"
Đời Tài Hoa - Nguyễn Văn Đề PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đời Tài Hoa - Nguyễn Văn Đề PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên sách : ĐỜI TÀI-HOA
Soạn giả : ĐẦU-TIẾP NGUYỄN-VĂN-ĐỀ
Đọc duyệt : KHÁI-SINH DƯƠNG-TỤ-QUÁN
Nhà xuất bản : HIỆU SÁCH ĐÔNG-TÂY
Năm xuất bản : 1938
------------------------
Nguồn sách : tusachtiengviet.com
Đánh máy : Đỗ Trung Thực
Kiểm tra chính tả : Trần Ngô Thế Nhân, Nguyễn Văn Huy, Ngô Thanh Tùng
Biên tập chữ Hán-Nôm : Dương Nhật Xuân
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 07/10/2019
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn soạn giả ĐẦU-TIẾP NGUYỄN-VĂN-ĐỀ, KHÁI SINH DƯƠNG-TỤ-QUÁN và HIỆU SÁCH ĐÔNG-TÂY đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
MỤC LỤC
MẤY LỜI GIỚI-THIỆU
I. LỊCH-SỬ CỤ
II. TÁC-PHẨM CỦA CỤ
III. CHUYỆN CỤ VỚI ÔNG CAO-BÁ-QUÁT IV. ÔNG TÙNG-THIỆN-VƯƠNG VỚI CỤ V. CỤ VỚI CÁC BÀ CHÚA THƯỜNG-SƠN, LẠI-ĐỨC VI. TỰ TÍCH CỦA CỤ
VII. PHẢN THÚC-ƯỚC
ĐẦU-TIẾP NGUYỄN-VĂN-ĐỀ soạn
KHÁI-SINH DƯƠNG-TỤ-QUÁN duyệt
ĐỜI TÀI-HOA
Tập lịch-sử ly-kỳ nhất của cụ thủ-khoa Nguyễn-Hàm-Ninh, bạn đồng bệnh của ông Cao-Bá-Quát
HIỆU SÁCH ĐÔNG-TÂY
195, Hàng Bông, HANOI
XUẤT-BẢN 1938
IN LẦN THỨ NHẤT
Giá bán : 0$35
MẤY LỜI GIỚI-THIỆU
Nếu có một tấm bia kỷ-niệm ghi tên các bậc đại văn hào nước ta đã sống vào khoảng Minh-Mệnh, Thiệu-Trị, Tự-Đức, thì giữa đó ta sẽ thấy lòe vàng mấy chữ : Đinh-Nhật-Thận, Nguyễn-Công-Trứ, Nguyễn-Văn-Siêu, Cao-Bá-Quát, Tùng
Thiện-Vương và Tuy-Lý-Vương… à quên, tôi còn kể sót một người !… Người ấy chưa biết nên để đứng xen vào hàng nào trong mấy hàng đó ? Vì người ấy đã từng đem văn tài sang khoe tận bên nước « con Trời », vì người ấy đã làm cho dân « con Trời » – cũng như « con Rồng » « cháu Tiên » ta – đều phải kính phục, tôn xưng lên bậc trạng, tặng cho cái « danh-dự trạng-nguyên » 1 Người ấy là ai ? Há không phải là cụ Nhâm-Sơn Nguyễn-Hàm-Ninh mà ông Đẩu-Tiếp Nguyễn-Văn-Đề đã có công nêu lên ở trong tập « Đời tài hoa » này ư ?
Tôi biết ông Đẩu-Tiếp từ ngày còn chủ-trương tờ Văn học tạp-chí : ông là người rất sốt sắng về sự sưu tầm các văn thơ của các cụ nước ta ngày xưa.
Nếu tập « Đời tài hoa » của ông nhờ tôi duyệt và xuất bản đây mà được các nhà trí thức trong nước biết đến thì cái công của ông không phải uổng vậy.
Hanoi, ngày 7 Février 1938
KHÁI-SINH
DƯƠNG-TỤ-QUÁN
I. LỊCH-SỬ CỤ
Cụ húy Hàm-Ninh, tự Thuận-Chi, biệt-hiệu Tịnh-Trai, Anh-toàn-tử, nguyên người làng Phù-Kinh, sau thiên-cư qua Trung-Ái (Trung-Thuần), phủ Quảng-Trạch, tỉnh Quảng-Bình (Trung-Kỳ).
Người ta đồn rằng cụ là một bậc thần-đồng. Khi cụ chưa sinh, những lúc canh khuya đêm vắng, trên hòn lèn Bảng, người ta thường thấy một ngọn đèn leo-lét thắp dưới một gốc cây, xa nghe văng vẳng có tiếng người đọc sách. Khi cụ đã lọt lòng rồi, tiếng đọc sách ấy, cũng như ngọn đèn kia, không còn nghe thấy đâu nữa, họa chăng ở nhà cụ… Nhưng kịp lúc cụ đã trở về cõi suối làng mây, trên lèn Bảng tự
nhiên ngọn đèn khuya lại thấy, tiếng đọc sách lại nghe, nhưng ít lâu lại im-lặng. Đồng-thời, cụ Lê-chí-Tuân (Tấn-sĩ, người Lâm-Xuân) ra đời, nên có kẻ ức-đoán rằng : Người tiên trên lèn Bảng hai lần thác-sinh xuống cõi trần, sau là cụ Lê-chí-Tuân mà trước là cụ Nguyễn-hàm-Ninh đó vậy.
Lạ nhỉ ? Không biết lấy gì để làm chứng cho cái thông minh xuất-chúng của cụ, sao người ta phải bịa ra những chuyện dị-đoan ấy làm gì ?
Theo chúng tôi, thì cụ chỉ là một đứa con yêu-quí của hai vợ-chồng nhà nông nọ, ở dưới chân núi Chóp-Chài, bên ngọn nước Khe Dang kia.
Không tiền, thủa nhỏ cụ thân-sinh định không cho đi học. Một hôm, có người bà con đem đến cho cái bánh, ngài
đùa rằng trong nhà hễ ai lớn hơn cả thì được. Cụ hỏi : « Thế thầy tuổi gì ? »
- Tuổi Mùi.
- Thế mẹ tuổi gì ?
- Tuổi Thân !
Cụ cười : « Thế thì cái bánh về phần con, con tuổi Thìn, Thìn đã, rồi mới đến Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Mậu, Dậu, chứ ? »
Biết con là bậc thông-tuệ phi-thường, cụ thân mới cho cắp sách đến trường học phóng. Song cửa nhà đơn bần quá chừng, chưa được mấy tháng, cụ lại phải bỏ học trở về giúp đỡ việc nhà. Mãi đến năm 15 tuổi, nhờ có người cô ruột là bà Nguyễn-Húc, một tay cự phú trong làng, không con nên mới xin cụ đem về nuôi cho ăn học. Cụ mới được chuyên
nghiệp tàng-tu từ đó. « Một nét chữ, một câu thơ, chỉ suy học một đã dư biết mười », một câu thơ ấy, không biết đã đủ để diễn-tả tài học của cụ được chưa ?
Các ngài đã từng nghiệm thấy chăng ? Những người như cụ, thuở bé đều là những tay tinh nghịch cả đấy ! Người ta thường thuật rằng : một hôm, trong một quán rượu ở chợ Ba-Đồn, một cô kỹ-nữ người Thổ-Ngọa, cô Bình, đương cùng thầy cử người Di-Luân, bên lời tâm-phúc, bên lời hàn
huyên. Thoạt thấy cụ ở đâu vào, thầy cử muốn làm cách tảng lờ để chữa thẹn, liền đón hỏi : « Thế nào ? Mấy lâu anh có bài gì hay ? Đọc nghe ! »
Cụ Nguyễn : « Thưa không, song nếu tiên-sanh hạ-cố đến, muốn nghe văn tôi, thì xin đọc ngay một bài phú tức cảnh để hầu Tiên-sinh ».
Thầy cử : « Được, tốt lắm, anh cứ đọc ».
Cụ Nguyễn :
« Thầy cử Di-luân,
Cô Bình Thổ-ngọa ;
Hai bên gặp-gỡ thờ-ơ,
Một quán chuyện-trò thong-thả… »
Thầy cử gượng cười : « Hay, rất hay ! »
Cụ Nguyễn : « Trầu đầy đạy, nhai-nhai nhả-nhả, trỏ bà già « chi » lấy chìa vôi. Thuốc đầy bao, nút-nút châm-châm, quát thằng bé « chi » đem chút lả (lửa) ».
Thầy cử vuốt râu : « Hay, rất hay !
Cụ Nguyễn : « Khăn tay hồng đỏ-chói, vắt lên che đen kịt « chi » hàm râu ; Quần lãnh bưởi láng-xầy, thả xuống phủ trắng bong « chi » cổ vả !… »
Thầy cử đỏ mặt : « Khăn tay sao lại đối quần lãnh, hàm râu sao lại đối cổ-vả ? À ra thằng này xấc thật ! »
Sau câu nói ấy, sẽ xẩy ra sự gì, bạn đọc thử đoán, mà bài phú kia làm đến nửa chừng cụ đành phải bỏ dở !
Lại một lần, cụ lên chơi ở tỉnh lỵ cùng mấy người bạn, bên đường thấy một mỹ-nữ đi qua, cụ liền đọc luôn mấy câu : « Con nhà ai ? Đi đâu đó ? Gò má hồng-hồng ; dây lưng đỏ-đỏ. Nhìn qua phong-dạng, ước mười bảy, mười tám mô chừng ; Ngó lại hình-dung, e cô hai cô ba chi nỏ. Ước chỉ được như vầy… như vầy… ; Mà rứa… mà rứa… « giả tai » ! »
Lại một lần, có người quen biết trong làng đi cưới vợ ở Tượng-Sơn, cụ cũng được mời đi. Qua bến Kênh-Kịa, cụ đi sau, thoạt thấy cả đoàn đứng lại, rồi tin từ phía trước đem đến : « Câu đối, họ ra câu đối ! » Cụ liền chạy lên trước đoàn, thấy các bực đàn anh đương đứng ngơ-ngẩn trước một mảnh giấy hồng, trải-trên một cái hương-án mà người ta đặt chắn ngang đường để đòi nộp cheo. Cụ vội-vàng cầm mảnh giấy lên xem : « Chân giậm tay mò bơn hói Kịa » 2. Biết câu đối ra lỡm, cụ cũng đối lỡm lại : « Má kề miệng ngậm bống khe Dang ». 3
Tài mẫn-tiệp, sức thông-minh của cụ như thế, thảo nào mới sau 6 năm nghiên-bút dùi-mài, mà đến năm 1829 (Kỷ Sửu) vừa 22 tuổi, cụ đã giật được cái Tú-tài và qua năm 1831 (Tân-Mão) cụ đậu giải-nguyên ! Năm ấy cụ vào Giám. Năm sau cụ đi Hậu-bổ Nghệ. Cách mấy tháng, cụ đổi ra Tri huyện Lục-Ngạn (Bắc-Giang). Năm 1833, Quí-Tị, ông thân qui-tiên, cụ phải về đinh-gian 4. Quan huyện Đường-Hào là bạn đồng khoa, đồng liêu, lại tình đồng châu đồng quận, có tiễn cụ bài thơ :
客秋君我相擕往
今秋君向別吾歸
德⽔廿江天若遠
他郷故郡⽉分輝
陪顏昨夜知多苦
屈指來秋未可期
忠孝古來男⼦事
可堪初度遇相知
Khách thu quân ngã tương hòe vãng
Kim thu quân hướng biệt ngô qui
Đức thủy Cam giang thiên nhược viễn
Tha hương cố quận nguyệt phân huy
Bồi nhan tạc dạ tri đa khổ
Khuất chỉ lai thu vị khả kỳ
Trung hiếu cổ lai nam tử sự
Khả kham sơ độ ngộ tương tri.
Dịch : (Các bản dịch trong tập này, đều do ông Nguyễn Văn-Đề phiên-dịch)
Cùng nhau thu trước cắp tay đi, 5
Sao vội thu nay dứt áo về ?
Dường ngái sông Cam trời bến Đức, 6
Chung soi đất khách nguyệt làng quê.
Lời trao hôm diếp âu thêm bận,
Tiệc hẹn năm sau đã dễ gì ?
Trung-hiếu đạo trai đành phải thế,
Buổi đầu may gặp bạn tương-tri.
Ở nhà cư-tang được ít lâu, vì sinh-kế cụ đã phải tìm vào Thanh-Toàn (Huế) hỏi nơi dạy học. Bấy giờ gặp khoa Giáp Ngọ (1834), trong quán nước, cụ ngồi một mình trên bộ ngựa (ván), các thí sinh, những ai đã tầng biết cụ, đều khúm núm đứng chực hai bên. Một anh chàng lạ mặt, từ đâu đến, thấy thế liền cười : « Chào thầy tú ! », vì có tú-tài mới đến kinh-đô để hòng giựt cái cử-nhân, chớ cử-nhân hay tấn-sĩ mấy ai qua đó, quanh quẩn ở ngoài trường thi làm
gì ? « Ngư mục hộn châu » là thế ! Không lẽ cụ đành lặng
thinh để cho người ta xem thường hay sao ? Cụ liền đáp lại :
我爲尋師萬⾥來
嶺南先占百花魁
蓬萍客地誰⻘眼
幸得君今說秀才
Ngã vị « tầm sư » vạn lý lai
Lãnh-nam tiên chiếm bách hoa khôi
Bồng bềnh khách-địa thùy thanh nhạn
Hạnh đắc quân kim thuyết tú-tài
Dịch :
Vì kẻ tìm thầy đến đấy chơi, 7
Non Nam tầng tỏ mặt hoa khôi.
Bơ-vơ đất khách ai tri-kỷ,
May được nhà ông nói tú-tài !
Nghe xong mấy vần thơ ấy, biết là một bậc kỳ-tài, người kia liền theo xin lỗi, sụp xuống lạy và ngỏ ý muốn, tôn cụ làm thầy, rước về nhà ngồi dạy !…
Đóng vai ông đồ mãi đến năm 1836 (Bính-Thân) cụ mới được đức Minh-Mạng vời ra làm quốc-học độc-thư. Năm 1838 (Mậu-Tuất) đổi qua Tôn-nhơn-phủ Chủ-sự. Chính trong lúc lên giữ chức ấy, cụ được thấy trên điện Thái-Hòa sáng rực hai câu đối sơn son thiếp vàng :
⼦能承⽗業
⾂可報君恩
Tử năng thừa phụ-nghiệp
Thần khả báo quân-ân
Dịch : Con thừa được nghiệp cha, tôi trả tròn ơn chúa.
Cụ liền lấy bút phê vào bên cạnh : « Tối hảo ! Tối hảo ! Cương thường điên-đảo. Thần Nguyễn-hàm-Ninh phụng khảo ». Nghĩa là : « Hay tuyệt ! Hay tuyệt ! Song cương thường-ngược hết ! Thần : Nguyễn-hàm-Ninh phụng duyệt ».
Sau Vua Minh-Mạng nhìn thấy, triệu cụ vào, hỏi sao dám bảo « cương thường điên đảo » ? thì cụ tâu rằng vì chữ tử đứng trước chữ phụ, chữ quân nằm sau chữ thần. Ngài bắt cụ chữa lại, thì cụ đọc :
⽗業⼦能承
君恩⾂可報
Phụ nghiệp, tử năng thừa
Quân ân, thần khả báo
Dịch : Nghiệp cha, con thừa được ; ơn chúa, tôi trả tròn.
Ấy, chỉ đem lên đem xuống mấy chữ, mà câu văn rõ già hẳn lên, làm cho Đức Minh-Mạng, đã sẵn lòng phục cụ, lại càng phục thêm ! Nhưng càng được Vua sủng-hạnh, cụ lại càng « quá lắm », coi các « ông lớn » trong triều không ra gì. Có một « ông lớn » nào đó, người lùn, sinh được cậu giai, cụ cả gan đi mừng bài thơ mà hiện nay còn nghe truyền-tụng hai câu :
不願吾兒⼤過⼈
但願吾兒如⽗親
Bất nguyện ngô nghi đại quá nhân
Đãn nguyện ngô nhi như phụ thân…
Dịch :
Con ta lọ ước lớn hơn ai.
Ước được bằng, cha đã chán chơi…
Chòi người ta tận đến xương tủy như thế, bảo họ không ghét sao được ? Bảo họ không tìm cách mà làm hại mình sao được ? Há chẳng phải vì vậy mà năm 1840 (Canh-Tí) tức là năm Minh-Mạng 21, không rõ người ta đã nhân cớ gì mà mời cụ lui về đó ư ?
Cất xong một cái thảo-đường ở Khe Cừ, chỗ Vua Chiêm Thành đóng đô thủa trước, cụ có 3 bài thơ tức-sự :
I.
⼭外寒溪溪外⼭
百城富貴草三間
開窗清曉看雲起
出郭斜陽羨⿃還
園樹池⿂縈活計
藜羹樣飲駐韶顏
旁⼈莫訝歸來早
⼀⽇歸來⼀⽇閒
San ngoại hàn khê, khê ngoại san
Bách thành phú quí thảo tam gian
Khai song thanh hiểu khan vân khởi
Xuất quách tà dương tiện điểu hoài
Viên thụ trì ngư oanh hoạt kế
Lê canh tượng phạn trú thiều nhan Bàng nhân mạc nhạ qui lai tảo Nhứt nhật qui lai nhứt nhật nhàn.
Dịch :
Đồi bên kia suối, suối bên đồi, Phú-quí nền xưa cỏ một chòi. Mây sớm dậy trời bay cửa trước, Chim hôm về tổ ruổi thành ngoài. Quả vườn cá ruộng nhờ lộc đất, Cơm tượng canh lê trẻ dáng người. Lui được ngày nào, ngày ấy khỏe, Cùng ai, ai hỡi chớ cười ai !
II.
古壘平⾬四⾯⼭
村煙藹藹翠微間
草肥牧笛吹⾵去
⽲⻑農策簑帶霧還
吟到園林無俗韻
醉同親故⾜歡顏
歲寒早結松筠侶
飲⾕棲邱⾃在閒
Cổ lũy bình vũ tứ diện san Thôn yên ái ái thúy vi gian Thảo phì mục địch xuy phong khứ Hòa trưởng nông soa đái vụ hoàn Ngâm đáo viên lâm vô tục vận Túy đồng thân cố túc hoan nhan
Tuế hàn tảo kết tùng nhuân lự Ẩm cốc thê khâu tự tại nhàn
Dịch :
Bằng ri lụy cũ núi tư bề, 8
Đỉnh núi xanh xanh ngọn khói quê Đồng cỏ hơi xuân còi thổi rảo, Ruộng chiêm mùa ngọc nảy mang về, 9 Ngâm cùng chim suối, nghe tao nhỉ ! Say bởi người nhà rõ thú ghê ! Trời lạnh, bạn « tùng » đi lại sớm, Mặc dòng khe núc, đỉnh non kê !
III.
把却初⾐托故⼭
北窗數酌誦⼈閒
不緣世路多疎拙
未必園慮數往還
野⿃無機⾠對語
溪花有主爲開顔
百年通塞何須問
⼀枕薰⾵午夢閒
Bả khước sơ y thác cố san
Bắc song sổ chước tụng nhân gian Bất duyên thế lộ đa sơ chuyết Vị tất viên lô sác vãng hoàn
Dã điểu vô cơ thời đối ngữ
Khê hoa hữu chủ vị khai nhan Bách niên thông tắc hà tu vấn
Nhứt chẩm huân-phong ngọ mộng nhàn
Dịch :
Áo mũ trả đi, núi cũ về,
« Say nằm song bắc » chuyện còn nghe 10
Phải vì đường thế nhiều sơ-sót ?
Nào chắc vườn tiên mãi tiếng ve !
Chim nội biết ai « mồm » mách lẻo ?
Hoa khe thấy chủ mặt tươi lòe !
Việc đời thua được chi thèm kể !
Một giấc ngơi trưa, ngọn gió hè ! 11
Trong bài thơ vừa đọc, thấy có câu cụ tỏ rằng biết đâu cụ cứ lẩn khuất mãi trong cõi yên hà, chẳng có ngày lại ra lo việc nước. Mà thật thế, buổi cụ treo ấn ra về, Đức Minh Mạng đã bảo thầm cụ rằng : Khanh cứ về thăm nhà trong ít lúc, Trẫm sẽ chiêu dụng lại !… Không dè chẳng bao lâu ngài đã không còn nữa. May nhờ có Đức Thiệu-Trị là học trò của cụ, nên một khi trò lên giữ ngôi báu, ngày 20 tháng Giêng năm Tân-Sửu (1841), thì chiều ngày ấy, liền chạnh nghĩ đến thầy, lập tức hạ chỉ cho bộ Lại : « Tra Nguyễn-hàm-Ninh quán chỉ hà tại, tức hành khởi phục nhập các » (xét ông Nguyễn-hàm-Ninh ở đâu, lập tức cho khởi phục mà triệu vào các). Giấy bộ tư về làng, thì bấy giờ cụ đã đi chơi đâu ngoài Bắc rồi. Bộ phải tư cho các tỉnh từ Hà-Tịnh trở ra, hễ đâu có cụ thì phải « lập tức lai kinh hậu-chỉ ». Cụ ở Hà-Nội được tin ấy, lại nghe Đức Thiệu-Trị đi Bắc tuần, cụ liền chạy vào đón ngài tại Vinh, và về triều theo ngài, sung chức nội các hành-tẩu :
野外秀才⿑天⼤聖
部中⾏⾛陸地神仙
Dã ngoại Tú-tài, Tề-thiên Đại-thánh
Bộ trung Hành-tẩu, lục địa Thần-tiên
Tú-tài ở làng, to như Tề-thiên Đại-thánh, Hành-tẩu trong bộ, khỏe như lục-địa Thần-Tiên. Đó là lời ngự-phê trong tờ chỉ bổ cụ vào Nội-các vậy. Cụ được phép vào ra tự do trong Các. Vì Đức Thiệu-Trị là bậc hiểu-văn, ông nào không có văn-danh thì đã dễ được gần-gũi ngài ! Song cụ Nhâm-Sơn ta càng năng được gần-gũi ngài, thì lại dễ sinh ra lờn mặt. Lấy thi-văn mà làm cho ngài kính-phục còn chưa đủ sướng, cụ lại còn tìm cách mà trêu-ghẹo ngài nữa ! Chứng cớ ? Thì một hôm, Vua Thiệu-Trị vi-hành qua miền bến Ngự, gặp trận mưa to, ngài phải chạy vào một nhà thợ nhuộm bên đường. Mưa ngớt, ngài ra về, có tặng lại chủ nhà một câu đối. Cụ Nguyễn-hàm-Ninh há không biết rằng câu đối ấy là của Vua mình ? Tuy vậy : khi vào trực, làm ra bộ nghiêm-nghị lắm, cụ vẫn kêu : Hạ-thần đi qua nhà tên kia… ở xứ nọ… trước cửa thấy có dán câu đối :
天地⽞⿈都我⼿
朝廷朱紫總吾⾨
Thiên địa huyền-hoàng đô ngã thủ,
Triều-đình chu-tử tổng ngô môn.
Dịch :
Đen trời vàng đất nhờ tay mỗ, 12
Mũ tía xiêm điều chật cửa ông.
Hỏi câu đối của ai làm, chủ nhà bẩm rằng của một thằng lạc-phách nào ở phương xa đến. Kẻ hạ-thần này cứ như khẩu-khí trong câu đối ấy mà xét, thì phải quyết rằng tác-giả nó là một tay ghê-gớm, nếu mạng ấy không làm Vua được thì cũng làm giặc. Vậy ngửa trông thánh-thượng lập tức hạ-lịnh cho truy-nã hắn về mà giết ngay đi, đề phòng hậu-hoạn, chẳng thế, thì chỉ còn một cách này là đành nhường ngôi báu lại cho nó ; mới mong giữ vẹn cuộc thái-bình cho muôn dân !… Lời tâu ấy, buộc nhà Vua phải thú thật với cụ : « Thị Trẫm chỉ sở tác, Khâm thử ! » (của Trẫm làm đó ! Kinh lấy !).
Tuy ngài vẫn thừa biết rằng cụ muốn chọc tức mình chơi, nhưng trong chỗ văn tự, ngài không lấy đó làm đều. Đoạn này phải khen Đức Thiệu-Trị là người có óc mới : Vua cũng là người, đối với kẻ làm tôi phải xem như anh em ruột, khi buồn cùng toan lo chống đỡ, khi vui cùng giỡn-cợt nô
đùa, mối tình thân-ái có thế mới thêm khăng-khít bền chặt. Ở Âu-tây, kẻ thiết-cốt thường « tao-mi » với nhau, cũng bởi lẽ ấy. Vậy đức Thiệu-Trị không giận cụ Thuận-Chi ta là phải. Nếu có, thì sao cụ ở Nội-các chưa bao lâu, mà qua năm 1845 (Ất-Tị), cụ được thăng Hình-bộ Phó-lang, rồi đổi sang cẩn-tín ti Viên-ngoại, và năm sau lại thiên Lại-Lệ nhị bộ Lang-Trung ? Như thế, mà chừng như đức Thiệu-Trị vẫn nghĩ rằng chưa đủ để tỏ tấm lòng ân-cần quyến-chú của ngài đối với một bậc danh-nho ; ngài lại phải vội vàng trỏ dường chỉ nẻo cho cụ lập công, để sau ngài sẽ bạt dụng, trao cho cụ cái chức gì cho xứng đáng với tài : Cụ ngồi vào
ghế Lang-Trung chưa được yên chỗ, thì mùa đông năm ấy (1846) ngài đã bổ cụ vào làm Án-sát tại tỉnh Khánh-Hòa !
Cụ vừa đáo-nhậm được đâu trong vòng một tháng thì một hôm nọ thấy có hai người Tàu xin vào yết kiến. Người đi trước, tự xưng là một vị hưu-quan, đi du-lịch, nghe tiếng cụ là một nhà học-giả trứ danh, nên ghé vào thăm, còn người đi sau, tuy đến bây giờ cụ mới biết là bà con của người kia, nhưng hắn là ai, làm nghề gì thì cụ đã thừa biết từ lâu. Chính gã này buổi cụ còn ở Nội các, hắn có đem sang bán một ghe sách, nghe đâu toàn là sách quí lạ, có bộ dày đến mấy trăm chương, giá những 30 lạng bạc, Đức Thiệu-Trị bèn bảo cụ ra xem thử hay dở thế nào. Với chủ bán, cụ hẹn rằng chờ xem xong rồi sẽ mặc-cả (đánh giá). Chủ bán bằng lòng. Vậy là từ đó, ngày nào cụ cũng ra thuyền khách, vếch chân chữ ngũ mà nằm xem, một tập, hai tập, ba tập… dần dần cả bộ cụ đã để mắt qua một lượt cả rồi. Chú Chệch thật thà nọ hỏi cụ có thuận mua không thì cụ cười rằng : Tôi tưởng là sách gì mới, té ra thứ sách ấy thì trong Nội-các rày mới lục ra đã thấy có rồi. Đoạn cụ đem cho hẳn xem một bộ chữ viết, bảo rằng đấy là của người ta mới chép lại. Cụ tin rằng vắn tắt bấy nhiêu lời, cũng đủ cho người đồng-chủng của tên thù Mã-Viện biết cụ là một bậc thông minh cái thế, có sức ký ức khác thường, cả một bộ sách dày thế mà ngay xem đến đâu là thuộc làu đến đấy, rồi đêm về đọc lại cho mấy tên Thừa-phái viết, không hề sót lấy một chữ nào ! Vì vậy, cụ không cần bỏ tiền ra mua sách ai ; nhà vua muốn mua, cụ cũng xin đừng, làm cho chú Khách kia đã bị ế hàng lại bẽ. Phen này trở lại An-nam, hỏi
thăm biết cụ vào làm Án-sát ở đây, tưởng nó sẽ lừa rằng lại có bộ sách quí muốn bán, để cụ ăn quen, lại xuống ghe nó mà xem, rồi thừa lúc cụ xuất kỳ bất ý mà kéo neo trương buồm chạy thẳng ra khơi, thả cụ xuống nước để rửa giận ; Không ngờ nó lại biết phục tài cụ, món lợi lớn mất đi, nó không thèm nghĩ đến, lại chạy về nước, kêu rầm lên rằng cụ là một quan Trạng đâu đấy hẳn khiến cho trong đồng bào của hắn, có kẻ trí thức, sẵn bụng hiếu hiền, phải băng vời vượt bể, tìm đến cõi Lãnh-Nam này mà xem cho biết con người của cụ ra thế nào lại có được một khối óc thông minh như thế ấy ?
Nghĩ rằng nhà thế-phiệt kia là một người tri-kỷ đáng tin, mà chú Khách này cũng là một bậc quân-tử nên trọng, nên cụ tiếp-đãi rất mực tử-tế. Lúc ra về, chúng lại trân-trọng ngỏ lời mời cụ xuống thuyền nhấp chén rượu lạt. Vui-vẻ, cụ nhận lời ngay. Đúng giờ hẹn, chúng đem kiệu tới công
đường, rước cụ ra bến, rồi bơi xuồng vào, rước thẳng ra ghe, neo ngoài cửa bể. Cùng khách chén rượu ngà-ngà say, cụ ngủ quên khuấy lúc nào không biết. Chợt bừng mắt dậy, thì sóng đâu vỗ ầm ầm, thuyền sao chạy róc róc ? Kìa những lão Chệch kia lúc nào mới đằng-đãi mình một cách rụt rè e-sợ, mà nay sao vội thấy mình ngơ ngác chưa rõ chuyện trước mắt là sự thực hay chiêm bao, thì lại chẳng nói chẳng rằng, dám nhăn nanh trông mình mà cười rộ ? Hay là hùm thiêng đã mắc phải bẫy mọi đấy rồi ? Ôi, quả thế ! « biển sâu dùng thước mà đo, lòng người gian hiểm dễ dò được sao ? » (Tục-ngữ). Bây giờ nghĩ ra rồi cụ mới biết : té ra thằng lái buôn nham-hiểm kia, sở dĩ đem người thân
thuộc của hắn sang nước ta lần này là cốt để cho có người xứng chuyện trò với cụ, mà tìm phương trả thù ! Ngồi trong tàu với bọn nó biết bao nhiêu người, mà cụ vẫn cảm thấy mình như riêng lạc lối vào trong một chốn thâm lâm cùng cốc nào đây ? Song nếu ai hỏi cụ có biết sợ không, thì cụ vẫn trông vào giữa bầu trời nước mà lặng ngâm :
海浪雲輕送客船
帆歸北向若⾶箭
⾠看⽉照波⼼處
空畏詩題夜不眠
Hải lạng vân khinh tống khách thuyền
Phàm qui bắc hướng nhược phi tiên
Thời khan nguyệt chiếu ba tâm xứ
Không úy thi đề dạ bất miên
Dịch :
Sóng biển un mây trước mũi thuyền,
Buồm bay về Bắc chóng như tên.
Kìa xem lòng nước mặt trăng giọi,
E rộn bài thơ ngủ chẳng yên.
Thuyền đến Thượng-Hải, chúng đem cụ lên nhà. Trông lên bàn thờ, cụ thấy lõng-thõng hai câu liễn trắng : 結髮訂吾缘誰謂今朝鴻北去
芒⼼憑客地吁嗟何⽇鴈南歸
Kết phát đính ngô duyên, thùy vị kim triêu hồng bắc khứ ;
Mang tâm bằng khách địa, hu ta hà nhật nhạn nam qui !
Dịch :
Kết tóc hẹn duyên ta ; một phút ai xui hồng về bắc ; Ôm lòng nương đất khách, bao giờ còn thấy nhạn sang nam ?
Câu đối ấy, nguyên buổi còn ở Bộ, cụ làm hộ cho một người đàn bà ta khóc người chồng khách sang buôn bán ở Kinh, rủi chết đi rồi chở quan-tài và linh-cữu về Tàu trong lúc nàng còn có thai. Bởi vậy, trong Hán-văn cụ đặt « kết, mang, ngô, khách » để cho thiết với sự-tích của vợ chồng nhà hắn. Nay thấy tác-phẩm của mình chưng ở nhà người, cụ biết tên Chệch quá cố kia với kẻ thù mình cùng nghĩa anh em ruột thịt. Cụ than rằng : « Buổi bà con của các ngài chết, chính tôi đã làm một người khóc mướn, không ngờ ngày nay thân này lại chết vào tay các ngài, than ôi ! sau khi tôi đã nhắm mắt rồi ai là người có dư nước mắt mà khóc mướn cho tôi ? » Câu nói văn hoa mà bi-đát ấy đã cảm động đến quân mặt sắt lòng đá.
Chúng chỉ đòi giữ lại của cụ cái đùm tóc mịn-màng để làm « kỷ-niệm », còn cái tấm thân mảnh-dẻ – tấm mình đặc biệt của con nhà văn, nhà thơ – chúng lại chở về trả cho non sông Hồng-Lạc :
海平萬⾥送⼈囘
四望愴茫不⾒涯
宇宙糢糊⾭霧裡
⽔天縹渺⽩雲堆
壯⼼初試波⼲頃
⿔思從⽢酒半杯
佇⽴錯頭看細浪
⿂⾈處處⽚帆開
Hải bình vạn lý tống nhân hồi,
Tứ vọng thương mang bất kiến nhai.
Vũ-trụ mô-hồ thanh-vụ lý,
Thủy-thiên phiếu-diếu bạch-vân đôi.
Tráng-tâm sơ thí ba thiên khoảnh,
Qui-tứ tùng cam tửu bán bôi.
Trử lập thuyền đầu khan tế lãng,
Ngư châu xứ-xứ phiến phàm khai.
Dịch :
Đường về muôn dặm biển mông mênh,
Bờ bến đâu đâu trước mắt mình.
Lẫn-lộn bể-trời trong khói bạc,
Mơ-màng non-nước giữa mù xanh.
Sóng đào chí cũ nghìn trùng tỉ,
Rượu ngọt, lòng quê nửa chén đành.
Đứng trước mũi thuyền trời biển lặng,
Buồm chài bốn mặt cánh thênh thênh.
Đến cửa Thuận-An, chúng đem thả cụ ở trên bãi biển rồi quay thuyền về. Còn cụ ? theo dòng sông Hương, cụ tìm lên đỉnh Ngự, xin vào bệ-kiến để chịu tội sơ-phóng. Trong triều, các quan lớn ghét cụ là thằng ngạo mạn, lúc ở Nội-các, đã cậy thế cậy thần mà bài bác họ nhiều điều, nay họ đều ùa lên cho rằng cụ đã làm nhục đến quốc-thể, và thấy cái đầu trọc của cụ thì họ muốn cho cụ về cõi Phật luôn : họ ghép cụ vào tội đại-tịch. Song còn có Đức Thiệu-Trị ! Một vị minh-
quân thế ấy, há chịu để cho bọn quyền-thần giết hại một bậc kỳ-tài ? Ngài liền tha cho cụ tội chết, và tạm phạt cụ vào Đà-Nẵng sung quân ở đó. Lúc cụ ra đi, có người em là ông Tú Nguyễn-hàm-Trạch theo tiễn chân. Ông này ở Khánh-Hòa nghe tin cụ về nước, thì vội vàng ra Huế mừng cụ và tin cho cụ biết rằng bà ở nhà đã sinh được một gái. Thế nên cùng ông Hàm-Trạch cụ có bài thơ lưu biệt :
不道今相⾒
猶疑夢未眞
書來兒有⺟
獄定我爲⼈
天地淸秋晚
⾼堂⽩髮新
承歡諸弟在
暫別莫沾⼱
Bất đạo kim tương kiến
Do nghi mộng vị chân
Thư lai, nhi hữu mẫu
Ngục định ngã vi nhân
Thiên địa thanh thu vãn
Cao đường bạch phát tân
Thừa hoan chư đệ tại,
Tạm biệt, mạc triêm cân
Dịch :
Phải chăng đối mặt bắt tay ngồi,
Hay lại chiêm bao đấy nữa rồi ?
Góc biển thư về con có mẹ,
Phương trời ngục định bác (mỗ) làm người. 13 Màu thu tiết mượn thương thân kẻ, 14
Mái tuyết gương soi tủi phận ai. 15
Thôi chớ dầm khăn khi dứt áo, 16
Thân nhà còn cả các em ngoài !… 17
Con trẻ mặc vợ, mẹ già có em, việc gia-đình tưởng cụ không cần phải nghĩ đến nữa, và đành để cho họ giải đi : 帶得枯遮擧⽬驚
⼈⼈指笑阮咸寕
Đái đắc khô già cử mục kinh
Nhân-nhân chỉ tiếu Nguyễn-hàm-Ninh…
Dịch :
Ai thấu gông-xiềng chẳng phải kinh ?
Vừa cười, chúng trỏ : « Nguyễn-hàm-Ninh ».
Than ôi, mới ngày nào cụ còn đạo-mạo làm một ông quan lớn mà bây giờ đành ủ rũ trong bộ áo xanh ?
Rong-ranh xiềng sắt ngờ đeo ngọc,
Ràng-rịt thừng mây tựa thắt đai.
Đọc câu thơ ấy, cảm thấy cái cảnh-ngộ ấy của cụ, khiến ta không khỏi ngậm-ngùi !…
Song, những bậc danh-vọng như cụ, mà cũng có lần phải nếm qua thú ngủ ngồi, trường ăn bốc, mới đủ cho thiên-hạ tin rằng : nằm trong nhà đá, ngồi giữa cũi sắt, dẫu toàn là người có tội, cũng chưa hẳn là tụi đáng khinh ! Tuy cụ đã lọt vào vòng lụy-tiết, nhưng nhà vua vẫn còn một
lòng quyến-chú ! Nên đày vào Quảng-Nam chưa được mấy hôm, cụ đã được đặc-ân cải phái làm Trai-đàn Hiệu-lực tại chùa Thiên-Mụ ; rồi lại khởi-phục Hàn-lâm-viện trước-tác, đầu đuôi chỉ trong một tháng giời ở trong vòng hình-hiến mà thôi (!)
Bấy giờ cụ vào làm việc tại sở tu-thư.
Nghĩ rằng dần-dà rồi Đức Thiệu-Trị cũng sẽ cho cụ phục lại chức cũ, không ngờ năm ấy (1847-Đinh-vị), Đức Thiệu Trị thăng hà, rồi Vua Tự-Đức đăng-quang.
Lẽ ra thì ngôi báu phải về phần ông Hồng-Bảo (anh ruột Vua Tự-Đức), vì Đức Thiệu-Trị đã đặt ông làm Thái-tử từ lâu, không rõ tại sao khi gần nhắm mắt, ngài lại muốn truyền vị cho ông em là Hồng-Nhậm, cho nên ông này lên làm vua, thì ông Hồng-Bảo tỏ vẻ bất-bình !… Vì vậy mà cả gia quyến của ông đều bị hại. Đức Tự-Đức đã nhẫn-tâm làm cái việc « nồi da xáo thịt, củi đậu nấu mè » ! Vì cớ ấy mà cụ Nguyễn-hàm-Ninh không lấy làm phục ngài lắm. Bữa nọ, nhân ngài thời cơm, vô-ý răng cắn nhằm lưỡi, ngài bèn lấy đó làm đầu bài, bảo đình thần, mấy ông danh sĩ, làm mỗi ông một bài thơ.
Các quan lớn, bài dâng lên ngự lãm nhiều lắm, nhưng chỉ có bài cụ là xuất-sắc hơn cả, và được truyền tụng đến giờ :
⽣我之初汝未⽣
汝⽣之後我爲兄
珍饈曾幾同⽢苦
囓指還忘⾻⾁情
Sinh ngã chi sơ nhữ vị sinh
Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh
Trân-tu tằng kỷ đồng cam-khổ
Khiết chỉ hoàn vong cốt-nhục tình
Dịch :
Thủa bác (lưỡi) sinh ra, chú (răng) chửa sinh ; Từ sinh ra chú, bác làm anh.
Tân cam từng lúc cùng san-sẻ,
Cốt-nhục, đang tâm nghiến đứt tình ?
Bạn đọc chắc đã thừa biết, trong bài thơ ấy, ý cụ muốn nói gì rồi. Ôi ! vì một miếng ăn, một chỗ ngồi mà anh trở giận em, em quay giết anh, thế thì trường danh lợi phải chăng là chỗ người ta dễ « đổ » tình « máu mủ », « dứt » nghĩa chân tay, mà kẻ học đạo thánh, sợ lưới trời, phải tìm đường xa tránh, quyết ý tảng lờ ? Nhà thi-sĩ đa-cảm đa-tình đổ ra chán-nản việc đời từ đấy ! Chẳng những cụ buồn nỗi làm tôi mà không can gì được Vua, cụ còn biết xét mình làm quan mà không ích chi đến dân. Viết đến đoạn này, tựa hồ như nghe có tiếng cụ ngâm đọc đâu đây :
梅花燈下影
焦葉⾬中聲
獨客難爲夜
端居空憮情
北畿⽅苦潦
⻄壤未休兵
經術知何補
深宵看⽃橫
Mai-hoa đăng hạ ảnh
Tiêu-diệp vũ trung thanh
Độc khách nan vi dạ
Đoan cư không phủ tình
Bắc kỳ phương khổ lạo
Tây-nhưỡng vị hưu binh
Kinh thuật tri hà bổ
Thâm tiêu khán đẩu hoành
Dịch :
Trong mưa, tàu chuối khóc,
Ngọn nến đóa mai cười. 18
Đêm đố đặt lưng ngủ,
Giường cao ôm bụng ngồi.
Bắc kỳ dân ngập nước,
Tâu nhượng giặc làm trời. 19
Thơ thánh ăn ai tá ?
Vừng Ngưu há miệng gioi !
Xem vậy thì cụ vẫn một lòng ưu-thời mẫn-thế, nào phải tuồng túi cơm giá áo như những ai kia ! Song dầu muốn làm chi, e cũng phải có trời mới được, bằng không thì có hoài bão thế nào âu cũng bằng thừa. Xem biết tình thế khó-khăn lắm rồi, cụ không còn dám ngồi suông mà hưởng lộc nước ; mới bốn mươi tuổi trời, đương độ trẻ trung, răng còn cứng, sức còn dai, mà cụ đã từ bỏ miếng đỉnh-chung, thác bệnh mà quyết đòi qui-lý cho được. Vua Tự-Đức cố cầm lại không xong đành phải nghiêng tai nghe cụ hát bài qui-hứng :
村外⼀聲鳩
園林事事幽
鉤簾春醒燕
橫笛晚傳⽜
柳惠應三黜
張衡滿四愁
未⾔歸興樂
安識主恩優
Thôn ngoại nhứt thanh cưu
Viên lâm sự sự u
Câu tiêm xuân tỉnh yến
Hoành địch vãn truyền ngưu
Liễu Huệ ưng tam truất
Trương Hành mãn tứ sầu
Vị ngôn qui hứng lạc
Yên thức chủ ân ưu.
Dịch :
Chim cưu một tiếng giục ngoài cồn, 20
Muôn việc tối-tăm núi một vườn,
Én tảnh giấc xuân, tay sáo cuốn 21
Trâu về ràn cũ, tiiếng còi dồn, 22
Liễu-công đáng mặt ba lần truất.
Trương-tử cam tâm bốn nỗi buồn 23
Này thú điền-viên chưa nói đến
Biết đâu mưa-móc nặng mang ơn.
Nhà thơ quen nói vậy, họ thường ca-tụng cái thú điền viên, nhưng dường như cụ chỉ sanh ra để đọc sách ngâm thơ. Trong nhà cụ nuôi ba người, một người chực luôn bên
trướng để khi cụ cần xem sách gì thì mở tủ mà tìm cho cụ xem ; lại một người để đọc cho một người nữa biên lại những thơ văn của cụ ngẫu hứng làm ra trong lúc tình cùng bầu rượu, duyên với cô đào, như bài ca trù mà cụ cho hát để nhắc-nhớ đến cái đặc-ân của hai Vua Minh-Mạng, Thiệu
Trị đã từng phen ưu-đãi mình :
Sực nhớ đến Thiên báu Khai nguyên di sự, 24
Tấm bi thu như say như tỉnh lại như mê.
Duyên tam sinh Âu-kiếm Hợp-châu về, 25
Đức tái tạo kể trời cao bể rộng,
瓊樓⽟宇三更夢
⿓閤珠襦萬古愁
« Quỳnh lâu ngọc vọ tam canh mộng,
Long cáp châu nhu vạn cổ sầu »
Đỉnh-hồ xanh-ngắt một mầu, 26
Trông cung-khuyết biết mấy hàng huyết-lệ.
Số viên-tí lẻ loi là thế, 27
Dẫu cơm săng áo cỏ cũng là ơn. 28
Bùn mây thân cũng là thân, 29
Nhân sinh hồ dễ mấy lần được ru ?
Lênh đênh một mảnh giang-hồ.
Ngoài bài ca-trù ấy, cùng nhiều bài khác nữa, còn có một câu mà khi nào cụ cũng bắt cô đào truyền, cái cô đào đủ cả thanh lẫn sắc ấy hát :
Ma hèm quen thói say sưa,
Đã say rượu Kịa, lại mơ rượu Cầu.
Phải hiểu cái thâm-ý của câu hát ấy. Nguyên bà chánh của cụ là người Tô-Xá (sinh hạ được 3 trai 2 gái), sau khi qui-điền, cụ lại hội thêm một bà nữa người Kẻ-Kịa (Tượng Sơn) ; cô đào Truyền kia người Kẻ-Cầu (Phú-Mị) ; Kẻ Cầu và Kẻ Kịa là hai làng ở trong phủ có tiếng rượu ngon, nên cụ đặt câu hát ấy để đùa đào Truyền đó !… Ngoài sự dan-díu với cô đào, cụ lại thường tìm chơi các chỗ danh sơn thắng tích. Trên đỉnh Đèo Ngang (Hoành-sơn) cụ tầng vui với cảnh :
Lờn vờn mặt nước cây hòng lội,
Chợn vợn chân non sóng muốn trèo.
Còn cảnh chợ Trời ở Sơn-Tây thì :
Hóa-công xây đắp tự bao đời,
Nọ cảnh Sài-Sơn có chợ trời.
Buổi sớm sương tan, trưa nắng giãi,
Ban chiều mây hợp tối trăng chơi,
Bày hàng, hoa quả tư mùa đủ,
Cứ hiệu, giang-sơn bốn mặt ngồi,
Bán lợi mua danh nào những kẻ,
Thử lên mặc cả một đôi lời. 30
Ở Chợ Trời mà cũng có thơ cụ ? Rõ thực thừa lúc nhàn tản, cụ đã đi ngao du khắp đây đó.
Một lần ngang qua Nghệ, biết ông Lưu-Lạng người Cao Lao, làm Án-sát ở đấy, cụ ghé vào thăm. Rủi ông đi việc quan vắng, bà xin cụ để lại một tấm danh-thiếp để khi chồng mình về, đem trình. Cụ liền bảo lấy bút mực, thảo ngay câu thơ :
Bái-Công một họ, không đồng phái,
Gia-Cát trùng tên, có khác tài.
Sau quan án về, ngài thấy câu thơ, tự hỏi : Bái-công một họ, họ gì ? họ Lưu ; Gia-Cát trùng tên, tên gì ? tên Lạng ! Tưởng rằng tác-giả sẽ xưng tên họ của mình, ai nhè lại đem tên họ ông Lưu-Lạng ra mà nhạo ! Quan án đoán ngay rằng : xược đến thế chỉ có Nguyễn-hàm-Ninh, bất đắc ý thôi quan về, rày mới đi lang-thang.
Chính nhờ đi lang thang như vậy, cụ mới tìm ra biết bao nhiêu cái hay cái đẹp của thơ, chìm trong mây giáng, ẩn giữa cỏ cây ? Song tiền lộ-phí ai cung-cấp cho, mà cụ được thong-dong trên đường du-lịch ?
Chỉ trông vào một túi thanh-nang ! Nghe đâu buổi ấy, trong các bọn danh-sĩ, ông Đinh-nhật-Thận với cụ có tiếng hay thuốc nhất.
Nhưng làm thuốc rõ là cái nghề « phản-trắc » làm sao ! Thầy thuốc chỉ khéo cứu được mạng người mà nào cứu được mạng mình ! Sinh ngày rằm tháng Giêng năm Mậu-Thìn (1808), mất ngày rằm tháng Chạp năm Đinh-Mão (1867), có tính tuổi theo phép An-nam, mới có thể nói rằng cụ đã hưởng thọ được 60 tuổi.
Nhưng thôi, như nhà thi-sĩ nào đó ở bên trời Âu đã nói :
Thánh-hiền cũng có ngày vận mạt,
Chỉ câu thơ tuyệt tác mạnh trường.
(Les Dieux eux-mêmes meurent,
Mais les vers souverains demeurent).
II. TÁC-PHẨM CỦA CỤ
Những tác-phẩm của cụ lưu lại, dầu chưa kể đến những bài thơ rải-rác, mà chúng tôi sẽ đem vào tập Cổ-vận thập-di 古韻拾遺 xuất bản sau này, chúng tôi tưởng nên nói sơ đến bản Phản-thúc-Ước. Với Tần-Cung-Oán, Chinh-phụ-ngâm, Kim-vân-Kiều, Phản-thúc-Ước cũng là một áng danh văn. Có đều nó lại chuyên về lối văn trào-phúng, mà là một lối văn trào-phúng rất hay, nếu ta được đọc qua vài câu thì sẽ muốn đọc mãi. Chúng tôi đã cho in bản Phản-thúc-Ước ở cuối sách này để các ngài đọc, các ngài đọc lấy mà tự biết lấy, chúng tôi không cần phải nói vào đây cho nhiều. Chúng tôi muốn dành giấy mực, để thì-giờ mà giới-thiệu với các bạn hai tập thơ khác của cụ bằng Hán-văn.
Một là tập Dược-Sư Ngẫu-Đề 藥師偶題. Như tên sách đã chỉ, đó là một tập thơ cụ ngẫu hứng làm ra trong lúc đi làm thuốc. Xin trích ra đây một bài để làm chứng : ⾏醫過千仞懷古
醫囊幾度此⼭⾏
感昔傷今未已情
野⿃向⼈⾔往事
⾭荅鎖壁篆同盟
殘雲欲起成圍陣
落⽯猶分伏路兵
最是關情無處瀉
斜陽牧笛隔溪聲
« Hành y quá Thiên-Nhận hoài cổ »
Y nang kỷ độ thử sơn hành
Cảm tích thương kim vị dĩ tình
Dạ điểu hướng nhân ngôn vãng sự
Thanh đài tỏa bích triện đồng minh
Tàn vân dục khởi thành vi trận
Lạc thạch do phân phục lộ binh
Tối thị quan tình vô xứ tả,
Tà dương mục địch cách khê thanh.
Dịch :
« Làm thuốc qua núi Thiên-Nhận nhớ chuyện xưa »
Qua lại thuốc thang mấy độ thừa,
Cảnh này chưa khỏi cảm thương cho. 31
Trên thành rêu đóng, ghi lời ước,
Ngoài nội chim kêu, nhắc chuyện xưa.
Mây kéo dập trời vây cả núi,
Đá lăn vào bụi nấp ven bờ.
Bút nào tả xiết tình này nhỉ ?
Tiếng suối chiều hôm lẫn tiếng tồ (tồ và).
Thơ cụ còn một tập nữa, nhan là Tịnh-Trai Thi tập 靜齋詩 集 Tập này chia ra làm :
- Thiên-Kiều 遷喬 1 thiên
- Tiền-Lê 藜 4 thiên
- Ngọa-Du 臥遊 1 thiên.
Chúng tôi đã tầng được xem bản thảo, chính chữ cụ viết ra, dấu mực của ông Cao-bá-Quát và dấu son của ông Tùng-thiện-Vương phê-bình. Bài nào thấy cũng có câu mà
hai ngài phải giành nhau khuyên đặc cả mặt giấy. Có bài Thương-Sơn Tiên-Sinh (tức Tùng-thiện-Vương) phê : « Thạnh Đường duy trứ bách độc bất yếm » 盛唐遺著百讀不 厭, nghĩa là một bài thơ hay đời Thạnh-Đường sót lại, đọc trăm lần không chán. Còn Chu-Thần Tiên-sinh (tức Cao-bá
Quát) thì phê : Phi thiện học Thiếu-lăng, yên đắc linh-diệu nại dư ? ⾮善學少陵安得靈妙乃余 nghĩa là nếu không phải đã học được cái tài thơ của Đỗ-Phủ, thì làm sao mà được linh diệu đến thế ?
Những lời phê như vậy xuất từ trong cửa miệng, dưới ngòi bút của những kẻ đã có tên trong câu : Văn, nghe Siêu Quát buông Tiền Hán ; Thi, đến Tùng Tuy xếp Thạnh Đường ⽂如迢活無前漢詩到松綏失盛唐, tưởng cũng đủ để đảm-bảo cho tài học của người mà chúng tôi đã viết thành tập lịch sử này vậy.
III. CHUYỆN CỤ VỚI ÔNG CAO-BÁ-QUÁT
Phải chăng, khi xem qua lịch-sử một bậc danh-nhân nào, người ta cũng muốn biết : đối với bậc danh nhân ấy, những danh nhân khác cùng sống vào một thời, ra thế nào ? Vậy xin nói chuyện ông Cao-bá-Quát với cụ.
Năm cụ Nguyễn-hàm-Ninh đậu Giải-Nguyên ở trường Thừa, thì ông Cao-bá-Quát cũng đậu Thủ-khoa ở Hà-nội. Năm sau (Nhâm-Thìn, 1832), ông Quát từ Bắc vào Huế để thi Hội. Vào gần đến sông Gianh, giữa đường gặp một người khăn đen áo dài, trông cũng ra phết nhà nho, ông liền hỏi kháy nhà Nguyễn-hàm-Ninh ở đâu ?
- Chứ ông hỏi thăm ông ấy làm gì ? Mà ông là ai ?
Người kia hỏi vặn lại thế, thì ông cười gằn : « Hừ ! dầu nay mới thấy mặt, nhưng chắc từ lâu anh cũng đã nghe tiếng Chu-Thần đấy hẳn ? Từ Bắc vào, qua đâu mình cũng chẳng sợ ai, duy đến khoảng Lam-Hồng phải nể Đinh-nhật
Thận, còn vào Quảng Bình nầy thì nghe có Nguyễn-hàm Ninh… Nhưng chưa chắc « danh » đã đúng như « thiệt » nên muốn gặp « anh ta » hỏi thử vài câu, xem học hành ra thế nào ? »
- À, tưởng gì chứ ông muốn thế, thì chắc Nguyên-hàm Ninh là tay hay chữ, sẽ sẵn lòng tiếp chuyện với ông. Song ông không cần phải tìm đến nhà, chính trên con đường nầy cũng có ông ta, ông đương đi thi Hội, ta cứ đi, sẽ gặp ông ngay trước mặt.
Cao-bá-Quát cả mừng, rán sức đi nhanh nhưng đã trông mòn con mắt mà chưa thấy Nguyễn-hàm-Ninh ở đâu. Lại quay hỏi người khách đồng hành : từ nãy tôi mảng sốt ruột vì việc chưa được gặp con người muốn gặp mà quên hỏi ông với Nguyễn-hàm-Ninh có quen biết gì không ?
- Lẽ nào lại không ? Tôi là học-trò của ông đấy, năm ngoái nhờ trời sư-đệ cùng đỗ một khoa, nên giờ tôi cũng đi thi Hội.
- Quả thế thì chúng ta cùng đi, nói chuyện càng vui… nào ! có thơ văn gì ông Nguyễn-hàm-Ninh, anh còn nhớ, đọc cho nghe với.
Nhưng người kia quyết không chịu đọc, bảo rằng : « Nhiều lắm, nhiều lắm, mình trông thấy hóa chán, không làm sao nhớ hết ! »
Nói thế, thấy ông Cao-bá-Quát có ý buồn, người kia vội cười : « Anh rõ thật quá sính ! Thích nghe văn mà không được nghe cũng buồn ! Muốn mua vui cùng nhau, âu là anh hãy ra cho tôi vài bài thơ để tôi làm, anh sửa ! »
Ông Cao-bá-Quát bằng lòng ngay, thử ra cho ít bài, thì ra anh chàng nào đó, thơ đã hay mà làm lại mau, so với mình thực không kém gì chút nào ! Thấy Cao-bá-Quát chịu, người kia lại càng nổi láo, thách khéo Cao-bá-Quát họa lại 32. Tuy biết hai bên chỉ ngang sức nhau, song nhà thi-sĩ họ Cao trong lòng vẫn lo sợ riết ! Nào phải lo sợ gì ở người bạn đi đường kia đâu ? Chính là lo ở ông thầy của nó kia ! Nó là học-trò mà mình còn không hơn được nó, thì địch làm sao nổi với thầy nó chứ ! Nghĩ thế, Chu-Thần Tiên-sinh lại gạn
hỏi : « Tuy nói anh là học-trò, Nguyễn-hàm-Ninh là thầy, song anh nên bình tâm mà xét : Sức Nguyễn-hàm-Ninh có hơn anh nhiều lắm không ? »
- Hơn nhiều, người kia đáp lại thế, hơn nhiều lắm ! Không hơn thì sao mà làm thầy tôi được ? Học lực của tôi, được như anh là may, còn dám hòng đâu địch với thầy tôi ? Sức hai đứa mình đối với thầy kể đã thấm thía vào đâu !
Nghe nói, Cao-bá-Quát lấy làm tức tối lắm ! Nhưng dù sao, cũng quyết gặp cho được Nguyễn-hàm-Ninh. Ông tin chắc rằng rồi đây người bạn đồng hành của mình sẽ đem mình giới thiệu với Thuận-chi Tiên-sinh, nào ngờ vào vừa đến Huế, nó thác cớ là có việc riêng cần-kíp mà rẽ đi đường khác, chỉ bày cho mình, nhà nọ phố kia là chỗ mà hằng năm ông Nguyễn-hàm-Ninh vào Kinh quen ở. Ông Quát phải mượn người khác chỉ chỗ. Từ dưới thềm nhà quán bước lên, trống tim đánh giục, ông Quát trong lòng hồi-hộp, không biết cái con người mà mình sẽ gặp đây có dị-hình dị-tướng lắm chăng ? Nhưng đánh bạo, ông vẫn bước vào, bước vào, thì… ông đã phải lăn ra mà cười : nhà danh-sĩ Quảng-Bình không phải ai lạ, chính là người bạn đi đường của mình hôm nọ ! Cao-bá-Quát càng phải phục Nguyễn-hàm-Ninh là tay « Trạng » ! Hai người yêu nhau từ đó. Lúc cùng làm quan tại triều, vẫn thường đi lại chơi bời với nhau như anh em một nhà. Chẳng những lúc phú quí có nhau mà khi hoạn nạn lại cùng nhau san cay sẻ đắng. Ông Cao-bá-Quát, năm đi điển thi trường Thừa, nhân thấy bài ông Phan-gia-Hành (?) văn hay mà phải một chữ phạm vào trường qui, quan trường vì không được phép mang bút mực theo, nên ông lấy bút son
lăn vào muội đèn, chữa quách lại cho người tài không quen biết, vì chuyện ấy, ông bị phát-phối vào Đà-Nẵng. Lúc ra đi, cùng cụ Nguyễn-hàm-Ninh, ông có bài thơ lưu-biệt : 此⽣歸路轉悠悠
⽼去⽂章不⾃謀
逐客已安樵⼦脚
吟翁仍是配軍頭
⾹橋⾵⾬難爲夜
沱汛雲煙暫覺秋
他⽇愁⼼君記取
五溪明⽉夜瑯⾈
Thử sinh qui lộ chuyển du-du,
Lão khứ văn-chương bất tự mưu !
Trúc-khách dĩ yên Tiều-tử cước,
Ngâm-ông nhưng thị phối quân đầu.
Hương-kiều phong-vũ nan vị dạ,
Đà-tấn vân-yên tiệm giác thu.
Tha nhật sầu tâm quân ký thủ,
Ngũ khê minh nguyệt dạ lang châu.
Dịch :
Phen này về được cũng lâu năm,
Phai-lạt văn-chương mái tóc râm.
Đành dõi gót Tiều thân bị đuổi, 33
Khéo đem đầu lính lão hay ngâm.
Gió-mưa rạo-rực đêm Hương-Thủy,
Mây-khói mịt-mù tấn Quảng-Nam.
Sầu ấy ngày nào xin nhớ lấy,
Nắm khe thuyền cặp mảnh trăng rằm.
Sau cụ Nguyễn-hàm-Ninh ở Tàu về lại gặp ông ở Đà Nẵng. Cách ít ngày, cụ được đổi về làm Trai-đàn Hiệu-lực tại chùa Thiên-Mụ ông Quát lại có bài thơ tiễn biệt : 斷蓬⾶絮兩無根
惜別頻啼爲⼦⾔
獨鶴不曾銷鏡影
遠⼭何事破眉垠
詩成恨字空題⾎
酒醉離杯卽夢魂
他⽇旅亭分⼿後
幾囘⾵⾬暗⻄村
Đoạn bồng phi nhứ lượng vô căn
Tích biệt tần đề vị tử ngôn
Độc hạc bất tằng tiêu cảnh ảnh
Viễn sơn hà sự phá mi ngân
Thư thành hận tự không đề huyết
Tửu túy li bôi tức mộng hồn
Tha nhật lữ đình phân thủ hậu
Hỷ hồi phong vũ ám tây thôn.
Dịch :
Lênh đênh bèo bọt phận đôi ta,
Sùi sụt vì ai lúc bước ra.
Bóng kính bao hề rời hạc một, 34
Ngấn mày sao nỡ dứt non xa. 35
Tanh rình mùi máu hàng thư hận,
Sau ngất hồn hoa chén rượu đưa.
Rồi nữa mỗi người thành mỗi ngả,
Mịt mù mưa gió biết đâu là !…
Lời lẽ lâm li thế ấy, đủ biết tình nghĩa nồng nàn dường nào !
Sau cụ Nguyễn-hàm-Ninh thôi quan về, ông Quát lại gửi, vào năm Tự-Đức tứ niên, một bài thơ ngũ ngôn : 有客曾相問
⾵流⽼順知
⼗年知我友
⼀⾸贈君詩
今昔那從問
⾏藏未可知
⼭城明⽉夜
空復托離思
Hữu khách tằng tương vấn
Phong-lưu-lão Thuận-Chi
Thập niên tri ngã hữu
Nhứt thủ tặng quân thi
Kim tích na tùng vấn
Hành tàng vị khả tri
Sơn thành minh nguyệt dạ
Không phục thác li tư.
Dịch :
Có khách thường nghe hỏi :
Phong-lưu lão Tịnh-trai.
Mười năm quen biết mỗ,
Mấy vận gửi đưa ai.
Đắc táng thôi bàn chuyện,
Hành tàng chửa định thời.
Thành non vừng nguyệt giọi,
Bối rối dạ quan hoài.
Bài thơ ấy ông Quát nhờ ông Trần-Cung-Trọng (?) đưa lại, trước có tự mấy lời : Đắc Thuận-Chi lưu tặng Trần Cung-Trọng Vĩnh-tường chi tác. Thử lão quật cường, chính phục dữ ngã đồng bệnh ; nghi vô bất khả ẩn ư Cung-Trọng dã, nhứt tiên thư thử thác. Cung-Trọng qui trí thư bưu 得順 知留贈陳恭重永祥之作此⽼倔強正復與我同病宜無不可隱於恭重也⼀ 箋書此托恭重歸置書郵, nghĩa là được thấy bài thơ lưu-tặng ông Trần-Cung-Trọng của ông Thuận-Chi, Lão này cũng là một tay quật cường, cùng ta một bịnh. Tưởng với Trần Cung-Trọng, không cần phải giấu giếm gì nữa. Vậy rút mảnh giấy, viết mấy dòng, nhờ Cung-Trọng gửi lại.
Xem đó đủ biết, hai bên rất tương đắc, ông Quát đã nhận cụ làm bạn đồng bệnh. Đồng-bịnh tương lân ! Nhưng chừng như cụ Nguyễn thì chỉ cậy mình hay chữ mà ngạo đời thế thôi, không có cái chí giằng đất xoay trời như ông Cao
bá-Quát.
IV. ÔNG TÙNG-THIỆN-VƯƠNG VỚI CỤ
Ông Cao-bá-Quát với-cụ đã thân, mà cụ với ông Tùng thiện-Vương lại càng thân lắm. Bằng vào đâu mà tôi dám nói như thế ? thì cứ xem trong tập « Kim-lang-can » ⾦瑯玕 của cụ sưu-tập. Độc-giả ai có Hán học nghe đến ba chữ Kim-lang-can, sực nhớ câu nói của Trương-Hành « Mỹ nhân tặng ngã kim lang can » 美⼈贈我⾦瑯玕 cũng thừa biết rằng đó là một tập văn, trong ấy cụ cho chép lại những thi văn của các bạn tri-giao đã trí tặng cụ. Trong bài tựa tập ấy, cụ có viết rằng : Thị biên chú thứ, dĩ giao chi thâm thiển vi tiên hậu, tước lộc phi khả tỉ lệ dã 是編註次,以交之深淺為先後,爵 祿⾮可此例也. Nghĩa là : trong tập này, tùy theo tình giao thân hay sơ mà chép thơ tặng lên trước hay sau, không phải lấy tước lộc mà cân nhắc vậy. Thế rồi thấy cụ chép thơ ông Thương-Sơn (tức Tùng-thiện-Vương) 36 lên đầu ! Vì sao mà ông được cụ kính-trọng như thế ? Há chẳng phải vì ông là người bạn tri-âm thứ nhất của cụ hay sao ? Lúc cụ Tri
huyện Lục-Ngạn về đinh-gian, rồi vào dạy tư ở Thanh-Toàn, đó là lần đầu cụ được gần-gũi ông Tùng. Chính nàng thơ đã làm môi-giới cho cuộc nhân duyên ấy giữa hai nhà văn : Biết ông Tùng là tay sính, nên ở thành ngoài nghe đọc bài thơ gì của ông thì cụ Nguyễn liền họa lại mà gửi vào. Một lần ông Tùng thấy thơ, thì liền phục đến người, thường vời cụ vào các, cùng nhau uống rượu làm thơ. Ông Tùng thường bảo cụ rằng : « Trong bạn thơ rượu, đã vì tài-đức mà kết thân với nhau, thì khi chén tạc chén thù, câu xướng câu họa. Hãy gác lại sự sang hèn ngoài vòng trần-tục, nghĩa là
đừng sá quan-tâm gì đến chỗ phẩm hàm tước lộc mà ái ngại rụt-rè ». Nhờ được ông Tùng một lòng quí mến, ra tay dìu dắt cho, mà sau cụ mới được vào làm việc ở sở Quốc học độc-thư, và bước quan-giai mỗi ngày mỗi thêm tấn phát. Mấy lần cụ bị nạn, cũng nhờ có ông Tùng vùa-giúp, mới được toàn thân.
Nếu người suối vàng có biết, thì chắc ơn ông Tùng đến rày cụ cũng chưa quên, nhất là trong lúc chúng ta còn nhắc lại những áng thi-văn ông Tùng đã trí tặng cụ. Nhớ hôm nào ông Tùng dắt cụ lên chơi ở núi Thúy-Vân, giữa trời núi Thúy. Cảnh đã nên thơ, bên mình, bạn cùng lên chơi núi Thúy lại là khách làng thơ, những cái lọt vào trong năm giác-quan trong tai, trong mắt, trong mũi, trong lưỡi, trong da, đều là thơ, cõi lòng man-mác thơ là thơ, ông Tùng vỗ vào vai cụ, buột miệng đọc thành một bài thơ :
⼭徑候明⽉
⽉明滄海東
平沙沿岸⽩
遠⽕隔江紅
漁唱潮聲外
鐘鳴樹⾊中
檇朋遊逹夜
詩勾滿⾭筒
Sơn kỉnh hậu minh nguyệt
Nguyệt minh thương hải đông
Bình-sa duyên ngạn bạch
Viễn-hỏa cách giang hồng
Ngư xướng triều thanh ngoại
Chung minh thọ sắc trung
Hòe bằng du đạt dạ
Thi cú mãn thanh đồng
Dịch :
Chờ trăng trên đỉnh núi,
Góc biển bánh trăng xây ;
Cát trắng ven bờ chạy, 37
Lửa hồng ngả lạch bay.
Chài reo ngoài tiếng sóng,
Chuông điểm giữa màu cây ; 38
Dắt bạn chơi hầu sáng,
Tứ thơ, túi lượm đầy.
Cụ cho rằng bài thơ ấy để như vậy kể cũng đã hay, song còn có thể làm cho hay hơn nữa, nên xin phép ông Tùng, cụ chữa lại :
灌⽊鬱蒙籠
村墟⿃道通
迴沙沿海⽩
野燒隔江紅
漁唱潮磬外
僧歸⽉⾊中
岩花何處發
繞徑度⾹⾵
Quán mộc uất mung lung
Thông khư điểu đạo thông
Hồi sa duyên hải bạch
Dạ nhiệu cách giang hồng
Ngư xướng triều thanh ngoại
Tăng qui nguyệt sắc trung
Nham hoa hà xứ phát
Diệu kỉnh độ hương phong
(Tịnh-trai thi-tập)
Dịch :
Cỏ cây ngó mịt-mùng,
Làng nội nẻo chim thông 39
Cát bạc viền quanh biển,
Lửa đồng bật ngả sông.
Chài reo trong sóng biếc,
Tăng rảo dưới trắng trong.40
Hoa nở đâu đây tá,
Gió thơm khắp núi lồng.
Tài thơ như thể, ông Tùng mến-phục cụ là phải ! Lúc cụ được thăng Hình-Bộ Phó-Lang, đem cho cụ, ông Tùng có bài :
鄭梅前後作都官
睥睇爭登李杜壇
不敢戲君官⽌此
索將詩草借佘看
Trịnh mai tiền hậu tác đô quan
Bệ nghệ tranh đăng Lý Đỗ đàn
Bất cảm hý quân quan chỉ thử,
Sách tương thi thảo tá dư khan.
Dịch :
Mai, Trịnh, nối nhau gót bá-đài 41
Coi ! đàn Lý Đỗ liếc con ngươi !
Phải quan đến đó, đùa ai đó ? 42
Muốn hỏi tập thơ thử mượn coi.
Còn lúc cụ làm Chủ-sự phủ Tôn-Nhơn mà bị truất về, cách không lâu, cụ vào Huế, gặp ông Tùng ở trên một lá thuyền con, cụ đem cho ông xem ba bài Cừ-Khê Thảo đường (đã trích-dịch trước kia), ông liền họa lại :
I.
⽚帆著岸傍积⼭
客思低徊煙⽔間
遠淚正隨⿈葉下
故⼈偏與⽩雲還
捫懷錯作相思夢
握擘猶驁平昔顏
我亦多愁刊未得
對君⼜値暫⾠閒
Phiếm phàm trước ngạn bạng thu san
Khách tứ đê hồi yên thủy gian
Viễn lệ chính tùy hoàng diệp hạ
Cố nhân thiên dữ bạch vân hoàn
Môn hoài thác tác tương tư mộng
Ốc tí do kinh bình tích nhan
Ngã diệc đa sầu san vị đắc
Đối quân hựu trị tam thời nhàn.
Dịch :
Cánh buồm ven bãi quạt non thu,
Mây-nước bâng-khuâng tình khách thơ. Nhìn dõi lá vàng châu muốn ứa, 43 Về theo mây bạc bạn đành từ. 44 Nhớ khi họp mặt ngờ đêm mộng, Mới lúc cầm tay tưởng gã mô ! Mình cũng buồn nhiều chưa giải được, Gặp ai lại được buổi hơi thư.
II.
相思幾度隔關⼭
夜夜相逢夢寐間
驛路寒梅頻寄贈
雲程倦⿃亦知還
園林有景多乘興
藥餌無靈不駐顏
愁病更兼詩客遠
書窗筆硯隔年閒
Tương tư kỷ độ cách quan san Dạ dạ tương phùng mộng mị gian Dịch lộ hàn mai tần ký tặng
Vân trình quyện điểu diệc tri hoàn Viên lâm hữu cảnh đa thừa hứng Dược nhị vô linh bất trú nhan
Sầu bệnh cánh kiêm thi khách viễn Thư song bút nghiện cách niên nhàn.
Dịch :
Cùng nhau bao lúc cách non sông, Trong mộng đêm đêm hội thích-phùng.
Đường lũng ngày thường mai gửi trạm, 45 Dặm mây chim cũng túi về rừng. 46 Suối-gò hẳn lắm chiều vui-vẻ,
Thang-thuốc khôn cầm nét trẻ-trung. Mình bệnh, khách thơ thêm vắng mặt, Mốc meo bút mực mấy sương phong.
III.
⾵流渾似⽩⾹⼭
況有才兼伯仲間
妙筆儘從看劍得
⾫章多在罷官還
南窗北岳棲吟興
泉響松聲護笑顏
那得同君向別墅
相將林下共投閒
Phong lưu hồn tự Bạch Hương san Huống hữu tài kiêm bá trọng gian Diệu bút tận tòng khan Kiếm đắc Giai chương đa tại bãi quan hoàn Nam-song bắc-nhạc thê ngâm hứng Tuyền hưởng tùng thanh hộ tiếu nhan Na đắc đồng quân hướng biệt chử Tương tường lâm hạ cộng đầu nhàn
Dịch :
Phong-lưu cụ Bạch tánh quen rồi, 47 Hơn kém tài thơ chín với mười. 48
Từng trẻ bài Gươm văn tuyệt-diệu, 49
Càng già sức bút lúc qui-lai.
Song Nam đỉnh Đắc vầy cơn hứng,50
Hoa nở suối reo đỡ nụ cười.51
Nhà mát cùng ai mong đến đó,
Lẻn về dưới núi mặc rong chơi.
Ngoài vô số những bài thơ như thế, tôi lại còn được thấy các bức thư ông Tùng đã gửi cho cụ lúc cụ ở sở Tu-thư cáo quan về. Đọc những bức thư ấy, chẳng những mình được học một lối viết thư giản dị mà hay, ta lại còn được biết chỗ thân tình của ông Tùng đối với cụ. Vậy những bức thư ấy không nên bỏ qua. Một bức như vầy :
順之⾜下無恙,幸甚,⼗畝之間,
夫耕於前,妻耘於後,樂從可知也.
向以詩草⾒屬,俱以加墨去年借
便寄⼆卷於笑季,令爲轉送,所餘
⼀本借某友未還,茲怦⼈問訊,幷
借去年買得唐詩別裁引典備註
全部,考訂⽉餘,後次.連詩卷并送,
未晚. 若近有佳作,亦祈訴把似幸
甚勿吝.
嗣德庚申秋七⽉ ⽩亳⼦
Thuận chi túc hạ vô dạng, hạnh thậm. Thập mẫu chi gian, phu canh ư tiền, thê vân ư hậu, lạc tùng khả tri dã. Hướng dĩ thi thảo kiến chúc, câu dĩ gia mặc. Khứ niên tá tiện ký nhị quyển ư tiếu quí, linh vị chuyển tống, sở dư nhứt bản, tá mộ hữu vị hoàn. Tư bình nhân vấn tấn, tinh tá khứ
niên mãi đắc Đường-thi biệt tài dẫn điển bị chú toàn bộ, khảo đính nguyệt dư hậu thứ liên thi quyển tinh tống, vị vãn. Nhược cận hữu giai tác, diệc kỳ bả tự, hạnh thậm, vật lận. Tự-Đức Canh-thân thu thất nguyệt – Bạch-hào-tử.
Dịch : Tức hạ vẫn mạnh khỏe như thường đấy chứ ? mừng lắm ! Trong mười mẫu ruộng, chồng cày trước vợ bừa sau, cũng vui lắm nhỉ ! Trước có cho mượn tập thơ, đã gia nét mực vào rồi. Năm ngoái đã đưa cho tiếu-quí (ông em của anh) 2 quyển. Còn một bản cho ông bạn mượn, chưa giả. Nay cho người ra thăm, và mượn bộ « Đường-thi biệt tài dẫn điển bị chú » mới mua năm trước. Đợi xem chừng trong một tháng, sẽ giả lại luôn một lần với tập thơ kia, chưa muộn. Nếu gần đây, có bài gì hay, cho coi với, may lắm, đừng sẻn. Tháng 7 năm Canh-Thân (1860) hiệu Tự Đức – Bạch-hào-tử.
Lại một bức như vầy :
向借唐詩別裁集,考訂甫完,取
次檢閱⼆集,已得半卷,俟竟,幷寄,
今奉勑選諸家詩,正急,辨公,未暇
私欵,待數⽉後,稍稍就緖,必有以
報,再奉寄所賜尙⽅好項⾼麗參
兩餘,以爲太夫⼈延齡之品,少助
膝下之養,收⽤是可. ⼜,別裁集,
家妹喜其有註,免費捜索,有欲璧
之意,祈爲寄聲請遵償城之例,但
城必幾何,亦須命出於趙,始可以
報也 驪駒在路,握管雙雙.
嗣德⾟⾣春 倉⼭⾏
Hướng tá Đường thi biệt tài tập, khảo đính phủ hoàn ; thủ thứ kiểm duyệt nhị tập dĩ đắc bán quyển, si cánh tinh ký. Kim phụng sắc tuyển chư gia thi, chính cấp biện công, vị hạ tư khoản ; đại sổ nguyệt hậu, sảo sảo tựu chử, tất hữu dĩ báo. Tái phụng ký sở tứ thượng phương hảo hạng cao ly sâm lạng dư, dĩ vi thái phu nhân diên linh chi phẩm, thiểu trợ tất hạ chi dưỡng, thu dụng, thị khả. Hựu, biệt-tài tập, gia muội hỷ kỳ hữu chú, miện phí sựu sách, hữu dục bích chi ý, kỳ vị ký thanh, thỉnh tuân thường thành chi lệ. Đãn thành tốt kỷ hà, diệc tu mạnh suất ư Triệu, thủy khả dĩ báo dã. Ly câu tại lộ, ốc quản song song. Tự-Đức Tân-Dậu xuân – Thương-sơn-hành.
Dịch : Trước có cho mượn bộ Đường-thi-biệt-tài, khảo định vừa xong. Lần lượt kiểm duyệt đến 2 quyển thi, đã được nửa quyển, đợi sẽ gửi luôn. Nay được Hoàng-thượng giao cho lựa chọn tác-phẩm của các thi-gia, cần theo việc công, tình riêng chưa nghĩ đến. Đợi ít tháng, dần dần duyệt xong, sẽ có báo đáp về sau… Mới rồi nhà vua có ban cho tôi ít sâm Cao-ly hạng tốt, xin lựa lấy một lạng già, gởi ra làm thuốc diên-thọ cho Thái-phu-nhân (cụ bà), gọi chút giúp anh về việc phụng-dưỡng, anh nhận cho là phải.
TÁI BÚT : Bộ biệt-tài, thấy có chú-thích rõ-ràng khỏi phiền tìm-kiếm, con em tôi lấy làm mến lắm. Ý nó muốn được hòn ngọc bích ấy (quyển sách) nên nhờ tôi nói hộ cho, để xin tuân theo cái lệ thường-thành. Nhưng thành phải những bao nhiêu, tất phải hỏi ở Triệu mới biết mà báo lại chứ ?… 52 Trên đường ngựa đợi, loáy-ngoáy vài hàng… Mùa xuân năm Tân-Dậu hiệu Tự-Đức – Thương-Sơn.
Lại một bức thư nữa, như vầy :
所寄詩卷,奉加墨了,另附拙序
⼀通,連向⽂并送. 拙詩⼲卷,現⽅
續刊,待板成再寄, 其唐詩備註,
已交秦樓,托送⽩⾦五兩,少助酒
家之供,並好筆⼀雙,花箋⼀匣,名
墨⼀丸,呈獻⽂⼏。家庭近狀何
如,未審珠樹之鶴,何年却向帝城
嗣德⾟⾣三⽉ 淵⽩
Sở ký thi quyển, phụng gia mặc liệu, lánh phụ chuyết tự nhứt thông, liên hướng văn tinh tống. Chuyết thi can quyển, hiện phương tục san, đại bản thành, tái ký. Kỳ Đường thi bị chú, dĩ giao Tần-lâu, thác tống bạch kim ngũ lượng, thiểu trợ tửu gia chi cung ; linh hảo bút nhứt song, hoa tiên nhứt hạp, danh mặc nhứt hoàn, trình hiến văn kỷ. Gia-đình cận trạng hà như, vị thẩm châu thụ chi hạc, hà niên khước hướng đế thành phi dã. Tự-Đức Tân-Dậu tam nguyệt – Uyên-Bạch.
Dịch : Tập thơ gửi đó, đã xem xong rồi ; sẽ phụ vào một bài tựa nhảm của tôi, rồi sẽ gửi ra với quyển văn lúc trước. Mấy quyển thơ của tôi, còn phải sửa sang lại, đợi in xong lại gửi. Đến như bộ « Đường thi bị chú » thì đã giao về lầu Tần 53. Con em tôi nó cậy gửi tặng túc-hạ 5 lượng bạch kim (vàng trắng) làm tiền rượu cung cho nhà thơ gọi rằng, và bút hoa một đôi, giấy tiên một hộp, mực xạ một viên, dâng lên trước án thi thư. Không hiểu túc hạ gần đây cửa nhà thế nào và chim hạc đậu ở cây châu, bao giờ lại cất
cánh bay về chốn kinh-khuyết vậy ?54. Tháng 3 năm Tân Dậu hiệu Tự-Đức – Trọng-Uyên.
Thư từ của ông Tùng gửi cho cụ còn nhiều lắm. Đó tôi chỉ lục ra ít bức, để các ngài thấy rằng : Không những lúc cụ còn làm quan, ông Tùng mới thân-thiết với cụ mà thôi. Cụ đã thôi quan về rồi, ông vẫn một lòng mến tiếc, thường có tin tức qua lại, thăm hỏi ân cần, tình xưa nghĩa cũ, không vì đất bắc trời nam, kẻ sang người hèn mà đành xao lãng, há chẳng đáng làm gương cho ai đó cùng ai tự phụ là tri-âm tri-kỷ hay sao ?
V. CỤ VỚI CÁC BÀ CHÚA THƯỜNG-SƠN, LẠI-ĐỨC
Đọc hai bức thư của ông Tùng gửi cho cụ trong mùa hè năm Tân-Dậu hiệu Tự-Đức, về đoạn nói người em của ông là bà Lại-Đức (tức Diệu-Liên) muốn lấy lại bộ Đường-thi biệt tài của cụ và tặng cụ những gì gì đó, đọc đoạn ấy, chắc các ngài đã phải nghĩ nhiều !… Phải chăng các ngài đã tự hỏi rằng trong lúc còn nghiêm nhặt cái tục-lệ « Phụ ngôn bất xuất ư khổn » mà sao bà lại dám gửi lời mượn sách của một người khác giống cùng đem cho này nọ ? Túng sử bà có muốn như thế thì ông Tùng cứ bảo rằng sách mình mượn, của mình cho cũng được, cần gì phải nói bà cho, bà mượn ? Hay là ông nghĩ rằng nói vậy để cụ vui lòng mà cho mượn và nhận cho ? Không lẽ ! Vì cụ với ông là bạn thân, ông mượn gì mà cụ chẳng cho, ông cho gì mà cụ chẳng nhận ? Sở dĩ ông cứ nói thật tình, là để tỏ cho cụ biết rằng ông không lạ gì chuyện cụ với bà vì mến tài nhau đã thành ra bận tình nhau ; và ông cũng không cấm gì việc đó : ông đã sớm biết rằng người tài-tử khách giai-nhân phải lòng nhau là thường. Cho nên, dầu khi bắt gặp những thư từ hai bên trao đổi cho nhau, ông cũng chả trách mắng gì. Chúng tôi dám nói như thế là bằng vào tập thi Tịnh-trai của cụ. Trong ấy có bài thơ nguyên văn như vầy :
⼗⼆珠欄凭紫煙
桃花如錦草如氈
疎簾淸簞圍祺地
細雪寒梅咏絮天
蠲忿杯中將進酒
同⼼帳底⼩遊仙
春⾵⼀去無消息
留與鸚哥話奮緣
Thập nhị chu lan nhậm tử yên
Đào hoa như cẩm thảo như chiên
Sơ liêm thanh đạm vi kỳ địa 55
Tế tuyết hàn mai vịnh nhứ thiên
Quyên phận bôi trung tương tấn tửu
Đồng tâm trướng để tiểu du tiên
Xuân phong nhứt khứ vô tiêu tức
Lưu dữ Anh-kha thoại cựu duyên
Dịch :
Lầu son đỏ rực tầng mây,
Cỏ kia nệm trải, hoa này gấm phô.
Rèm thưa nhấp-nhoáng cờ đua,
Hoa bay trời tuyết, câu thơ thả vần. 56
Khối sầu lóng-lánh rượu tan,
Phượng reo trướng ngọc : tiếng đàn đồng tâm. Gió xuân từ vắng giai-âm,
Chim anh nhờ lại hỏi thầm duyên xưa. 57
Bài thơ ấy tuy cụ nêu là « vô đề », song thông minh như ông Tùng, há lại không biết là một bài thơ tình cụ viết cho một bà công chúa nào đủ tài cầm kỳ thi tửu ? Tuy vậy, ông vẫn không hề tỏ ý bất bình, hoa bút khuyên đỏ ngòm cả mặt giấy, lại phê : Khả địch Ngọc-Khê, Phi-Khanh Đoan-Kỷ đẳng bất năng cập 可敵⽟溪⾶卿端⼰等不能及58, nghĩa là : có
thể địch được Ngọc-Khê, bọn Phi-Khanh, Đoan-Kỷ không thể bì kịp 59. Nhưng bài thơ hay ấy, không phải cụ gửi cho Diệu-Liên Công-chúa, mà lại gửi cho bà Thường-Sơn (chị ruột của bà Diệu-Liên). Rõ thực cụ « nhiều chuyện » quá ! Mà cho đến các bà cũng thế ! Than ôi, hai bà lại không biết rằng cụ đã có người nâng khăn sửa túi rồi ư ? Đã biết không thể gặp nhau mà vẫn thương nhau, thì thương nhau chỉ để nhớ nhau mà thôi. Vì, nó sẽ đến cái ngày mà hai bà phải rời bỏ cụ, hạ giá vào một nhà quí phái nào đây… Trong lúc bâng-khuâng duyên mới ngậm-ngùi tình xưa, Thường-Sơn công-chúa đã có mấy vần kiệt-tác :
植⽵移梅强⾃寬
覺無⾔處淚難乾
傷⼼最是庭前⽉
不作團鸞舊⽇看
Thực trúc di mai cưỡng tự khoan
Giác vô ngôn xứ, lệ nan can
Thương tâm tối thị đình tiền nguyệt
Bất tác đoàn loan cựu nhật khan
Dịch :
Giồng trúc dời mai luống gượng tươi, 60
Lệ đâu khô được ? dạ chưa phơi !
Ngậm-ngùi trước cửa vừng trăng khuyết,
Chẳng lại như xưa tròn lại coi !
Đó là tình buồn bên phái đẹp. Lòng đây lòng đó lòng nào buồn hơn ? Cụ có cái buồn tha-thiết như vậy chăng ? Không lọ xem lại bài « vô đề » nói trước kia. Đã có bài « Ức-
Mai » này đây đón lấy để trả lời cho câu hỏi ấy : nhân bà Diệu-Liên, biệt hiệu là Mai-Am, nên với bà, cụ có bài Ức-Mai 憶梅 (nhớ hoa Mai) :
林堂昨夜朔⾵吹
⼩閣清寒獨坐遅
笛裡關⼭愁奮曲
⽔邊籬落認前期
⾹南雪北無⽅訊
⽉地雲堵有夢思
欲把新詞遠相贈
美⼈宛在⽔之湄
Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy
Tiểu các thanh hàn độc tọa trì
Đích lý quan-san sầu cựu khúc
Thủy biên ly-lạc nhận tiền kỳ.
Hương nam tuyết bắc vô phương-tấn,
Nguyệt địa vân giai hữu mộng ti
Dục bả tân từ viễn tương tặng
Mỹ nhân uyển tại thủy chi mi.
Dịch :
Đêm qua gió sóc thồi vù-vù,
Lạnh lẽo lầu khuya khách đứng trơ.
Điệu cũ non-sông buồn tiếng địch, 61
Ngày nào rào-giạo rậm bờ hồ ? 62
Hương nam tuyết bắc tin xuân bặt,
Nền nguyệt thềm vân giấc mộng hờ.
Muốn nghĩ vài câu xa gửi bạn
Người đâu bên nước bóng lờ-mờ ?
Mai-Am công-chúa, được bài thơ ấy, quá cảm-động, đọc đi đọc lại trăm lần chưa chán, bà còn xin để lộn vào tập hành-thế của bà. Không phải bà không có tài làm được thơ hay mà phải mượn bài ấy để làm duyên cho sách mình. Chính là bà muốn lưu lại một ít dấu thơm của cụ trong mình để làm kỷ-niệm !
Ấy biết : tuy hoa đã có chủ rồi mà đối với cụ, bà Mai-Am cũng-như bà Hương-Sơn vẫn chưa nỡ dứt hẳn mối tình ! Nhưng thế lại càng thêm bận bịu cho ai là khách râu mày.
Chả thế mà cụ đã cho cô đào hát rằng :
⼀聲河滿⼦
數淚落君前
Nhứt thanh hà mạn tử (?)
Sổ lệ lạc quân tiền
Dịch :
Khúc tì bà bát-ngát giữa giang-thiên,
Cảnh lão-đại luống đau lòng Tư-mã.
除⼣之夜
是耶⾮耶
Trừ tịch chi dạ
Thi da phi da ?
Dịch :
Giữa vừng soi, thấp thoáng mặt Hằng nga,
Còn nhớ khúc kỳ-đình năm nọ.
Gẫm thân thế, luống nực cười sự cũ,
Thôi thời thôi nhắc lại mà chi,
Cuộc trăm năm đeo lấy chữ tình si,
Phải được kẻ « tư không kiến quán »
司空⾒慣63
尋芳⾃覺三春晚
閱世無如半枕閒
Tầm phương tự giác tam xuân vãn
Duyệt thế vô như bán chẩm nhàn
Trong vòng bạch-phát hồng-nhan.
Dịch :
Trách con tạo điên-đảo, đảo điên chi lắm bấy. Đôi tay áo, rũ bụi đời thay-thảy !
Biết rằng đâu là ân là oán là nợ là duyên,
Vong tình là tiểu thần tiên.
Tuy vậy tưởng cụ không nên vong tình, vì cuộc tình duyên giữa các bà và cụ, đành rằng ngắn ngủi mặc dầu, song nó vẫn đã đánh giá cho cái đời tài-ba của cụ, nó đã làm cho thanh danh của cụ trở nên bất-tử vậy !
VI. TỰ TÍCH CỦA CỤ
1. CHỮ CỦA CỤ NGUYỄN-HÀM-NINH VIẾT BÀI : 不⾒
不⾒雲岩叟
孤吟孰起予
家⼭⼲⾥外
⽂酒⼗年餘
彭澤歌歸去
⻄河感索居
春來康健未
何惜⼊⾏書
« Bất kiến »
Bất kiến Vân nham tẩu 64
Cô ngâm thục khởi dư,
Gia sơn thiên lý ngoại,
Văn tửu thập niên dư.
Bành trạch ca qui khứ,
Tây hà cảm sách cư,
Xuân lai khang kiện vị ?
Hà tích bát hàng thư.
Dịch :
« Không thấy »
Người núi Vân không thấy
Nhờ ai khởi hứng cho ?
Rừng nhà nghìn dặm cách,
Chén rượu chục năm thừa.
Xiêm áo thân ràng-buộc,
Ruộng trưa bạn hát-hò.
Xuân về, người mạnh chữa ?
Chi tiếc tám hàng thơ ?
2. CHỮ CỦA ÔNG CAO-BÁ-QUÁT PHÊ-BÌNH (Ở hàng đầu, dưới 2 chữ 不⾒ « Bất kiến ») : Thiên cơ sở chí, lạc bút định bất phí tưởng 天機所⾄落筆定不費想. (Khi thiên cơ đã đến, thì ra hạ bút không còn phải mất công nghĩ lâu).
3. CHỮ CỦA ÔNG TÙNG-THIỆN-VƯƠNG PHÊ-BÌNH (ở hàng cuối, dưới 4 chữ 惜⼋⾏書 « Tích bát hàng thư » và viết ra hàng đôi) : Nhứt khí a thành toàn vô phủ lạc ngân tích. Thử thịnh Đường sở dĩ siêu nhân dã. Dư ư thử thi diệc nhiên ⼀氣呵成全無斧鑿痕迹此盛唐所以超⼈也予於此詩亦然 (cười một hơi mà thành ra bài thơ, không hề thấy dấu chạm trổ đẽo gọt ở chỗ nào. Thơ buổi Thạnh-Đường sở dĩ hơn đời là thế. Tôi đối với bài thơ này cũng vậy). 65
4. DẤU CHẤM VÀ KHUYÊN : dấu chấm và các khuyên ở xa chữ là dấu mực của ông Quát. Khuyên sát vào trong chữ là dấu son của ông Tùng.
VII. PHẢN THÚC-ƯỚC
TIỂU DẪN. – Làng T.H, trước kia, thường có cái lệ hát ả-đào để hầu thần. Họ soạn ra một bài quốc-văn theo điệu tứ-lục, dán lên mà đọc gọi là « Thúc-Ước ». Trong đó người ta chuyên khoe khoang phong thổ, tán tụng nhân vật, còn những ô phong bại tục thì tuyệt nhiên không nói gì đến. Đành rằng làm thế thì chỉ khéo tỏ ý dung túng cho những mầm tệ thường nảy nở ra. Song chả biết người mình ai đã gây ra cái « phong trào » làm thúc ước như vậy ?
Hẳn thúc-ước ngày nay tức là ước thúc ngày xưa. Nhưng xưa kia chắc có thể-chế hẳn-hoi mà một ngày một lâu, bâu giờ người ta làm mất hẳn cái chân-cách của nó đi chăng ? Thử lật sách ra mà xem : trong Chu-lễ có văn tư-ước, trong lễ-ký có lời ước tín. Lại theo cổ chế, trong mỗi làng đều có một bản hương-ước, phàm người đã cùng một ước với nhau thì việc hay cùng khuyên lớn, việc dở cùng chỉ vẽ, ai có điều lành thì chép lấy, ai có điều-lỗi cũng ghi lấy, đâu phải « tốt khoe, xấu che » như các bản thúc-ước ở « Ố-nàm » ta ! Muốn đáp lại những bản thúc-ước thiếu sự thành thật ấy mà người ta đã làm trong làng, cụ Nguyễn-hàm-Ninh soạn ra bản « Phản-thúc-ước » này :
Mấy năm nay bua-việc nhẹ-nhàng ; làm ăn hồ hởi.
Ơn thần-linh đất-nước, nhà đủ người no ; bọn lý-dịch cai-hương, cha truyền con nối.
Phép xưa lề cũ, hát-hỏng bày một tiệc xôn-xao ; Bắt chặp bỏ qua, nôm-na kể vài câu giọng-lưỡi.
Đình làng ta : hai giáp sum-vầy. Ba gian rộng-rãi. Hông Mụ-bà 66 án hậu đâm sang ; Nhà Thủ-bộ mái tiền vạt trái.
Chê-chán thiên-nhiên của rú, biết bao phen trâu kéo người sương (gánh) ; Hay ho địa-lý thầy làng, đã mấy sạc (bận) dời đi đổi lại. 67
Hết táng lim, sang táng đá, mối cũng kiên răng ; Ròng cây gũ với cây nao, mọt đành chắt lưỡi.
Cảnh tứ-thời cây-cối xanh-um ; chữ vạn-phúc son-vàng đỏ chói. 68
Ngoài đua đúm, gió xuân đón lại, trai đua mạnh, gái đua mềm ; Trong cỗ bàn, chữ Á dâng lên, thịt đầy chằm, xôi đầy đọi (bát).
Công-đức thủa Ất-Dần 69 tạo được, hậu-thần 70 rành những bậc kỳ-anh ; Khoa-danh năm Mậu-Dậu 71 đổ về, Hương-đình 72 rặt những tay tuấn-ngãi.
Cúc-cung ngảnh mặt quày ra 73; Ẩm-phước chuyền tay ních mãi. 74
Mật ngọt và câu hát phế, mưa xối tràn mâm 75; Bọt sôi ba chén rượu mèo, sấm ran cả dãy. 76
Bầu Hậu-Đường 77ngon nước lá vằng ; Bánh Lân Thỏ 78 thơm màu ruốc cáy.
Suồng-sàng nếp cũ cũng quen tuồng ; Thành chợ cách nay càng phải thói.
Kẻ giàu-có tập chiều thanh-lịch, đồ trà bát mậu nhởn nhơ ; Kẻ ăn chơi học phết kinh-kỳ đảy gấm áo sô đua-đại.
« Phong thuần tục mỹ » có đâu hơn ; « Nhân kiệt địa linh » âu hẳn vậy.
Táng đá Vua Lồi sót lại, huyệt công-hầu còn dành-dập núi Thành-thang 79, Cột cờ chúa Trịnh ngã rồi, dấu dinh-lụy hãy chơn-vơn hòn Vọng-Bái. 80
Vàng bạc chú Ngô chôn những mấy, Câu-Lâu kia khói mịt ngàn xưa 81. Gỗ trò nhà Nước kéo khi nao, Chập-chài nọ đá phơi một dải. 82
Con mang chạy xuống, chúng đều kinh 83; củi lụt trôi về, người phải lạy ! 84
Mụ-mai bến cũ, thuyền tống-ôn đẩy xuống quỉ chìm tăm. 85
Thánh-võ nền tân, bùa trấn-trạch dán lên ma bạt náy. 86
Chòi Cổng-thị du xuân thủa nọ, kẻ thua người được, ai cũng kinh bài duộc cố Chàng 87; Cầu Thượng-gia cúng đức năm nao, tháng lại ngày qua, ai cũng nhắc tiền trăm Điểu Ngoại. 88
Non xanh nước biếc, chán vẻ phong-quang ; Bóng đá chân sim, nhiều nơi địa-lợi.
Mật đường khôn chạy khỏi Chương-trù 89; Cá bống dễ dâu hơn Khe Bãi.
Truông Nhà-doản, truông Nha-môi ; Sáng-trăng Trưa má 90, dầu lòng Vân-tán cưa săng 91; Truông Đá-đen, Truông Đá-bạc, Lòng-lé, Sáo bầu 92 chán sức Khe-Dang phát rậy. 93
Thổ-sản dư trên trại dưới làng, Lâm-lộc khắp đường nghin (gần) chợ ngái (xa).
Động-Táu, Hóc-tre 94 dư sức củi, vai rùn Pháp-kệ, Đông dương 95, Sũng-bùi Vọng-Tréo 96 thiếu gì than, trán sém Tú-loan Kẻ đại. 97
Sơn-lâm mỗi vẻ mỗi hay ; điền địa một ngày một mới.
Trong chằm trọ tan canh bịp rúc, tơi mưa nón nắng khách cày-bừa ; Ngoài đồng-điền thẳng cánh cò bay, cơm rá nước bầu người cấy-hái.
Bờ đập chắn ngang một khúc, nước chảy tràn ruộng cạn ruộng sâu 98 ; Nương-Vườn dày khít từng dây, tre-pheo giáp khe con khe cái.
Giang-sơn như thế gẫm nên xinh ; Nhân-vật buổi này xem cũng giỏi.
Phất cờ tướng phót lên đàn Đế-thích, hòng thí con xe mà về con pháo, lỏng trong tay nước được thua 99; Xách bầu tiên, xen vào đám Lưu-linh, đã say rượu Kịa, lại nhắm rượu Cầu, quên mấy giọng say nhân say ngãi 100. Thế-sự đành không có, có không ; Nhân-tình mặc phải chăng, chăng phải.
Văn thí-trúng ngồi dòng chức-sắc, thầy tú tại-gia, thầy cử xuất-sị, giá tài-danh nổi tiếng xôn-xao ; Võ sung-biền đứng nóc quan-binh, chú thơ ngạch-ngoại, chú đội chỉ-dư, việc hương-đảng ra tay chống-chỏi.
Giấy củ nhàm tay biếng dỡ, đến khoa-kỳ đem quyển lượt xem chơi 101; Giường cao vêch mảy (tréo chân) ngồi ngay, khi hương-ẩm chặt thủ heo vác tới. 102
Phường quan-viên đã lắm người hay ; hàng tổng lý lại ghê tay sọi.
Hai trăm chuội quan trên nhắm xuống đạo thí-sai, son đóng đỏ nhăng hàng ; Mười tám làng dân dưới trông lên, dấu mộc-ký mực chần đen cả phái. 103
Gậy chày, giáo-vạt, vào điếm ra làng ; Vọng quảy, hòm mang, lên đồn xuống ải. Ruộng công, bồ lễ tết, thiên-quan nhờ thiên-lộc bỗng dưng 104 ; Ngày kính, quắc đầu heo, quí vật đại quí-nhân thừa-thại. 105
Lệ lục-giáp ngoài đình trống giục, một thầy phó-lý chạy mà run 106; Lịnh ngũ-thân giữa đám giêng hồi, ba chú biền-binh khiêng đã mỏi. 107
Khi quan sai, trăm việc đều đi ; Khi Thánh ứng, một (cả) nhà phải chạy ! 108
Đĩa dầu đầy gạt mãi, chú Ho biết ý đã kinh-hồn 109 ; Đọi chè đặc bâng ra, thầy Vạo trông chừng đà áy-náy. 110
Miệng lưỡi. dao sắc-ngọt, thầy Tú-tài kinh bợm tay gầng 111 ; Mũi mỏ cuốc đỏ lòm, bác Cai-xã chắc nơi chân cậy. 112
Hô-ứng trong đảng-loại hữu-linh ; xuất-nhập chốn công môn vô-ngại.
Thuế hai vụ « thu đa, nạp thiều » dĩ trường-an hoa đá thiếu gì đâu 113; Rượu hai bên « nguyên-hữu, bị-vô » thầy phù-thủy đầu gà đền đã mấy. 114
Cửa rộng thênh năm thước, Thổ-công rê một bụng ra nghiêng 115; mình thấp-trệt vài gang, Hương-trưởng nhét lưng hòm đựng cúi. 116
Chính-sự giỏi-giang rất mực, cánh sổ dàn có chữ « Hoang-thai » 117; Văn-chương đặt-bọng ngoa đời, con heo thác bởi câu « đồi-bại » 118; Troắt ngọn roi tra nợ, dân khe Dang nhăng khắp đầy sân 119; Khua hồi mõ nhóm làng, quan án cựu mời ra khỏi chái. 120
Lời ăn tiếng nói vẫn ngang-tàng ; Quần rộng xống dài coi nhóng-nhưởi.
Dân lâm-phần mông ơn vua tha cả, chính-suất năm quan, phụ-cư ba bốn, hãy nạp cho thầy lý với thầy cai 121; Binh thủy-sư nhờ thầy đội lo giùm, mật ong một ché, tiền mặt năm trăm, may thuyên được đội mười qua đội bảy. 122
Thiệt là một nước đôi kênh ; Thiệt là một nhà hai chái.
Sĩ nửa nắng, nứt tài đầu-xứ, thoáng cổ bài, tỉnh mấy dấu sỏ lèo 123; Nông vài mùa nổi cuộc giàu quê, chặt ống
khế, biết bao trương đỡ-mại.
Công khéo-léo đẹo cầy nêm cuốc, dầu chạm rồng vẽ phượng cũng dư hay ; Thương thờ-ơ chum mật chiếu cau, so vào lộng ra khơi đà chán lợi.
Ngư, nơm-nhủi trong bàn ngoài rộc, tràu, rô, cá gáy đầy oi ; Tiều, rựa rìu lên động xuống khe, triêng củi, vác rào chật trại.
Canh thủng-thẳng cày thuê kiếm bữa, chẵn mùa ra dư áo dư khăn ; Mục thảnh-thơi trâu gửi từng bầy, yên núi được khỏi beo khỏi khái.
Săn đã có cai Vu thuộc núi, miếng ngon dư tái hoạng nem nây ; Bắn ai bằng thợ Thắng khéo rình, đồ quí thiếu ngà voi răng đáy.
Nhịp-nhàng may-mắn, sát thịt vì con chó bắt hơi ; Thơ thẩn hay-ngoa, đâm xơ bởi ông Rồng lạc giái. 124
Ai ai đều khoái-lạc vô cùng ; Người-người được thanh nhàn tự-tại.
Cố nghĩ chữ « lão đương ích tráng » tay dẻo chầu-cạn chén hây hây ; Cháu nhớ câu « Xuân bất tái lai », gan ráp mở, sạch bàn thảy thảy. 125
Phong lưu hết cuộc trẻ cùng già ; lịch-sự đến điều trai với gái.
Trai bách hạnh, dư ngàn dư vạn 126 lưng chồn vòi, khí cụ hiên-ngang ; Gái tam-tòng, thêm bốn thêm năm 127, tiếng la bể ngôn-từ khẳng-khái.
Nghề xóc-đĩa mới đem về hay lạ, năm bảy anh đánh đuốc chơi đêm ; Chuyện đàn ghẹo, chưa đặt để đã hay, năm ba ả vác xe-kéo vải.
Trong hương thôn ai nấy đã mừng cho ; Ngoài ca xướng sự lề này mách với.
Trước thời chúc thánh chúc thọ, mở ra chú kép hãy tang-tình ; Sau thời hát bãm hát giồn, đứng dậy đôi đào cho róng-rảy.
Không hớ đâu mà hứng nhận đeo 128; Có nghe lọt mới cho cắc nhảy. 129
Có tiền mua tiên cũng được, chớ quen tuồng ngỏng nghểnh làm cao ; Ở ngọt thì lọt tận xương, hay gì thói ngung-ngăng làm ngảy.
Kể sao hết cuộc làm vui ; Rồi lại khuyên người đến giải.
Xôi thịt vừa thơm vừa béo, các « đẳng quan » xin đánh chén cho lì ; Trò-vè hay lỡm hay lừa, các rễ xã phải soi chầu cho sõi.
Rượu hai phe dễ đã xơi nao ; Tiền tám xóm biết là răng nấy.
Thầy hoa phe cho thẳng cho sòng ; Kẻ bua việc đã tầng đã bởi.
Một miếng giữa làng, bằng một sàng trong bếp, cổ ngồi phần biếu phân-minh ; Một ngày ăn rày, thời bảy ngày ăn đâu, giấy trắng mực đen tỏ-giãi.
Chú dẹp đám bua-quan cho sát việc, chớ hề ý ngoại riêng-tây ; Nẫu đi coi đứng-đặt có hàng dây, không được thói xưa bấm-nháy.
Đừng bắt cù nhăng, chằng cù đế, để nghe tuồng đồng thiếp sơn trang ; Chớ vây thằng nọ, mó thằng kia, để coi sạc bài hoa trò rối.
Chật đám phòng khi thiểu-khoảnh, dằm đã quen gốc thị cây da ; Nhét bồ những thủa kinh-niên, vuốt cho thẳng áo sen quần sượi.
Ăn xem nồi, ngồi xem hướng cho êm ; Lành một chọ ; lọ một nơi chớ bậy.
Trái quít hở-hang dầu kẻ, bắt được tay, vày được cảnh chớ đời ! Cặp ngà hở-hệt mặc ai, coi bằng mắt, bắt bằng tay mà nhởi. 130
Buổi chơi-bời chớ có thờ-ơ ; Nơi đình-đám vốn hay ồn ậy.
Sợ lúc ham vui mắc lận, giày chú Cai ném xuống vực Chùa 131; E khi quá giấc mà say, váy bà Hậu trôi về đồng Bãi. 132
Dặn dò đến thế cũng hay ; Xem sóc mấy ai cho trải.
Thôi tiệc này chán lúc vinh-hoa ; Bây giờ mới tỏ lời khuyến-giải.
Trong thập thất hãy có người trung-tín, há rằng không xóm đức làng nhân ; Trên Hoàng-thiên đã phú tánh tri năng, âu cũng biết đường khôn sự dại.
Ăn cây nào rào cây nấy, chôn giau cắt dún là đây ; Mất lòng trước, được lòng sau, xé ruột phơi gan mà nói.
Cây da cũ, một cây lửa ngược, đàn Tiên-nông bước tới những thêm đau 133; Miếu thần linh trăm việc hương nguyền, sách điển-lệ xin làm sao lại dối ? 134 Đạo trên đầu há phải rằng chơi ; Vạ sau ót sao mà chẳng đoái ?
Suy trong « thần oán » đã nên lo ; Nghĩ nỗi « dân nham » càng đáng náy !
« Sinh cung tử » phải đeo thầm cựu oán, công-đức chi mà rộng miệng khoe-khoang 135« Công chiếm tư » chưa rửa sạch tiền-khiên, tình-tệ ấy lại quen noi lừng-lẫy. 136
Giọng việc Iàng, mắc mớp cả quan dân ; Nghề chiều cháu, mem cơm từ cố vải.
Thước ruộng tấc vườn là của nước, bỏ đi đặt lại, chẳng phân phì sao xếp sổ làm thinh 137; Đồng tiền lượng bạc há riêng ai, trang nọ tờ kia, muốn tư-tệ lại tìm đường mà chấy. 138
Mỡ dân rán đã đầy sanh ; Da đất quét vừa chật đạy.
Chớ nghĩ miệng hùm dạ bụt, lặng ao động biển vốn cơ thường 139; Chỉ e mặt sứa gan lim, kẻ tóc chân tơ khôn lẽ bới 140; Nghề bớt-xớ để nợ đời sau ; Lòng ở thiệt, hơn cha quỉ quái.
Bỗng chốc làm sang làm cả, áo sợi vàng còn để chuyện đời xưa 141; Hay chỉ nửa chợ nửa làng, cùi thầy địa đã đau đòn năm ngoái 142. Theo chân voi, đòi chân ngựa, miệng
bình bưng kín thế là xong ; Chắp đầu cá, vá đầu tôm, mặt lượt vương sưa (thưa) ai chẳng thấy ? Kẻ hương lý thôi ra 143 đành phận trước, góp-lướm sưu-bơi đà rảnh xác, chớ nhúng chàm những việc thày-lay ; Người khoa-danh dành lại để dùng sau, giùi-mài rèn-tập phải, ra công, chớ vạch lá thêm điều bới-chải.
Ách giữa đàng, mang vào cổ, rồi ra lắm tiếng thị-phi ; Đòn giữa đất, cất lên lưng, thế cũng nhiều phen lợi hại.
Sao đặng : đầu đi đuôi lọt, một nhà vui, êm-ấm trong ngoài ; sao cho nước chảy bè xuôi, trăm miệng hợp thuận hòa trên dưới.
Biết đâu trương-cử cho đang ; Liệu đã xa-khơi khôn vói (với).
Nào kẻ miệng hô tay cáp, nếp y-quan xem phải mặt hay chưa ; Những nơi bóng mát cây cao, chồi phần-tử nỡ đang tay thế ấy. 144
Thớ-lợ anh-anh chú chú, gai sau lưng, ngảnh lại mà run ; Đong-đưa nói-nói cười-cười, đinh trước mắt trông ra những trói !
Gẫm nhân-tình gươm rỉ muốn reo lên ; Tưởng thế-sự, xương khô nên dựng dậy.
Đánh chó còn hòng ngó bát, danh-khí chung sao nỡ dày-vò ; Rút dây lại sợ động rừng, căn-bản ấy, hãy còn ái ngại. 145
Cao-minh đành có quỉ dòm nhà ; Thiện ác lẽ đâu trời sót lưới.
Thuyền mạch áo đề lúc ấy, cố-nhân sao lãng nghĩa non sông ; Chiếc gà đấu rượu năm xưa, đồng-tỉnh há riêng duyên kim-cải. 146
Miệng đời tạc để nên bia ; Dạ thế mỏng đâu quá giấy !
Bận áo qua nơi lỏa-quấc, nếp cổn-y âu có lúc truồng mình ; Ðeo hương vào chốn bào-ngư, đầu lam-xạ cũng ghe phen nén mũi.
Cửa tam-kỉnh muốn giục giày đi lại, tị-lân đâu có khách giương-cầu ; Giá thiên-kim dầu mở tủ đem ra, dạ-lão ai hay đồ đỉnh-đối.
Đồ long đã xếp nghề hay ; Ẩn-báo lại nương chốn tối.
Hạc nội mây ngàn là bạn cũ, cảnh tiều-liêu há chật áng sơn-lâm 147; Canh rau cơm hẩm cũng ơn thừa, giấc hồ-điệp đã lần chừng quan-cái.
Rày nhân một cuộc cờ tàn ; bốn dây đàn gảy.
Đến khi « hứng tận bi lai » ; Nghĩ nỗi « sự tùy niên cải ».
Hay dở đã đành nét bút, đỡ buồn dễ khiến trẻ ngâm chơi ; Phải chăng phó mặc ngoài tai, vuốt bụng xin tha người nói quấy.
Vì muốn con trẻ đàn bà nghe được rõ, dầu trong ấy khi riễu khi cười, khi nao khi nức, nôm-na pha mấy giọng nhà quê ; Dám xin người sang kẻ quí xét cho minh, thiếu nơi nao là khe là suối là động là đèo, ước cũ sẵn cả bài thầy Ái. 148
NGUYỄN-HÀM-NINH
=HẾT=
SÁCH CỦA THƯ QUÁN XUẤT BẢN
- Vận-văn bách-tuyển của Dương-Tụ-Quán. 0$35
- Tập bài thi bằng Sơ-học yếu-lược của Dương-Tụ-Quán và Dương-Quảng-Hàm. 0$35
- Recueil de Dictées au Certificat et aux Concours d’admission của Dương-Quảng-Hàm. 0$45
- 82 bài luận quốc-văn của Nguyễn-Đức-Bảo. 0$30 - Sơ-học tâm-đắc của Nguyễn-Đức-Bảo. 0$30 - 120 bài học thuộc lòng của Trần-Lập-Trác. 0$25 - Gia-lễ giản-yếu của Dương-Bá-Trạc. 0$15
- Nét mực tình của Dương-Bá-Trạc. 0$30
- Tiếng gọi đàn của Dương-Bá-Trạc. 0$20
- Nam nữ tu-tri của Hồng-Chung-Anh. 0$25
- Nông-lâm hóa-học kỹ-nghệ của Phí-Công-Tuất. 0$20
- Grandeurs et Servitudes de Nguyễn-Văn-Nguyên của Nguyễn-Vỹ. 0$45
- Eurydice của Nguyễn-Tiến-Lãng. 0$15
- Bên nghĩa bên tình của Trịnh-Đình-Xuyên. 0$10 - Không một tiếng vang của Vũ-Trọng-Phụng. 0$20 - Học làm sang của Thái-Phỉ. 0$15
- Công việc nhà băng của Dương-Tự-Nguyên. 1$20 - Kiều-vận tập-thành của Nguyễn-Cư. 0$20
- Phép bói Kiều của Nguyễn-Cư. 0$03
- Sách đoán mộng. 0$20
- Chiêm-Thành lược-khảo của bà Huỳnh-thị-Bảo-Hoà, có Tựa của ông Phạm-Quỳnh. 0$30
- Nam-quốc nữ-lưu của Sở-Cuồng Lê-Dư. 0$15 - Nữ-lưu văn-học sử của Sở-Cuồng Lê-Dư. 0$15 - Thiếu-niên tất-đọc của Trịnh-Đình-Xuyên. 0$06 - Thời buổi nầy. 0$15
Ai mua, gửi mandat đề tên : DƯƠNG-TỤ-QUÁN, ở số 195, Hàng Bông – HANOI. Mua một quyển, gửi bằng tem (cò) cũng được, nhớ thêm tiền cước từ 0$03 đến 0$09 tùy theo giá sách ít tiền hay nhiều tiền.
"""