến từ khắp nơi trên thế giới được đánh giá theo bộ tiêu chuẩn riêng của chương trình và ban xét duyệt sẽ chọn ra những người có điểm cao nhất bất kể quốc tịch (tuy nhiên không nhiều hơn hai người từ cùng một quốc tịch). Những người này chắc chắn sẽ nhận học bổng. Ở vòng hai, ban xét duyệt sẽ chọn ra các ứng viên phù hợp nhất trong số ứng viên dự bị bằng cách sau. Họ chia thế giới thành 14 vùng và chỉ chọn ra tối đa từ mỗi vùng một ứng viên (có nghĩa là sẽ có vùng không có ứng viên nào được chọn) để bổ sung vào danh sách nhận học bổng. Điều này có nghĩa là ứng viên này chỉ cạnh tranh trong vùng.
Tiêu chí ưu tiên
Tiêu chí cố định (hay tiêu chí ưu tiên) là tiêu chí xét đến yếu tố phông nền (background), những đặc điểm khó hoặc không có khả năng thay đổi như nơi sinh sống, sắc tộc, ngành học. Tiêu chí ưu tiên gồm rất nhiều loại. Dưới đây là bốn loại chính:
• Ưu tiên khu vực: Một số học bổng có sự ưu tiên rõ rệt cho các vùng chưa phát triển hoặc các vùng không trực thuộc trung ương. Ví dụ: Hà Tĩnh, Thái Nguyên và Cần Thơ luôn được một số chương trình nhất định trao các suất học bổng du học toàn phần trong nhiều năm.
• Học bổng ưu tiên ngành học: Là các học bổng có sự ưu tiên rõ rệt cho các ứng viên theo học một số ngành hoặc nhóm ngành nhất định. Ví dụ: Học bổng New Zealand Asean dành sự ưu tiên đặc biệt (flagship priority) cho các ứng viên theo học các nhóm ngành Phát triển Nông nghiệp và Năng lượng Tái tạo1.
1 What you can study, [Tài liệu trực tuyến]. Truy cập tại: https://www.mfat.govt.nz/en/ aid-and-development/scholar ships/what- can-i-study/.
• Học bổng ưu tiên quốc tịch: Là các học bổng có xét đến yếu tố quốc tịch để chọn ứng viên, với mục tiêu đảm bảo sự đa dạng về
phông nền văn hóa và sắc tộc. Ví dụ: Một số trường đại học luôn muốn đảm bảo lứa sinh viên họ tuyển chọn trong 1 năm phản ánh đúng thành phần xã hội của cộng đồng để tạo ra một xã hội thu nhỏ trong cộng đồng. Hiểu một cách đơn giản, nếu người gốc Á chiếm 3% dân số cộng đồng thì trong 100 sinh viên mới tuyển phải có 3 sinh viên người gốc Á.
• Học bổng ưu tiên di sản thừa kế: Di sản thừa kế ở đây được hiểu là các tài sản dài hạn như mối quan hệ hay quyền lực. Những học bổng ưu tiên tài sản thừa kế (legacy preferences) là các học bổng
ưu tiên ứng viên có khả năng giúp trường duy trì và mở rộng mối quan hệ lẫn quyền lực với các nhân vật và mạng lưới có tầm ảnh hưởng. Ví dụ: 10-30% sinh viên được nhập học vào các trường trong nhóm Ivy League2 được tuyển chọn do ưu tiên di sản thừa kế. Tất nhiên không phải tất cả họ đều được nhận học bổng toàn phần từ trường, nhưng nhiều trường hợp được trao học bổng để mời gọi vào học, vì họ thừa kế những di sản tốt từ gia đình3.
2 Nhóm 8 trường đại học tư thục nổi tiếng của Mỹ. (BTV)
3 J. C. Worland, Legacy Admit Rate at 30 Percent, 11/05/2011. [Tài liệu trực tuyến]. Truy cập tại: http://ww-w.thecrimson.com/ar ticle/2011/5/11/admissions- fitzsimmons-legacy-legacies/. Lexington, The curse of nepotism, The Economist, 10/01/2004.
Facts and tips #2: Tiêu chí ưu tiên tồn tại ở rất nhiều học bổng. Vì vậy, không nhất thiết phải có hồ sơ xuất sắc về bài luận hay phẩm chất cá nhân mới giành được học bổng. Ngược lại, không phải hồ
sơ thành công nào cũng có bài luận tốt hay phẩm chất cá nhân vượt trội. Hãy đánh giá các hồ sơ thành công một cách sáng suốt và phản biện.
Tiêu chí cạnh tranh liên tục
Tiêu chí cạnh tranh liên tục là các tiêu chí về phẩm chất cá nhân như khả năng học tập và nghiên cứu, khả năng hoạt động chuyên nghiệp, tầm phát triển về tư duy và tâm lý. Tác giả gọi đây là “tiêu
chí liên tục” vì chúng là các yếu tố mà ứng viên hoàn toàn có thể trau dồi và thay đổi liên tục suốt đời.
Tiêu chí cạnh tranh liên tục cũng bao gồm rất nhiều loại, nhưng cũng có thể được chia thành hai nhóm chính:
• Tài năng (merit-based): Tiêu chí tài năng thường bao gồm khả năng và thành tích học tập, nghiên cứu học thuật, hoạt động nghệ thuật, hoạt động thể thao, hoạt động xã hội. Ví dụ: Erasmus Mundus hay Cambridge Gates là các học bổng tài năng điển hình. Các chương trình này đặc biệt coi trọng khả năng và thành tích nghiên cứu học thuật của ứng viên. Với các chương trình học bổng tài năng cho bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ, khả năng học thuật của ứng viên càng được coi trọng và đó thường xuyên là tiêu chí quan trọng nhất.
• Tiềm năng phát triển: Tiêu chí tiềm năng phát triển thường bao gồm các phẩm chất cá nhân và kỹ năng mềm phản ánh khả năng đóng góp cho sự phát triển của quốc gia như khả năng lãnh đạo, khả năng xây dựng, duy trì và mở rộng mối quan hệ, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định. Ví dụ: Chevening và New Zealand Asean là các học bổng tiềm năng phát triển điển hình.
9
GIẢI MÃ ĐẶC TÍNH HỌC BỔNG
Như vậy, khi tìm hiểu về học bổng, ít nhất ứng viên cần phân loại được học bổng đó theo từng dạng đặc tính nói trên. Để tìm được thông tin cần thiết, cách chính xác duy nhất là hỏi tất cả những người đã được học bổng đó trong những năm gần đây. Ngoài ra, một số học bổng cũng cung cấp thông tin thống kê về ứng viên, tuy rất hạn chế. Tiếp đó là phần giải mã học bổng.
Các học bổng luôn bao gồm nhiều dạng đặc điểm khác nhau. Nhận biết và phân biệt rõ ràng các đặc điểm này giúp cho ứng viên dễ dàng tìm được những học bổng phù hợp với mình, tránh lãng phí thời gian vào các chương trình không phù hợp hoặc không đủ điều kiện. Thậm chí, các thông tin này còn giúp ứng viên đánh giá được
khả năng giành học bổng nếu đi kèm với thông tin về các ứng viên cạnh tranh khác hoặc thông tin về các ứng viên đã thành công. Tổng quan về học bổng chính là hệ thống những thông tin như vậy.
10
Thái độ săn học bổng
– HOÀNG ĐỨC LONG, CHEVENING 2015
Ở VIỆT NAM, tính đến năm 2016, có 360 người từng được học bổng toàn phần Chevening của chính phủ Anh. 180 người trong số đó đến từ Hà Nội. Không ít người sẽ nghĩ liệu có sự thiên vị nào đó.
Một nguồn đáng tin cậy đưa ra lời giải thích khá ngắn gọn: “Có lẽ ứng viên từ Hà Nội chuẩn bị tốt hơn.”
Chữ “chuẩn bị” được dùng ở đây cực kỳ chính xác. Sau khi đọc hàng trăm bộ hồ sơ cho các học bổng khác nhau, tôi phải nói thật, đa số các ứng viên từ lúc chưa nộp đến lúc đã nộp đều có thái độ… rất hời hợt. Bài viết này dành cho những người sẵn sàng thay đổi hoàn toàn thái độ đối với việc học, làm và dĩ nhiên, săn học bổng.
11
THÁI ĐỘ VỚI THÔNG TIN VỀ HỌC BỔNG, TRƯỜNG VÀ KHÓA HỌC
Nếu không có người chỉ dẫn, hầu hết các ứng viên sẽ điều tra thông tin về học bổng và khóa học một cách hời hợt. Thông tin về trường và khóa học chỉ dừng lại ở thứ hạng, danh tiếng và bề dày lịch sử của trường và của khoa. Đặc biệt, ứng viên thường xuyên đọc không kỹ và hiểu không rõ các tiêu chí của học bổng.
Chẳng hạn như nhiều ứng viên trước đây cho rằng học bổng Chevening ưu tiên ứng viên làm cho cơ quan nhà nước, trong khi thực tế nhóm ứng viên này chỉ chiếm 20-30% tổng số học giả Chevening của 3 năm gần đây.
Facts & tips #3: Không chọn những thông tin từ nguồn phổ biến để đưa vào bài luận xin học bổng, ví dụ như thứ hạng chung, thứ hạng về ngành của trường. Bởi vì ai cũng có thể truy cập các thông tin
đó, những bài luận chỉ chứa các thông tin như vậy sẽ không có gì khác biệt. Điều đó cũng chứng minh rằng tư duy và mức độ tâm huyết của ứng viên không có gì khác biệt so với các ứng viên bình thường.
Một bài luận xin học bổng chỉ chứa các thông tin như vậy là một bài luận tồi, bất kể tác giả bài luận đó có xin được học bổng hay không.
Để có thể tìm được các thông tin thật sự có giá trị, một số câu hỏi ứng viên cần trả lời là:
• Học bổng đó hằng năm dự định trao cho bao nhiêu người và thực tế có trao được đủ số đó không?
• Học bổng được trao cho bao nhiêu ứng viên đến từ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh? Bao nhiêu ứng viên đến từ các vùng chưa phát triển bằng?
• Học bổng đó đã từng được trao cho các ngành nào? Tỷ lệ học bổng phân cho mỗi ngành là bao nhiêu?
• Ai dạy ở khóa học đó? Hướng nghiên cứu của giáo viên đó là gì và phù hợp với mình ra sao?
• Có các tiết học nào? Chủ đề học nào phù hợp với mục tiêu tương lai của mình?
• Bao nhiêu % thực hành? Bao nhiêu % lý thuyết và thảo luận? Cách học có phù hợp với mình không?
• Cựu sinh viên (người Việt) học xong khóa học đó giờ đang làm công việc gì? Họ thấy khóa học có ích thế nào?
Khi thông tin ngày càng dễ truy cập, ứng viên lại càng phải đánh giá những thông tin đó dựa trên sự phù hợp với mục tiêu học và công việc tương lai. Hiển nhiên, mục tiêu của ai càng độc đáo và rõ ràng, người đó càng dễ được học bổng.
THÁI ĐỘ VỚI VIỆC HỌC VÀ CÔNG VIỆC TƯƠNG LAI
Do nhiều ứng viên chưa từng học tập thật sự nên họ có thái độ và quan điểm không đúng đắn về việc học.
Một biểu hiện phổ biến của vấn đề này là ý tưởng: “Trở thành giảng viên chia sẻ kiến thức mới đã tiếp thu từ nước ngoài”. Không ít bạn coi mục tiêu lớn nhất của việc đi học là làm đầy thêm bộ nhớ bằng các kiến thức có tính ứng dụng. Tuy nhiên, đây chỉ là hoạt động tư duy ở ba bậc thấp gồm: Ghi nhớ, hiểu và vận dụng.
Mục tiêu của một nền giáo dục chất lượng cao không phải là người học có kiến thức nào, mà là họ làm ra kiến thức như thế nào. Khi học càng cao, từ thạc sĩ rồi sau đó là tiến sĩ và sau tiến sĩ, người học càng có khả năng tư duy phản biện và nghiên cứu độc lập cao hơn. Họ càng lúc càng giỏi trong ba bậc tư duy: Phân tích, đánh giá và sáng tạo ra kiến thức trên cơ sở khoa học thực chứng. Sự nâng cao về khả năng tư duy và nghiên cứu độc lập này cũng là ưu điểm độc nhất mà chỉ có các khóa học tập trung mới có thể mang lại.
Điều đó có nghĩa là nếu không sẵn sàng bước vào con đường sáng tạo kiến thức bằng các công cụ tư duy khoa học, thì các ứng viên sẽ dễ dàng lãng phí thời gian mà không tận dụng được tài nguyên từ khóa học.
Nghề nghiệp mà ứng viên chọn không quan trọng bằng công việc mà họ sẽ làm. Vì thế, các ứng viên nên xác định rõ các kỹ năng dài hạn mà khóa học giúp ứng viên phát triển, đặc biệt là các kỹ năng về tư duy. Sau đó, các ứng viên cần chứng minh được công việc tương lai đòi hỏi sự vận dụng tất yếu của các kỹ năng dài hạn như tư duy bậc cao và nghiên cứu độc lập. Có như vậy, các ứng viên đó mới xứng đáng được trao học bổng đi học.
12
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI KỸ NĂNG TƯ DUY VÀ NGÔN NGỮ
Ưu điểm của các ứng viên là luôn nghĩ rằng mình tư duy còn non nớt, diễn đạt bằng tiếng Anh còn chưa ổn (việc nhận thức được nhược điểm của mình lại là ưu điểm đấy các bạn). Nhược điểm là
nóng vội: Ứng viên hiếm khi chờ được đến khi mình hoàn thiện được kỹ năng mà cứ phải mau chóng làm hồ sơ.
Điều này dẫn đến sự quanh co và không rõ ràng trong việc hiểu lẫn diễn đạt như ở dưới đây.
Ví dụ: Yêu cầu là “Hãy giải thích vì sao bạn chọn ba khóa học này và mức độ liên quan đến kinh nghiệm hàn lâm hoặc kinh nghiệm làm việc và kế hoạch của bạn trong tương lai như thế nào“ (Outline why you have selected your chosen three university courses, and explain how this relates to your previous academic or professional experience and your plans for the future).
Rất thường xuyên, người viết kể lể một loạt tình hình Việt Nam đang ra sao, mất tầm 200 từ. Sau đó các ứng viên kể lể cái ngành mình học một cách chung chung, mất thêm 200 từ, mà bài luận giới hạn 500 từ, đến cuối bài viết vẫn không nêu được tên khóa học với tên trường.
Trong khi đó, ý cần được nêu là: Tại sao phải là trường đó mà không phải trường khác? Tại sao phải là khóa học đó mà không phải khóa học khác? Nó liên quan thế nào đến cái mình đã biết và cái mình sẽ làm?
Chẳng hạn một trường hợp thường xuyên gặp trong vòng hồ sơ của học bổng Australia Awards là khi ứng viên được hỏi: “Bạn đã chọn chương trình học như thế nào?” (How did you choose the proposed program?), thì ứng viên lại trả lời: “Lý do mà tôi chọn chương trình này là…” (The reasons that I chose this program are…). Đây không hẳn là vấn đề đọc hiểu, mà là ứng viên tư duy chưa tốt nên bị phần thiên kiến trong đầu đánh lừa.
13
May mắn thay, ứng viên có thể giải quyết được vấn về này bằng cách học viết hàn lâm bằng tiếng Anh. Hiện tại, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có các lớp học như vậy và chất lượng khá tốt. Tác giả bài viết cũng đã dành 3 tháng học tập trung và 2 năm rèn
luyện thường xuyên để có thể chắc chắn thích nghi được với các bài luận và luận văn ở nước Anh.
14
Facts & tips #4: Một bài luận (essay) ở các chương trình cao học có chất lượng tốt thường có độ dài 3.000 – 5.000 từ và giải quyết vấn đề rất hẹp, rất sâu, đòi hỏi kỹ năng tiếp thu, tổng hợp, đánh giá, biện chứng và rút ra kết luận mới.
Ngôn ngữ trong các bài luận phải luôn ngắn gọn, chính xác, đơn giản và từ ngữ thông dụng hết mức có thể.
Thứ hai, kỹ năng diễn đạt bằng tiếng Anh của các ứng viên rất kém. Một hiểu lầm khá tai hại ở Việt Nam là dùng điểm IELTS để tự đánh giá trình độ sử dụng tiếng Anh. Có nhiều lý do khiến cho bài thi IELTS không phản ánh đúng trình độ thí sinh Việt Nam, mà một trong số đó là tình trạng luyện thi và học thuộc theo bộ đề. Việc này khiến cho người học không thật sự sử dụng tiếng Anh trong môi trường thật sự đòi hỏi khả năng diễn đạt khoa học và hàn lâm, nên không hiểu và hiển nhiên không biết cách áp dụng.
Theo kinh nghiệm của tác giả, để có thể học tập cũng như săn học bổng mà không gặp vấn đề đáng kể, ứng viên ít nhất phải đạt được trình độ C1 theo khung CEFR4. Để biết được mình đã đạt trình độ này chưa, ứng viên không nên dùng điểm số để đánh giá. Thay vào đó, ứng viên cần tìm hiểu các mức kỹ năng mà bậc C1 cần đạt được và tự đánh giá xem bản thân đã đạt được như vậy chưa.
4 Khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung của châu Âu. (BTV)
Facts & tips #5: Tham khảo các bài luận đã giành được học bổng là một cách tốt để nâng cao khả năng viết luận xin học bổng. Tuy nhiên, hãy chọn nguồn thật sự chất lượng. Đối với học bổng cạnh tranh quốc tế, hãy tham khảo bộ các bài luận vào Ivy League. Đối với học bổng trong nước, hãy cố gắng tìm kiếm các bài luận của những ứng viên không có được ưu tiên đồng thời nộp hồ sơ vào năm có độ cạnh tranh cao, ví dụ như hồ sơ của ứng viên ở Hà Nội
hoặc Hồ Chí Minh, làm việc cho công ty tư nhân, không học ngành ưu tiên và nộp hồ sơ vào năm mà số học bổng được trao không thấp hơn số suất dự kiến.
Việc học viết hàn lâm đã nói ở trên cũng là một trong những cách phù hợp nhất để nâng cao trình độ tiếng Anh. Ngoài ra, ứng viên hoàn toàn có thể tự học các kỹ năng đọc, nghe và nói thông qua các trang web như breakingnewsenglish. com hay esl-lab.com.
Hãy dành thời gian học cho được tất cả những thứ trên rồi hãy nộp hồ sơ xin học bổng toàn phần. Chúng ta không thể săn học bổng bằng cách mong chờ các ứng viên khác không bằng mình.
THÁI ĐỘ VỚI VIỆC LÊN KẾ HOẠCH
Thái độ thiếu nghiêm túc với kiến thức, học tập và kỹ năng dẫn đến việc các ứng viên không nghiêm túc với kế hoạch cá nhân. Đa số các ứng viên dành dưới một tháng để chuẩn bị tất ý tưởng và viết hồ sơ. Khoảng thời gian đó là QUÁ NGẮN để có thể viết được các bài luận tốt.
Để khắc phục vấn đề này, các ứng viên nên sử dụng phương pháp nghịch suy (backward mapping): Đặt ra mục tiêu cuối cùng trước, sau đó mới lập ra các mốc thời gian và công việc cần làm để đạt được nó. Phương pháp này áp dụng vào việc săn học bổng như sau: Mục tiêu cuối cùng là đạt học bổng. Trước khi học bổng mở khoảng 6 tháng, bạn đã phải dần dần lên ý tưởng. Lúc đó khả năng tư duy viết, viết luận và trả lời phỏng vấn bằng tiếng Anh của bạn đã phải rất chắc chắn, viết đến đâu phải logic đến đó.
Muốn có ý tưởng và khả năng viết thư xin học bổng, bạn phải có kiến thức về nghề nghiệp sẽ làm. Tính ngược lại, trước lúc bắt đầu lên ý tưởng khoảng 2 năm, bạn đã phải đi làm ở một nghề nghiệp cố định và gắn bó với nó trong ít nhất 2 năm, như vậy mới có tạm đủ thông tin để tìm ý tưởng mà viết (trong đó có thông tin về công việc sẽ làm sau khi du học). Bắt đầu học viết luận từ khoảng thời gian này cũng là vừa.
Tính ngược lại xa hơn nữa, trước lúc bắt đầu học viết luận 3-5 năm, bạn phải bắt đầu học tiếng Anh nghiêm túc và kiên trì gắn bó với nó trong suốt thời gian đó, như vậy mới đảm bảo khả năng giao tiếp bằng cả văn bản lẫn lời nói bằng tiếng Anh.
Tóm lại mất khoảng 5-7 năm để thật sự “cứng cáp” cho việc xin học bổng. Còn nếu không chuẩn bị kịp, đơn giản hãy dừng việc xin học bổng lại và bắt đầu kế hoạch cho thật chắc chắn.
Đừng tự tạo cho mình sức ép kiểu “Em chán lắm rồi, em muốn phải được đi du học ngay”. “Mọi điều tốt đẹp sẽ đến với ai biết chờ đợi” (Good things come to those who wait). Cá nhân tôi rất tự tin khi đến với học bổng Chevening. Đó là sự tự tin có căn cứ vì tôi đã chờ đợi cơ hội, rèn giũa kỹ năng viết lách và tiếng Anh trong nhiều năm để đến khi tung ra hồ sơ ra là chắc chắn các ứng viên cùng ngành khó cạnh tranh được trong thời điểm đó.
NHỮNG NGƯỜI CÓ THÁI ĐỘ NGHIÊM TÚC LÀM GÌ?
Trước khi đợt nhận hồ sơ bắt đầu, bạn đã phải chuẩn bị trước các kỹ năng và kiến thức cần thiết như tôi đã nêu trên.
Tìm một người hướng dẫn giúp mình nhận xét, chỉnh sửa ý tưởng và viết lại mỗi tuần.
Tốt nhất hãy chọn hai người: Một người giỏi trong ngành và một người thật sự giỏi về tư duy phản biện lẫn viết thuyết phục.
Facts & tips #6: Không nên chọn một người hướng dẫn bài luận chỉ vì người đó giành được nhiều học bổng, bởi vì chưa chắc người đó giành được học bổng vì viết luận và phỏng vấn tốt. Có rất nhiều yếu
tố ảnh hưởng tới độ cạnh tranh của một bộ hồ sơ và bài luận chỉ chiếm một phần không quá lớn trong đó. Có những ứng viên được hưởng nhiều ưu tiên và không cần phải viết luận tốt vẫn được học bổng.
Không bao giờ cho rằng hồ sơ của mình đã đủ tốt. Hãy sửa đến sát ngày cuối cùng. Ngoài ra, bạn phải làm phỏng vấn thử (mock-
interview) với người có kinh nghiệm phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.
Sau khi hết đợt học bổng, dù được học bổng hay không, bạn cũng phải phân tích cho khách quan và kỹ càng tại sao mình được hoặc không được học bổng. Để sau đó rút ra đúng thứ mình và người khác cần. Chuẩn bị chắc chắn được bước nào, ứng viên càng ít phải lệ thuộc vào may mắn bước đó.
Bí quyết
Hãy nhớ rằng bạn đang xin một khoản đầu tư rủi ro trị giá 1-2 tỷ. Không nghiêm túc thì người nghiêm túc hơn sẽ đoạt lấy.
Những điều bạn cần biết về ứng tuyển học bổng
– HOÀNG ĐỨC LONG, CHEVENING 2015
15
GIÁ TRỊ CỦA CV TRONG BỘ HỒ SƠ ỨNG TUYỂN HỌC BỔNG
Cũng như các thành phần khác của hồ sơ ứng tuyển, giá trị của CV phụ thuộc rất nhiều vào các tiêu chí lựa chọn của học bổng. Đối với việc ứng tuyển học bổng chính phủ, CV có ba giá trị quan trọng:
+ Khẳng định ứng viên đạt đủ các điều kiện cơ bản và bắt buộc để ứng tuyển học bổng.
+ Cung cấp thông tin định tính để ban xét duyệt phân loại hồ sơ (hay còn gọi là công việc “profiling”) thành các nhóm theo các tiêu chí như ngành học, nơi làm việc, khối ngành và cơ quan làm việc.
+ Cung cấp thông tin định lượng hoặc thông tin so sánh để ban xét duyệt so sánh các ứng viên.
CV không phải lúc nào cũng có đủ ba giá trị này. Ngoài ra, mỗi học bổng sẽ có một bộ tiêu chí ưu tiên, quyết định trọng số của các giá trị trên. Ví dụ: Một học bổng đòi hỏi ứng viên phải viết nhiều bài luận hoặc đánh giá cao bài luận sẽ chỉ xem CV như cơ sở để phân loại hồ sơ thành nhóm hoặc đảm bảo ứng viên đủ điều kiện tối thiểu, chứ không xem đó là cơ sở quá quan trọng để so sánh ứng viên này với ứng viên khác. Điều này phụ thuộc vào tiêu chí xét duyệt của học bổng.
Đối với các học bổng dạng tài năng, học bổng tìm kiếm ứng viên có khả năng học thuật tốt (merit-based), CV rất quan trọng bởi nó là công cụ để ứng viên thể hiện rõ ràng, tổng quát và súc tích khả
năng học thuật của họ. CV khi đó là một trong những tài liệu quan trọng nhất, đôi khi còn quan trọng hơn bài luận, trong việc giúp ban xét duyệt so sánh các ứng viên. Trên CV cho học bổng tài năng hay học bổng học thuật, kinh nghiệm nghiên cứu và học tập là quan trọng nhất và có thể được thể hiện ở ba mục: Bài báo khoa học, kinh nghiệm làm việc và quá trình học tập (publications, work experiences và education).
Đối với học bổng dành trọng số lớn cho các tiêu chí ưu tiên dựa trên yếu tố phông nền (background) mà ứng viên không thể hoặc ít có khả năng thay đổi như vị trí địa lý của nơi làm việc, cơ quan hay ngành công tác, giá trị của CV nằm ở công việc “profiling”. Ở các học bổng như vậy, CV có giá trị giúp ban xét duyệt phân loại hồ sơ dễ dàng hơn và đôi khi hồ sơ phải đạt được các điều kiện ưu tiên nhất định mới có thể được xét duyệt ở vòng tiếp theo, bất kể bài luận xin học bổng có chất lượng ra sao. Các hồ sơ sau khi được lọc sẽ được phân loại vào các nhóm khác nhau và sự cạnh tranh thực sự giữa các hồ sơ có thể chỉ diễn ra trong các nhóm phân loại này. Vì vậy, việc viết CV cần được thực hiện song song với việc tìm hiểu kỹ càng các tiêu chí ưu tiên và phân loại nhóm của học bổng, để hồ sơ ứng tuyển của bạn thể hiện rõ ràng nhất các yếu tố mà ban xét duyệt đang tìm kiếm để phân loại.
Đối với các học bổng phát triển thật sự tìm kiếm các ứng viên có tố chất riêng như khả năng lãnh đạo, tầm ảnh hưởng lên cộng đồng, khả năng làm đại sứ văn hóa, giá trị của CV sẽ hầu như nằm ở việc khẳng định ứng viên đạt các điều kiện cơ bản để ứng tuyển học bổng. Có thể nói, CV không quá quan trọng trong trường hợp này.
Tuy nhiên, ứng viên cần lưu ý rằng không một học bổng chính phủ nào đơn thuần nằm trong chỉ một trường hợp trên. Một nhóm ứng viên được trao học bổng sẽ bao gồm nhiều hồ sơ và yếu tố khiến họ được trao học bổng không phải lúc nào cũng giống nhau. Ví dụ: Học bổng Erasmus Mundus là học bổng tài năng (merit-based), coi trọng các ứng viên có khả năng học thuật tốt và ưu tiên những đối tượng này. Đa phần các ứng viên đến từ khắp nơi trên thế giới được trao học bổng này trong 1 năm là những người có hồ sơ học thuật tốt
nhất trong số những hồ sơ ứng tuyển. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không tồn tại một lượng nhỏ các ứng viên thành công nhưng có thành tích học thuật khiêm tốn, bởi vì Erasmus Mundus có cả các cơ hội xét tuyển theo tiêu chí về vị trí địa lý (geographical windows). Erasmus Mundus luôn dành một số lượng học bổng nhất định cho mỗi vùng địa lý để đảm bảo sự đa dạng và trao đổi văn hóa. Có nghĩa là, một số hồ sơ có thể thua kém hẳn các hồ sơ khác về năng lực học thuật, nhưng vẫn được trao học bổng vì là đại diện của một vùng nào đó. Điều tương tự cũng xảy ra ở các học bổng chính phủ khác cho ứng viên Việt Nam. Vì vậy, việc chuẩn bị CV cần được thực hiện song song với việc đánh giá tổng quát các tiêu chí của học bổng, bạn cần hiểu rõ cơ hội của bản thân khi ứng tuyển, tránh các ngộ nhận tai hại trước và sau khi biết kết quả hồ sơ, bất kể có được học bổng hay không.
VIỆC NÊN LÀM KHI VIẾT CV CHO HỌC BỔNG CHÍNH PHỦ
• Thường xuyên cập nhật và chỉnh sửa CV cho phù hợp với từng khóa học và học bổng cần ứng tuyển. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tất cả các trường hợp cần nộp CV, bởi vì mỗi CV chỉ có thể phù hợp với một chương trình.
• Sắp xếp mục theo nguyên tắc: Những gì ban xét duyệt muốn biết hơn phải được đặt ở trước. Ví dụ: Ban xét duyệt một học bổng học thuật sẽ muốn biết về các công bố khoa học của ứng viên hơn thông tin về trường mà ứng viên đã học, hoặc sẽ muốn biết về trường và thành tích học của ứng viên hơn các hoạt động cộng đồng mà ứng viên đã tham gia.
• Sử dụng các mẫu càng thông dụng với người xét duyệt càng tốt.
Ví dụ: Nhiều chương trình thuộc học bổng Erasmus Mundus trước đây (và cho đến nay vẫn có một số chương trình) khuyến khích ứng viên sử dụng mẫu CV Europass. Nếu ứng viên sử dụng mẫu CV mà người xét duyệt đã quen đọc, người xét duyệt sẽ dễ dàng tìm đến các thông tin mà họ muốn tìm trong CV.
• Viết súc tích: Mỗi mục không dài quá hai dòng.
Ô Ô Ê À
VIỆC KHÔNG CẦN HOẶC KHÔNG NÊN LÀM KHI VIẾT CV CHO HỌC BỔNG CHÍNH PHỦ
• Trình bày quá chi tiết các phần không quan trọng. Ví dụ: Ứng viên không cần thiết nêu tất cả các hoạt động tình nguyện mà mình đã tham gia, vì kỹ năng và kiến thức thật sự bài bản (mà ứng viên muốn thể hiện) vẫn phải đến từ các công việc chuyên nghiệp hoặc học tập.
• Thiết kế CV độc đáo về mặt thị giác như minh họa trình độ kỹ năng bằng màu và biểu tượng. Đối với học bổng chính phủ, nhất là các học bổng học thuật, CV không cần phải có sự đột phá về thiết kế thị giác. Lý do là những gì ban xét duyệt muốn biết đã có thể và nhiều khi chỉ có thể, được thể hiện rõ bằng ngôn từ. Nếu muốn thể hiện sự độc đáo về thiết kế thị giác, hãy đảm bảo rằng ban xét duyệt dễ tìm và đọc các phần chữ trong CV.
• Viết CV dài quá hai trang.
• Nguyên tắc “số 3”: Không viết quá 3 mục khi liệt kê chi tiết. Chẳng hạn bạn chỉ cần liệt kê súc tích 3 công việc chính trong mỗi vị trí công việc đã từng đảm nhiệm, hoặc chỉ liệt kê 3 giải thưởng thể hiện rõ nhất khả năng học thuật trong mục “giải thưởng” nếu ứng tuyển học bổng tài năng (merit-based).
Bí quyết
Việc viết CV đồng nghĩa với việc hiểu rõ các điểm mạnh, điểm yếu, hồ sơ của bản thân và cơ hội giành học bổng của bản thân nằm ở đâu. Vì vậy, viết CV thực chất chỉ là công đoạn cuối cùng, một công đoạn ngắn hạn trong cả quá trình phát triển và thấu hiểu bản thân cùng bộ hồ sơ dài hạn. Xét cho cùng “có bột mới gột nên hồ”.
Thư giới thiệu cho học bổng và những điều cần lưu ý
- HOÀNG ĐỨC LONG, CHEVENING 2015
PHÂN LOẠI THƯ GIỚI THIỆU
Về lý thuyết, trong bộ hồ sơ ứng tuyển học bổng, thư giới thiệu là văn bản duy nhất thể hiện nhận xét khách quan của người khác về ứng viên. Vì thế thư giới thiệu thường và nên thể hiện những góc nhìn mới về ứng viên không giống CV hay bài luận xin học bổng.
Đối với các học bổng tài năng, thư giới thiệu sẽ góp phần lớn vào sự thành công của hồ sơ nếu như người viết thư giới thiệu có tên tuổi đáng kể trong giới hàn lâm. Bởi vì, người càng có địa vị cao càng thận trọng và cố gắng khách quan trong việc giới thiệu hay nhận xét người khác. Điều này có nghĩa là lời giới thiệu của những người như vậy càng có độ tin cậy cao.
Thư giới thiệu cho học bổng gồm ba loại: Thư giới thiệu học thuật (academic reference), thư giới thiệu chuyên nghiệp (professional reference) và các thư giới thiệu khác.
Một thư giới thiệu học thuật (academic reference hoặc academic letter of recommendation) phải do giáo viên, người hướng dẫn nghiên cứu, hoặc người giám sát nghiên cứu viết. Nội dung của thư này bao gồm các đánh giá về khả năng tư duy phân tích và phản biện, khả năng học tập và nghiên cứu độc lập, cùng các phẩm chất cá nhân khác của ứng viên mà chúng có ích cho việc học tập và nghiên cứu. Một số ít học bổng dành cho Việt Nam chấp nhận thư giới thiệu học thuật do người quản lý công việc viết, nhưng đây chỉ là các trường hợp rất đặc biệt và thật sự nhân nhượng đối với riêng ứng viên Việt Nam mà thôi.
Khác với thư giới thiệu học thuật, thư giới thiệu chuyên nghiệp (professional reference/ professional letter of recommendation) do người giám sát, quản lý công việc hoặc đồng nghiệp viết. Thư giới thiệu chuyên nghiệp có thể bao gồm bất cứ nội dung nào liên quan đến phẩm chất của ứng viên, ngoại trừ khả năng học thuật (do khả năng học thuật cần những điều kiện hết sức nghiêm ngặt để đánh giá).
Ngoài hai loại thư giới thiệu trên, một số thư giới thiệu thuộc nhóm “khác”. Thư giới thiệu này có thể do một cộng sự trong một dự án ngắn hạn, hoặc bất cứ người nào có đủ điều kiện và cơ hội để đánh giá một số phẩm chất của ứng viên. Tuy nhiên, hiếm ứng viên có được thư giới thiệu như thế này. Vì thế, bài viết này sẽ chỉ tập trung vào thư giới thiệu học thuật và thư giới thiệu chuyên nghiệp.
Những điều cần chú ý:
• Chọn người có địa vị: Với thư giới thiệu học thuật, bạn nên chọn người giới thiệu có địa vị nhất định trong giới học thuật, có nghĩa là người này có các công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí quốc tế được công nhận (thường là các tạp chí trong danh sách ISI hoặc SCOPUS). Địa vị trong giới học thuật khác với địa vị
về quản lý hành chính. Một hiệu trưởng không có bài báo khoa học nào sẽ không có uy tín học thuật bằng một giảng viên có nhiều bài báo khoa học đã được công bố.
• Chọn người biết về mình: Nếu không thể chọn người có địa vị trong giới học thuật, bạn hãy cố gắng chọn người giới thiệu đã từng làm việc và tiếp xúc với mình.
• “Nói có sách, mách có chứng”: Trong điều kiện được xem thư giới thiệu và góp ý nội dung, hãy đảm bảo mỗi nhận xét của người giới thiệu cần được đi kèm với bằng chứng cho nhận xét đó.
• Tạo ra mảnh ghép phù hợp: Cũng trong điều kiện được góp ý cho nội dung thư giới thiệu, hãy cố gắng đảm bảo thư thực hiện được hai việc: Khẳng định một phẩm chất cá nhân quan trọng nhất đã
được thể hiện trong các tài liệu khác của bộ hồ sơ và bổ sung các đánh giá phẩm chất khác về con người ứng viên.
• Súc tích: Thư giới thiệu thường không dài quá một trang, trừ các thư được viết theo mẫu quy định của trường hoặc của học bổng.
17
• Cụ thể và độc bản: Học bổng nào, thư giới thiệu đó. Các học bổng khác nhau có tiêu chí khác nhau. Thư giới thiệu cần chứng minh ứng viên đạt được các tiêu chí này. Do đó, lý tưởng nhất là hãy đảm bảo người viết thư giới thiệu biết rõ các tiêu chí đó và viết thư cho phù hợp với học bổng đó. Bạn ứng tuyển ba học bổng khác nhau thì bạn cũng cần ba thư giới thiệu có nội dung khác nhau từ cùng một người giới thiệu. Tất nhiên, trên thực tế người viết có thể chưa hỗ trợ được bạn đến như vậy vì nhiều lý do. Trong trường hợp này, bạn vẫn có thể dùng chung thư giới thiệu cho các học bổng bạn sẽ nộp. Miễn là thư giới thiệu đó giúp ban xét duyệt học bổng nhìn rõ chân dung và khả năng của bạn là được.
• Đảm bảo quy cách: Các học bổng có nhiều cách lấy thư giới thiệu, ví dụ thư tay có đóng dấu, thư giới thiệu theo mẫu có sẵn và có đóng dấu, hoặc thư giới thiệu gửi qua email công vụ. Để đảm bảo được các quy cách này, bạn hãy luôn đảm bảo mình có mối quan hệ rất tốt với tất cả mọi người, cả kiến thức cơ bản về máy tính và mạng nữa.
Tuy thư giới thiệu chỉ là một trong nhiều thành phần của hồ sơ ứng tuyển học bổng, nhưng nó là mảnh ghép có đặc trưng riêng, thể hiện các đánh giá khách quan về ứng viên. Một mảnh ghép phù hợp cần được người có uy tín, có khả năng đánh giá chính xác về ứng viên viết. Mảnh ghép ấy cũng cần phải cụ thể, súc tích và biện chứng. Đạt được những điều kiện như vậy, thư giới thiệu mới có thể thực sự tạo ra sức mạnh riêng cho hồ sơ.
Bài luận xin học bổngNên và không nên
18
– HOÀNG ĐỨC LONG, CHEVENING 2015
CV LÀ GIẤY TỜ liệt kê tất cả những việc ứng viên đã làm, đã thể hiện và có chứng nhận. Thư giới thiệu là bằng chứng về nhận xét của người khác về ứng viên. Vì thế, CV và thư giới thiệu là những
bằng chứng “phần nổi”. Nhưng “phần chìm” mới là phần khiến cho ban xét duyệt tò mò nhất và là phần chứng minh con người “có một không hai” của ứng viên. “Phần chìm” ấy chính là bài luận xin học bổng.
TRONG BỘ HỒ SƠ xin học bổng, bài luận có một khả năng độc đáo: Kết nối các “điểm”. Thật vậy, bài luận là văn bản duy nhất mà trong đó ứng viên được thỏa sức giải thích và chứng minh bất cứ phẩm chất hay yếu tố nào của bộ hồ sơ. Bài luận cũng cho phép ứng viên thỏa sức sáng tạo và trình bày suy nghĩ. Bài luận quan trọng và lợi hại, bởi vì nó có thể là bất cứ thứ gì.
Xin lưu ý rằng tôi đang nói đến một bài luận thật sự tốt, tức là thể hiện một cách chính xác, súc tích và sáng tạo những phẩm chất của ứng viên. Tôi không định nghĩa chữ “tốt” bằng việc hồ sơ có thành công hay không. Không phải hồ sơ nào thành công cũng có bài luận tốt.
BÀI LUẬN XIN HỌC BỔNG NÊN:
• Rèn luyện kỹ năng tư duy và sử dụng ngôn ngữ càng sớm càng tốt. Viết là tư duy, tư duy sắc sảo phải là kết quả của nhiều năm chuyên tâm bồi dưỡng. Đừng trông chờ có một kỹ thuật hay mẹo nào đó giúp bạn nhanh chóng viết được một bài luận tốt.
• Linh hoạt trong cách tìm ý tưởng.
Các ý tưởng có thể sinh ra trong khi bạn ngồi viết luận, nhưng cũng có thể nảy ra khi bạn đang… rửa bát. Khi rèn luyện được thói quen tư duy đủ mạnh và thường xuyên, ý tưởng có thể phát sinh trong bất cứ trải nghiệm nào. Vì thế, hãy tự cân bằng thời gian dành cho việc viết luận với thời gian cho các việc khác, trong đó có cả nghỉ ngơi hoặc không làm gì cả.
• Hiểu rõ mình muốn đạt được điều gì và cần kiến thức nào. Nếu muốn dùng bài luận để thuyết phục ban xét duyệt, bạn cần hiểu mình đang hướng đến kết quả nào. Từ đó, bạn suy ngược ra mình cần kiến thức gì. Muốn hiểu được mình cần kiến thức gì, bạn phải trả lời được hai câu hỏi “Thế nào là kiến thức?” và “Tôi có thể thu được kiến thức bằng cách nào?”.
• Đọc kỹ và hiểu chính xác câu hỏi và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về trình bày. Như khi được hỏi: “Bạn đã chọn trường và khóa học này như thế nào”, nhiều ứng viên dễ dàng hiểu và trả lời theo hướng: “Tại sao bạn chọn trường và khóa học này”.
• Sửa cho đến khi không còn thời gian sửa. Một bài luận tốt luôn phải được sửa đi sửa lại vô số lần. Không có giới hạn nào cho việc này, ngoại trừ giới hạn về thời gian.
BÀI LUẬN XIN HỌC BỔNG KHÔNG NÊN:
• Dùng cùng một bài luận cho các học bổng khác nhau. Mỗi học bổng và ban xét duyệt học bổng có những tiêu chí riêng, không bao giờ hoàn toàn trùng với học bổng khác. Vì thế, bài luận cho một học bổng luôn phải là sản phẩm được tinh chỉnh sao cho chỉ thật sự phù hợp với học bổng đó.
• Viết theo công thức hay bài luận mẫu nào, ngay cả khi bài luận mẫu thuộc về một ứng viên đã thành công. Thứ nhất, không có một công thức chính xác nào để viết được bài luận xin học bổng tốt. Những bài luận tốt nhất ít khi tuân theo một công thức nào. Thứ hai, bài luận của ứng viên đã thành công chỉ phù hợp với hồ sơ của
chính ứng viên đó. Thứ ba, một hồ sơ thành công do nhiều yếu tố khác nhau, chứ không chỉ phụ thuộc vào bài luận và không phải hồ sơ thành công nào cũng có bài luận tốt. Nếu không thật sự hiểu tại sao hồ sơ đó thành công, bạn sẽ dễ dàng chọn một bài luận chất lượng thấp làm mẫu.
• Lặp lại thông tin trong CV mà không giải thích. Bài luận là tài liệu duy nhất mà trong đó ứng viên được phép sáng tạo, giải thích tỉ mỉ và chỉ ra cho ban xét duyệt thấy những “dây” liên kết các tố chất hay kinh nghiệm của ứng viên. Vì thế, bạn không nên biến bài luận thành một bản liệt kê thuần túy những sự thật đã nêu trong CV.
• Viết những gì mơ hồ, hoặc người khác dễ dàng nghĩ ra, tìm ra. Nếu bạn cho rằng 90% người khác cũng có thể nghĩ ra hay tìm ra ý tưởng của bạn, thì đừng viết ý đó vào bài luận. Ví dụ: Qua Internet, ai cũng có thể tìm được thứ hạng của một trường đại học trong các bảng xếp hạng phổ biến. Vì thế, việc lấy thứ hạng của trường làm lý do chọn trường chỉ chứng minh rằng bạn chẳng có gì khác biệt so với các ứng viên trung bình.
• Trình bày sai quy định. Việc trình bày sai quy định có thể khiến hồ sơ bị loại, không được đọc hết, hoặc chí ít cũng gây bất lợi cho hồ sơ của bạn.
• Bắt đầu muộn. Một bài luận thật sự chất lượng đòi hỏi việc đầu tư rất nhiều thời gian, công sức, thậm chí cả tiền bạc một cách nghiêm túc. Việc viết luận nghiêm túc cho một học bổng thường kéo dài từ 1-2 tháng, thậm chí 3 tháng. Không ai có thể viết ra một bài luận xin học bổng tốt chỉ trong 1-3 ngày. Nếu ai đó có thể viết được một bài luận tốt trong thời gian ngắn, người đó cũng đã phải bỏ rất nhiều thời gian và công sức trước đó để xây dựng kỹ năng tư duy và sử dụng ngôn ngữ. Bài luận càng ngắn, độ khó của bài luận càng cao.
Bài luận xin học bổng là sản phẩm mang dấu ấn cá nhân rõ ràng nhất trong bộ hồ sơ. Tuy nhiên, không có một công thức chính xác hay khuôn khổ nào cho nó cả. Trên đây, tôi chỉ nêu ra những nguyên tắc chung nhất cho các bài luận tốt. Bài luận có súc tích, chính xác,
sáng tạo hay không, chủ yếu dựa vào chính nỗ lực rèn luyện nhiều năm trời của người viết.
Chuẩn bị cho phỏng vấn học bổng
– HOÀNG ĐỨC LONG, CHEVENING 2015
PHỎNG VẤN CHO HỌC BỔNG thường là những cuộc nói chuyện hết sức cởi mở và thân thiện giữa ứng viên và những người phỏng vấn. Đây cũng thường là thử thách cuối cùng ngăn cách ứng viên với học bổng. Thực chất, việc phỏng vấn sẽ không phải vấn đề gì quá khó khăn khi ứng viên đã suy nghĩ kỹ càng lúc viết hồ sơ. Bởi, dù người phỏng vấn ứng viên có ngẫu nhiên nghĩ ra câu hỏi mở, các câu hỏi vẫn chỉ xoay quanh “chất của ứng viên” mà thôi. Nếu hiểu rõ những chú ý dưới đây, ứng viên hoàn toàn có thể tham gia một cuộc phỏng vấn cho học bổng với tinh thần thoải mái.
19
CHUẨN BỊ KỸ
Các câu hỏi cốt lõi là những câu liên quan trực tiếp đến hai điểm: Mục đích của ứng viên khi du học và mục đích của bên cấp học bổng. Vì vậy, bạn hãy tự đặt thật nhiều câu hỏi “TẠI SAO?” liên quan đến những vấn đề này và tìm cách trả lời thật thành thật về những vấn đề đó.
NHƯNG ĐỪNG CHUẨN BỊ QUÁ KỸ
Bạn hãy gạt bỏ suy nghĩ rằng mình cần và có thể chuẩn bị kỹ càng cho tất cả các câu hỏi trong phỏng vấn.
Bên cạnh mục đích xác minh ứng viên đúng là người đã viết ra hồ sơ, phỏng vấn mang một mục đích quan trọng hơn: Khám phá ứng viên. Chính vì thế, các cuộc phỏng vấn luôn bao gồm các câu hỏi mở, do người phỏng vấn nghĩ ra tức thời để tìm hiểu sâu hơn một khía cạnh nào đó của con người ứng viên. Người phỏng vấn luôn có
cách để hỏi về những điều bạn không thể chuẩn bị và khi đó bạn buộc phải nói những điều bạn thật sự nghĩ mà không qua chuẩn bị trước.
ĐƠN GIẢN VÀ THẲNG THẮN
Bạn hãy luôn nói thẳng ra ý chính trước khi nói ra bất cứ giải thích nào cho ý tưởng đó. Khi được hỏi “tại sao?”, hãy bắt đầu câu trả lời bằng “lý do chính là”. Khi được hỏi “cái gì?”, hãy bắt đầu bằng “cái đó là”. Nếu có nhiều ý, bạn hãy liệt kê đầy đủ chúng ra trước khi giải thích từng ý một.
Nhiều người trả lời rất vòng vo. Họ đưa ra một loạt lý do giải thích cho ý chính trước khi nói chính xác ý chính ra. Điều này có nghĩa là họ bắt người đối diện nghe họ giải thích mà không hề cho người nghe biết rằng họ đang giải thích cho cái gì. Đây là điều tuyệt đối cần tránh trong phỏng vấn.
BAN PHỎNG VẤN LÀ BẰNG HỮU
Bạn hãy luôn nghĩ rằng ban phỏng vấn đang cố gắng tìm mọi cách giúp bạn thể hiện tốt nhất con người bạn, ngay cả khi họ thể hiện rằng họ đang rất nghi ngờ, khắt khe với bạn. Hãy nghĩ rằng cơ hội của bạn chính là đây, đây là lúc để bạn “tả xung hữu đột” thể hiện nhiệt huyết của mình. Nếu bạn thật sự có nhiệt huyết, du học bằng những động lực bên trong chứ không phải để đi du lịch hay học những kiến thức ngắn hạn, ban xét duyệt sẽ dễ dàng nhìn thấy điều đó ở bạn.
CHẬM MÀ CHẮC
Nếu gặp câu hỏi mà bạn chưa từng nghĩ đến, bạn hãy xin phép được dành ít thời gian suy nghĩ. Hãy uống nước, nhắm mắt, bỏ mặc bất cứ điều gì họ đang nói và chìm vào không gian bên trong bạn để có thể thật sự tĩnh tâm suy nghĩ về câu hỏi. Làm được điều này, bạn sẽ tránh được nhiều câu hỏi mẹo mà ban phỏng vấn đưa ra để thử thách bạn.
Ĩ Ứ
“DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN”
Bạn hãy luôn nắm chắc hai vấn đề: Học bổng này tìm kiếm người có tố chất nào và ba tố chất nổi bật của bạn là gì. Nói cách khác, hãy luôn nhớ ba từ khóa quan trọng nhất về con người mình. Với bất cứ câu hỏi “xoáy” nào của ban phỏng vấn, hãy nghĩ về những phẩm chất riêng biệt của mình hoặc vấn đề mình đang đau đáu muốn giải quyết và bạn sẽ có câu trả lời. Bất cứ câu hỏi nào cũng chỉ xoay quanh việc: Bạn là ai? Vì thế, hiểu rõ bản thân là cách tốt nhất để thật sự có những câu trả lời nhất quán.
Hãy kết thúc buổi phỏng vấn bằng những câu hỏi từ chính bạn. Chắc chắn có những vấn đề về học bổng và tổ chức cấp học bổng mà bạn chưa rõ. Bạn hãy tận dụng cơ hội phỏng vấn để thể hiện sự hiếu kỳ của mình: Bạn hãy hỏi về bất cứ điều gì bạn thắc mắc. Bạn đến cuộc phỏng vấn với thái độ của một người chủ động thì cũng nên kết thúc cuộc phỏng vấn với sự chủ động.
21
Phần 2TRÒ CHUYỆN VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐÃ GIÀNH ĐƯỢC HỌC BỔNG
Học bổng chính phủ Mỹ Fulbright
HỌC BỔNG CHÍNH PHỦ MỸ – FULBRIGHT cấp cho công dân quốc tịch Việt Nam bắt đầu từ năm 1992. Chương trình ra đời nhằm mục đích thúc đẩy trao đổi văn hóa giáo dục, sự am hiểu giữa công dân Hoa Kỳ với các quốc gia khác. Tính đến 2015, có 527 người Việt đã được nhận học bổng này đến từ khắp mọi miền trên cả nước và từ các lĩnh vực khác nhau.
Hãy mơ giấc mơ lớn
– VĨNH KHANG, FULBRIGHT 2014
22
Tôi là nhà báo Vĩnh Khang. Tôi tốt nghiệp Đại học Hà Nội năm 2008 và vào tháng 7 năm 2016, tôi tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Báo chí tại Mỹ.
KHI INTERNET LÀM THAY ĐỔI DIỆN MẠO BÁO CHÍ
Tôi làm việc trong lĩnh vực truyền thông, báo chí ngay khi tôi còn theo học ở Đại học Hà Nội, cho nên tôi thường để ý đến những học bổng hỗ trợ cho các nhà báo.
Trong năm 2013, tôi giành Học bổng Cochran của Chính phủ Mỹ, đây là học bổng giành cho các nhà báo tham gia khóa học 4 tuần về Truyền thông và thăm một số các tập đoàn công nghệ sinh học lớn ở Mỹ như Monsanto hay Pioneer. Trong năm 2014, tôi xin học bổng chính phủ Mỹ – Fulbright và trở thành một trong 14 bạn nhận được học bổng (finalists) của năm đó.
Thực ra, sau khi tốt nghiệp Đại học Hà Nội, tôi không có ý định học tiếp vì theo quan niệm của tôi, viết báo có thể tự học qua nhiều con
đường, học qua người đi trước, học qua việc đọc sách và học qua việc tự tìm tài liệu trên mạng.
Tuy nhiên, Internet đã làm thay đổi ngành công nghiệp tin tức, kéo theo đó là định nghĩa nhà báo cũng bị thay đổi. Ví dụ, trước đây, báo điện tử và truyền hình tương đối khác biệt thì bây giờ, báo điện tử đang xích gần về phía truyền hình khi các tòa soạn điện tử đều đang đầu tư vào nội dung video.
Hay như ở Mỹ, một nhà báo chỉ biết viết đã không còn nhiều cơ hội được tuyển dụng mà thay vào đó, nhà báo đang dần bị biến thành những người đa nhiệm – biết viết bài, biết quay phim, biết chụp ảnh và có thể tự biết… viết code.
HỌC TẬP TẠI MỸ… NHƯ HỌC PHỔ THÔNG
Ngành báo chí là ngành thực hành, học xong một kiến thức nào đó là bạn phải làm bài tập ngay, cho nên số bài tập lên đến con số mấy chục cho mỗi môn. Nếu được so sánh, thì tôi nghĩ, nó đã đưa tôi trở về hành trình học… trung học phổ thông, ngày nào cũng phải đọc sách và làm bài tập (tác nghiệp, thuyết trình, chụp ảnh, quay clip…).
Quá trình học tại Mỹ của tôi có thể tóm tắt: Đi học – Làm bài tập – Tác nghiệp – Đi du lịch trong các kỳ nghỉ lễ. Với sinh viên nước ngoài, họ học cũng khá căng thẳng. Bởi với hệ Thạc sĩ, bạn phải đạt điểm B thì mới đạt yêu cầu, nên họ cũng khá áp lực về điểm số. Có những thời điểm, ai cũng trong trạng thái thiếu ngủ.
Tôi ưu tiên nhiều cho thời gian tự học cho nên tôi chủ đích đăng ký các môn học tập trung vào khoảng 3 đến 4 ngày, nhưng đó là những ngày khủng khiếp khi thời gian phải học trên lớp hầu như lên đến 9 tiếng. Thời gian đầu, tôi khá mệt mỏi nhưng khi đã quen dần thì tôi thấy bình thường. Đó cũng là cách tôi làm quen với môi trường làm việc có cường độ cao.
Còn 3 hay 4 ngày trong tuần còn lại, tôi tự học. Nếu nói về một ngày đi học của tôi thì đó là sáng nghe giảng 3 tiếng, chiều nghe giảng 3 tiếng và tối nghe giảng 3 tiếng.
Điều tôi học được từ sinh viên nước ngoài, đó là sự tự tin. Có nhiều thứ có thể họ không giỏi hơn mình, nhưng họ rất tự tin, đặc biệt là khi làm các bài thuyết trình.
MẠNG XÃ HỘI – MÔN HỌC THỰC TẾ
Trong các môn học tại trường, tôi thích nhất là môn Mạng xã hội. Với tôi, đó là môn học khá thực tế khi báo chí hiện nay phát triển gắn liền với mạng xã hội. Dựa vào mạng xã hội, mỗi loại hình báo chí sẽ có chiến lược riêng nhắm đến đối tượng của mình, ví dụ như một bài báo thiên về hình ảnh có thể dùng Facebook, Instagram hay Pinterest để thu hút người đọc. Tương tự, những bài tường thuật nhanh thì Twitter là một lựa chọn tối ưu. Ngoài ra, môn học này còn giúp tôi có thể lên chiến lược truyền thông cho các thương hiệu, sản xuất nội dung độc lập trên mạng xã hội, tìm hiểu các thuật toán từ mạng xã hội và phân tích các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, vì mạng xã hội ở Mỹ phát triển khá đa dạng trong khi người dùng Việt Nam chỉ xoay quanh Facebook, cho nên tôi phải chọn lọc những gì phù hợp với xu hướng sử dụng mạng xã hội của người Việt.
23
BÀI TOÁN TÌM VIỆC SAU KHI HỌC XONG
Với sinh viên nước ngoài, thử thách của họ chính là… tìm việc sau khi học xong. Báo in và tạp chí ở nước ngoài hiện đang suy thoái, các tòa soạn đang “thắt lưng buộc bụng” để tồn tại, kéo theo việc sa thải rất nhiều phóng viên và thắt chặt việc tuyển dụng. Còn báo điện tử hiện là xu thế chung, nhưng loại hình này đang thay đổi rất nhanh. Việc thích nghi và cập nhật để tồn tại trong báo điện tử cũng là một thách thức không nhỏ đối với sinh viên mới ra trường.
NÓI VỀ CUỐN SÁCH YÊU THÍCH
Tôi thích đọc sách của các đồng nghiệp nên các cuốn sách tôi đọc thường là của các nhà báo. Tôi thực sự yêu thích cuốn Better Living Through Criticism (Tạm dịch: Sống tốt hơn qua sự chỉ trích) của Tony Scott hay còn gọi là A.O Scott, nhà phê bình các vấn đề văn
hóa đại chúng, đang làm việc cho New York Times. Tôi từng ăn trưa và trò chuyện với Tony và thực sự thích cách suy nghĩ của anh ấy. Nếu ai đó theo viết phê bình thì cuốn sách này sẽ khơi gợi cho các bạn rất nhiều thứ trong phạm vi nghề nghiệp.
Ngoài ra, tôi thích đọc cuốn Rewire: Digital Cosmopolitans in the Age of Connection (Tạm dịch: Công dân toàn cầu trong kỷ nguyên kết nối số) của Ethan Zuckerman. Cuốn sách có cách mở đầu rất hay khi đề cập đến cách truyền tin của Việt Nam tại thời điểm đại dịch SARS diễn ra, từ đó tác giả đã dẫn giải tầm quan trọng về việc truyền tin, cũng như ứng dụng công nghệ hiện đại trong cách truyền thông tin.
SỰ PHÙ HỢP VẪN LÀ QUAN TRỌNG NHẤT
Lời khuyên tốt nhất dành cho các bạn đang trên con đường tìm kiếm học bổng tôi nghĩ, đó là tính phù hợp. Mỗi loại học bổng chính phủ chỉ hợp với một số đối tượng mà họ nhắm đến. Bạn giỏi không có nghĩa là bạn sẽ đạt được, mà có những bạn hồ sơ kém hơn bạn nhưng họ vẫn thành công. Hãy tìm hiểu kỹ và nếu có thời gian, hãy kết nối với một số người đã từng đạt học bổng mà bạn theo đuổi. Hãy đi tìm câu trả lời, họ là ai và vì sao họ thành công. Từ đó, bạn sẽ biết được, học bổng đó có phù hợp với mình hay không.
24
Điều tôi để ý đó là những bạn đạt được học bổng Fulbright (Fulbrighters) khá tự hào về việc này. Khi nói chuyện với nhau, Fulbright biến thành một thứ thành quả, một “hobby” mà ai cũng có thể say sưa nói về nó.
“NOTHING WRONG TO DREAM BIG”
Tôi từng trả lời phỏng vấn rằng: “Nothing wrong to dream big”. Mơ lớn là thứ động lực giúp chúng ta nỗ lực và thành công. Ước mơ của tôi là mở một trang tin tức riêng về nghệ thuật, đăng tải những bài viết kèm những loại hình ảnh mà bạn đọc có thể tương tác trực
tiếp. Nghe thì đơn giản nhưng với tôi, đó thực sự là một giấc mơ lớn đấy!
Tôi nghĩ, không riêng học bổng Fulbright, nếu bạn muốn xin học bổng chính phủ thì hội đồng đang mong muốn được nghe những “giấc mơ lớn” của tất cả mọi ứng viên. Nên tôi xin nhắc lại: “Nothing wrong to dream big”.
25
THẢO LUẬN 1
NẾU BẠN TRONG BAN XÉT DUYỆT HỌC BỔNG, BẠN SẼ CẤP HỌC BỔNG CHO NHỮNG ĐỐI TƯỢNG NÀO?
26
TUẤN LINH − JDS 2015
Tôi sẽ cấp học bổng cho những người mà qua quá trình phỏng vấn, tôi cảm nhận được trong họ thật sự có hiểu biết, đam mê với đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, ứng viên được nhận học bổng phải chứng tỏ được họ là người năng động, có lối sống cộng đồng, có kỹ năng mềm tốt chứ không được là những người từ sớm đến tối chỉ biết đút chân dưới gầm bàn, cặm cụi với sách vở, lý thuyết.
27
QUỲNH ANH – NEW ZEALAND ASIAN 2017
Một câu hỏi rất thú vị!
Trước tiên thì đương nhiên ứng viên cần đáp ứng đúng tiêu chí của học bổng. Nhưng nếu cùng lúc có nhiều ứng viên đáp ứng được các yêu cầu của học bổng, nếu có cơ hội trong ban xét duyệt học bổng và phải lựa chọn, mình muốn dành cơ hội học bổng cho những ứng viên hiểu rõ bản thân, có mong muốn phát triển bản thân và ước mơ đóng góp cho cộng đồng nhưng cần cụ thể chứ không phải chung chung. Hãy có những ví dụ cụ thể, ngắn gọn và trình
bày thuyết phục để ban xét duyệt học bổng hiểu bạn rõ hơn. Nói tóm lại đó phải là một ứng viên nhiệt huyết, có tố chất và có định hướng rõ ràng sau khi học xong sẽ áp dụng những điều mình đã
học được trong công việc như thế nào và sẽ đóng góp cho sự phát triển của đất nước ra sao.
Bên cạnh đó, ứng viên phải thể hiện được mình có khả năng học tập và làm việc tốt hơn người khác.
28
NHỰT LINH – MEXT 2017
Mình sẽ cấp học bổng cho những đối tượng có mục tiêu rõ ràng để đến với MEXT, là những người có khả năng nghiên cứu và học tập trong môi trường quốc tế. Mình sẽ thật sự ấn tượng với những bạn có sự chuẩn bị thật sự nghiêm túc cho hồ sơ học bổng của mình với
tiêu chí: Nổi bật, sáng tạo và logic.
29
ANH VŨ – SCHWARZMAN SCHOLARS 2018
Mình sẽ tập trung vào những ảnh hưởng tích cực mà họ đã tạo dựng trong lĩnh vực họ hoạt động hoặc xã hội. Họ cần có một câu chuyện cuộc đời thú vị và có khả năng đóng góp cho mục đích của chương trình học bổng trong tương lai.
30
VĨNH KHANG – FULBRIGHT 2014
Tôi thích những người có một kế hoạch tương lai táo bạo nhưng không viển vông. Và khi ứng viên nói về nó, họ phải thể hiện được sự ấp ủ và đam mê.
Học bổng chính phủ úc
Australia Awards Scholarship
HỌC BỔNG TOÀN PHẦN AUSTRALIA AWARDS SCHOLARSHIPS, viết tắt là AAS là học bổng Thạc sĩ toàn phần uy tín do chính phủ Úc tài trợ.
Học bổng này trao cho thế hệ các nhà lãnh đạo toàn cầu tương lai cơ hội được học tập, nghiên cứu và phát triển chuyên môn tại Úc thông qua việc trải nghiệm giáo dục chất lượng cao tại xứ sở chuột túi.
Người nhận học bổng trở về nước với tư duy, kiến thức mới sẽ đóng góp để tạo nên những thay đổi quan trọng cho Việt Nam với tư cách là những nhà lãnh đạo tương lai trong lĩnh vực của mình.
Tin đi cứ cố là được
– ĐOÀN VĂN TÍN, AAS 2012
Tôi tên là Đoàn Văn Tín, đã đạt học bổng AAS để học Thạc sĩ Du lịch tại Đại học Monash năm 2012-2013.
Sau khi về nước năm 2014, tôi may mắn nhận được học bổng trao đổi học giả 3 tháng tại Đại học Portland State, trong chương trình hợp tác giữa Việt Nam và bang Oregon, Mỹ. Sau đó tôi trở lại Đại học Quảng Nam để công tác.
Đến năm 2016, tôi chuyển sang làm tư nhân nhưng vẫn theo đuổi công tác đào tạo tại khu nghỉ dưỡng cao cấp Anantara Mũi Né. Tôi chọn khu nghỉ dưỡng này bởi những chính sách hướng đến sự phát triển bền vững và chia sẻ với cộng đồng của tập đoàn quản lý.
Hiện tại, tôi đang làm nghiên cứu sinh theo chương trình học bổng của chính phủ New Zealand tại Auckland.
31
LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ MỘT HỒ SƠ MẠNH?
Khi lần đầu nộp đơn xin học bổng AAS của Úc, tôi đã không tìm hiểu kỹ về ngành học. Tôi biết ngành du lịch không phải là ngành nằm trong nhóm ngành được ưu tiên nhưng vẫn cố thử xem may rủi sao… và đã trượt. Sau đó tôi đã ứng tuyển học bổng thêm một lần nữa với sự chuẩn bị tốt hơn. Tôi nhận thấy không phải là tên khóa học mà nội dung của khóa học mới chính là cơ sở để tôi thuyết phục hội đồng trao cho tôi cơ hội đi học.
Thế nên, lời khuyên của tôi là bạn đừng quá chỉ tập trung vào tên khóa học mà hãy nắm vững những nội dung mình sẽ được học, có thể thông qua website của trường, cựu sinh viên hay email trực tiếp đến người phụ trách khóa học để hỏi. Tôi đã cho hội đồng phỏng vấn thấy tôi đầu tư như thế nào để có được thông tin về khóa học.
Để có một hồ sơ mạnh, bạn cần biết học bổng đang tìm kiếm điều gì và ưu tiên cho đối tượng nào. Nếu bạn nhận thấy mình đáp ứng được những điều họ đang tìm kiếm thì lúc đó bạn nên nộp đơn ứng tuyển.
Tuy nhiên, cũng như đi bất kỳ cuộc đua nào, bạn thấy mình phù hợp nhưng mình có mạnh hơn người khác để chiến thắng không lại là chuyện khác. Vì thế, bạn cần đầu tư để khai thác tối đa điểm mạnh của mình, nếu có thể hãy tìm cách biến điểm yếu thành điểm mạnh. Lúc đó bạn sẽ trở nên khác biệt để có thể cạnh tranh tốt trong số hàng ngàn ứng viên.
Các học bổng chính phủ thường có những ưu tiên dành cho một nhóm đối tượng nhất định, nên so ra thì mức độ cạnh tranh của các loại học bổng khác như học bổng trường, học bổng tổ chức có thể cao hơn. Điều quan trọng nhất vẫn là hãy dũng cảm đầu tư tìm hiểu, đầu tư phát triển hồ sơ và tự tin ứng tuyển.
DU LỊCH HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Du lịch chính là công cụ để phát triển bền vững và xóa đói, giảm nghèo. Ngành du lịch – khách sạn là một lĩnh vực phát triển mạnh ở Việt Nam và được chính phủ các nước quan tâm, hỗ trợ nhằm hướng đến sự phát triển bền vững. Những điều tôi được học tập và trải nghiệm ở Úc, Mỹ và New Zealand biến mong ước được đóng góp cho thế hệ trẻ của tôi trở thành hiện thực. Khi trở về nước, tôi đã mang kiến thức và kinh nghiệm của mình đến các bạn sinh viên trong việc giảng tại trường đại học, đến cộng đồng qua các khóa tập huấn trong các dự án du lịch và đến nhân viên trong các khách sạn. Tôi luôn lồng ghép các thông điệp về phát triển bền vững trong việc truyền cảm hứng về hoạt động kinh doanh và nghề du lịch – khách sạn. Tôi sẽ theo đuổi công việc giảng dạy của mình bất kể là làm trong các công ty tư nhân, trong trường đại học hay tổ chức phi chính phủ.
HỌC TỪ NHỮNG TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ
Chia sẻ về ngành học của mình tại Úc, thì tôi nghĩ ngành học nào của Úc cũng thú vị, vấn đề là bạn cần tìm hiểu nội dung của khóa học tại các trường khác nhau có được thiết kế như bạn mong muốn không. Mỗi trường sẽ có thế mạnh khác nhau về ngành học và chính sách mà trường hướng tới trong từng khóa học. Khóa học Thạc sĩ Du lịch của tôi hướng đến là kiến thức thực tiễn để làm việc sau khi kết thúc chương trình.
Trong khóa học này, tôi thấy các chuyến đi thực tế (field trip) là thú vị và thiết thực nhất. Mỗi chuyến đi, bạn phải chuẩn bị kiến thức, công cụ làm việc và rèn luyện nhiều kỹ năng khác nhau như thực hành sử dụng công cụ nghiên cứu, làm việc nhóm, làm việc với cộng đồng và chính quyền sở tại. Chính qua mỗi chuyến đi như thế, tôi học được nhiều điều từ nhiều đối tượng khác nhau, giúp khả năng tư duy và việc ghi nhớ kiến thức tốt hơn.
Tôi đã làm việc với khá nhiều người Úc trước khi đi du học. Vì thế, hiểu biết và ấn tượng của tôi về người Úc khá tốt và điều này không thay đổi khi tôi đến Úc. Tuy nhiên, Úc là một đất nước đa văn hóa và rất mạnh về thu hút du học sinh quốc tế. Bạn đừng ngạc nhiên nếu vào lớp học nào đó mà… chẳng thấy một người Úc nào! Suy
nghĩ một cách tích cực thì bạn sẽ học được rất nhiều điều khác nhau từ các bạn ở các nền văn hóa khác, cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề sẽ rất phong phú và đa dạng. Chính sự đa văn hóa này sẽ giúp cuộc sống bạn tràn ngập màu sắc. Thức ăn là điều tôi thích nhất ở Úc, bất cứ thứ gì từ món ăn thuần Việt cho đến món ăn của hàng trăm quốc gia trên thế giới.
Tôi cũng học được nhiều điều khi được tiếp xúc với các anh, chị và các bạn trong chương trình học bổng AAS. Tôi đánh giá cao những người tích cực tạo ra sự thay đổi và ảnh hưởng tốt đến cộng đồng. Tôi cho rằng khi bạn bắt tay làm những việc thiết thực, dù nhỏ cũng có thể tạo nên ảnh hưởng lâu dài. Tôi cũng cho rằng khi ứng tuyển
học bổng, cá tính mỗi người nên được thể hiện trong hồ sơ và lúc phỏng vấn. Theo tôi, điều đó tạo nên sự khác biệt.
32
NGÔN NGỮ – THÁCH THỨC LỚN NHẤT VỚI SINH VIÊN QUỐC TẾ
33
Thách thức lớn nhất với sinh viên quốc tế là không được dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Điều này cũng gây khó khăn lớn trong việc viết luận và làm bài tập. Ngoài ra, việc không hiểu những câu đùa vui hằng ngày bằng tiếng Anh có thể hạn chế khả năng hòa đồng của bạn với bạn bè quốc tế. Kinh nghiệm của tôi là hãy sống với người nói tiếng Anh. Chính họ sẽ làm bạn tự tin giao tiếp với mọi người và đưa bạn gần hơn với văn hóa phương Tây.
Ngoài ra, bạn cũng hãy tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện của cộng đồng. Đó là lời khuyên mà tôi sẽ dành cho bất cứ ai chuẩn bị lên đường đi du học hay đang du học. Chính tại các hoạt động tình nguyện, bạn sẽ gặp những người tốt bụng, cởi mở và kiên nhẫn lắng nghe thứ tiếng Anh không rõ ràng của bạn. Tôi đã gặp rất nhiều người bạn đáng quý từ những hoạt động tình nguyện. Họ đã chia sẻ thông tin giúp tôi có được việc làm thêm và chỉ bảo cho tôi
những nơi đi chơi thú vị. Họ giúp tôi đến gần hơn với văn hóa địa phương.
Úc là một đất nước đa văn hóa và rất mạnh về thu hút du học sinh quốc tế. Bạn đừng ngạc nhiên nếu vào lớp học nào đó mà… chẳng thấy một người Úc nào!
ĐIỀU ĐỌNG LẠI TỪ NƯỚC ÚC
Đọng lại trong tôi lúc lên máy bay rời nước Úc là hình ảnh của những người bạn cùng nhà. Những cái ôm thật chặt và lời hẹn gặp nhau tại Việt Nam. Ba trong số năm người bạn cùng nhà đã sang Việt Nam du lịch và chúng tôi đã có những chuyến đi tuyệt vời trong nước. Cảm ơn nước Úc đã mang đến cho tôi những điều tuyệt vời.
Với tôi, du học không chỉ là ước mơ mà đó phải là dự tính trong kế hoạch cuộc đời. Việc sống và học tập tại một đất nước khác đã thay đổi cách nhìn nhận của tôi về thế giới, cách suy nghĩ về các vấn đề trong cuộc sống. Hãy mạnh dạn lên kế hoạch, đầu tư có tính toán và ứng tuyển vào học bổng phù hợp với bạn. Tôi tin tôi làm được thì bạn cũng thế. Cố gắng hết mình, bạn sẽ đến Úc sớm thôi!
Học bổng chính phủ New Zealand New Zealand Asean
HỌC BỔNG NEW ZEALAND ASEAN SCHOLAR AWARDS, viết tắt NZAS là học bổng thúc đẩy mối quan hệ văn hóa và hợp tác kinh tế giữa New Zealand và Việt Nam. Học bổng NZAS được tài trợ bởi chương trình New Zealand Aid Programme, do Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại quản lý.
Với việc cấp học bổng này, chính phủ New Zealand mong muốn tìm kiếm các ứng viên có kiến thức, kỹ năng, trình độ để đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội và chính trị tại chính quốc gia của mình.
Học bổng toàn phần này chỉ dành cho hệ sau đại học và sẽ ưu tiên cho những ngành thế mạnh của New Zealand và lĩnh vực ưu tiên của chính phủ Việt Nam, điển hình như Nông nghiệp, Quản lý rủi ro thiên tai, Năng lượng tái tạo, Quản lý khối nhà nước và Phát triển khối tư nhân…
New Zealand: Learn - Live - Grow
QUỲNH ANH – LỆ QUYÊN – NGUYỄN KHIÊM, NEW ZEALAND ASIAN 2017
34
Học bổng - Nếu nói trên con mắt của nhà đầu tư thì các bạn xứng đáng để nhà đầu tư bỏ tiền và có tiềm năng “sinh lời”!
Các bạn có thể giới thiệu đôi chút về bản thân để độc giả được biết thêm về các bạn.
35
Mình là Hoàng Thị Lệ Quyên. Hiện mình đang theo học ngành Thạc sĩ Tài chính Ứng dụng tại Đại học Công nghệ Auckland (AUT), New Zealand và tháng 3 năm 2018 thì tốt nghiệp. Trước đây mình là chuyên viên tư vấn thuế (senior tax consultant) tại Công ty Tư vấn và Kiểm toán PwC Việt Nam.
36
Tôi tên Nguyễn Khiêm, Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Tài nguyên Nước, Đại học Canterbury (UC), niên khóa 2017-2019. Hiện tôi đã hoàn thành được hai học kỳ đầu tiên tại UC. Trước khi nhận được học bổng, tôi làm việc cho một tổ chức phi chính phủ trong nước và
có kinh nghiệm công tác được gần 2 năm.
37
Mình là Quỳnh Anh, sinh năm 1985, hiện đang học Thạc sĩ ngành Kinh doanh Quốc tế tại Đại học Auckland (the University of Auckland, New Zealand). Trước khi đi học, mình làm việc tại Công ty Eurowindow ở vị trí Chánh văn phòng Hội đồng quản trị.
Ngành học của các bạn sau này có thể ứng dụng vào những công việc cụ thể ra sao? Hoặc xa hơn là con đường sự nghiệp của các bạn được định hình như thế nào?
Lệ Quyên: Cá nhân mình cảm nhận Tài chính Ứng dụng là một ngành học chuyên sâu và mang tính ứng dụng rất cao. Khóa học đã cung cấp cho mình kiến thức nền tảng về kinh tế tài chính, bao gồm kiến thức về kinh tế vi mô, vĩ mô, thống kê trong kinh doanh, tài chính doanh nghiệp, phân tích đầu tư, quản trị tài chính doanh nghiệp và quốc tế cùng quản trị rủi ro. Do đó, sau khi tốt nghiệp, các bạn có thể dễ dàng tìm được công việc phù hợp với ngành học trong lĩnh vực tài chính kinh doanh.
Chẳng hạn, bạn có thể làm người điều phối tài chính (financial coordinator) cho các dự án, chuyên viên phân tích rủi ro cho công ty, trợ lý tài chính cho các chuyên gia nước ngoài, tư vấn tài chính tại
các công ty tài chính kiểm toán, hay làm việc tại các quỹ đầu tư và các phòng ban tài chính, đầu tư, kinh doanh của ngân hàng.
Mục tiêu dài hạn của mình là trở thành chuyên gia tư vấn tài chính – kế toán cấp cao cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào Việt Nam hiệu quả hơn cũng là góp phần giúp kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang mở rộng mối quan hệ đầu tư và hợp tác với rất nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Với vai trò này, mình tự tin có thể vận dụng những kinh nghiệm trước đây về tư vấn thuế và kế toán cho khách hàng trong các lĩnh vực khác nhau bao gồm sản xuất, phân phối và kinh doanh, bảo hiểm, ngân hàng và mảng dịch vụ tài chính cũng như những kiến thức và kỹ năng mình đã thu nhận được sau khóa học Tài chính Ứng dụng tại New Zealand.
Nguyễn Khiêm: Sau khi tốt nghiệp, kiến thức của tôi có thể sử dụng để cải thiện việc sử dụng nước một cách hiệu quả hơn ở quê nhà, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cụ thể, về kỹ thuật, khóa học cung cấp các kiến thức để xây dựng các kế hoạch quản lý, kiểm tra chất lượng và sản lượng nước (cả nước mặt và nước ngầm). Bên cạnh đó, khóa học còn cung cấp các kiến thức quản lý bao gồm quản lý tổng hợp tài nguyên nước nhằm cân bằng các nhu cầu sử dụng nước một cách hợp lý để đảm bảo phát triển bền vững.
Quỳnh Anh: Kinh doanh Quốc tế là một ngành học rất thú vị với nhiều môn tương tự như Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh (MBA). Ngành học này chú trọng đến môi trường kinh doanh quốc tế. Thông qua ngành học này mình được mở rộng hơn các kiến thức mà mình đã học ở Đại học Ngoại thương cũng như đối chiếu với kinh nghiệm thực tế làm việc của mình. Các môn học giúp mình đào sâu hơn lý thuyết về kinh tế, kế toán quản trị, phân tích kinh doanh, quản trị nhân sự… cập nhật những phương pháp mới nhất về quản trị. Các kiến thức và tình huống bọn mình được nghiên cứu liên quan đến tất cả các hoạt động trong một tổ chức từ kinh doanh, kế toán – tài chính, nhân sự, chuỗi cung ứng đến chiến lược của công ty. Bên cạnh đó, mình cũng được thực hành các kỹ năng cần thiết của một
nhà quản lý cấp cao như kỹ năng lãnh đạo, tư duy chiến lược, kỹ năng phân tích, kỹ năng giao tiếp và làm việc với con người ở nhiều nền văn hóa khác nhau.
Tốt nghiệp ngành học này, sinh viên có cơ hội làm việc ở các tập đoàn quốc tế tại nhiều vị trí quản lý khác nhau, có thể làm trưởng đại diện cho các công ty tại nước ngoài, hay tự thành lập và quản lý doanh nghiệp của riêng mình.
38
Riêng về cá nhân mình, với nhiều năm làm việc tại vị trí trợ lý Chủ tịch Hội đồng Quản trị và Chánh văn phòng Hội đồng Quản trị, mình có cơ hội được làm việc với những lãnh đạo giỏi, được thử thách bản thân ở nhiều mảng công việc từ tài chính, đầu tư đến nhân sự, sản xuất, kinh doanh… Mình cũng tham gia vào việc hoạch định các kế hoạch liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và chiến lược của công ty. Do đó, khi học ngành này mình có thể liên hệ với những kinh nghiệm thực tế của mình, với tâm thế tương đối chủ động, dành nhiều thời gian cho những kiến thức mình có thể ứng dụng.
Kế hoạch trước mắt của mình khi trở về là áp dụng những kiến thức, phương pháp và kỹ năng đã học được để đóng góp cho Eurowindow, giúp công ty hoạt động hiệu quả hơn nữa và hướng đến sự phát triển bền vững. Đồng thời mình cũng muốn lan tỏa tinh thần học hỏi, cầu tiến đến các cán bộ nhân viên trong công ty. Vị trí công việc mà mình hướng tới là Giám đốc chiến lược chuyên nghiệp (Chief Strategy Officer – CSO). Ngoài ra, mình cũng muốn góp phần thúc đẩy việc giao thương giữa Việt Nam và New Zealand. Mình có ấp ủ những dự định và đó là kế hoạch dài hạn của mình nhưng xin được chia sẻ vào dịp khác, chỉ bật mí là dù làm bất cứ việc gì thì lý tưởng của mình luôn là đóng góp tích cực cho xã hội, đất nước và tổ chức mà mình làm việc.
Ngoài học bổng New Zealand Asean, các bạn có nộp học bổng chính phủ nào khác? Bạn có kỷ niệm nào đáng nhớ trong quá trình nộp học bổng hay không?
Lệ Quyên: New Zealand Asean là học bổng duy nhất mà mình nộp và may mắn đã đến với mình trong lần đầu tiên này.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất trong quá trình nộp học bổng này đó là quãng thời gian “vắt chân lên cổ” để chuẩn bị hồ sơ mà mình vẫn nhớ như in. Do mình biết đến học bổng khá muộn (Chỉ một tháng trước hạn chót) và thời điểm nộp hồ sơ trùng với thời điểm quyết toán thuế tại các doanh nghiệp khách hàng của mình. Có thể nói tình thế của mình lúc đó là “một cổ hai tròng”. Mình vẫn nhớ có những hôm đi làm từ sáng tới tận khuya, có hôm tới 11 giờ tối mà về nhà vẫn phải dành thời gian chỉnh sửa bài luận và ôn thi IELTS (do mình chưa có chứng chỉ IELTS tại thời điểm nộp hồ sơ). Quãng thời gian một tháng đó thật sự rất căng thẳng. Đến bây giờ mình vẫn không nghĩ là mình có thể làm được.
Nguyễn Khiêm: Tôi chỉ nộp duy nhất mỗi học bổng New Zealand Asean. Quá trình nộp học bổng của tôi rất ngắn, gấp rút, vì lúc đó đang đi làm nên khá bận với công việc. Đơn học bổng chỉ viết gọn
trong một cuối tuần và nộp. Nhưng lúc viết đơn, tôi dành cả cuối tuần để trau chuốt các bài luận.
Có thể đã đầu tư gần 40 giờ trong hai ngày cuối tuần cho các bài luận.
Quỳnh Anh: Học bổng New Zealand Asean là học bổng đầu tiên và duy nhất mà mình nộp.
Mình có rất nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong quá trình nộp học bổng. Bình thường công việc của mình đã rất bận, nhiều lúc làm về muộn (7-8 giờ tối), hoặc có những hôm phải đi làm cuối tuần. Mình lại có con nhỏ, lúc ấy bé nhà mình gần 5 tuổi. Nhiều lúc mình đưa bé đi làm hay đi họp cùng. Đến lúc đi ôn thi tiếng Anh vào cuối tuần, mình cũng mang bé đi học cùng. Bé nhà mình cũng luôn động viên: “Mẹ Anh cố lên” hay có dịp sinh nhật mẹ, bé chúc: “Con chúc mẹ Anh đi du học New Zealand”. Rồi có lúc bé nói: “Con vào học lớp 1 rồi lớp 2, 3, 4, 5 xong rồi con học cấp 2, cấp 3, vào đại học rồi đi du học giống mẹ Anh”.
Có thể nói gia đình, con gái, bạn bè thân là những người đồng hành cùng mình trong quá trình nộp học bổng. Thậm chí, nhiều đồng nghiệp trong công ty cũng rất ủng hộ việc mình đi du học. Mọi người đã tiếp thêm rất nhiều động lực cho mình. Và đặc biệt khi mình đạt được học bổng thì các anh chị ở cơ quan thường nói đã kể câu chuyện của mình cho các con của anh chị. Mình thấy vui vì câu chuyện của mình có thể truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ hơn mình.
Theo các bạn, những ai nên nộp học bổng chính phủ? Và lời khuyên các bạn nhận được và thấy tâm đắc nhất trong quá trình nộp học bổng là gì?
Lệ Quyên: Học bổng chính phủ là một loại học bổng phát triển, do đó yếu tố về định hướng và tính đóng góp mang tính chất quyết định hơn cả. Đối tượng phù hợp với học bổng chính phủ là các bạn có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu sự nghiệp xuyên suốt quá trình học, quá trình làm việc và định hướng tương lai. Ngoài ra, hội đồng cũng sẽ ấn tượng với những bạn có tố chất lãnh đạo tốt, có tiềm năng đóng góp và gây ảnh hưởng tới cộng đồng ở một lĩnh vực nhất định nào đó, xứng đáng là đại sứ hình ảnh của cả hai nước – Việt Nam và nước trao học bổng cho mình.
39
Tóm lại, nếu nói trên con mắt của nhà đầu tư thì các bạn xứng đáng để nhà đầu tư bỏ tiền và có tiềm năng “sinh lời”!
Lời khuyên mà mình nhận được và cảm thấy rất tâm đắc đó là câu khích lệ của người chị của mình rằng: “Em hãy biến hành trình xin học bổng thành một hành trình đáng nhớ trong cuộc đời em. Đừng
bao giờ đặt nặng vấn đề ‘mình bỏ ra nhiều công sức như thế này nếu không dành được học bổng thì sao?’. Thực ra là em đã nhận được rất nhiều thứ từ quá trình xin học bổng này rồi.” Đúng như vậy, mỗi lần làm hồ sơ là mỗi lần nhìn lại bản thân, mình sẽ có cái nhìn rõ hơn về điểm mạnh và điểm yếu của mình. Điều này rất tốt cho các bạn trong việc nộp đơn xin việc bình thường kể cả khi các bạn không đi du học. Ngoài ra, săn học bổng giúp các bạn mở rộng
được mạng lưới mối quan hệ (net working) của mình và phần nào nâng cao được vốn tiếng Anh. Cuối cùng, xin mượn câu nói của Paulo Coelho trong tiểu thuyết Nhà giả kim như một động lực dành cho các bạn: “Khi bạn muốn điều gì đó, cả vũ trụ sẽ hợp lại để giúp bạn!”
Nguyễn Khiêm: Những cá nhân thật sự muốn làm một điều gì đó để thay đổi, cải thiện những “vấn đề” hiện tại ở Việt Nam và là những người có kế hoạch và lộ trình cụ thể để giải quyết những vấn đề đó thì nên nộp hồ sơ cho bên học bổng chính phủ nói chung và New Zealand Asean nói riêng.
Một điều mà tôi thấy tâm đắc nhất trong quá trình nộp học bổng là việc viết đơn. Bạn không nên viết quá rộng và lan man, tầm nhìn của bạn có thể bao quát và rộng nhưng khi nêu ra vấn đề và đề xuất cách giải quyết cần phải thật cụ thể và chi tiết. Nếu có thể, hãy nêu lộ trình 2 năm, 5 năm, và 10 năm về hướng giải quyết vấn đề của bạn.
Quỳnh Anh: Những ai mong muốn phát triển bản thân và làm một điều gì đó để mang đến sự thay đổi tích cực cho xã hội, đất nước có thể nộp đơn xin học bổng chính phủ. Nhưng cần nhấn mạnh là bạn phải “đau đáu”, “tâm huyết” với mong muốn đó và có kế hoạch cụ thể, rõ ràng để thực hiện.
Lời khuyên mà mình tâm đắc nhất (do mình đúc rút lại khi tham khảo các bài trao đổi trên diễn đàn, bài phỏng vấn các ứng viên): “Hãy luôn là chính mình – tự tin và trung thực trong lúc nộp hồ sơ cũng như phỏng vấn”.
Các bạn vui lòng chia sẻ nhiều hơn về nhóm ngành mình học tại New Zealand. Môn nào trong ngành học này làm các bạn ấn tượng nhất? Nếu học tại New Zealand thì nên học ngành nào?
Lệ Quyên: Nhìn chung các bạn lựa chọn chuyên ngành Tài chính như mình sẽ được học các môn như: Kinh tế trong kinh doanh, Quản trị tài chính, Phân tích báo cáo tài chính, Thống kê trong kinh doanh, Quản trị tài chính doanh nghiệp, Mô hình và phân tích tài
chính, Quản trị tài chính quốc tế, Phân tích đầu tư và Quản trị rủi ro tài chính. Trong đó, môn học mà mình ấn tượng nhất là Mô hình và phân tích tài chính. Môn học này mình có nghe qua nhưng chưa có cơ hội thực hành khi còn học ở Việt Nam vì thiếu cơ sở và dữ liệu.
Quan trọng hơn môn học này mang lại cho mình kỹ năng sử dụng mã hóa (coding) để giải quyết rất nhiều vấn đề khó mà Excel thông thường không thể làm được hoặc nếu làm được cũng tốn rất nhiều thời gian.
New Zealand đi đầu trong việc giảng dạy hai chiều. Sang đây mình cảm nhận rất rõ việc học tập tương tác giữa giảng viên và sinh viên hiệu quả như thế nào. Mình cũng hòa nhập rất nhanh với xu hướng này và không còn rụt rè hay thiếu tự tin mỗi khi trình bày quan điểm
của mình nữa. Ngoài ra, tính liên hệ và ứng dụng trong các môn học tại New Zealand là rất cao. Đặc biệt là ở ngành học của mình, mỗi khi nói về một kiến thức mới, thầy cô thường nêu lên mặt thực tiễn của nó. Một câu hỏi đơn giản nhưng hiệu quả: “Học cái này để làm gì?” đều được các thầy cô của mình giải đáp một cách thỏa đáng làm mình cảm thấy rất tâm đắc!
New Zealand mạnh về nhóm ngành Du lịch và Nông nghiệp. Các bạn đã có nền tảng (background) về ngành này có thể cân nhắc khi nộp hồ sơ New Zealand Asian.
Nguyễn Khiêm: Nhóm ngành nên học ở New Zealand còn tùy thuộc trường, ví dụ Đại học Auckland thì nổi tiếng về các ngành Kinh doanh (business), trong khi Đại học Canterbury lại rất nổi tiếng về các ngành Kỹ thuật. Vậy nên khi nộp đơn cho ngành mà bạn mong muốn, việc cân nhắc trường nào có thế mạnh về nhóm ngành nào là điều cần thiết.
Quỳnh Anh: Kinh doanh (Business) là nhóm ngành mà sau khi học xong bạn có thể làm việc ở nhiều vị trí khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau cả trong khối doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Tuy nhiên nhóm ngành này thường không phải nhóm ngành ưu tiên của các học bổng chính phủ. Rất tuyệt vời là New Zealand Asian có dành học bổng cho nhóm ngành này. Mình thấy đây là tư duy rất khác biệt với nhiều học bổng khác và rất đúng đắn, nhân văn vì đâu
phải cứ làm cho khối nhà nước mới có thể đóng góp cho đất nước còn làm cho công ty tư nhân thì không thể.
Ở New Zealand thì mỗi trường có thế mạnh về nhóm ngành riêng. Tất cả các trường đại học của New Zealand đều nằm trong top 3% những trường đại học tốt nhất thế giới theo xếp hạng của QS World University Rankings. Đối với Đại học Auckland (Auckland University) – trường đại học số một tại New Zealand và nằm trong top 100 những trường tốt nhất thế giới thì Trường Kinh doanh (Business School) được xếp trong 1% những trường kinh doanh xuất sắc nhất thế giới nên có thể nói nhóm ngành Kinh doanh là thế mạnh của trường.
Khóa học của mình gồm 240 tín chỉ, chia thành 6 kỳ. Hiện tại mình đang học kỳ thứ tư. Môn học mình ấn tượng nhất đến thời điểm này là Quản trị Marketing (Marketing Management). Bọn mình được học các lý thuyết về Marketing từ trước đến nay và cập nhật những kiến thức mới nhất, mỗi buổi lên lớp (lecture) đều được xem rất nhiều clip quảng cáo hay. Buổi học thì mỗi nhóm tự nghiên cứu tài liệu của tuần, làm bài thuyết trình trước lớp để cả lớp hiểu nội dung của tuần đó, minh họa bằng một video do nhóm tự tìm. Sau đó nhóm trình bày sẽ đặt câu hỏi để các thành viên khác trong lớp trả lời. Cuối giờ mỗi cá nhân phải tự viết một đoạn tổng kết xem mình học được gì và nhận xét về bài trình bày của nhóm thuyết trình. Ngoài ra, môn học này bọn mình có một bài tập lớn chia thành hai phần. Phần đầu là làm việc cá nhân, phần hai là làm việc theo nhóm. Trong bài tập này, một công ty khởi nghiệp (start-up) tại New Zealand sẽ đến thuyết trình về công ty của họ và đặt đề bài cho cả lớp. Bọn mình sẽ phải phân tích điểm mạnh và điểm yếu, cơ hội và thách thức của công ty đó (dựa trên lý thuyết đã học) và phải tìm tài liệu/số liệu chứng minh cho phân tích của mình.
41
Sau đó cần xây dựng chiến lược Marketing tổng thể cho công ty để tung ra sản phẩm hướng đến thị trường mục tiêu. Bọn mình vừa cần viết báo cáo, vừa cần trình bày ngắn gọn trước lớp kết quả của mỗi nhóm và trả lời hỏi-đáp trực tiếp từ những người sáng lập công
ty và thầy cô giáo. Mình thấy cách học như vậy vừa bài bản (dựa trên lý thuyết) mà vẫn rất thực tế, phát huy tính sáng tạo của sinh viên, đòi hỏi ở sinh viên rất nhiều kiến thức, kỹ năng (kỹ năng làm
việc độc lập, làm việc nhóm, tư duy phản biện, kỹ năng viết học thuật, kỹ năng thuyết trình…).
Việc học tại New Zealand mình thấy thú vị ở việc sinh viên có thể tiếp cận giáo viên khá dễ dàng. Mình khá ấn tượng về sự quan tâm và thân thiện của thầy cô đối với sinh viên. Ví dụ như có hôm nhóm mình (gồm một bạn người Mỹ, bốn bạn Trung Quốc và mình) đến dự buổi họp Hội đồng Quản trị (mỗi nhóm là một công ty, trong đó mỗi thành viên là Quản lý – Giám đốc của một bộ phận, thầy cô giáo là thành viên Hội đồng Quản trị), bọn mình mặc trang phục công sở. Khi đang chờ đến nhóm mình vào họp, một cô giáo là thành viên Hội đồng Quản trị cũng chuẩn bị vào họp chợt dừng lại rồi thắt lại cà vạt giúp một bạn trai trong nhóm do cà vạt của bạn ấy bị lệch. Rồi có những hôm bọn mình ở lại trường học muộn (6 giờ tối), một cô giáo đi về và nhìn thấy bọn mình mặt mũi khá phờ phạc nên động viên bọn mình nên về nhà, mai cuối tuần nên ra ngoài chơi để cân bằng. Trong khi đó có những hôm bọn mình gửi bài cuối tuần, mình đã nhận được email trả lời của thầy cô vào buổi tối hay ngày cuối tuần. Mình thật sự rất ấn tượng về sự nhiệt tình của thầy cô.
Các ngành học thế mạnh của New Zealand bao gồm Phát triển nông nghiệp (Agriculture development), Phát triển bền vững (Sustainable development), Năng lượng tái tạo (Renewable energy), Quản lý rủi ro thiên tai (Disaster risk management), Quản lý công (Public sector management), Phát triển khu vực tư nhân (Private sector development), Giáo dục (Education)…
New Zealand Asean là học bổng có truyền thống, bạn có nhận xét gì về thế hệ nhận học bổng này trước và sau khóa của bạn?
Lệ Quyên: Trước đây mọi người thường mặc định New Zealand Asean hay các học bổng chính phủ khác chỉ dành cho các ứng viên khối nhà nước và có rất ít cơ hội cho các ứng viên đến từ khối tư nhân. Tuy nhiên, nhìn vào các ứng viên thành công trong năm của mình, có tới phân nửa là các bạn đến từ khối tư nhân, thậm chí làm
việc trong mảng tài chính kinh doanh, vốn là mảng không được ưu tiên. Hy vọng, đây sẽ là động lực để các bạn có phông nền tương tự như chúng mình có thể mạnh dạn ứng tuyển.
Nguyễn Khiêm: May mắn được gặp và kết nối với các khóa trước cũng như khóa sau nên tôi có thể trả lời câu hỏi này. Mỗi người một tính cách rất khác, rất riêng biệt nên rất khó để nhận xét các ứng viên (batch) của New Zealand Asean. Tuy nhiên, có một điểm chung là tất cả đều rất “chất”, mỗi người đều có một cái gì đó rất riêng và khó có thể diễn tả, mỗi người đều rất giỏi về một chuyên môn nào đó. May mắn được tiếp xúc với nhiều người ở nhiều chuyên môn khác nhau, tôi học được rất nhiều điều mới. Có lẽ đây là kết quả của quá trình tuyển chọn khắt khe của chương trình học bổng, đảm bảo sự đa dạng lẫn chuyên môn và tính cách.
Quỳnh Anh: Ứng viên nhận học bổng New Zealand Asean mình thấy rất đa dạng, cả về công việc, ngành học và độ tuổi. Các ứng viên nhận học bổng năm của mình và những người mình gặp năm trước (năm sau thì mình chưa gặp ai) mỗi người đều có thế mạnh riêng, cá tính riêng và rất nhiều người thú vị (kể cả những em còn rất trẻ). Mình thích gặp gỡ các bạn trong nhóm New Zealand Asean vì mình cảm thấy giống như sự tích cực được lan tỏa và cộng hưởng. Mình cũng được truyền cảm hứng và học hỏi từ mỗi bạn trong nhóm những điều thú vị khác nhau.
Các bạn nhận học bổng New Zealand Asean người nước ngoài như thế nào? Bạn thấy họ có gì đặc biệt hoặc có gì nổi trội hơn so với các ứng viên đến từ Việt Nam?
Lệ Quyên: Cá nhân mình quan sát các bạn trong học bổng New Zealand Asean đến từ các nước khác đa phần đều dễ thương (nice) và giỏi.
So với các ứng viên đến từ các nước trong khu vực như Indonesia, Timor- Leste, Campuchia hay các nước vùng đảo lân cận New Zealand, ứng viên của Việt Nam năm nay có phần nổi trội hơn, không chỉ về lý lịch (profile) mà còn về các kỹ năng mềm khác như giao tiếp, thuyết trình hay làm việc nhóm. Tuy nhiên, mình đánh giá
cao các ứng viên đến từ Philippines. Các bạn ấy có lợi thế tiếng Anh tốt, thông minh và rất nổi bật.
Nguyễn Khiêm: Không có gì rất đặc biệt so với các bạn đến từ Việt Nam.
À, điều khác biệt mà tôi có thể quan sát được là các bạn nước ngoài rất siêng học và không dành nhiều thời gian để trải nghiệm văn hóa và thiên nhiên ở New Zealand. Ngược lại, sinh viên Việt Nam cân bằng điều này tốt hơn.
Quỳnh Anh: Các ứng viên New Zealand Asian người nước ngoài mà mình gặp đều giỏi, có tố chất đặc biệt. Về lý lịch (profile) thì mình không nghĩ là họ nổi trội hơn so với các ứng viên Việt Nam, mà thậm chí ứng viên Việt Nam còn nổi trội hơn những bạn đến từ các nước khác.
Lấy ví dụ trong lớp học, mình thấy khi làm việc nhóm, các ứng viên Việt Nam đều luôn đưa ra những hướng giải quyết thông minh, thái độ làm việc nhóm tích cực, có trách nhiệm cao và thân thiện. Các bạn sinh viên khác trong lớp hầu hết đều đánh giá cao các sinh viên Việt Nam.
Mình nghĩ bất cứ một ứng viên New Zealand Asean nào, dù là Việt Nam hay nước ngoài đều có những tố chất rất đặc biệt, mỗi người đều có những câu chuyện thú vị riêng.
Hãy chia sẻ thêm về đất nước và môi trường học tập tại New Zealand? Bạn thích điều gì nhất tại đây?
Lệ Quyên: New Zealand có lợi thế về ngành Du lịch, được coi là ngành xuất khẩu lớn thứ hai tại New Zealand do nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho nhiều cảnh quan tự nhiên kỳ vĩ. Cũng dễ hiểu khi New Zealand được xem là lựa chọn hàng đầu cho các ứng viên vừa muốn trải nghiệm học tập nhưng cũng vừa muốn du lịch khám phá như mình. Môi trường học tập năng động và trang thiết bị tiên tiến, hiện đại luôn được các sinh viên đánh giá cao. Điều thích
nhất đối với mình đó là sự hỗ trợ rất nhiệt tình của các giảng viên đến từ AUT – ngôi trường mình đang theo học.
Nguyễn Khiêm: Môi trường học tập: Tôi thích nhất là môi trường học tập ở UC vì mọi thứ rất tiện lợi, từ học tập, thể thao, đến giải trí. Rất nhiều công viên và sân cỏ mà tôi có thể chơi các môn thể thao yêu thích. Rất nhiều cảnh đẹp trong khuôn viên trường mà tôi có thể chụp ảnh. Rất nhiều hỗ trợ từ nhà trường cho việc phát triển học tập của sinh viên (các lớp học, hội thảo để hỗ trợ những sinh viên mà tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai).
42
Đối với sinh viên quốc tế khi vừa đến đây, tôi cũng như các sinh viên quốc tế khác được dẫn đi tham quan thành phố. Trước khi nhập học hai tuần, chúng tôi được tham gia các buổi hội thảo về các kỹ năng cũng như các yêu cầu trong lúc học tập ở UC. Vì đối với các sinh viên quốc tế, hệ thống giáo dục của các nước có thể khác với hệ thống giáo dục ở đây nên họ chuẩn bị rất chu đáo các chương trình cho sinh viên quốc tế như là: Cách viết bài luận và đọc tài liệu hiệu quả, cách ghi chú (take note), cách trình bày, cũng như là cách viết email cho giáo sư. Ngoài ra, các buổi học còn lồng ghép thêm các kiến thức và văn hóa Kiwi để hỗ trợ cho sinh viên quốc tế khi giao tiếp với người địa phương. Còn một điểm tôi rất thích là Trung tâm đào tạo kỹ năng học thuật (Academic Skills Centre), nơi mà tôi nghĩ là phục vụ rất hiệu quả cho sinh viên quốc tế vì tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai nên các bạn thường gặp phải các vấn đề như lỗi ngữ pháp, lỗi chính tả hay lỗi dấu câu.
Thư viện trường UC là tòa nhà lớn và cao nhất được đặt ngay trung tâm của khuôn viên trường. Nên từ đó, toàn cảnh của trường đều được nhìn thấy với bốn mùa khác nhau sẽ thấy được bốn màu khác nhau. Mượn tài liệu ở thư viện rất đơn giản, trả lại cũng dễ dàng. Thư viện được chia thành nhiều tầng khác nhau, mỗi tầng sẽ có quy định và mục đích sử dụng riêng của nó. Ví dụ, ở tầng hầm là căng tin, tầng một và hai được sử dụng như phòng máy và là nơi trao đổi thảo luận, đối với các tầng cao hơn phải giữ yên lặng tuyệt đối. Tôi rất thích điều này, vì như thế sẽ rất tiện lợi cho học tập và ăn uống.
Về công nghệ thông tin: Là một sinh viên đến từ Việt Nam nên đối với tôi, hệ thống công nghệ thông tin ở thư viện của UC là rất hiện đại. Là sinh viên của trường, tôi được sở hữu quyền truy cập vào nguồn tài liệu phong phú về tất cả các lĩnh vực từ “Tàng Kinh Các”
này. Đây được cho là thư viện lớn nhất New Zealand. Đối với sách mà trường không có, mình có quyền yêu cầu thư viện bổ sung và khi đã nhập về, họ sẽ báo cho mình đến để nhận sách về.
Thời tiết và khí hậu: Thời tiết ở đây hoàn toàn khác với những nơi mà tôi đã đi, rất trong lành vì diện tích phủ xanh của New Zealand rất lớn và dân số lại tương đối thấp. Tôi thích cái không khí se lạnh ở đây, đặc biệt khi thời tiết lạnh có thêm nắng ấm thì quá tuyệt vời để đi dạo và chụp ảnh.
43
Người Kiwi: Nhớ một lần, lúc mới sang đây tôi đạp xe khoảng 15 km để tham gia thi đấu Ultimate Frisbee. Lúc đang đạp xe về thì cũng khá mệt và trời cũng bắt đầu tối và lạnh. Một bạn Kiwi từ đội khác nhận ra tôi qua đồng phục thi đấu dựng lại trước xe và hỏi nhà ở đâu để bạn ấy đưa về. Thế là tôi quăng chiếc xe đạp vào ô tô của bạn ấy mà về, lúc đó cảm giác như “uống một ly trà đá khi đã đá xong hai trận bóng”.
Một câu chuyện khác về người Kiwi. Tôi có quen một bạn Kiwi tên là Richard trong câu lạc bộ Frisbee mà tôi đang tham gia. Richard rất đam mê môn thể thao này, bạn ấy thường tổ chức các buổi huấn luyện kỹ năng và chiến thuật cho “lính mới” để phát triển môn thể thao này ở Christchurch. Richard rất tốt bụng, thường mời mọi người trong đội đến nhà để tổ chức tiệc BBQ rồi chơi cờ bàn (board games). Hắn hay tổ chức này nọ để tụ họp mọi người lại như là đi tắm sauna ở hồ bơi, đi chơi ở bãi biển, uống bia,… Tôi thì thích hoạt động này nọ nên rất thích cái tính cách của Richard. Chắc có lẽ đã từng du học xa nhà nên bạn Kiwi này hiểu cảm giác khi xa nhà nên rất quan tâm tổ chức các sự kiện để những người xa nhà như tôi có thể tham gia và hiểu hơn về văn hóa của người Kiwi.
Quỳnh Anh: New Zealand là một đất nước có rất nhiều cảnh đẹp tự nhiên với thảm thực vật và động vật vô cùng phong phú. Mình thích không khí trong lành của New Zealand và luôn có cảm giác được gần thiên nhiên.
Tuy nhiên, ở New Zealand việc mua sắm đi lại không phải quá thuận tiện, ví dụ như đi chơi xa rất khó tìm nhà hàng ăn uống, do đó bạn nên tự chuẩn bị đồ ăn mang theo. Buổi chiều các cửa hàng thường đóng cửa khá sớm tầm 6-7 giờ tối là hầu hết các cửa hàng đã đóng cửa trừ một vài cửa hàng có thể mở muộn hơn nhưng cũng chỉ 9 giờ tối.
Với cá nhân mình, môi trường học tập của New Zealand có nhiều ưu điểm như hệ thống trang thiết bị hiện đại, hệ thống thư viện (bao gồm cả online) cực kỳ đồ sộ. Các trường đại học của New Zealand đều xếp thứ hạng cao trên thế giới. Các trường khác mình không biết yêu cầu như thế nào nhưng trường mình học là Đại học Auckland thì có yêu cầu rất cao về chất lượng học tập của sinh viên, tiêu chí đánh giá các bài tập đòi hỏi ở sinh viên nhiều kỹ năng như tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, tìm kiếm tài liệu học thuật để làm mạnh thêm ý kiến của mình… Hình thức đánh giá cũng rất đa dạng từ bài luận cá nhân, dự án nhóm, kiểm tra trắc nghiệm, thuyết trình, đến kiểm tra (viết luận, tính toán…). Ngoài ra, trường mình luôn khuyến khích sinh viên đóng góp ý kiến, kể cả nhận xét về phương pháp giảng dạy của giảng viên để có sự điều chỉnh kịp thời.
Điều mình thích nhất ở New Zealand là môi trường trong lành, hoa quả thực phẩm sạch, chính sách rõ ràng và có quá nhiều cảnh đẹp để khám phá.
Bài học lớn nhất bạn học được khi đi du học là gì? Và có những kỹ năng nào bạn cảm thấy mình thiếu để có thể tiếp nhận tốt hơn quá trình học tập và hòa nhập cuộc sống tại New Zealand không?
Lệ Quyên: Đi du học khiến mình rèn giũa được sự tự tin cũng như khả năng nắm bắt cơ hội tốt hơn. Mình đã học được thái độ và cách nhìn thấy cơ hội trong bất cứ hoàn cảnh hay tình huống nào. Ngoài
ra, đi du học giúp mình có thêm nhiều bạn mới. Họ đều là những người rất giỏi và đã thật sự truyền cảm hứng cho mình.
Đối với kỹ năng cần trau dồi, mình nghĩ đó là kỹ năng quản lý và phân bổ thời gian hiệu quả. Biết cân bằng giữa học tập và vui chơi sẽ giúp các bạn có được quãng thời gian học tập đáng nhớ tại đây.
Nguyễn Khiêm: Khả năng thích nghi với môi trường mới là điều cần thiết nhất để trang bị trước khi du học. Thích nghi với văn hóa, xã hội, môi trường và hệ thống học tập là cần thiết. Có thể bạn đến từ những nền văn hóa khác nhau, nhưng khi tiếp xúc với người địa phương bạn cần phải quan sát hành động của họ để có thể làm theo. Trong trường hợp nghi ngờ, bạn có thể hỏi liệu việc bạn sắp làm là có phù hợp ở đây hay không.
Có lẽ ngôn ngữ, viết luận là bất lợi lớn nhất của hầu hết các sinh viên đến từ các quốc gia có tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai so với sinh viên bản địa. Cách duy nhất để cải thiện khả năng viết luận là phải đọc và viết nhiều hơn, đều đặn hơn.
Quỳnh Anh: Bài học lớn nhất mình học được khi đi du học đó là nếu có tư duy và thái độ tốt, bạn sẽ thích nghi được trong mọi hoàn cảnh.
Bản thân mình thấy tận hưởng cuộc sống tại New Zealand. Tuy việc học khá áp lực và vất vả do khóa học của mình là 240 tín chỉ nhưng học trong 18 tháng, chia theo từng quý, mỗi quý ba môn, mỗi môn lại có rất nhiều bài tập cá nhân và bài tập nhóm, tài liệu cần đọc cũng rất nhiều. Nếu chỉ tập trung vào việc học mà không tham gia các hoạt động khác hay đi du lịch thì quả thực là rất lãng phí. Do đó, mình cần biết lựa chọn và ưu tiên ở mỗi giai đoạn khác nhau.
Kỹ năng mình thấy cần nâng cao hơn để tiếp nhận tốt hơn quá trình học tập và hòa nhập cuộc sống với người bản địa tại New Zealand đó là kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh (chủ yếu là nghe và nói). Về viết và đọc thì không phải trở ngại. Nhưng để nghe hiểu 100% cũng như có thể diễn đạt lưu loát, hiệu quả những điều mình nghĩ, đặc biệt là với người bản xứ thì mình thấy cần nâng cao rất nhiều. Một
điều rất thú vị là các sinh viên quốc tế ở các quốc gia khác nhau khi nói chuyện với nhau đôi lúc dễ hiểu hơn khi sinh viên quốc tế nói chuyện với người bản địa.
Các bạn có thể chia sẻ vài thói quen tốt hoặc bạn thấy hiệu quả trong công việc, học tập của mình không?
Lệ Quyên: Nếu được, các bạn hãy lựa chọn chơi một vài môn thể thao để rèn luyện sức khỏe và khiến cho tinh thần minh mẫn hơn nhé. Trong quãng thời gian học tập tại New Zealand, ngoài giờ học, mình thường tham gia các lớp nhảy Zumba, Kickboxing và Yoga. Tập luyện thể thao thật sự rất hiệu quả cho việc học của mình.
Nguyễn Khiêm: Luôn luôn có kế hoạch, các dự định cho bản thân. Cụ thể kế hoạch trong năm, tháng, tuần và ngày. Bạn phải tự đặt mục tiêu và công việc cho bản thân. Ví dụ, trong năm 2018 tôi phải hoàn thành đề cương nghiên cứu trước tháng 6, thu thập và xử lý số liệu trong tháng 7 và 8, viết bài trong những tháng còn lại.
Để hoàn thành đề cương nghiên cứu, tôi tự đặt mục tiêu rằng phải đọc ít nhất 5 bài nghiên cứu và hoàn thành khung nghiên cứu trong tháng đầu tiên,… từ các mục tiêu lớn mà chia nhỏ thành mục tiêu để làm việc cho mỗi tuần. Khi đặt được kế hoạch như vậy, tôi sẽ chủ động được thời gian để có thể vừa học vừa trải nghiệm cuộc sống ở đây hiệu quả hơn.
Quỳnh Anh:
• Suy nghĩ tích cực
• Đọc sách và gặp gỡ những người thú vị, tích cực. Những cuốn sách mình yêu thích là sách của thầy Thích Nhất Hạnh, sách về cuộc đời những danh nhân hoặc doanh nhân, về lịch sử các tập đoàn…
• Có những hoạt động ngoài trời để đón nhận năng lượng trong lành và rèn luyện sức khỏe, giúp tinh thần thư thái như đi bộ trong công viên, đạp xe quanh hồ, đi bơi…
• Thực hành thiền chánh niệm (mindfulness) và sống ở giây phút hiện tại.
44
THẢO LUẬN 2
CÁC BẠN TRẺ CẦN CHUẨN BỊ GÌ ĐỂ ỨNG TUYỂN HỌC BỔNG CHÍNH PHỦ?
45
VŨ MINH − MEXT 2017
Bạn cần nắm rõ tiêu chí của từng học bổng để đánh giá bản thân mình có đủ điều kiện nộp hồ sơ hay không. Lên kế hoạch làm hồ sơ xin học bổng kỹ lưỡng. Tiếp cận với những người đạt học bổng trước đó để tìm sự tư vấn, giúp đỡ và họ sẽ cho bạn những thông tin hữu ích và thiết thực nhất.
46
MINH PHƯƠNG − ERASMUS MUNDUS 2017
Tìm hiểu thật kỹ thông tin về các loại học bổng, hiểu rõ bản thân mình, hoàn thiện bản thân bằng kinh nghiệm nghiên cứu, hoạt động ngoại khóa liên quan lĩnh vực đang làm, xây dựng các kế hoạch cụ thể cho tương lai, nâng cao các kỹ năng mềm, tư duy phản biện, ngoại ngữ…
47
MINH THU − SISS 2013
• Tìm hiểu điều kiện từng học bổng.
• Nhìn lại chính bản thân mình, phân tích chi tiết điểm mạnh, yếu.
• Hãy chọn học bổng phù hợp, đừng hy sinh chất lượng để chạy theo số lượng. Bởi vì cuối cùng bạn sẽ chỉ thành công với những học bổng phù hợp với bạn.
• Tự trả lời câu hỏi hỏi: “Mình muốn người ta có ấn tượng gì về mình khi đọc đơn ứng tuyển học bổng (application)?” chỉ trong ba tính từ súc tích nhất. Từ đó bạn có cốt lõi xây dựng hồ sơ (profile) khi nộp đơn.
48
THANH VÂN − CHEVENING 2016
Ngoài trừ các bài luận và các yêu cầu cụ thể của học bổng (yêu cầu sẽ khác nhau đối với từng học bổng chính phủ khác nhau, tuy nhiên chúng khá tương tự), các bạn cần phải chuẩn bị kiến thức vững chắc và một dự định rõ ràng về ngành học và ý định sử dụng kiến thức được học như thế nào. Phần này cần phải đầu tư thời gian và suy nghĩ cẩn thận vì nó sẽ quyết định khả năng nhận được học bổng cũng như sử dụng thời gian của bạn một cách hiệu quả.
49
VĨNH KHANG − FULBRIGHT 2014
Ngoài những điều kiện bắt buộc như hồ sơ, điểm số, bằng cấp… thì bạn cần phải “nghiên cứu” về học bổng đó rất kỹ. Bạn sẽ không thể dành được nó, nếu bạn không hiểu về nó.
Học bổng liên minh châu Âu Erasmus Mundus
ERASMUS MUNDUS là một trong những học bổng toàn phần danh giá nhất ở châu Âu, hỗ trợ sinh viên toàn cầu tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến và thúc đẩy đối thoại giữa các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Đến với học bổng Erasmus Mundus, bạn sẽ có cơ hội trải nghiệm tuyệt vời nhất trong suốt tuổi trẻ của mình: Được học ở những ngôi trường danh giá, được hòa mình vào cuộc sống, văn hóa và thiên nhiên tại ba thành phố rất “cool” ở châu Âu, được làm quen với rất
nhiều người bạn mới. Nếu bạn thuộc “chủ nghĩa xê dịch” thì đây chính là học bổng dành cho bạn.
Bước ra thế giới để thấy mình nhỏ bé thế nào
– PHAN MINH PHƯƠNG, ERASMUS MUNDUS 2017
Mình tên Phan Minh Phương, tốt nghiệp ngành Bác sĩ Đa khoa, Đại học Y Dược khóa 2008-2014. Sau khi ra trường mình làm việc tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới. Đi làm được gần 3 năm thì mình cảm thấy mình muốn học thêm về ngành bệnh truyền nhiễm để có thể giúp được gì đó cho bệnh nhân của mình. Thế là mình bắt đầu tìm hiểu về các loại học bổng chính phủ dành cho sinh viên Việt Nam từ gần cuối năm 2016. Và mình may mắn nhận được Học bổng Thạc sĩ Liên minh châu Âu - Erasmus Mundus ngành Bệnh truyền nhiễm và Một sức khỏe (Infectious Diseases and One Health - IDOH) cho khóa 2017 - 2019.
50
CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI HỌC BỔNG ERASMUS MUNDUS
Theo mình hiểu, dù Erasmus Mundus là học bổng theo dạng học bổng tài năng (merit-based), tuy nhiên cũng như những loại học bổng khác, tiêu chí lựa chọn ứng viên của họ không phải là người giỏi nhất mà là người phù hợp nhất. Thế nên việc lựa chọn một khóa học phù hợp với chuyên môn và nguyện vọng của bạn là chìa khóa then chốt để có thể tiếp tục những bước sau đó. Mình cảm thấy may mắn khi đúng năm nay Erasmus Mundus mở chương trình IDOH, là đúng ngành mình đang làm việc và rất muốn học hỏi thêm.
Trong quá trình làm hồ sơ cho Erasmus Mundus, mình cũng có nhiều chuyện đáng nhớ. Số là mình dự định nộp đơn cho học bổng Fulbright năm đó, mình gặp được một người tư vấn cực kỳ giỏi và chuyên nghiệp. Việc bài viết của mình bị sửa tan nát, gạch đỏ chóe cũng là chuyện thường ngày. Nhiều lúc thấy mình… bánh bèo vô dụng, muốn bỏ hết rồi đấy chứ. Thế rồi trong khi mình tìm hiểu về trường và ngành mình muốn học ở Mỹ, mình tìm thấy chương trình IDOH này. Sau khi đọc xong thấy chương trình này quá hợp nguyện vọng của mình nên vội làm hồ sơ ngay khi chỉ còn khoảng 1 tuần nữa là hết hạn. Một thời gian ngắn sau là mình có hẹn phỏng vấn, và kết quả là… xách va ly lên đường và trở thành công dân “lông bông” tại châu Âu.
51
Erasmus Mundus là một trong những học bổng chính phủ nổi tiếng và lâu đời. Bạn sẽ cơ hội trải nghiệm 2 năm học tập tại ít nhất ba nước trong khối liên minh châu Âu và một số nơi khác trên thế giới. Vậy nên hãy sẵn sàng để kéo va ly của bạn đi khắp nơi và thay đổi chỗ ở liên tục nhé! Erasmus Mundus có khoảng 100 khóa học để bạn lựa chọn. Những chương trình được đánh giá là có hiệu quả (tính theo chất lượng sinh viên đầu ra) sẽ tiếp tục được cấp tiền để vận hành. Số lượng học bổng mỗi năm sẽ tùy thuộc vào từng chương trình. Bạn cũng có thể đóng tiền để học nếu như không nhận được học bổng với số tiền khoảng 9.000 Euro/năm.
KHÔNG PHẢI CÓ THÀNH TÍCH KHỦNG MỚI CÓ CƠ HỘI ĐẠT HỌC BỔNG
Học bổng toàn phần có thể đến từ may mắn, nhưng chắc chắn đây không phải là yếu tố quyết định trong phần lớn trường hợp. Hãy bắt đầu bằng việc tìm hiểu thật kỹ về những học bổng bạn đang muốn nộp, về tiêu chí, cách lựa chọn ứng viên, những quy định, thời gian nộp đơn, trường học, ngành học phù hợp, thậm chí là chương trình
học, hay thậm chí giảng viên của bạn đang nghiên cứu lĩnh vực gì… Việc tìm hiểu kỹ ngoài việc giúp bạn hiểu rõ bản thân mình muốn gì, có phù hợp không, ưu điểm, khuyết điểm của bản thân bạn (để có thể viết thật tốt Thư trình bày nguyện vọng xin học bổng – Motivation letter hoặc Mục tiêu học tập – Study objective) mà có khi còn giúp bạn ghi điểm nếu lọt vô vòng phỏng vấn. Ai mà không thích chọn một ứng viên biết rõ mình muốn gì và có những kế hoạch cụ thể sắp tới.
Mình thấy các bạn Việt Nam hay có một lầm tưởng là học bổng toàn phần chỉ dành cho những bạn có thành tích học tập khủng, cộng thêm IELTS 8.0, 9.0. Nhưng thật sự không phải vậy. Họ sẽ tìm kiếm người phù hợp nhất chứ không phải giỏi nhất và Anh văn chỉ là điều kiện cần để bạn qua vòng hồ sơ. Nếu học bổng yêu cầu IELTS 6.5, thì việc bạn 7.0 hay 8.0 cũng không khác biệt gì mấy. Nên thay vào đó, hãy “hoàn thiện” những mặt khác của bạn, ví dụ như tham gia vào những nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực bạn đang làm, hoạt động ngoại khóa (nhưng cũng phải liên quan tới cái bạn đang nhắm tới nhé), những kỹ năng mềm…
2-3 năm chuẩn bị cho một mùa học bổng chẳng phải là quá nhiều đâu, nếu bạn muốn cho ra đời một bộ hồ sơ có đủ sức cạnh tranh.
VỀ CHƯƠNG TRÌNH IDOH
Tháng 2 năm 2016, chương trình Infectious Diseases and One Health (IDOH) được xét duyệt vào danh sách các ngành của Erasmus Mundus, đứng đầu các đề cử với số điểm 95/100, là chương trình đầu tiên được chấp thuận trong số 89 chương trình nộp lên để duyệt. Ủy ban châu Âu đã đồng ý rót 2,76 triệu Euro vào đây để vận hành chương trình này trong 3 năm (2017- 2019) (nếu sau này hiệu quả, họ sẽ chi tiếp). Trong 3 năm này sẽ có tổng cộng 56 suất học bổng toàn phần được trao cho sinh viên theo nhiều đối
tượng: 11 suất cho nhóm ứng viên trong khối châu Âu (các nước EU), 33 suất cho nhóm nước thành viên (các nước còn lại), 12 suất cho nhóm ứng viên thuộc đối tượng “ưu tiên vùng miền”. Mỗi năm một lớp sẽ có 24 sinh viên, tức sẽ có 16 sinh viên trong 3 năm có thể học bằng cách đóng tiền tự túc. Vì đây là chương trình mới, tiền nhiều nên số suất học bổng nhiều, cạnh tranh hiện tại không quá cao.
52
Đối tượng phù hợp với IDOH: không nhất thiết phải là bác sĩ khoa nhiễm, bác sĩ đa khoa cũng được, thú y cũng được, sức khỏe cộng đồng, y tế công cộng đều được. Vì khái niệm One Health là muốn nói đến mắt xích bệnh nhiễm giữa ba yếu tố Con người – Động vật – Môi trường (Human – Animal – Environment).
Chương trình IDOH bắt đầu học kỳ một ở Đại học Francois Rabelais (Tours, Pháp) từ 5/9 – 20/12/2017, học kỳ hai ở Đại học Autonoma de Barcelona (Tây Ban Nha) từ 8/1 – 30/6/2018, trường hè (summer school) khoảng 1 tháng ở một trong hai trường trên, học kỳ ba ở Đại học Edinburgh (Scotland) từ 8/9 – 24/12/2018, và học kỳ cuối cùng là thực tập và làm luận văn với 1 trong 35 trường đối tác thành viên với Erasmus Mundus.
2-3 năm chuẩn bị cho một mùa học bổng chẳng phải là quá nhiều, nếu bạn muốn cho ra đời một bộ hồ sơ có đủ sức cạnh tranh.
THỜI GIAN ĐẦU CỰC “STRESS”
Trong suốt những năm học phổ thông và cả khi lên đại học, mình luôn được thầy cô hướng dẫn kiểu cầm tay chỉ việc, phải học cái này, phải đọc cuốn sách kia. Mọi thứ đều có đường lối sẵn như thế. Tới khi sang đây mới thấy kỹ năng tự học, tự tìm tòi nghiên cứu quan trọng như thế nào. Vì thầy cô sẽ chỉ đưa cho bạn những kiến thức cơ bản, và “xào nấu” như thế nào để nó trở thành những kiến thức có khả năng ứng dụng được vào nghiên cứu khoa học của bạn thì đó là chuyện của bạn. Mọi người sẵn sàng hỗ trợ bạn, nhưng tự bạn phải tìm ra phương pháp học cũng như hướng đi của mình.
Có hai điều mình thấy rất cần thiết trong việc học tập mà mất tới 2-3 tháng sau khi sang châu Âu mình mới cải thiện được, đó là việc nghe giảng và ghi chép bằng tiếng Anh. Đó là việc làm mình stress nhất trong thời gian đầu vì có những lĩnh vực, từ vựng chuyên ngành mình chưa biết tới nó bao giờ nên việc ghi chép rất khó khăn. Sau đó tới những bài thuyết trình, mình tự thấy mình rất dở trong việc tìm kiếm tài liệu, cũng như cách sắp xếp, trình bày trong từng slide, chưa kể là run vô cùng mỗi khi đứng trước lớp. Sau học kỳ đầu tiên cũng đỡ hơn nhiều, nhưng mình vẫn mong phải chi mình nâng cao những kỹ năng này trước khi sang thì có lẽ đã làm được nhiều hơn thế.
HỌC HẾT SỨC, CHƠI HẾT MÌNH
Mình thấy các bạn nhận được học bổng Erasmus Mundus cùng lớp với mình ai cũng rất giỏi, từ những bạn được học bổng (21 bạn) cho đến những bạn học tự túc (3 bạn). Kiến thức nền (background) của
các bạn cũng khá đa dạng. Khoảng 1/3 sinh viên học ngành Sinh học (Biology) hoặc Vi sinh học (Microbiology), 1/3 là Bác sĩ Y khoa (Medical Doctor), 1/3 còn lại là Bác sĩ Thú y (Veterinary) hoặc các bạn đến từ khối Y tế Cộng đồng (Public Health). Dù học ngành gì, nước nào, cái làm mình ấn tượng nhất là khả năng tiếng Anh, đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành Y sinh của các bạn cực kỳ tốt. Mình đã từng cảm thấy yên tâm về cái bằng IELTS 7.0, cũng như khá nhiều lần tiếp xúc với các bạn sinh viên nước ngoài đến học tập tại khoa mình làm, thế nhưng qua đó vẫn bị “sốc” hết 2 tháng đầu vì vào lớp… nghe không hiểu bài, trong khi các bạn xung quanh ghi chép khí thế. Không những thế, kỹ năng làm việc nhóm, cũng như thuyết trình của các bạn cũng rất khoa học và chuyên nghiệp. Các bạn ấy có thể đêm hôm trước đi chơi, đi bar tới 3-4 giờ sáng, nhưng 9 giờ đến lớp vẫn rất tỉnh táo và học hành nghiêm túc. Học giỏi đã khó. Học giỏi chơi giỏi càng khó hơn. Mình rất nể những bạn học hết sức, chơi hết mình như vậy.
Về hồ sơ của các bạn trong lớp thì mình chưa tìm hiểu kỹ. Nhưng qua những lời các bạn kể, mình thấy rất ấn tượng về kinh nghiệm trong lĩnh vực liên quan của các bạn cả trong và sau thời gian học
đại học. Một người bạn của mình lỡ nộp hồ sơ trễ hạn xét học bổng nên phải tự túc, bạn ấy kể tiền học bạn ấy tự lo bằng cách làm cùng lúc ba công việc: Buổi sáng dạy Khoa học cho các em học sinh 8-9
tuổi, buổi chiều làm nghiên cứu cho một phòng thí nghiệm về sinh học, còn buổi tối bạn ấy dịch các bài báo từ tiếng Anh sang Tây Ban Nha hoặc ngược lại để kiếm thêm thu nhập. Mình nghe mà choáng!!! Mình làm một công việc đã mệt muốn chết.
NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT BỤNG, DỄ THƯƠNG
Hồi trước khi qua đây, mình hùng hồn tuyên bố sẽ mua cái thẻ đi lại, xong mỗi cuối tuần vác đồ tới một thành phố của Pháp, đi hết sẽ sang tiếp các nước xung quanh. Sau tuần đầu tiên bị bài vở đè gần chết, khó khăn lắm mới thoi thóp bò dậy, mình mới nhận ra hồi đó… lỡ mồm.
Mình đã từng nghĩ, sang tới châu Âu sẽ chỉ có một mình, sẽ phải tự làm mọi thứ, sẽ rất khó khăn để có thể hòa nhập với mọi thứ vì tính mình hơi thụ động khi tiếp xúc với người lạ. Nhưng khi vừa đặt chân tới Pháp, mình đã nhận rất nhiều giúp đỡ, quan tâm từ điều phối viên (coordinator) của chương trình, giảng viên và đặc biệt là từ những người bạn cùng lớp cực kỳ dễ thương của mình.
53
Điều phối viên đã giúp tụi mình rất nhiều từ chuyện Visa, mở tài khoản ngân hàng, đăng ký chỗ ở trong ký túc xá, cho đến sắp xếp kế hoạch học tập. Còn các bạn trong lớp mình cực kỳ dễ thương và hòa đồng, tất nhiên không tránh được những khác biệt về văn hóa, nhưng mọi người luôn giúp đỡ nhau và yêu thương nhau rất nhiều. Mình cảm thấy mình đã tìm được gia đình thứ hai của mình vậy.
Mình nhớ cái ngày lần đầu tiên đứng trước lớp thuyết trình theo nhóm, nói lắp bắp, run gần chết, vừa kết thúc đi xuống là có đứa vỗ vai một cái: “Mày làm tốt lắm, tao thích bài của mày”. Dĩ nhiên mình biết nó nói để động viên mình, nhưng cũng cảm thấy cảm động rất nhiều.
Mình đã phân vân rất nhiều khi quyết định hỏi mượn tập ghi chép (note) của một bạn người bản xứ (native) trong lớp, ngại lắm vì ở Việt Nam chỉ có thân lắm mới mượn tập nhau như thế. Nhưng bạn ấy vẫn vui vẻ gửi hết note cho mình, và dặn mình nhớ email cho cô điều phối viên của chương trình để trình bày khó khăn. Chưa kể khi không hiểu bài có thể sẵn sàng gõ cửa phòng bất kỳ đứa nào để nhờ nó giảng lại. Không ai tỏ ra khó chịu vì chuyện đó cả.
Các bạn học trong lớp mình thì cực kỳ dễ thương. Có tổng cộng 16 quốc gia trong lớp nên ngoài kiến thức được dạy trên lớp, mình còn học được rất nhiều thứ hay ho khác, từ cách viết tên mình theo tiếng Nepal hay Bangladesh như thế nào, nấu một món truyền thống của châu Phi ra sao, cho tới nhảy vài bước Salsa cơ bản…
BA TỪ ĐỂ NÓI VỀ HỌC BỔNG ERASMUS MUNDUS
Độc nhất – Unique: Sẽ không có một khóa Erasmus Mundus nào giống nhau, vì mỗi chương trình sẽ học ở những nước, những trường khác nhau. Và trong cùng một chương trình nhưng những khóa khác nhau sẽ có những sinh viên khác nhau về nền tảng (background), quốc tịch (nationality) nên kiến thức bạn học được cũng sẽ khác nhau.
Thích nghi – Adaptive: Bạn sẽ phải thay đổi chỗ ở ít nhất mỗi học kỳ. Hãy chuẩn bị tư tưởng để có thể di chuyển nhanh gọn từ nơi này sang nơi khác với đống hành lý của mình, thích nghi với môi trường mới, trường học, nhà ở mới. Đó là một “đặc quyền” của các bạn đạt học bổng Erasmus Mundus, nhưng nếu bạn không chuẩn bị kỹ, nó có thể là một áp lực không nhỏ.
Trải nghiệm – Experience: Sẽ không có cơ hội nào tốt hơn cho bạn trải nghiệm sâu sắc về châu Âu như Erasmus, từ giáo dục, cuộc sống, con người, văn hóa, ẩm thực… Hãy mở rộng trái tim để đón nhận mọi thứ và tận dụng khoảng thời gian quý giá này nhé!
54
DỰ ĐỊNH KHI HỌC TẠI CHÂU ÂU
Trước khi sang đây, mình có tham gia hỗ trợ nhóm nghiên cứu về một vi trùng “mới nổi” tại miền Nam Việt Nam, gây nhiễm trùng huyết cho người tiếp xúc. Trong khi vi trùng này đã được “thanh toán” ở rất nhiều nước phát triển nhờ tiêm chủng hiệu quả. Vì vậy khi sang châu Âu mình mong muốn có thể tìm hiểu hơn về loại vi trùng này cũng như những kỹ thuật có thể áp dụng tại Việt Nam. Mình hy vọng khóa IDOH này đủ để mình học thêm những cái mình muốn. Nếu không, mình muốn học thêm nữa, Tiến sĩ chẳng hạn.
55
Học bổng chính phủ Anh Chevening
HỌC BỔNG CHEVENING là học bổng Thạc sĩ toàn phần của chính phủ Anh. Học bổng hướng đến các ứng viên có tiềm năng lãnh đạo, tiềm năng xây dựng mạng lưới và có kế hoạch rõ ràng đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam. Học bổng sẽ đem đến cho các bạn cơ hội học tập và trải nghiệm tại Anh trong vòng một năm.
Với rất nhiều các sự kiện về học thuật, văn hóa và lịch sử được Chevening tổ chức hằng tháng trong suốt một năm học tập tại Anh, các bạn sẽ có cơ hội tuyệt vời để xây dựng mạng lưới với hàng nghìn bạn Chevening khác và các giáo sư trong nhiều lĩnh vực.
Hai chị em gái và giấc mơ Anh
− THANH MAI & THANH VÂN, CHEVENING 2013 & 2016 56
Nhắm mắt lại trên máy bay về Việt Nam, mình cứ nghĩ hoài về những người bạn mình đã gặp, những người đã chỉ cho mình biết bao điều về thế giới mà mình không được học trong trường lớp; mình nghĩ về những cuộc trò chuyện thú vị về các vấn đề chính trị, xã hội; nghĩ về một nước Anh cổ kính, xanh rì, yên bình; nghĩ về người Anh thân thiện và hiền hậu.
Các bạn có thể giới thiệu đôi chút về bản thân để độc giả được biết thêm về các bạn.
57
Mình tên là Trương Thanh Mai, mình từng đạt học bổng song phương của Chính phủ Bỉ và học bổng Chevening của Chính phủ Anh năm 2013 nhưng mình đã lựa chọn Chevening, và theo học
"""