"
Đời Tổng Thống K. Thứ Tư - Mario Puzo full prc pdf epub azw3 [Hình Sự]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đời Tổng Thống K. Thứ Tư - Mario Puzo full prc pdf epub azw3 [Hình Sự]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
LờiNgườiDịch:
Chương1:
Chương2:
Chương3:
Chương4:
Chương5:
Chương6:
Chương7:
Chương8:
Chương9:
Chương10:
Chương11:
Chương12:
Chương13:
Chương14:
Chương15:
Chương16:
Chương17:
Chương18:
Chương19:
Chương20:
Chương21:
Chương22:
Chương23:
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Người Dịch: Trịnh Xuân Hoành - Vũ Hồng Nga
Lời Người Dịch:
Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với Mario Puzo qua các tác phẩm Bố già, Sicily miền đất dữ. Đời tổng thống K. thứ tư là tác phẩm mới nhất của ông. Đời tổng thống K. thứ tư là một tác phẩm văn học hư cấu, viết về tấn bi kịch trong đời tư của một Tổng Thống Hoa Kỳ... Vừa phát hành, tác phẩm đã được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng ở Hoa Kỳ hết lời ca ngợi và đươợ in ở nhiều nước với nhiều thứ tiếng khác nhau. Bản dịch này, chúng tôi dịch theo bản gốc do Bantam Books tái bản năm 1992 và đồng thời in, phát hành tại Hoa Kỳ và Canada.
Tác phẩm mới nhất của Mario Puzo, người đã “sinh” ra từ BỐ GIÀ đến SICILYMIỀN ĐẤT DỮ...
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ, tuy có dựa vào một vài sự kiện có thật, có mang dáng dấp của một vài nhân vật có thật, nhưng như chính tác giả tuyên bố, nó vẫn là một tác phẩm hư cấu, vẫn là một tiểu thuyết văn học trăm phần trăm. Nó VIẾT VỀ TẤN BI KỊCH TRONG ĐỜI RIÊNG CỦAMỘT TỔNG THỐNG MỸ.
Và cũng như hầu hết các tác phẩm của MARIO PUZO, vừa ra đời năm 1992, ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ đã được các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây chào đón rầm rộ như một sự kiện văn học trọng đại nhất trong năm.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Một Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện - Chủ Nhật Lễ Phục Sinh
Chương 1:
Oliver Oliphant đã tròn trăm tuổi và tâm trí vẫn sáng trong như tiếng chuông. Thật bất hạnh cho lão!
Đấy là một tâm trí sáng trong, còn tinh nhạy tới mức khi phá bỏ rất nhiều phép tắc đạo lý, nó tẩy sạch trơn lương tâm lão. Một tâm trí xảo quyệt tới mức Oliver Opliphant chưa lần nào bị vấp những cái bẫy hầu như khó tránh khỏi trong cuộc sống hàng ngày, lão chưa hề lấy vợ, chưa từng là một ứng cử viên giữ chức vụ mang màu sắc chính trị và chưa hề có người bạn tin tưởng tuyệt đối.
Oliver Opliphant, người giàu có nhất Hoa Kỳ và có lẽ là công dân ẩn dật có uy quyền nhất, đang đón đợi Christian Klee, con trai đỡ đầu của lão, chưởng lý Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, tại dinh cơ đồ sộ có đội vệ sĩ tuyển lựa kỹ canh gác cẩn mật chỉ nằm cách Nhà trắng mười dặm.
Sức quyến rũ của Oliphant không thua kém gì sự tài giỏi của lão: quyền lực của lão dựa vào cả hai điểm này. Tuy đã tròn trăm tuổi, các vĩ nhân tin tưởng khả năng phân tích của lão lũ lượt kéo tới lắng nghe lời khuyên bảo của Oliphant đông đến nỗi lão được mệnh danh là “Oracle” (1).
Với tư cách cố vấn Tổng thống, Oracle đã dự đoán trước các cuộc khủng hoảng về kinh tế, các vụ sụp bể ở Wall Street, đồng đô la mất giá, cuộc tháo chạy của tư bản nước ngoài, những mức tăng vọt không thể tưởng tượng nổi của giá dầu. Lão dã sự đoán trước những bước thăng trầm về chính trị ở Liên Xô, những đường lối bất ngờ của các đối thủ trong Đảng Dân chủ và Cộng hoà. Nhưng cái chính là lão đã tích luỹ được mười tỷ đô la. Lời khuyên của một người giàu nứt đố đổ vách như vậy, thậm chí dù sai trái, cũng đều như vàng ngọc là lẽ tự nhiên. Nhưng Oracle thường dự đoán gần đúng.
Bây giờ, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện này, Oracle đang bận tâm tới mỗi một điều: tổ chức lễ sinh nhật mừng ngày một trăm năm có mặt trên Trái đất này của lão. Buổi lễ sẽ được tổ chức vào Chủ Nhật Lễ Phục Sinh tại Rose Garden trong Nhà trắng, đích thân Tổng thống Hoa Kỳ là Francis Xavier Kennedy chủ trì lễ tiệc...
Tâm trạng phấn chấn vui mừng trước một việc thu hút sự chú ý của mọi người là một sự phù hoa chấp nhận được đối với Oracle. Thế giới lại nhớ tới lão trong giây phút ngắn ngủi. Lão buồn rầu nghĩ bụng, có lẽ đây là sự xuất hiện cuối cùng của lão trên vũ đài.
Tại Rome, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, bảy tên khủng bố đã hoàn tất công việc chuẩn bị vụ ám sát Giáo hoàng. Bọn chúng gồm bốn gã đàn ông và ba phụ nữ, chúng tin rằng chúng là những kẻ giải thoát cho nhân loại. Chúng tự mệnh danh là Đức Chúa của Bạo Lực.
Trưởng nhóm đặc biệt là một tên thanh niên người Italia dày dặn kỹ thuật khủng bố. Mật danh của hắn khi tham gia chiến dịch đặc biệt là Romeo: cái tên gọi này gây hào hứng cho tính châm biếm trẻ trung của hắn và nó thật gợi cảm mơn dịu tình yêu đầy trí tuệ đối với loài người.
Chiều tối Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, Romeo đã nằm nghỉ trên chiếc giường cũ kỹ trải khăn hoen ố trong căn nhà an toàn do International One Hundred bố trí. Miệng ngậm thuốc lá, lòng bồn chồn một nỗi lo ám ảnh suốt bao ngày đêm, hắn đọc cuốn anh em nhà Karamazov loại in phổ thông bán rẻ. Cơ bắp chân hắn bị chuột rút vì căng thẳng, có lẽ vì sợ hãi, nhưng chẳng sao.
Thường thì rồi đâu sẽ vào đấy cả. Thế nhưng nhiệm vụ lần này thật đặc biệt, thật phức tạp, kéo theo bao nguy hiểm cho thể xác và tinh thần trong lần thi hành nhiệm vụ này, hắn thực sự là Đức Chúa của Bạo Lực, một cái tên nghe đích thực Thiên chúa giáo nên mỗi khi nhớ tới nó hắn lại phá lên cười.
Romeo là con trai của gia đình Armando Giangi một gia đình cao sang giàu có. Bố mẹ hắn muốn con trai trở thành một người thuần tính, giàu sang, ngoan đạo, nhưng những ước muốn đó trái ngược hắn bản chất khổ hạnh của hắn nên đến năm Romeo mười sáu tuổi, hắn đã khước từ mọi của cải vật chất và không chịu đi lễ nhà thờ. Và bây giờ, vào năm hai mươi ba tuổi, chẳng hiểu sao hắn lại nảy ra cái ý nổi loạn ghê gớm là ám sát Giáo hoàng? Hắn bị một sự mê tín kinh hãi luôn ám ảnh. Lúc còn nhỏ, một hồng y giáo chủ mà hắn căm ghét đã làm lễ kiên tín cho hắn. Romeo thường bị ám ảnh cái mũ màu đỏ báo điềm gở của vị Hồng y Giáo chủ nọ rất giống màu lửa hun ở dưới địa ngục.
Do đó, hình ảnh lửa hun nơi địa ngục ấy cứ khắc sâu dần trong tâm trí hắn theo từng buổi đi lễ, Romeo tự chuẩn bị cho bản thân để gây một tội ác khủng khiếp làm hàng ngàn người sẽ phải nguyền rủa tên tuổi hắn, rồi người ta sẽ biết rõ tên thật của hắn. Hắn sẽ bị bắt. Hắn đã trù tính như vậy. Nhưng lại vào dúng lúc hắn, Romeo, được tôn sùng là vị anh hùng đã ra tay cứu giúp làm thay đổi trật tự xã hội tàn ác hiện đang tồn tại. Những điều bỉ ổi kéo dài suốt trăm năm qua sắp được tẩy rửa sạch tinh. Nhưng nếu ngược lại, Romeo mỉm cười thầm nghĩ. Hàng thế kỷ trước đây, vị Giáo Hoàng đầu tiên được khoác cái tên “Innocent” (2) đã ban bố sắc lệnh cho phép tra tấn hành tội và ra rả truyền bá niềm tin thực sự và cứu rỗi những linh hồn dị giáo.
Nhà thờ sắp phong thánh cho vị Giáo chủ mà Romeo sẽ giết, điều đó càng khơi gợi tính châm biếm trẻ trung của hắn. Hắn sẽ dựng lên một vị thánh mới. Hắn vô cùng căm ghét họ, tất cả các vị giáo chủ đó. Những vị Innocent IV, Giáo chủ Pius, Giáo chủ Bennedid, ôi, quá nhiều các vị thánh, các vị này cóp nhặt của cải, các vị này đàn áp niềm tin thực sự của con người được tự do lựa chọn, các vị này dùng phép thuật ngu dân và lời lăng nhục gay gắt gây khủng hoảng niềm tin để khoe trương tài cán che giấu những nỗi bất hạnh trên đời.
Hắn, Romeo, một trong số Một Trăm Đầu Tiên của Đức Chúa của Bạo Lực sẽ vạch trần cái trò ma thuật thô bạo ấy. Một Trăm Đầu Tiên này được gọi một cách thông tục là bọn khủng bố, toả ra khắp các nước Nhật Bản, Đức, Italia,Tây Ban Nha... Kể cũng lạ là không hề thấy một tên nào trong số Một Trăm Đầu Tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ. Tại cái đất nước dân chủ này, trong chiếc nôi của tự do này chỉ toàn thấy những nhà cách mạng trí thức hễ thấy máu đổ là mặt mày tái mét. Như vậy biết kiếm đâu ra kẻ đánh bom các toà cao ốc đã xua hết mọi người rời ra ngoài, biết kiếm đâu ra kẻ cho rằng thông dâm công khai ngay tại trên bậc thềm cửa nhà là một hành động chống đối mang tính duy tâm. Chúng thật đáng khinh. Do đó, không một tên người Hoa Kỳ nào dám ra nhập vào nhóm Một Trăm Đầu Tiên là điều chẳng lấy gì phải ngạc nhiên.
Romeo tạm bứt khỏi dòng suy nghĩ mơ mộng. Hắn chẳng rõ quái quỷ thế nào mà lại phải là một trăm. Có thể năm chục hoặc sáu chục cũng được chứ sao, đây chẳng qua chỉ là một con số tượng trưng. Nhưng, những điều tượng trưng như vậy mới tập hợp được quần chúng và lựa chọn ra được những người thích hợp. Điều duy nhất, hắn, Romeo, thực sự hiểu rõ: hắn là một trong số Một Trăm Đầu Tiên, cũng như Yabril, bạn và kẻ sẽ hỗ trợ hắn.
Một trong số cơ man nhà thờ ở Rome đang kéo chuông. Gần sáu giờ tối Ngày Thứ Sáu Thánh thiện... Một tiếng nữa Yabril sẽ tới để xem xét, kiểm tra lại toàn bộ các bước trong chiến dịch phức tạp này. Kẻ giết Giáo hoàng có thể sẽ là kẻ đi một nước cờ rất vẻ vang, nên cả một loạt hành động phiêu lưu trào tới kích thích cái đầu lãng mạn của Romeo.
Yabril là tên đàn ông duy nhất không hề run sợ Romeo, cả thể xác lẫn tinh thần. Gã biết rõ những trò
gian dối của các nhà cầm quyền, những bộ mặt đạo đức giả của các nhà chức trách do luật pháp dựng lên, những mối nguy hiểm do tính lạc quan của những kẻ cuồng tín gây nên, những sơ suất bất ngờ về niềm tin thậm chí cả ở những tên khủng bố mù quáng nhất. Nhưng điều nổi bật nhất của Yabril thể hiện rõ ở điểm gã là một tài năng hiếm có trong cuộc chiến tranh cách mạng. Gã coi khinh lòng nhân từ tầm thường và tình thương hại ấu trĩ gây mủi lòng người. Yabril chỉ có một mục tiêu duy nhất: giải phóng tương lai.
Do đó Yabril tàn nhẫn hơn Romeo nhiều. Romeo giết hại người dân vô tội, bất hiếu với bố mẹ và phản bội bè bạn, giết viên luật sư đã từng chở che bảo vệ hắn. Nhưng có lần Yabril bảo hắn: “Nếu mày không dám liệng một trái bom vào vườn trẻ thì mày chưa phải là một kẻ khủng bố thực sự”.
Romeo đã đáp:
- Cái đó thì tao chịu.
Nhưng Romeo lại có thể giết chết một vị Giáo hoàng.
Yabril đến chỗ Romeo. Gã thận trọng bước trên đường phố Rome. Nhưng thực ra mọi chuyện thực sự phụ thuộc vào sự an toàn trong nội bộ, vào lòng trung thành của các chiến sĩ, tính trọn vẹn của Một Trăm Đầu Tiên. Nhưng cả bọn chúng lẫn thậm chí Romeo đều không biết quy mô đầy đủ của nhiệm vụ.
Yabril là một tên Ả Rập dễ bị ngộ nhận là một tên người Sicily, như trường hợp nhiều tên Ả Rập khác. Mặt gã mỏng, da sẫm màu, nhưng phía dưới mặt, cằm và hàm bạnh, thô hơn, tựa hồ như được đắp thêm xương. Khi nhàn rỗi, gã để râu mọc dài để che giấu nét thô kệch. Nhưng vào những lúc làm nhiệm vụ, gã cạo sạch râu. Hệt như thần chết để lộ bộ mặt thật trước đối phương.
Ánh mắt Yabril màu nâu nhạt, tóc điểm vài lọn màu xám và nét thô kệch ở cằm được lặp lại qua bộ ngực và đôi vai nở nang của gã. Chân gã dài bù đắp cho thân hình ngắn cũn và che giấu sức mạnh tiềm tàng của Yabril. Nhưng không có gì có thể che đậy được vẻ thông minh lanh lợi trong ánh mắt gã.
Yabril ghét cay ghét đắng toàn bộ quan niệm của Một Trăm Đầu Tiên. Gã cho rằng đấy là mánh lới tuyên truyền hợp thời, từ bỏ về mặt hình thức thế giới vật chất. Những anh chàng còn mài đũng quần trên ghế các trường đại học như Romeo thì quá lãng mạn.
Yabril nhận những món tiền bảo trợ của các công ty dầu của Anh, Hoa Kỳ và Hà Lan, tiền của các cơ quan phản gián Nhật, tiền công của CIAthanh toán cho các vụ thủ tiêu tối mật. Nhưng đấy chỉ là vào cái thời xa xôi mới bước chân vào nghề.
Bây giờ gã sống đàng hoàng, không khổ hạnh, vì dẫu sao gã đã có thời phải sống cuộc đời của kẻ nghèo khó rồi. Gã thích uống rượu ngon và sành ăn, thích trọ tại các khách sạn sang trọng. Gã chẳng ưa mối tình thơ mộng. Gã hoàn toàn chẳng sợ chết và run sợ trước những đau đớn về thể xác.
Mọi việc đều bố trí ổn cả. Người của Romeo đã sẵn sàng. Ngày mai, nhóm của Yabril sẽ tới Rome, hai nhóm sẽ trú tại hai ngôi nhà an toàn tách biệt, chỉ nhóm trưởng mới gặp nhau trao đổi. Yabril biết rằng đây là giờ phút trọng đại. Chủ Nhật Phục Sinh sắp tới và ngay tiếp sau đấy sẽ có một cuộc sáng tạo ngời sáng.
Yabril tới địa điểm an toàn của Romeo lúc trời xẩm tối. Toà nhà bốn tầng cũ có sân rộng và tường đá bao quanh. Tầng trệt là những căn hộ của mấy người ủng hộ bọn chúng, họ kiểm soát toàn bộ toà nhà. Một trong ba phụ nữ thuộc nhóm của Romeo mở cửa mời Yabril vào. Ả có dáng người mảnh khảnh, mặc quần gin và áo sơ mi xanh lửng cổ áo mở phanh để hở ngang ngực. Ả không mặc nịt vú nên ngực phẳng lì. Trước đây ả từng cùng Yabril tham gia một chiến dịch. Gã không ưa ả, nhưng gã rất ngại tính tàn bạo của ả. Hai bên đã có lần to tiếng tranh cãi và ả chẳng chịu làm lành.
Tên ả là Annee. Ả để mái tóc màu huyền của ả theo kiểu Prince Valiant, song chẳng thể tôn nét mặt rắn rỏi, thô kệch, nhưng buộc người ta phải chú ý tới ánh mắt nhìn giận dữ như xoáy vào tim can, thậm chí cả Romeo và Yabril cũng nhận thấy như vậy. Ả chưa được giải thích rõ toàn bộ nhiệm vụ nhưng qua nét mặt của Yabril ả biết rằng đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Annee khẽ nhếch mép cười, chẳng nói một lời, rồi khi Yabril đã bước vào, liền đóng cửa lại.
Yabril cau mày trước cảnh bừa bộ trong nhà. Đĩa, cốc bẩn, thức ăn thừa vứt lung tung nơi phòng khách, sàn nhà đầy báo chí. Nhóm Romeo gồm bốn tên đàn ông và ba phụ nữ, toàn người Italia. Phụ nữ không chịu dọn dẹp, các ả cho rằng mình tới đây là để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt chứ không phải là
một nàng hầu. Còn cánh đàn ông, đều là sinh viên đại học, hãy còn trẻ nên vẫn giữ nếp phụ nữ phải chăm sóc đàn ông như các bà mẹ Italia yêu quý của chúng đã lo toan cho bố chúng, đồng thời chúng còn cho rằng sau khi rút sẽ có người đến dọn dẹp sạch sẽ gọn gàng. Sự thoả hiệp không nói thành lời được chấp nhận qua đống rác khuất mắt trông coi. Một sự thoả hiệp chỉ làm mỗi mình Yabril nổi cáu.
Gã bảo Annee:
- Cô sống như lợn ấy!
Annee đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn như ước chừng gã và đáp:
- Tôi chẳng phải là nàng hầu.
Và thế là Yabril liền nhận ra ngay giá trị của ả. Ả chẳng sợ gã cũng như bất kỳ một tên đàn ông, mụ đàn bà nào. Ả là một kẻ thực sự cuồng tín. Ả sẵn sàng chấp nhận chịu cảnh trói cọc thiêu sống.
Romeo từ căn hộ gác trên chạy vội xuống, trông hắn thật hào hoa và đầy sức sống nên Annee sụp ánh mắt xuống. Hắn ôm chầm Yabril, vẻ thực sự vui mừng, rồi kéo Yabril xuống sàn dưới nhà. Hai tên ngồi trên chiếc ghế dài nhỏ bằng đá. Khi trời về đêm thoảng mùi hoa xuân, rộn những tiếng thì thầm khẽ gọi nhau và trò chuyện của hàng ngàn hành hương đang đi trên các đường phố ở Lenten Rome. Nghe rõ nhất vẫn là tiếng hàng trăm quả chuông gióng giả đón Ngày Chủ Nhật Phục Sinh sắp tới.
Bóng đèn điện trên các bức tường bao sân toả sáng lờ mờ, nhưng mặt hai tên vẫn hoà vào bóng đêm. Hai tên ngồi bàn bạc trên hai giờ liền về từng chi tiết của nhiệm vụ được giao. Romeo hút thuốc lá liên tục.
Đúng hôm Thứ Sáu Thánh Thiện ấy, Tổng thống Francis Xavier Kennedy triệu tập bộ tham mưu của mình và Phó Tổng thống tới để thông báo cho họ những tin tức hoàn toàn chẳng vui chút nào.
Tổng thống gặp họ tại Yellow Oval Room trong Nhà trắng, căn phòng ông rất ưng, rộng hơn và đầy đủ tiện nghi hơn Oval Office, tuy nổi danh hơn. Yellow Room trông giống như một phòng khách hơn và họ có thể ngồi thoải mái uống trà của Anh.
Mọi người ngồi đợi Tổng thống và họ đều đứng dậy khi thấy ông đi giữa đám vệ sĩ đặc biệt bước vào phòng. Kennedy ra hiệu bảo mọi người ngồi xuống, rồi quay sang ra lệnh cho đám vệ sĩ đứng đợi ở ngoài phòng. Ông hơi khó chịu về hai điểm. Thứ nhất, theo nghi thức, đích thân Tổng thống ra lệnh cho người bên An ninh đứng đợi ở ngoài phòng và thứ hai, Phó Tổng thống phải tỏ vẻ cung kính Tổng thống.
Kennedy khó chịu khi Phó Tổng thống là một phụ nữ và sự lịch sự về mặt nhà nước đã gạt loại sự lịch sự về mặt xã hội. Kennedy càng thấy khó xử khi Phó Tổng thống lại là bà Henlen Du Pray, nhiều hơn ông ta mười tuổi nhưng vẫn rất xinh đẹp và là một chính khách, nhà hoạt động xã hội tuyệt vời. Tất nhiên, đấy là những lý do ông đã lựa chọn bà làm phó cho mình, bất chấp sự phản đối của các nhân vật quan trọng trong Đảng Dân chủ.
- Trời ơi, Helen. – Francis Kennedy bảo: - Thôi, chị đừng đứng dậy mỗi khi tôi bước vào phòng nữa.
Bây giờ tôi sẽ rót trà mời mọi người để bày tỏ sự khiêm tốn của mình.
- Tôi muôn được bày tỏ lòng biết ơn của mình – Helen Du Pray nói. – Tôi cho rằng ông triệu tập Phó Tổng thống đến họp cùng bộ tham mưu của mình hẳn để có người lo việc bày bàn.
Cả Tổng thống và Phó Tổng thống đều cười. Bộ tham mưu ngồi yên không cười.
Romeo ngồi hút nốt điếu thuốc tại chỗ tối trong sân. Qua bức tường ấy, hắn nhìn thấy vòm mái nhà thờ lớn Rome. Sau đó, hắn bước vào nhà. Đã đến lúc phải giải thích rõ nhiệm vụ cho người của hắn.
Annee phụ trách bảo quản giữ vũ khí. Ả mở chiếc hòm lớn lấy vũ khí và đạn dược ra phân phát. Một tên thanh niên trải chiếc khăn trải giường bẩn xuống sàn lấy chỗ để Annee bày dầu và giẻ lau súng. Bọn chúng vừa lau chùi súng ống vừa nghe Romeo giải thích. Bọn chúng đã nghe, đã hỏi và diễn tập suốt bốn tiếng liền. Annee phân phát áo quần mặc khi làm nhiệm vụ, thấy quần áo ngồ ngộ, bọn chúng trêu chọc nhau. Cuối cùng chúng ngồi ăn những món do Romeo và mấy tay thanh niên nấu. Chúng uống rượu vang mới đầu xuân để chúc mừng thắng lợi, rồi trước khi về phòng riêng, mấy tay còn ngồi đánh bài suốt một tiếng đồng hồ. Chúng chẳng cử người gác. Chúng khoá chặt cửa phòng và mang theo vũ khí vào giường. Tuy vậy, bọn chúng cũng hồi hộp mất ngủ.
Quá nửa đêm, Annee đến gõ cửa phòng Romeo. Hắn đang đọc sách. Hắn mở cửa mời ả vào, ả vớ luôn cuốn Anh em nhà Karamazov ném xuống sàn và nói, giọng khinh khỉnh:
- Lại đọc cái của nợ này?
Romeo nhún vai, mỉm cười đáp:
- Đọc cũng thấy hay hay, tính cách nhân vật đánh đúng cái chất Italia của tôi.
Chúng vội cởi quần áo và nằm ngửa trên tấm khăn trải giường bẩn. Cơ thể chúng cứ căng ra không phải vì bị kích thích tình dục mà vì một nỗi hãi hùng bí hiểm nào đấy. Romeo trừng trừng nhìn trần nhà còn ả Annee nằm nhắm chặt mắt. Ả nằm bên trái hắn và dùng tay phải nhẹ nhàng mơn hắn. Đôi vai trần của chúng kề sát nhau còn cơ thể tách xa. Khi ả thấy Romeo đã bị kích thích, ả vẫn dùng tay phải mơn tiếp hắn còn tay trái ả tự mơn bản thân. Động tác của ả chậm rãi, đều đều, làm Romeo định vuốt ve bộ ngực nhỏ của ả, nhưng ả nhăn mặt như một cô bé gái, mắt vẫn nhắm chặt. Lúc này ả mơn hắn mạnh hơn, miết chặt hơn. Annee mở mắt ra và oằn người quay về phía Romeo như muốn hôn hắn, nhưng ả chỉ vùi đầu vào ngực hắn cho đến lúc cơ thể ả bớt run rẩy. Sau đó, ả ngồi dậy, với bao thuốc lá và bật lửa của Romeo đặt trên bàn ngủ bằng đá hoa, lấy một điếu châm hút.
Romeo vào buồng tắm vò khăn mặt, rồi quay ra lau tay Annee và lau chùi người hắn. Sau đó hắn đưa khăn để ả chùi.
Bọn chúng đã sống như vậy trong lần thi hành một nhiệm vụ khác, Romeo biết rằng đây là cách âu yếm duy nhất ả chịu thừa nhận. Ả quá tự hào về tính độc lập của mình, do đó dù thế nào, ả cũng không chịu để một tên đàn ông ả không yêu được phép đi vào ả. Những gì ả vừa làm chẳng qua là để thoả mãn nhu cầu mà chẳng vi phạm quan niệm của ả về tính độc lập.
Romeo quan sát vẻ mặt Annee. Nét mặt ả lúc này thật nghiêm nghị, ánh mắt chẳng còn quá kiêu căng. Ả còn quá trẻ, Romeo thầm nghĩ, tại sao ả lại trở thành hung dữ như vậy trong một thời gian ngắn?
- Đêm nay cô muốn ngủ lại đây với tôi không, chỉ để cho có bạn thôi? – Romeo hỏi. Annee giụi tắt điếu thuốc và đáp:
- Ồ, không đâu. Việc gì tôi phải muốn vậy? Cả hai chúng ta đều đã thoả mãn rồi, - nói xong Annee đứng dậy mặc áo xống.
Romeo vui vẻ bảo:
- Ít ra cô cũng nên nói đôi lời dịu dàng trước khi ta chia tay.
Annee đứng lại giây lát bên ngưỡng cửa, rồi quay trở vào. Romeo đã thoáng nghĩ ả sẽ lại bên giường. Ả mỉm cười, lần đầu tiên hắn thấy ả là một cô gái trẻ đáng yêu. Nhưng ả đứng khựng lại nhón chân lên và bảo:
- Romeo, Romeo, vì đó là anh, đúng không Romeo? - Ả để một ngón tay cái lên mũi chế nhạo hắn rồi bước ra khỏi phòng.
Francis Xavier Kennedy được bầu làm Tổng thống là một điều kỳ lạ trong đời sống chính trị Hoa Kỳ. Ông đã được bầu là nhờ phép nhiệm màu do tên tuổi và tài bẩm sinh về diện mạo và trí tuệ tuyệt vời tạo dựng lên, tuy trên thực tế ông chỉ được bầu một nhiệm kỳ duy nhất vào Thượng nghị viện trước khi được bầu làm Tổng thống.
Francis Kennedy là một chàng trai giỏi về luật, hai mươi tám tuổi là giáo sư ở Harward. Sau đó, ông tổ chức hãng luật sư riêng của mình tham gia những cuộc vận động lớn đòi hỏi mở rộng tự do trong chính phủ và khu vực buôn bán tư nhân, hãng luật sư của ông không kiếm được nhiều tiền, chẳng quan trọng, vì ông được thừa kế một gia tài khá lớn, nhưng hãng đem lại cho ông nhiều vinh quang. Ông tham gia những cuộc vận động đòi quyền cho những người thiểu số và phúc lợi về kinh tế cho những người tàn tật, ông bảo vệ những người không nơi nương tựa.
Kennedy đã cùng vợ con đi khắp nơi trong nước để vận động được bầu làm Tổng thống. Ông tuyên bố một cam kết mới mang tính xã hội với nhân dân Hoa Kỳ. Điều gì bắt một dân tộc văn minh phải chịu đựng? Ông hỏi họ. Đó là bản hợp đồng giữa người cai trị và kẻ bị cai trị. Chính phủ phải hứa đảm bảo an toàn ở nơi công cộng, hứa không để người dân phải chịu những thử thách gay go về kinh tế, phải hứa đảm bảo cho từng người dân được quyền và có điều kiện theo đuổi mơ ước của bản thân nhằm đem lại niềm vui hạnh phúc trong cuộc sống. Và sau đó, chỉ sau đó, kẻ bị cai trị mới buộc phải tuân thủ những luật pháp chung đảm bảo nền văn minh. Và Kennedy đề xuất một cam kết bất khả xâm phạm mang tính xã hội là toàn bộ những vấn đề lớn của xã hội Hoa Kỳ phải được đưa ra trưng cầu ý dân hơn là do Quốc hội, do Toà Thượng thẩm hoặc do Tổng thống quyết định. Ông hứa là sẽ loại trừ được tội ác. Ông hứa là sẽ xoá được cảnh nghèo đói - gốc rễ của tội ác vì tội ác nằm trong chính bản thân sự nghèo đói. Ông hứa đưa ra một chương trình đảm bảo chăm sóc sức khoẻ toàn dân và chế độ bảo hiểm xã hội thực sự có khả năng để người lao động được có cuộc sống đảm bảo khi về hưu. Để bảo đảm lời mình đã hứa và tự mình san bằng sự giàu có của chính bản thân, ông tuyên bố trên vô tuyến rằng sẽ trích bốn chục triệu đô la tiền túi trao tặng Bộ tài chính Hoa Kỳ. Buổi lễ trao tặng công khai hết sức long trọng này đã được tường thuật trong bản tin của tất cả các đài phát vô tuyến trên toàn quốc. Hành động cao đẹp của Francis Kennedy đã in sâu đậm trong tâm trí của mọi cử tri.
Ông bay tới khắp các thành phố lớn trong nước và chiếc xe ô tô của ông chạy lắc lư trên các nẻo đường về những tỉnh nhỏ. Vợ và con gái cùng đi với ông ta và vẻ xinh đẹp của vợ và con đã tôn thêm ông, ông áp đảo ý thức của mọi người. Ba cuộc tranh luận của ông với ứng cử viên Tổng thống thuộc phái Cộng hoà đã giành thắng lợi lớn. Tài trí, sự thông minh và sức trẻ tràn đầy của ông đã áp đảo đối thủ. Chưa một vị Tổng thống nào bước vào vòng đấu của cuộc bầu cử lại chiếm được lòng tin rộng khắp như ông. Ông đã chinh phục được mọi thứ, trừ thiên mệnh. Vợ ông bị chết vì ung thư trước khi ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống.
Fracis Xavier Kennedy cố nén nỗi đau riêng trong lòng để tiến hành bước đầu tiên trong chương trình của mình. Suốt quá trình bầu cử, ông đã đi một bước táo bạo về chính trị là lựa chọn trước những người giúp việc mình để cử tri xác nhận họ. Ông đề cử Oddblood Gray, một nhà hoạt động tích cực người da đen, là người liên lạc trực tiếp của ông với Quốc hội về những vấn đề nội bộ trong nước. Ông đã tuyển chọn một phụ nữ giúp mình trong việc điều hành và có thể đề xuất những quyết định về mặt chính trị, do đó, người này sẽ có chức năng như một thành viên tại ban tham mưu. Còn những người được đề cử khác đều theo đúng quy ước hơn. Và chính bộ tham mưu này đã hỗ trợ ông giành được thắng lợi bước đầu, giúp ông xem xét lại những luật Bảo hiểm xã hội tạo điều kiện để người lao động yên tâm có đủ tiền sinh sống khi về hưu. Kinh phí về mặt tài chính để làm nền tảng cho việc xem xét lại này lấy từ những khoản lợi nhuận của các tập đoàn khổng lồ của Hoa Kỳ, chính vì vậy họ liền trở thành kẻ thù không đội trời chung với ông.
Nhưng sau thắng lợi ban đầu, Kennedy xem ra bị hẫng mất đà. Luật dự thảo của ông để nhân dân có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý kiến về những vấn đề lớn đang còn phải tranh cãi, cũng như lời kêu gọi của ông về kế hoạch bảo hiểm sức khoẻ toàn dân đã bị Quốc hội không phê chuẩn. Và bản thân Kennedy đã không còn đủ ý chí để đương đầu phá vỡ bức tường đá do Quốc hội dựng lên cản ông. Tuy Kennedy và
bộ tham mưu ở Nhà trắng của ông đã chiến đấu cực kỳ dũng cảm, nhưng các kế hoạch do ông đề ra ngày một tan vỡ tơi bời.
Ông tức giận một cách tuyệt vọng khi biết rằng cuộc chiến đấu sẽ bị thất bại vào năm cuối nhiệm kỳ Tổng thống của ông. Francis Xavier Kennedy biết rằng mục đích của mình đúng đắn, ông đã đứng về phía tả, ông nâng được tinh thần của dân trí, diễn biến hành động của ông được tiến hành một cách thông minh nhất. Nhưng lúc này ông nhận thấy rằng sự thông minh và đạo lý chẳng có trọng lượng so với thủ pháp chính trị.
Tổng thống Kennedy đợi khi mọi người trong bộ tham mưu tối cao của mình đã được phục vụ xong, mới lên tiếng nói, giọng chân thành:
- Tôi không thể chạy đua trong nhiệm kỳ thứ hai, - sau đó, ông nhìn Phó Tổng thống và nói tiếp: - Helen, tôi muốn chị chuẩn bị cho cuộc vận động bầu cử Tổng thống lần này.
Ai nấy đều lặng người, nhưng Helen Du Pray mỉm cười với Tổng thống. Nụ cười ấy là một thứ vũ khí chính trị cực kỳ sắc bén mà mọi người đang có mặt trong phòng đều biết rõ. Bà ta đáp:
- Anh Francis này, tôi cho rằng không có mặt tôi ở đây, các cố vấn của anh sẽ xem xét lại kỹ hơn quyết định có hay không tham gia tiếp cuộc vận động bầu cử. Trước khi rời khỏi phòng anh cho phép tôi được trình bày đôi lời. Theo như tôi thấy, vào thời điểm đặc biệt này, anh xem ra có vẻ nản chí lắm đấy. Nhưng tôi chẳng có khả năng xoay chuyển tình thế khá hơn khi cho rằng mình có thể lại trúng cử. Theo tôi, anh nên kiên trì hơn. Nhiệm kỳ thứ hai của anh sẽ có hiệu quả hơn.
Tổng thống Kennedy khó chịu đáp:
- Helen, chị cũng biết rõ như tôi rằng vị Tổng thống của Hoa Kỳ có nhiều đích trong nhiệm kỳ thứ nhất hơn nhiệm kỳ thứ hai.
- Đúng trong đại đa số trường hợp, - Helen Du Pray đáp: - Nhưng có thể chúng ta sẽ có một hạ nghị viện khác trong nhiệm kỳ thứ hai của anh. Và xin phép anh cho tôi được trình bày dựa theo quan điểm của chính bản thân tôi. Là Phó Tổng thống chỉ trong một nhiệm kỳ, tôi ở tư thế thấp kém hơn nếu được tiếp tục giữ cương vị của mình trong nhiệm kỳ thứ hai. Sự hỗ trợ của anh trong hai nhiệm kỳ Tổng thống sẽ hữu hiệu hơn là của một vị Tổng thống bị chính Quốc hội ngả theo Đảng Dân chủ của mình hạ bệ.
Khi thấy Helen Du Pray cầm tập hồ sơ của bà chuẩn bị rời khỏi phòng, Francis Kennedy liền bảo: - Chị chẳng nên rời khỏi phòng làm gì.
Helen Du Pray dịu dàng mỉm cười với mọi người và nói:
- Tôi tin chắc rằng các vị tham mưu của anh sẽ trao đổi thoải mái hơn khi không có tôi, - nói xong bà rời khỏi Yellow Oval Room.
Bốn người đàn ông quây quần bên Kennedy đều ngồi im lặng. Họ là những người phụ tá rất thân cận của ông, Kennedy đã đích thân bổ nhiệm họ và họ đã không phụ lòng tin của ông. Tổng thống như Cyclops (3) kỳ lạ có một bộ óc và bốn tay. Bộ tham mưu tối cao là bốn tay của ông. Họ cũng đều là những người bạn tốt nhất của ông, và sau khi vợ qua đời, họ là những người duy nhất được coi là người trong gia đình.
Helen Du Pray khép chặt cửa sau lưng mình mấy người đàn ông liền đặt ngay ngắn tập tài liệu của họ lên bàn và ngồi uống trà, ăn bánh xăng uých.
Eugene Dazzy, phụ trách bộ tham mưu của Tổng thống vô tình nói:
- Có lẽ Helen là người khéo nhất trong việc cai quản này.
Kennedy mỉm cười với Dazzy là người ưa thích phụ nữ xinh đẹp và bảo:
- Euge, thế anh nghĩ sao? Anh cho rằng tôi còn đủ kiên nhẫn và đeo đuổi tiếp cuộc vận động bầu cử à?
Mười năm trước, khi lần đầu tiên Francis Kennedy bước vào vũ đài chính trị, Eugene Dazzy đứng đầu một công ty máy tính lớn. Ông ta là một kẻ gặm nhấm, một kẻ có thể nuốt tươi các công ty đối đầu, nhưng ông xuất thân từ một gia đình nghèo khó, nên vẫn tin vào công lý qua cảm giác thực tiễn hơn là lý tưởng lãng mạn. Ông ta tin chắc rằng tập trung tiền bạc vực mạnh quyền lực ở Hoa Kỳ thì kết quả sẽ đi đến chỗ thủ tiêu dân chủ thực sự. Và khi Kennedy bước vào con đường chính trị đi theo ngọn cờ dân chủ xã hội thực sự, Dazzy đã tổ chức một cuộc hỗ trợ về tài chính đưa Francis Kennedy leo lên tới chức Tổng thống.
Dazzy là một con người rất ân cần, có nghệ thuật điêu luyện trong việc né tránh không gây thù chuốc hoạ với những ai có ước muốn quan trọng và nhu cầu đặc biệt là phủ nhận Tổng thống. Ông ta cúi đầu hói trên giấy tờ ghi chép, thân hình to béo của ông ta kéo căng lưng tấm áo vét may rất khéo. Ông ta nói, giọng không trịnh trọng:
- Sao lại không tham gia vận động tuyển cử? Quốc hội sẽ bảo anh cần phải làm gì và khước từ điều anh muốn làm. Mọi chuyện đâu sẽ vào đấy. Ngoại trừ chính sách đối ngoại. Trong vấn đề này anh sẽ thấy khá thú vị. Thậm chí còn hay hay nữa.
“Ta thử đi sâu vào vấn đề xem sao nhé! Theo chỉ tiêu, quân đội của ta chiếm năm chục phần trăm, chúng ta đã giáo dục quá tốt các chàng trai của chúng ta, họ hết lòng yêu đất nước. Chúng ta có kỹ thuật, nhưng chẳng ai muốn mua hàng của chúng ta. Cán cân thanh toán của ta đã đi đến chỗ tuyệt vọng. Anh chỉ còn con đường tiến về phía trước. Do đó anh ra tái cử và sống thư giãn, có được bốn năm sống thoải mái. Anh còn muốn quái quỷ gì nữa, đấy không phải là một công việc dở và tiêu tiền thoải mái, - Dazzy mỉm cười và khuơ tay tỏ vẻ ta đây xem ra cũng không phải là kẻ không biết tiêu xài.
Bốn người đàn ông chăm chú quan sát Kennedy, tuy họ vẫn có vẻ vô tình dửng dưng. Chẳng ai nhận thấy Dazzy hơi quá đà thiếu tôn ti trật tự, tính khôi hài lồng trong nhận xét của ông ta đã từng cổ vũ
Kennedy suốt ba năm qua.
Arthur Wix, cố vấn an ninh quốc gia, là một con người lực lưỡng có khuôn mặt của một kẻ tỉnh lớn... bố là người Do Thái, mẹ người gốc Italia. Ông ta rất dí dỏm, nhưng vẫn nể đôi chút Kennedy.
Mười năm trước, khi vận động tranh cử lần đầu tiên vào Thượng nghị viện, Wix đã gặp Kennedy. Lúc đó, ông ta là một người theo phái tự do thuộc vùng ven biển phía Đông, giáo sư dạy đạo đức học và khoa học quản lý nhà nước tại trường đại học tổng hợp Columbia. Ông ta cũng là một người rất giàu có, coi khinh tiền bạc. Quan hệ giữa hai người ngày một khăng khít gắn bó và rồi trở thành bạn bè của nhau, tình bạn của họ dựa trên phú bẩm về trí tuệ.
Kennedy cho rằng Arthur Wix là người thông minh nhất mình từng gặp. Còn Arthur lại nghĩ rằng Kennedy là người có đạo lý nhất trên vũ đài chính trị. Đây không phải – không thể - là cơ sở nền móng của một tình bạn nồng nhiệt, nhưng nó đã tạo dựng nền móng cho mối giao bang của lòng tin.
Là cố vấn an ninh quốc gia, ông ta thấy phải giữ lời ăn giọng nói thận trọng hơn những người khác. Ông nói, giọng hoàn toàn có sức thuyết phục nhưng vẫn mang âm điệu của New York, Wix bảo Dazzy:
- Euge có thể cho rằng mình có ngón đòn thủ sẵn, nhưng anh có thể có những đóng góp quý giá vào đường lối đối ngoại của nước ta. Chúng ta đóng vai trò đòn bẩy còn lớn hơn châu Âu hoặc châu Á đang nghĩ. Tôi thiết nghĩ anh nên tham gia ứng cử một nhiệm kỳ nữa. Dẫu sao, trong chính sách đối ngoại, Tổng thống Hoa Kỳ có quyền lực của một nhà vua.
Kennedy quay sang phía người ngồi bên trái mình, Oddblood “Otto” Gray là người trẻ nhất trong bộ tham mưu của Kennedy, mới ra trường được mười năm. Ông ta xuất thân từ phong trào cánh tả da đen, qua Harward và Rhodes Scholarship. Trông ông ta bệ vệ, hồi còn đi học, ông ta là một học sinh xuất sắc và có tài hùng biện. Kennedy đã bị một kẻ xúi giục bạo lực có tác phong nhã nhặn bẩm sinh và tài ngoại giao tấn công, người này có khả năng thuyết phục không cần phải đe dọa. Rồi sau đó, trong điều kiện bạo lực ở New York, Kennedy đã chiếm được lòng ngưỡng mộ và niềm tin của Gray. Kennedy đã sử dụng tài khéo léo hợp pháp đặc biệt, trí thông minh, sức hấp dẫn và đầu óc không hề mang thành kiến chủng tộc của ông ta để gỡ tình thế.
Do đó cả hai người đã chiếm được lòng ngưỡng mộ lẫn nhau.
Sau chuyện ấy, Oddblood Gray đã chèo chống hỗ trợ Kennedy trong sự nghiệp chính trị và cố thuyết phục Kennedy tham gia cuộc vận động chạy đua vào Nhà trắng. Kennedy đã chỉ định Gray vào bộ tham mưu của mình, đảm nhiệm liên lạc với Quốc hội, đảm nhiệm việc đệ trình các dự luật dự thảo của Tổng thống để Quốc hội thông qua. Lý tưởng trẻ trung của Gray chắp cánh cho thiên tài bẩm sinh về chính trị của ông bay cao. Và trong chừng mực nào đó, tất nhiên, sự lý tưởng hóa đã phải chịu thất bại, vì ông
thực sự hiểu rõ chính phủ đã quản lý công việc ra sao, vì ông biết khi nào có thể dùng tác dụng của đòn bẩy, khi nào phải sử dụng sức mạnh tàn bạo của việc bảo trợ, khi nào né tránh, khi nào cần tế nhị rút.
- Otto, - Kennedy nhắc, - anh phát biểu đi chứ!
- Buông rơi, - Gray nói. – Khi vừa chớm bị thất bại.
Kennedy mỉm cười, còn mấy người kia liền phá lên cười. Gray nói tiếp:
- Anh muốn nghe tôi nói chẳng cần úp mở chứ? Tôi tán thành ý kiến của Dazzy. Quốc hội bôi bác anh, báo chí cứ nhằm mông anh thi nhau đá. Bọn vận động ở ngoài hành lang và các nhà kinh doanh lớn bóp chết những chương trình của anh. Giai cấp cần lao và trí thức có cảm giác anh phản bội họ. Và anh muốn tạo điều kiện cho bất kỳ tên khùng chết tiệt ở cái đất nước này có khả năng quật anh, đá đít anh
thêm bốn năm nữa? Theo tôi, ta rút quách tất cả rời khỏi đây thôi.
Xem ra Kennedy thấy thích thú về những lời này, những đường nét đẹp của người Ailen trên khuôn mặt ông giãn nở thành một nụ cười mỉm, còn ánh mắt xanh thêm ngời sáng.
- Nói nghe vui tệ, - Kennedy bảo, - Nhưng mà thôi, anh nói nghiêm chỉnh nghe xem sao, - Kennedy biết rằng họ cố lái ông ra tái cử do lòng tự trọng của chính bản thân họ. Không một ai trong số hộ muốn rời khỏi chốn trung tâm quyền lực này. Washington này, tòa Nhà trắng này. Là con sư tử trong rạp xiếc còn hơn hoàn toàn chẳng phải là chúa sơn lâm.
- Anh muốn tôi ra tái cử, - Kennedy nói. – Nhưng để làm gì?
Otto Gray đáp:
- Tôi đâu có được quyền muốn anh ra tái cử. Tôi tham gia bộ máy này do chỗ anh đã khẩn khoản tôi giúp đỡ nhân dân tôi. Tôi đã tin anh và hiện nay vẫn tin anh. Chúng ta đã giúp và còn giúp được nhiều hơn nữa. Chúng ta còn cả đống công việc phải làm. Người giàu lại giàu hơn lên, người nghèo lại nghèo khó hơn, chỉ anh mới có khả năng thay đổi điều đó. Bây giờ chẳng phải là lúc bỏ trận đánh.
Kennedy nói:
- Nhưng tôi thắng thế quái nào được? Quốc hội thực sự bị câu lạc bộ Socrates kiểm soát. Gray đưa ánh mắt say đắm và sinh động chỉ thấy ở tuổi trẻ nhìn cấp trên của mình.
- Ta chẳng nên nghĩ vậy. Cứ xem cái cách ta đã thắng sự chênh lệch ghê gớm thử coi. Ta lại có thể thắng. Và nếu thậm chí chẳng thắng đi nữa thì cứ thử sức có sao đâu?
Căn phòng im lặng giây lát do mọi người thấy ngài ngại trước sự im lặng của một người, người có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến Francis Kennedy, Christian Klee. Lúc này mọi con mắt đều đổ dồn về phía ông ta.
Tuy hai người là chỗ bè bạn thân thiết, nhưng Klee tỏ vẻ tôn kính Kennedy.
Kennedy luôn ngạc nhiên trước thái độ của Klee, vì Klee đánh giá cao vẻ hào hoa phong nhã qua con người Kennedy và biết rằng Kennedy sợ bị ám sát. Chính Klee đã khẩn khoản yêu cầu Kennedy ra tranh cử chức Tổng thống và đảm bảo an toàn cho cá nhân Kennedy và nếu Kennedy bổ nhiệm Klee giữ chức chưởng lý và phụ trách FBI lẫn Ban an ninh. Do đó, hiện nay Klee đã thực hiện nắm toàn bộ hệ thống an ninh trên đất Hoa Kỳ, nhưng Kennedy đã phải trả giá rất nặng về chính trị cho chuyện này. Kennedy đã phải nhượng bộ Quốc hội bằng việc bổ nhiệm hai quan tòa ở Tòa án Thượng thẩm và chức đại sứ ở Anh.
Lúc này Kennedy chăm chú nhìn Christian Klee và cuối cùng Klee lên tiếng:
- Anh có biết nhân dân lo ngại chuyện gì nhiều nhất trên cái đất nước này không? Họ chẳng bận tâm đến các mối quan hệ quốc tế. Họ chẳng bận tâm đến kinh tế. Họ chẳng cần biết đất quá khô cằn không trồng được nho. Tại các thành phố lớn và nhỏ, nhân dân lo ngại là ban đêm khi đi lại ngoài đường phố thì không thể tránh khỏi bị đấm vỡ mồm. Ban đêm nằm ngủ trên giường họ cứ nơm nớp lo bị kẻ trộm và quân giết người đến hỏi thăm.
Chúng ta hiện đang ở trong tình trạng vô chính phủ. Chính phủ không có khả năng bảo vệ từng công dân. Phụ nữ lo bị hãm hiếp, đàn ông sợ bị ám sát. Về mặt đạo lý chúng ta đã bị xuống cấp đại loại sánh ngang với loài thú. Kẻ giàu cướp tiền bạc ăn sống nuốt tươi nhân dân, còn bọn tội phạm sát hại tầng lớp
nghèo khó và trung lưu. Còn anh Francis, anh là một người duy nhất có khả năng nâng chúng ta lên sống một cách đàng hoàng hơn. Tôi tin là như vậy, tôi tin rằng anh có thể cứu vãn đất nước này. Chính vì vậy tôi mới bắt tay cùng làm việc với anh. Thế mà bây giờ anh lại định bỏ rơi chúng tôi, - Klee dừng lời một lát, rồi nói tiếp: - Anh nên thử sức một lần nữa xem sao, Francis. Vỏn vẹn có bốn năm thôi mà.
Tổng thống Kennedy xúc động. Ông tạ nhận thấy rõ rang cả bốn người này vẫn còn thực sự tin tưởng ông. Và tại nơi sâu thẳm đáy lòng, Kennedy biết rằng mình cố lái để họ nói lên những lời tương tự, để họ có dịp tỏ rõ niềm tin tưởng của họ vào ông để họ phải cùng chịu trách nhiệm với ông. Kennedy thật sự vui mừng mỉm cười với họ.
- Tôi thiết nghĩ ta có thể chấm dứt vấn đề được rồi, - Kennedy nói.
Họ coi như vậy là lời giải tán và trừ Christian Klee, mấy người kia rời khỏi phòng. Christian bất chợt hỏi:
- Khi nào cô Theresa sẽ về nhà nghỉ, anh Francis?
Kennedy nhún vai, đáp:
- Cháu nó đang ở Rome với anh bạn trai mới. Theresa sẽ bay về vào Chủ Nhật Phục Sinh. Như mọi khi, nó cứ làm ra vẻ chẳng hay biết gì về ngày lễ thánh.
Christian liền nói luôn:
- Tôi rất vui là cháu Theresa sẽ rời thoát địa ngục. Tôi thực sự chẳng thể bảo vệ nổi cháu bên châu Âu. Và cô nàng đinh ninh rằng bên ấy tha hồ muốn nói năng ra sao thì nói, không sợ bị tâu về đây, - Christian ngừng lời một lát rồi nói tiếp: - Nếu anh muốn ra tái cử, tốt hơn hết anh nên tránh xa cô con gái hoặc không thừa nhận cô ấy.
- Tôi không thể làm vậy được. Nếu tôi ra tái cử, tôi sẽ cần lá phiếu của người cấp tiến bênh vực bình quyền của phụ nữ.
Christian cười và nói:
- Được thôi. Bây giờ ta bàn về lễ sinh nhật của Oracle. Ông ta thực sự vui thích chờ đợi buổi lễ đó.
- Khỏi lo đi, - Kennedy nói. – Tôi sẽ tổ chức thật thịnh soạn. Lạy Chúa, già trăm tuổi rồi mà ông ta còn vui thích chờ đợi lễ sinh nhật của mình.
- Ông ta đã và đang là một nhân vật quan trọng, - Christian nói.
Kennedy cảnh giác nhìn Christian, rồi nói:
- Anh luôn say mê ông ta hơn tôi nhiều. Ông ta có lỗi lầm, sơ suất của riêng mình.
- Chắc chắn rồi, - Christian nói. – Nhưng tôi chưa thấy một người đàn ông nào kiểm soát được cuộc đời mình tài giỏi hơn ông ấy. Cuộc đời tôi thay đổi nhờ sự khuyên bảo và sự dìu dắt của ông ấy, - Christian ngừng lời một lát, rồi nói tiếp – Tối nay tôi sẽ dùng bữa tối với ông ấy, tôi sẽ nói lại với Oracle rằng buổi lễ nhất định sẽ được tổ chức.
Kennedy lạnh lùng mỉm cười, rồi bảo:
- Anh cứ yên tâm nói lại với ông ta điều ấy.
Thời gian còn lại trong ngày hôm đó, Kennedy ký tại Oval Office một số giấy tờ, rồi ngồi bên bàn làm việc và đưa mắt nhìn qua cửa sổ. Ông nhìn thấy phần trên các cổng quanh khu Nhà trắng cắm cọc thép căng dây thép gai truyền điện. Như mọi lần, ông khó chịu khi thấy mình ở gần kề ngay các đường phố và công chúng, tuy ông biết rằng việc lo ngại bị bất ngờ tấn công xem ra chỉ là ảo ảnh. Ông được bảo vệ tuyệt vời. Nhà trắng có bẩy hàng rào bảo vệ. Cứ cách hai dặm, mỗi tòa cao ốc lại có một đội bảo vệ bố trí trên các nóc nhà và các căn hộ. Trên tất cả các đường phố đổ về Nhà trắng đều có trạm lính biệt kích được trang bị vũ khí bắn cực nhanh và cực mạnh. Đặc vụ được gài vào đám hàng trăm du khách tới thăm tầng trệt Nhà trắng vào buổi sáng, chúng thường xuyên đi lại giữa các đám du khách, tham gia các câu chuyện vặt vãnh của họ, mắt luôn đảo quanh hốt hoảng. Mỗi insơ trong Nhà trắng mà những khách du lịch này được phép tham quan, sau các đoạn thừng ngăn, có bố trí đầu máy quay T.V. và hệ thống thu tiếng đặc biệt có thể ghi lại những tiếng thì thầm kín đáo. Tại mỗi góc hành lang đều đặt các bàn máy tính đặc biệt do các vệ sĩ mang vũ trang điều khiển, có thể coi như đấy là các bức rào chắn. Suốt thời gian dân chúng được phép thăm quan này, Kennedy luôn ở trên lầu tư mới được đặc biệt xây cất dùng làm khu vực ở. Trần, tường, sân khu vực này cũng được gia cố đặc biệt.
Lúc này, tại Oval Office nổi tiếng, nơi ông hãn hữu lui tới, trừ trường hợp phải ký những văn bản chính thức trong các đại lễ, Francis Kennedy được ngồi hoàn toàn một mình thư giãn thoải mái dăm ba phút. Kennedy lấy từ trong hộp giữ độ ẩm cho xì gà đặt lên bàn ra một điếu xì gà Cuba mảnh và dài, ngửi ngửi mùi dầu thuốc thoảng trên lớp lá thuốc cuốn vân vê trong đầu các ngòn tay. Ông ta xén một đầu điếu thuốc, thận trọng châm thuốc rít mạnh một hơi và đưa mắt nhìn qua các cửa sổ lắp kính lớp kính chống đạn.
Kennedy hình dung mình là chú bé chạy băng qua bãi cỏ xanh mượt qua trạm gác quét sơn trắng phía xa xa để đón hai bác Jack và Robert. Kennedy rất quý mến hai bác mình. Bác Jack thật duyên dáng, mang nhiều đặc tính trẻ nhỏ và có uy quyền lớn gây niềm tin rằng trẻ nhỏ có thể sử dụng quyền lực với toàn thế giới. Còn bác Robert thì rất nghiêm, đứng đắn nhưng thật dịu dàng và thích khôi hài. Và đến đây Francis Kennedy nghĩ, không, chúng ta đã gọi bác ấy là bác Bobby chứ chẳng phải Robert hoặc đôi lúc đã gọi bác ấy bằng cái tên đó? Francis Kennedy chẳng còn nhớ lại được nữa.
Nhưng Francis Kennedy đã nhớ rằng vào một ngày cách đây bốn chục năm, khi ông chạy ra đón cả hai bác ấy trên bãi cỏ này, mỗi người liền xốc một nách chú bé và nhấc bổng không để chân chạm đất mãi cho tới lúc vào đến Nhà trắng.
Và bây giờ Francis Kennedy đang ở cương vị trước đây của họ. Quyền lực đã làm ông lúc còn bé phát hoảng thì lúc này đã nằm trong tay ông. Thật đầy lòng trắc ẩn là kỷ niệm đó đã khơi gọi cho ông thấy sống lại với bao khổ đau và bao điều tốt đẹp cũng như bao nỗi ê chề thất vọng. Họ đã chết chẳng phải đề ông nghiền ngẫm chuyện sợ hãi phải rút chạy
Vào ngày Thứ Sáu Thánh Thiện này, Francis Kennedy không hề hay biết rằng toàn bộ sự việc này có thể bị hai tên khủng bố vô nghĩa ở Rome gây đảo lộn.
..........
Nhà tiên tri. (Chú thích trong sách là của người dịch).
Trong trắng.
(3) Người khổng lồ một mắt (Thần thoại Hy Lạp).
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Một Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện - Chủ Nhật Lễ Phục Sinh
Chương 2:
Sáng Chủ Nhật Phục Sinh, Romeo cùng người của hắn gồm bốn nam và ba nữ được vũ trang tận răng đã rời khỏi chỗ ém nấp. Trên các đường phố Rome đổ về Quảng trường St Peter, chúng đi trà trộn vào đám đông ăn mặc lộng lẫy trong ngày Lễ Phục Sinh: phụ nữ rực rỡ trong các bộ sắc phục màu tùng lam mùa xuân, đầu đội mũ các tín đồ giáo, đàn ông bảnh bao trong bộ complê màu crem, điểm một chút màu vàng cây cọ thêu hình chữ thập trên ve áo. Trẻ em ăn mặc rực rỡ hơn: các bé gái đeo găng tay và váy diềm xếp nếp, bé trai mặc bộ đồ sĩ quan hải quân thắt cravat đỏ nổi bật trên nền cổ áo sơ mi trắng phau. Người ta thấy thấp thoáng bóng các thầy tu mỉm cười trung hậu đúng vẻ của những đạo sĩ ngoan đạo.
Romeo trông giống một nhà hành hương điềm đạm, một nhân chứng thực sự đối với Lễ Phục Sinh trong buổi sáng tưng bừng của Ngày Phục Sinh. Hắn mặc bộ complê màu đen tang lễ, áo sơ mi trắng cổ cồn hồ cứng có thắt chiếc cra-vát cũng màu trắng khó phân biệt nổi với màu áo, giày đen nhưng đế cao su. Lúc này hắn cài cúc chiếc áo choàng màu lông lạc đà để che khẩu súng đeo bên người. Hắn đã luyện tập sử dụng thành thạo khẩu súng này suốt ba tháng ròng cho tới khi đảm bảo đã rút súng ra bắn thì nhất định trúng mục tiêu.
Bốn tên thanh niên quân Romeo ăn mặc theo kiểu thầy tu dòng Francis: áo dài thượt màu nâu xỉn, lưng buộc dải đai to bè, đầu cắt trọc đội mũ chóp cao. Chúng giấu kỹ lựu đạn và súng dưới lớp áo dài.
Ba phụ nữ - trong đó có Annee – ăn mặc theo kiểu nữ tu sĩ, màu đen và trắng. Chúng cũng giấu vũ khí dưới áo. Khi cần lách qua một đám đông. Annee và hai nữ tu sĩ kia tiến lên đi trước nhóm. Romeo liền bám theo chân. Bước sau Romeo là bốn tên thanh niên trong nhóm đóng giả thầy tu, chúng luôn đảo mắt nhìn quanh, sẵn sàng can thiệp nếu Romeo bị cảnh sát của Giáo hoàng chận lại.
Nhờ vậy nhóm của Romeo thuận lợi tiến về Quảng trường St. Peter, trà trộn giữa đám đông tập hợp tại đó. Cuối cùng, như những mảnh nút chai bồng bềnh giữa đại dương mênh mông của các màu sắc, Romeo cùng nhóm của hắn đến đứng mạn đầu kia quảng trường, sau lưng chúng có những hàng cột đá cẩm thạch và những bức tường đã che chắn. Roemo hơi đứng tách khỏi nhóm. Hắn quan sát chờ hiệu lệnh phát ra từ phía bên kia quảng trường, chỗ Yabril và quân của gã đang mải đính mấy bức tượng thánh nhỏ lên tường.
Yabril, ba thanh niên và ba nữ trong nhóm cẩu thả mặc áo vét rộng thùng thình. Bọn thanh niên giấu vũ khí trong khi đó bọn nữ lúi húi đính các bức tượng thánh nhỏ, các bức tượng nhỏ tạc hình Chúa Cứu thế, trong nhồi thuốc nổ, ngòi điều khiển bằng tín hiệu đài radio. Bọn chúng dùng chất kết dính rất chắc để không một kẻ tò mò nào trong đám đông có thể táy máy gỡ tượng khỏi tường. Hơn nữa các bức tượng lại rất đẹp gây ấn tượng chúng là những vật trang trí bất khả xâm phạm cho buổi Lễ Phục Sinh.
Khi đã hoàn tất mọi công việc chuẩn bị. Yabril dẫn nhóm của gã lách qua đám đông, rời khỏi Quảng trường St Peter quay về đợi bên xe tải của chúng. Gã cử một tên đến chỗ Romeo trao cho hắn chiếc radio phát tín hiệu phát hỏa khối thuốc nổ nhồi trong các bức tượng nhỏ. Sau đó Yabril ra lệnh cả nhóm lên xe mở máy cho xe thẳng ra sân bay Rome. Phải ba tiếng nữa Giáo hoàng mới xuất hiện trên bao lơn. Bọn chúng nắm chắc giờ giấc.
Trong chiếc xe tải cách biệt hoàn toàn với không khí Lễ Phục Sinh ở Rome. Yabril suy nghĩ đến toàn bộ việc luyện tập này đã được bắt đầu ra sao....
Mấy năm trước trong lần cùng làm nhiệm vụ với nhau. Romeo đã nói rằng Giáo hoàng có đội vệ sĩ hùng mạnh hơn bất kỳ nhà cầm quyền nào ở châu Âu. Yabril phá lên cười và bảo:
- Ai hơi sức đâu đi giết một Giáo hoàng? Giết Giáo hoàng khác nào giết một con rắn không có nọc độc. Một lão già bù nhìn vô dụng và cả một tá lão già vô dụng khác sẵn sàng thay thế chỗ ông ta. Những chú rể của Chúa Giêsu, một bộ gồm mười hai người nộm đội mũ đỏ. Giáo chủ chết sẽ làm thế giới này đảo lộn ra sao nào? Bắt cóc ông ta, tao nghe còn có lý, lão là một người giàu sụ nhất thế giớ. Nhưng giết lão, khác nào giết một con thằn lằn ngủ dưới nắng.
Romeo đưa ra lý lẽ của hắn và kích thích lòng tò mò của Yabril. Giáo chủ được hàng trăm triệu tín đồ công giáo trên toàn thế giới tôn kính. Và chắc chắn Giáo hoàng là biểu tượng của chủ nghĩa tư bản; giới tư sản Thiên chúa giáo châu Âu tôn sùng ông ta. Giáo chủ là một chỗ dựa lớn của nhà cầm quyền trong tòa lâu đài của xã hội này. Do đó, tất nhiên nếu Giáo hoàng bị ám sát thì đó sẽ là một cú đòn choáng váng về tâm lý đối với thế giới đối phương vì lão ta được coi là vị đại diện của Chúa trên đời. Chúa là mưu gian của kẻ giàu, là kẻ lừa dối người nghèo. Giáo hoàng là người thi hành trần tục cái quyền lực có hại đó. Nhưng những lời Romeo mới là một nửa của khái niệm. Yabril đã nâng nó lên thành quan niệm. Bây giờ chiến dịch đã có tầm cỡ làm Romeo phát hoảng còn Yabril lòng tràn đầy thích thú.
Qua sự cống hiến và lời ăn tiếng nói của Romeo Yabril không coi hắn là một kẻ khủng bố thực thụ. Yabril đã nghiên cứu lai lịch bọn khủng bố Italia. Bọn chúng đã rất thiện nghệ trong việc ám sát các nguyên thủ quốc gia.
Yabril đã có lần gặp bố mẹ Romeo. Ông bố, một lão đàn ông vô dụng, một kẻ ăn bám loài người. Thầy nào tớ nấy, lái xe, người hầu và con chó to tướng trông như một chú dê lão thường sử dụng để trêu chọc phụ nữ đi trên các đại lộ. Nhưng của đáng tội lão lại có cách cư xử đẹp. Là con lão thì chẳng thể không giống bố.
Còn bà mẹ, một vẻ đẹp khác của chế đột tư bản, hám tiền và đồ nữ trang quý, là một tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo. Bà ta ăn mặc rất đẹp, kéo theo cả một bầu đoàn thê nữ hầu, sáng nào cũng vào trong phố đi dự lễ mét. Bà ta coi như mình đã hoàn tất giai đoạn tự hành xác để hối lỗi và dành hết quãng đời còn lại cho khoái lạc. Bà ta cũng như chồng sống bê tha, không trung thực và tận tụy với Rome, đứa con trai duy nhất của họ.
Do đó cái gia đình hạnh phúc này cuối cùng đã bị trừng phạt. Ông bố, Hầu tước ở Malta, bà mẹ, một người hàng ngày chịu lễ ban thánh thể, còn đứa con trai lại là kẻ ám sát Giáo hoàng. Sự phản bội mới trớ trêu làm sao, Yabril nghĩ bụng. Romeo tội nghiệp, khi ta phản người, người sẽ điêu đứng.
Yabril đưa mắt nhìn đồng hồ đeo tay. Chỉ còn mười lăm phút nữa. Chiếc xe giảm tốc độ chạy dọc con đường cái tiến về phía sân bay.
Đã đến lúc bắt tay vào công việc. Gã thu lại toàn bộ vũ khí và lựu đạn của toàn nhóm, rồi cất vào một chiếc vali. Khi xe dừng lại cuối chặng đường. Yabril rời khỏi xe đầu tiên. Sau đó, chiếc xe dừng lại chạy tiếp thả bọn đàn em xuống bên cửa ra vào khác của sân bay. Yabril chậm rãi xách va li bước qua cửa vào sân bay, mắt dảo quanh để phát hiện bọn mật vụ. Cách trạm kiểm soát vào sân bay vài bước, gã rẽ vào cửa hàng bán tặng phẩm và hoa. Ngoài cửa có treo bảng ĐÓNG CỬA, nét chữ màu đỏ và xanh lá cây. Đấy là tín hiệu báo an toàn có thể vào cửa hàng và đấy cũng là cách đuổi khách.
Người đàn bà trong cửa hàng nhuộm tóc vàng hoe, mặt hóa trang lòe loẹt có ánh mắt nhìn thanh thản, nhưng giọng mời chào đặc biệt ấm áp. Thân hình đầy sức sống của ả được tôn lên nhờ chiếc áo dài len bó sát người. Thấy Yabril bước vào, ả liền bảo:
- Xin lỗi ông. Chắc ông đã thấy rõ tấm biển treo nơi cửa. Chẳng là hôm nay là Chủ Nhật Phục Sinh mà, - ả nói vậy, nhưng giọng nói thân ái chớ không có vẻ xua đuổi. Ả niềm nở mỉm cười.
Yabril đáp lại bằng một câu, được quy định là tín hiệu bắt liên lạc:
- Đức Chúa đã hiện về, nhưng tôi vẫn phải đi chu du buôn bán.
Ả nọ liền chạy đến bên đón chiếuc va li trên tay gã.
- Máy bay đến đúng giờ chứ? Yabril hỏi.
- Đúng giờ, - ả nọ đáp – Anh còn một tiếng nữa. Có gì thay đổi không?
- Không, - Yabril đáp, - Nhưng cô nhỡ kỹ cho rằng mọi việc đều tùy thuộc vào cô đấy, - nói xong gã rời khỏi cửa hàng. Trước đây gã chưa lần nào thấy ả và sẽ không bao giờ gặp lại ả nữa và ả cũng chỉ biết có mỗi khâu này của chiến dịch. Yabril kiểm tra lại giờ máy bay ghi trên bảng. Đúng, máy bay sẽ cất cánh đúng giờ.
Người đàn bà một trong số hội viên nữ ít ỏi của Trăm Người Đầu Tiên. Mụ được gài với tư cách chủ cửa hàng từ ba năm nay, và trong suốt thời gian này mụ đã thận trọng xây dựng quan hệ với các nhân viên và mật vụ phục vụ các khu vực ra máy bay. Mụ nắm rất vững hệ thống kiểm tra điện tử hành lý khách đi máy bay. Khi cần, nhưng rất hãn hữu sử dụng, mụ có thể đưa trót lọt mọi thứ phải chuyển. Ba năm qua mụ đã tằng tịu với tên bảo vệ và chỉ cần một cái vẫy tay của hắn mụ dễ dàng bước ra vào cửa không bị kiểm tra. Hôm nay tên bảo vệ tình nhân của mụ làm nhiệm vụ trực khu vực. Mụ đã hứa trưa nay sẽ cùng hắn ăn trưa rồi ngủ với nhau ở phòng sau cửa hàng. Cũng chính vì vậy hắn sốt sắng tình nguyện xin đi làm đúng vào Chủ Nhật Phục Sinh.
Bữa ăn trưa đã được bày sẵn ra bàn tại căn phòng sau cửa hàng khi mụ đã tống tất cả vũ khí trong va ly vào một chiếc hộp Gucci màu sắc tươi tắn dùng làm bao bì gói bọc vật mua tặng kỷ niệm. Mụ bỏ chiếc hộp vào túi bao bằng giấy màu hoa cà của cửa hàng và đợi cho tới lúc hai mươi phút trước khi máy bay cất cánh. Sau đó, mụ ôm chiếc túi bằng giấy vào lòng chứ không dám xách sự bị rách bung, mụ hốt hoảng chạy vào lối hành lang không bố trí máy dò điện tử kiểm tra. Tên người tình đang làm nhiệm vụ đã lịch sự vậy tay bảo mụ cứ việc vào khu vực ra máy bay. Mụ trìu mến cười với hắn. Vừa lên tới máy bay, cô chiêu đãi viên đã nhận ra mụ và vừa tươi cười vừa bảo:
Lại chị Livia!
Mụ đàn bà tiến về khu vực ghế dành cho khách du lịch tìm Yabril, ba tên thanh niên và ba phụ nữ trong nhóm của gã. Một ả trong nhóm chìa tay đỡ chiếc túi xách nặng. Trao xong chiếc túi của mụ liền rời khỏi máy bay. Mụ quay về cửa hàng chuẩn bị nốt bữa ăn trưa ở phòng sau.
Tên bảo vệ Faenzi là một gã đàn ông tuyệt vời mang đúng khí thế của người Italia coi mình sinh ra là để đáp ứng niềm đam mê của phụ nữ. Do đó hắn rất hào hoa phong nhã. Quan trọng hơn nữa hắn là một người có tính tình dịu dàng hoàn toàn thoả mãn được tầm vóc tài năng và những thực tế do tham vọng của họ giục giã. Faenzi mặc bộ đồng phục hàng không, trông hắn bệ vệ như một thống chế của Napoléon ngoài chiến trận: ria hắn tỉa ngắn và đẹp trông tựa chiếc mũi nghiêng nghiêng của nàng hầu đưa duyên. Ta có thể thấy rõ hắn tin rằng công việc của mình đầy ý nghĩa, một công việc quan trọng đối với quốc gia. Hắn nhìn các phụ nữ đi ngang bằng cặp mắt trìu mến và nhân từ vì hắn chở che họ. Ngay ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ làm bảo vệ sân bay, hắn đã chiếm ngay cô nàng Livia và chiếm làm của riêng mình. Thoạt đầu, hắn xử sự với cô ta lịch sự, tế nhị theo đúng phong cách một bậc tiền nhân, nhưng cô nàng đã nhanh chóng chấm dứt hạ màn kịch này thông qua những cung cách xu nịnh tán tỉnh tuôn trào như thác đổ,
dăm ba món quà tặng giá trị vượt quá khả năng túi tiền của hắn và rồi những bữa ăn tối tại cửa hàng của cô nàng. Bây giờ thì hắn yêu cô nàng, cuối cùng, có thể nói, hắn tận tụy với cô nàng như một chú chó cúc cung tôn kính vịchủ khoan dung: cô nàng là cả một nguồn gây đủ mọi thú vui.
Livia được hưởng niềm vui thú bên Faenzi. Hắn là một gã tình nhân tuyệt vời và hớn hở, đầu óc không hề mụ mẫm với những suy tư nghiêm túc. Cô nàng thích ngủ với hắn hơn với mấy thanh niên khủng bố đao súng.
Hắn được Livia rất cưng và âu yếm gọi hắn là Zonzi. Khi hắn bước vào cửa hàng, Livia liền chạy ra khóa trái cửa, rồi tiến đến bên hắn vẻ rất tình cảm và thèm muốn, nhưng lòng những thấy áy náy, Zonzi tội nghiệp, tên chống bọn khủng bố, theo dõi mọi chuyện và rồi có ngày sẽ nhận thấy và vạch trần mặt nạ của ả. Zonzi không tự kiêu hãnh về người mình đã chinh phục, cô ả già và giàu kinh nghiệm hơn hắn, thanh danh ả chẳng cần hắn che chở. Quan hệ của chúng không bị lộ Zonzi tội nghiệp, bữa ăn trưa này sẽ là giờ phút hạnh phúc cuối cùng của hắn.
Livia chuẩn bị bữa ăn thật ngon, rượu hảo hạng, ăn xong chúng làm tình, Zonzi mặc quần áo xong chào tạm biệt cô nàng tình nhân. Sau khi Zonzi rời khỏi cửa hàng, Livia quan sát kỹ quanh cửa hàng. Cô nàng thu dọn những loại quần áo sang trọng nhất và dùng chiếc va li của Yabril xách chúng mang đi. Ả đã
được chỉ thị phải hành động như vậy. Không được để lại dấu vết gì của Yabril. Trước khi đi, ả lau sạch các vết tay Yabril để lại trong cửa hàng. Chắc chắn ả không thể xóa sạch mọi dấu tay. Sau đó, Livia xách va li bước ra ngoài, khóa cửa cửa hàng rồi rời khỏi khu vực máy bay. Ở bên ngoài, một phụ nữ trong chính nhóm của ả đứng dưới ánh nắng chói chang ngày Lễ Phục Sinh đợi ả trong một chiếc xe ô tô. Livia vào ngồi trên xe, khẽ hôn lướt lái xe thay cho lời chào, rồi bảo, giọng gần như luyến tiếc:
- Đội ơn Chúa, thế là xong!
Cô gái kia nói:
- Cũng không đến nỗi tồi. Cái cửa hàng đó đã đem lại cho ta khối tiền của.
Yabril và những tên trong nhóm của gã phải ngồi ở khu vực dành cho khách du lịch, vì Theresa Knennedy, con gái Tổng thống Hoa Kỳ và sáu tay cùng đi ngồi trên hàng ghế loại một. Yabril chẳng muốn bọn chúng phát hiện vũ khí giấu trong túi xách đựng quà tặng phẩm. Gã cũng được biết rằng Theresa Kennedy chỉ lên máy bay ngay lúc đó chuẩn bị cất cánh, do đó bọn vệ sĩ không vội lên máy bay chẳng biết khi nào Theresa Kennedy sẽ lên và, Yabril nghĩ bụng, chính vì vậy chúng trở nên uể oải và thiếu thận trọng.
Chiếc máy bay rất lớn nên còn phải đợi khá lâu khách mới lên hết. Chẳng mấy người Italia đi du lịch vào Chủ Nhật Phục sinh và Yabril cứ băn khoăn tự hỏi không biết tại sao con gái Tổng thống lại bay chuyến này. Dẫu sao, cô ta cũng là người theo đạo Thiên chúa, tuy đã có hồi cải đạo theo đạo mới của phái tự do cánh tả, một tổ chức chính trị ti tiện nhất. Nhưng ít khách càng thuận lợi cho kế hoạch của gã: một trăm con tin thì dễ kiểm soát hơn.
Một giờ sau, trong lúc mấy ả nữ chuẩn bị lấy vũ khí khỏi túi đóng gói, Yabril ngủ gà ngủ gật trên ghế chiếc máy bay đang bay trên không. Ba tên thanh niên dùng thân mình che giấu, chúng nhoài người khỏi ghế và trò chuyện với mấy ả nọ. Do ghế quanh chỗ chúng trống khách, chúng có hẳn một khoang tròn riêng. Mấy ả trao cho Yabril lựu đạn gói trong giấy bọc quà lưu niệm và gã vội giấu ngay vào trong người. Ba tên thanh niên nhận súng ngắn và giấu ngay vào trong áo vét. Yabril cũng nhận thêm một khẩu súng ngắn, sau đó ba người phụ nữ nọ chia nhau số vũ khí còn lại.
Khi mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, Yabril liền chặn cô chiêu đãi viên đang đi trên lối đi giữa các dãy
ghế. Cô chiêu đãi viên trông thấy mấy quả lựu đạn và khẩu súng trước khi nghe rõ lời Yabril khẽ ra lệnh, rồi chuyển sang choáng váng, sau đó tất nhiên là sợ hãi. Yabril túm cánh tay toát mồ hôi vì sợ của cô chiêu đãi viên và mỉm cười. Hai tên thanh niên trong nhóm đã đứng ở vị trí kiểm soát toàn bộ khu vực các dãy ghế dành cho khách du lịch. Lúc bước tới chỗ mấy dãy ghế hạng nhất. Yabril vẫn túm chặt tay cô chiêu đãi viên. Các vệ sĩ bên an ninh nhận ngay ra gã, họ chú ý tới mấy quả lựu đạn và các khẩu súng. Yabril mỉm cười bảo họ:
- Xin các vị ngồi yên tại chỗ.
Cô con gái Tổng thống ngoảnh đầu lại và nhìn thẳng vào mắt Yabril. Nét mặt cô căng thẳng, chứ không để lộ vẻ hãi hùng. Cô nàng thật dũng cảm, Yabril thầm nghĩ, và xinh đẹp. Trông quả là tội nghiệp! Gã đợi cho tới khi ba ả trong nhóm đã làm chủ tình thế trong dãy ghế loại một đâu vào đấy, rồi mới bảo cô chiêu đãi viên mở cửa dẫn vào buồng lái. Yabril cảm thấy gã bước vào trong bộ não con cá voi khổng lồ và có khả năng buộc cả cơ thể cá rơi vào tình trạng tê liệt.
Khi mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, Yabril liền chặn cô chiêu đã viên đang đi trên lối đi giữa các dãy ghế. Cô chiêu đãi viên trông thấy mấy quả lựu đạn và khẩu súng trước khi nghe rõ lời Yabril khẽ ra lệnh, rồi nắm tay cô ta. Ánh mắt cô ta sững sờ, rồi chuyển sang choáng váng, sau đó tất nhiên là sợ hãi. Yabril túm cánh tay toát mồ hôi vì sợ của cô chiêu đãi viên và mỉm cười. Hai tên thanh niên trong nhóm đã đứng ở vị trí kiểm soát toàn bộ khu vực các dãy ghế dành cho khách du lịch. Lúc bước tới chỗ mấy dãy ghế hạng nhất, Yabril vẫn túm chặt tay cô chiêu đãi viên. Các vệ sĩ bên an ninh nhận ngay ra gã, họ chú ý tới mấy quả lựu đạn và các khẩu súng. Yabril mỉm cười bảo họ:
- Xin các vị ngôi yên tại chỗ.
Cô con gái Tổng thống ngoảnh đầu lại và nhìn thẳng vào mắt Yabril. Nét mặt cô căng thẳng, chứ không để lộ vẻ hãi hùng. Cô nàng thật dũng cảm, Yabril thầm nghĩ, và xinh đẹp. Trông quả là tội nghiệp! Gã đợi cho tới khi ba ả trong nhóm đã làm chủ tình thế trong dãy ghế loại một đâu vào đấy, rồi mới bảo cô chiêu đãi viên mở cửa dẫn vào buồng lái. Yabril cảm thấy gã bước vào trong bộ não con cá voi khổng lồ và có khả năng buộc cả cơ thể cá rơi vào tình trạng bị tê liệt.
Khi Theresa Kennedy thoạt nhìn thấy Yabril toàn thân cô đột nhiên run lên vì buồn nôn. Gã là con quỷ cô đã từng cảnh cáo lên tiếng chống lại. Bộ mặt hẹp xám xịt của hắn trông thật dữ tợn, phần dưới cằm bạnh rộng, cục súc đúng là một bộ mặt hiện lên trong cơn ác mộng. Lựu đạn thòi ra ngòai túi vét và trên tay thật chẳng khác gì những con cóc xanh ngồi chồm chỗm. Sau đấy, cô nhìn thấy ba người phụ nữ mặc quần sẫm mầu, áo vét trắng, tay lăm lăm cao khẩu súng bằng thép. Qua cơn choáng đầu tiên, phản ứng thứ hai là phản ứng của một đứa trẻ phạm tội. Chán thật, cô đã gây chuyện rắc rối cho bố mình; cô đã chẳng bao giờ có thể giữ được đội vệ sĩ của cô. Theresa Kennedy dõi theo Yabril túm tay cô chiêu đãi viên tiến đến cửa buồng lái. Cô ngoái đầu muốn trao đổi ánh mắt với viên phụ trách đội, nhưng anh ta đã bị mấy ả phụ nữ vũ trang theo dõi rất chặt.
Đúng lúc ấy, một thanh niên của Yabril, tay cầm lựu đạn tiến đến mấy dãy ghế hàng ghế loại một. Một ả phụ nữ bắt một cô chiêu đãi viên khác mở hệ thống loa trên máy bay. Tiếng cô ta vọng ra ngoài loa, run rẩy, yếu ớt:
- Mời tất cả khách đi máy bay thắt đai an toàn ở ghế ngồi. Máy bay đã nằm trong tay những người khủng bố. Xin quý khách bình tĩnh và đợi những lời hướng dẫn tiếp theo. Không được đứng lên. Không được đụng tới hành lý của mình. Không được rời khỏi chỗ vì bất kỳ lý do gì. Xin quý khách bình tĩnh. Giữ bình tĩnh!
Trong phòng lái, phi công vừa thấy cô chiêu đãi viên bước vào liền nói, giọng bị kích thích:
- Này, đài vừa thông báo có kẻ đã bắn Giáo hoàng... – Nhưng khi thấy Yabril bước vào theo sau cô chiêu đãi viên, miệng viên phi công đờ ra ngạc nhiên, lời nói chặn lại như bị bịt bằng bìa cứng. Yabril thầm nghĩ lúc gã giơ tay cầm lựu đạn lên. Nhưng viên phi công đã bảo: “... bắn Giáo hoàng.” Như vậy có nghĩa
là Romeo đã bắn trượt? Nhiệm vụ đã bị thất bại? Dù thế nào đi nữa Yabril cũng chẳng còn cách lựa chọn khác. Gã ra lệnh cho phi công đổi hướng bay.
Romeo và người của hắn lách ra sau một bức tường đá và tạo cho chúng một mảnh đảo giữa biển người ở Quảng trường St Peter. Annee mặc áo nữ tu sĩ đứng ngay phía trước Romeo, súng đã sẵn sàng, giấu dưới áo. Ả có nhiệm vụ bảo vệ Romeo, tạo điều kiện cho hắn có thời gian nổ súng, mấy kẻ kia, mặc
áo tu sĩ, đứng vây quanh hắn, cố tạo cho hắn một khoảng trống. Bọn chúng còn có thời gian chờ, ba tiếng nữa Giáo hoàng mới xuất hiện.
Romeo ngả người tựa lưng vào bức tường đá, chớp chớp mắt trước ánh mặt trời trong ngày Lễ Phục Sinh, đầu của hắn nhớ lại những bước trong nhiệm vụ. Khi Giáo hoàng xuất hiện, Romeo sẽ vỗ vai tên thanh niên đứng bên trái hắn, tay này mở đài phát sóng phát hỏa kíp nổ khối thuốc nhồi trong các bức tượng thánh nhỏ đính trên mấy bức tường đối diện ở quảng trường. Đúng lúc các bức tượng nổ tung, Romeo sẽ rút súng và bắn – tiếng súng phải thật khớp trùng với các tiếng nổ khác. Sau đó, hắn giấu súng, các thầy tu và nữ tu sĩ của hắn sẽ đứng vây quanh che cho hắn, rồi chúng cùng tẩu thoát. Các bức tượng nhỏ là bom hỏa mù, như vậy Quảng trường St Peter bao trùm dưới lớp khói dày đặc. Quang cảnh sẽ rất hỗn loạn và hoảng hốt. Trong hoàn cảnh như vậy tẩu thoát chẳng khó gì. Những người trong đám đông đứng gần hắn có thể trở nên nguy hiểm, vì họ cảnh giác khi thấy chúng không bình thường, nhưng do người xô đi, dồn lại liên tục nên chẳng ai trụ được lâu bên chúng. Kẻ nào điên rồ đuổi theo hắn, hắn sẽ dùng súng khử ngay.
Romeo cảm thấy mồ hôi toát lạnh cả ngực. Đám đông nghìn nghịt người vẫy cả một biển hoa đủ màu sắc: trắng, tía, hồng và đỏ. Hắn ngạc nhiên trước niềm vui mừng, niềm tin vào sự Phục Sinh trước trạng thái dạt dào ngây ngất của họ hy vọng có thể thắng được cái chết. Hắn vuốt nhẹ tay bên ngoài tấm áo khoác của hắn và thấy rõ khẩu súng nặng đang nằm trong bao. Hắn thấy chân hắn nhói đau và rồi tê cứng. Hắn cảm thấy đầu óc mụ đi do phải đợi hàng giờ giây phút Giáo hoàng xuất hiện trên ban công.
Những cảnh mờ nhạt thời ấu thơ hiện rõ nét trong tâm trí hắn. Qua lời cầu nguyện viển vông giám hộ trong lễ kiên tin, hắn được biết rằng Hồng y giáo chủ bề trên đội chiếc mũ đỏ hắn căm ghét thường dùng vồ bạc gõ lên trán Giáo chủ để chứng thực cái chết của Giáo chủ. Chuyện này có thực sự vẫn duy trì không? Lần này sẽ là một chiếc vồ thấm đẫm máu. Nhưng vết vồ gõ lớn ra sao? Nhỏ như một vết đũa gõ? Sâu và lớn đủ để cắm ngập một chiếc đinh. Nhưng tất nhiên chiếc đinh này là thánh tích quý trong Lễ Phục Sinh, nạm kim cương, một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng chẳng quan trọng, nó chỉ là một lỗ rất nhỏ trên đầu vị Giáo chủ, khẩu súng giấu dưới áo khoác của hắn bắn đạn nổ. Và Romeo tin chắc hắn không thể bắn trệch mục tiêu. Hắn tin vào cái phú bẩm thuật tay trái của hắn, là mancino có nghĩ là người thành đạt, trong thể thao, trong tình yêu và tất nhiên, rất mê tín, trong việc giết người.
Lúc đứng đợi, Romeo không hề có tí ý thức nào về tội phạm thánh, thế mà hắn đã lớn lên trong một thành phố tuân thủ rất chặt đạo Thiên chúa giáo, trên mỗi đường phố đều xây cất cao các kiến trúc nhắc nhở người dân nhớ lại thuở sơ khai của đạo Thiên chúa giáo. Ngay lúc này, hắn vẫn còn có thể nhớ rõ mái vòm của những kiến trúc thiêng liêng nổi bật rõ như những chiếc đĩa bằng đá hoa cương trên nền trời, nghe rành rọt tiếng chuông nhà thờ làm dịu lòng người. Ngay trên quảng trường tôn kính này, hắn vẫn thấy rõ tượng của những vị tử vì đạo, hít thở không khí đượm hương hoa xuân do các con tin ngoan đạo dâng lễ.
Hoa muôn sắc muôn màu nở rộ mênh mông quanh hắn tỏa hương ngào ngạt làm hắn nhớ tới bố mẹ hắn và mùi hương nồng nặc của hai người đã vẩy lên mình để át mùi nhung lụa sang trọng và mùi da thịt
ngậy vị hương của cùng Địa Trung Hải.
Và rồi sau đó đám đông ăn mặc lộng lẫy dự Lễ Phục Sinh bắt đầu hò hét:
- Đức Cha, Đức Cha, Đức Cha!
Đứng dưới làn ánh nắng xuân nhạt ngả màu vàng chanh và tượng các thiên thần bằng đá, mọi người luôn mồm cầu kinh phúc lành ban cho Giáo hoàng của họ. Cuối cùng, hai vị Hồng y giáo chủ bước ra ban công, dang tay ban giáng phuc. Sau đó, Giáo hoàng Innocent bước ra ban công.
Giáo hoàng là một ông già lụ khụ mặc áo lễ màu trắng óng ánh, chiếc thánh giá bằng vàng nổi bật rõ trên nền tấm áo bào len thêu các hình thánh giá. Giáo hoàng đội mũ chỏm trắng, chân đi giày thấp, rộng màu đỏ theo cổ truyền, mũi giày thêu thánh giá bằng kim tuyến. Trong tay Giáo hoàng giơ cao chào mừng dân chúng. Giáo hoàng cầm chiếc chuông nghi lễ của dân chài vùng Saint Peter.
Hoa ngợp trời, tiếng reo hò dạt dào niềm hân hoan vui sướng. Ban công nhạt nắng tựa hồ bị muôn ngàn cánh hoa vừa tung cao đã che bớt nắng.
Đúng lúc đó, Romeo thấy trỗi dậy trong lòng nỗi sợ của những biểu tượng đã ám ảnh suốt tuổi thơ ấu của hắn, gợi nhớ lại vị Hồng y giáo chủ hắn căm giận trong buổi lễ kiên tín, mặt rỗ trông như Quỷ dữ và ngay sau đấy, nỗi hân hoan mà khắp toàn thân hắn cứ dâng mãi thành niềm vui lớn, niềm vui cực độ. Romeo vỗ vai tên thanh niên đứng bên trái để phát tín hiệu phát hỏa qua đài radio.
Giáo hoàng giơ cao đôi ống tay áo trắng đáp lại những tiếng hò reo:
- Đức Cha, Đức Cha!
Giáo hoàng ban phúc cho tất cả mọi người, cầu nguyện Lễ Phục Sinh, cầu nguyện Lễ Phục sinh của Đức Chúa Giêxu, chào mừng các thiên thần đá lởn vởn quanh trên các bức tượng. Romeo rút súng khỏi bao giấu dưới áo khoác: hai thầy tu trong nhóm đứng trước hắn liền lom khom quỳ xuống để tạo khoảng trống cho tầm ngắm. Annee đứng ở vị trí thích hợp để Romeo có thể tì súng lên vai ả.
Tên thanh niên đứng bên trái bấm nút mở đài phát sóng phát hỏa khối thuốc nổ nhồi trong các bức tượng nhỏ đính ở bên kia quảng trường.
Tiếng nổ làm rung chuyển cả quảng trường một làn khói dày đặc màu hồng tỏa khắp không trung, hoa tung lên bị bắn văng khắp nơi. Đúng lúc đó, Romeo giơ mũi súng, bóp cò. Tiếng nổ phía bên kia quảng trường biến những tiếng reo hò chào mừng của đám đông thành những tiếng la hét đinh tai nhức óc.
Trên ban công, người Giáo hoàng tựa hồ như bay rời khỏi mặt đất, chiếc mũ đội trên đầu tung vọt lên cao, xoáy trong cơn lốc dữ dội do không khí bị nén ép và rơi xuống đám đông, tả tơi, đẫm máu. Tiếng than khóc hãi hùng, hoảng loạn và tiếng gầm thét thịnh nộ như con thú lồng lộn dội vang khắp quảng trường khi xác Giáo hoàng đổ ập vắt qua thành ban công. Chiếc thánh giá vàng của Giáo hoàng đung đưa, tấm áo bào nhuộm màu đỏ.
Bụi đã tung mù mịt trên quảng trường. Các mảnh đá, mảnh tượng thiên thần và các thánh bị vỡ rơi lả tả. Sau đó, quảng trường chìm trong tĩnh lặng, đám đông sững người trước quang cảnh Giáo hoàng bị sát hại. Họ thấy đầu Giáo hoàng vỡ bung ra. Tiếp đến là cảnh hoảng loạn. Dân chúng xô nhau thoát khỏi quảng trường, giẫm đạp bọn vệ sĩ người Thụy Điển đang cố chẹn các ngả thoát ra khỏi quảng trường. Những bộ quân phục cầu kỳ mặc nhân Lễ Phục Sinh bị đám đông hoảng loạn giằng xé tơi bời.
Romeo quẳng súng xuống đất. Các thầy tu và nữ tu sĩ mang vũ khí người của hắn đi quây quanh hắn,
hắn thoát được ra khỏi quảng trường, rảo bước trên các đường phố Rome. Hắn thấy mắt mờ tối, hắn đi như kẻ mù lòa. Annee khoác tay hắn, kéo tới bên chiếc xe tải chờ đón chúng. Romeo giơ tay bịt tai để khỏi phải nghe thấy những tiếng kêu la inh ỏi. Hắn lảo đảo do bị choáng váng, và rồi sau đó lòng hắn thấy hân hoan vì kinh ngạc tựa hồ như chuyện giết hại vừa rồi chỉ là một giấc mơ.
Yabril và người của hắn đã làm chủ hoàn toàn chiếc máy bay khổng lồ bay từ Rome đi New York. Các vị khách mấy dẫy ghế loại một đều bị tống đi sạch, trừ Theresa Kennedy.
Theresa thấy thích thú chứ không hoảng hốt mấy. Cô phục bọn bắt cóc máy bay khá thông minh, đã cuốn lựu đạn quanh người nên đội vệ sĩ của cô đành chịu bó tay, vì chỉ cần bắn một phát trúng lựu đạn, cơ thể chúng trở thành một trái bom làm nổ tung máy bay. Cô nhận thấy nét mặt ba tên thanh niên và ba phụ nữ căng thẳng như mặt các vận động viên dự thi đấu. Một tên thanh niên xô mạnh một tay vệ sĩ rời khỏi ca bin loại một rồi đẩy anh ta đi xuôi lối đi giữa các dẫy ghế ở khu vực dành riêng cho khách du lịch. Một ả cướp đứng chặn Theresa lại, súng lăm lăm trên tay. Khi một vệ sĩ miễn cưỡng rời khỏi ghế cạnh Theresa, ả nọ liên giơ cao súng, đập mạnh báng vào đầu anh ta. Qua cặp mắt lác của ả, cô thấy rõ ả chẳng rời tay bóp cò súng, ả mím chặt môi, Đúng lúc đó, Theresa đẩy anh chàng vệ sĩ sang một bên và đúng ngay trước mặt ả nọ. Ả mỉm cười và xô cô ngồi về chỗ.
Theresa theo dõi Yabril giám sát vụ này. Gã gần như đứng tách ra, trông giống một tay giám đốc theo dõi các diễn viên của mình đang sắm vai, không hề ra lệnh, nhưng chỉ nói những lời ám chỉ, gợi ý. Gã mỉm cười, vẻ muốn làm cô yên lòng, rồi ra hiệu cho cô cứ ngồi im tại chỗ. Đây là hành vi của một kẻ quan tâm tới người mình đang đặc biệt lưu ý. Sau đó, gã bước vào buồng lái. Một tên cướp đứng ở ca bin dành cho khách du lịch đứng chặn lối vào ca bin loại một. Hai ả cướp đứng áp lưng vào nhau ngay tại bên dãy ghế của Theresa, súng lăm lăm trên tay sẵn sàng nhả đạn. Một cô chiêu đãi viên điều khiển hệ thống loa trên máy bay thông báo cho hành khách rõ những chỉ thị của tên cướp đứng kề bên. Mọi người co rúm lại vì khiếp sợ.
Trong buồng lái, Yabril cho phép phi công được gọi điện báo tin máy bay đã bị bắt cóc và hiện đang chuyển hướng bay tới Sherhaben. Các nhà cầm quyền Hoa Kỳ chỉ còn cách đáp ứng những yêu cầu của bọn khủng bố. Yabril đứng trong buồng lái để nghe việc liên lạc bằng vô tuyến.
Trong khi máy bay đang bay thì chẳng còn cách gì khác là chờ đợi. Yabril đã mơ về Palestine, như hồi gã còn bé, nhà gã là một ốc đảo xanh ngoài sa mạc...
Do có sự chênh lệch thời gian với châu Âu, Francis Kennedy nhận được báo cáo đầu tiên về vụ bắn chết Giáo hoàng vào lúc 6.00 giờ sáng Ngày Chủ Nhật Phục Sinh. Thư ký báo chí Matthew Gladyee, người đã trực Nhà trắng vào ngày lễ, thông báo với Tổng thống tin này. Eugene Dazzy và Christian Klee cũng được thông báo và đến ngay Nhà trắng.
Francis Kennedy từ tầng lầu dành cho khu vực Tổng thống sinh sống bước xuống thang, tiến vào Oval Office gặp Dazzy và Christian đang đợi ông. Trông cả hai rất căng thẳng. Từ phía xa ngoài các đường phố Washingtion có những hồi còi dài vang vọng lọt vào phòng. Kennedy ngồi vào sau bàn làm việc. Ông nhìn Eugene Dazzy, trưởng ban tham mưu báo cáo.
- Anh Francis, Giáo hoàng đã tạ thế. Giáo hoàng bị ám sát khi hành lễ Phục Sinh. Kennedy lặng người choáng váng.
- Kẻ nào ám sát? Và để làm gì?
- Chúng tôi chưa rõ. – Klee đáp. – Còn thêm một tin tồi tệ hơn nữa.
Kennedy cố đọc trên nét mặt mấy người đang đứng trước mặt mình điều khủng khiếp ghê gớm mình linh cảm thấy.
- Máy bay của Theresa bay bị bọn không tặc bắt cóc và lúc này đang chuyển hướng bay về Sherhaben, - Klee nói.
Francis Kennedy bỗng thấy có cảm giác buồn nôn. Sau đó, ông nghe Eugene Dazzy báo cáo tiếp:
- Bọn không tặc đã kiểm soát được toàn bộ máy bay, trên máy bay không xảy ra chuyện xô xát. Máy bay hạ cánh ta sẽ thương lượng, ta sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cuộc thương lượng, sẽ giải quyết ổn thỏa vụ này. Tôi thậm chí không cho rằng chúng biết Theresa bay chuyến đó.
- Arthur Wix và Otto Gray đang trên đường tới đấy. Cả CIA, bên Quốc phòng và Phó Tổng thống cũng sắp tới. Khoảng nửa tiếng nữa họ đợi anh tại Cabinet Room.
- Được rồi, - Kennedy nói. Ông cố giữ bình tĩnh. – Có mối liên quan nào không? – Francis Kennedy hỏi.
Ông ta thấy Christian chẳng bị ngạc nhiên nhưng Dazzy thì đờ người chưa rõ câu hỏi của ông.
- Giữa vụ Giáo hoàng và vụ bắt cóc máy bay ấy? – Kennedy nói. – Khi thấy cả hai đều im lặng không đáp, ông lièn bảo: - Các anh ra đợi tôi tại Cabinet Room. Tôi muốn ngồi một mình một lát.
Hai người rời khỏi phòng.
Không thể nào ám sát nổi chính Tổng thống Kennedy, nhưng ông thường xuyên biết rằng ông chưa bao giờ có khả năng bảo vệ tuyệt đối an toàn cho con gái mình. Cô con gái quá tự do không chịu gò bó lệ thuộc, cô ta chẳng bao giờ chịu để ông can thiệp hạn chế thu hẹp cuộc sống của cô. Và chuyện này xem
ra chẳng xảy ra điều gì nguy hiểm nghiêm trọng. Ông không thể hình dung được rằng con gái một vị nguyên thủ quốc gia có thể bị tấn công. Đấy chỉ là một thứ chính trị đồi bại và hành vi của bọn khủng bố.
Sau buổi lễ nhậm chức của bố mình. Theresa đã đi theo con đường của cô ta, cho các nhóm chính trị cấp tiến và bênh vực quyền bình đẳng nam nữ vay mượn tên tuổi, trong khi đó tuyên bố vị trí của mình trong cuộc sống là tách biệt với bố. Chưa bao giờ Francis Kennedy cố ép cô ta hành động theo các khác, đưa ra trước công chúng hình ảnh giả tạo về bản thân cô con gái.
Thế cũng đủ để nói lên tình yêu thương của ông với con gái. Và trong thời gian cô ta ở lại Nhà trắng ít ngày thăm bố, hai bố con đã sống thoải mái bên nhau, cùng nhau tranh luận về chính trị, phân tích tỉ mỉ về cách sử dụng quyền lực.
Báo chí của phái Cộng hòa bảo thủ và những tờ lá cải xấu đã nổ súng bắn hy vọng làm tổn hại nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy, Theresa đã được chụp ảnh trong cuộc diễu hành của phái đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, trong cuộc tuần hành chống vũ khí hạt nhân và đã có lần cả trong cuộc tuần hành đồi cho phép những người Palestine được quyền hồi hương. Lần này thì sẽ có những cột bài châm chọc gì đây?
Tuy khá kỳ quặc, nhưng công chúng Hoa Kỳ đã dành cho Theresa Kennedy những thiện chí đặc biệt, thậm chí họ biết rằng cô đang sống với một người theo phái cấp tiến ở Rome.
Người ta đã đăng cả ảnh hai người đi dạo trên các đường phố cổ lát đá, hôn nhau và tay trong tay; ảnh chụp ban công căn buồng hai người thuê. Anh chàng người tình Italia trông đẹp trai; Theresa xinh xắn, mái tóc vàng, da trắng như sữa và có cặp mắt xanh mượt như nhung của Kennedy. Dáng người dỏng cao
như bố, Theresa khoác bộ quần áo Italia trông thật hấp dẫn đến nỗi những lời ghi dưới các tấm ảnh cứ như thuốc độc ngấm vào tim.
Những tấm ảnh mới Theresa lấy thân mình che cho người tình trẻ Italia đỡ các cú đòn dùi cui của cảnh sát Italia gợi trong ký ức đã được chôn chặt từ lâu của các người Hoa Kỳ già về những ngày khủng khiếp ở Dallas dạo nào.
Theresa là một nữ nhân vật tế nhị. Trong thời gian vận động tuyển cử, cô bị các phóng viên truyền hình dồn hỏi:
“ Như vậy là cô tán thành về mặt chính trị với bố cô?”
Nếu trả lời là “đúng” thì cô sẽ bị rơi vào tình trạng là một kẻ đạo đức giả hoặc một đứa trẻ bị ông bố hám quyền lực lôi kéo. Nếu trả lời “không”, các đầu đề chạy trên những cột báo sẽ chỉ trích cô không ủng hộ cuộc chạy đua vào Nhà trắng của bố mình. Nhưng cô đã tỏ rõ sự khôn khéo của dòng họ Kennedy.
- Tất nhiên, Francis Kennedy là bố tôi, - cô đã đáp và ôm chặt bố. – Và tôi biết chắc rằng bố tôi là một người tốt. Nhưng nếu bố tôi làm một điều gì đấy tôi không thích, tôi sẽ la ó đúng như cách các phóng viên vẫn thường làm.
Một câu trả lời làm đẹp lòng mọi người. Bố cô yêu quý cô về tính cách ấy của cô. Thế mà lúc này cô đang gặp một hiểm họa nguy hiểm đến tính mạng.
Nếu Theresa ở kề cạnh ông hơn, nếu cô con gái tỏ ra là một người con dễ thương hơn, và cùng ông sống tại Nhà trắng, nếu Theresa bớt cấp tiến hơn thì đâu có chuyện tương tự như thế này xảy ra. Và thế quái nào Theresa lại lựa chọn một người tình người nước ngoài, một sinh viên cấp tiến, có thể lại chính là kẻ đã cung cấp thông tin cho bọn bắt cóc máy bay? Nhưng sau đấy Kennedy cười thầm. Ông đang có tâm trạng bực tức của một ông bố muốn con mình càng ít gây chuyện rắc rối cho mình càng hay. Ông yêu quý con gái và ông sẽ giải thoát cho con. Xét cho cùng, đây là chuyện ông có thể đương đầu chiến đấu chứ chẳng như trường hợp vợ ông đứng trước cái chết kéo dài và đau đớn.
Eugen Dazzy bước vào và báo cáo cho biết đã tới giờ rồi. Họ đang đợi ông ở Cabinet Room.
Khi thấy Kennedy bước vào, mọi người đều đứng cả dậy, ông vội giơ tay mời họ ngồi, nhưng họ chạy đến đứng vây quanh ông để bày tỏ nỗi cảm thông của mình. Kennedy lách người tiến về phía chiếc bàn dài hình bầu dục và ngồi xuống chiếc ghế kê cạnh lò sưởi.
Hai chùm đèn trắng toát tỏa làn ánh sáng trắng trên mặt bàn nâu sẫm, lung linh trên lớp da đen bọc sáu chiếc ghế kê dọc mỗi bên bàn và những chiếc khác áp sát dọc bức tường ở phía xa. Ngoài ra còn những chùm ánh sáng trắng từ những đèn tường hắt xuống. Hai lá cờ - một của Hoa Kỳ và một của Tổng thống màu xanh sẫm điểm các ngôi sao xanh nhạt – treo gần cửa sổ mở rộng trông ra Rose Garden.
Bộ tham mưu của Kennedy ngồi sát bên ông, sổ sách và giấy từ để trên chiếc bàn bầu dục trước mặt. Ngồi xa xa phía cuối bàn là các thành viên Nội các và người đứng đầu CIA, tiếp đến là tổng tham mưu trưởng, một vị tướng trong quân đội, quân phục nghiêm chỉnh. Phó Tổng thống Du Pray ngồi tít cuối bàn, tách ra xa khỏi Kennedy, bà là một phụ nữ duy nhất có mặt trong phòng. Bà mặc bộ quần áo màu xanh sẫm rất hợp thời trang, ngoài khoác áo cánh lụa trắng. Khuôn mặt xinh đẹp của bà lúc này trông thật nghiêm. Hương thơm ngào ngạt từ Rose Garden lọt qua tấm rèm dày che cửa sổ và cửa lắp kính tỏa khắp phòng. Dưới rèm cửa lắp kính trải tấm thảm màu ngọc xanh nước biển hắt vào phòng một làn sáng xanh.
Theodore Tappey, phụ trách CIA, báo cáo vắt tắt lại sự việc. Tappey đã từng đứng đầu FBI, là một
người không có những tham vọng danh lợi và chính trị, không bao giờ dồn thúc CIAvào những điều rủi ro chẳng cần thiết. Ông ta được các thành viên trong bộ tham mưu đặc biệt Christian Klee rất tin cẩn.
- Trong vài giờ vừa qua chúng ta đã nhận được một số thông tin khá đau đầu, - Tappey nói. – Một tên người Italia đã ám sát Giáo hoàng. Chuyến máy bay của cô Theresa bị một tốp hỗn hợp do một tên Ả rập có tên là Yabril phụ trách, đã bị bắt cóc. Việc hai sự kiện xảy ra cùng một ngày và tổ chức cùng một thành phố xem ra có móc nối với nhau. Tất nhiên, chúng ta phải đặt dấu hỏi về việc này.
Kennedy nhẹ nhàng nói:
- Lúc này, vụ ám sát Giáo hoàng không phải là vấn đề chủ yếu. Chúng ta nên tập trung vào vụ bắt cóc máy bay. Chúng đã đưa ra yêu cầu gì chưa?
- Dạ, chưa, - Tappey vội đáp, giọng chắc nịch. – Bản thân sự việc đó cũng thật rắc rối.
- Anh cố tìm hiểu xem chúng cần thương lượng gì và báo cáo từng bước với đích thân tôi. – Kennedy nói, rồi quay sang hỏi bộ trưởng Bộ ngoại giao: - Nước nào sẽ hỗ trợ ta?
- Nước nào cũng sẵn sàng hỗ trợ cả, - bộ trưởng trả lời, - trừ các nước Ả rập, họ ngại, họ coi khinh việc bắt cóc con gái ông làm con tin. Nó xúc phạm đến danh dự và họ cũng còn nghĩ tới phong tục giải mối hận thù nợ máu của chính họ. Họ tin rằng chuyện này chẳng đem lại điều gì tốt lành cho họ. Nước Pháp có quan hệ tốt với nhà vua đỡ đầu cho Yabril và cho phép chiếc máy bay bị bắt cóc hạ cánh xuống một sân bay của mình. Họ đã đề nghị cử người quan sát giúp chúng ta. Nước Anh và Israel chẳng thể giúp gì được, họ không đủ tin cậy. Nhưng trong khi chờ đợi bọn bắt cóc máy bay đưa ra những yêu cầu, chúng ta đành chịu bó tay.
Kennedy quay sang hỏi Christian:
- Chris, anh hình dung sự việc thế nào, chúng không đề xuất yêu cầu?
- Có thể còn quá sớm. – Christian đáp. – Hoặc có thể chúng còn con bài khác.
Cabinet Room chìm trong im lặng: ánh đen của những chiếc ghế nặng nề, lưng tựa hơi quá cao phản chiếu ánh sáng trắng từ đèn trên tường hắt xuống làm da thịt những người ngồi trong phòng trở nên xám mét. Kennedy đợi họ phát biểu, đợi tất cả ý kiến của mọi người. Ông ngồi im không nói gì khi họ phát biểu về những sự lựa chọn, về việc đe dọa trừng phạt, dọa phong tỏa đường biển, vây hãm các bất động sản của Sherhaben trên đất Hoa Kỳ, ông hy vọng bọn bắt cóc máy bay sẽ đưa ra các yêu sách thương lượng một khi các đài phát hình và báo chí trên toàn thế giới loan tin thông báo cặn kẽ về vụ này.
Một lát sau, Kennedy quay sang đột ngột bảo Oddblood Gray:
- Anh dự định thời gian triệu tập cuộc họp với các vị lãnh đạo Quốc hội, một ban chủ tịch đoàn thích hợp, cho tôi và cho bộ tham mưu của tôi, rồi Tổng thống quay sang bảo Arthur Wix: - Anh báo bên an ninh chuẩn bị các kế hoạch, nếu sự việc này trở thành vụ việc phức tạp hơn. – Sau đó Kennedy đứng dậy, chuẩn bị rời khỏi phòng, - Các vị ạ, - ông nói với mọi người, - tôi phải nói để các vị rõ rằng tôi chẳng tin vào sự trùng khớp. Tôi không rin rằng Giáo hoàng Tòa thánh La Mã bị ám sát vào cùng một ngày và tại cùng một thành phố nơi con gái Tổng thống Hoa Kỳ bị bắt cóc.
Adam Gresse và Henry Tibot coi ngày Chủ Nhật Phục Sinh là một ngày làm việc chứ không phải ngày nghỉ. Chúng không dành ngày đó cho việc nghiên cứu những dự án khoa học của chúng mà là để xóa sạch mọi dấu vết tội ác. Tại căn hộ của chúng ở, chúng lục lấy ra tất cả các báo cũ và dùng kéo cắt các hàng chữ, ghép lại thành một bức thư. Chúng thậm chí vứt cả kéo lẫn hồ, quét dọn sạch mấy bức tường.
Sau đó, chúng tới xưởng của chúng tại trường đại học để thu nhặt tất cả các dụng cụ và thiết bị chúng đã sử dụng để chế tạo bom mang vứt đi. Xong xuôi đâu vào đấy, chúng mở vô tuyến theo dõi. Khi nghe tin Giáo hoàng bị ám sát và con gái Tổng thống bị bắt cóc, chúng đưa mắt nhìn nhau và mỉm cười.
- Henry này, tao thấy đã đến thời của bọn ta rồi, - Adam Gresse bảo.
Ngày Chủ Nhật Phục Sinh là một ngày dài. Nhà Trắng nườm nượp người từ các ban do CIA. Quân đội và Bộ Ngoại giao cử tới. Ai nấy đều nhất trí cho rằng trở ngại nan giải nhất là bọn khủng bố chưa đưa yêu sách đòi trao đổi con tin.
Bên ngoài, giao thông trên đường phố đông nghịt. Các phóng viên truyền hình và báo chí đổ về Washington. Tuy đang là Lễ Phục Sinh, các công chức đều bị gọi đi làm. Christian Klee phải điều thêm một nghìn nhân viên từ bên tình báo và FBI đến củng cố mạng lưới bảo vệ Nhà Trắng.
Điện thoại Nhà Trắng hoạt động liên tục. Quang cảnh thật hỗn loạn, người ra kẻ vào lũ lượt. Eugene Dazzy cố hết sức kiểm soát mọi việc.
Thời gian còn lại trong ngày Chủ Nhật ấy ở Nhà Trắng, Kennedy đã dành để tiếp các phóng viên trong Stuation Room, dự những cuộc họp trọng thể công khai đưa ra những hình thức lựa chọn gọi điện trao đổi với các nguyên thủ quốc gia và các thành viên nội các của Hoa Kỳ.
Mãi khuya ngày Chủ Nhật, bộ tham mưu của Tổng thống mới cùng ngồi ăn tối với Tổng thống và chuẩn bị những việc phải giải quyết cho hôm sau.
Cuối cùng, Kennedy quyết định đi ngủ. Ông tin rằng bộ tham mưu của ông sẽ thức suốt đêm và đánh thức ông dậy khi cần thiết. Một nhân viên an ninh dẫn Kennedy đi theo lối cầu thang nhỏ lên khu vực sinh hoạt nằm tại lầu tư của Nhà Trắng. Một nhân viên khác chậm rãi đi lùi ở phía sau ông. Cả hai đều biết rằng Tổng thống ghét đi thang máy bố trí trong Nhà Trắng.
Đầu cầu thang trông vào một phòng khách có đặt bàn liên lạc và có hai nhân viên nữa. Khi qua phòng này, Kennedy đã về tới khu vực sinh hoạt của riêng ông, với những người phục vụ riêng: một hầu nữ, một quản gia và một hầu phòng với nhiệm vụ chăm lo tủ quần áo rộng thênh thang của Tổng thống. Kennedy không biết rằng ba người này đều là nhân viên của An ninh. Christian Klee đã gài được người của mình. Đây là một phần trong toàn bộ kế hoạch của Christian muốn nắm thật chặt Tổng thống, một phần trong lá chắn khó hiểu Christian dựng lên bao quanh Francis Kennedy.
Trực đêm đó là chỉ huy trung đội đặc biệt này. Bề ngoài, anh ta là một nhân viên da đen phục vụ trong hải quân, khoác cái tên là Jefferson, đeo lon hạ sĩ. Thực ra, anh ta là một sĩ quan cao cấp trong cơ quan An ninh và được huấn luyện rất đặc biệt trong các trận đấu giáp lá cà. Anh ta là một vận động viên thể thao bẩm sinh và đã từng tham gia đội bóng đá toàn Hoa Kỳ. Jefferson có tính hài hước, do đó anh ta rất khoái trở thành một người hầu hoàn hảo.
Jefferson giúp Kennedy cởi áo vét và treo nó lên ngay ngắn. Anh ta đưa Tổng thống chiếc áo choàng lụa để ông tự mặc vì Jefferson biết rằng Tổng thống thích tự mặc áo choàng.
Thất bại lớn đầu tiên trong đời Francis Kennedy bắt đầu từ khi vợ ông là Catherine phát hiện khối u trên ngực sáu tháng trước khi ông được đề cử ra ứng cử Tổng thống. Sau khi chẩn đoán Catherine bị ung thư, Kennedy đề nghị xin được rút khỏi danh sách ứng cử, nhưng Catherine đã ngăn ông nói rằng bà muốn được sống tại Nhà Trắng. Bà bảo nếu được vậy, bà sẽ khá hơn, chồng bà không bao giờ hồ nghi điều gì bà nói. Thoạt đầu hai người lo sợ về bên ngực bị mất của Catherine, Kennedy đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia tài gỏi về ung thư trên khắp thế giới và được họ giải đáp là chỉ có thể hạn chế tốc độ
phát triển của căn bệnh thôi. Sau khi nghiên cứu tập bệnh án của Catherine, một chuyên gia về ung thư lớn nhất của Hoa Kỳ động viên cắt bỏ vú bị ung thư. Ông ta đã bảo, Francis Kennedy ghi sâu nhớ mãi lời ông ta: “- Căn bệnh ung thư đang trong giai đoạn phát triển cực kỳ nhanh”. Catherine đang điều trị bằng phương pháp hóa học đúng lúc Kennedy thắng vòng tuyển cử Tổng thống của Đảng Dân chủ vào tháng bảy, nên bác sĩ đã để bà được điều trị tại nhà. Cơn đau của bà lắng dịu. Bà lên cân, bộ xương của bà bắt đầu có da thịt.
Bà phải nằm nghỉ ngơi nhiều, bà không thể ra khỏi nhà, nhưng mỗi khi được tin chồng quay về nhà, bà đều đứng dậy chào đón chồng. Theresa đã trở lại trường, Kennedy phải đi tham gia các cuộc vận động tranh cử. Nhưng ông đều bố trí để cứ dăm ngày lại có thể quay về nhà thăm vợ. Mỗi lần thấy chồng về, Catherine cảm thấy mình khỏe khoắn hơn lên, và những ngày đó thật ngọt dịu, chưa bao giờ hai người thương yêu nhau như dạo đó. Francis Kennedy mang quà về tặng vợ; Catherine đan cho chồng các khăn quàng cổ và găng tay.
Một hôm, bà đã cho phép các y tá và người hầu nghỉ cả ngày để hai người được một mình sống ở nhà bên nhau, để hai người được sung sướng thưởng thức món xúp nấu giản dị do chính tay bà tự nấu. Bà cảm thấy người dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc đời Francis Kennedy, không gì có thể sánh bì nổi. Ông đã có lúc lau những giọt nước mắt thực sự vui sướng, lòng nguôi vơi khổ đau, dịu bớt kinh hoàng. Sáng hôm sau, bà ôm ngang lưng ông, hai người sóng đôi bước lên mấy gò xanh quanh nhà. Bà vẫn thường tự hào về dáng vẻ bên ngoài của mình, ngay ngáy lo không biết mình trông ra sao khi mặc một chiếc áo dài mới, một chiếc áo bơi mới, lo khi thấy cằm mình hơi bị chảy xệ. Nhưng còn lúc này bà cố sức tăng trọng lượng. Bước đi trong vòng tay vợ ôm ngang lưng, Francis Kennedy cảm nhận rõ từng đốt xương của vợ. Lúc quay vào nhà, ông đã tự tay nấu bữa điểm tâm cho vợ và bà đã ngốn ngấu ăn làm ông chẳng còn nhớ đã thấy lần nào vợ mình ăn nhiều như vậy chưa.
Thấy bệnh tật của vợ thuyên giảm, Francis Kennedy như được tiếp thêm nghị lực bồi bổ thể lực đổ ông tiếp tục theo đuổi chiến dịch vận động bầu cử. Ông san bằng mọi trở ngại; ông lái được mọi điều theo ý mình để vươn tới vận may. Thân xác ông tràn đầy năng lực, đầu óc làm việc chính xác một cách tuyệt vời.
Và rồi, sau một lần quay trở về nhà, ông như người bị đẩy xuống địa ngục. Catherine lại đau ốm, bà không ra đón ông được. Thế là tất cả mọi thứ quà tặng và sức lực của ông đều trở nên vô nghĩa.
Francis Kennedy coi Catherine là một người vợ hoàn hảo. Chẳng phải vì bà là một phụ nữ tuyệt vời mà vì bà là một người phụ nữ nắm vững nghệ thuật yêu thương gần như được di truyền từ đời này qua đời khác. Bà mang sắc vẻ dễ thương tự nhiên đối với thiên hướng được coi là đáng chú ý. Francis Kennedy chưa lần nào nghe vợ nói một lời thô tục về bất kỳ một ai: bà lượng thứ những sai sót của người khác, chưa bao giờ tự coi thường bản thân mình hoặc làm điều gì gây tổn hại. Bà chưa bao giờ ấp ủ giận hờn.
Bà là người dễ chịu về mọi phương diện. Bà có dáng người thướt tha và khuôn mặt bà có vẻ đẹp thanh thản gây thiện cảm gần như cho bất kỳ ai. Tất nhiên bà cũng có nhược điểm: bà thích quần áo đẹp và hơi phù phiếm. Nhưng bà có thể tự kiềm chế. Bà dí dỏm nhưng không xúc phạm và châm chọc, bà chẳng bao giờ ngã lòng. Bà được giáo dục tới nơi tới chốn và là nhà báo trước khi lấy chồng. Bà còn có những tài năng khác. Bà là một nhạc sĩ dương cầm nghiệp dư tuyệt vời và hội họa là một thú riêng của bà. Bà nuôi dậy chu đáo cô con gái và hai mẹ con thương yêu nhau. Bà cảm thông với chồng mình và chẳng bao giờ ghen tị trước những thành đạt của chồng. Bà là một sự ngẫu nhiên hiếm quý, một sự mãn nguyện và hạnh phúc của con người.
Và rồi một hôm, bác sĩ đến gặp Francis Kennedy ngoài hành lang bệnh viện và thản nhiên một cách tàn bạo và bộc trực báo cho ông biết rằng vợ ông sẽ bị chết. Ông bác sĩ đã giải thích rằng xương của bà
Catherine Kennedy bị rò, cả bộ xương bà sẽ bị sụp. Não có khối u, lúc này hãy còn nhỏ nhưng chắc chắn sẽ phát triển. Còn máu rỉ ra chất độc khiến bà Catherine không thể tránh khỏi cái chết.
Francis Kennedy không thể kể lại với vợ những điều đó. Ông không kể lại với vợ vì ông không tin những lời của bác sĩ. Ông đã phải huy động mọi tại tháo vát của mình, đến gặp tất cả bạn bè có quyền thế lớn của mình, thậm chí đã tới hỏi ý kiến cả Oracle. Hãy còn một hy vọng. Ở một số trung tâm y tế nằm rải rác trên đất Hoa Kỳ, người ta đang nghiên cứu những dược phẩm nguy hiểm thí nghiệm trên cơ thể những người đã bị kết án. Trong khi các dược phẩm đó vẫn còn bị coi là độc dược, chúng chỉ được tiêm cho những ai tình nguyện. Có rất nhiều người bị kết án nên mỗi mũi tiêm nằm trong chương trình nghiên cứu đã có cả trăm người tình nguyện.
Do đó Francis Kennedy đã có hành động mà lúc bình thường ông cho rằng đồi bại. Ông đã phải sử dụng mọi quyền hạn của mình để được đưa vợ vào danh sách những người thử nghiệm trong các chương trình thí nghiệm đó: ông đã gõ mọi cửa để cơ thể vợ ông được truyền cho những chất độc chết người nhưng có khả năng duy trì được sự sống. Và ông đã thành công. Ông lại nuôi hy vọng. Một số ít người được điều trị tại các trung tâm thử nghiệm này. Tại sao vợ ông lại không nằm trong số đó? Sao ông lại chịu bó tay không cứu nổi vợ? Cả cuộc đời thành đạt, lần này ông cũng sẽ thành đạt.
Rồi sau đấy cảnh ảm đạm buồn đau bắt đầu ngự trị. Thoạt đầu trung tâm thử nghiệm ở Houston. Francis Kennedy đưa vợ vào nằm tại bệnh viện ở đấy và luôn có mặt bên vợ trong suốt thời gian điều trị, vợ ông quá yếu phải nằm liệt giường. Bà động viên ông cứ để bà nằm lại đấy và ông nên tiếp tục cuộc vận động tranh cử chức Tổng thống. Ông đã nghe lời vợ bay từ Houston đi Los Angeles để đọc những bài diễn văn tranh cử, lạc quan, dí dỏm, tươi cười. Nhưng ngay khuya đêm ấy, ông bay về Houston để được ở bên vợ ít giờ phút còn lại của một đêm sắp qua. Hôm sau, ông lại bay tới địa điểm vận động tranh cử khác để sắm vai một nhà lập pháp.
Việc điều trị ở Houston bị thất bại. Tại Boston, người ta đã cắt khối u ở não và phẫu thuật đã thành công, tuy đấy là khối u ác tính. Khối u mới ở hai phổi bà cũng là những khối u ác tính. Qua X quang, người ta phát hiện thấy các vết rò ở xương rộng hơn. Tại một bệnh viện khác ở Boston những dược phẩm mới có tác dụng rất hữu hiệu. Khối u mới ở não ngừng phát triển, những khối u còn lại trong phổi đã teo. Đêm nào Francis Kennedy cũng bay từ những thành phố đã đến vận động bỏ phiếu về bên vợ vài tiếng đồng hồ, đọc sách báo cho vợ nghe, vui vẻ trò chuyện với vợ. Thỉnh thoảng Theresa từ trường học bay tới Los Angeles thăm mẹ, hai bố con cùng ăn tối với nhau rồi vào thăm Catherine, cùng ngồi trong bóng tối bên bà. Theresa kể lại những câu chuyện khôi hài về các chuyện bất ngờ xảy ra ở trường; Francis Kennedy kể về những chuyến đi vận động bỏ phiếu của ông, Catherine cười.
Tất nhiên Francis Kennedy lại đề nghị được rời khỏi chiến dịch vận động bỏ phiếu để được ở bên vợ. Tất nhiên Theresa muốn nghỉ học để được luôn ở bên mẹ. Nhưng Catherine bảo hai bố con rằng bà chẳng muốn, không thể chấp nhận, chẳng thể chịu đựng nổi nếu hai bố con làm vậy. Bà có thể bị đau ốm lâu dài. Hai bố con cần phải tiếp tục cuộc sống của hai người. Chỉ có vậy bà mới dám nuôi hy vọng, chỉ có vậy bà
mới đủ sức chịu đựng cực hình bắt bà phải chịu cảnh bất động. Bà dọa là sẽ ra viện và quay về nhà nếu hai bố con không tiếp tục sống như đã chẳng có chuyện gì xảy ra.
Trên những chặng đường bay dài quay về bên giường vợ. Francis Kennedy ngạc nhiên trước sự ngoan cường của vợ. Cơ thể chất chứa đầy hóa chất độc để đương đầu với chất độc của chính cơ thể mình, Catherine vẫn kiêu hãnh tin rằng mình sẽ khỏe lại và tin rằng hai con người mình yêu thương nhất trên đời sẽ không bị kéo lún chìm cùng với bà.
Cuối cùng cơn ác mộng hình như đã bị xua tan. Căn bệnh thuyên giảm. Francis Kennedy đưa vợ về nhà. Hai vợ chồng đã phải phiêu bạt khắp đất nước Hoa Kỳ, bà đã nằm tại bảy bệnh viện khác nhau và
lượng hóa chất lớn xem ra đã có tác dụng. Francis Kennedy lòng hân hoan sung sướng thấy mình lại thành công thêm một bước. Ông đón vợ về nhà ở Los Angeles, và rồi vào một đêm. Francis Kennedy, Catherine và Theresa cùng ra tiệm ăn tối trước khi ông lại tiếp tục cuộc vận động bỏ phiếu. Đấy là một đêm hè tuyệt vời, không khí êm dịu ở Califonia mơn man làn da họ. Giây phút kỳ dị đã xảy ra. Bồi bàn đã trót nhỡ để rớt một giọt nhỏ nước xốt từ đĩa xuống ống tay chiếc áo dài mới của Catherine. Bà đã bật khóc và khi bồi bàn rời xa họ, bà sụt sịt khóc và hỏi: “- Tại sao anh ta lại nỡ để xảy ra chuyện này với tôi?”. Điều đó không hợp với đặc tính của Catherine: Trước đây, gặp chuyện tương tự bà đều cười xòa, do đó Francis Kennedy cảm thấy đấy là điềm báo điềm gở. Catherine đã bị hành hạ qua bao lần phẫu thuật vừa qua, chịu bao đau đớn do khối u phát triển, thế mà bà chưa lần nào khóc hoặc phàn nàn kêu ca. Còn lúc này, rõ ràng là vết bẩn trên ống tay áo bà hình như thấm vào tận tim gan bà. Chẳng thể an ủi được bà.
Hôm sau Kennedy bay đi New York để vận động bầu cử. Sáng hôm đó Catherine chuẩn bị bữa điểm tâm cho ông. Trông bà thật lộng lẫy và chưa bao giờ Francis Kennedy lại thấy vợ mình xinh đẹp như lúc này. Tất cả các báo đều đã thăm dò số phiếu bầu đều dự đoán Kennedy sẽ dẫn đầu số phiếu, ông sẽ thắng trong cuộc bầu Tổng thống. Catherine đọc to các bài báo đó.
- Ôi, anh Francis – Catherine bảo, - chúng ta sẽ sống tại Nhà Trắng và em sẽ có cả một bộ tham mưu của riêng em. Còn Theresa có thể dẫn các bạn của con lưu lại chơi vào những dịp cuối tuần hoặc các dịp nghỉ học. Anh tưởng tượng thử xem, chúng mình thật hạnh phúc biết bao! Em sẽ chẳng ốm đau nữa đâu. Em hứa đấy. Anh Francis, anh sẽ làm nên những chuyện lớn, em biết mà, anh sẽ làm được, - Catherine
nói – chúng ta sẽ cùng nhau đi quanh khắp các căn phòng xinh đẹp đó và em sẽ giúp anh đề ra các kế hoạch của anh. Anh sẽ là một vị Tổng thống vĩ đại nhất. Em thấy trong người ổn rồi, anh yêu, và em sẽ còn khối việc phải làm. Chúng ta sẽ sống thật hạnh phúc. Chúng ta sẽ sống yên ổn. Chúng ta thật may mắn. Chúng ta là những người may mắn, đúng không anh?
Catherine qua đời vào mùa thu, ánh nắng tháng Mười trở thành tấm vải liệm của bà. Francis Kennedy đứng giữa những gò xanh nhạt phai và khóc. Những hàng cây ánh bạc che phủ chân trời, ông lặng người giơ tay vuốt mắt chính mình, lòng quặn đau như muốn khép chặt cánh cửa giữa mình với cả thế giới. Đúng lúc không còn ánh sáng này, ông thấy lòng mình như tan vỡ.
Ý chí đầy nghị lực của ông sụt lở. Đây là lần đầu tiên trong đời, sự thông minh kỳ lạ của ông chẳng đáng giá một xu bể. Của cải của ông đã không cứu nổi vợ thoát khỏi tay Thần Chết. Do đó, mọi cái đều trở nên vô nghĩa.
Francis Kennedy bỏ tay che mắt ra và hết sức bình sinh dùng ý chí quật cường của mình vật lộn với cái vô nghĩa. Ông cố thu góp lại toàn bộ những gì còn lại trong thế giới của ông, dồn sức quật ngã lại nỗi đau. Còn gần tháng nữa tới ngày bầu cử và ông đã dồn sức vào nỗ lực cuối cùng.
Francis Kennedy bước vào Nhà Trắng không có vợ đi bên cạnh, chỉ có mỗi cô con gái, Theresa. Theresa đã cố giữ vẻ mặt hạnh phúc, nhưng suốt đêm đầu tiên sống tại Nhà Trắng cô đã khóc vì mẹ cô đã không còn bên hai bố con.
Còn lúc này, sau ba năm vợ qua đời, Francis Kennedy, Tổng thống Hoa Kỳ, một người có quyền nhất thế giới, nằm một mình đơn chiếc trên giường, lòng lo sợ cho mạng sống của con gái và bất lực không điều hành ra lệnh được giấc ngủ.
Không ngủ được, Francis kennedy cố xua nỗi kinh hoàng làm ông mất ngủ. Ông tự nhủ rằng bọn bắt cóc máy bay không dám cả gan giết Theresa, như vậy có nghĩa là con gái ông sẽ an toàn trở về nhà. Nếu vậy, ông chẳng phải là một kẻ bất lực: ông chẳng ỷ vào sức khỏe, những vị thần có thể sai khiến được của y học, vì ông đã phải đương đầu với những tế bào ung thư bất khuất. Không. Ông có thể lái quyền lực đất nước ông, làm giảm uy quyền của nó. Tất cả đều nằm trong tay ông và lạy Chúa ông không có
tính quá thận trọng về chính trị. Con gái ông là người yêu thương duy nhất còn lại trên đời này. Ông sẽ phải cứu Theresa.
Nhưng sau đó, Francis Kennedy thấy lo ngại, sợ đến thót tim phải bật đèn trên đầu giường. Ông ngồi dậy ra ngồi trên chiếc ghế bành. Ông kéo chiếc bàn đá cẩm thạch lại gần, nhấp một ngụm sôcôla nguội lạnh còn lại trong tách của ông.
Ông tin chắc rằng sở dĩ máy bay bị bắt cóc vì con gái ông bay chuyến đó. Bọn bắt cóc máy bay chắc muốn chính thức hóa quyền lực của một số tên khủng bố tàn nhẫn nào đó. Do đó chúng nảy ra ý định sử dụng ông, Francis Kennedy. Tổng thống Hoa Kỳ là chỗ dựa đáng tin cậy trong việc chính thức hóa này. Như vậy do lòng khát khao muốn được làm Tổng thống Hoa Kỳ, ông, Francis Kennedy, đã phải gánh chịu trách nhiệm về sự hiểm nguy của con gái mình.
Francis Kennedy lại văng vẳng nghe thấy tiếng của bác sĩ: “Căn bệnh ung thư đang trong giai đoạn phát triển cực nhanh”, nhưng mãi lúc này ông mới hiểu rõ ẩn ý câu nói ấy. Mọi thứ đều nguy hiểm hơn sự bộc lộ bề ngoài của chúng. Đêm nay ông phải vạch kế hoạch để bảo vệ; ông có đủ sức mạnh làm thay đổi định mệnh. Giấc ngủ không bao giờ có thể lọt vào các khoang sọ não của ông chứa chất đầy chất nổ.
Ông ước gì? Đạt tới vận mệnh đầy thành đạt của dòng họ Kennedy? Nhưng ông chỉ là phận cháu họ. Francis Kennedy nhớ tới cụ họ Joseph Kennedy, những câu chuyện trai gái của cụ đã trở thành truyền thuyết, một người gom tích vàng, một đầu óc sắc bén trong hiện tại nhưng đui mù về tương lai. Ông trìu mến nhớ tới cụ Joe, tuy nếu ngày nay còn sống, cụ hẳn đã có những suy nghĩ đối lập về chính trị với Francis Kennedy. Hồi ông còn nhỏ, cụ Joe vẫn thường tặng quà sinh nhật cho ông những đồng tiền vàng và đặt niềm tin vào ông. Cụ sống thật ích kỷ bằng cách bòn rút các ngôi sao điện ảnh Hollywood để tôn các con trai cụ. Cụ chẳng bao giờ bận tâm chú ý rằng mình là con khủng long trong giới chính khách, và cái kết cục mới thật bi thảm làm sao. Một cuộc đời may mắn cho mãi tận đoạn cuối: hai con trai cụ còn rất trẻ, giữ cương vị cao chót vót, đã bị ám sát. Ông lão bị gục, cú đòn chung kết đã giáng nổ bung não cụ.
Đứa con trai mình lên giữ chức Tổng thống liệu một ông bố nào lại có được niềm vui lớn hơn niềm vui đó? Và liệu ông lão tạo dựng ngôi báu có biết rằng như vậy là hy sinh con trai để dâng cho cái vô nghĩa không? Liệu có phải thánh thần đã trừng phạt cụ không vì lòng kiêu hãnh mà là vì ý thích của cụ không? Hoặc tất cả chẳng qua chỉ là một sự rủi ro?
Các con trai Jack và Robert của cụ, những con người thật giàu có, thật hào hoa, thật tài giỏi bị giết hại bởi bàn tay lũ vô danh tiểu tốt mà lịch sử đã ghi lại coi chúng là lũ giết người để đánh cược. Không, có thể không phải do chú ý, tất cả chuyện đó xảy ra là do chuyện rủi ro. Biết bao điều vặt vãnh có thể làm thay đổi cả một định mệnh, một chút thận trọng nhỏ có thể lái bẻ quặt hướng của thảm họa.
Còn lúc này – còn lúc này rất có thể đây là cảm giác kỳ cục về số phận. Tại sao lại có khâu mắt xích móc nối giữa vụ ám sát Giáo hoàng và vụ bắt cóc con gái Tổng thống? Tại sao chúng cứ trì hoãn việc đưa ra yêu sách? Còn những điều kiện ràng buộc gì nữa trong cái mớ rối bòng bong chưa chịu tung ra? Và tất cả những chuyện này lại do một người ông chưa hề nghe nói tới, có cái tên Ả rập bí ẩn là Yabril và một thanh niên người Italia có cái tên khôi hài phớt đời là Romeo.
Francis Kennedy ngồi trong bóng tối, lòng lo sợ không biết kết cục sẽ ra sao. Ông thấy cơn giận quen thuộc, luôn bị ghìm nén, nỗi kinh hãi trỗi dậy. Ông nhớ lại cái ngày lo âu khắc khoải khi ông nghe thấy tiếng khẽ thì thầm báo rằng cậu Jack đã chết và tiếng kêu thất thanh thê thảm của mẹ ông.
Sau đó, may thay, các khoang sọ não của ông khép chặt, các hồi ức tan biến. Ông ngồi ngủ gục trong chiếc ghết bành.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Một Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện - Chủ Nhật Lễ Phục Sinh
Chương 3:
Thành viên trong bộ tham mưu của Tổng thống có ảnh hưởng lớn nhất đến Francis Kennedy là chưởng lý, Christian Klee sinh ra trong một gia đình giàu có từ những ngày đầu của nước Cộng hòa. Giá trị tài sản của ông ta hiện nay phải lên tới trên trăm triệu đô la, ông ta được vậy là nhờ sự dìu dắt và sự khuyên bảo của bố mình, Oracle, Oliver Oliphant. Ông ta chẳng bao giờ đòi hỏi bất kỳ điều gì và cũng đã đến thời điểm ông ta chẳng cần gì hết. Ông ta có quá dư trí thông minh, quá dư tiềm năng để trở thành một con người khác: một kẻ thông minh nhàn rỗi đầu tư tiền của vào điện ảnh, chạy theo phụ nữ, sài ma túy và túy lúy say sưa hoặc sa đà vào những mê tín tôn giáo. Hai người: Oracle và Francis Xavier Kennedy, cuối cùng đã dẫn dắt ông ta đi vào con đường chính khách.
Christian gặp Kennedy lần đầu tiên tại Harvard không phải với tư cách là bạn đồng học mà với tư cách thầy trò. Kennedy là giáo sư dạy luật trẻ nhất Harvard. Vào tuổi những năm hai mươi, ông đã là một người biệt tài. Christian vẫn còn nhớ kỳ bài học mở đầu của thầy Kennedy.
Khi Christian Klee tốt nghiệp trường Đại học luật Harvard, ông ta không hề có ý định là gì cả. Ông ta chẳng say mê thứ gì. Tiền của của ông ta có hàng triệu đô la, nhưng ông ta chẳng quan tâm tới tiền bạc và cũng chẳng thực sự quan tâm đến luật học. Ông ta là một thanh niên lãng mạn.
Ông ta đã dùng ma túy một thời gian ngắn nhưng sau chán và bỏ. Christian đến hỏi ý kiến Oracle, hồi đó còn “trẻ”, mới bảy mươi nhăm tuổi nhưng có niềm say mê khác thường với cuộc sống luôn làm ba cô tình nhân vất vả và bận rộn, nhúng tay vào mọi công việc kinh doanh và tuần nào cũng bàn bạc với Tổng thống Hoa Kỳ. Oracle nắm được bí quyết cuộc sống.
Oracle đã khuyên Christian:
- Anh chọn một việc gì anh thấy chán nhất để làm và làm trong vài năm. Việc gì đấy anh chẳng hề có ý định và ước muốn làm. Nhưng những việc như vậy cuối cùng lại bồi bổ về thể lực và tâm trí anh. Anh cố học một phần việc của thế giới mà anh nghĩ rằng nó sẽ chẳng bao giờ đóng vai trò gì trong cuộc đời anh. Đừng phung phí thời gian. Hãy học đi! Chính tôi đã bước vào con đường chính trị khởi đầu đều là như vậy đấy. Điều đó đã làm bè bạn tôi ngạc nhiên, tôi thực sự chẳng hề quan tâm đến tiền bạc. Anh làm một việc gì anh ghét cay ghét đắng. Trong ba hoặc bốn năm càng giải quyết được nhiều vấn đề thì công việc lại càng trở nên hấp dẫn.
Hôm sau, Christian ghi tên vào học tại West Point và bốn năm sau làm sĩ quan trong Quân đội Hoa Kỳ. Oracle thoạt đầu bàng hoàng, sau đó lão thấy thích thú.
- Được đấy, - lão bảo, - Anh sẽ chẳng bao giờ chịu ở mãi trong quân đội, rồi anh sẽ thấy chán và xin giải ngũ.
Sau bốn năm theo học ở West Point. Christian lại dành bốn năm tiếp theo phục vụ trong quân đội đào tạo những đội biệt kích và trở thành một lính chiến biệt tài trong chiến đấu có vũ trang hay không có vũ trang. Cơ thể Christian đáp ứng tốt mọi nhiệm vụ mình đã đề ra, tạo cho ông ta cảm giác mình là người bất tử.
Ba mươi tuổi Christian xin giải ngũ và vào làm cho ban tác chiến của CIA. Christian lại bỏ ra bốn năm
hoạt động trên chiến trường châu Âu. Từ Châu Âu, Christian sang hoạt động sáu năm ở Trung Đông và tiến rất nhanh mãi cho tới khi bị bom làm cụt mất một chân. Đây lại là một sự thách thức nữa. Christian đã rèn luyện sử dụng chân giả như chân thật nên ông ta đi lại không bị khập khiễng. Nhưng bước đường công danh của ông ta trong chiến đấu bị chặn ở đây, ông ta quay về nhà mở một công ty luật.
Rồi sau đấy, Christian thấy lòng mình lần đầu tiên xao xuyến trước tình yêu, ông yêu và lấy một cô gái đáp ứng mọi niềm mơ mộng của mình hồi còn trẻ. Cô gái thông minh, dí dỏm, trông rất xinh đẹp và rất hấp dẫn. Trong năm năm đầu, Christian sống hạnh phúc bên vợ và hai đứa con thơ, hài lòng trong mê cung chính trị được Oracle cầm tay dắt dẫn, chỉ lối đưa đường. Christian đã thầm nghĩ, cuối cùng, mình đã tìm được chỗ đứng của mình trong cuộc sống. Nhưng sau đấy Christian gặp chuyện bất hạnh. Vợ ông ta yêu một người khác và đòi ly dị.
Christian lặng người, sau đó tức điên lên. Ông ta hạnh phúc, lẽ nào vợ ông ta lại không sống hạnh phúc? Và chuyện gì đã làm cô ta thay lòng đổi dạ? Ông ta yêu thương chú ý tới từng ý muốn của vợ. Tất nhiên, Christian mải làm mải ăn, xây dựng sự nghiệp. Nhưng ông ta giàu có và cô ta nào có thiếu thốn thứ gì đâu. Trong cơn giận Christian đã khăng khăng khước từ mọi yêu cầu của vợ đấu tranh đòi chăm sóc con cái, từ chối ngôi nhà người vợ khẩn khoản mong muốn, hạn chế mức hoàn lại bằng tiền bạc mà người vợ ly hôn được hưởng. Christian ngạc nhiên khi bị dồn như vậy, người vợ dự định sống với người chồng mới trong nhà Christian.
Christian tới gặp Oracle dốc mọi nỗi đau khổ của mình ra kể với lão. Ông ta ngạc nhiên thấy lão không hề tỏ ra thông cảm.
- Anh trung thành, anh nghĩ như vậy vợ anh cũng sẽ trung thành với anh? Chẳng bận tâm tới cô ta nữa thì sẽ ra sao? Vợ anh hoàn toàn có lý khi bỏ anh. Cô ta thấy rõ tâm can anh. Cô ta biết rằng anh chưa bao giờ thực sự hạnh phúc. Nhưng hãy tin bố, như vậy tốt hơn. Bây giờ anh là người đàn ông thực sự được thừa nhận đang đứng đúng ở vị trí của mình trong cuộc sống. Anh đã gạt được mọi thứ trên con đường của anh: vợ anh và con chỉ tổ vướng cẳng. Anh quả là một người sống độc thân để mưu việc lớn. Tôi biết rõ vì tôi đã đi con đường đó. Vợ có thể gây nguy hiểm cho người đàn ông thực sự có tham vọng, con cái là mảnh đất nuôi dưỡng thảm họa. Hãy tỉnh táo, xử sự theo đúng phong cách một nhà luật sư. Anh nên cho cô ta tất cả những gì cô ta yêu cầu, bõ bèn gì với tiền bạc của anh. Các con anh còn rất trẻ, chúng sẽ quên anh ngay thôi mà. Nên suy nghĩ theo cách đó. Bây giờ anh là người tự do. Anh tự cầm lái lái cuộc đời mình.
Christian đã sống đúng như Oracle chỉ bảo.
Khuya đêm Chủ Nhật Phục Sinh, Christian Klee rời Nhà trắng đến thăm Oliver Oliphant để nhờ lão khuyên bảo và đồng thời thông báo cho lão biết rằng trung tâm Kennedy đã hoãn buổi lễ mừng thọ trăm tuổi của lão.
Christian rót trà ra tách Oracle và mấy phút đầu tiên, hai bố con ngồi uống trà, mỉm cười với nhau. Sau đó, Oracle lên tiếng đầu tiên:
- Tôi cho rằng anh tới để thông báo hủy buổi lễ mừng ngày sinh nhật của tôi. Tôi và mấy cô thư ký đã xem vô tuyến. Tôi bảo họ rằng buổi lễ của tôi sẽ bị hoãn.
- Đúng, - Christian đáp, - Nhưng chỉ trong vòng một tháng thôi. Chắc chắn bố còn thọ tới ngày đó? – Christian mỉm cười.
- Chắc chắn rồi, - Oracle đáp – Ông Tổng thống yêu dấu của anh đã có ý kiến gì về tất cả những chuyện đó?
- Tôi chưa bao giờ cảm phục con người này như hiện nay, - Christian nói – Tôi chưa thấy một ai giữ được bình tĩnh như ông ta trước tấn bi kịch khủng khiếp của bản thân. Lúc này ông ta còn vững vàng hơn trường hợp khi vợ ông ta qua đời.
Oracle lạnh lùng nói:
- Khi cái tồi tệ nhất có thể xảy ra với anh đã thực sự xảy ra, anh cắn răng chịu đựng được, lúc đó anh sẽ là con người vững vàng nhất thế giới. – Oracle ngừng lời một lát rồi nói tiếp: - Nếu thấy không phạm vào lời tuyên thệ hoặc lòng trung thành với Tổng thống thì tại sao anh không cho tôi biết được ta đã đề ra giải pháp gì rồi?
- Francis rất băn khoăn là tại sao cho tới lúc này bọn bắt cóc máy bay không đưa ra yêu sách gì, mười mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua. – Christian nói, - Ông ta cho rằng đó là điều tai hại.
- Đúng vậy, - Oracle nói.
Hai người ngồi im lặng một lúc lâu.
- Tôi thực sự lo cho Francis, - Christian nói. – Ông ta không thể chịu đựng hơn được nữa. Nếu có chuyện gì xảy ra cho...
- Sẽ có một cuộc đụng độ rất nguy hiểm. – Oracle nói. – Anh biết không, tôi vẫn còn nhớ Francis Kennedy khi ông ta còn là một chú bé. Ngay dạo đó tôi đã phải chú ý trước cách cậu bé chi phối các ông bác mình. Ông ta là một anh hùng bẩm sinh, thậm chí ngay cả lúc còn là một chú bé. Ông ta đã bảo vệ những ai hèn kém hơn. Và đôi lúc ông ta gây tổn thất còn nghiêm trọng hơn súng đạn.
Oracle ngừng lời. Christian rót thêm nước trà nóng ra tách của lão tuy tách trà còn trên lưng tách. Ông ta biết tính Oracle không thích dùng thứ gì quá nóng hoặc quá nguội lạnh.
- Tổng thống bảo tôi làm bất cứ điều gì, tôi sẽ không từ chối, - Christian nói. – Bố này, bố cho tôi biết rõ sự thật về Helen Du Pray, bà ấy được bố che chở trước khi đi lấy chồng. Tôi biết bố đã giúp bà ấy trong bước đầu chập chững trên con đường chính trị. Bố đã lần nào ngủ với bà ấy chưa hay bố đã quá già?
Oracle lắc đầu.
- Trước chín mươi tuổi, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình quá già yếu. Christian này, chừng nào cái của nợ của anh không còn ngọ nguậy được lúc ấy mới thực sự cảm thấy cô đơn. Nhưng để tôi trả lời câu hỏi của anh. Bà ấy không thích tôi, tôi chẳng đẹp đẽ gì. Tôi phải nói thẳng ra rằng trong tôi buồn chết đi được, bà ấy rất xinh đẹp, một sự hòa hợp rất ăn ý với tôi. Tôi chẳng bao giờ yêu những mụ đàn bà thông minh nhưng vô duyên: họ quá say mê bản thân mình. Tôi thích yêu những người đàn bà xinh đẹp, nhưng một khi họ trở thành người thông minh, họ sẽ đưa tôi bay bổng lên chín tầng mây. Helen Du Pray ồ, tôi biết bà ta sẽ tiến xa, bà ta rất khỏe, một ý chí cường tráng. Đúng, tôi đã thử, nhưng chưa lần nào thành công, phải nói thật rằng đấy là trường hợp thất bại hiếm xảy ra. Nhưng hai chúng tôi vẫn là chỗ bè bạn tốt của nhau. Khước từ một người đầy dục tình, hơn nữa lại là một người bạn tâm tình thì kể cũng đáng phục. Một trường hợp rất hiếm xảy ra. Lúc đó, tôi vỡ lẽ hiểu ra rằng bà ta là một phụ nữ thật sự có tham vọng.
Christian khẽ đụng vào tay Oracle, ông ta có cảm giác như vừa đụng vào một vết sẹo. - Hàng ngày tôi sẽ gọi điện hoặc ghé tới đây, - Christian nói. – Có gì tôi sẽ kịp thời báo bố biết.
Sau khi Christian ra về, Oracle rất bận rộn. Lão điểm lại những thông tin Christian vừa cho biết về câu lạc bộ Socrate, hội viên của nó là những nhân vật cự kỳ quan trọng trong cấu trúc của nước Hoa Kỳ. Lão không cho rằng làm như vậy là phản bội Christian, người lão chân tình yêu thương. Lòng yêu thương là thứ phụ.
Lão phải bắt tay hành động, đất nước lão như con tàu bơi giữa những dòng nước nguy hiểm. Nhiệm vụ của lão là phải dìu nó tới chỗ an toàn. Nhưng người như độ tuổi lão thì còn có thể làm gì để cuộc sống bõ công sống? Thật lòng mà nói: lão thường coi khinh câu chuyện huyền thoại về Kennedy. Đây là cơ hội vĩnh viễn xóa sạch chuyện đó.
Cuối cùng, Oracle để cho mọi người lăng xăng quanh lão, chuẩn bị giường cho lão. Lão nghĩ tới Helen Du Pray, lòng đầy thiện cảm và lúc này không hề thấy thất vọng. Lúc vào những năm hai mươi tuổi, bà ta còn rất trẻ, sức sống mãnh liệt đã làm tôn vẻ đẹp của Helen. Lão thường lên lớp cho cô nàng Helen Du Pray về quyền lực, cách giành được và sử dụng nó, và điều còn quan trọng hơn nữa là phải biết cách tiết chế khi sử dụng. Và Helen Du Pray đã kiên nhẫn lắng nghe, coi đấy là những lời răn dạy cần thiết để giành quyền lực.
Lão dạy Helen Du Pray một trong những quyền lớn nhất của loài người là phải biết cách cưỡng lại được quyền lợi của chính bản thân mình. Tự phụ kiêu căng hủy hoại cuộc đời họ. Tính đố kỵ và tự lừa phỉnh mình kéo con người xuống dốc, rơi tõm tận đáy vực. Tự hình dung rõ bản thân mình thật quan trọng như thế nào? Có những người chẳng bao giờ chịu luồn cúi, nịnh bợ, dối trá, chẳng bao giờ thoái lui, phụ bạc hoặc lừa đảo. Nhưng lại có những kẻ sống đố kỵ và ghen tị với số phận may mắn hơn của người khác.
Đấy chẳng qua chỉ là một loại biện hộ đặc biệt và Helen Du Pray đã nhìn thấu suốt. Bà ta đã không chấp thuận lão và bỏ cuộc chẳng cần lão giúp, bà ta cũng thực hiện được giấc mơ của mình về quyền lực.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Hai Trong Tuần Lễ Phục Sinh
Chương 4:
THỨ HAI
Kế hoạch đưa Romeo trốn thoát khỏi Italia đã được chuẩn bị rất kỹ. Một chiếc xe tải chở hắn và người trong nhóm hắn rời khỏi Quảng trường St Peter về ngôi nhà an toàn, tại đây chúng thay quần áo, được trao cho hộ chiếu rất tiện sử dụng, xách va li được chuẩn bị sẵn và chui qua những con đường ngầm dọc biên giới vượt sang miền Nam nước Pháp. Tại một thị trấn ở Nice, hắn lên máy bay về Paris và rồi bay tiếp sang New York. Tuy suốt ba mươi tiếng đồng hồ vừa qua Romeo không chợp mắt ngủ chút nào, nhưng hắn vẫn tỉnh táo.
Bữa ăn tối và rượu trên các chuyến bay của hãng Air France rất ngon nên Romeo cảm thấy dần dần hồi sức. Máy bay hạ cánh xuống sân bay Kennedy ở New York. Cô chiêu đãi viên đưa chiếc áo vét cho hắn, Romeo với tay lên giá lấy va li của mình xuống. Lúc đi ngang qua chỗ hải quan, hắn đã sắm vai của hắn thật tuyệt vời.
Romeo nhận ra ngay những người hắn bắt liên lạc. Cô gái đội mũ trượt tuyết màu xanh lá cây có kẻ sọc trắng. Tên thanh niên đội mũ đỏ kéo sụp xuống để lộ rõ chữ “Yankee” màu xanh lơ.
Cô gái gầy giơ xương, tóc vàng hoe và chẳng hợp với khẩu vị của Romeo, nhưng khuôn mặt cô ta giữ vẻ nghiêm nghị của người phụ nữ, tạo cho cô ta dáng vẻ những cô gái đoan trang, gây được cảm tình của Romeo. Hắn tự hỏi không biết khi ăn nằm cùng giường, cô ta sẽ ra sao, hắn hy vọng sẽ lưu lại đây lâu để gạ gẫm cô. Chuyện đó chẳng khó khăn gì. Hắn có sức quyến rũ phụ nữ. Về mặt này, hắn trội hơn hẳn Yabril. Cô ta rồi sẽ đóan được rằng hắn có liên quan tới vụ ám sát Giáo hoàng, do đó sẽ coi chuyện ngủ với hắn là một giấc mơ lãng mạn. Romeo nhận xét thấy cô gái không ngả người hoặc đụng chạm vào người tên thanh niên cùng đi.
- Xin lỗi, - Romeo mỉm cười và nói giọng tiếng Anh của hắn nghe nặng như đổ chì. – Anh chị có thể cho biết đến Long Island phải đi xe buýt nào?
Cô gái quay lại nhìn Romeo. Đến gần trông cô ta xinh xắn hơn. Hắn thấy cô ta có chiếc sẹo nhỏ ở cằm và lòng ham muốn của hắn lại càng bị kích thích.
- Anh muốn tới Norht Shore hay South Shore? – Cô gái hỏi.
- East Hampton, - Romeo đáp.
Cô gái mỉm cười, một nụ cười ấm áp, thậm chí còn có vẻ khâm phục. Tên thanh niên đón một chiếc va li của Romeo và bảo:
- Tôi là Dorothea. Mong anh đừng lo nghĩ gì hết.
Hai tên ngồi ở ghế trước cũng tự giới thiệu. Sau đó, cô gái nói:
- Anh sẽ sống rất thoải mái và an toàn.
Đúng lúc ấy Romeo cảm nhận rõ nỗi lo âu khắc khoải của tên Judas phản Chúa.
Tối đó đôi thanh niên người Hoa Kỳ phải chật vật vất vả nấu mời Romeo một bữa ăn ngon.
Sau đấy, Romeo cố ngủ một giấc. Nhưng tất cả những nỗi kinh hoàng trong mấy ngày vừa qua ập tới cùng với làn không khí của đại dương ùa vào phòng qua cánh cửa sổ rộng mở. Hắn lại thấy rõ cảnh hắn giơ súng lên, Giáo hoàng gục ngã, hắn ba chân bốn cẳng chạy băng qua quảng trường và nghe rõ tiếng những người hành hương hoảng hốt gào lên.
Sáng sớm hôm sau, một buổi sáng ngày Thứ Hai, hai mươn bốn giờ sau khi Romeo ám sát Giáo hoàng, hắn nhận thấy mình có thể đi dạo trên bãi biển của nước Hoa Kỳ. Ngôi nhà chìm trong im lặng khi hắn bước xuống thang, hắn thấy Dorothera và Richard ngủ trên hai tấm đệm riêng tại phòng khác tựa hồ như có ý muốn canh gác. Hắn rời khỏi nhà, làn gió nhẹ mặn vị nước biển mơn man da thịt hắn. Một chiếc máy bay trực thăng bay trên đầu hắn rồi bay đi mất, có hai chiếc thuyền đậu gần bờ, nhưng chẳng thấy một bóng người. Mặt trời chuyển dần từ màu da cam sẫm sang màu vàng khi nó mọc cao dần. Romeo bước dạo một hồi lâu, rẽ ở góc vịnh và không còn thấy ngôi nhà nữa. Do hoang mang hoảng sợ và có lẽ do lớp cỏ mọc cao gần như sát ngay bờ biển đã cản trở bước hắn. Hắn quay về.
Đúng lúc ấy, Romeo nghe nổi lên tiếng còi xe cảnh sát rú vang. Hắn nhìn thấy rõ ánh đèn nhấp nháy trên nóc các xe, hắn bước vội về phía chúng. Hắn không cảm thấy sợ, hắn không nghĩ rằng Yabril phản hắn. Nhưng khi thấy chiếc máy bay trực thăng lại xuất hiện trên bầu trời, còn hai chiếc thuyền tưởng không có ai đang từ từ tiến lại sát bờ, Romeo thấy sợ và hốt hoảng. Bây giờ chẳng còn cơ hội trốn thoát, hắn muốn bỏ chạy, chạy và cắm đầu chạy. Nhưng hắn cố giữ bình tĩnh và bước chậm lại, tiến về ngôi nhà đầy người và súng bao vây. Chiếc trực thăng bay lượn sát mái nhà. Người đi lại trên bãi biển mỗi lúc một đông. Romeo định lao về phía đại dương, những người nhái từ dưới nước ập tới. Romeo quay người chạy về phía ngôi nhà và cuối cùng hắn thấy Richard và Dorothea.
Cả hai đều bị trói gô nằm quèo trên đất. Chúng khóc lóc. Những người có vũ trang liền xông tới tóm chặt Romeo và dùng dây thép, dây đồng lớn trói chặt hắn.
Nằm bên phía đại dương xa tít khỏi thế giời này, cái thế giới được các vệ tinh do thám trên vũ trụ và màng lưới ra đa dò khắp tầng ôzon bảo vệ suốt ngày đêm, Yabril đang ngồi ăn điểm tâm với Quốc vương ở Sherhaben trong cung.
Quốc vương là người có toàn quyền ở Sherhaben. Quốc vương là người cực kỳ giàu có. Dầu mỏ đã đem lại cho Sherhaben nguồn lợi nhuận to lớn. Mức sống trung bình của người dân Sherhaben đạt mức cao nhất thế giới. Quốc vương cho xây dựng trường học và bệnh viện mới. Quốc vương mơ ước biến Sherhaben là một vương quốc như Thụy Sĩ ở thế giới Ả rập. Quốc vương có tính kỳ cục là rất ưa sạch sẽ, cho bản thân cũng như cho cả vương quốc.
Quốc vương nhận lời tham gia vụ âm mưu với Yabril chẳng qua là vì thích mạo hiểm, thích đánh bạc với tiền đặt cọc lớn, đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp và ngoài ra, bản thân Quốc vương cũng như vương quốc đang gặp chút rủi ro nguy hiểm từ khi có cả hàng tỷ thùng dầu nằm an toàn dưới vùng sa mạc thuộc vương quốc.
Một lý do còn mãnh liệt hơn, Quốc vương yêu thương và biết ơn sâu sắc Yabril. Khi Quốc vương còn là một hoàng tử ở tuổi thanh niên, vương quốc đang chìm trong tranh đấu giành quyền lực đặc biệt lúc người ta phát hiện thấy túi dầu cực lớn. Các công ty dầu lửa của Hoa Kỳ đã ủng hộ những đối thủ của Quốc vương vì, tất nhiên, họ đã tạo điều kiện thuận lợi cho người Hoa Kỳ. Quốc vương đang theo học ở nước ngoài nên đã hiểu rõ giá trị của việc khai thác dầu và Quốc vương đã đấu tranh giữ lại dầu cho Sherhaben; cuộc nội chiến bùng nổ. Chính lúc đó tay thanh niên còn rất trẻ Yabril đã giết những đối thủ của Quốc vương, giành quyền lực trao vào tay Quốc vương. Tuy là một con người có đức, Quốc vương vẫn phải thừa nhận đấu tranh chính trị có những luật lệ riêng.
Sau khi nắm quyền, Quốc vương cho phép Yabril trú ẩn khi gã thấy cần. Do đó, mười năm qua, Yabril đã lưu tại Sherhaben lâu hơn bất kỳ nơi nào khác. Gã đã có một khu riêng, tách biệt, có nhà cửa, người hầu kẻ hạ, vợ và các con. Tại lãnh địa riêng của gã. Yabril đã có cả một bộ máy hành chính không để bất kỳ cơ quan tình báo của nước nào có thể lọt vào được. Suốt mười năm nay, tình cảm giữa hắn và Quốc vương càng khăng khít. Cả hai đều cùng học chung một thày giáo dạy kinh Coran và căm thù bọn Israel, hai người đều không căm ghét người dân thường Do Thái, mà căm ghét bọn quan chức Do Thái.
Quốc vương ở Sherhaben có một giấc mơ thầm kín không dám thổ lộ với ai, thậm chí cả với Yabril. Ông mơ ước một ngày nào đó Israel sẽ bị tiêu diệt, dân Do Thái sẽ lại phải phiêu bạt khắp thế giới. Lúc đó Quốc vương sẽ lôi kéo các nhà khoa học và học giả người Do Thái tới sống tại Sherhaben. Quốc vương sẽ xây dựng một trường đại học lớn tập hợp trí tuệ của người Do Thái. Lịch sử đã chẳng chứng minh cho thấy giống nòi Do Thái có bộ óc cực kỳ thông minh đó sao? Eintstein và các nhà khoa học người Do Thái đã chế tạo cho thế giới bom nguyên tử. Họ rồi đây sẽ còn khám phá những bí ẩn nào của Thượng đế và thiên nhiên? Thời gian sẽ xóa nhòa hận thù; người Do Thái và Ả rập sẽ cùng chung sống hòa bình và cùng xây dựng Sherhaben trở thành một đất nước hùng mạnh. Quốc vương sẽ không tiếc gì họ, sẽ tôn trọng mọi tập tục, không gì có thể đồng hóa về văn hóa của họ. Ai biết được rồi đây sẽ ra sao? Sherhaben sẽ trở thành một Athens mới. Quốc vương mỉm cười trước ý nghĩ điên rồ đó của mình, nhưng giấc mơ của Quốc vương chẳng gây tổn hại cho ai.
Nhưng bây giờ mưu tính của Yabril có thể là một cơn ác mộng. Quốc vương cho mời gã vào cung, cổ vũ gã rời máy bay, hứa sẽ cho canh gác máy bay cẩn thận. Yabril nổi tiếng trong tài thêm thắt tình tiết ly kỳ vào câu chuyện của mình.
Quốc vương đã khăng khăng bắt Ỷabril tắm và rửa, cạo râu và vui với cô vũ nữ xinh đẹp nhất trong cung. Sau đấy, hai người ngồi ngoài hàng hiên có điều hòa nhiệt độ mát rượi.
Quốc vương thấy có thể nói thẳng thắn:
- Tôi có lời chúc mừng anh. – Quốc vương bảo Yabril. – Anh đã phối hợp thời gian thật tuyệt vời, phải nói rằng kể cũng gặp may. Chắc chắn Đức Allah phù hộ anh. – Nói tới đây Quốc vương trìu mến nhìn Yabril. Rồi Quốc vương đi thẳng ngay vào vấn đề: - Tôi đã nhận được thông báo trước của Hoa Kỳ tuyên bố sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của anh. Sướng nhé! Anh đã làm mất mặt một nước lớn nhất thế giới. Anh đã giết chết người đứng đầu thế giới trong tôn giáo. Anh sẽ thực hiện kế hoạch giải thoát tên anh đã sai giết Giáo hoàng và việc đó chẳng khác gì nhổ vào mặt chúng. Nhưng thôi, đừng đi xa hơn nữa. Anh hãy tính toán suy xét xem chuyện gì sẽ xảy ra. Anh sẽ là người bị săn lùng ráo riết nhất trong lịch sử của thế kỷ.
Yabril biết rõ chuyện gì đang xảy ra, thăm dò thu lượm nhiều thông tin hơn để xem nên thương lượng như thế nào. Trong giây lát, gã tự hỏi nếu Quốc vương phỗng tay trên hoạt động vừa rồi của gã thì sao?
- Tôi sẽ được an toàn trên đất Sherhaben này, Yabril nói. – Như mọi lần.
Quốc vương lắc đầu.
- Anh cũng thừa biết rõ như tôi rằng sau khi vụ này được giải quyết xong, bọn chúng sẽ tập trung vào Sherhaben này. Có lẽ anh nên tìm một chỗ ẩn nấp trú thân khác.
Yabril phá lên cười.
- Tôi sẽ là kẻ hành khất ở Jerusalem. Nhưng Quốc vương cứ lo cho bản thân đi. Chúng sẽ biết Quốc vương cũng tham gia vụ này.
- Chưa chắc, - Quốc vương nói, - Và tôi đang ngồi trên đại dương dầu lớn nhất và rẻ nhất thế giới. Hơn
nữa, người Hoa Kỳ đã đầu tư vào đây năm chục tỷ đô la, cái giá của thành phố dầu ở Dak và thậm chí còn nhiều nữa. Không, tôi cho rằng tôi sẽ được bỏ qua nhanh hơn là anh và Romeo của anh. Còn bây giờ, anh Yabril, anh bạn của tôi, tôi biết rõ anh, lần này anh đi xa như vậy là đủ, một chiến công thực sự tuyệt vời. Mong anh đừng làm hỏng mọi chuyện vì những khúc nhạc tùy hứng nhỏ của anh dạo vào cuối trò chơi, - Quốc vương ngừng lời một lát, - Khi nào anh đưa ra yêu sách của anh?
Yabril nhẹ nhàng nói:
- Romeo đã nằm ở vị trí. Chiều nay sẽ có tối hậu thư. Chúng sẽ phải chấp nhận vào lúc mười một giờ sáng Thứ Ba, theo giờ Washington. Tôi không chịu chờ đợi.
- Phải rất thận trọng, Yabril, - Quốc vương bảo. – Gia hạn thêm thời gian cho họ đi.
Quốc vương và Yabril ôm hôn nhau, trước khi gã quay về máy bay, do ba người của gã và bốn tên thanh niên nữa từ nước ngoài tới Sherhaben canh gác. Con tin, gồm cả phi hành đoàn, đều bị lùa dồn vào khu vực dành cho khách du lịch. Máy bay đậu riêng một chỗ ở giữa sân bay, đám người tò mò, kể cả người của các hãng vô tuyến trên khắp thế giới với đầy đủ trang thiết bị và xe cộ bị quân đội của Quốc vươn căng dây bắt đứng xa máy bay năm trăm yard(1).
Yabril lên xuống máy bay lúc nào cũng được, gã được coi như người của phi hành đoàn cung cấp đồ ăn nước uống cho các con tin.
Sáng sớm tinh mơ ngày Thứ Hai, theo giờ Washington. Lời cuối cùng Yabril nói với Quốc vương của Sherhaben là:
- Bây giờ chúng ta sẽ thử xem cái tay Kennedy này xoay xỏa ra sao.
.........
(1) Yard xấp xỉ bằng 0,914 m
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Hai Trong Tuần Lễ Phục Sinh
Chương 5:
Thường là nguy hiểm khi một người từ bỏ mọi niềm vui thú của cõi đời này và giành mạng sống của mình đề giúp bạn. Tổng thống Hoa Kỳ, Francis Xavier Kennedy, là người như vậy.
Trước ba mươi tuổi, trước khi bước vào hoạt động chính trị Kennedy đã thành đạt và giàu có đến mức làm mọi người phải để ý. Lúc đó ông toàn tâm tòan ý suy nghĩ xem việc gì đáng làm trong cuộc sống. Do bản thân ông là người mộ đạo, do ông là một người nghiêm khắc tuân theo những nguyên tắc về mặt đạo lý, do tấn bi kịch bị mất đi mấy người bác lúc đang ở tuổi ấu thơ, ông tin rằng mình phải cải thiện thế giới đang sống là việc đáng làm nhất. Chủ yếu là làm cho bản thân. Định mệnh trở nên tốt hơn.
Khi được bầu vào danh sách ứng cử Tổng thống, ông nói rằng chính phủ của ông sẽ tuyên chiến với mọi sự nghèo khổ của nhân loại. Ông sẽ đại diện cho hàng triệu người không chấp nhận những kẻ vận động ở ngoài hành lang và các nhóm gây sức ép khác.
- Được học hành tử tế - Francis Kennedy nói – bất kỳ tên trộm cắp, kẻ cướp, bất kỳ tên lừa gạt nào cũng đều biết cách ăn cắp, cướp đọat không gây đau cho một ai. Họ đều biết cách ăn cắp như những người ở Wall Street, biết cách trốn thuế như những người đáng kính trong xã hội ta. Chúng ta có thể gây nên nhiều tội phạm theo kiểu công chức, nhưng xét cho cùng, không gây đau khổ cho bất kỳ ai.
Lúc này, bẩy giờ sáng Thứ Hai sau Chủ Nhật Phục Sinh, bộ tham mưu của Tổng thống Francis Kennedy, Nội các của ông và Phó tổng thống Helen Du Pray ngồi họp tại Cabinet Room ở Nhà Trắng. Và vào buổi sáng Thứ Hai đó, họ kinh hoàng về công việc sẽ tiến hành.
Tại Cabinet Room, người đứng đầu CIAlà Theodore Tappey đợi Kennedy ra hiệu, liền khai mạc cuộc họp.
- Trước hết cho tôi được phép thông báo rằng cô Theresa vẫn ổn cả, ông ta nói. Không một ai bị xúc phạm. Hiện nay chúng chưa đưa ra yêu cầu gì đặc biệt. Nhưng chiều nay yêu cầu sẽ được thông báo và chúng ta được thông báo trước rằng phải đáp ứng ngay không đàm phán. Tên chỉ huy vụ bắt cóc máy bay, Yabril, là một tên khét tiếng trong giới khủng bố và đúng như chúng ta được biết qua tài liệu lưu trong hồ sơ của ta. Gã là một tên hoạt động độc lập và thường tự đứng ra chỉ huy các vụ do chính gã vạch ra, có sự hỗ trợ của vài nhóm tổ chức khủng bố, như nhóm mang tính thần thoại Một Trăm.
Christian cắt lời:
- Tại sao lại mang tính thần thoại. Theo?
- Không phải đại loại như Ali Baba và bốn mươi tên cướp đâu, Theodore Tappey nói. Đấy chẳng qua là một sự liên kết hoạt động giữa các tên khủng bố ở các nước khác nhau.
- Anh trình bày tiếp đi, Kennedy giục.
Theodore Tappey ngó nhìn sổ ghi chép:
- Chẳng còn nghi ngờ rằng Quốc vương ở Sherhaben đang hợp tác với Yabril. Quân đội của Quốc vương bảo vệ sân bay nhằm chặn mọi ý định giải thoát máy bay. Trong khi đó, Quốc vương làm ra vẻ là
chỗ bè bạn của ta và tình nguyện đứng ra đàm phán. Chẳng ai có thể đoán được mục đích của Quốc vương, nhưng ông ta hành động như vậy vì quyền lợi của chúng ta. Quốc vương là người biết lẽ phải và có điểm yếu để ta có thể gây áp lực. Yabril là một tên man dại.
Người đứng đầu CIAdo dự một lát, sau đó, thấy Kennedy gật đầu nên bất đắc dĩ nói tiếp:
- Thưa ngài Tổng thống, Yabril định cố tẩy não con gái ngài. Hai người đã có những cuộc trao đổi khá lâu. Gã biết được rằng cô Theresa có tư tưởng tiến bộ và nếu cô đưa ra lời tuyên bố đồng tình với gã thì thật là một điều phi thường lý tưởng. Xem ra cô không sợ gã.
Những người khác đang có mặt trong phòng đều ngồi im lặng. Họ biết rõ Theodore Tappey đã moi bằng cách nào loại thông tin như vậy, nên chẳng cần hỏi vặn làm gì.
Có những tiếng lao xao nổi lên bên ngoài Cabinet Room, họ có thể nghe rõ những tiếng hò reo kích động của đám người ôm camêra vô tuyến đang đợi trên bãi cỏ của Nhà Trắng. Sau đấy, một trợ lý của Eugene Arthur Wix được dẫn vào phòng và trao tận tay Arthur Wix một bức thư viết tay. Người phụ trách bộ tham mưu của Kennedy đưa mắt liếc đọc thư.
- Khẳng định chính xác chưa? – Arthur Wix hỏi người dưới quyền.
- Dạ thưa, rồi ạ, người nọ đáp.
Arthur Wix nhìn thẳng về phía Francis Kennedy rồi nói:
- Thưa ngài Tổng thống, tôi vừa nhận được tin cực kỳ đặc biệt. Tên ám sát Giáo hoàng đã bị bắt tại đây, trên đất Hoa Kỳ. Tên tù nhân khẳng định hắn đã ám sát Giáo hoàng và khai bí danh là Romeo. Hắn một mực không chịu khai tên thật. Chúng tôi đã cho kiểm tra hỏi người bên An ninh Italia và tên bị bắt đã khai những chi tiết khớp với tội ác hắn đã gây ra.
Arthur Wix nổi cáu tựa như người thấy một vị khách không mời nhưng cứ tự ý nhảy vào tham dự một bữa tiệc ấm cúng.
- Hắn làm cái quỷ gì ở đất này? Tôi không tin.
Dazzy kiên nhẫn giải thích những điều đã được kiểm tra. An ninh Italia đã bắt được tên người của Romeo và chúng đã thú nhận, xác nhận Romeo là chỉ huy của chúng. Phụ trách An ninh Italia, Franco Sebbediccio, rất nổi danh trong việc hỏi cung. Nhưng ông ta vẫn chưa moi được lý do Romeo bay sang Hoa Kỳ làm gì và tại sao lại để bị bắt dễ dàng như vậy.
Fracis Kennedy đi đến bên cửa sổ trông ra khu vườn Rose Garden.
Ông quan sát đơn vị tuần tra khu vực Nhà Trắng áp sát với đường phố. Ông lại thấy nỗi kinh hãi quen thuộc trỗi dậy. Đụng đến chuyện gì đều gặp chuyện rủi ro, cuộc đời cứ như là một âm mưu chết người, không chỉ do con người mà cả niềm tin và cái chết đã chăng bẫy.
Francis Kennedy rời khỏi cửa sổ quay về ngồi vào bàn họp. Ông đưa mắt lướt nhìn những người đứng trên những cương vị cao cấp nhất của đất nước, những người tài giỏi, thông minh nhất, những người vạch kế hoạch, lập phương án. Ông nói, giọng gần như giễu cợt:
- Các vị, ai dám đánh cá cược rằng hôm nay bọn bắt cóc máy bay sẽ chuyển cho ta những yêu cầu của chúng? Và một trong những yêu cầu lại là thả tên ám sát Giáo hoàng.
Mọi người sững sờ nhìn Kennedy.
- Thưa Tổng thống, Otto Gray nói, đây là một sự lạm dụng quá đấy, một yêu cầu mang tính xúc phạm, không thể thương lượng được.
- Bên tình báo cho rằng giữa hai vụ ấy không có mối quan hệ, Theodore Tappey thận trọng nói. Thực vậy, tiến hành hai vụ quan trọng như vậy tại cùng một thành phố trong cùng một ngày là điều quá ư phi thường với bất cứ nhóm khủng bố nào, ông ta ngừng lời một lát rồi quay sang Christian Klee: - Christian, anh đã làm thế nào bắt được tên đó? – Sau đó, ông ta ghê tởm tiếp lời: - Tên Romeo.
- Thông qua mật vụ mà chúng tôi đã sử dụng nhiều năm nay, Christian nói. Tôi nghĩ rằng không thể nào tóm cổ được hắn, nhưng người đại diện của tôi, Peter Cloot, đã theo dõi toàn bộ chiến dịch. Phải nói rằng tôi rất ngạc nhiên. Bắt hắn chẳng vất vả gì.
- Ta hoãn cuộc họp này chờ cho tới khi bọn bắt cóc máy bay đưa ra yêu cầu. Francis Kennedy bình tĩnh nói.
Và trong giây phút ông hình dung rõ toàn bộ kế hoạch đầy tự hào và xảo quyệt của Yabril, ông thấy bàng hoàng sợ. Lúc này, lần đầu tiên, Francis Kennedy thực sự lo cho sự an toàn của cô con gái.
Nhờ sự giúp đỡ của Quốc vương ở Sherhaben yêu cầu của Yabril được chuyển tới Trung tâm thông tin của Nhà Trắng vào chiều tối Thứ Hai. Yêu cầu thứ nhất, phải chuyển năm chục triệu đô la tiền chuộc máy bay; Thứ hai, đòi tự do của sáu trăm tù nhân Ả rập bị giam trong các nhà tù của Israel. Yêu sách thứ ba, đòi thả Romeo, kẻ vừa ám sát Giáo hoàng và đưa hắn tới Sherhaben. Nếu trong hai mươi tư giờ tới, các yêu sách không được đáp ứng thì sẽ có một con tin bị xử bắn.
Francis Kennedy và bộ tham mưu của ông họp tại phòng ăn tối lớn ở mạn Tây – Bắc trên lầu hai Nhà Trắng để thảo luận các yêu cầu của Yabril. Helen Du Pray, Otte Gray, Arthur Wix, Eugene Dazzy và Christian Klee ngồi quanh một chiếc bàn cổ. Kennedy ngồi ở một đầu bàn và được bố trí ngồi rộng hơn những người kia.
Francis Kennedy đặt mình vào vị trí của bọn khủng bố; ông luôn có được tài thấu cảm này. Cái đích chủ yếu của chúng là làm bẽ mặt Hoa Kỳ, giật bỏ tấm áo quyền lực của nó trước con mắt của thế giới, thậm chí cả trước con mắt của các quốc gia có quan hệ hữu nghị. Và Kennedy nghĩ rằng đây là cú đòn tâm lý bậc thầy. Ai sẽ còn coi Hoa Kỳ là một đất nước hùng mạnh khi bị một nhúm kẻ có vũ trang và một vương quốc dầu mỏ nhỏ bé bôi tro trát trấu lên mặt? Nếu đưa được con gái an toàn trở về nhà, liệu ông có chịu để xảy ra chuyện đó không? Trong khi đặt mình ở vào địa vị bọn kia để suy nghĩ. Francis Kennedy cho rằng rồi sẽ còn xảy ra nhiều điều bất ngờ nữa. Nhưng ông im lặng không nói gì. Ông để mọi người phát biểu.
Với tư cách người phụ trách bộ tham mưu Eugene Dazzy khai mạc cuộc thảo luận. Ông ta nói, giọng chán nản vì mệt mỏi; suốt ba mươi sáu giờ qua, ông ta không được chợp mắt ngủ.
- Thưa ngài Tổng thống, Arthur Wix nói, chúng ta đáp ứng nhu cầu của bọn khủng bố ở mức hạn chế. Nghĩa là trao trả Romeo, không phải cho Yabril, mà cho chính phủ Italia, như vậy rất đúng và hợp pháp. Chúng ta không đồng ý trả tiền và không thể bắt Israel thả tù binh của họ. Giải quyết như vậy, ta không bị rơi vào thế quá yếu, đồng thời không khiêu khích chúng. Khi cô Theresa đã trở về nhà, ta sẽ xử lý bọn khủng bố.
- Tôi hứa sẽ giải quyết vấn đề này trong vòng một năm. Christian Klee nói.
Francis Kennedy ngồi im một hồi lâu, sau đó lên tiếng.
- Theo tôi cách giải quyết đó không ổn.
- Nhưng đấy là cách trả lời công khai của chúng ta. Đằng sau sự dàn dựng đó, chúng ta hứa với chúng là Romeo sẽ hoàn toàn được tự do, chúng ta sẽ trả tiền chuộc và sẽ đàm phán với Israel. Tôi nghĩ như vậy sẽ ổn. Ít ra giải pháp này cũng để chúng phải cân nhắc và chúng ta sẽ có thể đàm phán tiếp.
- Giải pháp đó không gây tổn hại gì. Arthur Wix nói. Trong những điều kiện như vậy, tối hậu thư chỉ là bước đầu của quá trình đàm phán. Rõ rồi! Hạn cuối cùng hai mươi tư giờ chẳng có nghĩa lý gì nữa.
Kennedy cân nhắc lời khuyên đó, sau đấy lại bảo:
- Theo tôi cách giải quyết này không ổn.
Oddblood Gray bèn lên tiếng:
- Tôi thấy được đấy. Còn anh, Francis, anh nên rất thận trọng. Nghị sĩ Quốc hội Jint và Thượng nghị sĩ Lambertino thông báo cho tôi biết rằng, vì quyền lợi của chính anh, Quốc hội có thể yêu cầu bỏ phiếu tạm cách chức anh cho tới khi giải quyết xong vụ khủng hoảng này. Đây là một tiến triển rất nguy hiểm.
- Không đời nào, Kennedy nói.
- Để tôi đối phó với Quốc hội, Phó Tổng thống Helen Du Pray nói. Tôi sẽ xin được làm cột thu lôi. Tôi sẽ thu hút mọi lá phiếu đề cử anh.
Đến đây, Arthur Wix nói tóm gọn lại:
- Anh Francis, trước tình thế như thế này, anh nên tin vào sự xét đoán tập thể của bộ tham mưu do anh đã lựa chọn. Anh biết rõ rằng chúng tôi sẽ bảo vệ anh và dốc tâm giải quyết vấn đề có lợi nhất cho anh.
Kennedy trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, rồi bảo:
- Nếu vậy, các anh cứ thế mà giải quyết.
Peter Cloot đã chứng tỏ năng lực tuyệt vời của một người được ủy quyền điều hành công việc của FBI. Cloot rất gày gò, cơ bắp gần như lẩn đâu hết cả. Ông để ria mép lún phún, nhưng cũng chẳng vì vậy mà khuôn mặt ông ta trông đỡ xương xẩu hơn. Tuy ông ta là người tốt, nhưng cũng có những nhược điểm này nọ. Ông ta quá cứng và quá tự hào khi thực thi nhiệm vụ và quá tin vào sự an toàn trong nội bộ của mình. Đêm nay, Cloot nhăn nhó đưa Christian mấy tờ bản sao và lần lượt đưa tiếp ba trang thư.
Đây là một bức thư với nội dung cắt từ các dòng đăng trên báo dán chắp ghép. Christian đọc bức thư. Nội dung thư báo cho biết trước rằng một quả bom nguyên tử sản xuất trong nước sẽ nổ bung tại thành phố New York. Christian bảo:
- Có thế này mà anh cũng phải lôi tôi rời khỏi văn phòng Tổng thống à?
Cloot liền đáp:
- Tôi đã phải chờ cho tới khi kiểm tra kỹ thực hư thế nào. Xem ra đây chẳng phải trò thừa hơi rỗi sức.
- Ôi lạy Chúa tôi, Christian nói. Nhưng chẳng đúng lúc tí nào! Ông ta đọc lại bức thư, lần này chăm chú đọc kỹ hơn. Chữ trên các mẩu cắt chắp ghép to nhỏ khác nhau nên rất khó đọc. Christian bèn ngồi vào bàn làm việc chậm rãi đọc từng từ một bức thư gửi cho tờ New York Times.
“Chúng tôi đã gài một quả bom hạt nhân với sức nổ tối thiểu là một kilôton rưỡi và tối đa là hai kilôton
trong khu vực thành phố New York. Thư này gửi tòa soạn nhằm đăng báo trước cho nhân dân trong thành phố biết để kịp thời sơ tán. Bom sẽ nổ sau bảy ngày kể từ ngày ghi trên thư. Do đó, hẳn toà soạn cũng rõ là cần phải công bố ngay nội dung thư. Bom sẽ nổ vào ngày Thứ Năm. Ông đọc tiếp: “Chúng tôi buộc phải hành động như vậy là do muốn để nhân dân Hoa Kỳ hiểu rằng chính phủ của họ cần phải hợp tác với phần còn lại của thế giới, trên cơ sở bình đẳng, trong công việc kiểm tra năng lượng hạn nhân, nếu không, hành tinh của chúng ta sẽ nổ tung.
“Tiền bạc hoặc bất kỳ điều kiện nào khác đều không thể mua chuộc nổi chúng tôi. Công bố bức thư này và đề nghị dân chúng thành phố New York sơ tán, tòa soạn sẽ cứu được hàng ngàn sinh mệnh.
“Muốn biết chắc đây chẳng phải là một bức thư dớ dẩn, tòa soạn gửi ngay phong bì và giấy dán nội dung thư tới các phòng xét nghiệm của nhà nước. Họ sẽ phát hiện ra ngay cặp Oxyt Plutoni.
Hãy đăng ngay nội dung bức thư này”.
Phần cuối của thư là những lời giáo huấn đạo lý và những yêu cầu quá khích đòi Hoa Kỳ phải ngừng vũ khí hạt nhân.
Christian bảo Peter Cloot:
- Anh đã cho xét nghiệm chưa?
- Rồi ạ, Cool đáp. Đúng là có dấu vết của các cặp Oxyt Phitoni. Những dòng chữ trên thư được cắt từ báo chí khác nhau, nhưng ta vẫn có thể lần ra manh mối. Người hoặc những người ghép thư khá tinh khôn nên đã cắt chữ từ các báo đăng trên toàn quốc để ghép thư. Nhưng tác giả bức thư đã sơ xuất để sót mã số các báo đăng ở Boston. Tôi đã phái năm mươi nhân viên An ninh tới Boston mời toàn bộ ban biên tập các báo ở đấy về đây.
Christian gật gù.
- Như vậy là phải thức trắng đêm rồi. Phải giữ thật kín chuyện này, nhất là với các phương tiện thông tin đại chúng. Ta sử dụng văn phòng tôi làm nơi điều hành nhiệm vụ này và gửi tất cả các báo chí tới đây cho tôi. Không có chuyện này Tổng thống đã đủ đau đầu rồi, tôi phải tự thanh toán cái của nợ ấy. Đây chỉ là một mẩu rác rưởi như những bức thư lập dị khác.
- OK, Peter Cloot đáp. Nhưng có ngày một trong những bức thư đó sẽ là thư thực.
Đêm ấy khá dài. Các bản báo cáo tới tấp gửi về. Trưởng Ban năng lượng hạt nhân và Nghiên cứu được thông báo tỉ mỉ nên ông ta bố trí các đội điều tra nghiên cứu trong tình trạng báo động. Đội viên trong các đội này được tuyển lựa rất kỹ và được trang bị những kỹ thuật có khả năng phát hiện ra trái bom đã cất giấu.
Christian và Cloot được phục vụ ăn tối ngay tại bàn làm việc và hai người chúi mũi đọc các bản báo cáo. Tất nhiên là tờ New York Times không công bố bức thư, theo đúng thủ tục, nó được chuyển ngay sang bên FBI. Christian gọi điện cho chủ bút tờ Times và yêu cầu ông ta lờ đi tin này cho tới khi làm sáng tỏ vụ việc. Đây cũng là vấn đề thủ tục. Trong một năm báo chí nhận được hàng ngàn bức thư tương tự. Chính vì vậy mà đến Thứ Hai, chứ không phải Thứ Bảy, họ mới nhận được thư.
Vào quãng nửa đêm, Peter Cloot quay về văn phòng của mình để điều hành ban của ông. Hàng trăm cú điện thoại do nhân viên ở ngoài hiện trường gọi về, phần lớn là từ Boston. Báo cáo vừa gửi về Christian liền chộp đọc luôn. Vẫn chưa có gì cụ thể lắm nên ông không muốn chất lên vai Tổng thống một gánh nặng nữa. Ông chợt nghĩ rằng vụ này rất có thể có liên quan đến vụ bắt cóc máy bay. Nhưng dù cho có
liên quan đi nữa thì bọn chúng chẳng dám quá liều lĩnh như vậy. Trước đây bom nguyên tử rất hiếm. Chỉ bọn điên mới tuyên bố rằng chúng chế tạo bom này tại nhà và vòi những khoản tiền từ mười tới một trăm triệu đô la. Có tác giả một bức thư thậm chí còn yêu sách đòi được có tên trong danh sách những người có cổ phiếu ở Wall Street, ở IBM, General Motors, Sears, Texaco hoặc ở một số các công ty kỹ thuật có
tên tuổi từ lâu đời. Khi bức thư được đưa sang cục Năng lượng với lời nhận xét tác giả thư là người mắc bệnh thần kinh thì liền nhận được báo cáo cho biết rằng tác giả thư không hề đặt trái bom nào, rằng bọn khủng bố rất hiểu biết về thị trường chứng khoán. Nhờ vậy người ta đã tóm cổ được một tên môi giới nhỏ ở Wall Street đã biển thủ tiền của khách và đang tìm đường thoát thân.
Hẳn đây lại là một vụ vỡ nợ, Christian nghĩ, nhưng dù sao nó cũng gây chuyện rắc rối. Sẽ phải chi hàng trăm triệu đô la. Nhưng rơi vào trường hợp tương tự thì cũng còn là chuyện rất may, các phương tiện thông tin đại chúng sẽ ỉm bức thư. Ông ta để cả mấy tiếng đồng hồ sau đấy để cầu nguyện sự việc sẽ diễn ra như vậy. Nếu thế, sáng mai ông ta chẳng phải tới gặp Tổng thống để khoét sâu thêm nỗi buồn của Tổng thống.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Hai Trong Tuần Lễ Phục Sinh
Chương 6:
Tại vương quốc của Sherhaben, Yabril đứng nơi ngưỡng cửa chiếc máy bay bị bắt cóc và suy nghĩ tới những khâu tiếp theo gã sẽ thực hiện. Sau đó gã để đầu óc thư giãn và đảo mắt nhìn quanh khu vực sa mạc. Quốc vương đã bố trí vây quanh kỹ khu vực này và đặt cả một hệ thống ra đa. Nó do một đơn vị có vũ trang tận răng bảo vệ rất nghiêm ngặt nên các hãng TV chỉ có thể mon men tới sát máy bay không quá một trăm yard, còn đằng sau họ là cả một đám người rất đông đúc tò mò kéo đến xem. Yabril nghĩ rằng ngày mai gã ra lệnh để bọn quay TV và đám đông được phép tiến đến gần máy bay hơn, rất gần. Gã không sợ bị bất ngờ tấn công, gã đã cài trà trộn vào đám người kéo đến kia cơ man nào là cảnh sát mật. Gã biết chắc như đinh đóng cột rằng, gã có thể nghiền nát mọi vật chống đối thành sắt vụn và các đống thịt bầy nhầy, còn xương cốt sẽ bị nghiền vụn hòa trộn với cát trên sa mạc.
Cuối cùng Yabril rời khỏi ngưỡng cửa, quay vào trong máy bay và ngồi xuống một chiếc ghế bỏ trống bên cạnh ghế của Theresa Kennedy. Trong ngăn hạng nhất chỉ có hai người. Bọn lính bảo vệ thuộc lực lượng khủng bố canh giữ những con tin khác trong khu vực dành cho hành khách du lịch và phi hành đoàn trong khoang buồng lái cũng bị lính canh giữ kỳ.
Yabril đã làm hết khả năng để Theresa sống thoải mái. Gã đã trấn an Theresa rằng các con tin khác đều được đối xử rất chu đáo. Tất nhiên, họ không được hưởng những ưu ái như cô hoặc như bản thân gã. Gã gượng cười bảo:
Như cô biết đấy, tôi l àm hết khả năng để không có chuyện gì đáng tiéc xảy ra với cô.
Theresa tin gã. Tuy sự việc vừa xảy ra thật đáng buồn, nhưng cô thấy khuôn mặt da ngăm ngăm đen, sôi nổi của gã xem ra có vẻ có thiện cảm. Cố biết rằng gã là một tên nguy hiểm, nhưng thực lòng, cô không thấy ghét gã. Do ngây thơ, cô tin rằng ở cương vị cô, không ai dám đụng tới cô.
Yabril nói, giọng gần như nài nỉ:
Cô có thể giúp chúng tôi, giúp các bạn đang là con tin cùng với cô. Cách đây mấy năm, chính bản thân cô đã từng bảo rằng sự nghiệm của chúng tôi là đúng đắn. Lực lượng Do Thái ở Hoa Kỳ quá mạnh. Chúng đã buộc cô phải im tiếng.
Theresa lắc đầu.
Tôi tin chắc rằng ông đã có những lý do riêng của ông. Nhưng những con người vô tội trên chiếc máy bay này chẳng bao giờ có ý làm chuyện gì không hay gây ảnh hưởng không tốt đến sự nghiệp của các ông. Chẳng nên để họ phải chịu đau khổ vì những tội ác do kẻ thù của các ông đã gây nên.
Yabril đặc biệt thấy thích thái độ dũng cảm và thông minh của Theresa. Gã cũng cảm thấy thích khuôn mặt xinh đẹp mang đặc trưng của người Hoa Kỳ của cô, trông giống như một con búp bê Hoa Kỳ.
Điều này cũng chứng tỏ rằng thực lòng cô chẳng sợ gã, chẳng run sợ chuyện đang xảy ra với cô. Cô ý thức rõ dòng dõi quý phái, sự giàu có và có thế lực của gia đình mình.
Thưa cô Kennedy, Yabril nói, giọng rất lịch sự đến nỗi Theresa nghe sướng tai, chúng tôi biết rất rõ cô không giống như những phụ nữ Hoa Kỳ kiêu căng, cô rất có cảm tình với người nghèo khổ và bọ áp bức
trên thế giới này. Cô thậm chí còn nghi ngờ cái quyền mà bọn Israel tự cho phép là xua đuổi người dân thường rời khỏi đất đai của họ để chúng thiết lập nhà nước của chúng. Có lẽ cô nên cho ghi lại mấy lời của cô về vấn đề này để cả thế giới đều được nghe.
Theresa Kennedy nhìn chằm chằm bộ mặt Yabril. Ánh mắt nâu của gã trong sáng và ấm áp, nụ cười làm bộ mặt sẫm màu của gã trông rất giống khuôn mặt một bé thơ. Theresa lại thấy tin tưởng vào cõi đời, tin vào con người, tin vào trí tuệ thông minh và niềm tin của chính bản thân cô. Cô thấy con người này thực sự tin vào điều gã đang làm. Gã đã chiếm được lòng kính trọng của cô.
Theresa lịch sự khước từ.
Có thể những điều ông vừa nói là sự thật. Nhưng tôi không thể làm bất kỳ chuyện gì có thể gây đau đớn cho bố tôi. Theresa ngừng lời một lát, rồi nói tiếp: - Và tôi tin rằng biện pháp của ông xem ra không thông minh lắm. Tôi cho rằng giết chóc và khủng bố chẳng thể làm thay đổi bất kỳ điều gì.
Nghe những lời nhận xét này, Yabril tức giận gần sùi bọt mép. Nhưng gã cố kìm và lịch sự đáp:
Israel được dựng lên nhờ vào bạo lực và tiền của Hoa Kỳ. Nhà trường ở Hoa Kỳ không biết đã dạy cho cô điều đó chưa? Chúng tôi học hỏi qua bọn Israel chứ không qua những lời lẽ đạo đức giả của cô. Các tộc trưởng mấy khu vực có dầu của Ả rập chẳng bao giờ rộng mở hầu bao chi tiền cho chúng tôi không khác gì lũ Do Thái nhân từ đối với Israel.
Theresa liền đáp:
Tôi tin nhà nước Israel. Tôi cũng tin rằng nhân dân Palestin sẽ trở về nhà của họ. Tôi chẳng có chút ảnh hưởng nào đối với bố tôi, bố con tôi thường hay ngùng ngằng tranh luận với nhau. Nhưng chẳng có gì có thể biện minh cho những công việc ông đang làm.
Yabril không còn kiên nhẫn được nữa và bảo:
Cô phải nhận thấy rằng cô là kho báu của tôi. Tôi đã đưa ra yêu sách. Nếu quá thời hạn như tôi đã yêu cầu, cứ sau mỗi tiếng đồng hồ, tôi sẽ đưa một con tin ra xử bắn. Và tôi sẽ bắn cô trước tiên.
Yabril sững sờ khi thấy Theresa vẫn điềm nhiên bình tĩnh. Cô là một kẻ ngu đần hay sao? Chẳng lẽ một phụ nữ được bảo vệ rất chu đáo lại can đảm như vậy? Gã tò mò muốn biết rõ thực hư. Cô đã được dối xử tốt. Theresa bị cách ly sống tại khu vực dành cho khách hạng nhất và được những người bảo vệ của cô rất kính nể. Theresa nổi cáu nhưng cô cố ghìm nén và nhấp uống tách trà người ta vừa bưng tới.
Theresa ngước nhìn Yabril. Gã nhận thấy mái tóc màu vàng hoe nhạt cô đã phủ che những nét độc đáo tế nhị của cô. Mắt cô quầng thâm vì mệt mỏi, còn cặp môi, không thoa son, tái nhợt.
Theresa nói, giọng dứt khoát:
Hai ông bác tôi đã bị những người như ông giết hại. Gia đình tôi luôn bị cái chết đeo đuổi. Do đó, khi trúng cử Tổng thống, bố tôi đã lo cho tôi. Bố tôi đã báo trước với tôi rằng thế gian anỳ có những con người như ông, nhưng tôi không tin lời bố tôi. Bây giờ thì tôi tin rồi. Tại sao ông đã hành động như một kẻ côn đồ? Ông cho rằng giết hại một cô gái trẻ sẽ làm cho cả thế giới này phải run sợ sao?
Yabril trầm ngâm suy nghĩ. Có thể là không đâu, nhưng gã đã giết Giáo hoàng. Cô ta chưa biết chuyện đó, ấy là vào lúc này. Gã lưỡng lự một lát định kể cho Theresa biết chuyện. Giáo hoàng là biểu tượng linh thiêng nhất, có quyền lực vô hạn mà mọi người phải run sợ, có uy quyền đối với những cường quốc và với các nhà thờ lớn. Nỗi sợ của con người trước uy quyền có thể bị sụp đổ do những hành động khủng
bố.
Nhưng Yabril đã ghìm được và chỉ giơ tay khẽ đụng vào người Theresa, vả trấn an:
Tôi không làm điều gì tổn hại cho cô. Chúng ta sẽ hợp tác với nhau. Cuộc đời là một sự hợp tác mà. Tôi và cô, như tôi đã nói đấy, chúng ta sẽ hợp tác với nhau. Mỗi hành động gây khiếp sợ, mỗi lời thóa mạ, mỗi lời cầu nguyện là một sự hợp tác. Đừng cho rằng những lời tôi vừa nói là nghiêm chỉnh.
Theresa cười.
Yabril hớn hở khi thấy Theresa coi gã là một người dí dỏm. Cô gợi gã nhớ tới Romeo. Cô cũng có sự nhiệt tình theo bản năng đối với những niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống, dù đó chỉ là một cách chơi chữ. Yabril đã có lần bảo Romeo “Thượng đế là một tên khủng bố khét tiếng nhất” và Romeo đã vỗ tay tán thưởng.
Yabril mệt mỏi, đầu óc gã choáng váng. Gã sửng sốt nhận ra rằng mình bị Theresa Kennedy mê hoặc. Gã không tin rằng trong đời gã, sẽ có một lúc nào đó gã sẽ rơi vào tình trạng yếu lòng này. Nếu gã thuyết phục được Theresa phát biểu ghi lại vào băng, gã sẽ không phải giết cô.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Hai Trong Tuần Lễ Phục Sinh
Chương 7:
THỨ BA.
Sáng thứ ba, sau vụ bắt cóc máy bay và vụ ám sát Giáo hoàng vào ngày Chủ Nhật Lễ Phục Sinh, Tổng thống Francis Kennedy bước vào phòng chiếu phim của Nhà Trắng để xem bộ phim từ Sherhaben gửi tới cho CIA.
Trong phòng đã có mặt các nhân vật cao cấp bên CIA, cố vấn nhà nước, cố vấn Bộ Quốc Phòng cùng ban cố vấn của họ và các thành viên trong bộ tham mưu của Nhà Trắng.
Mọi người đều đứng dậy khi thấy Tổng thống bước vào. Kennedy ngồi xuống chiếc ghế màu xanh. Theodore Tappey, giám đốc CIAđang đứng bên màn ảnh để thuyết minh.
Phim bắt đầu chiếu. Phim quay một chiếc xe tải tiến lại gần phía đuôi chiếc máy bay bị bắt cóc. Công nhân bốc đồ tiếp tế đều đội mũ rộng vành để chống nắng. Họ đều mặc quần bằng vài chéo nâu và áo sơ mi bằng vải bông nâu. Tiếp đó là cảnh công nhân rời khỏi máy bay. Ống kính quay chõ thẳng vào khuôn mặt Yabril nằm dưới bóng chiếc mũ đang đội, ánh mắt gã ánh lên dưới bóng mũ, miệng hơi nhếch mép mỉm cười. Yabril lên xe cùng đám công nhân.
Phim dừng lại và Tappey bắt đầu lên tiếng:
Chiếc xe này chạy vào khu đất rào kín của Quốc vương ở Sherhaben. Theo nguồn thông tin chúng tôi thu lượm được, bọn chúng vừa tổ chức một tiệc lễ có mời cả các vũ nữ tới. Sau đó Yabril quay về máy bay cũng bằng cách đó. Chắc chắn Quốc vương ở Sherhaben là kẻ đồng mưu trong những hành động khủng bố này.
Giọng của ông cố vấn nhà nước dội lên trong căn buồng tối:
Chắc chắn là chỉ với chúng ta thôi. Bên an ninh thường nghi ngờ mọi chuyện. Cho dù ta có chứng minh được điều đó, chúng ta cũng chẳng thể công khai làm toáng lên được. Nó sẽ làm nổ tung những cán cân chính trị ở Vịnh Perxic. Chúng ta buộc phải có hành động trả đũa và điều đó gặp tác hại ghê gớm đối với quyền lợi tốt đẹp nhất của chúng ta.
Otto Gray lẩm bẩm:
Jesus Christ!
Christian Klee bật cười.
Eugene Dazzy, do có khả năng viết được ngay cả trong bóng tói, liền ghi chép vào một tập giấy. Giám đốc CIAbáo cáo tiếp:
Xin cho phép tôi được tiếp tục thông báo ngắn gọn. Sau đây các ngài sẽ có bản sao chi tiết bản báo cáo của tôi. Hình như nhóm khủng bố quốc tế mang biệt hiệu Một Trăm Người Đầu Tiên, hoặc một cái tên đại loại là Đức Chúa Của Bạo Lực tài trợ về kinh tế cho vụ này. Tổ chức này hoạt động chủ yếu ở Đức, Italia, Pháp và Nhật Bản, còn ở Israel và anh thì chưa bám rễ vào được. Nhưng theo thông tin
chúng tôi được cung cấp thì thậm chí tổ chức Một Trăm cũng không thực sự biết rõ ý đồ của vụ này. Chúng cho rằng chiến dịch chấm dứt ở vụ ám sát Giáo hoàng. Như vậy chính Yabril đã cấu kết với Quốc vương ở Sherhaben chủ mưu cuộc âm mưu này.
Phim lại chiếu trên màn ảnh. Trên màn ảnh hiện lên hình chiếc máy bay đậu trên đường băng rải đá trộn nhựa đường, có lính quây quanh và súng phòng không bảo vệ không cho máy bay lạ tiến lại gần. Một đám đông tụ tập trong khu vực cách máy bay trên một trăm mét.
Qua những thước phim vừa rồi và qua các báo cáo tôi nhận được, ta không thể tổ chức một cuộc đánh úp giải thoát. Trừ phi ta quyết định gây áp lực ép Sherhaben, nhưng nếu làm vậy, ta sẽ vấp phải sự phản đối của các nước Ả rập khác. Đồng thời, chúng ta sẽ bị mất trên năm mươi tỉ đô la đã dốc ra để xây dựng Dak và khó bảo toàn được tính mạng các con tin chúng đang nắm trong tay. Chúng ta không thể mang trên năm chục tỷ đô la tiền của do nhân dân đóng góp đổ ra sông ra bể được – giám đốc CIAtrình bày tiếp.
Lúc này trên màn ảnh xuất hiện những cảnh quay trộm bên trong chiếc máy bay bị bắt cóc. Ống kính camểa đã lia vội đám hành khách con tin ngồi co dúm người sợ hãi trên ghế của họ. Sau đó là quang cảnh ở khoang hạng nhất. Yabril xuất hiện trên màn ảnh, và rồi mọi người thấy Theresa Kennedy. Yabri và Theresa hình như đang tâm đắc trò chuyện với nhau một chuyện gì đó.
Theresa mỉm cười, thấy vậy Kennedy gần như phải ngoảnh mặt nhìn đi chỗ khác. Nụ cười của Theresa gợi ông nhớ lại thời thơ ấu của ông. Ông thường thấy nụ cười như vậy nở trên khuôn mặt các bác mình.
Kennedy liền hỏi giám đốc CIA.
Phim này quay hồi nào và do đâu ta thu lượm được?
Tappey vội đáp:
Dạ thưa, phim quay cảnh diễn ra mười giờ trước đây. Chúng tôi đã phải trả cái giá đắt khủng khiếp cho một tên có quan hệ mật thiết với bọn khủng bố. Sau cuộc họp này, tôi sẽ xin trình bày chi tiết với Tổng thống.
Kennedy xua tay tỏ vể không cần thiết. Ông không muốn biết rõ những chi tiết này làm gì. Tappey lại lên tiếng:
Tôi xin trình bày tiếp. Không một hành khách nào bị bạc đãi. Có điều hơi lạ là những tên nữ tham gia vụ bắt cóc máy bay đều bị thay bằng người của Quốc vương. Tôi tháy nó có vẻ mờ ám..
Ở điểm nào? – Kennedy đột ngột hỏi.
Tappey liền đáp:
Bọn khủng bố hiện có mặt trên máy bay toàn là đàn ông. Ít nhất phải đến mười tên. Chúng được trang bị vũ khí rất tốt. Như vậy là nếu một khi bị bất ngờ tấn công, chúng sẽ giết hết các con tin. Chúng ta có thể suy luận rằng phụ nữ không có gan dám tàn sát như vậy. Do đó tốt nhất là ta không nên sử dụng biện pháp giải thoát con tin bằng vũ lực.
Klee liền đối đáp ngay:
Biết đâu chúng thay người chẳng qua chiến dịch của chúng đã chuyển giai đoạn. Hoặc Yabril nghĩ rằng
sử dụng nam giới linh hoạt hơn, dầu sao gã cũng là người Ả rập mà.
Tappey quay sang mỉm cười với Klee, rồi lên tiếng bảo:
Anh Christ này, anh cũng có biết rõ như tôi rằng sự thay người này là sai lầm. Như tôi đã biết chuyện như vậy chỉ xảy ra duy nhất có một lần trước đây. Theo kinh nghiệm của chính bản thân anh trong công tác hoạt động bí mật, anh thừa biết rõ rằng trong trường hợp tương tự, chẳng nên dùng biện pháp tấn công trực tiếp để giải thoát con tin.
Kennedy yêu cầu hai người ngừng tranh luận.
Mọi người lại theo dõi màn ảnh đang chiếu cảnh Yabril và Theresa vui vẻ trò chuyện, câu chuyện hai người đang nói có vẻ mỗi lúc một thân mật và đậm đà. Cuối cùng Yabril vỗ vai có vẻ như an ủi Theresa và nói gì đó, hình như tin vui vì mọi người thấy Theresa hồ hởi cười. Sau đó Yabril lịch sự nghiêng mình chào Theresa, một động tác chứng tỏ cô được gã bảo trợ và không bị ai làm hại.
Tôi thấy ngại thằng cha này. Ta phải cứu Theresa ra khỏi đấy. Klee bảo.
Eugene Dazzy ngồi tại văn phòng mình và tập trung suy nghĩ tìm mọi cách để hỗ trợ Tổng thống Kennedy. Thoạt đầu, ông gọi điện cho cô bồ báo rằng mình không thể đến gặp cô ta chừng nào chưa giải quyết xong vụ rắc rối này. Sau đó ông gọi điện cho vợ. Tiếp đến, ông suy đi tính lại rồi mới gọi điện cho Bert Audick, người mà ba năm trước đây là một trong những đối thủ phải chịu cảnh cay đắng nhất của chính quyền Kennedy.
Bert này, anh giúp chúng tôi chứ? – Eugene Dazzy nói. Tôi sẽ chịu ơn anh nhiều lắm đấy. Anh Eugene, trong vấn đề này thì hai ta đều là người Hoa Kỳ cả mà, Audick nói.
Như các đối thủ của Bert Audick đã từng nhận xét về ông ta, ông ta đã nuốt chửng hai công ty khổng lồ về dầu mỏ của Hoa Kỳ, đớp gọn chúng như ếch đớp ruồi. Quả thật trước đây trông ông ta giống một con éch ương với chiếc mồm rộng ngoác, hai má bạnh căng, cặp mắt trố. Còn hiện nay, ông ta là một con người bệ vệ, cao lớn. Cuộc đời của Bert Audick gắn liền với dầu mỏ. Lập nghiệp bằng dầu mỏ, phất lên nhờ dầu mỏ, trưởng thành cũng nhờ dầu mỏ. Sinh ra trong một gia đình giàu có, ông ta đã làm tăng số của cải này lớn gấp trăm lần. Ông nắm quyền điều hành một công ty có số vốn hai chục tỷ đô la và chiếm 51 phần trăm cổ phiếu của công ty. Ở tuổi bảy mươi hiện nay, ông ta biết rõ về dầu mỏ hơn bất kỳ một người Hoa Kỳ nào. Người ta đồn rằng ông biết vị trí mọi túi dầu nằm dưới lòng đất.
Tại các văn phòng chỉ huy ở Houston của ông trên các mản ảnh máy tính luôn hiẹn hình tấm bản đồ lớn của thế giới ghi rõ vị trí vô vàn những tàu chở dầu đang chạy ngoài khơi, cảng xuất phát và cảng sẽ tới, chủ tàu là ai, giá mua là bao nhiêu, chở bao nhiêu tấn. Ông ta có thể giúi cho bất kỳ nước nào một tỷ thùng dầu cũng dễ dàng thoải mái như một tay ăn chơi giúi cho chủ khách sạn một tờ năm chục đô la.
Bert Audick đã vớ bẫm trong vụ hoang mang lo lắng về dầu mỏ năm 1970, khi có sự phối hợp hành động chung của OPEC muốn bóp cổ bóp họng thế giới. Nhưng chính Bert Audick lại là người áp đặt về dầu. Trong vụ này, ông ta vớ được hàng tỷ đô la.
Nhưng Bert Audick làm việc đó không hòan toàn vì hám tiền. Ông ta quý dầu mỏ và sở dĩ phải đương đầu trong vụ đó vì lòng những ước mong sao cho mọi người có thể mua thứ năng lượng đem lại sức sống này với cái giá rẻ tiền. Nhờ nhiệt tình của tuổi trẻ muốn chống lại bất công xã hội, ông đã hỗ trợ ổn định được giá dầu mỏ.
Sau đó ông đã dành phần lớn số tiền giành được đó để đóng góp vào các tổ chức từ thiện.
Ông ta đã xây dựng những bệnh viện không nhằm kiếm lời, những trạm dưỡng lão, bảo tàng mỹ thuật. Ông đã trao tặng hàng ngàn học bổng cho học sinh không phân biệt màu da và tín ngưỡng. Tất nhiên là ông chú ý đến họ hàng và bè bạn của ông, giữ một khoảng cách với những vị anh em họ giàu có. Ông yêu đất nước và những bè bạn Hoa Kỳ của ông và chẳng bao giờ đóng góp tiền bạc vì bất kỳ việc gì ngoài biên giới Hoa Kỳ. Tất nhiên trừ những khoản đút lót cần thiết cho các nhà cầm quyền nước ngoài.
Ông ta đã không ưa những người cầm quyền trong đất nước ông hoặc bộ máy cầm quyền gây bao chuyện lộn xộn của họ. Bert Audick thực lòng yêu đất nước mình, nhưng do công việc kinh doanh và quyền dân chủ của ông, ông đã buộc phải ăn chặn đồng bào mình, buộc họ phải trả giá cho dầu mỏ mà ông tôn thờ.
Audick đã tin rằng ông cố giữ được dầu mỏ ở dưới lòng đất càng lâu càng tốt. Ông thường trìu mến nghĩ rằng hàng tỷ và hàng tỷ đô la được cất giữ an toàn trong các túi dầu nằm dưới các lớp cát sa mạc Sherhaben và tại các khu vực khác trên thế giới. Ông ta đã mua dầu của mọi người, mua các công ty dầu mỏ khác. Ông đã khoan các đại dương, mua thềm lục địa vào tận vùng bờ biển phía Bắc của nước Anh, mua cả một phần đất đai ở Venezuela. Và sau đó cả một khoảnh ở Alaska. Chỉ riêng mình ông biết rõ hết giá trị kho báu lớn nằm dưới các lớp băng.
trong quan hệ giao dịch buôn bán, ông tháo vát và nhanh nhẹn như một diễn viên vũ ba lê. Ông ta có một bộ máy thu htập tin tức tinh vi giúp ông ta đánh giá trữ lượng dầu mỏ của Liên Xô còn chính xác hơn cả CIA. Do phải trả một khoản tiền kếch xù mới moi được thông tin này nên ông đã coi nó là của riêng mình, không chia sẻ với chính phủ Hoa Kỳ.
Như nhiều người Hoa Kỳ khác, ông thực sự tin – và ông coi đó là điều chủ yếu của một xã hội dân chủ - rằng một công dân tự do trong một đất nước tự do có quyền được đặt quyền lợi của riêng bản thân mình cao hơn những mục đích của cá vị quan chức trong chính phủ được bầu trúng cử.
Dazzy đề nghị Kennedy gặp Audick, Tổng thống chấp thuận việc tiến cử này.
Với công chúng, Audick chỉ là motọ hình ảnh lu mờ được các báo và tờ tạp chí Fortune giới thiệu như một ông vua rởm về dầu mỏ. Còn với các vị đã trúng cử vào Quốc hội và Nhà Trắng, ông có ảnh hưởng rất lớn. Ông cũng có nhiều bè bạn và những người cộng tác, con số lên tới vài ngàn người, đang kiểm soát những ngành công nghiệp quan trọng nhất của Hoa Kỳ và là hội viên của Câu lạc bộ Socrates. Hội viên Câu lạc bộ này điều hành các thông tin đại chúng trong lĩnh vực in ấn xuất bản và vô tuyến truyền hình, điều hành các công ty kiểm soát việc mua bán và vận chuyển ngũ cốc; họ là những người khổng lồ ở Wall Street, trong ngành điện tử và ô tô, những người điều hànhc ác nàh băng. Và điều quan trọng nhất, Audick là bạn thân thiết của Quốc vương ở Sherhaben. Bert Audick được dẫn vào Cabinet Room, nơi Francis Kennedy cùng bộ tham mưu và các thành viên trong nội các của ông đang ngồi đợi để đón Audick. Mọi người đều biết rõ rằng Audick tới không chỉ có ý định hỗ trợ Tổng thống mà còn muốn cảnh cáo Tổng thống.
Công ty dầu mỏ của Audick đã đầu tư năm chục tỷ đô la vào các khu vực khai thác dầu ở Sherhaben và trung tâm chủ yếu ở Dak. Audick có giọng nói kỳ diệu, thân ái, đầy sức thuyết phục và đầy tự tin về những điều mình nói, gây cảm giác như sau mỗi lời ông nói ra đều có điểm một hồi chuông nhà thờ. Nếu muốn, Audick sẽ là một chính trị gia tuyệt vời không chỉ vì suốt đời ông, ông không thể nói dối nhân dân nước mình mà ông hoàn toàn tin chắc rằng đại bộ phậnc ử tri ở các quận theo phái bảo thủ sẽ bỏ phiếu cho ông.
Trước hết Bert Audick bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc nhất của mình với Kennedy, giọng ông chân thành tới mức không ai dám nghĩ khác rằng lý do duy nhất ông tới đây là được mong muốn góp phần của mình vào việc giải thoát Theresa Kennedy.
Thưa Tổng thống, Audick nói, tôi đã liên lạc được với tất cả những người tôi quen biết ở các nước Ả rập. Họ từ chối không tham gia vào vụ ghê tởm này và hết lòng giúp chúng ta. Tôi là bạn của đích thân Quốc vương Sherhaben và sẽ dùng mọi ảnh hưởng của mình để thuyết phục ông ta. Tôi đã được thông báo rằng có một số chứng cớ cho thấy Quốc vương tham gia vào âm mưu bắt cóc máy bay và ám sát Giáo hoàng. Tôi xin đảm bảo với Tổng thống rằng những chứng cớ đó không có cơ sở vững chắc, Quốc vương ngả về phía chúng ta.
Francis Kennedy giật mình như cảnh giác trước lời Audick vừa nói. Sao Audick lại biết rõ những chứng cớ chống lại Quốc vương? Chỉ những thành viên trong Nội các và chính bộ tham mưu của ông mới biết rõ thông tin này, nó được xếp vào loại thông tin tối mật. Rất có thể Quốc vương đã cử Audick tới để xin được miễn xá sau khi đã giải quyết xong vụ này? Nếu vậy đây sẽ là một màn dàn dựng nhằm đưa Quốc vương và Audick sắm vai các vị cứu tinh của con gái ông?
Sau đó, Audick nói tiếp:
Thưa Tổng thống, tôi được cho biết rằng ông đã nhận được những yêu cầu của bọn cướp máy bay. Thật ra, đây là một cú đòn đánh thẳng vào uy tín, quyền thế của Hoa Kỳ. Nhưng sau này chúng ta có thể lấy lại được. Mong ông cho phép tôi được nói đôi lời đến vấn đề, theo như chỗ tôi biết, hết sức thân thiết với con tim ông. Con gái ông sẽ không gặp chuyện gì đáng tiếc, - tiếng chuông nhà thờ vang trong họng Audick, vẻ cương quyết.
Cái giọng đầy vẻ tin chắc qua những lời vừa rồi làm Kennedy cảm thấy nghi ngờ Audick. Kinh nghiệm của chính bản thân trong cuộc vận lộn trên trường chính trị đã dạy Kennedy rằng sự hoàn toàn quả quyết là đặc tính đáng ngờ nhất của bất kỳ nhà lãnh đạo nào.
Theo ông, ta sẽ trao cho họ kẻ đã giết hại Giáo hoàng? – Kennedy hỏi.
Audick hiểu không đúng câu hỏi.
Thưa Tổng thống, tôi biết ông theo đạo Cơ đốc. Song mong ông nên hiểu rằng đấy là một đất nước theo đạo Tin lành đủ loại màu sắc khác nhau. Điều thật đơn giản trong đường lối đối ngoại là chúng ta cần phải tỏ rõ quan niệm của chúng ta không hề coi trọng xoáy vào cái tên đã giết hại Giáo hoàng đạo Cơ đốc. Đó là điều cần thiết cho tương lai đất nước chúng ta nhằm duy trì đường huyết mạch của chúng ta về dầu mỏ. Chúng ta cần Sherhaben. Chúng ta nên hành động thận trọng, sáng suốt chớ không nên nổi giận. Tôi
xin nhắc lại lời bảo đảm của tôi. Con gái ông đang được an toàn, Audick noi, giọng thành thực chân thành.
Kennedy cảm ơn Audick và tiễn ông ta ra tận cửa. Khi Audick đã rời khỏi phòng, Kennedy quay sang bảo Dazzy.
Chẳng hiểu ông ta nói cái quái gì?
Ông ta chỉ muốn ông lưu ý tới một số vấn đề, Dazzy bảo. Và có thể ông ta không muốn ông nảy ra ý định sử dụng khoản năm chục tỷ đô la tiền dầu mỏ ở khu vực khai thác Dak ấy làm tiền thương lượng, Dazzy ngưng lời một chút rồi nói tiếp: - theo tôi, ông ta có khả năng giúp chúng ta.
Christian ghé sát vào tai Kennedy và nói:
Anh Francis, tôi muốn gặp riêng một mình anh.
Kennedy xin lỗi mọi người ngồi trong phòng và tiếp Christian tại Oval Office. Do Kennedy không ưa sử dụng căn phòng nhỏ, các phòng khác trong Nhà Trắng chặt cứng những cố vấn và ban vạch kế hoạch
đang đợi các chỉ thị cuối cùng.
Christian thích Oval Office. Ánh sáng bên ngoài lọt vào phòng qua cửa sổ cao có lắp hệ thống đạn bắn không thủng, hai lá cờ: lá quốc kỳ màu đỏ tươi, màu trắng và xanh cắm bên phải chiếc bàn làm việc nhỏ, còn bên trái là lá cờ Tổng thống sẫm màu và xanh sẫm hơn.
Kennedy giơ tay mời Christian ngồi. Christian ngạc nhiên nhận thấy Kennedy rất bình tĩnh. Tuy hay người đã từng là chỗ bè bạn thân thiết suốt bao năm ròng, song ông không hề thấy Kennedy để lộ một vẻ xúc động nào.
Chúng ta lại gặp thêm một chuyện rắc rối nữa. Christian báo cáo. Ngay tại đất nước này. Tôi chúa ghét gây chuyện buồn phiền cho anh, nhưng đành phải nói để anh biết rõ.
Christian vắn tắt thuật lại nội dung bức thư về quả bom nguyên tử.
Đây chắc là một chuyện dớ dẩn, Christian nói. Có một phần triệu khả năng có thể có một trái bom như vậy. Nhưng nếu có, nó có thể phá hủy mười khối nhà cao ốc và giết hại hàng ngàn dân thường. Thêm vào đấy, phóng xạ do bom gây ra sẽ làm cho khu vực bị đánh bom bị bỏ không vườn trống có trời biết trong bao lâu. Do đó chúng ta phải thận trọng con số một phần triệu này.
Francis Kennedy liền hỏi độp luôn:
Hy vọng rằng anh không báo với tôi rằng vụ này liên quan đến vụ bắt cóc máy bay chứ? Rất có thể, Christian đáp.
Nếu vậy phải tìm cách chặn lại, loại trừ việc gây náo loạn ầm ĩ, - Kennedy bảo. Tung hệ thống phân loại bí mật về nguyên tử vào vụ này, dặn xong, Kennedy bật máy bộ đàm nói chuyện với văn phòng Eugenne Dazzy. Eugenne và Kennedy nói vào máy. – Gửi cho tôi cá bảng sao phân loại những luận án bí mật về nguyên tử. Đồng thời gửi cho tôi toàn bộ những hồ sơ y tế nghiên cứu về máy tính điện tử. Anh tổ chức một cuộc gặp mặt với Bác sĩ Annaccone.
Kennedy tắt máy. Ông đứng dậy và đưa mắt nhìn qua các cửa sổ phòng Oval Office. Ông lơ đãng giơ tay vuốt lớp vải bọc ngoài lá cờ Hoa Kỳ cắm bên cạnh bàn làm việc của ông. Ông đứng lặng người suy ngẫm một lúc lâu.
Christian kinh ngạc trước khả năng của con người có thể tách riêng việc này với mọi chuyện khác đang diễn ra. Ông bèn nói:
Tôi cho rằng đây là một vấn đề nội bộ, đại loại có kẻ nào đó đã nghiên cứu một bể chứa gây phóng xạ trong nhiều năm, do đó bị ám ảnh nên muốn báo trước để phòng ngừa tai họa xấu có thể xảy ra. Chúng tôi sẽ cho theo dõi sát một số kẻ khả nghi.
Kennedy vẫn đứng bên cửa sổ, vẻ mặt lại trầm ngâm suy nghĩ. Sau đó, ông nhẹ nhàng bảo:
Chris này, giữ kín chuyện này không để lộ cho ai biết nhé. Chỉ riêng anh và tôi được biết thôi. Thậm chí cả Dazzy và các thành viên khác trong bộ tham mưu của tôi cũng khôgn cho biết. Chẳng nên thêm dầu vào lửa.
Dòng người làm công tác thông tin đại chúng trên tòan thế giới cùng trang thiết bị của họ đổ về thành phố Washington. Không khí náo nhiệt như một sân vận động chật nick người, còn ngoài đường phố, người chen chúc tụ tập từng đám đông ngay trước Nhà Trắng tựa như họ muốn chia sẻ nỗi đau của Tổng
thống. Những chuyến máy bay ra nước ngoài nối đuôi nhau bay trên bầu trời, các cố vấn của chính phủ cùng những người tháp tùng bay đi nhiều nước trên thế giới để bàn bạc tháo gỡ nạn khủng hoảng. Các phái viên đặc biệt bay vào Hoa Kỳ. Một sư đoàn lính được điều động bổ sung đến để tuần tra thành phố và bảo vệ các khu vực phụ cận Nhà Trắng. Nhiều đám đông lớn chuẩn bị sẵn sàng thức suốt đêm tựa như muốn để Tổng thống vững tâm thấy mình không cô đơn trong cơn hoạn nạn của bản thân.
Tất cả các đài vô tuyến đều dành chương trình trong ngày để phát về lễ tang Giáo hoàng. Tất cả các nhà thờ lớn trên thế giới đều làm lễ truy điệu, hàng triệu người mặc đồ đen để tang và đau buồn khóc thương Giáo hoàng. Ai nấy đều ngấm ngầm đòi phải trả thù, tuy các bài giảng đạo kêu gọi lòng khoan dung. Trong các buổi truy điệu này, người ta còn cầu nguyện mong sao Theresa Kennedy được an toàn giải thoát.
Có những tin đồn Tổng thống sẵn sàng trả lại tự do cho tên đã sát hại Giáo hoàng để giải thoát các con tin và con gái ông. Các hãng vô tuyến phỏng vấn những chính khách có tên tuổi, họ không hoàn toàn cho rằng đây là một cách giải quyết khéo léo, nhưng nhận thấy rằng những yêu sách đầu tiên này chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc thương lượng như các lần bắt cóc con tin trong những năm qua. Họ không ít thì nhiều nhận định rằng Tổng thống hốt hoảng vì lo cho con gái đang gặp lâm nguy.
Trong bối cảnh đang diễn biến như vậy, đám người thức qua đêm tụ tập bên ngoài Nhà Trắng mỗi ngày một đông. Các đường phố Washington, trái tim của đất nước, tắc nghẽn xe cộ và khách bộ hành. Nhiều người trong số họ đem theo cả thực phẩm và nước uống để chuẩn bị thức trắng suốt đêm. Họ thức không ngủ cùng với Tổng thống của họ, Francis Kennedy.
Khi Kenndy về phòng ngủ của ông vào tối Thứ Ba, ông cầu nguyện mong sao các con tin sẽ được trao trả vào ngày hôm sau. Bước đầu Yabril đã thắng. Còn bây giờ, trên mặt bàn ngủ của Kennedy đã để sẵn một tập báo cáo do CIA, Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng và các bản giải trình của bộ tham mưu của chính Tổng thống. Anh quản gia, Jefferson, mang vào phòng cho ông một cốc sôcôla nóng và bánh bích quy. Tổng thống ngồi đọc các bản báo cáo này.
Ông đọc giữa các dòng. Ông chắp nối những quan điểm tưởng chừng như khác biệt hẳn nhau. Khi đọc báo cáo, ông cố tự đặt mình vào địa vị kẻ đối đầu với mình. Ông nhìn nhận trong mấy thập kỷ qua Hoa Kỳ là một nước có đôi chân đang teo, một gã khổng lồ béo bệu, bị viêm khớp, đang bị một tên nhãi xấu bụng véo mũi. Bản thân bên trong gã khổng lồ lại đang bị xuất huyết. Người giàu cứ giàu thêm, kẻ ngập trong bãi lầy lún xuống bùn. Lớp trung lưu tìm mọi cách kiếm tiền để sống thoải mái. Kennedy nhận thấy rằng những khủng hoảng mới đây: Vụ giám sát Giáo hoàng, vụ bắt cóc máy bay, vụ bắt cóc con gái ông và những yêu sách có tính chất muốn làm bẽ mặt là một sự dàn dựng được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm đánh thẳng vào uy quyền của Hoa Kỳ.
Nhưng ngoài ra lại còn cuộc tấn công vào ngay chính trong lòng Hoa Kỳ; lá thư dọa đánh bom nguyên tử. Ung nhọt ung thư ngay trong cơ thể. Tất nhiên ông đã ra lệnh không để gây hoang mang về mặt tâm lý và những biện pháp phòng ngừa. Nhưng chưa đủ. Chuyện này nằm ngay trong lòng đất nước, nó là một thủ đoạn quá nguy hiểm đối với bọn khủng bố, một vấn đề hóc búa quá nan giải đối với gã khổng lồ béo bệu. Đây là một bước đi liều lĩnh mà bất kỳ bọn khủng bố nào, dù táo tợn đến đâu, cũng không dám thực hiện.
Kennedy tiếp tục nghiên cứu các bản báo cáo khác. Nhưng lúc này chẳng còn biết làm gì hơn là chờ đợi.
Trước khi đắm mình vào giấc ngủ, ông nghĩ tới con gái và nụ cười rạng rỡ đầy tin tưởng lúc Theresa trò chuyện với Yabril, một nụ cười hiện thân của chính người bác đã quá cố. Sau đó ông chìm vào một cơn ác mộng, ông rên la kêu cứu. Jefferson vội chạy bổ vào phòng ngủ, đứng lặng người một lát nhìn
khuôn mặt khắc khoải của vị Tổng thống đang chập chờn ngủ. Sau đó anh lay Tổng thống tỉnh bứt ra khỏi cơn ác mộng. Anh bưng vào một ly sôcôla nóng sữa và đưa Kennedy viên thuốc ngủ bác sĩ đã dặn.
SÁNG THỨ TƯ.
SHERHABEN.
Francis Kennedy đi ngủ đúng lúc Yabril dậy. Gã thích không khí trên sa mạc vào những giờ phút sáng sớm, làn khí mát xua đi hơi nóng của mặt trời ủ trong lòng cát, cả bầu trời rực đỏ. Vào những giây phút này, gã luôn nghĩ tới Mohammedan Lucifer được mệnh danh là Azazel.
Thần Azazel đã được cử xuống hạ giới đốt cháy cát ở sa mạc thành lửa địa ngục. Ồ, mình phải là Azazel, Yabril thầm nghĩ. Hồi còn trẻ và tâm hồn còn thơ mộng, gã đã đặt cho chiến dịch đầu tiên của gã cái tên là Azazel.
Sáng này ánh sáng chiếu gắt làm gã hoa cả mắt. Do đang đứng nơi ngưỡng cửa chiếc máy bay có điều hòa nhiệt độ, gã bị một làn gió oi bức quật bật lùi trở vào trong máy bay. Gã thấy buồn nôn và tự hỏi không biết có phải do tại hành động của gã không. Bây giờ gã buộc phải ra tay làm một việc không thể đứng được.
Phía xa xa, gã thấy đội lính bảo vệ của Quốc vương đứng vây quanh cửa ra vào sân bay chặn hàng ngàn nhà báo và phóng viên các hãng vô tuyến truyền hình không để một ai lọt qua. Bây giờ gã đã là trung tâm chú ý của cả thế giới, gã nắm trong tay con gái Tổng thống Hoa Kỳ. Gã là một diễn giả lớn nhất, lớn hơn bất kỳ nhà lãnh đạo nào, bất kỳ vị Giáo hoàng, tiên tri nào. Yabril đưa mắt rời cửa máy bay mở ngỏ nhìn vào trong lòng máy bay.
Bốn tên trong số cốt cán mới của gã đang ngồi ăn sáng ở cabin hạng nhất. Hai mươi tư tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ khi gã trao bản tối hậu thư. Đã đến lúc rồi. Gã thúc bọn chúng ăn khẩn trương rồi trao việc cho từng tên. Một tên cầm lệnh do chính tay Yabril viết trao cho chỉ huy đội lính cahựn ở vành đai trước cửa ra vào sân bay bảo cho phép người của các hãng vô tuyến truyền hình tiến đến sát bên máy bay. Một tên đi phân phát những tờ truyền đơn tuyên bố rằng hai mươi tư tiến đồng hồ đã trôi qua kể từ khi Yabril đưa ra những yêu cầu, do đó một con tin sẽ bị xử bắn.
Hai tên còn lại được lệnh giải con gái Tổng thống từ hàng ghế đầu đã bị cách ly trong cabin khách du lịch tới cabin hạng nhất, nơi Yabril đang ngồi đợi.
Theresa Kennedy bước vào cabin hạng nhất, thấy Yabril ngồi đợi, cô nhẹ nhõm mỉm cười. Yabril ngạc nhiên thấy sau mấy ngày vừa qua phải sống trên máy bay mà sao trông cô vẫn thật đáng yêu. Gã nghĩ bụng sở dĩ được vậy là nhờ nước da. Cô không tô son điểm phấn nên da không bám bụi bặm. Gã đáp lại nụ cười của cô và nói giọng nửa đùa cợt:
Cô trông thật xinhd dẹp, nhưng hơi lôi thôi, lếch thếch. Cô nên trang điểm, son phấn thoa một chút ít, chải tóc gọn gàng. Ống kính vô tuyến đang đợi chúng ta. Cả thế giới đang ngóng đợi, tôi chẳng muốn họ nghĩ rằng tôi đã đối xử không ra gì với cô.
Yabril để Theresa vào phòng vệ sinh trên máy bay và đứng ngoài đợi. Theresa ở trong phòng khoảng hai mươi phút. Yabril nghe rõ tiếng nước chảy mạnh và hình dung thấy Theresa như một cô gái nhỏ. Gã thót tim quặn đau nên đã phải cầu nguyện, Azazel, cầu xin thần linh Azazel lúc này hãy ở bên con. Rồi sau đó, gã nghe tiếng những người đứng dưới trời nóng như thiêu đốt ngoài sa mạc đang la hét như sấm dậy: họ đã đọc các tờ truyền đơn. Gã nghe rõ tiếng động cơ các xe quay TV tiến lại sát bên máy bay.
Theresa bước ra, Yabril nhận thấy khuôn mặt cô hơi buồn bã. Nhưng cũng đồng thời toát lên một vẻ
ngoan cường. Cô đã quyết định rằng mình sẽ không nói gì, sẽ không để yabril ép buộc cô để quay cuốn băng video về gã. Theresa đã gọn gàng, xinh đẹp, tin tưởng vào sức mạnh của bản thân mình. Nhưng cô đã mất vẻ ngây thơ trong trắng. Cô mỉm cười với Yabril và bảo:
Tôi sẽ không nói gì đâu.
Yabril cầm tay cô và nói:
Tôi chỉ muốn họ được thấy cô.
Gã dẫn cô đến đứng trước cánh cửa máy bay mở rộng. Làn không khí đỏ rực ngoài sa mạc bốc lửa trên cơ thể họ. Sáu ống kính máy quay TV chĩa về phía máy bay như đang rình chộp những hình ảnh các con quái vật thời tiền sử.
Cô chỉ cần mỉm cười với họ, - Yabril bảo, - Tôi muốn bố cô thấy cô vẫn bình an.
Nói xong, gã vuốt gáy Theresa, cảm nhận rõ mái tóc vàng óng mượt như tơ lụa. Gã hắt ngược mái tóc cô lên để lộ chiếc cổ trắng nõn, điểm một nốt ruồi đen nhỏ nơi vai.
theresa bối rối khi thấy Yabril đụng tay vào người cô. Cô ngoái lại nhìn xem gã định làm gì. Gã liền túm chặt tóc cô, bắt cô phải quay mặt nhìn thẳng về phía các ống kính để máy có thể thu được vẻ đẹp trên khuôn mặt cô. Ánh nắng ngoài sa mạc tỏa ánh vàng quanh cô. Lúc này cơ thể cô là bóng của chính bản thân mình.
Một tay giơ cao áp chặt thành trên khung cửa, Yabril hất lưng Theresa đẩy cô đứng sát ngay mép cửa máy bay. Tay phải gã rút súng lục gí sát nòng vào lớp da trần nơ cổ Theresa. Trước khi cô cảm nhận thấy hơi lạnh của kim loại trên làn da, gã bóp cò súng và không đỡ để xác cô gái văng ra ngoài.
Theresa bật nảy người trên không, vươn về phía mặt trời, nhòa trong làn máu do cơ thể cô tuôn trào ra. Sau đó, cô lộn nhào xuống, chân hất cao lên trời, lộn một vòng rồi đập người xuống đường băng xi măng, nằm im bất động, đầu như bị ánh nắng hun nứt toác. Thoạt đầu, người ta chỉ nghe rõ tiếng camêra TV quay xè xe, tiếng cát lạo xạo, sau đó là tiếng khóc than của hàng ngàn con người lan vang trên sa mạc, cuốic ùng là tiếng kêu thét thất thanh khiếp sợ.
Âm thanh chủ yếu không hề mang chút hân hoan như đã mong đợi làm Yabril bị sững sờ. Gã rời khỏi cửa, bước giật lùi vào trong máy bay. Yabril cảm thấy quân của gã nhìn gã bằng cặp mắt hốt hoảng, ghê sợ, gần giống nỗi khiếp sợ của con thú. Gã bảo bọn chúng:
Cầu Đức Alah!
Nhưng chẳng tên nào hứng lời đáp lại gã. Gã đợi một hồi lâu, rồi cộc lốc bảo chúng:
Bây giờ cả thế giớ sẽ biết ta đáng gờm đến mức nào. Bây giờ chúng sẽ phải đáp ứng những gì ta yêu cầu.
Nhưng trong thâm tâm, gã nhận ra rằng tiếng la hét của đám đông không phải do xuất phát từ nỗi mê li ngây ngất như gã mong đợi. Phản ứng của những tên dưới quyền gã kể cũng đáng ngại. Việc xử bắn con gái Tổng thống Hoa Kỳ, việc tước bỏ một số biểu tượng ngoại trừ này của quyền lực đã vi phạm điều cấm kỵ gã không ngờ tới. Nhưng thôi, đành vậy.
Yabril suy nghxi một lát tới Theresa Kennedy, tới khuôn mặt đáng yêu, hương hoa viôlét toát ra từ chiếc cô trắng nõ của cô, gã nghĩ tới xác cô đang nằm trên cát bụi thấm loang máu đỏ. Và gã nghĩ, thôi
đành phó thác cô cho Azazel đã từ trời cao tỏa muôn ánh vàng bị mãi mãi đày xuống cát bụi sa mạc. WASHINGTON.
Trước buổi bình minh ngày Thứ Tư ló rạng, Tổng thống Kennedy thấy Jefferson lay mình tỉnh dậy đúng lcú đang đắm chìm trong cơn ác mộng rộn tiếng kêu thống khổ của cả một biển người. Và thật kỳ lạ, tuy chưa tỉnh hẳn dậy, ông đã nghe rõ tiếng đám đông nổi như sấm rền lọt qua cá bức tường Nhà Trắng.
Trông Jefferson có vẻ khác thường: anh ta không giữ được dáng vẻ người pha sôcôla nóng, chải sạch áo quần, người hầu cung kính. Toàn thân và bộ mặt anh căng thẳng như người sắp nhận một tin khủng khiếp. Anh ta cứ luôn mồm nhắc đi nhắc lại:
Thưa ông Tổng thống, tỉnh dậy đi, tỉnh dậy đi, ông!
Nhưng Kennedy đã tỉnh giấc và bảo:
Có chuyện gì mà ngoài kia ầm ĩ lên thế?
Chiếc đèn chùm tỏa sáng khắp giường. Có một nhóm người đứng sau lưng Jefferson. Kennedy nhận ra đó là viên sĩ quan hải quân, thầy thuốc của Nhà Trắng, đó là viên chuẩn úy đã được giao cho vụ hạt nhân “bóng đá”, đó là Eugene Dazzy, Arthur Wix và Christian Klee. Kennedy có cảm giác như Jefferson dựng ông rời khỏi giường, đỡ ông dậy, rồi quàng vội cho ông chiếc áo khoác. Ông không rõ tại sao chân mình cứ khuỵu xuống. Jefferson phải xốc nách ông.
Trông ai nấy đều ủ rũ, mặt mày trắng bợt, mắt như trố mở. Kennedy sững sờ nhìn họ, sau đó ông bối rối kinh hãi. Mắt ông mờ đi trong giây lát chẳng còn nhìn thấy gì, tai ù đặc, người mụ như mất trí. Viên sĩ quan hải quân mở chiếc túi đen và lấy ra chiếc ống tiêm đã chuẩn bị sẵn, nhưng Kennedy liền gạt đi bảo:
Không cần đâu.
Sau đó ông lặng lẽ lần lượt đưa mắt nhìn từng người đứng trước mặt mình, rồi cố cất lời bảo: Tôi không sao cả, Chris, tôi biết trước nó sẽ ra tay. Nó đã giết hại Theresa, đúng không?
Kennedy hồi hộp đợi Christian đáp không phải vậy, điều đó còn có một ý nghĩa khác nữa, nó như một chuyện thiên taim một vụ nổ trạm nguyên tử, cáci chết của người đứng đầu cao nhất trong một nước, vụ đắm một con tàu chiến lớn ở Vịnh Perxic, sức tàn phá của một vụ động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, bệnh dịch. Nó còn kéo dài theo chuyện khác. Nhưng Christian đã tái mặt đáp:
Đúng vậy.
Kennedy cảm thấy như bị cơn bệnh ủ từ lâu trong cơ thể mình, cơn sốt cố nén đột nhiên phát ra. Ông cúi gập người và mãi lúc này mới nhận thấy Christian đứng bên mình, tựa như muốn đứng che để những người khác đang có mặt trong phòng không thấy nước mắt ông đang tuôn trào và há miệng đớp không khí thở. Mọi người ở trong phòng liền tiến sát bên ông, viên bác sĩ trích mũi kim vào cánh tay Kennedy, rồi Jefferson và Christian nhẹ nhàng đỡ ông đặt lên giường.
Họ đợi Fancis Kennedy tỉnh lại sau cơn choáng. Cuối cùng ông đã phần nào tự chủ được bản thân, ông đưa ra một số chỉ thị: huy động tất cả các ban ngành cần thiết, giữ liên lạc thường xuyên với các vị đứng đầu Quốc hội và giải tán đám đông đang tụ tập trên đường phố và các khu vực quanh Nhà Trắng. Và để chặn mọi phương tiện đưa tin đại chúng, Kennedy tuyên bố sẽ gặp họ vào lúc 7.00 giờ sáng.
Mãi gần tối, Francis Kennedy mới cắt cử xong công việc của từng người. Sau đó Jefferson bưng chiếc khay thường lệ trên bày tách sôcôla nóng và bánh bích quy.
Tốt hơn hết tôi nên đứng ở ngoài cửa phòng, - Jefferson nói. – Thưa ông Tổng thống nếu được ông cho phép tôi cứ nửa tiếng lại vào đây xem ông cần gì không.
Kennedy gật đầu, Jefferson rời khỏi phòng.
Kennedy tắt tất cả các đèn. Hoàng hôn sắp đổ nên căn phòng mờ tối. Ông cố tập trung suy nghĩ thật rành rọt. Nỗi đau ông mang trong lòng là kết quả của cuộc tấn công mà đối phương đã tính toán kỹ và ông cố xua dịu nỗi đau này. Ông đưa mắt nhìn quakhung cửa sổ bầu dục dài. Ông đã cho lắp cửa bằng loại kính đặc biệt, ông có thể nhin ra bên ngoài, nhưng không ai nhìn được vào phòng, kính chống được đạn. Cửa sổ trông ra khu vườn Nhà Trắng, bên kia vườn là mấy dãy nhà của bên An ninh. Ngoài ra quanh vườn còn có cả một hệ thống theo dõi đặc biệt và các đội tuần tra có dắt theo chó. Bản thân ôgn luôn được an toàn: Christian đã giữ đúng lời hứa, nhưng chưa tìm ra được cách nào đảm bảo an toàn cho Theresa.
Nhưng chẳng cần phải đảm bảo an toàn Theresa nữa: con gái ông đã chết rồi. Và lúc này, sau khi cơn đau lúc ban đầu đã dịu, ông ngạc nhiên thấy mình thật bình tĩnh.
Ông rất thương quý Theresa. Nhưng con gái ông đã chết. Tin này không quá đường đột với ông vì mấy ngày qua ông đã tự mình chuẩn bị cho bản thân sẵn sàng đương đầu trước tình huống đau thươngnày.
Vụ ám sát Giáo hoàng và bắt cóc máy bay có liên quan tới việc bắt giữ con gái vị nguyên thủ một cường quốc hùng mạnh nhất thế giới, amĩ tới khi tên sát nhân được đưa vào vị trí và bị bắt tại Hoa Kỳ thì bọn chúng mới tung ra các yêu sách. Sau đó là sự ngạo mạn được cân nhắc kỹ trong yêu sách là đòi phải thả tên ám sát Giáo hoàng.
Francis kennedy đã phải dồn mọi nỗ lực phi thường về ý chí để xua đuổi khỏi tâm trí mọi suy nghĩ mang tính cá nhân. Ông cố gắng suy luận theo logic. Sự việc không đến nỗi quá rắc rối: một vị Giáo hoàng và một cô gái trẻ tuổi đã bị giết hại. Nếu nhìn nhận một cách khách quan thfi về cơ bản, sự kiện đó không làm thay đổi ghê gớm cán cân thế giới. Có thể phong thánh các vị chức sắc trong tôn giáo, người ta đã từng khóc than nuối tiếc bao cô gái trẻ. Nhưng có một điều cần phải cân nhắc kỹ. Mọi người trên toàn thế giới sẽ coi khinh Hoa Kỳ và những người lãnh đạo nước này. Từ đây sẽ nổ ra những cuộc tấn công khác không thể lường trước được. Nhà cầm quyền chẳng thể duy trì trật tự. Một nhầ cầm quyền đã trở thành cái đích để chế giễu và bị thất bại thì đâu còn khả năng gìn giữ bền chặt nền văn minh đặc thù của đất nước mình. Ông làm soa bảo vệ được nó đây.
Cửa phòng ngủ hé mở, ánh sáng từ ngoài hành lang ùa vào. Nhưng lúc này, căn phòng đã nhuộm ánh ban mai rực hồng. Jefferson, áo quần chỉnh tề, đẩy chiếc bàn có bánh xe trên bày bữa điểm tâm chuẩn bị cho Kennedy. Anh ta liếc nhìn ông vẻ lưỡng lự, cuối cùng anh đã quyết định mở rộng cửa, đẩy bàn vào trong phòng.
Nước mắt Kennedy dâng trào xuốn má và đột nhiên ông biết rằng đấy là những dòng nước mắt bất lực. Ông lại nhận thức rõ rằng nỗi đau trong lòng đã dịu và thấy kinh ngạc. Máu từng đợt từng đợt dội lên não khuấy gọi một cơn thịnh nộ khủng khiếp, ông thậm chí tức giận cả bộ tham mưu của ông đã không làm trọn nhiệm vụ với ông, một cơn thịnh nộ ông chưa hề từng biết và là hậu quả ông phải gánh chịu vì suốt đời ông, ông đã xem thường người khác. Ông cố ghìm nén nó.
Mãi lúc này ông mới suy ngẫm xem bộ tham mưu của ông đã cố hỗ trợ ông tới mức nào. Suốt bao
năm nay, Christian tỏ rõ mối thiện cảm trìu mến của mình với ông, chính Christian đã ôm ông và đỡ ông nằm xuống giường. Là một con người lạnh lùng và bàng quan, thế nhưng Oddblood Gray đã ôm chặt ông và khẽ lẩm bẩm:
Tôi rất lấy làm tiếc, vô cùng thương tiếc!
Còn Arthur Wix và Eugene Dazzy thì dè dặt hơn. Hai người chỉ hơi khẽ đụng tay vào người ông và lầm rầm nói đôi lời ông không nghe rõ nội dung. Kennedy nhận thấy rằng, với tư cách là người đứng đầu bộ tham mưu, Dazzy rời khỏi phòng ông sớm để ổn định mọi họat động của Nhà Trắng, Wix đã theo chân ngay Dazzy. Với tư cách là người đứng đầu Hội đồng An ninh quốc gia, ông sợ phải nghe một lời ra lệnh trả đũa quá dữ dội mà bố cô gái vừa bị giết hại ban ra.
Ngay trước khi Jefferson mang bữa điểm tâm vào phòng, Kennedy biết rằng cuộc đời mình sẽ đi theo một hướng hoàn toàn khác, có thể buột khỏi sự kiềm chế của bản thân. Ông cố gạt cơn thịnh nộ ra ngoài dòng suy nghĩ.
Francis Kennedy nhớ lại các phiên họp chiến lược thảo luận những sự kiện gay cấn tương tự. Ông nhớ lại Iran, Iraq.
Suy nghĩ của ông quay ngược trở lại thời điểm bốn chục năm trước đây. Dạo đó ông còn là một chú bé bảy tuổi nô đùa trên bãi cát ở Hyannisport cùng con cái của hai bác Jack và Bobby. hai bác ấy như mấy vị thiên thần có dáng người cao lớn, cân đối và đẹp trai đã cùng quây quần chơi đùa với lũ trẻ trước khi bước lên chiếc trực thăng đang đợi mình. Ông ngưỡng mộ quý mến bác Jack nhất, theo đúng tình cảm của một chú bé, vì chú biết rõ mọi điều bí mật của bác. Một lần chú thấy bác ôm hôn một người đàn bà, sau đó đưa bà ta vào phòng ngủ của bác, mãi một tiếng đồng hồ sau mới thấy hai người bước ra. Chú chẳng bao giờ có thể quên được ánh mắt bác lúc đó, một ánh mắt tràn đầy hạnh phúc tựa hồ như vừa được trao tặng một món quà không bao giờ quên được. Hai người đã không nhìn thấy chú bé núp sau dãy bàn kê dọc hành lang. Thời ấy bên An ninh còn sơ hở đã không bám sát Tổng thống.
Những kỷ niệm khác của thời thơ ấu lại tiếp nối quay trở lại trong đầu óc ông, đấy là những hình ảnh đầy uy quyền. Đàn ông, phụ nữ lớn tuổi hơn hai bác ấy nhiều đã tỏ vẻ cung kính hai bác như các bậc vua chúa. Bác Jack vừa bước chân ra bãi cỏ, nhạc liền nổi vang, mọi ánh mắt đổ dồn nhìn bác, mọi câu chuyện tuy đang trao đổi dở liền ngừng bặt chờ cho đến tận khi bác đọc xong bài diễn văn. Hai bác chú nổi tiếng là những người có uy quyền và phong nhã. Hai bác tin tưởng đợi trực thăng bốc lên cao, hai bác thấy an toàn khi thấy quanh mình che chắn cho hai bác tránh mọi hiểm nguy, hai bác đã bay vút lên trời cao lồng lộng và từ đỉnh cao bước xuống thật uy nghi biết bao...
Nụ cười của hai bác ấy tỏa sáng, ánh mắt toát lên đầy vẻ thánh thiện và hiểu biết, mang sức thuyết phục làm xiêu lòng người, còn thân hình mang sức hút mãnh liệt. Ấy vậy mà hai bác vẫn dành thời gian để vui chơi với mấy cô cậu nhóc là con trai, con gái, cháu của hai bác, vui chơi một cách thực sự nghiêm túc. Và rồi sau đó. Và rồi sau đó...
Chú ngồi coi vô tuyến với mẹ đang thút thít khóc theo dõi tang lễ của bác Jack, loạt súng bắn tiễn biệt, bày ngựa kéo xe tang, triệu triệu con người buồn tiếc thương đưa bác đến nơi yên nghỉ. Hình ảnh bác Bobby và bác gái Jackie xuất hiện trên màn ảnh nhỏ. Mẹ chú liền ôm chặt chú vào lòng và bảo:
Đừng nhìn cảnh này nữa, con. Đừng, con!
Mắt Francis Kennedy nhòa đi vì làn tóc dài của mẹ và vì đang ứa lệ.
Lúc này, nắng vàng lọt qua khung cửa vừa mở đã cắt ngang dòng hồi ức của Francis Kennedy và ông
thấy Jefferson đang đẩy chiếc bàn gắn bánh vào phòng. Ông liền vội bảo:
Đưa các thứ đó ra ngoài đi và sau một tiếng nữa hãy vào. Trong vòng một tiếng đồng hồ sắp tới, đừng để tôi bị mất tập trung ngắt quãng dòng suy nghĩ.
Ít khi ông ăn nói thô bạo hoặc cộc cằn. Jefferson nhìn ông, vẻ không hài lòng rồi đáp: Thưa Tổng thống, vâng ạ.
Nói xong anh ta đẩy bàn quay ra và đóng cửa lại.
Nắng khá gắt nên phòng ngủ lúc này tương đối sáng rõ nhưng không bị nóng. Tuy vậy không khí nhộn nhịp ở Washington vẫn lọt được vào trong. Xe lưu động của nhiều hãng truyền hình đặt trên các xe chạy đầy trên đường phố bên ngoài các cổng nhà và tiếng độngc ơ của vô vàn xe cộ đang chạy dội lên như một bày côn trùng khổn lồ vừa bị vỡ tổ. Máy bay liên tục bay qua lại trên đầu, toàn là của bên quân sự, máy bay dân dụng cấm không được bay qua khoảng không này.
Francis Kennedy cố dằn cơn thịnh nộ khó cưỡng lại đang dội lên trong lòng ông. Miệng ông đắng ngắt. Điều ông coi là thắng lợi vẻ vang nhất trong đời mình lại là nỗi bất hạnh lớn nhất ông phải gánh chịu. Ông đã được bầu giữ chức Tổng thống và vợ ông đã qua đời trước khi ông tuyên thệ nhậm chức. Những chương trình to lớn của ông dành cho nước Hoa Kỳ không tưởng đã bị Quốc hội gọt đẽo. Còn bây giờ, con gái ông đã phải trả giá cho tham vọng và những ước mơ của ông. Miệng ông ứ đầy nước miếng chỉ chực muốn nôn ra. Cơ thể ông như bị ngấm dần như một thứ thuốc độc làm rã rời chân tay ông và chỉ cơn thịnh nộ mới tống được nó thoát ra, làm cho ông thấy khỏe khoắn. Đúng lúc đó, dường như có một luồng điện chạy qua não ông, nạp vào cơ thể ông một năng lượng khá mạnh đủ sức để ông có thể vung tay, giơ cao nắm đấm về phía mấy cửa sổ lcú này đã ngập trong ánh nắng.
Ông có sức mạnh, ông sẽ sử dụng sức mạnh đó. Ông có thể làm cho các đối thru của mình phải run sợ, ông có thể làm cho nước miếng của họ có vị cay đắng hơn trong miệng chúng. Ông có thể quét sạch toàn bộ lũ người nhỏ bé vô nghĩa đó cùng những loại nòng súng thép rẻ tiền của chúng, toàn bộ những kẻ đã gieo rắc thảm họa trong đời và trong gia đình ông.
Lúc này ông có cảm giác của người ốm yếu suốt một thời gian dài, cuối cùng, sau đợt chạy chữa chu đáo, khi tỉnh dậy vào một buổi sáng, cảm thấy mình bình phục khỏe mạnh. Ông phấn chấn vui hẳn lên, lòng thanh thản chưa từng tháy kể từ sau ngày vợ ông qua đời. Ông ngồi dậy và cố gắng kềm chế những cảm xúc của bản thân, suy nghĩ một cách thận trọng và có lý trí. Ông bình tĩnh hơn xem xét lại mọi sự lựa chọn của mình và mọi nước hiểm nguy khi tiến hành những sự lựa chọn đó. Cuối cùng ông đã nhận rõ rần phải làm gì và tiên đóan trước những mối hiểm họa sẽ vấp phải. Ông thấy con tim nhói đau khi nghĩ rằng con gái mình không còn nữa.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Ba
Chương 8:
THỨ TƯ.
WASHINGTON.
11.00 giờ sáng Thứ Tư, những chính khách quan trọng nhất của chính phủ đã tề tựu đông đủ tại Cabinet Room để quyết định hướng hành động mà đất nước sẽ theo đuổi. Tham gia buổi họp có phó Tổng thống Helne Du Pray, các thành viên trong Nội các, người đứng đầu CIA... Khi thấy Tổng thống bước vào, mọi người đều đứng dậy.
Francis Kennedy ra hiệu mời họ ngồi. Riêng ông Ngoại trưởng vẫn đứng. Ông lên tiếng nói:
Thưa Tổng thống, tất cả chúng tôi ở đây xin được bày tỏ cùng ông nỗi đau trong lòng mình trước sự mất mát của ông. Chúng tôi xin có lời chia buồn với ông. Chúng tôi xin đảm bảo sẽ hết lòng trung thành và tận tụy đẩy lùi nỗi khủng hoảng của cá nhân ông và của đất nước. Chúng tôi có mặt ở đây không chỉ đơn thuần là vì ông cần có những ý kiến mang tính nghiệp vụ của chúng tôi. Chúng tôi tề tựu ở đây để bày tỏ cùng ông lòng tận tụy của cá nhân mình.
Nói tới đây, nước mắt ông ngoại trưởng trào ra. Ông là người nổi tiếng là lạnh lùng và dè dặt.
Francis Kennedy cúi đầu một lát. Ông là người duy nhất trong phòng xem ra không hề để lộ niềm xúc động, trừ vẻ tái nhợt trên khuôn mặt. Ông đưa mắt nhìn khắp mọi người hồi lâu, tựa hồ như muốn cảm tạ tấm lòng, cảm tạ thiện chí của họ và lòng biết ơn của ông. Biết rằng những lời mình sắp nói sẽ làm tiêu tan mối cảm tình tốt đẹp này, nhưng ông vẫn phải nói:
Tôi xin chân thành cảm ơn các vị, tôi rất biết ơn và trông mong ở các vị. Nhưng bây giờ tôi xin tất cả các vị hãy gạt nỗi bất hạnh của cá nhân tôi ra khỏi phạm vi cuộc họp này. Chúng ta có mặt ở đây để quyết định xem nên làm gì có lợi nhất cho đất nước của chúng ta. Đấy là nghĩa vụ và trách nhiệm thiêng liêng của chúng ta. Những quyết định tôi sắp trình bày tuyệt đối không mang tình cảm cá nhân.
Tổng thốn ngừng lời một lát để nén cơn choáng váng và nhận thấy rằng chỉ riêng mỗi mình ông có khả năng tự kiềm chế.
Helen Du Pray thầm nghĩ: Lạy Chúa, ông ta tiến hành chuyện đó.
Francis Kennedy nói tiếp:
Cuộc họp này nhằm giải quyết những sự lựa chọn của húng ta. Tôi sợ rằng không phải tất cả mọi sự lựa chọn của các vị đều được chấp nhận, song tôi tháy nên để các vị có cơ hội để cùng tranh luận cho sáng tỏ. Có điều trước hết mong các vị cho phép tôi được trình bày kịh bản của tôi. Tôi phải nói rằng bộ tham mưu của tôi đã ủng hộ bản báo cáo tôi sắp trình bày.
Kennedy ngừng lời một lát rồi đứng dậy nói:
Thứ nhát. Ta cùng nhau phân tích sự việc. Toàn bộ những sự kiện bi thảm xảy ra vừa qua nảy sinh từ bộ óc liều lĩnh và táo tợn được thực hiện theo một kế hoạch tuyệt giới. Vụ ám sát Giáo hoàng vào ngày
Chủ Nhật Phục Sinh, vụ bắt cóc máy bay vào cùng một ngày, việc đưa ra những yêu sách được cân nhắc là không thể đáp ứng để đổi những người bị bắt làm con tin, tuy vậy tôi đã chấp nhận tất cả những yêu sách đó, cuối cùng là việc giết hại không cần thiết con gái tôi vào sáng sớm hôm nay. Dù ta đã tóm được tên giết hại Giáo hoàng ngay tại nước ta, cứ cho rằng đó làm một vận may hiếm thấy của số phận, thực ra đấy chỉ là một phần của toàn bộ một kế hoạch nhằm thực hiện bước tiếp theo sau đó là đòi thả tự do cho tên sát nhân. Sự việc đã diễn ra trùng hợpv ới những phân tích tôi vừa trình bày.
Francis Kennedy thấy ánh mắt mọi người để lộ một vẻ thiếu tin tưởng. Ông ngừng lời một lát rồi nói tiếp:
Nhưng dàn dựng những chuyện rắm rối và khủng khiếp đó để nhằm mục đích gì? Hiện nay trên thế giới đang có xu hướng bôi nhọ những người có uy tín, những người có uy tín trong một nước nào đó, đặc biệt là về mặt đạo lý của những người có thẩm quyền ở Hoa Kỳ. Vụ này vượt hẳn ra ngoài lịch sử bôi nhọ các nhà cầm quyền mà người ta thường sử dụng là dùng giới trẻ làm nòng cốt, biện pháp này luôn đem lại
những kết quả mong muốn. Ý đồ trong kế hoạch của bọn khủng bố là gây mất lòng tin vào nhà cầm quyền ở Hoa Kỳ, không chỉ trong cuộc sống của hàng tỷ người mà trước ocn mắt ủa các chính phủ trên thế giới. Một lúc nào đó, chúng ta phải lên tiếng đáp lại những sự thách thức đó, bây giờ là thời điểm chúng ta buộc phải lên tiếng.
Hãy ghi vào biên bản. Các nước Ả rập không tham gia vào vụ này. Trừ vương quốc Sherhaben. Hiển nhiên là vương quốc đó đã hỗ trợ một nhúm những tên khủng bố nằm rải rác trên thế giới với cái tên Một Trăm Đầu. Nhưng không phải là cả vương quốc ủng hộ mà xem ra chỉ có mỗi mình Quốc vương của Sherhaben ủng hộ chúng thôi.
Kennedy ngừng lời một lát.
Chúng ta có thể khẳng định Quốc vương là một đồng lõa. Quân đội của ông ta đã được bố trí quanh máy bay để đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài muốn tiếp cận gần chư không nhằm mục đích hỗ trợ chúng ta giải thoát con tin. Quốc vương tuyên bố là hành động vì lợi ích của chúng ta, nhưng trên thực tế thì làm ngược lại. Tuy nhiên, không nên nặng lời buộc tội ông ta, chắc ông ta không biết rằng Yabril sẽ giết con gái tôi.
Francis Kennedy đưa mắt nhìn quanh bàn muốn dùng sự bình tĩnh của bản thân để gây ấn tượng với mọi người. Sau đó, ông tiếp lời:
Thứ hai. Dự đoán. Đây không phải là một vụ bắt con tin bình thường. Đây là cả một mưu đồ muốn bôi tro trát trấu Hoa Kỳ, buộc Hoa Kỳ phải van xin để giải thoát con tin sau khi đã phải chịu cả một loạt những điều sỉ nhục làm cho chúng ta trở thành những con người bất lực. Tình hình này sẽ kéo dài suốt tuần nọ qua tuần kia để các thôngtin đại chúng có thời gian tung tin khắp thế giới. Đã vậy, nhưng không
có gì có thể đảm bảo rằng toàn bộ số con tin đó sẽ được an toàn trao trả lại cho chúng ta. Trước tình thế đó, tôi thấy sau vụ này chúng ta sẽ bị lâm vào chỗ rối loạn. Người Hoa Kỳ sẽ mất lòng tin vào chúng ta và đất nước chúng ta.
Kennedy lại ngừng lời, ông nhận thấy ông đã gây ấn tượng với người nghe, mọi thành viên ngồi quanh bàn đều hiểu rõ ông đã đi đúng hướng. Ông nói tiếp:
Biện pháp giải quyết. Tôi đã nghiên cứu những biện pháp lựa chọn ghi trong sổ biên bản. Theo tôi ta phải đề xuất một lựa chọn khác chứ không thể vận dụng một biện pháp nào trước đây. Trừng phạt về kinh tế, dùng lực lượng vũ trang để giải thoát, bắt tay về chính trị, bí mật nhượng bộ trong khi ta vẫn giữ vẻ của một kẻ không bao giờ hợp tác với bọn khủng bố. Sự dính líu mà Liên Xô sẽ từ chối cho phép chúng ta mở cuộc tấn công bằng quân sự trên quy mô rộng lớn vào Vịnh Perxic. Tất cả những điều đó đều hàm
ý muốn nói rằng chúng ta phải cma chịu và chấp nhận việc bị bôi tro trát trấu trước con mắt của thế giới. Theo tôi, ta có thể bị mất nhiều con tin nữa.
Ngoại trưởng ngắt lời Tổng thống:
Bộ của tôi vừa nhận được lời hứa dứt khoát của Quốc vương ở Sherhaben là sẽ tha ngay toàn bộc on tin một khi các yêu cầu của bọn khủng bố được chấp nhận. Hành động của Yabril đã xúc phạm ông ta nên ông ta tuyên bố sẵn sàng mở một cuộc tấn công vào máy bay. Để tỏ rõ thiện chí, ông ta đã bắt Yabril phải thả ngay năm chục con tin.
Francis Kennedy đưa mắt nhìn ngoại trưởng một lát. Ánh mắt màu xanh da trời của ông hằn rõ mấy chấm đen nhỏ. Sau đó, ông lên tiếng bảo, giọng lạnh lùng, âm sắc lịch sự đầy vẻ căng thẳng, tự kiềm chế nên mấy lời ông thốt ra nghe đanh như kim loại:
Ông bộ trưởng, khi tôi bàn về công việc, mỗi người có mặt ở đây đều được dành thời gian để phát biểu. Chờ tới lúc đó, xin ông đừng ngắt lời tôi. Đề nghị của họ sẽ được giữ kín, không tiết lộ cho các thông tin đại chúng.
Ông ngoại trưởng thực sự kinh ngạc. Trước đây chưa bao giờ Tổng thống nói với ông bằng một giọng lạnh lùng như vậy, chưa lần nào ông thấy Tổng thống tỏ rõ quyền lực của mình. Ông ngoại trưởng cúi gằm mặt nghiên cứu bản ghi chép của ông, hai má ông hơi ửng đỏ, Kennedy nói tiếp:
Cách giải quyết: sau đây tôi sẽ chỉ thị cho người phụ trách bộ tham mưu chỉ đạo và vạch kế hoạch mở cuộc oanh tạc các giếng dầu của Sherhaben và trung tâm công nghiệp dầu mỏ của Dak. Phi vụ này có nhiệm vụ phá hủy toàn bộ các trang thiết bị của các giàn khoan, hệ thống bơm dầu v.v... Trung tâm sẽ bị phá sạch. Bốn tiếng trước khi dội bom, chúng ta sẽ rải truyền đơn xuống trung tâm yêu cầu dân chúng sơ tán. Vụ oanh tạc bắt đầu vào lúc sau đây đúng ba mươi sáu tiếng đồng hồ. Nghĩa là ngày Thứ Năm, mười một giờ tối, giờ Washington.
Hơn ba chục người nắm mọi quyền lực của Hoa Kỳ đang có mặt trong phòng đều ngồi im chết lặng Kennedy lại lên tiếng:
Ông ngoại trưởng sẽ liên lạc với các nước cần thiết để họ cho phép máy bay của ta bay qua vùng trời của họ. Ông ngoại trưởng sẽ giải thích để họ rõ rằng nếu nước nào từ chối thì ta sẽ đình ngay mọi sự giúp đỡ về kinh tế và quân sự. Như vậy, từ chối sẽ dẫn đến một kết quả thảm khốc.
Ông ngoại trưởng định đứng bật dậy, nhưng ông lại tự kiềm chế. Trong phòng nổi lên tiếng rì rầm không rõ vì ngạc nhiên hoặc choáng váng.
Kennedy vung tay vẻ giận dữ, nhưng ông mỉm cười với họ, một nụ cười gây yêu lòng. Ông trở nên kiềm chế hơn, gần như bình thường, mỉm cười với ông ngoại trưởng và trực tiếp bảo ông ta:
Ông ngoại trưởng mời ngay ông đại sứ của vương quốc Sherhaben tới gặp tôi. Tôi sẽ bảo thẳng ông ta: Trưa mai, Quốc vương phải giao trả cho ta các con tin, Quốc vương phải trao cho ta tên khủng bố Yabril để hắn không còn khả năng hại ông ta. Nếu Quốc vương khước từ, toàn bộ vương quốc Sherhaben sẽ bị xóa sạch.
Francis Kennedy ngừng lời một lát, căn phòng im lặng như tờ.
Nội dung cuộc họp này tuyệt đối giữ bí mật. Không được để lọt một chút gì ra ngoài. Nếu ai để lọt một tin nào ra ngoài sẽ bị nghiêm trị trước pháp luật. Bây giờ xin mời các vị phát biểu.
Kennedy nhận thấy mọi người choáng váng trước những lời ông vừa nói. Ai nấy đều cúi gằm mặt, không dám nhìn nhau.
Tổng thống ngồi xuống, ngả người ra lưng ghế bọc da, duổi thẳng chân ở dưới bàn, mắt nhìn ra ngoài vườn Rose Garden.
Ông ngoại trưởng lên tiếng đầu tiên:
Thưa ông Tổng thống, tôi buộc lòng phải đặt lại vấn đề với Tổng thống. – Làm vậy là chuốc thảm họa cho Hoa Kỳ. Ta sẽ bị tẩy chay vì đã dùng vũ lực để đè bẹp một quốc gia nhỏ bé.
Ông ngoại trưởng còn nói những gì những gì nữa nhưng Tổng thống ù cả tai nghe không rõ. Sau đó, ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ lên tiếng, giọng ông dứt khoát nên đã gây được sự chú ý:
Thưa ông Tổng thống, diệt Dak, có nghĩa là ta sẽ tiêu hủy năm chục tỷ đô la Mỹ, đấy là tiền bạc của Công ty dầu mỏ Hoa Kỳ, tiền bạc của lớp trung lưu Hoa Kỳ mua cổ phần trong các công ty dầu mỏ. Người tiêu dùng xăng dầu ở đất nước ra phải mua với cái giá tăng gấp đôi.
Trong phòng còn nổi lên những lời tranh luận khác. Tại sao lại phải tiêu diệt trung tâm Dak trước khi nó chưa kịp đáp ứng một yêu cầu nào của ta? Còn có nhiều cách giải quyết khác chứ. Hành động quá hấp tấp vội vã là một họa lớn. Kennedy ngón nhìn đồng hồ đeo tay. Cuộc họp đã kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Ông đứng dậy và bảo:
Tôi xin cảm ơn lời khuyên của từng vị. Quốc vương ở Sherhaben chắc chắn có thể cứu được trung tâm Dak bằng cách đáp ứng ngay lập tức những yêu cầu của tôi. Nhưng ông ta đã không làm vậy. Trung tâm Dak phải bị tiêu diệt hoặc sẽ phải bác bỏ những lời răn đe của chúng ta. Sự lựa chọn của chúng ta để quản lý đất người là không cho phép bất kỳ người dũng cảm nào dùng súng nhỏ làm bẽ mặt chúng ta. Tôi thấy rất rõ đường hướng của chúng ta và tôi sẽ tuân thủ đi theo.
Còn bây giờ, đối với năm chục tỷ đô la mà những người góp cổ phiếu bị thiệt thòi. Bert Audick đứng đầu Congxorcium nắm giữ số tiền đó. Ông ta đã kiếm đủ, có khi hơn năm chục tỷ đô la. Tất nhiên chúng ta sẽ cố tạo mọi điều kiện hỗ trợ ông ta. Chúng tôi sẽ tạo cơ hội để bằng mọi cách nào đó, ông ta sẽ cứu vãn được khoản ông Audick đã đầu tư. Tôi chuẩn bị một chiếc máy bay bay tới Sherhaben để đón con tin và một máy bay quân sự để đưa bọn khủng bố về đây trước vành móng ngựa hầu tòa. Ông ngoại trưởng sẽ mời ông Audick đi Sherhaben trên một trong hai chiếc máy bay ấy. Nhiệm vụ của ông ta là giải thích rõ để Quốc vương nhận thấy rõ rằng cách duy nhất để cứu vãn trung tâm Dak, đất nước Sherhaben và công ty dầu mỏ Hoa Kỳ tại đất nước đó là chấp nhận những yêu cầu của tôi. Cách giải quyết có vậy.
Ông bộ trưởng Bộ nội vụ nói:
Nếu Quốc vương không chấp thuận, như vậy ta lại mất thêm hai máy bay. Audick và các con tin. Francis Kennedy bảo:
Rất có thể. Để ta xem Audick tháo vát đến mức nào. Nhưng ông ta lại là người khôn khéo. Ông ta hăn sẽ nghĩ như toi rằng Quốc vương phải chấp thuận. Tôi rất tin như vậy, do đó tôi còn cử thêm ông Wix, cố vấn An ninh quốc gia cùng đi.
Người đứng đầu CIAlên tiếng:
Thưa ông Tổng thống, ông biết rõ rằng, theo hợp đồng dân sự ký kết giữa chính phủ Sherhaben và
công ty dầu mỏ Hoa Kỳ, người Hoa Kỳ điều hành hệ thống phòng không quanh Dak. Những người điều khiển tên lửa đều là người Hoa Kỳ đã được huấn luyện kỹ. Họ sẽ phóng tên lửa.
Kennedy mỉm cười:
Audick sẽ ra lệnh cho họ sơ tán. Là người Hoa Kỳ, nếu họ bắn máy bay ta, tất nhiên họ là quân phản quốc, và người Hoa Kỳ nào trả lương cho họ cũng sẽ bị kết tội là phản quốc.
Tổng thống ngừng lời có ý muốn nhấn mạnh điều mình vừa nói. Audick có thể bị khởi tố. Sau đó, ông quay sang bảo Christian:
Anh Chris, tôi trao quyền hợp pháp hóa vấn đề này anh giải quyết.
Trong số các thành viên đang ngồi họp có hai người thuộc bên lập pháp: “Thomas Lambertino, thượng nghị sĩ, người của đảng được đa số phiếu, và Alfred Jintz người phát ngôn của Hạ nghị viện Thượng nghị sĩ là người đầu tiên lên tiếng. Ông ta nói:
Theo tôi đây là một hành động quá quyết liệt nên không thể không đưa ra bàn luận kỹ trong một cuộc họp giữa Nhà Trắng và Quốc hội.
Tổng thống lịch sự đáp lại lời ông ta:
Tôi rất trân trọng ý kiến của ông, song chúng ta không còn thời gian. Và việc này nằm trong quyền hạn của tôi, với ta cách là người đứng đầu về mặt hành pháp để thực thi biện pháp này. Sau này, bên lập pháp có thể xem xét lại và nếu thấy cần sẽ đưa ra biện pháp thấy thỏa đáng. Nhưng tôi thành thực hy vọng Quốc hội sẽ ủng hộ tôi.
Thượng nghị sĩ Lambertino đáp lời, giọng có vẻ buồn buồn:
Điều này thật khốc liệt, hậu quả sẽ nghiêm trọng. Thưa ông Tổng thống, tôi xin không nên hành động vội vã như vậy.
Francis Kennedy lần đầu tiên đã xử sự thiếu thanh nhã:
Quốc hội luôn đối đầu với tôi – ông nói – Chúng ta có thể bàn luận mọi cách lựa chọn phức tạp cho tới khi con tin bị giết đến người cuối cùng và cho tới khi mọi quốc gia và mọi làng mạc ở hang cùng ngõ hảm đều nhạo báng Hoa Kỳ. Tôi vẫn giữ vững những ý kiến phân tích vừa rồi của tôi và giải pháp của bản thân; quyết định của tôi khong vượt quá quyền hạn người đứng đầu về mặt hành pháp. Qua khỏi cơn khủng hoảng, tôi sẽ giải trình đầy đủ trước mọi người. Chờ cho tới lúc đó, tôi xin nhắc lại với các vị rằng cuộc trao đổi này phải được tuyệt đối giữ bí mật. Còn bây giờ, theo tôi được biết, ai cũng đều có việc phải làm cả. Mong các vị báo cáo lại tiến trình công việc của mình cho người đứng đầu bộ tham mưu của tôi.
Alfred Jintz bèn lên tiếng:
Thưa Tổng thống, tôi chẳng muốn trình lên diều tôi sắp phải nói. Nhưng lúc này Quốc hội khăng khăng đòi ông tự rút lui khỏi những cuộc đàm phán này. Do đó, tôi buộc lòng phải thông báo rằng một ngày rất gần đây. Quốc hội và Thượng nghị viện sẽ tìm mọi cách ngăn ngừa ông tham gia vào tiến trình giải quyết công việc tại các khu vực mà tấn bi kịch của cá nhân ông có thể làm ông mất sáng suốt.
Kennedy đứng bật dậy. Khuôn mặt có những đường nét đẹp của ông cau lại trông như một chiếc mặt nạ, ánh mắt xanh mờ hẳn trở nên không hồn tựa cặp mắt một pho tượng.
Làm vậy chẳng khác nào tự đào huyệt chôn mình và đất nước Hoa Kỳ.
Nói xong Francis Kennedy rời khỏi phòng.
°
Phòng họp Cabinet room nhốn nháo và rộn tiếng người. Oddblood Gray hội ý với thượng nghị sĩ Lambertino và nghị sĩ Quốc hội Jointz. Nhưng khuôn mặt họ cau có, còn giọng nói lạnh như tiền. Jintz bảo:
Chúng ta không được phép để xảy ra chuyện này. Tôi cho rằng bộ tham mưu của Tổng thống đã sai lầm khi không khuyên can Tổng thống đề ra tiến trình hành động này.
Oddblood Gray đáp:
Tổng thống đã thuyết phục tôi rằng ông không hề để nỗi tức giận cá nhân xen vào hành động của ông. Đây là cách giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu nhất. Tất nhiên là khốc liệt, nhưng đành vậy. Ta không thể kéo dài tình thế. Như vậy sẽ gây tai họa lớn.
Thượng nghị sĩ Lambertino lên tiếng:
Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông Franics Kennedy lại hống hách đến thế. Ông ta luôn xử sự nhã nhặn với bên lập pháp.
Eugene Dazzy nhận thấy Oddblood Gray đang gặp khó khăn với mấy vị lập pháp. Ông quay sang bà phó Tổng thống Helen Du Pray và hỏi:
Ý kiến của bà thế nào?
Bà phó Tổng thống lạnh lùng nhìn ông ta. Bà Helen Du Pray là một phụ nữ rất xinh đẹp, Dazzy thầm nghĩ. Ông phải mời bà ta dùng bữa tối mới được. Một lúc sau Helen Du Pray lên tiếng đáp:
Theo tôi, ông và Bộ tham mưu Tổng thống của ông đã xô ông ta xuống dốc. Trách nhiệm của ông ta trước cuộc khủng hoảng này quá tàn khốc. Quái thật, không biết Christian Klee biến đâu mất?
Klee đã biến đâu mất, bà Du Pray thấy đây là chuyện chưa từng thấy, Klee chẳng bao giờ lủi mất vào những lúc quyết định tương tự.
Dazzy nổi cáu.
Quan điểm của ông ta là logic rồi, dù không tán thành chúng tôi vẫn phải ủng hộ. Helen Du Pray bảo:
Francis Kennedy đã hình dung vấn đề như vậy đấy. Rõ ràng là Quốc hội sẽ tìm cách gạt ông ta khỏi mọi cuộc đàm phán. Họ sẽ đình chỉ chức vụ của ông.
Phải bước qua mồ Bộ tham mưu của ông ta, - Dazzy nói.
Helen Du Pray bình tĩnh đáp:
Xin ông thận trọng cho. Đất nước chúng ta đang đứng trước nguy cơ to lớn.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Ba
Chương 9:
Trưa Thứ Tư đó chắc chắn Peter Cloot là viên chức duy nhất ở Washington không chú ý tới những bản tin về vụ giết hại con gái Tổng thống. Ông tập trung toàn bộ năng lực vào vụ đe dọa đánh bom nguyên tử.
Với tư cách cục phó Cục điều tra Liên bang FBI, ông gần như hoàn toàn chịu trách nhiệm về cơ quan này. Christian Klee chỉ phụ trách về danh nghĩa để nắm quyền hành trong tay, nhằm hướng nó chịu sự chỉ đạo sít sao hơn của văn phòng chưởng lý cũng do Klee nắm. Peter Cloot rất lo ngại khi nhận thấy Christian Klee thâu tóm bao quyền hành trong tay. Hơn nữa Klee nắm cả bên An ninh. Cloot còn biết rõ rằng Klee đã gài nhiều đồng nghiệp cũ bên CIAnắm những khâu chủ chốt trong FBI. Ông biết vậy nhưng đành cắn răng chịu và chỉ biết tức để bụng.
Nhưng vụ dọa đánh bom này lại hoàn toàn nằm trong tya ông. Vừa đọc xong lá thư đe dọa, ôgn liền tung ngay mạng lưới trực tiếp dưới quyền chỉ huy của mình vào cuộc truy lùng. Tuy vậy ông thấy hơi run. Vào thời điểm đó, có hàng trăm lá thư hăm dọa gây rối, nhưng chỉ vài thư dọa thạt, tuy vậy không một thư nào đủ sức thuyết phục như thư này. Toàn bộ các thư đe dọa đó đều được lệnh phải giữ bí mật.
Cloot liền chuyển bằng con đường riêng thư dọa đánh bom về Maryland cho lãnh đạo Bộ năng lượng. Ông đồng thời báo động cho các đội điều tra thuộc Bộ Năng lượng ở Las Vegas, gọi tắt là NEST, NEST tức tốc dùng máy bay chở các trang thiết bị dò kiếm tới New York. Cloot cử một số nhân viên FBI có mang theo vũ khí đi bảo vệ NEST.
Sau khi nghiên cứu thư, Bộ năng lượng Maryland gửi cho Cloot vài nét sơ lược về tâm lý của tác giả bức thư. Người viết thư không tống tiền. Nhận được sơ lược nhận dạng, Cloot liền tung ngay một ngàn nhân viên đi kiểm tra.
Bản sơ lược thông báo rằng tác giả bức thư là một người còn trẻ tuổi và có văn hóa cao. Rất có thể hắn là sinh viên khoa vật lý thuộc một trường đại học nào đó. Nhận được thông tin này, mình Cloot ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ suy nghĩ và cuối cùng lọc ra được hai kẻ rất đáng nghi làm ông ta sững sờ ngạc nhiên. Ông thức suốt đêm để chỉ đạo các đội đang tung vào cuộc truy lùng. Khi biết tin Theresa Kennedy bị giết. Cloot quyết không dể tin này ảnh hưởng đến suy nghĩ của mình, tuy nhiên đầu óc ông vẫn thấy gợn một thoáng ý nghĩ cho rằng hai vụ này chắc có liên quan với nhau. Nhưng đêm nay, nhiệm vụ của ông là phải tìm cho ra tác giả bức thư dọa đánh bom hạt nhân. Lạy chúa, tên con hoang này lại là một kẻ cuồng tín. Nhờ vậy công việc của ông xem ra có vẻ thuận lợi hơn. Có cả triệu những tên chó đẻ sẵn sàng làm những chuyện tày đình thế này chỉ vì tiền, lần tìm ra chúng kể cũng chật vật.
Đúng 1:00 giờ sáng, trợ lý của Cloot bước vào văn phòng ông và báo cáo rằng đang hco theo dõi hai tên tình nghi. HỌ đã thu lượm được những bằng chứng khớp với thông báo sơ lược nhận dạng, ngoài ra còn có những sự việc khác làm sáng tỏ vụ này. Bây giờ cần phải có lệnh bắt giữ.
Cloot bảo viên trợ lý:
Trước hết tôi phải vắn tắt trình bày với ông Christian Klee. anh đợi tôi gọi điện cho ông ta một lát nhé. Cloot biét rằng thể nào Klee cũng đang có mặt tại văn phòng trưởng ban tham mưu của Tổng thống.
Do đó ông đã bắt liên lạc được ngay với Klee.
Chúng tôi đã lần ra dấu vết của vụ đặc biệt, - Cloot báo cáo. – Nhưng trước khi ra tay, tôi muốn trao đổi đôi nét với anh, anh tới chỗ tôi được không?
Rất tiếc là không được đâu. Bây giờ tôi phải luôn ở bên Tổng thống, chắc anh đã biết rõ lý do rồi. Cho phép tôi cứ tiến hành công việc rồi báo cáo sau được không? Cloot hỏi.
Đầu dây đằng kia im lặng hồi lâu. Sau đó tiếng của Klee dội lên trong ống nghe:
Theo tôi, anh nên tới chỗ tôi thì tốt hơn. Nếu chưa gặp tôi, anh cố nán đợi nhé! Nhưng xem ra công việc của anh khá khẩn cấp.
Tôi dến chỗ anh ngay bây giờ đây.
Cloot được dẫn vào nhà Trắng. Klee đang ngồi đợi ông. Trông thấy Cloot, Klee liền bảo: Tôi chri tiếp anh trong vài phút thôi đấy. Tôi sắp có một cuộc trao đổi quan trọng với Tổng thống. Lạy chúa, tôi xin lỗi. Tổng thống thế nào rồi anh Chris?
Klee lắc đầu:
Xem ra cũng ổn ổn. Thôi ta trao đổ ngay vào công việc đi!
Cloot báo cáo:
Chúng tôi đã phát hiện ra chúng. Hai tên thanh niên, khoảng hai mươi tuổi, đang ở phòng thí nghiệm hạt nhân MIT. Chúng thuộc con cái gia đình khá giả, cánh tả, đã từng tham gia các vụ phản đối vũ khí hạt nhân. Chúng tham gia một công trình nghiên cứu của Nhà nước và trường đại học tại phòng thí nghiệm ở Boston. Khoảng hai tháng trước đây, chúng tới New York, một người bạn thân đã tìm giúp cho chúng một công việc ưa thích. Hiện nay tôi đang cho bao vây chúng.
Anh có chứng cớ rõ ràng không? – Christian hỏi. – Chứng cớ cụ thể ấy?
Chúng tôi không gây phiền hà hoặc thậm chí truy tố họ. – Cloot nói. – Đây chỉ là một vụ bắt giữ mang tính ngăn ngừa theo đúng luật pháp về bom nguyên tử. Một khi bắt giữ chúng, chúng sẽ phải cung khai và kể hết với chúng ta. Nhưng chắc chắn chúng là tác giả của bức thư nọ, khớp với bản thông báo sơ lược nhận dạng và ngày tháng ghi trên bức thư, đấy là thời điểm chúng đăng ký trọ tại khách sạn Hilton ở New York. Đấy là lý lẽ vững chắc.
Thôi được rồi, ta sẽ tóm chúng, - Christian bảo. – Nhưng tôi không tin rằng anh có thể bắt chúng khai ra đâu. Họ là những chàng trai lịch thiệp. Cloot nhìn thẳng vào ánh mắt Christian:
Thôi được, Chris, chúng không cung khai, chúng ta là một đất nước văn minh. Chúng ta cứ để cho bom nổ và giết hại hàng ngàn dân lành, - Cloot mỉm cười một lát, vẻ láu cá – Hay là anh đến gặp Tổng thống và đề nghị ông ký lệnh hỏi cung bằng phương pháp y học. Điều IX trong Đạo luật kiểm soát vũ khí nguyên tử ấy.
Cloot nói ra ý nghĩ luôn ám ảnh đầu óc ông.
Suốt đêm Christian đã phải cố xua đuổi cũng ý nghĩ đó. Ông thường ngỡ ngàng tự hỏi không biết tại một đất nước như Hoa Kỳ lại có thể có một đạo luật một tương tự. Báo chí dễ dàng khám phá ra điều bí
mật này, nhưng các ông chủ nắm các phương tiện thông tin đại chúng và những nhà cầm quyền trong nước đã ký kết một hiệp ước. Do đó công chúng không thực sự biết rõ nội dung luật này như các đạo luật liên quan đến khoa học hạt nhân khác. Christian Klee biết tường tận Điều IX. Là một luật sư, ông ta sững sờ kinh ngạc về nội dung của nó. Ông ta luôn thấy ghê tởm sự man dại toát ra từ đạo luật này.
Điều IX chủ yếu quy định quyền của Tổng thống được phép ra lệnh cho dùng hóa chất phân tích hoạt động não để xét xem bất kỳ một ai đang nói thật hay nói dối. Luật này nhằm mục đích chính là khai thác thông tin về cách bố trí các trang thiết bị hạt nhân. Nó rất phù hợp trong trường hợp này. Chẳng cần phải tra tấn, nạn nhân không hề phải chịu một sự đau đớn nào về thể xác. Chri việc đơn giản theo dõi sự chuyển biến của hóa chất truyền vào não là có thể biết rõ câu hỏi vừa nêu được trả lời đúng hoặc giả dối. Kể ra cũng nhân đạo, nhưng không một ai có thể nói chắc rằng sau khi đã qua cuộc thẩm tra này, bộ não của nạn nhana có trục trặc gì không. Qua các cuộc thử nghiệm, người ta thấy hãn hữu xảy ra trường hợp bị lãng quên một phần trí nhớ, một số khác, chức năng hoạt động của não hơi giảm sút.
Christian Klee đáp:
Chắc gì đã thành công, thế mà vụ này rất có thể liên quan tới vụ bắt cóc máy bay và vụ ám sát Giáo hoàng? Ngay cái tên ta bắt được ở Long Island xem ra là một trò bịp bợm. Rất có thẻ vụ này chỉ là một khâu trong toàn bộ kế hoạch của chúng, một lớp hỏa mù, một cái bẫy gài mìn?
Cloot nhìn chằm chằn Christian hồi lâu xem phải trả lời ra sao. Cuối cùng, ông ta lên tiếng đáp: Rất có thể đấy. Nhưng theo tôi, đây là một sự trùng hợp hiếm thấy có trong lịch sử. Những của hiếm ấy thường dẫn đến một kết cục bi thảm – Christian gượng gạo nó. Cloot báo cáo:
Hai tay thanh niên này đúng là điên rồ theo kiểu ông chẳng ra ông thằng chẳng ra thằng. Chúng chẳng hề bận tâm đến người Ả rập và người Iraq hoặc người nghèo và người giàu ở Hoa Kỳ. Hoặc người Dân chủ và người Cộng hòa. Chúng chỉ muốn quả địa cầu xoay chậm hơn quanh trục của nó. Anh biết đấy – Cloot khinh khỉnh mỉm cười. Chúng tự coi mình là vương là tướng trong mọi chuyện. Thánh sống cả một lũ.
Nhưng lúc này đầu óc Christian đang mải suy nghĩ tới một vấn đề. Ông ta nhận thấy hai vị này có mang mầu sắc chính trị. Không nên hành động quá vội vã, ông ta thầm nghĩ, hiện nay Tổng thống đang lâm nạn lớn. Phải che chắn bảo vệ Tổng thống. Rất có thể chúng sẽ sử dụng nước đi này để tấn nước kia. Nghĩ vậy Christian liền bảo Cloot:
Anh Cloot này, tôi muốn vụ này phải được tiến hành cực kỳ bí mật. Tuyệt đối không tiết lộ ra với bất kỳ một ai khác ngoài tôi và anh. Phải tóm cổ hai tên thanh niên đó và đưa thẳng ngay chúng vào bệnh viện do ta quản lý tại Washington. Tham gia vụ này chỉ có anh, tôi và một nhân viên bên An ninh. Tuyệt mật, không để cho bên Đạo luật kiẻm soát vũ khí nguyên tử biết. Không một ai thấy chúng, trừ tôi ra, không một ai được phép trao đổi với chúng. Đích thân tôi sẽ hỏi cung chúng.
Trông Cloot thật thiểu não. Ông ta chẳng muốn vụ này lại rơi vào tay bên An ninh dưới quyền của Christian.
Trước khi tiêm hóa chất vào não mấy tay thanh niên kia, đội y tế muốn đựoc tận mắt đọc lệnh của Tổng thống.
Christian đáp luôn:
Tôi sẽ xin lệnh của Tổng thống.
Cloot vô tình buột mồm nói:
Vụ này rất quan trọng, anh vừa bảo trừ anh ra, sẽ không ai được hỏi cung. Như vậy có nghĩa là cả tôi nữa chứ gì? nếu anh quá bận rộn với công việc của Tổng thống không bứt ra được thì sao?
Christian mỉm cười bảo:
Đừng lo, anh Cloot, tôi sẽ thu xếp ổn thôi mà. Không một ai, trừ tôi, anh Cloot ạ. Nào bây giờ anh cho tôi biết chi tiết đi.
Christian lúc này đang vội. Tóm lại, ông ta muốn gặp ngay người phụ trách đơn vị đặc nhiệm bên FBI do ông ta phụ trách để ra lệnh bố trí hệ thống điện tử và máy vi tính nhằm theo dõi sát những thành viên quan trọng nhất trong Quốc hội và Câu lạc bộ Socrates.
Adam Gresse và Henry Tibbot đã gài trái bom nguyên tử nhỏ xíu do chúng chế tạo một cách rất tinh vi. có lẽ do quá tự hào về công trình của mình, chúng đã không tự kiềm chế được nên đưa nó ra sử dụng vào mục tiêu cao cả như trong trường hợp này.
Chúng chăm chăm theo dõi báo chí, nhưng không thấy bức thư của chúng được đăng trên trang nhất tờ The New York Times. Chúng không hề thấy một tờ báo nào đả động đến việc của chúng. Chúng sững sờ, nhưng đồng thời nổi giận. Bây giờ thì trái bom có thể nổ tung và giết hại hàng ngàn sinh mệnh. Nhưng như vậy cũng có cái hay. Thế giới sẽ biết rõ sức tàn phá nguy hiểm của nguyên tử tới mức nào? Nhà chức trách sẽ phải áp dụng những biện pháp cân thiết nhằm đảm bảo sự an toàn của đất nước ra sao? chúng tính toán rằng trái bom có sức công phá sna bằng ít nhất từ bốn tới sáu khối nàh ở thành phố New York. Tuy vậy chúng vẫn còn đôi chút ý thức, chúng chế tạo bom sao cho khi nổ bụi phóng xạ sẽ bị hạn chế tới mức tối đa. Dẫu sao trong thâm tâm chúng vẫn áy náy là việc làm này sẽ gây tổn thất cho vài trăm sinh mạng. Nhưng đây là cái giá loài người phải trả không lớn lắm để nhận ra sai lầm trên bước đường đic ủa mình. Cần phải đề ra những biện pháp bảo vệ vững chắc, tất cả các quốc gia trên thế giới sẽ đòi cấm sản xuất bom hạt nhân.
Vào ngày thứ tư, Adam và Henry vẫn câfn cù làm việc do trong phòng thí nghiệm cho mãi tới khi mọi người ở Viện đã ra về. Chúng định bụng dẫu sao cũng nên gọi điện thoại báo động cho nhà chức trách. Thoạt đầu chúng không có ý định cho nổ bom. Chúng chỉ muốn thấy thư của chúng được công bố trên tờ The New York Times, sau đó chúng có kế hoạch quay về New York tháo gỡ bom. Nhưng bây giờ đã đâm lao đành phải theo lao. Hoặc chúng sẽ bị đối xử như con nít,bị nhạo báng về sự nghiệp chúng đã bỏ bao công sức để làm vì nhân loại? Hoặc chúng sẽ ra tay. Chắc chắn nếu biết bị một tổ chức chính trị lợi dụng thì chúng sẽ chẳng đem hiến công trình nghiên cưu khoa học của chúng cho vụ này.
Chúng đã chọn New York để trừng phạt vì mấy lần tới thành phố, chúng thấy khó chịu trước những cảnh xấu xa đầy dẫy trên các đường phố. Chúng ngao ngán những tên hung hăng luôn hăm dọa mọi người, bọn lái xe xấc láo, thái độ thô bạo của những nhân viên bán hàng, vô vàn các vụ trộm cắp, bắn giết xảy ra như cơm bữa ở ngoài đường. Chúng đặc biệt ghê tởm quãng đường Time Square, nơi người đông đúc như một bầy gián khổng lồ. Tại Times Square, bọn ma cô, bọn nghiện xì ke ma túy và lũ gái điếm trông dữ tợn, tới mức Adam và Henry phát hoảng vội rút về ngay phòng trọ ở khách sạn. Chúng tức giận quyết định là sẽ đặt bom tại Time Square.
Cùng toàn thể dân chúng Hoa Kỳ, Adam và Henry choáng váng khi màn ảnh nhỏ vô tuyến đưa cảnh Theresa Kennedy bị giết. Nhưng chúng cũng đồng thời hơi khó chịu vì chuyện này làm giảm phần nào sự chú ý tới chiến dịch của chính chúng, xét cho cùng, còn quan tọng hơn đối với số phận của nhân loại.
Nhưng hai tên cũng thấy bối rối. Adam nghe rõ tiếng cạch nhỏ vang lên trong ống nghe mỗi khi hắn dùng điện thoại, điều đó chứng tỏ đang có người nghe trộm điện thoại, hắn có cảm giác xe chúng bị theo dõi. Hắn nói với Henry về những nhận xét này.
Henry cao lênh khênh như một cây sào, người gầy đét như chỉ có da bọc xương. Gã có đầu óc khoa học hơn và thần kinh vững chắc hơn Adam.
Cậu có phản ứng như mọi tên tội phạm đấy thôi. – Gã bảo Adam. – Đấy là lẽ thường tình. Cứ mỗi lần nghe có tiếng gõ cửa, mình liền nghĩ ngay rằng bọn FBI đã tới.
Nếu đúng là bọn chúng tới thì ra sao? – Adam hỏi.
Thôi, im mồm đi, chờ ông luật sư đến ta sẽ rõ. – Henry bảo. – Đấy là điều quan trọng nhất. Ta sẽ lĩnh đủ hai mươi nhăm năm chỉ riêng cho cái tội ghép thư. Còn nếu bom nổ, ta sẽ lĩnh thêm một số năm nữa.
Thế theo mày, bọn chúng đã lần ra dấu vết ta chưa? – Adam hỏi.
Lần sao nổi. – Henry đáp. – Ta đã xóa sạch mọi dấu vết rồi. Thế tao thử hỏi mày ta khôn khéo hơn chúng hay không nào?
Adam thấy yên lòng, nhưng vẫn chưa chắc dạ:
Có lẽ ta gọi điện báo cho họ biết vị trí đặt bom thì hơn.
Không, - Henry đáp. – Lúc này chúng đang nhốn nháo cả lũ. Chúng coi cú điện thoại của ta bằng âm. Làm vậy chỉ tổ lạy ông tôi ở bụi này. Mãy nghĩ kỹ cho tao nhờ, rằng nếu đổ bể, thfi có mà nín câm miệng. Thôi, ta bắt tay làm việc đi.
Đêm đó Adam và Henry làm việc tới khuya ở phòng thí nghiệm chẳng qua vì chúng muốn ở bên nhau. Chúng muốn trao đổi với nhau xem phải làm gì và có thể trông cậy vào đâu.
Lúc sắp chia tay nhau, chúng nghe thấy chuông điện thoại reo vang. Bố Henry gọi điện.
Con ạ, con cố nghe cho rõ nhé! Con sắp bị bọn FBI bắt. Con không được nói gì vợi họ trước khi luật sư của con tới. Không nói gì hết. Bố biết... Đúng lcú đó cửa phòng bật mở, mấy người đàn ông tay lăm lăm súng ập vào.
ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ
Mario Puzo
www.dtv-ebook.com
Quyển Ba
Chương 10:
Rõ ràng là người giàu ở Hoa Kỳ có ý thức về vai trò xã hội của mình hơn bất kỳ người giàu ở các nước khác trên thế giới. Quả đúng như vậy, đặc biệt những người cực kỳ giàu có, nghĩa là những người nắm trong tay cả đống các công ty, dùng sức mạnh về kinh tế của họ để gây ảnh hưởng trong chính trị và tuyên truyền trên mọi lĩnh vực văn hóa. Điều này được đặc biệt thấy rõ ở các hội viên thuộc Câu lạc
bộ Sorates tại miền Nam California, được thành lập khoảng bảy chục năm trước khi thực sự trở thành những trùm tư bản về bất động sản, thông tin đại chúng, điện ảnh và nông nghiệp với tư cách là tổ chức chính tị theo phái tự do chủ nghĩa trong trò giải trí. Đây là tổ chức đặc biệt dành riêng cho những người cực giàu có. Gia nhập tổ chức có thể là người da đen haợc người da trắng, người Do Thái hoặc người theo đạo Thiên chúa, đnà ông hoặc phụ nữ, nghệ sĩ hoặc trùm tư bản. Trên thực tế có rất ít hội viên là người da đen và không một ai là phụ nữ.
Câu lạc bộ Socrates, như ai cũng đều biết, cuối cùng phát triển thành một câu lạc bộ dành cho những người rất nổi tiếng, những người giàu sụ có chức có quyền. Để đảm bảo an toàn, người ta đã mời cựu phó giám đốc CIAphụ trách hệ thống bảo vệ và xây lắp một hàng rào điện tử cao nhất Hoa Kỳ. Một năm bốn kỳ, năm chục tới một trăm nhân vật thực tế nắm gần toàn bộ mọi thứ ở Hoa Kỳ về đây nghri ngơi. Họ về nghri một tuần lễ, trong tuần đó, công việc dịch vụ giảm tới mức tối thiểu. Họ tự lo liệu giường ngủ, đồ uống của mình và thậm chí họ còn tự nấu nướng lấy trong các buổi tối liên hoan ngoài trời. Tất nhiên họ cần có một số bồi bàn, đầu bếp và mấy cô phục vụ và những người giúp việc cho những nhân vật quan trọng là vậy. Nói chung, thế giới kinh doanh và chính trị của Hoa Kỳ không thể chen lọt vào khoảng thời gian họ xả hơi về tinh thần.
Suốt cả tuần nghỉ, họ có thể tụ tập thành từng nhóm nhỏ tiêu khiển bằng cách lao vào các cuộc tranh luận riêng tư. Họ có thể tham dự các buổi xêmine do mấy giáo sư tài giỏi của các trường đại học nổi tiếng thuyết trình và hướng dẫn thảo luận về những vấn đề thẩm mỹ, triết học, trách nhiệm của các bậc tinh hoa may mắn và những kẻ bất hạnh trong xã hội. Họ có thể dự các buổi thuyết trình của những nhà khoa học nổi tiếng trình bày về các mối nguy cơ của vũ khí hạt nhân, về công trình nghiên cứu não, cuộc thám hiểm không gian vũ trụ, về kinh tế.
Họ đồng thời cũng chơi ten nít, tắm ở bể bơi, chơi cờ tào cáo và bài brít và ngồi thảo luận tới khuya về đức hạnh và thói đê tiên, về phụ nữ và tính yêu, về cưới xin và ngoại tình. Họ là những nhân vật có uy tín, những nhân vật có uy tín nhất của xã hội Hoa Kỳ. Nhưng họ cố thực hiện hai điều: họ cố gắng quay về với con người tốt đẹp trong thời niên thiếu của mình và họ cố gắng biết cách bên nhau cùng nỗ lực đưa xã hội trở thành một xã hội tốt đẹp mà họ hằng mong ước.
Sau một tuần lễ sống bên nhau, họ quay về với đời thường, lòng khoan khoái với bao hy vọng mới, họ những muốn làm một điều gì đó tốt đẹp cho loài người và nhận thức một cách rõ ràng hơn là phải tập trung mọi hoạt động của mình nhằm bảo tồn cơ caúa xã hội của họ và rất có thể, do hiểu biết rõ hơn về nhau, nên họ có khả năng bổ trợ nhau trong thương trường.
Tuần nghỉ này bắt đầu từ ngày Thứ Hai sau Chủ Nhật Phục Sinh. Do trong nước đang xảy ra mấy vụ khủng hoảng liên quan tới vụ ám sát Giáo hoàng, vụ bắt cóc chiếc máy bay chở con gái Tổng thống và vụ giết hại cô gái, nên số người về nghỉ không quá hai chục.
George Greenwell là người cao tuổi nhất. Ở tuổi tám mươi, ông ta vẫn có thể chơi ten nít đánh đôi, nhưng ông thận trọng không đánhv ới cánh trẻ vì sợ phải dồn sức quá lớn mới theo kịp nhịp chơi của họ. Ngoài ra ông còn là một mãnh hổ trong các ván đánh cờ tào cáo kéo dài.
Công ty của Greenwell kiểm soát và nắm giữ đại bộ phận lượng lúa mì ở Hoa Kỳ. Greenwell thích Câu lạc bộ Socrates vì nó sang trọng, vì nó kín đáo trước các phương tiện thông tin đại chúng: hội viên của nó nắm trong tay đại bộ phận các trạm phát vô tuyến, các tờ báo, và tạp chí và cũng vì nó gây cho ông có được cảm giác trẻ trung, tạo cho ông cơ hội sống với những người trẻ hơn ông mà sức khỏe ông chẳng thua kém gì so với họ.
Câu lạc bộ Socrates được trang bị một hệ thống thông tin hoàn hảo. Buổi sáng hôm Tổng thống Kennedy thông báo trong cuộc họp của tham mưu, bản tối hậu thư gửi Quốc vương ở Sherhaben, chưa đầy một giờ sau, cả hai chục hội viên trong Câu lạc bộ Socrates đã biết rõ tin này. Một mình Greenwell biết rõ Oliver Oliphant, tức Oracle đã cung cấp tin đó cho Câu lạc bộ.
Vào ngày Thứ Ba, George Greenwell mời ba nhân viên quan trọng khác tới dùng bữa trưa tại một căn lều sang trọng dựng ngay bên ngoài sân ten nít.
Nhân vật thứ nhất là Lawrence Salentine, nắm trong tay đại bộ phận các kênh vô tuyến và mấy công ty điện tín, nhiều tờ báo ở ba thành phố lớn, năm tạp chí và một xưởng phim lớn nhất. Ông ta qua những người giúp việc, là chủ một nhà xuất bản lớn, ngoài ra ông ta còn năm mươi hai trạm vô tuyến địa phương đặt tại các thành phố lơn. Đấy là chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Ông ta đồng thời là người địa diện có uy tín trong giới thông tin đại chúng ở nước ngoài. Salentine mới bốn mươi tư tuổi, có dáng người gày và lịch sự, vầng trán cao, mái tóc màu bạch kiem, quăn theo kiểu các vị Hoàng đế La Mã lúc này rất hợp thời trang trong giới tí thức, nghệ sĩ và ở Hollywood. Về hình thức, trông ông thật hấp dẫn và rất trí thức. Ông là một người có uy tín nhất trên trường chính trị ở Hoa Kỳ. Không một nghị sĩ nào của Quốc hội, hoặc thượng nghị sĩ hoặc một nhân vật nào trong chính phủ khước từ lời gọi điện yêu cầu của ông. Tuy nhiên ông không thể thân thiết với Tổng thống Kennedy, vì Tổng thống cho rằng việc các phương tiện thông tin đại chúng có thái độ chống đối chương trình xã hội mới do chính phủ Kennedy đưa ra là chống đối đích thân Tổng thống.
Nhân vật thứ hai là Louis Inch, người chủ của những bất động sản lớn nhất tại những thành phố lớn của Hoa Kỳ. Chưa từng thấy một cá nhân hoặc công ty nào có nhiều nhà chọc trời như ông ta. Tuy mới bốn chục tuổi, ông ta đã thấy rõ tầm quan trọng của những ngôi nàh chọc trời. Ông ta đã đưa giá thuê nhà ở New York, Chicago và Los Angeles lên cao đến mức không thể chấp nhận được đối với các gia đình bình thường, do đó chỉ những gia đình có hoặc giàu sụ mới được sống thoải mái tại các thành phố đó.
Nhân vật thứ ba là Martin Mutford, tuổi chừng sáu chục. Có lẽ ông ta là người mạnh nhất trong số bốn người vì ông ta kiểm soát được đồng tiền lưu thông trên lĩnh vực khác nhau. Là một người còn trẻ, ông ta được Oracle đỡ đầu và tiếp thụ nhuần nhuyễn các bài học của thầy. Ông ta đã kể bao câu chuyện về Oracle, giọng đầy ngưỡng mộ, trước đám thính giả say mê ở Câu lạc bộ Socrates.
Sự nghiệp của Mutford phát triển trên con đường đầu tư vào nhà băng và đã có những kết quả chói ngời ngay từ những bước đi đầu tiên, có thể nhờ ảnh hưởng của Oracle hoặc như ông ta tuyên bố, nhờ đã loại trừ được vận rủi. Còn trẻ, nên ông ta rất háo tình, như ông ta vẫn thường nói vậy. Điều làm ông ta ngạc nhiên nhất là mấy đức ông chồng của dăm bà vợ trẻ bị ông ta quyến rũ đã đến tìm ông ta không phải để đánh ghen đòi trả thù mà là để đòi vay nợ nhà băng. Họ e lệ mỉm cười và trông rất khôi hài. Theo bản năng, ông ta đã dùng những khoản tiền dùng để cho vay của chính bản thân mình đưa họ mà ông ta biết rằng họ sẽ chẳng bao giờ hoàn lại. Hồi đó, ông ta không biết rằng các doanh nghiệp nhỏ muốn vay tiền
chính thức của nhà băng thì phải có quà và tiền lót tay. Nhiều người đổ xô tới vay tiền nhà băng, do đó, muốn được vay thì phải lót tay cho nhân viên nhà băng. Tất nhiên là Mutford đã phải trả lời biết bao cuộc phỏng vấn, bồi hoàn trả nhà băng vài trăm ngàn đô la trước khi chuyển sang ngạch khác và thành phố khác. Dạo ấy ông ta nghĩ rằng số mình không gặp may, nhưng sau này ông ta mới biết rằng do chẳng qua là đã bị sếp khiển trách.
Nhờ những bài học sai lầm hồi trẻ, Mutford đã trưởng thành. Ba chục năm sau Mutford gia nhập Câu lạc bộ Socrates và là nhà tài chính có uy tín lớn nhất ở Hoa Kỳ. Ông ta là chủ tịch một nhà băng lớn và nắm trong tay nhiều kênh vô tuyến. Ông ta và bè bạn đã kiểm soát nền công nghiệp sản xuất ô tô rộng lớn và ngành du lịch bằng đường hàng không. Ông ta sử dụng đồng tiền như nhện bủa lưới. Như ba nhân vật kia, ông đã “nắm” một số nghị sĩ Quốc hội và Thượng nghị viện.
Bốn người ngồi quanh chiếc bàn tròn trong căn lều sang trọng dựng ngay bên ngoài sân ten nít, Greenwell lên tiếng nói:
Các bạn nghĩ sao về quyết định của Tổng thống?
Mutford đáp:
Bọn chúng đã có hành động như vậy với con gái ông ta thật quá tệ. Nhưng phá hủy năm chục tỷ đô la của cải vật chất thì không thể chấp nhận được.
Một người phục vụ mang tới các đồ uống họ gọi.
Salentine trầm ngâm nói:
Nếu ông ta bỏ qua được chuyện này, người dân Hoa Kỳ sẽ coi ông ta đúng là một vị anh hùng. Ông ta sẽ được bầu lại với số phiếu lớn.
Greenwell lên tiếng:
Các anh đừng quên rằng văn phòng Tổng thống Hoa Kỳ có thể là một mối nguy lớn đối với quá trình dân chủ hóa.
Salentine nói:
Chuyện vô lý! Các văn phòng khác của chính phủ sẽ ngăn ông ta có quyết định cá nhân như vậy. Quân đội do bị vây hàm trong vòng tăm tối, sẽ không cho phép làm vậy, trừ phi có lý, bác cũng biết rõ điều đó, bác George.
Greenwell đáp:
Quả đúng thế. Trong thời bình thường thôi. Nhưng cứ nhìn Lincoln mà ngẫm, trong cuộc nội chiến, ông ta đã thực sự đình lệnh định quyền giam giữ và quyền tự do công dân: cứ nhìn Franklin Roosevelt mà ngẫm, ông ta đã xô chúng ta vào cuộc Thế chiến thứ hai. Cứ nhìn những quyền lực của cá nhân Tổng thống mà ngẫm. Ông ta có quyền được tuyệt đối miễn thứ bất kỳ mọi tội. Đấy là quyền lực của một ông vua. Các anh có biết quyền bính trong tay như vậy thì có thể làm gì không? Có thể tạo dụng quanh mình một lòng trung thành tới mức nào không? Ông ta có những quyền hạn vô biên nếu không có một Quốc hội đủ mạnh để kiềm chế ông ta. Cũng may mà chúng ta có một Quốc hội như vậy. Chúng ta cần phải nhìn thẳng về phái trước, chúng ta cần phải nhắc nhở bên hành pháp để họ trở thành những người đại diện thích đáng do nhân dan đã bầu lên.
Salentin bảo:
với phương tiện vô tuyến và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Kennedy không thể tồn tại quá một gnày một khi ông ta định độc tài giải quyết bất kỳ vấn đề gì. Ông ta không thể có cách lựa chọn đó. Tín ngưỡng mạnh nhất ở Hoa Kỳ ngày nay là tín điều về quyền tự do cá nhân. – Salentine ngừng lời một lát rồi nói tiếp. – Như bác đã biết quá rõ đấy, bác đã chịu bao khốn khổ về cái vụ cấm vận bỉ ổi đối với bọn Nga.
Greenwell dặn luôn:
Anh không nắm được vấn đề rồi. Một Tổng thống liều lĩnh có thể vượt qua những trở ngại đó. Và Kennedy rất liều lĩnh trong cuộc khủng hoảng này.
Louis khó chịu nói:
Bác định thuyết phục chúng tôi tập hợp lại trong trận tuyến chống lại tối hậu thư của Kennedy gửi Sherhaben? Riêng cá nhân tôi nghĩ rằng đây là vấn đề đại sự nên ông ta phải tỏ ra cứng rắn. Phải dùng sức mạnh, sức ép, đối với chính phủ cũng như với nhân dân.
Ngay thuở ban đầu mới bước chân trên con đường làm ăn của mình, Louis đã sử dụng chiến thuật gây sức ép với người thuê nhà khi muốn giải tỏa các cao ốc để xây dựng lại. Gã đã cắt hơi đốt, cắt nước. Gã đã dùng trăm phương ngàn kế dồn hàng ngàn người vào cảnh sống thiếu thốn khốn khổ. Gã đã “khoanh” một số vùng phụ cận, thuê người da đen tống người da trắng ra khỏi nhà của họ, đút lót mấy quan chức trong chính phủ và ở thành phố. Gã rất hiểu điều mình đang nói. Thắng lợi được xây đắp trên cơ sở biết cách gây sức ép.
Greenwell bảo:
Anh cũng không nắm được vấn đề nốt. Một tiếng nữa ta sẽ có cuộc trao đổi bằng điện thoại màn hình với Bert Audick. Mong các anh bỏ qua cho tôi đã không trao đổi trước về chuyện này, chẳng là tôi thấy quá gấp không thể đợi được, các sự kiện cứ nối tiếp diễn ra thật khẩn cấp. Nhưng Bert Audick là người phải chịu tổn thất năm chục tỷ đô la, nên ông ta vô cùng quan tâm đến vụ này. Nhìn người mà ngẫm đến thân thì vẫn tốt hơn. Nếu Tổng thống làm được chuyện đó với Audick. Ông ta có thể áp dụng được với ta.
Tâm trí Kennedy bị rối loạn rồi. – Mutford trầm ngâm nói.
Salentine bảo:
Chúng ta nên thỏa luận nhất trí với nhau trước khi trao đổi với Audick. – Audick cũng thực sự bị rối loạn tâm trí nên mới lao vào ôm giữ dầu mỏ. – Louis nói. Louis luôn cảm thấy, về mặt nào đó, quyền lợi của dầu mỏ xung đột với quyền lợi về bất động sản.
Ta nhờ Audick trình với ông ta những suy nghĩ đúng mực nhất của chúng ta. – Greenwell bảo.
Bốn người tụ tập tại trung tâm liên lạc của Câu lạc bộ Socrates đúng lúc hình ảnh Bert Audick hiện trên màn hình. Ông ta mỉm cười chào họ nhưng mặt ông ta đỏ ửng, có thể màu chưa được chỉnh, cũng có thể ông ta đang trong cơn thịnh nộ. Audick lên tiếng nói giọng bình tĩnh:
Tôi chuẩn bị đi Sherhaben. Có thể đây là chuyến đi sang ngó lại lần cuối cùng khoản tiền năm chục tỷ đô la của tôi.
Người trong phòng có thể trò chuyện với Audick giống như ông ta đang ở trước mặt họ, đồng thời Audick cũng nhìnt hấy rõ họ. Họ cố giữ vẻ mặt cũng như giọng nói thật đĩnh đạc.
Anh đi thật à? – Louis hỏi.
Đúng. – Audick đáp. – Quốc vương với tôi là chỗ bè bạn thân thiết và đây là một tình huống thật đau lòng. Nếu đích thân tôi sang đấy, tôi có thể giải quyết được nhiều vấn đề thuận lợi cho đất nước ta.
Theo nguồn tin các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp cho tôi thì Quốc hội và Thượng nghị viện đang cố phủ quyết quyết định của Tổng thống. Liệu có ổn không? – Salentine hỏi.
Hình ảnh Audick mỉm cười với họ:
- Không những ổn mà còn có thể nói gần như chắc chắn là như vậy. Tôi đã trao đổi với các thành viên trong chính phủ. Họ hứa rằng sẽ tàm thời để Tổng thống nghỉ việc một thời gian vì lý do thù hận cá nhân có thể gây sự bất ổn định về tinh thần. Căn cứ vào điều bổ sung trong Hiến pháp, điều đó là hợp lệ. Chỉ đợi có chữ ký của chính phủ và Phó Tổng thống ào bản kiến nghị thì Quốc hội sẽ thông qua. Thậm chí chỉ cần trì hoãn vụ này được ba mươi ngày thì chúng ta có thể đình ngay việc phá hủy Dak. Còn tôi, tôi xin đảm bảo rằng các cont in sẽ được thả ngay sau khi tôi tới Sherhaben. Nhưng theo tôi, các anh nên ủng hộ Quốc hội trong việc điều Tổng thống. Các anh có nền dân chủ của Hoa Kỳ hỗ trợ, còn tôi có kho dự trữ dầu mỏ của tôi. Tất cả chúng ta đều biết rõ rằng một ai khác chứ không phải con gái ông ta bị giết thì chẳng bao giờ ông ta lựa cách hành động đó.
Greenwell lên tiếng:
Anh Bert, này, cả bốn người chúng tôi vừa cùng nhau trao đổi về vấn đề này và nhất trí đồng lòng hỗ trợ anh và Quốc hội, đấy là nghĩa vụ của chúng tôi.
Chúng tôi sẽ gọi điện tới những nơi cần thiết và cùng nhau hợp lực. Nhưng Lawrence Salentine có một số ý kiến hơi ngược chút xíu, anh ta muốn nói cho rõ.
Khuôn mặt Audick trên màn ảnh cau lại vì tức giận và phẫn nộ.
Anh Lawrence này, bây giờ không phải là lúc các phương tiện thông tin đại chúng nằm trong tay anh đứng trung lập nữa, anh tin tôi đi. Nếu Kennedy bắt tôi phải trả giá năm chục tỷ đô la, rất có thể một ngày nào đó các trạm phát sóng vô tuyến của anh sẽ không được phép phát sóng, lúc đó tự anh đi mà gỡ lấy. Tôi không nhắc tay động chân giúp anh đâu.
Greenwell co rúm người khi nghe Audick trả lời thôi bạo và đốp chát như vậy. Louis Mutford mỉm cười. Salentine không để lộ cảm xúc gì. Ông ta bình tĩnh đáp, giọng thành thật:
Anh Bert này, tôi sẽ đi cùng anh tới cùng trời cuối đất, chuyện đó khỏi phải nghi ngờ rồi. Tôi cho rằng một người độc đoán quyết định thiêu hủy năm chục tỷ đô la để làm tăng thêm sức mạnh cho lời răn đe của mình quả là một người bị rối loạn tâm trí và không phù hợp với một vị đứng đầu Nhà nước Hoa Kỳ. Tôi cam đoan với anh rằng tôi đi theo anh. Các thông tin đại chúng qua sóng vô tuyến sẽ cắt giảm chương trình thường đã quy định để đưa tin thông báo rằng Tổng thống Kennedy bị bệnh tâm thần, cơn choáng sau khi nghe tin con gái bị giết chết đã tạm thời gây rối loạn lý trí của ông ta. tin đó chuẩn bị sẵn cho Quốc hội. Nhưng điều này đụng tới lĩnh vực chuyên môn tôi hơi thông thạo hơn chút đỉnh. Quyết định của Tổng thống sẽ được người dân Hoa Kỳ ủng hộ, một phản ứng tự nhiên của dân chúng trước mọi việc làm của một cường quốc. Nếu Tổng thống thành công trong vụ này và đưa được con tin về, ông ta sẽ điều hành được mọi công việc bầu cử và bỏ phiếu. Kennedy là một người thông minh và có nghị lực, nếu ông ta đặt được một chân vào cửa, ông ta có thể xô bạt Quốc hội – Salentine ngừng lời một lát, cố gắng
rất thận trọng lời ăn tiếng nói – Nhưng nếu những lời đe dọa của ông ta thatá bại; con tin bị giết, vấn đề không được giải quyết, thì hết đời Kennedy về quyền lực chính trị.
Bert Audick hơi nao núng khi nghe những lời vừa nói. Ông ta nói, giọng cực kỳ nghiêm chỉnh:
Chúng ta không khăng khăng gữ ý của mình. Nếu sự việc xoay chuyển quá đà như vậy, các con tin phải được cứu thoát, đất nước chúng ta phải chiến thắng. Hơn nữa, năm chục tỷ đô la sẽ sẵn sàng tiêu tan. Không một người Hoa Kỳ chân chính nào muốn chiến dịch của Kennedy bị thất bại. Họ có thể không thích một chiến dịch với hành động quyết liệt tới mức đó, nhưng một khi nó mở đầu, chúng ta cần phải đưa nó đến thắng lợi.
Tôi tán thành Selentin nói, tuy thâm tâm không nghĩ vậy. – Tôi hòan toàn tán thành. Tôi còn motọ vấn đề nữa. Một khi Tổng thống nhận rõ mối nguy từ phía Quốc hội, việc trước hết ông ta sẽ làm là lên vô tuyến phát biểu trước toàn thể nhân dân trong nước. Thiếu sót của Kennedy dù thế nào did nữa, ông ta như người có ma lực. Một khi Tổng thống trình bày cảnh ngộ của ông ta trên màn ảnh vô tuyến. Quốc hội sẽ gặp bao sóng gió nổi lên trên đất nước này. Nếu Quốc hội hạ bệ Kennedy trong ba chục ngày thì sẽ xảy ra chuyện gì? Như vậy rất có thể Tổng thống đã dự đóan đúng rằng mục đích của bọn bắt cóc máy bay là muốn gạt ông ta ra ngoài lệ, gạt ông ta ra khỏi mọi cuộc đấu, - Salentine lại gnưng flời, cố thận trọng hơn, rồi nói tiếp: - Sau đó, Kennedy trở thành người hùng tầm cỡ lớn hơn nữa trước con mắt mọi người. Kịch bản hay nhất của chúng ta là để mặc ông ta đơn thương độc mã, thắng hay bại cũng kệ. Áp dụng phương sách đó sẽ loại bỏ được mối nguy lâu dài đe dọa cơ cấu chính trị của đất nước này. Đấy có thể là cách tốt nhất.
Nếu vậy tôi mất đứt năm chục tỷ đô la, đúng không? – Bert Audick hỏi. Khuông mặt ông ta trên màn ảnh đỏ ửng vì tức giận. Lần này thì không thể nhầm với màu sắc chưa chỉnh chính xác.
Mutford liền can ông ta:
Đấy là một khoản tiền cự lớn, nhưng đấy chưa phải ngày tận thế của thế giới.
Bộ mặt của Bert Audick trên màn ảnh đỏ bừng lên. Salentine thầm nghĩ chắc là do màu chỉnh chưa chuẩn vì người đang sống không thể có nước da màu đỏ đến mức đó. Giọng Audick nổi lên, vang khắp phòng.
Đồ khốn kiếp, Mutford, người là đồ khốn kiếp! Còn vượt quá năm chục tỷ đô la đấy! Khi ta xây dựng lại Dak thfi hỏi thiệt hại về lợi tức sẽ là bao nhiêu? Liệu các nhà băng của anh có cho tôi vay tiền không lấy lãi không? Anh sẽ vớ bẫm số tiền mặt còn lớn hơn cả Bộ Tài chính Hoa Kỳ, nhưng liệu anh có cho tôi một khoản tiền năm chục tỷ đô la không? Cái thứ đồ chết tiệt nhà anh!
Greenwell vội can:
Bert, anh Bert, chúng ta cùng chèo chống với anh mà. Chẳng qua anh Salentine muốn nêu để anh rõ một số cách giải quyết mà do các sự kiện diễn ra quá dồn dập có thể anh chưa nghĩ tới thôi. Dù có cố gắng thế nào đi nữa chúng ta cũng chẳng thể ngăn giữ Quốc hội được. Quốc hội không để bên hành pháp lấn át. Thôi, bây giờ chúng ta còn có việc phải giải quyết, ta coi như trao đổi thế tạm đủ rồi nhé!
Salentine mỉm cười và bảo:
Anh Bert này, sau đây ba tiếng đồng hồ nữa, vô tuyến sẽ thông báo tình trạng tâm thần của Tổng thống. Các hệ thống khác sẽ đưa lại thông báo của ta. Anh gọi điện cho tôi và cho biết ý anh nghĩ thế nào, biết đâu anh có thể có những kế hoạch hành động nào đó. Còn một điều này nữa, nếu Quốc hội bỏ phiếu cách chức Tổng thống trước khi ông ta kịp phát biểu trên vô tuyến, các hệ thống phát sóng sẽ không
dành thời gian cho ông ta với lý do bị tâm thần và không còn là Tổng thống nữa.
Cứ vậy mà tiến hành – Audick nói, lúc này da mặt ông ta đã lấy lại màu sắc tự nhiên. Và cuộc trao đổi qua điện thoại hiện hình đã được kết thúc trong những lời chào tạm biệt lịch sử.
Salentin lên tiếng bảo:
Thưa các quý vị, theo tôi, tất cả chúng ta sẽ dùng máy bay của tôi bay về Washington. Tôi thấy ta nên đến thăm ông bạn già Oliver Oliphant của chúng ta.
Mutford mỉm cười:
Oracle, vị cố vấn dầy kinh nghiệm của tôi. Ông ta sẽ giải đáp giúp chúng ta một số vấn đề. Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, họ đã lên đường về Washington.
Sharif Waleed, đại sứ Sherhaben được mời tới gặp Tổng thống Kennedy. CIAđã cho ông ta coi cuốn băng video quay Yabril đang cùng ăn tối với Quốc vương của Sherhaben tại cung của Quốc vương. Viên đại sứ thực sự bị choáng váng. Tại sao Quốc vương của ông ta lại có thể dính líu vào motọ vụ nguy hiểm như vụ này? Sherhaben là một nước nhỏ, một nước nhã nhăn, yêu chuộng hòa bình, nhận thức rất rõ mình là một nước không mạnh về quân sự.
Cuộc gặp mặt diễn ra tại Oval Office cùng với sự hiện diện của Bert Audick. Cùng dự với Tổng thống có Arthur Wix, cố vấn An ninh quốc gia, và Eugene Dazzy, trưởng Ban tham mưu.
Sau thủ tục giới thiệu, đại sứ Sherhaben trình với Kennedy:
thưa ông Tổng thống kính mến, mong ông hãy tin rằng tôi không biết chuyện này. Nhưng tôi cần phải thưa với ông một điều mà tôi thực sự tin tưởng. Quốc vương không bao giờ tán thành việc làm tổn hại tiểu thư con gái ông.
Francis Kennedy nói, giọng trang nghiêm:
Tôi hy vọng rằng những điều ông vừa nói là sự thật, vì nếu vậy ông ấy sẽ tán thành sự đề xuất của tôi.
Viên đại sứ lắng nghe mà trong lòng thấy lo sợ cho bản thân hơn là cho chính trị. Ông ta được đào tạo tại một trường đại học Hoa Kỳ và là người khâm phục lối sống Hoa Kỳ. Ông ta thích các món ăn Hoa Kỳ, thích uống rượu Hoa Kỳ, phụ nữ Hoa Kỳ và sự nổi loạn của họ trước ách ràng buộc của đàn ông. Ông ta thích âm nhạc và phim ảnh Mỹ. Ông ta quyên cúng tiền bạc cho mọi con buôn chính trị và thăng quan
tiến chức nhờ vào sự giàu có của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Ông ta là một nhà chuyên môn có tài về giàu mỏ và bạn của Bert Audick.
Lúc này ông đại sứ tuyệt vọng về nỗi bất hạnh của bản thana chứ chẳng mảy may lo cho Sherhaben và Quốc vương của ông ta, ông ta lo cho túi tiền của mình. CIAmà mở các dịch lật đổ Quốc vương thì ông ta sẽ bị thiệt hại lớn. Do đó ông ta choáng váng trước những lời tuyên bố rành rọt của Kennedy.
Ông cần nghe cho rõ vấn đề này. Ba tiếng đồng hồ nữa ông sẽ bay về Sherhaben mang thông điệp của tôi trao tận tay Quốc vương ông. Ông Bert Audick, người ông biết rất rõ và ông Arthur Wix, cố vấn An ninh quốc gia của tôi sẽ cùng đi với ông. Đây là bức thông điệp. Sau đây hai mươi tư tiếng đồng hồ, khu công nghiệp dầu mỏ Dak sẽ bị phá hủy.
Viên đại sứ hoảng sợ líu cả lưỡi không nói được nên lời.
Kennedy phán tiếp:
Phải thả ngay các con tin và trao tên khủng bố Yabril cho chúng tôi. Còn sống. Nếu Quốc vương không thực hiện yêu cầu này, Sherhaben coi như sẽ không còn tồn tại.
Ánh mắt viên đại sứ đờ ra. Kennedy cho rằng ông ta có điều gì đó chưa rõ. Tổng thống ngừng lời một lát, rồi nói tiếp:
Tất cả những điều tôi vừa nói đến nêu rõ trong thông điệp ông sẽ trình với Quốc vương ông.
Thưa ông Tổng thống, xin lỗi, vừa nói ông có nói đến chuyện phá hủy Dak thì phải? – Viên đại sứ Waleeb bàng hoàng hỏi.
Kennedy trả lời luôn:
Đúng vậy. Quốc vương ông sẽ tin những lời răn đe của tôi, chừng nào ông ta tận mắt thấy trung tâm công nghiệp dầu mỏ Dak trở thành những đống tro tàn. Để tôi nhắc lại ông nghe cho rõ: Phải thả ngay các con tin, Yabril phải đầu hàng và phải đảm bảo để hắn không tự sát.
Không thương lượng gì hết cả.
Viên đại sứ lên tiếng, giọng hoài nghi.
Ông không thể dọa phá hủy một đất nước tự do, dù bé nhỏ tới đâu cũng vậy. Và nếu ông phá hủy Dak, ông tự phá hủy năm chục tỷ đô la tiền bạc đầu tư của Hoa Kỳ.
Đúng vậy. – Kennedy đáp. – Hãy đợi đấy! Ông nên trao đổi với Quốc vương ông hiểu rõ rằng ý kiến của tôi là bất di bất dịch, đấy là chức năng của ông. Ông, ông Audick và ông Wix sẽ dùng một máy bay riêng của tôi. Hai chiếc khác sẽ bay cùng các ông. Một chiếc sẽ chở các con tin và thi hài con gái tôi về đây. Chiếc kia giải Yabril.
Viên đại sứ không nói được nên lời, đầu óc không còn tỉnh táo. Đây đúng là một cơn ác mộng. Ông Tổng thống đã điên rồi.
Khi còn lại một mình với Bert Audick, Audick bảo ông ta, giọng quyết liệt:
Gã con hoang này nói sao làm vậy đấy, nhưng ta có con bài chơi lại gã. Lên máy bay ta sẽ lật ngửa bài anh thấy.
Eugene Dazzy đang ngồi ghi chép tại phòng Oval Office.
Franics Kennedy hỏi:
Anh đã chuẩn bị xong các văn kiện để trao cho văn phòng đại sứ và gửi theo máy bay chưa? Dazzy đáp:
Chúng tôi đã sửa lại chút ít. Xóa sạch Dak kể cũng đã căng rồi, nhưng trên giấy trắng mực đen ta không thể tuyên bố là sẽ tiêu diệt toàn bộ đất nước Sherhaben. Nhưng tại sao anh cử Wix sang đấy?
Kennedy mỉm cười và bảo:
Khi thấy tôi cử viên cố vấn An ninh quốc gia của tôi sang Quốc vương sẽ thấy rõ rằng tôi rất nghiêm chỉnh. Và Wix sẽ truyền đạt thành lời thông điệp của tôi.
"""