" Đồng Quê - Phi Vân full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đồng Quê - Phi Vân full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết] Ebooks Nhóm Zalo PHI - VÂN ĐỒNG QUÊ PHỎNG - SỰ GIẢI NHẤT CUỘC THI VĂN - CHƯƠNG CỦA HỘI KHUYẾN - HỌC CẦN - THƠ NĂM 1943 IN LẦN THỨ TƯ NHỮNG TÁC - PHẨM CỦA NHÀ XUẤT - BẢN ĐẤT - NƯỚC 24, đường Nguyễn-An-Ninh - SAIGON ĐỒNG QUÊ PHỎNG - SỰ GIẢI NHẤT CUỘC THI VĂN - CHƯƠNG CỦA HỘI KHUYẾN - HỌC CẦN - THƠ NĂM 1943 NHÀ XUẤT BẢN ĐẤT - NƯỚC IN LẦN THỨ TƯ ĐỒNG QUÊ, TÁC-PHẨM CỦA PHI-VÂN, ĐƯỢC GIẢI NHẤT CUỘC THI VĂN CHƯƠNG CỦA HỘI KHUYẾN - HỌC CẦN - THƠ NĂM 1943, ĐƯỢC VĂN - SĨ TRUNG - HOA DỊCH RA BẠCH - THOẠI NĂM 1950, XUẤT BẢN LẦN THỨ TƯ Nguồn sách scan: TVE-4U Đánh máy: @thuhang1319, @mientay2012, @cabal2131, @chikobe, @ZzmarszZ97, @trung_luoc, @thuhang1319 và @thaytumap. Soát lỗi: @ruoi moi Định dạng file: 4DHN Soát lần cuối, đánh bổ sung chỗ thiếu: 4DHN Tạo ebook: 4DHN Ebook này được thực hiện theo “DỰ ÁN 1000 CUỐN SÁCH VIỆT” MỘT THỜI VANG BÓNG của diễn đàn TVE-4U.ORG Ngày hoàn thành: 17-3-2016 MỤC LỤC LỜI TÁC- GIẢ THAY LỜI TỰA PHẦN THỨ NHẤT MUỐN ĂN TRỨNG NHẠN CHÂU XƯƠNG CỬ THANH-LONG-ĐAO TRAO THÂN…. CON KHỈ MỐC CÀNH TRE CŨ CẶP GIÒ XƯA ĐỔNG-TRÁC BIẾT SẬP GIÀN ÔNG TƯỚNG “THẦY BA” ĐẠO QUỶ-VƯƠNG TIẾNG HÒ TRONG ĐÊM VẮNG CHỢ HAY QUÊ CÁC CON ƠI, THẦY PHEN NẦY THỌ TỬ SANH NGHỀ TỬ NGHIỆP PHẦN THỨ NHÌ CÂU CÁ CÁ MẮC CÂU TÔN-SƯ ĐẠO PHÙ THẦN ÔM MÀ XƠ RỐP… ...MÀ HA XƠ RỐP OAN...! … NGHIỆT! MUỘN-MÀNG TỬ-THÙ TRĂNG THANH HẬN NGHÌN ĐỜI ĐOẠN KẾT LỜI TÁC- GIẢ Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành-văn cũng như nội-dung đều có tính-cách “nhật-trình”. Lối văn gần như cẩu-thả. Câu-chuyện có vẻ nhất-thời. Nhưng tôi cứ để nguyên cho nhà xuất-bản. Nghĩ rằng: hồi ấy tôi đã để ngòi bút chạy theo dòng ý-tưởng, dầu khéo dầu vụng, cách thuật chuyện cũng được cái đặc-điểm là ghi tâm-trạng tôi lúc viết. Hình-ảnh những nhân-vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung - ngày nay đã mờ trong ký-ức. Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: Vẽ một bức tranh phong-tục và tập-quán. Thật là quá cao-vọng. Tự thấy còn thấp-kém, nhưng tôi vẫn cố-gắng. Đây là những bài đầu, tôi ước-mong sẽ có thể viết thêm. Nếu chưa hiến được độc-giả những bài đúng theo nguyên-tắc tôi đã tự vạch, thì xin hẹn lại ở những bài sau. PHI-VÂN THAY LỜI TỰA Chỗ hứng-thú của quyển phỏng-sự ấy là nó cho ta thấy những phong-tục cũ-kỹ ở thôn-quê, những tin-tưởng dị-đoan của hạng bình dân lao-động. Nó cho ta thấy những cuộc giao-tiếp, xung-đột giữa bọn điền-chủ và tá-điền, những tâm-hồn mộc-mạc trong bọn nầy và những oai-quyền thế-lực của bọn kia. Đọc qua, chúng ta thấy mình len-lỏi chốn đồng quê, đang mục-kích những cuộc tụ-họp chơi-bời, những cảnh cần-lao rộn-rịp. Thỉnh-thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám gặt, như phất lại mùi thơm thanh-đạm của lúa vàng. Tác-giả lại còn dắt ta đi quanh co trong những sông rạch ở vùng Bạc-liêu, Cà-mau và sau mấy ngày dạo chơi mệt-mỏi, tác-giả dừng lại cho ta thấy một cảnh-sắc êm-đềm: trên bờ sông Trẹm, lững-lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa xanh tươi, một thiếu-phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu-lâu đuổi bầy gà đang bới trên giồng rau cải. Hoặc giữa đêm trường vắng-vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo Rạch Bần, tác-giả mời ta trông lên bờ sau hàng dừa nước âm-u, một vài ánh đèn le-lói; nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm… Cho được kể lại rất tài tình những điều quan-sát rất kỹ-càng, làm cho ta như nghe, như thấy, lúc cảm, lúc vui, tất phải nhờ một ngọn bút tỉ-mỉ mà linh-hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu-duyên, một cách viết tự nhiên, không rườm-rà mà đầy đủ. Ông Phi-Vân đã gồm cả mấy điều kiện ấy: Quyển phỏng-sự của ông như một tấn tuồng gay-cấn đặt trong cảnh trí xanh tươi; hay là - muốn nói cho rõ hơn - nó là một “nông kịch” chia ra nhiều lớp: có hồi hộp, có vui cười và và sau rốt kết cuộc rất thương-tâm, khiến cho độc-giả phải ngậm-ngùi cảm động. Có lẽ đó là bài luân-lý sâu sắc mà tác-giả không muốn chỉ cho rõ-ràng, để ta tự hiểu ngầm mà thương hại cho hạng nông dân lao-lực. Họ chỉ sống một cuộc đời mộc-mạc, siêng-năng; nhưng mãn kiếp phải làm nạn nhân cho bọn giàu sang thế-lực. Mà cả thảy chúng ta, theo như tác-giả nói lại là “nạn nhân của một thời-kỳ”; cho nên đối với mọi người ta nên để lòng thương hại và thứ dung, và nên cầu nguyện cho chốn đồng quê được chút vui tươi yên ổn… (Tríchlụcmộtđoạnbàidiễn-văncủa giáo-sưNguyễn-văn-Kiếtchủ-tịchcủa HộiKhuyến-họcCần-thơđọctrongdịplễ phátgiảithưởngvăn-chươngThủ-khoa Nghĩanăm1943). ĐỒNG QUÊ của Phi-Vân là sách nửa phỏng-sự, nửa ký-sự về phong-tục, sinh-hoạt ở đồng quê miền Hậu giang. Chuyện lý thú, văn gẫy-gọn, tác-giả tỏ cho ta thấy đã đem tâm hồn mình sáp-nhập với dân chúng, với đất nước. (Ánh Sáng Văn-Chương) ★ Đọc ĐỒNG QUÊ, bạn sẽ thấy bao nhiêu hủ-tục buồn cười và xung-đột của chủ-điền và tá-điền đã diễn ra ở đồng quê Nam bộ mà bạn Phi-Vân đã vẽ lại bằng ngòi bút giản-dị và linh-hoạt. (Nhật-báo Việt-Thanh) Tôi tin chắc ĐỒNG QUÊ của ông Phi-Vân sẽ là một kho-tàng vô giá để khảo-cứu tiếng địa-phương Nam-Việt, để góp từ-ngữ dùng trong việc học. (TRỌNG-TOÀN - Hương hoa Đất nước) ★ Những câu chuyện trong ĐỒNG QUÊ ai cũng có thể biết được, nhưng tác giả khéo kéo độc-giả phải say mê. Khi đọc được một bài, phải đọc một bài nữa và sẽ đọc cho đến hết luôn mà không hề biết chán ở một chỗ nào. (VĂN-MẠI - Nhật-báo Thời-Cuộc) ★ Trong ĐỒNG QUÊ, Tây, Tàu, Việt chen lẫn nhau; mới, cũ tranh-giành nhau. Một xã-hội thất-học, một thời-đại hư-hèn, một chế-độ nguy-hại. Các bạn sẽ cùng tác-giả nhận-xét như thế để rồi với cái đầu-óc mới-mẻ, với cái bản-lĩnh vừa được trui-rèn, các bạn sẽ đề-nghị một giải-pháp, bảo một cách ôn-hoà: “Phải sửa-đổi!” (THUẦN-PHONG - Nhật-báo Tiếng Dội) PHẦN THỨ NHẤT PHỎNG- SỰ NGẮN MUỐN ĂN TRỨNG NHẠN Không biết mỗi bữa trưa hè oi-ả, trời nắng nung người, có ai nghe người đàn-bà Bạc-liêu đưa võng kẽo-cà kẽo-kẹt ru con: Tháng ba cơm gói ra Hòn, Muốn ăn trứng nhạn phải lòn Hang Mai… mà ngao-ngán nỗi gì không? Riêng tôi, có một dạo, đang thất-thểu trên đường từ Vĩnh-châu ra biển, nghe được câu hát này, tôi thấy thích-thích, đoán chừng rằng Hang Mai có lẽ là ở miền nào xa lắm. Tôi định có ngày đến viếng cho thoả lòng. Bây giờ tôi đứng trước Hang Mai! Cho hay nếu mình chịu bước chân đi thì còn lạ gì với những cái tên mà mình cứ tưởng-tượng nó ở đầu trời cuối biển nào! Hang Mai là gì? Các bạn giàu tưởng-tượng đừng cho rằng Hang Mai là một chỗ mà vào mùa đông lạnh, hoa mai vươn cánh khoe vàng! Không, “Mai” đây chỉ có nghĩa là quê-mùa cổ-lỗ ở chốn đồng quê: là… là… Khỉ! Vậy, Hang Mai tức là hang của loài khỉ. Kinh Hang Mai ở làng Khánh-lâm (Cà-mau), bắt đầu từ kinh Biện-Nhị, phía dưới công-sở trổ ra Tiểu-dừa. Kêu là “kinh” cho nó oai một chút chớ nó quanh-co như “cửu-khúc trường xà!”. Nó có không biết bao nhiêu ngách và không biết bao nhiêu trấp cản đường. Ở bên bờ, người ta có thể gặp những con trúc, rái, kỳ-đà, chồn, ong mật và vô-số cá. Tôi được một lần đi suốt con kinh Hang Mai, và đi một cách “đàng-hoàng” vinh-diệu. Ông Xã trong làng gả con gái. Ông Xã mà gả con gái thì phải biết, cái đám ấy nó long-trọng đến bực nào? Muốn có “cái gì” thêm long-trọng hơn nữa, lúc đưa con về nhà chồng, ông lại tìm ngay chúng tôi: - Thằng Sáu mầy có tài ăn nói, thằng Năm mầy có ngón đàn hay, vậy bây vui lòng theo tao qua bên “đàng trai” cho “rôm” và để bên ấy biết rằng làng mình cũng có lắm “nhân-tài”! Tôi ngồi vò ngọn tóc: - Từ đây qua rạch “Bà già Sốc” xa quá cậu à! Vả lại tôi có tật ngủ sớm, hễ thức khuya một chút là muốn nằm liệt ra rồi! - Không sao, xuống ghe tha-hồ mà ngủ, hại gì mậy! - Uý, thần rừng quỉ bụi đất Khánh-lâm nầy ơi, nhè ở đây mà cậu bảo ngủ dưới ghe cho muỗi mòng nó tha đi! - Cái thằng! Không mấy thuở cậu mượn mà lại làm bộ làm tịch!... Thằng Năm xen vào: - Đi mầy, ra miệt biển chơi, xuống ghe tao đàn cho mầy nghe, buồn ngủ thế nào được! Rồi nó láy tôi ra ngoài: - Mầy ngu lắm, tội gì mà để “chúng nó” đi riêng một mình! - Chúng nào? - Con Tư ông Chủ, con gái Bộ Liếm, con Tám, chớ còn chúng nào nữa! Tụi nó sẽ đi chung với mình một ghe, gục chung với chúng mình một lượt, chẳng phải là “sung sướng” lắm à? ★ Đường về rạch Bà già Sốc dài trên ba chục cây số, phải đi suốt con kinh Hang Mai dọc ra mé biển. Đàng trai lại rước dâu vào lúc mười giờ tối. Lễ xong, chúng tôi cùng nhau xuống ghe lườn. Đàng trai đi hai ghe, đàng gái theo hai ghe, một ghe ông già bà cả, một ghe thanh-niên. Ai trông thấy cũng thì-thào khen-ngợi, không hổ danh ông Xã chút nào. Tôi mắc lo theo đuổi lũ gái, quên coi thằng Năm nó vác cây đàn kìm thế nào mà lâu lâu cái thùng đàn khua leng-keng, leng-keng in như tiếng chuông của thằng Chệc bán bông cỏ. Vào một đêm không trăng. Sao đầy trời. Bóng đêm bao-phủ như bức màn mờ. Gặp mùa gió bấc, ngồi trong mui chẹt nghe hơi sương xuống cũng đủ lạnh lùng. Thỉnh-thoảng ngọn gió đồng hiu-hắt lùa vào khoang gần tắt phụp ngọn đèn dầu. Bên ngoài, các anh chèo vừa nhịp vừa mái ăn rập vừa “hò khoan” vang dậy. Bên trong, ngồi đối diện với mấy cô áo màu xanh đỏ, thằng Năm cảm hứng lên dây Tố-lan đờn một bản Vọng-cổ rặt “mùi”. Tôi bị con ma buồn ngủ kéo hai mí mắt gần sụp, nhưng sợ gục lên gục xuống, “con Tám” nó cười, nên rán kềm vững cái cần cổ. Tuy vậy chút chút cái đầu cũng gặc qua được một cái như để nhịp “song-lang” giùm cho thằng Năm. Các cô ngồi thủ-thỉ, lâu lâu chăm-chú dòm thằng Năm đang “hỉnh mũi” cho mấy ngón tay nhấn vuốt hai sợi dây đàn. Hố hò khoan Con gái ông Bang Che dù che lọng, Con gái bà bóng Thổi lửa tắt đèn… Cà rùm tùm beng. Hố hò khoan, Con đỉa đeo bà, Con gà cục-tác, Mỏ-nhát cầm chèo, Con mèo cầm lái, Con rái chạy buồm, Con tôm tát nước… Là cái hố hò khoan… - Ghe ai ngừng lại! Bên ngoài, bỗng có tiếng hét vang lên. Tiếng hò khoan dứt ngang. Thằng Năm nhè-nhẹ để cây đàn xuống. Các cô xanh mặt dòm giáo-giác. Tôi đang gục lia cũng hoảng hồn nhảy ra ngoài. Ba ghe trước đều buông chèo. Đàng xa hơn, mấy ngọn đuốc sáng loà từ trên xuồng nhỏ nhô ra. Dưới ánh sáng, mấy anh chàng lực-lưỡng, mình trần trùi-trụi, đang phò anh chúa đoàn, bơi ào lại. - Ăn cướp mầy Năm ơi! Thằng Năm “mẹ thỏ” vừa nghe tôi kêu cướp đã tuôn ra ngoài phóng đùng xuống kinh lội vô bờ lủi mất. Các cô run lên cầm-cập sa-sẩm áp níu lấy tôi. Bụng tôi thì đã thấy điếng mà bị “con Tám” ôm ngang cần cổ lại càng điếng hơn nữa. -Mấy ghe kia lập-tức ngừng lại, thằng Sáng1ở đây! Giọng hét sang-sảng như Trương Phi hét Tào Tháo ở cầu Tràng-bản. Mấy anh chèo ghe tôi khiếp đảm cũng nhảy đùng đùng xuống nước. Tôi thổi tắt đèn xô mấy cô nằm rạp dưới khoang ghe, rồi ngóc đầu lên dòm. Bọn cướp lục ghe dâu rầm rầm. Nghe tiếng khóc xen lẫn tiếng hăm doạ, tôi rợn người toan chỗi dậy nhảy đi, nhưng mấy cánh tay các cô bấu chặt như sam, không tài nào gỡ nổi. Thôi thì, hoạ mang, mang lấy cho cùng, tôi chết sững đợi đến số-phận mình. Nhưng… bọn cướp đã hô “buồm” và mấy chiếc xuồng rẽ nước bắn đi… Hú vía! Thì ra họ đã “no hàng” ở ghe đàng trai, không cần đến chúng tôi nữa. Tôi lồm-cồm ngồi dậy, đỡ mấy cô áo màu lên. Áo màu không còn là màu nữa. Bùn nước trong khoang ghe đã nhuộm thành rằn-ri mất rồi, mà mấy cô chỉ là những tàu lá đang run. Không kịp lên tiếng hú coi thằng Năm núp ở đâu, và đến coi ghe đàng trước lành dữ thế nào, tôi ngẫm-nghĩ bậc cười nhớ đến câu hát trên đường Vĩnh-châu: Tháng ba cơm gói ra hòn, Muốn ăn trứng nhạn phải lòn Hang Mai… CHÂU XƯƠNG CỬ THANH-LONG-ĐAO Hồi ấy bạn tôi và tôi còn gõ đầu trẻ để “kiếm xu mua gạo” trong cái làng mà nghe đến tên, các bạn sẽ rùng mình: làng Rạch Cóc! Thằng Năm Quấy (bạn tôi) có tính liến-thoắng, chưa gì đã bàn tìm nơi khác để sanh phương. Anh ta bảo: - Thôi đi, tao sợ cóc lắm, vô trong ấy, buổi cơm nào người ta cũng cho ăn toàn là cóc thì chết đói vẫn hoàn chết đói! Nhưng một tháng sau, chúng tôi đã “quen nước quen cái” với xóm Rạch Cóc. Cóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là Thầy Rùa, Thầy Pháp, Thầy Đồng, bà Cốt, cô Tư, Cô Hai, cô Bảy. Các bạn đừng thêm: cô Năm Bến-tre, cô Ba Cần-thơ… coi chừng cái cần cổ: mấy cổ vặn họng thì không khéo phải tốn một con gỏi…2 Ở đây có xác Ông - tức Quan Công - là được nhiều người rước nhất. Nhưng muốn cầu Đức Quan Thánh về thì phải tốn một con heo: con heo ấy, sau lễ đàn rồi, lẽ cố-nhiên là phải về tay ông Xác. Chúng tôi đã được xem nhiều lần cách chữa bịnh của xác Ông, và lần nào cũng như lần nào, thấy con heo to-tướng đặt ngay bàn giữa, thằng Năm Quấy cũng bảo tôi: - Cái thằng cha xác không biết nó ăn làm sao cho hết mấy con heo! Ông Xác làng Rạch Cóc có vẻ oai-nghi đặc-biệt mà lúc Ông đã nhập vào rồi, thì xem còn lẫm-liệt hơn nữa. Và lúc Đức Quan Vân-Trường nạt to: - Châu Xương, cử Thanh-long-đao!… thì ngài liền tung mình đi một bộ võ tuyệt-diệu. Đứng ngoài xem, tôi cũng phãi khen thầm: “Quả thật đệ-nhất anh-hùng!” Còn bao nhiêu khán-giả khác đều cúi đầu, mặt lộ vẻ sợ-sệt: “Ông đang cử Thanh-long-đao coi chừng!” Mỗi khi xem tới khúc ấy, thằng Năm Quấy thúc hông tôi, bảo nhỏ: - Châu Xương chưa kịp cử đao, sao ông huơi sớm thế? Tôi trả cái thúc lại, cũng bảo nhỏ: - Câm miệng! Coi chừng Ông vớt trái! Quên cho các bạn biết chúng tôi đang ở đậu nhà ông Cả trong làng. Một hôm, con gái ông đau. Ông Cả vốn là người không tiếc một con “gỏi”, nên vời ngay xác Ông đến và sửa-soạn nhà cửa cho lễ đàn tiện bề tiến-hành. Gia-nhân làm thịt một con heo đúng tạ. Thằng Năm Quấy lại bảo với tôi; - Đấy! Thêm một con nữa. Mới có ba hôm mà nó đã được hai con rồi, khoái thật! Tối lại, gần hết dân trong làng đều tề-tựu trước nhà ông Cả để chờ xem lên đàn. Đèn đốt sáng trưng. Gia-quyến ông Cả đều đứng ngoài nhà trước, chỉ có hai chúng tôi là từ trong ngó ra, không phải chen lấn ở hạng “cá kèo” như mọi lần khác. Ông đã nhập xác. Ai nấy đều đứng im. - Ta là Quan Vân-Trường, Hán Thọ-đình-hầu! Ông lại còn nói thêm, nói nhiều lắm, hỏi nhiều lắm. Ông Cả vừa run-run vái lạy, vừa lập-cập trả lời. Thằng Năm Quấy thì cứ mải nhìn… mấy cô gái ở hạng “cá kèo”. - Châu Xương, cử Thanh-long-đao! Tôi đang chăm-chú xem, bỗng giật mình đánh thót vì bên tai có tiếng la: - Dạ!. Thôi chết rồi, thằng Năm Quấy làm sao thế? Ừ chính người lên tiếng là thằng Năm Quấy, mà thằng Năm Quấy bây giờ lại cầm dao phay sáng giới từ chỗ đứng nhảy phắt ra, phùng mang, trợn mắt múa vù-vù xem ghê quá. Trong khán-giả, tự-nhiên có tiếng xầm-xì. Thằng Năm Quấy múa một vòng như Chệc Sơn-đông mãi võ, làm khán-giả sợ-sệt lấn nhau lui xa ra. Không còn một cái đầu nào dám nhìn lên. Thằng Năm Quấy vẫn múa. Tôi đứng cạnh chỗ xác Ông, thấy ngực lão ta phập-phồng và miệng lão ta há-hốc. Lúc thằng Năm Quấy múa gần ông ta, tôi nghe có tiếng bảo: - Chia hai!chia hai! Nó múa thêm một vòng nữa rồi quì xuống dưng cây dao ngang mày. Chụp lấy con dao, mặt Ông trở lại oai-nghi, Ông tung mình đi một bộ võ tuyệt-diệu. Khán-giả vẫn cúi đầu. ★ - Mình phải chia ăn chớ! Mầy xem mới có ba ngày mà nó được những hai con rồi! Trời ơi, nghĩ được cái ý ấy, tao sướng quá và phục… tao quá! Tao không thèm cho mầy hay là sợ mầy cản-trở. Trong lúc tụi nó lục-đục ở nhà trước, tao xuống nhà bếp lấy con dao đem giấu phía sau tấm vách giữa, rồi tao chực-hờm khi nó kêu “Cử Thanh-long-đao” là nhảy ra. Sẵn trước kia có làm thầy tuồng cho gánh hát Thái-Dương của thằng cha Cống-Quỳnh, tao có học quơ bậy cặp song-tô, nên đến khúc ấy tao chụp quây vù-vù cho tụi khán-giả sợ lui ra xa. Tao biết rồi thế nào thằng chả cũng nói với tao một cái gì, mầy bảo có “thánh” lắm không…?” TRAO THÂN…. CON KHỈ MỐC HƯƠNG BA càu-nhàu: “Cái làng gì mà kỳ-khôi quá! Các ông nghĩ: Làm cha mẹ, ai cũng muốn cho con nó được nên vợ nên chồng, đàng này họ mảng bo-bo mấy cái hủ-tục bắt-bẻ từ chút, đòi-hỏi từ cái lễ mọn, đã thèm rồi mới chịu gả con gái… - “Chịu gả” mà có xong cho đâu! Đây để tới lúc mình tới rước dâu rồi chú coi, chém chết ông Bái hay ông Tộc-trưởng bên ấy cũng “vặn” anh cai Sót đủ điều…” Ông Chánh Khá nói thêm một cách chán-nản: - Mà cái xứ gì ở xa tí-mù! Rồi chán-nản nhìn hàng cây mắm ở ven rừng, “giẵm chân” bên bờ sông Ông Đốc. Chiếc ghe máy có cái mui ngạo-nghễ, khoe những dây cờ lon-con, giăng từ cột buồm ra sau lái. Tiếng máy chạy sình-sịch. Trời về chiều. Tàu chạy hôm nay nữa, là hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh xáng Thọ-mai, nhưng xóm Kiến-vàng vẫn còn xa lơ xa lắc. Họ đàng trai đã mệt-nhọc ngồi trong chiếc tàu chật-hẹp. Người ta ăn hết ba lượt bánh mì với thịt quay mua ở Cà-mau. Chú rể ngày đầu còn khăn đóng áo dài, hôm sau đã cổi dẹp lại một bên, mặc chiếc áo thun giả ngồi ở trước mũi tàu ngong-ngóng, thỉnh-thoảng vươn vai hít không-khí rồi cú-rũ nhìn lũ trẻ trong xóm chạy theo tầu, trên bờ sông vỗ tay reo: - Ê! Đám cưới!... Đi họ còn có cả ba cô gái: áo tím, áo xanh, “bọt-đê” dài thườn-thượt. Họ tỉ-mỉ từng chút, luôn luôn sẽ nhặt sống áo và lai quần hàng thẳng bóng để đôi giày cườm khỏi vướng mà làm lấm hư đi… Hôm xuống tàu, ba cô chọn một chỗ sạch, ngồi nói chuyện với nhau khe khẽ, ai mời ăn gì cũng từ-chối, thỉnh-thoảng đưa cái bốp đầm lên soi kiếng, sửa lại cái vành môi. Nhưng hôm nay, ông Chánh Khá đã vắt cái áo đen trên vai và gói cái khăn đóng lại; ông chủ-hôn Cai Sót đã nằm ngáp trên chiếc sập con, thì các cô cũng đành chia nhau ăn mấy khúc bánh mì còn sót lại. Son trên môi đã hoen-ố, phấn trên má cũng phai đi từ khoảng. Chiếc khăn mù-soa đã được nằm trong túi, không còn đeo-đẳng với tay nữa. Vì hai bên bờ, rừng tràm và dừa nước, muỗi nó kêu vang lên như khát máu, đập bằng tay có hiệu-nghiệm hơn, chớ cầm cái khăn mà chặm chặm thì nó không thấm tháp vào đâu cả. Hương Ba càu-nhàu mãi, và ngán lần đến lúc ông phải đem khay trầu rượu đi trình đàng sui gái… Năm nay đã gần tứ tuần, nhưng ông còn có vẻ…thanh-xuân! Lần nầy là lần thứ mười tám ông đi làm rể phụ. Hễ bọn thanh-niên trong làng có cưới-hỏi, là người ta nhớ đến ông, vì ông đã từng-trải lắm rồi, lại biết đủ tục-lệ. Ông thường bảo với bọn trẻ: - Các cậu đừng tưởng làm rể phụ là dễ đâu. Để các cậu lãnh vai ấy thì có mà hỏng bét… ★ Anh tài-công cho hay: - Khỏi vàm Mang-giỗ rồi, còn hai cái doi nữa là tới Kiến-vàng! Trời tối đen. Bầy muỗi tha-hồ bu cắn mấy ông đi họ đang sật-sừ. Nhưng người ta đã giục nhau: - Sửa-soạn mau lên! Ông Cai Sót hớt-hải: - Mấy giờ rồi, mấy giờ rồi? - Mới có mười giờ. Qua giờ Tý mới đúng. - Thây-kệ, giờ nào, tới thì phải lên, đã gần chết rục rồi đây! Người ta hấp-tấp sửa-soạn. Hương Ba gò-gẫm khăn đóng cho ông Cai Sót; chàng rể gài khuy cho ông Chánh Khá. Bà sui trai và hai người đàn-bà đi họ, mấy ngày giam-hãm trong chiếc buồng con đàng sau lái tàu để xói trầu và xỉa thuốc, bây giờ cũng thấy hăng- hái xếp-đặt cái hộp trầu. Ba cô thiếu-nữ nheo mắt lo đánh vội một lớp phấn và rán vẽ được hình trái tim trên đôi môi đỏ óng. Người ta phủi lại nếp áo, người ta chùi sơ lớp bụi đóng trên mũi giày. Cây đèn treo lủng-lẳng giữa tàu giọi trên vách mấy cái bóng người đi đi lại lại. Ông Hương Ba đã hờm sẵn khay trầu rượu, xây qua dặn chàng rể: - Thanh, mầy bưng cái khay hộp theo tao nhé! Lúc làm lễ, hễ tao đặt khay trầu rượu ở bàn nào thì vợ chồng mày sẽ lạy ở bàn đó… mà nhớ luôn-luôn đứng bên tay trái nghe, “nam tả nữ hữu”, rán học cho nằm lòng! Rồi tiếp: - Còn tụi thằng Trí, bưng mâm, khéo lọt mấy trái cam đa, không được giỡn-hớt như ở nhà, ở đây người ta khó lắm, coi chừng!... Còn thằng nào đó, coi qua cái doi chót thì nhớ đốt pháo lên! Tiếng pháo bắt đầu nổ vang cả xóm thì xa xa có mấy tiếng pháo trả lời. Trên bờ sông mấy con chó hè nhau đứng sủa… Tàu ghé bên cái cầu có nhà mát. Cả đoàn lần-lượt lên bờ và sắp hàng có thứ-tự đi vô sân, đứng đợi. Trong nhà khách, ba bốn ông lão đang nói chuyện vang quanh chiếc bàn tròn trải khảm đỏ! Mấy cây đèn sáp rọi sáng cả gian nhà. Một bọn trai-tráng mặc áo dài đen chạy lăng-xăng, pha trà, bưng chén. Họ đàng trai vẫn đứng ngoài chờ. Hương Ba nóng ruột: - Mẽ!t ại sao không có người ra mời. Một câu nói trịnh-trọng từ trong nhà khách đưa ra dường như để trả lời: - Bây ra ngoài mời họ đàng trai đứng chờ đấy. Chưa tới giờ đâu! Chưa tới giờ! Mấy tên bưng mâm chán-nản. Thằng Trí lầm bầm: - Đợi tới giờ thì gãy mẹ cái tay đi còn gì! Mỏi thấy tổ rồi đấy! Ông rể phụ bực mình ghé vào tai ông Chánh Khá: - Giượng là trưởng-tộc, rán đối-đáp! Bây giờ mình cứ việc… Tôi sẽ đem dán đôi liễn, rồi thì mình xin cưới liền đặng về cho kịp con nước một giờ! Thế là Hương Ba bước liều vô nhà và đến đặt khay trầu rượu trên bàn giữa. Mấy ông lão trợn tròng. Ông Bái run run, khẽ kéo cái gọng kiếng sụp xuống chót mũi, đầu nghiêng phía trước cái búi tóc lọt ra ngoài lớp khăn đóng, dựng đứng lên như tức giận, ngó thẳng vào mặt Hương Ba, dữ-tợn. Nhưng Hương Ba đã chắp tay: - Dạ… xin… cho phép tôi…dán đôi liễn. - À! dán liễn! mà đã tới giờ đâu? Không phải các ông muốn tới bắt con gái người ta lúc nào cũng được!... - Dạ, tôi chỉ xin dán liễn! Một ông họ gái già sọm có cái mép lởm-chởm mấy cọng râu ngắn dài không đều, che mái lưa-thưa trên hai làn môi mỏng đang “hăm” lui tuốt vô miệng để cái càm lấn nước nhô ra như một lái tàu xà-lúp…; làn da mặt nhăn nhíu khô đét như vỏ cây khô cháy nắng; tất cả sự sống đều dồn về cặp mắt loang-loáng chỉ nhìn vòng qua cái gọng kiếng bằng thau; cái khăn đóng quấn suông hai vòng, cao, dầy, để lòi ở từng thượng một búi tóc bạc phơ. Cả gương mặt có một vẻ gì vừa lạnh-lẽo, vừa gay-gắt mà một đứa bé-con thấy được là phải khóc ngay! Ông họ ấy đang chăm-bẳm nhìn mọi người với những nét nhăn không cảm-giác, sực lên tiếng khi nghe Hương Ba nói tới liễn. - Dán liễn à! Được! Người ta thoáng thấy một cái nhích mép nó đưa nhẹ chòm râu xéo một bên: cười hay gây? Nào ai biết! Hương Ba ngờ-ngợ nhìn và lanh-lợi: - Ông Tộc-trưởng cho phép chúng tôi dán đôi liễn giao-hiếu. - Được. Coi nào! Không đợi nhắc, Hương Ba lẹ-làng phết hồ lên cột. Ông Tộc-trưởng chậm-chạp đứng dậy cầm cây đèn sáp nhỏ đi theo xem. Lớp tuổi già đè nặng trên lưng, nhưng ông cũng cố gượng ngước lên, tay giơ cây đèn cao khỏi đỉnh đầu, tay gõ bằng mấy cái móng dài thườn-thượt trên lớp liễn đỏ, dò từng nét, từng chữ một và chậm-chạp đọc: - Thừa… long… lạc… ỷ… tam… chi… thọ… Ông gật-gù, nặng-nề bước qua cột bên kia. Ánh đèn làm nổi bật mấy nét nhăn và chói sáng cả cái “tầng thượng” trên chiếc khăn đóng: mỗi cái gật làm búi tóc lắc-lư như con “lật-đật” của trẻ-con! - Giá… phụng… quan… thành… bách… lượng… xa! Rồi bằng một giọng ngâm trầm bổng, ông lặp lại và phê-bình: - Thừa long lạc ỷ tam chi thọ…Hay! Giá phụng quan thành bách lượng xa… Cũng hay! Nhưng mà, ông chủ-hôn ơi!ông cắt-nghĩa giùm thử coi câu liễn nó thế nào mà tôi “dốt tối dốt tăm” không hiểu được! Ông lại chép miệng lầm-thầm như tự hỏi: - Tam chi thọ? Ba nhánh hay ba họ?... Ông Chánh Khá nãy giờ đứng rón-rén cạnh Hương Ba, nghe kêu, vội-vàng đưa tay lên sửa vành khăn đóng, mạnh-dạn bước tới biết rằng “chiến-cuộc” đã “khai-hấn” và sứ-mạng của ông là phải giữ danh-dự cho phe nhà: - Dám thưa ông Tộc-trưởng, chúng tôi không phải là kẻ thâm-nho, tài hèn chỉ đáng làm môn-đệ của ông, nhưng ông đã dạy, tôi xin mạng phép vâng lời, nhờ ông không chấp cho chuyện trước cửa Lỗ-Ban múa búa. Tôi có thể thích nghĩa xuôi hai câu ấy ra như thế nầy: Chú rể cỡi rồng nương cây ba nhánh, Cô dâu hỉ-hạ tìm đặng mối trăm xe… Còn dịch nôm thì tôi nghe ông Đồ Ướt nhà tôi diễn thử trong câu này: Rể lành đủ dựa tài lương-đống, Dâu thảo vui nên bậc thế-quyền… tưởng cũng tạm gọi được là hay vậy. Chẳng hay ông Tộc-trưởng nghĩ thế nào? - Hay? Tạm gọi là hay? Già nầy thấp-thỏi không biết nôm-na cao-kiến như mấy ông, già chỉ biết rằng trong rừng nho biển thánh, không thiếu chi tiếng dùng, sao lại đem nào là “thừa long… giá phụng…” tiếng của bậc đế-vương vua-chúa vô làm chi cho tủi-nhục thêm cho con nhà “dân-dã” chúng tôi… Chánh Khá xanh mặt: - Thưa ông… - Thôi, thưa gởi làm chi nữa, theo phép mấy ông trầu rượu tới đây cưới con gái nhà tôi, mấy ông không có quyền khinh-khi quá lẽ… Bây giờ tôi muốn coi đồ nữ-trang trước rồi đợi tới giờ sẽ hay. Hương Ba vội-vàng mở khay hộp. Ông Tộc-trưởng nâng từ chiếc vòng, sợi dây chuyền lên nhìn, bỗng-nhiên mắt ông sáng hoắc lạ thường, chép miệng hỏi: - Ủa, sao lại có đôi bông nở mà không có bông búp? Chánh Khá rối-loạn chực nói, nhưng đã bỡ-ngỡ nhìn mọi người. Hương Ba lẹ miệng đỡ lời: - Thưa bông búp là hồi “ăn trầu uống rượu” kia. Lời tục người ta nói: “Bông búp về nàng, bông nở về anh”, vì đường xa-xuôi quá, chúng tôi đã yêu-cầu trầu rượu cưới-hỏi một lần, thì chúng tôi tưởng “bông nở” không, cũng đủ lễ rồi vậy… Ông Bái ngồi chăm-chỉ nghe đến đó, bỗng-nhiên khóc lên rưng-rức: - Nhà tôi vô-phước. Trời ơi, con làm nhục cha nhục mẹ chi vậy hỡi con!... Sinh con tưởng gả được chỗ môn đăng hộ đối, ai dè họ khi mình đến đỗi này… Ông Chánh Khá bị “tấn-công” gắt quá, đành đưa mắt cầu cứu với Hương Ba lần nữa mà mồ-hôi trên trán đã nhỏ giọt. Hương Ba chẳng nói chẳng rằng, ngoắt chàng rể bước vào, còn ông thì đến cạnh ông Chánh Khá, láy mắt ngụ ý nói “để tôi” rồi nói lớn để thay-đổi cuộc diện: - Đã trình đồ nữ-trang, thì bây giờ xin lên đèn làm lễ cưới. Ông Tộc-trưởng trợn ngược cặp mắt, đôi lông chân mày dửng lên làm tăng vẻ giận dữ, oai-nghi: - Ai cho phép chú cưới? Tôi bảo đợi tới giờ nghe chưa? Ông Chánh Khá lập-tức trả lời khéo-léo: - Xin ông Tộc-trưởng thương giùm. Con rễ nó ở đời với nhau được, có phải tại cái giờ đó đâu. Nếu chờ đến giờ Tý, con nước chảy ròng cho đến trưa mai, thì chúng tôi phải chịu ngược cả mấy con nước nữa, chắc chết đói ở dọc đường. Nhất là cô dâu không quen đi đường trường bó-rọ dưới tàu năm sáu bữa, chẳng là tội-nghiệp lắm sao? Ông Tộc-trưởng nín lặng. Chánh Khá láy Hương Ba. Hương Ba hội-ý, xì ống quẹt nổi đèn khay trầu rượu rồi đưa tay ngoắt một cái. Đám bưng mâm lục-tục kéo vào. ★ Trong lúc lộn-xộn, Hương Ba lừa dịp kề tai Chánh Khá bảo một câu: - Lạy họ xong, giượng xin kiếu liền, đừng để trễ một phút nào cả. Mình không cần ăn mà cũng không cần họ tử-tế nữa. Chẳng lẽ họ níu con dâu lại đâu mà sợ. Chánh Khá làm như lời. Họ đàng trai đã thông-đồng ăn rập nhau đứng lên một lượt. Thấy con mình bị “bắt” đi một cách “cấp-tốc”, bà Bái trong nhà khóc rống lên như đám ma, còn ông Tộc-trưởng vỗ bàn lên ầm-ĩ. Nhưng, đám bưng mâm đã vây quanh hộ-tống cô dâu, chú rể xuống tàu một cách hùng-dũng, dẫu phe ông Bái có muốn “phá vòng vây”, cũng không tài nào vô nổi. Mọi người đều xuống tàu, trừ Hương Ba đang hí-hửng như vừa “thắng trận”, đứng cạnh Chánh Khá nói nói cười cười: - Vậy cũng xong! Đó, giượng thấy chưa, mình phải… mình phải cương quyết, phải…tài-ba như vậy mới được chứ! Bỗng ông Tộc-trưởng trên nhà chống gậy xồng-xộc chạy xuống níu tay ông Chánh Khá thở hào-hển, vểnh râu, sừng sộ: - Còn lễ… “trao thân gởi mình”, sao không làm hử? Nhưng Hương Ba bước vội xuống tàu, mặt đang nở hoa, tự-nhiên xanh xám lại, kéo đại ông Chánh Khá theo, cộc-lốc trả lời: - Trao thân… con khỉ mốc! Anh tài-công tàu giựt chuông mở máy… CÀNH TRE CŨ CẶP GIÒ XƯA Tôi đứng núp sau lùm bông phướn, tay cầm chắc ngọn roi tre, vững lòng chờ. Hễ bóng đen nào lao tới nạp mình là tôi khệng cho một cây, lập kỳ-công bất-hủ! Tiếng kêu cướp rền trời phía nhà ông Bá và tiếng mõ hồi một làm vang động cả đêm khuya. Bầy chó trong xóm cũng hè nhau sủa rầm lên dữ-dội. Bỗng trống ngực tôi đánh lồng lên, tôi vảnh tai nghe tiếng thình-thịch từ xa chạy lại. Bóng người vừa nhô tới là tôi rán sức bình-sanh cầm ngọn roi quất ngang vào ống quyển: Rốp! Có thế mới được chớ! Tôi nhào đại vào đống đen đang té nằm rên dưới đất, ôm chặt lấy, nghiến răng: - Chó chết, mày có chạy đàng trời!... Nhưng, thiên-địa quỉ-thần ơi! người tôi đang ôm cứng lại là… một cô gái! Thôi phen này có nước mà chết nhục với đời! Tôi rụng-rời buông lỏng nàng ra, hỏi: - Cô là ai, có sao không cô? Cô chạy đi đâu làm vầy cho tôi tưởng lầm là kẻ cướp? Nàng rên-rỉ: - Chết tôi đi anh ơi, tôi là con ông Bá đây! Anh làm ơn… đem tôi vô nhà… rồi tôi kể hết chuyện cho anh nghe, mau đi anh, đừng cho ai biết… mau đi anh!... Nàng nói rồi, oằn-oại, nằm thiêm-thiếp… Làm sao bây giờ? Có Phật Trời nào chứng-chiếu cho cả tấm lòng trong suốt của tôi? Giúp người, hại mình, bây giờ đâu có thể chần-chờ mãi được. Rủi thiên-hạ xông tới gặp tôi đang níu lấy nàng, tôi mới ăn nói cách nào cho xuôi? Thôi, rủi đã vương lấy hoạ, tấm thân bảy thước còn kể gì, tôi kề vai vác nàng vô cửa. Thằng Năm dầu có ngủ mê cách nào cũng đã thức dậy lục-đục đốt đèn. Thấy tôi cõng một cõng lù-lù đi vô, nó kinh-hãi nhảy lui một bước toan la, thì tôi đã khoát tay bảo nhỏ: - Tao đây, câm họng lại, ra đóng chặt cánh cửa cái, mau lên!... Nó sững-sờ nhìn cái “sức nặng” trên vai tôi, rồi ríu-ríu vưng lời. Tôi đặt “cục nợ đời” nằm xuống bộ ván trong, lấy dầu thoa trán cho hoàn hồn, rồi xây lưng ra ngoài, kéo tay thằng Năm: - Nguy lắm rồi mầy Năm ơi! Nghe đằng nhà ông Bá bị cướp, tao tốc mùng vác cây roi tre ra tiếp-cứu, không dè ba-chớp ba-nháng, đập nhằm con gái ổng gần chết, tao lật-đật cõng về đây! - Khốn-nạn chưa! Biết lầm sao mầy không tháo chạy, lại rước “của nợ” ấy về làm chi, hỡi Trời!… - Ai tàn-nhẫn như vậy được mậy? Đã đập cho người ta ngất-ngư, còn bỏ chạy là nghĩa gì? Vả lại hồi nãy,lúc tao ôm “con mẻ”, “con mẻ” năn-nỉ tao cõng về, tao bấn loạn nghe theo, không kịp suy-nghĩ, bây giờ biết làm thế nào? - “Con mẻ” năn-nỉ mầy cõng về! Rồi mầy cõng? Hứ, làm thế nào thì làm, tao bỏ nhà nầy cho mầy ở! - Tội nghiệp tao mà mầy Năm, chuyện đã lỡ ra thế nầy, mầy phải giúp tao gỡ rối mới được! - Giúp mầy? Nghĩa là cõng đem trả? Mô Phật, tao không có cái lưng “nghĩa-hiệp” như mầy đâu! - Không mà! Số là tao chưa biết ất giáp gì hết, mầy lập-tức giùm chạy lại nhà ông Bá coi cướp-bóc làm sao ở đẳng, tình-hình thế nào, rồi về cho tao hay. Chuyện nầy tao nghi lắm, tao phải chờ “con mẻ” tỉnh hồn lại mà cật-vấn mới được. Giùm mau đi Năm! Thằng Năm lật-đật thoái ra mà vẫn cằn-nhằn cẳn-nhẳn: - Ừ, tao cũng “nghi” lắm, chỉ thương-hại cho tao không ăn mà chịu, rủi thời mang nhục cả lũ mà coi! Tôi đi tới đi lui trong nhà, bóp đầu suy-nghĩ vì “cục nợ đời” vẫn còn nằm thiêm-thiếp, thì thằng Năm đã hào-hển chạy vào: - Tao lạy mầy, tao lạy mầy, mầy mau đem “con mẻ”, trả chỗ nào thì trả, không thì vạ tới nơi…! - Thong-thả mà nói , làm gì rối-rít lên như thế? - Thong-thả sao được, ông Bá vừa bị một người cầm dao vào hăm-dọa đòi giết rồi nó trói ổng lại, dắt con gái ổng đi. Ổng la rầm lên, thiên-hạ đang đuổi theo lục-soát lùm-tum-beng kìa! Tôi nghe thằng Năm nói, hồn phi phách tán cứng họng chẳng ra lời. - Bây giờ mầy đứng “chết trân” đó mà chịu hay sao? Đây, tao vừa nghĩ được một kế cứu mầy: Tụi mình áp khiêng “cục nợ” đó ra đầu ngã ba nầy rồi đồng la lên: “Bớ người ta! Ai nằm đây!”, cho thiên-hạ đổ lại “rước” con mẻ về là xong!... Thằng Năm nói dứt lời kéo xển tôi lại ván nhận đầu tôi xuống, khiêng “nàng” lên. “Nàng” vẫn còn chưa tỉnh hẳn… ★ Đêm ấy, sau khi tìm được con gái ông Bá, “họ” còn bắt được cả thủ-phạm: thằng tư Rỗ! Nội vụ đưa ra làng, giao cho Hương-quản làm “ăng-kết”. Trên bàn Hương-quản tại nhà công, một cây dao sắc lẻm để nằm làm tang vật. Thằng Tư Rỗ bị trói ké ngồi cú-rũ ở góc phòng. Ông Bá khép-nép đứng cạnh đó và một dọc dài chứng-cớ… có cả tôi và thằng Năm! Thầy Hương-quản là một người ốm mảnh-khảnh nhưng có một bộ râu dữ tợn, cặp mắt oai-nghi, trông vào ai cũng hết vía. Thầy ngồi giữa bàn, ngậm cái ống cối to-tướng, nghiêm sắc mặt, kêu ông Bá hỏi trước: - Sao, ông hãy thuật đầu đuôi gốc ngọn cho làng nghe! Ông Bá khúm-núm: - Thưa thầy, cách đây một năm, tôi thấy thằng Rổ nầy khá đứa, biết lo làm ăn, nên tôi định gả con Hai tôi cho nó. Tôi kêu nó về ở rể đúng năm rồi sẽ chọn ngày lành tháng tốt cho chúng nó nên vợ nên chồng. Mấy tháng đầu về với tôi, nó làm việc lực-bạt biết chiều-chuộng tôi, biết lo bổn-phận. Không dè khi gần ngày cưới bỗng-thinh nó phát lên làm biếng, làm nhác, không chịu làm việc nữa, cứ rủ-rê bạn-bè nó lại phá gà, phá vịt, hoặc thả đi luông-tuồng. Tôi rầy la mãi không được, túng tôi phải hăm nó: nếu nó còn giữ thói đó nữa, thì tôi tống cổ nó ra ngoài và không gả con cho nó. Nó vẫn không nghe, tôi buộc lòng tôi phải đuổi nó. Thằng tư Rỗ đang ngồi, vùng đứng dậy dợm cãi, nhưng bị anh Cai-tuần chụp đè cổ xuống, và thầy Hương-quản trợn mắt, làm nó phải ngồi lại nín khe. Ông Bá tiếp theo: - Thế rồi gần tháng nay tôi tưởng nó về với cha mẹ nó, không dè đêm hôm, tôi đang nằm ngủ quên giữa ván nhà, bỗng đâu nó đẩy cửa nhảy xổ vào, phóng lên ván, câu hai cẳng đè cứng mình tôi, tay đưa dao hăm-dọa: “Ba la lên một tiếng tôi phụp một cái rụng đầu!” Tôi sợ quá năn-nỉ nó, nó không buông, còn lấy dây trong áo trói tôi lại, rồi xông vô buồng bắt con gái tôi đi… Ông Bá khai rồi đứng sang một bên. Đến lượt thằng tư Rỗ được Cai-tuần dẫn lại giữa bàn. - Sao, thằng chó chết nầy, mầy phải khai cho thiệt! Thầy Hương-quản ra lịnh. Thằng tư Rỗ hằn-học từ lâu, được phép cho nói tuôn ra một hơi: - Bẩm thầy, ổng nói láo! Ổng hứa gả con Hai cho tôi, ổng bắt tôi về ở rể, đày tôi như đày-tớ mà cấm tôi không được nói chuyện với vợ tôi tiếng nào. Rồi gần đến ngày cưới, thình-lình ổng đuổi tôi đi. Tôi năn-nỉ hết lời, ổng cũng không chịu cho tôi ở lại. Tôi chắc ổng giận tôi chuyện gì nên bóp bụng ra về, định chờ ổng nguôi-ngoai sẽ năn-nỉ xin cưới. Không dè mới đây người ta cho tôi hay rằng ổng đã kêu thằng Út ở xóm trong vào ở rể nữa. Tôi tức-mình đón vợ tôi gạn hỏi. Té ra ổng ép vợ tôi, không cho đi đâu khỏi nhà. Biết rằng vợ tôi nó cũng thương tôi lắm, mà ổng thì độc-ác không thể năn-nỉ được, tôi vẫn chiều lòng đến lạy-lục ổng năm bảy phen. Lần nào ổng cũng đuổi tôi như đuổi chó. Tức quá, tôi mới xách dao lại hăm ổng, đó là sự bất-đắc-dĩ, xin thầy xét lại cho tôi nhờ. - Mầy có đè, trói, và hăm giết ổng không? - Bẩm có, vì ổng thấy tôi, ổng muốn la, tôi đè ổng trên ván và nói: “Nếu ba không gả nó cho tôi, tôi sẽ lấy đầu ba.” Tôi nói vậy là để cho ổng sợ, ổng gả con Hai cho tôi, chớ tôi không tính giết ổng. - Được rồi! Rồi sao mầy trói ổng lại mà cướp con gái ổng đi? - Bẩm, ổng nằn-nằn không chịu, ổng nói rằng tại vợ tôi muốn vậy. Tức quá tôi phải trói ổng lại, chạy vô buồng hỏi, và biết rằng có nói cũng vô-ích, tôi đánh liều tính dẫn vợ tôi đi ít lâu rồi về thú-phạt. Đó là vợ tôi chịu theo tôi, chớ tôi đâu có bắt ngang… ★ Làng làm ăng-kết xong, liền giải thằng tư Rỗ ra quận. Tôi không chờ biết kết-cuộc ra thế nào, chán cả kiếp sống ở đồng, nghĩ tủi tấm thân bảy thước của mình mỗi lần phải cụng đầu với con gái ông Bá. Tôi không phải cây cỏ gì mà không biết ơn nàng khi nàng không hề hở môi cho ai biết vụ tôi đập nàng một cây và tôi cõng nàng về nhà đêm ấy. Nhưng mỗi khi gặp nàng ở đâu là nàng ngó tôi một cách khẩn-thiết như muốn bày-tỏ một sự gì, rồi nàng dòm xuống cặp giò cười mỉm. Tôi hiểu là nàng muốn nhắc tới ngọn roi tre cũ, nhưng tôi tảng-lờ quay đi… - Không được mầy Năm, ở đây rồi phải chết một cửa tứ! Coi bộ con mẻ… “cảm tao” rồi mầy ơi. - Tuỳ mầy, mầy muốn sao cũng được. Đi, ở là quyền của mầy. Nhưng tao nghĩ mà tức-cười, nếu hôm trước “con mẻ” tỉnh, và “con mẻ” quyết nằm lì ở nhà mình, thì chắc “thế-cuộc” giờ đã đổi khác, đâu còn cái vụ quấn-quít giữa “cành tre cũ với cặp giò xưa”. ĐỔNG-TRÁC BIẾT SẬP GIÀN Ghe hát bộ bầu Tèo hôm ấy đã thấy chèo đến đậu ngay trước đình làng. Con nít chạy bu theo trên bờ kinh, vỗ tay la rầm-rĩ: - Bầu Tèo ở cù-lao Heo tụi bây ơi! Đình đang buổi kỳ-yên. Người ta dọn sẵn-sàng tất cả, chỉ chờ ghe hát đến là lên giàn. Bạn hát được dân làng phụ giúp, chỉ non nửa ngày là cất rạp xong đâu đấy. Chiều đến, họ có thể gióng trống xây chầu. Làng đã nhứt-định hát ba “thứ”, mỗi “thứ” ba chục, tùy ông bầu chọn tuồng, miễn cho xứng-đáng thì thôi. Và nếu được vừa lòng, làng sẽ tùy-tiện mà thưởng thêm là khác nữa. Làng lại cho ông sáu Lý phụ đóng thêm một vai trong tuồng nào cũng được. Ông sáu Lý là tướng hát rành nghề. Trong giới hát bộ, đã đành rằng không đào kép nào là chẳng biết danh ông, mà thậm-chí đến dân làng hễ nghe đến tên ông, là hăm-hở phục tài. Năm nay ông đã già. Ông có bộ râu hơi dài và người ông hơi ốm. Nhưng không vì thế mà tài ông giảm đi. Chẳng những ông hát hay mà ông lại có tính vui-vẻ bặt-thiệp, ở cảnh-ngộ nào ông cũng làm cho người ta vừa bụng, nhất là đám trẻ-con trong làng. Hễ chúng gặp ông đâu là nài-nỉ xin ông “đi” cho một bộ Trương Phi hay Triệu Tử. Ông vò đầu chúng, rồi sẵn lòng bẻ một cành cây làm roi ngựa, giả đá giáp, hất râu, múa lăn chiêng y như trên sân-khấu. Ngoài ông sáu Lý, làng lại cử ông Chánh-bái cầm chầu. Ông nầy lại có cái đặc-biệt khác. Gánh hát nào đến cũng phải cậy nhờ ông. Được một người cầm chầu giỏi, đúng phép, không tư-vị, biết giục lòng, con hát mới phấn-khởi, mới hả-hê. Một tiếng “thùng” cũng đã làm cho họ sung-sướng mà hai ba “chầu” liên tiếp lại còn làm cho họ nở lòng. Ông Chánh-bái trong làng thường bảo: - Mình cầm chầu không đúng-đắn, bọn hát nó khi, nhiều khi nó dể-ngươi lờn mặt. Ôm chầu như tôi, tôi đố đào kép nào dám ra hát “ẩu” đặng lãnh tiền. Không một tiếng trống của tôi, cũng đủ cho họ bị bầu gánh cúp tiền cữ đêm đó… Mà thật ông Chánh-bái rành điệu cầm chầu tự hồi ông còn ở chức Hương thân kia lận. Tiếng đồn ông sáu Lý hát và ông Chánh-bái cầm chầu được truyền đi liền khắp xóm. Người ta thấp-thỏm chờ đến buổi chiều. Trẻ-con rộn-rực đòi áo quần, xin xu ăn bánh; các anh trai-tráng nôn-nao bỏ giấc nghỉ trưa, ở luôn ngoài ruộng đợi chiều về sớm một chút; các cô gái, mặt trời chưa chênh bóng là đã lo làm cá nấu cơm. Khi tiếng trống “thùng thùng” nổi lên trên xóm đình, thì dọc theo bờ ruộng đã thấy lũ-lượt kẻ năm người ba kéo nhau đi xem hát. Sân đình trước là một đám cỏ cú cao nghều-nghiệu, chỉ sơ-sơ trong nửa buổi là bị dấu chơn người giẵm lên sát-rạt. Trước rạp, người ta dọn-dẹp sạch-sẽ, sắp một hàng ghế dài để dành riêng cho các bậc kỳ-lão và hương-chức; kế đó là ghế của tư-nhân. Họ khuân từ nhà đem lại, chen nhau giành chỗ. Giàn hát cất không được cao; bên trái là buồng kèn nhạc, bên phải là buồng của kép hát sắm tuồng. Chính bên phải là chỗ để trống chầu cho ông Chánh bái ngồi. Hai ngọn đèn “măng-sông” được treo tòn-ten trên cao, trước rạp. Ba hồi trống cơm “tùm tum, tùm tum”, báo rằng đào kép sắp “ra tuồng”, mà tội quá, đám con nít cứ chen-lấn nhau kêu la ầm-ĩ. Chúng trèo níu, đánh đeo ở hai bên giàn coi đàn kèn và coi các ông tướng vẽ mặt. Hai anh Cai-tuần lãnh coi trật-tự đuổi thế nào chúng cũng không đi. Tức quá, họ bẻ roi quất bổ trên đầu, trên lưng làm chúng kinh-hoảng lấn nhau té đùn cục. Nhưng một lát, chờ khi anh Cai-tuần rỏn đi chỗ khác, là chúng lại leo lên bu xung-quanh như kiến. Ông Chánh-bái là người hiền-từ thuở giờ, bị chúng chen-lấn quá, ngồi chầu không được, ông phát giận dữ, phải giơ dùi trống lên “khệng” cho mấy đứa đến u đầu. Đêm ấy hát tuồng Phụng-nghi-đình. Chính ông sáu Lý ốm tong, bây giờ độn cái bụng to, mặc áo rộng xùng-xình đóng vai Đổng Trác. Mỗi lần ông đi kệ-nệ, vuốt râu, đưa quạt lên trời hất-hất, là mỗi lần người ta la ó dậy. Lữ Bố là một anh chàng trai-trẻ, mặt đẹp như con gái, giắt hai lá cờ soái hai bên lưng, thắt cái bông tròn trước ngực, đội mão kim-khôi, tay cầm phương-thiên họa-kích, oai-vệ vô-cùng. Điêu-Thuyền là cô đào chánh của gánh hát, mặt hoa da phấn, yểu-điệu thướt-tha, màu-mè cặp-bồ với Lữ Bố thật xứng lứa vừa đôi. Anh chàng Lữ Bố có cái bộ ghen tuyệt-diệu. Mỗi lần anh hằn-học với Điêu-Thuyền là mỗi lần mấy cô ngồi chen nhau ở “hạng ba” véo nhau gần nhảy nhổm, và hít-hà chắt lưỡi như đám thằn-lằn kêu đói ở trong đình. Một điều đáng để ý là sau lưng các cô, đố một chị đàn-bà nào, một ông già bà cả nào, hoặc một đứa con nít nào bén-mảng tới được. Toàn là bọn thanh niên đầu chải bóng-láng, chen-chúc nhau đứng cặp-kè, rọ-rạy nói chuyện vang trời. Đứa thuộc Tam-Quốc, nói thôi vô-số kể, đứa phê-bình kép hát, có đứa lại nói tiếng tây! Đã vậy mỗi lần ông sáu Lý vỗ cái bụng phệ làm cho người ta cười ngả nghiêng, ngả ngửa, thì phía ngoài thêm một vài cậu lừa thế thò đầu vô, hai tay vẹt đàn-bà con-nít, mắt liếc coi phía nào có mấy cô là chen tới. Đàng kia, ông Chánh-bái đã bổ dùi xuống làm u đầu năm bảy đứa con nít rồi, nên chúng tức-tối lập thế trả thù. Chờ đến hồi “cụp-lạc”, lúc Lữ Bố ghen nhảy sấn lại cắn, véo, đánh yêu Điêu-Thuyền, ông Chánh-bái sửa gọng kiếng lại ngay-ngắn, ngồi nhìn chết sững, chúng bèn hốt nào cát, nào bụi, nào xác mía lén-lén để đầy lên mặt trống. Ông Chánh-bái gặp lúc say-mê, vô-ý không dòm trước dòm sau, giơ dùi thẳng cánh “chầu” liên-tiếp. Tiếng trống vừa kêu “thùng” là cát, bụi, xác mía bay tưới lên lấp đầu, lấp mặt ông. Ông đỏ mặt tía tai, quơ dùi “lia”, xung quanh con nít té lăn đùn cục, kêu khóc om-sòm. Nhưng, thiên-hạ ai cũng để hết tinh-thần vào lớp “cụp” ấy, ông Chánh-bái có làm gì, con nít có la bao nhiêu, cũng không ai màng tới. Có vài chị đàn-bà bồng con, tay vạch áo đưa vú cho con bú mà mắt chăm ngay lên sân-khấu, hồn gởi trọn cho Điêu-Thuyền. Đứa con ngậm vú không được vùng khóc ré lên. Chị ta không kể đến, cứ đứng sững giơ tay đánh chan chát vào đít đứa con. Đứa bé khóc ngất. Đang hát “cụp” quá mà trời lại vần-vũ kéo mây và trong giây-lát mưa nhểu hột lâm-râm. Đám người vẫn không thấy nhúc-nhích. Kịp khi một ngọn gió lạnh thổi qua, mưa tuôn ào xuống, họ mới vẹt nhau chen-lấn lại gần giàn, có cái mái che cho hương-chức. Lại càng là một dịp cho các cậu trai giành nhau xô mấy cô gần ngã sấp. Tội-nghiệp, cô mất guốc, cô mất giày, vừa lom-khom xuống lượm liền bị chúng ủi té nhủi. Nhưng mặc, các cô vừa chửi-rủa rùm trời, vừa mò mò quyết tìm cho được giày guốc mới nghe. Mưa lớn quá. Lũ con nít bu lại hai bên giàn, đeo như ong. Ông Chánh-bái không cầm chầu được nữa; ông đã lạc đâu trong đám người hỗn-độn. Trên rạp, Đổng Trác (ông sáu Lý) đang cầm cây phương-thiên họa-kích đuổi theo phóng Lữ Bố, bỗng-nhiên đứng dừng lại kêu to: - Con nít xuống bớt! Coi chừng sập giàn! Nhưng ông kêu mặc ông, con nít vẫn ùa nhau chen-lấn và chỉ trong chốc lát tiếng cây gãy răng-rắc, dây buộc nghiến cò-ke, giàn hát đang rung-rinh, bỗng-nhiên “vươn mình”, như một kẻ liệt gân rồi “sụn” xuống… ÔNG TƯỚNG “THẦY BA” Hai người dọn đồ xuống đò hôm ấy chính là tôi và thằng Năm. Biết lắm! Nghề gì thuộc về “tà-đạo” thì sớm muộn cũng bị tổ trác! Tôi thường bảo thằng Năm như thế, nhưng chứng nào tật ấy, nó có nghe cho đâu. Kiếm ăn được một mẻ “Châu Xương”, nó bắt bén trổ nghề. Ban đầu trị bịnh con nít, mắc con “sát”, con “trùng” gì ấy, lần lần nó bắt qua chữa bịnh người lớn. Ai đau gì nó cũng trị được, ai mắc gì nó cũng chữa được. Đó mới là cái… biệt-tài. Mỗi lần thằng Năm xách “ông tướng Thầy Ba”, đi đâu, tôi căn-dặn kỹ: - Mầy…cho khéo…coi chừng…! Nó liền trả lời gọn: - Bảnh mà! Tôi có thể nói cách kiếm ăn của chúng tôi lúc đó cũng hơi bất-lương, nhưng lỡ nghèo sinh kế biết sao bây giờ! Mà cũng may, cái thằng vậy mà “bà cậu độ”, được thiên-hạ hoan-nghinh. Lần nào về thuật lại cái may, nó cũng cầm “ông tướng Thầy Ba” vuốt-ve rồi hỉnh mặt: - Ổng linh lắm mầy à! Lời nói nầy kết-quả ngay ở nhà ông Phối-sư Cụt! Hôm ấy, nó rủ tôi cùng đi. Nó bảo: - Con nhỏ đau dó bảnh lắm, mầy đi với tao lấy hên, biết đâu khi tao thổi phép cho nó mạnh, ông Phối-sư không cám-cảnh gả quách nó cho mầy… hay cho tao? - Tao mà làm cái mớ mốc gì mậy. Mầy có công thì mầy hưởng chớ! - Ậy, đi, tao làm cho coi mà! Thằng nó biết giàn trận coi cũng khá-khiển, phải tay thầy bùa. Con gái ông Phối-sư đau nằm trong buồng, nó xin giàn trận ngay trong buồng: - Bịnh tà thì phải biết, đem đi đâu được! Nó bảo như thế. Mà thật, cô ấy tối ngày cứ ợ ngáp, lên lên, xuống xuống. Đang nằm yên, bỗng la rầm lên, la một chặp rồi nằm xuống. Có khi cô nhảy xuống đất đánh võ tơi-bời, xé rách ten cả quần áo rồi ôm cột giường mà khóc! Thằng Năm bảo đó là môt con “tinh” dữ, ở “miền dưới” muốn bắt cô ta theo nên hành-hạ dữ quá! Nó đánh phách với ông Phối-sư: - Phi tôi, đố thằng cha thầy nào trị nổi! Nó đòi giấy vàng, son tàu, bút lông để họa phù trấn bốn góc buồng. Sau khi giắt bốn lá bùa trên lưng tôi và ông Phối-sư đặng trấn-thủ ngoài cửa buồng, nó nai-nịt gọn-ghẻ, một tay xách cây dao “đan-tô” với cái hũ không, thứ hũ đựng cải tăn-xại, một tay cầm ông tướng Thầy Ba, nhảy xổ vào bắt tà. Vừa kéo cửa phòng cái rột, nó đóng kín mít lại liền, không cho con tinh nào có ngả mà thoát ra. Trong buồng, thằng Năm đã bật lên một câu thần-chú: - Án thiên-la địa-võng, án đông bình, tây định, nam, bắc, trung-ương định!.. Đó là nó hét lên để thị-oai, rồi dịu giọng. Mà chính cái lúc nó dịu giọng mới là lúc người ta ghê mình: - Hiu-hiu gió thổi lộng đàn tiên, ngày hôm nay sư tướng đến đây, trên thánh-tổ quang-minh chứng-giám, bủa địa-võng bốn phương vững-chặt, bố thiên-la ba cõi trùng-trùng, các hồn nào quấy-nhiễu mông-lung, phá dương thế bắt về lập-tức… - Ớ là hỡi âm-binh ơi!... Tôi đứng ngoài nghe lạnh xương sống, mà dòm ông Phối-sư cùng người nhà mặt mày ai nấy cũng tái xanh. - Ớ là hỡi âm-binh ơi!... Ai có ở vào đêm thanh-vắng, tin-tưởng ở chỗ mình có con “tà” đang lộng, nghe đến đây mới biết cái “ghê mình” ra làm sao! Cốt-ý thằng Năm là bắt cho được con “tinh” nhốt vô “hũ tăn-xại” rồi dán bùa lại, tống đi. Nó đã bảo trước với ông Phối-sư: - Để tôi bắt được rồi, ông coi, nó kêu rên trong hũ, xin tha-thứ đủ điều!... Đến đây tôi mới hiểu được tại sao trước ngày đó thằng Năm rủ tôi đi kiếm bắt con “ong bầu” gần ứ hơi. Nhưng tiếng thằng Năm bỗng im bặt, thay vào tiếng giậm chân rầm-rầm dưới đất và tiếng thổi phèo-phèo. Có lẽ là anh ta trợn mắt phùng mang thị-uy với con “tinh” đặng “xáp lá cà” với nó. Tôi đứng ngoài hồi-hộp lạ-lùng. Ông Phối-sư chấp tay vái nho-nhỏ: - Nhờ Đức Thầy, Trời Phật chứng-minh phò-hộ, cho con tôi thoát nạn. Bỗng-nhiên, trong buồng, con gái ông Phối-sư la lên bài-hãi: - Ái ái, thằng cha thầy chó nầy, sao mầy dám ôm tao? Buông ra không?... Buông!... Guốc nè!… Rồi… bốp… bốp… tiếng guốc tiếp theo, và sau cùng tiếng thằng Năm: - Chết tôi rồi trời ơi!... Tôi cùng ông Phối-sư tông cửa chạy vào. Cô gái đang đứng chống nạnh cạnh giường thở hào-hển, còn thằng Năm thì ôm đầu ngồi dưới đất rên hì-hì: - Ui cha! Con “tinh” dữ quá! Đêm sau, chúng tôi dọn đồ, len-lén ra đi. Thằng Năm xách chiếu đem trải trước mũi ghe, nằm buồn dàu-dàu, thỉnh thoảng thò tay khoát nước, nhìn hai bên ven bờ rạch Ruông, rạch Ráng, rạch Cui… Cứ mỗi vàm kinh thoáng qua là tôi thấy thời oanh-liệt của thằng Năm không còn mà tôi cũng chưa biết làm nghề gì ăn đây nữa. Tôi lắc đầu nhắc lại: - Liệng hắt ông tướng Thầy Ba của mầy cho rồi! Đã bảo coi chừng tổ trác mà mầy cứ dể-ngươi, bây giờ có phải co tay nhịn đói không? - Mầy cứ bấy nhiêu mà nói mãi, hèn gì không làm nên được danh sự gì! Ván bài hễ không chín thì bù, đánh “mẹ” nó một tụ, cho nó ra sao thì ra! Ở đời không làm được Phật, thì làm ăn cướp chớ có gì mà lo mậy!... ĐẠO Mấy con vạc ăn đêm đã bắt đầu bay đi kêu oang-oác ngoài trời, và bầy muỗi đã vỡ lên như ong, mà ông chủ Thìn vẫn chưa thấy lại. Ngóng mãi không được, Giáo Xệ nóng lòng mời khách: - Thôi, quý ngài cứ việc dùng, ổng lại sau ngồi sau, hơi nào mà đợi nữa. - Hay ổng quên? Phó-xã Việt lên tiếng. - Dễ quên không, tôi sai trẻ đến nhà mời hai ba lượt, ổng bảo về, rồi ổng lại kia mà! - Ổng là người trưởng-thượng, mình ăn trước có khi hỗn! - Không hại! tại ổng trễ chớ có phải tại mình sớm đâu! Thế rồi họ cầm ly. Nhấp đâu được vài miếng, bỗng-dưng Đình Uýnh kêu lên: - Kìa ông Chủ lại kìa!... mà miệng còn nhai dở miếng chả giò to-tướng. Ông Chủ lại thật. Tay cắp cây dù cán tre, tay xách bầu rượu với đôi guốc, ông xăm-xúi đi vào. Con chó vàng nhảy chồm lên chực sủa, nhưng rồi lui lại gầm-gừ. Giáo Xệ sợ mích lòng, khúm-núm: - Bẩm Chủ, chúng tôi đợi mãi không thấy Chủ lại, sợ Chủ có việc nhà, nên chúng tôi vô-phép nhập tiệc trước. - Ậy! hề-hấn gì đâu, hễ “tiền đáo tiền toạ, hậu đáo hậu toạ”, thảo với nhau đủ rồi. Bị đợi thằng nhỏ nhà đi lấy bầu rượu “đám đế” nầy đây nên mới trễ dữ vậy. Đây, các ông “nhấm” thử một người một ly coi, cái nước nhứt nó ngon kỳ ngon cục! Ông rót một ly đầy rồi chễm-chệ ngồi xuống ghế đầu bàn. Giáo Xệ chạy lăng-xăng, bưng ly rượu chát lễ-phép: - Mời Chủ tráng miệng bằng thứ nầy! Thỉnh-thoảng lại giục “mời Chủ!”. Nhậm lễ xong, ông Chủ gật-gù, miệng chấp chấp, tay vuốt mấy cộng râu mép còn đọng vài giọt rượu lấp-lánh dưới ánh sáng của ngọn đèn toạ-đăng. Đình Uýnh vừa nheo mắt vừa ngoạm thêm cái đùi gà xé phay; pháp-sư Nẫm ngó chăm-chăm chai rượu đế, lắng tai chờ ông Chủ nói chuyện. Nhưng ông Chủ dường như quên khách vì ông đang bận “ngậm” cái cu lẳng để cho hết nước cốt. Bỗng-dưng ông dừng ngay lại, nhìn về cuối bàn: - Uý chà! Bữa nay có thằng Phó-xã nữa chớ. Thằng siêng quá, mầy ở trên Đồng Cộ hay giỗ hồi nào mà xuống đây? Phó-xã Việt vui miệng: - Bẩm Chủ, tôi theo màng-màng mỡ trôi trong rạch mà tìm tới! - Vậy mà nãy giờ mầy nín khe; tao nghe tiếng đồn mầy nói chuyện “nghĩa lý” khá lắm mà! Lên đây Phó-xã, lên đây ngồi chung với tao. Tục-ngữ người ta nói: “Hễ rượu vào thì lời ra”, nín khe đâu có được mậy! Tao rất ghét người nào ở theo sách, bắt-chước nào là… “Tửu trung bất ngữ chơn-quân-tử, tài thượng phân-minh đại-trượng-phu” gì đó! Cái giọng ông Chủ đã “giàu” thêm lên bằng mấy tiếng ngừ-nghè và câu chữ được ông kéo dài thậm-thượt. Phó-xã Việt khép-nép kéo ghế lên ngồi: - Bẩm Chủ, thiệt tình là tôi không dám, vì trong anh em đây, có Chủ là người trên trước, tôi phải kính-nhường. Bởi trong câu-chuyện có nhiều nguồn chân-lý, mà chân-lý là lẽ phải, không tư-vị ai được, tôi nói, e có điều gì không tốt. Vả, người ta thường bảo “Trung ngôn nghịch nhĩ”, mà tôi thì tôi vị chân-lý chớ không vị quyền-hành thế-lực lớn nhỏ gì ráo, sợ trong khi biện bác, có điều gì xúc-phạm đến Chủ chăng, nên tôi xin “thủ khẩu như bình” mà nghe Chủ! - Thằng Phó-xã mầy lầm rồi, mầy há chẳng biết hồi tao còn “đương vị hành chánh” mà còn không bao giờ “ỷ chúng hiếp cô” hay sao? Huống-chi ngày nay đã “cáo lão hồi gia” rồi, tao càng trọng lẽ phải hơn nữa. Mà hễ vào đám tiệc rồi, ai cũng có tự-do đàm-luận, làm người quân-tử không câu-nệ gì ráo. Mầy không nghe “Quân-tử bất oán thiên hề bất vưu nhân” à? - Bẩm Chủ, hễ “nhứt ngôn thuyết quá” thì “tứ mã nan truy”, tuy nói vậy mặc-dầu chớ tôi có điều ái-ngại. Trong lúc đàm-luận, Chủ là bề trên, tôi là bề dưới, tài học tôi kém-cỏi không nói gì, sợ rồi khi lý-lẽ tôi hơn thì khó coi quá! - Quyền-chức lớn nhỏ không kể, người ta chỉ kể tài-đức. “Dõng bất quá thiên, cường bất quá lý”, Phó-xã mầy đừng lo, tao biết điều lắm… Ông chủ kết-thúc mỗi câu bằng một “nhấm” rượu và một cái cười… gay gắt, nó tăng vẻ gay-gắt của một cái mặt nhiều nét nhăn mà phút-chốc đã… hồng-hào! - Vậy thôi cũng được, nể lòng Chủ cho phép, tôi xin vâng lời. Vậy Chủ hãy cạn ly rồi Chủ ra đề tôi mới dám nói, chớ lạm-xạm đã không ra gì, mà có khi mấy ông đây còn cho tôi… say là khác! Pháp-sư Nẫm nãy giờ ngồi nghe khoái chí, ực một hơi ba ly rượu đế, chấp chấp ngon-lành rồi cầm rót thêm ly mình và ly khách. Đình Uýnh cứ ngồi gắp mãi dĩa thịt rừng nhâm-nhi, tự-do như ở nhà mình. Ông Chủ Thìn uống cạn ly, mỉm cười: - Hay! Hay! Thằng Phó-xã coi vậy mà ăn nói lưu-loát quá. Thôi, đề-đạt gì cho mất công, chúng ta là nhân-loại, lấy “đạo” làm đầu, thăng Phó-xã mầy “ngôn-ngữ như lưu” cắt-nghĩa thử chữ Đạo nghe chơi! - Bẩm Chủ, bề nào tôi cũng là kẻ hậu-sinh, vậy xin nhường Chủ giảng trước cho nghe, rồi tôi sẽ tuỳ theo mà phụ-hoạ! Uống cạn ly nữa, ông Chủ khề-khà: - Thôi… cũng được!... Về chữ Đạo thật là khó giải. Phần thì chữ nho mắt mỏ, tuỳ theo sở-học của người cao thấp, khó mà nói cho rành, phải không a… mậy Đình. Đình Uýnh đang mê ăn, giật mình ngước mặt toan trả lời, thì ông Chủ đã tiếp: -… Nhưng vậy, có lần tao nghe sư Muôn giải nó như vầy: “Âm dương hiệp nhứt, tự mình tẩu”, nghĩa là: chữ Đạo có hai chấm phết trên là âm dương, gạch ngang là hiệp nhứt, dưới có chữ tự là tự mình, bên là chữ chi phảy ngay, sư Muôn do cái phết dài gọi rằng: “tẩu…” Tẩu của ổng có nghĩa là tự mình chạy-chọt tìm Đạo mới có Đạo! Tôi cho rằng giải chữ cũng có một cái điềm, chớ không, sao sư Muôn bây giờ phải tẩu ngược… tẩu xuôi… đúng không mậy Phó-xã? Nhưng tao thì khác, tao cho rằng: “Âm dương hiệp nhứt tại mục.” Phết xuôi và chữ mục dưới, không phải tại mục là gì? Mình là con người, có cặp mắt, có tinh-thần tỏ-rõ để dòm ngó, để phân-biệt chân-lý, thế là biết Đạo rồi chớ gì…! Cho rằng giải được như thế là cao-kỳ, ông Chủ cười chúm-chím, rót uống một hơi ba ly để thưởng… mình! Bên kia đổi diện, cũng không kém, các ông khách ngồi nghe mê-man, cứ mỗi cái gật đầu của Pháp-sư Nẫm là mỗi lần bầu rượu vơi đi một ít, và mỗi cái gắp của Đình Uýnh là liền theo một tiếng “trót” ngon-lành. Riêng ông Giáo Xệ chủ nhà, đã yếu rượu mà rán theo cho kịp mấy ông khách gần hụt hơi. Bỗng Phó-xã Việt cười khè: - Xin lỗi Chủ, sư Muôn giải chữ Đạo trật-lất, còn Chủ chiết-tự ra còn… sái nát hơn nữa! Ông Chủ giật mình, mặt đỏ gay, gần như tái lại. Ông trợn mắt: - Thằng Phó-xã mầy nói sao? Tao giải trật à? Tao mà trật? Ừ, chữ-nghĩa mầy già hơn, giảng thế nào cho trúng nghe thử! - Bẩm Chủ, tự-nhiên chê được là giải được. Chủ đừng quá nóng. Tôi đã nói “nghĩa-lý không tư-vị” kia mà! Đây, về chữ Đạo, thì tôi tự thích ra như vầy: Hai chấm phết là âm dương, gạch ngang là hiệp nhứt, dưới chữ tự, bên chữ chi phảy, là “Tự mình chi đó”! Tự mình thông tri âm dương, biết phân phải trái, biết lẽ chánh tà, mới phải là Đạo hoàn-toàn chớ! Ấy là tôi chỉ chiết-tự sơ-sơ như thế, chớ nếu phải giải cho rành thì phải cắt-nghĩa tại sao chữ Đạo có liên-tiếp đến mười hai nét, mười hai hội của khí-vận tuần-huờn, từ “tý, sửu” chí ư “tuất hợi”… Phó-xã Việt như hừng chí, hăng tiết cắm đầu nói, nói mãi quên dòm sau trước, chừng trực nhìn lại mấy ông khách và chủ nhà, anh ta trợn tròng, dứt ngay: Kẻ gục qua, người gục lại, riêng Đình Uýnh đã ngoẻo đầu khò-khò… Đêm đã về khuya, Người nhà đều ngủ mất, xa-xa có tiếng chó sủa ở đầu làng. Ông Chủ đang ngửa mình sau thành ghế vùng ụa ra một tiếng rất lớn, rồi chúi nhủi xuống bàn cố gượng: - Đạo! hay…hay…! Bọt-phe thằng Phó-xã! Bọt-phe thằng Phó-xã!.. QUỶ-VƯƠNG Làng Thới-bình nép mình trong chòm dừa xanh rậm. Vài xóm nhà lá leo heo ở dọc theo bờ kinh nhỏ, yên-tĩnh với tháng ngày. Cứ mỗi buổi sáng là đàn-ông, đàn-bà lẫn cả con nít vác cuốc ra đồng, quanh năm làm bạn với mẫy mẫu ruộng nhà, vài công rẫy khóm3. Ở đầu kinh thông ra dòng sông Trẹm, một cái chợ nho-nhỏ nổi lên. Hai bên, hai dãy phố ngói đứng sùm-sụp chịu-đựng với nắng mưa gần như xiêu vẹo. Đấy là nơi chứa-đựng một phần dân-chúng trong buổi sáng, đấy là nơi người ta tìm những thức ăn, vật dùng. Cứ độ hai ngày, con tàu Rạch-giá ghé ngang, đem lại nhiều hàng-hoá ở thị thành. Mỗi lần tàu xúp-lê đàng xa, là thiên-hạ nhao-nhao ra đón, chen-lấn ồn-ào. Rồi mỗi khi tàu đi, chợ tan, làng Thới-bình yên-tĩnh lại. Dòng sông Trẹm lững-lờ trôi ngang và ban chiều, trong chòm dừa xanh ấy, mấy làn khói trắng bốc lên… Người đàn-bà xong việc bếp-núc, ẵm con ra đợi chồng về, lâu lâu đuổi bầy gà đang bươi trên giồng rau cải. Nhưng hôm nay, hai bên bờ kinh nhộn-nhịp khác thường. Trước mỗi nhà, người ta đứng quanh nhau bàn-tán, mặt đầy vẻ lo-âu: Quỷ vương! Chỉ một tiếng ghê-gớm ấy cũng đủ làm cho mọi người sợ-hãi. - Quỷ-vương sẽ hiện lên và đi ngang con kinh này! Bác tư Bốn chạy dài theo xóm dặn: - Coi chừng! đừng cho con nít ra bờ kinh. Người ta cố dấu nét lo trên mặt, cố trấn-tỉnh bảo nhau: - Quỷ-vương thì Quỷ-vương, sợ gì? Nhưng họ vẫn thì-thầm: “Trời ơi! Rủi nó ghé lại làng mình…?” Phút hồi-hộp đã đến. Họ nín hẳn. Vì đàng xa, giữa con kinh, Quỷ-vương đã đến trên chiếc ghe lườn không mui. Quỷ-vương gồm có năm “ông”, ở trần trùi-trụi. Giữa trời nắng như đốt, họ bình-tĩnh vui đùa như chẳng quan-tâm đến thiên-hạ đang lấp-ló trên bờ. Chốc chốc, mấy “ổng”, lại thi nhau nhảy đùng xuống nước, rồi lại leo lên ghe. Ban đầu người ta tưởng Quỷ-vương phải là ghê-gớm đến bực nào, nên họ nhút-nhát nhốt kín đàn-bà, con nít trong nhà. Nhưng chỉ chốc-lát, nỗi lo-sợ tan mất, con nít chạy ùa được ra ngoài bờ sông, vỗ tay reo ầm-ĩ. Có đứa dám đưa tay ra ngoắt: - Ê! Quỷ-vương! Bác tư Bốn tức-giận hơn ai hết. Bác chạy đầu nầy đầu kia, thở hào-hển phân-trần: - Khốn-nạn quá! Có thằng Chột con ông Bính và con Út con chú Phó Cao trong đám ấy nữa. Rồi ông hăm: - Phải có súng, tôi bắn đứa một phát cho lìa đời. Quỷ-vương ghé lại chợ Thới-bình với những gương mặt đầy kiêu-hãnh. Chợ Thới-bình không còn vắng-lặng như xưa. Người ta lấy làm lạ sao thằng Chột con ông Bính lại đổi tên là Hoàng-Hoa, lần-lần thằng Phinh cháu ông Phó Tám đổi là Tuấn-Nghĩa, thằng Tích em Tuần Danh là Vân-Mộng, cho đến con Đẹt con gái chú Phồi cũng xưng là Thúy-Liễu và con Út con ông Phó Cao là Kiều-Nga. Chúng thường đi cặp từng năm lũ ba thả rều quanh chợ bất-cứ đêm ngày, và hễ gặp nhau là cúi đầu rất sâu, chìa tay ra siết chặt: - Vân-Mộng xin kính chào Kiều-Nga! hay: - Thúy-Liễu nầy đa-tạ huynh-ông Tuấn-Nghĩa? Rồi họ cùng nhau bàn-tán vang trời những tiếng Văn-minh, Hủ-lậu, Nữ quyền, Giác-ngộ, v.v. Cứ mỗi lần như thế, là người bên phố kêu nhau ra chỉ, trề môi, lắc đầu. Bác tư Bốn càng giận thêm. Mấy hôm rồi bác ăn không ngon, ngủ không yên. Mỗi khi nghe ai thuật những cái lố-lăng của tụi ấy, bác trợn mắt lên, cung tay đập xuống bàn thình-thình: - Tức lắm! Tức lắm! Bác hội một vài bực tai-mắt trong làng lại, tìm cách bài-trừ: - Tôi nhất-định không để bọn nó làm lộng trong chợ Thới-bình! Sáu Mạnh, người lối-xóm bảo: - Tôi thường thấy chúng nó tụ-hội ngoài đầu cầu để uống rượu và hát xướng! Một người khác: - Uý mẽ ơi! Con gái đâu mà làm chuyện nhục-nhã như thế được! Tôi thấy con Út cặp tay chúng đi nghều-nghều và có rủ tụi nó đi về nhà nữa! Tội-nghiệp chú Phó Cao vô-phước, mắc ở trong rẫy, đâu có hay con gái chú tác-tệ rồi! Bác tư Bốn quyết-định: - Tôi phải lội vô rẫy kêu chú Phó Cao về, lừa khi lũ nó nhóm-họp tại nhà chú, tôi giúp sức với chú hạ lũ nó cho kỳ được mới nghe!... Thế rồi một buổi chiều. Làng Thới-bình chìm-đắm trong bóng hoàng-hôn. Vòm sông Trẹm chỉ còn văng-vẳng tiếng hò của một vài khách thương-hồ. Trên bờ kinh, ba bóng người đang rảo bước về phía nhà chú Phó Cao. Chú Phó Cao - vì chính chú - nghiến răng tức-tối: - Tôi không hiểu con Út làm gì mà quen với bọn nó? Bác Tư Bốn châm dầu: - Làng Thới-bình mang tiếng là khởi mầm làm tồi-phong bại-tục đi rồi! Trời ơi, mỗi lần tôi thấy con Đẹt hay con Út nó bắt tay thằng đầu-đảng Minh Tâm hay Minh-Tánh gì đó, tôi gần như sôi gan lên! Sáu Mạnh thêm: - Mà cũng độc, con trai, con gái làng nầy tưởng như thế là “văn-minh” nên mê như chết! Một người một câu cũng đủ làm chú Phó Cao cháy ruột: - Tôi ghé nhà Thủ-bổn Tịnh mượn ba cây chổi chà, hai ông giùm phụ-lực với tôi quét sạch chòm ong lũ kiến này đi! Trời đã tối mờ. Con chó vàng nằm trước sân nhà chú Phó Cao chực sủa, nhưng chú đã chắt lưỡi nhè-nhẹ, vỗ đầu nó, vuốt-ve nó cho nó không lên tiếng rồi kéo sáu Mạnh, tư Bốn vào hàng ba. Chú rón-rén lại dòm kẹt cửa. Con gái chú đang ngồi chung với ba bốn đứa con trai, lạ có, quen có, mạnh-dạn bưng ly rượu hô-hào: - Mời các đại-huynh hãy uống hết ly rượu nầy, để chứng-kiến lời tuyên-thệ của tôi. Tôi hứa sẽ làm sao đánh thức các hàng nữ-lưu ở làng nầy tỉnh dậy, để được tiến theo kịp làn sóng văn-minh, các đại-huynh nghĩ như thế nào? Một thằng con trai lạ, ngồi đầu bàn đứng dậy: - Vạn-tuế bạn Kiều-Nga! Bạn nói rất đúng. Phải xua-đuổi cái hủ-lậu đi, phải đưa trình-độ chúng lên cao, phải cổi dây xích của gia-đình đang trói chặt họ, phải vứt đi không chút gì mến-tiếc! Một tràng pháo tay nổi lên. Máu giận chú Phó Cao tràn lên óc, không còn sức-lực đứng nghe nữa, chú tông cửa kéo tư Bốn, sáu Mạnh xông vào, quơ chổi vừa đập bừa, vừa hét: - Đây! văn-minh đây! hủ-lậu đây!... Thấy mặt chú Phó Cao, tất cả hoảng-hốt, chưa kịp đứng dậy, đã bị một trận đòn chổi như bão táp. Chúng xôn-xao, té lăn ra, bò càng, mạnh ai nấy kiếm đường tẩu-thoát. Bác tư Bốn quơ chổi lia-lịa, la rầm lên: - Bớ làng xóm, bớ người ta, tiếp bắt Quỷ-vương! Bao nhiêu chó trong làng hè nhau ra sủa làm huyên-náo một góc trời. Đàng xa, tiếng mõ nổi lên vang lừng… Những ngọn đuốc sáng loà trong đêm tối, như sao băng, chạy dồn về tiếng kêu cứu. Minh-Tâm thoát được ra ngoài, hồn phi phách tán, lăn xả theo Vân-Mộng kêu khe-khẽ: - Vân-huynh, Vân-huynh! Đợi đệ theo với!... Làng Thới-bình từ hôm ấy yên-tĩnh lại trong chòm cây dừa. Những làn khói trắng trong mấy mái nhà lá nhẹ-nhàng bốc lên buổi ban chiều. Dòng sông Trẹm lững-lờ trôi vắng-lặng… TIẾNG HÒ TRONG ĐÊM VẮNG Thầy ơi thầy, dậy mà nghe con nhỏ nó hò! Tôi giật mình giụi mắt hỏi anh chèo: “Tới đâu rồi anh?” - Dạ, vừa qua khỏi vàm Rạch Bần! Tôi chồm ra ngoài nhìn cảnh vắng. Bên vàm, hàng dừa nước âm-u lâu lâu thấy le-lói một ánh đèn; bên bờ kia thỉnh-thoảng nghe tiếng chài giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay chỉ có vành trăng hai mươi, nhưng sao đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh-vật thêm ảo-huyền thơ-mộng. Một làn gió nhẹ thoảng qua, tâm-thần tôi thêm khoái-sảng. Vẳng xa, những giọng phù trầm êm-ả của một điệu hò mê-ly, đặc-biệt chốn đồng quê, rõ lần trong lặng-lẽ. - Anh chèo ơi, lơi mái đợi họ lại gần, đi cho có bạn và nghe hò chơi anh! - Xin lỗi thầy, nghe giọng hò của “con nhỏ”, tôi đã rụng-rời, lơi mái tự nãy giờ. Thế nào tôi cũng lên tiếng. - Anh cũng biết hò nữa sao? - Điệu-nghệ mà thầy! Nói gì, gặp phải tri-âm, thức hò mấy đêm cũng không biết mệt. - Ừ! hò đối-đáp nghe chơi, mà anh phải rán làm sao chớ để thua con gái, nhục lắm! - Dễ không, để tôi bắt trớn cho thầy coi mà! Kìa, nó đã lại gần, tôi phải giáo-đầu “nhập-đề” mới được. Hò hớ ờ ơ… Bạc với vàng còn đen còn đỏ, Đôi đứa mình còn nhỏ thương nhiều, Vừa nghe tiếng em là anh muốn như anh Kim Trọng thương chị Thúy-Kiều thuở xưa… ơ… Hò xong, anh ta đắc-chí: - Đó thầy coi, thế nào rồi nó cũng trả lời, “điệu-nghệ gặp nhau, là mầy tao quấn-quít”! Giọng phù trầm ngừng đi một chặp. Chúng tôi yên-lặng chờ. Quả-nhiên không sai lời anh chèo nói: “điệu-nghệ mà gặp nhau, là mầy tao quấn-quít”, tiếng hò lại nổi lên: Hò hơ… ớ người không quen ơi, Nghe anh, em cũng muốn thương nhiều, Nhưng hoa đà có chủ, khá chiều dạ anh… Anh chèo xoa tay trả lời tức-khắc: - Hò hơ… chim kia còn thỏ-thẻ trên cành, Nghe em nói vậy, dạ không đành rẽ phân… Giọng trầm cũng không chịu nhịn: - Hò hơ… Bình-bồng ở giữa giang-tân, Bên tình, bên nghĩa, biết thân bên nào?... Anh chèo rối-rít: - Đó thầy coi, ngon chưa? Trời ơi, cái giọng đáng yêu làm sao!... - Hò hơ, ớ em ơi… Nhứt lê, nhì lựu, tam đào, Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân. Rồi anh lắng tai chờ. - Hò hơ, nói mà chơi vậy chớ: Gió thổi hiu-hiu, lục-bình trôi riu-ríu, anh đừng bận-bịu, bớ điệu chung-tình, con nhạn bay cao khó bắn, mà con cá ở ao quỳnh cũng khó câu… Anh chèo đã thấy đổ mồ-hôi, nuốt nước miếng bảo với tôi: - Không được, tôi chưa hề gặp con nhỏ nào hò “chiến như con nhỏ nầy, nó làm bộ có chồng để thử mình, rồi bây giờ lại làm cao, nếu ở hò cù-cưa, thế nào mình cũng bị nó “hạ”. Vậy tôi phải trổ hết nghề đem điệu hò dài ra “tấn công” cho nó “ứ nhựa” họa may nó mới “xếp giáp quy-hàng”. - Hò hơ... Ớ nầy em ơi, em hãy nghe cho kỹ: xưa nay gái không cưới chồng, trai không ở goá, đoái thấy nàng xinh đã quá xinh. Buông lời vừa vỗ vế non, nếu như nàng lo việc cháu con sao không kiếm chốn trao thân gởi thế? Trên đời bá công bá nghệ, dưới lại là tứ thú tứ dân. Làm người sao khỏi chữ lương-nhân, mà nàng chịu để phòng không ở goá? Sách có chữ rằng phụ nhân nan hoá, ít kẻ yêu-vì. Nên lấy chồng phải luận phải suy, phải xem trong lóng đục, đây đã đến phải thời phải lúc...Hò hơ... hay nàng còn cúc-dục cù lao... Để anh ngơ-ngẩn ra vào, thầm yêu trộm nhớ dạ nào bỏ anh?... - Đó thầy coi, thế nào nó cũng chết ngất, điệu hò dài phải đối dài, ngắn đối ngắn, nó mà đáp được kỳ nầy, thì tôi cũng cam giải nghệ cho rồi... Tôi giục: “Kia nín, nó đã đáp liền kia!” - Hò hơ, ớ nầy anh nó ơi, số-phận em giao-phó cho trời xanh, lấy anh, em không lấy nhưng cũng không đành làm ngơ. Hò hơ... vốn em cũng chẳng bơ-thờ, em đã hằng chọn trong lóng đục, nhưng vẫn còn ngờ nợ-duyên. Hò hơ... vốn em cũng muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu-sang, nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm; em muốn lấy ông thầy pháp cho đám, nhưng lại sợ ổng hét la ghê-gốc; em muốn lấy chú thợ mộc, nhưng lại sợ chú hay đục-khoét rầy-rà; em muốn lấy anh thợ cưa cho thật-thà, nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt; em muốn lấy người hạ-bạc, nhưng lại sợ mang lưới mang chài; em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai, nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới; em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi, nhưng lại sợ ảnh hay nói tức nói êm; bằng muốn lấy anh đặt rượu làm men, nhưng lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi; em muốn lấy ông nhạc-công cho giỏi, nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn; em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn, nhưng lại sợ nhiều điều thá ví; em muốn lấy anh lái buôn thiềng-thị , nhưng lại sợ ảnh kêu-rêu mắt rẻ khó lòng; em muốn lấy anh thợ đóng thùng, nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngổng; em muốn lấy ông Hương ông Tổng, nhưng lại sợ có việc tróng4việc gông; em muốn lấy anh hàng gánh tay không, nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy; em muốn lấy chú hàng keo khi nãy, nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan; em muốn lấy anh thợ đát thợ đan, nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi; em muốn lấy anh hát bè hát bội, nhưng lại sợ giọng rổi giọng tuồng; em muốn lấy anh thợ dóng xuồng, nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc... Hờ hơ, mấy lời trong đục chẳng dám nói ra. Có thầy giáo-tập trong làng xa, hay dạy hay răn, so đức-hạnh ai bằng, lại còn nhà nho-học, sử kinh thầy thường đọc, biết việc thánh-hiền. Hò hơ, gặp nhau em kết nghĩa liền, không chờ chẳng đợi cho phỉ nguyền phụng-loan...5 Tuy anh chèo cứng họng, nhưng tôi ngồi trong mui đã thấy khoái-trá vô cùng. Còn gì sung-sướng cho bằng khi mình nghe “người ta” vô-tình nhắc-nhở tới mình, ca-tụng mình trên dòng sông lờ-lững?... Tôi mỉm cười: - Chắc anh “phọt-phe” rồi phải không anh đò? Anh ta đáp xuôi-xị: - Ý mèn ơi, tôi thấy con nhỏ hò lanh hết chỗ!... - Nầy anh, tôi nói thiệt cho anh nghe. Sao tôi nghe giọng hò của con nhỏ ấy tôi “mê” lắm. Anh biết tôi làm thầy giáo chớ. Nghe nó nói nó đang tìm-kiếm kết duyên với chúng tôi, sao tôi cảm-động quá anh à. Anh làm thế nào cho tôi thấy mặt “nó” một chút “một chút xíu” thôi, rồi mình đi… được không? - Có khó gì thầy, tôi kêu nó cặp ghe lại hỏi mồi lửa, thầy muốn nhìn bao lâu lại không được. Rồi anh lập-tức lên tiếng: - Chị hò ơi... chị hò! Làm ơn cặp ghe cho mồi nhờ chút lửa, chị hò!... Thấy bóng ghe chèo tới là tôi phấn-khởi trong lòng, bò ra ngoài dòm lom lom. - Ghe cặp chiếc đò, tôi càng thêm hồi-hộp. Ôi! Tiếng hò như thế, còn người làm sao!... Tôi hình-dung một cô thôn-nữ mày liễu má đào, có vóc mình thon-thon, có bộ-tịch khả-ái... Bỗng anh chèo đang ngồi nghỉ tay, giật mình đứng phắt dậy. Trong chớp nhoáng, anh bị một tên lực-lưỡng thộp ngực anh, đưa ngọn dao ngang cần cổ: - Nín mất, la lên thì cụt đầu! Tao không động tới mầy đâu! Còn tôi... chao ôi, tôi cũng kinh hồn lạc phách, rủi may phó mặc cho trời... Tôi chưa kịp nhảy xuống sông thì đã bị hai tên khác đè cứng dưới ván đò. Tôi giợm la nhưng một thằng trong bọn “ấn” cho tôi một cùi chỏ vào hông, đau lồng ngực, lồng gan, nằm trợn trắng như chết nửa người. Đã thế, tiếng con nhỏ hò còn trêu gan trong mui nhỏ: - Chú Bảy coi có con đàn-bà nào ở trong mui, đè cổ lột cho tôi sợi dây chuyền!... CHỢ HAY QUÊ MIỄU bà Chúa Xứ tự-nhiên biến thành một hí-trường. Nhưng có mấy ai để ý đến đâu. Người-ta bảo dân thị-thành hay lạnh-lùng mà; đúng lắm vậy. Cà-mau ngày nay không còn là Cà-mau ba chục năm trước. Ba chục năm trước, trời vừa đổi sắc tím là “Ông thầy”6, bách bộ khoan-thai ở bên kia sông Quan-lộ. Cái thời “dã-man” ấy chỉ còn vang trong mấy câu-chuyện ly-kỳ mà các bà mẹ thường kể lại cho những cậu... con nghịch-ngợm hay đi bắt chim, hớt cá thia-thia trên xóm miễu Bà. - Gần miễu Bà đó biết không? Bên cây da mà tụi bây thường tới phá, hồi đó ông Thầy có lần móc họng mấy người đi câu. Miễu Bà ở bên kia sông Quan-lộ. Mà bên kia sông Quan-lộ nay là xóm... Bến xe đò. Hơn trăm nóc nhà, đèn điện, máy nước, quán cháo Tiều, một nhà bán hòm, và... cái miễu ở chính giữa. Hàng năm, các ông cụ có tể tiền mướn hát bội cho Bà xem. Cho Bà xem, nghĩa là cho cả xóm xem. Ông chủ nhà bán hòm là hội-trưởng hội Miễu Bà. Ông là người kinh doanh. Ông biết nghĩ đến cái lợi cho làng-nước. Ông nghĩ rằng xóm càng ngày đông sống yên-ổn cũng nhờ Bà phù-hộ. Mà cần đông thì cần phải có những cuộc vui, phải sống như người ta sống nơi đông-đảo. Muốn ăn uống? - Có quán cà phê! Muốn cúng-kiếng? - Có Miễu Bà! Không muốn sống nữa? - Ông là chủ bán hòm! Nhưng sống vui-vẻ, không phải chỉ ăn mà thôi. Cần phải có những cuộc vui khác: hí-trường là một sự tối-cần; chứng-cớ, mỗi lần hát cho Bà xem, người hàng-xóm vẫn đến xem ngập miễu! Ông bắt đầu để tiền cất một cái rạp lớn để chứa cho được nhiều khán-giả! Thằng tám Méo vác mướn cũng hỉ-hả góp hai cắc: - Rồi mình tha-hồ đến coi hát có hao-hớt gì đâu! Mỗi năm, mỗi mướn gánh hát. Mấy thằng cha Bầu Kẹo ở Rạch Bần, Bầu Ngọ ở Cái-keo, Bầu Ba ở Ông Muộn... hè nhau lên giá kèo-nài nhiều... Cái gì mà một đêm hát tới hai chục, bộ muốn cắt họng người ta sao chớ? Ông chủ bán hòm tức-giận. Ông họp các hội-viên lại bàn rằng: - Bây giờ tôi định làm như vầy để cho tụi Bầu Kẹo... nó hết hạch-sách. Tôi xuất vốn mướn đào kép, mua đồ... nghĩa là lập một gánh hát riêng, để đi hát các nơi, chừng nào tới kỳ vía Bà, tôi cúng mấy đêm,... các ông nghĩ sao? - Thì còn nghĩ sao nữa? Ông Hội-trưởng là người kinh-doanh. Lập một gánh hát bội là một chuyện... tiền-bạc. Mà tiền-bạc! Nhờ trời - nhờ Diêm chúa - ông có khá-khá đôi chút!... Miễu Bà tự-nhiên lại biến thành một hí-trường. Bởi ông chủ hòm nghĩ rằng - đúng hơn ông nghĩ rằng “hát bội làm tội người ta” - để tụi nó đi chơi-bời, đĩ-thõa, bài-bạc hư thân. Mình muốn ích nước lợi dân, đi hát đâu chi cho xa, mỗi đêm ở đây mỗi hát, vừa...cho Bà xem, vừa cầm chân đám dân “thân yêu!” Tốn bao nhiêu? Một cắc bạc! - Các ông có bằng lòng cho tôi làm như vậy không? “Các ông” đây là các ông hội-viên. Các ông thấy cái ý ấy “tự-nhiên” quá, mà cái dân thành-thị kia cũng không ai để ý đến. Năm nay hát xong ba đêm cúng Bà, người ta thấy một tấm bảng giấy đỏ dựng trước Miễu: Đêm nay chún tôi viễn tuồn: “Quê dun đạo: Tuồn thật là ly kỳ,,, Dô cửa: một cắt bạc! Rồi tối đến, người ta đem theo cắc bạc bỏ vào cái thùng của cô Tám, con ông Hội-trưởng và vô để xem một đệ-nhất anh-hùng của thời Tam-Quốc! Đêm sau, rồi đêm sau... Thói quen, thằng Tám Méo cũng quen. Cả xóm đều quen... Cả Cà-mau quen luôn! Hát bóng nói ở các tỉnh lớn dễ đã được hoan-nghinh hơn! Một tháng, hát không nghỉ đêm nào. Nhưng mãi rồi tuồng nó cũng hết: Huê-dung-đạo, Ông thất-thủ Hạ-bì, Trảm Trịnh Ân, Dự Nhượng đả long-bào, Bao Công xử án Quách Hòe, Phụng-nghi-đình, v. v... rồi cũng không ai cấm: Huê-dung-đạo, Bao Công xử án Quách Hòe, Phụng-nghi-đình, v. v... trở lại đâu! Vì anh kép tám Bí làm Ông hay làm sao, còn cô đào tư Bé làm Điêu Thuyền mới mê-mẫn khách mày râu đi coi lần thứ mười đã thấy chán chưa mà! Nhưng ông Bầu Hai - ông chủ bán hòm - là người kinh-doanh. Năm một ngàn chín trăm ba mươi ba... Một hôm, cái bảng giấy liễn đỏ, đầy đặc những chữ to-to bất-chấp chánh-tả: Bổn ban mới tiển được nhiều cô đàu khát. Ngoài cô Tư Bé, Xáu Liệu, Ba Kiêm, còn tất cả 9 đàu. Luôn tiện, xửa rạp lại, chia hạn: Thượn hạn: 5 cắt, hạn nhứt: 3 cắt, hạn nhì: 2 cắt, hạn 3: 1 cắt... Và mỗi chiều thứ bảy có đêm đặt biệt cho quí Ông, quý Thầy, có chưn bươm bướm. Bổn ban đã chỉn đốn theo cải lươn. Bỏ qua rất uổn... Nếu đã có “quí thầy” chiếu-cố, thời “chỉn đốn” theo Cải-lương là phải. Trống chầu không hồi ba nữa. Chiều chiều, mấy thằng bé-con hàng-xóm giành nhau cái trống còn một mặt, và hè nhau nện “tành tạch, tành tạch”. Ban nhạc mới mời được một tay đàn kìm sành Vọng-cổ. Cây kèn đại vốn chát-chúa cũng đã biết đưa hơi bằng giọng rè-rè run-run của anh Thôi Tử trong câu nhập Vọng-cổ: “Giã bạn lên đàng...” Tiếng kèn đại mà nhồi chữ “đàng” thì phải biết, nó lâm-ly đặc-biệt! Dầu sao, người ta không còn thấy những ông tướng thổi kèn đưa cái lưng trùi-trụi, ngồi trên sân- khấu nữa. “Đúng tám giờ rưỡi”, - ấy là cái bảng giấy đỏ nó quả-quyết như vậy, - thay vì ba hồi trống cơm ra tuồng, có tiếng chuông rung... lạch-cạch, leng-keng... y như Cải-lương. Một thằng quân mặc áo thêu rồng cũ, lụng-thụng, đội mão xanh, ra chào “quí khán-quan đã hạ-cố đến giúp bổn-ban”… và cứ “tái-bản” câu ấy đến mươi lượt trong vài lời cảm-tạ. Quý khán-quan? Cứ đến một buổi chiều thứ bảy để xem đêm hát đặc-biệt có chưng bươm-bướm, người ta đều thấy có nhiều quan ký-lục, một quan thầy thuốc, một quan phán, và một quan…”giượng mụ”, chồng của cô mụ tỉnh-thành! Nói là chiều thứ bảy mới có đêm hát đặc-biệt, nhưng mấy quan - hình như họ có hẹn-hò với nhau - cứ đến chín, mười giờ mỗi đêm là đã ngồi quanh cái bàn con đặt giữa rạp, sát sân-khấu, nhâm-nhi mấy ly rượu bia. Mấy quan hình như cũng thưởng-thức tài-nghệ của “chín đào”, và đã để ý đến cô đào chánh tư Bé, một ngôi sao sáng của Bầu Hai, nên mỗi lần tư Bé ra tuồng, mấy quan vỗ tay rầm lên, mà lại còn móc bốp liệng mấy “con công” lên để thưởng lúc tư Bé hay đặc-biệt nữa là khác. Mỗi lúc như vậy, cô tư Bé không quên nghiêng mình, mỉm cười như hoa nở, đưa cặp mắt tình-tứ xuống mấy quan rồi uốn-éo tung-hô: - Bá, bá phúc! Nhưng, ngoài mấy quan ra, còn có những quan đẳng-cấp thấp hơn, vì người ta vẫn nhớ rằng rạp hát ở giữa xóm xe đò! Các ông tướng xe đò cũng không kém, cũng thưởng-thức tài-nghệ đào kép, cũng có lúc vỗ tay, lúc la rầm lên: - “Ra quô” cô tứ Bé!... ★ Một buổi chiều thứ bảy. Tuồng Phụng-nghi-đình (Quái lạ! sao cứ luôn luôn ở vở tuồng này!) Cô tư Bé mà đóng vai Điêu-Thuyền, thì không phải nhắc thêm lần thứ hai nữa, nó mùi-mẫn đến thế nào ấy! Nhưng người ta đồn rằng tư Bé đã được một quan “chiếu-cố” đến hơn nhiều một chút, và đã sắp sanh một… quan con! Bởi thế nên đêm ấy, một cô đào khác đóng vai Điêu-Thuyền. Nhưng, khốn nỗi, cô đào thế vai ấy không được hân-hạnh có cái nhan-sắc chim sa cá lặn. Các quan hình như là không bằng lòng cho lắm. Các ông tướng xe hơi cũng thấy ngay tẩy rằng cô Điêu-Thuyền mà “đẹp” như vậy, thì chẳng cha Lữ Bố nếu có say-mê, chắc là tại nó… buồn ngủ quá rồi! Nghĩ như vậy, một ông “tướng” tưởng nên nói cái ý-nghĩ thành-thật của mình ra cho mọi người cùng biết. Lúc Điêu-Thuyền vuốt-ve Lữ Bố, ông tướng xe hơi cười to lên, phùng mang thổi một cái hoét, rồi la: - Ê! cái mặt Chung Vô-Diệm! Cô Điêu-Thuyền có lẽ thấy rằng ông tướng dốt truyện Tàu quá lẽ, dám lộn Điêu-Thuyền với Chung Vô-Diệm, nên cô cũng không ngần-ngại gì, ngưng hát một chút, quay mặt ra khán-giả, nói ngay ý-tưởng mình bằng một câu trả lời: - Xin lỗi quý ông, quý bà, khốn-nạn cái anh nào nói tôi là Chung Vô Diệm? CÁC CON ƠI, THẦY PHEN NẦY THỌ TỬ BẠN hãy cùng tôi “du-lịch” một vòng xuống các miệt “hóc Bà Tó”, “chó ăn đá, gà ăn muối”, để tìm những cái lạ-lùng, lạ-lùng cả đến cái tên: Bãi-Háp, tắc Ông Do, mương Chệc Kịch, Tham-Trơi, U-Minh, Dớn, v.v. Ở đồng quê, thế mà lắm chuyện. Nhưng hãy khoan, tạ tạm dừng chơn nơi xóm Kiến-vàng để biết thêm chút nhơn-tình thế-thái. Thuộc làng Tân-hưng-đông, ấp Kiến-vàng chia ra làm hai xóm. Thiên-hạ hai bên thù nhau từ đời nào không biết mà hồi ấy họ ghìm nhau như địch-thủ. Và không khác hai nước đương-chiến, họ tìm mọi cách để ngầm giết nhau. Họ nuôi râu cọp, tìm đủ thứ thuốc độc bỏ trong nước, trong món ăn, thuốc nhau chết như rạ. Thành ra, ở đó không ai dám tin ai, nhà nào nhà nấy giữ gìn từ lu nước, món ăn, tiệc-tùng đâu mời cũng không dám tới. Một ngày ở đó là một ngày phập-phồng. Tuy-nhiên, trong các nghề kiếm ăn, nghề “dạy học” vẫn giữ một địa-vị quan-trọng ở đồng, đâu đâu cũng không dám coi thường. Thế nên, là “thầy giáo” thì ở đâu cũng dám tới. ★ Con nít ở Kiến-vàng là con nít đủ tài thao-lược. Trên bộ, chúng ruồng tất cả rừng rậm chông gai, bắt rắn như bắt ếch, bắt chim như bắt gà, thôi thì đạo binh của rừng bụi đều kinh hồn mất vía! Buồn! Chúng có thể lôi đầu mấy con rắn hổ ngựa từ trên cây xuống… đá như đá ba-lông, chúng có thể nắm chóp hết những con kỳ-nhông rắn mối ra “rô-ti…” nhậu rượu! Dưới nước, tốp khác không kém, chúng là một đoàn thuỷ-quân bơi lội “dàng trời ban”. Liệng chúng xuống bùng-binh sâu hoắm tối ngày chúng không uống một chút nước, không biết lạnh, mà lại còn mò lên một mớ tôm cá, mới tài! Chúng lại thường theo cha chú ra vàm sông Mang-giỗ ban đêm soi sấu, vớt những con sấu con đem về cho… cắn lộn. Khi chán-chê rồi, chúng vẫy tay một cái là vật đầu đem nướng! Khốn-nạn, tôi lại lọt đến cái xóm ghê hồn ấy! Đã bảo thầy giáo ở đâu cũng dám tới mà! Điều nên biết là trước tôi, đã có không biết bao nhiêu thấy vì chịu không nổi lũ con nít “trời đánh” ấy phải cuốn gói bỏ trường mà trốn đi. Nhưng rồi cái thằng “thiên-lôi chạy mặt” như tôi cũng cai-quản được cả đoàn. Dầu vậy, trước khi làm Tổng-tư-lịnh cả hai bộ thuỷ và lục-quân ấy, tôi bị thử phép gần trầy vi tróc vảy. Nầy, lục-quân: Hạ-thủ một con rắn hổ? Chúng làm bộ như sợ-sệt, viện đến tay thầy, thì “rụp” một cái, thầy vỗ cửa hang nghe “bòm bòm”, miệng làm bộ lâm-dâm câu thần-chú “Án đà ra họng rị…” rồi chĩa đầu con rắn đem lên! Bắt một con chim “bánh-ích”, Thầy là một tay bắn giàn thun thiện-xạ! Chúng quyết bắt Thầy ra đồng trọn ngày chúa-nhựt để bỏ đói? Thầy vui lòng móc củ bồn-bồn, hoặc bẻ trái dừa nước ăn cho no và còn mở tiệc khao quân là khác nữa! Nầy, thuỷ-quân: Chúng rủ thầy chèo ghe ra cửa biển chơi mỗi chúa-nhựt? Xa bao nhiêu thầy cũng vui lòng cầm chèo lái. Vác lưới đi đánh cá cháo, lặn cá dầy? Thầy phóng xuống bùng-binh trước nhứt. Tắm, chúng muốn trấn nước Thầy? Thầy là một con rái, hiên-ngang hoạt động dưới nước như trên bờ! Thế rồi, trong vòng một tháng, tôi nắm chắc chức Tổng-tư-lịnh trong tay, các… tiểu-anh-hùng đều bái-phục. Thôi thì mặc ai làm gì thì làm, tôi nằm tréo ngoảy ở nhà, muốn cá có cá, muốn chim có chim, hô lên một tiếng là có đồ-đệ đến hầu. ★ Một hôm, có anh thợ săn trong ấp bắt được một con “heo cấn” (heo rừng có chửa). Anh mổ bụng lấy bọc con ra đêm tiềm thuốc bắc. Đấy là món ăn quý nhất mà tôi đã thèm-thuồng từ lâu. Anh cho mời… thầy giáo! Lần thứ nhứt, tôi đi dự tiệc nhà người. Bữa ấy tôi ăn hết nửa con heo con còn đỏ lói trong bọc, và nhậu trên một cốc rượu rừng pha mật ong. Về nhà bỗng-dưng tôi thấy tối-tăm mày mặt, ruột thắt gan bào. Thôi chết rồi, chắc-chắn là tôi bị trúng thuốc độc! Mỗi lần tưởng-tượng đến cả ngũ-tạng lục-phủ tôi sẽ liệt-bại rồi chết lần mòn, tôi mê-sảng nằm kêu rên không ngớt miệng. Học-trò lũ-lượt đến đứng quanh giường. Tôi nhìn qua một lượt, nắm tay từ đứa, ứa nước mắt trối dài: - Các trò ơi! Thầy phen nầy thọ tử! Anh thợ săn nghe tin cũng khiếp vía, chạy rước được một vị danh-y về khám bịnh. Sau khi nghe tôi thuật chuyện, ông thầy chăm-chú xem mạch xong, vuốt râu cười khì: - Tôi nói thầy đừng giận. Hôm trước, trong mình thầy hơi yếu, thầy lại ham…ăn “heo cấn” quá nhiều. Vốn là một thức ăn hết sức bổ và hết sức mát, tì-vị thầy không chịu được, nó hàn, và sẵn thầy uống rượu rừng không quen, hai thứ đó nó “vật” thầy “sập” chớ ở đây ai “thuốc” thầy làm chi! SANH NGHỀ TỬ NGHIỆP BƯỚC bình-bồng đưa tôi đến một nơi sằn-dã quê-mùa ở tận cùng mũi đất của bán-đảo Đông-dương: Năm-căn! Dân Sài-gòn hay hầu hết dân “miệt trên” khi nghe đến tên, ắt hẳn trong đầu đều có ý-tưởng cao-cả về trình-độ của mình trên bước tân-tiến… và tự-nhiên thấy có cái thú chế-giễu những cách ăn-ở quê-mùa bằng mấy tiếng: Dân Năm-căn phải không?... Ở Năm-căn phải không?... Nhưng bạn ơi! Năm-căn bây giờ không còn là quê-mùa nữa. Ngoài những xóm lò than rộng lớn, thiên-hạ đông-đúc, cờ-bạc, sa-ngã, còn lám cái lạ-lùng, lạ-lùng đến chuyện tôi kể cho bạn nghe về “Méc Văn-Quang”, (Maitre Văn Quang). Ghê chưa? Chỉ vỏn-vẹn tiếng “Mét Văn-Quang” bạn cũng đủ thấy Năm căn ngày nay đã khác lắm rồi. Nhắc đến “Mét Văn-Quang”, tôi phải nhớ ngay đến các bác họ “Mét”, thì cũng không thể quên được những mánh-khóe bịp đời của hạng người mang kiếng trắng có đủ thứ hình “tay nâng càm”, “tay chống nạnh” đăng trong các báo. Hạng người ấy tự xưng là “Mét” hoặc “Giáo-sư”. Nhưng nói cho phải, mấy ông “Giáo-sư” trên đây đáng liệt vào bậc “sư-bác” trong làng bói, vì họ sống, nhiều khi, sang như ông Hoàng: nay ở “ô-ten”, mai ở phố lầu. Họ còn một đàn em sống vất-vả lắm, một đàn em không tên tuổi, không “mét”, không “bờ rồ phết xơ”… mà lại là những cánh bèo thả trôi theo dòng, từ kinh-thành mò đến làng-mạc hẻo-lánh, từ góc chợ đến những… hang cùng ngõ hẻm. Họ cũng thường “tấp” vô ô-ten, nhưng một thứ ô-ten rẻ tiền: chốn “yên hà cuộc tỉnh say”! ★ “Mét Văn-quang” của tôi không phải là bực đàn em ấy, mặc dầu “Mét” lập “đại-bản-dinh” ở tận chốn hang cùng: Năm-căn. “Mét” quả là một “thiên-tài”! Cái câu quảng-cáo dán trước bàn: “Một thiên-tài đã từng được Tây, Nam khen-tặng” chắc hẳn là câu nói không ngoa! Mà.. “Mét Văn-Quang”! Than ôi! “Mét Văn-Quang” ngày nay đã ra người thiên-cổ mất rồi! Nhưng đây là đoạn chót của câu-chuyện và các bạn sẽ cho phép tôi bắt-chước nói như nhà văn-hào C. Farrère trong một chuyện ngắn: “Ai lại bắt đầu câu-chuyện bằng cái kết-cuộc bao giờ?” “Mét Văn-Quang” như tôi đã nói là người có tài: Tài đoán số, tài coi tướng, coi tử-vi, mà đặc-biệt hơn hết là tài “lẻo mép, lanh mồm”! Thì đây, có lần tôi đến viếng “Mét”. “Mét” hỏi: - Ông sanh năm nào, tháng nào, ngày nào? Tôi vừa trả lời dứt là Văn-Quang hí-hoáy viết không đầy một phút, đã nói những cái quá-khứ… đến nhiều lúc tôi phải ngạc-nhiên tưởng rằng tất cả những ngày qua rồi vẫn còn ghi trên tròng mắt tôi, mà hôm nay Văn-Quang chỉ có đọc lại thôi. Ấy thế, “Mét Văn-Quang” được cả dân Năm-căn hâm-mộ đồn đi mấy dặm…rừng: Nhưng-miên, Tân-an, Hàng-vịnh, v.v. Nhưng đấy, lắm khi có người chỉ vừa nói ngày sanh, là Văn-Quang đã mở hết tốc-lực chạy… để rồi không đi đến đâu cả. Và ở vào mấy trường-hợp khác, vài ông khách “hâm-mộ” phải ngạc-nhiên vì cha mẹ họ vẫn sống sờ-sờ mà Văn-Quang buộc rằng đã mồ-côi, mồ-cút; hoặc vẫn chất-phác làm ăn mà “Mét” lại bảo có lần “đánh trộm người hàng xóm” để rồi còn tiên-đoán cho họ nhiều “tai-vạ” khác nữa. Khách vừa mở miệng cãi thì “Mét” đã chận họng bằng câu: - Tôi đã rao trước rồi kia mà, ông không thấy tấm bảng đề: “Nói không tư vị” hay sao? Nhưng nếu khách có là một người mồm-mép lắm: - Ậy mà những lời “không tư-vị” của ông đều trật bét hết! Tức thì Văn-Quang lỏ cả hai mắt trông chừng như lọt ra khỏi tròng: - Trật à? Tôi mà đoán trật? Và khi hỏi kỹ lại… thì Văn-Quang xuýt-xoa bảo: - À! tại tôi đoán lộn tuổi khác, xin lỗi ông đấy!... Nhưng cái lỗi ấy không phải ai cũng tha được như những nơi có “khuôn phép” chốn thị-thành. Thế là “Mét Văn-Quang” có lần bị người ta bắt đền tội. Người ấy là một vị đại-điền-chủ có thế-lực, keo-kiết và tàn-nhẫn, ở làng kế-cạnh. Một hôm ông đến viếng “Mét Văn-Quang” với tất cả cái keo-kiết và tàn nhẫn. Văn-Quang thấy mặt ông, ngang-nhiên nói: - Ông mấy tuổi? - Bốn chục. Văn Quang không hỏi thêm nữa, có lẽ cái tuổi “bốn chục” nó đủ gợi cảm cho nguồn… hứng rồi, nên dõng-dạc bảo: - Ông là người thất-tín! Cách đây 13 ngày, ông lừa bạn ông để lấy một số bạc ngàn… Vì vậy tôi quả-quyết hai ngày tới đây ông sẽ bị nắm chóp… Ông điền-chủ hốt-hoảng, mặt bỗng-nhiên nổi giận hầm-hầm lên. Ông sùi bọt mép, chẳng nói chẳng rằng, với cái tàn-nhẫn bấy lâu, ông vụt nắm lấy “Mét Văn-Quang” tặng một “cú đìa-rét” như các nhà võ-sĩ tặng nhau trên trường diễn-võ, rồi ông đấm đá “sặc-cà-rây”. Văn-Quang la vói: - Tôi đã bảo “không tư-vị”, “không tư-vị” kia mà! - Ừ thì “không tư-vị”… Bốp!...Bốp!... Chúng tôi đứng ngoài bất-nhẫn lắm, nhưng có người nào có dám “nhào” vô cho mang vạ, ai cũng biết - trừ “Mét Văn-Quang”, lẽ cố-nhiên - ông ấy mạnh như thần! - Vậy mà cũng đoán số! Sao mầy không đoán cái số mầy… chết về tay tao, thằng kia?... Hai hôm sau, “Mét Văn-Quang” đoán số mình không sống nổi nữa, nên đã trút linh-hồn tại xứ Năm-căn: cái xứ mà “Mét” đã phụ vào một chút công làm trôi mất tiếng quê-mùa! PHẦN THỨ NHÌ PHỎNG-SỰ TIỂU-THUYẾT ★ DƯỚI ĐỒNG SÂU Rủ nhau đi cấy đi cày, Bây giờ khó-nhọc có ngày phong-lưu. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa. CÂU CÁ HAI tháng rồi, ruộng cấy xong, lúa đang đứng cái và gần có đòng-đòng. Nhà nông rảnh việc. Mùa câu kéo bắt đầu, sau những đám mưa dầm. Nghề câu của dân quê không giống sự tiêu-khiển nhàn-nhã của dân thị thành mà thỉnh-thoảng người ta cũng thấy ngồi buông câu ở bờ-sông để… chờ bữa cơm tối, hay để “giết” một buổi sáng chúa-nhật! Ở đồng quê, nó là cả một nghệ-thuật và cả một công-việc đổ mồ-hôi. Phải chịu thức gần phờ râu mới biết giống cá đồng chỉ thèm đớp tới mồi câu vào khoảng đầu hôm đến canh một và từ canh ba đến sáng! Phải năm cơm bảy cháo mới rõ cá lóc có tật ăn “mồi chạy” bằng nhái sống, cá trê ăn bãm bằng mồi cắt và hơi ngầm. Có những đêm trời lạnh tái môi phải cởi trần truồng nhảy xuống ruộng, tay đập muỗi, tay vét rong, gặp môn, nghể không từ, đụng rắn, đỉa chẳng sợ… để dọn “luồng”, nghĩa là dẹp một khoảng trống trước khi cắm câu! Đó là nói chuyện ở ruộng nhà, chớ gặp lúc ruộng mình khan cá, mò qua bên đất người ta thì còn phải chịu biết bao nhiêu là khổ-sở hơn nữa. Tôi chưa từng làm thằng ăn trộm, nhưng tôi chắc đi câu lén không sướng hơn thằng ăn trộm chút nào. Ừ, thì chim trời cá nước, ai bắt được là ăn, tại sao người ta hay cự-nự? Có hai lẽ. Lẽ thứ nhứt là ai có của cũng muốn để hưởng một mình, dầu chưa có biết hưởng được hay không. Lẽ thứ hai là kẻ câu lén hay làm chết lúa. Thằng ăn trộm đi ngã sau vườn không khi nào biết tiếc mấy ngọn rau, ngọn cải, không khi nào có ý bước tránh cho khỏi giẵm chưn lên đám đậu, cây cà. Thì thằng đi câu lén có khác gì? Cứ chỗ nào lúa cao là đoán rằng nước sâu, gặp chỗ nào kín-đáo thì dọn luồng, dầu phải nhổ phăng đi cả chục bụi lúa cho trống-trải, nó cũng không từ! Nhưng đó là… ai kìa, chớ tôi, tôi là một kẻ từng lượm mót từ hột ngọc trời, từng cắm từ cộng lúa, có bao giờ tôi đang tay bứt cả cội-nguồn. Chẳng dám vỗ ngực xưng mình “tốt” gì hơn ai, bởi tôi cũng đã từng đi câu lén ruộng người ít lắm là vài chục lần, nhưng đến đâu tôi cũng giữ-gìn phải phép lắm! Năm ấy, nước giựt sớm, mà ruộng tôi hơi gò, nên cá rất ít. Nghề làm ăn, đã sắm lỡ câu, kéo, xuồng, bộng, không lẽ đem treo lên giàn bếp… nên tôi đành làm… con vạc ăn đêm! Một đêm nọ, lấy theo mười đường câu, tôi đẩy xuồng, bỏ sạp dài tử-tế đem nào nóp, nào bếp un, một cây giầm, một cái vợt và cây sào nạng. Tôi tính qua “nhờ” bên điền ông Chủ Nghĩa. Ông nầy xưa nay đã có tiếng “oai như cọp, dữ như thần”! Dọc theo điền ông, ban ngày thấy giăng giăng những bảng cây: “Cấm câu cá! Cấm câu cá!” - Ậy, ông oai, ông dữ mặc ông, ông cấm thì cứ… cấm, tôi câu lén cứ việc… câu! Có rượt, chống tọt về bên mình. Qua khỏi ranh thì “bà hú”… ai còn sợ gì ai? Ỷ-y như thế, tôi cứ “đường-hoàng” chống xuồng qua ruộng ổng. Thả câu xong, tôi nằm trên sạp, chờ tới giác đi thăm cá. Đêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long-lanh in trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng ngủ trong ánh sáng mờ-mờ. Gió thoảng từng hồi, từng hồi, ngọn lúa cựa mình xào-xạc. Tiếng giạt-sành vang lên trong im-lặng xa xa. Tôi cảm thấy bồi-hồi tưởng nhớ đâu đâu, rồi nhẹ-nhàng, rồi khoan-khoái, tôi rung đùi ca. Chưa kịp nói với các bạn rằng tôi là một tay đờn kìm và ca mùi có điệu, nhờ ở nơi sản-xuất ra bản Vọng-cổ đời nay. Cá sặt cắt ra từ miếng. Ai đã nghe tôi nỉ-non những bài ruột như “Ác ngậm non Đoài” hay “Mỗi độ Thu về” thì mới biết tại sao cả làng, các cô gái đều ngã lăn ra mà mê-mệt! Đêm nay, tiếng gió gợi hứng, nằm một mình thanh-vắng giữa đồng, lỡ mang cái bịnh tài-tử, tôi trút hết nỗi “tơ tằm”: -… Mỗi độ Thu về… Tiếng ca ban đầu nho-nhỏ, lần-lần đượm vẽ mê-say, đến ngang-tàng, quên phứt cái “oai như cọp” và cái “dữ như thần” của ông Chủ Nghĩa. “… Ôi! Vì thương mà phải bỏ ngai vàng, vì thương mà thành chim, hóa đá, thương thì phải khổ, lại càng thương... ơ!..” - Ai đó! Câu lén phải không? Bị nạt thình-lình, chớp một cái, tôi ngồi dậy gọn-gàng. Quơ gàu nước đổ xèo vào bếp un, rút sào nạng, tôi ra sức chống vo-vo. - Ai đó, ngừng lại! Không, tôi la lên, mấy người rình chung-quanh áo áp lại ví đập chết bây giờ! La mặc la, doạ mặc doạ, người ta đang chạy chết đây mà! Xuồng tôi chống đi thoan-thoát, xuồng nọ đuổi bon-bon. Thình-lình nghe một cái ồ… Thôi chết rồi, xuồng đã rấn lên mô cỏ. Tôi rán sức chống. Xuồng chỉ qua được phân nửa, và lúc rút cây sào tôi nhấn mạnh, lái bị khẩm, nước ào vô rồi chìm lĩm. Tôi điếng hồn loi-ngoi tính lắc nước, lượm sào chống nữa… nhưng xuồng nọ đã tới kề! Dưới ánh đèn lồng, hai cây giầm giơ lên cao toan nện xuống. - Tội-nghiệp! Tội-nghiệp tôi, ông ơi! Tôi mới lỡ… Một tiếng cười khì bên xuồng kia: - Ông ở đâu đây mà ông? Nghe nói trớ-trêu, tôi nhìn lên: Ý trời đất quỷ thần ơi, rõ-ràng là một cô gái với một thằng nhãi con! Có nhục-nhã cho tôi chưa, có chết được cho tôi chưa, trời nè! Phải dè… mà thôi, đã đến nông-nỗi nầy còn mong gì vùng-vẫy, tôi nhỏ-nhẹ: - Tội-nghiệp tôi mà cô hai! Tôi mới lỡ một lần!... - Ai biết chú mầy lỡ một lần hay mười lần? Thôi, mau mau lên chống xuồng theo tôi về nhà ông Chủ. - Trời ơi! nếu cô bắt tôi về đó, ông Chủ xiết câu tôi, tịch-thâu xuồng tôi, đóng trăng tôi, tội-nghiệp tôi lắm cô hai à! - Biết vậy, sao chú mầy còn qua đây câu? - Dạ, túng, kiếm ăn chút-đỉnh vậy, chớ đâu có nhiều-nhõi gì, cô. - Nhiều ít không biết. Ông Chủ dặn hễ gặp ai câu lén, cứ bắt quách về cho ông. - Như vậy chết tôi còn gì, cô hai. Cô làm nhơn làm phước tha cho tôi một phen, tôi lạy cô mà! Cô gái nín lặng một chút, bỗng cười giòn: - Ừ, lạy đi rồi tôi tha! Thằng nhãi con, độc, lại khúc-khích: - Á ngộ, đi câu lén mà còn ca mùi cho bị bắt, bị lạy… Cha-chả, tụi nầy chơi “bứt gân” quá! Lạy nó thì nhục, bằng không, nó dẫn về ông Chủ. Rồi làng xóm hay… rồi má mình hay! Ôi, má mình hay được chắc là sầu-thảm lắm. Thôi, một liều, ba bảy cũng liều, tôi bặm môi an-ủi. Trời tối, ai thấy mà sợ! mình giả dại qua ải mà! Tôi chấp tay, sửa-soạn mọp xuống… nước, thì… - Ý chết, thôi, thôi! Nè, tôi hỏi thiệt, anh có phải là anh “Sáu đờn kìm” bên điền cậu Bộ không? Tôi giật mình: - Dạ… phải! - Tội-nghiệp dữ hôn, lên xuồng tát nước, hơ lửa cho ấm đi anh Sáu, rồi tôi nói cho mà nghe. Tôi riu-ríu vưng lời, bụng hỏi dạ: “Mẹ thử, nó còn muốn làm gì đây nữa?” Tuy vậy, tôi hơi vững lòng vì giọng con nhỏ đã dịu, coi mòi dễ thương. - Nè anh Sáu, em thấy anh một lần, hồi theo Ba em qua điền cậu Bộ mua gà. Chèn ơi, anh ca mùi quá! Hồi nãy nghe thanh giọng, em cũng đoán là anh, mà tại anh chạy… - Không, tôi có chạy đâu, tôi chống chớ! - Quỷ vật anh, anh bị bắt mà còn giễu. Tôi thấy có mòi “sóng êm biển lặng”, hỏi gặng: - Bây giờ cô tính chở tôi đi đâu? - Không chở đi đâu hết! - Cám ơn, vậy là cô tha cho tôi rồi? Cô gái bí-mật: - Là tha ở đâu! Tôi lại hơi lo: - Coi kìa, bắt không bắt… mà tha cũng không tha, là làm sao? - Thủng-thẳng đã. Nè anh Sáu, bây giờ tôi nói tắt với anh một điều, là tôi tha cho anh… mà lại còn cho anh… câu nữa, nhưng… - Nhưng… là sao? - Nhưng anh phải “mùi” cho chị em tôi nghe một bài! - Ý chết! Người ta nghe , áp lại đón ngách, thì phen nầy chắc tôi bị lọi ống quyển! - Anh nhát hít, lúc nãy em doạ chơi, chớ Ba em không có ở nhà, mà cũng không có ai canh vùng nầy hết, chỉ có hai chị em tôi thôi! Thằng nhỏ nãy giờ im-lặng cũng “xía” vô: - Ừ, ca đi anh Sáu! Mùi một bản nghe chơi rồi câu-kéo gì thì câu!... CÁ MẮC CÂU TÔi cóm-róm bước chưa đầy nửa thước sân, ba con chó vện ở đâu ùa ra, sủa ồn-ào, nhăn răng, xửng gáy, dường như hăm-he: - Ếp! đứng lại! Bước một bước nữa thì cặp giò mầy nát ngớu như tương. Nào, tôi có định lại đây với một ác-ý: cướp của người như mấy thằng ăn trộm mắc toi hôm trước nhè rinh đi của ông Chủ hết mấy chục giạ lúa đâu? Tôi đến với một ý-định hiền-lành: mướn đất và “nạp mình” làm tôi cho ông Chủ cơ mà! Một tiếng rầy vang từ trong nhà; - Đứa nào ra coi làm gì chó sủa rùm ngoài trước vậy? Đi chết đâu mất hết, đố khỏi ăn trộm xúc lúa ban ngày cho mà coi! Một chị đàn-bà cầm chổi chà chạy ra quơ… Mấy con chó kinh-hãi, nhảy lùi, và như còn ấm-ức, sủa vớt vài tiếng “quấu, quấu”. - Anh kia muốn gì? - Dạ, tôi đến xin mướn đất. Chị ta trề môi, rút chổi lặng-lẽ đi vô, oai-vệ như một… bà chủ! Lại có tiếng nói rang-rảng ở nhà sau: - Kêu nó đợi một chút ông mầy thức dậy đã! Tôi biết thân, ngồi bó gối dưới bóng mát hàng rào bông phướn trước sân, chờ. Ba con chó bộ luyến-tiếc hay thèm cặp đùi của tôi sao mà trở ra ngừ ngừ, đi chung-quanh tôi, hửi hửi, liếm áo, liếm tay… liếm mặt. Tôi sợ bay hồn mà không dám la, la nó táp bất-tử! Tôi cứ rút chân, né, tránh nhè-nhẹ. Nhưng cũng may, chúng biết điều, thấy chị ở nói chuyện với tôi, có lẽ đoán “thằng nầy cũng là một bọn nhà”, nên chúng lởn-vởn chơi một chặp rồi chạy nằm “táp ruồi” bên cạnh bồ lúa. Tôi chờ một chặp, rồi một chặp nữa. Quái cái ông nầy! không biết có phải ông ngủ ban ngày, để thay vào lúc ban đêm đặng làm ông thần giữ bồ lúa hay sao, mà trưa đến xế dài ổng cũng chưa chịu thức dậy. Hay là ổng ể mình? Không, không có gì ráo. Khi tôi đã mỏi-mệt, ngồi gục trên đầu gối, thì bỗng nghe một hơi “rò sò sò sò” như bộng nước sôi, tôi ngóc đầu dòm: quả là ông Chủ! Ông ngậm một hớp nước, súc trệu-trạo ba cái, ngước mặt lên trời sôi “rò sò sò sò”, rồi cúi xuống “phẹt” một giọt dài vô gốc cột. Sau những hồi liên-tiếp như thế, ông ôm ngực ho xù-xụ, rồi khạc, rồi lại ho. Cuối-cùng, ông mới tằng-hắng, đưa mắt ngó lom-lom ra đường: - Trẻ ra coi đứa nào, biểu nó vô đây coi! Tôi mừng như lượm được vàng. Tôi theo chị-ở vòng ra ngõ sau, vô nhà thì ông Chủ cũng vừa ngồi lên bộ ván. Ông co lên một chơn, kéo ống quần, lật lai trong lau mặt, chùi râu, rồi bỏ xuống, đưa tay nhè-nhẹ kéo cái khay trầu. Ông tỉ-mỉ lựa hai hột cau khô ngâm trong cái chén gần lên meo, bỏ vô miệng nhai chanhchách, rồi têm trầu nhét thêm vô, rồi nhai chanh-chách: - Mầy muốn mướn đất hả? - Bẩm Chủ, phải. - Ở đâu lại đây? - Dạ, bên điền cậu Bộ. Ông Chủ hất hàm nói bằng một giọng khinh-khỉnh chê-bai: - Chắc đã giựt đâu ở bển hết mấy trăm giạ gì rồi!… Tôi tức gần bể mật, nhưng nhường-nhịn: - Dạ, có đâu? Tôi giao trả đàng-hoàng chớ! Không, tôi làm sao dám qua đây! - Thôi thôi, tôi sợ mấy ông lắm! Ông tư Lộ của tôi đó, cũng giao trả đàng hoàng! Đàng-hoàng gần hết tám chục giạ của tôi. Đây rồi đến điền khác, thế nào nó cũng nói nó giao trả đàng-hoàng! Tôi nói thiệt bây giờ tôi sợ tá-điền hơn sợ cọp. Không có lúa ăn! Tôi giùm. Không quần áo bận? Tôi cho vay. Thất mùa! Tôi cho nợ… rồi đến khi lúa chín, lớp chèn-nhét bán xài, lớp giấu- đút cờ-bạc. Ruộng trúng mà lúa không có. Đến lúc nào liệu thế không xong, họ mới cuốn quần cuốn áo, nửa đêm dẫn vợ, dẫn con trốn đi mà! Bởi vậy, bây giờ tôi thấy ai lại mướn đất, tôi cũng giựt mình đồm-độp… - Bẩm Chủ, tá-điền cũng có nhiều hạng. Có kẻ trốn, thì cũng có người trung-thành làm lợi cho Chủ vậy chớ! - Nói thì tốt lắm! Thằng tư Lộ, hồi lại mướn đất, cũng nói trung-thành như mầy nhưng đến chừng nó trốn, chắc nó cũng xách cái trung-thành đó đem theo xài ở điền khác! Mà thôi, mầy muốn mướn sở đất nào? - Dạ, sở của chú tư Lộ. - Ạ, té ra mầy hay tin thằng tư Lộ trốn, mầy mới lại đây? - Bẩm phải, sở đất đó gần biền, vừa sức tôi lắm. Thế nào tôi làm cũng có lúa. - Đó! vậy mà thằng tư Lộ cứ nói là đất xấu! Mùa nào tao cũng thấy nó chất đầy cà-lang, mà khi đập ra, lúa hột biến đâu mất hết! Quân gian-xảo! Sau này, tao mới hay nó giấu đem bán cho ba thằng Chệc ghe cà-vom ngoài đầu kinh để lấy tiền cờ-bạc! Thôi, mà mầy muốn mướn cũng được, nhưng năm nay tao tăng lúa ruộng. - Bẩm, xin Chủ cho bằng như năm rồi. - Được đâu? Từ rày rao phải tăng như vậy cho mấy người mới. Rủi thằng nào trốn còn có mà bù-trừ. - Bẩm Chủ… - Không thưa bẩm gì hết. Chịu, thì làm giấy. Không, tao để cho người khác. Đất tao chẳng “ế-ẩm” gì! Tôi đứng ngây người ra. Bình-thường lúa ruộng của ổng cũng đã nặng hơn người ta lắm rồi. Nay ổng còn tăng lên nữa thì cũng bằng làm thí-công cho ổng ăn. Tôi suy-nghĩ gần điên đầu. Phải dè… Nhưng chẳng lẽ tôi lại trở về điền cũ. Còn mặt mũi nào nhìn người quen. Ăn làm sao, nói làm sao với cậu Bộ mà mình đã quả-quyết giã-từ?… Tôi bặm môi lầm-bầm: Thây-kệ, làm thử một mùa? - Dạ, thưa tôi cũng rán lắm, chớ làm chắc không thế nào có dư. - Chịu phải không? Chịu thì làm giấy - đặng coi làm luôn mùa lúa nầy của thằng tư Lộ trốn bỏ. Mầy coi gặt, đập rồi giao hết lúa cho tao. Rồi mùa tới tao sẽ tính. Ông Chủ cho kêu một cậu học-trò bên cạnh. Có lẽ đã quen-thuộc nhiều lần, cậu vô tới là đã lơn-tơn đi tìm cái hộp thiếc trên nóc tủ gần đó, lựa ra một bổn kiểu-mẫu đọc cho tôi nghe. Tờ lãnh làm ruộng giao Nay tôi có lãnh làm 50 công ruộng cho ông Chủ Trần Háo Nghĩa tiền công tôi lấy trước phân nửa là 20$. Còn 20$ chờ đến cấy xong, giao ruộng, tôi lãnh tất. - Bẩm Chủ, tôi xin mướn ruộng, chớ không lãnh ruộng giao. - Ậy, việc mướn-chác thì mình biết với nhau, còn giấy-tờ phải làm như vậy cho đúng phép. Phỏng như làm tờ mướn rồi nửa chừng mầy trốn có lòng dòng cho tao thêm không? Làm như vầy, mầy lãnh làm công, rồi có muốn trốn đi đâu thì trốn, ruộng của tao, bất-quá tao gặt lúa trừ. Tao ngừa như vậy, tá-điền tao đứa nào cũng làm kiểu đó, mà có đứa nào kêu-ca gì đâu! Bây giựt của tao thì có, chớ tao, điền ruộng minh-mông, chẳng đời nào tao thèm giựt của bây! - Bẩm Chủ, còn tiền lấy thêm: Hai chục đồng, tôi có hỏi gì đâu? - Mầy quê lắm. Tiền đó là tao buộc phải vay, tới mùa, tao đong lúa trừ. Tao tính mỗi giạ năm cắc. Phải vay mới có mà ăn đặng làm chớ, không lẽ mầy cạp đất mà cày ruộng sao? - Nhưng… giá lúa bây giờ đến hai đồng một giạ! - Thì hai đồng bây giờ. Đây ra giêng còn tới bốn, năm tháng nữa. Chừng đó giá lúa lên tao nhờ, sụt tao chịu. Tao dám “cho” như vậy, mà mầy còn chê mắt chê rẻ… Thôi, không bằng lòng để ruộng đó lại cho tao! Tôi bủn-rủn cả người, mồ-hôi trên trán đổ hột. Nếu biết như vầy, thà ở với chủ cũ còn hơn. Bỗng-dưng hình-ảnh trời, sao; hình-ảnh miếng ruộng; hình-ảnh bầy cá táp mồi, và phản-ảnh của cảnh tôi bị chìm xuồng, phải năn-nỉ ỷ-ôi với con tám Én, thảy thảy đều hiện ra chập-chờn từ đầu đến cuối,.. Tôi ngước đầu dậy nhìn ra sân, nhìn ông Chủ đang thản-nhiên chanh-chách nhai trầu, rồi tôi cuối xuống nuốt một cái ực, vỗ mạnh vào vai cậu học-trò: -Ừđược. Thôiviếtđiem! TÔN-SƯ KHI dọn đồ về ở cái trại của chú tư Lộ, mẹ tôi cằn-nhằn: - Trại tồi-tệ như vầy, mà lúa cũng không mấy trúng lắm, không biết mầy ham là tại làm sao? Tôi an-ủi: - Má đừng lo, bên này chủ điền dễ, cá nhiều, mùa tới thế nào con cũng khá. Rồi trong lúc ở không đợi tới mùa, tôi lân-la đi làm quen khắp điền. Tôi đến đâu cũng được người ta niềm-nở, ân-cần. Tiếng ca giọng đờn làm trung-gian gây ra biết bao nhiêu tình thân-ái đậm-đà. Nhưng cái nhà mà tôi lui tới nhiều hơn hết lại là nhà một người đầy dẫy nghiệp ác: ông thầy Pháp cao-đệ. Sao mà thằng Út nó mê tôi như sam đực gặp sam cái? Vắng tôi một bữa là nó nhớ biếng chơi, biếng cười. Ông Thầy, bà Thầy có một mình nó là trai nên chiều như con vua, muốn gì cho nấy, nhiều khi hạ mình năn-nỉ tôi ở chơi đờn ca cho thằng Út vui. Con đầu lòng, cô Yến, năm ấy mới mười bảy xuân-xanh. Mặt tròn, mắt sáng, môi mỏng, răng đều, cái gì cũng được hết thảy, chỉ trừ có nước da là đáng phiền! Tôi không được nói chuyện nhiều với cô, nhưng lần nào lại chơi cũng được cô cho ăn chè nóng hổi, và khuya, bó đuốc cho tôi về. Lần lần tôi được coi như người nhà, và lần lần, ông thầy cao-hứng rủ tôi lên cùng mâm với ông, nhâm-nhi cho có bè-bạn. Một đêm kia, tôi mang đến một chai rượu đế thượng-hạng, vừa gặp lúc ông đương ngậm đùi gà nhậu-nhẹt. - A! Em Sáu mới qua, may quá. Yến đâu con? Đem thêm cái chén, đôi đũa. - Dạ thôi, tôi còn no, xin thầy cứ dùng. - Ậy, ậy, no cái gì?… Leo lên mà! cùng hội cùng thuyền, chẳng mấy khi… Đây mừng em một ly nhỏ. Kể ra, tửu-lượng tôi cũng khá, rán cầm hơi với ổng cho tới khuya. Đợi lúc ai nấy mỏi-mệt đi ngủ hết, mà chai rượu đế cũng lưng-chừng, tôi mới thỏ-thẻ: - Dạ, trong nghề phù-phép, thầy cũng là bực anh cả? - Anh cả thì chưa phải là anh cả, nhưng ở đây không thấy ai hơn “qua”. - Nếu vậy chắc thầy có đạo “bùa tổ”? - Cha! em biết “bùa tổ” nữa, mà hỏi làm chi vậy? Tôi ngần-ngừ: - Dạ… nếu thầy biết… tôi xin… học. - Té ra em cũng ham bùa? - Dạ đó là sở-vọng của tôi. - Mà em học để làm gì chớ? - Dạ, ai cũng muốn biết để hộ-thân và giúp đời… Ông thầy ngước lên dòm tôi mỉm cười: - Em tưởng dễ học lắm sao? - Dạ, tôi cũng biết là khó, nhưng gắng công bền chí thế nào cũng nên. Mấy năm rồi, tôi cũng có luyện chút ít. - Em học đạo nào? - Dạ, “Mẹ sanh”. - Em biết làm bịnh chưa? - Dạ, biết chút-đỉnh, nhưng mấy đạo “cà-tha” của tôi nhiều khi không linh nghiệm bằng bên thầy. Ông thầy Pháp chăm-chỉ nghe tôi nói, rồi cúi xuống ăn, gật-gù, nín lặng. Lâu-lâu thầy bưng ly đánh trót một hơi dài. Tôi vẫn ngồi hầu rượu. Đêm đã khuya lắm rồi mà không thấy ông nói gì nữa. Tôi nóng lòng đợi mãi không được, buồn ý đứng dậy xin về, nói một giọng chán-nản: - Nếu tôi có đường-đột hỏi thầy điều khó-khăn đó, xin thầy đừng chấp- nhứt. Bởi lòng tôi hâm-mộ quá, nhưng chắc tôi không có phần gặp thầy, nên… Bỗng-dưng, ông thầy nhướng mắt, đưa tay khoát-khoát: - Không, không phải như em nghĩ. Em đừng buồn. Sở-dĩ tôi không trả lời vội là vì tôi đang suy-nghĩ coi có nên truyền đạo bùa đó cho em không. Em phải biết, phép của tôi thì nghiêm-nhặt, mà em thì còn nhỏ tuổi quá. Theo luật định, với đạo bùa ấy, một thầy chỉ truyền được có một trò - trò ấy tự-nhiên là một trò ruột phải đủ đức-hạnh. Chớ, nếu đạo bùa mầu-nhiệm đó ai cũng biết và đem ra dùng hết thì còn gì là luật trời, mà tôi đây còn có tước-vị gì nữa? Rồi ông êm giọng: - Em à, qua thấy em, qua thương, cũng muốn truyền lại, nhưng sợ em còn nhỏ tuổi, nóng tánh hay làm càn. - Tôi xin hứa với thầy rằng tôi học để giữ mình và giúp đời, chớ không cố ý giựt tiền, cướp ruộng của ai cả. - Được, thôi em đưa tay lên ngay bàn Tổ thề đi, thề độc đi… ĐẠO PHÙ THẦN CỨ đến canh ba không một tiếng chó sủa, không một tiếng gà gáy, tôi tắm gội sạch-sẽ, thành-tâm đốt một cây nhang, ngồi thẳng lưng, xếp bằng, chăm mắt nhìn vào đám lửa đỏ. Tinh-thần gom vào ý muốn, tay trái chấp trước ngực, tay mặt hoạ ấn-quyết, thổi ra một hơi, rồi lâm-râm đọc không cho vấp, bổng trầm theo giọng Thổ: “Ôm mà xơ rốp, mà ha xơ rốp, ông chênh cô rô bầm binh, tra ông bầm boul, tầm đóp, moul xốp rốp, chuồi pral anh hòng. Lục cu ru truy khà nhum, pol prốt vìa tế ành hong…” Tập như vậy ba tháng mười ngày. Đến chừng nào mắt nhìn ngọn nhang hết nháy, nín thở không biết mệt, bên tai có tiếng động không giựt mình, chừng đó là được: đạo bùa thành. Mà hễ thành thì nó linh-nghiệm vô-cùng. Theo lời thầy tôi, nó dùng được đủ cách: Trừ tà, ếm quỷ, trị các nọc độc, giải phá bùa khác, làm mờ mắt kẻ thù, làm thương hoá ghét, làm ghét hoá thương, thù ai có thể làm chết được, thương ai có thể làm cho họ mê… tuỳ theo tay ấn mình bắt, tuỳ theo ý muốn mình quyết-định. Nhưng đừng ai dại đêm mấy chữ bùa trên đây ra học mà xài. Thiếu ấn quyết, trấn-ếm, các “bà” thù-ghét, sẽ xẹt xuống bẻ cổ chết ngay! """