" Dona Flor Và Hai Người Chồng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dona Flor Và Hai Người Chồng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo dona Flor và hai người chồng Tác giả Jorge Amado Người dịch Lê Nhung Phát hành Nhã Nam Nhà xuất bản Văn học Ngày xuất bản 2011 Do chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp nên người dịch gặp nhiều khó khăn trong việc chuyển tải cho hết ý nghĩa của nguyên bản. Người dịch xin được trân trọng cảm ơn bà Marcia Fiani, phụ trách văn hóa của sứ quán Braxin tại Hà Nội. Bà đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc đối chiếu giữa bản dịch tiếng Pháp và nguyên gốc tiếng Bồ Đào Nha. Câu chuyện bí hiểm và cảm động về dona§ Flor, giáo viên dạy nấu ăn giỏi giang, và hai người chồng của cô, người đầu có biệt danh là Vadinho, người thứ hai là tiến sĩ Teodoro Madureira, làm dược sĩ. Hay Cuộc chiến khủng khiếp giữa Tinh thần và Vật chất, được kể bởi Jorge Amado, nhà văn sống ở khu Rio Vermelho, thành phố Salvador thuộc bang Bahia§ của các thánh thần, gần Largo de Sant’Ana, nơi nữ thần sông nước Yemanjá sinh sống. Chúa trời béo — (Vadinho tiết lộ khi trở về) Trái đất màu xanh lam — (Gagarin đã xác nhận điều này sau chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ) Mỗi vị trí được dành cho một thứ và thứ gì cũng có chỗ của nó — (câu châm ngôn trên tường hiệu thuốc của tiến sĩ Teodoro Madureira). Ôi! — (dona Flor thở dài) phần một về cái chết của vadinho, người chồng đầu tiên của dona flor, đêm viếng và lễ an táng anh — (Theo tiếng đàn cavaquinho§ của tay ghi ta điêu luyện Carlinhos Mascarenhas§.) trường nghệ thuật ẩm thực và hương vị Phải mời khách món gì trong đêm viếng trước ngày tang lễ? — Dona Flor trả lời câu hỏi của một học sinh. Cho dù đó là ngày tang gia bối rối, buồn bã khóc lóc thì cũng không thể để khách tới viếng phải nhịn đói nhịn khát. Nếu bà chủ nhà, đang nức nở nghẹn ngào và sắp ngất xỉu, ngập chìm trong đau đớn, hay chính là người nằm chết trong áo quan, không thể lo được, thì bà con hay bạn bè phải đứng ra lo liệu, vì không thể để những người khách khổ sở đến đây viếng thăm vì tình nghĩa phải nhịn đói nhịn khát suốt đêm; chưa kể lúc mùa đông giá rét hay tiết trời lạnh lẽo. Để cho đêm tang lễ được nhộn nhịp và thật sự tôn kính người đã khuất, chủ nhân của đêm đó, làm cho linh hồn anh được nhẹ nhàng trong đêm đầu tiên và đang rất bối rối trong cõi chết của anh, phải thật chu đáo, chăm chút về cả tinh thần lẫn đồ ăn thức uống. Lúc nào mời và mời món gì? Lúc nào ư? Đơn giản thôi: suốt cả đêm, từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc. Cà phê thì dĩ nhiên là cần thiết vào bất cứ lúc nào, rót vào những tách nhỏ. Còn bữa sáng đầy đủ cả sữa, bánh mì, bơ, pho mát, bánh bích quy, vài cái bánh sắn, vài lát bánh ngũ cốc kèm trứng đặt trên đĩa thì chỉ cần dọn vào buổi sáng và cho những người đã thức suốt đêm. Quan trọng nhất là luôn luôn phải có nước sôi trong bình để pha cà phê, vì lúc nào cũng có người đến viếng. Thêm cả bánh nướng, bích quy kèm với cafezinho§.Thi thoảng mang ra vài món khai vị như bánh kẹp pho mát, giăm bông, giò, những thứ đơn giản, thể hiện sự tế nhị trước người đã khuất. Nhưng nếu đêm tang lễ của gia đình ở tầng lớp cao, sau đêm này tiền viếng cứ là dồi dào, thì đương nhiên phải có tách sô cô la thật đặc và thật nóng vào lúc nửa đêm, hay bát xúp gà mỡ màng. Sau cùng là cá tuyết viên, các món rán, các loại bánh kẹo, đồ ăn vặt, hoa quả khô. Về đồ uống thì nếu đó là gia đình khá giả, ngoài cà phê, còn có bia hay rượu vang, chỉ một ly thôi và chỉ để uống kèm xúp gà và các món rán. Tuyệt đối không dùng sâm panh, như thế không hợp cảnh cho lắm. Trong mọi trường hợp, dù là đêm viếng ở nhà giàu hay nhà nghèo, bắt buộc và cần thiết, đều phải có rượu cachaça§ nổi tiếng. Có thể thiếu gì cũng được, kể cả cà phê, nhưng rượu đó thì không thể thiếu. Không có chất trợ lực ấy, đêm viếng sẽ mất hết giá trị. Đêm viếng không có rượu tức là thiếu tôn trọng đối với người đã khuất, là vô tình, là ác nghiệt. 1 Vadinho, người chồng đầu tiên của dona Flor, chết vào một sáng Chủ nhật trong vũ hội hóa trang, khi anh đang hóa trang thành cô gái Bahia nhảy điệu samba trong nhóm người ở giữa nơi náo nhiệt nhất trên quảng trường Mùng Hai Tháng Bảy§, cách nhà không bao xa. Anh ta không phải là thành viên của nhóm này, chỉ vừa đến nhập hội cùng bốn người bạn nữa, cũng hóa trang thành những cô gái Bahia như anh ta, họ vừa ra khỏi quán bar Cabeça nơi rượu whisky được rót thừa mứa nhờ tính hào phóng của một tay Moysés Alves nào đó, chủ đồn điền cacao giàu có và hoang tàn. Nhóm người đang đi theo một ban nhạc ghi ta và sáo, tuy nhỏ nhưng rất điêu luyện; chơi cavaquinho, chiếc đàn chỉ có bốn dây, là tay Carlinhos Mascarenhas mảnh khảnh rất được hoan nghênh ở các nhà chứa, ái chà! tay chơi ghi ta tuyệt trần! Các cậu trai trẻ ăn mặc kiểu Di gan, còn các cô gái mặc kiểu thôn nữ Hungary hoặc Rumani; nhưng không bao giờ các cô gái Hungary, Rumani, kể cả Bungari hay Slovakia đi nữa, lại uốn lượn hông được như các cô đây, những cô nàng lai đen điệu đàng đang thì xuân sắc. Vadinho hăng hái nhất trong bọn, trông thấy đám người kia xuất hiện ở góc phố và nghe thấy tiếng đàn điệu nghệ của Mascarenhas gầy giơ xương trên chiếc ghi ta nhỏ nhắn tuyệt vời nên tiến nhanh về phía họ, đứng trước cô nàng Rumani sặc sỡ, cao lớn, đồ sộ như một nhà thờ – và đó là nhà thờ São Francisco, vì người nàng phủ đầy trang kim màu vàng chói – anh ta kêu lên: — Ta đây, hỡi em gái Nga của Tororó.… Gã Di gan Mascarenhas cũng hột cườm đầy người, khuyên tai sáng lóa lủng lẳng, cần mẫn chơi làm cây đàn mỗi lúc một rung lên. Sáo và ghi ta rền rĩ, Vadinho lao vào điệu samba vô cùng hưng phấn, đặc trưng tính cách của anh ta trong mọi việc anh ta làm, chỉ trừ khi làm việc. Anh ta xoay tròn giữa nhóm người, giậm chân trước cô nàng lai đen, tiến về phía cô trong tư thế uốn lượn tuyệt đẹp, rồi đột nhiên, anh ta thở ra những tiếng khàn khàn trong họng, bước chân lảo đảo, nghiêng người sang một bên rồi lăn ra đất, sùi bọt mép màu vàng vàng, cái chết mới vừa nhếch mép không xóa được hết nụ cười mãn nguyện trên môi anh, con người quen bỡn cợt. Bạn bè anh ta cho đó là do ảnh hưởng của cachaça chứ không phải tại whisky mà fazendeiro§ đãi lúc trước: bốn hay năm ly whisky không đủ làm quỵ một bợm rượu đẳng cấp như Vadinho; có lẽ tất cả số rượu cachaça tích tụ từ hôm trước đến trưa nay, lúc họ chính thức khai mạc lễ hội hóa trang ở quán bar Triunfo trên quảng trường Thành phố, tất cả đã đột ngột bốc lên đầu và quật anh ta lịm xuống. Thế nhưng cô nàng lai đen cao lớn thì không nhầm: là y tá, cô đã quen với cái chết mà cô vẫn gặp hằng ngày ở bệnh viện. Dĩ nhiên là không thân thiết đến mức xoa rốn, liếc mắt và nhảy samba với nó. Cô cúi xuống nhìn Vadinho, đặt tay lên cổ anh, rùng mình, cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy qua bụng và sống lưng. — Anh ta chết rồi, lạy Chúa! Nhiều người khác cũng muốn chạm vào người chàng trai trẻ, xem mạch, nâng mái tóc vàng, cố gắng nghe nhịp tim anh đập. Nhưng họ không thấy gì, chẳng làm gì được nữa, Vadinho đã từ bỏ vũ hội Bahia mãi mãi. 2 Thế là đám người rồi cả phố ồn ào náo loạn, lây sang cả các phố lân cận, sự bối rối làm xúc động cả những anh hề của lễ hội – và nổi nhất là cô nàng Annette tai tiếng, cô giáo dạy cấp một nhỏ nhắn, mơ mộng và mắc chứng cuồng, lợi dụng cơ hội để lên cơn điên, thét ra những tiếng chói tai và giả bộ bất tỉnh nhân sự. Cô ta làm vậy là để thu hút sự chú ý của anh chàng Carlinhos Mascarenhas uể oải mà cô ả õng ẹo dễ ngất đang theo đuổi – chính cô cũng tự nhận là mình quá nhạy cảm, thường xù hết cả lông lên như mèo cái khi nghe anh ta gảy đàn. Giờ đây, cây đàn đã lặng tiếng, lủng lẳng vô dụng trên tay chàng nghệ sĩ, như thể Vadinho đã mang theo mình những hợp âm cuối cùng của nó sang thế giới bên kia. Người ta đổ về từ mọi phía, tin lan đi nhanh chóng ra những vùng lân cận, tới tận São Pedro, đại lộ Sete, đến Campo Grande, thu hút những kẻ tò mò. Một nhóm người đã tụ tập xung quanh xác chết và bàn tán. Một bác sĩ ở Sodré được triệu tới, còn một viên cảnh sát thì lôi còi ra và thổi liên tục như muốn thông báo cho cả thành phố, cả lễ hội, rằng Vadinho đã ra đi. — Đúng là Vadinho đấy, khổ thân! Một người đeo mặt nạ tất dài đã mất hết vẻ hoạt bát, nhận ra anh. Tất cả đều nhận ra người nằm đó, khá nổi tiếng với tính cách vui vẻ ồn ào, bộ ria mép ngắn, kẻ vô dụng ngạo nghễ, rất được yêu thích ở những chốn rượu chè, cờ bạc, giải trí. Hơn nữa, chỗ này rất gần nhà anh, bất cứ ai cũng đều nhận ra anh. Một người khác khoác miếng giẻ lau, đội cái đầu gấu to tướng, len qua đám đông đặc kín, lại gần được và nhìn. Rồi anh ta giật phắt mặt nạ, để lộ nét mặt thương cảm, bộ ria mép xệ xuống và cái đầu hói, và thì thầm: — Vadinho, bạn ơi, người ta làm gì cậu thế này? — Có chuyện gì với anh ấy vậy, làm sao mà anh ấy chết? Người ta hỏi nhau, rồi ai đó trả lời: — Tại rượu cachaça đấy – lời giải thích quá dễ dàng cho một cái chết đột ngột đến như vậy. Đến lượt mình, một cụ bà lưng còng cũng dừng lại, nhìn liếc qua, thương xót: — Còn trẻ quá, sao lại chết sớm thế nhỉ? Người ta cứ hỏi và trả lời như vậy, trong lúc bác sĩ cố áp tai lên ngực Vadinho kiểm tra lần cuối nhưng chỉ uổng công. — Cậu ấy đang nhảy samba rất hăng say, thế rồi bất ngờ ngã xuống, chết ngay, một trong bốn người bạn đi cùng Vadinho giải thích, anh này chắc từ giờ cạch rượu cachaça tới già, anh ta bỗng nhiên nói năng dè dặt và xúc động, lóng ngóng trong trang phục của cô gái Bahia, đôi má đỏ rực màu son, hai mắt tô những viền to tròn bằng chì đen. Việc hóa trang thành những cô gái Bahia chẳng làm ai hiểu sai về năm chàng trai rõ ràng đều rất tráng kiện này. Họ xuất hiện trong trang phục của các cô gái Bahia chỉ để đùa vui, làm trò hề, trò trẻ con, chứ không phải vì tính tình ẻo lả hay giới tính có vấn đề. Ơn Chúa, không ai trong số họ là người đồng tính luyến ái. Thậm chí Vadinho còn giắt vào chiếc váy hồ bột trắng một củ sắn to, hễ bước đi là nó làm tung váy lên, để lộ chiến lợi phẩm ngoại cỡ và thô tục, làm các bà các cô phải quay mặt giấu tiếng cười, vẻ ngượng ngập tinh quái. Giờ đây cái rễ cây nằm chỏng chơ trên cái đùi trần và không khiến ai còn có thể cười được nữa. Một người bạn tiến đến gần, gỡ nó ra khỏi thắt lưng Vadinho. Người đã khuất không vì thế mà trở nên chỉnh tề, ý nhị hơn; đó là một người chết trong vũ hội hóa trang và anh ta không có một dấu vết súng đạn nào, không dao đâm khiến máu chảy tràn trên ngực, những thứ có lẽ sẽ chuộc tội cho cái vẻ bề ngoài lố lăng của anh. Dona Flor đến gần như cùng lúc với cảnh sát, đi trước cô đương nhiên là dona Norma làm công tác chỉ đạo và mở đường. Khi cô xuất hiện ở góc quảng trường trong vòng tay nâng đỡ của các bà, các chị hàng xóm, mọi người đều đoán ra cô là góa phụ, vì cô vừa đi vừa rên rỉ, thở dài, không kìm nén cả những tiếng nức nở, khóc lóc than vãn. Hơn nữa, trên người cô vẫn khoác cái váy mặc trong nhà cũ kỹ thường dùng khi làm việc nội trợ, chân đi đôi giày păng túp cũ mèm và còn chưa chải tóc. Thế mà trông cô vẫn xinh đẹp, ưa nhìn: nhỏ nhắn và tròn trịa, mập mạp mà không phì, nước da màu đồng hun, mái tóc mượt đen óng như có sắc xanh, đôi mắt nhìn dịu dàng và đôi môi mọng hé mở để lộ hàm răng trắng muốt. Rất ngon, như lời của chính Vadinho vẫn thường định nghĩa về cô trong những ngày họ sống âu yếm bên nhau, có thể hiếm hoi nhưng không thể nào quên. Chắc chắn, người ta biết mà, vì đặc thù nghề nấu nướng của vợ mình nên trong những khoảnh khắc âu yếm đó, Vadinho gọi cô là “bánh ngô non của anh”, là “kẹo giòn thơm của anh” hay “con gà mái mũm mĩm của anh”, và những so sánh đầy tính ẩm thực như thế cũng phần nào đúng với nét quyến rũ nhục cảm tự nhiên ở dona Flor, ẩn giấu sau vẻ ngoài trầm tĩnh và nhu mì. Vadinho biết rõ những điểm yếu của cô và phô bày hết chúng ra, nỗi âu lo kìm nén bằng sự rụt rè, cái ham muốn chừng mực có thể biến thành mãnh liệt và thậm chí lẳng lơ được thể hiện khi ở trên giường. Khi Vadinho đang hứng khởi thì không ai có thể quyến rũ hơn anh ta và không một người đàn bà nào kháng cự lại được. Dona Flor chưa bao giờ cưỡng lại được vẻ quyến rũ của anh ta, ngay cả khi cô quyết tâm thế, lòng đầy những phẫn uất và hằn học còn mới nguyên. Bởi đã biết bao nhiêu lần cô buộc được lòng mình ghét cay ghét đắng anh ta và nguyền rủa cái ngày cuộc đời cô bị buộc vào gã phóng đãng đó. Thế nhưng, trước cái chết bất ngờ của Vadinho, dona Flor lòng đầy lo âu, bước đi loạng choạng, đầu óc trống rỗng, không còn nhớ nổi điều gì, kể cả những giây phút vui sướng hạnh phúc, còn những ngày tháng khổ sở vì lo lắng và cô đơn lại càng không, cứ như thể khi chết, chồng cô đã vứt bỏ được hết mọi thói xấu xa hoặc chưa bao giờ như vậy trong suốt “quãng thời gian ngắn ngủi trên cõi trần gian ngập tràn nước mắt”. — Quãng thời gian anh ấy sống trên cõi trần gian ngập tràn nước mắt thật là ngắn ngủi! kiểu cách và luống cuống, giáo sư Epaminondas Souza Pinto đáng kính, như để chào hỏi, thốt lên lời chia buồn với góa phụ khi cô còn chưa kịp đến gần xác chồng. Cũng là giáo sư và trong chừng mực nào đó cũng đáng kính, dona Gisa cố ghìm sự vội vã của người đồng nghiệp cùng tiếng cười của mình. Dù đúng là quãng thời gian lướt qua cõi đời này của Vadinho quá ngắn ngủi – vì anh ta vừa mới tròn ba mươi mốt tuổi – nhưng dona Gisa biết rõ đối với anh ta, thế giới này chẳng hề là cõi trần gian ngập tràn nước mắt, mà là một chuỗi những trò đùa cợt, gian lận, dối trá và tội lỗi. Một vài trò trong số đó rối tinh rồi thất bại chắc chắn đã khiến trái tim anh ta phải chịu những thử thách nặng nề, lo sợ, giật mình thon thót: nợ nần phải trả, hối phiếu vẫn còn chiết khấu, những người bảo lãnh kỳ phiếu cần thuyết phục, những kỳ hạn không thể kéo dài thêm, những tờ chứng thư và luật sư, ngân hàng và những kẻ cho vay nặng lãi, những khuôn mặt thờ ơ, bạn bè tránh mặt, chưa kể đến những đau đớn thể xác và tinh thần của dona Flor. Vì, dona Gisa nhận xét, bằng vốn từ Bồ Đào Nha§ tối nghĩa của mình – cô ta hình như là gốc Bắc Mỹ, đã nhập quốc tịch Braxin và tự thấy mình rất Braxin, nhưng cái ngôn ngữ quỷ quái này, ôi! cô ta không thể nào kiểm soát nổi – dona Gisa nhận xét, nếu có nước mắt chảy suốt trong quãng đời ngắn ngủi của Vadinho thì đó là nước mắt của dona Flor, rất nhiều, đến mức đủ cho cả hai người. Trước cái chết đột ngột như vậy, dona Gisa chỉ nghĩ tới Vadinho với sự luyến tiếc: dù sao anh cũng tốt với cô; anh là người có phần tử tế và hấp dẫn. Nhưng đó không phải là lý do, không phải vì anh ta nằm xuống đây, trên quảng trường Mùng Hai Tháng Bảy, nằm chết sõng soài trên nền gạch lát, trong bộ dạng cải trang thành cô gái Bahia, mà tự dưng cô phải tôn anh ta lên như thánh, bóp méo sự thật, dựng lên một anh chàng Vadinho khác chỉ có trong một vở kịch duy nhất. Cô giải thích như thế với dona Norma, bà hàng xóm và cũng là bạn thân, nhưng không nhận được sự đồng tình như mong đợi. Dona Norma là người thường xuyên thẳng thắn nói toạc móng heo với Vadinho; bà tranh luận với anh ta, quở mắng anh ta ra trò, thậm chí có hôm còn dọa gọi cảnh sát. Nhưng trong giờ phút cuối cùng và buồn đau này, bà không muốn nhắc đến những nét tính cách nổi trội và khó chấp nhận nhất của người chết mà chỉ muốn ca ngợi những điều tốt đẹp trong anh ta, lòng tốt bẩm sinh, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, trung thành với bạn bè, tính hào phóng ai cũng phải công nhận (nhất là khi anh ta làm thế bằng tiền của người khác), sự vô tư và niềm vui sống bất tận. Với lại, bà còn phải lo động viên dona Flor nên không buồn nghe dona Gisa và sự thật phũ phàng của cô. Dona Gisa thì thế này: sự thật là trên hết, nhiều khi đến mức biến cô thành ra nghiệt ngã và cứng nhắc. Có thể đó là cách cô tự chống lại chính mình, vì cô cả tin đến mức phi lý và thổ lộ mọi chuyện với bất cứ ai. Không, cô không nhớ những điều xấu xa do Vadinho gây ra để chỉ trích hay kết tội anh ta, cô quý mến anh ta, cả hai thường chuyện trò rất lâu, dona Gisa hăng say khám phá mặt tâm lý học ở cái môi trường ám muội nơi nuôi lớn Vadinho, người vừa kể chuyện cho cô vừa nhìn chằm chằm vào chiếc váy hở vai của cô, hau háu nhìn bộ ngực rắn chắc lấm tấm tàn nhang. Có thể dona Gisa còn hiểu anh ta rõ hơn dona Norma nhưng ngược lại, cô không dung thứ cho bất cứ lỗi lầm nào của anh ta và cũng không dối trá vì anh ta đã chết. Với chính mình, dona Gisa cũng không dối trá, trừ phi điều đó là cần thiết. Mà bây giờ đương nhiên không phải lúc cần. Dona Flor đi qua đám đông, theo gót dona Norma, người đi trước rẽ đường nhờ khuỷu tay và độ nổi tiếng đáng nể của bà: — Nào, làm ơn tránh ra, nhường lối cho người vợ tội nghiệp... Vadinho nằm đó trên nền gạch, miệng cười, trắng trẻo, tóc vàng rực, yên bình và vô tư lự. Dona Flor khựng lại một phút, ngắm nhìn chồng như muốn trì hoãn việc nhận ra anh ta, hay đúng hơn là để chấp nhận cái sự thật không thể chối cãi là giờ đây anh ta đã chết thật. Nhưng chỉ một phút ngắn thôi. Rồi một tiếng thét phát ra từ tận đáy lòng, cô lao tới ôm lấy Vadinho, bám vào cơ thể cứng đờ của anh ta và hôn lên tóc, lên khuôn mặt bôi vẽ lòe loẹt, lên đôi mắt còn mở to, bộ ria xấc xược, đôi môi đã khép, khép mãi mãi. 3 Đó là ngày Chủ nhật của vũ hội hóa trang. Tối hôm ấy ai mà không có một buổi trình diễn xe hơi, một bữa tiệc tùng để đến vui vẻ, một kế hoạch đã lên sẵn đến sáng hôm sau chứ? Ừ thì đấy! Nhưng cho dù thế đêm viếng Vadinho vẫn diễn ra tốt đẹp. “Thành công mỹ mãn” như dona Norma hãnh diện tuyên bố. Những người lo việc chôn cất đặt thi thể người chết lên giường, trong phòng ngủ, sau đó chỉ có hàng xóm đưa anh ta ra phòng khách. Các nhân viên nhà xác vội vã đi vì họ nhiều việc hơn trong kỳ lễ hội hóa trang. Trong khi người khác vui chơi nhảy múa thì họ phải lo cho người chết, cho nạn nhân của các vụ tai nạn hay đánh lộn. Họ giật miếng vải bẩn phủ lên xác chết và trao giấy chứng tử cho góa phụ. Giờ đây Vadinho nằm trần truồng, như khi Chúa sinh ra anh, trên chiếc giường của hai vợ chồng, một chiếc giường bằng sắt rèn, đầu và chân giường trang trí hoa văn; dona Flor tình cờ mua được nó trong một dịp bán đấu giá cách đây sáu năm khi họ cưới nhau. Dona Flor ngồi một mình trong phòng, mở phong bì đọc xác nhận của bác sĩ. Cô lắc đầu, không muốn tin. Ai mà đoán được? Trông bề ngoài anh vẫn sung sức, khỏe mạnh, trẻ trung thế! Vadinho vẫn khoe khoang là chẳng bao giờ ốm và có thể cờ bạc, rượu chè, trác táng trong vòng tám ngày tám đêm liền, không ngủ. Có khi thỉnh thoảng anh ta biến khỏi nhà tám ngày thật, khiến dona Flor phát điên vì tuyệt vọng. Thế mà cô vừa nhìn tận mắt tờ xác nhận của bác sĩ chuyên khoa: anh ta khó mà thoát chết, gan yếu, thận tiều tụy, tim rã rời. Vadinho có thể đột tử bất cứ lúc nào, đúng như cách anh đã chết. Như thế đấy, bất thình lình. Rượu cachaça, cờ bạc suốt đêm, những cuộc truy hoan, những lần điên cuồng lao đi kiếm tiền để chơi bạc đã hủy hoại cơ thể đẹp đẽ, chỉ để lại cho anh ta vẻ bề ngoài khỏe mạnh. Phải, vì nhìn anh ta, ai mà nghĩ anh ta đã như kẻ bị kết án chết khắc nghiệt. Dona Flor ngắm thân hình chồng trước khi gọi những người hàng xóm, luôn tận tình và thiếu kiên nhẫn, vào tiến hành công việc tế nhị, đó là mặc quần áo cho anh ta. Anh ta nằm đó, trần truồng, như anh ta vẫn thích thế khi lên giường, lớp lông tơ vàng óng phủ trên cánh tay và chân, đám lông ngực dày và có màu vàng như màu tóc, vết sẹo dao đâm trên vai trái. Rất đẹp, rất đàn ông, tay điêu luyện trong tình ái! Nước mắt góa phụ trẻ lại trào ra. Cô cố xua đi những kỷ niệm đang dội về và không thích hợp với cảnh tang tóc như thế này. Nhưng nhìn anh ta mình trần như thế, nằm dài trên giường, hoàn toàn trần truồng, dona Flor, bất chấp nỗ lực của bản thân, vẫn không thể không nhớ tới anh ta trong những lúc ham muốn dâng trào: Vadinho không chịu được bất kỳ mảnh vải nào trên người, dù chỉ là miếng ga giường thẹn thùng quấn lên người họ, anh ta không có thói quen biết ngượng. Anh ta nói khi kéo cô vào giường: “Mình làm tình đi, em yêu”; với anh ta, tình yêu như bữa tiệc tràn ngập hân hoan và tự do; anh ta lao vào nó với sự hào hứng đã trở thành bản sắc của riêng mình, với khả năng hiếm có mà vô số đàn bà thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi hoàn cảnh sống đều phải thừa nhận. Trong những ngày chung sống đầu tiên sau đám cưới, dona Flor thấy ngại ngùng và lóng ngóng vì anh ta đòi cô bỏ hết quần áo: — Ai đời làm tình mà lại mặc áo ngủ cơ chứ? Tại sao em lại muốn che đậy? Tình yêu rất thiêng liêng, do Chúa tạo ra trên thiên đàng, em không biết điều đó à? Anh không chỉ cởi bỏ hết quần áo của cô, cảm thấy như thế chưa đủ, anh còn sờ soạng, nghịch ngợm từng đường nét trên cơ thể cô, những đường cong vồng lên và những nếp gấp sâu thẳm, nơi bóng tối và ánh sáng đan nhau trong một trò chơi bí ẩn. Dona Flor cứ tìm cách che người thì anh ta lại kéo chăn ra, cười to, để lộ bộ ngực chắc lẳn, cặp hông đẹp, làn da bụng mịn màng lớp lông tơ. Anh ta coi cô như một món đồ chơi hay nụ hoa hồng khép kín, làm cho nó nở dần dần sau mỗi đêm vui thú. Dona Flor cũng dần mất đi vẻ ngại ngùng, cuốn mình vào thú vui thể xác, hành động ngày càng mạnh mẽ, biến thành một tình nhân lì lợm và liều lĩnh. Nhưng không bao giờ cô hết hẳn ngượng ngập mà vẫn giữ lại chút bối rối; lần nào anh ta cũng phải chinh phục cô, vì vừa ra khỏi trạng thái điên rồ và ngây ngất là cô trở lại làm người vợ rụt rè bẽn lẽn. Lúc này, một mình trước cái chết của Vadinho, dona Flor mới ý thức được, một cách hoàn chỉnh, cảnh góa bụa của mình. Không bao giờ cô còn được thấy anh ta, được ngây ngất trong vòng tay anh ta nữa. Vì ngay từ giây phút được báo tin dữ, tin này được truyền từ miệng đến tai, cho tới lúc xe nhà xác đến vào cuối chiều, cô giáo nghệ thuật nấu ăn đã trải qua cơn ác mộng gây kích động chưa từng gặp: cú sốc khi nhận được tin, quãng đường đẫm nước mắt từ nhà đến quảng trường Mùng Hai Tháng Bảy, nhìn thấy xác chồng, đám đông vây quanh chăm sóc, quan tâm, nâng đỡ, rồi trở về nhà, được dìu bởi dona Norma, dona Gisa, giáo sư Epaminondas và Mendez, chủ quán người Tây Ban Nha. Tất cả mọi chuyện diễn ra nhanh chóng và lộn xộn, cô không có thời gian để suy nghĩ và nhận thức cho rõ ràng cái chết của Vadinho. Xác Vadinho được chuyển từ quảng trường Mùng Hai Tháng Bảy đến nhà xác, ngay cả lúc đó cô cũng không được nghỉ. Tự dưng anh ta trở thành trung tâm của đời sống, không chỉ trong khu anh ta ở mà cả những phố quanh đó, mà lại vào một ngày Chủ nhật, giữa vũ hội hóa trang. Cho đến tận lúc người ta đưa anh ta về nhà, quấn trong một tấm ga trải giường, bộ quần áo của cô gái Bahia chỉ còn là một nắm sặc sỡ, dona Flor không ngừng nhận những lời chia buồn, những bày tỏ của bạn bè, những tấm lòng chia sẻ, những hàng dài không ngớt toàn hàng xóm láng giềng, bạn bè và người quen. Còn dona Norma và dona Gisa, hai người đã bỏ hết cả việc nhà bề bộn, vốn đã bị lơ là sẵn vì lễ hội, bữa trưa và bữa tối hoàn toàn giao phó cho người nào tình nguyện. Hai người không rời dona Flor nửa bước, cố hết sức tận tâm an ủi cô bạn. Trên phố vẫn là không khí hội hè với những đám người hóa trang, những nhóm người, đoàn người, những kẻ giả nam giả nữ giàu có hay vui nhộn. Cả các nhóm nhạc đủ loại, trống lớn trống bé, các hội đoàn, nhạc công afoxês§ với trống lục lạc và chiêng cồng. Đôi lúc, dona Norma không nén nổi tò mò, chạy ra cửa sổ, nghiêng người nhòm xuống, bông đùa vài câu với một người quen đang vận đồ giả trang, thông báo tin Vadinho chết, vỗ tay tán thưởng khi thấy có bộ đồ hóa trang đẹp hay một nhóm nhạc hay. Có lúc bà gọi cả dona Gisa nếu thấy một nhóm đặc biệt náo nhiệt xuất hiện ở góc phố: khi đám rước Afoxê§ Những Người Con Trai Của Biển Cả, đã là buổi chiều, tiến vào phố với đội hình đầy ấn tượng, đi theo là đám đông cuồng nhiệt trong vũ điệu samba thì cả dona Flor cũng cố hết sức nuốt nước mắt, tiến lại cửa sổ để quan sát đám rước đã được tung hô trên mọi trang báo, tiết mục nổi nhất của vũ hội Bahia. Cô không nhô hẳn đầu ra nhìn mà núp sau đôi vai rộng của dona Gisa. Dona Norma, quên mất cả người chết và các phép tắc, vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Cứ như vậy suốt cả ngày. Đến cả dona Nancy, người đàn bà Achentina kín tiếng và kiêu kỳ mới dọn đến khu này, vợ của chủ xưởng gốm Bernabo mờ ám, cũng chui ra khỏi căn hộ đẹp đẽ và cái vỏ kiêu ngạo, cũng tới chia buồn với dona Flor và ra tay giúp đỡ, bà ta hóa ra lại là người hòa nhã và biết cư xử, chẳng mấy chốc đã trao đổi với dona Gisa những nhận xét đầy triết lý về cuộc đời ngắn ngủi và mong manh. Như chúng ta đã thấy, Dona Flor chưa có thời gian mà suy nghĩ đến tình cảnh hiện tại và những đổi thay trong cuộc sống của mình. Chỉ khi người ta mang Vadinho từ nhà xác về rồi đặt thân thể trần trụi của anh ta lên chiếc giường nơi hai vợ chồng đã bao lần yêu đương, khi ấy, chỉ khi ấy, cô mới thấy cô đơn trước cái chết của chồng và thấm thía cảnh góa bụa. Sẽ không bao giờ anh còn đẩy cô nằm ngửa ra trên chiếc giường sắt, cởi tuột hết váy áo, đồ lót trên người cô, ném lên chúng bàn trang điểm cùng với ga trải giường rồi vuốt ve từng đường nét trên cơ thể, làm cô phát cuồng lên. Ôi! không bao giờ nữa, dona Flor nghĩ vậy và cảm thấy cổ họng thắt lại, chân run rẩy, cô hiểu ra rằng tất cả đã chấm dứt. Cô đứng lặng ở đó, không một lời nói không một giọt nước mắt, không còn bị kích động nữa, cách biệt với mọi thứ liên quan tới cái chết. Chỉ còn cô và thi hài trần trụi, cô cùng sự vắng mặt mãi mãi của Vadinho. Cô sẽ không còn phải đợi anh ta đến tận những giờ trái khoáy, không còn phải giấu anh ta tiền học sinh vừa nộp, không còn phải theo dõi các mối quan hệ của chồng với những cô nàng xinh đẹp nhất, không còn phải chịu đòn những hôm anh ta nốc cachaça hay những ngày bực bội, không còn phải nghe những lời bình luận chua chát của hàng xóm. Cũng không còn được cuộn tròn trên giường với anh ta, hòa vào ham muốn cùng anh ta, trút bỏ chăn ga cùng với ngượng ngùng để tận hưởng cuộc vui tình ái, cuộc vui không thể nào quên. Nỗi nghẹn ngào dâng lên trong cổ họng khiến cô thấy nghẹt thở; cảm giác đau đớn trong lồng ngực, nhói buốt như bị dao đâm. — Flor, không phải đã tới lúc mặc quần áo cho cậu ấy rồi à? (Giọng nôn nóng của dona Norma vang lên trong phòng, bà vừa từ phòng khách vào). Khách sắp đến viếng đấy... Góa phụ mở cửa, giờ cô đã bình tĩnh lại, lặng lẽ, không khóc lóc, không than vãn, lạnh lùng và trang nghiêm. Đơn độc giữa cuộc đời. Hàng xóm vào giúp cô. Ông Vivaldo, người của nhà tang lễ Thiên đường Hoa, đích thân mang đến chiếc áo quan rẻ tiền. Ông thuận lòng bớt giá khá nhiều vì là bạn chơi của Vadinho trên bàn cò quay và baccara§ nơi ông đánh bạc bằng tiền lãi bán áo quan và bia mộ, và ông giúp sức rất hiệu quả và đầy kinh nghiệm để anh chàng phóng đãng được ra dáng người chết tử tế. Dona Flor tham gia vào mọi việc, không nói một lời, không rơi một giọt nước mắt. Cô giờ đơn độc giữa cuộc đời. 4 Xác Vadinho được đặt vào quan tài rồi chuyển ra phòng khách, nơi người ta đã kịp dựng cái bục để đặt quan tài, bày ghế ngồi xung quanh. Ông Vivaldo mang hoa đến, đó là phần tặng thêm của nhà tang lễ. Dona Gisa gài một bông cỏ lưỡi mèo màu tím vào giữa những ngón tay đan chéo của Vadinho. Ông Vivaldo cho rằng cử chỉ đó thật phi lý; phải nhét thẻ bài vào tay người chết mới đúng. Thẻ bài chứ không phải bông cỏ lưỡi mèo tím, và nếu thay vào tiếng nhạc và tiếng cười của lễ hội hóa trang là tiếng chuyển động của bàn cò quay, giọng nói khàn khàn của người hồ lì, tiếng leng keng của những tấm thẻ bài, tiếng reo hò bồn chồn của đám người chơi bạc, thì có lẽ Vadinho sẽ đội nắp áo quan đứng lên, nhún vai rũ bỏ cái chết như hành động đặc trưng anh ta vẫn thường làm khi rũ bỏ mọi phiền phức bám theo mình, rồi tiến lên đặt thẻ bài vào con số 17 yêu thích. Anh ta biết làm gì với bông cỏ lưỡi mèo màu tím chứ? Nó sẽ tàn nhanh chóng, sẽ chẳng có bàn cò quay nào chịu nhận nó. Ông Vivaldo không nấn ná thêm. Là người rất mê vũ hội hóa trang, ông mở cửa nhà tang lễ vào ngày Chủ nhật giữa kỳ lễ hội chỉ vì Vadinho là bạn. Nếu người chết là ai khác thì anh ta đi mà tự xoay xở. Ông Vivaldo sẽ không bỏ lễ hội của mình vì chuyện vặt vãnh như thế. Người ta kéo đến nườm nượp suốt cả đêm viếng anh chàng phóng đãng. Một số người đến vì Vadinho thuộc về một chi nghèo khổ và hỗn tạp của dòng họ Guimarães tiếng tăm. Trong số cụ kỵ của anh ta có người đã từng làm thượng nghị sĩ bang Bahia và đứng đầu một đảng phái chính trị. Một trong số anh em họ của anh ta, có biệt hiệu Chimbo, đã từng giữ ghế phó giám đốc sở cảnh sát trong vài tháng. Ông anh họ này, một trong số hiếm hoi các thành viên của dòng họ Guimarães đã chính thức nhận Vadinho là họ hàng gần, đã tìm cho anh ta một chân trong cơ quan hành chính thành phố: quản lý các vườn hoa, một vị trí tẹp nhẹp với đồng lương chết đói, thậm chí không đủ cho một buổi tối tiệc tùng ở quán Tabaris. Không cần phải nói cũng biết sự thờ ơ tuyệt đối với công việc của anh công chức trẻ này: Vadinho không bao giờ để mắt đến bất cứ khu vườn nào dù là nhỏ nhất, chỉ đến văn phòng để lĩnh đồng lương bèo bọt hàng tháng, để tìm cách chèo kéo sếp ký bảo lãnh kỳ phiếu hay kiếm chác hai hay năm chục milreis§ của đồng nghiệp. Anh ta không quan tâm đến vườn tược, tất cả vườn hoa của thành phố này có chết hết anh cũng không thèm để ý. Là kẻ thích chơi đêm, bồn hoa của anh ta là bàn cờ bạc, còn hoa là thẻ bài và quân bài, như nhận xét rất chính xác của ông Vivaldo. Số người đến với danh nghĩa thuộc dòng họ Guimarães có thể đếm được trên đầu ngón tay, đó là những người họ hàng xa xôi đang vội vã. Còn những người khác, cả cái hàng dài bất tận kia, họ đến vì Vadinho, để ngắm nhìn gương mặt anh ta lần cuối, mỉm cười với anh ta khi nhớ đến một kỷ niệm vui, nói lời vĩnh biệt anh ta. Vì họ yêu mến anh ta, tha thứ cho những chuyện điên rồ của anh ta, coi trọng những điểm tốt trong con người anh ta. Một trong những người đến đầu tiên, trong trang phục dạ hội, vì phải đưa ba cô con gái, ba chồi non tuyệt đẹp đến vũ hội ở một câu lạc bộ lớn, là ông Celestino, gốc Bồ Đào Nha, chủ nhà băng và nhà xuất khẩu. Ông không vội vàng rẽ qua cho xong chuyện, như một kẻ đến làm cho xong cái nghĩa vụ phiền hà này. Ông ôm hôn dona Flor, hỏi cô có cần giúp gì không, rồi nán lại trong phòng khách, chuyện trò, gợi lại vài thành công của Vadinho. Vì sao ông lại quý mến viên công chức thành phố quèn này, gã phóng đãng chuyên la cà trong các quán rượu xoàng xĩnh, con bạc luôn trong tình thế tuyệt vọng? Vadinho biết cách ăn nói, anh ta đúng là một con khướu! Một lần, anh ta dụ được ông chủ ngân hàng giàu có người Bồ Đào Nha này ký bảo lãnh một kỳ phiếu trị giá hàng nghìn milreis. Anh ta không quên trả nợ, vì không bao giờ anh ta quên thời hạn trả nợ các kỳ phiếu hay kỳ phiếu chính tay mình ký, rải rác ở nhiều ngân hàng và đang nằm trong tay những kẻ đầu cơ. Anh ta không trả được, đấy lại là chuyện khác. Nhìn chung, anh ta không bao giờ trả được và thế là không trả; tuy vậy, số kỳ phiếu, hối phiếu cùng số người ký bảo lãnh vẫn cứ tăng lên từng ngày. Không biết anh ta xoay xở thế nào mà làm được vậy? Celestino không ký bảo lãnh đến lần thứ hai, ông không đời nào đưa cổ vào tròng hai lần. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông vẫn thảy ra mấy tờ giấy bạc một trăm, hai trăm thậm chí năm trăm milreis khi Vadinho tỏ ra thất vọng về ông, những lúc anh ta không xu dính túi mà lại tin chắc là ngày hôm đó mình sẽ vơ hết tiền của nhà cái. Một số người khác ký bảo lãnh đến hai hay ba lần, cứ như thể Vadinho là người vay tiền đứng đắn nhất, người xứng đáng được coi là giữ chữ tín với ngân hàng nhất. Tất cả đều bị tài ăn nói của anh ta chinh phục, mềm lòng khi nghe những câu chuyện bi thương và đầy sức thuyết phục. Zé Sampaio, chồng của dona Norma, chủ hiệu giày ở khu phố dưới§, là người ít nói, cau có, không hề thích thăm viếng, tạo quan hệ, kết thân hàng xóm, ngược lại với vợ, chính ông cũng bị Vadinho ám, nhưng cho dù vậy điều đó cũng không làm ông thôi quý mến gã lẻo mép và từ chối cho anh ta mua chịu ở hiệu giày của mình. Ngay cả khi ông phát hiện ra trò ma mãnh không thể tưởng tượng nổi: Vadinho, một buổi sáng, đến mua chịu mấy đôi giày ở cửa hàng của ông, toàn những đôi đẹp nhất, đắt tiền nhất, rồi trước ánh mắt kinh hoàng của các nhân viên của Sampaio, anh ta bán lại chúng ngay tức khắc với giá bèo bọt cho một cửa hàng cạnh tranh vừa mở ngay gần đó. Bán lại để lấy tiền mặt, đó là anh chàng Vadinho khi đang cần tiền gấp để chơi bicho§. Thương gia Sampaio hẳn đã tính đến, trong khi cân nhắc trách nhiệm của kẻ láu cá, những tình tiết giảm nhẹ có thể giải thích và biện minh cho bước chân lầm lạc của anh ta. Một anh chàng Vadinho vui tươi, vô tư lự, cũng trong ngày hôm đó, đã kể cho ông nghe rằng suốt đêm hôm trước, anh ta nằm mơ thấy dona Gisa, hóa thành đà điểu, đuổi theo anh ta trên bình nguyên bát ngát mà anh ta không hiểu có đúng là vì muốn chơi đùa với anh ta trên đồng cỏ xanh – vì đó là một con đà điểu mái có đôi mắt dâm đãng – hay muốn ăn thịt anh ta bằng cái mỏ to tướng ngoác ra dữ tợn. Anh ta tỉnh dậy, lo sợ, giũ bỏ cơn ác mộng ra khỏi đầu rồi cố ngủ lại và nghĩ đến điều gì đó dễ chịu hơn, thế nhưng nữ giáo sư vẫn xuất hiện, bám riết theo anh ta, đôi mắt tà dâm và cái miệng hung tợn. Nếu dona Gisa xuất hiện trong bộ dạng lẳng lơ thường ngày thì Vadinho có khi sẽ không chạy trốn, mà sẽ lao vào cuộc phiêu lưu và chiếm đoạt ngay tại trận người đàn bà ma quỷ này, bằng cái giọng yankee§ và vốn kiến thức tâm lý học của mình. Nhưng vì cô ta mình đầy lông lá, hóa thành con đà điểu khổng lồ thì không còn gì mà do dự; cách lựa chọn duy nhất có thể chấp nhận được: chạy trốn trong hổ thẹn. Cơn ác mộng lặp đi lặp lại đến bốn năm lần và đến sáng, mệt mỏi vì chạy suốt đêm như vậy, người đẫm mồ hôi, Vadinho thức dậy với dự đoán chính xác nhất nhưng cháy túi. Anh ta lục lọi khắp trong nhà, dona Flor không còn xu nào vì ngày hôm trước anh ta đã vét của cô đến tận đồng lẻ cuối cùng. Anh ta ra khỏi nhà, hy vọng kiếm chác được ở chỗ vài người quen, nhưng không kết quả, vì đã lạm dụng đến kiệt cùng cái uy tín còm cõi của mình. Vì thế, khi đi ngang qua Casa Stela, cửa hiệu bách hóa của Zé Sampaio, anh ta nảy ra ý tưởng vui vẻ và sáng suốt là tạm thời “chăn” vị thương gia thực thà, cách duy nhất để nhanh chóng có vài đồng. Nếu anh ta không thực hiện hành động đó, thoạt nhìn có vẻ gian dối và không đúng lúc, nhưng thực ra là tinh tế và có lợi, thì anh ta sẽ không bao giờ tha thứ cho mình, vì hôm đó con đà điểu trúng trong trò bicho – đúng là dona Gisa không bao giờ nói dối, ngay cả trong giấc mơ – và thế là Vadinho vớ bẫm. Là người biết cách xử sự và biết ơn, anh ta ngay lập tức đến gặp Sampaio ở cửa hàng và, trước ánh mắt sững sờ của đám nhân viên, anh ta trả ông tiền mua hàng ban sáng, vui vẻ bình luận kỳ tích của mình rồi mời ông đi uống mừng. Zé Sampaio từ chối lời mời nhưng không hề giận Vadinho, ông vẫn vui vẻ với anh ta, tiếp tục bán giày giảm giá và bán chịu cho anh ta. Hạ giá mười phần trăm trên mỗi hóa đơn, mỗi lần chỉ được mua chịu một đôi và chỉ sau khi đã trả tiền hóa đơn lần trước. Một bằng chứng ấn tượng hơn nữa về uy tín của Vadinho là sự có mặt của Zé Sampaio trong đêm viếng. Đúng là chỉ có vài phút, nhưng đó là đêm viếng đầu tiên mà thương gia đến dự kể từ mười năm nay. Ông kinh sợ những nghĩa vụ kiểu này, nhất là lễ tang, đêm viếng, nghĩa trang, lễ cầu nguyện bảy ngày sau ngày mất, điều khiến dona Norma kêu ầm lên mỗi khi ông từ chối đi cùng bà đến một trong những đám ma mà bà vẫn dự hằng tuần: — Khi nào ông chết, Sampaio ạ, sẽ không có ai thèm đến khiêng quan tài cho ông đâu... Lúc ấy mới thấy xấu hổ. Zé Sampaio không trả lời, gườm gườm nhìn vợ, răng cắn ngón giữa bàn tay phải, cử chỉ quen thuộc khi ông muốn tỏ ra cam chịu trước bà vợ không bao giờ ngồi yên một chỗ. Có những nhân vật quan trọng đến viếng, như Celestino và Zé Sampaio, người anh họ Chimbo, kiến trúc sư Chaves, tiến sĩ Barreiros, nhân vật cao cấp trong ngành Tư pháp và nhà thơ Godofredo Filho§. Rồi cả nhóm đồng nghiệp cũng đến, Vadinho có những khoản nợ nho nhỏ với tất cả bọn họ. Dẫn đầu là Giám đốc lừng lẫy của Công ty công viên và vườn hoa, hùng hồn và long trọng, trang phục đen từ đầu đến chân. Tiếp đến là những hàng dài hàng xóm, giàu có, nghèo có, cả những người chỉ tạm gọi là khá giả. Lại còn đám người quen la cà sòng bạc, quán rượu, quầy bán vé bicho, nhà chứa – Mirandão, Curvelo, Pé de Jegue, Waldomiro, Lins và em trai Wilson, Anacreon, Cardoso Pereba, Arigof, Pierre Verger§ với cái mũi khoằm và các vị thần vôđu§ bí ẩn của anh ta. Một số người, như tiến sĩ Giovanni Guimarães, bác sĩ và nhà báo, thuộc cả hai nhóm, thân thiện với cả người sang và kẻ hèn, người đáng kính và kẻ vô lo. Những nhân vật quan trọng vừa cười vừa nhắc đến Vadinho, kể lại những trò ma ranh, kỳ cục, gian giảo, trâng tráo mà anh ta gây ra, những tình huống rối rắm phức tạp của anh ta, và cả lòng tốt, sự thân thiện, tính hài hước, vô tư của anh nữa. Những người hàng xóm cũng nhớ đến anh: anh chàng phóng đãng không giờ giấc và không giới hạn. Người này người kia cứ thế thêm mắm thêm muối, bịa thêm các chi tiết, gán cho anh ta vô số mánh khóe và những cuộc phiêu lưu. Huyền thoại Vadinho nảy sinh từ đây, ngay cạnh thi hài anh ta, lúc anh vừa nằm xuống. Tiến sĩ Giovanni Guimarães nghĩ ra nhiều mẩu chuyện hoàn toàn bịa đặt, sinh động hóa các sự kiện bằng những chi tiết dối trá vô hại được thêm thắt vào ngày tháng, địa điểm cụ thể: — Một hôm, cách đây bốn năm, lúc ấy vào tháng Ba, tôi gặp Vadinho ở sòng Ba Công Tước, đang chơi con 17. Cậu ta mặc cái áo khoác đi mưa, bên trong trần trụi không có gì hết. Cậu ta đã để hết ở hiệu cầm đồ, quần, áo vest, sơ mi, cả quần lót để lấy tiền chơi. Ramiro, lão Tây Ban Nha keo kiệt ở số nhà 77, lúc đầu chỉ muốn nhận quần và áo vest, lão biết làm quái gì với cái sơ mi cổ sờn, cái quần lót cũ và cái cà vạt tầm thường? Ấy thế mà Vadinho đã thuyết phục được lão bằng lòng lấy đến cả đôi tất của cậu ta, chỉ giữ lại mỗi đôi giày. Chả hiểu cậu ta ngọt nhạt thế nào mà lão già nổi tiếng thô thiển đó lại còn cho cậu ta mượn chiếc áo khoác đi mưa gần như mới nguyên, vì không thể trần truồng ra đường mà tới tận sòng Ba Công tước... — Thế chú ấy có thắng không? cậu bé Artur, con trai của Zé Sampaio và dona Norma, đang học cấp hai và rất hâm mộ Vadinho, hỏi, cậu ta há hốc mồm nghe câu chuyện của nhà báo. Tiến sĩ Giovanni nhìn cậu bé, ngừng một chút rồi cười toét miệng: — Thắng ấy à? Từ từ... Đến rạng sáng, cu cậu thua luôn cả cái áo khoác đi mưa của lão Tây Ban Nha vì chơi con 17 và phải cuốn mình trong giấy báo rồi nhờ người đưa về nhà. Nụ cười bật thành tiếng cười to, lan rộng; không ai bì được với tiến sĩ Giovanni về tài khuấy động không khí đêm viếng. Và vì đúng lúc đó, Robato, một người rất khó tả, bước vào phòng khách, Giovanni bèn thêm vào bằng chứng cuối cùng, giọng vẫn còn đẫm tiếng cười: — Đây rồi, có người chứng nhận cho tôi là không nói dối... Robato, cậu có nhớ cái đêm hôm Vadinho trần như nhộng cuốn mình trong giấy báo về nhà không? Robato không phải loại người do dự: anh ta lướt mắt nhìn quanh, dò xét đám người đến ngồi trong góc phòng, ngại những đôi tai đàn bà tò mò và sợ chuyện quá khứ đến tai góa phụ đang sầu não; nhưng chuyện do dự thì không, anh ta thuộc diện bất chấp tất cả; anh ta đã biến câu chuyện trở lại rất đơn giản và bắt ngay được sóng: — Trần như nhộng cuốn trong báo ấy à? Tất nhiên là tôi nhớ (anh ta đằng hắng dọn giọng đồng thời phát huy trí tưởng tượng)... Vì tờ báo đó là của tôi... Đêm đó, bọn tôi ở nhà chứa của Eunice Một Răng; ngoài hai chúng tôi và Vadinho còn có Carlinhos Mascarenhas, Jenner và Viriato Tanajura... Bọn tôi uống cả đêm, trận say nhớ đời. Anh chàng Robato này cũng là tay chơi đêm lão luyện như Vadinho nhưng theo kiểu khác. Anh ta không bị cờ bạc cám dỗ, không trốn công việc. Ngược lại, anh ta có tiếng là năng động và chăm chỉ, lại rất đa tài. Robato sản xuất răng giả, sửa chữa đài và máy quay đĩa, rửa ảnh chứng minh thư, làm tất cả những gì liên quan đến máy móc với sự hiếu kỳ khéo léo. Bàn cò quay của anh ta là thơ ca, cũng ngắt nhịp hay ho và rất giàu vần điệu, sòng bạc của anh ta là quán bar và phòng trà nơi anh ta la cà suốt đêm cùng các văn sĩ bảo thủ và các cô nàng xinh đẹp có cảm tình với nàng thơ và người viết, để ngâm lên những vần thơ ca ngợi, những khúc hát yêu tự do, những bài thơ trữ tình và yêu đương, những bài xonê về tình yêu. Anh ta viết tất. Anh ta tự phong mình là “ông hoàng xonê thế giới”, đánh bại mọi kỷ lục đã được biết đến, tới lúc này đã sáng tác được hai mươi nghìn tám trăm sáu mươi lăm bài xonê, thể mười âm tiết và mười hai âm tiết, từ loại thơ đơn giản tới loại phức tạp, và cả những câu thơ đọc ngược hay xuôi đều được. Mái tóc nâu của nhà thơ đã chớm hói, nhưng vẫn không làm bớt đi ở anh năng khiếu gây thiện cảm vui vẻ. Anh ta bắt đầu nói và Vadinho lại băng qua phòng khách lần nữa, người cuốn trong giấy báo, cậu bé Artur chắc sẽ không bao giờ quên câu chuyện ấy: Vadinho, anh hùng của thế giới cấm kỵ và mê hoặc, cuốn trong những trang báo A Tarde. Những câu chuyện cứ thế tiếp diễn, trong khi dona Norma, dona Gisa, cô bé Regina cùng nhiều cô gái và những người đàn bà khác mời khách cà phê với bánh ngọt, vài ly cachaça nhỏ và nước hoa quả. Hàng xóm đã lo hết những thứ cần thiết để đêm viếng không thiếu thứ gì. Các nhân vật quan trọng ngồi trong phòng ăn, ngoài hành lang, trước cửa ra vào, đang nhắc đến Vadinho với những giai thoại và tiếng cười. Những người khác, bạn chơi bạc hoặc đồng bọn trong các trò ma mãnh với Vadinho, thì âm thầm nhớ đến anh, trầm lặng và xúc động, nấn ná đứng trong phòng khách, cạnh thi hài. Khi bước qua cửa ra vào, họ nghiêng mình chào dona Flor, bắt tay cô, ngượng ngùng như chính họ phải chịu trách nhiệm vì những thói xấu của Vadinho. Đa số họ không biết cô vì chưa bao giờ gặp mặt nhưng đã nghe nói về cô nhiều đến nỗi họ biết cả việc Vadinho xoáy tiền chi tiêu trong nhà để đi chơi ở Palace, Tabaris, Abaixadinho, trong hang ổ của Zezé Viêm Màng Não, của Abílio Moqueca, trên bao bàn cò quay bất chính trong thành phố, kể cả ở sòng bạc nổi tiếng của gã da đen Paranaguá Ventura, nơi đó, theo luật, chỉ có chủ sòng mới thắng. Gã da đen Ventura là người cục cằn và đáng sợ, nổi danh vì nhiều vụ lằng nhằng với cảnh sát, bị kết một loạt tội nhưng chưa bao giờ chứng minh được, tên trộm có tiếng, tác giả của nhiều vụ cưỡng dâm và giết người. Ngoài ra, hắn ta đã từng phải ra tòa vì tội giết người nhưng cuối cùng trắng án, do hội thẩm không đủ dũng khí chứ không phải do thiếu bằng chứng. Người ta còn đồn hắn là thủ phạm của hai vụ giết người khác, không kể tới vụ người đàn bà bị đâm trên dốc São Miguel ngay giữa trưa, nhưng bà này may mắn thoát chết trong gang tấc. Hang ổ của Paranaguá Ventura chỉ toàn những tay xảo quyệt nhà nghề, cờ gian bạc bịp, ăn cắp móc túi, lừa đảo, những loại người không còn gì để mất. Vậy mà Vadinho cũng lui tới nơi đó với vốn liếng còm cõi của mình cùng giọng cười vui vẻ, chắc chắn anh là một trong số hiếm hoi dám khoe từng thắng được một đôi lần bằng những viên xúc xắc bịp bợm của tay chủ sòng bạc. Theo một số người, thỉnh thoảng, gã da đen cũng cho tay chơi hắn quý mến thắng vài món lớn. Cả học sinh của dona Flor cũng đến, gần như đủ mặt cả. Học sinh mới cũng như học sinh cũ, ai nấy đều muốn xoa dịu nỗi đau cho cô giáo đáng mến và giỏi giang, người tốt bụng là thế mà sao xấu số! Cứ ba tháng một lần, các nhóm học sinh lần lượt đến theo học lớp nghệ thuật nấu ăn đại cương (buổi sáng) và lớp ẩm thực Bahia (buổi chiều), rèn luyện bên bếp bên lò. Để sau đó nhận một tấm bằng in và có tên trong bảng danh sách học viên được trưng bày trong một tủ kính trên đại lộ Sete, chuyện này bắt đầu từ một khóa học trước đây có dona Oscarlinda, y tá trưởng bệnh viện Bồ Đào Nha, mảnh mai, ưa nhìn và ham thích những cuộc tình dan díu, theo học. Cô này đòi hỏi bằng cấp và danh sách, hô hào bạn cùng lớp, khuấy động mọi người, quyên góp tiền, tìm họa sĩ tình nguyện, tận tâm một cách đặc biệt, tham gia vào mọi chuyện. Vì sức ép đó, dona Flor cuối cùng phải chấp nhận, kể cả anh chàng họa sĩ mà dona Oscarlinda giới thiệu, tuy vẫn không quên khen ngợi tài năng của anh trai mình, Heitor – người đã vẽ tấm biển đề tên trường trước đây gắn trên dốc Alvo – tiếc là bây giờ anh đang sống tận ở Nazareth-das-Farinhas§. Dù sao thì cô cũng tự hào khi đọc trên tấm bằng và danh sách học viên dòng chữ in hoa cỡ lớn: TRƯỜNG NGHỆ THUẬT ẨM THỰC VÀ HƯƠNG Vị Và ngay dưới, dòng chữ được viết kiểu cách hoa mỹ: Hiệu trưởng: Florípedes Paíva Guimarães Vào những ngày hiếm hoi dậy sớm, Vadinho ở nhà, anh ta lượn quanh đám học viên, tham gia vào lớp học, quấy rối họ. Hào hứng và duyên dáng, các cô nàng học viên xúm quanh cô giáo, ghi chép công thức, liều lượng chính xác tôm, dầu cọ, dừa nạo, hạt tiêu; các cô học làm cá, thịt, đánh trứng. Vadinho cắt ngang bằng một câu đùa đầy ẩn ý về những quả trứng và thế là những cô gái trơ trẽn cười hưởng ứng. Gần như tất cả bọn họ đều trơ trẽn. Dù rất tình cảm và thân thiện với dona Flor nhưng cô nào cô nấy đều chăm chăm nhìn anh chàng ranh mãnh. Anh ta đấy, có vẻ tinh nghịch và kiêu kỳ, ngả ngớn trên ghế bành hay nằm uể oải trên bậc cửa bếp, nhìn các cô từ chân lên đầu, táo tợn dừng mắt trên ống chân, đầu gối, đùi, rồi lên đến bộ ngực. Mắt các cô cụp xuống nhưng mắt gã ranh mãnh thì không. Dona Flor làm các món mặn và bánh ga tô, bánh mứt hoa quả và vài đồ ngọt khác trong những buổi thực hành. Vadinho tham gia ý kiến, đùa cợt vài câu, ăn thử các món, đi lại giữa các cô nàng học viên, chuyện trò với những cô xinh nhất, liều lĩnh thò bàn tay táo bạo ra nếu một cô nào đó, nồng nhiệt nhất, tới gần. Dona Flor đâm ra luống cuống, bứt rứt, đến nỗi nhầm cả liều lượng bơ trong công thức hoàn hảo làm món bánh manuê§. Cô cầu Chúa cho Vadinho ra ngoài mà lang thang, thậm chí chơi bạc cũng được, nhưng để học sinh của cô được yên. Lúc này đây, trong đêm viếng, đám học sinh đang vây xung quanh dona Flor và an ủi cô, nhưng một trong số họ, cô nàng Ieda bé nhỏ có gương mặt mèo hoang, đang cố kìm nước mắt và nhìn đăm đăm vào mặt người chết. Dona Flor hiểu ngay thứ tình cảm thái quá và cảm thấy lồng ngực thắt lại. Chẳng lẽ đã có gì xảy ra giữa họ? Cô chưa hề nhận thấy có gì đáng nghi ngờ, nhưng ai mà đảm bảo được họ không gặp nhau ngoài trường học rồi đưa nhau đến một căn nhà mờ ám? Vadinho dường như đã thôi trêu ghẹo các cô nàng học viên từ sau chuyện xảy ra với cô nàng ngờ nghệch và ba hoa Noemia. Nhưng anh ta là loại đàn ông dày dạn, hoàn toàn có thể chờ con bé trơ trẽn ở góc phố, nói phỉnh nói phờ mà đàn bà nào có thể cưỡng lại được miệng lưỡi ngọt như mía lùi của Vadinho? Dona Flor theo dõi ánh nhìn của Ieda, quan sát đôi môi run run của cô gái trẻ. Không còn nghi ngờ gì nữa, ôi, gã Vadinho bất trị! Trong mọi đau buồn thỉnh thoảng anh chồng lại gây ra cho dona Flor, không gì so sánh được với vụ của cô nàng Noemia, đứa con gái đàng điếm của một gia đình tiếng tăm, mà lại còn đã đính hôn chứ, thật là hổ thẹn! Nhưng dona Flor không muốn nhớ đến kỷ niệm buồn đã qua vào một đêm viếng như thế này, khi cô đang nhìn mặt chồng lần cuối. Mọi chuyện đã qua, đã lùi xa, cô nàng thì đã đi lấy chồng rồi chuyển đi theo chồng, một anh chàng tên là Alberto, vô vị, nhà báo gì đó, ngựa non háu đá vì trẻ thế mà đã bị cắm sừng. Hơn nữa, khi đã có chồng, cô nàng lẳng lơ xuống mã nhanh chóng và phát phì ra. Lần đó, mọi chuyện chấm dứt tốt đẹp một cách kỳ diệu, Vadinho dàn hòa với cô trong hơi ấm giường chiếu: “Em là người đàn bà duy nhất mà anh chịu được lâu dài. Những người khác chỉ là xixica để giải khuây thôi mà”. Còn bây giờ, trong đêm viếng này, bị vây quanh bởi biết bao người với bao nhiêu tình cảm, dona Flor không muốn nhớ lại câu chuyện đã rơi vào quên lãng, cũng không muốn theo dõi những cử chỉ và ánh mắt của Ieda đang khóc tức tưởi không kiềm chế được, để lộ bí mật qua hàng nước mắt. Vadinho chết rồi, chẳng còn gì là quan trọng nữa, việc gì phải tìm tòi, làm sáng tỏ, kết tội và than vãn? Anh chết, trả hết nợ rồi, còn trả quá nhiều là khác vì anh chết trẻ thế. Dona Flor thấy mình giờ đã làm lành với chồng, cô không còn gì phải tính toán với anh nữa. Cô cúi đầu, thôi không để ý đến những cử chỉ của cô gái trẻ nữa. Cô chỉ nhìn thấy Vadinho đang chạm tay vào người mình ở trên giường: “Chỉ là xixica không nghĩa lý gì hết, mãi mãi chỉ có một mình em, Flor, bông hoa húng thơm của anh, không ai so được với em”. Xixica là cái quái gì nhỉ? tự dưng dona Flor muốn biết. Tiếc thật, sao cô chẳng bao giờ hỏi anh nhỉ, nhưng chắc không phải là cái gì hay hớm. Cô cười. Tất cả chỉ là xixica, chỉ có cô là luôn hiện diện bên anh, Flor, bông hoa của Vadinho trong bàn tay bất động của anh. 5 10 giờ sáng ngày hôm sau, lễ mai táng diễn ra hoàng tráng, người tới tiễn đưa Vadinho đông vô kể. Vào ngày thứ Hai trong lễ hội hóa trang này, không có nhóm nhạc nào so sánh được với đám tang Vadinho về tầm quan trọng và không khí tưng bừng. Còn xa mới bằng. — Ông nhìn xem... chí ít thì cũng nhìn qua cửa sổ mà xem..., dona Norma bảo Zé Sampaio, bà hết cách không sao lôi được ông đi đưa đám ra tận nghĩa trang. Nhìn mà xem đám ma của người biết xây dựng các mối quan hệ chứ không phải một kẻ hoang dã không bầy đàn như ông... Khi sống, cậu ta là gã vô tích sự, cờ bạc, thối tha, không nhà không cửa, ấy vậy mà, ông nhìn xem... Biết bao nhiêu người đến, biết bao nhiêu... Lại còn đúng vào ngày lễ ngày hội hóa trang... Ông ấy à, Sampaio, khi nào ông chết thì không ai thèm đến động tay vào cái quan tài của ông đâu... Zé Sampaio không trả lời và cũng không nhìn qua cửa sổ. Mặc bộ quần áo ngủ cũ kỹ, đã nằm sẵn trên giường với đống báo cũ từ hôm qua, ông chỉ khẽ rên rỉ một tiếng rồi đặt một ngón tay vào trong miệng. Ông là người mắc bệnh hoang tưởng, rất sợ thăm viếng ở bệnh viện, tang ma, và lúc này, ông cảm thấy như mình sắp bị nhồi máu cơ tim. Từ hôm qua, từ khi vợ ông báo tin là tim Vadinho đột ngột ngừng đập, ông đã trải qua một đêm kinh hoàng vì sợ mạch sắp vỡ, trằn trọc trên giường, đổ mồ hôi lạnh, tay ép chặt lên ngực trái. Dona Norma, quàng chiếc khăn đen rất hợp hoàn cảnh lên mái tóc đẹp màu hạt dẻ, tàn nhẫn chua thêm vài lời: — Tôi ấy à, nếu không có được năm trăm người đến đưa ma tôi thì coi như đờì hỏng bét. Năm trăm hoặc hơn thế... Theo lý thuyết đó thì Vadinho phải tự coi mình là người thành công và mãn nguyện. Vì một nửa dân Bahia đã đến viếng, cả gã da đen Paranaguá Ventura cũng bỏ hang ổ tối tăm mà đến, mình vận bộ đồ trắng lấp lánh như da cá voi, cà vạt đen và băng tang đen trên tay áo bên trái, tay cầm hoa hồng đỏ. Hắn còn sẵn sàng khiêng quan tài và khi chia buồn với dona Flor, hắn nói lời điếu văn ngắn gọn nhất và đẹp đẽ nhất cho đám tang Vadinho, tóm tắt suy nghĩ của tất cả mọi người: — Một anh chàng tuyệt vời! màn đệm tin vắn (ngoài lề) về cuộc tranh cãi nhằm tìm ra tác giả một bài thơ khuyết danh được lan truyền từ quán rượu này sang quán rượu khác, trong bài thơ đó, tác giả khóc thương cái chết của vadinho – danh tính thật sự của nhà thơ bí hiểm cuối cùng cũng được tiết lộ ở đây, dựa trên những bằng chứng rõ rệt. — (Anh chàng hài hước Robato Filho trích dẫn.) Không, chắc chắn bài thơ đó không thể, cùng với thời gian, trở thành bí ẩn văn chương không thể giải mã nổi, thành một điểm tối và một ẩn ngữ bổ sung thêm vào nền văn hóa nhân loại, và nhiều thế kỷ sau đó, thách thức giới nghiên cứu, học giả, người viết tiểu sử, triết gia và nhà phê bình và trở thành đề tài của các nghiên cứu, báo cáo khoa học, luận án thu hút sinh viên, học viện, các vị giáo sư trong các trường đại học, các nhà sử học hay bậc cao niên đang tìm kiếm cách tồn tại vừa dễ dàng vừa bận rộn. Bài thơ càng không thể trở thành một tác phẩm kiểu Shakespeare mới được, chẳng có gì ngoài một mối nghi ngờ cũng chỉ có ý nghĩa là một sự kiện nhỏ nhặt đã được dùng làm đề tài và nguồn cảm hứng: cái chết của Vadinho. Tuy thế, trong giới văn chương ở Salvador, một nghi vấn đã được đặt ra và xung quanh nó nảy sinh cuộc tranh luận: ai trong số các nhà thơ ở thành phố này đã viết – và cho lan truyền – bài thơ Khúc bi thương cho cái chết vĩnh viễn của Waldomiro Dos Santos Guimarães, hay Vadinho theo cách gọi của gái làng chơi và bạn bè? Cuộc tranh luận bùng lên nhanh chóng, và cũng không lâu sau trở nên chua chát, biến thành nguyên cớ cho thù ghét, trả đũa, châm chọc, thậm chí cả sỉ nhục nữa. Thế nhưng, dù là cãi vã hay hằn học, nghi ngờ hay chắc ẳ chắn, khẳng định hay phủ định, chửi rủa hay tát vào mặt nhau, tất cả đều giới hạn bên các quầy bar, nơi mà vào buổi tối, các tài năng trẻ không được công nhận tụ tập quanh những cốc bia lạnh (để bôi nhọ và chà đạp lên tất cả những gì thuộc về văn học và nghệ thuật tồn tại trước sự xuất hiện vô cùng may mắn của một thế hệ mới và mang tính quyết định) và những văn sĩ hạng hai bảo thủ, cứng nhắc, chống lại mọi cải cách bằng trò chơi chữ, bằng thơ trào phúng, bằng những câu văn oang oang rỗng tuếch; người này công kích người kia – những thiên tài mặt non choẹt và những văn sĩ râu ria lởm chởm – hăng say như khi ngốn sách, về những sáng tác mới nhất của họ, văn xuôi hay thơ, từng tác phẩm cũng như toàn bộ chúng đều nhằm tạo nên một cuộc cách mạng trong văn học Braxin, vì ý Chúa. Mặc dù bị giới hạn trong không khí của bang Bahia (chứ không riêng ở thủ phủ Salvador), cuộc tranh luận vẫn lan đến tận những nơi xa xôi hẻo lánh của vùng trồng cacao. Trong tập san của Viện Hàn lâm Văn học Ilhéus § có ám chỉ rõ ràng đến một buổi sinh hoạt dành riêng để nghiên cứu đề tài này, nhưng lời nói gió bay, không tìm thấy bất cứ dấu vết nào của buổi sinh hoạt đó trong các phụ trương hay tạp chí. Tuy thế, cuộc tranh luận gây tò mò và đôi khi gay gắt không thể không gây chú ý và thu hút sự quan tâm khi người ta kể chuyện về dona Flor và hai người chồng mà trong đó Vadinho là một nhân vật quan trọng, anh hùng số một. Anh hùng ư? Hoặc có thể là kẻ xấu xa, gã vô lại gây bao đau khố cho người phụ nữ trẻ, trong trường hợp này là dona Flor, người vợ chung thủy và tận tụy? Nhưng đó là chuyện khác, không liên quan gì đến vấn đề văn học mà các nhà văn, nhà thơ đang quan tâm; có lẽ còn nan giải và trầm trọng hơn ấy chứ; bạn đọc hãy tự tìm câu trả lời nếu có đủ kiên trì đọc tới những trang cuối cùng của cuốn sách này. Trong khúc bi thương thì không còn gì phải nghi ngờ, Vadinho rõ ràng là một anh hùng, “sẽ không còn ai thân thiết với các vì sao, với đám xúc xắc và những cô gái làng chơi như anh, nhà ảo thuật tung hứng”, các câu thơ nhấn mạnh với giọng ca tụng hết mức. Nếu bài thơ, cũng như cuộc tranh luận, không được báo chí chuyên về văn chương nhắc tới thì đó không phải vì nó không xứng đáng. Một gã Odorico Tavares nào đó, nhà thơ cấp liên bang coi thường mọi lời đồn đại của đám tiên tri trong vùng – vả lại tất cả bọn họ đều ăn nhờ vào hắn, bị hắn giật dây, vì gã trùm này kiểm soát hai tòa báo và một đài phát thanh – sau khi đọc bản sao đánh máy chữ của khúc bi thương đó, đã kêu lên: — Thật tiếc là không thể in được... — Giá như nó không khuyết danh..., một nhà thơ khác, Carlos Eduardo, nhận xét. Carlos Eduardo là một gã khá điển trai, rành đồ cổ, chính là người hùn vốn với Tavares trong một vụ buôn bán tượng thánh cổ mờ ám. Các văn sĩ loại hai bị thiệt thòi nhất, cũng như những tài năng trẻ hăng say nhất, họ không có hy vọng được đăng trên phụ trương Chủ nhật của Odorico, đã quy cho hắn và Carlos Eduardo tội tàng trữ tượng thánh cổ do một băng trộm chuyên nghiệp ăn cắp từ các nhà thờ, đứng đầu là gã trai chưa mấy tiếng tăm, một gã Mário Cravo nào đó mà người ta đang thì thầm tên hắn, bạn và chiến hữu của Vadinho. Người gầy gò, râu ria xồm xoàm, gã Cravo lắm mưu mẹo sống giữa đống phụ tùng ô tô, các tấm tôn, máy móc hỏng, vặn vẹo và sửa chữa tất thảy đống đồ lề lủng củng đó, thêm thắt chút ít giá trị nghệ thuật vào kết quả, dưới sự tán thưởng của hai nhà thơ cùng một số kẻ hiểu biết đồng tình gán cho đống sắt gỉ ấy cái mác là tác phẩm điêu khắc hiện đại và coi gã như nghệ sĩ mới xuất hiện, đáng chú ý và phá cách. Đó lại là một vấn đề khác, vấn đề về giá trị thực của nghệ sĩ bậc thầy Cravo, và cuộc thảo luận về điều đó sẽ không được đưa ra ở đây, và chúng ta cũng không phân tích tác phẩm của gã trong những trang viết này. Chúng tôi chỉ nêu ra ở đây, với tính chất thông tin, rằng các nhà phê bình sau này có quan tâm đến tác phẩm của Cravo và ngoài ra, nó còn trở thành đối tượng nghiên cứu của một số nhà báo mờ ám người nước ngoài. Tuy nhiên, vào thời đó, gã còn chưa phải là nghệ sĩ được coi trọng, hắn mới vào nghề, và nếu gã có chút tiếng tăm nào đó thì cũng là nhờ những hoạt động mờ ám trong kho đồ thờ và bên các bàn thờ. Hình như có lúc rỗng túi quá, chính Vadinho cũng đã từng đêm hôm mò tới nhà thờ cổ Recôncavo, cuộc viếng thăm đó do gã dị giáo Mário Cravo tổ chức. Vụ khoắng đồ ở nhà thờ này gây xôn xao dư luận vì một trong những đồ vật bị lấy cắp là tượng thánh Benoît, đã được trao cho thầy dòng Agostinho da Piedade và các giáo sĩ đã làm ầm lên. Theo lời đồn của đám văn sĩ tồi thì bức tượng quý giá này hiện đang nằm trong một bảo tàng ở miền Nam, cũng nhờ tác phẩm và ân huệ của hai kẻ khi đó đang liên kết vừa buôn tượng thánh vừa làm thơ. Sáng hôm đó, trước khi ăn trưa, họ đang ngồi tán chuyện về tượng thánh và tranh ở ban biên tập thì Carlos Eduardo rút từ túi ra một bản copy của khúc bi thương và đưa cho nhà thơ Odorico đọc. Nhà thơ lấy làm tiếc là không thể cho in khúc bi thương – “không phải vì bài thơ khuyết danh, ta hoàn toàn có thể gán cho nó một bút danh nào đó”, mà vì những điều tục tĩu – Tavares nhắc lại: “Thật tiếc...” rồi đọc to lại một câu thơ khác: Dân chơi cờ bạc và gái da đen Bahia để tang. Anh ta quay ra hỏi bạn: — Cậu đã tìm ra tác giả chưa? — Cậu có nghĩ chính là hắn ta không? Tôi cảm thấy thế, nhưng mà... — Rõ quá còn gì... Đây nhé: Khoảnh khắc im lặng trên mọi bàn cò quay, những ngọn cờ rũ trên mái nhà thổ, những cặp mông buồn, những tiếng nức nở. — Cũng có thể thế... — Có thể ư?... Chắc chắn là hắn ta rồi (cười). Đồ ranh ma... Giới văn sĩ thì không chắc chắn như thế. Khúc bi thương bị gán cho nhiều nhà thơ, từ người có tiếng tăm tới kẻ mới vào nghề. Người ta giả thiết nào là Sosigenes Costa, Carvalho Filho, d’Alves Ribeiro, d’Helio Simões, Eurico Alves. Nhiều người còn cho rằng nhiều khả năng Robato mới là tác giả đích thực. Chẳng phải chính anh ta đã hào hứng ngâm bài này bằng chất giọng rung động trầm bổng đấy thôi: Bình minh phủ lên ánh trăng cũng tắt theo anh. Họ không thể hiểu được tại sao Robato lại đi ngâm thơ của người khác, hành động đó thật hiếm hoi trong giới thơ ca; họ quên mất bản tính rộng lượng của nhà thơ tồi Robato, cái khả năng thưởng thức và khen ngợi tác phẩm của người khác. Vả lại, có thể xác định khởi điểm thành công của khúc bi thương và cuộc tranh luận mà nó gây nên, đó là từ một đêm vui trong nhà chứa của cô ả Carla, “Carla béo”, gái làng chơi lão luyện từ Italia tới cùng vốn văn hóa vượt qua giới hạn nghề nghiệp (theo Nestor Duarte, công dân thông thái nổi tiếng luôn du lịch đó đây, một người sành sỏi, thì cô ả “cực trội” trong nghề), cô đọc D’Annunzio và say mê thơ. Gã Cravo râu ria, người đã sống với Carla một thời gian thì coi cô là “lãng mạn như bò cái”. Carla không thể sống thiếu đam mê bi kịch, chuyển từ gã phóng đãng này sang kẻ phóng đãng khác, thở dài rồi rên rỉ, tan nát vì ghen tuông, với đôi mắt xanh ghê gớm, bộ ngực vĩ đại và cặp đùi tuyệt trần. Vadinho cũng từng được gần gũi với Carla một thời gian, được cô cho chút tiền, dù rằng cô ả thích nhà thơ hơn và theo lời ca tụng của Robato thì cô còn biết “gieo vần thơ bằng ngôn ngữ ngọt ngào của Dante§ với bao đam mê và cảm hứng”. Tối thứ Năm hàng tuần, Carla tổ chức một câu lạc bộ văn học trong những căn phòng rộng rãi của mình. Có mặt ở đó là các nhà thơ và nghệ sĩ, những kẻ lang thang, vài nhân vật quan trọng như Airosa, ủy viên hội đồng thành phố, và đám gái nhà chứa sẵn sàng vỗ tay hoan nghênh những vần thơ và cười rộ khi nghe các giai thoại. Các cô mời khách nước uống và bánh kẹo. Carla chủ trì buổi sinh hoạt, nằm dài trên đi văng giữa đám gối tựa, mặc chiếc váy liền kiểu Hy Lạp, người phủ đầy ngọc rởm, trông như bức tượng Athena hay Ai Cập do Hollywood chế tạo, vừa chui ra từ một vở opera. Các nhà thơ ngâm thơ, trao đổi những lời lẽ trí tuệ, những câu thơ trào phúng, chơi chữ đan xen, rồi vị ủy viên hội đồng thành phố xướng lên một đề tài đã nhọc công chuẩn bị suốt cả tuần. Buổi họp mặt đạt đến đỉnh điểm khi chủ nhà, cô ả Carla cao lớn đứng lên giữa đám gối đệm, cả khối thịt trắng phau phủ ngọc rởm, và bằng chất giọng thanh quá đỗi so với thân hình đàn bà đồ sộ như vậy, ngâm nga tình yêu cô dành cho người đàn ông mới chọn bằng những vần thơ màu mè tiếng Ý. Trong khi đó, lợi dụng bóng tối mập mờ trong phòng khách – đèn được che voan để giúp thính giả tập trung nghe và cảm nhận thơ ca tốt hơn – chàng nghệ sĩ Cravo cùng những kẻ thực dụng thô lỗ khác chẳng tôn trọng không gian tinh thần cao cả chút nào, mà cảm xúc thì cứ dâng trào, các anh chàng xán đến gần các cô gái làng chơi, toan hưởng thụ miễn phí, khoét két, đúng là quân vô lại. Những tối đó luôn chấm dứt bằng việc chuyển từ thơ sang kể chuyện dâm dục. Mà kể loại chuyện này thì giỏi nhất là Vadinho, Giovanni, Mirandão, Carlinhos Mascarenhas và nhất là Lev, kiến trúc sư mới vào nghề, xuất thân từ một gia đình nhập cư, cao như hươu cao cổ, có cả kho giai thoại và kể chuyện rất hấp dẫn. Anh ta có cái tên Nga rất khó phát âm, các cô gái bèn gọi anh ta thành Lev Lưỡi Bạc, có lẽ cũng xuất phát từ những giai thoại. Ai mà biết được chứ? Trong một “buổi gặp mặt trí tuệ và cảm xúc trang trọng” đó, Robato đã ngâm khúc bi thương lấy cảm hứng từ cái chết của Vadinho bằng chất giọng run rẩy, sau vài lời mở đầu cảm động về người đã khuất, bạn của tất cả những ai quen thuộc với cái “hang tình yêu và thơ ca êm dịu” này. Rồi anh ta nói tác giả muốn giấu mình sau "màn sương khuyết danh mờ ảo hơn là lộ diện trong ánh mặt trời của sự tán tụng và vinh quang. Bản thân anh ta, Robato ấy, đã nhận được bản sao bài thơ từ tay một sĩ quan quân đội, đại úy Crisostomo, cũng là bạn bè thân hữu của Vadinho. Nhưng người sĩ quan này cũng không cho anh ta biết gì hơn về danh tính của nhà thơ. Nhiều người gán những câu thơ ấy cho Robato, nhưng vì anh này cương quyết chối, nên họ quay ra đành nhằm vào bất cứ ai ngâm bài thơ trong thành phố, nhất là những kẻ thích chơi đêm và những tay phóng đãng nổi danh. Tuy nhiên cũng có vài người không tin lời chối từ của Robato, cho rằng anh ta khiêm nhường, và cứ khăng khăng coi anh ta là tác giả của bài thơ. Cho đến ngày nay, vẫn có người tin rằng khúc bi thương là do Robato sáng tác. Có lúc, cuộc tranh luận trở nên gay gắt đến mức vượt qua giới hạn văn học và văn hóa, chuyển thành xung đột rồi đi đến đánh lộn, đó là khi nhà thơ Clovis Amorim, lưỡi rắn độc thả rông trong cái miệng hay châm chọc, lúc nào cũng ngậm xì gà Mercado Modelo hôi rình, phủ nhận tuyệt đối khả năng nhà thơ Hermes Climaco là tác giả của những vần thơ làm nên tranh luận, vì theo ông ta nhà thơ này không đủ tài năng và trình độ văn phạm. — Climaco ư? Đừng có nói vớ vẩn... Có cố gắng lắm thì lão ta mới rặn ra được một đoạn bốn câu bảy âm tiết. Đồ thi sĩ tắc tị... Thật không may, nhà thơ Climaco từ đâu hiện ra trước cửa quán trong bộ vest đen muôn thuở, áo khoác đi mưa và ô cũng muôn thuở. Ông ta giơ chiếc ô lên, tức tối dọa nạt: — Có con điếm đẻ ra mày tắc tị thì có... Rồi họ vít cổ nhau, chửi rủa và đánh lộn, tất nhiên là Amorim lợi thế hơn, vừa là thợ làm thơ giỏi hơn, vừa là lực sĩ tráng kiện hơn. Cũng còn chuyện gây hiếu kỳ và đáng kể ra ở đây, đó là chuyện về anh chàng tác giả nào đó mới viết được hai tập thơ mỏng tèo nhưng cũng được nhiều người thiếu chín chắn gán cho khúc bi thương. Đầu tiên, anh ta chối đây đẩy, thế rồi, vì những người kia cứ khăng khăng gán ghép, anh ta bớt dứt khoát hơn và cuối cùng thì phản ứng theo kiểu bối rối và bẽn lẽn đến nỗi sự khước từ lại thành ra như lời ngầm khẳng định. — Đúng là anh ta rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, họ nói khi thấy anh ta xoa xoa hai tay, cụp mắt, mỉm cười thầm thì gì đó. — Vâng thì những câu thơ ấy có vẻ là của tôi, nhưng thực ra thì không phải... Anh ta vẫn chối, nhưng đồng thời cũng chưa bao giờ muốn người ta gán cho ai khác những đoạn thơ đang gây tranh cãi đó. Nếu người ta làm thế, anh ta sẽ vội vàng tìm cách chứng minh rằng giả thuyết đó là vô lý. Và nếu người nào cứ cố tranh cãi thì anh ta lẩm bẩm, vẻ quyết đoán và bí ẩn: — Anh lại muốn nói chuyện đó với tôi ư?... Tôi biết tại sao rồi... Và khi nghe bài thơ ngâm lên, anh ta chăm chú theo dõi người ngâm thơ, sửa cho người này nếu có vài từ bị thay đổi, ghen tuông, hăng hái như thể đó là tác phẩm của mình. Chỉ sau này, khi tên của tác giả thật được tiết lộ, anh ta mới chịu từ bỏ niềm hư vinh. Kể từ lúc ấy, anh ta bắt đầu nói những điều tệ hại về khúc bi thương, phủ nhận mọi nét đẹp và giá trị của nó – “thứ thơ đĩ điếm thô tục”. Nhờ có cuộc tranh luận như thế mà khúc bi thương đâm ra nổi tiếng, được người ta đọc, học thuộc lòng, ngâm đi ngâm lại bên các quầy bar từ sáng sớm, khi rượu cachaça làm thăng hoa những cảm xúc cao đẹp nhất. Những người ngâm thơ thường thay đổi tính từ, động từ, đôi khi đảo lộn các câu hay nhảy cóc vài đoạn. Nhưng dù theo nguyên gốc hay đã biến đổi, dù đẫm rượu cachaça, rơi xuống sàn các hộp đêm, khúc bi thương vẫn được lưu truyền, là lời ca tụng Vadinho. Dù tác giả có là ai đi nữa, khúc bi thương phản ánh tình cảm chung của cái thế giới hạ lưu này, nơi Vadinho gia nhập từ tuổi niên thiếu, cũng là nơi anh ra đi như một biểu tượng. Khúc bi thương đạt đến tuyệt đỉnh trong những lời ngợi ca dành cho tay chơi bạc trẻ tuổi. Nếu được nghe những lời ca ngợi hay thương tiếc đó, Vadinho chắc không thể tin nổi. Cả đời mình, anh ta chưa bao giờ được tán dương, ca tụng, mà ngược lại: luôn bị người ta nã vào tai những lời khiển trách, khuyên nhủ và lên lớp vì lối sống bê bối và cảm xúc thấp hèn của anh ta. Mà thực ra thì lòng độ lượng trước những hành động xấu xa của Vadinho, rồi việc người ta công khai tán dương những cái gọi là phẩm chất của anh ta, biến Vadinho thành nhân vật của thơ ca và gần như truyền thuyết, cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Một tuần sau khi Vadinho chết, mọi chuyện lại đâu vào đấy, giới bảo thủ, những người có trách nhiệm duy trì đạo đức bắt đầu lên tiếng qua miệng lưỡi các bà ngồi lê đôi mách và hàng xóm láng giềng để tìm cách chèn ép lời tán dương bừa bãi đang tới hồi nhạt dần mà tụi vô lại nổi loạn ở các nhà chứa và sòng bạc tung ra với ý định phá hoại thuần phong mỹ tục và chế độ đương thời. Vì thế một vấn đề mới nổi lên và thu hút sự quan tâm của mọi người, như thể việc đi tìm tác giả bài thơ vẫn còn chưa đủ. Lại nói đến chuyện tác giả của bài thơ, người ta đã có bằng chứng để tìm ra danh tính anh ta, cuối cùng tác giả cũng lộ diện và được lưu danh vĩnh viễn vào sổ vàng văn chương quốc gia. Nhiều năm sau cái chết của Vadinho, nhà thơ Odorico nhận được một bản Khúc bi thương uế tạp – một trong ba tập duy nhất được tác giả hào phóng tặng – bản in rất sang trọng, chỉ giới hạn ở con số một trăm với chữ viết tay của tác giả, thể hiện trên bản in khắc gỗ của Calazans Neto, lúc đó, anh ta mới quay sang Carlos Eduardo, cẩn trọng đưa cho bạn cuốn sách quý giá. Hai người bạn đang ngồi ở tòa soạn, chính nơi ngày xưa họ đã cùng đọc và thảo luận về khúc bi thương. Giờ đây, họ đã trở thành những quý ông đáng kính to béo và giàu có, cực giàu vì nắm trong tay nhiều bộ sưu tập đồ cổ và các tòa nhà lớn. Odorico gợi lại: — Hồi đó tôi đã nói với anh rồi còn gì? Chính là hắn. Rồi ông ta kết luận với vẫn nụ cười và câu nói năm xưa: — Đồ ranh ma... Còn Carlos Eduardo thì cười to, giọng cười thân mật của người đàn ông đã thành đạt và yên ổn, rồi ngắm nghía ấn phẩm hiếm có. Trên bìa sách, tên tác giả được in bằng chữ nổi: Godofredo Filho. Ông chậm rãi xem lướt qua các trang sách, tự hỏi (có đôi chút thèm muốn): “Nhà thơ lừng danh và gã lang thang nghèo khó ấy đã cùng nhau khám phá và yêu thích những con phố, những đoạn dốc bí ẩn, những lối mòn hoàng hôn mờ ảo, hang tối tỏa hương nào mà lại nảy nở bông hoa tình bạn hiếm có đó?”. Chầm chậm, Carlos Eduardo vừa tiết lộ những bí ẩn đó vừa chạm tay vào trang giấy như thể anh ta đang vuốt ve làn da đàn bà, một làn da đen, ai mà biết được? hay màn nhung đêm? Khúc bi thương thứ tư trong năm khúc của toàn bộ cuốn sách, là khúc dành cho cái chết của Vadinho, “tấm thẻ bài xanh bỏ quên trên thảm”. Vậy là một vấn đề đã được giải quyết, như đã hứa. Thế nhưng lại nảy ra một vấn đề khác cần phải giải quyết, và chẳng biết có tìm được giải pháp hay không? Bức màn bí mật thứ hai của Vadinho tùy thuộc vào tính kiên trì của bạn đọc. Vadinho là ai? Diện mạo anh ta thực sự ra sao? Các kích thước chính xác là bao nhiêu? Gương mặt đàn ông của anh ta rạng rỡ ánh mặt trời hay bị bóng tối che phủ? Anh ta là ai, con người đùa cợt trong khúc bi thương, anh chàng tuyệt vời trong câu nói của Paranaguá Ventura, hay là gã vô lại khốn khổ, nợ như chúa chổm, người chồng xấu xa như lời của hàng xóm và các bạn gái của dona Flor nhận xét? Giờ đây ai là người hiểu anh ta hơn hết và định nghĩa con người anh ta chính xác nhất? Những người đàn bà sùng đạo thường có mặt trong buổi lễ lúc sáu giờ ở nhà thờ Santa-Tereza hay đám khách quen không thể cứu vãn của quán Tabaris, “bóng đã lăn trên bàn cò quay, ván bài và tiền đặt cọc, lần đặt tiền cuối cùng?” phần hai những ngày đầu trong cảnh góa bụa, thời gian để tang đau buồn, tràn ngập kỷ niệm về những hy vọng và lỗi lầm, về tình yêu, về hôn nhân, về cuộc sống vợ chồng của vadinho và dona flor, với những ngày vui buồn, và giờ đây là nỗi mong đợi dài đằng đẵng vô vọng (cùng sự hiện diện đầy tai họa của dona rozilda) — Với Edgard Cocô chơi violon, Caymmi chơi ghi ta, tiến sĩ Walter da Silveira cùng tiếng sáo thần kỳ của ông trường nghệ thuật ẩm thực và hương vị Công thức của dona Flor: moqueca cua lột (Món này chỉ có thể nấu bằng loại cua vùng Bahia vừa lột xác, khi mai cua còn mềm, hơi dính như keo.) Lý thuyết. Nguyên liệu (dành cho 8 người): một chén bơ dầu dừa nguyên chất không nước; một chén dầu cọ, một cân cua lột. Để làm nước xốt: ba nhánh tỏi, muối tùy khẩu vị, nước chanh vắt, rau mùi, cần tây, hành lá, hai củ hành tây, một nửa chén dầu ô liu, một quả ớt ngọt, nửa cân cà chua. Để dành ra bốn quả cà chua, một củ hành tây, một quả ớt ngọt. Thực hành. Bóc hai củ hành tây, giã tỏi; hành tây và tỏi không nặng mùi đâu, không hề, thưa các quý bà, toàn hoa thơm trái ngọt của đất. Thái nhỏ rau mùi, cần tây, vài quả cà chua, hành lá và nửa quả ớt ngọt. Trộn đều tất cả với dầu ô liu và để riêng thứ nước sốt dậy mùi thơm ngon đó. (Những người thấy hành có mùi hôi thật là ngốc nghếch, họ thì biết gì về những mùi nguyên chất? Vadinho thích ăn hành sống... Nụ hôn của anh nóng bỏng.) Rửa từng con cua vào nước chanh pha loãng, rửa thật kỹ, nhẹ nhàng, để sạch cua mà không làm chúng mất mùi hải sản tươi ngon. Và bây giờ là cách ướp: ngâm từng con vào nước sốt, rồi cho vào chảo rán, con nào cũng phải ngấm mùi thơm. Đổ phần nước sốt còn lại lên cua Đổ từ từ, vì món này hết sức tinh tế (Ôi! đó là món mà Vadinho thích nhất!) Lấy bốn quả cà chua, một quả ớt ngọt, một củ hành tây để dành lúc nãy, thái thành khoanh tròn cho đẹp mắt rồi đặt tất cả lên trên cua. Hấp trong vòng hai giờ, để cua ngấm các nguyên liệu. Sau đó đặt chảo lên bếp, vặn to lửa. (Chính anh ấy thường tự đi mua cua lột ở hàng ông già trong chợ...) Khi cua sắp chín, chỉ đến lúc đó, mới thêm bơ dầu dừa, rồi cuối cùng cho dầu cọ vào, ngay trước khi tắt bếp. (Anh ấy luôn ra vào để nếm nước sốt không ai có khẩu vị tinh tế hơn anh.) Vậy là chúng ta đã hoàn thành một món ăn ngon, cầu kỳ trong nghệ thuật ẩm thực; ai nấu thành công món này hoàn toàn có thể hãnh diện mình là đầu bếp tài ba. Còn nếu không có tài thì chẳng nên cố không phải ai sinh ra cũng trở thành nghệ sĩ ẩm thực. (Đó là món ăn yêu thích của Vadinho; Tôi không bao giờ được dọn cho anh ăn nữa. Hàm răng anh cắn con cua lột, đôi môi anh vàng màu dầu cọ. Ôi! đôi môi anh không bao giờ còn nữa, chiếc lưỡi anh không bao giờ còn nữa cái miệng nóng bỏng vị hành tươi!) 1 Trong buổi lễ bảy ngày, do dom§ Clemente Nigra chủ trì tại nhà thờ Santa-Tereza, gian chính điện của nhà thờ lộng lẫy trong ánh sáng xanh của buổi ban mai trong suốt từ biển gần đó ùa vào cứ như nhà thờ là con tàu đang sẵn sàng ra khơi – những lời bình phẩm xì xào thể hiện tình thân và niềm cảm thông vọng tới tai dona Flor, đang quỳ gối trên hàng ghế đầu, trước bệ thờ, vận toàn đồ đen, chiếc khăn trùm đăng ten mượn của dona Norma che đi mái tóc và những giọt nước mắt, tay cầm tràng hạt. Người ta không xì xào cảm thương cô góa bụa, mà là thương cho cô từng phải khổ sở vì anh ta. Cúi gập người trên ghế cầu kinh, dona Flor không nghe thấy gì, như thể không còn ai khác trong điện thờ ngoài bản thân cô, vị linh mục và Vadinho nay đã vắng bóng. Có tiếng thì thầm chua chát nổi lên giữa những người đàn bà sùng đạo, mê lễ bái và ghét vui đùa: — Nếu không phải là bậc thánh nhân thì có lẽ cô ấy đã ăn mừng thay vì làm lễ nhà thờ. Có cả khiêu vũ nữa chứ... — Thế là cô ấy được giải thoát... Trước bệ thờ, cầu kinh nhật tụng cho linh hồn Vadinho, dom Clemente, võ vàng vì nhiều đêm thức trắng nghiền ngẫm đống sách cổ, trong không khí kỳ diệu của buổi sáng tinh sương, chỉ cảm thấy có gì đó bối rối, u ám, giống như có loại quỷ sứ nào đó, Sa Tăng hoặc Exú§, có lẽ Exú thì đúng hơn, đang lượn qua gian chính điện trong nhà thờ. Tại sao người ta không để cho Vadinho yên, không cho anh ta được yên nghỉ? Dom Clemente biết rõ anh ta: Vadinho thích đến trò chuyện ở sân tu viện, anh ngồi dựa vào tường, kể những câu chuyện không phải lúc nào cũng thích hợp với những bức tường tôn nghiêm, nhưng vị linh mục vẫn lắng nghe chăm chú vì tò mò và cảm thông đối với mọi thực tế đời thường. Trong hành lang, giữa gian chính điện và kho đồ thờ, có đặt một chiếc bàn như bệ thờ, trên đó là bức tượng thiên thần chạm trổ bằng gỗ, bức tượng vô danh và dân dã chắc chắn có từ thế kỷ XVII, và người ta có lẽ sẽ phải thốt lên rằng trông cứ như nghệ nhân đã lấy Vadinho làm mẫu; cũng gương mặt vô tư lự và tinh ranh, cũng vẻ xấc xược, thư thái ấy. Thiên thần quỳ trước một bức tượng khác, mới hơn và theo phong cách ba rốc, tượng thánh Claire, và chìa tay về hướng bức tượng đó. Một hôm, dom Clemente đưa Vadinho đến xem bệ thờ và thiên thần, để xem anh chàng phóng đãng có nhận ra sự tương đồng không. Vadinho cười ngay khi vừa nhìn thấy hai bức tượng. — Sao con cười vậy? linh mục hỏi. — Xin Chúa tha tội, thưa cha... Nhưng có vẻ như thiên thần đang trêu ghẹo nữ thánh? — Con nói thiên thần đang làm gì? Những từ ấy nghĩa là thế nào, Vadinho? — Xin thứ lỗi cho con, dom Clemente, nhưng thiên thần này trông giống hệt gã trai bao... Chẳng có vẻ gì là thiên thần cả... Cha nhìn con mắt đó kìa, con mắt dâm dục... Quay người về phía bàn thờ để ban phép lành, hai bàn tay giơ cao, linh mục nhìn thấy mấy bà sùng đạo đang lẩm bẩm. Chà! đó mới chính là rối loạn, là quỷ dữ, ôi! Những cái miệng trơ trẽn và độc địa, ôi! Những cô nàng trinh trắng chua chát, đám gái già ti tiện tham lam, và đứng đầu trong đám là dona Rozilda, “cầu Chúa nhân từ tha tội cho họ!”. — Con bé đã phải chịu khổ sở vì hắn. Nó ăn phải bánh mì của quỷ sứ... — Tại vì nó muốn thế. Có phải vì tôi không khuyên nó đâu... Nếu nó không đắm đuối với thằng ấy đến thế thì nó đã nghe lời tôi rồi... Tôi đã cố hết sức... Là người sinh ra dona Flor nhưng có tư chất làm mẹ ghẻ, dona Rozilda cứ lải nhải như thế, táo tợn tìm cách hoàn thành thiên hướng mẹ ghẻ của mình. — Con bé không chịu ngồi yên một chỗ, cứ quậy phá, xin Chúa chứng giám, nó không muốn nghe gì nữa, nó nổi loạn... Rồi nó tìm được người nâng đỡ nó, tìm được chốn nương thân... Vừa nói, bà vừa nhìn sang chỗ em gái mình, dona Lita đang quỳ, rồi tiếp: — Cầu kinh cho cái thằng vô lại ấy quá bằng ném tiền qua cửa sổ, chỉ béo thầy tu.… Dom Clemente cầm bình hương và phủ hương lên hơi thở bốc mùi của quỷ dữ phát ra từ miệng các bà sùng đạo. Ông bước xuống khỏi bệ thờ, dừng lại trước mặt dona Flor, trìu mến đặt tay lên vai cô, nói to trước dàn đồng ca độc địa của những kẻ sùng đạo ác độc: — Cả những thiên thần nổi loạn cũng có chỗ bên Chúa trong vinh quang của Người. — Thiên thần ư... Sự trừng phạt của Chúa thì có... Con quỷ địa ngục thì đúng hơn..., dona Rozilda gằn giọng. Lưng hơi còng xuống, dom Clemente đi qua gian chính điện rồi hướng về phía kho đồ thánh. Trong hành lang, ông dừng lại ngắm bức tượng kỳ lạ mà nghệ nhân vô danh đã gửi vào đó cả nét duyên dáng và sự vô liêm sỉ. Trong lòng anh ta lúc đó nghĩ gì, anh ta muốn truyền vào đó thông điệp gì? Bị những say mê trần tục ngự trị, thiên thần nhìn như muốn nuốt chửng nữ thánh tội nghiệp bằng đôi mắt phóng đãng. Đôi mắt dâm dục, như Vadinho nói bằng thứ ngôn ngữ sống động của anh ta, nụ cười sỗ sàng, gương mặt táo tợn không kiêng nể ai. Đúng là Vadinho, chưa bao giờ giống tới như vậy. Liệu dom Clémente có nói quá lời, có vội vàng không khi ông khẳng định chỗ đứng của Vadinho bên Chúa trong vinh quang của Ngài? Ông đến bên cửa sổ đã mở sẵn, trên bức tường đá, ngắm nhìn sân tu viện. Vadinho thường ngồi đó, trên bức tường bao kia, dưới chân là biển cả với tàu bè ngang dọc. Và anh ta nói: — Thưa cha, nếu Chúa thực sự muốn chứng minh quyền lực của mình, Ngài sẽ cho số 17 trúng tới mười hai lần liền. Thế mới là kỳ diệu! Nếu vậy thì con sẽ mang hoa đến chật nhà thờ của cha. — Chúa không lo đến việc chơi bạc đâu con... — Vậy thì, thưa cha, Chúa không biết cái gì tốt và cái gì xấu. Như nỗi lo lắng khi nhìn quả bóng nhỏ nhoi lăn trên bàn cò quay... ta đánh liều chơi thẻ bài cuối cùng, tim đập thình thịch... Và anh ta hạ giọng như để tâm sự điều bí mật giữa anh và linh mục: — Làm sao mà Người lại không biết, thưa cha? Đứng ở sân trước nhà thờ, dona Rozilda cao giọng: — Đúng là phí tiền! Chẳng có lễ cầu nào cứu vãn được thằng khốn khổ đó, Chúa có mắt. Giấu gương mặt đau buồn trong tấm khăn choàng, dona Flor xuất hiện, dona Gisa và dona Norma đỡ hai bên. Trong ánh sáng ban mai xanh, nhà thờ giống như con tàu bằng đá đang trôi. 2 Chỉ đến tối ngày thứ Ba của lễ hội hóa trang thì tin về cái chết của Vadinho mới lan đến Nazareth-das-Farinhas, nơi dona Rozilda sống cùng vợ chồng người con trai làm công chức trong ngành đường sắt, bà ta hành hạ con dâu, biến cô thành nô lệ cho quyền lực độc tài của mình. Không chần chừ, bà ta lập tức đến Bahia vào ngày lễ tro§, một ngày giống như tâm tính bà, theo như lời nhận xét của một anh con rể khác, Antônio Morais: “Đó không phải một người đàn bà, mà là ngày lễ tro, bà ta dập tắt niềm vui của bất cứ ai!” Cái mong muốn để nhà mình tránh càng xa càng tốt bà mẹ vợ chắc chắn là một trong nhiều lý do khiến Morais, từ nhiều năm nay, sống ở một thị trấn nhỏ ngoại ô Rio de Janeiro. Là thợ cơ khí giỏi, anh đã nhận lời một người bạn đi thử vận may ở miền Nam, nơi anh làm ăn phát đạt. Anh không chịu trở lại Bahia nữa, dù chỉ là đi chơi vài ngày ngắn ngủi, chừng nào mà “mụ ác mỏ còn tác oai tác quái”. Tuy nhiên, dona Rozilda không ghét Antônio Morais, và cũng chẳng ghét con dâu. Nhưng bà ta khiếp hãi Vadinho và không bao giờ tha thứ cho Flor vì cuộc hôn nhân này, kết quả cuộc mưu phản hèn hạ chống lại quyền lực và những quyết định của bà. Tuy dona Rozilda không hài lòng lắm về đám cưới của Antônio Morais và Rosalia, con gái lớn của bà, nhưng cũng không đến nỗi phản đối. Bà không hòa thuận với con rể và cũng chẳng hòa hợp với con dâu, vì bản tính của bà là làm khổ cuộc đời người khác. Khi không còn ai để gây sự, bà ta cảm thấy cô đơn và bất hạnh. Với Vadinho thì khác: bà ghét cay ghét đắng anh ta ngay từ những buổi đầu anh ta yêu Flor, khi phát hiện ra cái bẫy gian trá và lừa lọc mà kẻ đáng ghét cầu hôn con gái bà giăng ra. Bà luôn luôn có ác cảm với anh ta và thậm chí còn không muốn nghe thấy tên anh ta. “Nếu thành phố này có ẳ cảnh sát thì hẳn thằng vô lại ấy đã ngồi tù rồi”, bà lặp lại câu nói đó mỗi lần có ai hỏi đến con rể hay muốn gửi lời hỏi thăm anh ta hoặc muốn kể cho bà nghe những kỷ niệm tốt đẹp với kẻ tồi tệ đang là chủ đề câu chuyện kia. Đôi lần hiếm hoi bà đến thăm dona Flor, cốt chỉ để tra tấn cô, không đả động đến chủ đề nào khác, bà ta suốt ngày chỉ nói đến những trò xấu xa, cuộc sống phóng đãng, những chuyện đáng xấu hổ, bê bối hàng ngày của Vadinho. Vẫn còn đứng chống khuỷu tay vào thành tàu, bà đã hét lên những tiếng inh tai với dona Norma, được dona Flor nhờ, đang đứng chờ bà ta dưới bến Bahiana: — Cuối cùng thì cái thằng du thủ du thực ấy cũng ngoẻo rồi đấy! Con tàu cập bến, đầy ắp hành khách nôn nóng với đống hành lý cồng kềnh, gói, làn, va li, các kiện hàng đủ loại: hoa quả, bột, củ cải, sắn củ, thịt hun khói, su su và bí đỏ. Dona Rozilda vừa lên bờ vừa hét to: — Thế là nó xuống địa ngục, lẽ ra nó phải chết từ lâu rồi mới phải! Dona Norma thấy bất lực. Dona Rozilda có tài khiến bà không kịp phản ứng và thấy nản chí vô cùng. Bà hàng xóm tốt bụng ra bến tàu với gương mặt nhã nhặn cảm thông, sẵn sàng động viên bà mẹ vợ đang trong cảnh tang tóc, khóc lóc, để chia sẻ với bà ta sự bấp bênh của vạn vật trong cuộc đời này: hôm nay còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hôm sau đã nằm yên trong quan tài. Bà sẽ lắng nghe những lời than thở của dona Rozilda, an ủi bà cụ cam chịu trước ý Chúa, ai biết được Người đang làm gì chứ! Một người là mẹ, người kia là bạn thân của dona Flor, cả hai sẽ trò chuyện về hoàn cảnh mới mà dona Flor sẽ phải đối mặt: góa bụa, cô đơn và còn quá trẻ. Dona Norma đã chuẩn bị tinh thần như vậy khi đi đón dona Rozilda: cử chỉ, lời nói, thái độ hết sức chân thành và cảm động, trong cách cư xử của bà chưa khi nào có chút gì là giả tạo cả. Dona Norma cảm thấy mình có trách nhiệm với tất cả mọi người, bà là người che chở cho khu phố, sẵn sàng cứu giúp những người xung quanh. Cả phố cứ mỗi khi có chuyện lại chạy tới nhà dona Norma – ngôi nhà đẹp nhất ở phố này; chỉ có nhà của gia đình Bernabo, người Achentina, chủ xưởng gốm, mới có thể so sánh được, có thể ngôi nhà này sang hơn một chút. Hàng xóm láng giềng đến vay mượn bà những thứ nhỏ nhặt từ muối, hạt tiêu đến bát đĩa ăn hay quần áo đẹp. — Dona Norma, mẹ cháu bảo cháu sang hỏi xem cô có thể cho mẹ cháu vay một cốc bột mì để làm nốt cái bánh đang dở. Mẹ cháu sẽ trả cô sau... Đó là Aninha, con gái út của bác sĩ Ives, hàng xóm gần nhà; vợ ông, dona Emina, thường vừa hát những khúc ca Ả rập vừa tự đệm đàn piano. — Này cháu, không phải hôm qua mẹ cháu vừa đi chợ à? Đàn bà mà đoảng thế... Một cốc đủ chưa? Bảo mẹ có cần nữa thì lại sang lấy... Hoặc cậu bé người làm nhà dona Amelia với cái giọng chối tai: — Dona Norma, bà chủ bảo cháu sang mượn cái cà vạt đen của ông Sampaio, cái nơ bướm ấy, vì cái của ông Ruas đã bị nhậy nhấm rồi... Rồi cũng có khi là dona Risoleta với vẻ hoảng hốt, lo lắng: — Norminha§, vì Chúa, giúp tôi với... — Chuyện gì thế? — Có thằng say rượu cứ đứng mọc rễ trước cửa nhà tôi, không thể nào đuổi đi được, chị bảo tôi phải làm sao bây giờ? Dona Norma đến xem, nhận ra người đàn ông, cười: — À, Bastião Cachaça đấy mà, tôi biết anh ta... Đi nào, Bastião, ra khỏi chỗ này đi, sang bên nhà tôi đánh một giấc, nằm trong góc nhà để xe ấy. Cứ thế cả ngày, nào là thư vay tiền, nào là lời gọi gấp tới giúp một kẻ đang quẫn trí hay chăm nom người ốm, khách hàng đến tiệm – dona Norma cạnh tranh vô tư với các bác sĩ, dược sĩ, thậm chí cả bác sĩ thú y, vì tất cả đám mèo xung quanh đều đến đẻ trong các xó xỉnh ở nhà bà, nơi chúng không bao giờ thiếu sự chăm sóc và thức ăn. Bà phát những gói thuốc mẫu – do bác sĩ Ives cung cấp – cắt váy, và mẫu quần áo – vì bà có bằng cắt may – viết thư giúp người làm trong các gia đình, khuyên nhủ, lắng nghe những lời phàn nàn, than thở, mai mối, hỗ trợ chuyện cưới xin, che chở những mối tình chớm nở, giải quyết đủ loại vấn đề, lúc nào cũng chộn rộn, khiến Zé Sampaio phải kết luận: — Cứ như con ong không biết mệt, đến nỗi không đủ kiên nhẫn mà ngồi trong toa lét... rồi ông đưa tay lên miệng, vẻ cam chịu. Dona Norma, bà hàng xóm tốt bụng, chuẩn bị tinh thần đón một dona Rozilda sướt mướt, ôm chặt bà vào lòng mà động viên an ủi. Thế nhưng bà này lại xuất hiện trong tình trạng hoàn toàn trái ngược đến vô lý, như thể cái chết của con rể là một tin vui. Bà ta bước xuống cầu thang tàu thủy, một tay cầm gói đặc sản bột sắn Nazareth rang vàng ươm và trong giỏ là những con cua nước ngọt buộc thành xâu, mới mua trên tàu, vẫn đang ngọ nguậy, còn tay kia cầm ô và va li. Rõ ràng là, dona Norma nghĩ, bà ta không mang cái va li to tướng để ở lại lâu mà chỉ có cái rương gỗ nhỏ dùng cho những chuyến đi ngắn ngày, chỉ vài ngày thôi rồi tạm biệt. Bà tiến lên giúp dona Rozilda rồi ôm hôn chia buồn, không đời nào dona Norma chịu từ bỏ cái nghĩa vụ khó khăn đó. — Xin chia buồn... — Chia buồn ư? Với tôi à? Không đâu cô ạ, không cần phung phí lời lẽ xã giao đâu. Đối với tôi, lẽ ra nó phải chết từ lâu rồi mới phải, tôi chẳng thấy thương tiếc chút nào. Giờ thì tôi lại được vỗ ngực mà nói lại một lần nữa rằng trong gia đình mình không có kẻ thấp hèn nào cả. Thật là xấu hổ, đúng không cô? Nó chọn đúng lễ hội hóa trang mà chết, lại còn giả trang, đúng là cố tình... Bà đứng lại trước mặt dona Norma, đặt va li, giỏ, gói xuống đất để nhìn hàng xóm của con mình kỹ hơn, nhìn chòng chọc từ đầu tới chân và nói với giọng khen ngợi giả tạo: — Cô à... Nói không phải nịnh cô đâu nhé, cô hơi béo ra đấy... Cô thật là xinh đẹp, ăn diện đúng mốt, mũm mĩm, cầu Chúa ban phước lành và che chở cho cô... Bà nhấc chiếc giỏ lên vì mấy con cua đang cố bò ra ngoài, rồi lại ầm ĩ nhận xét: — Tôi thích những người đàn bà không mải chạy theo những trò mốt ngớ ngẩn... Tôi biết nhiều cô cứ ăn kiêng rồi cuối cùng bị lao hết lượt... Cô thì.. — Đừng nói vậy, dona Rozilda. Tôi lại cứ nghĩ là mình thon thả hơn cơ đấy... Bà phải biết tôi đang theo một trong những chế độ khắc nghiệt nhất đấy... Tôi không ăn tối, từ một tháng nay tôi không biết mùi đậu là gì... Dona Rozilda lại nhìn dona Norma bằng con mắt chê bai: — Đấy, ai mà bảo thế chứ! Bà thu vén đồ đạc cùng dona Norma, đi về phía thang máy§ Lacerda, dona Rozilda tiếp tục nói: — Thế còn ông Sampaio? Vẫn chúi vào giường suốt ngày à? Chưa bao giờ tôi thấy người đàn ông nào chán thế. Cứ như con chó già... Dona Norma không ưa lắm lối so sánh ấy, cười phản đối: — Ông ấy vậy đấy... luôn chán nản... Nhưng dona Rozilda không phải loại đàn bà biết tha thứ cho những khuyết điểm của con người: — Lạy Chúa ban phước lành... Có người chồng kiêu ngạo như chồng cô thì chắc khổ lắm. Ông Gil nhà tôi... tôi không định bảo ông ấy danh giá gì đâu, cũng chẳng phải là thánh... Nhưng mà so với chồng cô thì... Ôi! Cô bạn tốt của tôi, nói thật với cô: nếu là tôi thì tôi sẽ không thể chịu đựng được... Đàn ông gì mà không bước chân ra ngoài, không đi đâu bao giờ, tính tình ủ ê, suốt ngày trong nhà... Dona Norma cố gắng chuyển câu chuyện theo đúng hướng: chung quy thì là dona Rozilda vừa mất con rể, vì thế mà bà ta đến thành phố này, họ phải trao đổi về đề tài bi thương ấy mới phải, hơn nữa dona Norma đã chuẩn bị sẵn cho đề tài đó: — Flor rất buồn bã và mệt mỏi. Cô ấy thương tiếc cậu ta lắm... — Vì nó là đứa ngu, không có nhận thức. Từ bé nó đã như vậy, chẳng ai bảo nó là con gái tôi cả. Nó giống bố nó. Cô không biết ông Gil nhà tôi nhỉ, không phải tự khen đâu, nhưng hồi ông ấy còn sống thì tôi mới là đàn ông trong nhà. Không bao giờ nghe thấy ông ấy thì thầm hay kêu một tiếng, tôi tự quyết định hết mọi chuyện. Flor cũng giống ông ấy, nhu nhược, không có ý chí; nếu không thì làm sao nó chịu đựng mãi được thằng chồng như thế? Dona Norma thầm nghĩ nếu ông Gil chồng bà ta không phải là người dễ tính, ngốc nghếch, không có ý chí thì làm sao chịu đựng được người vợ như bà ta lâu thế, và bà thấy thương cho thân phận của cha dona Flor. Thương cho cả dona Flor nữa, vì giờ đây cô có nguy cơ thường xuyên bị mẹ tới thăm, mà rất có thể – ai mà biết được? – còn đến ở hẳn nhà cô con gái góa bụa, đầu độc không khí chan hòa trong khu Sodré và xung quanh. Hồi Vadinho còn sống, khi dona Rozilda tới thì thường chỉ là chớp nhoáng, vừa đủ để nói xấu con rể rồi đi ngay trước khi kẻ tồi tệ thình lình về nhà với những câu đùa vô duyên. Vì với Vadinho, dona Rozilda không bao giờ thắng, không bao giờ được nói lời quyết định, thậm chí còn không làm cho anh ta cáu được. Vừa nhìn thấy bà thì thụt, anh ta đã cười ra vẻ rất thỏa mãn, cái đồ vô lại, cứ như bà mẹ vợ là khách quý vậy. — Ai thế này! Mẹ vợ thánh thiện yêu quý của con, bà mẹ thứ hai của con, người có tấm lòng vàng, con chim bồ câu hiền lành! Lưỡi mẹ sao rồi, đã mài sắc chưa? Ngồi xuống đây, mẹ ơi, thánh mẫu yêu quý, ngồi gần con rể thân yêu nào, mẹ con mình cùng moi những chuyện rác rưởi ở Bahia ra nhé... Rồi anh ta cười, điệu cười sang sảng vui sướng của kẻ tinh quái và thỏa mãn: nếu chừng ấy kỳ phiếu hết hạn, chừng ấy nợ nần rải rác khắp nơi, chừng ấy lần túi tiền cạn kiệt và chừng ấy lần cần tiền gấp để chơi bạc còn không khiến anh ta buồn bực thì làm sao dona Rozilda có thể làm nổi cơ chứ? Bà ghét anh ta vì thế và vì những chuyện anh ta đã làm trong thời gian đầu mới yêu Flor. Trong cơn tức giận, bị tiếng cười của Vadinho xúc phạm, bà ta bỏ cuộc rồi quay sang trút giận lên đầu dona Flor, nguyền rủa, buộc tội cô ngay giữa phố: — Không bao giờ tao thèm đặt chân vào cái nhà này nữa, đồ con gái chết tiệt! Ở lại đó với thằng chồng chó má của mày, cứ mặc cho nó chửi mẹ mày, quên công nuôi dưỡng của mẹ đi... Tao đi đây, kẻo rồi nó lại đánh tao... Tao không chịu ăn đòn như mày được... Tiếng cười chế giễu của Vadinho theo bà ra tận ngoài đường, vang tới tận hang cùng ngõ hẻm – toàn những lời chế giễu – làm bà phát điên lên. Có hôm bà điên đến mức mất hết cả tỉnh táo: quên cả vị thế của mình, góa bụa và phải đúng mực, bà đứng giữa phố đông người qua lại, quay về phía cửa sổ nơi con rể đang cười lăn cười bò, đưa cánh tay trần lên làm một loạt những cử chỉ tục tĩu, giọng lạc hẳn đi, thốt ra những lời chửi thề, nguyền rủa: — Cho mày đấy, thằng đĩ điếm, đồ con lợn, cầm lấy và nhớ để vào... Những người qua đường bị một phen sững sờ, giáo sư Epaminondas nghiêm túc và dona Gisa thanh lịch: — Đàn bà gì mà sỗ sàng thế..., giáo sư lên tiếng chỉ trích. — Bà ta phát rồ mất rồi... dona Gisa nhận định. Dù biết rõ dona Rozilda, nhiều lần chứng kiến những cảnh như vậy và nhiều cơn quá khích khác, quen với tính cách khó khăn, gay gắt bẩm sinh của bà ta, nhưng lúc này, trên thang máy, dona Norma vẫn thấy sửng sốt. Chưa bao giờ bà nghĩ rằng mối thù ghét giữa mẹ vợ và con rể vẫn sẽ dai dẳng sau khi Vadinho đã chết, dona Rozilda không nói lời thương tiếc nào về người quá cố, dù chỉ là những lời lạnh nhạt, hình thức, những lời chót lưỡi đầu môi. Chẳng hề có: — Không khí ở đây đã dễ thở hơn hẳn từ khi thằng khốn ngoẻo... Dona Norma không thể nhịn được nữa: — Ôi, bà ghét Vadinho đến vậy ư? — Dĩ nhiên, thiếu điều để ghét chắc? Nó là thằng lang thang vô gia cư, rượu chè, cờ bạc, chẳng đáng gì hết... Thế mà nó chui vào nhà tôi, làm con gái tôi điên lên, mang con bé khốn khổ đi rồi sống bám vào nó... Cờ bạc, rượu chè, lang thang, gã chồng tồi, tất cả đều đúng, dona Norma suy ngẫm, vẻ tư lự. Nhưng anh ta chết rồi thì còn ghét bỏ làm gì nữa? Chẳng phải trước nỗi bất hạnh của người chết, con người ta nên xóa bỏ và chôn vùi hết những ác cảm, bất hòa hay sao? Nhưng đó không phải là quan điểm của dona Rozilda: — Nó coi tôi như mụ già đặt điều, không bao giờ biết tôn trọng tôi, luôn luôn cười vào mũi tôi... Nó đánh lừa tôi ngay từ đầu, chế nhạo tôi, tôi chỉ còn biết cay đắng... Tại sao tôi lại phải quên hết chứ, chỉ vì nó nằm ngoài nghĩa địa ư? Chỉ vì thế thôi sao? 3 Khi từ giã cõi đời sang thế giới khác tốt đẹp hơn, ông Gil quá cố, con người nhu nhược không ý chí, đã để lại gia đình trong cảnh khó khăn trầm trọng, lúc nào cũng bấp bênh. Trong trường hợp của ông, thì cái câu “ông từ giã cõi đời sang thế giới khác tốt đẹp hơn” không phải chỉ là cái câu mọi người vẫn nói quen miệng, một nơi chung chung mà đúng là sự thật! Dù cho những điều bí ẩn đang chờ đợi ông ở thế giới bên kia có là gì – thiên đàng ngập tràn ánh sáng, tiếng nhạc và các thiên thần tỏa sáng; địa ngục âm u với những vạc dầu sôi sùng sục; chốn minh phủ§ ẩm thấp; hay cuộc viễn du về phía các chòm sao; thậm chí là hư vô, chẳng còn gì – dù là gì đi nữa thì vẫn còn hơn là phải chung sống với dona Rozilda. Ngày càng gầy gò và lặng lẽ, ông Gil khốn khổ nuôi sống gia đình mình bằng cái cửa hiệu đại lý xoành xĩnh buôn bán tậm tạch, lời lãi chỉ tạm đủ để trang trải qua ngày: ăn uống hằng ngày, tiền thuê căn hộ tầng hai trên dốc Alvo, quần áo cho các con, khát vọng tư sản ham quyền thế của dona Rozilda, tham vọng được lui tới các gia đình tầm cỡ, được bước vào giới giàu sang của bà ta. Dona Rozilda cãi cọ với hầu hết hàng xóm láng giềng, những người nghèo khó, làm nhân viên bán hàng ở cửa hiệu hay siêu thị, nhân viên văn phòng, tiếp thị và thợ may. Bà coi thường bọn họ, đám dân chúng không biết che đậy nghèo khổ; còn bà, dona Rozilda, bà tự tạo cho mình vẻ quyền quý, chỉ tỏ ra tử tế với vài người ở khu Ladeira, những “gia đình kiểu mẫu” như bà vẫn nói, bà từng phát điên lên khi bắt quả tang ông già Gil quá cố ngồi nhấm nháp cốc bia cùng kẻ không đáng giao du chút nào, tay Cazuza Funil, chuyên nhận cá cược lậu cho trò bicho, hay vay nợ, đồ triết lý rởm đời, một trong những kẻ đáng bị chỉ trích nhất ở dốc Alvo. Có cần phải nói thêm rằng Funil, nghĩa là “cái phễu”, chẳng phải là họ của hắn ta không? Đó chỉ là biệt hiệu rất phù hợp với cái yết hầu thõng xuống của hắn, với thói thèm khát vô độ của hắn. Sao ông Gil không giao du với bác sĩ Carlos Passes đáng nể trọng, kỹ sư Vale, nhân vật quyền thế trong văn phòng Bộ Giao thông, giám đốc Peixoto, người sắp về hưu sau khi đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp bưu điện, nhà báo Nacife, còn trẻ nhưng đã kiếm được nhiều tiền nhờ viết bài cho tờ Thương nhân bán lẻ hiện đại, tờ báo “bảo vệ triệt để ngành thương mại Bahia”, nếu nhìn vào những bài báo đăng trong đó, tất cả đều là hàng xóm với dốc Alvo, toàn “kiểu mẫu” cả? Cái ông Gil ngốc nghếch này thậm chí còn chẳng biết chọn bạn mà chơi; khi không ngồi với Funil ở quán Ponto Fino trên phố Thợ giày§ thì lại chúi vào nhà Antenor Lima đánh thò lò§ hay cờ đam§, chắc chắn đó là thú vui duy nhất trong đời ông. Antenor Lima, thương nhân ăn nên làm ra ở khu Taboão, một trong những khách hàng lớn nhất của ông Gil, lẽ ra cũng xứng đáng nằm trong danh sách hàng xóm kiểu mẫu của bà vợ, nhưng ông ta lại ngang nhiên sống như vợ chồng với cô ả da đen Juventina, trước đây làm đầu bếp cho ông ta. Còn bây giờ thì cô ta thảnh thơi ngồi bên cửa sổ nhà ông thương gia, đã có người hầu giúp quét tước dọn dẹp, cô ta xấc xược, sẵn sàng ăn miếng trả miếng, những trận cãi vã của cô ả với dona Rozilda hồi ở dốc Alvo đều là những trận nhớ đời. Ấy thế mà, đó lại là nơi lão Gil thường đến, nhũn nhặn lễ phép, cư xử với ả đàn bà thô thiển đó như quý bà có cưới cheo hẳn hoi. Dona Rozilda rất cố gắng kết thân với những nhân vật có thế lực, nhưng uổng công: gia đình Costa, con cháu một chính trị gia trước đây, sở hữu cơ nghiệp rộng lớn ở Matatu (tên của chính trị gia đã trở thành tên phố còn cháu nội ông, Nelson, vừa là chủ ngân hàng vừa là nhà công nghiệp); gia đình Marinho Falcão, người vùng Feira de Sant’Ana, sở hữu cửa hàng nơi ông Gil theo học nghề (chính ông João Marinho đã cho ông Gil vay tiền để lập nghiệp ở Salvador); tiến sĩ Luis Henrique Dias Tavares, giám đốc sở, bộ óc vàng, tác giả của nhiều bài báo, cái tên mà dona Rozilda uốn lưỡi rất kêu vì vui sướng được làm người thân thích: “Compadre§ của tôi đấy, ông ấy là cha đỡ đầu thằng Heitor nhà tôi.” Vừa kể lể những mối quan hệ đẹp đẽ đó đồng thời khinh miệt bạn bè của ông Gil, bà vừa khổ sở chất vấn những người tiếp chuyện mình, cả xóm giềng, khu phố, cả thành phố và cả thế giới này. Bà đã làm gì để Chúa phạt tội phải chung sống với ông chồng bất tài, không đảm bảo nổi cho bà mức sống xứng đáng, tương xứng với dòng dõi và tầng lớp của bà chứ? Tất cả các đại lý rồi sẽ phát đạt, mở rộng khách hàng, cửa hiệu, doanh thu hằng tháng tăng lên, sẽ có thêm nhiều khoản hoa hồng mới và giá trị cũng lớn hơn. Nhiều người đã mua được nhà, hay mua đất để dành xây nhà. Một vài người còn tự thưởng cho mình một chiếc xe hơi, thứ tiện nghi xa xỉ, chẳng hạn như một người quen của vợ chồng bà, Rosalvo Medeiros, từ bang Alagoas tới thành phố này từ nhiều năm trước với hai bàn tay trắng, thế mà giờ đây hai bàn tay ấy đặt trên vô lăng chiếc Studebaker. Tay Rosalvo ấy hãnh tiến tới mức một hôm, trên phố Chi Lê, anh ta không nhận ra dona Rozilda và đã suýt cán bẹp bà ta vào cái lúc bà này đang đi bộ và hết sức vui vẻ xông thẳng đến ngay trước mũi xe, những muốn khen ngợi người đồng nghiệp giàu có của chồng. Gã thô lỗ không những bấm còi inh ỏi làm bà sợ hết hồn, mà còn chửi thề, ném vào bà ta những lời thế này: — Muốn chết hả, đồ mọt già? Trong vòng ba hay bốn năm buôn bán dược phẩm, với tài ăn nói và khả năng gây thiện cảm, con người thô thiển đó đã tậu được xe hơi, trở thành hội viên Câu lạc bộ Tennis Bahia, bạn thân của các chính trị gia và những kẻ giàu sang, biến thành bậc chúa tể kiêu ngạo, hợm hĩnh như con chim công! Dona Rozilda nghiến răng. Còn lão Gil ngu xuẩn kia thì sao? Than ôi! ông Gil hằng ngày lê gót đi bộ hay đi tàu điện với đống hàng mẫu nào chỉ thêu, dây đeo quần, tay áo và cổ áo giả hồ bột, chuyên gia bán hàng lỗi mốt cho một dúm khách hàng là những cửa hiệu nhỏ ở ngoại ô, những hàng xén cũ kỹ. Ông không khá lên được, cả đời đi bộ mà thôi. Không ai tin vào khả năng của ông, ngay chính bản thân ông cũng không. Một ngày nào đó ông sẽ nản lòng vì bao lời phàn nàn và đả kích, vì bao cố gắng không thành và cũng chẳng có hậu. Pôrto, anh em cọc chèo của ông Gil, là chồng của Lita, em gái dona Rozilda, cũng kiếm sống khó khăn, ông là giáo viên dạy vẽ và toán cho các cậu bé ở trường công lập đào tạo nghệ nhân của bang, ở khu ngoại ô Paripe xa lắc xa lơ. Hằng ngày, ông dậy từ lúc mặt trời mọc, lên tàu đi làm từ sáng sớm, về nhà vào lúc chiều muộn. Nhưng cứ đến Chủ nhật, ông lại dạo khắp các phố, mang theo hộp màu và cọ, ông vẽ các khu phố với tông màu rực rỡ, và ông vui sướng với việc ấy đến nỗi không ai thấy ông cáu bẳn hay buồn rầu bao giờ. Tất nhiên là ông lấy Lita chứ không phải Rozilda; ẳ ngược hẳn với chị mình, Lita là người phụ nữ thánh thiện, không bao giờ nói xấu ai. Ông Gil cũng chẳng tiến bộ chút nào trong món cờ đam hay thò lò, và Antenor Lima chỉ chịu chơi với ông khi không còn ai hơn; còn Zeca Serra, nhà vô địch của khu phố thì từ chối thẳng thừng không thèm chơi với một đối thủ tầm thường như vậy, lúc nào cũng thờ ơ và lơ đễnh, dù chỉ để giết thời gian. Hơn nữa, dona Rozilda đã yêu cầu chồng cắt đứt vĩnh viễn quan hệ với gã Cazuza Funil, vào cái lúc mà tay này – đang vô cùng đen đủi, vì vừa ra tù và bị truy tố do phạm pháp – đang cần giúp đỡ hơn bao giờ hết. Thế là ông già Gil, kẻ nhu nhược, vì tuân lệnh vợ nên toàn đi đường vòng để tránh mặt hắn. Chắc chắn ông Gil tự rút ra kết luận là mọi cố gắng hão huyền của mình đều chẳng nên trò trống gì, vậy nên ông lợi dụng mấy ngày đông ẩm ướt để mắc viêm phổi nhẹ – “thậm chí còn chẳng viêm hết cả hai lá”, bác sĩ Carlos Passos mỉa mai – rồi chuồn sang thế giới bên kia. Lặng lẽ, sau tiếng ho kín đáo và rụt rè. Người khác thì hẳn đã khỏi bệnh rồi đây, đã chống lại được cái bệnh chỉ hơi nặng hơn cảm cúm một chút. Nhưng ông già Gil đã nản, quá nản! ông không chờ nổi tới khi bị một căn bệnh cho ra bệnh và thật nặng. Nhất là, ông không hề ảo tưởng: cái loại bệnh tử tế, hoành tráng, đang thịnh hành, đắt đỏ mà báo chí đang sa sả nói tới sẽ không thèm hạ cố đến với ông, vậy nên tốt hơn cả là tự hài lòng với chứng viêm phổi xoàng xĩnh này. Ông ấy là vậy dấy, chẳng chào từ biệt ai, ông ấy chết, cuối cùng cũng được nghỉ ngơi. 4 Đã từ lâu dona Rozilda cương quyết nắm hết khoản tiền hoa hồng còm cõi, mỗi tuần chỉ đưa lại cho ông chủ đại lý vài đồng lẻ vừa đủ đi tàu điện và mua thuốc lá Aromáticos – hai ngày một bao. Ấy thế mà tiền tiết kiệm cũng chỉ vừa đủ để trang trải chi phí chôn cất, quần áo tang, những ngày đầu khó khăn sau khi ông mất. Những khoản hoa hồng nợ lại từ những lần bán cuối cùng thì chẳng đáng bao nhiêu, một khoản còm cõi, dona Rozilda rơi vào tình cảnh góa bụa không nguồn thu nhập, với cậu con trai đang học trung học và hai cô con gái – Flor vừa đến tuổi thiếu nữ. Bà ta là người như thế, chua chát, sỗ sàng, khó nói chuyện và khó tính, nhưng không vì thế mà ta phủ nhận hoặc ỉm đi những phẩm chất của bà ta, sự quyết đoán và cá tính mạnh mẽ, và tất cả những gì bà ta đã làm để hoàn thành nghĩa vụ giáo dục con cái, lấy hết sức giữ lại chốn nương thân mà ông chồng chết đã để lại bà ở đó mà không phải rời khỏi dốc Alvo đến những ngóc ngách nghèo khổ hay những căn phòng bẩn thỉu trong các ngôi nhà cũ kỹ ở khu Pelourinho. Bà ngoan cố dữ dội bám lấy căn hộ. Ra khỏi đó để tìm một căn hộ rẻ tiền hơn có nghĩa là chấm hết mọi hy vọng thăng tiến xã hội. Cần phải để Heitor tiếp tục học đến hết trung học phổ thông, tìm cho thằng bé một chỗ đứng tử tế, tìm chồng cho hai cô con gái, mà phải tìm đám ra trò mới được. Muốn thế thì bà không được phép sa sút, không thể để bị lôi đi bởi cái nghèo đói trơ trẽn, bị phô bày không còn liêm sỉ, không còn ngượng ngùng, như kẻ phạm tội vậy. Phải ở lại căn hộ trên dốc Alvo bằng bất cứ giá nào. Bà giải thích như vậy với em rể khi ông này mang tiền tiết kiệm của dona Lita tới cho bà vay (sau đó, công bằng mà nói, dona Rozilda đã lần hồi trả bằng hết). Bà không đến khu Plataforma xa tít mù khơi để thuê căn nhà giá vừa phải, không tới khu Lapinha thuê tầng một tạm gọi là ở được, cũng không thuê lại một phòng ngủ và một phòng khách trong khu Cửa ô Carmo; bà cứ cắm rễ tại dốc Alvo, trong căn hộ khá đắt, nhất là với người không chút tài sản, không xu dính túi như bà. Từ đó, từ ban công rộng rãi tầng hai, bà có thể tự tin hơn nhìn về tương lai. Chưa phải đã mất hết. Bà sẽ thay đổi những kế hoạch đã vạch ra trước đây nhưng vẫn không từ bỏ tham vọng. Nếu ngay từ đầu bà đã lùi bước, từ bỏ ngôi nhà có vị trí đẹp, đầy đủ đồ đạc, thảm và rèm che, để đến sống trong ngôi nhà ổ chuột nào đó, bà sẽ chẳng thể nuôi dưỡng được hy vọng hay ảo tưởng gì nữa. Bà thấy viễn cảnh Heitor đứng sau quầy hàng khô, hay có khá hơn thì cũng chỉ trong một cửa hàng, suốt đời làm chân bán hàng quèn. Bà hình dung hai cô con gái cũng có số phận tương tự, hoặc làm hầu bàn ở quán bar hay quán cà phê, chiều theo ý ông chủ và đám khách hàng, thẳng tiến đến vùng ngoại ô nghèo khổ, nỗi khủng khiếp đứng đường của gái làng chơi. Từ đó, từ căn hộ của mình, bà có thể chống lại mọi nỗi đe dọa ấy. Ra đi đồng nghĩa với đầu hàng không tranh đấu. Vì vậy, bà từ chối chỗ làm mà Antenor Lima tìm giúp cho Heitor. Tương tự, bà tuyệt đối không muốn tranh luận với con gái Rosalia khi cô này tự cho rằng mình đã đến lúc đi làm, công việc tiếp tân và thư ký, cho hiệu ảnh La Photo trang nhã đang hồi phát đạt trên phố Thợ giày, nơi Andrés Gutiérrez, anh chàng người Tây Ban Nha tóc nâu ria mép ngắn khai thác nghệ thuật nhiếp ảnh dưới đủ mọi góc độ: từ ảnh thẻ “3x4” để làm chứng minh thư và thẻ hành nghề (“trả ảnh trong vòng 24 giờ”) cho đến “ảnh màu phóng to cực đại, những kỳ quan thực thụ”, đấy là còn chưa kể tới ảnh chân dung các cỡ và ảnh lưu niệm: lễ rửa tội, đám cưới, lễ ban thánh thể hay những sự kiện vui vẻ khác xứng đáng được lưu lại vĩnh viễn trong cuốn album ố vàng của mọi gia đình. Nơi nào cần chụp ảnh là Andrés Gutiérrez xuất hiện cùng chiếc máy ảnh và tay trợ lý của mình, một gã người Tàu không rõ tuổi tác vì quá già, quắt queo, vẻ đáng ngờ. Lời đồn bay đi – đến được tai dona Rozilda, vốn thính nhạy với những chuyện ngồi lê đôi mách kiểu này – về Andrés, về hiệu ảnh La Photo trang nhã, tay trợ lý của anh ta, và độ trầm trọng của vụ việc. Người ta kể rằng một số bưu ảnh gã Tàu bán trong những phong bì dán kín là do anh ta chụp, là những gì tinh túy nhất của nghệ thuật theo chủ nghĩa tự nhiên, những ảnh “khỏa thân nghệ thuật” đảm bảo thành công. Đám đàn bà ngồi lê đôi mách còn kể, để có những tấm ảnh đó, các cô gái nghèo và dễ dãi đã đến làm mẫu để đổi lấy vài milreis. Rồi tiện thể, Andrés chắc chắn sẽ lợi dụng các cô, ai mà biết được? có khi cả gã người Tàu nữa cũng nên; những mụ sùng tín còn kể đủ thứ chuyện kinh hồn về phòng chụp ảnh. Thế nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên về phản ứng của dona Rozilda khi cô con gái, hào hứng và ngây thơ, kể cho bà nghe việc anh chàng Tây Ban Nha chào mời: — Mày mà còn nói chuyện đó lần nữa là mẹ cho ăn đòn đấy... Còn với Andrés, bà đe tống anh ta vào tù, lôi cả đống người quen có uy tín của bà ra dọa; rằng nếu còn tìm cách dây dưa tới con gái bà anh ta sẽ biết tay bà, đồ thô lỗ, bẩn thỉu, trụy lạc; bà, dona Rozilda, sẽ báo cảnh sát... Andrés, anh chàng người Tây Ban Nha đầy cương quyết với phản ứng dữ dội, đập lại lời lăng nhục của bà bằng giọng tương tự. Để mở màn, anh ta nói chính ông bố đẻ ra dona Rozilda, kẻ bị cắm sừng, mới là đồ thô lỗ; còn anh, chỉ vì thương xót cho hoàn cảnh gia đình bà sau cái chết của ông Gil, người đàn ông tốt bụng và lịch sự lẽ ra xứng đáng có người vợ tốt nhất trên đời mới phải, nên anh mới tạo công ăn việc làm cho cô con gái, mà anh mới quen, với mục đích duy nhất là giúp đỡ cô, nào ngờ anh lại gặp phải con bò cái cuồng loạn đến kêu ầm trước cửa hiệu, dọa dẫm mọi người, đơm điều đặt chuyện, những lời vu khống khốn nạn! Nếu bà không im cái miệng chẳng khác gì hố xí kia đi thì anh sẽ cho bà về với quỷ dữ và ngay sau đó, chính anh mới là người nhờ đến chính quyền, chính anh, công dân có chỗ đứng vững chắc, tôn trọng pháp luật, đóng thuế đầy đủ, chính anh, người Andalucía§ dòng dõi, chứ không phải mụ phù thủy dám chửi anh là đồ thô lỗ... Dửng dưng với cuộc cãi vã, gã Tàu ngồi chòi móng tay bằng một que diêm, những móng tay dài như móng vuốt, những móng tay, theo những kẻ ác miệng thì... Những chuyện gây kích động đó, dù thật hay giả, đối với bà không quan trọng, dona Rozilda không chăm chút con gái, đều giỏi giang và tử tế, để dâng cho kẻ như Andrés Gutiérrez, dù gã là người miền nam, miền bắc Tây Ban Nha hay người Tàu đi nữa... Các con gái bà giờ đây là công cụ để đổi đời, là chiếc thang để bà ngoi lên tầng lớp trên, để bà đứng dậy. Bà còn từ chối nhiều công việc khác, tử tế hơn, cho Rosalia và Flor, vì không muốn chường hai cô con gái còn non trẻ ra ngoài xã hội và nguy hiểm. Theo bà, chỗ dành cho một cô thiếu nữ là ở nhà, mục đích là hôn nhân. Cho con đi đứng bán hàng ở quầy hàng xén, ngồi bán vé xem phim, làm ở phòng chờ nơi khám bệnh hay chữa răng thì quá bằng thú nhận là mình nghèo khổ, trưng nó ra như trưng một vết thương đang thối rữa và bốc mùi! Bà sẽ bắt các con làm việc, đúng là như vậy, nhưng là ở nhà, lo nội trợ theo phận sự trong lúc chờ đợi các đấng hôn phu. Nếu ngày xưa, công việc nội trợ và hôn nhân là những điểm quan trọng trong kế hoạch của dona Rozilda, thì bây giờ chúng biến thành phần nền tảng cho các dự án của bà. Hồi ông Gil còn sống, dona Rozilda lên kế hoạch cho con trai học đại học, muốn con làm bác sĩ, luật sư hay kỹ sư, và nhờ danh vị tiến sĩ của con, nhờ cái bằng đại học của con, bà chắc chắn sẽ bước lên tầng lớp tinh hoa, tỏa sáng giữa đám người quyền thế ấy. Chiếc nhẫn có phần mặt công nhận khả năng của anh, lấp lánh trên ngón tay Heitor, sẽ là câu thần chú giúp mở được cánh cửa giao du với xã hội thượng lưu, cái thế giới khép kín và xa cách ở những khu phố đẹp đẽ: Vitoria, Canela, Graça. Và hệ quả tiếp theo, những đám cưới tốt đẹp của hai cô con gái, với những người bạn của anh con trai, những tiến sĩ tương lai nổi tiếng và đầy triển vọng. Cái chết của ông Gil cản trở việc thực hiện kế hoạch dài hạn đó: Heitor mới học trung học, còn hai năm nữa mới học xong phổ thông – cậu ta học muộn vì thi trượt. Làm sao bà gánh nổi năm, sáu năm học đại học nữa, vừa lâu dài vừa tốn kém? Bằng những nỗ lực và sự hy sinh của mình, có thể bà sẽ cứ để cậu học trung học – cậu ta là học sinh trường Ginásio da Bahia, trường công lập và miễn phí – cho đến khi cậu hoàn thành chương trình văn học cổ đại. Với trình độ trung học, có lẽ cậu sẽ thoát được những công việc khốn khổ trong ngành thương mại, không tiến lên được, suốt đời nai lưng mà kiếm miếng ăn. Biết đâu cậu sẽ tìm được một chỗ trong ngân hàng hoặc hơn thế, sao lại không chứ? một công việc nhàn rỗi chính thức, một chân công chức, với quyền lợi và bảo hiểm, khen thưởng và tăng lương, thăng chức, trợ cấp và bao lợi ích khác. Về việc này thì dona Rozilda tin tưởng vào những người quen quyền thế của mình. Bà không còn trông đợi vào danh vị tiến sĩ – chiếc nhẫn sáng lấp lánh, rực rỡ đặc trưng cho từng ngành nghề: ngọc lục bảo cho nghề y, hồng ngọc cho luật sư, ngọc lam cho kỹ sư – để đạt tới những đỉnh cao mơ ước. Thật tiếc! Nhưng biết làm sao, cái chết ngu ngốc của ông chồng đần độn một lần nữa lại làm hỏng kế hoạch của bà. Dù sao thì từ nay, ông ta không còn phá được những kế hoạch đã thay đổi của bà, đã chín muồi trong những ngày khổ sở nhất. Trong những dự án mới này, chìa khóa vạn năng mở ra cánh cửa đến với cuộc sống tiện nghi và sung túc là cuộc hôn nhân của Rosalia và của Flor. “Đặt” họ càng khéo càng tốt, dona Rozilda bảo vậy, với những chàng trai có tên tuổi, con nhà danh giá, con chủ fazenda§ chẳng hạn, hay với các thương gia – tốt nhất là thương gia bán buôn – đã ổn định, rủng rỉnh và đầy tài khoản ngân hàng. Nếu đã định sẵn mục đích như vậy, dại gì mà bà để con gái làm những việc vớ vẩn, phô ra tình cảnh nghèo khổ, vì vẻ duyên dáng, trẻ trung nhưng thiếu thốn của các cô chỉ khơi dậy ham muốn tội lỗi, bản năng xấu xa của đám đàn ông giàu có và thế lực, đúng là sẽ buông những lời đề nghị, nhưng không phải những lời chân thật, về một lễ đính hôn hay đám cưới? Dona Rozilda muốn các con gái ở nhà, tỏ ra khiêm nhường, làm việc và cư xử cho đàng hoàng để giúp bà duy trì vẻ bề ngoài dư dả, ra vẻ nếu không phải là giàu có thì cũng biết chải chuốt và có giáo dục. Khi các cô ra ngoài, để thăm viếng các gia đình đang trong tầm ngắm, để dạo chơi sáng Chủ nhật, để tham gia một buổi tiệc tùng nào đó ở nhà bạn bè, các cô luôn mặc tươm tất, sang trọng, ra vẻ con nhà thanh lịch. Dona Rozilda rất tằn tiện, tính từng xu để giữ cân bằng thu chi trong nhà, duy trì cuộc sống, nhưng bà không chấp nhận để các con gái lơ là một chút nào trong việc ăn mặc, ngay cả khi ở nhà. Bà muốn các cô lúc nào cũng chỉnh tề, sẵn sàng đón tiếp chàng hoàng tử quyến rũ có thể đột ngột xuất hiện bất cứ lúc nào. Dona Rozilda không tiếc công tiếc sức vì mục đích đó. Một hôm, Rosalia được mời đến buổi khiêu vũ nhân dịp sinh nhật con gái đầu của bác sĩ João Falcão, một nhân vật quan trọng: nhà cửa tuyệt đẹp, đèn chùm pha lê, bộ đồ ăn bằng bạc nguyên chất, người hầu tiệc mặc đồng phục. Khách mời đều là những người tử tế, giàu có vô cùng, thuộc tầng lớp thượng lưu, không thể tả hết được! Thế mà Rosalia lại gây được ấn tượng là cô gái ăn diện đẹp nhất, sang nhất, đến nỗi bà chủ nhà đáng mến, dona Detinha, phải tỏ lời khen ngợi: — Cô gái xinh đẹp nhất trong đám con gái... Rosalia ấy, trông cô ấy mới đẹp và đáng yêu làm sao! Mà đúng vậy, cô trông như người giàu nhất, quý phái nhất. Thế mà hôm đó có mặt bao nhiêu cô con gái các nhà giàu có nhất vùng, danh giá nhất vùng, bố các cô làm quan chức trong ngành tòa án, ngành y, giới công chức cao cấp và chủ ngân hàng, thương nhân tầm cỡ. Với làn da ngăm ngăm mịn màng của người lai da đỏ, Rosalia là cô gái da trắng nổi bật nhất trong đám con gái da trắng Bahia tinh tế với đủ mọi sắc thái da ngăm ngăm, mà nói riêng nhé, họ là những cô gái thuộc dòng dõi lai đen đẹp nhất và tinh tế nhất... Nhìn cô sang trọng đến thế, không ai nghĩ rằng chiếc váy cô mặc, chiếc váy được ngắm nhìn nhiều nhất trong bữa tiệc, là do chính tay cô và dona Rozilda may, cũng như tất cả những thứ khác, kể cả đôi giày cũ sửa thành đôi giày lụa đẹp mắt. Rosalia rất nhiều tài, cô cắt may, thêu thùa và đan lát, nhưng giỏi nhất là cắt may. Đúng vậy, chính các cô ấy, hai cô gái trẻ, với sự khéo léo bẩm sinh và dưới sự chỉ đạo khắt khe của dona Rozilda, là tác giả của điều kỳ diệu này: Heitor vẫn đi học, hoàn thành chương trình phổ thông, tiền nhà luôn trả đúng hạn, cả tiền thuê bao đài phát thanh và chiếc bếp lò mới, lại còn dôi ra chút tiền tiết kiệm để chuẩn bị cho xong hòm đồ các cô sẽ mang theo khi về nhà chồng, áo cưới, khăn voan và vòng hoa đội đầu, vì ga trải giường, áo gối, áo ngủ và đồ lót cứ dần được chất đầy các ngăn tủ. Chính là họ, những cô gái nhỏ. Rosalia đạp máy khâu, may quần áo cho mọi người, cắt váy, thêu những chiếc áo choàng tinh tế. Còn Flor, lúc đầu cô nhận làm các khay thức nhắm và bánh nướng nhỏ cho các bữa tiệc gia đình, những buổi tiệc nhỏ: sinh nhật, lễ ban thánh thể. Nếu Rosalia giỏi may vá thì điểm mạnh của cô em là bếp núc: bẩm sinh Flor đã có tài đong đo chính xác, có gu nêm nếm tinh tế. Khi còn nhỏ, cô đã biết làm bánh ngọt và các món ngon lành, luôn luôn quanh quẩn trong bếp, học hỏi bí quyết nghệ thuật nấu ăn với dì Lita, người rất tinh tế trong nấu nướng. Ngoài thú vui đi vẽ ngày Chủ nhật, chú Pôrto chỉ có mỗi một điểm yếu đáng yêu là thích ăn ngon. Chú thích món ragu thịt, say mê feijoada§ hay món thịt bò hầm nhiều rau. Từ những khay bánh pa tê vỏ giòn, nhận làm bữa trưa cho khách, rồi Flor mày mò công thức nấu ăn và đi học thêm, rồi cuối cùng, mở trường dạy nấu ăn. Người ngồi bên máy khâu, cắt và may, kẻ thì trong bếp, chúi đầu vào bếp và lò nướng, dưới sự chỉ huy của dona Rozilda, họ chịu đựng gian khó. Khiêm nhường, giản dị, chờ đợi các chàng hoàng tử quyến rũ bất ngờ xuất hiện vào một dịp lễ hội hay trong một cuộc dạo chơi, đầy tiền bạc và tước hiệu. Người đầu mang Rosalia đi, người sau rước Flor, hai cặp tình nhân trong “hành khúc hôn lễ”, tiến về phía bàn thờ Chúa và thế giới hạnh phúc của những người quyền thế. Trước tiên là Rosalia, chị cả. Dona Rozilda bền bỉ theo dõi từng góc phố, chờ đợi chàng rể người phủ đầy vàng bạc, dát nạm kim cương. Đôi khi, bà bỗng thấy nản lòng: nhỡ hoàng tử quyến rũ không xuất hiện thì sao? Các con gái bà đã đến tuổi cặp kê từ lâu, không thể chờ đợi cả đời được. Rosalia, hai mươi cái xuân xanh đã cuốn đi theo những tiếng thở dài bên cửa sổ, chán ngấy chiếc bàn đạp máy khâu, muốn gặp ngay chàng công tước, bá tước hay nam tước đó – khi nào chàng mới chịu đưa cô đi? Muộn mằn quá, chờ đợi mỏi mòn quá – làm sao có thể tưởng tượng nổi bỗng một ngày cô sẽ trở thành gái già trong trắng đến chai cứng, người bốc mùi chua trinh nữ già, theo cách nói bóng gió của chú Pôrto tốt bụng khi cười giễu tham vọng quý tộc của bà chị vợ? Thỉnh thoảng, Rosalia mường tượng ra anh, chàng hôn phu mà cô đang mong mỏi: trong những cuộc dạ hội khiêu vũ, khá hiếm hoi; trong những cuộc dạo chơi ở khu Rio Vermelho khi cô tới thăm dì Lita; trong buổi chiều đi xem phim hay khi anh ta đang lái ô tô, vận toàn đồ trắng, trong một cuộc đua thuyền ngày Chủ nhật; một chàng sinh viên luật thích bông đùa hoặc chăm chỉ, kẹp dưới cánh tay đống sách khoa học nặng trịch hay đang cong người uốn éo trong vũ điệu tango Achentina uể oải; hay một chàng trai mơ mộng trong tiếng ồn ào của một cuộc tán chuyện ban đêm. Dona Rozilda cũng mong mỏi, càng ngày càng sốt ruột. Khi nào thì chàng rể mong đợi mới xuất đầu lộ diện, một anh chàng tỉ phú, nhà quý tộc, chàng quân tử, bác sĩ đội mũ tròn mang nhẫn hồng ngọc, một thương gia bán buôn ở khu phố dưới, fazendeiro trồng cacao hay thuốc lá, chủ cửa hàng hay chủ tiệm hàng xén gì đó, cùng lắm thì có thể là gã kiều dân chủ hiệu thực phẩm lớn, nhưng đến khi nào anh ta mới xuất hiện? 5 Họ chờ đợi lâu lắm, hàng tuần, hàng tháng, rồi hàng năm trời, vẫn kiên trì ăn mặc chải chuốt, nhưng chẳng thấy chàng quân tử nào hiện ra, cũng không có nhà quý tộc trẻ tuổi nào từ khu Barra hay khu Graça, không thấy bóng dáng bất cứ người con trai chủ đồn điền cacao nào, không có thương gia giàu có nào, ngay đến cả một anh chàng gốc Galicia§ làm giàu khó nhọc trong các kho chứa hàng hay hiệu bánh mì cũng không thấy. Kẻ xuất hiện lại là Antônio Morais với xưởng cơ khí, với khả năng tự mày mò lập nghiệp, trong bộ quần áo lao động khiêm nhường đen thui dầu mỡ. Anh xuất hiện đúng lúc nên được đón tiếp tử tế. Rosalia đã bắt đầu khóc lóc vì sợ cả đời phải sống trong cảnh độc thân, cô đơn, sùng đạo và dona Rozilda thì không còn sức mà phản ứng nữa. Anh không phải là chàng rể được hình dung trong suốt bao đêm ròng còng lưng trên máy khâu hay giam mình bên bếp lò nóng bỏng. Nhưng không lý lẽ nào, không cơn giận dữ đe dọa nào có thể níu giữ được Rosalia đang vui sướng hăm hở, cô đã ngoài hai mươi, khỏe mạnh và đương nhiên rất muốn lấy chồng. Hơn nữa, tuy Antônio Morais không giàu sang quyền thế gì, nhưng ít ra anh không phải làm việc dưới quyền ai, xưởng cơ khí của anh khá đông khách và anh kiếm đủ tiền nuôi vợ con. Dona Rozilda chịu khuất phục số phận, nửa vì buộc phải thế, còn biết làm sao nữa? Nhờ cha đỡ đầu, bác sĩ Luis Henrique, Heitor tìm được việc làm trong ngành đường sắt ở Nazareth và đến sống ở đó, một thành phố nhỏ thuộc vùng Recôncavo§, ít khi về Salvador. Anh có tương lai, dona Rozilda khỏi cần phải lo cho anh. Còn Flor đã bắt đầu dạy nấu ăn cho các bà các cô, kiếm được tiền và có tiếng là giáo viên giỏi. Giờ cô gánh phần lớn chi phí trong nhà, nhất là khi Rosalia, vì hoảng sợ thấy thời gian trôi nhanh nên tiêu hết tiền kiếm được vào quần áo, giày dép, nước hoa và đăng ten. Antônio Morais để ý tới Rosalia trong rạp chiếu phim Olympia trong suất chiếu buổi sáng, một ngày công chiếu, hôm đó, ngoài hai bộ phim và một số tin tức thời sự, ông bầu Mota còn giới thiệu đám nghệ sĩ tới Bahia biểu diễn, tua diễn tầm thường ở tỉnh lẻ của những ngôi sao đói khát đã tới hồi mờ nhạt. Trong khi đó, “Mirabel, giấc mơ nhục cảm từ Varsava”, cô điếm cao tuổi đã ngán chiến tranh, chán ánh đèn sân khấu và cái giường nhà thổ, đang uốn éo cặp mông héo hon trước đám thanh niên đến rạp để mở mang hiểu biết, Antônio Morais quan sát dona Rozilda và hai cô con gái ngồi gần đó: Rosalia trong tư thế chờ đợi hưng phấn, Flor với bộ ngực và cặp hông mới chớm nở nang. Anh thợ cơ khí thôi không nhìn “giấc mơ từ Varsava” đang uốn éo mệt mỏi nữa. Ánh mắt nồng nàn của Rosalia gặp cái nhìn nài khẩn của anh. Ra khỏi rạp, chàng trai theo chân mấy mẹ con nhưng giữ khoảng cách vừa phải, xác định vị trí ngôi nhà tiện nghi của họ trên dốc Alvo. Rosalia hiện ra một lúc ngoài ban công, thoáng hé cười. Ngày tiếp đó, sau bữa tối, Antônio Morais leo lên dốc, dừng lại trên vỉa hè đối diện với ngôi nhà. Rosalia nóng lòng hấp háy nhìn trộm qua cửa sổ. Chàng thợ cơ khí đi lên đi xuống, mắt nhìn về phía ban công, mồm huýt sáo lặp đi lặp lại mấy điệu nhạc. Chẳng mấy chốc, Rosalia xuất hiện dưới chân cầu thang, có Flor đi theo tháp tùng. Morais tiến đến gần, bước chân uể oải. Luôn luôn trong tình trạng cảnh giác nên dona Rozilda đã nhận thấy ánh mắt hai người nhìn nhau trong rạp chiếu phim. Và khi thấy Rosalia cứ đứng ngồi không yên và khó bảo, bà bèn đi hỏi tin tức về chàng trai; Antenor Lima biết anh ta, cung cấp cho bà những thông tin cụ thể và thuận lợi: anh thợ cơ khí kiếm tiền cũng khá, có xưởng riêng ở Galés, là người làm việc chăm chỉ. Năm chín tuổi, Antônio Morais đã mất cả cha lẫn mẹ trong một tai nạn xe buýt; còn lại một mình, bơ vơ ngoài đường, thay vì gia nhập vào các băng đảng đường phố và lao vào con đường lang thang, hư hỏng, cậu đến xưởng máy của Pé de Pilão, một gã da đen to cao lực lưỡng, là thợ cơ khí giỏi lại rất tử tế. Ở đó, cậu bé làm đủ thứ việc, mỗi thứ một tí, rất tinh khôn lanh lợi. Cậu không có lương cố định, nhưng được ngủ lại trong xưởng, ngoài ra còn những khoản tiền boa đôi khi cũng khá. Cậu tự học đọc học viết, Pé de Pilão dạy cậu nghề cơ khí, và thế là Morais bắt đầu tự làm tự chịu, kiếm được tiền khi còn rất trẻ. Anh ta có đôi bàn tay khéo léo và bộ óc nhanh nhạy: các loại máy móc ô tô chẳng còn gì bí mật với bản tính thích mày mò của anh ta. Đúng là anh ta không phải bác sĩ hay điền chủ. Nhưng hiếm có thợ cơ khí nào giỏi hơn. Anh ta kiếm được tiền và sẽ là người chồng tốt. Rosalia còn đòi hỏi gì hơn được nữa, cô nào phải là công chúa hay chủ đồn điền cacao đâu? gã Antenor Lima vô giáo dục hỏi bà hàng xóm cao ngạo và quàu quạu. Nhiều người quen khác cũng nói y như vậy về anh thợ cơ khí, vậy nên, dona Rozilda, sau khi nghe lời khuyên quý báu của tiến sĩ Luis Henrique, người hiểu biết như Ruy Barbosa – có những lời khuyên vô giá – và đã cân đi nhắc lại thật kỹ, quyết định cho phép Antônio Morais qua lại. Đó không phải, bà ta nhắc lại, chàng rể bà vẫn hằng mơ ước, tức là chàng hoàng tử máu xanh§ và đầy những hòm tiền vàng, về chuyện dòng máu quý tộc, Morais chỉ thừa hưởng từ tổ tiên xa lắc, Obitikô, hoàng tử một bộ tộc Phi châu bị bắt đến Bahia làm nô lệ, và dòng máu xanh đã trộn lẫn với dòng máu bình dân Bồ Đào Nha bị giáng cấp và dòng máu dân làm thuê Hà Lan. Sự pha trộn tạo nên anh chàng lai đen có màu da sáng và nụ cười đáng mến, kiểu ngăm ngăm đen đáng yêu. Còn chuyện những hòm tiền vàng, cái ruột tượng của anh thợ cơ khí thậm chí còn không đủ để anh sống riêng sau khi lập gia đình. Nhưng Rosalia say mê điên cuồng nên cứ khăng khăng theo ý mình, không chấp nhận tranh luận về cái nguồn gốc mờ mịt, nghề nghiệp thường thường bậc trung và số tiền tiết kiệm còm cõi của chàng trai và trước một Rosalia xù lông đáp trả những câu hỗn xược và nóng nảy, dona Rozilda đành nhượng bộ. Và như vậy, khi Morais xuất hiện lần thứ năm hay thứ sáu – trong bộ quần áo trắng tinh hồ bột, chiếc mũ phớt rộng sụp xuống mắt, đôi giày hai màu, rất quyến rũ! – thì bà ta đã chất vấn anh. Hai kẻ tình nhân đang đứng rất gần nhau, mắt trong mắt, tay trong tay, nói những điều tầm phào vô nghĩa thì từ trong bóng tối cầu thang, dona Rozilda bất ngờ xuất hiện, xoi mói, giọng sang sảng: — Rosalia, con gái, con giới thiệu cho mẹ biết chàng trai này là ai được không? Rosalia lắp bắp, Morais hết sức lúng túng, sau màn giới thiệu, dona Rozilda đi thẳng vào vấn đề, không câu nệ, cân nhắc: — Con gái tôi không phải để người ta tán tỉnh ở chân cầu thang hay góc phố, nó không đi chơi một mình với người yêu, tôi không nuôi dạy con gái để mua vui cho bất cứ anh chàng bảnh bao nào... — Nhưng cháu... — Nếu anh muốn chuyện trò với con gái tôi thì trước hết hãy nói rõ ý định của anh. Antônio Morais khẳng định rằng mọi ý định của anh đều vì hôn nhân trong sáng, rằng anh không phải loại con trai lợi dụng con gái trẻ. Anh trả lời các câu chất vấn cặn kẽ của dona Rozilda một cách nhanh nhẹn và khiêm tốn, và bà thấy những thông tin của mình đúng, nhất là về xưởng cơ khí. Thế là anh thợ cơ khí được chấp nhận và chính thức được phép đến cửa nhà vào buổi tối; từ sau cuộc trò chuyện đó, Rosalia ngồi trên ghế trước cửa chờ anh. Qua cửa sổ, dona Rozilda kiểm soát gia phong; con gái bà đâu phải dành để mua vui cho bất kỳ kẻ lông bông nào. Vì vậy, khi Morais đưa bàn tay dịu dàng về phía bàn tay buông lơi của cô gái, anh lập tức nghe thấy tiếng dona Rozilda hắng giọng đầy ý nghĩa, từ trên cao: — Rosalia! Điều đó đẩy sự việc diễn tiến nhanh hơn vì Morais mong được tự do hơn, được gần gũi hơn với người yêu mà không bị theo dõi. Là chồng chưa cưới, anh có thể đến nhà thường xuyên, đi xem phim cùng Rosalia chiều Chủ nhật, có Flor đi kèm; cô em nhận lệnh theo dõi đôi tình nhân thật ngặt nghèo, không cho họ hôn hít và âu yếm nhau vì dona Rozilda đòi hỏi sự tôn trọng cao nhất. Nhưng Flor không có tính thích kiểm soát người khác; tỏ ra thông cảm và đoàn kết, cô ngồi quay lưng về phía chị gái và anh rể tương lai, say sưa xem phim, nhai bánh kẹo, mặc kệ hai người với mối bận tâm của họ, môi và tay đều bận bịu. Trong thời gian hứa hôn, dona Rozilda cố hết sức tỏ ra tử tế, kìm nén những nét thô lỗ nhất trong tính cách. Bà phải cưới chồng cho các con gái, Rosalia sắp quá tuổi mất rồi; con gái đi tìm chồng thì nhiều, mà con trai để cưới thì hiếm. Cưới chồng cho con thật khó khăn gian khổ! Dona Rozilda biết rõ điều đó. Hầu hết mọi chỗ quen biết của bà đều cho rằng anh thợ cơ khí là đám tốt. Trong số họ, một bà Elvira nào đó, có ba cô con gái xấu xí, mắt đầy dử, chắc chắn ế chồng, đã xui ba cô con gái ma chê quỷ hờn săn đón anh chàng đã hứa hôn, cười duyên, liếc mắt quyến rũ. Chỉ còn thiếu nước các cô nàng trâng tráo vô duyên mà làm bộ làm tịch ấy lôi anh chàng vào giường nữa thôi. Hơn nữa, Morais chăm làm và có giáo dục, chắc sau khi cưới, bà mẹ vợ sẽ tha hồ mà sai khiến anh ta, bắt anh ta làm theo ý mình. Nhưng về điểm này thì bà nhầm: cậu con rể rồi sẽ làm bà bất ngờ. Vả lại, anh thợ cơ khí chỉ biết rõ toàn bộ sự thật về con người dona Rozilda sau đám cưới. Họ quyết định chung sống cùng nhau ở tầng hai trên dốc Alvo, đó là giải pháp tiết kiệm và tình cảm, vì sẽ bớt được chi phí và được ở cùng nhau. Morais cũng như dona Rozilda dường như không mong gì hơn là gia đình sum họp. Rosalia không đồng tình với kế hoạch liều lĩnh đó, “cưới nhau nghĩa là lập gia đình riêng”, cô nhắc lại, nhưng làm sao đối chọi được với hai người, con rể và mẹ vợ đang trong “tuần trăng mật”. “Tuần trăng mật” không kéo dài nổi sáu tháng, “tổ ấm” bị phá vỡ, vì theo lời chàng rể nói với bạn bè thì: “Chỉ có Chúa mới sống nổi với dona Rozilda, mà cũng chưa chắc, phải thử xem Jesus có đủ khả năng hay không đã. Có khi cả Ngài cũng không chịu nổi.” Hai vợ chồng bỏ đến sống ở tít tận Cabula, một vùng gần như nhà quê. Morais thà chịu cảnh tàu điện muộn giờ, đôi khi trật bánh, một hành trình vừa dài vừa lâu như không bao giờ kết thúc; thà đi từ sớm để có mặt đúng giờ tại xưởng ở gần dốc Galés, thà sống ở nơi heo hút nơi rắn chuông độc rú rít, với những linh hồn ranh ma, những exú của vô số macumbas§ nhan nhản xung quanh, đi lại tự do trên đường mà phó mặc cho sự rủi may; tất cả những thứ đó còn hơn phải sống hàng ngày cùng mẹ vợ. Rắn chuông hay exú vẫn hơn. Ở tầng hai trên dốc Alvo chỉ còn lại Flor đang tuổi thiếu nữ, đã trở thành một cô gái xinh đẹp – khuôn mặt thanh tú, bộ ngực nhô cao và cặp hông nở nang – cùng dona Rozilda, một dona Rozilda ngày càng chát chúa, giờ chỉ còn trông vào nhan sắc và năng khiếu của cô con gái út, những quân bài cuối cùng của bà trong cuộc chiến để ngoi lên tầng lớp cao hơn, cuộc chiến bà đã bao lần thất bại. Dù sao thì bà vẫn chưa mất khả năng đấu tranh, không hề lung lay quyết tâm cứng rắn muốn ngoi lên, bước lên những bậc thang sẽ dẫn bà vào thế giới của những kẻ giàu sang. Trong những đêm mất ngủ, nghiền ngẫm kế hoạch, bà quyết định không gả con gái út cho một Morais thứ hai. Bà sẽ tìm cho Flor đám tốt hơn, một chàng trai đàng hoàng, gia đình nền nếp, tiến sĩ có bằng cấp hay thương gia giàu có cũng được. Bằng mọi giá, bà sẽ bảo vệ cơ hội cuối cùng này. Chuyện xảy ra với Rosalia sẽ không lặp lại. Không chỉ vì Flor nghe lời và biết điều hơn, mà vì cô không sợ thành gái già, không đả động đến cưới xin, không cãi lại mẹ khi bà cấm cô cười đùa với các nhân viên văn phòng tầm thường, những anh bán hàng xén hay các cậu thợ làm bánh mì. Cô tuân lệnh mà không cáu kỉnh, không hét lên phản ứng hay cuồng giận đóng kín cửa phòng rồi dọa tự vẫn như Rosalia đã làm thế khi bị dona Rozilda, canh cánh lo cho tương lai của con, cấm yêu đương nhăng nhít. Kết quả: cô chị cưới anh chàng Morais thô lỗ, tầm thường, không làm nổi đến nhân viên văn phòng, chỉ là tay thợ, công nhân, thật khiếp hãi! về đẳng cấp xã hội, anh còn thấp kém hơn gia đình bà. Anh có thể giỏi giang trong nghề, kiếm được tiền, là chồng tốt, là bạn vui; nhưng trên thực tế, lẽ ra Rosalia phải leo lên cao hơn trên chiếc thang xã hội thì lại tụt xuống. Dona Rozilda nghiền ngẫm, lòng cay đắng. Flor sẽ phải khác, không được lặp lại lỗi lầm. Trong khi dona Rozilda rèn giũa các kế hoạch, Florbắt đầu nổi danh là giáo viên dạy nấu ăn, chuyên gia về ẩm thực Bahia. Cô có năng khiếu nêm nếm bẩm sinh; từ khi còn nhỏ, cô đã biết nấu ăn và làm nước xốt, nấu những món đơn giản, định liều lượng muối, đường. Lâu nay, người ta đặt cô làm các món đặc sản Bahia, nhờ cô giúp làm vatap᧠và ragu tôm cay, xúp cá và xinxim§, cả món caruru§ nổi tiếng cúng thánh Côme và Damien§, như ở nhà dì Lita và nhà dona Dorothy Alves, cho hàng chục khách mời mà vẫn còn đủ cho bằng ấy khách nữa. Những bữa caruru hằng năm, những bữa tiệc cúng ibejés, hai vị thánh sinh đôi. Thời gian trôi đi, tiếng tăm của Flor lan rộng, người ta đến hỏi cô công thức, đưa cô tới các gia đình giàu có để dạy làm các món tinh xảo và cách gia giảm gia vị. Dona Detinha Falcão, dona Lígia Oliva, dona Laurita Tavares, dona Ivairy Silveira và nhiều quý bà “giới thượng lưu” khác, dona Rozilda huênh hoang về tình bạn với các bà này, còn giới thiệu cô cho bạn bè, thành ra Flor làm không hết việc. Một trong những quý bà sang trọng và giàu nứt đố đổ vách đó đã gợi ý cô nên mở trường dạy nấu ăn vì, sau khi đã hỏi công thức lý thuyết và xem thực hành, bà này đã nói rõ, khi thanh toán tiền công, rằng bà trả công cho cô giáo giỏi giang và cho một người bạn, chứ không phải cho đầu bếp. Đó là dona Luiza Silveira, quý bà ở bang Sergipe§, khéo léo và tinh tế. Flor mở trường rất có phương pháp, cô chỉ bắt đầu dạy sau khi Rosalia và Morais đã chuyển đến Rio de Janeiro. Anh thợ cơ khí rút ra kết luận rằng khoảng cách giữa vùng cao nguyên Cabula và dốc Alvo còn chưa đủ. Vì thế anh muốn chia cắt nơi ở của vợ chồng anh với mẹ vợ bằng cả đại dương, sau khi đã gọi dona Rozilda là “mụ ác mỏ”, với thái độ ghét cay ghét đắng, mà như lời anh nói về bà ta thì: “Chỉ là cái đồ dịch hạch, đói khát, hiếu chiến!”. Trường dạy nấu ăn của Flor ăn nên làm ra ngay từ đầu, các quý bà từ Canela, Garcia, thậm chí cả từ Barra đến để khám phá bí ẩn của dầu ngọt và dầu cọ; một trong những người đầu tiên là dona Magá Paternostro, giàu có và đầy quan hệ, hăng hái quảng cáo cho năng khiếu của Flor. Thời gian trôi dần, năm tháng qua đi, Flor không hề vội vàng kiếm chồng, giờ thì chính dona Rozilda phải xắn tay lên lo việc; tính ra thì cô út không còn là trẻ con nữa. Flor nhún vai, chỉ quan tâm đến trường học mà thôi. Trong một lần về thăm, anh trai cô đã vẽ cho cô một tấm biển màu sắc – mọi người đã khen ngợi anh rất có năng khiếu hội họa – rồi treo nó lên ban công: TRƯỜNG NGHỆ THUẬT ẨM THỰC VÀ HƯƠNG VỊ Heitor từng đọc một bài báo dài về một ngôi trường có tên “Hương vị và Nghệ thuật”, do một anh chàng Anisio Teixeira nào đó từ Mỹ sang gây dựng. Anh thay đổi nhan đề một chút cho phù hợp với lợi ích của em gái. Bên cạnh những con chữ viết nắn nót là hình dao, thìa, dĩa đan nhau thành chiếc kiềng ba chân và thế là hoàn thành tác phẩm nghệ thuật (nếu là bây giờ thì Heitor có thể nghĩ đến việc mở một cuộc triển lãm cá nhân và bán rẻ vài bức tranh, nhưng lại là cái thời đó, với lại viên công chức ngành đường sắt hài lòng với lời khen ngợi của em gái, của mẹ và của một cô học trò nào đó của Flor tên là Céleste, có đôi mắt ướt.) Các lớp nghệ thuật ẩm thực đảm bảo chi phí cho gia đình, cho những món chi tiêu nhỏ nhoi của bà mẹ và cô con gái, còn thừa ra đôi chút dành dụm cho một đám cưới trong tương lai. Nhưng cái chính là những lớp học đó chiếm hết thời gian của Flor, giúp cô phần nào thoát khỏi dona Rozilda, suốt ngày lải nhải kể lể công sức hy sinh để nuôi nấng con cái, dạy dỗ và giáo dục chu đáo cô con út, rằng cô phải tìm được người chồng giàu có đến mức nào để đưa hai mẹ con ra khỏi dốc Alvo, thoát khỏi chiếc bếp lò, tận hưởng những khu phố đẹp đẽ ở Barra, Graça, Vitoria. Thế nhưng Flor có vẻ chẳng bận tâm gì đến yêu đương hay hứa hôn. Khi đi dạ hội, cô khiêu vũ cùng hết người này đến người kia, lắng nghe những lời khen ngợi, mỉm cười cảm ơn, rồi chấm hết. Thậm chí, cô không buồn trả lời cậu sinh viên trường y đang say mê cô, chàng trai vui tươi dân vùng Pará§, trang nhã và thích bông đùa. Cô không khích lệ anh ta, mặc dù dona Rozilda vô cùng phấn khích: cuối cùng thì cũng có một chàng sinh viên, sắp thành bác sĩ, khao khát có được con gái bà. — Con không thích anh ta, Flor kiên quyết tuyên bố – Anh ta xấu như ma ấy... Mọi lời khuyên nhủ, mắng mỏ của dona Rozilda đang nổi cơn thịnh nộ đều không thể làm cô đổi ý. Bà mẹ đâm ra sợ: liệu trường hợp của Rosalia có lặp lại không, Flor có giống chị nó không, ngang bướng, có tự cho mình quyền quyết định việc hứa hôn và cưới xin? Bà cứ tưởng con gái út thừa hưởng tính cách của ông già Gil quá cố, chịu theo ý bà, thế mà nó lại ác cảm với cậu bác sĩ sắp có bằng, con trai điền chủ vùng Pará, sở hữu cả tàu biển và hải đảo, rừng cao su và rừng dẻ, những bộ lạc da đỏ hoang dã và sông ngòi mênh mông! Đúng là người phủ đầy vàng. Dona Rozilda đi dò la tin tức, và sau khi nghe vài người quen kể, về đến nhà, bà đã tưởng tượng ra cảnh mình đang ở vùng Amazon, trị vì hàng dặm đất, ra lệnh này bỏ lệnh kia cho vô số người lai và người da đỏ. Chàng hoàng tử quyến rũ cuối cùng đã đến, sự chờ đợi và hy sinh của dona Rozilda không phải là vô ích. Đáp tàu thủy từ Amazon, bà sẽ tới những ngôi nhà tuyệt vời ở Barra, những dinh thự khép kín ở Graga, những ông chủ ở đó sẽ vồn vã đón bà, gập người xuống lễ phép và xu nịnh. Với khuôn mặt tròn duyên dáng có làn da ngăm ngăm, hai lúm đồng tiền xinh xắn, đôi mắt luôn ngạc nhiên, Flor mỉm cười rồi chán nản, uể oải, ưu tư nhắc lại: — Con không thích anh ta... Người gì mà xấu thế không biết... “Con bé đang nghĩ cái quái gì không biết nữa?” dona Rozilda nghiền ngẫm trong lúc leo lên dốc. Flor hành động như thể hôn nhân là chuyện yêu hay không yêu, như thể trên đời này có đàn ông đẹp và xấu, như thể dễ kiếm được một người cầu hôn như Pedro Borges ở xung quanh con dốc Alvo này. — Cứ sống với nhau, sinh con đẻ cái, có mối quan tâm chung là yêu nhau thôi, bà bá tước sọ dừa của tôi ạ. Chỉ cần không ác cảm là được. Con thấy cậu ta khiếp lắm à? — Con ư? Không, Đức Chúa tha tội! Thậm chí con thấy anh ta còn có phần tử tế nữa cơ. Nhưng con chỉ muốn lấy người con yêu thôi... Cái anh Pedro này thật sự xấu quá thể... Flor thường ngốn tiểu thuyết ở Thư viện thiếu nữ, cô khao khát mong gặp một chàng trai nghèo nhưng đẹp, bạo dạn và có mái tóc vàng. Dona Rozilda sùi bọt mép vì tức giận và kích động; giọng nói chói tai của bà vang cả ra ngoài phố, truyền tiếng vang của cuộc cãi vã tới tất cả hàng xóm láng giềng: — Xấu á! Có ai để ý đàn ông xấu hay đẹp đâu? Đồ ngu ạ, cái đẹp của đàn ông đâu phải ở nét mặt, mà ở tính cách, ở địa vị xã hội, ở của cải. Có ai thấy đàn ông giàu có mà xấu bao giờ đâu? Còn bà, dona Rozilda thì không, có lẽ không bao giờ bà đổi anh chàng Borges xấu xí (mà thực ra anh ta không đến nỗi xấu lắm, cao lớn và khỏe mạnh, ừ thì chỉ phải tội mặt hơi nổi mụn một chút) lấy bọn trẻ ranh trâng tráo, hỗn xược ở Rio Vermelho, lũ lêu lổng kiết xác không xu dính túi. Bác sĩ Borges – bà cứ gọi trước anh ta như vậy – là người đàn ông trẻ tuổi đứng đắn, trông thì biết ngay, con cái nhà danh giá ở Pará, danh giá và giàu vô cùng. Dona Rozilda đã biết thế: ngôi nhà của họ ở Bélem đúng là một cung điện, có tới hơn một tá người hầu. — Một tá, mày nghe thấy chưa, đồ con gái tồi tệ, đỏng đảnh, ngu ngốc, tự phụ, phi lý. Toàn bộ sàn nhà, cầu thang đều lát đá cẩm thạch đấy. Bà giơ tay, vẻ rất cải lương: — Có ai thấy đàn ông giàu mà xấu bao giờ đâu? Flor cười, hai lúm đồng tiền thật xinh, cô chẳng vội lấy chồng. Cô chặn họng mẹ: — Mẹ làm như con là loại con gái xấu xa, đánh giá đàn ông qua túi tiền của họ vậy... Con không yêu anh ta, thế thôi. Trận chiến giữa dona Rozilda, bị chọc tức nhưng cũng là kẻ khiêu khích, căng thẳng đến phát điên, và Flor, bình thản như chẳng có gì xảy ra, trận chiến mà anh chàng Pedro Borges là đối tượng tranh chấp nhưng cũng là phần thưởng đạt đến cao trào vào dịp lễ trao bằng cuối năm học. Chàng sinh viên ra trường mời hai mẹ con đến dự lễ và tiệc khiêu vũ. Để đến buổi lễ, diễn ra trong sảnh lớn trường y, dona Rozilda ăn mặc ra dáng mẹ vợ, từ đầu đến chân phủ lụa tafta, quý phái như con gà tây xòe đuôi, cánh tay áo phủ diềm, lược cài búi tóc theo kiểu vũ nữ Tây Ban Nha. Trong vũ hội, Flor rực rỡ trong xiêm áo bằng đăng ten và vải tuyn. Cô không bỏ một điệu nào, biết bao bạn nhảy vồn vã mời cô ra sàn. Nhưng cô không dành tia hy vọng nào cho chàng tân cử nhân. Không một chút nào, ngay cả khi anh chàng đến thăm nhà họ cùng ông bố để gây ấn tượng hơn nữa, trước hôm quay về vùng Amazon xa xôi. Ông chủ đồn điền đầy quyền lực ở Pará tên là Ricardo, cao to như người khổng lồ, giọng sang sảng, tay đeo đầy nhẫn – dona Rozilda suýt ngất khi nhìn thấy những viên đá quý. Ông ta có viên kim cương đen to tướng ít nhất cũng phải đáng giá năm mươi triệu reis, lạy Chúa! Ông bố nói về đất đai của ông, những người Anh điêng hiền hòa và rừng cao su, những câu chuyện về sông Amazon. Ông cũng nói về niềm vui khi thấy con trai trở thành bác sĩ, nhận tấm bằng thầy thuốc. Giờ ông chỉ còn mong thấy cậu cưới được cô gái con nhà tử tế, khiêm tốn và thành thực, không cần hồi môn, tiền thì ông không thiếu – ông động đậy các ngón tay, những chiếc nhẫn lấp lánh lóe sáng, sáng rực cả phòng khách. Ông muốn có cô con dâu sinh cho ông những đứa cháu gái, cháu trai, để căn nhà đá cẩm thạch khô khốc ở Bélem được vui vẻ ấm cúng, nơi ông Ricardo già nua, góa vợ sống cô đơn suốt những năm Pedro theo học y khoa. Ông nói và nhìn Flor, chờ đợi một lời nói, một cử chỉ, một nụ cười: đây chẳng phải lời mở đầu cho lời hỏi cưới rồi còn gì, nếu không phải thế thì dona Rozilda thật chẳng còn hiểu gì nữa. Bà run lên vì xúc động và lo sợ, phút giây mong chờ đã đến... chưa bao giờ bà tới gần đích như bây giờ, bà nhìn đăm đắm con bé ngu si, chờ đợi lời chấp thuận ngượng ngịu nhưng chắc chắn của nó. Thế nhưng Flor chỉ nhẹ nhàng nói: — Không thiếu các cô gái xinh đẹp và chân thực muốn cưới Pedro, anh ấy xứng đáng như thế. Cháu chỉ mong đám cưới được tổ chức ở đây, tại Bahia, để cháu còn được chuẩn bị tiệc cưới. Pedro Borges cất chiếc nhẫn cưới đã mua sẵn, không chút giận dỗi, ông bố Ricardo húng hắng ho, chuyển đề tài câu chuyện. Dona Rozilda thấy khó ở, thở hổn hển, tim đập yếu ớt. Bà ra khỏi phòng khách với vẻ phẫn nộ, sợ sẽ tỏ ra yếu đuối trước mặt khách, mong thấy đứa con gái chết đi và bị chôn ngay xuống đất, đồ bất hiếu, ngu si, đần độn, đối đầu lại chính mẹ nó, đồ chết giẫm! Sao nó dám táo tợn từ chối lời cầu hôn của anh bác sĩ cơ chứ – giờ thì đúng là bác sĩ – chàng trai giàu có, người thừa kế biết bao là hải đảo, sông ngòi và nô lệ da đỏ, tất cả chỗ đá cẩm thạch, những chiếc nhẫn bóng loáng, sao nó dám thế chứ, đồ khốn nạn? Ôi! Bức tường nào của căm hận và thù ghét, của bất hòa không thể dung thứ, của oán hờn không thể vượt qua, sẽ dựng lên giữa hai mẹ con, gắn bó vĩnh viễn và mãi mãi không chia lìa, nếu vào đầu năm ấy, Vadinho không xuất hiện, ít lâu sau khi chàng Borges ra đi! Ái chà! So với danh phận, địa vị và của cải của Vadinho – theo những thông tin đầy đủ mà Vadinho và bạn bè anh ta cho dona Rozilda biết – thì chàng bác sĩ người Pará chỉ còn là anh chàng đáng thương với khối cẩm thạch trong dinh thự của anh ta và cả tá người hầu nữa! Một kẻ bần cùng, với tất cả đất đai và sông nước của anh ta! 6 Khuôn mặt sáng ngời thiện cảm, Mirandão nghiêng mình lịch lãm, xin phép ngồi vào chiếc ghế bên cạnh dona Rozilda. Những chiếc ghế mặt mây đan dựa sát vào tường trang trí quanh phòng khách. Chàng sinh viên thường trực (phải gọi là “bền bỉ” chứ, Mirandão sửa ngay khi có ai muốn nói đến bảy năm của anh ta ở trường nông nghiệp) duỗi chân, sửa lại li quần cẩn thận, quan sát các đôi nhảy đang đi một điệu tango Achentina phức tạp với những bước nhảy trông như nhào lộn và mỉm cười hài lòng: không vũ công nào sánh được với Vadinho, không ai được như cậu ta, cầu Chúa phù hộ và che chở cho cậu! Mirandão rất mê tín. Là người lai đen với nước da sáng, dáng uể oải, hai mươi tám tuổi, anh ta là gương mặt quen thuộc nhất ở các nhà chứa và sòng bạc Bahia. Đoán được ánh mắt của dona Rozilda đang dõi theo mình, anh ta quay về phía bà, nụ cười cuốn hút càng rạng rỡ hơn, nhìn thẳng bà bằng con mắt bình phẩm có kinh nghiệm. “Chả làm gì được với loại đàn bà ác mỏ này”, anh ta tiếc rẻ kết luận. Không phải vì tuổi tác của bà! Đã từ lâu, trong luật cư xử của anh ta đối với phụ nữ, Mirandão khẳng định rằng không được coi thường bất cứ người đàn bà nào vì tuổi tác của họ, nếu không sẽ có nguy cơ mắc lỗi lầm đáng tiếc. Những người đàn bà ngoài năm mươi đôi khi giữ được thân hình hiếm có và vẻ trẻ trung đáng khâm phục, có thể làm được những điều vô cùng bất ngờ, ghi được những kỷ lục ngoài dự đoán. Anh ta biết điều này theo kinh nghiệm riêng, và giờ đây, khi quan sát những gì còn lại ở dona Rozilda, anh ta nhớ đến vẻ tuyệt mỹ tuổi xế chiều của Célia Maria Pia dos Wanderleyse Prata, cả dòng tên dài dằng dặc này chỉ một phụ nữ vóc dáng nhỏ bé, quý bà thuộc giới thượng lưu, lắm lời và hăng say. Bà ta thú nhận đã ngoài sáu hai, và đã cắm sừng cả chồng lẫn tình nhân, nhưng vẫn không đã thèm. Đã có cháu gái ở độ tuổi ba mươi và chắt gái đến tuổi lấy chồng nhưng bà ta vẫn còn ban phát đặc ân – thế mới là """