" Đời Tư của Mao Trạch Đông - Lý Chí Thỏa full prc pdf epub azw3 [Danh nhân] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đời Tư của Mao Trạch Đông - Lý Chí Thỏa full prc pdf epub azw3 [Danh nhân] Ebooks Nhóm Zalo ĐỜI TƯ MAO TRẠCH ĐÔNG Nguyên tác: The Private Life of Chairman Mao Tác giả: Lý Chí Thỏa (Li Zhisui) Dịch giả: Nguyễn Học & Lâm Hoàng Mạnh Nhà Xuất bản Nhân Ảnh Nguồn: VnThuQuan Dựng lại bìa: inno14 Tạo ebook (06/07/‘16): V.C Lời nói đầu Không có một nhà độc tài nào trong lịch sử nhân loại có uy quyền lớn như vậy đối với quần chúng như Mao Trạch Đông. Không ai trong số những người cai trị trong quá khứ đã mang đến cho dân tộc mình nhiều sự đau khổ bần hàn cho nước Trung Quốc chia rẽ. Sự khát vọng uy quyền và mơ ước nắm giữ ngai vàng với bất kỳ giá nào đã buộc Mao phải cai trị đất nước trong sự thối nát cùng cực. Những ý tưởng điên rồ và hàng loạt mưu đồ đã đưa Trung Quốc tới vực thẳm. Hàng chục triệu người đã chết vì đói trong những năm chính sách đại nhảy vọt, và vì sự trả thù hàng loạt và hỗn loạn diễn ra trong thời kỳ Cách mạng văn hoá – đấy là kết quả của một thí nghiệm bệnh hoạn do một ông vua mới xuất hiện trên một đất nước vĩ đại có hàng nghìn năm lịch sử. Sự thú nhận thẳng thắn của một con người từng sống bên cạnh Mao trong thời gian suốt hai mươi năm và nghiên cứu tận gốc rễ không những tổ chức mà còn thế giới bên trong người cầm lái vĩ đại, là độc nhất trong việc mô tả sinh hoạt của một trong số những bạo chúa của thế kỷ XX. Những chi tiết trong cuốn Về cuộc sống của các Xê-da đã mô tả những ảnh hưởng thối nát của uy quyền tuyệt đối với khuyết tật, sự tham lam, khát máu và giết người man rợ. Tuy nhiên, khi tả lại cuộc sống của các tù trưởng bộ lạc, người Tây Tạng và bạo chúa Neron, tác giả chưa phải là một con người gần gũi với họ như bác sĩ Lý Chí Thỏa với bệnh nhân Mao Trạch Đông. Về tiểu sử Hit-le ông Speer biết chưa đày đủ về đế chế của mình, nhưng trong tiểu sử của lãnh tụ Nazi, chỉ giới hạn đến mặt chính trị và quân sự của Hitle. Con gái Stalin viết nhiều về bố mình, dù cô ta cũng gặp bố không nhiều. Nhật ký của bác sĩ riêng Napoleon và Hit-le chỉ thuần tuý là quan sát về y học. Hồi ký của Moran về Sớc sin, của Herndon về Lincon chỉ là về những sự kiện lịch sử mà ảnh hưởng của cá nhân đến quá trình lịch sử là không đáng kể. Cái gì liên quan tới triều đại Trung Hoa, thì theo truyền thống trong đó chỉ mô tả chuyện ma chay, chôn cất, bói toán, chiến tranh và các sự kiện đáng ghi nhớ của việc lên ngôi của hoàng đế. Trong tiểu thuyết cổ Trung Quốc Tam quốc diễn nghĩa mô tả sự chia rẽ Trung Hoa thành ba quốc gia thù địch Ngụy, Thục, Hán và về sự thống đất nước dưới sự che chở của triều đại Tần năm 280, người ta chỉ kể lại các cuộc chém giết, sát phạt và các thủ đoạn trong thời kỳ này. Dưới sự soi sáng của các sự việc nguyên bản và sự mổ xẻ tâm lý Mao một cách sâu sắc đã làm cuốn sách của Lý Chí Thỏa là hiện tượng hiếm trong văn học. Thật là khó hiểu rằng trong những năm 90 thậm chí người ta vẫn mô tả Mao Trạch Đông là một con người nhân hậu thông minh, và bất cứ sự chỉ trích nào nhắm vào ông ta lại gây sự phẫn nộ trong người Trung Quốc. Tất cả những ai có vinh dự gặp lãnh tụ không có thể quên được cuộc gặp đầu tiên khi đó Mao là lịch sự, khiêm tốn và nhân từ với người đối thoại và điều này tạo cho ông ta là người ngay thẳng. Tuy nhiên càng về sau Mao không giữ được đức tính như thế nữa, ông thường xuyên giận dữ, dọa dẫm và cai trị thuộc hạn trong sự sợ hãi triền miên. Mao chẳng khó khăn gì lôi kéo đám cận thần và tất cả nhân dân Trung Quốc. Và không còn nghi ngờ gì nữa trong trường hợp này, giúp ông ta chính học thuyết Khổng tử, học thuyết đó trong suốt nhiều thế kỷ đã ăn sâu trong tâm khảm dân thường Trung Quốc. Một trong năm điều răn dạy của Khổng giáo là lòng tin của thần dân vào kẻ thống trị dựa trên sự tín, nghĩa, trung quân, không chống lại vua. Vây quanh ông ta là những người dễ bảo, Mao dần dần bày ra trò tự phê bình để mà nghe từ họ bao lời ca tụng và thờ phụng ông ta. Mao bắt chước Tần Thuỷ Hoàng và khéo léo điều khiển đám người quanh ông. Bác sĩ Lý Chí Thỏa xuất thân từ một gia đình dòng dõi, thời trai trẻ đã được đào tạo trong một trường đại học ở Quý Châu, sau khi tốt nghiệp ngẫu nhiên tham gia tổ chức thanh niên chống cộng của Quốc dân đảng. Điều đó cho phép Mao bằng thủ đoạn hăm doạ lành nghề buộc Lý trở thành người đầy tớ tin cẩn của mình. Dưới thời Mao, sự thối nát thịnh hành và ông ta cũng biết rõ điều này. Cái đó tạo cho Mao cai quản đám người của mình trong vòng cương tỏa. Ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại rằng cá không thể sống thiếu nước, và ông rất thích bơi lội trong các hồ nước bẩn hoặc là ban đêm đi đến các nơi tối tăm của cánh đồng lúa. Tất cả những người quanh Mao đều bị cơ quan mật vụ theo dõi. Trong nhiều năm trời, nhiều người trong số chiến hữu của Mao đã bị nằm trong các trại cải tạo hoặc bị xử tử. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, Mao đã mất con, anh em và một người vợ, nhưng ông lại hoàn toàn thờ ơ trước những đau đớn của những người khác. Trong chính trị cũng như trong đời tư, ông không hề ngần ngại tiêu diệt những người mà ông coi là không có lợi đối với ông, và khi cần thiết thì ông lại nhẫn tâm kéo họ về phục vụ cho ông, nếu lúc ấy họ vẫn còn sống. Bác sĩ Lý thường đặt Mao trong sử sách Trung Quốc. Vị lãnh tụ rất thích các tiểu sử đầy mưu mẹo ranh ma và xảo quyệt của các kẻ thống trị đời trước. Họ đã dạy Mao Chủ tịch cả về chiến thuật lẫn chiến lược đấu đá với kẻ thù của mình. Mao đã nổi bật về mưu mô xảo quyệt và một kịch sĩ. Thậm chí chiến hữu thân cận cũng không thể hiểu nổi Mao đồng ý với họ hay chuẩn bị giáng cho họ đòn bất ngờ. Hình mẫu cuộc sống của Mao là sự kết hợp chủ nghĩa khổ hạnh và xa hoa, sự lười biếng đến lạ lùng và khả năng làm việc đặc biệt. Phần lớn thời gian Mao nằm trên giường hoặc trên trường kỷ trong bể bơi. Ông ta có thể cả ngày đi lại trần truồng, thích thức ăn béo ngậy, thay cho việc đánh răng, ông xúc miệng bằng nước chè và bồng bế lên giường những cô gái thôn dã chanh cốm. Năm 1958, trong thời gian thăm tỉnh Hồ Nam, đi theo xe Mao là một chiếc xe tải chở đầy dưa hấu mà Mao ưa thích. Chủ tịch rất thích đi những đôi giày vải, và nếu phải xuất hiện trước một cuộc tiếp xúc ngoại giao thì ông chọn giày da, trước đó những cận vệ tin cậy buộc hoặc cởi giầy cho ông. Mao chẳng bao giờ thích tắm. Thay vì đó, các vệ sĩ lau mình ông ta bằng khăn mặt ướt, điều này – theo lời bác sĩ Lý – dễ tăng sự nguy hiểm lây lan chứng bệnh giang mai trong số nhiều tỳ thiếp của lãnh tụ. Mao chỉ ngủ trên chiếc giường gỗ lớn, không bao giờ được rời ông. Ông mang theo nó trong các chuyến đi riêng của mình, mang nó theo ra dinh thự ngoại ô. Chiếc giường thậm chí còn đi theo ông trên máy bay trong chuyến đi tới Moskva. Chủ tịch là thời gian quyền lực và là một cuốn lịch. Toàn bộ dinh thự làm việc và sống trong một nhịp điệu của chủ nhân, hoạt động chính của nó bắt đầu theo thường lệ vào lúc nửa đêm. Mao có thể gọi người phục vụ vào lúc hai, ba giờ đêm. Ông rất thích chu du đất nước, vì thế các cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo cao cấp và cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc có thể diễn ra ở hang cùng ngõ hẻm của Trung Quốc. Trong số Luận văn đạo Lão cổ ông biết rõ là con đường dẫn tới tới sự bất tử nằm ở quan hệ tình dục và say sưa đắm mình trong trác táng tình dục hoan lạc với vô số các cô gái trẻ đẹp. Trong những ngày lễ chính thức ông chỉ công nhận kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1-5 và ngày thành lập cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng chỉ mời khách nước ngoài cao cấp. Trong những ngày này ông ăn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn Các phụ nữ chỉ được phục vụ ông một trong số các món ăn kiểm tra cẩn thận. Cuộc sống tình dục của ông phải chăng không rõ có phải trên cơ sở chăm sóc kiểu vua chúa hay không. Bên cạnh phòng rộng lớn cho hội nghị hiệp thương toàn quốc là một phòng đặc biệt dành riêng cho lãnh tụ để trong thời gian hội thảo mệt nhọc ông được xả hơi bằng tình dục. Các quan chức quân đội và đảng, những người luôn giữ nghiêm ngặt đạo đức xã hội đã kiếm cho Mao các cô trinh nữ duyên dáng xuất thân từ thành phần vô sản và nông dân. Mao rất thích khiêu vũ, và thường tổ chức vũ hội, để sau đó các bạn nhảy của ông được vinh dự vui vầy với lãnh tụ trên giường. Những cô gái thạo ngón có quyền dẫn em gái trẻ của mình tới phòng Mao. Mỗi bí thư đảng ở các địa phương đều xây cho Mao một vi-la tráng lệ. Mao không thích ngồi một chỗ và thường xuyên du ngoại trên đoàn tàu riêng. Mọi đoàn tầu trên đường đi của lãnh tụ đều bị ngừng lại, tại các ga mà tàu đi qua, công an canh chừng hành khách và dân buôn thúng bán mẹt. Trong những năm đại nhảy vọt người ta bắt nông dân trồng lúa dọc theo đường tầu để lãnh tụ từ trong toa nhìn ra tận mắt có thể nhìn thấy vụ mùa bội thu, mặc dù nó chính nó rất tồi. Mao rất thích ra ngoài dạo chơi ở vi-la của mình xây ở đảo nằm trên sông Châu Giang gần Quảng Châu. Thức ăn của lãnh tụ được trồng ở những trại đặc biệt cách Bắc Kinh không xa và được kiểm tra bằng những chuyên gia lành nghề. Trong những ngày nóng nực, căn hộ của Mao được làm lạnh bằng những chậu nước đá. Quyền lực tuyệt đối đã ảnh hưởng tới thể lực và tinh thần của nhà độc tài và cướp đi sở thích đơn giản của ông là giao tiếp. Có lúc hàng tháng ông không rời khỏi giường, mặt tỏ ra lo âu mơ hồ. Tuy nhiên khi xảy ra biến cố chính trị nghiêm trọng thì ông tỏ ra hoạt bát lên, lấy đi sự thanh thản và thậm chí không ngủ nữa. Trong thời kỳ ấy cho lãnh tụ dùng lượng lớn thuốc ngủ barbiturat. Căng thẳng chính trường thời gian ấy đã không làm yếu khả năng tình dục của Mao và đôi khi ngược lại còn tăng lên. Khi mà trong những năm đại nhảy vọt hàng chục triệu người chết đói, Chủ tịch để chuộc lỗi trước đảng, tạm thời ngừng ăn thịt, nhưng đàn bà thì ông không bỏ. Một trong số những thứ như thế đã mở mắt bác sĩ Lý là người cầm lái thực là vĩ đại về mọi phương diện, bao gồm thậm chí cả tình dục. Chính sách nhà độc tài phụ thuộc vào tính cách cá nhân của ông. Trong thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội Trung Quốc duy nhất Mao đã tạo ra một đất nước nghèo khổ, lạc hậu dở sống dở chết chẳng giống với ai cả, lề lối quản lý kinh tế xã hội khác thường. Đối mặt với sự thù địch của phương Tây, Mao bắt đầu chơi với Moskva. Dù thế các thành tựu khoa học kỹ thuật của Mỹ và Châu Âu luôn luôn làm Mao ngưỡng mộ. Có thể là chính vì vậy Mao chọn Lý làm bác sĩ riêng. Trong đó lãnh tụ Trung Quốc muốn tìm thấy những người đối thoại thông minh và có học, đặc biệt hiểu được tiềm năng của mức kinh tế và kỹ thuật của các nước phương Tây phát triển. Khi trao đổi với Lý, Chủ tịch nhiều lần nhấn mạnh rằng quan hệ của Mỹ với Trung Quốc luôn luôn thiện chí, trong khi Liên Xô gọi cộng hoà nhân dân Trung Hoa là người em trai của mình và xem đó là đất nước vĩ đại có triển vọng. Mao có xu hướng khắc phục những yếu kém của mô hình xô-viết nguyên thuỷ của chủ nghĩa xã hội và xây dựng ở Trung Quốc chủ nghĩa xã hội kiểu mới, đưa đất nước đến mức các nước văn minh trên thế giới. Ông cho rằng nhờ đó có thể trở thành kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đóng góp nhiều bài học bởi sự sáng tạo nguyên bản mới. Một trong những ý tưởng hiệu quả là chính sách đại nhảy vọt, và để cứu nó phải quay sang Cách mạng văn hoá. Theo Mao, phát triển kinh tế của đất nước có thể chỉ đạt được bằng chủ nghĩa nhiệt thành của quần chúng. Mao Trạch Đông tin thành tâm vào hiện thực thực hiện kế hoạch lớn lao của mình. Điều này không khó vì chính lãnh tụ từng sống trong vùng cộng sản. Vào thời kỳ khi mà nhân dân Trung Quốc đói, lãnh tụ vẫn ngoan cố khẳng định về sự giàu có của đất nước, mà các nhà lãnh đạo đảng đã thông báo cho ông ta. Đảng kiểm soát kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và mọi cuộc sống của nhân dân… Đảng lãnh đạo đã bác bỏ cách đi tiếp của lãnh tụ theo ý tưởng điên rồ để đẩy mạnh đất nước. Khi đó Mao ngừng lại, để chấp hành quyết định của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên lúc đó có cuộc đấu tranh dữ dội trong nội bộ, Mao ngoan ngoãn nghe lời đa số. Giải quyết vấn đề cơ bản của đất nước là một nhóm ủy viên Ban chấp hành trung ương gồm 30-40 người. ảnh hưởng của họ đến ý kiến đa số trong lãnh đảng cộng sản Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào quan hệ qua lại với Mao Trạch Đông. Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Lý mô tả tỷ mỷ cấu trúc hệ thống chính trị của Trung Quốc bao gồm những người sáng lập và các cơ quan thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc: bộ máy thư ký, bộ máy an ninh, bệnh viện, giao thông, cung ứng và những cái khác. Đối với giới chức cao cấp của đảng, người ta xây các thành phố ngầm, để các nhà lãnh đạo có thể chạy một cách dễ dàng từ nhà họ ra tới bất cứ điểm nào của Bắc Kinh. Giống nhiều nhà thống trị, Mao không có bạn thực sự và chiến hữu tin cậy. Vây quanh ông là cả một đội ngũ thuộc hạ ngoan ngoãn, những thư ký… và những vệ sĩ lực lưỡng. Dù rằng có bộ sậu đông như thế, Mao vẫn cảm thấy đơn độc. Tại đại hội VIII đảng cộng sản Trung Quốc năm 1956, nhân báo cáo Khơ-rút-sốp về tệ sùng bái cá nhân Stalin, người ta đã cố gắng hạ uy thế Mao Trạch Đông. Mao thẳng thừng chống lại vì ông hiểu quá rõ rằng làm thế ông sẽ mất ngai vàng mà ông giành được từ ngày cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Nhiều năm trôi qua, hàng triệu sinh mạng bị thiệt hại. Nhiều người trong số chiến hữu người cầm lái vĩ đại đã chết trong các trong trại cải tạo và nhà tù, còn dân chúng như trước đây vẫn ca tụng lãnh tụ trong các cuộc mit tinh hàng ngàn người giơ cao những bìa đỏ trích dẫn lời thần tượng của mình. Trong số những người trước đây còn nắm chức vụ cao chỉ còn Lâm Bưu, từ 1969 chính thức trở thành trợ thủ duy nhất và người kế tục của Chủ tịch Mao. Năm 1971 Lâm Bưu bị buộc tội đảo chính phản cách mạng và mưu sát Mao. Sau khi bại lộ, Lâm Bưu cùng vợ và con bay sang Liên Xô. Nhưng máy bay của ông bị rớt trên vùng đất Mông cổ mà cho đến nay không rõ nguyên nhân. Sự phản bội và cái chết của Lâm Bưu đã giáng Mao một đòn nặng tới mức từ thời điểm đó bác sĩ Lý đã nhận thấy sự giảm đột ngột sức khỏe của Chủ tịch. Trong những năm cuối đời, Mao Trạch Đông cố gắng dàn xếp quan hệ với phương Tây. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi việc tiến hành cải cách kinh tế do Đặng Tiểu Bình khởi xướng. Sau khi Mao chết năm 1976, bác sĩ Lý bị đe dọa tính mạng – người ta có thể buộc tội ông giết lãnh tụ. Nhưng rất may mắn, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc biện hộ cho ông. Dù vậy, không tin vào sự ổn định trong nước, Lý Chí Thỏa di cư sang Hoa kỳ. Sau đó tên của bác sĩ riêng của Mao đã bị xoá bỏ khỏi lịch sử chính thức của cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Năm năm sau cái chết của Mao, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc ra quyết định trong đó Mao được phong là nhà cách mạng vĩ đại đóng góp vào sự phát triển của Trung Hoa và giảm lỗi của Mao đi đáng kể. Trong cuốn sách này chứng minh ngược lại. Tác giả vững tin chứng minh rằng sự kết hợp quyền lực tuyệt đối với ý tưởng phiêu lưu chỉ đẻ ra tội ác vĩ đại. Không có một cuốn sách nào về tiểu sử người cầm lái vĩ đại lại tỷ mỷ và khách quan như hồi ký của Lý Chí Thỏa. Andrew Natan Giáo sư Đại học Tổng hợp Colombia Sơ lược tiểu sử tác giả Bác sĩ Lý Chí Thỏa (Li Zhisui), tốt nghiệp y khoa bác sĩ trường Đại Học Liên Hợp Tây –Trung, Thành Đô năm 1945, làm việc tại Sydney trước khi trở thành bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông 1954 cho đến khi Mao qua đời. Từ năm 1980 đến 1988, trước khi định cư tại Hoa-Kỳ, bác sĩ Lý giữ chức vụ Phó chủ tịch Hội Y học Trung Hoa, Chủ tịch Hội Người Cao Tuổi Trung Quốc, Tổng biên tập tạp chí Y học và Tự nhiên Trung Quốc, Ban biên tập Tạp chí Hội y học Hoa Kỳ. Bác sĩ Lý sống ở Chicago từ năm 1988 cho đến khi tạ thế 1995. Vài dòng tâm sự Năm 1960, tạp chí Thanh Niên Trung Quốc liên hệ với tôi qua Điền Gia Anh, một thành viên trong tổ thư ký của Mao, Điền hỏi tôi có muốn tham gia viết bài cho tạp chí không. Điền là “hàng xóm” của tôi ở Trung Nam Hải, giúp tôi thói quen viết nhật ký và gửi bài tới các tạp chí. Thực ra Điền đã từng đọc bài của tôi, chính vì lẽ đó anh ta gợi ý tôi tập hợp những bài đã viết cho xuất bản. Tôi bắt đầu viết nhật ký từ năm 1954, khi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao, vì đó là đam mê. Chính điều này đã giúp tôi ghi lại những kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Ban đầu, tôi chỉ ghi tóm tắt những vấn đề quan trọng, nhưng dần dà tôi ghi cả những gì tôi chứng kiến, quan sát được. Nhưng chưa bao giờ có ý định xuất bản thành sách và tôi từng từ chối lời đề nghị của một số tạp chí. Vào giữa năm 1966, khi đám Hồng vệ binh bắt đầu đi lục soát nhà các lãnh tụ đối kháng thì sổ nhật ký ghi chép đã hơn 40 cuốn. Lúc ấy, tôi sống trong khu tập thể Quảng Xương của Bắc Kinh, cùng với 3 thứ trưởng Bộ y tế. Các ông là nạn nhân của cuộc Cách mạng văn hoá, thường xuyên bị nhóm Hồng Vệ binh kiểm soát, khu chung cư cũng không thoát khỏi phiền nhiễu của đán thanh niên nổi loạn đó. Đã nhiều lần, Hồng vệ binh lục soát nhầm nhà vào cả khu chúng tôi. Nhà tôi, Lý Liên rất lo, bảo tôi cẩn thận, vô tình bọn chúng tìm thấy tập nhật ký trong đó ghi chép nhiều chuyện riêng tư về Mao sẽ bị rắc rối liên luỵ lớn. Không thể tìm nơi cất giấu an toàn, chúng tôi đành phải tìm cách đốt dù rất đau xót. Nhưng cũng không thể huỷ nó tại nhà, vì có thể hàng xóm sinh nghi tôi thủ tiêu những tài liệu bí mật ghi chép phản động. Ngay lập tức, tôi nhớ ở Trung Nam Hải có lò huỷ tài liệu và những bức thư của Mao và Giang Thanh không cần lưu trữ. Tôi đem ngay các cuốn nhật ký ném vào lò thiêu. Còn hơn chục cuốn chưa kịp đốt, Uông Đông Hưng, chủ nhiệm Cục bảo vệ Trung ương gọi điện cho tôi, lên gặp ông khẩn cấp. Ông bảo, người đầu bếp của Giang Thanh báo cáo nhìn thấy tôi vứt tài liệu vào lò đốt rác. Tôi vội quả quyết đấy là ghi chép cá nhân, không phải tài liệu quốc gia. Ông ta hỏi, ghi chép ấy có gì mà phải thủ tiêu. Tôi bảo, những ghi chép hoạt động thường ngày của Mao chủ tịch, nếu không huỷ tôi có thể bị nguy hiểm. Uông bảo, thủ tiêu nó là tự rước vạ vào thân, chẳng may tên đầu bếp mách Giang Thanh, anh còn gặp thảm hoạ hơn nhiều. Tôi đã đốt gần hết số sách ghi chép quan trọng, những cuốn còn lại nội dung không có gì, tôi quay lại và ném nốt vào lò thiêu. Hôm sau, Uông Đông Hưng la tôi: - Tôi đã bảo anh không được đốt nữa thế mà anh vẫn tiếp tục. Đầu bếp của Mao chủ tịch vừa báo cáo với tôi xong. Chuyện này người khác biết anh sẽ gặp đại hoạ. Thôi chấm dứt ngay, nếu còn tiếp tục tôi sẽ ra lệnh bắt anh. Tôi báo cáo chẳng còn gì để huỷ cả, việc đã xong. Đó là những cuốn nhật ký tôi đã ghi chép hơn chục năm. Trong suốt thời kỳ Cách mạng văn hoá, thường xuyên sống trong lo sợ, tôi không dám ghi nhật ký. Năm 1976, sau khi Mao qua đời, Giang Thanh và bè lũ bốn tên bị bắt, Lý Liên tỏ ra luyến tiếc, than thở với tôi: - Thật hoài của, giá như chúng mình đừng đốt, chắc gì đã có gì xảy ra. Đốt đi chả được tích sự gì. Vợ tôi thúc tôi tiếp tục ghi lại những chuyện gì đã xảy ra trong những năm gần đây. Một hôm, vào mùa hè 1977, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đến Bệnh viện 305, tôi làm giám đốc, kiểm tra sức khỏe định kỳ, ông hỏi: - Anh làm việc với Mao chủ tịch hai mươi hai năm, một thời gian quá dài. Anh hãy viết tự truyện của anh đi, đây cũng là một phần của nhân chứng lịch sử đấy. Ông hứa, nếu sách tôi xuất bản, ông sẽ viết lời giới thiệu. Tiếp theo hàng loạt các tờ báo và tạp chí yêu cầu tôi viết và gửi bài. Tôi từ chối như đã từng làm, tôi biết cái gì đã xảy ra nếu tôi viết tất cả sự thật, phơi bầy tất cả những gì tôi chứng kiến, họ sẽ buộc tội tôi kẻ hữu khuynh, trí thức tư sản. Tất nhiên tôi không thể nào viết sai sự thật, cũng chẳng muốn ca ngợi sự độc quyền và phủi tay trước những hành động tội ác man rợ mà tôi làm nhân chứng. Cũng tất nhiên tôi chẳng muốn những ký ức sau 22 năm với Mao bị phai mờ theo năm tháng và tuổi tác, tôi quyết định viết lại những chuyện đã xảy ra trong đời. Năm 1977 tôi bắt đầu viết, không thường xuyên, nhưng cũng đến vài chục cuốn vở viết. Ngôn từ của Mao thật phong phú, sinh động khắc sâu trong nếp nghĩ tôi. Tôi cố hồi tưởng lại những gì Mao đã từng phát biểu. Sự sống còn của tôi và gia đình tuỳ thuộc vào việc làm của Mao, tôi chẳng bao giờ quên. Tôi chẳng bao giờ hy vọng cuốn sách sẽ được xuất bản, vì tôi biết không có nhà xuất bản nào dám in. Tôi chả dại gì mang vạ vào thân khi tự mình xuất bản. Tôi viết chẳng qua để hồi tưởng những ngày đã qua, tôi và Lý Liên đã từng trải nghiệm. Tháng Hai 1988, Lý Liên bị phát hiện chứng viêm thận mạn tính, phải vào viện tháng 5, đến tháng Bẩy tình trạng càng xấu. Hai thằng con trai, John và Erchong cùng vợ con nó đang định cư ở Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1980 yêu cầu tôi khẩn cấp đưa Lý Liên sang Mỹ điều trị. Tháng Tám, tôi, Lý Liên và đứa cháu gái, Lý Linh, sang Chicago. Trong thời gian Lý Liên chữa bệnh, tôi ở bên lo liệu chăm sóc món ăn kiêng và thuốc thang. Cũng trong thời gian này, Lý Liên thúc giục tôi viết từ những gì ghi chép trong nhật ký, nhưng tôi không thể làm được vì chẳng còn tâm trí. Đến tháng Mười hai, Lý Liên bị cảm, tình trạng sức khỏe càng tồi tệ. Tôi đưa Lý Liên vào viện, làm tất cả những gì có thể nhưng nhà tôi không qua được, vĩnh biệt ngày 12-1-1989. Trước khi hôn mê, nhà tôi nhắc đi nhắc lại cố gắng viết kể lại những chuyện xảy ra trong 40 năm qua. Nhà tôi nhấn mạnh: - Mình phải viết, không những cho mình mà còn vì tôi, vì hậu thế vì đứa cháu đích tôn sắp ra đời. Xin lỗi mình, tôi không thể giúp gì mình hơn được nữa. Tháng Ba 1989, tôi lục chồng vở nhật ký trong đáy hòm và bắt tay viết, hy vọng cuốn sách được xuất bản để tạ lòng với Lý Liên. Tôi hy vọng đọc những trang hồi ký này mọi người sẽ hiểu sự thật cuộc đời Mao Trạch Đông người ta đang truyền tụng. Nếu như đọc cuốn sách này, độc giả hiểu được sự thật, yêu tự do hơn như trong hiện tại, cũng là điều tôi và Lý Liên đã từng mong mỏi và yêu quý nhất trong đời. Năm 1949, sau hơn 20 năm chiến tranh đẫm máu, Đảng cộng sản cuối cùng đã đánh thắng Quốc dân đảng, dựng lên nước CHND Trung Hoa. Năm 1948, tôi là bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Á-Úc Châu ở Sydney cho đến hè 1949. Hè năm ấy tôi nhận được thư của thứ trưởng Bộ Y tế trong Ban Đối ngoại của Quân uỷ trung ương đảng cộng sản qua anh cả tôi, mời tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tôi nhận lời, đến Hương Cảng gặp vợ tôi, Lý Liên, cả hai cùng trở về Bắc Kinh, thành phố quê hương. Lúc ấy tôi 29 tuổi đời. Vị thứ trưởng phân công tôi làm việc ở khu điều trị Đồi Hương, phía tây ngoại ô Bắc Kinh, một khu điều trị trực thuộc Văn phòng Trung ương đảng cộng sản. Sau này chuyển sang khu điều trị Trung Nam Hải, tổng hành dinh Trung ương đảng. Tôi chăm chỉ cần cù trong công tác, chiếm được cảm tình hầu hết các lãnh đạo cao cấp. Năm 1952, trong Bộ tổng nhất trí bầu tôi cán bộ loại A, cũng năm ấy, tôi tham gia chính phủ của đảng cộng sản Trung Quốc, được chỉ định là Viện trưởng khu điều trị Trung Nam Hải, giám đốc Văn phòng Y tế, phó tổng giám đốc Uỷ ban Ytế thuộc Bộ YTế công cộng kiêm chủ tịch Bệnh viện 305 của Giải phóng quân. Năm 1954, tôi được Uông Đông Hưng, giám đốc Cục bảo vệ trung ương với sự đồng thuận của Trương Xuân Kiều, giám đốc Văn phòng trung ương và La Thuỵ Khanh Cục trưởng Cục bảo vệ nội bộ và được thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, tôi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông sau đó làm trưởng ban bảo vệ sức khỏe cho chủ tịch. Từ đó cho đến khi Mao chủ tịch qua đời năm 1976, trong suốt 22 năm chịu trách nhiệm chăm nom sức khỏe Mao, tôi là người gần gũi Mao nhất ở Bắc Kinh hay bất cứ Mao đi công tác nơi nào. Khi bắt tay vào việc chăm nom sức khỏe cho Mao, điều làm tôi ngạc nhiên nhất, lối sống kỳ lạ khác hẳn bất cứ người bình thường nào. Mao không theo bất cứ một quy tắc nào trong lối sống từ bữa ăn đến giấc ngủ. Với ông, không phân biệt ngày hay đêm trong khoảng 24 giờ trong một ngày có chăng chỉ thoáng qua. Hoạt động thường ngày hay trước công chúng kể cả những cuộc họp, gặp gỡ đoàn ngoại giao nước ngoài, ông có những cuộc hẹn rất lạ theo sở thích riêng của ông. Mao ưa lối làm việc theo tính cách cá nhân khuấy động phong trào nhưng không hề báo trước, ngay cả những người kế cận cũng không đoán nổi ông sẽ yêu cầu làm gì tiếp theo. Trong khi đó đảng cộng sản Trung Quốc có quyền lực rất lớn và rất bí mật. Mao từng chỉ thị “Đừng có bép xép những chuyện trong cơ quan”. Kết quả, đời thực của ông chìm trong màn sương dầy đặc, ông như một người bí hiểm và uy quyền tuyệt đối. Mãi đến năm 1959 tôi mới ngưỡng mộ Mao, mặc dù là bác sĩ riêng thường xuyên bên Mao nhưng có một điều bí ẩn huyền bí như một bức tường kiên cố như ngăn cách hai người. Tôi không thể nào hiểu được đời sống thực tại của Mao. Sau năm 1959 tôi mới được phép vượt qua bức rào ngăn cách và chứng kiến bộ mặt thật của Mao trong cuộc sống hàng ngày. Giống như một kịch sĩ, khi lên sân khấu được hoá trang công phu tỉ mỉ khác hẳn khuôn mặt của đời thường. Đầu thập niên 1950, Mao ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh tương trợ Xô-Trung ủng hộ chiến lược ngoại giao “Liên minh một phái”, làm cho mọi người nhầm tưởng mối quan hệ thật gắn bó với Liên Xô. Nhưng chẳng ai hiểu nguyên nhân sâu xa từ những năm 1930 Mao đã từng bất đồng quan điểm với Stalin và Đảng cộng sản Liên Xô, kiểu “xanh vỏ đỏ lòng”, như hoa turnip “nhị trắng hoa đỏ” mà thôi. Trong lần đầu tiên thay mặt chính phủ, Mao sang thăm hữu nghị Liên Xô vào mùa đông 1949-50, đã bị Stalin đón tiếp thật lạnh nhạt, ở lại đến 2 tháng trời ròng rã, chẳng đạt được một kết quả nào đáng kể. Chỉ sau khi Mao tuyên bố ra về Stalin mới chịu ký hiệp ước hữu nghị. Mao hiểu Nga là đối thủ nguy hiểm nhất của Trung Hoa, nhưng không nói ra mà thôi. Phải đến đầu thập niên 1960, sự rạn vỡ quan hệ Trung-Xô người ta mới hiểu một cách rõ ràng. Trong những năm 1930, đi theo đại bản doanh của đảng cộng sản ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây, phóng viên Edgar Snow và đồng nghiệp Hoa Kỳ đã đưa tin về sự kiện phi thường về đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng từ đó Mao rất coi trọng, thiện cảm với chính phủ Mỹ nhất là với nhân dân Hoa Kỳ. Từ thập niên 1950 dù chủ trương đường lối “dựa vào Liên Xô”, thanh niên đua nhau học tiếng Nga, nhưng Mao lại không, không những thế ông lại học tiếng Anh. Mao nhiều lần tự hỏi “Lời nói không đi đôi với hành động”. Trong số cán bộ quanh Mao, làm tham gia những công việc tối mật, hầu hết những trí thức đó kể cả tôi đều được đào tạo trong các trường Anh-Mỹ. Mao không cho phép tuyển những trí thức, hay bất cứ cá nhân nào đào tạo tại Liên Xô làm việc cho ông. Chiến tranh Triều Tiên và Việt nam đã đẩy Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuộc đối đầu. Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến chiến tranh là do Hoa Kỳ chưa hiểu rõ bản chất đích thực của Mao đối với Mỹ vì thế những người lãnh đạo Hoa Kỳ đã coi chính quyền cộng sản Trung Quốc là kẻ thù địch. Ngay từ cuối thập niên 1960 Mao đã làm hết sức mình để quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện cho đến khi Mao qua đời. Mao tuy coi Tưởng Giới Thạch là kẻ thù nhưng vẫn đánh giá Tưởng là người yêu nước, người có công trong mối bang giao với Hoa Kỳ. Mao từng nói: “Tưởng giới Thạch và tôi đều chỉ công nhận một nước Trung Hoa, cả hai chúng tôi đều có ý kiến chung về một nước Trung Hoa thống nhất”. Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực lãnh đạo trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương đảng đầy phức tạp, khó hiểu. Từ “phong trào chống tả khuynh” năm 1957, người ta gọi là “ cuộc khủng hoàng nhóm Bành Đức Hoài chống đảng” thành chiến dịch từ 1959 đến Cách mạng văn hoá 1966, hầu các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo bị xáo trộn do rất nhiều nguyên nhân. Trong thực tế dù sự thay đổi gì chăng nữa Mao vẫn cố tình nắm chặt quy tắc cơ bản, giữ quyền lãnh đạo tối cao. Như trong chiến dịch chống Stalin và tệ sùng bái cá nhân do Khrushchev và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô năm 1959 đã đe dọa chính vị trí và quyền lực tối cao của Mao trong đảng cộng sản Trung Quốc. Mao đã có hàng loạt động thái để bảo tồn quyền lực tối thượng của ông. Như Uông Đông Hưng nói: ” Mao tán thành chống tệ sùng bái và chuyên quyền trong đảng, nhưng với ông thì không”. Về đời tư của Mao thật kinh khủng. Giữa công chúng, Mao xuất hiện như một lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân, thân thiện, cởi mở chiếm được cảm tình tối đa của quần chúng đối với một lãnh tụ có tuổi kính mến. Nhưng cuộc đời thực Mao là kẻ háu gái. Càng về già Mao càng thể hiện sự dâm dục háo sắc đến kinh khủng gây biết bao chuyện động trời, không ai có thể đếm xuể số các thiếu nữ phải ăn nằm với Mao. Uông Đông Hưng từng nhận xét: “Có lẽ Mao nghĩ sắp đến ngày gần đất xa trời nên cố chiếm được bao nhiêu các cô gái thì cố, cho nên Mao mới ham muốn đến như vậy”. Giang Thanh, vợ Mao, từng nói về chồng: “Giải quyết mọi khó khăn, khủng hoảng chính trị, không có một lãnh tụ Trung Hoa hay Xô viết hơn Mao. Trong lĩnh vực tình dục cũng không ai bằng Mao”. Tôi không viết tiểu sử Mao Trạch Đông, tôi chỉ ghi lại những sự việc bản thân đã thấy, đã nghe, đã biết trong 22 năm gần Mao với tư cách là bác sĩ riêng chăm nom sức khỏe cho ông. Cuốn sách này để tưởng nhớ Lý Liên, người vợ thân yêu đã đồng cam cộng khổ với tôi trong những năm tháng dưới thời Mao. Không có sự động viên, khuyến khích của Lý Liên tôi không thể hoàn thành cuốn sách này. Li Zhisui Phần I: CÁI CHẾT CỦA MAO Chương 1 Chủ tịch gọi tôi phải không ạ? Mao cố gắng mở mắt và mấp máy đôi môi, nhưng không nổi. Chiếc mặt nạ truyền oxygen trượt khỏi mặt, ông lại bị ngạt. Tôi ghé sát ông, nhưng chỉ có thể nghe thấy: “A…a…a…”. Ông vẫn tỉnh, nhưng hầu như không thể nói được gì nữa. Trong những năm ấy, tôi, bác sĩ riêng của lãnh tụ, phụ trách mười sáu bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc với hai mươi bốn y tá dày dạn kinh nghiệm. Chúng tôi được trao nhiệm vụ cứu sống Mao. Trong hơn hai tháng, kể từ ngày 26-6-1976 Mao bị nhồi máu cơ tim lần thứ hai, từ lúc ấy chúng tôi không rời Mao nửa bước. Quanh giường ông, luôn luôn có ba bác sĩ và tám y tá túc trực ngày đêm. Chưa kể hai bác sĩ tim mạch theo dõi cẩn thận điện tim ông từng phút. Đội ngũ bác sĩ thay phiên nhau trực 24/24, mỗi ca trực 8 tiếng, tuy vậy tôi thường xuyên vẫn phải có mặt. Phòng làm việc của tôi là buồng xép chật chội, cạnh phòng điều trị của Chủ tịch, tôi ngủ không quá ba, bốn tiếng một ngày. Nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không biết gì về tình trạng ốm đau của lãnh tụ kính yêu của mình. Tuy nhiên các ảnh trên mặt báo, thường hiếm khi in những tấm ảnh các cuộc gặp của Mao với những người lãnh đạo nước ngoài. Dù rằng báo chí Trung Quốc loan tải khắp thế giới về sức khỏe tốt của Mao, trong tấm ảnh chụp với thủ tướng Lào, Kaysone Phoumivan vào tháng 5-1976 Chủ tịch trông lờ đờ như một cụ già mệt mỏi. Tuy thế, sang ngày 8-9-1976 hàng trăm triệu nhân dân xuống đường tuần hành hô vang khẩu hiệu “Mao chủ tịch muôn năm”. Tuy nhiên, đối với những người trải qua những đêm trong phòng bệnh của ông, hiểu rằng Mao Trạch Đông chỉ còn sống một vài giờ thậm chí vài phút thôi. Mao đột quỵ từ tháng Sáu, nhiều uỷ viên bộ chính trị thường xuyên có mặt. Họ túc trực từng cặp ứng theo cấp bậc, vị trí chính trị và được thay đổi 12 giờ một lần. Trong số những người này có ông phó của Mao – người thuộc phái ôn hoà Hoa Quốc Phong, phái cực đoan Vương Hồng Văn, ngoài ra còn có cả các Uỷ viên Bộ chính trị – phái ôn hoà Uông Đông Hưng và phái cực đoan Trương Xuân Kiều. Hoa Quốc Phong chịu trách nhiệm mọi hoạt động cấp cứu Chủ tịch. Ông thành kính tôn sùng Mao, thường xuyên hỏi han sức khỏe. Lắng nghe báo cáo của các bác sĩ, ông tin người ta đã làm tất cả những gì có thể để kéo dài cuộc sống của lãnh tụ. Khi chúng tôi đề nghị hồi sức nhân tạo cho chủ tịch bằng các phương pháp mới đôi khi gây đau đớn như cho ống xông qua đường mũi bơm thức ăn vào dạ dày, Hoa Quốc Phong là người duy nhất muốn thử ngay phương pháp này lên chính ông ta. Tôi rất quý Hoa Quốc Phong. Tính liêm khiết, sự thẳng thắn quả là hiếm hoi trong số những người lãnh đạo đảng dính líu đến tham nhũng, thối nát. Lần đầu tiên tôi gặp Hoa Quốc Phong vào năm 1959, trong thời kỳ Đại nhảy vọt. Khi đó tôi cùng với Mao về quê hương ông ở Thiếu Sơn tỉnh Hồ Nam. Hoa Quốc Phong khi ấy là bí thư đảng ở Tương Đàm. Sau hai năm, chính sách Đại nhảy vọt đã đẩy đất nước vào khủng hoảng kinh tế, tuy vậy chính quyền địa phương vẫn tiếp tục vẫn báo cáo lên về sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp và chỉ có Hoa Quốc Phong duy nhất dám dũng cảm công khai nói rằng không những chỉ sức người và gia súc mà cả đất đai cũng bị kiệt cạn, tất cả các báo cáo về tăng trưởng sản xuất là sự nói dối trắng trợn. - Không một ai, ngoài Hoa Quốc Phong, nói cho tôi tất cả sự thật – Mao nhận xét như thế. Hoa Quốc Phong trở thành người thay thế Mao vào tháng 4-1976, khi ông chiến thắng trong cuộc đấu đá giành quyền lực các phe cánh khi họ biết Mao sắp qua đời. Tháng giêng 1976, Mao bổ nhiệm Hoa Quốc Phong chức vụ quyền thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thay cho Chu Ân Lai đã qua đời, giải quyết mọi công việc chính phủ. Đầu tháng tư, hàng trăm nghìn người Bắc Kinh đã tụ họp nhau trên quảng trường Thiên An Môn tưởng nhớ vị thủ tướng vừa mất Chu Ân Lai và bày tỏ sự phẫn nộ của mình bởi những hoạt động của Giang Thanh cùng nhóm chiến hữu Thượng Hải của bà là Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn. Cuộc biểu tình đã bị chính quyền buộc tội “phản cách mạng”. Để làm vừa lòng những nhà cách mạng vây quanh vợ mình, Mao buộc tội bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trước quần chúng. Mao luôn luôn có xu hướng cân bằng lực lượng tả khuynh và hữu khuynh, trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp bằng cách bổ nhiệm người trợ lý của mình là Hoa Quốc Phong. Như vậy, Hoa Quốc Phong không những trở thành người đứng đầu chính phủ, còn là người thừa kế Mao ở vị trí người đứng đầu đảng cộng sản Trung Quốc. Tôi vui mừng vì điều này, xem quyết định của Chủ tịch rất khôn ngoan. Thậm chí bản thân Giang Thanh cũng tán thành quyết định, nói, cuối cùng lãnh tụ hành động sáng suốt. Tuy nhiên những người cực đoan buộc tội Hoa Quốc Phong là “hữu khuynh”. Do vẫn bị công kích, ngày 30 tháng 4 năm 1976 Hoa Quốc Phong nói với Mao rằng ông không thể giữ nổi vị trí vì sự đả kích thường xuyên và nhục mạ từ nhóm Giang Thanh. Sau cuộc hội đàm với Chủ tịch, Hoa Quốc Phong cho tôi xem một số văn bản. Lúc ấy Mao nói năng rất khó khăn, phải nhờ người khác viết hộ. Mao viết cho Hoa Quốc Phong như sau: “Khi đồng chí ở chính quyền, tôi yên tâm. Hãy hành động với nhiệm vụ được giao. Phải tự tin và đừng lo ngại”. Sau khi Mao qua đời, với bằng chứng giấy trắng mực đen, tài liệu trên mở đường cho Hoa Quốc Phong trở thành người thừa kế. Sau nửa đêm 8-9-1976, các bác sĩ lại cố gắng kích thích hoạt động tim của Mao. Do tiêm vào người Mao một chế phẩm từ nhân sâm, vì vậy huyết áp nâng lên từ 86/66 lên 104/72 gần như tới mức bình thường và mạch đập ổn định chút ít, tuy nhiên tôi hiểu, huyết áp tăng giả tạo, không kéo dài lâu được. Sau khi tiêm, Hoa Quốc Phong kéo tôi lại bên thì thầm, không muốn Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng, hai uỷ viên bộ chính trị đứng gần đấy nghe thấy: - Bác sĩ Lý, liệu chúng ta có thể làm một cái gì đó khác được không? Tôi không nói gì cả, bản thân thủ tướng hiểu, đó là chấm hết. Tôi không thể dũng cảm nói từ “chết”. Phòng bệnh lặng như tờ. Tôi ngước mắt nhìn Hoa Quốc Phong. Không gian câm lặng, chỉ nghe thấy tiếng máy hô hấp nhân tạo phát ra tiếng động đều đều theo nhịp thở. Tôi lắc đầu, thì thầm lo lắng: - Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được. Hoa Quốc Phong quay sang người đứng cạnh, Uông Đông Hưng, trưởng ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, cựu trưởng ban bảo vệ Mao, nói: - Mời đồng chí Giang Thanh và các Uỷ viên Bộ Chính trị ở Bắc Kinh cấp tốc lại đây, đồng thời thông báo cho các Uỷ viên Bộ Chính trị toàn quốc phải về ngay thủ đô họp. Uông Đông Hưng gặp Mao lần đầu tiên ở Diên An và từng hàng chục năm phụ trách an ninh, một trong số người thân cận, gần gũi nhất của chủ tịch. Sau khi Uông Đông Hưng đi khỏi, cô y tá chạy đến tôi, nói Trương Ngọc Phượng thông báo ý muốn của Chủ tịch muốn gặp tôi. Trương Ngọc Phượng trước đây là người phục vụ trên đoàn tàu hoả đặc biệt dành cho Mao đi thăm trong nước, bây giờ cô ấy vừa là thư ký riêng, vừa là bạn gái tin cẩn của ông. Lần đầu tiên tháp tùng Mao, tôi thấy cô ta ở Trương Sa trong buổi dạ hội do Mao tổ chức. Trương Ngọc Phượng lúc ấy, một cô gái mười tám tuổi, có đôi mắt to ngây thơ, làn da trắng nõn. Cô đã mời Mao nhảy sau đó Mao đưa cô về phòng mình, họ qua đêm ở đó. Quan hệ tình cảm của họ một thời bàn tán ồn ào, tuy nhiên bên Mao còn có nhiều cô gái khác. Thậm chí giờ đây vẫn còn hai cô vũ nữ trẻ đang làm y tá phục vụ xoa bóp cho Mao không chính thức. Nhưng Trương Ngọc Phượng ở gần Mao lâu hơn các cô khác, mặc dù có những cử chỉ vụng về và thói thích rượu, nhưng cô vẫn giữ được sự ưu ái của lãnh tụ. Năm 1974, sau khi thư ký của Mao, Tô Dạ Phú mắc bệnh ung thư phải nằm viện, Trương Ngọc Phượng thay vào đó. Cô ta xử lý các thư tín hàng ngày gửi đến Chủ tịch, sau này khi thị lực Mao giảm đi, cô đọc cho ông một khối lượng lớn tài liệu, viết tốc ký lời bình và chỉ thị. Cuối năm ấy, Uông Đông Hưng chính thức tin tưởng giao Trương Ngọc Phượng giữ cương vị thư ký riêng của Mao. Với tư cách bác sĩ riêng, tôi có thể rẽ vào phòng Mao bất kỳ lúc nào, còn tất cả mọi người phải được phép của Trương Ngọc Phượng. Sau năm 1974 ngay cả Giang Thanh, vợ Chủ tịch và các uỷ viên Bộ chính trị muốn vào phòng của lãnh tụ cũng phải có sự đồng ý của Trương Ngọc Phượng, buộc phải chịu đựng tính khinh khỉnh của cô. Một hôm vào tháng 6-1976, Hoa Quốc Phong đến, muốn gặp Mao, nhưng Trương Ngọc Phượng đang nghỉ trưa, ấy thế ông cũng không dám đánh thức cô ta. Hai giờ đồng hồ trôi qua, Trương Ngọc Phượng cũng chưa đến làm việc, vì thế thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, vị tư lệnh chỉ đứng sau chức của Chủ tịch đành phải ra về, không được hội kiến. Vào đầu năm ấy, Đặng Tiểu Bình ốm, cộng thêm sự công kích của phe đối lập, làm gia đình ông xẻ đàn tan nghé. Đặng Dung, con gái út của Đặng Tiểu Bình viết cho Mao bức thư cầu khẩn lãnh tụ cho phép cô được sống với bố, lá thư ấy Trương Ngọc Phượng không chuyển cho Mao, cô con gái bất hạnh ấy không nhận được quyết định cho phép quay về sống với bố. Trong những năm cuối đời, chỉ có Trương Ngọc Phượng mới nghe và hiểu được lời nói lủng củng, đầy mâu thuẫn của ông, thậm chí cô ta còn phiên dịch lời của Chủ tịch cho tôi. Khi tôi lại gần giường của vị lãnh tụ sắp qua đời, Trương Ngọc Phượng hỏi: - Bác sĩ Lý, liệu Chủ tịch còn hy vọng nào không? Một cách khó khăn Mao khẽ gật đầu, từ từ chìa tay phải nắm tay tôi. Tay của ông yếu lắm, mạch đập khó bắt, cằm xệ xuống, da đã xạm dần. Cái nhìn của ông không còn có sức sống, chỉ còn lại sự mệt mỏi của người sắp chết. Đường ghi điện tim gần như phẳng. Mao được thu xếp đưa vào buồng này trong toà nhà 202 ở Trung Nam Hải sáu tuần trước đó, 28 tháng sáu 1976. Trong những ngày ấy ở phía đông Trung Quốc có trận động đất lớn phá huỷ hoàn toàn thành phố Đường Sơn, cách Bắc Kinh khoảng 100 dặm, làm chết hơn 250 nghìn người. Chính ngay tại thủ đô, nạn nhân tuy không nhiều, nhưng nhà cửa cũng bị phá huỷ đáng kể, mọi người lo sợ những trận động đất kế tiếp nên hàng triệu người đã phải tự dựng lều sống trên đường phố. Nơi Mao nằm điều trị ngay sát phòng làm việc và bể bơi, từ thời Cách mạng văn hoá, trong dinh thự cũng bị đổ vỡ nhiều vì thế chúng tôi buộc phải chuyển ông vào chỗ an toàn hơn. Khu dinh thự 202 là lựa chọn duy nhất, nơi lãnh tụ nằm, nối liền với toà nhà chính bằng một hành lang. Dinh thự được xây cất đặc biệt cho Mao vào năm 1974, có thể chịu được động đất mạnh. Buổi chiều hôm chuyển đi, có một trận chấn động mạnh trong khi trời mưa tầm tã, ấy thế ở dinh thự 202 không thấy dư chấn. Bầu trời dường như sắp sập xuống, nhưng tôi chẳng để ý – chúng tôi cần phải tập trung, giành giựt cuộc sống Mao chủ tịch. Hoa Quốc Phong, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Uông Đông Hưng đến sát giường lãnh tụ. Sau tấm bình phong tôi nghe thấy cả từng bước chân nhẹ nhàng bước vào. Phòng đầy người, tổ trực đêm của bác sĩ và y tá đang chuẩn bị thay ca. Tôi kiểm tra mạch, đứng sau tôi, bốn uỷ viên Bộ Chính trị. Bất ngờ Giang Thanh giận dữ bước vào phòng, gào lên: - Ai là người sẽ nói cho tôi biết cái gì đang xảy ra ở đây? Giang Thanh, người vợ thứ tư của Mao, nếu tính cả lần ông tảo hôn do ép buộc của gia đình mà ông từ chối. Mao cưới Giang Thanh ở Diên An năm 1938. Người ta kể cho tôi rằng, khi đó bà ta còn có mối quan hệ thân thiết với người đàn ông khác cũng ở Diên An. Nhưng sau 1949, vai trò thụ động của vợ lãnh tụ vĩ đại làm Giang Thanh buồn bực, bà hay cáu kỉnh, đòi hỏi quá nhiều. Chỉ trong những năm Cách mạng văn hoá bà mới được xuất hiện và thành Uỷ viên Bộ Chính trị, bà tàn nhẫn với tất cả những ai ngăn cản con đường danh vọng. Hai người sống ly thân trong nhiều năm, tuy nhiên Mao không có ý định ly dị Giang Thanh, nếu làm thế, ông không tránh khỏi phải cưới một trong số người tình, điều ông không muốn. Trong những năm Cách mạng văn hoá, Giang Thanh chuyển đến ở một biệt thự lớn ở Điếu Ngọc Thái, nhà khách của chính phủ, nơi khách cao cấp nước ngoài nghỉ chân. Sau cơn đau tim của Mao, Giang Thanh trở lại Trung Nam Hải, sống trong dinh Xuân-Sen. Bà không dễ dàng chấp nhận ảnh hưởng của Trương Ngọc Phượng đối với Mao, nhưng cuối cùng đành chịu vì biết lợi dụng người phiên dịch phục vụ cho ông chồng ốm đau của mình. Căn bệnh nặng, sự sắp qua đời của Mao là cú đòn nặng với Giang Thanh. Bà lo quyền lực của bà sẽ biến theo gót chân ông và cũng trong thời gian ấy trong tâm khảm bà nuôi niềm hy vọng thay chỗ chồng. Hoa Quốc Phong cố an ủi: - Đồng chí Giang Thanh – Hoa lịch sự nói – Chủ tịch đang nói chuyện với bác sĩ Lý. Tôi an ủi, động viên Mao, mặc dù trạng thái của ông thật vô vọng. Ông bắt đầu xuống sức nhiều năm qua. Từ tháng Chín 1971, chấn động bởi sự phản bội của Lâm Bưu, một người bạn cũ, một người phó duy nhất, người kế thừa sự nghiệp, bạn chiến đấu sát cánh đã trở mặt lật đổ Mao. Âm mưu đảo chính bất thành, Lâm Bưu cùng vợ và con trai quyết định bay sang Liên Xô. Tuy nhiên máy bay hết nhiên liệu, rớt tại Under Khan, vùng ngoại Mông. Tổ lái và gia đình Lâm Bưu đã chết. Sự việc tác động mạnh đến Mao. Ông bị suy sụp, chán nản, các cơn mất ngủ giày vò dẫn ông đến bệnh tật. Cuộc viếng thăm lịch sử của tổng thống Hoa Kỳ đến Trung Quốc, Richard Nixon, vào tháng Hai 1972. Dù bệnh nặng Mao liên tục từ chối bác sĩ chăm sóc, chỉ ba tuần lễ trước khi tổng thống Mỹ tới, Chủ tịch cuối cùng mới chịu chữa bệnh. Thể trạng của ông xấu trầm trọng không có khả năng hồi phục hoàn toàn. Khi Nixon đến. Mao yếu lắm, nói năng rất khó. Bệnh viêm phổi của Mao chưa hồi phục, lại kèm thêm bệnh tim mạch. Nhưng Mao tự cho rằng đủ sức khỏe tiếp khách. Để tiếp Richard Nixon tại dinh, Mao cần tôi. Tôi đón tổng thống Nixon trước dinh thự của Mao, đưa tổng thống vào phòng làm việc, qua phòng nghỉ, qua hành lang sát phòng khách, tôi đứng sau cánh cửa phòng tiếp khách nghe rõ cuộc trò chuyện giữa hai người, đồng thời chuẩn bị bất kỳ lúc nào có tín hiệu sẽ thuốc thang ngay cho lãnh tụ. Cơ thể ở ông già 83 tuổi đã xuất hiện nhiều bệnh. Nhiều năm nghiện thuốc lá phá hỏng hai lá phổi. Lại còn thường xuyên bị bệnh viêm phế quản, viêm phổi dày vò. Các lá phổi bị xơ cứng mất tính đàn hồi, Mao thở khó khăn và ho nhiều. Phổi trái thực tế không làm việc, nên để dễ thở và nói bình thường Mao chỉ có thể nằm nghiêng sang trái. Tôi thường phải sử dụng mặt lạ oxygen, còn trong trường hợp nặng dùng máy hô hấp nhân tạo của Mỹ do Henry Kissinger gửi sang sau chuyến thăm bí mật Trung Hoa năm 1971. Nhiều chuyên gia y tế nước ngoài cho rằng Mao mắc chứng bệnh Parkingson. Tuy nhiên năm 1974 các bác sĩ Trung Quốc phát hiện ra chẩn đoán sai, ông có căn bệnh nan y hiếm gặp, hoại tử tế bào thần kinh vận động trong vỏ não, làm liệt từng bộ phận cơ thể. Sự phát triển của bệnh làm ông mất khả năng nói và nuốt cho nên phải bơm thức ăn qua đường mũi. Trương lực cơ giảm, thở rất khó khăn. Cơ thể liên tiếp bị viêm nhiễm nhẹ. Do thiếu thuốc đặc hiệu, người bệnh sẽ chết một vài năm sau khi phát hiện. Bệnh tình của Mao phát triển như các chuyên gia dự đoán. Nhưng ở thời điểm nói trên căn bệnh quái ác này ảnh hưởng xấu tới tim. Cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên của Mao vào tháng 5-1976. Điều này xảy ra khi cãi nhau với Trương Ngọc Phượng. Cơn tiếp theo vào ngày 26 tháng sáu, cơn thứ ba – 2 tháng 9. Tất cả bác sĩ hiểu rằng cái chết rất gần nhưng để nói ra được điều này, đòi hỏi phải vô cùng dũng cảm. Tuy vậy, cơ thể của lãnh tụ vẫn chưa chịu đầu hàng. - Mọi thứ bình thường, thưa Chủ tịch – tôi nói, nắm tay ông – chúng tôi đang hết sức cố gắng. Trong khoảnh khắc, mắt Mao xuất hiện một tia hy vọng. Tôi thậm chí còn thấy má ông hơi hồng lên chút ít, rồi Mao thở hắt ra, mắt nhắm lại, bàn tay phải không còn sự sống nữa tuột khỏi tay tôi. Đường điện tim phẳng lỳ. Tôi liếc đồng hồ, lúc 0 giờ 10 phút. Bắt đầu một ngày mới – 9 tháng 9 năm 1976. Tôi không đau buồn khi ông qua đời. Hơn hai mươi năm tôi hàng ngày ở bên cạnh Mao, tháp tùng ông trong các chuyến đi, kiên trì giúp ông trong những hội nghị dài. Đối với Mao, tôi không những bác sĩ riêng còn là người tin cẩn. Ông tâm tình với tôi chuyện riêng tư, các điều bí mật chính trị. Tôi có thể còn gần gũi hơn cả Uông Đông Hưng, người bảo vệ tin cậy của ông. Trong những năm đầu, tôi ngưỡng mộ Mao. Ông đã cứu Trung Hoa khỏi ách đô hộ Nhật Bản, được coi như sứ giả của Trời. Nhưng trong những năm Cách mạng văn hoá ước mơ của tôi về nước Trung Hoa mới, về tự do, không bị đàn áp và công bằng đã tan thành mây khói. Tôi không tin vào lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, mặc dù tôi là đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc. Nhìn vào điện tâm đồ đang chạy một đường thẳng nhịp tim “Người cầm lái vĩ đại”, tôi cảm thấy kết thúc một kỷ nguyên và hiểu rằng ngôi sao của Mao đã tắt. Một ý nghĩ xâm nhập đầu tôi, tôi thấy kinh sợ. Cái gì đang chờ tôi? Một bác sĩ riêng của Mao, sống trong lo âu, sợ hãi từ nhiều năm. Nhìn vào xác lãnh tụ không còn linh hồn và bộ mặt những người đang đứng xung quanh, tôi hiểu, họ cũng đang tính toán số phận của mình. Cuộc sống ở Trung Nam Hải luôn luôn ẩn nấp sự nguy hiểm, giờ đây tôi bỗng thấy nó tiến gần đến. Giang Thanh nhìn xoáy vào tôi, nói vỗ mặt: - Các người đang làm cái gì thế? Anh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm! Lời buộc tội của Giang Thanh không làm tôi ngạc nhiên. Giang Thanh nổi tiếng mưu mô, tàn ác. Quan hệ giữa chúng tôi bắt đầu vẩn đục từ hai mươi năm trước, bốn năm gần đây càng xấu đi, năm 1972, thậm chí Giang còn buộc tội tôi là gián điệp. Hoa Quốc Phong xen vào, chậm chạp đi về phía bà, từ tốn nói: - Tất cả mọi việc diễn ra trước mắt chúng tôi. Các đồng chí bác sĩ đã làm tất cả mọi cái có thể. Vương Hồng Văn xác nhận lời thủ tướng: - Tất cả bốn chúng tôi không dời khỏi Mao chủ tịch nửa bước. Nói xong mặt ông đỏ dần lên. Vương Hồng Văn, người trẻ nhất trong số Uỷ viên Bộ Chính trị, đôi khi người ta gọi đùa là “tên lửa” do việc thăng tiến quá nhanh. Từ một nhân viên quèn bộ phận an ninh nhà máy ở Thượng Hải, ông leo đến đỉnh cao quyền lực chính trị. Không ai có thể hiểu sự ưu ái của Mao với con người trẻ này, vì sao cất nhắc anh ta thăng tiến nhanh như thế. Vương Hồng Văn, gầy gò, cũng đáng yêu vì cái dáng thông minh nhưng thiếu tự tin. Vất vả lắm ông mới học xong trung học, trông ông chẳng có dáng dấp lãnh tụ. Vương chẳng đóng góp, chẳng có ích trong ban lãnh đạo Trung Hoa. Vào tháng 5, sau khi sức khỏe Mao xấu đi đột ngột, Vương Hồng Văn nói với tôi, đề nghị cho Mao dùng ngọc trai đã chế biến thay cho thuốc. Nhưng tôi bác bỏ đề nghị, lãnh tụ cũng không được uống thuốc ngọc trai. Mao chết trong phiên trực của Vương Hồng Văn, nhưng ngoài phiên trực hiếm khi có mặt vì còn bận săn thỏ gần một sân bay quân sự bí mật Tây Uyển. Phần đông thời gian rỗi ông xem phim nhập từ Hong Kong. Tôi ngờ, Vương Hồng Văn trước đây không phải người tử tế, giờ đây quyền lực làm ông thoái hoá thêm. - Bác sĩ đã báo cáo cho chúng tôi tất cả rồi – Vương Hồng Văn bào chữa với Giang Thanh – Chúng tôi biết rất rõ từng diễn biến. Giang Thanh cắt ngang: - Nhưng vì sao người ta không báo cho tôi sớm hơn? Đó là một câu hỏi mánh khóe, thủ đoạn. Giang Thanh thường xuyên nhận được báo cáo về sức khỏe của chồng, nhưng lại buộc tội bác sĩ thổi phồng bệnh tật, không tin lời các phần tử tư sản. Ngày 27-8 chúng tôi chính thức thông báo cho bà về tình trạng sức khỏe nguy kịch của Mao, nhưng bà phớt lờ, vẫn đi “thanh tra” ở Đại Trại, nơi bà chỉ đạo một công xã nông nghiệp kiểu mẫu. Hoa Quốc Phong đã thông báo khẩn cấp cho Giang Thanh ngày 5 tháng 9, nhưng khi trở về chẳng thèm hỏi thăm tới sức khỏe chồng, chỉ than vãn quá mệt mỏi sau chuyến công tác. Ngày 7 tháng 9 sức khỏe của lãnh tụ đã trở nên quá xấu, Giang Thanh buộc phải gặp các bác sĩ. Bà bắt tay từng người, nói “Đây là vinh dự lớn lao và hạnh phúc cho các đồng chí đấy”. Giang Thanh gần như tin chắc sẽ thay thế chỗ Mao, nghĩ chúng tôi hoàn toàn hài lòng dưới sự lãnh đạo của bà. Một số bác sĩ lần đầu tiên gặp rất ngạc nhiên về thái độ lạnh lùng, tính nhẫn tâm của Giang. Uông Đông Hưng có lần nói với tôi “Không có gì đáng ngạc nhiên cả, Chủ tịch, vật cản duy nhất trên đường nắm quyền tối cao của bà ta”. Giang đã chờ đợi cái chết của Mao từ lâu. Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực càng căng thẳng theo từng phút sống của Mao chủ tịch. Giang Thanh cầm đầu nhóm cực đoan trong đảng, gồm Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Mao Viên Tân – cháu Mao, Trương Xuân Kiều, một “lý thuyết gia” gốc Thượng Hải có quan điểm tả khuynh, nhà tư tưởng chủ chốt của Cách mạng văn hoá. Ông thích lặp lại câu nói “Cỏ dại của chủ nghĩa xã hội còn quý hơn cao lương chủ nghĩa tư bản”. Bây giờ thấy Giang Thanh giận dữ, Trương Xuân Kiều cúi mặt nhìn xuống sàn nhà, chắp tay sau lưng, lo lắng. Phần II: 1949-1957 Chương 2 Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Xít nây (Úc). Qua báo chí tôi hiểu rằng thành phố quê hương tôi ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh là thủ đô Trung Quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là bình yên phương Bắc. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về thủ đô phía nam – thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng về chiến thắng của hồng quân Trung Quốc. Bắc Kinh là thành phố quê hương tôi, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Gia đình tôi giàu có và thuộc về hạng trên. Thực tế chúng tôi sống không phải trong nhà riêng biệt, mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này ngay lập tức bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội hoặc chỗ ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung Quốc cho trẻ con. Tên gọi Lưu Linh Chương xuất phát từ chữ Trung Quốc Lưu Linh – bắt mắt. ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung. Cụ tổ tôi chết trước tôi ra đời, nhưng gia phong mà cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng mà chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần trong năm để mà tưởng nhớ cụ. Phòng thăm bệnh của cụ là bảo tàng gia đình. Cụ lập hiệu thuốc trong đó các thày lang. Cụ tôi là người giàu nhưng mọi người kính trọng và quý cụ vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu thuốc người nghèo có thể nhận thuốc không mất tiền. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng đau khổ và cần từ thiện. Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chới với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống gia đình và trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình lựa chọn và tự hào về tổ tiên. Chú tôi, em út của bố tôi, cũng trở thành bác sĩ và cũng cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có bệnh thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ và chính ông cũng bị lây bệnh và chết khi chưa tròn 30 tuổi. Vợ goá của chú tôi và hai con trai cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi, tôi coi họ như anh trai mình. Tôi còn có người anh, con người vợ trước của bố tôi. Anh cũng coi họ như anh em ruột của mình. Bố tôi cưới mẹ tôi sau cái chết của bà vợ đầu. Bố tôi đã phá vỡ gia phong. Năm 1920 ông sang Pháp thực tập. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biết trong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thân Quốc dân đảng, và có chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch. Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối. Ông mang theo một bà vợ người Pháp và bà cũng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi là một phụ nữ Trung Quốc điển hình, xuất thân từ tầng lớp dân thường. Trên vai mẹ tôi là cả gánh nặng gia đình, kinh tế nuôi dậy con cái nhưng bà biết cách cư xử với họ hàng và người thân như bao phụ nữ chung thuỷ, đảm đang. Theo tục lệ Trung Quốc việc đàn ông giàu có nhiều vợ là tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của chúng tôi thì không chấp nhận việc xuất hiện bà vợ hai của bố mà họ cho rằng đó là sự nhục nhã cho gia đình. Bà vợ hai của bố tôi là người ngăn nắp và có giáo dục. Bà dậy tiếng Pháp ở đại học tổng hợp Bắc Kinh đại học và luôn luôn thân thiện với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy rằng mẹ tôi căn răng chịu đựng việc này. Mẹ tôi thường trút nỗi bự tức xuống đầu tôi và tôi cũng đôi khi cãi lại. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu rằng trong vụ việc bố tôi có lỗi. Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố tôi. Hiếm khi bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng tôi, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố tôi đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức giòng họ chúng tôi. Ngay sau khi quay về Trung Quốc bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh. Sau một số năm bà vợ người pháp của ông từ trần. Ông gặp phụ nữ hết người này đến người khác nhưng chẳng cưới ai cả. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, và tôi quyết tâm học hành để trở thành một bác sĩ lành nghề. Sự hằn thù của tôi đối với bố đã lây sang cả chính quyền Quốc dân đảng và trong nhiều năm tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Tuy nhiên sau này ở gần Mao, tôi lại va chạm với tính thô lỗ và vô đạo đức như từng có ở bố tôi. Cũng như đa số người Trung Quốc cùng thế hệ, tôi là người yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của đất nước mình. Lịch sử 4.000 năm của Trung Quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung Quốc cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường và được ngưỡng mộ khắp toàn thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn. Ngay từ trong trường tôi biết nhục nhã của Trung Quốc trong Chiến tranh nha phiến với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhậõt và Nga can thiệp. Do đó Trung Quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất dạng không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới đày các thành phố lớn và đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hóa và tinh thần của dân tộc Trung Quốc. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó là dòng chữ: Cấm chó và người Trung Quốc làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung Hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc là từ các thế lực đế quốc như – sau này người ta thường nói. Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh và đi về phương nam – đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc đại học tổng hợp do phái bộ hướng đạo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, đúng hơn là tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về kỷ luật tôn giáo. Tôi đã nghiên cứu tỷ mỷ lịch sử Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã được kết nạp vào tổ chức hướng đạo. Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở đại học tổng hợp Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Cái đó chẳng xứng với vị thế và giàu có của anh tôi. Lòng yêu nước và thương dân nghèo đã thôi thúc anh tôi. Anh tôi đến Quý Châu thăm chúng tôi vào ngày nghỉ và luôn khẳng định cho tôi về sự tàn bạo và bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ cho tôi rằng chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Theo anh tôi, Quốc dân đảng làm tay sai cho đế quốc và không có khả năng đấu tranh với xâm lược Nhật ở Mãn Châu, chỉ có những người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung Quốc. Tôi nghe anh tôi và bắt đầu tin vào khả năng hồi sinh lại đất nước Trung Hoa giàu có, văn minh và độc lập trên nguyên tắc các bên cùng bình đẳng và cùng có lợi. Tôi bắt đầu chú trọng đọc những cuốn sách mà anh tôi đưa cho: Lịch sử kế hoạch 5 năm của Liên Xô Thép đã tôi thế đấy của Nicolai Oxtovxky và cả sách của nhà văn Pháp Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi thấy chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung Quốc và và các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến kinh tế và tinh thần xán lạn. Số phận Trung Quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao và lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản. Năm 1936 một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Võ Tương Thanh – hay là Võ Lý Liên (theo tên thánh), và tôi thấy phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau. Quân Nhật tràn vào đất nước và chúng tôi cùng mẹ đầu tiên chạy về Vũ Hán năm 1937, sau đó chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này Tưởng Giới Thạch năm 1938 coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1934 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung Quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc đi bộ vĩ đại và anh hùng sang phía tây Trung Quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc. Anh tôi và chị họ tôi cũng đến đó. Năm 1939 tôi bắt đầu học y khoa ở trường đại học y đại học tổng hợp phía tây Trung Quốc, được phái bộ Canada lập ra gần một thế kỷ trước ở thành Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra là quỹ Rốc-cơ-phen-lơ, tài trợ. Phần đông giáo sư là người Mỹ. Bài giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận. Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc đại học tổng hợp tây Trung Quốc và bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp New York. Lý Liên đầu tiên dự thính những bài giảng ngắn về xã hội học ở đại học tổng hợp Phương Đông Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh thiên chúa giáo ở Thành Đô. Tôi kết thúc thực hành mổ vào năm 1945, đồng thời với sự thua trận của Nhật Bản. Tôi nhận việc làm trong một bệnh viện đa khoa trung ương Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất. Tôi muốn được học chuyên môn hẹp là phẫu thuật nơ-ron. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên cuối cùng kết hôn với nhau. Lý Liên khi đó làm ở thư viện thuộc sứ quán Anh. Nội chiến giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng tiếp tục. Do lạm phát nên cuộc sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi – khoảng 150 đô-la/tháng, người ta trả bằng đồng bảng Anh. Tuy nhiên tôi nhận được khoảng 25 đô la Mỹ nhưng nhận bằng tiền Trung Quốc. Tiền này tôi tức thời đem ra chợ đen đổi ngay sang đôla Mỹ hoặc đôla Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng thì đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức những người tuyệt vọng trước đây không bao giờ nghĩ tới ăn cắp thì nay lao vào cướp lấy những gì có thể lấy được. Trong cơn khủng hoảng này, Đặng Ninh Hoàng, bạn cùng lớp của tôi, đang là bác sĩ làm việc ở Hồng Kông gợi ý tôi chuyển đến đó. Cuộc sống ở đó ổn định và nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ. Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Đồng ý là, ở Hồng Kông chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với ở Trung Quốc, và một thày thuốc phẫu thuật như tôi có thể bị mai một nghề nghiệp. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục, và Lý Liên khuyên tôi đi khỏi tổ quốc. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh và đi Hồng Kông. Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng nằm ở đông Úc và trở thành bác sĩ ở Xít nây. Dần dà, tôi theo các đoàn tàu qua lại Úc và Tân Tây lan. Tôi hoàn toàn mãn nguyện. Lý Liên chuyển sang Hồng Kông, thuê nhà và kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang Úc với tôi. Úc là nơi người ta chẳng yêu quý gì dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định sống lâu dài ở Xít nây và tôi chỉ mê mải thực hành y học ở đó để hy vọng kiếm một cái gì đó để phòng thân. Tôi chưa nhận quyền công dân Úc. Niềm tự hào và tự ái của tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn lều trại nhỏ, và những người Úc mà tôi nói chuyện, đều một giọng cho rằng Trung Quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi rất tức nhưng tôi lại còn cần tiền, đúng thế và ở Hồng Kông cũng chẳng vui hơn. Lẽ nào chúng tôi vẫn mãi là thuộc địa Anh nơi tôi chỉ là nô lệ bị tước đoạt mọi quyền lợi của quốc gia hải ngoại. Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung Quốc đè bẹp quân Anh và vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi cũng tin rằng với chiến thắng của những người cộng sản Trung Quốc thì bọn cai trị nước ngoài sẽ cuốn xéo và đất nước được giải phóng khỏi ách sánh vai với các nước trên thế giới. Rồi tôi đã nhận được thư của mẹ tôi. Bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, vừa quay về thành phố quê hương và giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khỏe thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Anh tôi rất sung sướng và rất mong tôi trở về. Ở Trung Quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề – anh tôi viết – chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, và toàn thể gia đình tôi lại đoàn tụ. Tôi lại băn khoăn. Cuộc sống ở Xít nây đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi còn có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong. Chỉ có một điều tôi không hoài nghi. ở đây, Úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron, vì lẽ tôi là người Trung Quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đuổi khỏi tổ quốc. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không? Gần đến ngày thanh minh. Tôi dự định tổ chức ngày lễ này vơi anh bạn thân Alex Young. Alex sinh ở Úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung Quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabet Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét rằng tôi có một cái gì đó mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả. - Cần phải nghĩ cho kỹ đấy – Alex nói. - Anh tính thế nào? – tôi hỏi. - Tôi không thể là cố vấn của anh – Alex Young chậm rãi – Gia đình tôi ở đây, ở Úc. Thậm chí nếu họ hứa với tôi là trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, thì tôi cũng chẳng nghĩ tới quay lại. Đúng là ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số thì không nhiều, và có thể sống dễ chịu. Vì sao anh không viết cho anh trai và hỏi tỷ mỉ về công việc, và để họ nói cho mình lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tiếp. Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung Quốc đến giàu có thì tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của tổ quốc mình. Nhưng Alex, tất nhiên, là đúng: tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết cho anh tôi. Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khỏe thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi là Nelson Phó, là một nhà y học nổi tiếng của Trung Quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương tây tham gia Trường Chinh. Năm 1934 ông chưa cho Mao khỏi sốt rét và trong thời gian chiến tranh theo dõi sức khỏe lãnh tụ đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An. Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt và và lòng chân thành đã giảm bớt. Ông mời tôi trở về và đề nghị tin vào những người bác sĩ Trung Quốc khác. Về công việc của tôi ở Bắc Kinh và về lương lậu Phó không nói gì, chỉ bâng quơ rằng tôi sẽ hài lòng về công việc. Tôi được ông tâng bốc là được giữ chức vụ cao, và yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung Hoa mới. Tôi quyết định nhanh chóng về nước. Alex Yuong tổ chức bữa ăn gĩa từ. Có hai người Trung Quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo tôi viết cho họ từ Bắc Kinh, và thêm rằng nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp tôi quay sang Úc. Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở Úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ Úc và có mặt ở đại lộ Elizabet hy vọng thấy Alex Yuong. Nhưng tất cả đã thay đổi, và cửa hàng nhỏ của anh ta không còn đó. Tôi không còn thấy Alex Yuong nữa. Thế là chúng tôi và Lý Liên lại đoàn tụ. Giữa tháng 5-1949 có cuộc xáo lộn ở thuộc địa Anh. Hàng nghìn người đã chạy về đây tránh họa cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về đất mẹ. Hiện tượng này thật lạ lùng và không bình thường. Khi gặp Đặng Ninh Hoàng và kể về quyết định của tôi quay về Trung Quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi? – ông hỏi. Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Đặng buông lời: Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ thì viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng về tổ quốc. Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả. Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đô giáo sư quen biết đại học tổng hợp Phương Đông. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông vào đoàn đại biểu hội đồng hiệp thương chính trị Trung Quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền ở trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để kéo đất nước ra khỏi khủng hoảng. ở Trung Quốc đều có tương lai – ông nói – cả nước đang trên đường hồi sinh. Phiên họp đầu tiên ủy ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch của Mao là Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu của ông và Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước cộng hoà Trung Hoa từ 1912. Nhưng rõ rằng là ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là một cây cảnh cho nền dân chủ – mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là lọ cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên ủy ban này tỏ ra dũng cảm phát biểu bày tỏ quan điểm của mình mà không hợp với quan điểm của những người lãnh đạo cộng sản thì sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo và bị trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đô. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh và tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau đó và khi được tự do thì thành một ông già thiểu não, không nơi nương tựa. Tuy nhiên trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy rằng những người cộng sản điều hành đất nước là hoàn toàn tự nhiên và đúng đắn. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung Quốc đặt niềm tin vào đảng. Tại Úc tôi gần như người mù được người ta dẫn đến tương lai tươi sáng. ý tưởng xây dựng một mặt trận thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Tài năng bác sĩ của tôi cần cho đất nước. Chúng tôi, trí thức, sẽ được trọng dụng và thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Tôi nhìn thấy một số hành động của những người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc mà đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là sai sót nhỏ và mà thể tránh khỏi. Một người bạn sống với tôi ở Hồng Kông, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng và phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung Quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung Quốc được tốt đẹp. Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Một chiếc đồng hồ Thụy sĩ không phải là món quà tồi với ông ấy. Để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, thì việc trả một món quà như thế cũng không phải là quá đắt. Chẳng lẽ ông Dương mà cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc làm giàu ở Trung Hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng là xa lạ với những người cộng sản, khi mà họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân đảng, và thế là tôi từ chối đưa quà cho ông Dương. Người cộng sản không bị mua chuộc – tôi nói với các bạn – và tôi sẽ tự kiếm tiền để sống bằng khả năng và trí tuệ của mình. Về sau tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung Quốc và làm việc bí mật ở bộ công an. Trong Hội đồng hiệp thương chính trị nhân dân nhiều thành viên đeo mặt nạ dân chủ. Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên: Vì sao các anh, lũ trí thức ăn bám lại keo kiệt đến thế nhỉ? Anh như người trên trời rơi xuống, anh phải biết tính tham lam của con người chứ. Cá không thể sống trong nước sạch được. Món quà chẳng mang một giá trị nào cả. Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao? Mùa thu 1949 Hồng Kông giống như ong vỡ tổ. nhưng tôi còn trẻ, bồng bột và ảo tưởng và ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc và nhận việc tại một bệnh viện đa khoa lớn ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hyppocrat chữa bệnh và cứu tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi đẻ xây dựng nước Trung Hoa mới, thịnh vượng và hùng mạnh, không có bất công và thối nát. Chúng tôi cùng Lý Liên rời Hồng Kông về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn này gần 17 năm. Chương 3 Bắc Kinh hoang tàn và tiêu điều. Sau tám năn Nhật chiếm đóng và bốn năm nội chiến, phố xá trở nên bẩn thỉu, những bức tường dày bao quanh Thành Nội bị lở từng mảng có chỗ đã bắt đầu sập. Các biển quảng cáo vui mắt và sặc sỡ cũng biến mất khỏi các cửa hiệu và quầy hàng, những quán sách thân thương của tôi ở Liu-li-chang đóng cửa im ỉm dường như lâu lắm rồi. Dân tình xem ra nghèo đói, dung nhan không thấy sửa sang gì giống như chính bản thân thành phố. Đàn ông, đàn bà chỉ mặc những chiếc bộ quần áo ghi đá hoặc màu xám thường được khâu bằng tay từ những mảnh bao tải. Mỗi người đều có một đôi giày bằng vải buồm thô màu đen, mọi người trông ai cũng giống ai. Đàn ông xùm xụp mũ chăn cừu còn đàn bà thì tóc cắt ngắn. Tôi mặc quần áo đúng mốt, cà vạt, giày da, đầu tóc chải chuốt kiểu Úc trông giống như người nước ngoài. Lý Liên mặc áo khoác màu sặc sỡ và giầy cao gót. Tóc của cô ta chải thành nếp tuyệt đẹp và nổi bật trong những người khác giống những bông hoa đỏ rực trên cánh đồng lúa mì vàng óng. Tôi rất nhanh chóng phải sắm ngay bộ đồng phục mà mấy ông cộng sản đã khuyên. Nhưng Lý Liên phải đặt may một bộ hợp với người cô ta. Mẹ tôi thay đổi nhiều. Bà sung sướng khi chúng tôi quay về và cầu khẩn chúng tôi đừng bỏ nhà đi nữa. Tôi hứa ở lại với bà. Dù nghèo, nhưng khí thế của dân Bắc Kinh sôi nổi. Khắp chốn nơi nơi những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc nhìn vào tôi. Bắc Kinh được tự do và dân chúng chân thành chào mừng chính phủ cộng sản mới. Trong thành phố bao trùm bầu không khí thân thiện tưởng vào hạnh phúc tới gần. Chỉ một số ít người thân và họ hàng tôi cho rằng việc tôi trở về là sai lầm. Anh tôi thu xếp cho tôi gặp Phó Liêm Chương để thảo luận vấn đề công việc của tôi.. Tôi đến nhà Phó. Ông sống trong toà nhà được chia cho bộ y tế. Toà nhà này nằm ở vùng Quảng Xương phía bắc trung tâm thương mại Vương Phú Thanh. Toà nhà này từng là nơi ở của hoàng tử Mãn Châu, sau đó một tướng Quốc dân đảng chiếm lấy dùng và cuối cùng, Phó Liêm Chương toạ lạc ở đây. Biệt thự này có kiểu cách làm tôi nghĩ tới ngôi nhà của chúng tôi, nhưng nó này rộng hơn, sang trọng và lộng lẫy hơn nhiều. Biệt thự có có 6 phòng tất cả đều quét màu nho xanh. Trong đó bố trí những vườn nhỏ phong cách Trung Quốc truyền thống, có lối đi được lát gạch men. Khi tôi đến, Phó Liêm Phương nửa ngồi nửa nằm trên trường kỷ làm bằng trúc. Ông dáng người cao, hơi gày. Dưới vầng trán cao, đôi mắt tinh ranh và diễn cảm của ông nhìn tôi. Ông chừng 50 tuổi, hơn tôi tới 26 tuổi. Do tôi còn trẻ nên ông xem có vẻ già hơn. Khi tôi đến, Phó Liêm Phương cũng chẳng hề đứng dậy, mà chỉ chìa tay cho tôi bắt. Ông lắc lắc tay uể oải một cách xã giao. Do được tâng bốc nên tôi nghĩ mình phải được coi trọng, cho nên tôi đã mất mặt khi tiếp xúc với nhân vật cao cấp như vậy. Tôi đã bị ho lao mất mấy năm vì thế tôi không thể nói chuyện lâu với đồng chí được- ông ta nói chặn trước. Sau đó ông hỏi tôi tỷ mỉ về học hành và nghề nghiệp bác sĩ. Vừa nghĩ ngợi, ông nói tiếp: - Vấn đề công việc của đồng chí đã được giải quyết. Sáng mai anh có mặt ở Cục theo dõi sức khỏe. Chính phủ mới vẫn hoàn toàn chưa thành hình, chức năng quyền lực điều hành tạm thời trao cho ủy ban quân quản thuộc đảng cộng sản Trung Quốc. Cục theo dõi sức khỏe trực thuộc ủy ban này. Tại Cục theo dõi sức khỏe tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Một người cán bộ nói với tôi là ở đây còn thiếu bác sĩ điều trị và kể thêm anh tôi từng là sếp của anh ta. Thứ trưởng báo cho chúng tôi là đồng chí sẽ trở thành các bộ của Cục chúng tôi – anh ta giải thích – Tất cả chúng tôi ở đây đều hoàn toàn tình nguyện. Lãnh đạo đảm bảo cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: nhà cửa, chỗ làm việc quần áo và thậm chí cả giày dép nữa. Vì đồng chí sẽ đảm đương công việc bác sĩ trưởng điều trị, nên đồng chí sẽ nhận khẩu phần hạng hai, cao hơn chút ít so với nhân viên trung bình. Hệ thống hoàn toàn tình nguyện nghĩa là tôi sẽ chẳng được nhận lương. Đảng cộng sản thi hành hai dạng trả công cho viên chức nhà nước. Ai tham gia cách mạng chưa lâu, bắt đầu làm cho đảng thì nhận lương bình thường. những người tham gia cách mạng lâu năm thì được cung cấp toàn phần. Những người tham gia tình nguyện nhận kiểu riêng. Tôi thuộc hạng tự nguyện đi theo cách mạng. Dù là tôi là người mới vào nhưng vãn được vinh dự thuộc hạng được nhà nước cho hưởng cung cấp toàn phần. Nhưng tôi còn băn khoăn. Chi phí gia đình cũng không phải là nhỏ và giờ đây gánh nặng đè lên vai Lý Liên. Tôi còn phải nuôi mẹ, hai bà cô và bố mẹ vợ. Thật ra tôi cũng đã tích luỹ được vàng và đô la Mỹ, nhưng nếu không nhận được lương thì số tiền đó chẳng mấy chốc mà bay. Chỉ khi gặp đồng chí Lắc tôi nhận được một số hướng dẫn về nhiệm vụ tương lai của mình. Đồng chí Lắc sẽ dẫn đồng chí tới chỗ làm việc tại Đại học tổng hợp công nhân – người ta nói cho tôi – bây giờ đồng chí cứ về nhà và thu xếp tất cả đồ dùng cần thiết. Chúng tôi sẽ cấp cho đồng chí thu xếp một tuần lễ tính từ hôm nay. Xe tải sẽ chở đồng chí đến chỗ làm. Đồng chí Lắc sẽ đi cùng đồng chí. Thời gian gặp chẳng nêu rõ rằng, thậm chí chẳng ai hỏi tôi xem tôi có muốn làm ở chỗ mà họ đưa ra. Tôi đâm ra lúng túng, bởi vì tôi chưa bao giờ nghe đến tên trường đại học tổng hợp này. Dù là tôi là nhân viên nhận việc ở đó, nhưng tôi rất muốn trường đại học tổng hợp này phải có gì đó liên quan tới bệnh viện mà tôi mơ ước làm ở đo. Ngoài ra, tôi hiểu rằng Cục theo dõi sức khỏe cũng chẳng kiếm được việc cho Lý Liên. Người ta chỉ xếp vợ tôi tạm thời làm ở nhà trẻ cách Bắc Kinh 20 ki lô mét, nơi có viện đào tạo dự bị cho nhân viên y tế. Thật là giận khi khi mà người ta chẳng đánh giá khả năng và trình độ theo ưu điểm này. Chẳng lẽ lại đem so sánh công việc được giao với công việc của vợ tôi ở lãnh sự Anh bên Hồng Kông! Lý Liên và tôi, có thể, ít gặp nhau ở nhà. Và tôi cay đắng nghĩ rằng tại sao mình lại không tặng Dương chiếc đồng hồ. Chú về chưa lâu và chưa thể hoàn toàn hiểu cái gì đang xảy ra ở đất nước – anh tôi an ủi – ở đây không phải người chọn việc mà là việc chọn người. Điều này nghĩa là phục vụ sự nghiệp của đảng. Về lương, chú vẫn có thể sử dụng tiền tiết kiệm của mình. Dần dà thì mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Kỷ luật đảng không cho phép ai nói khác. Cơ quan gọi là đại học tổng hợp công nhân đặt ở Xương Sơn, cách cung điện vua mùa hè vài dặm. Khi cầm quyền, vua Càn Long đã xây nhiều cung điện và nhà thờ. ở đây có hai chùa phật nổi tiếng – Chùa Nhà thờ Phật ngủ và chùa Thanh Thiên. Mùa thu cây thông màu bạc và cây cối lá màu ngói đỏ tạo ra bức tranh màu sắc không đơn điệu. Đại học tổng hợp công nhân chiếm một khu rộng ở Xương Sơn, chỗ này thường đông người và ồn ào. Tuy nhiên ở đây cũng có cái hay riêng. Mọi nơi đều được canh gác. Hai quan chức cao cấp của đảng – Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương giới thiệu trường cho tôi. Tại đây nhiều công chức của đảng. Vũ Trần Phổ cho tôi tất cả các thứ cần và cũng trao cho tôi huy hiệu của trường và nhắc tôi phải giữ gìn nó như con ngươi của mình. Ông dặn tôi đừng kể cho ai những gì xảy ra ở đây, bởi vì việc tôi làm là bí mật, mà lúc ấy tôi không hiểu vì lẽ gì. Chỗ tôi ở nằm trong khu nhà gỗ cổ xem ra không tương xứng với cung vua lộng lẫy. Đó là một túp lều tàn tạ, nền đất và ngói đỏ. Duy nhất trong phòng có một bóng đèn điện tỏa ánh sáng đỏ quạch. Giường nằm là hai miếng ván kê trên hai cái niễng, đệm nằm cũng không thấy. Nước, tất nhiên, cũng không, còn buồng vệ sinh là một cái ngăn con bằng gỗ hở toang toác nằm sau nhà. Tôi phải dùng chăn bông mỏng ghép lại thành đệm để nằm. Sau đó người ta lắp bình nước, khí đốt và chậu rửa, để bắt đầu rửa ráy. Nhận trách nhiệm bác sĩ tôi không thể chung đụng chỗ ở với người khác. Điều kiện ăn ở tồi tệ đến mức khi tới đây chơi Lý Liên không thể thốt lên lời, và chúng tôi gặp nhau chỉ trong những ngày nghỉ ở nhà mẹ tôi, nơi tôi thường về để nghỉ và tắm giặt. Một nét đặc biệt nữa là đồ ăn. Có hai bữa ăn như trong gia đình nông dân: mười giờ sáng và bốn giờ chiều. Nhưng khác với nông dân hiếm khi được ăn thịt, thì chúng tôi theo khẩu phần hạng hai thịt được cung cấp hàng ngày. Nhà ăn cũng chẳng gì hơn ở nhà tôi, nhưng thức ăn được nấu khéo léo, thậm chí lại còn ngon, và nhà bếp sạch đến ngạc nhiên. Chỗ làm việc trong bệnh viện còn làm rầu lòng tôi hơn. Đó cũng lại là ngôi nhà nông thôn nền đất chẳng có một tí thiết bị nào cả, trừ vài cái nồi đun và bộ đo huyết áp. Trong số thuốc thang, tôi chỉ thấy aspirin, thuốc ho, và vài thứ chế phẩm chống vi trùng. Khi chẩn bệnh tôi chỉ dùng kinh nghiệm bác sĩ trước đây của mình. Tất cả chỉ mong rằng chẳng bệnh nhân nặng nào chui vào đây. Dù vậy, nhân viên trong bệnh viện rất lạc quan. Trong biên chế có gần 30 người và họ chờ đợi sự xuất hiện của tôi từ lâu. Gặp tôi họ mừng ra mặt. Tất cả đều rất trẻ, phần lớn trẻ hơn tôi. Ngay cả hai người phụ trách cũng không quá 25 tuổi. Đám nhân viên được chọn từ nông dân, mới chỉ học qua tiểu học. Vì thế họ chỉ làm được công việc sơ cứu – băng vết thương nhỏ và cho uống aspirin khi sốt. Về các bệnh khác và ngay đến hỏi bệnh họ cũng không biết gì cả. Chúng tôi tin rằng đồng chí sẽ dậy chúng tôi kiến thức y học. Chúng tôi hoàn toàn chưa hiểu biết gì cả – họ nói thế và rất muốn tôi giảng bài mà không hiểu rằng thật vô nghĩa trong điều kiện học vấn của họ chỉ có như vậy. Một người bạn cũ đến Bắc Kinh thăm tôi trong ngày nghỉ. Chúng tôi ôn lại kỷ niệm đã qua và trao đổi với nhau về tình hình đất nước. Anh bạn tôi vào đảng từ nhiều năm trước và giờ đang làm việc ở Liên đoàn thanh niên dân chủ, tiền thân của đoàn thanh niên cộng sản Trung Quốc. Tôi kể cho bạn tôi nghe về công việc của mình ở bệnh viện và nhấn mạnh là một cơ quan tương tụ thế tôi chưa từng gặp bao giờ. Anh ta đột nhiên nghiêm mặt nói rằng lãnh đạo của anh ta cho phép anh ta trao đổi cởi mở với tôi và uốn nắn tôi những sai lầm có thể mắc phải. Anh bạn nhận xét rằng tôi vẫn còn hiểu ít về công tác cách mạng và tôi cần ăn nói thận trọng. Tôi không phủ nhận cái gì đang xảy ra khi đó làm tôi thất vọng, nhưng tôi không thể nào chấp nhận được cái điệu bộ anh ta đóng kịch. Tôi là bác sĩ – tôi nói – và khi người bệnh đến, tôi làm tất cả để chữa họ. Thế thì sai ở đâu và ăn nói thận trọng như thế nào? Được thôi, bình tĩnh đã – bạn tôi trả lời – Hãy nói nghe xem bạn làm việc ở đâu thế? Tôi nhắc lại là tôi đang làm việc ở Đại học tổng hợp công nhân và biết rất ít về nó và chỉ chữa người bệnh mà xem ra chẳng thấy có vẻ bệnh nặng gì hết. Tóm lại tôi phí hoài thời gian. Anh bạn tôi cười phá lên, trả lời: Bạn nói chưa khi nào nhìn thấy đại học tổng hợp tương tự như thế phải không? Thế bạn đã để ý tới lính canh hay không? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vì sao công việc của bạn lại bí mật? Này nhé, bạn thân mến của tôi ơi, bạn đang làm việc chẳng phải ở đại học tổng hợp đâu. Chỗ mà nơi bạn đang làm bây giờ là đầu não của các cơ quan cao cấp đảng cộng sản Trung Quốc, và bệnh viện của bạn phục vụ những người lãnh đạo đảng không những hàng trung cấp mà còn cả hàng cao cấp nữa, họ sống tạm ở đó vì lý do an ninh, bởi vì Bắc Kinh được giải phóng chưa lâu. Vì thế việc của bạn được giữ bí mật. Sau này bạn bạn tự biết điều này và trong lúc này đừng biểu lộ gì về tình trạng bệnh viện. Tạm thời thì nó được trang bị tồi và anh có ít nhiều bệnh nhân, nhưng anh làm việc ở chỗ rất có uy tín và sẽ gặp nhiều người chức vụ cao. Chính vì thế sếp tôi cũng cho phép tôi nói thẳng với bạn. Khi đó tôi không tiện hỏi sếp bạn tôi tên gì, nhưng sau này tôi vỡ ra rằng ông ta là người cùng phe Giang Thanh tên là Nam Thanh phó bí thư đoàn thanh niên dân chủ, năm 1965 giữ chức bộ trưởng giáo dục. Tôi trở về tổ quốc mong trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron và giúp đất nước trong lĩnh vực y học, nhưng lại bất ngờ rơi vào sào huyệt đảng cộng sản Trung Quốc. Bắc Kinh vừa mới được giải phóng, tuy nhiên nội chiến vẫn còn tiếp diễn, nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa vẫn chưa ra đời chính thức. Trước khi lập chính phủ và chuyển giao quyền lực cho nó, các lãnh tụ cộng sản quyết định nằm lại ở Xương Sơn. Tại đấy có Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc và tất cả các cơ quan trực thuộc, cả Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức – ba trong số những nhà lãnh đạo cao cấp đảng cũng sống ở đó. Chỉ có Chu Ân Lai và Nhậm Bích Thế ở chỗ khác. Bệnh viện nơi tôi làm việc không phải là một phần của đại học tổng hợp và sau khi thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa nó thuộc Ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc so Dương Thượng Côn lãnh đạo, ông này năm 1988 là Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ban tổ chức thuộc Ban chấp hành trung ương lo việc an ninh, sinh hoạt và tổ chức hiệu quả hoạt động của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc – Mao và cả 4 bí thư cao cấp. Ban tổ chức là cơ quan bí mật nhất và ngay cả nhân viên thậm chí cũng không biết gì về cơ cấu và chức năng của nó. Chỉ có giới chức chóp bu đảng biết mà thôi. Đầu những năm 50 Ban tổ chức gồm 8 bộ phận trực thuộc: Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương phụ trách Ban hành chính-quản trị. Trách nhiệm của nó là cung cấp phương tiện làm việc cho các lãnh tụ đảng, cung cấp đồ ăn, mọi thứ cần thiết, sửa chữa và xây dựng nhà cửa cho công việc cũng như cho cá nhân, lo xe cộ, phương tiện giao thông và liên lạc và các tiền nong. Uông Đông Hưng phụ trách Ban bảo vệ trung ương, sau này ông đồng thời giữ chức thứ trưởng công an mà Đào Thụy Sinh là bộ trưởng, đảm bảo anh ninh và sức khỏe cho giới lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc. Ngoài phần lo bảo vệ tất cả lãnh tụ đảng, Uông Đông Hưng cũng lo luôn an ninh cho chính Mao và vì thế Uông luôn luôn nằm ngoài tầm kiểm soát. Hệ thống an ninh, thậm chí trong thời ấy, được thanh lọc kỹ càng. Giúp Uông chăm lo sức khỏe lãnh đạo còn thêm cả bộ y tế đứng đầu là Phó Liêm Chương. Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên, là phục vụ chụp ảnh thậm chí cũng nằm dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng. Diệp Tử Long phụ trách Ban thư ký để lo về tổ chức và tiến hành các buổi hội thảo của đảng và tuyên truyền, ghi văn bản các bài phát biểu, và gửi, nhận bưu kiện, văn thư. Bản thân Diệp Tử Long lại còn là thư ký tin cẩn của Mao. Với tư cách này Diệp phải theo sát để cung cấp cho lãnh tụ tất cả các thứ cần bao gồm thức ăn, tiền nong và vào sổ sách và bảo quản tất cả quà cáp gửi tới Mao. Nói chung người thư ký thường là người phục vụ riêng. Ban thư ký chính trị, có trách nhiệm cung cấp cho lãnh đạo tất cả các thông tin cần thiết, cũng như các văn bản báo cáo và tài liệu. Năn 1949 phụ trách bộ phận này là Trần Bá Đạt, thư ký chính trị chính của Mao. Mao cũng có một số thư ký chính trị trong số đó có Giang Thanh vợ ông, Hồ Kiều Mục và Điền Gia Anh. Những nhà lãnh đạo khác cũng có ban thư ký như thế số lượng của nó thay đổi và các bà vợ của chính giới lãnh đạo cũng tham gia ban này. Ban bảo mật do Lý Chí Dương và ban cơ yếu do Vương Kha đứng đầu là cơ quan bí mật nhất của Ban tổ chức. Nhiều người trẻ và tài năng làm việc ở đó. Họ phải có trí nhớ tuyệt vời biết cách hoá mã và giải mã các thông tin khác nhau chủ yếu là các bức điện đặc biệt. Bộ mã ấy khác hẳn với bộ mã điện báo chính thức của Trung Quốc và luôn thay đổi để bảo toàn bí mật. Nó dùng để truyền tin bí mật trong nội bộ lãnh đạo và giới quân sự cao cấp. Nhân viên được đào tạo trong một trường đặc biệt ở Trương Dương Kiều, tỉnh Hà Bắc, mỗi một nhân viên cơ yếu đều mang một bí số riêng. Họ phải biết bộ khoá mã và cần bảng và dẫn giải tra cứu. Khi lớn tuổi, trí nhớ giảm đi thì họ chuyển sang việc khác. Ban cơ mật đảm bảo an toàn bí mật khi truyền và nhận thông tin giữa các nhà lãnh đạo đảng và quân đội trong nước. Phần đông cán bộ của cơ quan này xuất thân từ thành phần cơ bản và thường là không được học hành gì cả, thậm chí không biết đọc biết viết. Họ làm công việc giao liên và đưa chỉ thị xuống các tỉnh xa ở Trung Quốc. Người ta đòi hỏi họ không phải là học hành mà là lòng trung thành tuyệt đối về mặt chính trị. Ban lưu trữ do Tăng Sơn phụ trách có nhiệm vụ ghi chép các số liệu lưu trữ Ban hậu cần vận tải do Đặng Đình Tường phụ trách đảm nhận cung ứng vận tải để cung cấp tất cả các thứ cần thiết cho cơ quan đảng. Bệnh viện chúng tôi trực thuộc La Đạo Nhương và Phó Liêm Chương, có nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe của tất cả những người làm việc trong cơ quan đảng. Tất cả biên chế Ban tổ chức, từ những nhà lãnh đạo cao cấp đến nhân viên quèn và gia đình họ, đề là bệnh nhân của tôi. Mọi người phần đông là trẻ và khỏe mạnh hiếm khi đến bệnh viện, bệnh thì xoàng nê không cần kiến thức và kinh nghiệm y học. Và dù rằng mơ ước của tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron bị tan thành mây khói, ở Xương Sơn tôi là bác sĩ duy nhất có bằng cấp và quen biết nhiều gương mặt những người lãnh đạo. Tôi còn trẻ và tự trọng, và người ta tâng bốc rằng tôi làm việc bên cạnh lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc. Tôi đều kính trọng và ngưỡng mộ tất cả các bệnh nhân. Những con người này thực hiện cuộc cách mạng và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc của chúng ta. Họ rời gia đình của mình từ thời thanh niên trai trẻ tham gia Trường Chinh, chịu đựng nhiều gian khổ và mất mát. Họ làm nên chiến thắng chói loà đối với bọn banns nước Tưởng Giới Thạch. Họ cống hiến toàn bộ sinh lực của mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Trung Hoa mới, coi thường lợi ích và quyền lợi cá nhân. Trước đó tôi tôi chưa hề gặp những người như thế này và thành tâm kính phục lòng dũng cảm và tin bào tương lai đất nước tôi. Tôi ở trung tâm Cách mạng Trung Quốc, và thấy sung sướng không những đã trở thành người chứng kiến việc thành lập chính thức nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa, mà còn chúc mừng sự kiện vĩ đại này bên cạnh những lập nên nó. Đó là ngày 1 tháng mười năm 1949. Tất cả mọi người ở Xương Sơn thức dậy lúc 5 giờ sáng, một buổi sáng tinh sương không khí tươi mát đến ngạc nhiên, để lên đường vào Bắc Kinh được trang hoàng đẹp đẽ trong buổi sáng ngày ấy. Xe tải chở chúng tôi đến quảng trường Thiên An Môn, khi đó chưa tới 7 giờ. Chúng tôi tập hợp đội ngũ ở chiếc cầu đá gần cổng Thiên Bình, cổng này thời cổ là lối vào Cấm Thành. Khi đó quảng trường nhỏ hơn bây giờ, và ở đó nhiều nhà nhỏ tồi trong những năm trước đây dùng cho quan lại chờ gặp hoàng đế. Toà nhà Hội nghị đại biểu toàn Trung Hoa và bảo tàng cách mạng được xây trên quảng trường vào năm 1959, nhân dịp 10 năm thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trên quảng trường có nhiều đám đông người – đại diện nông dân, công nhân, trí thức và dân chúng trên khắp đất nước rộng lớn. Tôi thấy rõ lễ đài, trước khi khai mạc đã có nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Trước biển người hàng nghìn lá cờ đỏ vẫy tung và Bắc Kinh điêu tàn đổ nát dường như được tiếp máu và hồi sinh. Đám đông người hô lớn: Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm! Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!. Vang lên bài hát cách mạng. Đám đông người lạc quan cầm biểu ngữ và hát vang tiến vào quảng trường tăng dần. Đúng 10 giờ, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác xuất hiện trên lễ đài. Trời đất như vỡ tung. Mao là thần tượng của tôi từ anh tôi giải thích cho tôi rằng đây là vị lãnh tụ vĩ đại, cứu tinh của Trung Quốc. Hôm ấy tôi lần đầu tiên thấy Mao. Thậm chí làm việc ở Xương Sơn tôi không thấy ông, dù rằng tôi sống cách không xa dinh thự ông là mấy. Mao là người cao lớn khỏe mạnh. Ông tròn 56 tuổi trước đây chưa lâu, nhưng trông ông khá trẻ. Khuôn mặt ông vẻ đôn hậu, dưới mái tóc đen và dây là vầng trán cao. Giọng ông vang lên. Giọng ông âm vang, phong thái toát lên vẻ tự tin và người mạnh mẽ. Ông mặc bộ quân phục như trong ảnh mà mọi người thấy trên sách báo. Chính phủ mới đã được thành lập, và Mao phát biểu với tư thế của Chủ tịch Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, đại diện không phải cho đảng, mà cho chính quyền nhà nước. Ông mặc bộ quần áo xám xẫm giống hệt bộ quần áo Tôn Trung Sơn đã mặc (sau này bộ quần áo này gắn liền với Mao), đầu ông đội chiếc mũ công nhân thường đội trong các ngày lễ. Trên lễ đài đứng cạnh ông là những nhân vật đại diện cho những người không đảng phái và tổ chức như để xác nhận sự tồn tại của một mặt trận thống nhất. Bà Tống Khánh Linh đẹp đẽ, vợ goá của Tôn Trung Sơn, người đánh đổ triều đại phong kiến cuối tình và mở cho Trung Quốc con đường mới phát triển. Trung tâm của sự chú ý, tất nhiên, là Mao, Ông chỉ đạo rất chắc chắn và thậm chí không tỏ vẻ của sự cao ngạo. Tôi nhiều lần thấy Tưởng Giới Thạch, khi hắn còn nắm quyền lực. Tưởng luôn luôn tỏ ra cách hẳn với người khác và thích tỏ được thuộc hạ tâng lên. Mao tỏ ra là khác hẳn. Mao có sức thu hút như nam châm. Dù rằng bài phát biểu của ông không hề tỏ vẻ giọng quý phái, giọng Hồ Nam của ông cũng không cũng được đón nhận như giọng đáng yêu. Mượt mà và sang sảng giọng ông thôi miên đám công chúng Nhân dân Trung Quốc đã vùng dậy – Mao bắt đầu và đám đông cuồng nhiệt đáp lại lời ông bằng tiếng vỗ tay chúc mừng cộng hoà nhân dân Trung Hoa và đảng cộng sản. Tim tôi rung lên vì sung sướng, mắt tôi tràn lệ vì hạnh phúc. Tôi rất tự hào về nước mình tin vào tương lai thịnh vượng của nó. Những năm bị đè đầu cưỡi cổ, ách nô lệ và tủi nhục vĩnh viễn trôi qua. Tôi tin rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Hoa và là người khai sinh ra lịch sử nước Trung Hoa mới. Tôi đứng cách ông chỉ vào bước chân, nhưng tôi cảm thấy sao mà xa thế. Tôi là một bác sĩ quèn, còn ông là lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Ngày hôm ấy tôi thậm chí không thể hình dung rằng chỉ một thời gian ngắn sau tôi thành bác sĩ riêng của ông, theo sát ông 22 năm liền và chứng kiến cái chết của ông. Tháng 12 năm 1949, sau ngày lễ, Mao Trạch Đông đến Moskva, ông ở đấy vài tháng, ký với Stalin Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 2-1950 ông quay về Trung Quốc, và ngay sau đó chuyển từ Xương Sơn về Bắc Kinh. Tư dinh của ông là cung điện nằm trên vườn thượng uyển trong Cấm Thành. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản lần lượt chuyển về đây chiếm các ngôi nhà sang trọng của vua trước đây. ở Xương Sơn chỉ còn lại Ban hành chính quản trị và ban bảo mật tài liệu. Bệnh viện chúng tôi chia làm đôi. Một phần ở Bắc Kinh để chữa các nhà lãnh đạo và phần còn lại nằm lại Xương Sơn do tôi phụ trách. Nếu không phải ngẫu nhiên, thì đời tôi có thể đã khác. Chương 4 Một quan chức ở Trung Nam Hải bị ốm và chết bởi bệnh sốt xuất huyết não. Tôi được cấp tốc triệu về Bắc Kinh. Được biết vi-rút căn bệnh lạ lùng này được truyền qua muỗi đốt, mà muỗi lại rất nhiều ở Bắc Kinh đặc biệt mùa hè và thu. Vì thế trường hợp sốt xuất huyết não ở đây không phải là hiếm. Các nhà chuyên môn thời kỳ đó khuyên nên theo dõi hội chứng căn bệnh nguy hiểm này phá hoại não người. Giai đoạn đầu của bệnh sốt xuất huyết não có thể bị ngăn lại bằng cách trị bệnh cổ truyền, khi mà mới xuất hiện nó giống như triệu chứng cúm. Tuy nhiên nếu điều trị không kịp thời thì bệnh tiến triển nhanh làm hệ thống tim mạch bị phá huỷ và thậm chí người bệnh còn phát rồ. Trong những trường hợp nặng thì cái chết khó tránh được. Mùa hè 1950 có mưa nhiều ở Bắc Kinh, thế là muỗi ra như trấu. Khi một nhân viên ở Trung Nam Hải bị sốt xuất huyết não, một bác sĩ trẻ chưa kinh nghiệm coi đó là cúm. Do điều trị không đúng bệnh nhân tử vong. Nhân viên này sống gần biệt thự của Mao, vì thế Dương Thượng Côn và Chu Ân Lai lo lắng về sự nguy hiểm của căn bệnh đe dọa lãnh tụ. Anh chàng bác sĩ trẻ đó ở bệnh viện Trung Nam Hải bị thải hồi tức khắc. Bệnh viện được cải tổ, trong thành phố người ta tổ chức diệt muỗi quyết liệt. Lãnh đạo quyết định chuyển bộ phận y tế ở Xương Sơn vào Trung Nam Hải. Quyết định này thực tế làm thay đổi tận gốc cuộc đời tôi. Bệnh viện ở Trung Nam Hải vốn trang bị tồi tàn đã được cấp tốc nâng cấp và hiện đại hoá để trở thành trung tâm chính chữa bệnh cho các nhà lãnh đạo đảng và đất nước. Đồng thời người ta cũng cải tạo lại các ngôi nhà ở Trung Nam Hải. Tại đó có hai hồ lớn chiếm một diện tích rộng: hồ Trung và hồ Nam. Từ đấy mới có tên khu vực này. Khu này được bức tường thành vây quanh giống như Cấm Thành. Bức tường để ngăn người lạ nhìn vào. Sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản đến đây ở thì các quán sách cũng biến mất tất cả các quyển sách có kèm bản đồ Cấm Thành. Đội bảo vệ theo sát anh từng bước. Việc ra vào vùng Trung Nam Hải chỉ cho những ai làm việc và sống ở đây, hoặc là khách mời chính thức của nước. Trụ sở Quốc vụ viện cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai lãnh đạo nằm ở phía bắc, cạnh hồ Trung. Cùng sống và làm việc với Mao còn có những người bạn chiến đấu của ông – Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đổng Bích Vũ, Lý Phú Xuân và Trần Nghị. Họ là quan chức cao cấp nhất của đảng, tư dinh của họ là những biệt thự và cung điện Cấm Thành. Cả những nhân viên phục vụ và cả những người làm công tác đảng cũng được sống ở đây. Tôi được chia một căn nhà nhỏ. Về sau tôi chuyển sang căn nhà lớn hơn và đem Lý Liên và thằng con trai Giôn về sống cùng. Thậm chí ngay trên vùng đất được bảo vệ cẩn mật thế này mà lực lượng an ninh luôn luôn cảnh giác cao độ. Đi từ khu này sang khu kia đều qua kiểm soát nghiêm ngặt. Đi đến đâu cũng bị hỏi chứng minh thư ra vào. Tôi làm việc ở bệnh viện cách tư dinh Mao không xa. Tôi có chứng minh thư ra vào B, nhưng với nó tôi có thể đi quanh khu bệnh viện, về nhà và quanh sân nhà minh mà thôi. Lý Liên cũng có chứng minh thư như thế, nhưng không được đi lại nhiều như tôi. Bệnh viện tôi phụ trách chữa chạy không những người cao cấp, mà còn cả những gia đình và những nhân vật quan trọng sống ở Bắc Kinh. Nhiều chiến sĩ cách mạng tám năm chiến đấu với Nhật và bốn năm với quân đội Quốc dân đảng, giờ đây lập gia đình và vì thế tôi còn phải chữa bệnh cho đám con nhỏ của họ. Gánh nặng công việc đè nặng và tôi không còn thời gian nghỉ ngơi nữa. Tôi viết đơn xin vào đảng, nhưng nguồn gốc xuất thân của tôi lại thành vấn đề. Dĩ nhiên, tôi được trải qua thử thách. Bố tôi có giữ một chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng. Dù Chu Ân Lai mời ông quay về Bắc Kinh, hứa là sẽ bảo vệ ông, nhưng nhiều người liệt bố tôi là phản cách mạng. Bố vợ tôi là địa chủ tỉnh An Huy. Trong thời gian cải cách ruộng đất ông bị quy tội kẻ thù nhân dân, bị tước không chỉ quyền công dân mà còn cả phương tiện sinh sống. Bây giờ ông phụ thuộc vào sự chu cấp của tôi. Vợ tôi cũng gây cho họ sự nghi ngờ. Trước giải phóng vợ tôi làm việc cho không lực Hoa kỳ và lãnh sự Anh và người ta tung tin rằng vợ tôi bề ngoài vẫn là điệp viên bí mật của hai ông chủ trên. Ngay cả thời trai trẻ của tôi cũng chẳng lấy gì tin cậy. Trong lý lịch tự thuật, kèm đơn xin vào đảng, tôi viết là sau khi học xong trung học ở Quý Châu, tôi bị Quốc dân đảng gọi đi huấn luyện quân sự ba tháng. Người ta nói là sau lớp huấn luyện tôi sẽ gia nhập Hội phục hưng quốc gia của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi huấn luyện xong, tôi chẳng bao giờ nghe đến cái tổ chức này và tôi cũng không quan hệ gì với hoạt động của nó thậm chí gián tiếp. Về sau mới hay Hội phục hưng quốc gia là tiền thân của Đoàn thanh niên nhân dân quốc gia, một tổ chức chính trị có liên quan tới Hội áo bồ câu – một trong số tổ chức mật của đảng cộng sản. Các đảng viên cộng sản có nhiệm vụ điều tra lý lịch tôi, không thể tin là tôi không dính líu vào hoạt động của Hội Phục hưng. Lại phát sinh nghi ngờ trong mối quan hệ trong thời kỳ tập sự sau khi học xong trường y khoa. Đợt thực hành y khoa đầu tiên của tôi bắt đầu với tư cách bác sĩ quân y Quốc dân đảng. Quan chức của đảng tiếp tục đào bới quá khứ của tôi, và việc cho tôi vào đảng bị hoãn vô thời hạn. Dù vậy tôi có xu hướng muốn đóng góp vào sự nghiệp cách mạng. Để làm điều này, tôi tình nguyện tham gia vào hàng ngũ những người tích cực giúp cho công cuộc cải cách ruộng đất. Một số lần tôi tham gia hạ phóng về nông thôn, ở đó chúng tôi chia lại đất đai và đồ đạc tịch thu ở những gia đình giàu có và chia cho cố nông và nông dân nghèo xơ xác. Thậm chí cuộc cải cách ruộng đất đã tước đi tất cả mọi thứ ở bố vợ tôi, như trước đây tôi vẫn ủng hộ nó. Tất cả những đổi thay này kết liễu sự bóc lột giai cấp nông dân và cải thiện đáng kể đời sống nghèo khó ở thôn quê. Chỉ sau nhiều năm, tôi mới biết thực chất cuộc cải cách man rợ và mất tính người mà những ông đội, bà đội tham gia lúc đó. Chẳng bao lâu người ta không cho tôi tham gia cải cách ruộng đất nữa, nói là Trung Nam Hải rất cần nghề bác sĩ của tôi. Năm 1950 chiến tranh Triều tiên bùng nổ. Tôi ngay lập tức làm đơn tình nguyện. Tôi chưa được tham gia kháng Nhật và nội chiến Quốc-Cộng, và vì thế tôi quyết định giờ đây phải phục vụ đất nước mình. Tôi tin rằng Trung Quốc không thắng cuộc chiến này, có lẽ là vì đối thủ là Mỹ, một nước hùng mạnh bậc nhất thế giới. Tôi theo dõi chặt chẽ tin chiến sự và ngạc nhiên thấy quân đội Trung Quốc giáng cho kẻ thù những thiệt hại như thế nào. Lần đầu tiên sau một thế kỷ, Trung Quốc tỏ ra là chống đối quyết liệt lực lượng xâm lược ngoại quốc hùng mạnh. Tôi giận và căm phẫn người Mỹ đã sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên. Dù rằng cuộc chiến ở Triều Tiên đi vào ngõ cụt, tôi vẫn tự hào vô hạn lòng dũng cảm của đồng bào tôi. Cấp trên không cho tôi vào khu vực chiến sự, lại đánh giá sự quan trọng của công việc tôi ở Trung Nam Hải. Tôi bồn chồn và uất ức. Người ta không thể cho phép tôi được giúp đỡ cách mạng, lẫn thành bác sĩ phẫu thuật. Tôi cảm thấy sự xa lánh từ phía bệnh nhân của mình, việc vào đảng vẫn dậm chân tại chỗ như trước đây. Trong cơn khủng hoảng ấy, lần đầu tiên tôi gặp gia đình Mao. Mao Ngạn Thanh, người con trai 30 tuổi của lãnh tụ được chở vào bệnh viện. Anh ta mắc bệnh tâm thần – không thể ngủ được, suốt đêm đi lại quanh nhà, lẩm bẩm một mình. Mao có hai con trai – Mao Ngạn Thanh và Mao Ngạn Anh. Hai người này là con của bà vợ Đường Khai Tuệ, bị Quốc dân đảng xử tử năm 1930 vì không chịu bỏ người chồng mình, mặc dù chính Mao trong khi đó nằm cách đấy vài trăm dặm ở Giang Tây, vùng căn cứ địa xô viết và cũng đã cưới bà Hồ Huệ Trân. Sau khi mẹ chết, hai người con nhỏ được chuyển về Thượng Hải, ở đó họ đã sống sót một cách lạ lùng. Những ai từng biết Mao Ngạn Thanh đều cho rằng bệnh tâm thần của anh ta do đòn dã man của cảnh sát Thượng Hải. Cả hai người con trai Mao được tìm thấy chỉ sau một số năm, khi trở thành phố Diên An trở thành căn cứ địa của đảng. Mao đã gửi họ sang học ở Liên Xô. Khi bắt đầu chiến tranh Triều Tiên, người con lớn Mao Ngạn Anh ra chiến trường, hy sinh trong cuộc ném bom của Mỹ. Người con út Mao Ngạn Thanh làm phiên dịch ở bộ phận tuyên huấn Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Năm 1953 trong cả nước rộ lên chiến dịch đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu trong hàng ngũ đảng cộng sản Trung Quốc. Mao Ngạn Thanh phát hiện rằng một đồng sự đã biển thủ tiền nhuận bút bài báo của mình bằng cách giả mạo chữ ký. Mao Ngạn Thanh giận dữ đánh người đồng sự ấy. Biết tin, Mao nổi giận và chửi bới người con. Có thể, đây là một trong những nguyên nhân bệnh tâm thần của Mao Ngạn Thanh. Tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực thần kinh học, và bệnh viện chúng tôi chỉ tiến hành điều trị phòng ngừa. Tôi cho Mao Ngạn Thanh uống thuốc an thần và tìm cách báo cho gia đình anh ta nên sang chữa ở bệnh viện tâm thần. Một chiều, khi tôi đang xem bệnh án, cô y tá chạy hớt hơ hớt hải nói là Giang Thanh đang có mặt trong bệnh viện và muốn nói chuyện với tôi về sức khỏe của Ngạn Thanh. Giang Thanh đi cùng người nữ vệ sĩ chờ tôi trong phòng khách, cạnh buồng Anh Thanh. Tôi thấy vợ Mao một vài lần, nhưng thoáng qua. Bà ta vào đảng ở Diên An, trước đó bà là diễn viên ở Thượng Hải. Tất nhiên, tôi cho rằng quần áo của bà khác hẳn bộ đồ một màu xám của lãnh tụ, làm mode cho tất cả Trung Quốc, nhưng điều tôi nhìn thấy lại rất gây ấn tượng với tôi. Giang Thanh mặc bộ âu phục thanh lịch. Dưới áo gile là chiếc váy bằng nhung lụa mềm mại. Chân bà đi tất – thời ấy được xem là xa hoa – và đôi ủng da màu đen gót thấp. Mái tóc đen dày. Bà có đôi mắt xẫm quyến rũ và nước da trắng như màu ngà voi. Giang Thanh cao khoảng mét sáu mươi, mảnh mai, phần lưng dài hơn phần dưới. Hồi ấy bà 38 tuổi, con tôi thì 30. - Xin chào đồng chí, bác sĩ Lý? Giang Thanh chào tôi lịch sự theo giọng Bắc Kinh, khi tôi ngồi đối diện. Không chờ tôi trả lời, Giang Thanh hỏi luôn: - Sức khỏe Ngạn Thanh thế nào? Mặc dù giọng nói rất thanh lịch nhưng phát ra rất lạnh lùng. Người ta kể rằng thời trẻ Giang Thanh là cô gái duyên dáng. Theo tôi Giang Thanh là một phụ nữ đáng yêu nhưng không đẹp. Bà ta có vẻ vừa đoan trang vừa ngạo mạn. Tôi kể tỷ mỷ tình trạng sức khỏe của Ngạn Thanh và khuyên nên chuyển anh ta đến bệnh viện tâm thần hoặc trại an dưỡng, bởi vì bệnh viện chúng tôi không thể chữa bệnh tâm thần. Giang Thanh nghĩ một lúc, sau đó nói là sẽ nói lại điều này cho lãnh tụ. Để ông ta quyết – Giang Thanh chấm dứt. Khi chia tay chúng tôi bắt tay nhau. Ngón tay bà nhỏ nhắn và mềm mại, móng được thợ sửa cầu kỳ. Cám ơn tôi xong, bà đi ra sân đã có ba vệ sĩ chờ bà. Tôi cảm thấy rằng bà ta không tin tôi. Cái nhìn và ngữ điệu dò hỏi đã toát lên vẻ nghi ngờ của bà đối với những lời và hành động chân thật của tôi. Sau đó bác sĩ tâm thần xác nhận Mao Ngạn Thanh bị điên và người ta gửi anh ta về thành phố nghỉ mát Đại Liên, bắc Trung Quốc. Anh ta sống trong một căn nhà riêng và có cô y tá phục vụ. Họ yêu nhau, nhưng gia đình Mao lại chọn cho anh ta một cô dâu khác, em gái út của cô vợ goá Mao Ngạn Anh. Cô y tá đau khổ trở về Bắc Kinh. Mùa thu năm 1953, một năm sau cuộc gặp ở bệnh viện, tôi lại chạm trán với Giang Thanh, nhưng ở nhà Hồ Kiều Mục, một trong các thư ký của Mao, phụ trách tuyên huấn. Hồ Kiều Mục kính trọng công việc của tôi, và chúng tôi trở thành bạn của nhau. Tôi đến nhà Hồ Kiều Mục để chữa cho ông bệnh dị ứng thuốc và loét dạ dày. Lúc đang khám, thì bỗng nhiên vợ ông, Hồ Hữu, làm việc ở viện hàn lâm khoa học, chạy vào và thông báo rằng Giang Thanh vừa tới. Bà giục chồng: Mặc quần áo nhanh lên. Ông xin lỗi tôi vì phải bỏ dở cuộc khám. Tôi chạm trán Giang Thanh ngay lối vào. Bà bật lên: - Bác sĩ Lý ở đây à! Hồ Kiều Mục giải thích lý do viếng thăm của tôi. Đó là cuộc gặp đã lâu rồi nhưng tôi không quên được giọng lạnh lùng khi bà nói chuyện với tôi. Phụ trách bệnh viện Trung Nam Hải, tôi coi tất cả bệnh nhân như nhau, không phân biệt địa vị, chức vu của họ. Danh tiếng của tôi tăng lên từng ngày. Nhiều người đã hài lòng khi tôi chữa và một số người thậm chí tin tôi, kể cho tôi nghe đời tư và chuyện gia đình để tìm lời khuyên trong tình huống phức tạp. Họ tin tôi vì tôi chưa khi nào làm lộ bí mật việc xưng tội của họ. Cuối năm 1952 tôi được cấp chứng minh thư A dành cho nhân viên gương mẫu của bộ máy. Đó là một vinh hạnh lớn. Sau đó cuối cùng người ta chấp nhận tôi là đảng viên dự bị đảng cộng sản Trung Quốc. Không ai chống tôi cả. Những ai biết tôi, đều nhất trí xác nhận rằng tôi chưa khi nào khoái chính trị cả. Việc thẩm tra lý lịch vào đảng của tôi kéo dài tròn hai năm. Sau này người ta nhắc lại xuất thân của tôi và những hoạt động chính trị chống đảng cộng sản Trung Quốc, khi đất nước Trung Quốc tiến hành làn sóng thanh lọc và đàn áp. Nhưng tháng 11 năm 1952 tôi đã thề với đảng cống hiến tất cả đời mình cho sự nghiệp của đảng và sẵn sàng chịu đựng hy sinh và thiệt thòi cho đảng. Về chủ nghĩa Mác, tôi chỉ đọc qua Tuyên ngôn đảng cộng sản của Mác và hai bài báo của Mao. Ngoài ra, tôi chỉ nhớ một vài bài phát biểu hăng hái của anh tôi và một số khẩu hiệu mác xít đại loại Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu Nhưng tôi cũng không trở thành người đảng viên chân chính. Phần đông đảng viên sống ở Trung Nam Hải thuộc hạng đặc quyền đặc lợi. Họ tham gia công nhân đã lâu và vào đảng khi còn trẻ. Ngoài ra, tất cả những người này đều tham gia Trường Chinh. Họ xuất thân từ dân nghèo, chưa được học hành và mang nặng thành kiến của nông dân ngu dốt. Nhiều người trong số họ ngưỡng mộ hiểu biết của tôi. Tôi đánh giá cao sự nhiệt tình cách mạng và sự sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng cách mạng. Nhưng giữa chúng tôi, như trước đây, cẫn có hố ngăn cách. Họ coi tôi là trí thức, thuộc về tầng lóp bóc lột, và vì thế đâm ra nghi ngờ. Họ áp dụng chính sách lôi kéo, sử dụng và cải tạo đối với tôi. Điều mà đảng quý tôi chỉ là kiến thức của tôi trong lĩnh vực y học và kinh nghiệm của một bác sĩ. Họ được đánh giá đến mức nào trong hành động, tôi biết điều ấy chiều 2 tháng 11 năm 1954. Uông Đông Hưng gọi điện cho tôi và mời tôi đến nhà ông. Uông phụ trách phục vụ bảo vệ trung ương, lo toan bảo vệ an ninh cho gii lãnh đạo đất nước. Ngoài ra, ông còn chỉ huy đội vệ sĩ của Mao. Tôi quen ông trong bệnh viện, khi vợ ông và con nhỏ vài lần tới đó chữa bệnh. Chúng tôi đánh bạn với nhau. Uông là công thần của đảng và tham gia Trường Chinh. Ông gắn cuộc đời của mình với phong trào cộng sản đã hàng chục năm. Uông Đông Hưng gốc gác bần cố nông, khi đó chưa biết lối sống thành phố đã bị cảnh sát bắt giữ khi ông quyết định chữa các thứ cần ngay trên đường phố. Người ta doạ bỏ tù ông, may mà nhờ nhờ khoản hối lộ khá to của ông bố mà Uông thoát khỏi bị tù. Uông chống lại sự bán nước của Quốc dân đảng, và tham gia đảng cộng sản. Ông gặp Mao ở Diên An. Sau năm 1949, người ta bất ngờ đưa ông chức vụ cao, nhưng ông luôn luôn tôn trọng trí thức và đánh giá tôi là bác sĩ nhận bằng cấp phương tây. Ông không muốn nói chuyện qua điện thoại, nguyên do là ông muốn trực tiếp gặp tôi, nên ông phải yêu cầu gặp riêng. Điều này làm tôi ngạc nhiên, bởi vì trước đó Uông Đông Hưng và tôi luôn cởi mở với nhau. Chúng tôi gặp nhau ở một phòng rộng ở Trung Nam Hải, ông sống với vợ ở đó. Căn buồng này vừa là phòng làm việc, vừa là phòng khách, vừa là phòng ăn và thậm chí còn là phòng ngủ. Con cái ông sống trong ngôi nhà nhỏ đầu kia toà nhà có bảo mẫu trông nom. Uông Đông Hưng rót trà và bưng một chén cho tôi. Uông nói: - Đây là chè Long Thanh năm nay. Thử đi đồng chí! Chè này trồng ở Hàng Châu và được coi là ngon nhất ở Trung Quốc. Khác với rượu vang, chất lượng phụ thuộc vào tuổi, thì chè này có giá trị và hữu ích nhất trong năm thu hoạch nó. Uông Đông Hưng biết rạch ròi thưởng thức. Tôi uống một ngụm và thấy ngon. - Tôi có ích như thế nào? Im lặng một lát, Uông Đông Hưng hỏi tôi: - Đồng chí biết vì sao trong thời gian dài tôi không điều đồng chí đi chỗ khác? Tôi trả lời, ngạc nhiên về câu hỏi của ông ta - Tôi không biết. - Tôi theo dõi đồng chí một số năm rồi, mọi người ở Trung Nam Hải quý đồng chí. Đồng chí được bệnh nhân đánh giá cao vì không phân biệt địa vị và chức vụ và không khi nào tỏ vẻ lên mặt. Kinh nghiệm và kiến thức y học của đồng chí, thái độ phục vụ và tính không ích kỷ của đồng chí đã làm cho các đồng chí của chúng tôi, bao gồm cả lãnh đạo cao cấp kính phục. Thậm chí chính Mao Chủ tịch đã nghe về đồng chí chỉ qua những câu ca ngợi. Bây giờ chúng tôi cố tìm một người vào chỗ bác sĩ riêng Mao, và điều này là nhiệm vụ không đơn giản. Uông nói tiếp: - Tôi đã thảo luận với bộ trưởng công an La Thụy Khanh và trưởng ban Ban tổ chức và xếp đồng chí vào công việc này. Về điều này tôi cũng thông báo cả cho thủ tướng Chu Ân Lai. Tất cả đều thống nhất chấp thuận sự lựa chọn của tôi. Hôm qua tôi đã trình tất cả cho Mao, và ông sơ bộ đồng ý. Nhưng trước khi có quyết định dứt khoát, Mao Chủ tịch muốn nói chuyện trực tiếp với đồng chí. Đồng chí cần chuẩn bị. Tôi nghĩ rằng Chủ tịch sẽ nhanh chóng gọi ông đến gặp đấy. Tôi rất bất ngờ tin này. Tôi biết sau cái chết bất ngờ Nhậm Bích Thế năm 1950, tất cả các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc bắt đầu sử dụng bác sĩ riêng. Tuy nhiên giao tôi việc như thế quả là một trách nhiệm lớn. Từ cửa sổ bệnh viện tôi thường nhìn sang nhà nơi Mao ở. Tôi cho rằng ngôi nhà này là trái tim của Trung Quốc, và nhịp đập Mao – cũng là nhịp đập của của nước Trung Hoa. Tôi thậm chí không thể hình đung một lúc nào đó tôi được ở chỗ thần thánh. Mao đối với tôi là người vĩ đại, như ngôi sao trên trời. Đầu óc tôi bâng khuâng. Tôi chẳng tự hào gì về công việc này. Thành phần xuất thân của tôi, bị nghi ngờ có liên quan với Quốc dân đảng, bố tôi làm cho chính phủ Quốc dân đảng, lại thêm tin đồn vợ tôi là gián điệp – mọi người không quên điều đó. Lý Liên không là đảng viên và chẳng khi nào có thể vào đảng được. Nhiệm vụ như thế thường trao cho con cái công nhân và nông dân. Quá khứ của tôi luôn luôn theo sát tôi, và người ta cũng không gạch nó đi cho tôi nhờ. Thêm nữa, Mao cũng đã có bác sĩ riêng. Tôi nhớ lại trường hợp đau buồn trong quá khứ của cụ tôi, từng là thầy thuốc trong hoàng cung thái hậu Từ Hy, sau khi phát hiện bệnh giang mai ở con trai bà – hoàng đế Tường Nghi. Sự đày ải cụ tôi khỏi chức vụ bác sĩ ngự y đã ảnh hưởng tới thế hệ sau, và không ai trong họ chúng tôi có quyền chữa bệnh trong hoàng cung. Tôi phát biểu sự nguy hiểm của mình cho Uông, và tôi cho là mình không xứng đáng làm công việc này, nhưng Uông cười phá lên, trả lời: - Đừng lo! Trước khi cho đồng chí vào đảng, chúng tôi nghiên cứu cẩn thận quá khứ của đồng chí và những người thân của đồng chí. Mọi nghi vấn đã được tháo gỡ. La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn và thủ tướng Chu Ân Lai không nghi ngờ gì về lòng trung thành của đồng chí, và họ cũng an tâm về quá khứ của đồng chí. Nếu không thế thì đồng chí đã chẳng được tiến cử làm bác sĩ riêng của Mao. Quá khứ cụ tổ đồng chí, thuộc về thời phong kiến. Thời nay khác xưa rồi, và đồng chí nên bỏ tất cả những mặc cảm đó đi. Tôi hỏi: - Nhưng Phó Liêm Chương có biết việc này không chứ? Chính Phó Liêm Chương mời tôi quay về Trung Quốc. Đồng chí ấy xếp việc cho tôi và giờ đây là thứ trưởng bộ y tế. Bộ này bộ thuộc Quốc vụ viện cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập mới đây. Trước đây đồng chí ấy lãnh đạo cục bảo vệ sức khỏe, lo về công tác bảo vệ sức khỏe các nhà lãnh đạo cao cấp đất nước. Phó Liêm Chương tự cho mình là bạn thân và là chiến hữu của Mao, đương nhiên, luôn luôn phải quan tâm sức khỏe của Mao nhiều hơn. Vì thế tôi cho rằng giao việc trong tương lai cần nên thảo luận cả với Phó. Uông đáp: - Các đồng chí lãnh đạo cao nhất sẽ quyết định. Dù rằng Phó là thủ trưởng trực tiếp của đồng chí, tôi không nghĩ là chúng tôi nhất thiết phải hỏi đồng chí ấy. Nhưng tôi linh cảm điều này có gì không ổn trong quan hệ với Phó Liêm Chương. Tôi nói với Uông: - Tôi cũng cần nghĩ kỹ đề nghị của đồng chí. Lý do của nó chưa thuyết phục tôi đến cùng. Tôi không cảm thấy mình đang ở Trung Nam Hải, dù rằng về hình thức tôi đã đứng trong hàng ngũ đảng. Lý lịch xuất thân của tôi không khi nào xoá được, và nếu tôi thành bác sĩ riêng của lãnh tụ, thì tôi sẽ luôn nằm dưới sự theo dõi. Nếu lỗi nhỏ người ta nhắc nhở tôi, nếu lỗi to hơn thì lại buộc tội tôi âm mưu chống đảng và lãnh tụ. Toi sẽ tức khắc bị coi là kẻ thù giai cấp, được xem là trọng tội ở nước Trung Hoa cộng sản. Uông nói - Không còn thời gian để đồng chí nghĩ lung tung nữa. Chúng tôi đã quyết định rồi. Lúc này tôi hiểu rằng mình hết lối thoát. Tôi tiếp tục nói: - Nếu tôi đảm nhận trách nhiệm này, thì tôi làm tất cả bào chữa cho lòng tin của đảng nhưng tôi nói trước rằng tôi chưa đạt được trình độ hoàn thiện và tôi muốn người ta tin rằng nếu mắc lỗi thì phạt tôi chứ đừng đổ xuống đầu đồng chí. Thực tế, Uông Đông Hưng quả là rất liều, khi đưa tôi vào nhiệm vụ này. Nếu tôi mắc lỗi gì đó, thì rõ rằng là Uông cũng phải gánh chịu. Chúng tôi sẽ đi với Uông trong một rọ đến khi Mao chết. Uông động viên tôi: - Đừng lo. Dĩ nhiên, đồng chí phải hết sức chú ý và thận trọng, thường xuyên trao đổi với thủ trưởng của mình. Dù vậy quyết định cuối cùng hoàn toàn chưa xong, và đồng chí có thể cân nhắc lợi hại, nhưng chỉ có đồng chí là tự trả lời được. Tất cả chỉ có thế. Tôi nghĩ, đồng chí nên tham khảo ý kiến và tôi không sai khi chọn đồng chí. Bây giờ, đồng chí quay về nhà và chuẩn bị cho cuộc nói chuyện với Mao. Chủ tịch sẽ chấp nhận quyết định cuối cùng. Hãy chờ điện thoại của tôi. Tôi sẽ nói đồng chí thời gian gặp lãnh tụ. Uông Đông Hưng đưa tôi hồ sơ sức khỏe Mao và yêu cầu tôi xem trước. Uông cũng nói rằng Mao sớm rời khỏi Bắc Kinh đi nghỉ ở phương nam. Tôi vẫn làm ở bệnh viện và chờ quyết định cuối cùng. Trong khi chờ đợi, tôi nghe không ít những lời cảnh cáo. Trần Dương Anh, vợ goá Nhậm Bích Thế, một trong số bí thư đảng cộng sản Trung Quốc, nhắc trước tôi rằng công việc sắp tới sẽ chẳng đơn giản chút nào đâu. Sau khi chồng chết, bà sống trong sự thất vọng. Tôi cố an ủi và động viên bà. Bà là người phụ nữ đáng nể, một người vợ chung thuỷ, một người mẹ đáng quý. Sau cuộc gặp này chúng tôi trở thành bạn tốt của nhau. Cùng với Trần Dương Anh, tôi có mặt trong các cuộc hội nghị đảng, đi Thượng Hải và Hàng Châu. Bà kể cho tôi về sự lập dị và quái đản của Mao cảnh báo tôi rằng cẩn thận trọng khi nói chuyện với Mao. Bà nói: - Mao có thói nổi xung bất thường, và một sai sót nhỏ của đồng chí có thể làm ông phát khùng. Vợ ông, Giang Thanh, một người độc ác và thô bỉ với người xung quanh, ngoài việc quyến rũ đàn ông. Đừng bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của bà ta. Nếu đồng chí rơi vào thảm hoạ, thì không ai trong số những người gần Mao giúp được đồng chí đâu. Hơn thế nữa, bất kỳ lúc nào đồng chí có thể chui vào tù đấy. Những lời nói thẳng của Trần Dương Anh làm tôi lo lắng. Tôi phục Mao và cho đấy là lý tưởng. Dĩ nhiên, tôi không so sánh ông với ông vua nhưng uy quyền của ông với tôi là không còn bàn cãi nữa. Không ai có thể dũng cảm phê bình ông. Thêm nữa, chính trong những năm này rộ lên chiến dịch đấu tranh chống bọn phản cách mạng, và nếu ai đó nghe được lợi của Trần Dương Anh, người ta có lẽ buộc tội bà âm mưu và phần tử phản cách mạng. Tôi không bao giờ quên những lời cảnh báo của Trần Dương Anh và năm này qua năm khác tôi tin sự chính xác của bà. Thậm chí bây giờ tôi vẫn còn biết ơn sâu sắc người phụ nữ dũng cảm này vì lòng thiện chí và cởi mở với tôi. Cuộc đấu tranh với phản cách mạng làm tôi bối rối. Cầm đầu chiến dịch là Uông Đông Hưng, người tiến cử tôi làm bác sĩ của Mao. Người ta vẫn tiếp tục quy tội những bác sĩ riêng của một người lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc vào tội chống đảng. Bắt bớ các bác sĩ tiếp tục một số tuần lễ. Hàng ngày tất cả mọi người ở Trung Nam Hải họp mít tinh kéo dài 4-5 giờ liền để xỉ nhục các đồng nghiệp của tôi, trút xuống đầu những bác sĩ vô tội những lời lăng nhục bẩn thỉu. Tôi choáng váng và căm phẫn. Các bác sĩ đâu có được đối xử ngọt ngào, họ đã phải thực hiện công việc chẳng nhẹ nhàng chút nào. Mỗi người trong số họ phải coi sóc sức khỏe chỉ cho một người lãnh đạo. Dù cái chết bất ngờ Nhậm Bích Thế, nhưng những người lãnh đạo vẫn còn khỏe mạnh cơ mà. Kinh nghiệm của bác sĩ cũng chỉ có giới hạn trước bệnh tật. Tất cả họ đều trẻ hơn tôi và mới vào đời. Họ cảm thấy rằng khả năng và kiến thức của họ không được sử dụng hoàn toàn, nghề nghiệp thì mai một, nhưng họ lại không được thực hành ở chỗ khác. Họ không hài lòng là kiến thức và kinh nghiệm của họ chỉ phục vụ cho số ít người được chọn chứ không phải cho tất cả nhân dân, và thế là bị buộc tội chống đảng. Cuộc tấn công vào các bác sĩ vẫn chưa ngừng lại, những lời buộc tội mới hoàn toàn vô lý đã được thêm vào tội của họ. Hứa Đào, bác sĩ của vợ Mao, từng có thời là bác sĩ riêng của Mao trở thành nạn nhân. Người ta buộc tội Hứa Đào không những chống đảng, mà còn tội chế giễu Giang Thanh. Và dù là những lời buộc tội hoàn toàn lố bịch, bản thân Hứa Đào bị dọa trừng trị nặng nề. Các vệ sĩ vợ Mao kể là khi Giang Thanh đề nghị kéo rèm, thì bác sĩ Hứa Đào làm điều đó hơi chậm. Do đó ánh sáng mặt trời thường xuyên chiếu vào mắt Giang Thanh, làm giảm thị lực của bà. Ngoài ra, Hứa Đào còn bị buộc tội chủ ý giảm nhiệt độ phòng của vợ Chủ tịch, và khi bà ta nổi giận thì ông ta chỉ cho bà thấy cái nhiệt kế hỏng đang chỉ mức 25 độ, đó là nhiệt độ mà đồng chí Giang Thanh yêu cầu. Vì tất cả những lỗi này, ông bị buộc tội chống đảng. Cuối cùng tất cả các bác sĩ, trừ một người, đã bị thải hồi. Cần phải nói là họ được chuyển về bệnh viện Bắc Kinh và có thể tiếp tục nghề nghiệp y học của mình. Đó là điều mà họ mơ ước. Trớ trêu thay, Hứa Đào, bị buộc tội nhiều nhất, lại vẫn ở lại là bác sĩ riêng của Giang Thanh Tôi rất thông cảm cho đồng nghiệp của mình và tin rằng họ không có lỗi. Họ chưa hề là thành viên nhóm chống đảng, nhưng tôi không thể lên tiếng bảo vệ họ được. Giá như ai đó nghe được ý kiến của tôi, thì tôi cũng bị buộc tội chống đảng và sự việc cũng chấm dứt. Ngày ấy tôi chưa có nhiều kinh nghiệm và còn ngây thơ. Điều này bắt đầu ngay ngay sau khi tôi trở về Bắc Kinh, khi Lý Liên không thể tìm thấy việc làm. Tôi khi đó hiểu rằng giá như tôi tặng Dương chiếc đồng hồ, thì tất cả mọi việc sẽ khác đi và Lý liên chẳng lo gì việc làm. Năm 1953 bắt đầu chiến dịch chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu, đụng chạm tới gia đình tôi. Anh và chị họ tôi bị buộc tội. Họ từng khuyến khích tôi vào đảng, và tôi không nghi ngờ họ vô tội. Nhưng tôi lại phải ngậm miệng, nếu không thì họ cũng buộc tội tôi là kẻ thù của đảng. Trong khi chưa được vinh dự làm bác sĩ riêng của Mao, tôi đã cảm thấy sự nguy hiểm do là tôi buộc phải làm trái ngược những nguyên tắc sống của mình và truyền thống gia đình. Thông thường trong những trường hợp như thế, tôi phải đứng về một bên, nhưng trong thời gian đấu tố bác sĩ tôi buộc phải đứng ở phía những người buộc tội, bởi vì số phận những người thân của tôi phụ thuộc vào điều đó. Tôi phải lừa dối, nhưng đó là cơ hội duy nhất để giữ được việc làm và trau dồi nghề nghiệp. Tôi cần phải làm điều này, bởi vì thực tế bao hàm cả gia đình tôi. Tôi không buộc tội đồng nghiệp của tôi tội chống đảng mà chỉ xác nhận rằng họ chẳng có điều gì đáng phàn nàn, và mói về sự chưa vững về nghề nghiệp và sai sót phần nào nghề nghiệp bác sĩ, cái đó họ cần học nhiều để làm việc tốt hơn trong tương lai. Bốn mươi năm đã trôi qua, và tôi cũng vẫn còn sợ hãi mặc dù tôi đang sống ở một đất nước tự do và dân chủ – Hoa kỳ. Nghĩ lại chặng đường đã qua nếu tôi mọi thứ lặp lại như lúc đầu và những sai lầm được tính trước thì tôi đã bước đi một cách chính xác. Tôi không có sự lựa chọn. Những người thân phụ thuộc vào tôi, nếu bây giờ tôi còn ở lại Trung Quốc làm chứng cho cuộc đàn áp đẫm máu với những người biểu tình trên quảng trường Thiên An Môn 4 tháng sáu năm 1989, hành động được chính quyền và quân đội gõy ra, thì những người thanh niên cũng không dạy được nữa. Thậm chí giờ đây, trong sự phát triển của Trung Quốc, đảng cộng sản vẫn tiếp tục theo dõi những người vô tội và cưỡng bức ý nguyện của toàn thể nhân dân Trung Quốc. Như những năm trước đây, để mà sống được ở Trung Quốc, cần phải giảm bớt lương tâm và lòng tự trọng. Năm 1954, trong vụ án bác sĩ tôi và không biết rằng đồng nghiệp của tôi chỉ là những con tốt đen trong ván cờ tranh chấp quyền lực giữa Uông Đông Hưng và Phó Liêm Chương. Phó Liêm Chương là thứ trưởng bộ y tế và đảm nhiệm bảo vệ sức khỏe cho các lãnh tụ cao cấp. Các bác sĩ riêng cho họ đều được bổ nhiệm theo lời đề nghị của ông ta. Phó Liêm Chương rất kho có cơ hội nói chuyện với Mao và những người lãnh đạo khác, và vì thế ông ta sử dụng các bác sĩ được tiến cử vào mục đích của mình. Họ không những chỉ thông báo cho Phó về tình trạng sức khỏe của lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, mà còn kể cho họ về tất cả cái gì thấy và nghe được. Điều này giúp Phó trong cơn bão táp chính trị giữ được vị trí của mình và tránh khỏi chỉ trích và buộc tội. Tất nhiên ông quan tâm hơn cả là quan điểm của Mao. Uông Đông Hưng, phụ trách an ninh quốc gia và lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng việc bảo vệ sức khỏe những nhà lãnh đạo cao cấp Trung Quốc cũng là nhiệm vụ của ông ta. Quyền lực của Uông thực tế lớn hơn quyền lực của Phó Liêm Chương. Uông luôn là người có hoài bão chính trị, và ông lại rất gần Mao. Tin tức về hoạt động và phát biểu của các nhà lãnh đạo cao cấp, Uông Đông Hưng nhận được không những từ đám vệ sĩ, mà còn từ các bác sĩ mà Phó bổ nhiệm. Miếng mồi giành độc quyền nguồn thông tin dẫn cuộc cắn xé giữa hai con hổ. Cuộc xung đột tới đỉnh điểm sau khi Uông, không hỏi han gì Phó Liêm Chương đã tiến cử tôi vào chức vụ bác sĩ riêng của Mao. Mâu thuẫn ngấm ngầm ban đầu đã biến thành thù địch công khai. Phó Liêm Chương bắn tin để Mao chống sự bổ nhiệm tôi, lôi thành phần và quá khứ của tôi ra. Trả miếng Phó Liêm Chương, Uông Đông Hưng kích động vụ án bác sĩ, được tiến hành dưới ngọn cờ đấu tranh với bọn phản cách mạng là hoàn toàn tự nhiên. Kết quả là tất cả các bác sĩ do Phó bổ nhiệm bị thải hồi và Uông Đông Hưng ăn mừng chiến thắng. Chia rẽ trong quan hệ mối quan hệ Phó Liêm Chương và Uông tăng lên, và họ trở thành kẻ thù không đội trời chung. Chiến dịch chống bác sĩ cũng bẻ gẫy ý chí của trí thức. Không ai hoài nghi rằng ở Trung Quốc không có chút nhân quyền nào cả có thể sống và nói năng. Mỗi người cần phải bưng mắt tuân theo mệnh lệnh của cấp trên. Một sự không bằng lòng nho nhỏ hoặc một lời nói bừa bãi có thể làm cho anh trở thành kẻ thù của đảng và nhân dân. Trên khắp đất nước, đảng cộng sản Trung Quốc tổ chức các cuộc mít tinh phản đối, tại đó khối quần chúng nhân dân phẫn nộ lên án bọn kẻ thù của cách mạng, đảng và nhân dân Trung Quốc. Mỗi người chỉ là một chiếc đinh ốc nhỏ trong cỗ máy quyền lực khổng lồ phức tạp. Một thoáng nhỏ không hài lòng hoặc lệch khỏi các tiêu chuẩn định sẵn đều có thể bị quy tội và bị gửi đi cải tạo. Tuy nhiên quay lại việc bổ nhiệm tôi. Tôi càng tôn thờ Mao bao nhiêu thì công việc tương lai đe dọa tôi bấy nhiêu. Lý Liên cảnh cáo tôi người ta sẽ không khi nào tha thứ sai lầm của tôi. Sau năm năm sống ở Trung Quốc vợ tôi đã hoàn toàn gột bỏ ảo tưởng đối với những gì xảy ra trong nước. Vợ tôi lúc nào cũng nhớ tới ông bố địa chủ, và tội gián điệp luôn lơ lửng trên đầu vợ tôi như một như thanh gươm Đamocrát. Trong khi đó vợ tôi hiểu rõ rằng tôi không thể thoát khỏi trách nhiệm nguy hiểm này. Trong những năm chung sống vợ tôi luôn luôn lo sợ cho tính mạng của tôi. Một vài tháng trôi qua kể từ hôm gặp Uông. Tôi căng thẳng chờ đợi, nhưng không thấy lãnh tụ gọi. Chương 5 Ngày 25 tháng 4 năm 1955, lúc gần ba giờ, cô y tá trưởng bệnh viện ở Trung Nam Hải với vẻ mặt căng thẳng, bối rối, báo cho tôi biết: nhóm Một vừa gọi điện sang. Cô ta thì thào: Đồng chí hãy đợi ở bể bơi. nhóm Một là bí danh của Mao và những cộng sự của ông ta. Lúc đó ở Trung Nam Hải có hai bể bơi. Một bể ngoài trời, tất cả mọi người đều được phép sử dụng nó trong mùa hè. Một bể khác ở trong nhà, được xây dựng riêng cho những cán bộ lãnh đạo của đảng. Tuy vậy, dần dần, bể bơi này chỉ có Mao sử dụng và sau này ông thường hay tới đó, đến nỗi người ta phải xây thêm một phòng ngủ, một phòng tiếp khách và một phòng làm việc cho ông ngay tại bể bơi. Năm 1967, trong khi Cách mạng văn hóa đang diễn ra. Mao đã dọn đến ở hẳn tại ngôi nhà có bể bơi đó cho đến khi ông gần qua đời. Tại đây, ông đã đón tiếp tổng thống Nixon, thủ tướng Tanaca và nhiều chính trị gia nước ngoài khác. Ngay từ năm 1955 chữ bể bơi đã luôn gắn liền với Mao. Bây giờ cũng vậy, Chủ tịch đã đích thân ra lệnh cho tôi. Như thường lệ, hôm đó công việc ở bệnh viện rất bận rộn và một số bệnh nhân đã kiên tâm chờ đợi hàng giờ liền. Tôi có nhiệm vụ phải lo cho họ trước khi tôi đến bể bơi bằng xe đạp. Lý Ẩm Kiều, người đội phó đội vệ sỹ của Mao vội vã đi về phía tôi - Tại sao đồng chí đến muộn thế? – anh ta hỏi với vẻ đầy lo âu – Đồng chí bắt Chủ tịch Mao phải chờ à?. - Tôi còn phải điều trị cho các bệnh nhân – tôi giải thích – Chủ tịch ốm à? Chủ tịch cần chăm sóc thuốc men không? - Không, Chủ tịch chỉ muốn nói chuyện với đồng chí. Lý Ẩm Kiều đưa tôi đến bể bơi. Mao đang nằm trên phản gỗ, say sưa đọc sách. Ông khoác một chiếc áo tắm băng vải bông lên tấm thân trần và quấn một chiếc khăn bông khác ngang hông. Trông ông vẫn nặng nề và to lớn như lần đầu tiên tôi thấy ông trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn. Ông có đôi vai rộng, bụng phệ và sắc mặt hồng hào. Tóc ông luôn đen và dày, trán rộng, da bóng và không có lông tơ. Cặp đùi của ông gầy, hai bàn chân thô luôn xỏ đôi tất màu cà phê. Lý Ẩm Kiều báo tôi đã đến và tôi liền xin lỗi ông vì sự chậm trễ của mình. Mao không hề bực mình. Ông để quyển sách sang bên rồi bảo Lý mang một chiếc ghế đến cho tôi. Những vệ sỹ của Mao thường thi hành ngay lệnh của ông. Cứ bốn người trong số họ cắt nhau túc trực phục vụ Mao hàng giờ. - Trương Trí Đông chẳng bao giờ ăn đúng giờ, ngủ đúng giờ – Mao giải thích (ông tự liên hệ mình với một quan chức cao cấp trong triều đại nhà Thanh) – Tôi cũng như Trương. Mấy giờ rồi? - Bây giờ là 4 rưỡi chiều ạ – tôi trả lời. - Giờ này đối với tôi vẫn còn là bình minh. Đồng chí dậy lúc mấy giờ? Tôi lúng túng. Vì sau bữa ăn trưa phần lớn người Trung Quốc thường chợp mắt một chút và tôi vẫn chưa hề biết thói quen của Mao, nên tôi không dám chắc là ông muốn biết tôi dậy sau giấc ngủ trưa vào lúc nào hay tôi dậy vào buổi sáng lúc mấy giờ. - Buổi sáng tôi thường dậy lúc gần 6 giờ – cuối cùng tôi đã nói – và buổi chiều tôi chợp mắt một chút ạ. - Đồng chí là bác sỹ – Mao vừa cười vừa nói – nên đồng chí mới lưu tâm đến sức khỏe và cuộc sống của đồng chí theo thời gian biểu một cách nghiêm ngặt. Trong cái nhìn của Mao, ông tỏ ra là người hiểu biết và chắc là nhân ái – bằng điệu bộ của ông nhiều hơn là bằng lời nói. Tôi bị ông chinh phục, vì tôi cảm thấy mình đang đối diện với một người vĩ đại. Ông hút thuốc lá của Anh, mác 555. Khi hút, ông dùng thêm tẩu. - Tống Khánh Linh vợ goá của Tôn Trung Sơn tặng tôi cái tẩu này và khuyên đã khuyên tôi nên dùng tẩu, bên trong có đầu lọc để giảm hàm lượng nicotin. Tôi đã hút thuốc từ nhiều năm nay nhưng tôi luôn tự hỏi, chất nicotin đã gây tác hại như thế nào. Đồng chí có hút thuốc không? - Tôi có hút, nhưng không nhiều. Buổi tối, sau giờ làm việc tôi thường hút ba hoặc bốn điếu. - Đồng chí là bác sỹ hút thuốc đầu tiên mà tôi biết. Ông nói nhiều lần về tẩu thuốc và vừa nhìn tôi vừa cười chế nhạo tinh quái. - Hút thuốc cũng là phương pháp luyện tập hít thở tốt đúng không? Tôi không biết ông nói đùa hay nói thật, nên tôi chỉ cười và không nói gì. Mao nhìn tóc tôi, rồi nói: - Đồng chí chỉ trên 30 tuổi, mà sao tóc đã sớm bạc như tôi thế? Tôi đáp, tóc tôi bạc trước tuổi là theo gen di truyền. - Cứ theo tóc mà phán, thì tôi già hơn Chủ tịch nhiều. Mao cười: - Đồng chí nịnh tôi chứ gì? Dần dần tôi đã bạo hơn. Mao hỏi tôi về việc học hành, về quá trình công tác của tôi và lắng nghe tôi nói. - Từ khi đi học, đồng chí đã được giáo dục hoàn toàn theo kiểu Mỹ – ông nói- Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng, người Mỹ đã ủng hộ Tưởng. Và ở Triều Tiên họ cũng đã chống lại chúng ta. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích những người đã từng học ở các trường của Mỹ và Anh làm việc cho tôi. Tôi cũng rất thích ngoại ngữ. Người ta đã nhiều lần đề nghị tôi học tiếng Nga, nhưng tôi không thích. Tôi thích tiếng Anh hơn. Có lẽ đồng chí có thể giúp được tôi việc này? Tôi đồng ý. Mao ngừng nói, rồi nghiêm giọng: - Mới có 15 tuổi, khi vẫn còn là trẻ con, đồng chí đã gia nhập tổ chức Phục hưng Quốc gia vào năm 1935. Khi đó, đồng chí chưa hề hiểu chính trị là gì. Ngoài ra, đồng chí đã kể những mẩu chuyện về quá khứ của đồng chí. Tôi thấy không có vấn đề gì. Ông kể cho tôi nghe về Lý Thế Dân, vị hoàng đế lập ra triều đại nhà Đường (618-907), đã từ chối lời can ngăn của quan thượng thư không nên dùng một viên tướng không rõ lai lịch ngay cả khi viên tướng đó ngoan ngoãn tuân lệnh vua. Nhưng viên tướng đó lại có tài năng phi thường và đã phụng sự nhà vua rất tích cực. Chẳng bao lâu nhà vua và viên tướng đó đã cộng tác với nhau rất chặt chẽ Mao nhìn tôi, nói: - Đó chính là sự thành thật. Chúng ta cần phải thành thật với nhau. Quan hệ và sự thành thật của chúng ta cần phải trải qua thử thách trong một thời gian dài. Mao nói tiếp: - Chúng ta lấy Hứa Thế Hữu làm thí dụ – Ông nhắc đến nhà sư từng là tỉnh đội trưởng tỉnh Nam Kinh – Hứa Thế Hữu nguyên là đồng chí của Trương Quốc Đạo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản Trung Quốc nhưng đã chạy sang hàng ngũ Quốc dân đảng sau khi cãi vã với Mao. Hứa Thế Hữu không chịu theo Trương Quốc Đạo và giải thích điều đó là do lòng trung thành của ông đối với Mao. Trong đợt chỉnh huấn năm 1942 ở Diên An, nhiều người ngờ vực lòng trung thành của Hữu, vì trước đó đồng chí ấy đã từng làm việc cho Trương Quốc Đạo. Hứa bị phê bình kịch liệt. Đồng chí ấy đã thất vọng và nghĩ đến việc rút quân của mình khỏi Diên An. Khang Sinh muốn bắt và xử bắn đồng chí ấy. Nhưng tôi muốn đích thân nói chuyện với đồng chí ấy. Nhiều người ngại rằng đồng chí ấy có thể làm gì tôi, nhưng tôi không sợ. Khi gặp tôi, đồng chí Hứa đã khóc. Tôi nói, đồng chí ấy đừng khóc nữa và trả lời hai câu hỏi đơn giản của tôi: Đồng chí tin Trương Quốc Đạo hay tin tôi? tôi hỏi. Tất nhiên, tôi tin đồng chí đồng chí Hứa trả lời. Đồng chí muốn đi hay ở lại, tôi hỏi tiếp. Tất nhiên là tôi muốn ở lại đồng chí ấy đáp. Và tôi nói: Được, đồng chí hãy ở lại. Đồng chí tiếp tục chỉ huy bộ đội của đồng chí. Thế thôi. Từ đó, đâu phải Hứa Thế Hữu đã không hoàn thành nhiệm vụ của đồng chí ấy. Sau khi lo lắng và nản lòng cả năm trời, bỗng nhiên tôi cảm thấy vững tâm. Mao đã gạt bỏ nguồn gốc xuất thân và quá khứ chính trị của tôi. Ông là người lãnh đạo cao nhất và không ai có thể nghi ngờ uy tín của ông. Một vệ sỹ đến chuẩn bị bữa ăn cho Mao. Chủ tịch mời tôi dùng cơm chung. Nhiều món ăn được chọn cho phù hợp – cá, thịt lợn với ớt thái lát (món ăn mà Mao thích), thịt cừu xào với tỏi tây và một đĩa rau. Trong khi đó các món ăn thường được đảo qua dầu nóng được dưới thêm xì dầu và rắc thêm muối. Vào giữa những năm 1950, hầu hết mọi người đều phải chịu dựng một cuộc sống nghèo khó, thực phẩm thiếu thốn và dầu ăn trở thành một món ăn xa xỉ. Nhưng tôi lại quen ăn những món nhúng dầu. Vì vậy tôi đã phải cắn răng nhịn. - Đồng chí không ăn à? – Mao có vẻ trách tôi – Món cá ngon lắm, thịt lợn cũng thế. - Tôi không đói lắm – tôi cáo từ. Mãi sau này tôi mới quen với khẩu vị của ông. - Đây là bữa sáng và bữa trưa của tôi – ông nói – Mỗi ngày tôi ăn hai bữa là đủ. Hình như bây giờ chưa phải là giờ ăn của đồng chí? Chúng tôi tiếp tục trò chuyện. Ông muốn biết tôi có luôn quan tâm đến triết học không. - Khi còn là sinh viên, chưa bao giờ tôi đọc những cuốn sách giáo khoa về nghề y của tôi kỹ lưỡng như tôi mong muốn – tôi đáp – Tôi không có thời gian để đọc những cuốn sách khác. Từ khi trở thành bác sĩ, tôi hoàn toàn dành thời gian cứu bệnh nhân. Vì vậy, đến nay tôi không có điều kiện để đọc sách về triết học. Nhưng tôi cũng đã đọc hai bài của Chủ tịch: Bàn về thực tiễn và Bàn về mâu thuẫn. Thực ra, tôi rất thích hai bài này. Mao viết rất hay, dung dị và chính xác. Bài Bàn về thực tiễn đã cho tôi thấy, sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể có được từ hành động hơn là từ những lý thuyết suông. Đó là một bài học bổ ích đối với một bác sĩ phẫu thuật tương lai. Bài Bàn về mâu thuẫn đã giải thích cho tôi, rằng người ta cần phải tìm hiểu bản chất của vấn đề thay vì tập trung vào hiện tượng bên ngoài của nó. Mao cười. - Trong cuộc kháng Nhật (1937-1945) tôi đã đề nghị đưa môn triết học vào Trường đại học chống Nhật ở Diên An. Lúc đó tôi nghĩ, tôi còn đúc kết kinh nghiệm cách mạng của chúng ta, trong đó tôi đã kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác vào thực tế cụ thể ở Trung Quốc. Vì thế tôi đã viết cả hai bài này. Tôi nghĩ, bài Bàn về thực tiễn có ý nghĩa hơn bài Bàn về mâu thuẫn. Tôi phải viết đề cương bài Bàn về mâu thuẫn trong hai tuần, nhưng bài giảng thì chỉ có hai tiếng đồng hồ. Sau này, nếu đôi khi nhớ lại tôi đã tự hỏi, tại sao trong lần gặp đầu tiên, tôi lại gây ấn tượng tốt cho Mao như vậy, thì tôi lại phải nghĩ đến đoạn trao đổi này. Ngay sau đó ít lâu, tôi trở thành người gần gũi với Mao và với các cộng sự tin cậy nhất của ông, tôi mới biết, hai bài viết này quan trọng đối với Mao như thế nào. Mao coi đó là những bài học cơ sở đưa đến sự phát triển triết học của chủ nghĩa Mác-Lê nin – tức là sự áp dụng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cụ thể của Trung Quốc. Không những Liên Xô đã coi thường bài viết này, mà còn gán cho những bài viết đó có tính chất xét lại. Có tin đồn Stalin đã cử P. F. Yudin, một triết gia Mác xít- Lê nin nít nổi tiếng sang làm đại sứ Liên Xô ở Trung Quốc. Do vậy, ông ta đã gần gũi với tư tưởng Mao và viết bài về tư tưởng đó. Mao thường gặp Yudin, rồi hai người tranh luận với nhau đến tận đêm khuya. Nhưng Yudin đã cương quyết phủ nhận những quan điểm của Mao, cho đến khi Mao phật lòng. Có phải thứ triết học nào đã va chạm với Mác và Lê nin ở giới hạn của nó?, đôi khi ông hỏi. Sự liên hệ với kinh nghiệm cách mạng của Trung Quốc không thể tạo ra những tư tưởng triết học mới sao? Tuy nhiên buổi chiều hôm đó tôi vẫn chưa biết tất cả sự việc mà Mao vẫn còn dè dặt. Ông nói: - Tôi nghĩ, đồng chí nên đọc vài cuốn sách triết học. Là bác sỹ, điều đó có thể rất bổ ích đối với đồng chí. Tôi vừa mới đọc xong Phép biện chứng tự nhiên của ăng ghen. Đồng chí cầm cầm lấy cuốn sách này. Tôi đã từng nghe, ở các trường đại học bên Mỹ người có học vị hàn lâm cao nhất trong khoa học tự nhiên và thần học là tiến sĩ triết học. Rõ ràng, người Mỹ cũng có quan điểm cho rằng, trong tất cả các ngành khoa học, triết học đóng một vai trò đầy ý nghĩa. Tôi đã nắm được điều quan trọng đó để nghiên cứu lịch sử. Nếu không biết gì về lịch sử, chúng ta không thể hiểu được cái gì đang xảy ra trong hiện tại. Và đồng chí cũng nên biết về văn học. Một khi là bác sỹ, thường xuyên giao tiếp với nhiều người, đồng chí chỉ sử dụng những kiến thức y học không thôi, thì đồng chí không còn quan tâm đến những điều khác. Đồng chí sẽ không nói được ngôn ngữ như vậy. Mao dừng một lát. - Hôm nay như thế là đủ rồi. Trong tương lai chúng ta sẽ còn có nhiều dịp để thường xuyên trao đổi với nhau. Khi ra về, ông bất chặt tay tôi. Hơn bảy giờ tối, tôi rời bể bơi mà trong đầu chất chứa bao suy tư. Cuộc gặp gỡ có quá nhiều bất ngờ. Trước tiên, tôi thấy Mao nằm trên giường và tôi đã làm quen với thói quen ngủ nghê kỳ quặc, lối khôi hài khô khan của ông. Rốt cuộc, ông đã làm cho tôi phát điên lên, khiến tôi nói năng huyên thuyên. Ông là người làm cho người khác sợ hãi, đồng thời ông cũng là người xã giao không ngoan và không sùng bái thần tượng. Sự hồi hộp đã biến mất và tôi cảm thấy yên tâm hơn so với những năm trước đây. Mặc dù giữa chúng tôi vẫn luôn luôn còn hố sâu ngăn cách và tôi chỉ biết rất ít về ông, nhưng tôi chắc rằng, tôi đang đối diện với một nhân vật quan trọng. Tôi rất tự hào vì đã được giao nhiệm vụ đày tin cậy là phục vụ ông. Đó là một dịp may mà tôi không dám mơ đến. Nhưng liệu tôi có hoàn thành nhiệm vụ hay không? Tôi nên chuẩn bị như thế nào đây? Người ta đã trông mong ở tôi điều gì? Tôi lập tức tìm gặp Uông Đông Hưng. Tôi kể cho ông ta nghe về cuộc nói chuyện của chúng tôi. Uông hoan hỷ. - Đồng chí thấy không? Tôi đã nói ngay với đồng chí là đồng chí sẽ toại nguyện. Đó là sự khởi đầu tốt đẹp. Sau cũng thế! Chuông điện thoại reo. Vệ sỹ của Mao là Lý Ẩm Kiều gọi điện đến. Tôi đã gây ấn tượng rất tốt đối với Mao và tôi đã vượt qua được thử thách. Mao muốn tôi sẽ là bác sỹ riêng của ông. - Tôi sẽ báo việc này cho Bộ trưởng công an La Thụy Khanh- Uông nói – Bây giờ đồng chí về nghỉ đi. Và nhớ giữ kín tất cả những gì đã xảy ra ngày hôm nay. Lý Liên là người duy nhất được tôi kể cho nghe về nhiệm vụ mới của tôi. Cô ấy cũng nghĩ, hẳn tôi phải gây được thiện cảm tốt đẹp rồi. Nếu không thì Mao đã không nói chuyện với tôi lâu như vậy và lại còn mời tôi cùng dùng cơm. Nhưng tôi vẫn còn băn khoăn. Tôi nói: - Chúng ta sẽ thấy liệu công việc của tôi có thuận lợi như vậy hay không? Hôm sau Phó Liêm Chương gọi điện cho tôi và mời tôi đến thăm nhà ông ở ngõ Dây Cung. Tôi đạp xe đến nhà ông ta. Lần này, ông đích thân ra tận cửa chào và bất tay tôi: - Đồng chí kể cho tôi nghe đi Tôi không hề hay biết, tin mới này lại lan nhanh đến như vậy. Phó Liêm Chương lắng nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ giữa tôi và Mao. Câu chuyện thường làm ông phấn khích. Ông rót trà mời tôi, hai lần đi quanh bàn trà nhỏ và lẩm bẩm: Thật là may mắn. Cuối cùng ông ta cười và nói với tôi: - Đồng chí thật may mắn. Lần đầu gặp Mao chủ tịch mà đồng chí đã được nói chuyện với Chủ tịch lâu như vậy. Được lắm! Tôi cảm thấy Phó Liêm Chương ngạc nhiên ra mặt và có ý ghen tị. Phó Liêm Chương nói: - Năm 1934, lúc đó Chủ tịch mắc bệnh sốt rét, nhưng Chủ tịch lại muốn ra mặt trận, nên Chủ tịch đã yêu cầu tôi chạy chữa cho Chủ tịch. Khi đó, tôi đã cho Chủ tịch uống ký ninh. Và thế là Chủ tịch lại ra trận được và giao phó cho tôi chăm sóc vợ Chủ tịch đang có mang, đó là nữ đồng chí Hạ Tử Trân. Tôi đã đỡ đứa con của họ chào đời. Hai má Phó nóng bừng, khi ông nhớ lại thời kỳ đó. Những hạt mồ hôi lăn trên trán ông. Ông nhấp vài ngụm nước đun sôi. Ông nói ngắn gọn: - Tôi không những uống trà mà còn dùng bất cứ chất kích thích nào. Sau đó, Chủ tịch đã cứu vớt đời tôi. Phó nói tiếp và lái câu chuyện sang hướng khác. Lần đó tôi bị buộc tội là thành viên của nhóm chống bôn-sê-vích của Quốc dân đảng và Chủ tịch Mao đã đứng ra bảo vệ tôi. Hồi trẻ, tôi mắc bệnh lao và lần đó Chủ tịch cũng rất tốt với tôi. Trong cuộc Vạn lý trường chinh, khi mọi người khác phải đi bộ, thì Chủ tịch đã để cho tôi cưỡi ngựa. Vì sức khỏe của tôi rất yếu, nên Chủ tịch rất quan tâm, bảo người lo cho tôi mỗi ngày được ăn một con gà. Hồi đó, thịt gà đắt lắm và khó mua nữa, nên mỗi ngày ăn một con gà thì thật là xa hoa không tưởng tượng nổi. Phó rót thêm trà cho tôi và nói tiếp: - Tôi đã kể tất cả cho đồng chí nghe, vì tôi muốn đồng chí hiểu Chủ tịch. Tôi biết quá ít về thời kỳ đầu của đảng cộng sản Trung Quốc và quá khứ của Mao. Vì vậy tới đòi Phó kể tiếp câu chuyện. - Cái mà đồng chí kể, cho tôi nghe lúc này rất bổ ích đổi với tôi. Phó cười. - Chủ tịch mắc chứng mất ngủ. Đầu những nàm 1930, trong thời gian ở Giang Tây, tôi đã phải hóa trang thành thương gia để đến Thượng Hải mua thuốc giảm đau veronal và đường gluco. Tôi đã chỉ dẫn cho Chủ tịch dùng thuốc trước khi đi ngủ. Thuốc đã có hiệu quả và Mao rất sung sướng. Đồng chí thấy đấy, tôi vẫn trung thành với Chủ tịch. Bây gìờ, Chủ tịch và tôi đều già rồi, nhưng tôi không còn sung sức như Chủ tịch. Phó nhìn tôi chăm chú. - Việc đồng chí được giao nhiệm vụ có nghĩa là đảng đã tin tưởng đồng chí – ông nói – Đó là một nhiệm vụ vinh quang, nhưng cũng đầy khó khăn. Bữa ăn được dọn ra. Phó nói: - Hôm qua, Chủ tịch đã mời đồng chí dùng cơm, nay đến lượt tôi. Đó chỉ là bữa ăn đạm bạc, ngoài các món khác còn có món gà. - Hàng ngày tôi thường ăn gà. Ông gọi người mang rượu vang ra và nâng ly. - Thường thường tôi không uống rượu vang, nhưng hôm nay là ngoại lệ – ông nói tiếp – Là bác sỹ riêng của Mao Chủ tịch, đồng chí cần phải thận trọng. Nếu có điều gì, đồng chí cứ nói với tôi. Tôi sẽ giúp. Tôi không biết Phó có thể giúp tôi ra sao. Rõ ràng ông chỉ muốn nghe được càng nhiều càng tốt về Mao và về những hoạt động của Mao. Sau đó, Phó ăn một chút thịt gà, rồi đặt đĩa của mình sang bên. Ông nói: - Mỗi ngày tôi ăn năm bữa, nhưng ăn rất ít. Chủ tịch muốn đồng chí dạy tiếng Anh cho Chủ tịch – Phó nói tiếp – Đấy là một dịp may đề đồng chí kết thân với Chủ tịch. Đồng chí không những phải chăm sóc sức khỏe cho Chủ tịch, mà còn phải làm tất cả những việc mà Chủ tịch đòi hỏi. Tôi cảm thấy lời khuyên của Phó đã xúc phạm tôi. Tôi đáp lại không đắn đo: - Một khi tôi làm theo lời khuyên của đồng chí, thì tôi lấy đâu ra thời gian cho chuyên môn của tôi. Phó nghiêm nghị: - Đồng chí cần phải nhìn nhận vấn đề như thế này: Chủ tịch uyên bác lắm và đồng chí có thể học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Đồng chí là bác sỹ. Nếu đồng chí mở mang kiến thức của mình, đồng chí sẽ thường xuyên có nhiều cơ hội hơn để trao đổi với Chủ tịch. Khi đó đồng chí sẽ hiểu Chủ tịch hơn. Mao cũng đã khuyên tôi trau dồi, mở mang kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau và tới hiểu rằng Phó có lý. Mao vẫn còn trẻ, khỏe và nhiệm vụ của tôi không chỉ kéo dài vài năm để chữa chạy bệnh tật cho ông, mà còn phải lo cho ông luôn luôn khỏe mạnh. Tôi phải làm quen với cá tính, đặc điểm, thói quen của ông và chiếm được lòng tin của ông. Tôi cảm ơn lời khuyên của Phó. Ông ta nắm tay tôi và siết chặt. - Tuần nào cũng đến tôi nhé. Ngoài phố, người đông nghịt, không khí ngày lễ tràn ngập. Bắc Kinh đang sửa soạn đón ngày lễ mồng l tháng Năm, những tòa nhà được trang hoàng bằng những tấm biểu ngữ và những lá cờ đỏ rực. Lòng tôi lâng lâng hạnh phúc. Sau khi trỏ về, giấc mơ của tôi tan nhanh như bong bóng xà phòng. Những người cùng thế hệ với tôi – anh em ruột, họ hàng và nhiều bạn bè tôi đã tìm được chỗ đứng của họ trong xã hội mới, cách mạng này. Họ từng là chiến sỹ lão thành, những người đàn ông của những năm 30 ở Diên An, họ là những người cách mạng tiên phong. Sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, họ đã được thưởng những chức vụ quan trọng. Mặc dù, trong phong trào Ba chống, đôi khi họ đà phê bình nhau để bám giữ chức vụ của họ và bây giờ họ được kính trọng như những người thành đạt trong xã hội. Họ là những người lãnh đạo cao cấp làn việc trong các bệnh viện lớn của đất nước và được ton kính. Ngược lại, sự nghiệp của tôi lại bế tắc. Mặc dù trước đó ít lâu thủ tướng Chu Ân Lai đã thông báo, bệnh viện của tôi ở Trung Nam Hải sẽ sát nhập với bệnh viện đã xây dành cho Hội đồng nhà nước, và thủ tướng sẽ bổ nhiệm tôi làm giám đốc bệnh việc mới này. Nhưng tất cả sự thay đổi cơ cấu là còn đang dang dở. Tôi không hiết tương lai sẽ ra sao. Nhờ trở thành bác sỹ riêng của Mao, bây giờ tôi có thể rời khỏi bệnh viện và thoát khỏi sự tù túng của nó. Khi trở thành bác sỹ riêng của Mao, tôi được nhiều người kính trọng. Mao là người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc và được hàng triệu người tôn sùng. Nhưng ông sống xa lánh với tất cả mọi người, thậm chí với cả những nhà chính trị thân cận nhất của ông. Ông được bảo vệ rất cẩn mật. Với người thường, ông là nhân vật khó hiểu và khó gần. Ngay những cán bộ cao cấp của đảng cũng không thể trực tiếp gặp ông và chỉ trong những cuộc họp chính thức họ mới có thể gặp mặt ông. Là bác sỹ riêng của Mao, tôi thường xuyên túc trực bên ông, ngày nào tôi cũng chỉ cho ông học tiếng Anh, nói chuyện với ông về triết học và chứng kiến những điều xảy ra xung quanh ông. Cuộc đời tôi đã thay đổi. Bầu trời mở ra, đất ôm lấy tôi. Tôi không còn là tôi nữa. Ngay sau khi trở về vào năm 1949, tôi đã tìm gặp Phó Liêm Chương. Trong lúc chào hỏi tôi, ông không hề đứng dậy và mặc dù vậy tôi vẫn cảm thấy vinh hạnh được một cán bộ cao cấp như vậy đón tiếp. Bây giờ ông lại mở cửa cho tôi gần như với vẻ nhũn nhặn. Tôi sớm nhận ra rằng, bỗng nhiên nhiều chính trị gia cao cấp đối xử với tôi lễ độ, ân cần và họ cứ muốn gợi chuyện tôi. Tôi không còn là một thầy thuốc bình thường nữa, mà đã là bác sỹ riêng của Mao. Lòng tôi dâng lên niềm hân hoan! Chương 6 Chỉ vài ngày sau khi tôi được tiếp kiến Mao lần đầu vào buổi chiều ngày lễ mồng một tháng Năm, một vệ sĩ của Mao đã triệu tôi đến ngay để gặp chủ tịch vào buổi tối. Tôi vội đến tư dinh của Mao và nhận ra ông ông ta bị ốm. Nhưng tại sao người ta lại gọi tôi muộn như vậy? Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ bước chân vào cái tư dinh thâm nghiêm, có vẻ đầy bí ẩn của Mao. Đối với tôi cuộc Vạn lý trường chinh của bản thân tôi, từ một bác sĩ bình thường trở thành một nhân viên Trung tâm của cuộc cách mạng, đã chấm dứt. Tôi nghĩ, từ nay trở đi, tôi sẽ gắn chặt với cái vương quốc thâm cung bí sử này. Một người gác đi vượt lên trên trước tôi. Hình như Mao thường sống một cuộc sống khổ hạnh và ông là một tấm gương về sự tiết kiệm. Sau khi ông qua đời, cái cửa tư dinh của ông được mở ra thì những đồ dùng cũ kỹ, chiếc áo khoác buổi sáng, chiếc áo bành tô ông mặc mới xuất hiện trước công chúng là những bằng chứng cho thấy ông đã cự tuyệt sự xa hoa một cách có ý thức. Mao vốn là một nông dân và có sở thích đơn giản. Mao chỉ mặc quần áo khi chẳng đừng, còn hầu như lúc nào ông cũng khoác một chiếc áo choàng và nằm trên giường, để chân trần. Khi cần, ông mặc nhưng bộ quần áo đã sờn, đi đôi giày buộc dây đã mòn đế. Theo quy định, ông chỉ mặc bộ quần áo kiểu Mao và đi giày buộc dây khi ông xuất hiện trước đám đông. Thông thường, một trong những vệ sĩ của Mao phải sửa lại giày mới cho ông. Những bức ảnh cho thấy ông ăn mặc tươm tất khi đang làm việc trong văn phòng của ông đều là được bố trí sẵn. Hầu hết công việc, ông đều giải quyết trong phòng ngủ hoàc bên thành bề bơi. Mặc dù vậy, ông sống như một hoàng đế. Tư dinh của ông năm ở chính giữa khu Trung Nam Hải, ngay trong vườn hoa của triều đình trước đây, hướng về phía Nam, giữa hồ Trung và hồ Nam. Tư dinh này được canh gác cẩn mật nhất thế giới. Khách nước ngoài có cảm giác rằng, những vị trí canh phòng có vũ trang không hề bỏ sót một chi tiết nào. Thực ra, tuy lính gác được bố trí khắp nơi ở Trung Nam hải, nhưng họ kín đáo đến nỗi người ta không nhận ra ngay điều đó. Họ chủ yếu tập trung vào Mao và tư dinh của ông. Vệ sĩ của Mao đồng thời cũng là những người phục vụ ông ta. Họ đều mang súng ngắn, nhưng thực ra họ không cần phải mang vũ khí, vì bên ngoài khu vực trọng yếu đó người ta đã thực hiện những biện pháp an ninh nghiêm ngặt đến nỗi tư dinh của ông kín như cái kén. Bên cạnh những vệ sĩ của Mao thường trấn ở bên ngoài cũng như bên trong tư dinh, còn những trạm gác ngoại vi của những nhân viên của Chánh văn phòng an ninh Uông Đông Hưng. Họ cũng đều được vũ trang. Những người lính có vũ trang của các đơn vị đồn trú trung ương, tuy chính thức dưới quyền của Bộ tổng tham mưu, nhưng thực ra lại thuộc quyền cai quản trực tiếp của Uông Đông Hưng với tư cách là Phó phòng an ninh công cộng, canh gác những khu vực lân cận của Trung Nam Hải. Mao cứ định đi đâu, là ở đó người ta phải lo bảo vệ Nơi ở của Mao được giữ tuyệt mật. Chỉ có những cán bộ lãnh đạo cao nhất của đảng mới được thông báo nơi ở của ông. Khi ông công khai tới Trung Nam Hải, xe chở ông được đỗ cách biệt với dân chúng, để người ta khỏi nhận ra số xe của ông. Ngoài ra, biển số xe thường xuyên được thay đổi. Ngay sau khi những người cộng sản cướp chính quyền, những biện pháp an ninh một phần được thực hiện theo một phần kiểu của Liên Xô, một phần theo kiểu của thời vua chúa ngày xưa. Dinh thự của Mao, vốn được xây dựng từ thời Càn Long (1735-1796), vừa là thư viện vừa là nơi ẩn dật của vua. Ngôi nhà này hàng thập kỷ không được giữ gìn cẩn thận và có nguy cơ bị hỏng. Nó vẫn chưa lấy lại được cái vẻ hào nhoáng ngày xưa, vì công việc sửa chữa còn đang dở dang. Khi lần đầu bước vào ngôi nhà đó, tôi có ấn tượng rằng nét hào hoa chính là ở sự giản dị có chủ ý trong nội thất. Nhưng Càn Long vốn là người ưa hiện đại. Cổng chính dân đến tư dinh của Mao ở phía Nam toà nhà, theo lệ cổ, được sơn màu tươi mát. Tấm bảng gỗ treo trên cổng mang chữ Vườn thượng uyển. Tất cả những chữ viết treo trên những lối vào toà nhà đều là bút tự của Càn Long. Những viên ngói trên mái đều có màu xám, chứ không phải vàng suộm? Như trong Cấm Thành, nhưng những toà nhà lại được xây dựng theo cùng một phong cách như nơi ở của vua. Bên trong cổng chính, ở hai bên lối đi là hai căn phòng nhỏ thường có vệ sĩ. Chỉ có những người có chứng minh thư loại A mới được phép đi vào toà nhà có tường bao bọc xung quanh đó. Đi qua một cái sân rộng là đến ngay Phòng trường sinh mà Mao đã ở trong đó, đã đón tiếp khách nước ngoài và tổ chức lễ tiệc trước khi xây Đại lễ đường nhân dân vào năm 1959. Sau Phòng trường sinh là Phòng giao hòa, nơi thư viện khá phong phú của Mao đã được chuyển vào, nhưng hầu như thường đóng cửa im ỉm. Những phòng riêng của Mao, được kể là có mùi hoa cúc, ở sân thứ hai có mái che ở trên nối với sân thứ nhất. Dưới bóng những cây thông và những cây trắc bá già đẹp đẽ là những chiếè bàn, những chiếc ghế bằng mây. Mùa hè Mao thường ra đây ngồi, dưới trời lộng. Dinh thự của ông gồm hai toà nhà chính và nhiều công trình phụ. Phòng lớn ông vừa dùng làm phòng ngủ, vừa dùng làm phòng làm việc thì ở toà nhà thứ nhất, cách biệt với phòng ngủ của vợ ông bằng một phòng ăn rộng. Trong tòa nhà thứ hai, đi qua một hành lang nối với phòng ngủ của Giang Thanh là phòng khách của bà ta. Bên cạnh đó là phòng của Diệp Tử Long, chánh thư ký riêng, đồng thời cũng là quản trị cao cấp của Mao, chuyên lo đáp ứng những nhu cầu cá nhân cho hai vợ chồng Chủ tịch. Trong một toà nhà khác ở phía Tây nơi ở của Diệp Tử Long, thông với phòng giao hòa là nhà bếp. Diệp cũng lo việc ăn uống cho Mao. Việc chế biến thực phẩm tuy theo mẫu của Liên Xô, nhưng lại phỏng theo những phương cách cổ điển của thời vua chúa và được Phòng an ninh của Uông Đông Hưng canh chừng. Ngay sau khi Mao từ Moskva trở về vào đầu năm 1950, Phòng an ninh đã được hai chuyên gia Liên Xô truyền cho những phương pháp chế biến và kiểm tra thực phầm dành cho giới lãnh đạo ở Trung Nam Hải. Một xí nghiệp nông nghiệp – công xã Tụ Sơn – chuyên cung cấp rau, thịt, trứng và gà cho Mao và những chính trị gia cao cấp khác. Những đầu bếp của Mao chỉ cần gửi thực đơn đến phòng cung ứng của Phòng an ninh ở phía bắc Trung Nam Hải, gần công viên Bắc Hải. Phòng cung ứng chuyển tiếp thực đơn đến công xã Tụ Sơn. Từ đó, thực phẩm được chuyển về phòng cung ứng ở công viên Bắc Hải, để người ta khám nghiệm thực phẩm đó trong hai phòng thí nghiệm xem chúng tươi đến mức nào, mức độ dinh dưỡng ra sao và có độc tố không. Sau đó, thức ăn được nếm thử trước khi mang cho Mao thưởng thức. Đối với tất cả các quan chức cao cấp, kể cả ở các tỉnh, người ta đều áp dụng phương pháp tốn kém đó, ngốn không biết bao tiền của của dân. Phòng ngủ của Mao nối với một tòa nhà khác mà ông thường dùng làm văn phòng bằng một hành lang. Tuy nhiên, văn phòng này quanh năm thường khóa trái và chỉ mở cửa khi cần để chụp ảnh. Mao chẳng bao giờ dùng đến nó. Một tòa nhà khác chắn ngang toà nhà mà Mao và Giang Thanh sống trong đó là nơi Lý Mẫn, con gái của Mao với Hạ Tử Trân, Lý Nạp, con gái của ông với Giang Thanh và chị của Giang Thanh là Lý Vân Lục đang cư ngụ. Lý Vân Lục già hơn Giang Thanh vài tuổi, chân bà vẫn bị bó bột. Sau khi mẹ bà qua đời, bà phải nuôi đứa em gái của bà. Về sau bà trở thành tình nhân của một chủ hiệu. Khi giới lãnh đạo chuyển về Trung Nam Hải, Giang Thanh yêu cầu bà cùng với con trai bà về ở với bà ta để giúp đỡ bà ta trong việc dạy dỗ Lý Nạp và Lý Mẫn. Cả Mao và Giang Thanh đều không quan tâm đến những đứa con của họ. Bọn trẻ được đưa đến ký túc xá. Thậm chí, trong những kỳ nghỉ, họ chỉ gặp chúng trong bữa ăn. Trong toà nhà thứ tư là văn phòng của các nhân viên y tế và thư ký của Mao cũng như là nơi ở của đứa cháu trai Viên Tân, lúc đó còn đang học trung học. Ngoài ra, ở đó còn có một bàn bóng bàn, một phòng dùng để cất giữ những quà tặng, quần áo của Mao, nhiều đồ lặt vặt của Giang Thanh. Trong một phòng khác có để những bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng như Tề Bạch Thạch và Từ Bắc Hồng tặng Mao. Tuy nhiên, hầu hết những tặng phầm đều là của nước ngoài. Về sau tôi phát hiện ra một hộp xì gà Cuba lớn, bằng gỗ chạm, rất nghệ thuật, do Fidel Castro tặng và một két rượu Brandy lâu năm do Chủ tịch nước Rumania Ceausescu tặng. Vua Iran tặng Mao một hộp đựng thuốc lá chạm vàng và bạc. Diệp Tử Long vừa là người cai quản bếp núc, vừa là người trông coi căn nhà kho đó. Tư dinh có một cái sân bên trong lớn nhất, nơi có những khóm tre và cây cối luôn luôn xanh tươi, có một vòi phun nước và một dàn nho. Trong sân còn có một vườn rau, cuối những năm 1960, người ta đã xây một hầm ngầm phòng không trong khu vườn này. Giữa năm toà nhà, một lối vào ở phía sau nối với căn phòng của chính phủ. Trước khi Đại lễ đường được xây dựng, các đại sứ thường đến viếng thăm phòng này. Những phòng ngủ của các vệ sĩ của Mao và các y tá của Giang Thanh cũng ở trong tòa nhà này. Ngoài ra, ở đó còn cất chứa thực phẩm của Mao trong những tủ lạnh sản xuất từ những năm 1940 mang nhãn hiệu General Electric cũng như dự trữ những vật dụng hàng ngày và thuốc men Những phòng của vệ sĩ của Mao, trong đó lịch trình của Mao cũng được lưu tâm, ở phía sau tòa nhà thứ tư. Bất kỳ ai, kể cả những nhân vật thân cận muốn nói chuyện với Mao, trước hết đều phải trình báo đám vệ sĩ này. Từ đó, ngày 30 tháng 4 năm 1955, tôi cũng được thông báo là Mao ốm. Tôi được một vệ sĩ đón. - Có chuyện gì thế – Tôi hỏi. - Chủ tịch đã uống hai viên thuốc ngủ, nhưng không tài nào chợp mắt được – Người vệ sĩ trả lời. - Chủ tịch muốn nói chuyện với đồng chí. Tôi được đưa vào phòng ngủ của Mao. Đó là căn phòng khá rộng, gần rộng bằng phòng chơi bóng. Đồ gỗ trong phòng được chạm khắc vừa theo lối Tây phương, vừa theo lối Trung Quốc, hiện đại, tiện lợi và trước bốn khung cửa sổ có treo những tấm rèm nặng. Sau này tôi có cảm giác những tấm rèm đó thường được kéo kín mít, đến nỗi người ta không biết ở bên ngoài là ban ngày hay ban đêm. Mao nằm trong một chiếc giường gỗ rộng, gấp rưỡi chiếc giường đôi bình thường, do một thợ mộc ở Trung Nam Hải đóng riêng cho ông. Trên giường sách vở chất đống và tôi nhận ra một đầu giường cao hơn đầu kia, nơi Mao đang nằm, khoảng mười xăng-ti-mét. Lý Ẩm Kiều nói rằng giường nghiêng là để đảm bảo an toàn cho Mao không bị lăn khỏi giường. Những năm sau này tôi mới biết rằng, chiếc giường nghiêng đó để những cuộc làm tình của Mao có nhiều khoái cảm hơn là để Mao khỏi lăn xuống đất. Cạnh giường là một chiếc bàn lớn, vừa là bàn ăn, vừa là bàn làm việc. Mao thường ăn trong phòng ngủ. Khi đó ông đã sống ly thân với Giang Thanh và hiếm khi họ ăn chung với nhau. - Tôi chưa ăn bữa tối- Mao nói như để chào tôi – Tôi muốn trao đổi với đồng chí. Ông khoác một cái áo choàng buổi sáng, để lộ khoảng ngực trần dưới áo. Tay ông cầm một cuốn lịch sử Trung Quốc cũ bọc vải gai. Mao dặt cuốn sách sang một bên và tôi ngồi xuống cạnh giường, nhấm nháp tách trà mà người vệ sĩ mang đến. - Có gì mới không? – Mao hỏi. Tôi bối rối. Có gì mới thì khi đọc báo Nhân dân tôi đã biết. Tôi nhận thấy rằng Mao cũng quan tâm đến độc giả của tờ báo. - Chẳng hạn mấy ngày qua đồng chí đã trò chuyện với những ai? – Mao nói thêm khi nhận thấy sự lúng túng của tôi. Đồng chí đã trao đổi về những vấn đề gì? Có gì mới không?, từ giờ trở đi ngày nào Mao cũng hỏi như vậy và ông cũng nêu câu hỏi đó đối với các cộng sự của ông. Bằng cách đó, Mao đã thu lượm được thông tin và thường xuyên kiểm tra chúng tôi ông mong muốn chúng tôi kể cho ông nghe về những cuộc nói chuyện và công việc của chúng tôi, tạo điều kiện cho chúng tôi phê bình lẫn nhau. Ông thỏa mãn khi khích được một cộng sự này phản ứng với những cộng sự khác. Ông không chịu đựng nổi sự bí mật. Tôi kể cho ông nghe về cuộc nói chuyện của tôi với Phó Liêm Chương. Ông lắng nghe, rồi kể như chính Phó Liêm Chương đã liên hệ với những người cộng sản trong cuộc Vạn lý trường chinh từ tỉnh Giang Tây đến sở chỉ huy mới ở tỉnh Thiểm Tây. - Trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống lại đội quân chống cộng của Quốc dân đảng, năm người của gia đình phó Liêm Chương đã bị hành hình theo lệnh của đảng cộng sản, trong đó có con gái và con dượng của đồng chí ấy. Mặc dù là đảng viên, nhưng họ đã bị buộc tội là đã bí mật liên lạc với quân đội chống cộng của Quốc dân đảng. Từ Phó Liêm Chương, tôi biết rằng, lúc đó ông đã chăm sóc Mao đang mắc bệnh sốt rét. Mao nói tiếp - Dù Phó không còn là đảng viên cộng sản nữa, nhưng tôi đã hỏi đồng chí ấy có muốn tham gia cuộc Vạn lý trường chinh không. Đồng chí ấy đồng ý. Chúng tôi mang ngựa đến cho đồng chí ấy, nhưng đồng chí ấy không thể cưỡi được và đồng chí ấy đã ngã ngựa và suýt chết đuối. Nhưng đồng chí ấy vẫn lên đường đến Thiểm Tây cùng với chúng tôi. Phó Liêm Chương là một con người dẻo dai. Nhưng đồng chí phải nghe tất cả những gì đồng chí ấy đã nói. Đồng chí không nên nói cho đồng chí ấy biết về sức khỏe của tôi. Nếu tôi cảm thấy không dễ chịu, đồng chí hãy nói với tôi về phương pháp điều trị, chứ không phải nói với đồng chí đó. Nếu tôi đồng ý với cách điều trị đó, tôi sẽ không phê bình đồng chí, thậm chí cả khi đồng chí làm sai. Nếu đồng chí không nói với tôi về phương pháp điều trị của đồng chí, tôi sẽ không thừa nhận đồng chí, ngay cả khi phương pháp đó làm cho tôi khỏi bệnh. Một mặt tôi vui mừng vì không phải khuyên nhủ Phó Liêm Chương, mặt khác tôi cảm thấy băn khoăn, vì Mao muốn tôi cho ông biết phương pháp điều trị. Thực ra tôi có nên trình bày với ông những thay đổi về sinh lý và bệnh lý của cơ thể trong thời kỳ mắc bệnh hay không? Tôi cần phải giải thích và thuyết phục ông dần dần theo cách điều trị của tôi hay không? Tôi có nên giải thích tất cả cho ông bằng ngôn ngữ dễ hiểu nào đó không? Mao là người bệnh khó tính. Bữa ăn được dọn ra. Các món ăn lại được nhúng qua dầu. Mao đã 62 tuổi và cân nặng hơn 80 cân, quá béo so với khổ người ông. Sau này, tôi thường góp ý với ông về cách thức ăn uống. Tôi khuyên ông không nên ăn quá nhiều chất béo, nhưng ông không nghe. Thời còn trẻ, ông đã thích ăn thịt lợn mỡ và ông vẫn giữ thói quen này cho đến khi chết. Bây giờ ông mời tôi ăn món dưa đắng với hạt tiêu đỏ. - Ngon không? – ông hỏi. Mao cười rung cả cổ – Ai cũng nên nếm một ít vị đắng trong đời, nhất là người như đồng chí. Chi ku hoặc có nghĩa ăn món gì có vị đắng, hoặc có nghĩa là cuộc đời phải chịu nhiều trầm luân, khổ ải và tôi không chắc Mao chỉ nói về món ăn thôi, hay ông chơi chữ ám chỉ rằng, ông coi tôi là đồ hèn, là sản phẩm của cuộc sống thượng lưu. Sau này, tôi khẳng định quan điểm của Mao là mỗi người nên nếm cái vị đắng, như con gái Lý Minhvà Lý Nạp của ông cũng như nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước. Phần lớn cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng đều xuất thân từ nông dân và họ đã chiến đấu hàng chục năm ròng để làm nên thắng lợi của cách mạng. Họ cũng đã nếm trải đủ mùi đắng cay. ý kiến của Mao cho rằng, quyền chức và cuộc sống xa hoa ở chốn đô hội đã làm cho họ nhụt chí. Theo Mao, nếu không thường xuyên vấp váp, thì các vị lãnh đạo cao cấp đã quên béng nước Trung Hoa rồi. Mao chuyển đề tài. Ông nói, nhân loại chịu ơn Trung Hoa với ba sự việc quan trọng: y học Trung Hoa, cuốn tuyển thuyết Hồng Lâu Mộng của Cao Học Tân và trò chơi Mạt chược. Mạt chược là một trò chơi giải trí phổ biến, gồm 136 quân giống như quân của trò chơi domino, thường dành cho bốn người chơi. Nhiều người Trung Hoa đã nghiện nó. Nhưng gia đình tôi không thích trò chơi may rủi này. Từ hồi nhỏ, tôi coi Mạt chược và thuốc phiện là hai thứ ung nhọt gặm nhấm xã hội Trung Hoa từ trong ra ngoài. Vì vậy tôi không học chơi cái trò đó. Mao trách tôi - Bây giờ, đồng chí không nén cười trò chơi Mạt chược. Mỗi người chơi không những phải chú ý đến quân chơi của mình, mà còn phải quan tâm đến tất cả, đến những quân khác trong tổng số 136 quân, để tính toán sao cho có thể thắng được. Nếu đồng chí đã làm chủ được trò chơi, thì đồng chí sẽ hiểu được mối quan hệ giữa quy tắc tương đối và quy tắc tuyệt đối. Trong hành động, Mạt chược là một trò chơi cô tính chiến lược. Mao không chỉ là một nhà chiến lược quan trọng của Trung Quốc, mà còn là một tay chơi Mạt chược cừ khôi. Tôi nghĩ, tài thao lược của ông bắt nguồn từ những bài học trong cuốn sách Tôn Tử binh pháp rất có giá trị trong thời cổ, từ lịch sử của nước Trung Hoa và từ cuốn tiểu thuyết lịch sử Tam quốc diễn nghĩa. Nhưng Mao không chỉ chơi Mạt chược một cách đơn thuần, mà còn để trau dồi trí tuệ của mình. Như sau này tôi kể lại lệ chơi của ông là bạn chơi phải là những cô gái trẻ đẹp. Khi chơi, tay ông vừa cầm quân, ông vừa buông lời ong bớm ve vãn ác em. Dưới gầm bàn, ông dùng chân cọ cọ vào chân hoặc vào đùi các cô gái. Mao nói tiếp, cuốn Hồng Lâu Mộng đã mô tả cuộc sống xa hoa và đồi bại của xã hội phong kiến. Cuốn tiểu thuyết đã tóm tắt lịch sử của Trung Hoa trong hai nghìn năm qua. Thật ra, tôi không đọc cuốn truyện đó, nhưng tôi thích nó. Tôi mới xem lướt qua cuốn tiểu thuyết này. Nhưng nó không thề làm cho tôi đọc từ đầu cho đến cuối được, mặc dù đó là cuốn tiểu thuyết lớn của Trung Hoa. Lối mô tả cầu kỳ, rắc rối và cách xây dựng những nhân vật khó tin đến nỗi khi cầm cuốn truyện đọc được vài ba trang, tôi đã thấy chán và gập nó lại. Cuốn tiểu thuyết đã kể về sự suy đồi của gia đình phong lưu Gia Bảo Ngọc và nạn tham nhũng, hối lộ trong xã hội phong kiến đã ăn sâu vào gia đình này. Đối với Mao, cuốn tiểu thuyết này là một tài liệu nghiên cứu về nạn tham nhũng, hối lộ và sự suy đồi của chủ nghĩa phọng kiến Trung Hoa. Nhưng đối với nhiều người Trung Hoa, nó lại là một tấn bi kịch tình yêu của Gia Bảo Ngọc. Gia đình của Gia đã phản đối tình yêu của anh với một cô gái trẻ và cấm anh không được kết hôn với cô. Rút cuộc, Gia Bảo Ngọc đã bỏ nhà, quay lưng lại với xã hội, vì anh đã tìm nơi cửa Phật. Nhưng phản kháng ban đầu của anh là lao vào ăn chơi trác táng. Sau này khi quá quen Mao, tôi quan niệm, Mao gần như là hiện thân của nhân vật Gia Bảo Ngọc. Chính tư dinh của ông, mảnh vườn của lòng từ bi bác ái lại là phiên bản khá chính xác của biệt thự gia đình Gia Bảo Ngọc. Mao cũng là một tên cướp. Ông thích lôi kéo, quyến rũ những người đàn bà trẻ và ông có vô số phụ nữ quanh ông. Tuy nhiên, ông khác với nhân vật Gia Bảo Ngọc là ông không quy y, nương mình nơi cửa Phật. Mao đã nhắc tôi ngay khi chúng tôi mới quan hệ với nhau: Đồng chí đừng suy tôn tôi, tôi không phải là một ông thánh mà cũng chẳng là nhà sư. Tôi không hề thích thế. Mao quy cho sự gia tăng dân số ở Trung Quốc là do tác dụng của nền y học Trung Hoa. Mặc dù trong suốt bốn nghìn năm qua, chiến tranh và thiên tai thường xuyên xảy ra ở Trung Quốc, nhưng dân số vẫn táng tới năm trăm triệu người. Hay là nền y học Tây phương trở nên lạc hậu? Nền y học Tây phương đã du nhập vào Trung Quốc mới khoảng một trăm năm nay. Nhưng trước đó hàng nghìn năm con người đã quen dùng dược liệu của Trung Quốc vậy thì tại sao vẫn có người phủ nhận nền y học đó? Mao đã hỏi tôi biết những gì về y học Trung Hoa. Mặc dù, ông cha tôi là những người từng làm nghề thuốc ở Trung Hoa, nhưng tôi đã được đào tạo nghe y theo khôn mẫu của phương Tây, thành ra tôi không mấy quan tâm đến y học cổ truyền. Tuy nhiên, tôi cũng không nghĩ, Trung Hoa đông dân là do nền y học của nó. Tôi trả lời ông, tô đã đọc một vài cuốn sách cổ về y học Trung Hoa, nhưng không thé hiểu được chúng, nhất là đoạn nói đến thuyết ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Tôi không lĩnh hội được lý thuyết này. Mao cười. Ông nói: - Đúng ra thuyết âm dương và thuyết ngũ hành rất rối rắm. Đồng chí sẽ phải dùng những phương pháp cổ truyền của Trung Hoa để chẩn đoán tình trạng sinh lý và bệnh lý của người bệnh. Quan điểm của tôi là nên kết hợp y học Trung Hoa với Tây y. Những bác sỹ phương Tây giàu kinh nghiệm cân phải tham khảo y học Trung Hoa và những bác sỹ Trung Hoa cũng cần phải nghiên cứu sinh lý học, bệnh lý học, khoa học giải phẫu, dịch tế học và những lĩnh vực tương tự. Đồng chí nên tìm cách giải thích những nguyên tắc y học Trung Hoa dưới ánh sáng của khoa học hiện đại. Những cuốn sách y cổ truyền của Trung Quốc cần được chuyển sang ngôn ngữ hiện đại, được chú giải và cắt nghĩa cho sáng tạo. Như vậy, bằng sự liên hệ giữa y học Trung Hoa và y học phương Tây, có thể tạo ra một nền y học mới. Đó là một tiến bộ quan trọng. Mao dừng một chút rồi nói: - Mặc dù tôi ủng hộ, khuyến khích nền y học Trung Hoa, nhưng bản thân tôi lại không tin tưởng nên y học đó lắm. Tôi không dùng thuốc men của Trung Quốc. Đồng chí không cảm thấy kỳ quặc chứ? Tôi cần phải nói thật với ông, vì ông đã công khai ủng hộ nền y học cổ truyền. Kết thúc cuộc trao đổi đêm hôm đó của chúng tôi, Mao nói: - Mai là ngày lễ mồng l tháng Năm. Đồng chí cùng đi với tôi đến quảng trường Thiên An Môn và xem buổi lễ tiến hành ra sao. Đó là một sự kiện quan trọng đối với đồng chí. Ông ta hỏi về dứa con trai cả của tôi. Tôi đáp: - Cháu đã 5 tuổi. Mao đề nghị: - Đồng chí đưa cháu đi nhé. Tôi đáp: - Tôi nghĩ không nên. Tất cả các chính trị gia cao cấp đều ở đấy, chẳng ai đưa con cải theo cả. Nếu cháu mải xem quá, cháu sẽ lạc tôi mất. Mao cười. - Thôi được. Đồng chí không cần mang cháu theo. Bây giờ đồng chí về nhà ngủ một chút đi. Khi tôi về thì đã ba rưỡi sáng. Thường thường tôi đi ngủ lúc mười giờ tối. Lý Liên đang đợi tôi. Tôi kể cho bà ấy nghe về cuộc trao đổi của tôi và Mao. - Ông ta khỏe và thực sự ông không cần bác sĩ chăm sóc. Tôi có cảm tưởng, ông coi tôi như là người bạn tâm sự hơn là bác sỹ. Lý Liên khuyên tôi hãy kiên nhẫn chiều theo ý muốn của Chủ tịch. - Anh vừa mới bắt đầu làm việc cho Chủ tịch, anh đã gây được ấn tượng tối đối với ông. Bây giờ anh không được hấp tấp. Đó mới chỉ buổi đầu tiên trong vô số buổi nói chuyện với Mao vào ban đêm. Ông sống rất cô độc. Hiếm khi ông gặp Giang Thanh, ông không có bạn. Tinh thần Diên An, tình đồng chí của những người sống sót sau cuộc Vạn lý trường chinh chỉ là một huyền thoại. Thỉnh thoảng Lưu Thiếu Kỳ hoặc Chu Ân Lai gặp Mao vì lý do chính trị, nhưng sự tiếp xúc cũng chỉ giới hạn trong phạm vi những điều cần bàn đến trong những tài liệu mà họ trao đổi thường xuyên với nhau, hoặc trong những cuộc họp của Ban thường vụ Bộ chính trị. Mao triệu tập những cuộc họp này rất thất hường. Lúc thì ở trong phòng Trường sinh, lúc thì ở ngay những nơi mà ông vừa tới. Ban ngày ông giao du với đám vệ sỹ của ông. Họ là những trai làng thất học. Mao ít khi đàm đạo với họ, thường chỉ tán gẫu với họ về các cô người yêu của họ, thậm chí ông còn làm cố vấn tình yêu cho họ và thỉnh thoảng ông giúp họ viết thư tình. Nhưng về đề tài ông thường quan tâm là lịch sử Trung Hoa và về triết học, thì ông không thể trao đổi với họ được. Vì thế, Mao coi tôi là người trò chuyện của ông. Ông đề nghị tôi viết những bài về lịch sử và triết học để ông đọc và mỗi tuần ông trao đổi với tôi hàng giờ liền. Khi khó ngủ, có lúc ông đọc sách hay triệu tập một cuộc họp, bất kể vào lúc nào. Nhưng thường thường, ông cho gọi một người nào đó đến để trò chuyện với ông và người đó thường là tôi. Chẳng có gì lạ khi ba giờ sáng lại bị Mao lôi ra khỏi giường. Trước những ngày quốc khánh và mồng l tháng Năm, Mao mất ngủ nặng nếu ông phải tham gia duyệt binh và chào mừng quần chúng ở quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù Lý Liên đã ra sức động viên tôi phải nhẫn nại, nhưng bà đã thấy cô ta lầm khi khi nhận ra rằng tôi chỉ vờ chiều Chủ tịch. Mao là một kẻ độc tài mà chúng tôi phải chiều theo mọi sở thích của ông. Mọi cố gắng thực hiện ý nguyện riêng tư đều không thành. Chương 7 Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau là ngày lễ 1-5, lúc 10 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao. Tôi mang túi thuốc theo người. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó và sau đó Mao Chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ giống bộ quần áo mà Tôn Trung Sơn mặc, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc và nồng nhiệt chào chúng tôi. Sau đó một lát bộ trưởng công an La Thụy Khanh đến và chúc mừng Mao. Theo lệnh Mao chúng tôi ngồi vào xe và tiến về quảng trường Thiên An Môn. Sau khi trở về Trung Quốc vào năm 1949 tôi không đi dự ngày lễ 1-5 hay ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung Hoa 1-10, được tiến hành trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi coi những ngày đó là niềm sung sướng của tôi. Tôi thích đám đông dân chúng hân hoan, duyệt binh, nhạc, và biển cờ. Tôi nhìn một cách ngưỡng mộ lên lễ đài có các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước. Họ cũng thích diễu hành và vẫy chào nhân dân. Ngày lễ này đánh thức trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay tôi cũng sẽ đứng trên lễ đài trên quảng trường cùng với các nhà lãnh đạo đất nước và cùng với họ quan sát những gì xảy ra bên dưới. Tôi ngồi xe đầu tiên cạnh La Thụy Khanh. Khi chúng tôi đi đến cổng Thiên Bình thì La Thụy Khanh ra khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, và kính cẩn mở cửa xe, nâng tay lãnh tụ. Mao liếc La, tự mình ra khỏi xe và cáu kỉnh nói: Hãy nhanh lên, không phải giúp tôi, mà là giúp phó chủ tịch Tống Khánh Linh. Ngày 1-5 là ngày lễ chính thức, và chính phủ cộng sản luôn giữ giữ chặt khẩu hiệu mặt trận thống nhất liên kết những người cộng sản và phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người nổi tiếng về lý tưởng thống nhất là người vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. La Thụy Khanh chạy theo xe bà, nhưng bà đã ra khỏi xe. Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, nhưng bà cũng còn đẹp và duyên dáng, cũng như trong ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung Hoa, khi tôi thấy bà lần đầu tiên. bà toát lên vẻ đôn hậu và dịu dàng. Đi qua mỗi người bà bắt tay thân mật. Những người khác được gọi là nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược với bà. Bọn họ tất cả tỏ vẻ cao ngạo và kiểu cách. Họ chào một cách uể oải và đi lại chậm chạp. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh và lịch sự đi cùng bà vào gian tiếp khách, cạnh cổng Thiên Bình và giúp Tống Khánh Linh lên các bậc thềm đá. Khi chúng tôi lên đến trên, thì một tràng vỗ tay vang lên chào khách. Tôi không ngờ lại thấy được một gian lớn đến thế. Trong đó có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt. Khá nhiều thức ăn, đồ uống, hoa qua. Không ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo cao cấp có thể ngồi ở đây 5-6 giờ liền để xem đoàn người diễu hành. Mao chào khách, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ và cờ đỏ rực rỡ, và được ngăn với phòng bằng một tấm rèm lớn. Tôi theo Mao lên lễ đài. Với sự ngưỡng mộ, tôi quan sát những cử chỉ chào của ông với nhân dân. Chậm rãi và nghiêm trang, Mao đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết rằng sự tự hào và vui mừng tràn trề lòng ông. Tôi cũng hoàn toàn cảm thấy thế. Quảng trường giống như một biển người rập rờn nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được. Trong đó áo trăng của sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân và trí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, thì đám đông này chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, và hiện ra một biểu ngữ xếp bằng hàng nghìn con người, ý nghĩa ủng hộ đảng cộng sản, nước Trung Hoa mới và lãnh tụ Mao. Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Quân nhạc cử quốc ca cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Pháo hoa bắn lên. Quân nhạc tiếp tục chơi và Đông phương hồng, sau đó Quốc tế ca và, cuối cùng, là diễu hành Giải phóng quân Trung Quốc. Buổi lễ bắt đầu. Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho trinh sát, hải quân và không quân diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc chơi những khúc quân hành. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao. Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không dời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát. Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người. Mao nói: Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thấy bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, và sẽ yêu đất nước mình hơn. Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về đất nước vĩ đại của mình và sẵn sàng cống hiến cho nó. Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở gian khánh tiết, La Thụy Khanh gặp tôi và nhắc là buổi chiều chúng tôi lại tập hợp ở quảng trường Thiên An Môn để tham dự chiêu đãi. La Thụy Khanh nói với tôi: - Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6 rưỡi. Đừng chậm đấy. Tôi quay về nhà mình ở Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ tôi, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ nhưng tất cả kế hoạch bị hỏng. Tôi sẽ nói với mẹ tôi gì đây? – Lý Liên than thở. Vợ con tôi đến chỗ mẹ tôi, tôi nói rằng ngay lúc xong việc, tôi sẽ đến đó luôn. Nhưng nếu tôi không có mặt trước lúc 9 giờ tối, thì họ cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc ở tư dinh Mao và tranh thủ ăn bát mỳ. Những người khác cũng đã tới. Các tay thư ký và bảo vệ than phiền là họ thâm chí chưa kịp ăn tối nữa. Uông Đông Hưng an ủi họ. - Đừng lo, ở Thiên An Môn đồ ăn thừa cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập nhau thành cụm quanh bàn thôi, để người ta khỏi xì xào là nhân viên của Mao có nhiệm vụ đặc biệt lại đi phá hỏng cuộc vui dành cho những người lãnh đạo. Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích: Mao đang sửa râu. Đến 7 rưỡi, La Thụy Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao là mọi người đã đến đày đủ cả rồi. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó. Mao ngồi ở chiếc bàn nhà ăn. Quanh người quấn khăn tắm trắng, tay cầm những tờ giấy mỏng được ghim lại. Mao mải mê đọc chú đọc chẳng hề để ý đến Vương, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi. Vương – cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ và người ta tuyên bố là người thợ cạo Vương Hoá nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo. Sau này Mao cũng kể cho tôi nghe điều này. Mao nghi ngờ về tội trạng của Vương. Chả lẽ ông phó cạo này cắt tóc và cạo râu cho Mao từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào cắt cổ ông ta ư. Nếu như ông phó cạo được trao nhiệm vụ giết Mao, thì ông có thể làm điều này sớm hơn. Mao gọi Vương đến. Ông này quỳ xuống, nước mắt đầm đìa nhận tội rằng định giết lãnh tụ. Mao hỏi: Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?. Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi và chẳng cần gì anh nữa đâu Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói rằng trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền và bắt ông nhận tội chống Mao. Thế là vụ việc của ông phó cạo bất hạnh được khép lại. Mao nói: - Khi tôi tuyên bố về sự thanh lọc, tôi đã nhấn mạnh là cần làm rõ bản chất chứ không phải làm chứng cớ giả để gán cho người vô tội. Vương, người thợ cạo to lớn trung thành với Mao như một con chó. Rất thú vị là phần đông những người phục vụ Mao tin cẩn và trung thành thời ấy đã được lãnh tụ cứu thoát khỏi sự trừng phạt trông thấy nhỡn tiền, đó là cái chết. La Thụy Khanh đi đến và nói Uông Đông Hưng giục Mao. Tuy nhiên Uông Đông Hưng nói rằng sự hấp tấp có thể làm Chủ tịch bị thương, và từ chối làm điều này, nói với La đừng xía vô việc này. Cuối cùng việc cắt tóc hoàn thành, và ông phó cạo mệt lử cạo râu cho Mao. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, và cằm của ông hạ thấp xuống Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần. Cuối cùng mọi việc kết thúc và bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thụy Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riêng cho Mao. Uông Đông Hưng nói là ông đã gợi ý Mao điều này, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm: Chủ tịch làm mọi thứ theo ý mình La Thụy Khanh tiếp tục: - Nhưng có lẽ tay phó cạo Vương già quá rồi và tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Hơi ghê đấy! Uông nói: - Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản đâu. Mao không muốn điều đó và cũng không nghe đâu. Ông ta sợ đưa tới một người mới với con dao cạo sắc trong tay. La Thụy Khanh im. Ông dĩ nhiên trung thành với Mao, nhưng ông ít khi hiểu được tính đa nghi của Chủ tịch. Tất nhiên Uông Đông Hưng rõ hơn. Nghe họ, tôi đột nhiên sợ rằng một lúc nào đó khi tôi đến chữa cho Mao đem theo bơm tiêm và kim tiêm. Và Mao chỉ cho phép tôi làm điều này chỉ khi tin tôi hoàn toàn. Nếu tôi không xứng đáng với lòng tin cậy ngay từ bây giờ, thì tôi không thể trong là bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần Mao, kể hết ý nghĩ của tôi và cố gắng làm bạn với ông ta. Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Bầu trời được sáng lên bởi hàng nghìn ngọn lửa nhiều màu sắc chiếu sáng thành cổ. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc và hớn hở quây quần nhảy múa. Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam. Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, ông gày gò nhưng đày sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu màu xám, thưa và dài. Ông ăn vận như một nông dân, chân đi dép rọ bằng da. Hồ Chí Minh từng sống ở Trung Quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung Quốc như thức ăn, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông biết tiếng Trung Quốc do trong những năm dài sống ở Trung Hoa, chủ yếu ở phương nam, tỉnh Vân Nam và Quảng Đông giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, và tôi rất thích ông. Mao tạo ra sự ngưỡng mộ và kính trọng, còn Hồ Chí Minh thì tính tình chan hoà hơn và không gây ra sự sùng kính một cách kinh hãi như ở Mao. Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể cho tôi rằng chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy tiền lương trung bình khoảng 30 nhân dân tệ. Về sau tôi xem tất cả những buổi lễ tương tự là chi phí điên rồ và tộ lỗi. Đặc biệt là tổ chức những ngày lễ này trong những năm khó khăn khi ở Trung Quốc hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi coi như không có trên đời. Càng ngày việc tổ chức lễ hội làm Mao cáu. Ngay quốc khách cộng hoà nhân dân Trung Hoa và 1-5 làm kiệt sức lãnh tụ. Ông chỉ đến lễ đài đúng giờ. Ông rất lo lắng vào đêm hôm trước ngày lễ và thường mất ngủ, đôi khi ông không ngủ được đến sáng. Nhưng quần chúng nhân dân hăng hái làm ông sôi nổi lên, nhưng không ai trong ngày ấy nhận ra sự mệt mỏi và cáu bẳn của ông. Thật ra đôi khi trong ngày lễ ông bị cảm sốt và viêm phế quản. Về sau bệnh viêm phế quản dẫn đến khó thở. Mao không thể mặc quần áo được. Nhưng để tham dự lễ, người ta phải mặc quần áo cho ông. Ông không thích những ngày lễ trịnh trọng, đến nỗi sau này thậm chí từ chối khỏi chức vụ Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ông cũng bỏ cả các buổi tiếp mệt nhọc và các cuộc gặp chính thức. Đầu những năm 60 Mao chỉ tham dự ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung, nhưng chỉ 5 năm một lần. Ông giải thích điều này bề ngoài như là do vấn đề tiền bạc. Dù vậy trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung Quốc, và thổi vào họ những luồng kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương thích thú này lấy vượt quá tiền chi cho buổi lễ chính thức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí này. Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên Xô tháng 9 năm 1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ chính thức. Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang hưng thịnh, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông và sự xót ruột do chi phí tiệc tùng dường như tan biến. Tôi đợi đến cuối buổi lễ để quay về xum họp gia đình. Nhưng điều này xảy ra. Tôi ngạc nhiên biết rằng Mao rất thích khiêu vũ một cách điên cuồng. Sau cách mạng các buổi khiêu vũ được coi là định kiến tư sản, các vũ trường bị đóng cửa. Tuy nhiên đằng sau bức tường Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Thường nhảy ở chỗ rộng rãi gian Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông. Tôi cùng Mao vào phòng to. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ của bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrot, van-xơ và tăng gô, còn Mao làn lượt nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy không đẹp, nhưng ăn nhịp tuyệt đẹp và nhảy khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông kịp đổi bạn nhảy chỉ bằng vài câu. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh chiều ấy không có mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu. Tuy nhiên chiều ấy có mặt Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ. Trong gian chỉ có một vài chiếc bàn. Các nhà lãnh đạo ngồi ở đó. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế một cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy. Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung Quốc. Lúc ấy dưới con mắt người nước ngoài thì các màn nhảy này có vẻ gượng gạo, thô thiển, thậm chí còn không đứng đắn. Bản thân nhạc Trung Quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, người ta lại giải thích là do chưa hoàn thiện, khác hẳn với nhạc phương đông mà người phương tây quen nghe. Tôi ngạc nhiên là buổi chiều đó lại vang lên bản nhạc, trong đó kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa là tại thời điểm này Mao ra khỏi phòng và mô tả vở nhạc kịch bằng kiểu nhảy phương tây. Khuya rồi, tôi cho là là nhiệm vụ của tôi đã xong. Tôi gặp Lý Ẩm Kiều nói là tôi phải về nhà, nhưng anh ta nói: - Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch, tất nhiên, đang vui nhảy, nhưng ông vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí đi khỏi phòng, thì Mao đánh giá điều này như là thiếu tôn trọng ông. Phía đồng chí, là sự bỏ đi, phía tôi là sự cho phép đồng chí đi. Tôi ngạc nhiên: - Nhưng thế này là thế nào? Chúng ta hình như không làm điều gì đáng trách cả. Lý trả lời: - Thế đấy, đồng chí chưa hiểu rõ Chủ tịch. Hãy nghe tôi và đồng chí sẽ hiểu tất cả. Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở nơi nào và bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình và quyết định nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và thấy tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa: - Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không? Anh ta nói thêm: - Đồng chí nên đi đi! Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do mưa to. Tuy nhiên sau một giờ một tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện trước mặt tôi và nói là Mao trao cho anh ta đón tôi đến cuộc vui đó. Sau đấy, tôi hiểu là mình phải luôn có mặt bên Mao. Phải cần đến 7 năm tôi mới hiểu rằng Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra là đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, mà còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị. Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư dãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình. Phó Chủ tịch ủy ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành là một ủy viên Bộ chính trị trung thực và thẳng thắn, và là người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố rằng Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng đã thỏa mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung Quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nhân viên bộ máy Ban chấp hành trung ương. Nhưng năm 1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó. Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Chỉ mãi đến hai giờ sáng cuối cùng tôi mới được về nhà với vợ con. Lý Liên đưa tôi bát cháo và rất đau khổ nói rằng ngày lễ của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối và không ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi phải ngủ ở nhà bà và Lý Liên cũng phải ở lại chăm nó đến sáng sớm. Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày thay đổi hẳn, và Lý Liên nhận xét là tôi đã theo thói quen của Mao. Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tụ, cuộc sống của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn và lạ lùng. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ tôi thường vắng mặt tôi. Trong những năm làm việc với Mao tôi chỉ có hai tuần nghỉ phép. Đoi khi tôi phải thức với Mao suốt đêm. Tôi trở lại nhà khi trời sáng. Lý Liên luôn luôn chờ tôi và rất lo. Mao thường xuyên du lịch, và tôi phải tháp tùng ông. Tôi có thể vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi. Cô ta bị mất ngủ. Thằng con thứ hai của tôi, Erward sinh năm 1956, và ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà. Lý Liên cho rằng thật lạ lùng người ta buộc tôi phải sống trong một môi trường như thế. Vợ tôi không vào đảng. Người ta đánh giá vợ tôi là không tin cậy về chính trị do thành phần xuất thân và vài năm làm sở Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được cô ta những cuộc bão táp chính trị mà nạn nhân lên đến con số hàng triệu người. Tất cả sức lực vợ tôi dành cho gia đình, nuôi nấng con cái và chăm sóc mẹ già của tôi. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà một góc con bầu không khí hạnh phúc và sung sướng để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà để tôi cảm thấy hạnh phúc và yên tâm. Lý Liên trở về Trung Quốc khi là một phụ nữ trẻ, hiền lành và đầy sinh lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, và rất yêu đất nước. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức làm tôi đau lòng và thất vọng triền miên. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định và sự rời rạc cuộc sống mới ở Trung Quốc – khiến vợ tôi buồn rầu và chán nản. Chúng tôi không sống mà là bơi theo dòng. Khó mà gọi gia đình chúng tôi là gia đình – Vợ tôi nói thế. Những hy vọng trong mắt vợ tôi đã héo dần. Chương 8 Giữa tháng sáu 1955 người ta gọi tôi vào Bắc Đới Hà, thành phố nghỉ ngơi ở vịnh Bắc Hải Văn. Lãnh đạo cao cấp đảng thường đến đay tránh cơn nóng Bắc Kinh. Mao cùng đoàn tùy tùng vừa rời đây vài ngày trước đây. Đi cùng ông có bác sĩ Châu Thế Đào, người trước khi tôi thay. Tôi vẫn còn là giám đốc bệnh viện Trung Nam Hải và chưa có lượt nào du lịch cùng với Mao. Cuộc gọi bất ngờ này nghĩa là có một cái gì đó nghiêm trọng. Tôi ngồi trên đoàn tàu đặc biệt chạy hàng ngày giữa Bắc Kinh và Bắc Đới Hà, và trong ngày ấy tôi đã đến nơi. Tôi được nói lại là Mao đêm qua ngủ không ngon giấc, sớm nay đột nhiên quyết định ra biển bơi. Các vệ sĩ can ông đừng làm cuộc phiêu lưu dại dột này. Vấn đề ở chỗ đêm nay ở Bắc Đới Hà có giông, và biển có sóng lớn, gió to. Sáng nay gió đã bắt đầu mạnh lên và biển rất không hiền hoà. Các vệ sĩ sợ Mao chết đuối. Nhưng Mao cứ khăng khăng giữ ý định và ra biển. Theo sau ông là các vệ sĩ vẻ mặt buồn rầu. Bảo vệ cầu cứu Uông Đông Hưng, và Uông cũng ra biển để can Mao. Nhưng Chủ tịch, chẳng để ý đến lời khuyên của ai cả, nhảy xuống nước và bơi một cách dứt khoát trên biển. Các vệ sĩ phải bơi theo sát ông. Uông Đông Hưng thất vọng. Nếu xảy ra chuyện không may với Mao, ông phải chịu trách nhiệm. Ông gọi La Thụy Khanh và Chu Ân Lai để họ trút trách nhiệm tính mạng Mao lên đầu họ. Chu không biết làm thế nào, ngay lập tức thông báo cho cấp trên là Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật thứ hai sau Mao, tin rằng Lưu Thiếu Kỳ có thể khuyên Mao không liều mạng nữa. Lưu từ chối can thiệp. Ông là người khôn ngoan và kín đáo và quyết định để Mao muốn làm gì thì làm. Trên bờ có Giang Thanh và bác sĩ Chu. Sự bình tĩnh của bác sĩ Chu làm bà vợ Mao chưa hết lo. Bác sĩ Chu là người nhút nhát, tuổi chừng 50. Giang Thanh nói: - Chủ tịch đang vật lộn với sóng biển, và nếu cái gì đó xảy ra với ông ấy, thì đồng chí sẽ làm gì? Đứng nhìn thôi à? Tuy nhiên bác sĩ Chu thậm chí còn không biết bơi. Hai người lính giúp Chu xuống chiếc xuồng nhỏ để ông có thể lại gần Mao. Nhưng họ lại không biết điều khiển xuồng, và xuồng chao đảo trên sóng trông như chiếc lá. Bác sĩ rất hốt hoảng. Khi Mao bắt đầu quay về bờ, thì chiếc xuồng của bác sĩ vẫn còn lắc lư trên sóng. Bác sĩ Chu, nét mặt sợ hãi cuối cùng cũng cập bờ, lảo đảo rời khoang thuyền. Giang Thanh nhìn ông với vẻ mặt căm thù. Chính thời điểm ấy, bà ta cho gọi tôi. Mao quẳng cái nhìn vào Uông Đông Hưng, thét lên: - Anh là thằng khốn nạn và đểu giả. Anh cần phải biết tôi có thể bơi trên biển trong thời tiết như thế này. Nhưng anh không những cản tôi, mà còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác nhờ giúp! Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh luôn luôn dưới sự che chở của Mao. Họ phục vụ Mao một cách tin cẩn và trung thành, nhưng họ cũng nằm trong hoàn cảnh phức tạp. Họ chịu trách nhiệm sinh mạng của Chủ tịch. Nếu ông bị chết đuối thì không ai nhớ đến sự trung thành của họ hoặc là họ cố gắng ngăn cản lãnh tụ, nhưng ông lại không nghe. Không những mất chức mà còn mất đầu như chơi. Tất cả những hành động của họ, Mao nhìn nhận như là chuyện xâm phạm vào tự do của ông, các ủy viên Bộ chính trị khác cũng muốn kiềm chế ông. Không ai có thể bẻ gẫy được ý thích của ông, ông nhanh hiểu những ai có ý làm điều này. Vụ việc ở Bắc Đới Hà ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ của Mao đối với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Sự giận dữ của Mao trong quan hệ với họ được tích dần từng năm và cuối cùng làm giảm lòng tin của ông. Sự kiện trên liên quan đến tôi. Bác sĩ Chu chuyển sang công việc khác và ông lãnh đạo bệnh viện Bắc Kinh, còn tôi chính thức trở thành bác sĩ riêng của Mao. Công việc của tôi là điều trị, phòng ngừa bệnh và kiểm tra trạng thái sức khỏe của Mao. Trong bất kỳ sự không vừa lòng nào của Chủ tịch tôi sẽ có lỗi. Kể từ đây không những công việc mà còn tính mạng của tôi phụ thuộc vào điều là tôi sẽ chú ý đến sức khỏe Mao bao nhiêu. Vì thế tôi cần luôn luôn cạnh với Mao, để nghiên cứu cặn kẽ cơ thể ông ta. Sau khi Chủ tịch từ Bắc Đới Hà về, tôi gặp ông hàng ngày. Nguyên nhân chủ yếu là bài học tiếng Anh. Tôi đi cùng Mao khắp nơi, ở cả Bắc Kinh, và ở cả các tỉnh. Tôi cần phải khám tổng thể Chủ tịch. Điều này giúp tôi đoán trước căn bệnh tương lai khi tuổi tác ông tăng lên. Ngoài ra, khám tổng thể để giải thích nguyên nhân hàm lượng tăng cao mỡ trong máu. Tôi biết điều này khi xem y bạ của ông. Hai năm lại đây chỉ số này của Mao vượt quá quy định gần 1,5 lần. Chủ tịch bị thiệt hại do viêm nhiễm kinh niên thể nhẹ, và tôi cần phải là giải thích nguyên nhân. Tôi không muốn kể cho Mao điều này. Ông tự hào về sức khỏe và thể lực của mình, và tự cảm thấy căn bệnh thừa mỡ nào đấy. Ông không thích gọi bác sĩ. Năm 1951 một nhóm bác sĩ giỏi Liên Xô đã khám ông. Do bị thăm bệnh, phân tích và hỏi han quá nhiều, Mao mất hết kiên nhẫn và bỏ dở việc khám.. Tôi quay lại bài học tiếng Anh. Chúng tôi đọc tác phẩm Ăng-ghen Chủ nghĩa xã hội: từ ảo tưởng đến khoa học. Tại thời điểm này tôi quyết định tế nhị đặt vấn đề. Tôi giải thích Mao rằng bạch cầu tăng cao nói lên là có một viêm nhiễm nhẹ nào đấy trong cơ thể. Chủ tịch ngạc nhiên; - Đâu mà viêm nhiễm ra thế. Nó là sự bày đặt trong y học hiện đại. Tôi trấn an ông: - Chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Tôi muốn xác định nơi viêm nhiễm. Sau đó tôi nói rằng tôi sẽ khám tổng thể mũi, răng, và tuyến nội tiết và việc đó không chiếm quá nửa giờ. Ông đồng ý. Hốc mũi bình thường. Tôi xem qua miệng. Mao chưa bao giờ đánh răng cả. Theo thói quen của nông dân nông dân miền nam Trung Quốc, ông chỉ làm sạch răng bằng chè, mỗi buổi sáng họ nhai một nắm lá chè và xúc miệng bằng nước. Mao khăng khăng từ chối cho xem răng. Tướng Bành Đức Hoài luôn luôn nói thẳng sự thật, và có một lần ông khuyên tôi nên chú ý đến vấn đề vệ sinh miệng Mao. Ông nói răng của Chủ tịch dường như có màu xanh da lá cây và khi tôi khám miệng ông thì tôi tin điều đó. Gần như tất cả răng của ông đều có cặn cứng màu xanh nhạt. Một số cái đã bị rụng. Tôi xem lợi, bị tấy sưng. Đáng ngạc nhiên là Mao chưa bao giờ phàn nàn, dù rằng viêm nhiễm như thế trong miệng thường gây ra đau nặng. Hình như ông vui lòng chịu đựng đau đớn còn hơn là gọi thày thuốc mà ông vốn chẳng ưa gì. - Đồng chí đã thu xếp xong rồi chứ? Mao hỏi khi tôi nói cho ông về những chiếc răng của ông. Tôi trả lời rằng không nghiên cứu về nha khoa và khuyên ông gọi các chuyên gia. Mao cười phá lên và nhận xét: - Khổng tử nói: Biết cái mình biết, biết cái mà mình chưa biết – nghĩa là biết Sau đó tôi khám bộ phận tuyến sinh dục. Chỗ đấy bị sưng tấy. Hình như tôi đã tìm thấy nguồn viêm nhiễm. Sau khi chuyển vào Trung Nam Hải, Mao không tắm nữa. Ông cho rằng tắm làm mất thời gian. Các vệ sĩ đứng trong buồng tắm. Họ lau cơ thể lãnh tụ bằng khăn bông tẩm nước nóng, còn chính Mao lúc ấy nghiên cứu tài liệu, đọc hoặc nói chuyện với thuộc hạ. Tôi còn nhận ra rằng kích thước tinh hoàn bên phải nhỏ hơn bình thường, nhưng lại không nằm ở bìu. Sự khiếm khuyết như vậy thường là bẩm sinh và không ảnh hưởng tới chức năng sinh dục, tuy nhiên dần dần có thể dẫn đến ung thư tinh hoàn. Tôi cũng tiếp tục chú ý tới sự bất bình thường này. Để xác định vùng phân bố viêm nhiễm, cần phải phân tích tinh trùng của Mao. Để làm điều này tôi bao một chiếc túi mềm lên đầu dương vật của ông và mang tinh dịch về phòng thí nghiệm. Vài ngày sau, Mao cho phép dẫn một bác sĩ răng ở đại học y khoa Bắc Kinh tới. Tên ông là Trương Quang Hán. Tôi biết Trương từ hồi còn học ở đại học tổng hợp liên hợp miền Tây Trung Quốc. Ông hơn tôi hai tuổi và học về nha khoa. Việc chữa răng cho Mao tiến hành cũng ở buồng ăn, nơi Mao cắt tóc và cạo râu. Chiếc ghế tựa nhanh chóng được biến thành thành chiếc ghế để chữa răng. Trương chuẩn bị đồ nghề, rõ ràng căng thẳng và để ý đến kết quả khám của tôi, cũng như thái độ tính khí của chính Mao. Tôi ở vị trí này chỉ mới được vài tháng và chưa đủ được thông tin về tính khí ông ta. Chỉ chắc một điều là Mao thích tất cả nhanh gọn và không chuyện trò dài dòng. Tô cũng cho Trương biết là Mao đồng ý cho Trương đến, nghĩa là ông ta muốn thực hiện tất cả những gì đã nêu ra. Khi chúng tôi vào, Chủ tịch đang đọc một quyển sách về lịch sử Trung Quốc. Ông thích gặp khách với quyển sách trong tay. Dù rằng có đày quyền lực, ông đôi khi bị bất an khi gặp những người ông chưa quen biết. Nhưng ông, không còn nghi ngờ, biết rằng những người gặp ông đều bị xúc động được nhìn thấy thiên tử và người cai quản vũ trụ. Sách làm ông an tâm và giúp ông bắt đầu chuyện trò. Để mà bớt vẻ ngăn cách với khách, ông biết cách pha trò và trích dẫn sách. Trong cuộc gặp lần đầu tiên ông chú ý lắng nghe và hóm hỉnh, và người đối thoại của ông trở nên thoải mái và cởi mở. Như vậy Mao đã tận dụng tất cả những thông tin hay từ họ. - Đồng chí đến đây rồi – Mao đặt sách ra một bên, nhận xét – Đọc sách thực là bài học kỳ diệu. Ông đứng dậy chìa tay cho bác sĩ Trương bắt. Sau đó mời chúng tôi ngồi. Người ta mang chè đến. Một vệ sĩ mang cho Mao một khăn bông tẩm nước nóng, lau mặt và lau lau tay cẩn thận. Mao chú ý tới nguồn gốc tên của bác sĩ. Trương giải thích rằng tên của ông Quang Hán, Quang nghĩa là chiếu sáng, Hán – dân tộc Hán. Trung Quốc – một quốc gia nhiều dân tộc, nhưng dân tộc Hán đông hơn, khoảng 93% dân số. Khi nói về Trung Quốc thì người ta nói đến dân tộc này. - Đồng chí cũng biết làm sáng tỏ dân tộc Hán- Mao nhận xét – Tên của đồng chí rất nổi tiếng trong thời gian đấu tranh với triều đại nhà Mãn châu – nhà Thanh. Triều đại Thanh sụp đổ năm 1911. Nó được hình thành bởi những những người đi chinh phục ở bắc Trung Quốc. Dân tộc Hán vĩ đại thực tế biến thành nô lệ của những người chinh phục ngoại bang, vì thế ở Trung Quốc luôn luôn có tâm lý chống Mãn thanh rất mạnh. Khi Mao hỏi Trương gốc gác, Trương nói là quê ông tỉnh Hà Bắc, nghĩa là phía bắc con sông, nhưng từ lâu sống ở tỉnh Tứ Xuyên, nghĩa là bốn con sông. - Đồng chí biết con sông nào gọi là Hà Bắc? – Mao tò mò. - Vâng, con sông Vàng, tức Hoàng hà – nha sĩ trả lời. Trong lịch sử Trung Quốc, con sông Hoàng hà thay đổi dòng chảy của mình. Khi người ta đặt tên tỉnh Hà Bắc, khi ấy tỉnh nằm ở phía nam của con sông. Bây giờ Hoàng Hà lại còn tụt hẳn xuống phía nam và chảy thậm chí qua tỉnh Sơn Đông. Mao rít thuốc và hỏi: - Thế còn bốn con sông mang tên Tứ Xuyên? Trương chẳng cần nghĩ ngợi nói luôn: - Sông Minh, sông Tô, sông Giang và sông Thanh. Mao cười và chữa lại: - Không phải sông Thanh mà là sông Vũ, rộng hơn sông Thanh. Trương cũng cười và nói: - Tôi nhớ một bài thơ của đồng chí nói về Tứ Xuyên. Có câu: Nước sông Thanh bồi đắp bờ sương mù. Vì thế tôi cũng gọi là sông Thanh. Mao mỉm cười và nói: - Đấy là thơ. Sau đó Mao chuyển sang nói chuyện về trường y khoa thuộc đại học tổng hợp liên hợp Tây Trung Quốc. Người Mỹ lập nên trường này và Mao nói rằng ông rất mừng là có người Trung Quốc học ở trường Mỹ. Mao nói: - Trong thời gian kháng Nhật, Mỹ gửi cố vấn đến Diên An và họ đã giúp chúng ta rất nhiều. Bác sĩ Mỹ Gorge Haitem giúp đỡ chúng ta và trị được bệnh lậu. Đó là đóng góp chính vào chiến thắng bọn xâm lược Nhật. Ông cũng là đồng nghiệp của các đồng chí đấy. Bác sĩ Haitem cùng với trợ lý của mình là Edward Snow có mặt ở chiến khu đảng cộng sản Trung Quốc Trung Quốc năm 1936 và sau đó ở lại Trung Quốc để chữa cho các chiến sĩ giải phóng quân Trung Quốc. Mao tiếp tục: - Mỹ đã đào tạo cho chúng ta không ít chuyên gia. Nếu người dân thường Trung Quốc nói câu này thì người ta buộc tội là phản cách mạng, bởi vì ở Trung Quốc, Mỹ được gọi chính thức là kẻ thù số một, và bất kỳ sự tán dương Mỹ được xem như lời nói phản cách mạng. - Như thế, tất cả các đồng chí tốt nghiệp đại học Mỹ – Mao nhận xét – Tôi kính trọng các chuyên gia do Mỹ và Anh đào tạo. Ông cũng khoe với Trương rằng tôi đã giúp ông học tiếng Anh và ông bắt đầu đọc nguyên bản tác phẩm của Ăng ghen Chủ nghĩa xã hội từ ảo tưởng đến khoa học. Tính hay chuyện và cởi mở của Mao đã làm yên lòng Trương, tôi gợi ý khám miệng Mao. Mao phản đối. Trương cậy hết cặn răng Mao và gắp các mẩu vụn thức ăn khỏi miệng, sau đó nói: - Thưa Chủ tịch, Chủ tịch cần đánh răng hàng ngày. Răng đồng chí tồi lắm. Mao phản đối: - Tôi thường làm sạch răng bằng chè và chẳng bao giờ dùng bàn chải đánh răng cả. Xem con hổ đấy, có bao giờ nó đánh răng đâu. Vì sao răng nó cứng và sắc. Logic của Mao thì không ai bắt bẻ được, dù rằng khá lạ lùng. Tôi và Trương im lặng. Mao cảm thấy rằng giành được chiến thắng lớn, nháy mắt, chua cay nhận xét: - Các đồng chí thấy đấy, thậm chí các đồng chí là bác sĩ bằng cấp hẳn hoi mà cũng chẳng thể giải thích được. Trương đồng ý: - Xin chịu Chủ tịch! Sau đó Trương nói cho Mao rằng cần phải nhổ vài chiếc răng hàm trên. - Nó bị sâu rồi, những răng này là nguồn viêm nhiễm. Nếu không nhổ đi, thì nó lại làm hỏng tiếp các răng bên cạnh. - Có thật là nặng thế không? – Mao ngạc nhiên. - Tôi thề với Chủ tịch đúng như thế – Trương trả lời. - Thôi được, nhưng hãy tính toán cho đúng nhé, tôi sợ đau lắm. Tiêm thuốc tê đi. Trương quay về phía tôi và hỏi nhỏ: - Chủ tịch có kháng thuốc giảm đau novocain không? - Không – Tôi trả lời – đôi lần tôi đã tiêm peneciline và novocain. Không thấy kháng thuốc. - Có cần phải dùng tới anestesine không? – Trương lại hỏi nhỏ – Răng này khó giữ lắm, tôi nhổ nó chỉ trong tích tắc thôi. - Chúng mình cứ làm như Chủ tịch đã nói – Tôi trả lời – Để ông ấy yên tâm. Trương tiêm novocain và mấy phút sau khi bệnh nhân bị tê rồi, thì ông nhổ chiếc răng đau. Mắt Mao sáng lên. - Trường học Anh Mỹ đã giành chiến thắng vĩ đại! Mao kêu lên, khẽ cười. Sau vài ngày, lượng kháng thể trong máu trở lại mức bình thường. Mao vui vẻ dường như trẻ con. Ông nói: - Đồng chí đã giải quyết được vấn đề làm băn khoăn tôi nhiều năm. Đó là thành công lớn. Hoan hô trường học Anh Mỹ! Sáng hôm sau ông bảo tôi mang cho ông bàn chải và thuốc đánh răng và bắt đầu cọ răng. Nhưng ông chỉ tiếp tục vài ngày. Thói quen nông dân thâm căn cố đế đánh răng bằng chè vượt hẳn lên. Ngoài ra Mao không muốn bận thân vào việc tắm rửa và đánh răng. Răng Mao dần dần tồi đi, cũng như trước đây ông không khoái gì nha sĩ đến. Răng của Chủ tịch bị xỉn đen và lần lượt rụng dần. Đến đầu những năm 1970 hàm trên chẳng còn chiếc răng nào cả. May mắn thay, khi ông cười, chỉ thấy những chiếc răng tốt còn giữ được, còn những răng đen và bị nhổ rồi thì nằm ở phía trong không nhìn thấy rõ. Xét nghiệm tuyến sinh dục cho thấy rằng Mao mất khả năng có con. Tinh dịch của ông không có tinh trùng khỏe. Mao từng là ông bố của một số con từ ba nhiều vợ. Đứa sau cùng là con gái, con của Giang Thanh, tên là Lý Nạp, khi ấy khoảng 15 tuổi. Ông không thể có con, khi tuổi ông chưa tới 50. Tôi không thể giải thích được nguyên nhân. Tuy nhiên không thể chữa được. - Nghĩa là tôi trở thành hoạn quan phải không? Mao đau buồn hỏi thế, khi tôi nói cho ông về sự không thể có con. Ông cực kỳ hoảng hốt. - Hoàn toàn không phải thế – Tôi trả lời – Phần đông quan thái giám trong cung vua, hoàn toàn bị cắt cơ quan sinh dục. Vài người may mắn thì còn giữ được tinh hoàn. Phút chốc tôi hiểu rằng Mao thậm chí không có khái niệm cơ bản về các cơ quan trong cơ thể và chức năng của chúng. Từ cuộc tiếp kiến, tôi biết rằng tinh hoàn bên phải của ông bị teo. Tuy nhiên sự bất lực không biến ông thành hoạn quan. Tôi bắt đầu nói để ông hiểu. - Tinh dịch của ông không có tinh trùng, và vì thế ông không có con. Tuy nhiên điều này là không ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tình dục Tôi hiểu rằng Mao hoàn toàn không vui lòng về sự bất lực của ông. Ông hoảng lên sợ liệt dương. Một thời gian dài ông vẫn tin thành tâm rằng hoạt động tình đục bị hạn chế ở tuổi 20 và 60. Về sau ông kẻ cho tôi rằng ông bắt đầu cuộc sống tình dục khi chưa thành niên. Điều này xảy ra ở quê ông làng Sào Sơn. Ông vui vẻ nhớ về sự làm quen đầu tiên với tình dục thời trẻ. Bạn tình là cô bé cùng làng 12 tuổi. Tháng 12 năm 1953, Mao tròn 60 tuổi. Tôi là bác sĩ riêng của ông từ năm 1955, và khi đó ông chờ đợi trong lo sợ về hết khả năng tình dục. Các bác sĩ trước tôi thường tiêm cho ông nhung hươu. Trong y học dân tộc Trung Quốc đây là một trong thứ thuốc kích thích mạnh. Tuy nhiên dấu hiệu say yếu tình dục không thấy mất đi, ông sống trong lo sợ. Ông muốn sống tới 80 tuổi, giữ được vẻ đẹp, khỏe mạnh và hoạt động tình dục, và tôi là một bác sĩ cần phải giúp ông thực hiện điều lạ lùng như thế. Ông mất bình tĩnh, khi tôi tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của nhung hươu. Ngoài ra, tôi không tin vào hiệu dụng của chất này đối với cơ quan sinh dục. Mao buồn rầu: Các ông bác sĩ, người thì khuyên thế này, người thì khuyên thế kia. Tôi nghĩ trong 10 trường hợp thì chỉ 7 là gần đúng thôi. Mao không đòi dùng nhung hươu nữa, nhưng đòi tôi kiếm thần dược để kéo dài tuổi thọ và tăng tình dục. Trong hoàn cảnh ấy thì ông lại thích đưa ra các ví dụ từ các vua Trung Quốc. Ông vua lâu nhất Trung Quốc là Hoàng đế, tổ tiên dân tộc Hán, người đã tạo ra tất cả người Trung Quốc. Truyền thuyết kể rằng ông đạt được bất tử, vì ngủ với hàng nghìn con gái đồng trinh. Thậm chí các vua đời sau còn cho rằng càng ngủ nhiều với gái thì tuổi thọ càng tăng lên. Từ đó truyền thống các vua đều có tới hàng nghìn nữ tỳ. Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, lập nên nhà Tần, theo truyền thuyết, có lần đã cử một nhà sư và năm trăm cô gái trinh bạch ra biển khơi để kiếm thuốc trường sinh. Truyền thuyết cũng xác nhận là những người được gửi đi là thuỷ tổ của dân tộc Nhật bản. Mao cho rằng Tần Thuỷ Hoàng là lý tưởng của mình và cố gắng noi gương ông vua này. Một thời gian ngắn sau khi tôi làm việc ở chỗ Mao, tôi biết rằng một bác sĩ Rumani tìm ra công thức thuốc kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng tình dục. Thứ thần dược này bề ngoài hồi phục sinh lực và có khả năng làm tăng độ dẻo dai ngay cả khi chỉ dùng một lượng nhỏ. Mao rất khoái thuốc này, nhưng lại muốn, tôi phải thử trước thần dược. Nếu nó có tác dụng với tôi, Mao nói, thì ông mới dùng. Tôi cũng phải bóng gió nói cho ông biết tôi và ông chênh lệch nhau gần 30 tuổi và tôi hãy còn trẻ và không có chứng bệnh ông mắc. Bác sĩ Rumani đặt tên thuốc của mình là vitamin H3, nhưng té ra là thuốc này chưa chủ yếu novocain. Không tin vào khả năng thần diệu của nó, nhưng cũng biết là Mao không phản ứng với novocain, tôi quyết định đưa vitamin này cho ông dùng thử. Trong gần ba tháng người ta bằng cách này nhồi vào cơ thể lãnh tụ, nhưng chẳng đem lại kết quả. Trong tất cả những năm làm việc với Mao, tôi chẳng mở mang hiểu biết cho ông về lĩnh vực y học. ý nghĩ phản khoa học cản trở ông. Tôi ngày càng ngờ rằng nguyên nhân sự bất lực của ông là do tinh thần hơn là thể xác. Sau khi tham khảo các chuyên gia bài tiết và thần kinh, tôi tin là tôi chẩn đúng. Tôi quyết định sử dụng phương pháp tác động tinh thần. Tôi cho chế tạo glucoza và chế phẩm làm từ nhân sâm, tôi đưa cho ông và nói là đây là một loại thuốc mới từ thảo mộc. Trong thời gian đấu đá chính trị hậu quả không lường được, thì bệnh liệt dương của ông đặc biệt xuất hiện mạnh. Nhưng đầu những năm 60, khi quyền lực của ông còn bền vững, thì không thấy ông phàn nàn về vấn đề yếu tình dục. Tại thời gian cao điểm Cách mạng văn hoá, cuối những năm 60, khi giữa Mao và Giang Thanh không có quan hệ tình dục nào cả, Chủ tịch thường xuyên lôi các cô gái trẻ lên giường, đồng thời số lượng các cô ấy tăng lên, nhưng độ tuổi lại nhỏ đi. Lãnh tụ của chúng ta thực hiện chương trình kéo dài tuổi thọ theo công thức hoàng đế cổ Trung Quốc như thế đấy. Mao tiếp tục tìm kiếm thuốc trường sinh, thậm chí cũng chẳng hề nghi ngờ có thứ thuốc đó trên đời. Lại còn trong những dòng thơ ông bốc đồng viết là sẽ sống hai trăm tuổi và bơi qua con sông lớn dài ba nghìn dặm. Những dòng thơ này là ngôi sao dẫn đường cho ông. Ông tin điều đó cho đến cuối đời. Giữa những năm 60 ông tuyên bố với khách nước ngoài là chuẩn bị gặp chúa trời và cụ Các Mác, đó là mánh khóe chiến lược của ông. Năm ấy ông còn khỏe và lạc quan và lúc đó chịu đựng đau đớn và yếu, tránh biểu lộ ra ngoài để rồi sau đó tính sổ những người đối lập của mình. Sức khỏe của Mao Chủ tịch và chính trị Trung Quốc có quan hệ tương hỗ. Năm 1963, Mao đóng vai một ông già ốm yếu trước đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Ông ta muốn dò xét phản ứng của Liên Xô trước cái chết giả tưởng của mình. Mối quan hệ Trung Quốc -Liên Xô trong những năm ấy là xấu, và vì thế đối với Mao điều này cực kỳ quan trọng. Trước khi chuẩn bị màn kịch này, Mao một số lần tập nhập lại vai ông già run rẩy sắp chết cho chúng tôi xem, và hỏi xem liệu ông có giống như người sắp chầu trời hay không. Sau đó chui vào giường và cho gọi đại sứ Liên Xô. Buổi diễn đạt được thành công. Cũng đúng vào năm 1965, Mao nói với người bạn cũ của mình là nhà báo Mỹ Edward Snow rằng ông sắp chầu thượng đế. Mao rất chú ý thái độ phản ứng của người Mỹ về tin tức ông sắp chết. Ông rất muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Mao tin rằng E. Snow, tác giả cuốn sách Ngôi sao đỏ trên đất nước Trung Hoa, cuốn sách trở thành phổ biến ở Trung Quốc và Anh, là người của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), và vì thế thông tin về cái chết gần kề của lãnh tụ rơi vào tay chính quyền Mỹ. Mánh khóe tương tự Mao cũng sử dụng cũng trong cùng năm ấy cả trước bộ trưởng bộ văn hoá Pháp Andre Malro và sau đó ông chú ý theo dõi tin tức báo chí phương tây. Mao thường buộc tội những người khác về lòng trung thành và tính đa nghi nhưng chính bản thân ông lại là một trong người mánh khóe nhất và không những lừa từng người một, mà còn lừa toàn bộ chính quyền. Chương 9 Trong những năm đầu tiên làm với Mao, nhiều thứ bệnh lặt vặt làm tôi không an tâm: sốt thông thường, viêm phế quản, nứt da, chai ở chân và ăn không ngon miệng. Do táo bón xảy ra hai ba ngày một lần lại phải thụt cho ông. Mao là chủ đề các cuộc thảo luận hàng ngày. Khi việc tiêu hoá đạt được bình thường, đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao. Dường như đối với tôi, những cơn mất ngủ của Mao choán hết thời gian của tôi. Mao là con người có năng lượng vô tận. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những quy tắc và chuẩn mực xác định. Ông thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt của thời gian. Quá trình bơi và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thừa nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, và ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động lớn của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông ngủ vào lúc nửa đêm, thì ngày hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ lại giấc ngủ đến ba giờ sáng, và ông cũng không thể đóng nổi mắt tới 6 giờ sáng. Chu kỳ mất ngủ của ông ngày một dài thêm, và có lúc ông không thức liền vài ngày. Sau đó ông ngả vào giường và ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền. Tôi thật khó nói được từ lúc nào Mao bắt đầu cái kiểu sống như thế. Có thể, nhịp sống sinh học của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ, vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi nghe ông đã chữa cho Mao cơn mất ngủ từ đầu những năm 30. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai thập kỷ đấu tranh công nhân và những năm nội chiến với Quốc dân đảng đã tác động tới ông. Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phương cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi bộ dạo chơi. Trong những năm 30 bắt đầu dùng thuốc ngu. Đầu tiên Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng thuốc amital natri, một loại thuốc gây ngủ mạnh, dạng bột theo liều 0,1 gam. Nếu một liều không xong, thì ông cho Mao dùng 2, ba và 4 liều một lần uống. Nhưng sớm phải ngừng sử dụng. ông vẫn mệt mỏi vì thiếu ngủ, và thường xuyên lắc lư từ bên này sang bên kia. Những người quanh ông thậm chí rất lo rằng Mao có thể gục ngã và bị vỡ đầu hoặc may mắn hơn là gẫy xương. Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao tình cờ có thể dùng một lượng rất lớn thuốc ngủ mạnh, và bí mật không cho Mao biết, thay cho liều 0,1 gam, thì Phó chỉ đưa những gói chưa thuốc hàm lượng từ 0,05 đến 0,075 gam. Nhưng cơ thể Mao đòi hỏi theo mức của mình, và Chủ tịch cũng vẫn tăng liều uống. Tôi yên tâm là Mao đã quen thuốc ngủ. Tôi chưa khi nào kê đơn cho bệnh nhân của mình mạnh đến như vậy, và tôi cũng như Phó Liêm Chương bắt đầu lo ngại về sự nguy hiểm do dùng quá liều. Khi tôi lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ. - Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không? Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng dùng thuốc ngủ. Tôi là thuộc cấp của ông, và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi. Một lần ông gọi tôi đến và hỏi: - Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày? Mao thích đặt các câu hỏi thông thường dường như nó chứa một điều bí mật nào đó. - Ba trăm sáu nhăm ngày, tất nhiên – tôi trả lời. - Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít – Mao nói. Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó biết rằng ông tính số lần ngủ trong thời gian một năm. - Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, thì một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này thì cuộc đời đồng chí, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: Mặt trời và mặt trăng không hiện ra vì núi thì không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua. Mao cười phá lên và nhận xét: - Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi – đó là con đường đến bất tử phải không? Điều này, tất nhiên, là đùa; tôi muốn ông giảm bớt căng thẳng tôi do mất ngủ. Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả và gây cho Mao giấc ngủ sâu, nhưng nó tác dụng không tức thời. Vì thế tôi gợi ý Mao trước khi ăn hai mươi phút uống hai gói bột thuốc ngủ, để nó tác dụng tương đối nhanh. Ngay lập tức sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ được dài. ở điểm này tôi không đồng ý với Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân của chúng tôi cần phải biết liều lượng mà họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, gốc gác nông dân nghèo, ít học. Bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khỏe Mao và vì thế, để tránh trường hợp không may nào đấy xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống. Bởi vì Phó Liêm Chương là thủ trưởng của tôi, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi bắt đầu tán dương phương pháp mới điều trị lãnh tụ, thì Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung Hoa: Một bác sĩ hay khoe khoang – đó là liều thuốc tồi, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử. Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, và tôi giảm lượng thuốc ngủ tác dụng nhanh và thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao nghe việc này, ông nhận xét: - Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza. Cũng có những ngày, khi Mao lo lắng đến mức phương pháp của tôi thậm chí giúp không được gì. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh họ còn có cả sự căng thẳng. Ở Mỹ người ta coi căng thẳng cũng là bệnh. Dù vậy triệu chứng này khá phổ biến ở Trung Quốc. Xuất hiện không những ở Mao, mà còn cả ở vợ ông. Sự căng thẳng thường là hậu quả của những sự thất bại tinh thần. Từ lâu người ta cho là bệnh tâm thần và thất bại về mặt thần kinh là do nhục nhã và xấu hổ. Vì thế cơn mất ngủ, gây ra chính bệnh căng thẳng được giải thích là do nguyên nhân sinh lý học. Ngoài việc làm mất ngủ dẫn đến căng thẳng cũng dẫn đến các chứng sau: nhức đầu, đau kinh niên, lo lắng, tăng áp huyết, giảm tình dục, bệnh da liễu, rối loạn tiêu hoá, đái dắt, dễ bực tức và nhiều bệnh khác. Dần dần tôi đi đến kết luận rằng sự căng thẳng phổ biến nhiều nhất trong đất nước bắt đầu từ chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng của tồn tại. Tôi va chạm với vấn đề này từ 1952, khi anh trai tôi rơi vào căn bệnh căng thẳng nặng. Anh tôi hiếm khi tăng huyết áp và xuất hiện hội chứng khác của căn bệnh này. Tất cả điều này xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của đảng với ba sai lầm cơ bản: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sự căng thẳng tiếp theo xảy ra năm 1957 trong thời gian chiến dịch chống khuynh hữu trong đảng, hậu quả của nó là hại hàng triệu người vô tội. Trong những năm cai trị Quốc dân đảng, tôi không nhận thấy hiện tượng như thế. Khi đó xấu dở gì đi nữa, thì người ta vẫn có lối thoát. ở chế độ cộng sản không có sự lựa chọn – buộc phải sống theo luật lệ của họ và giữ mồm giữ miệng. Hệ thống cộng sản gây ra hai bệnh tinh thần nghiêm trọng – bệnh thần kinh phân lập và bệnh khùng do bị đè nén. Mọi sự thất vọng còn lại liên quan với định kiến tư sản và thiếu ý chí được xem là vấn đề tư tưởng. Đối với dân thường Trung Quốc, thì bệnh tâm thần do những trắc trở cá nhân được xem là do nhục nhã và xấu hổ. Đó là sự mất mặt, nghĩa là mất đi sự kính trọng dưới con mắt người khác. Vì thế tất cả các vấn đề cá nhân phức tạp, người Trung Quốc thường giải quyết trong nội bộ gia đình. Kiểu này tiếp diễn đến khi Mao chết. Bác sĩ, theo đúng quy tắc, không đi tìm nguyên nhân thất vọng tinh thần và căng thẳng, mà chỉ kê đơn thuốc cho người không may. Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến chữ căng thẳng, bởi vì biết là điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ và tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào bị ức chế, ông nói việc tôi là ông cảm thấy bất hạnh sâu và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Sự căng thẳng của Mao là đương nhiên. Dày vò ông là bệnh mất ngủ. ngứa ngáy ở da, đầu óc quay cuồng và liệt dương. Ông thường xuất hiện những ý nghĩ độc đoán, sự lo lắng vô cớ và đa nghi. Có một lần trong thời gian nghi lễ chính thức đầu ông bỗng quay cuồng, và những vệ sĩ đứng bên cạnh phải đỡ ông khỏi ngã. Và những trường hợp như thế xảy ra tương đối thường xuyên. Tôi còn nhớ, trong buổi Mao tiếp đoàn đại biểu châu Phi, các vị khách đang lanh lợi hội đàm với ông thì đột nhiên họ tỏ ra lúng túng khi thấy Mao lảo đảo. Tôi lập tức chạy lại giúp ông. Trong cac chuyến đi, tiêu dao, và tiếp chính thức chúng tôi luôn luôn bên cạnh để trong trường hợp cần thiết đỡ ông khỏi ngã. Khi Mao nghỉ, thì những hiện tượng tương tự không xảy ra. Tôi thường xuyên kiểm tra sự làm việc của tim và huyết áp của ông, chẳng thấy gì lạ cả, tất cả đều bình thường. Phần đông nhân dân khi có khúc mắc vấn đề riêng tư đều bị căng thẳng. Đời sống của lãnh tụ trôi đi không có hoảng loạn đặc biệt gì về thần kinh. Ông thường làm người khác bất hạnh. Sự căng thẳng của ông là hậu quả của tính đa nghi quá mức, và sự thiếu tin tưởng trong quan hệ với của ông với các chiến hữu. Ông không có bạn, và chỉ có ít người tận dụng được thiện chí của ông. Hội chứng căng thẳng xuất hiện mạnh ở Mao đặc biệt trong trong thời kỳ đấu tranh dữ dội giành quyền lực trong nước. Mất ngủ suốt tuần và thậm chí hàng tháng đã làm kiệt sức lãnh tụ. Trong hoàn cảnh tranh giành chính trị quyết liệt với phe đối lập Mao, việc điều trị cơn mất ngủ của lãnh tụ gần như vô vọng. Mao rất muốn làm cải cách trong nước, không cần tính đến điều kiện kháh quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải tạo ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 việc tập thể hoá thực tế đã hoàn thành và nông dân đã nhận ruộng. Thế nhưng vẫn còn một số ít ruộng đất nằm trong tay sở hữu riêng. Để tiến nhanh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, Mao xúc tiến ý tưởng xây dựng kinh tế tập thể, không cần chờ làm xong việc cơ giới hoá nông nghiệp, quá trình cơ giới hoá trong hoàn cảnh một đất nước lạc hậu như thế, lại bị tàn phá phải kéo dài hàng chục năm. Những hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên xuất hiện năm 1953 nhưng xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người đối lập chính trị lãnh tụ, mà còn từ phía nông dân. ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh như lúc nó được lập ra. Mao trút tội xuống người lãnh đạo ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tử Huy và những người khác. Ông buộc tội họ là chậm chạp, thiếu cương quyết và thậm chí cả tôi phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi: - Đặng Tử Huy đi cùng với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng Trung Quốc, ông ta chọn con đường không đúng. Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đấy Mao chống lại ý kiến tập thể Ban chấp hành trung ương và đường lối chung của đảng, đưa ra cách thức riêng, theo Mao, đi tới phát triển của Trung Quốc. Tôi cố gắng tiếp xúc ít hơn với chính trị, và trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi chỉ quan tâm bởi sự phân tích của ông và cố gắng điều trị những cơn cơn mất ngủ và liệt dương của lãnh tụ. Lúc ấy tôi không biết gì cả về cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những người đối lập ông, nhiều người trong số ấy những năm nội chiến từng là chiến hữu của ông. Trong thời gian từ mùa thu 1955 đến mùa xuân 1956 Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ở đó ông trình bày chương trình của mình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955 ông bắt đầu viết cuốn sách: Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung Quốc, chọn những bài diễn văn phát biểu của mình về vấn đề tập thể hoá và viết lời mở đầu và bình luận cho cuốn sách. Ông chuẩn bị bài phát biểu quan trọng trước Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc như thế để cố gắng lôi kéo các ủy viên trung ương đảng chấp nhận quyết định về đẩy mạnh cải cách xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng này cơn mất ngủ trở thành đồng minh của ông. Khi viết sách và soạn các bài đem in, Mao lúc đó không ngủ vài đêm liền, lúc thư giãn ông đi bơi. Do đó, cơ thể khỏe mạnh của ông bắt đầu rệu rã, và ông gọi tôi. Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế dài. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh và trông rất mệt mỏi. Ông mời tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói là thậm chí không kịp ăn sáng và vẫn còn tiếp tục công việc cả trong bệnh viện. Mao cười và nói: - Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không? - Đâu có thế, đô thuốc vẫn như trước đây thôi – Tôi trả lời. - Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi mất ngủ – Mao giận dữ. Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, dù Phó Liêm Chương nói với tôi rằng Mao không uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao là thuốc sẽ đắng. Mao trả lời: - Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng. Tôi đến chỗ tủ thuốc đặc biệt, chứa thuốc dành cho Mao và các ông chủ khác của đảng. Thuốc được mua từ Hồng Kông từ một hãng nào đấy và chủ yếu là thuốc Mỹừ Anh, Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra cẩn thận, do Phó Liêm Chương lãnh đạo. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên Lý năm 1947 là bí danh của Mao. Lúc ấy do sự đe dọa tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ tìm thuốc, thì Phó Liêm Chương đến và lại nhắc tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, và Chủ tịch có thể cáu chúng tôi. Tôi trả lời rằng Mao đã được báo trước điều này và đồng ý uống thuốc này, và tôi nói thêm là cần nhanh lên, vì rằng ông đang đợi tôi. - Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả. Tôi trả lời và đi ra cổng. - Đồng chí đã hành động vội vàng chẳng hỏi gì tôi cả! Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu. Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức cho ông về tất cả cái gì liên quan tới sức khỏe của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào rằng đã có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, và tin rằng Mao sẽ sướng tai nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, và giờ đây Mao lại tin tôi hơn. Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi và mời tôi ăn trưa với ông. - Thuốc nên uống trước bữa ăn – tôi nói. Sau đó tôi rót 15 mililit dung dịch 50% chloralhydrade vào chén và đưa cho Mao. Ông uống một hơi và nói là vị nó không phải khó uống như vậy và thậm chí còn giống rượu vang, mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm: - Bây giờ xem nó tác dụng ra sao! Chúng tôi còn chưa ăn xong bữa, thì thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, và ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, và lúc hai giờ thì ông đã chìm trong giác ngủ ngon lành. Buổi chiều một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ. Mao đã ngủ 10 tiếng liền thành công. Khi tôi đến gặp ông, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi: - Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế? - Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả. - Vì sao đồng chí không đưa thuốc này tôi từ trước? Tôi giải thích: - Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng khó uống, và gần đây chưa có thuốc này. Thực ra giữa amital natri và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản là Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý. Tôi cảm thấy Mao biết rõ rằng sự căng thẳng của ông gây ra bởi nguyên nhân tâm lý, và ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ, mẹ ông bán khoán ông cho nhà Phật để cầu Phật giúp đứa con bệnh tật của bà. Sau đó Mao hồi sức rất nhanh. Mao nói với tôi: - Tôi luôn luôn chống lại việc phá chùa chiền. Những người nghèo khi đau ốm tìm sự giúp của ông trời. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì giúp đỡ họ chỉ nhận được một nhúm tàn hương. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn của họ, làm cho họ minh mẫn và trả lại sức khỏe cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn hương hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi minh mẫn của tôi? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu. Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố: - Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc. Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ta ngủ được, mà còn kích thích khẩu vị, thậm chí tác dụng như ma túy. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi một số thuốc và và ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi tối khiêu vũ. Chương 10 Vốn tránh xa chính trị, nên tôi không hề hay biết sự căng thẳng giữa Mao và ban lãnh đạo trung ương đảng ngày càng tăng. Nhưng vào đầu năm 1956 tôi nhận thấy, Chủ tịch bị một sự bất an nào đó về chính trị ám ảnh. Sau này tôi mới biết, năm 1956 là thời điểm xảy ra một biến cố. Chính lúc đó, mầm mống của cuộc Cách mạng văn hóa, của sự xáo trộn chính trị ghê gớm đã được gieo, mà sau này nó đã làm chao đảo cả đất nước suốt một thập kỷ liền. Bản tường trình bí mật của Khơ-rút-xốp tố cáo Stalin tại Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên xô vào tháng hai năm 1956 đã đưa đến biến cố đó. Mao không tham dự Đại hội đảng ở Mát-xcơ-va. Đoàn đại biểu Trung Quốc do Chu Đức, người đã cùng với Mao thành lập Hồng Quân và chỉ huy đội quân du kích đó trong chiến tranh, dần đầu. Khi đó, Chu Đức khoảng 70 tuổi, đẹp lão với mái tóc đen dày và có nụ cười hiền hậu. Ông không hề có tham vọng chính trị. Sau giải phóng, ít nhiều ông đã co về cuộc sống riêng tư và đã từng giữ những vụ quan trọng: Phó Chủ tịch Chính phủ trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (từ năm 1949 đến năm l954), phó Chủ tịch nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa và phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (từ năm 1954 đến năm 1959). Khi ông không chính thức đi thị sát tình hình, thì ông dành thời gian chăm sóc những giò phong lan trong nhà vườn của ông ở Trung Nam Hải, nơi ông trồng tới hơn một nghìn giò. Chúng tôi thường gọi ông là Tổng tư lệnh và ông được nhân dân Trung Quốc kính trọng, vì ông đã góp phần đưa đảng cộng sản Trung Quốc lên nắm chính quyền. Chu Đức đã không được chuẩn bị trong cuộc công kích của Khơ-rút-xốp. Ông đã đánh điện hỏi Mao về việc đó và xin chỉ thị ông nên phản ứng như thế nào. Đồng thời, ông đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích của Khơ-rút-xốp. Đặng Tiểu Bình, lúc đó cũng ở Moskva, đã tán thành đề nghị của Chu Đức. Mao liền tỏ thái độ. Ông nổi giận nói: Chu Đức là kẻ dốt nát. Đồng chí ấy muốn chúng ta chỉ trích Stalin và quên sạch những nguyên tắc đạo đức cơ bản của cách mạng. Cả Khơ-rút-xốp và Chu Đức đều không thể chấp nhận được. Thêm vào đó, Mao lại có lòng tin huyền bí vào vai trò của người lãnh đạo. Ông không hề băn khoăn khi cho rằng, chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của ông mới cứu vãn và thay đổi được đất nước Trung Hoa. Ông chính là Stalin của Trung Quốc và ai cũng biết điều đó. Mao hình dung, ông là đấng Cứu thế của đất nước. Việc Khơ-rút-xốp chỉ trích Stalin đã buộc Mao phải đề phòng rồi có lúc quyền lực của ông bị xới mòn và địa vị lãnh đạo của ông gàp trắc trở. Có lẽ, Mao chỉ tán thành việc chỉ trích Stalin, một khi việc đó mang lại cơ hội cho chính cá nhân ông. Sau khi Stalin chết và Khơ-rút-xốp lên thay vào năm 1953, Mao đã chúc mừng việc bổ nhiệm này. Nhưng khi Stalin bị chỉ trích, thì Mao trở thành đối thủ không đội trời chung đối với Khơ-rút-xốp. Dưới con mắt của ông, người lãnh đạo mới của Liên xô đã phạm một nguyên tắc cơ bản của cách mạng. Đó là nguyên tắc trung quân bất di bất dịch. Mặc dù Khơ-rút-xốp chịu ơn Stalin về tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại chống Stalin. Hơn nữa, theo Mao, bằng việc chỉ trích của mình, Khơ-rút-xốp đã bắt tay với Mỹ, tức là bất tay với tên đế quốc đầu sỏ. Ông tố cáo: Ông ta đã trao gươm cho người khác để bầy cọp có thể nuốt chửng chúng ta. Nếu họ không muốn giữ thanh gươm đó, thì chúng ta sẽ giữ nó. Chúng ta có thê sử dụng nó hữu hiệu. Liên xô muốn chỉ trích Stalin, nhưng chúng ta sẽ không làm điều đó. Nhưng không chỉ có vậy, chúng ta sẽ kiên định đi theo đường lối của Stalin. ấy thế, khi Mao kể cho tôi về thái độ của ông đối với vị lãnh tụ Xô viết đã quá cố, tôi mới sửng sốt nhận ra rằng, Stalin và ông không bao giờ có thể đồng hành với nhau được. Sự cừu địch của Mao đối với vị lãnh tụ Liên Xô này thật ghê gớm, hệt như thời kỳ chính phủ Xô Viết ở tỉnh Giang Tăy vào đầu những năm 1930. Năm 1924, khi đảng cộng sản Trung Quốc mới gần ba tuổi, Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho tổ chức đảng còn non trẻ này cùng với Quốc dân đảng thành lập một liên minh chính trị. Vì ở Trung Quốc đang xảy ra loạn lạc và không có một chính phủ trung ương nào, nên Quốc tế cộng sản muốn những người cộng sản Trung Quốc hợp tác với những người quốc gia để đánh đổ các thủ lĩnh ở những vùng khác và thống nhất đất nước do một chính phủ lãnh đạo. Một mặt trận thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, nàm 1927, Tưởng Giới Thạch đã dồn hết sức chống lại những người cộng sản ở đô thị làm cho số đảng viên giảm đi mau chóng. Khi đó, Mao đã trở về quê ông ở Hồ Nam, nơi ông đã chứng kiến những cuộc nôi dậy của nông dân. Theo kinh nghiệm, những cuộc nổi dậy ở Trung Quốc thường xuất phát từ nông thôn. Bởi vậy Mao hiểu rằng, nếu có một cuộc cách mạng xảy ra ở đất nước này trong thế kỷ 20, thì khởi điểm của nó chính là từ nông dân và họ sẽ là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng đó. Ông đã đưa ra một chiến lược táo bạo, mặc dù nó không tuân theo học thuyết Mác-Lê nin chính thống. Nhưng những điều kiện lịch sử ở Trung Quốc lại diễn ra hoàn toàn ngược lại. Theo diễn giải của Mao, đảng cộng sản sẽ là người lãnh đạo nông dân nổi dậy. Tại những vùng núi hẻo lánh thuộc tỉnh Giang Tây, ông đã xây dựng một căn cứ địa, để thực hiện cải cách ruộng đất với sự hỗ trợ của nông dân. Ngoài ra, ông thường tiến hành những cuộc tập kích vào quân Tưởng Giới Thạch, hy vọng rằng cuối cùng sẽ tiêu hao được sinh lực của những người quốc gia, tạo điều kiện cho nông dân chiếm được các đô thị. Dưới sự chỉ huy của Mao, khu Xô viết tỉnh Giang Tây ngày càng được mở rộng. Năm 1930, Stalin bổ nhiệm Vương Minh, người vừa tốt nghiệp khoa học ở Liên Xô khi mới 25 tuổi, làm đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung Quốc. Theo Mao, mặc dù Vương Minh không muốn, nhưng một bộ phận Quốc tế cộng sản lại chấp nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc, vì đảng kiên trì đưa những hoạt động cách mạng từ nông thôn vào thành thị, do đó đã đẩy những người cộng sản còn non kém vào những cuộc chiến đấu vô vọng. ở khu Xô Viết, Mao bị coi là bảo thủ và ông bị dồn đến chân tường. Mao kể: Stalin gọi tôi là người cộng sản ngu dốt – đỏ vỏ trắng lòng. Ban lãnh đạo khu Xô viết Giang Tây lâm vào tình trạng lao đao khi quân Tưởng Giới Thạch bao vây khu căn cứ ở vùng núi và bắt đầu hàng loạt các cuộc tấn công mãnh liệt mà Tưởng gọi là chiến dịch tảo thanh. Ông ta gần như thành công. Chiến dịch tảo thanh thứ năm mang ý nghĩa tiêu diệt đảng cộng sản Trung Quốc. Nhưng đảng cộng sản quyết định phá vòng vây để khỏi bị tiêu diệt. Họ đã thực hiện một cuộc rút lui nổi tiếng là cuộc Vạn lý trường chinh. Ngay trong cuộc Vạn lý trường chinh này, Mao đã đoạt lại vị trí lãnh đạo của ông. Mao đã buộc Stalin và Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng trước đây của đảng. Theo ông, Quốc tế cộng sản đã biến những lối thoát có lợi thành ngõ cụt. Ông nói: - Khi đó chúng tôi đã bị tiêu diệt 100% trong những vùng do Quốc Dân đảng kiểm soát ở Trung Quốc, và ở khu Xô viết 90% bị tiêu điệt. Lẽ ra chúng tôi phải buộc Stalin hoặc Liên Xô chịu trách nhiệm về thảm họa đó, thì chúng tôi lại khiển trách một số đồng chí của chúng tôi vì thứ chủ nghĩa giáo điều mang tính duy ý chí sai lầm của họ. Không phải Stalin, mà chính Vương Minh, tín đồ của chính sách Stalin, phải báo cáo về tai họa này. Thậm chí, Mao cũng đã kết tội ông ta là người tả phái phiêu lưu. Ngoài ra, Mao còn chỉ trích Stalin rằng, sau Chiến tranh thế giới thứ hai ông ta đã quy phục trước sức mạnh của Mỹ và khuyên đảng cộng sản Trung Quốc noi gương các đảng cộng sản Pháp, ý và Hy Lạp, đầu hàng chính phủ, tức là đầu hàng Quốc dân đảng. Nhưng Mao đã cự tuyệt. Trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia và những người cộng sản, Stalin không hề giúp những người cộng sản một khẩu súng hay một viên đạn nào, đến cả cái rắm cũng không. Chẳng những thế, ông ta lại ép những người cộng sản phải ngừng cuộc hành quân của họ ở phía Bắc sông Dương Tử và để cho Quốc dân đảng kiểm soát toàn bộ miền Nam. Mao nói: Chúng tôi không thèm đề ý đến lời ông ta. Tôi thường nghe rằng, phần lớn vũ khí mà những người cộng sản dùng trong cuộc nội chiến là từ Liên Xô và được để lại khi người Xô viết di tản đến vùng Mãn Châu khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nhưng Mao lại không muốn xác nhận rằng, thực ra Liên xô đã giúp và tôi khó mà cãi lại ông được. Khi những người cộng sản chiếm thành phố Nam Kinh – thủ phủ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn về Quảng Châu. Mao nói, đại sứ Anh và Hoa Kỳ đã ở lại Nam Kinh để hợp tác với chính phủ mới. Ngược lại, Liên Xô đã ủng hộ Quốc dân đảng và chuyển sứ quán của họ về Quảng Châu. Theo Mao, thì Stalin không muốn những người cộng sản chiến tháng. Mao nói tiếp: - Mùa đông năm 1949, chỉ vài tháng sau giải phóng, thì tôi đi hội đàm ở Liên Xô. Nhưng Stalin không tin tôi. Hai tháng trôi qua mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, tôi bực quá và nói: Nếu đồng chí không muốn hội đàm, thì chúng ta cứ gác việc đó lại và tôi về. Nhưng rồi, một Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ song phương giữa Liên Xô và Trung Quốc cũng đã được ký. Cuộc chiến ở Triều Tiên cũng gây ra càng thẳng giữa Mao và Stalin. Tôi thường cho rằng, Liên Xô và Trung Quốc đã hợp tác với nhau trong chiến tranh, thế nhưng Mao lại phủ nhận diu này. Ông nói: - Khi quân đội Mỹ tiến đến biên giới Trung – Triều tại sông áp Lục, tôi đã nói với Stalin chúng tôi sẽ điều quan đến đó. Nhưng Stalin không đồng ý, vì ông ta sợ xảy ra Thế chiến thứ ba. Mao báo cho Stalin rằng, nếu ông ta không muốn tham chiến và nếu người Mỹ chiếm được Triều Tiên, thì họ sẽ không chỉ đe dọa Trung Quốc, mà còn là mối nguy hiểm đối với cả Liên Xô nữa. Cuối cùng, há miệng, thì có thể mắc quai. Cứ muốn đánh nhau, Mao lại phải cần đến vũ khí của Liên Xô. Một khi Liên Xô sợ Mỹ và Anh kết tội ủng hộ Trung Quốc, thì Trung Quốc có thể mua lại vũ khí của Liên Xô. Trung Quốc sẽ đơn phương chiến đấu và Liên Xô không dính dáng gì đến việc này. Mao quy cho Stalin muốn chia cắt Trung Quốc. Để làm điều đó, Stalin đã cố đưa Cao Cương lên làm thủ lĩnh ở Mãn Châu và thành lập ở đây một đảng cộng sản riêng. Sự khẳng định của Mao làm tôi ngạc nhiên. Với tất cả những lời lẽ công khai thì Liên Xô là người anh của Trung Quốc, là tấm gương cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa của chính chúng ta. Nhưng theo Mao, thực ra sự tương quan này gần như là mối quan hệ chủ tớ. Mao nói: Họ muốn nuốt chửng chúng ta. Không bao giờ ông muốn bị thất thế. Lịch sử đã dạy ông rằng, nên ủng hộ những đất nước xa xôi, nên thận trọng đối với những nước láng giềng và đừng có đặt niềm tin vào chủ nghĩa bành trướng Xô Viết. Tuy nhiên, Mao không bao giờ để lộ sự chỉ trích của ông, vì với tư cách một người lãnh đạo cách mạng, Mao liên hệ mật thiết với Stalin. Bản tường trình của Khơ-rút-xốp cũng làm cho chính sách đối nội của Trung Quốc thay đổi. Việc Chu Đức đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích Stalin là một sự xúc phạm ghê gớm đối với Mao. Không bao giờ tôi cho Chu Đức lại là mối nguy hiểm đối với Mao và sự bực tức của Mao là vô lý. Nhưng trước đây, Mao và Chu Đức đã từng tranh cãi với nhau khi còn ở Giang Tây và Mao đã quả quyết, nhận định ban đầu của Chu Đức về bản tường trình của Khơ-rút-xốp đã phản ánh tư cách của ông ta. Vì vậy, ông đã không hiểu được sự trung thành của Chu Đức. Ngày 1-5-1956, hai tháng sau khi bản tường trình của Khơ-rút-xốp được công bố và cơn giận lôi đình của Mao, thì Chu Đức lâm bệnh. Thực ra, tình trạng sức khỏe đã không cho phép ông có mặt trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng đó lại là một sự kiện chính trị quan trọng, vì các vị lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đều có mặt vào ngày hôm đó để chụp một bức ảnh chính thức. Bởi thế, Chu Đức ngại rằng người ta sẽ có ấn tượng nào đấy khi ông vắng mặt trước công chúng. Ông đã nói với Trần Dương Anh, vợ góa của Nhậm Bích Thế là: Nếu tôi không đến, mọi người sẽ nghĩ tôi đã phạm một sai lầm tồi tệ về chính trị và vì thế tôi đã vắng mặt. Cuối cùng, khi chụp ảnh, Chu Đức mệt mỏi, mặt tái mét đứng vào chỗ của ông cách không xa Mao Chủ tịch. Mao không bao giờ tha thứ cho Khơ-rút-xốp vì ông ta đã chỉ trích Stalin. Tuy nhiên, vào năm 1956 tôi để ý thấy Mao cũng thường bất bình với ban lãnh đạo đảng của ông như thế nào. Trước hết, loại người hèn hạ, cứng nhắc, dập khuôn theo mô hình Xô Viết đã làm ông không hài lòng. Ngay năm 1956, Liên Xô đã đảm nhận nhiều công việc giúp Trung Quốc. Dưới sự giám sát trực tiếp của đảng cộng sản Trung Quốc, một bộ máy quan liêu, cồng kềnh đã được triển khai và nó quán xuyến cả những vùng nông thôn. Công cuộc tập thể hóa nông nghiệp đã hoàn thành, những nhà máy và doanh nghiệp lớn ở các thành phố đều do nhà nước quản lý. Các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ hơn và các cửa hiệu đã bị quốc hữu hoá hoặc là được giao cho chính quyền địa phương quản lý. Sự chuyển biến mang tính xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rõ nét trong phương diện kinh tế quan liêu. Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng, sự hồi sinh sống động của Trung Quốc mà Mao ao ước thật khó mà đạt được. Những chiến sĩ cách mạng kỳ cựu đã trở thành những kẻ quan liêu, đối với họ đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội quan trọng hơn cả tư tưởng cách mạng của Mao. Mao tỏ ra nóng lòng. Ông muốn đẩy mạnh cuộc cách mạng. Nhưng nhưng kẻ quan liêu trong đảng, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, vẫn còn dè dặt và bám lý hình mẫu phát triển của Liên Xô. Người ta đã thiết lập những thể chế và cơ cấu tổ chức theo khuôn mẫu của Liên Xô mà không lưu tâm đến hoàn cảnh đặc biệt ở Trung Quốc. Do vậy, Mao đã nổi giận với các đồng chí của ông. Cuộc cách mạng do Mao tiến hành đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hăng hái, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và Mao cho rằng, những người lãnh đạo của Trung Quốc vẫn còn thiếu những đặc điểm đó. Bởi vì, thậm chí một số người tán thành việc Khơ-rút-xốp chỉ trích Stalin, nên ông phải dè chừng đối với địa vị của mình. Mao không muốn một thuộc hạ nào của ông noi gương Khơ-rút-xốp và lên án ông mãnh liệt sau khi ông qua đời. Cho nên, ông cũng tính đến việc có kẻ nào đó âm mưu lật đổ ông khi ông còn sống. Sự bất bình của ông đối với đảng ngày càng tăng theo năm tháng và nó đã đưa đến cuộc Cách mạng văn hóa đầy tai hại. Chương 11 Việc Mao tự viết về mình thật là thiếu liêm sỉ. Năm 1970, ông nói với Edgar Snow ông là hoà thượng đạt san, dịch từng chữ có nghĩa là hoà thượng đội mũ. Nhưng heshang dasan chỉ là vế đầu của một câu thơ. Vế thứ hai là vô pháp vô thiên mới là vế quan trọng, nhưng lại thường không được nhắc đến. Vô pháp vô thiên, có nghĩa là không tóc, không Trời, tức là coi Trời bằng vung, để nói về một người bất phục. Vì người nữ phiên dịch của Mao khi đó không được đào tạo về lĩnh vực văn chương, nên đã dịch câu nói của Mao thành một nhà sư đội mũ cô đơn lang bạt khắp nơi. Edgar Snow và những nhà khoa học khác suy ra rằng, Mao tự ví mình như một người độc hành đáng thương. Nhưng thực ra, Mao muốn nói rằng, chính ông là thiên, là Trời: vô pháp vô thiên. Mao đã nổi dậy chống lại mọi quyền lực và đoạt được mọi thứ. Điều này không chỉ có giá trị đối với những quyết định trong lĩnh vực chính trị cao nhất, mà còn có tác dụng đối với cả những việc lặt vặt hàng ngày. Tại Trung Nam Hải, không có gì xảy ra nếu không được ông chuẩn y. Thậm chí ông quyết định cả việc vợ ông mặc bộ y phục nào. Mao không có bạn và sống hoàn hoàn cách biệt. Ông dành rất ít thời gian cho vợ và không quan tâm lắm đến con cái. Mặc dù sự lịch thiệp của Mao trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi đã gây cho tôi ấn tượng rằng, Mao không những tỏ ra đáng yêu, thân mật và còn nhân hậu nữa. Một lần tôi và Chủ tịch đi xem biểu diễn nghệ thuật ở Thượng Hải. Trong tiết mục đi trên dây, một em nhỏ đã bị thương nặng. Trong khi khán giả lặng người đi và mẹ của em nhỏ khóc lóc trước sự không may đó, thì chỉ có Mao vẫn thản nhiên tán chuyện và cười vang như không có điều gì xảy ra. Tôi cũng biết, ông không bao giờ hỏi han về số phận của em nhỏ đi trên dây. Tôi không thể hiểu nổi sự lãnh đạm của Mao. Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều cảnh tang tóc, nên ông chai sạn với nỗi đau khổ của con người. Người vợ đầu của ông là bà Đường Khai Tuệ và cả hai người em ruột của ông đều bị Quốc dân đảng sát hại. Con trai cả của ông cũng đã hy sinh trong cuộc chiến ở Triều Tiên. Ông cũng đã mất những người con trong cuộc Vạn lý trường chinh vào giữa những năm 30. Nhưng không bao giờ tôi thấy ông để lộ bất cứ sự xúc động nào vì những mất mát này. Việc ông sống sót trong khi nhiều người khác đã hy sinh càng làm cho ông tin tưởng ông sẽ rất thọ. Ông nói, chính những người chết đã phù hộ cho cách mạng. Mao không bao giờ thiếu thông tin. Mặc dù suốt ngày ông nằm trên giường và không mặc quần áo, nhưng ông thường đọc và được các cộng sự của ông báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng về những sự kiện ở Trung Quốc và trên thế giới, từ những mưu mô lặt vặt ngay xung quanh ông, những diễn biến tại những nơi hẻo lánh ở Trung Quốc cho đến những sự việc xảy ra ở những đất nước xa xôi khác. Mao không ưa hình thức và lễ nghi. Sau khi Mao được bổ nhiệm làm Chủ tịch nước ít lâu vào năm 1949, vụ trưởng Vụ Lễ tân Dư Tín Thanh đề nghị ông nên tuân theo lễ nghi quốc tế trong khi đón tiếp các đại sứ nước ngoài, như mặc quần áo màu sẫm, đi giày da đen. Mao đã nổi giận. Ông nói: - Chúng ta là người Trung Quốc, chúng ta có tập quán riêng của chúng ta. Tại sao chúng ta lại phải theo người khác? Từ đó ông thường mặc bộ đồng phục kiểu Tôn Trung Sơn và đi giày vải. Khi các chính trị gia hàng đầu khác noi gương vị Chủ tịch của họ, thì tên của bộ đồng phục đã thay đổi và bộ đồng phục màu xám kiểu Mao đã trở thành mốt. Vụ trưởng Vụ Lễ tân, người dám cả gan khuyên Mao tuân theo nghi thứ quốc tế đã bị cách chức. Ông ta đã tự vẫn trong thời kỳ Cách mạng vàn hóa. Mao coi lịch trình, công việc hàng ngày, nghi thức và lễ nghi như là phương tiện để kiểm tra chính mình. Ông không hề bị lệ thuộc vào bất cứ quy định nào, ông thưng chơi bời quá độ. Khi đi dạo, ông thường về nhà bằng đường khác. Ông hay tìm tòi những cái mới, những điều chưa được thử nghiệm không những trong cuộc sống riêng tư mà còn cả trong lĩnh vực chính trị. Ông mê nhất lịch sử Trung Hoa. Ông thường nói: Chúng ta phải nghiên cứu về quá khứ để phục vụ hiện tại. Ông đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần cuốn lịch sử 24 triều đại – một bộ biên niên sử chính thống, được triều đại vừa mới chiến thắng sắp xếp trong khoảng thời gian từ năm 221 trước công nguyên đến năm 1644 sau công nguyên. Tuy nhiên, quan điểm lịch sử của Mao khác cơ bản với những người bình thường khác ở Trung Quốc. Lĩnh vực đạo đức không có chỗ trong chính sách của Mao. Tôi hoảng sợ khi nghe thấy rằng, Mao không chỉ tự ví mình với những vị hoàng đế Trung Hoa, mà còn tỏ ra khăm phục những tên bạo chúa bất nhân nhất. Mao đặc biệt khâm phục vua Chu, kẻ trị vì triều đại nhà Thương trước công nguyên. Dân tộc Trung Hoa ghê tởm vua Chu và khiếp sợ trước sự tàn bạo của vị vua này. Đối với nhà vua, sinh mạng của bầy tôi chỉ là cỏ rác và nhà vua thích bêu xác những nạn nhân bị hành quyết, để cảnh cáo những người nổi loạn chống lại nhà vua. Bể tắm của nhà vua thường đổ đầy rượu vang. Tuy vậy, Mao cho rằng, sự quá thái của vua Chu không có nghĩa gì so với những việc làm của nhà vua. Vua Chu đã bành trướng lãnh thổ Trung Hoa, kiểm soát cả một vùng duyên hải từ Bắc tới Nam và đã thống nhất nhiều sắc tộc khác nhau. ấy thế, nhà vua đã ra lệnh giết một số vị quan có tài và trung thành. Thí dụ điển hình là một vị quan đã lập được nhiều công trạng, nhưng chỉ vì can ngăn hành động bành trướng của vua Chu mà bị xử trảm. Vua Chu sống rất xa hoa và có hàng nghìn cung tần mỹ nữ, nhưng vua nào mà chẳng thế. Vua Tần Thủy Hoàng, 22l-206 trước công nguyên, người lập nên triều đại nhà Tần và vương quốc Trung Hoa tồn tại gần hai nghìn năm, cũng là người được Mao hâm mộ. Ông thường ví mình với vị hoàng đế này. Như vua Chu, Tần Thủy Hoàng cũng bành trướng lãnh thổ Trung Hoa và đã thống nhất vô số các quốc gia nhỏ. Ông đã đưa ra đơn vị đo trọng lượng và khối lượng, đã xây dựng mạng lưới đường bộ. Nhưng người Trung Hoa khinh bỉ ông, vì ông đã tàn sát những người theo đạo Khổng và đốt những cuốn sách cổ. Mặc dù vậy, Mao nói, Tần Thủy Hoàng chỉ làm điều này để cố gắng thống nhất đất nước Trung Hoa và xây dựng đế quốc Trung Hoa mà không bị ngăn cản. Ngoài ra, ông ta chỉ giết 260 người theo đạo Khổng thì có gì quá thảm khốc? Khi nhận xét về Tần Thuỷ Hoàng, người ta không được cường điệu những điều không quan trọng mà quên đi những điểm nổi bật. Mao cũng rất khâm phục Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (627-705 sau công nguyên), một trong số ít phụ nữ nắm giữ quyền lực ở Trung Quốc và là cái đích mà sau này Giang Thanh đã cố đạt được. Khi Mao hỏi tôi nghĩ gì về Võ Tắc Thiên, tôi đã nói thẳng: Bà ta là người đa nghi, gian giảo và đã giết hại quá nhiều người. Mao nói: - Đúng vậy, nhưng Võ Tắc Thiên cũng là một người cải cách xã hội. Bà ta đã bênh vực quyền lợi của địa chủ nhỏ và trung bình trong việc nộp tô cho giới quý tộc và những dòng họ lớn. Nếu bà ta không đa nghi và không tin vào những tay do thám của bà thì làm sao bà phát hiện được những âm mưu của giới thượng lưu và của những gia tộc lớn chống lại bà? Và tại sao bà lại không hạ thủ những kẻ âm mưu chống lại bà? Đối với vua Tùy Dạng (604-618 sau công nguyên) cũng vậy. Dưới con mất của người Trung Quốc, ông vua này là tên bạo chúa xấu xa nhất. Ông mê gái và mê rượu. Ông sống rất xa hoa, đồi trụy. Những cô gái trẻ đẹp đã phải kéo con thuyền du ngoạn của ông ngược dòng bằng những sợi dây lụa. Vô số người đã chết trong khi đào kênh của vua. Nhưng Mao lại liệt ông vào hàng những kẻ cai trị giỏi nhất. Tất cả các con sông ở Trung Quốc đều chảy từ Tây sang Đông. Riêng kênh của vua lại nối miền Bắc với miền Nam. Vì vậy, vua Tùy Dạng cũng là người vĩ đại hiếm có. Mao quan tâm đến lịch sử Trung Quốc hơn cả. Nhưng ông cũng đã đọc ít nhiều về một số nhân vật lịch sử phương Tây. Trước hết, ông đánh giá cao Napoleon. Theo Mao, bằng lực lượng pháo binh mạnh, Napoleon đã làm một cuộc cách mạng về chiến lược quân sự. Ngoài ra, vị tướng Pháp này đã ứng dụng khoa học vào chính sách bành trướng. Ông không chỉ đưa quân đến Ai Cập mà còn đưa cả các nhà khoa học đến đó để nghiên cứu nguồn gốc của nền văn minh phương Tây. Mao cũng muốn tổ chức một chuyến đi nghiên cứu như vậy. Năm 1964 ông đã dự định thực hiện chuyến thám hiểm khoa học tìm hiểm về nguồn gốc của con sông Hoàng hà ở tỉnh Thanh Hải xa xôi. Sông Hoàng Hà đã từ lâu gắn chặt với cái nôi của nền văn hoá Trung Quốc khiến Mao có ý định lần về quá khứ của nền văn hóa này và cả nguồn gốc của nó nữa. Uông Đông Hưng được giao nhiệm vụ tập hợp và điều hành một nhóm những nhà sử học, trắc địa, địa chất và những chuyên viên thủy học và năng lượng học. Uông ta đã kiếm được những con ngựa vùng Nội Mông cũng như quân trang, quân dụng. Tôi và Mao cùng nhau tập cưỡi ngựa. Ngày 10 tháng tám 1964 chuyến đi bị hoãn lại, năm ngày trước Mao nhận được tin Mỹ định đổ thêm quân vào Việt Nam hòng làm chủ tình thế. Ông quyết định bí mật phái ra chiến trường những người lính Trung Quốc được cải trang bằng những bộ quân phục Việt Nam, để hỗ trợ cho đồng minh của ông. Về chính bản thân ông, quan điểm lịch sử của Mao cũng có nhiều điểm không đúng. Những tài liệu về quá khứ của đất nước Trung Hoa đã giúp ông nắm được và điều chỉnh được hiện tại và ông kết hợp điều đó với chính sách đối ngoại của đất nước. Tôi biết, những mưu mô trong các triều đại vua chúa tác động đến tư tưởng của ông mạnh hơn cả chủ nghĩa Mác-Lênin. Dĩ nhiên, Mao vẫn là một người cách mạng. Mục đích của ông là thành lập nước Trung Quốc, mang lại sức mạnh và cuộc sống tốt đẹp cho đất nước. Thế nhưng quá khứ lại dẫn dắt sự lãnh đạo và lối hành xử đầy thâm hiểm của ông nhằm vào tầng lớp lãnh đạo cao cấp. Nếu xét đến những thay đổi mà Mao cố đạt được, thì những thay đổi đó lại chẳng đóng góp được gì vào lịch sử của Trung Quốc. Quan điểm của Mao là sử dụng văn hóa Trung Quốc. Ông muốn đổi mới nền văn hoá đó, nên điều cần thiết là phải học hỏi nước ngoài và kết hợp những tư tưởng mới lạ với tình hình Trung Quốc. Ông thường nói, kết quả sẽ không mang tính chất của Trung Quốc, mà cũng không mang tính ngoại lai, chẳng phải là lừa, mà cũng chẳng phải là ngựa, mà là con la. Bằng chủ nghĩa xã hội, Mao muốn khơi dậy tiềm năng sáng tạo của dân tộc Trung Hoa và đưa đất nước Trung Quốc trở lại thời hoàng kim trước đây. Ông cần sự ủng hộ cần thiết của Liên Xô, vì đó là một nhà nước xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Mao đã tâm niệm rằng, Trung Quốc phải đi theo một hướng riêng. Liên xô là một tấm gương đối với ban lãnh đạo mới của Trung Quốc. Nhưng khi Mao nói về chủ nghĩa xã hội, ông thường đề cập đến một chủ nghĩa xã hội mang tính chất đặc thù của Trung Quốc, một chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước Trung Quốc hạnh phúc và vinh quang. Ông thường nói, việc nhập cảng ồ ạt tư tưởng và hàng hóa của nước ngoài mà không có sáng tạo của mình thật đáng lên án. Ông không bao giờ có ý định tiếp thu mô hình xô-viết mà không có phê phán. Ngay hôm đầu chúng tôi quen nhau, ông đã tỏ ra rất khâm phục công nghệ, sự năng động và nền khoa học của Mỹ và phương Tây. Với quan điểm phát triển theo một hướng riêng, và nhờ có kiến thức, mà ông thường không cường điệu, coi Liên Xô là một tấm gương sáng duy nhất đối với việc xây dựng lại đất nước Trung Quốc. Mao có một cách nhìn đặc biệt về vai trò của riêng ông trong lịch sử. Ông là người lãnh đạo vĩ đại nhất, kẻ trị vì vĩ đại nhất trong tất cả những kẻ trị vì, là người đã thống nhất đất nước Trung Quốc và muốn đưa đất nước này trở lại thành cường quốc như trước đây. Với tôi, Mao không bao giờ dùng chữ hiện đại hóa. Ông không phải là người hiện đại. Thay vì điều này, ông nói về việc làm cho đất nước phồn vinh và lấy lại được tầm vóc trước đây của nó. Là một kẻ nổi loạn, một kẻ không thích sùng bái, nhưng ông lại muốn dựng lên Vạn lý trường thành của riêng ông. Sự vĩ đại của bản thân ông và nhân dân Trung Quốc đan xen vào với nhau. Cả đất nước Trung Quốc là của Mao và ông có thể thử nghiệm tùy thích. Mao là Trung Quốc và ông nghi ngờ bất cứ ai tỏ ý muốn bàn về vị trí của ông hoặc không chia xẻ quan điểm của ông. Ông đã loại những đối thủ của ông một cách không thương xót. Đối với ông, sinh mạng của những người dưới quyền hoàn toàn vô nghĩa. Lúc đầu, tôi khó tin rằng, Mao lại sẵn sàng hy sinh những công dân của nước ta đề đạt được mục đích của ông. Từ khi Mao gặp tổng thống ấn độ Jawaharlan Nehru vào tháng 10 năm 1954, tôi mới biết rằng Mao đã dành sẵn những quả bom nguyên tử cho con hổ giấy và không ngần ngại hy sinh hàng triệu người Trung Quốc để chiến thắng trong cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc. Ông quả quyết với Nehru: Đừng có sợ bom nguyên tử. Trung Quốc rất đông dân. làm sao một quả bom nguyên tử lại có thể xóa sổ tất cả họ được. Nếu ai có thề ném vào người khác một quả bom nguyên tử, thì tôi cũng có thể làm được việc đó. Tôi đâu có sợ trước cái chết của mười hay hai mươi triệu dân. Nghe đến đó, ông Nehru phát hoảng. Trong bài diễn văn đọc ở Moskva năm 1957, Mao tuyên bố, ông sẵn sàng hy sinh 300 triệu dân Trung Quốc, một nửa dân số Trung Quốc. Ngay khi Trung Quốc có mất đi nửa số dân, thì đó cũng chưa phải là tốn thất lớn lao, vì đất nước này vẫn có thể sản sinh ra nhiều người nữa. Riêng trong thời kỳ đại nhảy vọt trước đây đã có hàng triệu người Trung Quốc chết đói, làm cho tôi thấy ràng, Mao hệt như những tên bạo chúa mà ông vốn khâm phục. Ông thừa hiểu, nhiều người đã chết ra sao, nhưng ông không hề mảy may động lòng. Từ cuộc nói chuyện đầu tiên giữa chúng tôi về lịch sử Trung Quốc, tôi đã có thể rút ra những bài học cho bản thân. Quan điểm lịch sử của Mao rất bổ ích đối với tôi. Ông là trung tâm để vạn vật quay quanh ông. ý muốn của ông là trên hết. Sự trung thành là yêu cầu cao nhất. Ông đòi hỏi ở những người dưới quyền ông, vợ ông, bạn gái của ông, các cộng sự và nhưng người phục vụ ông, cũng như những người lãnh dạo chính trị mà ông đã chia xẻ quyền lực với họ, sự trung thành tuyệt đối và trọn vẹn. Sự trung thành này dựa vào sự tin cậy ít hơn vào sự lệ thuộc. Vì Mao không có khả năng mang lại những tình cảm khác, nên ông cũng không thể trông chờ người ta dành cho ông mối thiện cảm. Trong tất cả những năm là bác sỹ riêng của Mao, tôi thường chứng kiến việc Mao củng cố lòng trung thành của người khác cũng như của tôi đối với ông như thế nào. Với vẻ dễ mến, ông đã chiếm được lòng tin của người khác và làm cho họ thú nhận những khuyết điểm của họ. Mao đã bỏ qua tất cả và làm cho họ có cảm giác yên tâm. Bằng cách này, ông đã thâu nạp được những cộng sự trung thành nhờ sự bao dung bên ngoài của ông. Bất cứ những ai trung thành mới Mao, đều bị lệ thuộc vào ông, và càng lệ thuộc vào ông, thì họ càng khó thoát khỏi sự khống chế của ông. Không một ai ở Trung Quốc dám ủng hộ một người nào đó đã không trung thành với Chủ tịch. Có một số người đáng tin cậy, vì Mao đã cứu bản thân họ hoặc làm cho họ yên tâm, hoặc họ coi ông là cứu nhân của đất nước Trung Quốc. Ngược lại, những người khác thường là những kẻ xu nịnh. Mao cũng thích được bợ đỡ, ngay cả khi ông thừa biết họ chẳng nghiêm chỉnh gì, vì ông hiểu rằng, thời gian sẽ phân loại được những kẻ nịnh thần với những người thực sự trung thành. Rút cuộc, những kẻ nịnh bợ sẽ bị phế truất, nếu họ không còn tác dụng nữa. Phương châm của Mao là: Phục vụ nhân dân và khắp đất nước Trung Quốc, đâu đâu lời hiệu triệu này cũng được quảng cáo bằng chữ trắng viết trên nền đỏ với bút tích của Mao. Đằng sau cánh cổng của nước Trung Hoa mới sau lối vào khu vực Trung Nam Hải ở phía Nam, có một tấm biển mang dòng chữ vàng cấm thường dân Trung Quốc ngó nghiêng vào bên trong khu Cấm Thành hiện đại, nơi những ngươi lãnh đạo cao cấp nhất của Trung Quốc sống và làm việc. Trong những buổi họp nghiên cứu chính trị định kỳ ở Trung Nam Hải, chúng tôi thường được nhắc nhở là phải phục vụ nhân dân và đảng thay vì phục vụ cá nhân mình. Lời hiệu triệu này luôn cổ vũ tôi và là một trong những lý do khiến tôi nhất thiết phải gia nhập đảng cộng sản. Nhưng sau khi bắt tay vào công việc ít lâu, tôi nhận thấy rằng, Mao là trung tâm để vạn vật quay quanh, là một cái mỏ quí và người được bảo vệ, được bợ đỡ và được nịnh hót. Mọi việc đều được làm vì Mao. Ông không bao giờ phải nhúng tay, không bao giờ tự xỏ tất đi giày, tự mặc quần áo hay tự chải đầu. Khi tôi lưu ý với Uông Đông Hưng rằng, phải tập trung sức lực của nhóm Một vào việc phục vụ Mao, chứ không phải phục vụ nhân dân, thì ông ta nói phục vụ nhân dân chỉ là một khái niệm trừu tượng. Uông nói: Chúng ta phải phục vụ một cá nhân cụ thể. Nói là phục vụ Mao có nghĩa là phục vụ nhân dân, không đúng sao? Đảng đã tin tưởng giao công việc cho đồng chí, tức là đồng chí đã làm việc cho đảng hay à không phải như vậy? Thật là non dại và thơ ngây làm sao khi tôi đã tin vào lời nói của Uông Đông Hưng. Thế rồi sau này tôi đã hiểu rằng, hệt như các vị hoàng đế đã ruồng bỏ không thương tiếc những thuộc hạ của mình, khi những người này không hoàn toàn đồng ý với sự nghĩ của các vị hoàng đế, Mao cũng có thể phế truất tất cả những cố vấn và cộng sự của ông, nếu họ không hoàn toàn nhất trí với ông. Lúc đầu, người ta đã không trừng phạt các quan chức cao cấp vì đôi khi họ có những ý kiến khác với Mao. Nhưng Mao vẫn để bụng và một khi ông biết được ai đó dưới quyền không trung thành với ông, đến khi thời gian chín muồi, ông có thể đánh gục cả những chién sĩ cách mạng lão thành mà không hề đắn đo. Những người như Chu Ân Lai có vẻ biết được điều đó và hoàn toàn tuân phục Mao. Những người khác như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu thì không thế, nên họ phải rút lui. Khi một người lãnh đạo cao cấp có tư duy độc lập, thì ông ta sẽ bị loại. Một khi Mao nghi ngờ những ai trong ban tham mưu của ông có quan hệ mật thiết với những quan chức cao cấp quan trọng khác, như Chu Ân Lai, Lâm Bưu hoặc Lưu Thiếu Kỳ, thì ông sẽ phế truất họ ngay. Mao cảnh cáo tôi: Mọi tai họa đều do cái miệng. Tôi biết số phận của tôi phụ thuộc vào sự nín lặng của tôi. Trong khi xảy ra những trào lưu chính trị làm xáo trộn cả đất nước Trung Hoa trong hai thập kỷ liền, tôi đã ghi lòng tạc dạ lời giáo huấn của Mao Chủ tịch và chỉ giới hạn mình trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông. Khi là bác sỹ riêng của Mao, tôi đã biết được tính tàn nhẫn của ông. Tôi đã nín lặng, để khỏi mang vạ vào thân và chỉ nói khi Mao muốn. Mặc dù vậy tôi vẫn kính trọng ông. Ông là con người vĩ đại của Trung Quốc, là người đã cứu đất nước chúng ta, là ngọn núi cao nhất của chúng ta, của tất cả những người lãnh đạo của chúng ta. Đối với tôi, Trung Quốc là một đại gia đình duy nhất và gia đình này cần có một người chủ. Đó là Mao Chủ tịch. Tôi muốn phục vụ ông và cũng là phục vụ nhân dân Trung Quốc. Chương 12 Khi vi hành với Mao, tôi mới biết người ta đã sửa soạn cho những chuyến đi của ông như thế nào. Sự an toàn và sức khỏe của ông là trên hết. Tại Trung Nam Hải, Mao được bảo vệ rất cẩn mật bằng các biện pháp an ninh đa dạng, nhưng những biện pháp đó dần dần trở nên quá nhàm, đến nỗi hầu như tôi không để ý đến chúng nữa. Chỉ trong các chuyến đi chu du, các biện pháp bảo vệ đặc biệt đó mới lại bộc lộ. Mao thường hay đi đây đó, ít khi ông sống một thời gian dài ở Bắc Kinh. Tại thủ phủ ở phía Bắc này, ông cảm thấy như không phải ở nhà. Ông thích về quê ông ở miền Nam hơn và về những nơi ông thích lưu lại như Quảng Châu, Hàng Châu, Thượng Hải và Vũ Hán. Ông thường ở lại những nơi đó hàng tháng trời và miễn cưỡng trở về Bắc Kinh vào các ngày lễ mồng l tháng Năm hay ngày quốc khánh, hoặc để tiếp khách nước ngoài. Khi đi chu du, Mao cũng có những sở thích của ông. Nếu ông quyết định đi Hàng Châu vào buổi sáng, thì thường thường chúng tôi phải lên đường vào chiều hôm trước. Ngay những người tháp tùng ông cũng không được thông báo chính xác điểm dừng của cuộc hành trình và nếu Mao đã định đi đâu từ lâu, thì thường vào chiều hôm trước chúng tôi mới được thông báo vì lực lượng an ninh sợ chuyến đi của ông có thể bị tiết lộ. Bởi vậy, ít khi chúng tôi có quá một hay hai ngày để chuẩn bị. Mao thường chu du bằng một đoàn tàu hỏa của riêng ông có mười một toa lịch sự. Đoàn tàu được để trong một căn nhà đặc biệt, cách xa ga chính của thành phố Bắc Kỉnh để Mao đi lại thuận tiện. Mao và Giang Thanh có những toa riêng, mặc dù Giang Thanh chỉ một lần duy nhất cùng đi với chúng tôi. Toa thứ ba của đoàn tàu được dùng làm phòng ăn và nhà bếp. Trong toa sang trọng của Mao có một chiếc giường gỗ đồ sộ, một giá sách lớn chiếm mất khá nhiều chỗ. Bốn toa ngủ có giường tầng được dành cho đám vệ sỹ của Mao vốn là nhân viên an ninh của cơ quan trung ương, cho nhân viên trên tàu và ban tham mưu của Mao gồm thợ chụp ảnh, phục vụ và đầu bếp. Tất cả họ dùng một toa ăn riêng. Một toa khác chứa dụng cụ y tế dành cho trường hợp cấp cứu và có thêm một toa dự phòng nữa. Cái duy nhất mà đoàn tàu còn thiếu là máy điều hòa nhiệt độ, đến nỗi vào mùa hè trong tàu nóng như thiêu như đốt. Tuy nhiên, vào đầu những năm 60 Mao đã nhận được một đoàn tàu mới của Đông Đức. Đoàn tàu được trang bị đầy đủ tiện nghi với hệ thống chiếu sáng gián tiếp, với những máy móc hiện đại nhất và tất nhiên còn có cả hệ thống điều hòa nhiệt độ. Uông Đông Hưng, Lâm Khắc, thư ký riêng của Mao và tôi có một toa riêng có buồng ở. Trong những căn buồng rộng, rất tiện lợi này được kèm thêm một chiếc bàn và một chiếc giường, trong buồng tắm có hệ thống nước nóng. Những biện pháp an ninh trên đường cũng rất khác thường. Trong khi có cuộc hành trình, tất cả các hoạt động giao thông trên tuyến đường sắt đó đều bị đình trệ, làm đảo lộn cả các lịch trình giao thông trong suốt một tuần lễ cho đến khi mọi việc trở lại bình thường. Những nhà ga thường đông hành khách và người bán hàng thì được nhân viên an ninh trấn dẹp. Thật là rờn rợn khi vào những nhà ga vắng ngắt và trên những lối đi chỉ thấy lính canh. Khi một cộng sự khác và tôi cho Uông Đông Hưng biết là thiếu người bán hàng, ông ta liền cho một vài nhân viên an ninh đóng giả thành người bán hàng, làm cho quang cảnh có vẻ giống tự nhiên. Tỉnh nào mà đoàn tàu của Mao đi qua, thì tỉnh đó phải chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh cho ông và phải chuẩn bị sẵn một người lái tầu và một đầu tàu. Ngoài ra, cùng với những nhân viên an ninh của Bắc Kinh ngồi trong tàu và có mặt ở những điểm dừng, còn có một vài trăm lính do các Ban an ninh của các tỉnh bố trí và trên suốt chặng đường cứ năm chục mét có một người gác. Có lần tôi nói chuyện với trưởng Ban an ninh của địa phương nằm trên tuyến đường sát giữa Bắc Kinh và Mãn Châu Lý, một thành phố ở biên giới giữa vùng Mãn Châu và Liên Xô, người có nhiệm vụ canh gác khi Mao từ Moskva về vào năm 1950. Giữa mùa đông tháng giá, trong suốt hai tuần lễ, những người lính đã bảo vệ tuyến đường sắt dài hàng trăm cây số này từng giờ từng phút. Cũng trong suốt hai tuần lễ, người nói chuyện với tôi đã phải chui rúc trong một ngôi mộ trên tuyến đường sắt đó. Mọi người đều biết, trong đoàn tàu có một số quan chức cao cấp, nhưng mãi về sau người ta mới biết chính Mao cũng có mặt trong số đó. Mao đi chẳng theo lịch trình nào, bởi vì tàu chỉ chuyển bánh khi Chủ tịch thức, chừng nào ông còn ngủ thì đoàn tàu còn đứng yên. Bởi vậy, chằng thể biết khi nào thì tàu chạy, hệt như giấc ngủ của Mao vậy. Khi ông ngủ, đoàn tàu dừng lại tại ga phụ của một sân bay quân sự, hay một ga để dồn toa hoặc tại ga phụ của một nhà máy đã được dọn dẹp trước khi ông đến. Như thế cũng là để dễ bảo vệ Mao hơn. Đôi khi Mao lại đi máy bay. Tôi đi bằng máy bay cùng với ông lần đầu vào mùa hè năm 1956. Sau đó ông giành mùa đông để viết cuốn sách Chủ nghĩa xã hội nở rộ trên đất nước chúng ra. Ông đã đến thăm Hàng Châu và Thượng Hải và tìm cách đẩy mạnh kế hoạch tập thể hóa nông nghiệp cấp tốc của ông. Vì thế ông muốn đi đến đó bằng máy bay, chủ yếu là để thu thập kinh nghiệm như ông đã nói. Trước đó Mao mới đi máy bay một lần. Tháng 8. 1945, một chiếc máy bay của Mỹ đã chở ông cùng với đại sứ Mỹ Patrick Hurley từ Diên An đến Nam Kinh, nơi ông sẽ tham dự cuộc đàm phán tai hại giữa những người cộng sản và những người quốc gia, nhằm ngăn ngừa cuộc nội chiến bùng nổ. Tất cả những người có trách nhiệm đều lưu tâm đến việc bảo vệ an ninh cho Mao. Những biện pháp an ninh đặc biệt tỉ mỉ được thực hiện. La Thụy Khanh, bộ trưởng công an đã làm việc trực tiếp với tư lệnh không quân là tướng Lưu Nha Lâu để bay thử và trang bị thêm cho chiếc máy bay kiểu LI- 2 của Liên Xô trở thành chiếc máy bay an toàn nhất. Buổi sáng, tướng Lưu Mao và cấp phó của ông cùng đi với chúng tôi đến sân bay quân sự Tân An nằm rìa phía Tây thành phố, cách không xa Cung điện mùa hè. Trong khi có chuyến bay, giao thông đường không trên toàn đất nước Trung Quốc bị đình chỉ và những tốp máy bay chiến đấu kiểm soát toàn bộ không phận. La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và một loạt thư ký, nhân viên an ninh và cần vụ đã bay trước trên một chiếc máy bay khác của Liên Xô, loại IL-14. Cả hai người lái xe, người đầu bếp, thợ chụp ảnh, hai chuyên gia về thực phẩm và những nhân viên an ninh bay trên hai máy bay khác. Những thành viên khác của ban tham mưu tổng cộng 200 người, đi cùng với xe của Mao – một loại xe hòm ZIC sang trọng của Liên Xô, có bọc thép chống đạn được sản xuất riêng cho ông, đã được một đoàn tàu đặc biệt đưa đến trước. Chiếc xe này sẽ chở Mao từ sân bay về biệt thự của ông ở Quảng Châu. Đoàn tàu được để trong một gian phòng lớn tại sân bay Bạch Văn đề phòng trong trường hợp Mao muốn tiếp tục cuộc hành trình bằng tàu hỏa. Máy bay của Mao nhỏ và chỉ có một cánh quạt. 24 ghế ngồi trước đây đã được gỡ bỏ và toàn bộ bên trong khoang được bố trí lại. Trong phần phía trước của máy bay, người ta lắp một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và hai chiếc ghế cho Chủ tịch. Còn phía sau có bốn chiếc ghế tiện lợi dành cho những người tháp tùng ông, gồm hai vệ sỹ, một thư ký riêng và tôi. Phi công của chúng tôi chính là viên tư lệnh không quân Hồ Bình. Khi chúng tôi lên máy bay, Mao chào tư lệnh Hồ: Trong chuyến bay này tôi phải ra tình huống cho đồng chí. Ông tỏ ra ôn tồn để viên phi công yên tâm. Thật là một vinh dự lớn lao và thật là hạnh phúc đối với tôi khi được phép bay cùng với Chủ tịch – Hồ Bình trả lời. Tôi nhận thấy ngay, giữa những lời nịnh hót được Mao chấp nhận và sự thăng quan tiến chức mau chóng của kẻ xu nịnh có một sự liên quan trực tiếp. Trong khi diễn ra cuộc Cách mạng văn hóa, Hồ Bình đã được thăng cấp làm Tổng tham mưu trưởng không quân. Tuy vậy, năm 1971 ông bị tống giam vì đã dính líu vào âm mưu của Lâm Bưu chống lại Mao. Thế là tất cả những công trạng phục vụ Chủ tịch của ông đều bị xóa sạch. Chuyến bay của chúng tôi được chia thành hai chặng. Trong khi bay, chúng tôi học tiếng Anh. Đến gần trưa chúng tôi đáp xuống Vũ Hán. Chúng tôi được các quan chức địa phương đón tiếp, trong đó có bí thư thứ nhất tỉnh ủy Vương Nhậm Trọng và cán bộ lãnh đạo đảng của tỉnh Vũ Hán là Lưu Khắc Nông, người đã tổ chức bữa đại tiệc đón chúng tôi trong một nhà khách tráng lệ, trước kia là biệt thự của Tưởng Giới Thạch. Tòa biệt thự này nằm trong vùng nghỉ mát đẹp như tranh bao quanh một cái hồ ở phía Đông, đối diện với trường đại học tổng hợp Vũ Hán. Những người phục vụ vui vẻ và ân cần. Họ được đào tạo trong các khách sạn của Anh và Pháp, mà trước năm 1949 chúng là một nét đặc sắc của Vũ Hán. Giống cá chép màu bạc của vùng Vũ Xương là một món ăn tuyệt ngon mà Mao rất ưa thích. Trong chuyến đi, đâu đâu tôi cũng có dịp chứng kiến việc Mao được xu nịnh thế nào. Trong việc này, Vương Nhậm Trọng tỏ ra khá xuất sắc. Ông ta khẳng định: - Người ta không thể đơn giản so sánh Stalin với Chủ tịch. Stalin đã giết quá nhiều người. Ngược lại, đảng ta không chỉ khoan hồng kẻ đối lập với đảng là Vương Minh, mà thậm chí đảng còn cố gắng hòa thuận với ông ta. Mao vui vẻ đáp lại: - Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa mâu thuẫn trong nhân dân với mâu thuẫn giữa chúng ta và đối phương. Đề giải quyết những mâu thuẫn trong dân chúng, chúng ta không được phép bắt hoặc thủ tiêu những người độc đoán. Vương nói: - Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch. Và tôi có cảm tưởng rằng, lời tâng bốc của ông ta chỉ là một con tính thuần túy. Cho đến khi nổ ra cuộc Cách mạng văn hóa, ngôi sao chính trị của Vương không ngừng lên cao. Khi cuộc Cách mạng bắt đầu, ông trở thành một trong những phó chỉ huy của Cách mạng và ông bị thất sủng sau khi ông xúc phạm đến Giang Thanh và công khai diễn thuyết mà không được bà ta đồng ý. Gần mươi tám giờ, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Vân ở thành phố Quảng Châu. Tại đây đã diễn ra cuộc đón tiếp không kém phần xúc động. Bí thư thứ nhất của tỉnh ủy tỉnh Quảng Đông Đào Chu đã đến và cả người lãnh đạo đảng của tính là Trần Dư. Trong khi xe chạy, tôi nhìn qua cửa xe để cố tạo nên ấn tượng đầu tiên về Quảng Châu. Tôi sửng sốt về sự bẩn thỉu và sự ồn ĩ ở đó. Rác rưởi tràn ngập khắp nơi và nước cống chảy lênh láng trên đường phố. Sự ồn ào đơn điệu ở Quảng Đông còn lẫn cả tiếng guốc gỗ gõ lọc cọc trên mặt đường nhựa. Chuyến vi hành của Mao tại Quảng Châu được giữ tuyệt mật. Các thành viên tham mưu thuộc nhóm Một hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoàì. Chúng tôi không những không được phép rời khỏi vị trí của mình, mà còn không được nói chuyện qua điện thoại, không được tiếp khách hay nhận thư từ. Thư của chúng tôi viết về nhà được một người đưa thư đặc biệt chuyển đi. Mấy ngày ngay trước khi lên đường, Uông Đông Hưng phái chúng tôi đi thị sát. Chuyến đi này do những nhân viên Ban an ninh tỉnh Quảng Đông chỉ đạo. Sau vấn đề đảm bảo an toàn cho Mao là làm sao để ông thật thoải mái. Sau khi giải phóng Bắc Kinh ít lâu, điều đã trở thành lệ là người ta tịch thu những biệt thự trước đây hoặc xây mới những biệt thự khác cho giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng. Lúc đó, Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương đã cho xây ở những quả đồi Ngọc Thạch gần Núi Thơm năm biệt thự cho năm nhân vật lãnh đạo cao nhất là Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Nhậm Bích Thế. Theo lời của cả hai vệ sỹ không biết bơi của Mao là La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng, người ta đã xây một bể bơi cho Mao. Bởi vì đối với họ, sự an toàn của Mao là trên hết, nên họ đã quyết định chiều dài của bể bơi chỉ bằng hai lần chiều dài của bồn tám và nước thì chỉ sâu đến đầu gối. Mao nổi giận lôi đình về cái bể bơi vô tích sự, chỉ đáng đành cho trẻ con. Cơn thịnh nộ của ông càng bùng lên dữ dội khi trung một phiên họp Bộ chính trị, ông Bành Đức Hoài vốn cứng rắn, đã phản đối Mao xài tiền của nhà nước cho những hưởng thụ cá nhân của ông. Mao đã bồi hoàn cho nhà nước những chi phí xây bể bơi, nhưng ông thường không đến biệt thự này. Những biệt thự và bể bơi ở Bắc Đới Hà cũng được sung công hoặc được xây mới. Vào năm 1950, Dương Thượng Côn đã tịch thu những ngôi nhà ở đó và phân cho tất cả các chính trị gia cao cấp mỗi người một biệt thự. Người ta đã xây cho Mao một ngôi nhà mới, được gọi là nhà số 8. Sau đó, biệt thự bắt đầu được xây ở các tỉnh và các vị lãnh đạo tỉnh đua nhau xây biệt thự theo kiểu nhà Mao. Thế vẫn chưa đủ. Ai cũng cho rằng, hiện đại là tốt nhất, nên nhiều vị lãnh đạo đảng đã cho bày trong nội thất những chiếc đệm mút và bệ xí ngồi theo kiểu phương Tây. Bởi vậy, khi đi đâu Mao cũng thường đưa theo chiếc giường bằng gỗ cứng của ông và ông dùng bô. Thậm chí, khi sang Moskva vào năm 1949, ông cũng đưa theo giường riêng và trong chuyến viếng thăm Moskva năm 1957 ông đã sử dụng bô vệ sinh bởi vì trong điện Kreml chỉ có bệ xí bệt. Đào Chu là người đầu tiên đã cho xây một ngôi biệt thự mới và sang trọng cho Mao và Giang Thanh. Trong việc này ông đã phạm ít sai lầm hơn người khác. Vì thế Mao rất thích lưu lại ở Quảng Châu. Nhà khách Tiểu Đảo, nơi chúng tôi lưu lại, nằm trên một hòn đảo nhỏ, bao quanh đảo là hai nhánh của con sông Ngọc. Trong vườn đầy hoa thơm chuối ngọt và những giống cây nhiệt đới. Ba ngôi nhà ở trên hòn đảo đó được dành cho Mao. Một trong ba ngôi nhà trước đây là nhà nghỉ của bác sĩ Tôn Trung Sơn, nhưng vì Đào Chu chê nó quá nhỏ nên ông đã cho xây thêm một ngôi nhà khác mang số 1. Giữa phòng ngủ của Mao và Giang Thanh có một phòng lớn, trong đó người ta có thể xem phim được. Trong ngôi nhà thứ ba, sau này người ta đã xây một bể bơi với kích thước của thế vận hội và ở đó người ta có thể giải trí, đọc sách và ăn uống. Những biệt thự số 4, 5 và 6 bình thường là dành cho Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức, nhưng tháng 6 năm 1956, La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và tôi đã được thu xếp đến đó. Tại thành phố Quảng Châu, người ta luôn gặp phải những biện pháp an ninh nghiêm ngặt như ở những nơi khác, vì Đào Chu, La Thụy Khanh và lực lượng an ninh lo ngại đối phương từ Hồng Công có thể thâm nhập vào. Họ biết rằng, trong lãnh thổ thuộc địa của Anh cách đó khoảng 150 cây số có vô số điệp viên của Quốc dân đảng và những phần tử phản động lăm le muốn ám sát Chủ tịch. Trên khắp hòn đảo đều có những người lính có vũ trang của đơn vị bảo vệ trung ương canh gác. Các phương tiện giao thông đường sông đều bị đình chỉ và những chiếc tàu tuần tiêu luôn rẽ sóng canh chừng những khả năng đột nhập. Trên đảo cực kỳ tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng hót của những con chim vùng nhiệt đới. Vì bộ phận bảo vệ trung ương của Uông Đông Hưng đã phái toàn bộ một đơn vị đến Quảng Châu, nên chỉ riêng đoàn tùy tùng của Mao từ Bắc kinh đến đã có tới 200 người. Thông thường thì cứ từ 8 đến 10 người ở trong một căn phòng của tòa nhà của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông nằm ở đầu cầu nối hòn đảo với đất liền. Các nhân viên của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông và của nhà khách trên đảo đã không thu xếp nổi nơi ăn chốn ở cho chừng đó con người. Ngược lại, nhà bếp của Mao lại được trang bị rất tốt, hợp vệ sinh không chê vào đâu được, sao cho không xảy ra những vấn đề về sức khỏe và tổ chức. Thực phẩm của Chủ tịch hàng ngày được chở đến bằng máy bay từ công xã Tụ Sơn ở Bắc Kinh và được đầu bếp của ông chế biến. Mao thường thưởng thức các loại trái cây hảo hạng, dùng rau và cá vùng Quảng Đông, nhưng ông thường rưới thêm dầu ăn cùng với nhiều gia vị cay của tỉnh Hồ Nam. Việc cung cấp thực phẩm cho lực lượng an ninh lại là cả một vấn đề. Vì không có tủ lạnh và thực phẩm dành cho 200 con người phải để ngoài trời nóng, nên rất dễ có nguy cơ ngộ độc thức ăn. Việc thanh toán rác rưởi cũng khó khăn không kém, đã thu hút lũ chuột cống và chuột nhắt kéo đến. Uông Đông Hưng đã điều cho nhân viên nhà bếp ở Quảng châu một số cộng sự từ Bắc Kinh đến để giúp việc và chăm lo việc vệ sinh cũng như việc cung ứng và bảo quản thực phẩm. Còn tôi thì chịu trách nhiệm về tất cả những vấn đề y tế. Mặc dù Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh đã cố gắng hết sức để lấp liếm trước Mao những khó khăn do ban tham mưu của lực lượng an ninh gây ra, nhưng Chủ tịch vẫn để ý thấy. Ông vạch ra cho Uông Đông Hưng: - Các anh canh gác khắp nơi cứ như là các anh sẵn sàng đương đầu với kẻ thù mạnh. Các anh muốn tự làm tất cả dường như các anh không tin vào lãnh đạo địa phương và tin quần chúng vậy. Chính Mao lại không cảm thấy có nguy cơ gì. Ông biết quần chúng ngưỡng mộ ông. Tại sao họ lại muốn làm cái gì đó đối với ông? Sau khi chúng tôi đến ít lâu, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân cũng đến Quảng Châu, kéo theo cả các vị lãnh đạo đảng của tỉnh và các quan chức địa phương. Mao đã triệu tập một cuộc họp. Trong khi các quan chức chóp bu của đảng ở trong nhà khách trên đảo, thì tôi dọn sang ngôi nhà của Ban an ninh ở bên kia cầu. Các vị trong tỉnh ủy và các chính trị gia của địa phương được thu xếp ở trong các nhà khách khác, do thành đội Quảng châu và ủy ban tỉnh Quảng Đông quản lý. Đào Chu tổ chức một bữa tiệc chào mừng các vị khách mới đến và mời Mao làm khách danh dự. Đào Chu nói, đầu bếp Quảng Đông đã chuẩn bị những món đặc sản của đất nước và ông ta hy vọng Mao sẽ thưởng thức các món ăn này. Song Mao đã không nhận những lời lẽ văn hoa lịch sự đó và từ chối lời mời. Uông Đông Hưng, Diệp Tử Long và tôi phải thay ông đến dự tiệc, rồi sau đó tôi phải tường thuật lại cho ông biết. Trước khi khai tiệc một tiếng rưỡi, Điền Chu, trưởng phòng nhân sự của Cơ quan an ninh đến và đi lại phía tôi. Các nhân viên hóa thực phẩm đã phát hiện ra trong thức ăn có chất xianua (một loại hóa chất cực kỳ độc – N.D) và ông ta tỏ ra đặc biệt lo ngại. Người ta đã phong tỏa nhà bếp, không một nhân viên nào được phép ra ngoài. Uông Đông Hưng yêu cầu tôi lập tức theo ông vào nhà bếp. Bảy bàn ăn dài đã được dọn ra thịnh soạn và người ta chỉ đợi thực khách đến. Tôi đi vào phòng xét nghiệm cạnh nhà bếp, nơi có hai nhân viên hóa thực phẩm vừa từ Bắc Kinh đến đang kiểm nghiệm các loại đồ ăn cao cấp, cơm và thức uống. Sự căng thẳng làm cho họ toát cả mồ hôi, nhưng khi thấy tôi họ bớt lo và muốn nghe lời khuyên của tôi. Phó Ban công an tỉnh Quảng Đông, một người tên là Tô nói, các nhân viên nhà bếp đã được kiểm tra nhiều lần. Mặc dù vậy ông vẫn lo ngại. ở Hồng Công có hàng nghìn gián điệp mà nó lại rất gần. Có lẽ một phần tử tội phạm nào đó đã đột nhập vào và đầu độc thức ăn. Điều hết sức kỳ lạ là chỉ có măng mới có chất xianua. Những đồ ăn khác đều không sao cả. Măng này lấy từ vườn của nhà khách. Tôi cho đào một ngọn măng tươi và mang đi kiểm nghiệm. Lại tìm thấy chất xianua. Tôi theo xe đến ngay thư viện của Học viện y học Tôn Dật Tiên, ở cách nhà khách chỉ vài phút. Tại đó tôi mới biết, măng trong thiên nhiên có chứa một lượng rất nhỏ chất xianua, nhưng không gây nguy hiểm cho sức khỏe. Đào Chu rất đỗi vui mừng. Ông ta mỉm cười bắt tay tôi, cám ơn tôi luôn miệng và đề nghị nâng ly chúc sức khỏe tôi trong bữa tiệc. Phó Ban công an cũng cảm ơn tôi. Ông ta nói: - Đồng chí làm chúng tôi rất hài lòng. Cách đây vài phút, bí thư Đào còn bối rối, đe trừng phạt tôi và nhân viên của tôi. Nhưng bây giờ mọi việc đã rõ, bữa tiệc co thề bắt đầu đúng giờ. Không có đồng chí, có lẽ chúng tôi phải bó tay trước vấn đề hóc búa này mất. Trong bữa tiệc, khi tôi đứng lên để cám ơn Đào Chu về lời chúc của ông, thì ông ta đến cạnh Uông Đông Hưng và nói một câu ngạn ngữ cổ của Trung Quốc: Tướng nào, quân nấy. Uông khoái chí với lời khen đó. Ông ta tự hào rằng, quyết định của ông tiến cử tôi làm bác sỹ riêng của Mao đã được công khai thừa nhận. Ngay sau bữa tiệc, tôi đến gặp Mao. Ông đang nằm trên giường và đọc một cuốn sách về triều đại nhà Minh. Tôi kể cho ông về chất xianua và ông đã đổi lỗi cho Liên Xô trong vụ lộn xộn này. Ông lưu ý: - Tôi không chấp nhận việc tiếp thu mọi thứ của nước ngoài mà không có phê phán. ý ông muốn nói, việc kiểm tra thực phẩm cũng như những biện pháp an ninh nhiều mặt đều xuất phát từ người anh cả của Trung Quốc. Ông nói tiếp: - Bây giờ thức ăn không những được kiểm tra ở Bắc Kính mà còn được kiềm tra ở cả những nơi khác của đất nước. Việc này tạo ra những rắc rối vô lý. Đồng chí hãy bảo Uông Đông Hưng nên chấm dứt việc đó đi. Uông Đông Hưng bực tức vì tôi đã nói với Mao, nhưng ông ta biết tôi có lý và phải thay đổi việc kiểm tra thực phẩm. Sau đó ít lâu, người ta thôi không dùng hai phòng xét nghiệm thực phẩm nữa, việc kiểm tra được thực hiện ở Bắc Kinh và cơ quan an ninh đã chuyển cho thành phố Bắc Kinh việc quản lý công xã Tụ Sơn. Tuy nhiên, việc thay đổi đó chỉ là hình thức. Phần lớn thực phẩm dành cho Mao vẫn tiếp tục được cung ứng từ công xã Tụ Sơn, mặc dù việc cung ứng được chủ thị là không chỉ lấy thực phẩm từ nơi đó, mà còn lấy từ những vùng khác. Khi Mao biết đã có sự thay đổi, ông cười: - Tôi đã nói học tập Liên Xô, thì không phải chúng ta học ở Liên Xô người ta ỉa đái như thế nào, đúng không? Tôi không muốn chỉ học Liên xô, mà tôi còn muốn học cả Mỹ nữa. Chương 13 Giang Thanh cũng lưu lại ở Quảng Châu và tôi thường làm việc với bà. Sau khi chúng tôi đến được hai ngày, vệ sỹ riêng của Mao là Lý Ẩm Kiều đề nghị tôi: - Đồng chí nên báo cáo tình hình sức khỏe của Chủ tịch cho Giang Thanh biết. Tôi hỏi: - Sao vậy? Hôm đầu chúng tôi đến có thấy mặt bà ta đâu. Lý hạ giọng: - Nếu đồng chí không làm, thì bà ta sẽ cho rằng đồng chí coi thường bà ta. Tôi đã làm theo lời khuyên của ông ta. Một buổi sáng, tôi được dẫn đến phòng làm việc của bà ở nhà số 2. Giang Thanh mặc bộ y phục màu xanh sẫm và đi giày da trắng, dế bằng, tóc búi tó. Bà đang ngồi trên ghế và đọc tờ Bản tin được lưu hành nội bộ, hàng ngày được chuyển cho những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước. Trong đó có nhiều tin quan trọng ở trong và ngoài nước, không bình luận và phần lớn đều lấy từ báo chí nước ngoài Giang Thanh cũng bắt chước thói quen của Mao, khi tiếp khách tay thường cầm sách. Tuy nhiên, ở bà việc này không gây được nhiều ấn tượng lắm. Bà chỉ vờ đọc và thường khi được thông báo khách đã có mặt, thì bà mới cầm sách lên. Nhớ lại lời nhắc nhở nhiều lần của Lý Ẩm Kiều và của chị y tá là phải đặc biệt lễ phép đối với phu nhân của Chủ tịch, tôi đã ngoan ngoãn chào Giang Thanh. Bà ra hiệu cho tôi ngồi. Tôi nói: - Thưa, Chủ tịch vẫn khỏe ạ. Mặc dù Chủ tịch sinh hoạt không theo giờ giấc, không có lợi cho sức khỏe, nhưng Chủ tịch vẫn rất thọ. Nếu ngay bây giờ chúng ta buộc Chủ tịch thay đổi, thì có thể sẽ có hại nhiều hơn là có lợi ạ. Bà xẵng giọng hỏi lại: - Đồng chí cho rằng việc Chủ tịch sinh hoạt điều độ là không quan trọng sao? Tôi trả lời: - Thưa, không ạ. Chứng mất ngủ của Chủ tịch còn tăng thêm nữa là đằng khác. Bà xuống giọng châm biếm: - Đó là lời khuyên của thày thuốc của đồng chí phải không? Bà ngước đôi mất màu nâu chăm chăm nhìn tôi: - Đồng chí cũng nói điều này cho Chủ tịch biết rồi chứ? - Thưa, vâng Giang Thanh ngạc nhiên. Bà nóng nảy gõ ngón tay lên bàn. - Thế Chủ tịch trả lời thế nào? - Chủ tịch đồng ý với tôi. Chủ tịch nói, đồng chí ấy ngày càng già đi và không dễ thể thay đổi thói quen của đồng chí ấy. Bà cúi đầu, nhìn tôi một lần nữa và vuốt nhẹ tóc. Tôi biết, những thói quen của Mao đã làm phiền bà, nhưng bà không thể tự cho mình có quan điểm khác với chồng bà. Giang Thanh hoàn toàn lệ thuộc vào Mao, không có cộng sự gần gũi nào của ông lại cư xử một cách hạ mình và xu phụ như bà. Không có Mao thì bà cũng chẳng là gì. Bà nói dối: - Tôi cũng nghĩ thế. Nhiều người muốn làm Chủ tịch thay đổi thói quen, nhưng tôi thì ngược lại. Bà cười, rồi hỏi: - Thế thuốc ngủ có tác dụng gì không? - Thưa, Chủ tịch đã mắc chứng mất ngủ từ nhiều năm nay. Chỉ có thuốc ngủ mới làm cho Chủ tịch chợp mắt được. - Rõ ràng đồng chí không muốn thay đổi gì. - Dạ, đúng thế ạ, từ lâu Chủ tịch đã không dùng thêm liều thuốc nào. Bà diễu cợt: - Chẳng có thày thuốc nào có lời khuyên hay đến nỗi người ta phải dùng thuốc ngủ. Thế đồng chí dùng thuốc gì? - Thưa, không ạ. - Nhưng đồng chí biết rõ là thuốc ngủ có hại cho sức khỏe chứ? Tôi trả lời: - Thưa, tốt hơn là không nên dùng thuốc ngủ ạ. Nhưng từ nhiều năm nay Chủ tịch đã quen dùng… Bà thô lỗ ngất lời tôi: - Đồng chí đã nói gì đó với Chủ tịch, để ông tiếp tục dùng thuốc ngủ chứ! - Thưa vâng. Tôi đã từng hiểu cặn kẽ thói quen ngủ nghê của Chủ tịch. Hàng ngày ông ngủ muộn hơn hai hoặc ba tiếng so với ngày hôm trước. Thỉnh thoảng ông thức liền 24 tiếng hoặc 36 tiếng. Nhưng sau đó ông ngủ liền từ 10 đên l2 tiếng. Tính trung bình mỗi ngày ông ngủ từ 5 đến 6 tiếng. Thoạt nhìn, thì điều này có vẻ không theo quy luật, nhưng thực ra lối ngủ nghê này có sự đều đặn riêng. Giang Thanh lại hỏi: - Tại sao đồng chí không thông báo sớm tất cả điều này cho tôi biết? Tôi mất dần kiên nhẫn: -Thưa, tôi chưa có điều kiện. Chủ tịch chỉ mới vừa nói điều này với tôi. Giang Thanh lạnh lùng nói: - Thôi được, chúng ta tạm thế đã. Lần sau đồng chí hãy nói cho tôi biết trước khi đồng chí đến chỗ Chủ tịch. Tôi không có ý định phải thưa bẩm với Giang Thanh trước, vì bà ta không thể trực tiếp kiểm soát được chồng bà. Bà tính qua tôi để tác động đến Mao. Tôi lễ độ từ biệt bà, nhưng tôi phớt lờ chỉ thị của bà. Sau khi tôi đi khỏi, Giang Thanh nói với một cô y tá của bà: Bác sỹ Lý thật ương ngạnh và kiêu căng, cứ khăng khăng giữ ý kiến của hắn. Chúng ta phải dạy cho hắn một bài học. Tôi kể cho Mao cuộc nói chuyện của tôi với Giang Thanh và ông có ý định làm người trung gian giữa tôi và vợ ông. Ông nói: - Giang Thanh đã công khai đối đầu với đồng chí. Đồng chí nên nói cái gì đó nịnh đầm bà ấy một chút, để làm bà ấy hài lòng. Uông Đông Hưng cũng vậy. Ông ta muốn tôi kính trọng Giang Thanh hơn nữa và lo ngại hậu quả sẽ xảy ra khi tôi không làm theo lời ông. Có lẽ ông ta cũng đã từng xung đột với Giang Thanh. Lời khuyên của cả hai người làm tôi ngạc nhiên. Tôi rút ra bài học, không nên đưa chuyện nữa. Mặc dù tôi không muốn nịnh Giang Thanh và tôi thấy khó mà gây được thiện cảm đối với bà, nhưng tôi vẫn tìm cách để hiểu bà. Bà sống một cuộc sống xa hoa, nhưng vô nghĩa. Mao không quan tâm đến bà và bà cũng chẳng có vai trò gì trong cuộc đời ông. Ông già hơn vợ tới 20 tuổi và họ có những thiên hướng rất khác nhau. Giang Thanh coi trọng giờ giấc và sự đều đặn, ngược lại Mao chối bỏ tất cả mọi sự điều độ. Mao thích đọc, còn trong việc này Giang Thanh lại thiếu kiên nhẫn. Mao tự hào về sức khỏe và tầm vóc của ông, còn Giang Thanh luôn cảm thấy đau yếu. Chưa bao giờ họ cùng ăn với nhau. Trong khi Mao ưa thích những món ăn cay của vùng Hồ Nam, thì Giang Thanh lại mê hoặc là món cá nấu với rau nhạt nhẽo, hoặc là làm ra vẻ sành các món ăn phương Tây mà bà đã từng nếm thử ở Liên Xô và còn đòi hỏi cả món thịt hâm nhừ và trứng cá muối. Người ta đã từng hết sức cố gắng tìm cho bà một công việc thích hợp. Năm 1949 bà được bổ nhiệm làm phó phòng Kiểm duyệt phim thuộc bộ Văn hóa, nhưng bà tỏ ra ương ngạnh đến nỗi chẳng ai có thể chịu nổi bà. Sau đó bà đổi sang làm phó phòng Thư ký chính trị của Tổng văn phòng của Dương Thượng Côn ở Trung Nam Hải. Nhưng bà lại đe mọi người rằng, Mao sẽ cách chức họ. Mao đành phái cử bà làm thư ký riêng của ông. Với chức vụ này, bà phải tổng hợp tin tức từ bản tin phần lớn các nhà lãnh đạo đảng đều giao cho vợ làm công việc tương tự như vậy. Mặc dù Giang Thanh thường có tập Bản tin đó nhưng ít khi bà đọc chúng. Khi làm, bà lại không thể phân biệt được tin nào là quan trọng, tin nào không, đến nỗi công việc của bà chẳng giúp gì được cho Mao. Vì vậy, Lâm Khắc phải đảm nhiệm công việc của Giang Thanh là thu thập tin tức. Giang Thanh là người mà người Trung Quốc gọi là tiểu công minh (kẻ khôn vặt). Bà xét nét, nhưng không được giáo dục và không có khả năng phân tích. Bà chỉ biết một chút về lịch sử Trung Hoa, còn về thế giới bên ngoài biên giới thì bà lại càng biết ít hơn. Bà thường không hiểu ngay cái mà bà vừa đọc. Có lần bà nói với tôi, nước Anh không phong kiến như Trung Quốc, vì nó thường có nữ hoàng trị vì. Theo bà, vì chế độ gia trưởng của Trung Quốc mang tính chất phong kiến, cho nên sự lãnh đạo của phụ nữ chính là biểu hiện của thời đại mới. Bà nghe được giọng Bác Kinh, thế mà hiểu biết của bà về ngôn ngữ Trung Quốc lại hạn chế. Nhưng bà biết cách giấu dốt khi bà thường hỏi thêm những từ đó được phát âm như thế nào trong tiếng địa phương ở Bắc Kinh. Việc tra từ điển đối với bà thật khó khăn. Mặc dù kiến thức của bà kém cỏi như thế, nhưng bà lại hay diễu cợt người khác. Một lần Mao nói đùa với tôi là tôi thu lượm được kiến thức về lịch sử Trung Quốc ở trong nhà hát kinh kịch Bắc Kinh. Thật là một sự lăng nhục đối với tôi khi tôi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc một cách có hệ thống. Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục lấy lời nhận xét của Mao để châm chọc tôi, tuy câu chuyện tiếu lâm đó đã nhạt từ lâu. Mao không yên tâm về sự thờ ơ của vợ ông đối với những sự kiện lịch sử và thời sự. Bởi vậy, ông thường gửi cho bà sách vở, tài liệu và những tập sưu tầm tin tức mới nhất để bà nắm được những thông tin như ông. Nhưng Giang Thanh luôn luôn thoái thác. Thay vì đọc, tối ngày bà xem những cuốn phim nhập từ Hồng Công. Bà nói là bà ốm. Giang Thanh luôn đau ốm, nhưng những bộ phim, có lẽ, chữa được bệnh suy nhược thần kinh của bà. Năm 1953, bộ y tế và Văn phòng chính của lực lượng an ninh đã ra tay với những bệnh tật mơ hồ của bà. Họ cử bác sĩ Hứa Đạo đến làm bác sĩ riêng cho bà. Ông nguyên là bác sỹ riêng của Mao trước đây, nhưng vì Giang Thanh luôn đau ốm, nên là Mao để cho bác sỹ Hứa Đạo chăm sóc vợ ông. Giang Thanh đã đẩy cuộc đời của bác sỹ Hứa xuống địa ngục. Trong chiến dịch chống bọn phản cách mạng năm 1954, bà đã công kích ông, và về sau bà vẫn tiếp tục cái trò đê tiện đó của bà. Tại Quảng Châu, ông đã trở thành nạn nhân của những lời vu khống cay độc. Lần này ông bị phê phán là đã giở trò bỉ ổi với một cô y tá của Giang Thanh. Cô y tá vốn mắc chứng thiếu máu, luôn cảm thấy mệt mỏi và chóng mặt. Vì vậy, ngay sau khi đến Quảng Châu ít lâu, cô đã yêu cầu bác sỹ Hứa khám cho cô. Bác sỹ Hứa khám cho cô trong tiền sảnh của nhà khách, nơi cô ở. Bỗng nhiên, một vệ sỹ – một gã nông dân vô học, rất nghi ngờ về mặt đạo đức – xộc vào phòng. Gã vốn mù tịt về y tế, thế là gã đã vu cho bác sỹ Hứa tội quấy rối tình dục. Là chỉ huy toán vệ sỹ, Uông Đông Hưng phải lưu tâm đến vụ này. Ông chứng minh được là Hứa Đạo vô tội, vì một người là bác sỹ ông đã biết từ lâu, và người kia là gã vệ sĩ ông cũng không lạ gì về sự thất học và tư cách thô lỗ của hắn. Tôi cũng rất bất bình về sự chỉ trích này. Đơn giản là không đời nào bác sỹ Hứa lại hành động như vậy. Ông là người rất thận trọng, có thể hơi bướng bỉnh một chút, nhưng ông có nguyên tắc về đạo đức. Ngoài ra, người ta đã gán cho ông có liên hệ với nhóm chống đảng, và chắc chắn ông không đến nỗi khờ khạo quên mất tương lai của mình. Trong khi điều tra, tôi đã biện hộ cho bác sỹ Hứa bằng cách đưa ra bằng chứng rằng sự liêm khiết và sự thành công trong nghề của ông là một tấm gương mẫu mực. Chúng ta không có quyền buộc tội ông với lời tố cáo hoàn toàn vô lý. Cuối cùng, cả Mao cũng can thiệp bảo vệ danh dự cho bác sỹ. Bác sỹ Hứa được giải tỏa khỏi những nghi ngờ và gã vệ sỹ kia bị sa thải. Có lẽ, đây là lần đầu tiên người ta đã cư xử ngay thật đối với một thày thuốc trong một vụ xung đột với lực lượng an ninh. Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục gây sự với vị bác sỹ của bà. Bác sỹ Hứa phải làm người chiếu phim cho bà và chỉ được phép chọn những cuốn phim làm cho bà sảng khoái và đến đêm không làm bà mất ngủ. Nếu ông chọn không đúng phim bà thích – điều này thường xảy ra – thì lập tức bà nhiếc mắng ông thậm tệ. Hứa đề nghị không phải làm việc này, nhưng Giang Thanh không chịu. Xem phim là điều trị chứng suy nhược thần kinh cho bà: vì vậy trách nhiệm của ông là phải chiếu phim cho bà xem. Tuy vậy, hầu hết các cuốn phim đều không làm cho bà vừa lòng, nên bà thường chì chiết ông. Khi xem bộ phim Cuốn theo chiều gió, bà quả quyết, đây là phim tuyên truyền cho chế độ nông nô ở miền Nam và bà chửi rủa những người thích bộ phim đó là bọn phản cách mạng đốn mạt. Giữa những năm 1950 mà câu nói đó của bà cũng chẳng có mấy trọng lượng. Thế nhưng vài năm sau, trong khi diên ra cuộc Cách mạng văn hóa, với lòng thù hận, bà đã hủy hoại sự nghiệp và cuộc đời của biết bao con người. Nếu bác sỹ Hứa có chọn đúng cuốn phim bà thích thì bà cũng chẳng hài lòng. Thỉnh thoảng cảnh phim trên màn ảnh quá sáng, khiến bà khăng khăng là mắt bà bị đau. Nếu có điều chỉnh tối đi, thì có thể bà lại không nhìn thấy hình ảnh nữa. Và một khi nếu ánh sáng đã được bà chấp nhận, thì nhiệt độ trong phòng lại không được ổn, hoặc quá nóng, hoặc quá lạnh, hoặc là quá ngột ngạt, hoặc gió lùa quá mạnh. Người ta chẳng bao giờ có thể chiều nổi bà, vì thế họ luôn luôn là người có lỗi và phải chịu những lời đay nghiến tưởng như không bao giờ dứt của bà. Mãi khá lâu sau này tôi mới biết rằng, vô số nhưng câu chuyện dính dáng đến phụ nữ của Mao chính là nguyên nhân thực sự đối với vấn đề của Giang Thanh. Vì các cô y tá của bà – hầu hết đều là những thiếu nữ trẻ, quyến rũ – là những chiến lợi phẩm nho nhỏ dành cho Mao – lại ở dưới sự giám sát của tôi, nên thỉnh thoảng bà đề nghị tôi hãy lưu tâm, đừng để các cô y tá đó tiếp xúc với chồng bà. Một lần, tình cờ tôi bắt gặp Giang Thanh ngồi khóc trên một clúếc ghế dài trong công viên ở Trung Nam Hải, trước dinh thự của Mao. Bà khần khoản yêu cầu tôi đừng tiết lộ sự việc này, cứ như ai đó có thể đoạt phần thắng trong đòn chính trị chống lại chồng bà. Stalin đã chả từng giam một người đàn bà trong kho đã cưỡng lại tình yêu của ông đó sao. Chồng bà càng công khai săn đuổi các cô gái bao nhiêu, thì nỗi lo sợ của bà sẽ bị ông bỏ rơi ngày càng lớn bấy nhiêu. Bà thật cô đơn, tẻ nhạt và chán chường. Bà cảm thấy từng nỗi thất vọng của bà. Tôi không biết, liệu bà có phải cố gắng lắm không, nhưng bà phải nói hết với Mao và nếu ông không cho phép, thì bà chẳng dám làm gì. Vì bà không thể chế ngự được Mao nên bà cố tận dụng cương vị là vợ ông để chỉ huy người khác và sự chông chênh đó của bà làm cho bà trở nên tâm thường và nanh nọc. Đặc biệt, bà thường nổi giận với đám vệ sỹ, vì bà biết họ đã giúp Mao trong những vụ bê bối của ông. Nhưng bởi vì những người vệ sỹ lại trực tiếp làm việc cho Mao và ở dưới quyền Uông Đông Hưng, nên bà khó có cơ hội sinh sự với họ. Do đó, bà chỉ còn biết trút cơn thình nộ lên những người phục vụ riêng của bà, trước tiên là lên vị bác sỹ. Giang Thanh liên tiếp chỉ trích những người khác đã làm khổ bà, song thực ra bà lại đày đọa tinh thần của những nhân viên của bà. Bà công khai cho rằng, nếu bà gặp chuyện không hay, thì mọi người khác cũng phải chịu đau khổ. Chỉ có một số ít người ở lâu được với bà, còn hầu hết đều xin thuyên chuyển đi nơi khác để khỏi bị hành hạ. Mùa thu năm 1956 bác sỹ Hứa Đạo cũng xin từ chức. Sau chiến dịch chống bọn phản cách mạng và vụ vu khống quấy rối tình dục, ông đã sang dạy ở trường Đại học y khoa. Ông muốn trở về làm việc ở bệnh viện, để ông có thể sử dụng và đào sâu kiến thức của mình. Cuối cùng, ông đã chuyển về bệnh viện đa khoa Bắc Kinh, một trong những bệnh viện tốt nhất và quan trọng nhất của Trung Quốc. Lúc đó, tôi đã tị với Hứa Đạo về việc ông từ chức. Chương 14 Trong khi Giang Thanh là một thành viên thụ động nhất trong chuỗi cộng tác viên gần gũi nhất của Mao, thì Diệp Tử Long lại là một kẻ đắc lực nhất. Người nào xung quanh Mao cũng đều có một chức năng nhất định. Thông thường thì Diệp chính thức là người phụ trách Văn phòng thư ký riêng và đặc biệt, ông còn là Trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ông lo thu xếp các cuộc họp, hoàn thành các biên bản và với tư cách là người trợ lý cao nhất của Mao, ông thường xuyên quan tâm đến những việc sinh hoạt cá nhân của Mao, như ăn, mặc và tiền nong. Sau này tôi được biết từ Uông Đông Hưng và từ chính Diệp Tử Long rằng, ông cũng đã kiếm gái cho Mao. Ông không những lấy gái từ Văn phòng thư ký riêng do ông phụ trách, từ Văn phòng bảo mật hoặc là từ các đội văn hóa thuộc Cục bảo vệ trung ương. Mà ông còn hay để mắt đến những cô gái trẻ, thơ ngây, không có ý thức chính trị và tuyệt đối trung thành với Mao. Việc ông Diệp ở ngay trong tư dinh của Mao là để ông thực hiện nhiệm vụ cần vụ cho Mao dễ dàng hơn. Nhưng ông lại dùng nhà ở của ông để giấu các cô gái, trước khi ông đưa họ đến gặp Chủ tịch. Khi Giang Thanh vừa chìm vào giấc ngủ và Mao đã sẵn sàng tiếp các nữ tú, thì Diệp Tử Long dẫn các cô gái rón rén đi qua phòng ăn, rồi lẻn vào phòng ngủ của Mao. Đến gần sáng, ông mới quay trở ra và đưa các cô theo. Ông Diệp còn là người trông nom một tài khoản đáng kể mà Mao dành để chi cho những công việc đặc biệt trong văn phòng. Vào năm 1966, trước khi có cuộc Cách mạng văn hóa ít lâu và ngay trước khi hàng trăm triệu quyển sách nhỏ bìa đỏ trích những câu nói của Mao được bán ra, thì chỉ riêng Tuyển tập của mình, Mao đã kiếm được ba triệu nhân dân tệ. Trong những năm 1950, ông là một trong những người giàu nhất Trung Quốc và ông cũng là người rộng rãi trong chuyện tiền nong. Ông đã giúp đỡ những giáo viên, bạn bè và những đồng chí cũ của ông, để họ có thể có một cuộc sống dễ chịu hơn trong tương lai sau khi họ bị chính quyền cộng sản mới tước mất quyền sở hữu và khả năng hành nghề của họ. Ngoài ra, ông còn dùng tiền để trả ơn những phụ nữ đã ngủ với ông. Việc này do Diệp Tử Long thu xếp một cách kín đáo. Tổng số tiền đó dao động từ một vài trăm đến một vài nghìn nhân dân tệ. Diệp Tử Long là một người bẳn tính, ít học và hầu như mù chữ. Ông là một trong những nông dân theo đảng từ khi còn trẻ và đã tham gia cuộc Vạn lý trường chinh. Sau cuộc Vạn lý trường chinh ít lâu, ông bắt đầu làm cần vụ cho Mao. Trước khi đến Bắc Kinh vào năm 1949, ông chưa hề đặt chân đến một thành phố lớn nào. Việc đảng nắm quyền tại Bắc Kinh chính là sự giải phóng thực sự đối với ông và Diệp đánh giá cao Mao ở chỗ, Mao đã đưa ông từ bóng đêm nghèo đôi ở nông thôn tới nơi thiên đường thịnh vượng. Nhưng Diệp không thuộc loại nông dân ngờ nghệch, dễ bị lóa mắt trước ánh đèn rực rỡ ở thành phố. Tôi chắc rằng, trước khi đến Bắc Kinh, từ lâu ông đã thiếu những cá tính mạnh. Có điều trước đây ông chưa có điều kiện để tham nhũng. Tôi làm quen với Diệp Tử Long ở bệnh viện trong khu Trung Nam Hải, trước khi tôi trở thành bác sỹ riêng của Mao ít lâu. Lúc đầu tôi không có cảm tình đối với ông. Tôi vẫn còn nhớ, năm 1951 ông đã xin tôi năm lọ kháng sinh penicillin để cho người bà con của ông chữa bệnh giang mai. Khi đó, Trung Quốc vẫn chưa sản xuất được penicillin và chúng tôi phải bảo quản những lọ penicillin nhặp ngoại này ở bệnh viện, nên thứ thuốc này rất quý. Ông Diệp khá ngạc nhiên, vì tôi đã từ chối lời đề nghị của ông. Cô y tá trưởng của bệnh viện cũng ngạc nhiên. Lúc đó, người ta đều biết, ông Diệp rất gần gũi và có ảnh hưởng lớn đối với Chủ tịch. Hầu hết mọi người đã phải đáp ứng yêu cầu của ông để lấy lòng ông, nên cô y tá nghĩ, tôi đã xúc phạm ông. Tôi không hề nghĩ ràng, đường đi của chúng tôi lại một lần gặp nhau và hầu như ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau. Như tất cả chúng tôi, vào đầu những năm năm mươi, Diệp Tử Long cũng được hưởng chế độ bao cấp. Ông thèm khát một cuộc sống xa hoa, vậy mà ông không có tiền. Nhưng là thư ký riêng của Mao, ông có thể có được tất cả những gì mà ông muốn. Ai muốn Mao ban cho ân huệ, thì chỉ cần nịnh thư ký riêng của Mao. Trong khi ông kêu gọi phải sống thanh bạch và tiết kiệm thì ông Diệp lại sống xa hoa và phung phí. Sau khi một câu lạc bộ khá lịch sự được xây dựng dành cho các quan chức cao cấp, Diệp Tử Long đã kết bạn với nhiều người quản lý và thường xuyên tham dự những bữa tiệc lớn mà chẳng phải trả một xu nào. Những nhân viên an ninh không cho thường dân Trung Quốc bén mảng đến những nơi mà ông Diệp thường lui tới, như câu lạc bộ dành riêng cho các quan chức cao cấp hoặc khách sạn Bắc Kinh, lại không hề hỏi giấy tờ ông. Ai cũng cho rằng, ông là một nhân vật quan trọng, một cán bộ cao cấp của đảng. ít ra ông cũng có vẻ thanh lịch. Da ông sáng và bóng. Trong khi ở Bắc Kinh mọi người mặc quần áo bằng vải bông bạc màu, vá víu, thì ông Diệp lại ưa diện bộ đồ kiểu Mao được cắt may. Khi Mao nhận được một bộ quần áo mới vừa vặn, thì ông Diệp có mặt ở đó và người thợ may của Mao cũng xúc động dành cho ông một bộ quần áo, mà ông không phải trả tiền, để tạ ơn ông. Là người cần vụ cao nhất của Mao, ông có trách nhiệm lớn đối với kho riêng của Mao. Trong kho cất giữ nhiều quà biếu Mao nhận được từ khắp nơi. Diệp Tử Long mau chóng thuộc hết tên các hãng sản xuất đồ điện nổi tiếng của nước ngoài, ngay cả khi ông không thể đọc nổi tên nước sản xuất trên bản đồ hay tên của các vị nguyên thủ quốc gia. Ông Diệp là người rất hợp với câu ngạn ngữ cổ: lầm nghề gì ăn nghề đó. Ông liên hệ được thực phẩm không mất tiền từ trại cải tạo Duyên Hà. Sau khi đảng cộng sản nắm quyền, chính phủ mới đã dựng lên trên khắp cả nước nhiều trại cải tạo, dành cho tù hình sự và tù chính trị. Điều kiện sống trong trại rất hà khắc. Phần lớn tù chính trị là những người thuộc tầng lớp thấp như lính bộ binh hoặc các công chức nhỏ đã từng phục vụ cho Quốc dân đảng, Những quan chức cao cấp, hoặc là đã chạy trốn, hoặc là như cha tôi, đã theo cộng sản. Trại Duyên Hà do Sở công an Bắc Kinh quản lý và là trại cải tạo lớn nhất ở thủ đô. Những người bị giam trong trại đã phải tự lo nhiều loại lương thực, thực phẩm như thịt, cá, rau và gạo và chính họ cũng phải may những chiếc áo pull và các loại quần áo khác. Diệp đã lợi dụng quan hệ bạn bè với trưởng trại Duyên Hà để lấy một khối lượng lớn thực phẩm cao cấp mà không phải trả liền, thậm chí ngay trong thời kỳ có nạn đói lớn năm 1960-1962, đã làm hàng triệu người chết đói. Mặc dù Diệp Tử Long đã có vợ, nhưng trong một cuộc khiêu vũ của Mao, ông đã làm quen với một cô gái của Phòng bảo mật và mang lòng yêu cô. Khi cấp trên của cô gái trẻ biết chuyện, ông đã đưa cô xuống tàu, bí mật rời Bắc Kinh. Không ai muốn hỏi ông, bạn gái của ông đã biến đi đâu. Vào năm 1958, khi ông Diệp ở Vũ Hán cùng với Mao, tình cờ ông gặp lại cô gái đó trong một buổi khiêu vũ khác và hai người đã nối lại quan hệ. Ông đã cố rời khỏi người tình của ông và để cô chuyển đến thành phố công nghiệp Thiên Tân, cách thủ đô Bắc Kinh khoảng 100 km về phía Đông. Vì thời đó chưa có đường cao tốc và đường xá luôn tắc nghẽn, nên đi từ Bắc Kinh đến đó phải mất tới 6 giờ đồng hồ. Ông Diệp đã tìm cho cô bạn gái của ông chỗ làm việc và một ngôi nhà để ông bí mật lui tới. Ông thường ở lại đó nhiều ngày. Khi Giang Thanh vừa rời Bắc Kinh, thì ông liền lấy xe của bà để đến Thiên Tân. Trong khi có nạn đói lớn, ông đã lo chu cấp thực phẩm cho người tình. Đến khi người ta bắt đầu tiến hành xét hỏi ông trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, ông mới cắt đứt quan hệ vừa được nối lại giữa hai người. Mãi đến năm 1980, khi Diệp Từ Long được phục hồi và được bầu làm phó thị trưởng thành phố Bác Kinh, thì hai người mới quay lại với nhau. Lúc đó ông đã là một ông già hói đầu, còn cô bạn gái của ông đã là một bà già tóc hoa râm. Việc tôi được nhận vào nhóm Một đã làm cho Diệp Tử Long phật ý. Ông không thể quên việc tôi đã từ chối không cho người bà con của ông thuốc kháng sinh penicillin. Đối với ông, một cán bộ từng trải một nông dân và một người từng tham gia Vạn lý trường chinh, thì tôi chỉ là một trí thức tiểu tư sản, vẫn còn mang những khuyết tật của xã hội cũ. Và việc đối thủ của ông là Uông Đông Hưng chọn tôi càng làm cho ông thêm ác cảm đối với tôi. Sau khi Phó Liêm Chương và ông biết tôi được bổ nhiệm làm bác sỹ riêng của Mao ít lâu, họ đã lập kế hoạch để loại tôi một cách nhanh nhất. Giang Thanh đã cho tôi hay, họ đã nói với Mao rằng, cần phải lưu ý đến lý lịch của tôi, rằng tôi không chắc chắn về mặt chính trị. Nhưng Mao đã không đồng ý với họ. Là thành viên của nhóm Một, tôi buộc phải làm việc cùng với Diệp Tử Long, khiến mối ác cảm của tôi đối với ông ngày càng tăng. Ngay cả những vệ sỹ của Mao cũng chăng có thiện cảm với Diệp. Văn phòng của họ nằm ngay cạnh phòng của các nhân viên cần vụ, nên khó thấy được sự khác nhau giữa hai nhóm. Các cô y tá thường tập trung vào công việc và chỉ trao đồi về công việc của họ. Hứa Đạo là người rất kín tiếng, vì ông là người không ưa gì đảng và chỉ khi gần đây ông bị buộc tội hủ hóa, ông mới biết rằng, lời hứa nhỏ nhất lại có thể gây cho ông những khó khăn lớn. Ngược lại, đám vệ sỹ thì lại lắm lời. Họ thường """