"
Đời Yakuza - Saga Junichi & Thanh Hà (dịch) & Hằng Hậu Lam (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hồi Ký]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đời Yakuza - Saga Junichi & Thanh Hà (dịch) & Hằng Hậu Lam (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hồi Ký]
Ebooks
Nhóm Zalo
SAGA JUNICHI
Thanh Hà & Hằng Hậu Lam dịch —★—
ĐỜI
YAKUZA
NHÃ NAM & NXB LAO ĐỘNG ebook©vctvegroup | 28-07-2020
phần I
Vào mùa đông vài năm về trước, một người đàn ông lớn tuổi, dáng cao, vai rộng xuất hiện tại phòng khám của tôi ở Tsuchiura, thành phố nhỏ cách Tokyo một tiếng tàu điện. Mặt ông to bè so với người thường, trán hằn sâu những nếp nhăn sậm màu, môi dày thâm sì còn đôi mắt đục ngầu vàng vọt, một gương mặt dù chỉ thoáng gặp trong đám đông cũng khiến người ta thấy nổi bật.
Tôi bảo ông cởi áo, để trần nửa thân trên. Lưng ông phủ kín hình xăm “rồng chầu mẫu đơn”, màu xăm trên da đã bợt đi theo năm tháng, móng rồng nhạt nhòa như những đám mây, còn râu rồng bạc phếch như sắp biến mất. Dù vậy, hình xăm trông vẫn rất ấn tượng và tuyệt đẹp theo cách riêng.
Chính giữa đài hoa, đứng đó một phụ nữ. Con rồng như định nuốt chửng cả nàng và bông mẫu đơn. Mắt nàng khép hờ, hai tay chắp lại cầu nguyện, trên môi thoáng một nụ cười bí hiểm.
Tôi chỉ ước mình được chụp lại hình xăm, nhưng đó là lần đầu tiên tôi gặp ông, chưa kể ở ông toát ra một thứ khí chất đanh thép khiến tôi phải e ngại, rốt cuộc không bao giờ tôi mở lời xin phép chụp hình.
Kiểm tra phần bụng dưới của ông, tôi phát hiện gan dã phình khá to. Chắc chắn có dịch thể ứ đọng trong khoang bụng. Tôi chờ ông ngồi dậy khỏi bàn khám bệnh rồi nói:
“Tôi sẽ viết đơn giới thiệu bác tới bệnh viện lớn. Ở đó bác sẽ được chữa trị tốt hơn.”
Nhưng người đàn ông lại mỉm cười, đáp:
“Bác sĩ ạ, tôi đã bảy mươi ba rồi. Cả đời này tôi đã làm được gần hết những việc mình muốn, tới tình trạng này tôi chẳng cầu mong khỏi bệnh nữa đâu.”
Khoang miệng người đàn ông thấm đen, có lẽ vì thuốc lá, trông chẳng khác gì một cửa hang nhỏ. Giọng ông trầm và khàn.
“Hồi trẻ tôi sống khá điên cuồng, chắc vì thế mà bây giờ cơ thể này chẳng còn nghe theo ý tôi nữa. Tôi quyết định chuyển giao sòng bạc cho một đàn em trẻ hơn để về chốn ngoại ô dưỡng già. Bác sĩ biết cô gái hành nghề mát-xa sống chỗ bờ đê không? Tôi đến chỗ cô ấy hai hay ba lần gì đó, mát-xa tốt lắm. Chính cô ấy đã giới thiệu tôi đến đây.”
“Ra vậy.”
“Bệnh của tôi có đi chữa khắp nơi cũng vậy, chẳng khá hơn được, đúng không bác sĩ?”
“Đi khám ở các nơi khác, người ta đã nói với bác như thế à?” “Tôi tự biết mà. Thực tình, tôi không hy vọng nhiều lắm khi tới đây. Chỉ mong bác sĩ tiêm cho tôi vài mũi khi nào tôi lên cơn đau. Bác sĩ đừng lo, tôi không hỏi xin morphine hay những loại thuốc giảm đau tương tự đâu. Chắc là do bệnh tiểu đường, chân tôi đau khủng khiếp, gần như mọi lúc. Hy vọng bác sĩ giúp tôi, để tôi bớt đau đớn.”
Vì người đàn ông từ chối các biện pháp chữa trị chuyên sâu, tôi đành nhận lời để có thể giúp ông. Thực ra, tôi cũng có lý do khác khi đồng ý với đề nghị này. Mỗi ngày, tôi gặp hàng chục bệnh nhân đến khám nhưng người đàn ông này không giống bất kỳ ai trong số họ. Ông có gì đó khiến
người ta tò mò. Hơn nữa, tôi dự định rồi một ngày sẽ thuyết phục ông chia sẻ chuyện đời mình.
Từ đó, ông bắt đầu đến phòng khám của tôi hai lần một tuần. May mắn là lượng dịch thể trong khoang bụng ông không tăng nhanh như tôi lo ngại, còn hai chân ông chỉ tiếp tục bị đau thêm một thời gian ngắn. Rồi, khoảng một tháng sau, ông mở lời, hỏi liệu tôi có muốn đến thăm nhà ông khi có thời gian. Ông nói:
“Nhà tôi tuềnh toàng lắm, nhưng đủ để mời bác sĩ uống trà và sưởi chân. Tôi đoán bác sĩ có một cuộc sống bình lặng và chuẩn mực, nên với những chuyện hơi xa khuôn khổ thông thường một chút, có lẽ bác sĩ sẽ muốn để tâm.”
Chạng vạng tối ngày hôm sau, trong màn mưa rào lạnh buốt, tôi đến nhà ông như đã hẹn. Ông bày sẵn trên bàn sưởi một đĩa hoa quả lớn đầy quýt để chờ tôi. Chốc chốc, xen giữa tiếng mưa ồn ã, còn nghe được tiếng đàn shamisen* khe khẽ vẳng tới.
Buổi tối ấy, tôi ngồi lắng nghe chuyện của ông khoảng ba tiếng đồng hồ. Cứ nói được ba mươi phút, ông lại lộ vẻ mệt, chúng tôi bèn ngừng cuộc trò chuyện vài phút để uống trà. Ông lịch sự mời tôi ăn quýt, cẩn thận bóc vỏ, ăn sạch sẽ rồi mới cất giọng khàn khàn kể phần tiếp câu chuyện.
Cứ như vậy, ba ngày một lần tôi đều đặn đến nhà ông, với máy ghi âm. Tới khi câu chuyện ông muốn chia sẻ kết thúc thì mùa đông cũng đã trôi qua, khắp nơi tràn ngập những làn gió xuân.
Những điều xảy ra tiếp đó cũng trở thành một phần trong câu chuyện ông kể cho tôi. Giờ đây khi đặt bút viết lại, tôi chỉ ước giá như khi ấy mình
hỏi ông thêm nhiều điều và chi tiết hơn nữa, nhưng ông đã đi rồi, lúc này đã là quá muộn.
Oyoshi
Năm tôi mười lăm tuổi, mọi chuyện bắt đầu đi chệch hướng.
Giọng ông thì thào lúc bắt đầu cất tiếng, may sao ông nói rất chậm rãi, đủ để tôi nghe rõ từng từ.
Hồi ấy cha tôi sở hữu một trong những tiệm tạp hóa lớn nhất thành phố Utsunomiya*, ở đó bán muối, đường, vải vóc, chăn đệm và đủ thứ khác. Nông dân từ các khu ngoại ô lân cận vẫn hay tới chỗ cha tôi mua những thứ họ cần rồi chất lên xe tay kéo về, từ đồ gia dụng thường ngày cho tới đồ đắt tiền để làm quà tặng trong các dịp quan trọng. Cha tôi thuê đâu chừng mười lăm người làm, những cậu trai trẻ phụ trách chạy vặt và bốc dỡ núi hàng, còn nhân viên kế toán suốt ngày lạch cạch bên bàn tính. Khi đó chúng tôi thậm chí còn mời khách hàng thân quen dùng bữa trưa tại phòng ăn riêng, mấy cô giúp việc vẫn hay nấu một nồi cơm thật lớn cho các vị khách. Đã rất nhiều năm rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ như thể chuyện mới hôm qua.
Tóm lại là, tiền vào nhiều như nước, gia đình tôi nhờ thế mà sống dư dả. Cha tôi rất thích mua đồng hồ. Ông thuê người gửi đồng hồ từ tận Tokyo về rồi cất kín ở một góc đặc biệt. Tới hội Obon và lễ đầu năm, ông sẽ phát đồng hồ cho những người giúp việc và kế toán trước đó đã tỏ ra cần mẫn. Chúng rất khác kiểu đồng hồ đeo tay thời nay, chưa kể cha tôi
còn đặt mua loại mạ vàng, hàng gốc Thụy Sĩ, nên chiếc nào cũng rất đáng giá. Cha tôi thường ngồi bệ vệ như một lãnh chúa phong kiến, sau lưng là góc treo câu đối*. Đám người làm ngồi thành một hàng đối diện ông, mặt đỏ bừng vì cúi người quá thấp, trán chạm tới mặt chiếu. Tiếp đó ông quản lý lần lượt xướng từng cái tên, người được gọi bò rạp tới bằng cả tứ chi, cha tôi sẽ buông lời khen kiểu như “Anh đã rất chăm chỉ”, đoạn ông đặt chiếc đồng hồ vào tay người đó, hết sức chậm rãi. Mấy cậu thanh niên được nhận thưởng háo hức đến độ run lật bật cả người, nhìn thoáng qua cũng đủ biết họ hạnh phúc nhường nào. Tôi đoán chừng mục đích cha tôi duy trì thủ tục này là vì muốn được thấy biểu cảm đó trên khuôn mặt người làm.
Cha tôi còn sở hữu một khu nhà có sân vườn rất lớn nằm ngay ngoại ô. Hồi tôi vừa lên cấp II, ở sau khu vườn ông cho xây thêm một ngôi nhà để cho thuê. Nói là để cho thuê, nhưng ngôi nhà cũng khá lớn, gồm hai tầng, có sảnh chờ hẳn hoi, căn phòng đẹp nhất nằm cuối nhà còn được bố trí một góc thụt để bày hoa và cây cảnh. Nhà hiện tôi đang ở tuy cũng là hai tầng, nhưng nếu so với ngôi nhà ấy thì vô cùng khập khiễng. Thời đó phần lớn người ta chỉ xây nhà một tầng, ngoại lệ hiếm hoi là các cơ quan chính phủ, trường học, cơ sở công cộng. Cho nên có thể nói, nhà dân mà những hai tầng là hết sức đặc biệt.
Chuyện là, khi tôi học năm cuối cấp II, có một phụ nữ trẻ đã tới sống ở ngôi nhà đó. Cô mới hơn hai mươi, là tình nhân ngài chánh án tòa án thành phố Utsunomiya, như tôi còn nhớ, cô đẹp tuyệt trần.
Ký ức đầu tiên của tôi về cô là vào một ngày thu. Tôi đang tiến vào khu nhà từ cổng sau thì chợt để ý thấy một phụ nữ lạ đang ngắm cảnh bên ngoài qua cửa sổ tầng trên ngôi nhà cho thuê. Tóc cô búi theo kiểu Nhật
truyền thống, đen nhánh và bóng keo. Cô tì người lên lan can sắt bao quanh cửa sổ, tay trái đỡ trán, tay phải chìa hẳn ra ngoài đung đưa. Trông cứ như một cảnh hiện ra từ những bức tranh khắc gỗ cổ. Tôi đứng sau hàng cây, ngắm cô hồi lâu, lòng thắc mắc tại sao một phụ nữ như cô lại tới đây. Được một lúc, cha tôi xuất hiện nơi cổng chính cùng một quý ngài ăn vận sang trọng. Ông đang dẫn quý ngài đi tham quan khu nhà, miệng ông nói liên hồi, chốc chốc đầu ông gật lên gật xuống. Cha tôi không phải kiểu nhún nhường trước người khác, đó là lần đầu tiên tôi chứng kiến ông thể hiện thái độ như vậy.
Người phụ nữ trẻ bước ra sân, tiến về phía cha tôi và ông kia. Cô nói gì đó với quý ngài ăn vận sang trọng, ông ta gật gù rồi hắng giọng. Không hiểu sao, điều này khiến tôi thấy khó chịu với ông ta.
Đó là hôm ngài chánh án đi chọn nhà cho thuê, thế rồi mười ngày sau, người phụ nữ trẻ chuyển tới sống tại ngôi nhà ấy. Ngài chánh án chỉ đến thăm người tình vào Chủ nhật, khi trời còn sáng. Tuyệt nhiên không bao giờ là ngày trong tuần. Cả thứ Bảy cũng không. Thường ông ta thuê xe kéo chở tới. Ngài chánh án tầm trung niên, người to béo, dáng chắc nịch. Xe kéo dừng lại, ông ta bước xuống, trên người vận bộ kimono sang trọng, chân đi guốc gỗ, tay chống batoong, đoạn ông ta đứng đó chờ người phụ nữ ra, cô sẽ thì thào vài câu với tay kéo xe rồi thưởng tiền cho gã.
Ngài chánh án ở lại cùng người tình đến khi trời tối, rồi tay kéo xe hồi ban ngày tới đón ông ta, trên càng xe treo một chiếc đèn lồng giấy. Ngài chánh án bước lên xe, ngả người ra lớp đệm lót lưng, yên vị ngồi cho xe kéo tiến vào con đường mù tối, người phụ nữ đứng đó cho đến khi ông ta đi khuất.
Mỗi tháng một lần, tôi tới chỗ người phụ nữ ấy thu tiền nhà. Vì công việc kinh doanh, cha mẹ tôi không thể sống tại khu nhà lớn mà họ sở hữu. Các chị và anh em tôi đều ở cùng cha mẹ nơi cửa tiệm tạp hóa. Nhưng riêng tôi được cho ở cùng ông bà, tại khu nhà bên ngoại thành.
Thế nên, hằng tháng tôi có nhiệm vụ đi thu tiền thuê nhà rồi đem số tiền ấy tới chỗ cha tôi. Mỗi lần như vậy, người phụ nữ chỉ nói: “Đây, xin gửi cậu.” Tôi chưa từng nghe được câu nào khác từ miệng cô. Thế rồi vào một ngày đông nọ, khi ấy trời đã sẩm tối, tôi đứng đợi ở sảnh, chờ tiền nhà như thường lệ, chợt từ sau cánh cửa kéo dán giấy có tiếng người phụ nữ cất lên: “Mời cậu vào trong, cậu Eiji.” Tôi chưa kịp nói gì thì cửa đã mở, người phụ nữ đứng đó bên bàn sưởi với đôi đũa trên tay.
“Tôi đang ăn bánh nếp. Cậu ăn vài miếng không? Đừng đứng mãi thế, vào trong này đi. Ngồi bàn sưởi cho ấm. Nào, vào đi. Mà, cậu bao nhiêu tuổi rồi?”
“Tại sao chị hỏi thế?”
“Cứ nói đi, cậu bao nhiêu tuổi?”
Cô mỉm cười quan sát khuôn mặt tôi. Đoạn cô đưa những ngón tay thon nhỏ nhón lấy chiếc bánh nếp vừa nướng.
“Nào, há miệng ra…” Cô bảo tôi.
Những ngón tay trắng muốt nhòe đi trước mắt, tôi thấy đầu óc choáng váng, hơi thở như nghẹn lại trong họng. Đó là lúc, cuộc đời tôi chệch hẳn sang hướng khác.
Tôi đã lún rất sâu vào chuyện với người tình ngài chánh án, điều này thực dễ hiểu. Người phụ nữ rất cô đơn, còn tôi thì đang tuổi mười lăm, thế
là ngoài cô ra, tôi chẳng thể để tâm vào điều gì khác nữa. Trước đó, kết quả học tập của tôi ở trường luôn thuộc nhóm khá nhất, nhưng về sau, các điểm số đồng loạt hạ cánh tới mức gần bét lớp.
Mỗi khi đến với cô, tôi cứ như ngồi trên đống than hồng. Tim tôi đập liên hồi vì lo ngài chánh án có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Thậm chí tôi còn nghĩ tới tình huống bị bắt quả tang ngay tại nơi này, sau đó một tay cớm sẽ tới lôi tôi đi, tống tôi vào trong tù, phán tôi tử tội.
Cô thấy thế là khôi hài, bèn trêu tôi: “Nếu cậu sợ đến như thế thì đừng tới đây nữa. Có điều, bây giờ mà cậu ra về, từ mai tôi sẽ không bao giờ cho cậu vào đây nữa đâu.” Cô chỉ cần nói khéo một câu hờn dỗi là tôi vô phương vùng thoát khỏi đôi tay trắng muốt mảnh khảnh ấy.
Những điều khiến cô để tâm nhất, là chuyện bà vợ của ngài chánh án và tòa dinh thự lớn mà gia đình ngài đang sống.
Mỗi ngày tới trường, tôi vẫn thường đi qua dinh thự ấy. Tòa dinh thự có hẳn một con hào rộng ba mét bao quanh, chẳng khác gì lâu đài. Phía bên kia hào là bờ giậu gai và bức tường dài để ngăn người lạ xâm nhập. Hai bên cổng lớn lù lù hai cây thông cảnh.
Ngay cửa chính là một bục đặt chân đẽo từ súc gỗ nguyên khối. Sát cổng vào luôn thường trực một tay phu xe cùng chiếc xe kéo chờ sẵn. Phía Đông khu dinh thự còn có cả một sân tennis. Đó là vào những năm đầu thế kỷ 20 và quả thật tôi chưa từng thấy ai chơi môn thể thao quý tộc ấy tại cái thành phố tỉnh lẻ này. Thời ấy chánh án là một địa vị rất có thế lực, ngang ngửa với chức tỉnh trưởng, nên tôi đoán ngài chánh án chọn tòa dinh thự này vì cho rằng nó tương xứng với vai vế của ông ta.
Thực ra thì, chính bà vợ cả sống trong tòa dinh thự ấy, chứ không phải bản thân tòa nhà, mới là lý do khiến tôi bị người tình ngài chánh án truy
hỏi mỗi khi đi học về.
Tôi còn nhớ chuyện thế này. Đó là một tối hè, trời vừa tắt nắng, gió nóng ngột ngạt và bức bối, người tình ngài chánh án đã tắm xong, chỉ khoác bộ đồ ngủ mỏng, đang ngả người trên lớp chiếu tatami* trong phòng khách, tay phe phẩy quạt. Tôi thì vừa ra khỏi nhà tắm, trên người không mặc gì ngoài chiếc khố mới thay, da vẫn hầm hập hơi nước nóng. Tôi bước vào phòng. Đúng lúc ấy, người phụ nữ ném bộp chiếc quạt xuống mặt chiếu.
“Mụ ấy thật tởm lợm! Toàn cằn nhằn ông ấy, mặt thì thế này này…” Cô nói, đoạn lấy hai ngón tay đẩy lông mày cao lên, mặt nhăn lại. Tôi ngơ ngác không hiểu cô nói tới ai. “Mụ vợ ông ta ấy.” Cô hậm hực nói rồi với tay nhặt chiếc quạt lên, quạt lấy quạt để.
“Ước gì mụ ấy mau mau chết đi.” Cô còn chêm thêm.
“Chị gặp bà ấy bao giờ chưa?”
“Rồi chứ. Một lần thôi. Hồi ở Tokyo, ông ấy dẫn cả tôi và gia đình đi xem kịch Kabuki, tôi ngồi một bên, vợ và con gái ông ấy một bên. Cô con gái chỉ ngang tuổi tôi.”
“Chuyện gì kỳ khôi vậy?”
“Kỳ khôi á? Lố bịch thì có!”
Có lẽ cô thực sự mong bà vợ cả chết đi. Nhưng giả dụ như chuyện đó có xảy ra, không một điều gì đảm bảo rằng ngài chánh án sẽ cưới hỏi cô chính thức, đó cũng là một lý do khiến cô bất an và hay cáu gắt. Dù rằng ngài chánh án đã thuê nhà cho cô, chu cấp đầy đủ cho cô, nhưng chừng ấy chưa đủ để làm cô thỏa mãn. Máu trong người tôi sôi lên khi thấy cô như vậy. Không hiểu sao, nhưng tôi rất bức bối.
Rồi, vào một tối cuối hè, tôi ngồi đó nơi ngôi nhà cho thuê, đầu óc trống rỗng, cố gắng suy ngẫm nhưng chẳng đi đến đâu. Ngoài cửa sổ, chiếc chuông gió cứ leng keng leng keng. Tôi ngắm chiếc chuông ấy một hồi lâu, rồi bất ngờ nhận ra mình không thể tiếp tục chịu đựng tình trạng này. Tôi giật đứt sợi dây treo chuông gió, đoạn ném chiếc chuông xuống sàn đá lát ngoài vườn.
“Cậu làm sao vậy, tự dưng lại…” Cô trợn mắt nhìn tôi, mặt ngỡ ngàng. “Xấu lắm biết không?”
“Cái gì cơ?”
“Tôi đang bảo chị cơ mà!”
“Ngốc ạ!” Người phụ nữ đưa tay bấu mạnh cằm tôi, nhếch miệng cười nhạt. Cô nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nhắc lại, giọng trầm trầm: “Ngốc ạ! Cậu chẳng khác gì bọn họ!”
Chuyện cứ tiếp diễn như vậy hàng tháng trời, rồi một hôm, người phụ nữ ấy bất ngờ chuyển tới Tokyo. Ngài chánh án được thăng chức, cô dọn đi cùng ông ta. Lúc chia tay, cô đã nói: “Khi nào tới Tokyo tôi sẽ viết thư cho cậu, có dịp nhớ đến thăm tôi đấy.” Tôi chờ mãi chờ mãi, rồi ba tháng sau một lá thư cũng được gửi tới. Có điều, trên bì thư không hề ghi địa chỉ.
Tầm nửa năm sau đó, tôi tự mình lên Tokyo. Mục tiêu của tôi là tìm người phụ nữ ấy, tôi tin rằng tới thủ đô rồi, chắc chắn sẽ có ngày gặp được cô. Khi tôi nói với cha về chuyện lên Tokyo tìm việc, thật bất ngờ là ông dễ dàng đồng ý. Có lẽ cha tôi cho rằng sẽ là điều tốt nếu tôi sẵn sàng thay đổi vì người khác. Tôi đã học tới năm cuối cấp II, nhưng kết quả trên trường cho thấy tôi sẽ không vượt qua được kỳ thi chuyển cấp. Vào thời
ấy, học sinh thi trượt và không thể học tiếp lên các lớp cao là chuyện rất bình thường, nên có lẽ cha nghĩ, nếu tôi tự lập được, thì có phải để tôi ăn cơm nhà người cũng không vấn đề gì.
“Trên đó có khó khăn nhường nào cũng chớ có chạy về nhà kêu than.” Cha đã nói vậy khi chia tay. Tôi không rõ liệu cha có chút hồ nghi nào về lý do tôi muốn rời khỏi gia đình. Tên của người phụ nữ ấy là Oyoshi. Chuyện khôi hài ở chỗ, tôi còn không biết họ của cô là gì.
Fukagawa
Cha tôi có một người họ hàng làm thương lái buôn than tại khu Ishijima thuộc quận Fukagawa*, Tokyo. Tên của cơ sở ấy là “Than đá Nakagawa”, họ đã nhận tôi vào làm việc.
Người đàn ông nghiêng đầu sang bên, hắng giọng ho khan hai, ba lần. Dứt cơn ho, ông xoay người với lấy một tờ báo, mở rộng ra rồi dùng bút vẽ phác vài nét cho tôi dễ hình dung.
Bên ngoài cơ sở bán than ấy có một con sông chảy qua, là sông Onagi. Ngay bên cạnh là đền thờ Inari. Đối diện là cầu Ougi và cầu Sarue. Phía bên kia sông là chùa Jugan, gần đó có một công ty chuyên về gas. Đi về phía Tây sông Onagi sẽ tới sông Sumida. Đi về hướng ngược lại, tức là xuống phía Đông thì sẽ đến Nakagawa. Lúc đó tôi lên tàu thủy, đi theo nhánh sông Edo cắt ngang sông Onagi tới Nakagawa, vượt qua kênh đào Nagareyama, theo sông Tone tới Toride. Đối diện với Toride có một ngôi làng tên là Ohori. Thời ấy, có một tàu thủy tên là Tonmaru chạy trên sông Sumida. Đó là kiểu tàu có bánh lái ở ngoài, hai bên tàu có hai bánh xe, khi hoạt động phát ra tiếng lạch xạch. Nó chạy từ sông Tone và dừng lại ở bến cảng. Từ đó đi được tới Ohori. Ngôi làng này từ ngày xưa đã là nơi sinh sống của nhiều thợ mộc.
Người đàn ông cho thuốc lá vào tẩu rồi châm lửa. Ông vừa ngắm nhìn ngọn lửa than vừa thong thả hút thuốc. Bàn tay cầm tẩu thuốc run run, phần đầu ngọn lửa màu xanh trên que đóm lay động theo.
Chú họ tôi thuộc hàng có máu mặt trong giới buôn than thời đó. Ông có hàng chục núi than cao đến độ ta phải nghểnh mặt lên mà nhìn. Dọc bờ sông chất đống những núi than được chuyển đến bằng đường thủy từ các vùng khác như Hokkaido và Kyushu.
Khi có tàu vận tải lớn chở than tới Yokohama, phu khuân chuyển than sang thuyền gỗ, rồi lại từ thuyền gỗ chuyển sang các sà lan nhỏ hơn để tiến vào sông Sumida. Để tới được cơ sở của chú tôi, họ phải chở than qua cầu Mannen, xuôi theo sông Konaki, hai bên bờ là vô số nhà máy, cửa hàng nằm chen chúc. Kho chứa than có tới năm cầu tàu để nhận hàng bên bờ sông. Phu khuân vác chuyển than vào sân chứa trong kho, sắp xếp cho ngay ngắn, chỉ chờ các tàu nhỏ hoặc xe ngựa kéo tới lấy than mỗi khi có nơi đặt hàng.
Đám phu khuân vác than sống rất khổ cực. Họ bẩn vô cùng, da mặt khô nứt khô nẻ, răng vàng khè, ánh mắt thất thần, bộ dạng lấm lét. Tôi từng hỏi ông chú: “Tại sao họ lại có ánh nhìn như vậy?” Chú tôi cười khinh khỉnh đáp: “Vì chúng nó là rác rưởi chứ sao!”
Chú họ tôi rất giàu, nhưng hết sức keo kiệt. Tôi từng bị ông nhắc nhở không biết bao nhiêu lần. “Tính toán không chi li rạch ròi là hỏng hết. Chỉ cần bỏ qua một sai số nhỏ, về lâu về dài cộng dồn sẽ thiệt hại rất lớn, cho nên cháu phải ghi chép thật cẩn thận vào.” Ông luôn miệng càu nhàu như thế về chuyện đếm lượng than đám phu khuân vác chuyển vào kho. Chú họ
tôi để ria con kiến, thích diện mũ bê rê, áo jacket vai ngang, quần cưỡi ngựa, ủng da cao cổ. Ông thường cất sẵn một chiếc khăn vải trong túi, để lau cho sạch đôi ủng mỗi khi có bùn bắn vào.
“Cái đám bốc vác ấy, chúng chỉ chăm chăm nhân lúc ta không để ý mà ăn bớt lượng vận chuyển. Thử tính mà xem. Nếu một thằng mang ít đi dù chỉ một cân mỗi lần vác than vào kho, thì sau năm chục lượt ta sẽ bị thiệt năm chục cân than. Tức là nếu có một trăm thằng, ta sẽ thiệt hại những năm tấn than. Thế nên cháu phải hết sức tỉnh táo, phải liên tục để mắt đến cái cân.” Tôi thường xuyên phải nghe những câu như vậy. Chú họ tôi là người rất hay đòi hỏi và chú ý quá mức vào tiểu tiết. Dần dà tôi đến phát ngấy lời ông, nên cứ mặc ông lải nhải, vờ như nghe mà thực ra là chẳng hề nghe.
Mặc dù ban đầu tôi lên Tokyo là để tìm gặp người phụ nữ kia, nhưng vì còn rất xa lạ với thành phố này, chưa kể tôi phải cật lực làm việc nuôi thân nên rốt cuộc chẳng có thời gian đi tìm cô.
Nhiệm vụ đầu tiên tôi được giao là ghi chép đầy đủ vào sổ cái lượng than đá mà các phu khuân vác chuyển được mỗi ngày. Định mức luôn cố định là năm mươi cân than một lượt vác. Nếu phải chuyển than bằng đường thủy, đám phu khuân vác sẽ dùng sọt vác than ra cầu tàu. Tôi có trách nhiệm đứng giám sát với một chiếc cân, luôn miệng giục họ:
“Nhanh lên nào!”
“Thế này là đã cố hết mức rồi!”
Sau mỗi lượt, tôi đánh dấu một gạch ngay bên cạnh tên người phu khuân vác rồi đưa gã một que tre. Que tre này được gọi là manbo. Dài ba chục phân. Rộng chừng ba phân. Người phu khuân vác giữ que tre ấy và
tiến ra chỗ cầu tàu. Tại đó gã đổ than xuống tàu chở hàng rồi đưa que tre cho một cậu giám sát khác trạc tuổi tôi, cậu ta cũng sẽ thêm một gạch chấm công cho người phu khuân vác đó.
Nhiệm vụ chấm công giúp tôi tiếp xúc với từng người trong hội bốc vác. Khi đã biết họ rõ hơn, tôi thấy hầu hết họ đều là người tốt. Lý do chính yếu khiến họ cục cằn và dễ nổi nóng là đói. Nhưng nhìn chung họ khá tử tế. Trong số người làm ở kho chứa than, tôi là đứa trẻ nhất nên thường được hỏi thăm những câu đại loại như “Nhóc bao tuổi rồi?” hay “Không đi học sao?” Có một đàn anh tốt bụng, làm ở đó đã lâu, anh ta rất hay chiếu cố tôi, giúp tôi bớt cảm thấy xa lạ với môi trường mới.
Lên Tokyo làm việc được tầm hai tháng, tôi bị nhờ đứng canh chừng cho đám phu khuân vác chơi bạc. Vào giờ trưa, khi để ý thấy cả hội bốc vác hay thậm thụt bỏ đi đâu đó, tôi đã tưởng họ cùng đi ăn. Nhưng một hôm, nghĩ lại thấy ngờ ngợ, tôi quyết định đi ngó tìm quanh những đống than cao như núi. Có khoảng ba đến bốn chục núi than như vậy trong sân nhà kho, mỗi cái ngang ngửa tòa nhà hai đến ba tầng. Đi giữa những núi than như đi trong mê cung vậy. Tôi bước đại qua góc này góc kia, rồi chợt bắt gặp đám phu khuân vác đang ngồi chồm hổm thành một vòng tròn. Khi thấy có người tới, họ náo loạn cả lên, một số người cuống cuồng toan bỏ chạy. Rồi họ nhận ra tôi, cả hội bèn thở phào nhẹ nhõm. Một người trong nhóm thốt lên: “Ôi dào, hóa ra là Eiji.” Đó là Shinkichi Bóng Bay, anh chàng có nhiều nếp nhăn như của người già trên trán, còn biệt danh Bóng Bay xuất phát từ cái đầu to phình, nhìn như bên trong bị bơm phồng khí vậy.
“Này, nhóc tránh xa chỗ này đi. Bỏ qua cho tụi anh nhé, đừng kể với ai, nhất là lão chủ. Đây, cho nhóc.”
Shinkichi nói vậy rồi dúi vào tay tôi hai xu lẻ.
Chợt anh Katsushiro bước ra bảo, “Eiji, tới đây chút nào.” Anh ta kéo tôi ra sau núi chất than lớn nhất trong sân.
“Anh muốn nhờ cậu trèo lên đỉnh núi than, canh chừng hộ bọn anh, thấy có ai tới thì báo động giùm.”
“Sao phải thế?”
“Cậu phải biết chứ, lỡ bị bọn cớm bắt quả tang thì cả đám sẽ vào tù luôn đấy. Cứ ngồi trên đó chừng nào anh gọi xuống thì thôi. Thấy có động tĩnh gì nhớ ném xuống đây một hòn than.”
“Lỡ ném trúng đầu ai đó thì sao.”
“Không phải lo chuyện đó.”
“Anh nói ‘động tĩnh’ nghĩa là gì?”
“Tới lúc đó cậu khắc biết. Nhớ không được la toáng lên nhé, ném xuống một hòn than là đủ rồi.”
Tôi trèo lên nơi cao nhất trên núi than như đã được bảo, quả thật tôi không ngờ trên này cao đến thế. Thậm chí còn cao hơn những công trình xung quanh. Thời đó, kể cả ở Tokyo, thường chỉ các nhà máy mới được xây hai tầng, thành ra từ trên đỉnh núi than, tôi tha hồ nhìn đi mọi hướng trong thành phố Tokyo.
Ngày hôm đó trôi qua trót lọt, không có rắc rối gì xảy ra, tôi đồng ý canh chừng cho họ trong ngày tiếp theo, là bởi tôi thấy yêu thích việc đứng trên núi than ngắm nhìn toàn cảnh Tokyo dưới chân mình.
Thuyền chở hàng chạy dọc các con sông và bờ mương, tiếng máy chạy ì ầm vọng từ xa trong bầu không khí, hòa lẫn trong đó tiếng tàu hỏa, tiếng người, tiếng gia súc cùng đủ thứ tiếng động khác. Lắng nghe những âm thanh ấy tôi có cảm giác mình thực sự đang thuộc về một thành phố lớn, tôi mãn nguyện với điều đó. Tôi tiếp tục nhận trèo lên cao canh chừng cho đám phu khuân vác chơi bạc, may mắn thay không một lần nào chúng tôi bị cảnh sát phát hiện, vì vậy tôi chưa bao giờ phải ném hòn than cảnh báo.
Có một lần, tôi còn tự mình đi tới sòng bạc khác. Đó là một tàu dỡ hàng cũ nát được tân trang và neo lại chỗ đê chắn sóng. Người ta còn tận dụng nơi đó làm phòng tắm. Dưới sàn tàu họ lắp một bể tắm, gia đình các thủy thủ sống gần đấy vẫn thường lui tới để tắm táp và xả hơi. Ở đó chẳng thiếu gì nước cho phòng tắm, những khúc gỗ trôi nổi trên sông được họ vớt lên làm củi. Giữa bể tắm và khu chơi bạc chẳng có gì ngăn cách, vậy là phụ nữ và trẻ em thay quần áo ngay trước mặt đám bài bạc. Họ điềm nhiên ngồi trong bể tắm với khăn tắm sũng nước trên đầu và quan sát lũ đàn ông chơi trò đỏ đen. Lần tôi đến đó là mùa hè, họ mở hết cửa cho thoáng, từ trong tàu nhìn ra thấy mặt trăng lấp loáng trên làn nước sông.
Tôi chấm công cho đám phu khuân vác được nửa năm thì ông chú họ chuyển tôi sang nhóm phân phối than cốc, đó cũng là một trong các mảng ông kinh doanh. Thời đó, phía bên kia bờ sông Onagi có công ty gas Sarue, đó là công ty nhà nước nên giờ chắc vẫn còn tồn tại. Người ta đốt than để tạo gas. Công đoạn kết thúc, ngoài gas họ còn thu được một lượng lớn than cốc. Than được nung nóng tới mức vẫn còn cháy đỏ khi đổ ra sân. Người ta vun than lại thành đống, tạt nước lên rồi phơi khô. Công ty chú họ tôi
bán cả những thứ bã thừa đó. Trong suốt ba năm làm việc này, có một cậu tên Yamamoto đã chỉ cho tôi rất nhiều điều.
“Than cốc có hai loại là than cốc mềm và than cốc cứng. Đây là than cốc cứng. Cứng lắm đấy. Loại này khi nhóm lửa cháy rất mạnh nên hay được dùng ở nhà máy.”
Ở Tsukishima từng có rất nhiều xưởng rèn. Trước kia các xưởng rèn thường dùng than củi, nhưng sau này khi biết than cốc rẻ hơn và dễ sử dụng hơn, họ liền chuyển sang mua than cốc. Tôi đã nhiều lần chuyển than tới Tsukishima. Tại những ngôi nhà được dùng làm xưởng rèn quy mô nhỏ, thường chỉ có năm, sáu thợ và một người tạo gió cho than luôn hồng rực. Thợ rèn thường chia thành một nhóm ba người, hì hục đập búa lên những thanh sắt nung đỏ từ sáng đến tối. Họ làm đủ thứ như nông cụ, dụng cụ bếp, đinh, vật liệu xây dựng. Đinh tán ngày xưa vốn không được làm bằng máy mà là dùng búa tán nên. Có những người thợ chuyên làm việc đó. Họ giống như cỏ cây chẳng có gốc rễ, không vợ không con, lang bạt từ xưởng này sang xưởng khác. Thấy hợp thì họ làm lâu, có thể làm nhiều năm nhưng nếu không thích họ sẽ cuốn gói ngay sau hôm đầu tiên. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ lời bài hát của đám thợ rèn lang bạt ấy.
Dạt về góc bể nào đây
Thân này chỉ là thợ quai búa, kiếm đâu nổi vợ
Đành phó mặc cho gió cuốn đi
Dạt về chân trời nào đây.
Ban đầu Yamamoto đi với tôi, khi đã nhớ đường, tôi đi một mình với đám phu xe. Tôi luôn mang theo sổ kế toán và cặp đựng tiền, đi theo giám
sát từng đợt vận chuyển than bằng xe bò, thu tiền rồi gửi lại biên lai cho khách hàng. Ông chú họ dường như khá tin tưởng tôi chuyện tiền bạc, ông không sợ tôi biển thủ mà chỉ lo chuyện tôi đánh rơi cặp đựng tiền. Tsukishima khi ấy còn có tên là Tsukudajima, phải đi thuyền mới tới được đó. Nếu chỉ là những đơn hàng nhỏ, kho than sẽ phân công cho loại xe kéo tay để chuyển hàng. Mỗi lần như vậy cần một phu khuân vác đi trước để kéo xe, một người đi sau để đẩy. Tôi thường đi giao hàng cùng hai người là Shinkichi Bóng Bay và Takokichi Quân Nhân.
Takokichi từng đi lính trong chiến tranh Nga-Nhật*, anh ta thậm chí còn được trao huân chương chiến đấu, tuy nhiên trước khi gặp tôi, anh ta đã đem huân chương đi cầm cố. Shinkichi thì khác, trước đó năm năm anh ta vẫn còn là tá điền đi ở thuê. Anh ta kể chuyện hồi trước vẫn hay tới các nhà trong thành phố để lấy phân về bón ruộng ở quê.
“Nhóc biết không, hồi đó anh có khả năng phân biệt xem gia đình nào đã ăn loại thức ăn gì.” Shinkichi khoe khoang, hết sức tự mãn. “Nhà nào mà ăn uống ngon lành, thì phân của họ khác hẳn, tròn và rắn hơn. Màu cũng khác nữa. Nhìn là biết ngay.”
“Hử, tức là người giàu với kẻ nghèo, đến phân cũng khác nhau?” “Có một lần xảy ra chuyện… chớm nghĩ đến thôi cũng đủ khiến anh thấy hãi. Thật khủng khiếp!”
“Chuyện gì mà khủng khiếp?”
“Là thế này, hôm đó anh vô ý đánh đổ cả thùng phân ngay trước cửa một nhà hàng mở sát vách tiệm quần áo cũ bên bờ kênh. Người của nhà hàng rủa xả ầm ĩ cả lên. Thành thử anh chẳng còn cách nào khác, phải dùng tay không bốc cái thứ ấy lại vào thùng, nhưng chỉ hai tay thì không đủ, anh đành cởi chiếc áo mình đang mặc ra để lau cho nhanh, lau được một ít lại
phải đem áo ra giũ dưới kênh. Cứ thế, anh lặp lại không biết đến bao nhiêu lượt, rốt cuộc cả người anh dính bê dính bết cái thứ ấy. Anh phải nhảy xuống kênh để gột cho sạch. Nhưng đó là vào tháng Mười, lạnh cóng người nhóc ạ. Cái lũ khốn chửi anh thì cứ đứng trên bờ trơ mắt nhìn, vẻ mặt bọn họ lúc đó kỳ khôi lắm, vì chẳng biết nên cười hay chửi tiếp vì mùi thối kia.”
“Cảnh đó đáng xem lắm đây!”
“Chứ gì nữa. Lúc đó anh mới thấm thía cái câu chửi những người lấy phân.”
Vào cái thời ngày ngày tôi cùng Shinkichi đi giao than cốc, những người đi lấy phân là cảnh thường thấy. Rất nhiều người sống ở xa lặn lội qua đường thủy tới thành phố để xin phân. Họ thường cuốc bộ khắp các ngõ, trên vai là quang gánh cùng hai thùng phân và một cái sào, miệng hô lớn: “Lấy phân đây! Lấy phân đây!” Nếu có nhà đáp lời “Tới đây, ông lấy phân ơi!”, họ liền gánh thùng phân đến nhà đó, tới cái cửa sập nhỏ bên hông nhà xí được mở thông ra bên ngoài. Người lấy phân sẽ đưa cái sào dài một đầu buộc chiếc gàu múc vào trong, đưa chất thải ra hết lượt này đến lượt khác. Khi hai thùng phân đã đầy, người lấy phân sẽ gánh thùng về nơi đặt xe đẩy, lấy thêm hai thùng rỗng và tiếp tục đi các ngõ khác. Tới khi xin đủ một xe đầy, họ sẽ chuyển các thùng phân lên thuyền và sẵn sàng ngủ trong khoang thuyền cạnh đó. Công việc xong xuôi, họ chèo thuyền ra về.
Bệnh giang mai
Khoảng một năm sau khi tôi lên Tokyo làm việc tại Fukagawa, có một gã tên Shinji, làm ở cơ sở sản xuất dép cao su cho phụ nữ, dẫn tôi đến khu đèn đỏ. Gã rất thích bài bạc, mỗi khi có thời gian gã lại mò tới sân của kho chứa than để chơi bài, lần nào ra về gã cũng mất cả đống tiền. Nhưng đúng ngày hôm đó, chẳng hiểu ăn phải gì mà gã rất may và thắng được một khoản kha khá. Gã nói với tôi: “Hôm nay tao may mắn nhóc ạ, đừng lăn tăn gì, cứ theo tao là được.”
“Thi thoảng cũng nên rờ tay vào thứ gì đó khác ngoài than cốc chứ,” Shinji nói vậy. “Chỉ làm việc mãi mà không biết chơi thì không ổn.” “Đã là con người, mà để mặc cho tuổi thanh xuân lờ đờ trôi qua là không được. Phải nếm mùi tình ái đã chứ, có từng ôm phụ nữ vào phòng mới được coi là trưởng thành.” Shinji có khuôn mặt trông như đã ngoài ba mươi, thực tế tuổi của gã mới chỉ đầu hai.
Chàng hạ cố ghé qua chỗ nàng
Diện bộ đồ đẹp nhất, nhét trăm lượng vào tay áo
Chàng tuy không chung thủy
Nhưng mãi không quên người yêu dấu.
Shinji có thói quen vừa cuốc bộ vừa hát những câu ngớ ngẩn như vậy. Nơi gã dẫn tôi đến chẳng phải kỹ viện hạng sang gì, mà là một quán trà rẻ
tiền nằm trong con ngõ dẫn thẳng tới đền Hachiman. Việc kinh doanh chính của quán dĩ nhiên là cung cấp phụ nữ, bởi vậy họ chỉ phục vụ khách loại thức ăn hạng thường. Bánh bao, rượu, bánh gạo, bánh ngọt và cùng lắm là trà.
“Bố già, cô nàng có đây không?” Shinji hỏi chủ quán trà, rồi nhét nguyên chiếc bánh bao vào miệng.
“Có chứ, nào…”
“Không phải cho tôi, mà cho cậu này. Chăm sóc cậu ta giùm nhé.” Lão chủ quán trà dẫn tôi xuống phía con ngõ, nơi có một dãy những ngôi nhà nhỏ cũ nát nằm chen chúc. Chúng tôi bước men theo con đường, dừng trước một ngôi nhà có cây bạch quả ngoài cửa, đoạn đi qua cánh cổng gỗ và hàng rào để vào sân trong, tại đó có một căn lán nhỏ đứng riêng biệt. “Này, có khách hàng mới đấy!” Lão cất tiếng.
“Được rồi!” Có giọng phụ nữ vẳng ra, chúng tôi bước tới mở cửa chính. Bên trong là một sảnh chờ chật chội, cửa kéo dán giấy đang mở sẵn, dẫn vào gian phòng nhỏ có một phụ nữ đang ngồi bên tấm đệm trải trên chiếu tatami.
“Trẻ quá nhỉ. Đáng để ăn mừng đây.”
“Thế tôi để cậu ta lại cho cô nhé. Nhưng đừng lạm dụng quá, đừng giữ rịt cậu ta cả ngày bên mình chỉ vì thấy cậu ta còn trẻ.”
“Ơ kìa, cái lão này nói nhiều thế. Xéo khỏi đây mau!”
Đoạn cô nàng quay sang tôi, nói giọng ngọt ngào, hỏi tôi bao nhiêu tuổi. Hiển nhiên là tôi mềm nhũn trong tay cô nàng. Tôi khi ấy chưa đủ mười bảy, còn cô nàng hẳn đã hơn hai mươi, hiển nhiên rất dạn dày trong khoản chăn gối. Khi cô nàng mở tung áo choàng, tôi mới biết ngoài chiếc
áo ngủ dài mỏng tang, cô nàng chẳng mặc gì bên trong, kể cả đồ lót. Cô nàng ngồi với bộ dạng hớ hênh, bày ra tư thế mời gọi tôi. Có lẽ cô nàng chỉ cần phẩy tay một cái cũng đủ khiến tôi ngã gục, nếu như cô nàng có ý làm vậy.
Dù cố gắng lục trong ký ức, tôi vẫn không thể nhớ nổi tên cô nàng. Tất cả những gì tôi còn mơ hồ nhớ được là tôi đã mây mưa cùng cô nàng cho tới khi có người tới gõ cửa ầm ầm, khiến tôi giật thót mình sợ hãi.
“Ồn quá đi, tôi biết rồi!” Người phụ nữ gắt toáng lên. “Hết giờ rồi à?” “Mỗi lần ba mươi phút thôi.”
“Thì sao?”
“Cô có khách nữa đây. Tôi mở cửa được không?”
“Ngốc ạ, chưa được. Mà khách lần này là ai? Khách quen à?” “Là khách lần đầu tới đây.”
“Đùa tôi à? Tôi cũng chỉ là người. Muốn được tiếp cậu khách nhìn sáng sủa lâu lâu một chút mà cũng không được sao? Bảo gã kia chờ đi.” “Khách đang đứng ở đây với tôi rồi.”
“Dở hơi à! Ông coi tôi là thứ gì? Tôi còn phải tiếp bao nhiêu khách nữa đây? Cứ đà này tôi xuống mồ sớm mất!”
“Đã nhất trí là ba mươi phút một lượt khách còn gì?”
“Tôi không biết, là tự ông đặt ra cái luật ấy đó chứ.”
Dù miệng đang hướng ra ngoài đối đáp gay gắt, cô nàng vẫn bám chặt lấy người tôi. Thấy tình hình như vậy, tôi cố đẩy cô nàng ra. “Tôi đi đây. Thế này căng thẳng quá.”
“Đừng, đừng đi! Mặc kệ lão già kia. Lão ấy đã kiếm được cả núi tiền rồi.” Nói vậy rồi cô nàng quấn chặt lấy tôi như một con rắn. “Ông bảo khách ra quán chờ đi.” Cô nàng nói với ra.
“Phải chờ bao lâu?” Lão chủ gay gắt hỏi lại.
“Nửa tiếng nữa.”
“Khách nào chờ lâu được đến như thế?”
“Lão già bẩn thỉu kia, bảo gã nếu không thích chờ thì cuốn xéo luôn đi.”
Cô nàng nhất quyết không chịu kém cạnh trong cuộc đấu khẩu. Rốt cuộc lão chủ cũng phải dẫn người khách kia đi, chuyện lần đó khiến tôi nảy sinh cảm tình với người phụ nữ. Sau đó, tôi còn tới chỗ cô nàng ba lần.
Tôi cứ nghĩ mình đã phải lòng cô nàng, nhưng rồi một ngày cảm tình ban đầu bỗng chuyển thành ác cảm. Và vì thế, tôi chẳng bao giờ đặt chân tới đó nữa.
Tôi từng qua lại với rất nhiều phụ nữ trong đời mình, đặc điểm của phụ nữ làng chơi là họ rất dứt khoát, chẳng bao giờ mè nheo hay bám riết theo tôi khi tôi không còn hứng thú với họ. Và vì thế, nếu chỉ để vui vẻ, thì đến với họ là lựa chọn tốt nhất.
Nói đến đây, tôi nhớ ra một chuyện, lão chủ của quán trà rẻ tiền đó còn là tay chỉ điểm ngầm cho cảnh sát. Lão vừa kinh doanh mờ ám vừa tranh thủ tuồn thông tin cho lũ cớm về đám tội phạm. Bởi nếu đám cớm khó chịu, lão sẽ chẳng thể làm ăn gì. Vì vậy, dù có kiếm tiền bằng cách nào, lão
cũng phải tìm cách đền bù cho những tay cớm đã nhắm mắt làm ngơ. Cứ tới giờ trưa, lão dặn gia nhân chuẩn bị sẵn một suất cơm thịt, để phòng khi có tay cớm nào đi tuần ngang qua với thông báo tội phạm trên tay và hỏi: “Ông chủ, có từng thấy kẻ nào giống mô tả trong này luẩn quẩn quanh đây không?”
“Đại nhân à, ngài vất vả quá. Đáng tiếc, mấy hôm nay tôi không thấy ai trông như vậy quanh khu này. Mà chắc ngài mệt lắm rồi. Xin mời vào đây. Ngài uống tách trà nhé?”
Nói đoạn lão nhấc bình trà rót đầy tách mời tay cớm. Đó thực ra là rượu. Lão chủ thường để sẵn bình trà đựng rượu cho những dịp như vậy. Người ngoài nhìn vào sẽ tưởng chỉ là nước trà mà thôi. Sau đó lão mời tay cớm ăn cơm.
“Thế này phiền ông quá.” Tay cớm sẽ nói đại loại thế, nhưng vẫn nhận rượu và đồ ăn với vẻ mặt mãn nguyện. Sau khi no nê, tay cớm sẽ nói, “Nếu ông chủ thấy có kẻ nào khả nghi, hãy thông báo ngay cho tôi” rồi tiếp tục đi tuần.
Lão chủ quán trà rất tự hào về mối quan hệ với phía cảnh sát. Đôi khi lão còn tự ý nhập vai thám tử tư, dòm ngó đây đó rồi đem thông tin đi báo cáo.
“Đại nhân à, có một gã hay đến gặp Oharu ở chỗ tôi, dạo này hắn đáng ngờ lắm. Có lần hắn khoe với tôi hắn kiếm được cả núi tiền từ phi vụ nào đó. Ngài nên để mắt tới hắn.” Lão hay mách như vậy. Tay cớm sẽ đáp lời: “Hiểu rồi, lần tới gã đó mà tới đây, ông dặn gia nhân báo ngay cho tôi là được.”
Lần sau khi gã khách đó xuất hiện, lão chủ quán trà sẽ bí mật cho người đi báo cảnh sát. Đương nhiên, lũ cớm sẽ không nhảy bổ vào lúc gã đang
ngủ nghê với gái. Chúng cũng không tóm cổ gã ngay trong quán trà. Chúng sẽ đợi gã đi khá xa để tránh gây rắc rối cho lão chủ, cũng là để nạn nhân không biết chính lão chủ đã bán đứng gã.
Lũ cớm sẽ chặn đường đối tượng và nói: “Này, thằng kia, tới đây chút.” Chúng kiểm tra một lượt những gì gã mang theo, đoạn tra hỏi: tên tuổi, nghề nghiệp, thu nhập chính từ đâu, cả về những người gã hay qua lại, tóm lại là hỏi nhiều thông tin quá mức so với một cuộc kiểm tra danh tính thông thường. Nếu đối tượng quả thật có làm chuyện gì đó mờ ám, lũ cớm sẽ đánh hơi thấy ngay. Tuy chưa từng bị chúng bắt gần quán trà, nhưng tôi vẫn thường bị chặn đường tra hỏi này nọ, nên cũng rút ra được kha khá kinh nghiệm về lũ cớm trong vùng.
Chuyện của tôi với cô nàng ở quán trà rẻ tiền không kéo dài lâu, như tôi đã kể vừa nãy, chỉ khoảng một tháng sau hoặc hơn một chút là tôi bắt đầu qua lại với một cô khác tên Oyone. Với Oyone, tôi có một mối liên hệ kỳ lạ rất khó quên, tiếp theo tôi sẽ kể chuyện về cô ấy.
Có một gã thợ mộc tên Kyuzo sống ngay cạnh cơ sở kinh doanh của ông chú họ tôi. Gã là khách quen của chiếu bạc tổ chức tại sân kho than. Vợ gã là một phụ nữ đen đúa, nhỏ thó, mắt xếch, lúc nào cũng tất bật. Chị ta chỉ biết cắm đầu vào làm việc, như thể nếu ngơi ra một chút thì sẽ phát điên vì có thời gian để phiền lòng về gã chồng suốt ngày bài bạc rượu chè kia.
Gia đình họ khá túng quẫn vì phải nuôi tận sáu đứa con. Những đứa trẻ quanh năm suốt tháng đói meo. Mỗi khi Kyuzo ngồi uống rượu, chúng mò tới ngồi quanh, mở to mắt nhìn bố, chu mỏ vẻ thòm thèm và nuốt nước
miếng ừng ực. Nếu bố chúng nhậu kèm củ cải muối, đám trẻ sẽ há hốc miệng, nước dãi chảy xuống cằm mỗi lần ông bố nhai lát củ cải. “Muốn ăn không?” Thi thoảng gã sẽ hỏi vậy và đám trẻ tức thì gật đầu lia lịa như những con rối. Kyuzo bèn nhón lấy một lát củ cải muối và đưa cho đứa lớn nhất, tầm mười tuổi, nó sẽ cắn lẹm một nửa rồi đưa cho thằng thứ, đứa cũng cắn mất một nửa phần còn lại mới chịu chuyển đi, cứ thế cứ thế cho tới đứa thứ năm thì chỉ còn một mẩu củ cải bé bằng đầu ngón tay. Thế là đứa nhỏ nhất được thể gào toáng lên.
“Đòi vừa thôi thứ!” Kyuzo quát nhưng vô hiệu. Gã bèn bố thí cho chúng thêm một lát củ cải, nhưng lần này gã đưa cho đứa út trước tiên. Đứa bé sẽ ăn sạch miếng củ cải, không chừa cho đứa khác chút nào, cả đám lại cãi nhau ỏm tỏi. Tội nghiệp Kyuzo không thể uống rượu trong yên bình. Vào những ngày không có việc, Kyuzo thường xuyên xuất hiện tại chiếu bạc hòng giải tỏa những bực bội của gã.
Những hôm trời không mưa, bà xã của Kyuzo đều đặn mang đồ ra giặt. Đó không phải quần áo của gia đình chị ta, mà toàn là đồ lót của đám phụ nữ bán hoa trong khu đèn đỏ gần đó, cả những chiếc kimono họ giữ hộ cho đám khách làng chơi. Phố đèn đỏ hằng ngày thảy ra một lượng lớn quần áo cần giặt giũ, nên phải gọi đám phụ nữ sống quanh đó lấy đồ về giặt thuê.
Có một bà được gọi là bà quản lý, một kiểu giám sát viên. Mỗi ngày bà ta sẽ chất đống quần áo bẩn từ các nhà thổ lên xe kéo và đi khắp phố phân phát cho từng phụ nữ giặt thuê với giá vài đồng một bộ quần áo, đến chiều những phụ nữ ấy phải gửi lại toàn bộ quần áo đã giặt sạch cho bà quản lý. Vợ Kyuzo kiếm tiền chủ yếu từ nguồn đó, nên hôm nào cũng thấy chị ta ngồi ngoài cửa với bàn chà bằng gỗ để vò đống quần áo cùng cái chậu giặt
lớn. Có một cô gái cùng nhận giặt thuê với chị ta. Tên của cô là Oyone, cô chưa tới hai mươi, khá quyến rũ.
Hai người họ thường phơi nhờ quần áo đã giặt tại một góc trong sân sau kho chứa than của chú họ tôi, bởi vậy họ luôn tỏ ra lịch sự với đứa cháu là tôi, như là để cảm ơn vì chúng tôi đã cho họ mượn chỗ. Lâu ngày tôi trở nên thân quen với hai người họ, cũng từ đó tình cảm với Oyone dần nảy sinh.
Cô là con một người cho thuê sà lan, lúc bấy giờ cô sống cùng em gái tại một căn nhà hai tầng gần kho than. Cha mẹ cô sống trên sông cùng bảy đứa trẻ, nơi ở của họ chật đến mức hai cô lớn nhất phải chuyển lên bờ và thuê tạm căn phòng trên tầng hai một tiệm phân bón.
Hôm ấy, một căn nhà gần kho than bị cháy, tiệm phân bón mà Oyone và em cô đang ở trọ cũng bén lửa. Lúc đó đang là nửa đêm, những tiếng thét “Cháy! Cháy!” khiến tôi giật thót mình tỉnh dậy. Chạy vội ra cửa, tôi thấy khu mình ở sáng rực ánh lửa còn Oyone thì rúm ró khóc thét trên mái ngôi nhà đang cháy, cô đã không kịp chạy ra ngoài.
Tàn lửa đỏ rực như sương đêm phủ trùm lấy cô, nếu không nhanh chân nhảy xuống, chắc chắn cô sẽ bị thiêu chết. Em gái cô đã chạy được ra ngoài từ trước, lúc này đang đứng dưới đường, đầu tóc rối bời, hoảng loạn gào lên: “Oyone, nhảy đi, nhảy đi!” Nhưng Oyone quá sợ hãi, cô cứng đờ người không dám cử động. Con phố náo loạn, người người tới tấp chạy tới chạy lui lấy nước dập lửa, họ va vào nhau, gào thét điên dại. Đang hoang mang không biết làm gì, chợt tôi để ý thấy một chiếc ô dán giấy kiểu cũ dựng trong góc một con ngõ ngay cạnh đó.
Tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ, bèn nhặt lấy chiếc ô và gào lên với Oyone đang ở trên mái nhà: “Có cái ô này, mở ô rồi nhảy xuống đi!” Nếu bình
tâm suy nghĩ, tôi phải suy luận được là một chiếc ô làm sao có thể giảm được tốc độ rơi, nhưng lúc hoảng loạn thì ai suy nghĩ sốt sắng được đây. Khi ấy tôi đinh ninh rằng cách đó sẽ cứu được Oyone, bèn ném chiếc ô lên, nhưng vì luống cuống, tôi ném không đủ lực và chiếc ô không lên được tới mái ngôi nhà hai tầng. Tôi vươn người với lấy cán ô mắc trên cao, đoạn dùng hết sức ném lần nữa. Oyone kịp thời tóm lấy chiếc ô và nhảy xuống đường ngay tức thì, thậm chí còn chẳng kịp mở ô. Chẳng qua vì trước đó cô đã quá sợ hãi, nhưng ngay cái giây phút nắm được chiếc ô, sức lực trong cô bỗng dưng tràn về. Oyone sống sót. Chúng tôi trở thành người yêu từ đó.
Cha của Oyone tên là Ichizo, thật trớ trêu bác ta cũng là một con bạc hạng nặng. Thi thoảng Ichizo có lên bờ chơi bạc với đám phu khuân vác, những lúc khác bác ta thường đánh bạc với đám phu lái trên khoang thuyền.
Thuyền của Ichizo có một phòng nhỏ rộng gần chục mét vuông, nhưng đó là nơi vợ con bác ta sinh hoạt, đám con bạc dựng một cái lều trên sàn ngoài, nơi vốn được dùng để chất hàng hóa chở thuê. Họ đàn đúm ở đó hòng tránh mọi ánh nhìn.
Không thể có chuyện cảnh sát không biết chuyện này, bởi thế hằng năm mấy tay cớm đều tiến hành một, hai cuộc đột kích bất ngờ vào sòng bạc. Mỗi lần như thế đều có cảnh đáng xem, những con bạc đồng loạt nhảy ùm xuống sông trốn. Hễ có cảnh báo nào đó về một cuộc truy bắt, cả đám bọn họ như thể biết thuật bốc hơi. Chẳng cần biết có phải báo động giả hòng xỏ
mũi hay không, họ sẵn sàng lao ngay xuống nước, ngay khi nghe đâu đó vọng tới tiếng “Cớm”.
Ichizo tuy đã tầm bốn mươi nhưng có ngoại hình khá ưa nhìn, kiểu nam tính rắn rỏi nên được nhiều phụ nữ để mắt tới. Bởi thế mà vợ bác ta thường xuyên nổi cơn ghen. Vì luôn trong tình trạng căng thẳng, bác gái dần trở nên lặng lẽ, lù đù, kết cục là chìm đắm trong mê tín, ngày ngày cầu khấn thần Hồ Ly và những trò dị đoan tương tự. Người ta thường loáng nghe được tiếng bác gái lầm rầm như khấn Phật mỗi khi ông chồng lên bờ vào thành phố. Bác gái vẫn ở trên thuyền nhưng những tiếng cầu khấn thì vang xa đến mức cả những người ở tận trên bờ cũng nghe thấy. Các cầu tàu trên sông luôn neo kín thuyền bè, nhưng nhờ thế mà nhìn thoáng qua cũng biết được thuyền nào là của nhà Ichizo.
Một ngày nọ, tôi cùng Oyone lên thăm con thuyền nhà cô đúng lúc bố cô vừa về. Khi ấy trời mới sẩm tối, đương hè, bầu trời đằng Tây vẫn rực ánh đỏ. “Mấy đứa vui quá nhỉ!” Ichizo cười suồng sã, nói với hai chúng tôi, đoán chừng bác ta đang vui. Đúng lúc đó chúng tôi thấy Otoshi, vợ bác ta, đang đứng đờ người chỗ khoang thuyền, mắt trợn lên, hằm hằm nhìn chồng, vẻ mặt bác gái trông không bình thường, mắt trợn trừng còn miệng tru tréo, trông chẳng khác gì một con hồ ly tinh, giận dữ thét vào mặt chồng:
“Ichizo… ông… ông lại vừa trốn đi vui vẻ với con Tamayo bên quán trà rồi đúng không?”
Ichizo chẳng thèm để ý lời vợ. Bác ta bước lên thuyền, đi thẳng về căn phòng nhỏ, nhưng bà vợ đã kịp lao tới xô vào bác ta, the thé giọng: “Ban nãy ông cùng ả đó đi tới tiệm mì gần đền Fudo ở Tomioka đúng không?”
“Ngớ ngẩn à!” Ichizo thảng thốt, giọng có vẻ ngỡ ngàng.
“Ông và ả ta đều gọi mì kèm tempura* đúng không?”
“Bà đang nói linh tinh gì thế?”
“Ông lén cho ruồi vào bát của Tamayo, rồi ăn vạ ầm ĩ với tiệm mì, bắt họ cúi đầu xin lỗi, đền một bát mì khác và đòi họ trả lại mười đồng, đúng vậy không?”
Ichizo nghe tới đây liền giật bắn người, nghệt mặt ra nhìn vợ. Đoạn, mặc tôi và Oyone đang ở đó, bác ta vớ ngay lấy cái ấm nhôm trên sàn tàu, miệng hét, “Mụ hồ ly kia, nếm đòn này!” rồi ném thẳng chiếc ấm vào đầu vợ. Oyone thét lên, nhưng cô chưa kịp chạy tới thì cái ấm đã phang thẳng vào mặt mẹ cô. Một tiếng cốp lớn vang lên, rồi… chuyện thực khó tin nhưng quả thật là cái ấm đã bị vỡ làm đôi rơi xuống sàn tàu. Bác gái Otoshi vẫn đứng vững, mắt mở trừng trừng, mặt cau lại, trông chẳng khác hồ ly tinh hiện hình. Ichizo không dám cử động, bác ta quá sững sờ, vài giây sau mới ngã phịch xuống sàn tàu, chân tay bủn rủn.
Khi ấy trời đã tối om, chỉ có chút ánh sáng đèn từ các tàu xung quanh hắt tới. Một hồi sau, Ichizo mới định thần và đứng lên chui vào căn phòng sinh hoạt nhỏ, có điều sau đó bác ta bị sốt liệt giường ba ngày liền.
Đương nhiên, chẳng vì thế mà Ichizo chấm dứt trò lăng nhăng. Nhưng sự việc lần đó với Tamayo quả thật đã khiến bác ta hoảng sợ, vì sau đấy không thấy bác ta cặp kè với cô ả nửa. Gia đình Oyone không vứt cái ấm đó đi, họ vẫn giữ nó nguyên trạng như vậy. Tôi vẫn không khỏi thắc mắc, làm sao một chuyện kỳ khôi như thế có thể xảy ra.
Kể đến đây khiến tôi nghĩ có khi mình cũng bị ảnh hưởng bởi lời nguyền của thần Hồ Ly. Chuyện là, sau khi qua lại với Oyone được gần ba tháng, tôi bắt đầu bị nhiều đợt sốt liên miên. Không hiểu vì lý do gì, tôi còn bị đau ở chỗ kín, nổi hạch và sưng tấy. Ban đầu tôi nghĩ mình chỉ bị đau vài ngày rồi tự khỏi nên không đi khám chữa gì. Nhưng vùng bẹn ngày một đau đớn, đến mức tôi thậm chí còn không đi đứng bình thường cho nổi. Đũng quần chỉ cần chạm nhẹ vào đùi non là tôi nhảy dựng lên vì đau. Đám phu khuân vác thi nhau cười sằng sặc mỗi khi thấy tôi đi kiểu chạng chân trông rất lố bịch. Sau một thời gian, tôi thậm chí còn không bước đi nổi, chỉ còn nước nằm bẹp trên giường, sốt cao, chân tay và miệng co giật liên hồi như bị động kinh.
Ông chú họ hẳn đã nhận ra những triệu chứng ấy không phải chỉ là sốt thông thường, bèn gọi bác sĩ tới khám cho tôi. Bác sĩ nhìn qua một lượt rồi nói: “Bệnh giang mai.” Chú họ tôi nổi cơn thịnh nộ.
“Tao không ngờ mày lại là cái loại trác táng bừa bãi như thế! Tao đuổi mày về với bố mày bây giờ.” Ông chì chiết. “Mày đã ăn chơi với loại phụ nữ nào để mà để bị thế này?”
“Cháu có trác táng gì với phụ nữ đâu. Cháu tự mắc phải thôi mà.” Tôi trả lời.
“Ngu vừa thôi! Không lăng nhăng thì làm sao bị bệnh này? Làm gì có thằng nào tự dưng mắc bệnh giang mai được chứ?”
Chú họ tôi nói đúng, nhưng tôi không tin mình bị lây từ Oyone. Cô là một cô gái ngoan hiền và đứng đắn, không thể tưởng tượng cô mang trong người căn bệnh này. Tôi đoán chắc mình bị lây từ cô nàng bán hoa ở quán trà nọ. Nhưng như vậy thì rất có khả năng tôi đã lây bệnh cho Oyone mất rồi. Thật khủng khiếp. Ý nghĩ đó khiến tôi bồn chồn không yên.
Thuốc uống và thuốc tiêm giúp tôi hạ sốt, rốt cuộc tôi cũng đứng dậy đi lại được, nhưng đám hạch sưng tấy ở chỗ bẹn thì ngày một lớn, cuối cùng chúng to tới mức ngang cỡ trứng gà. Những hạch ấy đau khủng khiếp, vô tình chạm nhẹ vào thôi là đau đến tê dại cả người.
“Phải tìm bác sĩ chuyên khoa để trị bệnh thôi.” Chú họ tôi nghiên răng nói. Thế là tôi được đưa sang tận thị trấn Kawagoe, tới một bác sĩ chuyên trị các bệnh hoa liễu. Ông chú họ bảo Kyuzo đi cùng tôi đến đó.
Tới chỗ ông bác sĩ, tôi không khỏi ngỡ ngàng khi thấy cả một hàng dài bệnh nhân đang chen lấn xếp hàng ngoài sảnh chờ. Tất cả đều là nam giới. Tôi không biết trong phòng khám xảy ra chuyện gì, có tiếng đàn ông gào thét vọng ra. Tiếng thét đau đớn nghe sởn gai ốc, tôi bắt đầu thấy sợ và hối hận vì đã tới một nơi thế này.
Đến lượt mình, tôi bước vào phòng khám, một bác sĩ già râu ria xồm xoàm khám qua cho tôi, ngay sau đó tôi được đỡ lên nằm trên bàn mổ. Ba gã trợ lý cường tráng trói tôi lại, thít chặt dây da và giữ chặt không cho tôi cựa quậy.
“Thế này nhé, sẽ khá đau đớn, nhưng không được cử động, cậu hiểu không?” Ông bác sĩ nói với tôi bằng giọng già nua. “Cậu mà giãy giụa là xong hẳn đấy, dao sẽ cứa vào chỗ hiểm. Phải quyết tâm, nghiến chặt răng chịu đựng. Nhất quyết không được giãy giụa!”
Thật khủng khiếp, vì hồi đó lấy đâu ra thuốc mê hay thuốc giảm đau. Tôi sợ đến rụng rời khi thấy ông bác sĩ rút dao mổ chọc vào đám hạch ở vùng bẹn dưới thân tôi. Dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý cho trường hợp xấu nhất, tôi vẫn suýt ngất vì hoảng loạn, trước mắt tôi tối sầm lại, không thể kiềm chế, tôi hét toáng lên.
Ông bác sĩ chẳng hề ngần ngại, dùng dao chích vào các hạch trong đùi non của tôi, sau đó ông ta lấy một dụng cụ bằng thép trông như cái thìa chọc vào các nốt hạch, có lẽ là để nạo mủ và thịt thối bên trong ra. Thà bị xẻo bằng dao có lẽ còn bớt khủng khiếp hơn thế này, thực sự không thể diễn tả nổi con đau đón ấy.
Ông bác sĩ kê đơn thuốc rồi cho tôi ra về. Kyuzo phải dìu tôi ra cổng. Tình trạng của tôi quá thảm hại không thể bước đi, chúng tôi đành gọi xe kéo chở về kho than. Tôi chẳng còn chút sinh lực nào, nhưng mọi chuyện chưa kết thúc, đâu phải cứ ngủ một giấc là khỏi bệnh. Tôi chỉ thực sự gượng dậy khi cứ tưởng mình đã vĩnh biệt thế gian.
Ông bác sĩ ở Kawagoe dặn tôi về nhà phải uống thuốc ngay. Có lẽ thứ thuốc đó chứa thạch tín, vì uống chưa được mười phút, toàn thân tôi đã nóng rực lên như lửa đốt. Dạ dày thì đau buốt, tưởng như có chì nóng chảy ở bên trong, đau không tả nổi. Tôi rên rỉ lớn đến mức cô giúp việc phải chạy vào, nghe tiếng cô ta la lên, ông kế toán trưởng ào sang phòng tôi. Tôi rũ rượi như một con chó sắp chết, nôn thốc nôn tháo và toàn nôn ra máu, chưa kể còn bị tiêu chảy, phân lỏng và cũng toàn là máu, tình trạng không khả quan hơn chút nào.
Điều tiếp theo tôi còn nhớ, là tôi được khiêng lên xe kéo, ông chú họ đưa tôi lên một bệnh viện lớn trên quận Kanda. Bác sĩ ở đó khám qua tôi một lượt đã nói thẳng, rằng: “Cậu này chẳng có một phần mười cơ hội qua khỏi.” Ông ta chỉ định cho tôi cả chục mũi tiêm. Tôi mất dần ý thức, khi tỉnh lại thì trời đang ban ngày. Chẳng có ai bên giường. Tôi nằm một mình trong một căn phòng trắng xóa. Thực lạ lùng, tôi không còn đau đớn, cũng đã ngừng xuất huyết, đến chiều tôi đủ sức gượng dậy nuốt vào bụng chút
súp thịt. Tôi sống được có lẽ nhờ vận may đã mỉm cười, dù sao hồi đó tôi vẫn còn trẻ và khá dẻo dai.
Khi trời đã tối, Kyuzo tới thăm tôi. “Cậu làm mọi người sợ quá.” Anh ta bảo. “Chúng tôi cứ nghĩ cậu đi tong mười mươi rồi chứ. Tốt quá rồi!” Sau mười ngày dưỡng bệnh, tôi được ra viện. “Sức sống của cậu thật bền bỉ. Nhưng từ giờ phải cẩn thận hơn khi qua lại với phụ nữ đấy. Lần tới chưa chắc cậu đã may thế này đâu.” Bác sĩ nói vậy với tôi khi chia tay. Có lẽ phương pháp trị liệu tàn bạo của ông bác sĩ ở Kawagoe đã thực sự hiệu quả, vì may mắn sao từ đó bệnh giang mai không tái phát nữa. Còn về Oyone, nghe kể là cô đã chuyển đi đâu đó một mình. Tôi hy vọng cô không mắc phải căn bệnh khủng khiếp này, nếu cô cũng bị như vậy, tôi thà mình đừng khỏi bệnh còn hơn.
Thuyền đêm
Thời đó có một khu ổ chuột người ta gọi là chốn tận cùng của dương thế.
Người đàn ông vừa nói vừa rót nước nóng từ phích vào ấm trà. Tay ông hơi run, nước nóng tràn miệng ấm, chảy xuống thấm vào tấm chăn phủ chiếc bàn sưởi mà chúng tôi đang ngồi. “Bác sĩ uống thêm đi.” Ông ta nói rồi đưa tôi tách trà vừa rót đầy, đoạn ông ta nhấp chút trà từ tách của mình rồi tiếp tục câu chuyện.
Mãi rồi tôi cũng hồi phục và quay trở lại làm công việc cũ, nhưng được tầm một tháng thì có chuyện xảy ra. Đó là vào mùa xuân năm xảy ra Đại thảm họa động đất Kanto*, tức là năm Đại Chính* thứ mười hai.
Tôi vẫn đi giao than cốc như trước đây, nhưng một ngày nọ, Shinkichi Bóng Bay và Takokichi Quân Nhân, hai người thường đi giao hàng cùng tôi, bỗng không tới làm nữa. Tôi hỏi đốc công, nhưng bác nói chẳng biết chuyện của hai người họ, những phu khuân vác khác cũng chịu không biết gì. Rồi, tầm mười ngày sau, Takokichi xuất hiện. Mắt anh ta trông đờ đẫn còn mặt thì hốc hác như thể đã vài ngày liền chẳng có gì ăn.
“Chuyện gì thế này, Shinkichi đâu?” Tôi hỏi thì Takokichi đáp: “Cậu ta đang ốm. Mà cho tôi vay mười yên được không?”* “Ngần ấy tiền, tôi lấy đâu ra?”
“Ý tôi là, nếu được tôi muốn vay ông chú cậu. Chắc chắn tôi sẽ trả.” “Thế Shinkichi đâu?”
“Cậu ta chắc không xong rồi.”
“Anh đừng đùa!”
“Vẻ mặt cậu ta lúc này là của người sắp chết đến nơi rồi.” Rõ là anh ta không nói đùa, tôi tức thì nhận ra điều đó. Tôi yêu cầu Takokichi dẫn đến chỗ Shinkichi đang ở, một nhà trọ tên Meigetsukan, bù lại tôi sẽ cho anh ta mượn khoản tiền bà nội cho hồi tôi rời nhà lên thủ đô.
Dạo ấy ở vùng Fukagawa có một khu ổ chuột. Thực ra khu đó có tên hẳn hoi, là phố Tomigawa, nằm không quá xa cơ sở kinh doanh của ông chú họ tôi. Gọi là phố nhưng khu này hết sức chật chội, những ngôi nhà lụp xụp đứng san sát, có chỗ hai nhà đối diện cách nhau chỉ chưa đầy một mét, muốn rẽ được vào hẻm phải nghiêng người sang một bên. Chẳng thể đếm nổi có bao nhiêu nhà trọ mạt hạng được dựng lên ở khu này. Đây đó lại có nắp cống bị vỡ, nước thải tràn lên, lênh láng khắp đường đi. Mỗi bước đi lại có tiếng lép nhép, chân dính nhớp nháp nước cống.
Ở khu này, ngày nào cũng đều có một sự kiện thu hút tất cả mọi người. Vào tảng sáng, lúc trời còn tờ mờ, một gã cò việc sẽ tới đứng giữa đường hét: “Này!” Tức thì hàng chục đàn ông từ các hẻm đổ xô ra.
“Hôm nay có phi vụ khuân hàng ở địa điểm X, ai muốn đi giơ tay lên.” Gã cò nói, mọi người đồng loạt giơ tay. Gã xướng tên từng người gã chọn rồi bảo: “Những người còn lại đợi lần sau.” Đám đàn ông không được chọn đành bỏ về. Gã cò việc đếm lại số người gã chọn đi làm hôm đó, hống hách nói: “Chuẩn bị nhanh, không được chậm trễ.” Đoạn gã đưa mỗi
người mười đồng. Đám đàn ông vội vàng lao đi với mười đồng ấy trong tay. Họ tới các tiệm cơm bình dân.
Với những người sống tại khu ổ chuột này, đó gần như là khoản tiền duy nhất họ kiếm được trong ngày. Bởi vậy nên tất cả bọn họ đều chưa ăn sáng. Gã cò việc đưa mỗi người chút tiền chẳng qua là để họ nhét chút gì vào bụng, vì nếu đói quá họ dễ bị gục ngay khi đang làm việc. Còn những người không được gọi, cả ngày hôm đó sẽ chẳng biết làm gì, họ chỉ còn cách dài cổ đợi tới khi có công việc thời vụ nào khác.
Chủ các khu nhà trọ rẻ tiền thường đuổi đám người ở thuê ra đường từ sáng sớm, làm họ chẳng còn cách nào hơn là đứng vật vờ trên phố. Mỗi khi một tay cò việc xuất hiện, cả đám tức thì lao tới xung quanh, mong mỏi được gọi tên. Nếu hôm đó chẳng còn mối nào, họ chỉ biết hy vọng ngày hôm sau sẽ khả quan hơn. Và nếu đến hôm sau vẫn thế, họ cố chờ tới ngày tiếp theo nữa. Ai còn chút tiền thì vào nhà trọ ngủ qua đêm, đám còn lại đều bị đuổi đi. Nếu sau ba ngày mà chẳng được nhận công việc nào, họ đành nhịn ăn và chịu đựng. Họ đứng vật vờ trên đường, hai tay khoanh lại, thi thoảng nhấp vài ngụm nước, cố cầm cự qua ngày.
Trong thế giới ấy, có những câu không bao giờ nên buột khỏi miệng. Đó là “đói quá”, “lạnh quá” hay “nóng quá”. Đói thì ai cũng đói, bởi tất cả cùng hội cùng thuyền, sống thế này gần như một cuộc cạnh tranh xem kẻ nào chịu đựng bền bỉ nhất. Nếu đứng đường mà mở miệng than đói, gã đó sẽ bị đối xử như một kẻ lạc loài, một tên lười biếng không đủ sức đương đầu trước khó khăn. Mọi người ở đây đều phải lê lết qua ngày, nên chỉ cần ai đó phàn nàn về cái ăn thôi, đó sẽ là kết thúc của hắn.
Kẻ nào than “lạnh quá” sẽ bị coi là ngu ngốc. Tấm khố cũ như giẻ lau, bộ quần áo vải thô và chiếc khăn vải. Mỗi người bọn họ chỉ có ngần ấy thứ
mặc trên người. Mùa đông giá rét, gió tuyết căm căm, họ vẫn phải đứng đường, trong tấm khố cũ và bộ quần áo đã sờn, cố ra vẻ không hề bị lạnh. Bất chấp thực tế bụng họ đang cồn cào vì đói và bất kỳ cơn gió mạnh nào cũng có thể quật ngã họ. Đó là lòng kiêu hãnh còn sót lại trong những người đàn ông ấy.
Sau ba ngày mưa không ngớt, không việc làm, không cái ăn, ai cũng sẽ trở nên tuyệt vọng. Với cái bụng sôi ùng ục còn đầu thì ong ong, người ta sẽ quẫn bách đến mức thấy thứ gì ngay trước mặt đều sẵn sàng cho vào miệng. Nhưng những người sống ở đây nhất quyết không làm thế, họ không chấp nhận việc nhặt đồ ăn rơi vãi trên đường, thậm chí chẳng thèm xin đồ thừa từ các quán cơm bình dân. Ai đến giới hạn và hạ mình xin ăn đều bị miệt thị là cái loại ăn mày mạt hạng.
“Thằng đó hèn thật, rác rưởi của người ta mà nó cũng ăn được. Tao thà chết còn hơn ăn thứ đó.” Họ sẽ nói những câu tương tự.
Thậm chí, nếu có gã nào đó đang rủng rỉnh, tính rộng rãi và sẵn sàng mời, “Tao ăn không hết đâu, chúng mày ăn đi!” thì những kẻ đã nhịn đói tới ba ngày kia vẫn sẽ từ chối. “Mày nghĩ tao là cái hạng gì, tao không thèm đồ ăn thừa của mày!” Mọi người ở đó đều như vậy. Thế nên, những gã xấu số mãi không nhận được việc làm và không có cái bỏ bụng, chỉ còn mỗi nước chờ chết mà thôi.
Khu này không chỉ toàn đàn ông, còn có cả phụ nữ. Gái làng chơi, từng người trong số họ, trước đây bán thân ở những nhà thổ tại Yoshiwara, Suzaki hay Monzen-Nakachou, sau khi đã quá tuổi và xấu xí hoặc do bệnh tật mà mất việc, phải trải qua đủ mọi chuyện và rốt cuộc trôi dạt về đây. Họ sẵn sàng nhảy bổ vào gã đàn ông nào đang có việc và cần giải tỏa ham
muốn, bán thân cho bọn chúng ngay trên những manh chiếu rách giấu khuất sau đống gỗ chất dưới bờ đê.
Dù có cảm sốt, hay thậm chí bị ghẻ lở họ vẫn phải sống như vậy. Vì không được một ai đứng ra cứu vớt. Họ tiếp tục bán thân cho tới khi cơ thể quá mức tàn tạ, thậm chí không còn ra con người nữa mới thôi.
Quanh khu ổ chuột ấy có vài quán ăn rẻ tiền và tiệm rượu. Tôi thấy cả một hiệu tạp hóa treo dép cói và vài thứ lặt vặt khác. Mặt đường nơi đây toàn ổ gà, cống rãnh chằng chịt, nước cống dính nhơm nhóp khắp chặng đường tôi và Takokichi bước qua để tới nhà trọ Meigetsukan.
Đang đi, tôi bỗng thấy một người đàn ông đang nằm giữa đường. Tóc ông ta đã bạc hết một nửa, cả người lấm bùn đất. Một tay cớm đứng đó la hét ông ta, người xung quanh rón rén ngó ra từ cửa lớn và từ các hẻm, tò mò quan sát chuyện đang xảy ra. Một phụ nữ làng chơi trên đầu phủ khăn vải, khuôn mặt rúm ró đầy nếp nhăn, cũng nhìn về phía họ.
“Mày, đứng dậy! Ai cho mày nằm ngủ trên rãnh nước! Đứng dậy ngay đồ khốn!” Tay cớm hét lên nhưng người đàn ông với mái tóc đã bạc phân nửa vẫn không nhúc nhích. Khi ấy trời lạnh thấu xương.
“Đứng dậy ngay! Mày có nghe tao không hả? Thằng khốn!” Tay cớm dùng một chân đi bốt đá liên tiếp vào hông người đàn ông. “Mày không được nằm ở đây! Đừng có tưởng vờ ốm là thoát!” Người đàn ông cố gượng dậy được một chút, nhưng lại tức thì ngã dập mặt xuống đất.
“Đứng dậy! Mau!” Tay cớm quát, đoạn hắn đá người đàn ông thêm một cú rất hiểm.
“Đi thôi!” Takokichi bảo tôi.
“Ông ấy đã làm gì?” Tôi đi tới hỏi tay cớm.
“Thế mày là ai?”
“Ông không thấy ông ấy sẽ chết nếu cứ bị bỏ mặc ở đó sao?” Thế đấy, tôi chẳng ngần ngại nói thẳng điều mình nghĩ, giờ nhớ lại tôi thấy mình thực buồn cười, chắc vì hồi trẻ tôi khá ương ngạnh. Rồi thì, trước khi tôi kịp nhận ra, tay cớm đã tung cho tôi một cú đấm trời giáng. Khi tỉnh lại, tôi đang nằm quay bên lề đường.
“Mày đúng là điên mà!” Có ai đó nói. Một phụ nữ cười hềnh hệch, hàm răng bà ta vàng ố. Chẳng thấy bóng dáng Takokichi đâu cả. “Cậu làm gì ở đây?” Một người khác hỏi.
“Tôi tới đây tìm người. Mà ông bác lúc nãy ra sao rồi?” Tôi hỏi. “Ông già đó à, tôi đưa ông ta đi rồi.” Một người đứng sau bà vừa cười lúc nãy lên tiếng. “Thằng cớm bảo tôi đưa ông ta đi, tôi phải cõng ông ta lên rồi để ông ta lại lề đường bên kia. Trong khi tôi cũng gần chết đói rồi đây.”
“Chuyện vừa rồi là sao ạ?”
“Cậu thử nghĩ xem. Thằng cớm bỏ đi, tôi vác ông già lên, chuyển ông ta sang khu khác.” Nói tới đây người đó cười nhưng không thành tiếng, miệng mở ngoác để lộ hàm răng xỉn màu.
Chuyện là thế này, theo như lời kể, thì lũ cớm sọ phiền hà nếu có người chết trong khu vực mình phụ trách, vì bọn chúng sẽ phải viết báo cáo, lo chôn cất thi thể… Thế nên, nếu có chuyện xảy ra ở khu của mình, bọn chúng sẽ cố để đá rắc rối sang khu khác. Ông bác kia mà chết ở chỗ khác, thì đó là chuyện của đám cớm khu bên đó. Đương nhiên, chuyện
ngược lại cũng có thể xảy ra tương tự, nên đám cớm luôn phải cảnh giác. Một người sắp chết có thể bị đá từ bên này sang bên kia phố, cho tới khi cuối cùng anh ta trút hơi thở cuối tại bên nào xui xẻo hơn.
Sau một hồi, tôi vừa đi vừa hỏi đường, cuối cùng cũng tìm được tới nhà trọ Meigetsukan. Đó là một khu nhà tạm bợ, một lão già đang ngồi trước cửa, da ngăm đen, khuôn mặt khô quắt.
“Shinkichi có ở đây không?” Tôi hỏi.
“Cậu có việc gì?”
“Cháu là bạn anh ấy.”
“Cậu có tiền không?”
“Thế người tên Takokichi đâu rồi?”
“Nó chuồn rồi, thằng khốn ấy! Ít nhất cậu cũng trả tiền trọ cho bọn nó chứ?”
Tôi đưa lão già chút tiền, đoạn lão dẫn tôi tới chỗ Shinkichi đang nằm. Nhưng, Shinkichi đã chết từ lúc nào rồi, tôi sờ lên trán anh ta, lạnh như băng.
“Sáng nay nó còn sống mà. Chuyện xui rủi gì thế này! Việc hậu sự sẽ tốn thêm đấy, cậu còn tiền không…”
Tôi đưa thêm một yên, lão già đi đâu đó một hồi và quay lại với hai gã đàn ông nhếch nhác. Bọn họ đi quanh phòng, vừa đi vừa bàn chuyện. “Dạo gần đây cậu ta chẳng ăn uống được gì.”
“Cái áo khoác này cũng được đấy nhỉ.”
“Tôi sẽ lấy cái khố” Một gã mắt toét người nhẽo nhèo cười thành tiếng. Bọn họ lột sạch đồ trên người Shinkichi và đặt xác anh ta vào một
cái bao tải đen. Gã nhỏ hơn vắt chiếc kimono của Shinkichi qua vai, những thứ gã đang mặc chẳng khác gì giẻ rách.
“Đi thôi!”
“Chắc chắn là không còn để sót thứ gì chứ?”
Mấy gã cười rúc rích với nhau, miệng lộ hàm răng vàng khè, đoạn cùng vác cái bao đựng xác ra ngoài. Tôi không biết họ đem Shinkichi đi đâu. Từ ngày đó cũng chẳng bao giờ thấy Takokichi xuất hiện nữa.
Không lâu sau khi Shinkichi chết, tôi được chú họ gọi đến một tòa nhà ông sở hữu. Nơi này ở gần đền Hikawa, cả khu phố treo đầy biển hiệu của các nhà in. Gia đình chú họ tôi thường tới đó nghỉ ngơi mỗi dịp cuối tuần. Khi tôi đến nơi, ông đang đợi trong phòng làm việc.
“Ta đang tính gọi cháu chuyển tới đây vào tháng tới, cho cháu đi học. Ta có ông bạn điều hành một văn phòng kế toán, cháu hãy tới đó học nghề. Hằng sáng cháu cứ tới đây chạy việc vặt, chiều thì sang bên đó. Khi nào cháu thạo kế toán rồi, ta muốn cháu về văn phòng của ta làm việc.”
Nghe vậy, tôi đáp mình đã hiểu rồi quay về. Tôi đoán có lẽ cha tôi đã gửi lời nhắn nhủ gì đó nên ông chú họ mới đưa ra gợi ý như vậy. Về phần mình, tôi không thích cái viễn cảnh ngồi viết lách cả ngày bên bàn giấy. Nhưng đành chịu, tôi sẽ phải rời Tokyo ngay nếu không nghe lời ông chú họ, vả chăng tôi cũng chẳng có chỗ nào để tới nếu định bỏ nơi này đi. Dọc đường về kho than tôi cứ suy nghĩ mãi xem mình nên làm gì tiếp theo. Rồi ngay hôm ấy, chuyện không hay xảy ra, cứ như thể có vận xui bám đuổi tôi vậy.
Chiếu bạc ở kho than thu hút đủ mọi hạng người, không chỉ có mỗi đám phu khuân vác đâm đầu vào trò đỏ đen. Trong số đó có một gã hơi quái lạ, tên gã là Kenkichi, lớn hơn tôi tầm chục tuổi. Gã nhỏ thó và đen nhẻm, mắt trố lồi, bộ dạng thuộc loại hơi bần tiện. Lúc chơi bạc gã chẳng mấy khi thốt lên câu nào. Trông gã khá rủng rỉnh, mỗi khi ra về gã có vẻ ít cay cú vì bị thua hơn mấy người trong đám phu khuân vác.
“Nghe đâu gã là phu lái thuyền…” Khi hỏi Kyuzo xem Kenkichi kiếm sống bằng nghề gì, câu trả lời là như vậy. Áng chừng Kyuzo cũng chẳng biết nhiều hơn tôi là bao. Đã nhiều lần tôi thắc mắc, Kenkichi kiếm đâu ra lắm tiền đến thế.
Bẵng một thời gian Kenkichi không tới chiếu bạc nữa, nhưng trùng hợp thay, vào đúng hôm tôi vừa quay về từ nhà ông chú họ, gã bỗng nhiên xuất hiện. Kyuzo hỏi có chuyện gì thì gã nói bị dính phải rắc rối, nguyên do là vì một người đàn bà nào đó. Gã bị lây giang mai từ cô ả, trên người nổi hạch đau rát và sưng tấy. Gã đã đi chích hạch và hút mủ nhưng có biến chứng nên phải nằm liệt giường một thời gian.
“Riêng vụ giang mai thì chú thua thằng nhóc này rồi!” Kyuzo nói rồi kể cho Kenkichi chuyện tôi bị ốm thập tử nhất sinh cũng vì giang mai, đoạn cả ba cười rộ lên. Có lẽ kể từ đó Kenkichi bắt đầu nhìn tôi bằng con mắt khác.
Vào một ngày đầu tháng Sáu, Kenkichi rủ tôi đi công chuyện với gã khi trời tối.
“Anh có trò gì hay đấy à?” Tôi hỏi.
“Cứ đi rồi chú sẽ biết, nhớ ra chỗ đền Tomioka Fudo lúc tám giờ tối nay nhé.” Kenkichi nói, vẻ bí hiểm, câu nói lấp lửng của gã khiến tôi tò mò. Tôi đến điểm hẹn đúng giờ như đã hứa. Khi tới nơi, tôi thấy một
người đàn ông trông có vẻ lớn tuổi, trên mình vận áo khoác công nhân, đang đứng lấp ló sau một cây ngân hạnh, vẻ như không muốn bị ai nhìn thấy.
“Là cậu Eiji phải không?” Người đàn ông tiến về phía tôi, cất tiếng hỏi thật khẽ khàng. Ông ta bảo tôi theo sau, rồi cất bước, đi rất nhanh. Chiếc khăn vải trắng quấn quanh cổ là thứ duy nhất sáng màu trên người ông ta, còn lại toàn đồ đen và xám. Tôi phải rảo bước theo sát ông ta để không bị lạc. Chẳng mấy chốc, chúng tôi tới chỗ một chiếc thuyền neo dọc con kênh nhỏ. Người đàn ông đi trước tôi nhảy xuống sàn thuyền.
“Cậu ta có đến chứ?” Một giọng nói vang lên. Tôi căng mắt nhìn trong tối, đoán chừng đó chính là Kenkichi.
“Lên thuyền đi.”
“Ở đây tối quá!”
“Để đèn thì có mà hỏng chuyện à.”
Kenkichi nói rồi dẫn tôi ra ngồi giữa đống hàng chất trên khoang thuyền. Bốn bề tối om đến mức gần như chẳng nhìn ra thứ gì. “Chú thấy sao, giúp anh phi vụ này chứ?”
“Nhưng phi vụ gì mới được?”
“Thì phi vụ kiếm tiền.”
“Chẳng lẽ, anh tính đi ăn trộm?”
“Trộm cắp gì ở đây!”
“Thế, rốt cuộc là chuyện gì?”
“Anh cho chú biết là vì anh tin chú đấy nhé. Đây là thuyền đêm đó.”
Tôi đã từng nghe đám phu khuân vác xì xào về “thuyền đêm”, dẫu vậy vẫn thật khó tin là mình đang ngồi trên một chiếc thuyền đi chui như thế. Công việc chính của phu lái thuyền kiểu này là chở người và tuồn hàng hóa đi khắp nơi thật lặng lẽ sao cho tránh được mắt cú vọ của tụi cớm. Ngày nay có lẽ người ta hay dùng xe tải để tránh bị tóm, nhưng vào cái thời ấy, phương tiện vận chuyển chủ yếu là sà lan và thuyền bè. Theo lời Kenkichi, các phi vụ trên thuyền của gã khá trong sạch, không dính dáng gì đến trộm cướp.
“Chẳng may bị bắt thì anh tính sao?”
“Tới lúc đó hẵng lo. Cứ đi đúng tuyến, sẽ ổn cả thôi mà.” “Nghe thú vị đấy.”
“Làm việc này đòi hỏi gan phải thật to. Nhưng được cái kiếm rất khá.”
Từ đó, mỗi tối tôi bắt đầu giúp việc trên chiếc “thuyền đêm” đỗ tại khu Fukagawa. Khách hàng có rất nhiều loại, trong số đó có những người mà, chỉ liếc mắt qua một cái cũng đoán được họ là chủ các cơ sở kinh doanh rất lớn. Sẽ có người thấy khó tin rằng những người lắm tiền như vậy lại sẵn sàng lên “thuyền đêm” để đi chui, nhưng nếu không biết cung cách bắt người của lũ cớm thời đó, thì làm sao mà hiểu được.
Vào cái thời ấy, lũ cớm là những kẻ hết sức đáng sợ. Nếu thấy ai có vẻ gì hơi khả nghi, chúng sẽ lôi người đó đến đồn cảnh sát và đánh cho nhừ đòn. Bất cứ ai còn đủ tỉnh táo đều cẩn thận hết mức để tránh khỏi tầm mắt của lũ cớm.
Khu Fukagawa hồi ấy chằng chịt sông và kênh mương, bên trên là vô số cây cầu bắc qua. Tại chân mỗi cây cầu lớn nối ra đường chính, cảnh sát
đều cắm chốt để tiện theo dõi người đi kẻ lại. Ban ngày đông người di chuyển nên đương nhiên chúng không dễ bắt bớ tra hỏi, nhưng ai đi một mình vào tối muộn chắc chắn sẽ bị lũ cớm chặn đường.
Trước chiến tranh, nếp sống của người Nhật khác nhiều so với bây giờ, sáng thì dậy sớm đi làm lúc trời còn tờ mờ, làm lụng cực khổ cả ngày để về nhà khi trời đã tối mịt, ăn tối rồi đi ngủ luôn. Tức là, tới tầm chín giờ đêm, hầu hết các gia đình đều đã say ngủ. Bởi thế, nếu có ai lảng vảng trên phố vào đúng khoảng thời gian ấy, lũ cớm sẽ nghi ngay là họ có ý định mờ ám.
“Này, này, thằng kia, phải, mày đó, tới đây. Giờ này là giờ nào mà mày ra phố muộn thế?”
“Tôi đi làm.”
“Đi làm? Việc kiểu gì mà làm muộn thế này hả?”
Một khi đã chặn hỏi ai, lũ cớm sẽ không dễ dàng thả người đó đi ngay. Mày làm ở đâu, chủ mày là ai… tóm lại sẽ bị tra hỏi tới tấp, nếu không trả lời khẩn trương, hậu quả sẽ là: “Thằng này láo, mày bịa tên đúng không. Mau ra đằng này!” Rồi chúng nện cho người đó hai ba cú đánh và giữ lại đến sáng hôm sau mới thả đi. Nếu người bị tóm vừa từ sòng bạc về và có chút tiền trong ví, thì coi như xong hẳn. Anh ta sẽ bị bắt ngay tại chỗ và bị tống giam luôn. Bởi thế nên dân chơi bạc thường rất đau đầu chuyện làm thế nào để về nhà an toàn, đám phục vụ ở sòng bạc bèn giúp khách hàng, họ nghĩ ra đủ cách để đưa khách chuồn khéo qua các bốt cảnh sát.
Riêng khu Fukagawa lại rắc rối hơn hẳn các nơi khác, vì từ đây muốn về nhà người ta phải đi qua rất nhiều cây cầu. Đám bài bạc nghĩ ra đủ các mánh. Một trong số đó là buộc ví vào dây rồi ném ví sang bờ bên kia sông. Cách thức cụ thể như sau, lấy một sợi dây dài, loại dây buộc diều, thắt chặt
một đầu vào chiếc ví, đầu dây kia buộc vào hòn đá. Khi tới cách chân cầu một quãng kha khá, khách hàng đưa gã phục vụ chiếc ví của mình rồi mới đi lên cầu, trên người không mang theo tiền. Chắc chắn là mấy gã cớm đang canh trên cầu sẽ bắt người đó dừng lại để tra xét.
“Đêm hôm khuya khoắt anh đi đâu thế hả?”
“Là thế này, có người bạn bị ốm, tôi đi thăm anh ta xem thế nào.” “Lý do này nghe quen quen.”
“Là thật đó, thưa ngài!”
“Vậy mai tôi sẽ đi hỏi bạn anh xem thế nào. Giờ mau lôi mọi thứ trong người ra đặt lên bàn.”
“Vâng, thưa ngài.”
Anh ta sẽ lôi hết đồ mang theo người ra cho mấy gã cớm kiểm tra. Nếu bị yêu cầu, anh ta phải cho đám cớm kiểm tra cả vùng bụng, thậm chí đến khố cũng phải cởi ra.
“Tất cả đây à?”
“Toàn bộ đấy ạ.”
“Được rồi, đi đi. Nhưng từ nay chớ ra đường vào giờ muộn thế này.” Đám cớm răn đe một hồi rồi cho người đó đi. Sau khi thoát sang bờ bên kia, người khách sẽ đi vòng vèo một hồi rồi tới chỗ bờ sông đối diện với nơi gã phục vụ đang đứng chờ, đoạn ném một hòn đá sang bên đó. Khi nhận được tín hiệu, gã phục vụ sẽ ném hòn đá có dây buộc với chiếc ví của khách chơi bạc sang bờ bên kia. Người khách nhặt hòn đá lên và giật giật một hai lần, hàm ý rằng bờ bên này ổn cả, khi ấy gã phục vụ sẽ thả tay khỏi chiếc ví.
Tuy nhiên, cách này không thực sự an toàn. Một là chiếc ví chắc chắn sẽ bị ướt, hai là nếu sông quá rộng, rất có khả năng hòn đá báo hiệu không thể sang được bờ bên kia. Hơn nữa, nếu đi qua đi lại cùng một bốt cảnh sát nhiều lần trong một tháng, lũ cớm sẽ bắt đầu nghi ngờ, dù người bị tóm có mang ví hay không. Thế nên khách chơi bạc thường chọn đường lòng vòng qua những ngõ ngách vắng vẻ để về nhà.
Có một cách khác, với những khách nhiều thời gian, là cho họ chơi bạc đến sáng, rồi để họ ra về khi mặt trời vừa lên. Nhưng với những người phải về gấp trong đêm, thì có một dịch vụ đặc biệt khác. Đó là những chiếc thuyền bí mật về đêm.
Hầu hết những chiếc “thuyền đêm” đều phục vụ lũ trộm cắp, đám tội phạm đang bị truy nã, phường buôn lậu hay bất cứ hành động nào khác cần tránh khỏi tầm mắt của lũ cớm, riêng Kenkichi thì chỉ chuyên chở dân bài bạc.
“Có khách này!” Chỉ cần một tiếng gọi như thế, phu lái thuyền sẽ chèo tới tận nơi, khách chơi bạc tức thì nhảy xuống. Gã dắt khách trên bờ sẽ nói với xuống: “Nhờ anh cả đấy, phu lái thuyền.”
Phu lái thuyền ậm ừ một tiếng rồi dẫn khách vào trốn giữa đống hàng hóa trên khoang, đoạn phủ một tấm vải bạt màu đen lên để giấu người đó đi.
“Chịu khó chút nhé!” Kenkichi nói với khách rồi đẩy thuyền khỏi bờ đê. Mặt nước dềnh lên chút sóng màu đen, ánh bạc, đôi khi thậm chí là cả màu đồng.
Nhà cửa hai bên bờ sông chìm trong bóng tối. Thời đó vốn có luật là tàu thuyền đi đêm bắt buộc phải treo đèn, nhưng chiếc thuyền này thì
không. Nó cứ lặng lẽ trôi trên mặt nước, tiến vào trong bóng tối mịt mùng. Không ai nói một lời. Âm thanh duy nhất nghe được là tiếng nước đập vào khoang thuyền. Với những ai không quen, trải nghiệm này rùng rợn đến mức nổi gai ốc.
Vào thời ấy, mọi đường thủy lớn đều có bốt canh. Chúng đã được dựng lên từ hàng thế kỷ nay, hằng giờ đều có người luân phiên canh gác mọi động tĩnh trên mặt nước. Bất cứ điểm nào có hai con kênh giao nhau tạo thành ngã ba đều có người đứng canh, nên tàu đi lậu chắc chắn không dám lượn lờ qua những nơi ấy. Thậm chí mỗi cây cầu lớn bắc qua sông cũng được canh chừng gắt gao. Nếu có gã cớm nào vô tình nhìn qua rào chắn và thấy tàu đi lậu, thì coi như rắc rối to. Mà dù không có bốt canh, vẫn luôn có nguy cơ bị đám lính đi tuần bắt gặp. Bởi thế, chúng tôi chỉ dám di chuyển trong bóng tối, sát bên bờ đê, chèo thật chậm để kịp dừng lại bất cứ lúc nào có động tĩnh. Chúng tôi còn cử thêm người cẩn trọng đi dọc bờ đê, làm nhiệm vụ báo động nếu có lính đi tuần.
Ngay khi người trên đê thoáng thấy bóng ai đó, gã sẽ ném đá xuống sông báo hiệu, rồi mau lẹ nấp vào một góc để tránh bị bắt. Kenkichi sẽ đẩy thuyền dạt ngay vào bờ đê, vờ như đã neo lại ở đó từ lâu. Chúng tôi thường dừng tại nơi có vài thuyền khác neo quanh, nhờ vậy mới tránh bị lũ cớm dò xét. Chúng tôi thoát được cũng một phần là nhờ các phu lái thuyền khác nhắm mắt cho qua. Họ thừa sức khai báo chuyện chúng tôi đi lậu, vì thi thoảng đám cớm có xông tới kiểm tra thuyền của họ. Nhưng làm vậy là bán đứng đồng nghiệp, họ sẽ bị các phu lái thuyền khác cô lập và chẳng thể làm ăn trên đường thủy được nữa. Đợi trên bờ đê sạch bóng cớm, nhóm chở lậu chúng tôi lại lặng lẽ chèo đi, tiến dọc con sông tối mù.
Khi thuyền đã tới đúng địa điểm yêu cầu, Kenkichi sẽ báo, “Đến nơi rồi đấy!” Khách đáp, “Cảm ơn” rồi biến mất. Chúng tôi đi tiếp, phục vụ những vị khách khác, cứ thế cho đến tảng sáng. Quả thật, công việc này giúp tôi kiếm được rất khá, nhưng nó khiến thần kinh tôi thường xuyên phải chịu căng thẳng.
Seichan Thợ Nề
Trên thuyền không có chỗ ngủ, nên Kenkichi thu xếp cho tôi ở nhờ tại chỗ của một người tên là Tokuzo, bấy giờ đang phụ trách quản lý một đám thợ thuyền. Các xưởng gỗ thời ấy về sau đều được chuyển sang khu cảng Tokyo nên ngày nay chẳng còn chút dấu vết nào của khu Fukagawa xưa kia nữa. Nhưng thuở ấy, hễ nhắc đến Fukagawa thì bắt buộc phải nhắc đến gỗ, đâu đâu cũng thấy các bãi chứa và cửa hàng buôn gỗ, tính ra phải có đến cả trăm cơ sở như vậy. Gỗ được thả trôi theo dòng nước từ khắp các vùng trên đất Nhật rồi tập trung tại Fukagawa, trị giá lên đến hàng triệu thạch gạo, theo cách tính cũ*. Gỗ được thả nổi hoặc chất vào bãi chứa, chờ thương lái tới trả giá. Còn tùy xem người mua hàng muốn chuyển gỗ đến xưởng cưa hay đem lên bờ, đám thợ thuyền sẽ lo trọn gói việc vận chuyển.
Thợ cả đứng đầu mỗi nhóm thợ đều có xưởng riêng, dùng để dạy nghề cho đám học việc. Một thợ cả phụ trách khoảng ba chục thợ thuyền, nên thường có nhà trọ đủ không gian cho họ lo chuyện ăn ngủ. Phòng trọ này rốt cuộc toàn được dùng để làm sòng bạc. Nhưng thực tế thì, đám thợ thuyền không chơi mấy, mà chỉ toàn người ngoài tới tham gia bài bạc.
Bài bạc chuyên nghiệp ngày nay không phổ biến như thời thế hệ của tôi, khi có đủ loại người sẵn sàng lao đầu vào trò đỏ đen, thậm chí cả các ông chủ của những cửa hiệu lớn hay nhà hàng hạng sang. Tổ chức bài bạc là sự kiện hết sức quan trọng ở chỗ Tokuzo. Gần như ngày nào họ cũng mở đến vài ván bạc.
Thường thì tay thợ cả chỉ cung cấp phòng chơi bạc chứ không dính líu trực tiếp tới vụ tổ chức, mọi chuyện còn lại đã có đám nhà cái chuyên nghiệp lo hết. Ngày nay tivi hay chiếu phim làm về thời ấy với cảnh chơi bạc ồn ào nhốn nháo, chẳng đúng với thực tế chút nào. Tụ điểm chơi bạc phải là nơi hết sức yên tĩnh, không một ai được hò hét. Là bởi mọi người đều đang dính vào chuyện phạm pháp và rất sợ bị chính quyền sờ gáy, nên đám bài bạc luôn phải giữ yên lặng hết mức, phòng trường hợp người ngoài đi qua để ý thấy có dấu hiệu lạ và sinh nghi.
Mỗi ván bạc được điều hành bởi một người gọi là nakabon, tay nhà cái chuyên nghiệp. “Chẵn, lẻ… mau mau đặt cược đi, đặt cược đi.” Gã nhà cái thường nói vậy với các con bạc bằng giọng thật khẽ. “Lẻ vẫn còn cửa.” Cả đám vẫn im lặng, chỉ vang lên mỗi giọng nói của gã nhà cái, bầu không khí hết sức căng thẳng. “Hết lẻ rồi. Hết lẻ rồi. Chẵn vẫn còn cửa. Chẵn vẫn còn cửa.” Điều này có nghĩa tất cả các cửa lẻ đều đã kín và không đặt cược vào đó được nữa. Trừ phi có ai đặt thêm vào cửa chẵn, nếu không ván bạc sẽ giậm chân tại chỗ mãi như vậy. “Có ai đặt cửa chẵn không? Hai bên không đều nhau thì không thể gieo xúc xắc.” Thông thường mọi người đặt cửa chẵn lẻ theo cảm tính cá nhân, nhưng khi hai bên chẵn lẻ lệch nhau, ai cũng dễ nổi cáu và mất kiên nhẫn, như vậy sẽ phải có một người chịu hy sinh, để ván bài được tiếp tục. Khi các cửa đều đã được đặt hết, nhà cái sẽ nói: “Đủ rồi. Chẵn lẻ đều nhau. Gieo xúc xắc!” Rồi gã lật úp cái cốc gieo xúc xắc đang đặt trên tấm vải đỏ trải giữa hai hàng người chơi. Cái khoảnh khắc gã úp cốc xuống là khoảnh khắc đáng giá nhất trong ván bạc.
Dân lao động chân tay như đám thợ thuyền chẳng có nhiều tiền, nên họ không mấy khi tham gia. Những người hay đến chơi bạc, hiển nhiên rồi, là đám chủ có nhà cho thuê, là vợ những tay nhà giàu…
Đương nhiên ai cũng muốn thắng, nhưng mọi người tới sòng bạc phần lớn là vì không khí nơi đây chứ không phải chỉ vì bài bạc. Điều quan trọng nhất là dù có thua bọn họ vẫn về nhà với tâm trạng hài lòng.
Trong phim ảnh hiện đại thường có cảnh những con bạc chơi thua quá nhiều đến mức bị đám nhà cái và bảo kê ném ra ngoài, nhưng thực tế không hề có chuyện đó. Vì nếu đánh đập con bạc, không cẩn thận người đó sẽ đi báo cảnh sát, tất cả những ai có liên quan đến vụ đánh bạc phi pháp sẽ bị bắt ngay tức thì.
Chưa kể, nếu có ai mất sạch tiền vì đánh bạc, rồi việc đó gây ảnh hưởng nặng nề tới cuộc sống của gã đến mức gã không bao giờ dám tới sòng bạc thêm lần nữa, tiếng xấu về sòng bạc ấy sẽ nhanh chóng lan xa, coi như hết cửa làm ăn. Bởi thế, nếu có kẻ nào đó thua quá nhiều, chủ sòng bạc sẽ nói với gã vài câu khuyên nhủ, kiểu như: “Quý khách à, tối nay quý khách có vẻ không được may mắn. Hay là hôm nay quý khách dừng ở đây nhé.” Rồi ông ta đưa cho con bạc chút tiền bồi thường: “Đây, quý khách dùng tạm ít tiền của nhà cái vậy.”
Dân bài bạc chuyên nghiệp hồi đó khác nhiều so với đám xã hội đen thời nay. Có thể nói họ như các nghệ nhân bài bạc, sống nhờ nghề gieo xúc xắc. Họ được trả tiền để nương tay với khách hàng, bởi không ai trụ được lâu trong nghề này nếu chỉ chăm chăm trục lợi từ túi người khác.
Trong số những con bạc, có một người để lại ấn tượng trong tôi, đó là một phụ nữ, bà ta sở hữu một nhà thổ ở khu Monzen Nakacho. Bà ta giàu nứt đố đổ vách, nhưng ông chồng thì ăn hại và hành hạ bà ta đủ đường, khiến bà ta luôn bức xúc và phải tìm đến chiếu bạc để giải tỏa. Lúc nào tới
bà ta cũng vội vàng, không cởi áo choàng mà đi thẳng vào sòng bạc, rút chiếc ví giắt trong đai lưng rồi hỏi luôn: “Giờ tôi nên đặt bên nào? Bên nào còn thiếu? Cửa chẵn à? Thế thì tôi đặt cửa chẵn.” Nói đoạn bà ta liệng xuống một đống tiền. Cũng có khi bà ta thắng cược, nhưng với cung cách bất cần như vậy thì về lâu về dài chỉ có thua bạc mà thôi, bởi thế sau mỗi ván, ví của bà ta nhẹ đi kha khá. Dù thế, dường như bà ta cảm thấy thoải mái hơn nhiều.
“Tôi rất thỏa mãn.” Bà ta thường nói thế với chủ sòng bạc. “Cảm ơn nhiều.” Rồi bà ta tất tả lao đi ngay. Người phụ nữ ấy luôn luôn vội vàng đến mức nếu có bà ta tham gia chiếu bạc, chẳng ai kịp định thần là chuyện gì vừa xảy ra, dù vậy bà ta là một trong những khách hàng tuyệt vời nhất.
Có một con bạc khác cũng rất đáng nhớ, đó là “Seichan Thợ Nề”. Đám lái thuyền đã chở gã vài lần trong các chuyến đi đêm, nhưng cái lần khiến tôi ấn tượng nhất vẫn là khi gã xuất hiện lần đầu tại chiếu bạc chỗ tôi ở trọ. Trên người gã nào là đôi giày bệt thời thượng có đế da, bộ kimono lụa cao cấp với đai lưng đắt tiền, cổ thì đeo một chiếc vòng cổ bằng vàng dày dễ chừng hơn một phân, trên đó treo lủng lẳng một chiếc đồng hồ vàng.
Gã chi tiền thì hết sức phung phí, quăng tiền xuống như quăng giấy lộn, nếu có thua đậm gã cũng chỉ cười cho qua. Gã hơi thấp so với mức thông thường, thân hình béo lẳn, mắt trố, tóm lại không thể gọi gã là một người ưa nhìn. Nhưng dù vậy, trên người gã lại toát ra khí chất như thể dù ở bất cứ đâu gã cũng biết làm chủ tình hình. Gã đem lại ấn tượng khá mạnh khiến tôi phải hỏi Tameji xem kẻ đó là ai. Tameji là thợ đóng thuyền, anh hơn tôi vài tuổi, thời ấy anh được coi là tay thợ lành nghề bậc nhất.
“Gã đó à? Seichan Thợ Nề.”
“Tên gì nghe kỳ cục vậy.”
“Nghe đâu bố gã là một thợ nề rất giỏi, nhưng thằng con thì ngay từ bé chỉ giỏi mỗi trò ăn trộm. Ông bố tống cổ gã khỏi nhà, giờ thì gã đã thành thần với chuyên môn riêng.” Nói đoạn Tameji co ngón trỏ lại tạo hình móc câu, ám chỉ tới trò móc túi.
“Là vậy sao? Chỉ nhìn thôi thì chẳng bao giờ đoán được nhỉ?” “Đúng thế, nhưng gã thạo nghề lắm đấy. Gã có hàng chục lâu la dưới quyền. Cả khu Asakusa* là địa bàn của gã.”
Không ngạc nhiên gã giàu đến mức ném tiền đi không tiếc như vậy. Tôi đã khá ấn tượng nên thường chú ý tới những hành động của Seichan Thợ Nề.
Thi thoảng Seichan phải đi nhờ chuyến thuyền đêm của chúng tôi, một đêm nọ, khi vừa đặt chân lên bờ đê, gã quay sang nói với tôi: “Này Eiji, mai cậu đến chỗ Asakusa không? Tầm mười hai giờ trưa anh sẽ chờ cậu ở trước Nhị Vương Môn*. Được chứ? Anh mong cậu tới đấy.” Lời mời của gã khiến tôi háo hức, tôi quyết định cứ lân la tới chỗ gã xem sao. Nhị Vương Môn là nơi có tượng hai vị thần mặt mày dữ tợn đứng canh. Tôi đứng đó đợi được một lúc thì Seichan và một thủ hạ đi tới. Gã vận một bộ kimono may đo từ lụa Oshima với vòng cổ bằng vàng khoe ra trước ngực. Gã ăn vận bảnh bao đến mức người ngoài nhìn vào dễ nhầm tưởng đó là một tay đại phú hào từ tỉnh lên.
Tôi theo gã đi loanh quanh một hồi tới chính điện Quán Âm Đường, nơi đặt bức tượng Quán Âm.
“Thấy sao? Bức tượng quan trọng bậc nhất trong các tượng Quán Âm trên nước Nhật. Asakusa thịnh vượng nhường này là nhờ phước lành của
tượng Quán Âm* này đấy.” Seichan thốt lên với vẻ hết sức tự mãn. “Đây, tiền cúng này.” Seichan giơ ra cho tôi một yên. Gã cười toét miệng, nhe ra chiếc răng vàng. “Tiền cúng mà còn keo kiệt, sẽ chẳng bao giờ gặp may mắn cả.” Nói đoạn, gã rút thêm từ ví một yên ném vào thùng đựng tiền công đức, chắp đôi tay múp míp lại rồi cầu khấn Quán Âm. Sau đó gã dẫn tôi đi qua dãy hàng bán đồ lưu niệm vào điện thờ, tới một quán lẩu sukiyaki tên là Imahan.
Ông chủ quán và cô hầu đã đứng sẵn ở cổng vào để chào chúng tôi. “Ông chủ nói sẽ đãi cậu bất cứ thứ gì cậu thích.” Gã đi hộ tống Seichan nói vậy.
Thời điểm ấy tôi cũng khá rủng rỉnh tiền, nhưng tôi không muốn Seichan mất lòng nên quyết định im lặng, cứ để gã đãi tôi. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được ăn lẩu sukiyaki. Cho đến tận bây giờ, mỗi khi ăn lẩu tôi lại nhớ đến Seichan Thợ Nề.
“Nói xem, cậu tính chạy việc trên cái thuyền đêm ấy đến bao giờ? Anh đảm bảo với cậu đấy, việc đó vừa vất vả mà khó trụ lại lâu.” Gã nói, dường như khá chú ý đến tình hình của tôi.
“Nghe kể cậu có họ hàng với cái lão buôn than bên khu Ishijima? Bố mẹ cậu chắc sẽ không vui nếu biết cậu đang làm trên thuyền chở lậu đâu. Mà họ trả cậu bao nhiêu thế?”
“Tôi không chết đói đâu mà.”
“Vậy à, anh cũng đoán là không đến nỗi. Nhưng chắc chắn là còn lâu mới bằng số tiền bên anh kiếm được. Cậu tính xem, nhập hội với bọn anh thì thế nào? Anh thấy cậu cũng thuộc dạng nhanh nhạy. Chắc chỉ mất chút thời gian là cậu thạo việc thôi. Thời gian đầu cậu cứ việc giữ lại những gì
cậu kiếm được. Cậu sẽ thấy Asakusa này vui hơn nhiều, việc gì phải phí thời gian ở cái bãi chứa gỗ kia.”
Có vẻ như Seichan thấy tôi là một ứng viên đầy tiềm năng để thu thập làm lính mới. Kể cũng khá vinh dự. Thực ra, khi ấy tôi tự nhìn nhận mình đã đủ trưởng thành, nhưng có lẽ trong mắt Seichan, tôi vẫn chỉ là một cậu nhóc ranh có thể đào tạo để sống nhờ nghề móc túi nếu được dạy dỗ đúng cách.
Seichan uống khá nhiều trong bữa ăn, được một lúc, gã có vẻ lâng lâng háo hức. Đương nhiên tôi từ chối gia nhập nhóm móc túi của gã, nhưng có vẻ như gã tin rằng dần dà sẽ thuyết phục được tôi. Nhưng tôi thì khá quyết đoán.
Tay bảo vệ đi cùng chợt thông báo: “Hắn tới rồi.” Liền đó một người đàn ông tất tả tiến về phía chúng tôi, vóc dáng thấp nhỏ, ánh nhìn hèn mọn và vẻ mặt vừa nhìn đã biết ngay là hạng móc túi.
“Ông chủ, rốt cuộc cũng tóm được thằng ấy rồi.” Hắn nói, vẻ rất nịnh nọt.
“Ở đâu?”
“Trên tàu điện.”
“Nó có chống cự không?”
“Tụi em có ba người, một đứa từng là võ sĩ Sumo, làm sao mà thằng ấy đấu lại được.” Hắn đáp, cười hi hi rồi mở cái miệng nhăn nhúm hỏi: “Thế giờ làm gì ạ?”
“Mày tự quyết đi, đâu cần tao phải dạy.”
“Vậy là…”
“Làm đi.” Seichan ra lệnh, vẻ như chuyện đó chẳng mấy quan trọng.
Trong giới yakuza*, kẻ nào phạm luật thường bị cắt cụt ngón tay cái, nhưng với dân móc túi, thì kẻ nào dám lấn sang địa bàn của nhóm khác sẽ bị cắt cụt ngón tay trỏ, vốn là ngón tay dùng để móc túi.
Người đàn ông ném cho tôi một cái liếc xéo rồi hối hả bỏ đi. Sự việc có vẻ không hề ảnh hưởng gì đến tâm trạng của Seichan và tay bảo vệ đi cùng. Seichan tiếp tục dụ dỗ tôi, sau chốt gã còn cho tôi mười yên: “Cầm chút tiền này mà tiêu vặt.”
Người như gã sẽ rất dễ phật ý nếu bị ai đó từ chối thịnh tình, thế nên tôi nhận tiền và tỏ vẻ biết ơn. Gã còn mò thêm trong túi áo và nói: “Nếu hơi ít thì anh đưa thêm.”
Tay bảo vệ đi cùng phải nhắc: “Ông chủ mà đưa nhiều thế nó sẽ đâm ra dựa dẫm đấy.” Khi ấy tôi chợt hiểu, nếu nhận thêm nữa sẽ là không may cho chính tôi.
Seichan nói đại loại là chiều muộn gã còn một buổi hẹn khác. Gã trả tiền bữa ăn, rồi dặn thêm trước khi đi:
“Lúc nào cũng được nhé. Cứ tới đúng địa chỉ trên danh thiếp này, anh luôn có ở đó để bàn chuyện với cậu. Cứ suy nghĩ kỹ đi.”
Chữ trên tấm thiệp được in đậm và có viền vàng:
GIẢI QUYẾT MỌI RẮC RỐI
CHUYÊN GIA
TAKAMURO SEIZABURO
Bạo loạn ở mỏ Ashio
Đó là năm xảy ra Đại thảm họa động đất Kanto, tiết trời mùa xuân êm dịu, tôi đang nằm mơ màng trên thuyền, bất chợt mở mắt ra thấy Kenkichi ở ngay cạnh. Gã lặng lẽ ngồi đó, trán nhíu lại như đang trầm tư suy nghĩ, thấy thế tôi tránh không bắt chuyện. Rồi đột nhiên gã lên tiếng, vẻ mặt khá nghiêm túc, làm tôi giật mình:
“Seichan nói là lo cho chú, anh thấy cũng đúng. Cứ bám lấy cái thuyền này, sẽ chẳng tốt đẹp gì cho chú đâu.”
“Thế, sao hồi đầu anh lại làm công việc này?” Tôi hỏi.
Kenkichi nhe răng cười. “Xuất phát điểm của anh khác chú.” Gã nói. Vừa dứt câu, gã đã não nề trở lại, cứ thế ngồi im không nói gì một hồi lâu. Từ gã vẫn toát lên cái vẻ u ám thường thấy ở những người có cuộc sống bấp bênh, nhưng lần này, tôi cảm thấy điều gì đó rất khác. Kenkichi dựa vào mạn thuyền, ngước mắt lên nhìn trời. Tôi quan sát Kenkichi, thấy mái tóc đã lốm đốm bạc của gã rối tung lên trong làn gió đêm. Gã bắt đầu kể chuyện đời mình:
Anh chẳng rõ chú có biết chuyện này hay không, vào năm Minh Trị thứ bốn mươi*, có một cuộc bạo loạn lớn nổ ra ở mỏ đồng Ashio*. Thời điểm ấy anh đang làm việc ở Ashio. Cuộc bạo loạn khiến anh hoang mang, rồi anh bỏ Ashio mà đi. Mà
không, có lẽ phải bắt đầu từ chuyện anh là một đứa con hoang không cha.
Mẹ của anh ấy, bà là một phụ nữ dại dột. Là con gái của một nông phu giàu có mà lại đi chửa hoang, hậu quả là anh đây, năm anh mười một tuổi thì bà mất. Khi ấy mẹ anh mới hai mươi chín tuổi. Nghe nói rằng cha anh là một tiểu thương nay đây mai đó, nhưng anh chưa bao giờ gặp ông ta.
Người nhà tổ chức một đám tang thầm lặng cho bà, anh bỏ nhà đi ngay khi tang ma kết thúc. Một ông bác của mẹ anh có xưởng cưa ở khu đồi gần thành phố Numata tỉnh Gunma. Hồi lên bảy tuổi, anh từng theo mẹ tới đó ở một thời gian. Ông bác ấy là một người tốt, anh sẽ không bao giờ quên. Anh còn nhớ rõ hình ảnh mẹ anh quỳ xuống sàn cầu xin, nước mắt lã chã, khi đó ông bác đã làm đủ mọi cách để giúp mẹ anh nguôi ngoai.
Mấy đứa trẻ sống quanh đó thường đến chơi với anh, thật ngạc nhiên là chúng không chế nhạo anh. Bọn anh thường chơi đùa chỗ con sông chảy xuống thung lũng. Với anh, khoảng thời gian ấy như một giấc mơ, pha lẫn tiếng chim ríu rít và tiếng ồn từ đám tiều phu làm việc trên đồi. Anh chưa từng biết rằng trên đời có những nơi như thế. Có lẽ mẹ anh đã hy vọng có thể để anh ở lại đó. Nhưng rốt cuộc, bà đã thất vọng và phải dẫn anh về nhà ngoại trong nước mắt.
Sau khi mẹ mất, anh đã nghĩ rằng tốt nhất nên tới chỗ ông bác để thử vận may. Anh đi bộ liên tục bao ngày trời, nhưng cuối cùng khi tới nơi, anh được biết ông bác kia đã mất và xưởng cưa đã chuyển sang tay người khác. Không còn nơi nào để đi, anh xin
làm ở đó được năm năm, công việc là phụ giúp cho người coi ngựa thồ. Anh giúp họ chuyển đống cây mà nhóm tiều phu đã đốn về xưởng cưa, nhưng khi ấy anh còn quá nhỏ nên chỉ làm được ít việc thôi. Anh thường được giao việc thắt dây thừng quanh các súc gỗ và tháo dỡ chúng sau khi vận chuyển, dọn dẹp quanh xưởng, tắm cho ngựa và một số việc lặt vặt khác, họ mắng anh suốt.
Dần dần tự anh cũng biết dắt ngựa, anh bắt đầu chuyển được gỗ đã xẻ từ xưởng ra bãi chứa. Mỗi lần chuyển gỗ, anh thường chất nhiều hơn một chút so với yêu cầu và đem số gỗ thừa tới một tiệm tạp hóa quen trong vùng. Họ mua gỗ của anh, còn anh dùng số tiền ấy để mua bánh mì và giữ tiết kiệm phòng khi cần đến. Gã coi ngựa thồ sẽ không bao giờ cho anh một mẩu bánh mì nào kể cả khi gã có đến mười cái. Gã không trả anh lấy một xu tiền công. Nếu không tìm ra cách dành dụm cho riêng mình, có lẽ anh đã chết đói từ hồi nào.
Thế rồi, vào năm anh lên mười sáu, người chuyên đi tuyển nhân công cho mỏ đồng Ashio đã hỏi liệu anh có muốn làm việc ở đó không. Họ trả một yên một ngày, ông ta nói vậy. Anh vồ ngay lấy cơ hội này. Năm người khác cũng được chọn, bọn anh đã phải cuốc bộ tới tận mỏ đồng.
Hai bên đường đi chẳng thấy gì khác ngoài núi đồi. Nhóm bọn anh đã lết qua những quả đồi hoang vu đến độ tưởng chừng sẽ chẳng bao giờ có người sống nổi ở đó. Sau không biết bao
nhiêu ngày cuốc bộ, một hôm, người tuyển nhân công bỗng chỉ tay về phía trước và nói, “Ashio ở đằng kia kìa.” Khi đó anh đã không tin nổi vào mắt mình. “Trời ơi, ngọn núi kia!” Anh trợn tròn mắt thốt lên.
Nhìn đâu cũng chỉ thấy núi đồi trơ trụi. Không một cái cây, không một ngọn cỏ. Cả nhóm đi tiếp, men theo một thung lũng hẹp, những gì xuất hiện tiếp theo còn khiến anh ngạc nhiên hơn nữa. Tại đó tọa lạc một thị trấn khá sầm uất.
Có hẳn một tòa thị chính và bệnh viện. Một cây cầu sắt bắc ngang qua sông để chuyên chở các xe goòng đi từ mỏ ra. Có cả đầu tàu điện để kéo các toa chở quặng. Nơi đó còn có một nhà máy thủy điện, một hệ thống đèn điện. Trước đó bọn anh chưa ai từng thấy đèn điện, cả đám choáng ngợp tức thì.
Thị trấn ấy hết sức nhộn nhịp. Có đủ các loại cửa hàng. Nơi đây còn có rất nhiều quán trọ, một trong số đó là nơi tá túc của những người làm việc cho mỏ đồng, họ có hẳn điện thoại để liên lạc. Còn có một ảnh viện nữa, hình như thuộc sở hữu của ban quản lý khu mỏ, dù vậy họ vẫn đồng ý chụp ảnh nếu khách chịu bỏ tiền. Vụ chụp ảnh khá mới mẻ với cả nhóm nên bọn anh quyết định chụp ảnh để ăn mừng. Thị trấn này có tầm hai hay ba tiệm geisha* và bốn nhà thổ. Hai nhà hát sẵn sàng mở cửa mỗi khi có gánh hát lưu động ghé qua. Dân số thị trấn này có lẽ vào khoảng hơn ba mươi ngàn. Đây quả thật là một nơi náo nhiệt, với thợ mỏ, lái buôn, công chức, phụ nữ và trẻ em… tất cả nhồi nhét trong cái thung lũng nhỏ nằm giữa những ngọn đồi. Bọn anh cực
kỳ vui sướng và tự nhủ rằng mình đã đến được một nơi tuyệt vời. Nhưng đời đâu có ngọt ngào như thế.
Anh sẽ không dài dòng thêm, bởi có nói nhiều hơn nữa chú cũng không thể nào hình dung nổi trừ khi chú thực sự rơi vào tình cảnh ấy. Trong công đoạn khai thác mỏ, cực khổ và nguy hiểm nhất là việc nổ mìn. Mỗi lần họ đặt mìn, anh cứ ngỡ mình đang ở trong nòng đại bác chứ không phải trong hầm mỏ. Bụi cuộn xoáy lên trong hầm, lấp đầy lỗ mũi khiến mọi người gần như nghẹt thở.
Khi vào làm, anh được phát cho một dụng cụ bằng sắt nhìn như cái cào, dùng để dọn những mẩu quặng vỡ và đá thải. Lúc nào anh cũng nơm nớp lo sợ rằng sắp có mìn nổ. Anh làm việc tại mỏ đồng được khoảng hai năm. Thế rồi, khoảng đầu tháng Hai năm Minh Trị thứ bốn mươi, có một chuyện khủng khiếp đã xảy ra, khiến anh không thể nào quên được.
Một đoạn lớn trần hầm bị sập, anh là một trong những người xui xẻo bị kẹt lại. Xung quanh tối đen, không nhìn thấy thứ gì. Anh gần như bị chôn sống, tay chân bị vùi trong đất đá và mất dần cảm giác. Anh đã tự nhủ thế là hết. Rồi lại có thêm trận sụt lở nữa, một đống sỏi đá vụn đổ ào xuống. Một đống đất hay thứ gì đó đại loại thế rơi vào miệng anh, dồn ứ lên mũi và làm anh bị sặc. Thật quá bằng tra tấn!
Đến lúc rồi, mình không chịu nổi nữa rồi, anh đã nghĩ vậy. Nhưng vẫn có động lực nào đó trong anh không chịu bỏ cuộc. Tình trạng của anh tệ dần. Khỉ thật, anh tự nhủ nếu phải chết, thì nhất quyết phải thoát ra cho bằng được rồi hẵng chết, chứ không
thể chịu đựng sự khủng khiếp này. Anh nằm đó vật lộn với cánh tay trái, vốn là bên tay còn cử động được chút xíu. Không nhớ bằng cách nào mà anh ho ra được cái thứ trong miệng mình để tiếp tục thở. Anh lấy hết sức gào lên kêu cứu. Khi đó, anh nghe thấy tiếng mình vọng lại từ mọi hướng. Rồi một luồng sáng mờ mờ tiến dần đến phía anh, có tiếng người:
“Cậu ổn chứ?”
“Ổn cái khỉ mốc!” Anh nói.
“Còn nói được như thế, cậu không chết được đâu.” Người đó đáp. “Còn vài gã đáng thương đang bị đất vùi. Cậu chịu khó nằm đợi một lúc nhé.” Rồi họ đi mò thêm xem còn ai sống sót.
Anh đành nằm yên, không phải vì không thể vùng dậy, mà bởi biết chắc rằng nếu động đậy sẽ dễ gây ra một đợt sụt lở nữa, anh sẽ tiêu luôn. Anh hết sức tức giận với mấy gã lúc trước, lo lắng không biết bao lâu nữa họ mới quay trở lại để cứu anh.
Vài tiếng sau, cuối cùng họ cũng giải thoát cho anh, nhưng hóa ra cả đám vẫn bị nhốt trong hầm. Trận sụt hầm đã chặn mất lối ra, lên mặt đất giờ là điều không thể. Có rất nhiều người cùng làm việc với bọn anh khi ấy, rất nhiều trong số đó chắc là đã chết. Chỉ còn khoảng gần ba chục mống sống sót.
Một trong số đó là anh phó đốc công Kihachi, anh ta đứng ra chỉ huy mọi chuyện. Chính Kihachi quyết định ai sẽ dùng số pin còn lại, ai sẽ đi tìm đường thoát, phân chia lượng nước dự trữ ra sao. Mọi người đều quyết tâm bám trụ, làm theo đúng những gì Kihachi bảo.
Hai ngày sau bọn anh được cứu ra. Trước đó cả đám đều tự nhủ rằng mình sẽ không bao giờ còn được hít thở khí trời, chắc chắn không một ai hiểu nổi cảm giác của bọn anh khi biết rằng mình đã an toàn.
Người trên mặt rất vui mừng khi thấy bọn anh không đến nỗi kiệt sức và bất tỉnh như họ lo ngại. Bọn anh kể cho họ về lúc trận sụt hầm xảy ra và quãng thời gian bị kẹt trong hầm như thế nào, chợt có người nói đến những thợ mỏ đã chết, khiến tất cả sôi máu lên, mọi người bắt đầu chửi rủa đám công chức điều hành mỏ. Không lâu sau, đám thợ mỏ quyết định uống một chầu để tưởng nhớ những người đã khuất.
“Tới văn phòng đi.” Ai đó nói. “Phải bắt bọn chúng đền bữa rượu cho chúng ta.”
“Đúng đấy!” Mọi người hét lên. “Phải bắt lũ khốn đó trả tiền rượu!”
“Thế chưa đủ, còn phải bắt chúng cạo đầu vì những người đã thiệt mạng!”
Thời điểm ấy, đám thợ mỏ đã tập hợp được kha khá lực lượng, càng lúc càng có thêm nhiều người tham gia. Cuối cùng, cả hội ầm ầm kéo đến văn phòng, những người vừa được cứu đi đầu tiên, dọc đường có vài chục lính gác chặn bước bọn anh.
“Cấm vào! Giải tán ngay!”
“Chúng mày nghĩ mình là ai mà ra lệnh cho bọn tao? Tránh ra!”
“Không, lùi lại ngay!”
Trận khẩu chiến cứ thế tiếp diễn, bọn anh xô tụi lính gác lùi về sau cho đến khi có một đám cớm đột ngột lao ra. Chuyện này chỉ càng khiến phe thợ kích động hơn, đúng lúc trận khẩu chiến sắp sửa biến thành trận ẩu đả, bỗng có một tiếng nổ kinh hồn vang lên phía sau. Anh quay lại, thấy vô số tia lửa bắn tung tóe. Một gã thợ mỏ đã cho nổ mìn tại khu nhà thợ mỏ. Kihachi tranh thủ lao đi, một số người chạy theo. Kihachi dẫn bọn anh lẻn vào khu văn phòng quản lý từ cửa hậu, phía mà đám lính gác không để mắt tới, rồi trèo lên nóc kho chứa nhiên liệu.
“Phá mái nhảy vào!” anh ta ra lệnh.
Bọn anh phá một lỗ trên mái tôn và nhảy xuống kho nhiên liệu, cả thảy là mười người. Kihachi đưa cho mỗi người một phần thuốc nổ, ngòi nổ, can dầu hỏa… rồi đổ dầu hỏa ra khắp sàn và dẫn dây cháy chậm ra ngoài.
“Phá hết mọi thứ đi!” Anh ta nói với cả nhóm. “Cả những tòa nhà khác, tòa thị chính, bất cứ nơi nào chúng ta đi qua. Không phải kiêng nể gì nữa!”
Rồi anh ta châm dây cháy chậm, mọi người tản ra, một tia lửa lớn bắn lên, rồi đến một tiếng nổ khủng khiếp. Tiếp đó, anh cứ ngỡ như vừa có cơn bão lớn quét qua vậy. Bọn anh lật đổ xe goòng, chặn đường tiến của lũ cớm, cắt dây điện và cáp điện thoại, đốt tất cả những gì có thể đốt. Hàng trăm công nhân mỏ tấn công khu nhà ở nhân viên, đập phá mọi thứ trong tầm tay. Lão giám đốc khu mỏ bị tẩn một trận nên thân, bất cứ ai trông có vẻ giống công chức làm tại khu mỏ cũng bị đánh tơi bời. Cuộc bạo loạn diễn ra như thế trong ba ngày. Suốt thời gian đó, anh
luôn ở bên Kihachi, nhưng khi bạo loạn gần kết thúc, anh ta bảo anh hãy đi đi, vì ở lại sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp gì. “Em không bỏ chạy đâu.” Anh nói.
“Đừng ngốc thế. Quân đội sắp đến nơi, chú cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra rồi đấy, nên trốn khỏi đây ngay khi còn kịp.” “Thế còn anh?”
“Đương nhiên anh cũng chạy. Nhưng anh là kẻ đầu trò, bọn chúng sẽ ráo riết truy đuổi anh. Chú thì không sao, chẳng mấy ai biết danh tính của chú. Hãy men theo sườn đồi rồi cứ thẳng hướng Nam mà đi. Đi mãi rồi chú sẽ tới được Tokyo, ở đó sẽ chẳng còn ai lần ra chú được nữa. Tới Tokyo rồi, hãy đến khu chân cầu Namida ở Senju, ở đó có một tụ điểm mà đám phu khuân vác hay tụ tập, nhớ tìm gặp một người tên là Shugoro. Nói với gã là anh giới thiệu chú tới, gã sẽ lo cho chú. Anh sẽ theo chân chú sớm thôi, giờ mau đi đi.”
Thế là anh bắt đầu chạy trốn, băng qua biết bao ngọn đồi. Gần như ngay sau đó anh được biết rằng quân đội đã đến Ashio để chấm dứt cuộc bạo loạn. Anh tiếp tục bỏ chạy, không ăn không uống, tới tận chân núi Akagi thì quá mệt và đói, chẳng còn mấy sức để đi tiếp. Đang đờ đẫn trên đường thì gặp một lão tiều phu. Ông cụ nhìn anh rồi hỏi:
“Cậu chạy trốn từ mỏ Ashio đúng không?”
Anh đã nghĩ chẳng việc gì phải nói dối ông cụ, bèn gật đầu. “Đi theo lão.” Ông cụ nói rồi dẫn anh đến một lò đốt than. Tại đó ông cụ cho anh một nắm cơm và ít súp.
“Thế giờ cậu tính đi về đâu?” Ông cụ hỏi.
“Cháu định tới Tokyo.” Anh đáp.
“Hừm, vậy thì nên mặc mấy thứ này.” Ông cụ khuyên rồi đưa anh bộ quần áo của nông phu. “Mặc bộ này và vác theo than củi, sẽ không ai nghi ngờ cậu.”
Anh cảm ơn ông cụ rồi đi tiếp, hướng tới vùng đồng bằng dưới chân núi. Anh không bao giờ biết được vì sao ông cụ ấy lại giúp mình tận tình đến thế.
Khoảng hai tuần sau anh gặp được Shugoro ở khu chân cầu tại Senju. Anh ta đã biết về vụ bạo loạn ở Ashio, liền bảo anh tốt nhất nên ẩn mình một thời gian, anh làm việc ở chỗ anh ta được khoảng sáu tháng.
Trong thời gian ở đó, anh gặp một phu lái thuyền tên là Jinpei. Khi biết anh là ai, Jinpei bảo sẽ an toàn cho anh hơn nếu anh sang phụ việc cho bác ta. Shurogo cũng thấy như thế là tốt nhất và dẫn anh đến chỗ Jinpei, chính là con thuyền này. Khi anh bắt đầu phụ việc ở đây, Jinpei vẫn là phu lái chính, về sau khi bác ta qua đời, anh tiếp quản công việc. Còn về Kihachi, anh không bao giờ gặp lại anh ta nữa.
“Bác phụ việc trên con thuyền đó trong bao tâu?” Tôi hỏi. “Không lâu lắm đâu.” Người đàn ông đáp, cùng lúc cố vươn người khỏi tấm đệm ngồi. “Xin lỗi, bác sĩ thứ lỗi cho tôi một lát!” Ông nói rồi chống tay lên gờ bàn sưởi, chậm rãi đứng dậy, nhưng phần đuôi kimono vướng vào chân khiến ông hơi loạng choạng, không
đứng thẳng ngay được. Nắm lấy cái gậy chống đang để dựa vào cột, ông mở cửa trượt rồi đi ra hành lang. Nhìn qua cửa kính bên ngoài hành lang, tôi thấy mưa đang trút ào ào xuống hiên. Đồng hồ điểm chín giờ. Tôi nghe tiếng người đàn ông nói chuyện với ai đó ở phòng trong. Một lúc sau, tiếng ván sàn ngoài hành lang kêu cót két và người đàn ông quay trở lại.
“Về già đi lại khó khăn thật đấy.”
“Có lẽ tôi nên về thôi.”
“Bác sĩ có việc bận à?”
“Không, nhưng trông bác có vẻ mệt rồi.”
Người đàn ông đáp ngay. “Không đâu, giờ này mà đi nằm thì tôi còn ra cái thể thống gì. Chẳng lẽ tôi là một lão già vô dụng hay sao.” Ông nói rồi cho tay vào tấm chăn phủ bàn sưởi, vừa cong lưng ngồi xuống vừa ho sù sụ.
Tiền của khỉ
Vào tháng Chín năm Đại Chính thứ mười hai, tôi không làm việc trên thuyền đêm nữa. Ai cũng biết, ngày đầu tiên của tháng Chín năm ấy chính là ngày xảy ra Đại thảm họa động đất Kanto.
Khi ấy Kenkichi, tôi và một cô gái tên Iyo, công nhân một nhà máy dệt, vợ sắp cưới của Kenkichi, đang ngồi ăn ở khu Monzen Nakacho. Bất chợt, một loạt tiếng động khủng khiếp vang lên, căn phòng bắt đầu rung chuyển. Bát đĩa, đồ sứ trên giá đổ cả xuống đất. Một ngôi nhà hai tầng phía bên kia đường rung lắc dữ dội rồi đổ sập xuống.
Ngay lập tức, mọi người nhận ra rằng đây không phải một cơn địa chấn thông thường. Chúng tôi biết mình sẽ bị nghiền nát trong tiệm ăn này nếu còn ở lại, bèn lao ra ngoài chạy thục mạng, cho đến khi tới được con kênh. Thế nhưng, căn nhà kho ngay chỗ chúng tôi neo thuyền đã đổ sập, con thuyền bị chìm một nửa. Tình thế thật vô vọng, Kenkichi rất đau lòng vì chuyện con thuyền. “Trời ơi, thế này thì sao còn dùng được nữa!” Gã rên rỉ. Bất chợt, một góc trời bỗng chốc rực đỏ.
“Là nhà máy dệt!” Iyo hét lên rồi lao đi. Nhà máy bông Amagasaki nơi cô làm việc đang bốc khói ngùn ngụt. Chúng tôi chạy theo cô. Lửa lan ra khắp nơi với tốc độ khủng khiếp.
Cả khu Morishita đã thành một biển lửa. Người người hoảng loạn đến cùng cực, các cụ già, trẻ nhỏ kêu gào đến nát gan xé phổi.
“Không ích gì đâu!” Kenkichi nói, giữ lấy Iyo. “Có tới được nhà máy em cũng chẳng thể giúp gì.”
Một gã cảnh sát hét lên, giọng khản đục: “Tới kho quân phục!” Chúng tôi không nghe lời anh ta, cứ thế chạy về phía ngược lại. Khi tới cầu Eitai, chúng tôi mới nhận ra khu vực bên kia bờ sông, hàng trăm mét từ Nihonbashi cho tới Asakusa, đã trở thành một lò lửa gầm rú. Đằng sau lưng, lửa đã đuổi sát. Gió lốc nổi lên, có một chiếc xe ngựa bị thổi bay lên không trung. Những mảnh vụn nhà cửa, mái ngói bị cuốn vào gió lốc, trông cứ như đám lá khô đang nhảy múa trên bầu trời. Một con ngựa phát điên, chạy loạn trên đường rồi nhảy xuống sông.
Chúng tôi quyết định tới lánh nạn ở kho quân phục, bèn mò mẫm tìm đường, cố vượt qua biển người đang náo loạn. Trời sập tối mà chúng tôi chẳng kịp để tâm, lửa càng lúc càng dữ dội. Vừa chạy quá chỗ sông Oshima được một chút, chúng tôi nghe ầm một tiếng, rồi thấy một cột lửa lớn bùng lên. Kho quân phục cũng đã bắt lửa, giờ đang đổ sập xuống. Khung cảnh ấy khiến ai cũng phải rùng mình, bầu trời đêm vang vọng những tiếng la hét thê lương. Dễ chừng có tới hàng nghìn người đang ở trong ấy.
Tôi từ bỏ mọi hy vọng tìm được nơi an toàn. Lúc này có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì cũng phải chịu thôi, tôi tự nhủ như thế. Nơi ấy quá nóng không thể đứng nguyên một chỗ. Chúng tôi đành phó mặc cho đám đông xô đẩy về hướng cầu Aikawa. Trên cầu cũng chật cứng người, đến mức gần như không cử động nổi. Thế rồi, theo lẽ đương nhiên, hành lý mọi người mang theo bắt đầu bén lửa. Nếu không khẩn trương làm gì đó, chắc chắn chúng tôi sẽ bị thiêu sống. Đang chen chúc, chúng tôi nhìn thấy một chiếc phà ở ngay bên dưới cầu.
“Nhảy nào!” Kenkichi hét lên, đoạn ôm Iyo nhảy xuống. Tôi tức thì nhảy theo. Trên phà đã lố nhố hàng chục người, lập tức có người giúp chúng tôi trèo lên. Chẳng lâu sau, hàng trăm người khác cũng từ trên cầu nhảy xuống, rất nhiều người với được tới lan can và cố trèo lên, một số người thành công. Chiếc phà có vẻ sẽ chìm bất cứ lúc nào vì quá trọng tải.
“Tránh ra! Phà hết chỗ rồi!” Ai đó trên phà gào lớn.
“Các người định để chúng tôi chết à?” Có người ở dưới sông gào ngược lại. Chợt một con gió lớn nổi lên, chiếc phà bị cuốn đi như một súc gỗ. Chúng tôi dạt về hướng có ngôi trường Thương mại Hàng hải. Nơi này cũng chìm trong biển lửa, cả tòa nhà lớn ngùn ngụt lửa đỏ. Mọi người lại lâm vào hoảng loạn, rồi cơn gió đổi hướng đột ngột, phà trôi xa dần cho đến khi dừng lại ở đảo Tsukuda*, nơi sông Sumida chảy vào vịnh. Đây là một trong số ít địa điểm thuộc phần lâu đời hơn của vịnh Tokyo mà không bị tổn hại quá nặng nề.
Chúng tôi xuống phà và nhìn lại phía thành phố. Ngọn lửa lúc này thậm chí còn hung hãn hơn trước, ngùn ngụt bốc lên tận trời. Thật khó tưởng tượng được rằng chúng tôi đã vượt qua tất cả những hung hiểm đó, cả ba chúng tôi, mà vẫn không bị lạc nhau.
Khi bình minh lên, phía bên kia sông chỉ còn là một đống phế thải đen đúa. Hàng trăm xác người dạt vào bờ. Điều kinh khủng nhất ở con người, là ngay cả vào những giờ phút như thế này, dạ dày vẫn đòi hỏi được lấp đầy. Cổ họng chúng tôi khô rát, nhất định phải tìm gì đó cho vào bụng. Đã có quá nhiều người lên đảo Tsukuda để lánh nạn, nên chúng tôi không thể lân la đến các nhà dân ở nơi đây để xin ăn được nữa.
Vậy là chúng tôi quyết định chia nhau ra tìm đồ ăn. Tôi đã tới đây nhiều lần để đưa than cốc nên khá thuộc đường. Tôi bình tĩnh đi dọc bờ về
phía Đông. Sau một lúc, tôi đến một khu đất phủ đầy cỏ dại. Tôi lục tìm trong đám cỏ, mò mẫm bất cứ thứ gì có thể ăn được, kể cả côn trùng. Rốt cuộc tôi cũng tìm thấy chúng: châu chấu, cả một đàn châu chấu đậu chi chít trên thân những ngọn cỏ. Tôi chạy khắp nơi bắt châu chấu. Vì không có hộp đựng, tôi đành cởi áo, buộc hai tay lại và nhét đám châu chấu vào đó. Hai giờ sau cái áo đã chật kín châu chấu. Tôi mang hết về rồi ba chúng tôi ăn sống đám châu chấu. Cơn đói tạm thời bị đẩy lui. Ngày hôm sau, có những người khác nữa xuất hiện ở bãi cỏ, đám châu chấu đã bị bắt hết. Tìm kiểu gì cũng chẳng còn con châu chấu nào. Tôi chửi thề, nhưng làm thế cũng chẳng ích gì. Kenkichi đề nghị chúng tôi đi tìm xem liệu đã có trạm tiếp tế lương thực nào được dựng lên chưa. Iyo nói không còn sức để đi bộ nữa nên chúng tôi để cô ấy nằm lại trong một con thuyền hỏng mắc cạn. Chúng tôi băng qua một cây cầu cháy đến hơn một nửa để tới quận Fukagawa. Nơi nào chúng tôi đi qua cũng có hàng đống xác người. Chẳng còn gì ngoài những đống đổ nát đen sì và thi thể ở khắp nơi. Tôi không biết chúng tôi đã đi bao lâu, dù đã nghe thấy kha khá tin đồn về những trạm ứng cứu, chúng tôi chưa bao giờ tìm thấy trạm nào như vậy. Chúng tôi càng lúc càng mệt và đói, cho đến khi gần như kiệt sức. Khi đang loanh quanh đâu đó gần khu Koume bên quận Honjo, Kenkichi đột nhiên bảo: “Nhìn kìa, có bọn khỉ!” Tôi nhìn theo hướng gã chỉ, thấy có tổng cộng ba con, đang nằm rúc vào nhau dưới bóng một cái cây cháy. Một con lớn và hai con nhỏ.
“Chắc là bọn chúng đang ngủ.”
“Kể cũng lạ là lại có khỉ ở đây.”
Chúng tôi nói khi tiến đến chỗ lũ khỉ. Nhưng hóa ra đó không phải là khỉ, mà là người. Một người mẹ và hai đứa con, xác bị cháy đen thui. Cơ
thể họ co quắp, khiến từ xa trông cứ như khỉ vậy. Người mẹ đang ôm chặt đứa nhỏ hơn trong vòng tay.
“Có chuyện gì đi nữa, trẻ con vẫn là đáng thương nhất.” Kenkichi nói, rồi chúng tôi cùng chắp tay cầu nguyện cho ba mẹ con. Đúng lúc ấy, chúng tôi để ý thấy thứ gì đó sáng lấp lánh trên ngực người mẹ. “Này, cái gì kia?”
Chúng tôi nâng xác người phụ nữ lên, cô ta nhẹ bẫng, như tro than vậy, có rất nhiều xu bạc rơi ra từ người cô ta. Rất nhiều, phải nói là đủ cả một túi lớn.
“Chúng ta giàu rồi!”
“Cẩn thận, có người đang đến.”
Tôi quay lại thấy một hàng người ở phía xa với túi bọc lỉnh kỉnh sau lưng.
“Đội cứu hộ mà thấy chúng ta thế này là xong chuyện đấy.” Chúng tôi vội vã nhặt xu bạc, rồi tôi thoáng thấy một cuộn tiền giấy lộ ra chỗ ngực người phụ nữ.
“Này! Cả một gia tài! Làm thế nào mà số tiền giấy không bị cháy nhỉ?” Chắc hẳn người phụ nữ đã nhúng ướt đống giấy bạc rồi cuộn tròn lại, vài tờ ở phía ngoài đã cháy sém nhưng những tờ bên trong thì không sao cả.
“Chết tiệt! Anh không lấy ra được. Bị vướng đứa bé.”
Kenkichi nói, đoạn luồn hai ngón tay vào, cố lôi nắm tiền ra nhưng không được. Xác đứa trẻ bám chặt vào người mẹ khiến nắm tiền không suy chuyển.
“Tách họ ra!” Kenkichi mất kiên nhẫn. Tôi làm theo, nhưng mẹ con họ dính vào nhau quá chặt.
“Nếu kéo mạnh quá, tay đứa bé gãy mất.”
“Thì làm sao chứ! Đằng nào họ cũng chết rồi.”
Tôi kéo thêm lần nữa, làn da cháy đen của đứa bẻ bất chợt bong ra cả mảng, để lộ những mảng thịt đỏ mềm nhũn bên dưới. Thứ chất dịch nhơm nhớp từ xác chết dính vào tay tôi. Đôi mắt của đứa bé cứ như đang trừng trừng nhìn tôi, khiến toàn thân tôi nổi da gà.
“Thôi, để lại đi.” Tôi nói. “Đứa bé nhìn như thể oán hận ấy. Lấy tiền của người phụ nữ này chẳng tốt đẹp gì đâu.”
“Đừng có ngu.”
“Thôi đủ rồi!”
“Vậy sau này đừng có đến đòi tiền anh đấy.”
Kenkichi tách hẳn người mẹ và đứa bé ra. Từng mảng da cháy bong khỏi tay đứa bé, nhưng cánh tay không bị gãy lìa, một phần cánh tay ấy, nhỏ nhắn và đen thui, vẫn dính chặt vào cơ thể người mẹ.
“Thấy chưa! Ngon lành rồi còn gì.” Kenkichi nói, đoạn cởi quần, giắt tiền vào bên trong rồi thít chặt lại đai lưng.
“Với từng này tiền, chú xem, anh thừa sức đóng một con tàu mới. Giờ mau đi thôi.” Gã nói.
“Tôi không đi chung với anh nữa.”
“Ý chú là sao?”
“Tôi rút đây. Đừng lo, tôi không nói với ai chuyện này đâu.”
Kenkichi bỏ đi mà không thèm nhìn lại, còn người mẹ và đứa con, giờ bị tách khỏi nhau, nằm trơ ra trên nền đất lạnh.
Thực ra thì, nói thế này có vẻ là tôi ngụy biện cho Kenkichi, nhưng tôi nghĩ cũng thật khó trách gã. Chắc hẳn rằng, tới trước khi xảy ra trận động đất, người phụ nữ này và hai con mình đã sống một cuộc sống khá sung túc trong một gia đình có hàng chục gia nhân. Họ đáng lẽ đã không có kết cục như vậy nếu không phải vì số tiền ấy. Nếu không có đống tiền kia, tôi nghĩ dù có chết họ vẫn được yên nghỉ mà không bị chia cắt. Sau đó, tôi không bao giờ gặp lại Kenkichi thêm một lần nào nữa.
"""