" Đồi Gió Hú - Emily Bronte PDF EPUB Bản Đẹp 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đồi Gió Hú - Emily Bronte PDF EPUB Bản Đẹp Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách Đồi Gió Hú Tác giả Emily Brontë Dịch giả Dương Tường dịch Thể loại Tiểu thuyết Nhà Xuất Bản NXB Văn Học Ebook 2020 tve4u —★— MỤC LỤC Lời giới thiệu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 Phụ lục Lời giới thiệu Trên một thế kỷ nay, diễn đàn thế giới vẫn còn nhắc tới Emily Brontë và tiểu thuyết Đồi Gió Hú, một viên kim cương trong kho tàng văn học Anh. Và có lẽ không có cuốn từ điển danh nhân nào vắng tên tuổi và sự nghiệp ba chị em Brontë “tài hoa bạc mệnh”. Thực ra, Emily là thứ tư trong số năm chị em gái – chưa kể một người anh trai, Patrick Branwell, ngay trên bà. Hai chị lớn cùng cha khác mẹ chết từ tuổi thiếu niên do bị còi cớm trong môi trường u ám, giết mòn tinh thần của cái trường nữ học được Charlotte mô tả dưới cái tên Lowood trong Jane Eyre. Cha của họ, Patrick Brontë là một mục sư người Ireland phụ trách giáo khu Yorkshire thuộc vùng Haworth. Khung cảnh trong đó Emily sống gần trọn ba mươi năm cuộc đời ngắn ngủi của mình (trừ ba lần rời Haworth), trong đó chuyến đi xa nhất là du học ở Brussels cũng chính là những dải đồng hoang tiêu điều hiu hắt của miền Bắc nước Anh được mô tả trong Đồi Gió Hú, và vẫn cái màu thê lương ấy bao phủ không khí gia đình này như một đe doạ thường trực của định mệnh. Ngôi nhà họ trông ra nghĩa trang của xứ đạo và dựa vào một ngọn đồi trọc lộng gió. Năm 1821 Emily mới ba tuổi đã phải để tang mẹ. Người anh trai Branwell, đầy tài năng nhưng chơi bời phóng đãng, đã không sống qua tuổi thanh xuân. Cô em gái Anne, không đầy một năm sau khi Emily mất, cũng vội đi theo chị. Cả Charlotte, được coi là khoẻ mạnh nhất nhà cũng không tới ngưỡng 40: bà chết năm 1854 giữa kỳ sinh nở. Mục sư Brontë đã phải sống để chôn tất cả các con và chỉ qua đời một năm sau đó. Thật cứ như mụ già Định Mệnh cay nghiệt đã dồn những đòn hằn học nhất giáng xuống gia đình tài hoa này. Đồi Gió Hú được xuất bản vào 1847. Một năm sau, ngày 19 tháng 12, Emily chết vì lao phổi. Cuốn tiểu thuyết duy nhất của Emily, ngày nay được phần đông giới phê bình văn học đánh giá là lớn nhất trong các tác phẩm của ba chị em Brontë, nhưng vào lúc ra đời, chất dữ dội cuồng nhiệt của nó đã gây một chấn động quá mạnh đối với những chuẩn mực đạo lý Victoria để có thể khiến được chấp nhận dễ dàng. Những phản ứng loại ấy đã khiến Charlotte, trong lần tái bản năm 1850, đã phải lên tiếng bênh vực tác phẩm của em gái trong một lời tựa. “Đồi Gió Hú được đẽo tạc trong một xưởng hoang dại bằng những dụng cụ đơn sơ, từ chất liệu mộc mạc. Nhà điêu khắc thấy một khối đá granit trên một cánh đồng hoang quạnh quẽ: nhìn kỹ chàng thấy từ tảng đá, có thể tạo một cái đầu như thế nào, man rợ, đen đúa, hung hãn; một dáng hình được đắp nặn với ít nhất là một yếu tố của hùng vĩ – sức cường. Chàng làm việc với một cái đục thô sơ và không theo mẫu nào ngoài thị ảnh từ những suy tư của chàng. Với thời gian và lao động, khối đá mang hình người. Và kia, nó sừng sững đứng, đồ sộ, đen đúa và cau có, nửa tượng, nửa núi đá: là tượng thì khủng khiếp và giống như quỷ; là núi đá thì hầu như đẹp, vì nó có màu xám dịu và mặc lớp rêu của đồng hoang và đám thạch nam với những chùm hoa hình chuông và hương thơm ngạt ngào của nó, vẫn thuỷ chung mọc sát dưới chân gã khổng lồ ấy”. N1 ăm 1801. Tôi vừa đi thăm vị chủ nhà về – người láng giềng duy nhất rồi đây sẽ dây dướng quan hệ với tôi. Đây quả thực là một miền tuyệt diệu! Trên khắp nước Anh, tôi không tin rằng mình có thể cố định ở nơi nào cách biệt sự nhộn nhạo của xã hội đến như thế này. Một thiên đường hoàn hảo cho kẻ yếm thế, và ông Heathcliff với tôi là một cặp thích hợp để chia sẻ cảnh đìu hiu ở đây. Một tay cực kỳ! Ông ta khó lòng tưởng tượng được là tim tôi ấm lên biết bao nhiêu nhiệt tình đối với ông lúc nhìn thấy đôi mắt đen của ông rụt lại đầy vẻ nghi ngại, dưới cặp lông mày, khi tôi thúc ngựa tới và lúc những ngón tay ông, cảnh giác quyết liệt, náu sâu hơn nữa vào trong áo gi-lê khi tôi xưng tên. - Ông Heathcliff? Tôi hỏi. Một cái gật đầu là câu trả lời. - Thưa ông, tôi là Lockwood, khách mới đến thuê nhà của ông. Tôi tự cho mình cái vinh hạnh lại thăm ông sớm nhất ngay sau khi tới nơi, để bày tỏ hy vọng rằng tôi đã không làm rầy ông bằng việc kèo nèo xin được thuê ấp Thrushcross, hôm qua tôi nghe ông nói ông đã có ý… - Ấp Thrushcross là sở hữu của tôi, thưa ông, ông ta ngắt lời, mặt cau lại. Tôi ắt chẳng cho phép ai làm rầy mình nếu tôi có thể ngăn được điều đó… ông vào đi! Câu “ông vào đi” thốt ra từ hai hàm răng rít lại và biểu thị một tình cảm khác: “Quỷ tha ma bắt ông đi cho rồi!” Ngay cả đến cái cổng mà ông ta đang ngả người lên, cũng không động đậy gì cho phù hợp với lời nói; và tôi cho là tình huống lúc đó đã thúc tôi nhận lời mời: tôi cảm thấy muốn tìm hiểu về một người chừng như còn dè dặt quá đáng hơn cả tôi. Khi thấy con ngựa của tôi lấy ức đẩy mạnh thanh chắn, ông ta mới thò tay ra tháo xích cổng, rồi quàu quạu đi trước dẫn tôi theo con đường đắp cao, và lên tiếng gọi, lúc hai chúng tôi bước vào trong sân: “Joseph, ra dắt ngựa của ông Lockwood và mang lên ít rượu vang nhé”. “Chắc hẳn đây là toàn bộ gia nhân trong nhà”, cái mệnh lệnh tổng hợp đó khiến tôi nghĩ vậy. “Hèn nào mà cỏ mọc đầy giữa những phiến đá lát và chỉ có gia súc làm công việc tỉa xén hàng rào”. Joseph là một người đứng tuổi, đúng hơn, một lão già có lẽ già lắm rồi, mặc dầu còn tráng kiện và gân guốc. “Lạy Chúa cứu giúp chúng con!” lão khẽ lẩm bẩm một mình, giọng bực bội trong khi đỡ cương ngựa khỏi tay tôi, đồng thời nhìn vào mặt tôi với vẻ cau có đến nỗi tôi ái ngại đoán là lão hẳn đang cầu thánh thần giúp đỡ cho tiêu bữa ăn chiều và lời cầu xin ngoan đạo vừa bật ra từ miệng lão không liên quan gì đến sự tới thăm bất ngờ của tôi. “Wuthering Heights” (Đồi Gió Hú) là tên chỗ ở của ông Heathcliff. “Wuthering” là một tính ngữ tỉnh lẻ giàu ý nghĩa, nó mô tả sự náo động khí quyển bủa vây vị trí ngôi nhà khi trời dông bão. Thật vậy, ở trên này lúc nào cũng có gió trong lành; ta có thể đoán được sức gió bắc thổi vượt qua bìa đồi mạnh như thế nào, bằng vào độ xiêu vẹo quá đáng của mấy cây linh sam còi cọc nơi cuối nhà và bằng vào hàng cây gai gầy guộc vươn cả mọi cành về một phía như thể chìa tay xin ông mặt trời bố thí cho chút nắng. Cũng may là nhà kiến trúc sư đã nhìn xa thấy trước, xây nó thật vững chắc: các cửa sổ hẹp đều gắn sâu vào tường và các góc đều được những tảng đá lớn chòi ra bảo vệ. Trước khi bước qua ngưỡng cửa, tôi dừng lại ngắm một lô hình chạm thô kệch ở mặt tiền và đặc biệt quanh cửa chính mà, phía bên trên, giữa một mớ tùm lum những quái vật sư tử đầu chim và những thằng bé trơ trẽn, tôi đọc ra cái niên hiệu “1500” và cái tên “Hareton Earnshaw”. Tôi những muốn bình luận đôi câu và đề nghị ông chủ cau có cho biết qua lai lịch của nơi này, nhưng thái độ ông ta đang đứng ở cửa hình như yêu cầu tôi nhanh chân bước vào cho sớm hoặc xéo hẳn đi cho khuất mắt và tôi chả có bụng vào làm ông sốt ruột thêm trước khi vào thăm khu nội thất. Bước lên một bậc, chúng tôi vào thẳng trong phòng ngồi chơi của gia đình không qua hành lang gì hết, ở đây người ta trịnh trọng gọi nó là “chính sảnh”. Thường thường loại phòng này bao gồm cả bếp và phòng khách; nhưng tôi chắc ở Đồi Gió Hú này bếp bị đẩy sang hẳn một khu khác, chí ít tôi cũng nghe thấy tiếng xì xào trò chuyện và tiếng xoong nồi lách cách ở mãi tận phía trong và tôi không hề nhận thấy dấu hiệu đun nấu, quay nướng gì ở quanh cái lò sưởi to tướng; cũng chẳng có xoong đồng, chảo sắt tây nào lấp lánh trên tường. Thực ra, một đầu phòng có phản chiếu rực rỡ cả ánh sáng lẫn nhiệt lượng từ hàng loạt đĩa lớn bằng thiếc, xen lẫn với bình và cốc vại bằng bạc, xếp từng chồng, từng chồng trên một cái tủ buýp-phê bằng gỗ sồi, ngất ngưởng lên tận mái. Mái không có trần lót phía dưới; toàn bộ rui mè phô ra trước con mắt tọc mạch, trừ một chỗ lấp sau một khung gỗ trĩu bằng những bánh yến mạch cùng những chùm đùi bò, đùi cừu và giăm-bông. Trên ống khói là những cây súng cổ linh tinh trông gớm chết và một cặp súng lục kỵ mã; và, thay vì đồ trang trí, ba cái hộp nhỏ sơn lòe loẹt được bày dọc theo rìa ống khói. Sàn nhà lát đá trắng nhẵn; các ghế tựa cao thành kiểu cổ lỗ sĩ sơn màu lục: một vài cái khác nặng nề, màu đen, lẩn trong bóng tối. Trong một vòm cuối, dưới tủ buýp-phê, một con chó săn cái to tướng, lông nâu đỏ sẫm nằm giữa một bầy chó nhép kêu ăng ẳng; và còn nhiều chó khác lởn vởn ở những xó khác. Căn phòng và đồ đạc ắt chẳng có gì là khác thường nếu thuộc về một trại chủ miền Bắc chất phác, vẻ mặt bướng bỉnh, chân tay lực lưỡng diện quần lửng tới đầu gối và đi ghệt. Trong phạm vi năm, sáu dặm ở vùng đồi núi này, bạn có thể gặp một con người kiểu ấy ngồi chễm chệ trong ghế bành sau bữa ăn chiều với cốc bia mạnh sủi bọt đặt trên chiếc bàn tròn trước mặt. Song le ông Heathcliff tạo thành một tương phản kỳ lạ với nơi ở và cách sống của ông ta. Về diện mạo, ông giống một gã di-gan da ngăm đen, về y phục và cung cách lại có vẻ hào hoa phong nhã, có nghĩa là cũng hào hoa phong nhã ở mức nhiều điền chủ nông thôn vậy thôi, có phần hơi luộm thuộm, nhưng mặc dù cẩu thả, trông vẫn không đến nỗi nhếch nhác, vì ông có một vóc dáng ngay ngắn, đẹp đẽ và mặt mày có phần ủ ê. Có thể một số người cho đó ngỡ rằng ông có đôi chút hợm hĩnh của kẻ kém giáo dục; riêng tôi thấy trong thâm tâm một sợi dây thông cảm bảo tôi rằng hoàn toàn không phải thế, theo bản năng, tôi biết sự dè dặt của ông xuất phát từ việc ghét phô bày tình cảm một cách lộ liễu – ghét biểu tỏ lòng tốt đối với nhau. Chắc ông yêu và ghét đều kín đáo, và hẳn sẽ coi là bất ngờ nếu được yêu hoặc bị ghét lại. Không, tôi hơi vội vàng quá mất rồi; tôi đem gán những đặc tính của chính mình một cách quá ư phóng khoáng cho ông ta. Giả sử ông Heathcliff không chịu chìa tay ra khi gặp một người làm như quen biết, thì chắc ông có những lý do hoàn toàn khác với những lý do thúc đẩy tôi làm thế. Tính khí tôi hầu như dị biệt: bà mẹ thân yêu của tôi thường bảo khéo rồi tôi chẳng bao giờ có được một tổ ấm và mới mùa hè vừa rồi thôi, tôi đã tỏ ra hoàn toàn không đáng được hưởng hạnh phúc gia đình. Trong khi hưởng một tháng đẹp trời ở bờ biển, tôi ngẫu nhiên làm quen với một con người cực kỳ quyến rũ: một nữ thần đích thực dưới mắt tôi, khi nàng chưa để ý đến tôi. Tôi không hề lên tiếng “tỏ tình”; tuy nhiên, nếu như những cái nhìn biết nói thì kẻ ngu đần nhất trần đời cũng đoán được là tôi say mê nàng như điếu đổ; cuối cùng nàng hiểu nỗi lòng tôi và nhìn lại – cái nhìn dịu dàng nhất có thể tưởng tượng được trên đời. Và tôi đã làm thế nào? Tôi rất xấu hổ mà thú thật là tôi đã lạnh lùng thu mình vào trong vỏ như ốc sên; mỗi cái nhìn lại làm tôi rụt vào sâu hơn, lạnh băng hơn, đến nỗi, cuối cùng, cô gái ngây thơ tội nghiệp đâm nghi ngờ quan năng của chính mình, và xấu hổ ê chề vì ngỡ mình lầm, nàng cố thuyết phục mẹ bỏ đi cho mau. Do cái tâm thế kỳ lạ ấy tôi đã mang tiếng là cố tình tàn nhẫn; oan đến mức nào, chỉ mình tôi mới đánh giá được. Tôi ngồi ở đầu bệ đá lò sưởi đối diện với chỗ vị chủ nhà của tôi đang đi tới và lấp khoảng trống im lặng bằng cách thử vuốt ve con chó mẹ lúc này đã rời bầy con, dữ tợn lén đến sau bụng chân tôi, mép cong lên và hai hàm răng trắng ứa dãi, như đang muốn đợp một cái. Cái vuốt ve của tôi khiến nó gầm gừ một tiếng dài trong cổ họng. - Tốt hơn là ông hãy để con chó yên – ông Heathcliff cũng gầm gừ họa theo, đồng thời thục chân ngăn những biểu hiện hung hãn của con vật. Nó không quen được nuông chiều – không phải nuôi làm của cưng. Rồi sải bước tới một cửa nách, ông lại kêu: “Joseph!” Joseph lẩm bẩm cái gì không rõ ở dưới hầm rượu, nhưng không tỏ dấu gì là đang lên; nên chủ lão bèn lao xuống tìm, để mặc tôi mặt đối mặt với con chó cái hung tợn và một cặp béc-giê bờm xơm dữ dằn, cả ba gườm gườm canh chừng mọi cử động của tôi. Chẳng háo hức muốn tiếp xúc gì với những nanh nhọn của chúng, tôi ngồi im, nhưng ngỡ là chúng khó mà hiểu được những lời chửi thầm, tôi dại dột lao vào chơi trò nháy mắt, nhăn mặt với bộ ba ấy, và một bộ dạng vặn mắt vẹo mồm nào đó của tôi khiến cẩu phu nhân tức đến nỗi ả ta bất đồ nổi cơn tam bành, nhảy phắt lên đầu gối tôi. Tôi hất nó trở lại và vội vàng đẩy cái bàn vào ngăn giữa chúng tôi. Động tác này khuấy dậy cả bầy: nửa tá quỷ dữ bốn chân, tầm vóc và tuổi tác khác nhau, từ những hang ổ kín xồ ra giữa phòng. Tôi cảm thấy gót chân và vạt áo khoác là đối tượng đặc biệt bị công kích; và trong khi cố hết sức chống đỡ lại đám chiến binh lớn với hiệu quả tối đa bằng thanh sắt cời lửa, tôi buộc phải lên tiếng cầu viện ai đó trong nhà tới lập lại hòa bình. Ông Heathcliff và người lão bộc leo những bậc cầu thang hầm rượu với vẻ phớt tỉnh đến lộn ruột, tôi cảm thấy họ không di chuyển nhanh hơn bình thường lấy một giây, mặc dầu khu vực lò sưởi là cả một cơn bão cuồng loạn những miệng chó vừa nhay vừa sủa rống lên. May thay, có một người ở trong bếp đã tỏ ra khẩn trương hơn. Một phụ nữ tràn trề sinh lực, váy xắn lên, cánh tay để trần, má đỏ bừng vì lửa bếp, chạy bổ vào giữa đám chúng tôi, vung một cái xoong có cán và sử dụng cả thứ vũ khí ấy lẫn miệng lưỡi của mình có hiệu quả đến nỗi cơn giông tố tan biến như có phép thần, và khi ông chủ bước ra sân khấu, thì chỉ còn mình bà ta ở lại, hổn ha hổn hển như mặt biển sau một trận gió lớn. - Có chuyện quỷ quái gì vậy? Ông ta hỏi, đưa mắt nhìn xuống khiến tôi gần như không chịu nổi sau sự đối xử khiếm nhã nọ. - Đúng là quỷ thật! Tôi làu bàu. Đàn lợn bị quỷ nhập[1] cũng không mang những linh hồn hung dữ hơn lũ súc vật nhà ông. Khác nào ông để mặc một người khách với một bầy hổ! - Chúng chả đụng đến những ai không táy máy sờ mó gì, ông ta nhận xét, vừa đặt chai rượu xuống trước mặt tôi vừa kê lại cái bàn bị chuyển chỗ. Lũ chó canh chừng thế là phải. Làm ly rượu vang nhé? - Không, cám ơn ông. - Không bị cắn đấy chứ? - Nếu tôi bị cắn thì tôi đã cho con nào cắn tôi một dấu ấn nhớ đời rồi. Vẻ mặt Heathcliff giãn ra thành nụ cười nhăn nhở. - Thôi nào, ông ta nói, ông bị khích động đấy, ông Lockwood ạ. Này, ông dùng chút rượu vang đi. Nhà này quá hiếm khách, đến nỗi tôi và lũ chó của tôi chẳng biết tiếp khách như thế nào cho phải, tôi sẵn sàng thú nhận vậy. Xin chúc sức khỏe ông! Tôi nghiêng mình chúc lại, bắt đầu nhận ra rằng cứ ngồi giận dỗi vì sự thất lễ của một bầy khuyển thì thật là ngớ ngẩn; với lại, tôi cảm thấy ớn không muốn để cho con người này có cơ hội cười cợt tôi thêm nữa, vì xu hướng đã ngả theo chiều đó. Có lẽ do thận trọng suy tính rằng xúc phạm một khách thuê nhà tử tế là dại, ông ta mềm mỏng đi một chút trong cách nói năng cộc lốc tước bỏ cả nhân xưng lẫn trợ động từ, và đề cập đến cái mà ông ta cho là điều quan tâm của tôi – một cuộc thuyết trình về những thuận lợi và bất lợi của nơi ẩn dật hiện tại của tôi. Tôi thấy ông ta rất thông minh trong những đề tài chúng tôi bàn tới, và trước khi ra về, tôi thấy phấn chấn lên đến mức tôi sẵn sàng hôm sau lại đến. Hiển nhiên là ông ta không hề mong muốn tôi lại đột nhập. Dù sao tôi cũng sẽ cứ đến. Kỳ lạ thay, tôi cảm thấy mình sính giao du hơn ông ta biết bao. C2 hiều hôm qua, trời bắt đầu mù sương và lạnh. Tôi phân vân gần như muốn ngồi lì bên lò sưởi trong phòng làm việc, thay vì lặn lội qua bãi hoang và bùn lầy để đến Đồi Gió Hú. Tuy nhiên, ăn bữa chính xong (chú thích: tôi ăn bữa chính vào quãng giữa mười hai giờ và một giờ, bà quản gia, một phụ nữ đoan trang được thuê luôn như một vật cố định cùng với ngôi nhà, không thể, không chịu hiểu yêu cầu của tôi muốn được ăn vào năm giờ), khi lên cầu thang với cái ý định làm biếng ấy và bước vào phòng, tôi trông thấy một chị hầu gái quỳ trên sàn xung quanh nào phất trần, nào xô đựng than, đang đổ hàng đống tro vào để dập tắt lửa, làm bụi mù cả lên. Cảnh tượng ấy khiến tôi lập tức rút lui; tôi lấy mũ đội vào đầu và sau một cuốc đi bộ bốn dặm đường, tới cổng vườn nhà ông Heathcliff, vừa kịp tránh khỏi một trận mưa tuyết đang rắc xuống những bông đầu tiên phấp phới tựa lông chim. Trên đỉnh đồi hiu hắt này, đất bị sương giá làm đen cứng lại và không khí làm tôi run khắp cả chân tay. Không tháo được dây xích cổng, tôi nhảy qua và, sau khi chạy ngược con đường đắp lát đá với những bụi cây lý gai xệch xẹo hai bên, tôi hoài công gõ cửa mãi, kỳ đến khi các khớp ngón tê dại đi và chó sủa nhặng lên. “Lũ khốn kiếp ru rú trong nhà!” Tôi bật ra rủa thầm “Các người thật đáng bị vĩnh viễn cách ly khỏi đồng loại vì cái thói bất nhã thô bỉ của các người. Chí ít ta đây cũng không mắc cái thói cài chặt then cửa giữa ban ngày ban mặt như thế này. Ta bất cần – ta sẽ vào bằng được!” Quả quyết thế, tôi nắm lấy gióng cửa, lắc thật mạnh. Lão Joseph mặt câng câng thò đầu ra từ một cửa sổ tròn của chuồng ngựa. - Ông muốn gì? Lão hét. Ông trủ ở dưới chỗ bãi nhốt gia súc. Lếu ông muốn nói chuyện mấy ông ý thì ông đi quành chỗ cuối chuồng ngựa lày. - Trong nhà không có ai để mở cửa ư? Tôi hét trả lại. - Chả có ai ngoài mợ trủ ra; và ông có nàm om xòm đến đêm mợ ý cũng chả buồn mở đâu. - Tại sao? Này, Joseph, bác không thể nói cho bà ấy biết tôi là ai hay sao? - Tui chịu thôi! Tui sẽ bị dây dưa biết đến bao giờ mấy xong được. Cái đầu vừa lẩm bẩm vừa biến mất. Tuyết bắt đầu rơi dày. Tôi nắm lấy gióng cửa toan lay thử một lần nữa thì một chàng trai trẻ không mặc áo ngoài, vai vác một cái chàng nạng, xuất hiện ở sân sau. Anh ta ới tôi theo anh ta, và sau khi đi qua một chỗ giặt quần áo rồi một khu vực lát đá gồm một cái lán để than, một bơm nước và một chuồng chim bồ câu, cuối cùng chúng tôi đến căn phòng lớn, ấm áp, vui tươi, nơi tôi đã được tiếp lần trước. Căn phòng rực lên thật thú vị trong ánh tỏa ngời của một đống lửa to đốt bằng than đá, than bùn lẫn củi; và ở gần cái bàn có bày một bữa ăn chiều thịnh soạn. Tôi thích thú quan sát thấy “mợ trủ”, một nhân vật mà trước đây tôi không mảy may ngờ là có ở đây. Tôi cúi chào và đợi, nghĩ bụng là nàng sẽ mời tôi ngồi. Nàng nhìn tôi, dựa lưng vào thành ghế và vẫn ngồi nguyên không động đậy, câm lặng. - Thời tiết thật ác! Tôi nhận xét. Thưa bà Heathcliff, tôi e rằng cánh cổng nhà ta sẽ phải chịu hậu quả do sự phục dịch chểnh mảng của đám gia nhân ở đây mất thôi, tôi phải vất vả lắm mới làm cho họ nghe thấy tôi gọi! Nàng không hề mở miệng. Tôi giương mắt nhìn – nàng cũng giương mắt nhìn. Dù sao, nàng cũng gắn mắt vào tôi, vẻ lạnh nhạt, khinh khỉnh khiến tôi bối rối và khó chịu quá xá. - Ông ngồi xuống, gã trai trẻ nói, cộc cằn. Ông ấy sắp về đấy. Tôi làm theo, e hèm và gọi con chó cái thần nanh đỏ mỏ; lần hội kiến thứ hai này, nó hạ cố ngoe nguẩy cái chỏm đuôi, ra cái điều nhận tôi là chỗ quen biết. - Con vật mới đẹp làm sao! Tôi lại bình luận. Bà có định tách lũ chó con ra không ạ, thưa bà? - Chúng nó không phải là của tôi, bà chủ kiều diễm nói, còn cắn cảu hơn cả Heathcliff nếu đích thân ông ta trả lời. - A, chắc những của cưng của bà là trong đám này! Tôi nói tiếp, quay về phía một cái ổ mờ tối đầy những vật giống như mèo. - Chọn của cưng như vậy, kể cũng kỳ cục thay! Nàng nhận xét, giọng giễu cợt. Rủi thật, đó là một đống thỏ chết. Tôi lại e hèm một lần nữa, và xích lại gần lò sưởi hơn, lặp lại nhận xét về thời tiết dữ dội chiều nay. - Thế thì đáng lẽ ông đừng nên ra khỏi nhà – nàng nói, đứng dậy với tay lấy hai trong số những hộp nhỏ sơn màu loè loẹt bày trên mặt lò sưởi. Lúc nãy, vị trí của nàng khuất khỏi ánh sáng; bây giờ tôi nhìn rõ toàn thể vóc dáng và vẻ mặt của nàng. Nàng dong dỏng cao và rõ ràng mới chỉ qua thời con gái chưa được bao lâu: một “co” người đẹp và một khuôn mặt nhỏ, khuôn mặt tuyệt vời nhất mà tôi từng may mắn được nhìn; nét thanh tú, rất đẹp, những món tóc quăn hoe hoe, đúng hơn, vàng óng, buông lơi trên chiếc cổ mảnh dẻ; và cặp mắt nếu như biểu lộ sự dịu dàng thì ắt sẽ quyến rũ không sao cưỡng nổi; cũng may cho trái tim dễ xúc cảm của tôi, cái tình cảm duy nhất thể hiện trong đó lại lơ lửng giữa sự khinh mạn và một thứ tuyệt vọng, trái tự nhiên vì lạc chỗ một cách kỳ lạ. Mấy cái hộp gần như ngoài tầm tay của nàng; tôi làm một cử chỉ định giúp nàng; nàng quay phắt lại phía tôi như kiểu một gã biển lận quay lại khi có ai định giúp gã đếm số vàng của mình vậy. - Tôi không cần ông giúp, nàng xẵng giọng, tự tôi có thể lấy được. - Xin lỗi! Tôi vội vàng đáp. - Ông có được mời tới dùng trà không? Nàng hỏi, thắt một cái tạp dề phủ lên chiếc áo dài đen gọn ghẽ và đứng cầm thìa trà nghiêng nghiêng trên miệng ấm. - Được tách trà bây giờ thì còn gì bằng, tôi trả lời. - Ông có được mời không? Nàng nhắc lại. - Không, tôi nói ngập ngừng mỉm cười. Bà là người đúng cương vị để mời tôi đấy. Nàng quẳng phắt cả trà cả thìa và giận dỗi trở về ghế ngồi, trán cau lại, môi dưới đỏ tươi thưỡi ra như môi một đứa trẻ sắp khóc. Trong khi đó, gã trai trẻ đã khoác lên người một bộ quần áo ngoài rõ là xơ xác, và, rướn thẳng người trước ánh lửa, gã nhìn xuống tôi bằng khoé mắt y như thể giữa chúng tôi có một mối tư thù chưa thanh toán xong. Tôi bắt đầu ngờ ngợ không biết gã có phải là người ở hay không vì y phục và lời ăn tiếng nói của gã đều thô kệch, hoàn toàn không có vẻ bề trên như có thể thấy ông và mợ Heathcliff; những món tóc quăn, dày màu nâu của gã bờm xờm, không chải, hai mái tóc mai dài chờm xuống má thô kệch và hai bàn tay đen đủi như một người lao công làm mướn; tuy nhiên, tính cách gã lại phóng túng, gần như kiêu kỳ là đằng khác, không hề có cái vẻ săm sắn của đầy tớ phục vụ bà chủ nhà. Thiếu bằng chứng cụ thể về cương vị của gã, tôi cho rằng tốt nhất là tôi đừng có để ý gì đến thái độ xử sự lạ lùng của gã; và năm phút sau Heathcliff vào, phần nào giải thoát cho tôi khỏi tình trạng mất thoải mái ấy. - Ông thấy đấy, thưa ông, tôi đã tới, đúng như lời hứa; tôi kêu lên, làm ra vui vẻ. Tôi sợ rằng thời tiết sẽ buộc chân tôi ở lại đây độ nửa tiếng, nếu ông có thể cho tôi tạm trú khoảng thời gian đó. - Nửa tiếng ư? Ông ta vừa nói vừa rũ những bông tuyết trắng khỏi quần áo; tôi lấy làm lạ là sao ông lại chọn đúng lúc bão dữ nhất để lang thang đi chơi. Ông có biết là ông có thể bị lạc giữa những đồng lầy không? Cả những người quen thuộc với những truông này cũng thường khi lạc đường vào những chiều như thế này nữa là; và tôi có thể cam đoan với ông là thời tiết không có cơ màu gì thay đổi ngay được đâu. - Liệu ông có thể dành một gã trong số gia nhân của ông dẫn tôi được không? Và anh ta sẽ nghỉ lại ở Ấp cho đến sáng mai. - Không, tôi không thể. - Ôi, thật ư? Thế thì tôi đành phải tin vào sự minh mẫn của bản thân mà thôi. - Ừm! - Có định pha trà không đấy? Gã mặc chiếc áo choàng xơ mướp hỏi, luồng nhìn dữ tợn chuyển từ tôi qua người thiếu phụ. - Có cần mời ông ta không? Nàng hỏi, quay sang cầu viện Heathcliff. - Pha trà đi, nghe không? Câu trả lời thốt ra hung tợn đến nỗi tôi giật bắn người. Cái ngữ điệu của những tiếng ấy bộc lộ một bản chất xấu thật sự. Tôi hết thấy muốn Heathcliff là một tay cực kỳ. Khi trà pha xong, ông ta mời tôi bằng một câu: “Nào ông, kéo ghế lại đây”. Và tất cả chúng tôi, kể cả gã thanh niên cục mịch, sáp lại quanh bàn, một sự im lặng khắc khổ bao trùm trong khi chúng tôi ăn[2]. Tôi nghĩ nếu mình đã gây nên đám mây thì bổn phận mình là phải cố gắng xua tan nó đi. Họ chắc không thể ngày nào cũng ngồi hằm hằm và lầm lì thế; và dù họ có xấu tính mấy đi nữa thì cũng chẳng thể nào cái nét cau có in trên cả ba bộ mặt kia lại là sắc diện thường nhật của họ được. - Thật là lạ, tôi mở đầu trong khoảng cách giữa lúc uống hết một tách trà và lúc nhận một tách khác – thói quen có thể nhào nặn những sở thích và ý niệm của chúng ta theo những cách thật kỳ; nhiều người không thể tưởng tượng được là lại có hạnh phúc trong một cuộc đời hoàn toàn cách biệt thế giới như ông đang sống, thưa ông Heathcliff; ấy thế mà tôi dám mạo muội nói rằng, giữa sự bao bọc của gia đình và với vị phu nhân kiều diễm làm thần ngự trị trên tổ ấm và trái tim ông… - Phu nhân kiều diễm của tôi! Ông ta ngắt lời với một vẻ giễu cợt gần như ma quái trên mặt. Vậy chứ nàng đâu – phu nhân kiều diễm của tôi? - Tôi muốn nói bà Heathcliff, vợ ông. - À thế đấy… Ồ, ông muốn nói là linh hồn cô ấy đã lĩnh cái vị trí thiên thần hộ vệ và đang canh giữ cho phúc phận của Đồi Gió Hú, ngay cả khi thể xác cô ấy đã tiêu vong. Phải thế không ạ? Nhận thấy mình lầm, tôi tìm cách sửa sai. Lẽ ra tôi đã có thể thấy sự chênh lệch về tuổi tác giữa đôi bên là quá lớn, khó bề họ có thể là vợ chồng được. Một người vào quãng bốn mươi, thời kỳ tinh thần cường tráng, mà vào độ ấy, cánh đàn ông hiếm khi ôm ấp ảo tưởng được gái trẻ lấy vì tình yêu, sự mơ mộng đó đành để an ủi những năm tàn của chúng ta. Còn người kia xem chừng chưa tròn mười bảy. Thế rồi một ý nghĩ loé trong đầu tôi: “Cái gã nhà quê ngồi sát khuỷu ta đang uống trà bằng bát vại và bốc bánh mì ăn bằng những bàn tay không rửa, có thể là chồng nàng, Heathcliff-con, tất nhiên là thế rồi. Đây là hậu quả của việc bị chôn sống ở một nơi, nàng đã nhắm mắt buông trôi hiến thân cho cái gã thô kệch này, đơn giản chỉ vì không biết trên đời còn có những người tốt đẹp. Thật đáng buồn đáng tiếc – ta phải cẩn thận đừng gây cho nàng hối tiếc sự lựa chọn của mình”. Ý nghĩ này nghe có vẻ hợm nhưng đâu phải thế. Tôi thấy anh chàng bên cạnh gần như kinh tởm; qua kinh nghiệm, tôi tự biết mình cũng tàm tạm hấp dẫn. - Bà Heathcliff đây là con dâu tôi, Heathcliff nói, củng cố thêm sự dự đoán của tôi. Trong khi nói, ông ta quay nhìn nàng một cách kỳ cục, một cái nhìn đầy căm thù, trừ phi ông ta có một bộ mặt hết sức ngang bướng không chịu diễn đạt ngôn ngữ của tâm hồn như cơ mặt người khác. - A, nhất định rồi… bây giờ tôi mới hiểu: cậu là chủ nhân may mắn của nàng tiên xinh đẹp, tôi quay sang gã ngồi cạnh mình, nhận xét vậy. Thế lại càng tệ hại hơn trước, gã thanh niên đỏ dừ mặt và nắm chặt tay, rõ ràng đang suy tính chuyện hành hung tôi. Nhưng gã như trấn tĩnh lại được ngay và dập tắt cơn khùng bằng một câu rủa thô bạo, lầm bầm trong miệng nhằm vào tôi, nhưng tôi thận trọng bỏ ngoài tai. - Rủi thay, ông đoán sai hết cả, thưa ông. Gia chủ của tôi nhận xét; cả hai chúng tôi đều không có cái đặc quyền sở hữu nàng tiên mỹ miều của ông; bạn chung chăn gối với nàng chết rồi. Tôi vừa nói nàng là con dâu tôi, do đó thế tất nàng đã lấy con trai tôi. - Và cậu thanh niên đây… - Không phải là con trai tôi, hẳn đi rồi! Heathcliff lại mủm mỉm cười, như thể việc gán cho ông cái tư cách làm bố con gấu kia, là một câu đùa hơi táo bạo quá. - Tên tôi là Hareton Earnshaw, gã kia gầm gừ, và tôi khuyên ông nên tôn trọng cái tên ấy. - Tôi có tỏ chút gì bất kính đâu, tôi đáp, trong bụng cười thầm cái vẻ trịnh trọng của gã khi xưng danh. Gã trân trân dán mắt vào tôi hồi lâu, đến độ tôi không buồn nhìn đối lại nữa, e có lúc ngứa tay muốn bợp tai gã hoặc phì cười thành tiếng. Tôi bắt đầu cảm thấy rành rành là mình lạc lõng trong cái khung cảnh gia đình thú vị này. Không khí tinh thần ảm đạm trùm lên, thậm chí còn xóa đi những tiện nghi vật chất sáng rực quanh tôi; và tôi quyết tâm phải thận trọng khi dấn thân lần thứ ba dưới mái nhà này. Làm xong công việc ăn uống và thấy không ai thốt ra một lời trò chuyện xã giao, tôi lại gần một cửa sổ xem thời tiết ra sao. Thấy một cảnh buồn thảm: đêm tối buông xuống sớm, bầu trời và đồi núi hòa quyện trong một trận gió lốc dữ dội và mưa tuyết dày đến ngạt thở. - Tôi nghĩ bây giờ thì tôi không thể về nhà được nếu không có người dẫn đường, tôi không đừng được, kêu lên. Đường sá chắc đã bị vùi lấp, và ngay cả nếu có quang quẻ, tôi cũng khó mà phân biệt được gì trước một bước. - Hareton, lùa mười hai con cừu nọ vào cổng chuồng ngựa. Nếu để cả đêm trong bãi rào, chúng sẽ bị phủ đầy tuyết mất; và nhớ đặt một tấm ván ngăn phía trước chúng, Heathcliff nói. - Tôi phải làm thế nào bây giờ. Tôi nói tiếp, mỗi lúc một bực tức. Không ai trả lời câu hỏi của tôi; và quay lại nhìn, tôi chỉ thấy có Joseph xách vào một xô cháo đặc cho lũ chó và “bà” Heathcliff cúi xuống đống lửa, tiêu khiển bằng cách đốt một bó diêm rơi từ mặt lò sưởi xuống khi nàng đặt hộp trà trở về chỗ. Lão Joseph, sau khi để xô cháo cho bầy khuyển, đưa mắt giám sát căn phòng một lượt và rít lên kèn kẹt bằng những âm sắc như vỡ ra: - Tui nấy nàm nạ thay cho người, sao mà có thể đứng ỳ thần xác ra đấy mà sưởi trong khi ai nấy đều ra ngoài! Dưng mà người nà đồ vô tích sự, nói nàm gì phí nời – người sẽ chả bao giờ chịu tu tỉnh, mà cứ nao thẳng vào với ma quỷ, y hệt dư cái bà mẫu của người trước kia. Trong một lúc tôi tưởng cái miếng hùng biện ấy là nhằm vào mình; và, điên tiết, tôi bước tới tên côn đồ già, toan đá lão ra khỏi cửa. Nhưng câu trả lời của “bà” Heathcliff đã ngăn tôi lại. - Này lão già đạo đức giả thối chuyện! Nàng đáp lại. Lão nhắc đến tên của ma quỷ mà không sợ nó bắt mất xác lão đi ư? Tôi báo cho lão biết đừng có khiêu khích tôi, kẻo tôi sẽ xin một ân huệ đặc biệt là ma quỷ bắt lão đi đấy. Tạnh đi, nhìn đây này, Joseph, – nàng nói tiếp, với tay lên giá lấy xuống một quyển sách lớn, màu đen – tôi sẽ chứng tỏ cho lão biết tôi đã tiến bộ trong ma thuật như thế nào: chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ có thể vận dụng nó để bắt cả nhà. Con bò tía đâu phải tự nhiên mà chết, và chứng thấp khớp của lão cũng chẳng do trời phạt đâu. - Ối, độc ác, độc ác! Lão già hổn hển nói. Cầu Chúa cứu rúp chúng con thoát khỏi sự ác. - Không, cái đồ bị Chúa đày xuống địa ngục! Lão là một kẻ lạc loài – cút đi, kẻo tôi sẽ làm cho lão nếm mùi thật sự đấy. Tôi sẽ lấy sáp và đất sét nặn hình tất cả các người và kẻ đầu tiên vượt qua ranh giới do tôi định, sẽ… tôi chả cần nói rõ sẽ bị làm sao… nhưng mà, rồi lão sẽ thấy! Đi đi, tôi để mắt tới lão đấy! Cô gái phù thủy quắc đôi mắt đẹp, giả bộ hung dữ, lão Joseph run rẩy vì kinh hoàng thật sự, lật đật ra khỏi nhà, vừa đi vừa cầu nguyện và thốt lên: “độc ác”. Tôi cho rằng ứng xử của nàng là do một kiểu đùa trong tâm trạng u uất thôi; và giờ đây chỉ còn hai người với nhau, tôi cố gắng khiến nàng quan tâm tới hoàn cảnh khốn quẫn của tôi. - Cô Heathcliff, tôi khẩn khoản, xin cô thứ lỗi cho tôi về tội quấy quả cô. Tôi phỏng đoán, bởi vì với bộ mặt như thế này, tôi dám chắc cô không thể không tốt bụng. Xin cô bày cho mấy điểm chuẩn để tôi có thể dựa vào đó mà tìm đường về nhà. Tôi không biết làm sao để tới được đấy, cũng như cô hẳn không biết làm sao tới được London. - Cứ theo con đường lúc ông tới, nàng đáp, lút mình sâu vào trong một chiếc ghế, với cây nến và quyển sách lớn mở trước mặt. Đó là tôi khuyên ngắn gọn, nhưng chí lý nhất tôi có thể giúp ông. - Vậy thì nếu cô nghe tin người ta tìm thấy tôi chết trong một bãi lầy hay một cái hố đầy tuyết, lương tâm cô sẽ không thì thầm rằng đó phần nào là lỗi tại cô chứ? - Sao lại thế được. Tôi không thể hộ tống ông. Họ sẽ không để tôi đi tới cuối bức tường rào vườn. - Cô ấy à? Tôi đâu dám đề nghị cô bước khỏi ngưỡng cửa để chiều theo ý tôi vào một đêm như thế này, tôi kêu lên. Tôi muốn cô bày cho tôi đường đi, chứ không phải dẫn đi; hoặc nếu không, thì thuyết phục ông Heathcliff cho tôi một người dẫn đường. - Cho ai đi bây giờ? Chỉ có bản thân ông ta, Earnshaw, Zillah, Joseph, tôi. Ông muốn ai dẫn? - Thế không có thằng nhỏ nào ở trại ư? - Không, tất cả chỉ có thế. - Vậy thì kết cục là tôi buộc phải lưu lại. - Điều đó ông có thể thu xếp với chủ nhà. Tôi không dính dáng gì vào đấy. - Tôi mong đó sẽ là một bài học để ông đừng có liều lĩnh dạo chơi trên những ngọn đồi này nữa, giọng nói nghiêm nghị của Heathcliff vang lên từ cửa vào bếp. Còn như ở lại đây thì tôi không sắp sẵn tiện nghi cho khách; nếu ông lưu lại thì phải nằm chung với Hareton hoặc Joseph. - Tôi có thể ngủ trên một cái ghế trong phòng này, tôi đáp. - Không, không được! Một người lạ là một người lạ, bất kể giàu hay nghèo; tôi không ưng cho phép bất kỳ ai tự tiện sử dụng nơi này trong khi tôi không có mặt để canh phòng, con người đê tiện bất lịch sự ấy nói. Lời sỉ nhục ấy làm tôi mất hết kiên nhẫn. Tôi thốt ra một tiếng biểu lộ sự ghê tởm và sầm sầm đi qua mặt ông ta ra sân, và trong khi hấp tấp, xô phải Earnshaw. Trời tối đến nỗi tôi không sao nhìn thấy lối ra, và trong khi loanh quanh luẩn quẩn, tôi lại nghe thấy một tiêu mẫu nữa của cách cư xử lễ độ giữa họ với nhau. Mới biết gã trai trẻ có vẻ như sắp sửa muốn giúp tôi. - Tôi sẽ đi với ông ta đến chỗ vườn hoa, gã nói. - Mày sẽ đi với ông ấy đến địa ngục! Câu này phát ra từ miệng ông chủ của gã hay là gì gì của gã cũng được. Thế còn ai trông ngựa hử? - Một mạng người còn hệ trọng hơn là một tối sao lãng việc trông nom ngựa; phải có ai đi dẫn ông ấy chứ, tiếng “bà” Heathcliff rì rầm, con người xem ra tốt bụng hơn tôi tưởng. - Không phải theo lệnh của nhà cô! Hareton vặc lại. Nếu cô coi trọng ông ta thì tốt hơn là hãy im cái mồm. - Vậy thì tôi mong rằng hồn ma của ông ta sẽ ám anh; và tôi mong rằng ông Heathcliff sẽ không bao giờ kiếm được một người khác thuê nhà, kỳ đến khi Ấp đổ nát, nàng gay gắt trả lời. - Nghe đấy, nghe đấy, cô ta đang nguyền rủa họ kìa, Joseph làu bàu; tôi đang tiến về phía lão. Lão ngồi trong tầm nghe, vắt sữa bò dưới ánh sáng một chiếc đèn xách; tôi giật phắt lấy cây đèn, chẳng hỏi han mượn mõ gì; và vừa kêu to là mai sẽ gửi trả vừa lao tới cửa ngách gần nhất. - Ông trủ, ông trủ, hắn ăn cắp cái đèn xách, lão già tru lên, đuổi theo tôi: Hú Gnasher, hú chó ơi, hú sói, rữ hắn nại, bắt nấy hắn! Vừa mở được cánh cửa nhỏ thì hai con quái vật lông lá bổ tới nhè cổ họng tôi vật ngã xuống và làm tắt đèn, trong khi một nhịp cười hô hố hỗn hợp của cả Heathcliff lẫn Hareton khiến nỗi điên khùng và tủi nhục của tôi dâng lên đến tột độ. May thay, hai con vật dường như chỉ chú tâm vào việc giương vuốt, ngoác mõm và vung đuôi hơn là ăn tươi nuốt sống tôi; nhưng chúng không chịu để tôi hồi sinh trở lại và tôi buộc phải nằm cho đến khi những người chủ tai ác của chúng vui lòng giải thoát cho tôi. Rồi, đầu không mũ, người run lên vì tức giận, tôi ra lệnh cho những kẻ vô lại kia để cho tôi ra – nếu giữ tôi thêm một phút thì liệu hồn – với những lời đe doạ trả đũa không ăn nhập vào đâu, song về mặt sâu xa độc địa lại phảng phất chất Vua Lear[3]. Bị kích động quá mạnh, tôi đổ máu cam lênh láng, mà Heathcliff vẫn cười, khiến tôi càng la mắng dữ. Tôi không biết liệu cái gì có thể chấm dứt được cảnh ấy nếu không có một người ở liền đấy tỉnh táo duy lý hơn tôi và nhân từ hơn kẻ tiếp đãi tôi. Đó là Zillah, người quản gia to béo, cuối cùng, chị ta chạy ra xem có chuyện gì mà ầm ỹ thế. Chị tưởng có ai trong bọn họ hành hung tôi; không dám tấn công ông chủ của mình, chị xoay hướng pháo kích miệng sang gã côn đồ trẻ. - Chà, cậu Earnshaw, chị kêu lớn, tôi không biết rồi sau đây, cậu còn giở trò gì nữa! Liệu rồi có đến nước là ta sẽ giết người ngay trên thềm đá của nhà ta không? Tôi thấy cái nhà này chẳng bao giờ hợp với tôi được – kìa tội nghiệp, ông ta đang nghẹn kìa! Chậc! Chậc! Ông chớ nên tiếp tục thế nữa. Vào đây, rồi tôi chữa hết ngay; thế, ngồi yên nhé. Nói rồi, bất thình lình chị ta hất một ca nước lạnh toát vào cổ và kéo tôi vào trong bếp. Ông Heathcliff đi theo, cơn vui vẻ đột ngột nhanh chóng tắt đi trong vẻ u ám thường lệ của ông. Tôi cực kỳ chóng mặt, nôn nao, yếu xỉu, và do đó, buộc phải nhận ở lại dưới mái nhà của ông ta. Ông ta bảo Zillah lấy cho tôi cốc rượu mạnh rồi đi vào phòng trong; trong khi đó Zillah tỏ nỗi lo ngại cho tình cảnh đáng buồn của tôi; và sau khi chấp hành lệnh của chủ mang rượu tới – nhờ đó tôi tỉnh táo được phần nào – chị đưa tôi đến phòng ngủ. T3 rong khi dẫn đường lên cầu thang, chị dặn tôi nên che nến và đừng làm ồn, vì ông chủ của chị vốn có một ý niệm kỳ quặc về căn buồng mà chị định xếp cho tôi và không bao giờ muốn cho ai ở đấy. Tôi hỏi lý do tại sao, chị trả lời là không biết, chị mới ở đây độ một, hai năm và họ có nhiều hành vi kỳ dị đến nỗi chị không biết đằng nào mà lần. Quá đờ đẫn chẳng còn bụng dạ nào mà tò mò, tọc mạch, tôi cài chặt cửa và nhìn quanh xem giường nằm ở đâu. Toàn bộ đồ đạc gồm một chiếc ghế tựa, một tủ đựng quần áo và một cái hòm lớn bằng gỗ sồi có những ô vuông được khoét ở gần mép trên, giống như những cửa sổ xe ngựa. Lại gần cái cấu trúc ấy, tôi nhìn vào trong, và thấy nó là một thứ giường nằm kỳ lạ kiểu cổ, thiết kể rất tiện để cho mỗi thành viên của gia đình khỏi cần có một buồng riêng. Thực vậy, nó làm thành một cái buồng kín nhỏ xíu và cái gờ một cửa sổ, lồng trong đó, được dùng làm bàn. Tôi đẩy hai tấm cửa lùa, cầm nến chui vào, kéo khít trở lại và cảm thấy an toàn, thoát khỏi sự cảnh giác theo dõi của Heathcliff cùng mọi người khác. Cái gờ cửa sổ, nơi tôi đặt cây nến, có mấy quyển sách mốc meo chồng ở một góc, và đầy những chữ rạch vào lớp sơn phủ mặt. Những dòng viết ấy, tuy nhiên, không phải là cái gì khác ngoài một cái tên vạch đi vạch lại bằng mọi kiểu chữ lớn, nhỏ – Catherine Earnshaw, đây đó biến dị đi thành Catherine Heathcliff rồi lại thành Catherine Linton. Uể oải lờ đờ tôi dựa đầu vào cửa sổ và tiếp tục đánh vần hoài: Catherine Earnshaw – Heathcliff – Linton, cho đến khi mắt nhắm lại; nhưng chưa chợp mắt được năm phút, vẫn những chữ cái trắng loá thành một vầng hào quang đã bừng lên từ bóng tối, sinh động như những bóng ma – không trung nhan nhản những chữ Catherine; và vùng dậy để xua tan cái tên quấy ám, tôi thấy ngọn nến ngả về một trong những cuốn sách cũ kỹ và, làm sực lên mùi da bê cháy. Tôi dập tắt nến, rất khó chịu trong người do ảnh hưởng của khí lạnh và cái mùi nôn nao dai dẳng, tôi ngồi dậy, mở banh trên đầu gối cuốn sách bị bén lửa. Đó là một quyển Kinh Thánh in chữ mảnh và bốc mùi mốc ghê gớm. Một tờ trắng đầu sách có ghi dòng chữ – “Catherine Earnshaw, sách của cô ấy”, và một niên đại khoảng phần tư thế kỷ trước. Tôi gấp nó lại, lấy một quyển khác rồi một quyển nữa, cho đến khi xem hết lượt. Tủ sách của Catherine thuộc loại chọn lọc và tình trạng cũ nát chứng tỏ sách được dùng tới luôn, tuy không phải bao giờ cũng nhằm một mục đích chính đáng, chả mấy chương không có chua lời bình bằng bút mực – chí ít cũng có vẻ như một lời bình – kín mọi chỗ trống mà nhà in còn chừa ra ngoài khuôn chữ. Một số là những câu rời rạc; những phần khác tựa như một thứ nhật ký hẳn hoi, viết nguệch ngoạc bằng một thứ chữ non nớt chưa định hình. Trên đầu một trang phụ (hẳn là của quý khi tình cờ thấy được lần đầu), tôi rất khoái chí nhìn thấy một bức biếm hoạ chân dung ông bạn Joseph của tôi – nét vẽ thô, nhưng đầy sức mạnh. Trong tôi lập tức nhóm lên một mối quan tâm đối với nàng Catherine không quen biết, và tôi bèn bắt đầu cố gắng đọc cho vỡ những dòng chữ kỳ bí đã phai nét mực của nàng. “Một ngày chủ nhật kinh khủng!” đoạn dưới đó bắt đầu như vậy. “Mình ước gì cha sống lại. Hindley là người thay thế đáng ghét – cách cư xử của anh ấy với Heathcliff thật tàn tệ – H. và tôi sẽ quật khởi, chúng tôi đã làm bước khởi đầu tối nay. “Cả ngày mưa dầm dề; chúng tôi không đi nhà thờ được, nên Joseph nhất thiết phải tập hợp tín đồ ở gác xép sát mái, và trong khi anh Hindley cùng với vợ ngồi sưởi dưới nhà trước một bếp lửa ấm cúng – làm mọi chuyện trừ việc đọc Kinh Thánh, tôi xin cam đoan thế – thì Heathcliff, tôi và tay thợ cày khốn khổ được lệnh phải mang sách kinh leo lên gác. Chúng tôi bị xếp thành một hàng trên một bì ngô, rên rẩm và run rẩy, hy vọng là Joseph cũng run nốt, để lão cho chúng tôi một bài thuyết pháp ngăn ngắn thôi, vì lợi ích của chính lão. Hy vọng hão! Buổi lễ kéo dài đúng ba tiếng đồng hồ, thế mà khi trông thấy chúng tôi xuống, ông anh trai tôi còn trơ tráo kêu lên: “Thế nào, xong rồi kia à?” Trước kia, tối chủ nhật, chúng tôi thường được phép chơi đùa, nếu không làm ồn quá, bây giờ, chỉ cười rúc rích một tí là bị tống vào trong góc nhà! “Bọn bay quên là bọn bay có một ông chủ ở đây”, tên bạo chúa ấy nói. “Tao sẽ đánh tan xác đứa nào đầu têu làm tao phát khùng! Nhớ kỹ là bọn bay phải hết sức điềm đạm và im lặng. A, thằng nhóc! Mày giở trò đấy phải không. Frances, em yêu quý, hãy rứt tóc nó khi em đi ngang qua; anh vừa nghe thấy nó bật ngón tay tanh tách”. Frances rứt tóc Heathcliff thật mạnh rồi đến ngồi vào lòng chồng và họ cứ ngồi đấy như hai đứa con nít, hôn hít nhau, và nói chuyện tào lao hàng giờ liền – tán nhăng nhít, bọn tôi nghe mà phát ngượng. Chúng tôi cố nép mình cho thật ấm cúng dễ chịu trong chừng mực có thể được dưới vòm tủ buýp-phê; tôi vừa ghim tạp dề của chúng tôi vào với nhau và treo lên làm rèm che, thì Joseph ở chuồng ngựa về, bước vào. Lão giật cái đồ thủ công của tôi xuống, bợp tai tôi và càu nhàu. “Ông trủ vừa mới chôn cất xong, chưa hết nễ Sabbath, tiếng kinh Phúc âm hãy còn trong nỗ tai mà cô, cậu đã dám đùa rỡn! Thật xấu hổ! Ngồi xuống, đồ trẻ hư đốn! Có đủ sách hay, sách tốt cho cô cậu đọc đây! Ngồi xuống mà gẫm về phần hồn của mình!” Nói rồi, lão bắt bọn tôi chỉnh đốn tư thế sao cho một tia sáng mờ mờ từ đống lửa đằng xa có thể soi cho chúng tôi thấy câu chữ trong cái của nợ mà lão ấn vào tay chúng tôi. Tôi không thể chịu được cái công việc ấy. Tôi cầm lấy gáy quyển sách dơ dáy, ném nó vào cũi chó, tuyên bố rằng tôi ghét sách tốt. Heathcliff cũng đá quyển sách của mình vào chỗ ấy. Thế là ầm ĩ cả lên. “Cậu trủ Hindley!” lão linh mục vườn của chúng tôi gào lên. “Cậu trủ nại đây mà xem! Cô Cathy làm toạc gáy quển Cái mũ cứu rỗi, còn Heathcliff thì quai nắm đấm vào phần đầu quển Đường thông thống dẫn tới tiêu vong! Cậu cứ để bọn ló tiếp tục cái đà lày thì thật nà nguy to! Chao! Phải tay ông cụ thì ông cụ đã cho chúng một trận đích đáng – dưng mà ông cụ nại mất rồi!” “Từ cái thiên đàng bên bếp lửa của mình, Hindley vội chạy tới và túm lấy chúng tôi, đứa cổ áo, đứa cánh tay, ném cả hai vào bếp đàng sau nhà, nơi mà, theo lời Joseph trịnh trọng tuyên bố, “khọm Nick”[4] chắc chắn sẽ đến kiếm chúng tôi, chắc chắn như chúng tôi đang sống vậy; và được an ủi như vậy, mỗi chúng tôi tìm một xó chờ “khọm Nick” tới. Tôi với tay lấy cuốn sách này và bình mực từ trên giá, đẩy cánh cửa vào chính sảnh he hé để lấy ánh sáng, tôi có thời gian để viết độ hai mươi phút, nhưng anh bạn tôi sốt ruột, đề nghị lấy béng cái áo choàng của chị bán sữa mà trùm đầu để nhổng đi chơi trên đồng hoang. Một gợi ý thú vị – rồi nếu lão già bẳn tính vào, có thể lão lại tưởng lời tiên đoán của mình đã ứng nghiệm – mà chúng tôi có ra dầm mưa cũng chả ướt hoặc lạnh gì hơn là ở đây”. Tôi đoán là Catherine đã thực hiện dự định của mình vì câu sau nói sang một chuyện khác; nàng chuyển giọng bi lụy đầy nước mắt. “Thật tôi không mấy ngờ là Hindley lại làm tôi khóc ghê thế”, nàng viết. “Đầu tôi đau nhức đến độ không thể tựa trên gối được nữa; tuy nhiên tôi vẫn không sao nín được. Tội nghiệp Heathcliff! Hindley gọi cậu ấy là đồ ma cà bông và không cho cậu ấy ngồi cùng hoặc ăn cùng với chúng tôi nữa, lại còn bảo cậu ấy và tôi không được chơi chung với nhau nữa, dọa sẽ tống cổ cậu ấy ra khỏi nhà nếu chúng tôi trái lệnh. Anh ấy chê trách cha chúng tôi (làm sao anh ấy lại dám thế nhỉ?) đã nuông H. quá và thề rằng sẽ cho cậu ấy vào khuôn vào phép…” Tôi bắt đầu gà gật trên trang sách nhập nhoè, mắt đảo từ những dòng viết sang những dòng in. Tôi thấy một tiêu đề đỏ có điểm họa tiết: Bảy mươi lần bảy[5] và thứ nhất của thứ bảy mươi mốt[6]. Một bài thuyết giáo của đức cha Jabez Branderham tại nhà thờ Gimmerden Sough. Và trong khi nửa tỉnh nửa mê, bóp óc đoán xem Jabez Branderham quan niệm đề tài của mình như thế nào, tôi ngả mình xuống giường và ngủ thiếp đi. Ôi! Tác động của trà tồi và tâm trạng bực bội! Ngoài ra, còn gì khác có thể khiến tôi phải qua một đêm khủng khiếp như vậy? Tôi không nhớ một đêm nào khác mà có thể so sánh với đêm này, kể từ khi có khả năng chịu đựng. Tôi bắt đầu mơ, hầu như trước cả khi tôi mất cảm giác về mình đang ở đâu. Tôi mơ thấy trời đã sáng và tôi đã lên đường về nhà với Joseph dẫn đường. Tuyết dày hàng thước trên đường chúng tôi đi và trong khi chúng tôi trật trưỡng tiến bước, người bạn đồng hành của tôi không ngừng rầy la trách cứ tôi đã không mang theo một chiếc gậy hành hương; lão bảo nếu không có một chiếc gậy hành hương, tôi sẽ không bao giờ được vào nhà và huênh hoang vung một cây trượng đầu to tướng – tôi hiểu ra cái đó được gọi là gậy hành hương. Trong một lúc, tôi thấy thật phi lý nếu như tôi cần có một thứ khí giới như thế mới được vào nơi cư trú của chính mình. Thế rồi một ý mới chợt loé lên trong đầu tôi. Tôi không đi về nhà, chúng tôi đang tới nghe đức cha Jabez Branderham trứ danh thuyết giảng theo bài “Bảy mươi lần bảy”; và hoặc Joseph hoặc cha giảng đạo, hoặc tôi đã phạm tội “thứ nhất của thứ bảy mươi mốt”, cần phải đưa ra vạch trần trước mọi người và rút phép thông công. Chúng tôi tới nhà thờ. Thực tế, tôi đã đi qua chỗ này hai hoặc ba lần gì đó trong những buổi dạo chơi. Nhà thờ nằm trong một thung lũng giữa hai trái đồi: một con thung cao, gần một đầm lầy theo người ta nói, độ ẩm than bùn của nó đáp ứng mọi yêu cầu ướp thơm cho số thi hài ít ỏi được táng ở đấy. Mái nhà thờ cho đến nay, vẫn được giữ nguyên vẹn; nhưng vì lương của tu sĩ chỉ có hai mươi bảng một năm, kèm thêm một căn nhà hai buồng, với nguy cơ mau chóng dồn lại còn một nên không tu sĩ nào muốn đảm nhiệm bổn phận mục sư, nhất là hiện tại có tin rằng bầy con chiên thà để mục sư chết đói chứ không chịu bỏ một xu tiền túi ra nâng cao đời sống cho ông ta. Nhưng trong giấc mơ của tôi, Jabez có cả một giáo đoàn đông đảo, chăm chú, và ông thuyết giảng – lạy Chúa! Một bài thuyết giáo tràng giang đại hải. Chia làm bốn trăm chín mươi phần, mỗi phần bằng cả một bài giảng kinh bình thường, và mỗi phần bàn riêng về một tội! Ông ta moi những thứ đó ở đâu ra, tôi chịu; ông có cách diễn giải riêng và hình như nhất thiết là con chiên phải phạm tội mỗi lần một khác. Những tội lỗi mang tính chất hết sức kỳ lạ, những vi phạm quái dị mà trước đây tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra. Ôi, tôi đâm chán biết nhường nào. Bao lần tôi vặn người, tôi ngáp, tôi gà gật, rồi lại choàng dậy! Bao lần tôi tự véo, tự cấu chí mình, và giụi mắt, và đứng lên ngồi xuống, và huých Joseph, thúc lão cho tôi biết liệu ông ta có bao giờ chịu chấm dứt cho không? Tôi bị cái cực hình phải nghe cho hết; cuối cùng, ông ta tới phần “Thứ nhất của thứ bảy mươi mốt”. Đến đoạn gay cấn này, một cảm hứng bất thần đến với tôi, nó thôi thúc tôi bật dậy tố cáo Jabez Branderham là kẻ phạm cái tội mà không người Cơ đốc giáo nào cần phải tha thứ. “Thưa cha”, tôi thốt lên, “ngồi đây giữa bốn bức tường, liền tù tì một mạch, tôi đã chịu đựng và tha thứ bốn trăm chín mươi đề mục trong bài thuyết giảng của cha. Bảy mươi lần tôi đã nhấc mình lên toan bỏ đi – Bảy mươi lần bảy lần cha đã buộc tôi phải trở lại chỗ ngồi một cách vô lý. Đến lần thứ bốn trăm chín mốt thì thật là quá đáng. Hỡi các đồng bạn tuẫn đạo, hãy nhằm vào y! Kéo y xuống và nghiền nát y thành bụi[7], làm sao cho cái nơi từng biết y cũng không nhận ra y nữa!” “Chính mi là kẻ ấy!” Jabez kêu lên sau một phút ngừng trang trọng, ngả người bên trên chiếc nệm. “Bảy mươi lần bảy mi đã nhăn mặt, ngoác mồm – bảy mươi lần bảy lần ta đã thỉnh vấn linh hồn ta – À, đó là sự yếu đuối của con người, cái đó cũng có thể xá tội! Giờ đến tội thứ nhất của loạt thứ bảy mươi mốt. Giáo hữu hãy thi hành sự phán xét đã thành văn đối với hắn. Vinh dự ấy thuộc về mọi người thánh thiện của Chúa!” Dứt câu kết luận ấy, toàn thể cử tọa vung gậy hành hương, nhất tề xông đến vây quanh tôi; và vì không có vũ khí nào để giơ lên tự vệ, tôi bắt đầu vật lộn với Joseph, kẻ tấn công gần nhất và hung hãn nhất, để giành lấy cây gậy hành hương của lão. Do đám đông ùa cả vào một điểm, nhiều chiếc gậy va vào nhau; những cú nhắm vào tôi lại rơi xuống những cái sọ khác. Lúc này, nhà thờ vang lên chí chát những đòn tấn công và phản kích. Mỗi người đều đánh lộn với người bên cạnh; và Branderham; không muốn khoanh tay đứng nhìn, trút hết nhiệt huyết vào việc đập gõ tới tấp như mưa rào trên những tấm ván bục giảng kinh; ván kêu đến nỗi cuối cùng tôi choàng thức với một cảm giác nhẹ nhõm khôn xiết tả. Và cái gì đã gây nên sự om sòm ghê gớm ấy? Cái gì đã đóng vai Jabez trong cuộc náo động ấy? Đơn giản là một cành cây linh sam chạm vào cửa sổ mắt cáo buồng tôi khi gió rền rĩ thổi qua và quật đôm đốp những quả khô của nó vào những ô kính! Tôi ngờ ngợ lắng nghe một lúc, phát hiện ra tên quấy rối, rồi trở mình, chập chờn ngủ tiếp và lại mơ, có dễ còn tệ hơn trước nữa. Lần này tôi nhớ ra mình đang nằm trong cái buồng hòm bé xíu bằng gỗ sồi và tôi nghe rõ ràng tiếng gió thổi từng hồi, cùng tiếng tuyết xối xả rơi; tôi cũng nghe thấy cành cây linh sam lặp lại cái âm thanh quấy rầy của nó và truy đúng nguyên nhân; nhưng nó làm tôi khó chịu quá đến nỗi tôi cương quyết phải dẹp cho nó im đi, nếu có thể. Hình như tôi dậy và có tháo móc cài của khung cửa sổ. Cái móc được hàn chặt vào đai, một chi tiết mà khi còn thức tôi có để ý thấy, song giờ quên khuấy mất. “Dù sao, mình cũng phải ách nó lại!” Tôi lẩm bẩm, lấy khớp ngón đập vỡ kính và thò một cánh tay ra định nắm lấy cái cành nhiễu sự, nhưng đáng lẽ thế, thì tay tôi lại nắm phải những ngón của một bàn tay nhỏ nhắn giá băng. Tôi ngợp trong cái khủng khiếp cao độ của ác mộng, tôi cố rút cánh tay lại, nhưng bàn tay kia níu chặt lấy và một giọng cực kỳ não nùng cất lên nức nở: “Để cho tôi vào… để cho tôi vào!” “Người là ai?” tôi hỏi, đồng thời cố giãy giụa gỡ tay ra. “Catherine Linton”, giọng nói trả lời run rẩy (tại sao tôi lại nghĩ đến Linton? Có đến hai mươi lần tôi đã đọc Linton thành Earnshaw kia mà), “tôi đang về nhà. Tôi đã lạc đường trên đồng hoang!” Trong khi cái giọng đó nói, tôi lờ mờ nhận thấy một khuôn mặt trẻ thơ nhìn qua khe cửa sổ. Kinh hoàng khiến tôi đâm độc ác, và thấy có cố gắng xua cái sinh linh ấy đi cũng vô hiệu, tôi kéo cổ tay đó lên ô kính vỡ và cứa đi cứa lại, kỳ đến khi máu chảy giàn xuống, thấm đẫm những đồ trải giường. Vậy mà nó vẫn rền rĩ: “Để cho tôi vào!” và dai dẳng níu chặt hoài, làm tôi gần phát điên lên vì sợ. “Làm sao ta có thể để ngươi vào?” Cuối cùng tôi nói. “Buông ta ra, nếu ngươi muốn ta để cho ngươi vào!” Những ngón tay nói lỏng ra, tôi giật tay mình qua lỗ hổng, vội vã chồng những cuốn sách lên thành một hình tháp chẹn lấy lỗ đó và bịt tai để khỏi nghe lời cầu xin thảm thiết nọ. Tôi cứ bịt như thế cơ chừng một khắc đồng hồ; tuy nhiên, khi tôi lại lắng nghe thì kìa, tiếng kêu ảo não vẫn tiếp tục rền rĩ. “Cút đi”, tôi quát. “Dù ngươi có nài xin đến hai mươi năm, ta cũng chẳng để cho ngươi vào đâu”. “Đã hai mươi năm rồi đấy”, giọng nói đáp sầu thảm, “hai mươi năm. Tôi đã là một linh hồn bơ vơ hai mươi năm ròng!” Liền đó, bắt đầu một tiếng gọi khe khẽ ở bên ngoài và chồng sách chuyển động như bị đẩy đi. Tôi cố chồm lên, nhưng không sao ngọ nguậy được chân tay; và do đó, tôi gào to lên trong một cơn kinh hoảng điên cuồng. Và tôi bối rối phát hiện ra rằng mình đã gào thật chứ không phải chỉ trong mơ; những tiếng chân hấp tấp lại gần buồng tôi; có ai đẩy cửa ra bằng một bàn tay mạnh mẽ và một ánh sáng chập chờn giữa những ô vuông trên trốc chiếc giường hòm. Tôi ngồi, vẫn còn run, lau mồ hôi trán; người vừa đột nhập có vẻ còn lưỡng lự và lẩm bẩm một mình. Cuối cùng, người ấy nói gần như thì thầm, rõ ràng là không chờ đợi một câu trả lời: “Có ai trong này không?” Tôi xét thấy tốt nhất là cứ thú nhận sự có mặt của mình vì tôi nhận ra tiếng Heathcliff và sợ ông ta sẽ lùng sục thêm nếu tôi tiếp tục im lặng. Với ý định ấy, tôi quay người và mở cửa lùa. Hành động này của tôi gây một tác động mà tôi sẽ không dễ gì sớm quên đi được. Heathcliff đứng gần vào cửa, mặc sơ mi trần, quần dài, với một cây nến nhỏ giọt trên ngón tay và mặt trắng bệch như bức tường đằng sau ông ta. Tiếng cọt kẹt đầu tiên của chiếc giường hòm gỗ sồi làm ông ta nảy thót người lên như bị điện giật! Cây nến văng khỏi tay ông ra xa mấy bước và cơn xáo động tột độ khiến ông phải khó khăn lắm mới nhặt được nó lên. - Có gì đâu, khách trọ của ông thôi mà, thưa ông, tôi thốt lên, muốn tránh cho ông ta cái nỗi nhục nhã phải phô bày thêm sự nhát sợ của mình. Rủi cho tôi đã la thét trong giấc ngủ, vì một cơn ác mộng. Tôi rất ân hận đã phá rối ông. - Ôi, Chúa trừng phạt ông đi, ông Lockwood. Tôi ước sao ông bị đày xuống địa… gia chủ tôi mào đầu, đặt cây nến lên một chiếc ghế vì ông ta tự thấy không cầm vững nổi. Ai đưa ông vào cái phòng này? Ông ta nói tiếp, ấn ngập móng tay vào hai lòng bàn tay và nghiến chặt răng để hàm khỏi co giật. Ai? Tôi đang muốn tống cổ bọn chúng ra khỏi nhà ngay lập tức! - Đó là chị người hầu của ông, Zillah, tôi đáp, nhảy xuống sàn và nhanh chóng mặc quần áo. Ông làm thế tôi cũng bất cần, ông Heathcliff ạ, chị ta rất đáng bị đuổi. Tôi đồ rằng chị ta muốn lợi dụng tôi để kiếm thêm một bằng chứng là nơi này có ma. Phải, đúng là nhà này – lúc nhúc những ma quỷ! Ông rào kỹ, cửa đóng then cài thế là phải lắm, tôi cam đoan với ông vậy. Chẳng ai sẽ cảm ơn ông cho ngủ trong một cái hang ổ gớm ghiếc như thế này đâu. - Ông nói vậy nghĩa là thế nào? Heathcliff hỏi. Và ông đang làm gì vậy? Hãy nằm xuống và ngủ cho hết đêm đi, một khi ông đã ở đây; nhưng, lạy Chúa ông đừng có tái diễn cái trò huyên náo khủng khiếp ấy nữa; chẳng có lý do gì chính đáng để la lối lên thế, trừ phi có kẻ cắt cổ ông! - Nếu cái con ma nhỏ vào được lối cửa sổ thì chắc nó đã bóp cổ tôi rồi, tôi đáp lại. Tôi chẳng chịu để các vị tổ tiên hiếu khách của ông hành tôi lần nữa đâu. Đức cha Jabez Branderham có họ hàng với ông về bên ngoại phải không? Lại còn cái cô ả chanh chua, Catherine Linton hay Earnshaw, hay gì gì chả rõ – chắc cô ả phải là một tiểu yêu thay thế người bị thần thánh bắt đi – cái linh hồn nhỏ hiểm ác! Ả bảo tôi là ả đã lang thang trên mặt đất hai mươi năm nay: một hình phạt đích đáng đối với những trọng tội của ả, tôi dám chắc thế! Vừa thốt ra những lời đó, tôi liền nhớ đến sự liên kết giữa hai cái tên Heathcliff và Catherine trong cuốn sách, điều mà tôi đã hoàn toàn quên bẵng cho tới khi thức giấc như vậy. Tôi đỏ mặt vì sự thất thố của mình; nhưng, không lộ vẻ gì nữa tỏ ra biết lỗi về sự xúc phạm đó, tôi vội vàng nói thêm. - Sự thực là, thưa ông, tôi đã dành phần đầu của đêm nay để… – đến đây tôi lại ngừng, tôi đã toan nói “để xem lướt qua những quyển sách cũ này”, rồi chợt nghĩ nếu thế sẽ lộ ra rằng mình đã biết nội dung trong đó, cả phần viết tay lẫn phần in, nên tôi sửa lại và nói tiếp – … để cố đọc cho ra những tên vạch trên thành cửa sổ này. Một việc làm tẻ ngắt, cốt để cho buồn ngủ, cũng như đếm hoặc… - Ông nói với tôi cách ấy là có ý gì? Heathcliff gầm lên dữ dội, man rợ. Làm sao… làm sao ông dám, ngay dưới mái nhà tôi?… Lạy Chúa, ông ta điên nên mới nói thế! Và ông ta cuồng dại đập vào trán mình. Tôi không biết nên giận cung cách nói năng ấy hay nên tiếp tục phân trần; nhưng xem vẻ ông ta bị chấn động ghê gớm; đến nỗi tôi đâm thương hại. Tôi kể tiếp đến những giấc mơ; khẳng định rằng trước đó, tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến tên “Catherine Linton”, song vì cứ đọc đi đọc lại thành ra bị ấn tượng, rồi khi không kiểm soát được trí tưởng tượng của mình nữa thì ấn tượng ấy hiện hình lên. Trong khi tôi nói, Heathcliff lùi dần vào náu trong góc có cái giường, cuối cùng ngồi xuống, gần như khuất sau đó. Tuy nhiên, bằng vào các nhịp thở không đều và đứt đoạn tôi đoán là ông ta đang vật lộn để chế ngự một cơn xúc động mạnh quá. Không muốn tỏ với ông ta rằng mình đã nghe thấy tiếng hào hển ấy, tôi tiếp tục mặc quần áo một cách khá ồn ào, nhìn đồng hồ và tự sự một mình về độ dài của đêm: “Chưa đến ba giờ! Thế mà mình dám thề là đã sáu giờ. Ở đây thời gian thật trì trệ, chắc chắn ta đã về buồng ngủ từ tám giờ!” - Mùa đông, bao giờ chúng tôi cũng đi nghỉ vào chín giờ và dậy vào bốn giờ, gia chủ của tôi nói, cố nén một tiếng rên rỉ và ông quệt một giọt lệ trên mắt, tôi đoán vậy khi thấy bóng cánh tay ông chuyển động. Ông Lockwood, ông ta nói thêm, ông có thể vào buồng tôi: ông xuống nhà dưới sớm thế chỉ tổ làm vướng chân mọi người, với lại, tiếng la thét kiểu con nít của ông đã xua giấc ngủ của tôi đi với quỷ rồi còn gì. - Và cả giấc ngủ của tôi nữa, tôi đáp. Tôi sẽ đi dạo trong sân cho tới sáng, rồi lúc đó, tôi sẽ tếch; và ông khỏi phải sợ tôi lại đột nhập một lần nữa. Bây giờ, tôi chừa cái thói tìm vui thú trong giao tiếp rồi, dù là ở tỉnh hay ở quê. Một người khôn ngoan phải tìm thấy đủ bạn bầu ngay nơi bản thân mình. - Bạn bầu ấy mới thú vị làm sao! Heathcliff lẩm bẩm. Ông cầm lấy cây nến rồi đi đâu tùy thích. Tôi sẽ tới với ông ngay. Tuy nhiên, chớ có ra sân, bầy chó được tháo xích rồi đấy; và chính sảnh nữa – con Juno canh gác ở đó, và… không, ông chỉ có thể loanh quanh ở bậc thềm và các hành lang thôi. Nhưng mà kệ, ông đi đi! Tôi sẽ tới trong vòng hai phút nữa! Tôi làm theo, nhưng chỉ ra khỏi phòng; không biết những hành lang dẫn tới đâu, tôi đứng ngây ra, vô tình, chứng kiến ở ông chủ nhà một biểu hiện mê tín tương phản kỳ lạ với vẻ khôn ngoan bề ngoài của ông ta. Ông trèo lên giường và giựt mở toang cửa sổ mắt cáo, vừa giựt vừa òa lên khóc trong một cơn xúc động không kiềm chế nổi “Vào đây! Vào đây!” ông ta nức nở. “Cathy, lại đây em. Ôi, vào đây nào…! Ôi! Người yêu dấu của trái tim ta; rút cục hãy nghe anh lần này Catherine!” Con ma tỏ rõ cái thói đồng bóng thông thường của một con ma, nó không biểu lộ dấu hiệu gì là đang tồn tại; duy chỉ có tuyết và gió xoáy lộn điên cuồng qua cửa sổ, vào thấu tận chỗ tôi và làm tắt phụt ngọn nến. Cơn sầu não trào ra theo luồng gió tuyết lồng lộn ấy chứa một nỗi đau đớn mãnh liệt đến nỗi tôi đâm thương cảm, không coi đó là ngu dại; tôi rút lui gần như phẫn nộ vì đã để tai nghe ngóng, và bực mình vì đã kể lại cơn ác mộng nhố nhăng nọ, bởi lẽ chính nó gây ra nỗi đau đớn này, mặc dầu tôi không hiểu tại sao lại thế. Tôi thận trọng đi xuống nhà dưới và vào bếp sau; tại đây, tôi vun gọn một đống lửa lập lòe, châm lại nến. Không có gì động đậy trừ một con mèo xám đốm nâu từ đống tro bò ra, chào tôi bằng một tiếng “meo” cáu kỉnh. Hai cái ghế băng hình vòng cung quây gần kín lò sưởi; tôi ngả mình trên một cái, còn chị Miu trèo lên chiếc kia. Cả hai chúng tôi đang gà gật, chưa có ai xâm phạm nơi ẩn dật của chúng tôi, thế rồi Joseph lệt xệt xuống một cái thang gỗ mà phần trên biến lút vào trong mái qua một khoang cửa sập; có lẽ là lối lên căn gác xép của lão. Lão gườm gườm nhìn ngọn lửa nhỏ mà tôi đã nhen lên chập chờn giữa những thanh vỉ lò, gạt phắt con mèo khỏi cao điểm của nó và, sau khi ngồi vào chỗ trống đó, bắt đầu thao tác nhồi thuốc lá sợi vào một cái tẩu dài khoảng bảy tám phân. Rõ ràng sự hiện diện của tôi ở nơi thánh đường này của lão là một sự ngược ngạo quá trơ tráo không bõ để lão mở miệng nhận xét, lão lặng lẽ đưa ống điếu lên môi, khoanh tay lại và rít từng hơi dài. Tôi để lão tận hưởng cái thú say sưa, không quấy rầy; và sau khi phả ra cuộn khói cuối cùng, trút một tiếng thở dài thật sâu, lão đứng dậy bỏ đi cũng trịnh trọng như lúc đến. Tiếp đó, một tiếng chân nhún nhảy hơn đi vào, và lúc này tôi mở miệng toan nói: “chúc buổi sáng tốt lành”, nhưng ngậm lại ngay, bỏ dở câu chào, bởi lẽ Hareton Earnshaw đang lầm rầm “cầu kinh” và bài kinh của gã là một chuỗi những lời nguyền rủa mọi vật gã đụng đến trong khi lục bới một góc bếp tìm cái mai hay cái xẻng gì đó để hót tuyết. Gã liếc nhìn vào lưng ghế băng, phình lại lỗ mũi và chẳng buồn nghĩ đến chuyện chào hỏi xã giao qua lại với tôi cũng như với cô bạn mèo của tôi. Bằng vào những chuẩn bị của gã, tôi đoán là mình đã có thể được phép ra ngoài và rời khỏi chỗ nằm rắn cấc, tôi làm một cử động để đi theo gã. Gã nhận thấy thế và lấy đầu lưỡi mai thúc vào một cái cửa ở mé trong ra hiệu bằng một tiếng ú ớ rằng đó là lối tôi cần đi nếu muốn đổi chỗ. Cửa ấy dẫn vào chính sảnh, ở đó cánh phụ nữ đã nhộn nhịp hoạt động. Zillah đang quạt thốc những chùm tia lửa lên ống khói lò sưởi bằng một cái bễ to đùng và “mợ” Heathcliff quỳ trên bệ lò, đang đọc một cuốn sách trong ánh lửa. Nàng giơ một tay trước mắt ngăn bớt sức nóng của lò và xem ra rất chăm chú vào công việc của mình, chỉ rời ra để cự chị người hầu làm tung toé những tia lửa quanh nàng hoặc đẩy một con chó thỉnh thoảng lại quá nhờn thọc mũi vào mặt nàng. Tôi ngạc nhiên thấy Heathcliff cũng ở đó. Ông ta đứng bên đống lửa, quay lưng về phía tôi, vừa mới dứt tiếng quát mắng chị Zillah tội nghiệp một trận tơi bời; còn Zillah thì chốc chốc lại ngắt quãng công việc, nhấc một góc tạp dề lên và trút một tiếng hậm hực đầy bất bình. - Còn mày, đồ… vô tích sự, đúng lúc tôi vào, ông ta quay sang la con dâu, dùng một hình dung từ vô hại, kiểu như vịt, ngan, dê, cừu gì đó, song thường được biểu hiện bằng ba chấm lửng. Mày lại giở những trò vô công rồi nghề của mày ra đấy! Những đứa khác bỏ công sức đáng đồng tiền bát gạo, còn mày… thì sống nhờ vào lòng từ thiện của tao! Cất cái đồ rác rưởi của mày đi và kiếm việc gì mà làm. Mày phải trả giá cho tao về cái tội nợ lúc nào cũng bị mày làm gai mắt. Nghe thấy không… con bà cô giời đánh thánh vật. - Tôi sẽ cất cái trò rác rưởi của tôi đi, vì nếu tôi không chịu cất, ông cũng có thể bắt tôi phải làm theo, cô gái đáp, gấp sách lại, vứt bên một chiếc ghế. Nhưng dù ông có nguyền rủa đến đứt lưỡi, tôi cũng chả làm gì khác ngoài cái tôi thích. Heathcliff giơ tay lên, và người vừa nói nhảy bật ra một khoảng cách an toàn hơn, rõ ràng là đã biết rõ sức nặng của bàn tay ấy. Không muốn giải trí bằng một cuộc ẩu đả kiểu chó mèo, tôi thoăn thoắt bước tới như thể đang háo hức muốn sưởi ấm và hồn nhiên không biết gì về cuộc cãi cọ bị ngắt quãng. Mỗi bên đều có đủ lịch thiệp để đình chỉ chiến sự không gây hấn thêm nữa: Heathcliff thục hai nắm đấm vào trong túi cho khỏi ngứa ngáy; “mợ” Heathcliff dẩu môi lên và đi lại một cái ghế ở đằng xa, tại đó nàng giữ đúng lời bằng cách sắm vai một pho tượng trong suốt thời gian tôi còn nán lại. Thời gian ấy không lâu. Tôi từ chối không cùng ăn điểm tâm với họ, và, khi tia sáng đầu tiên của bình minh vừa hé, tôi liền lợi dụng cơ hội thoát ra ngoài không khí thoáng đãng giờ đây sáng trong, tĩnh mịch và lạnh như băng mịn. Ông chủ nhà của tôi kêu to bảo tôi dừng lại trước khi tôi tới cuối vườn và tình nguyện đưa tôi đi qua đồng hoang. Ông ta làm như vậy là hay, vì cả mé lưng đồi là một đại dương trắng xóa nhấp nhô, mà những chỗ bồng lên, thụt xuống không hề ứng với những lồi lõm của mặt đất: nhiều hố bị lấp, ít ra cũng tới mức phẳng lì; và hàng loạt những đống thải của các mỏ đá đã bị xóa khỏi bản địa đồ hình thành trong trí tôi qua cuộc đi bộ ngày hôm trước. Bữa qua tôi đã nhận thấy ở một bên đường cả một dãy những phiến đá thẳng đứng, cách nhau độ sáu, bảy thước một, liên tục suốt chiều dài cánh đồng hoang, những phiến đá này được dựng lên và trát vôi nhằm làm mốc hướng dẫn trong đêm tối, cũng như trong trường hợp mưa tuyết, như lúc này, làm lẫn lộn những đầm sâu hai bên với đường đi trên đất rắn; nhưng giờ đây, trừ vài chấm bẩn nhô lên đây đó, mọi dấu vết về sự tồn tại của những mốc ấy đã biến mất và người bạn đường của tôi thấy cần phải luôn luôn nhắc tôi lái sang phải hoặc trái trong khi tôi cứ tưởng mình đang theo đúng những khúc lượn của con đường. Chúng tôi không trò chuyện với nhau mấy, và ông ta dừng lại ở lối vào vườn hoa Thrushcross, bảo rằng từ đây trở đi tôi không thể nhầm được nữa. Chúng tôi tạm biệt nhau gọn lỏn bằng một cái cúi chào vội vã, rồi tôi cứ tự lực thẳng tiến vì chỗ ở của các người gác cổng vẫn chưa có ai. Quãng cách từ cổng tới Ấp là hai dặm mà dường như tôi đã đi lòng vòng thành bốn, phần vì lạc trong những lùm cây, phần vì có lúc thụt đến tận cổ trong tuyết, một cái nạn mà chỉ những ai đã nếm mùi mới thấm thía. Dù sao đi nữa, quanh quẩn thế nào mặc lòng, khi tôi bước vào nhà thì đồng hồ điểm mười hai giờ; có nghĩa là cứ mỗi dặm của chặng đường thông thường từ Đồi Gió Hú về đây, tôi đã đi mất đúng một giờ. Bà quản gia cùng những người phụ việc ùa cả ra đón tôi, kêu ồn lên rằng họ đã hoàn toàn tuyệt vọng về tôi; ai nấy đều đoán là tôi đã chết đêm qua; và họ đang băn khoăn không biết làm thế nào để tìm thi hài tôi. Tôi bảo họ im đi khi mà giờ đây họ đã thấy tôi trở về. Và tê cóng đến tận tim, tôi lê bước lên gác; sau khi thay quần áo khô và đi đi lại lại chừng ba bốn mươi phút để phục hồi thân nhiệt, tôi rời sang thư phòng, yếu lả như một con mèo con, yếu tới mức gần như không còn cảm khoái để tận hưởng đống lửa vui tươi và tách cà phê bốc khói mà người hầu đã pha để tôi uống cho lại sức. C4 on người ta tính khí thật phù phiếm, xoay như chong chóng! Tôi, một kẻ đã quyết tâm tách mình khỏi mọi giao tiếp xã hội và cảm ơn ngôi sao chiếu mệnh đã run rủi cho tôi rốt cuộc đậu được xuống một chỗ gần như không thể có hoạt động xã giao – tôi, kẻ khốn khổ yếu nhược, sau khi cầm cự đến tận sẩm tối trong một cuộc vật lộn với buồn chán và cô đơn, cuối cùng, tôi buộc phải cuốn cờ thua cuộc, và khi bà Dean mang bữa ăn tối vào, tôi lấy cớ hỏi về những điều cần thiết cho việc an cư ở đây, mời bà ngồi lại trong khi tôi ăn, thành thật hy vọng bà ta sẽ tỏ ra là một kẻ ngồi lê đôi mách, và có thể hoặc khuấy động tôi lên, hoặc ru cho tôi ngủ trong câu chuyện của bà. - Bà đã sống ở đây một thời gian dài, tôi mào đầu, bà đã nói là mười sáu năm, phải không nhỉ? - Mười tám, thưa ông. Tôi đến hầu hạ bà chủ từ khi bà mới cưới; sau khi bà mất, ông chủ giữ tôi lại làm quản gia. - Ra thế. Tiếp theo là một quãng ngừng, có lẽ bà không phải là người bẻo lẻo trừ phi nói về những nỗi niềm riêng tư, mà những chuyện đó thì tôi chả quan tâm mấy. Tuy nhiên, sau khi ngẫm nghĩ một lát, hai nắm tay chống trên hai đầu gối với một vẻ suy tư u ẩn trên bộ mặt hồng hào, bà ta bật ra: - Ôi, từ bấy đến nay, thời thế đã thay đổi biết mấy! - Phải, tôi nhận xét, tôi chắc bà đã chứng kiến nhiều biến chuyển? - Vâng, nhiều biến chuyển và phiền muộn nữa, bà nói. “Ơ, mình sẽ lái sang chuyện gia đình ông chủ nhà!” tôi nghĩ thầm. “Một đầu đề hay ho để khơi chuyện! Cả cô gái goá xinh đẹp kia, mình cũng muốn biết lai lịch, cô ta có phải là người sinh trưởng ở vùng này, hay là một kẻ ngoại tỉnh lai mà dân bản địa bản tính không muốn công nhận là họ hàng thân thuộc, như vậy có lý hơn”. Với ý đồ đó, tôi hỏi bà Dean tại sao Heathcliff lại cho thuê ấp Thrushcross, và ưng sống ở một vị trí, một nơi cư trú xoàng xĩnh hơn nhiều như vậy. - Phải chăng ông ta không đủ giàu để bảo quản cơ ngơi cho tốt? – Tôi hỏi. - Giàu có ư, thưa ông! Bà đáp. Ông ấy không biết bao nhiêu tiền và mỗi năm một nhiều thêm… Phải, phải, ông ấy đủ giàu để sống trong một ngôi nhà đẹp hơn thế này, nhưng ông ấy gần như là… keo kiệt, và ngay cả nếu ông ấy đã có ý định rời sang ấp Thrushcross thì khi nghe nói có khách sộp thuê nhà, ông ấy cũng không chịu bỏ qua dịp may kiếm thêm mấy trăm bạc. Thật lạ lùng là con người ta lại có thể hám lợi đến thế khi chỉ có một mình trên đời. - Hình như ông ta đã từng có một người con trai? - Phải, ông ấy đã từng có một con trai, cậu ta chết rồi. - Và cái cô gái nọ, “mợ” Heathcliff, là vợ góa của cậu ta? - Vâng. - Gốc gác cô ta ở đâu? - À, thưa ông, cô ấy là con gái ông chủ quá cố của tôi; Catherine Linton là tên hồi con gái của cô ấy. Tội nghiệp cô bé, tôi đã từng bế ẵm cô ấy! Thực tình, tôi cầu ước là ông Heathcliff dọn trở về đây để cô ấy và tôi lại có thể bên nhau. - Cái gì! Catherine Linton à? Tôi kêu lên, ngỡ ngàng. Nhưng một phút suy nghĩ khiến tôi hiểu rằng đó không phải là con ma Catherine của tôi. Vậy, tôi hỏi tiếp, người ở đây trước tôi mang họ Linton ư. - Chính thế. - Thế còn cái anh chàng Earnshaw, Hareton Earnshaw, cùng ở với ông Heathcliff là ai? Có họ hàng với nhau không? - Không, anh ta là cháu gọi bà Linton quá cố bằng cô ruột. - Vậy là anh con cô con cậu của cô gái? - Vâng, cả chồng cô cũng là anh em họ với cô – một người về đằng mẹ, người kia về đằng bố. Chả là Heathcliff lấy em gái ông Linton mà. - Tôi thấy ngôi nhà ở Đồi Gió Hú có chữ “Earnshaw” khắc trên cửa tiền. Đó có phải là một dòng họ lâu đời không? - Rất lâu đời, thưa ông; và Hareton là người cuối cùng của dòng họ, cũng như cô Cathy là người cuối cùng của họ chúng tôi… tôi muốn nói là của dòng họ Linton. Ông có tới Đồi Gió Hú đấy à? Tôi… tôi xin lỗi đã hỏi thế, nhưng cái tôi muốn biết cô ấy dạo này ra sao! - “Mợ” Heathcliff ấy à? Cô ta nom rất khoẻ và rất đẹp; tuy nhiên, theo tôi, không được sung sướng gì lắm. - Ôi trời, tôi chả lấy gì làm lạ! Và ông thấy ông chủ thế nào? - Một con người có phần hơi xù xì, thô lỗ, bà Dean ạ. Phải chăng tính cách ông ta thế? - Xù xì như lưỡi cưa và rắn cấc như sa thạch! Càng ít dây với ông ta càng tốt. - Hẳn ông ta đã từng lên voi xuống chó đôi lần trong đời nên mới đâm cục cằn thế! Bà có biết gì về tiểu sử ông ta không? - Đó là tiểu sử một gã tàng tàng, thưa ông. Tôi biết từ đầu chí cuối trừ mấy điểm: ông ta sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai và hồi đầu, ông ta kiếm được tiền bằng cách nào. Và Hareton đã bị quẳng ra như một con chim chích chưa đủ lông cánh! Cậu con trai xấu số ấy là người duy nhất trong xứ đạo này không đoán ra là mình đã bị lừa gạt như thế nào! - Này bà Dean ạ, bà làm phúc kể cho tôi nghe đôi điều về những người hàng xóm của tôi đi. Tôi cảm thấy có đi nằm cũng chả ngủ được; cho nên bà hãy hảo tâm ngồi lại hàn huyên một vài giờ với tôi. - Ồ nhất định rồi, thưa ông! Tôi đi kiếm tí đồ khâu thôi, rồi ông muốn tôi ngồi lâu chừng nào cũng xin vâng. Nhưng mà ông bị cảm hàn mất rồi; tôi đã thấy ông run cầm cập và ông phải ăn tí cháo cho dứt cơn lạnh đi. Người đàn bà đáng kính ấy lật đật chạy đi, tôi cúi lại gần đống lửa hơn; đầu thì nóng, toàn thân lại rét run. Hơn thế nữa, thần kinh và não tôi bị kích thích gần như tới mức ngây dại. Điều đó khiến tôi cảm thấy không phải khó chịu, mà đúng ra là nơm nớp (như hiện giờ tôi vẫn còn lo thế) sợ bị tác động nghiêm trọng của những sự việc hôm nay và hôm qua. Bà ta trở lại ngay, mang theo một cái liễn bốc khói và một giỏ đồ khâu. Sau khi đặt cái liễn vào ngăn bên lò sưởi, bà kéo ghế lại, rõ ràng thích thú thấy tôi dễ kết giao như vậy. - Trước khi tôi đến ở đây, bà bắt đầu kể, không đợi tôi phải nài thêm, tôi hầu như ở luôn Đồi Gió Hú, vì mẹ tôi là vú nuôi cậu Hindley Earnshaw, tức là cha đẻ của Hareton, và tôi thường quen chơi đùa với đám trẻ con. Tôi cũng chạy việc vặt, góp sức dỡ cỏ để phơi khô, và quanh quẩn ở trại, sẵn sàng làm bất cứ cái gì do bất cứ ai sai. Một buổi sáng mùa hè đẹp trời – tôi nhớ dạo ấy là đầu mùa gặt – cụ chủ Earnshaw ở trên gác xuống nhà dưới, quần áo gọn gàng cho một chuyến đi xa và sau khi dặn dò Joseph những việc cần làm trong ngày, cụ quay sang Hindley, Cathy và tôi – vì tôi đang ngồi ăn cháo với hai cô, cậu. Cụ nói với con trai: “Này chú mình, hôm nay cha đi Liverpool, cha sẽ mang gì về cho con đây? Con có thể nêu cái gì con thích, nhưng in ít thôi, bởi vì cha sẽ cuốc bộ cả đi lẫn về mỗi lượt sáu mươi dặm, một thôi đường dài đấy!” Hindley xướng một cây vĩ cầm. Rồi cụ hỏi Cathy; dạo ấy cô bé vừa sáu tuổi, nhưng đã có thể cưỡi bất cứ con ngựa nào trong chuồng, nên cô xin một cái roi ngựa. Cụ cũng không quên tôi vì cụ vốn là người hảo tâm, tuy thỉnh thoảng cũng khá nghiêm. Cụ hứa mang về cho tôi một túi táo và lê, rồi cụ hôn các con, chào tạm biệt và lên đường. Ba ngày cụ vắng nhà, đối với cả bọn tôi, có vẻ dài dằng dặc, và cô bé Cathy cứ luôn miệng hỏi bao giờ bố về. Bà cụ Earnshaw chắc chồng về vào giờ ăn đêm của tối hôm thứ ba nên bà cứ hoãn bữa ăn hết giờ này sang giờ khác; nhưng chả có dấu hiệu gì là cụ về và cuối cùng lũ trẻ đâm mệt vì phải chạy hoài xuống cổng trông. Rồi trời tối mịt; bà cụ định cho bọn trẻ đi ngủ, nhưng chúng buồn rầu xin phép cho thức chờ. Vào khoảng mười một giờ đêm, then cửa được nâng lên lặng lẽ và cụ chủ bước vào. Cụ gieo mình xuống một cái ghế, vừa cười vừa rên rẩm và bảo tất cả đứng ra xa, vì cụ đang mệt muốn chết, có cho ba vương quốc mà bắt phải đi bộ một chầu như thế này nữa cụ cũng chịu. “Đến cuối chặng lại bị một chầu sợ chết khiếp!” cụ vừa nói vừa mở cái áo bành tô cuộn thành một đùm ôm trong tay. “Xem này, bà nó! Đời tôi chưa bao giờ bị cái gì làm mệt đến thế; nhưng dù sao, bà cũng phải coi nó như một món quà của Chúa ban, tuy nó đen đến độ tưởng như ở chỗ quỷ sứ chui ra”. Chúng tôi xúm lại, và tôi ghé mắt nhìn qua chỏm đầu cô Cathy thấy một đứa bé tóc đen, rách rưới, bẩn thỉu vào cỡ mới biết đi, mới biết nói – thực ra, mặt nom còn già hơn mặt Catherine – tuy nhiên khi đặt nó đứng xuống, nó chỉ nhìn quanh và lắp bắp toàn một thứ tiếng ngọng nghịu không ai hiểu nổi. Tôi hoảng sợ còn bà cụ Earnshaw thì sẵn sàng quẳng nó ra khỏi cửa, bà nổi khùng lên thực, hỏi làm sao ông lại giở chứng mang cái thằng bé di-gan này về nhà khi mà hai vợ chồng cũng có con đẻ phải nuôi nấng, cung đốn? Ông định làm gì với nó và ông có điên hay không? Cụ chủ cố giải thích vấn đề, song quả thực cụ đang mệt gần chết, và giữa những lời rầy la của cụ bà, tôi chỉ có thể hiểu câu chuyện ra thế này: ông cụ thấy nó đói lả, tựa như câm, không nhà không cửa, bơ vơ giữa phố phường Liverpool, cụ bèn nhặt nó và hỏi xem chủ nhân của nó là ai. Chẳng ma nào biết nó thuộc về ai, cụ kể vậy; và vì cả tiền nong, thời gian của cụ đều có hạn, cụ nghĩ cứ mang luôn nó về nhà với mình còn hơn là tiêu pha vô ích ở đấy, bởi lẽ cụ đã nhất quyết không bỏ nó lại trong tình trạng như lúc thấy nó. Thế là rút cục cụ bà tôi hậm hực cố bình tĩnh lại và cụ ông Earnshaw bảo tôi tắm rửa cho thằng bé, đưa quần áo sạch cho nó, và để nó ngủ với bọn trẻ. Hindley và Cathy đành đứng nhìn và nghe cho đến khi yên tĩnh trở lại; rồi cả hai bắt đầu lục túi cha, tìm những quà ông cụ đã hứa. Hindley đã là một cậu bé mười bốn tuổi, nhưng khi lôi ra cái vật đã từng là một cây vĩ cầm bị đè nát thành từng mảnh trong áo bành-tô, cậu ta khóc ầm lên; còn Cathy không biết cụ chủ đánh mất cây roi trong khi mải săn sóc thằng bé xa lạ, thì bộc lộ sự bực bội của mình bằng cách cười gằn và nhổ vào cái vật nhỏ bé, ngu xuẩn nọ, do đó, được ông bố thưởng công một cú nên thân để dạy cho cô lễ độ hơn. Hai cô cậu dứt khoát không chịu để cho nó ngủ chung giường, thậm chí chung phòng cũng không; và tôi cũng chẳng biết điều hơn là mấy, tôi để nó ở đầu cầu thang, hy vọng sáng hôm sau có thể nó sẽ đi khỏi. Tình cờ – hoặc giả do nghe thấy tiếng ông cụ – nó bò đến cửa phòng cụ Earnshaw, và khi ra khỏi phòng cụ thấy nó ở đấy. Cụ bèn điều tra xem làm sao nó lại tới đó; tôi buộc phải thú nhận và bị đuổi khỏi nhà vì tôi hèn nhát, vô nhân đạo. Buổi đầu Heathcliff được đưa vào gia đình là như thế. Mấy hôm sau, khi trở lại (bởi vì tôi không coi việc trục xuất mình là vĩnh viễn), tôi thấy họ đã đặt tên cho nó là “Heathcliff”, đó là tên một đứa con trai đã chết từ bé, từ đấy, tục danh ấy thành cả họ lẫn tên nó. Bấy giờ, cô Cathy đã rất thân với nó, nhưng Hindley thì ghét và, nói thật tình, tôi cũng vậy, hai chúng tôi hành nó hoài một cách đáng xấu hổ vì tôi không đủ biết điều để cảm nhận sự bất công của mình, và bà cụ chủ thì chẳng bao giờ bênh một câu khi thấy nó bị ngược đãi. Nó có vẻ là một đứa trẻ kiên nhẫn, lầm lì, có lẽ đã chai dạn với hành hạ; nó có thể chịu những đòn của Hindley không chớp mắt, không nhỏ một giọt nước mắt, và những cái cấu chí của tôi chỉ khiến nó hít mạnh vào một hơi, giương mắt ra, như thể nó vô ý tự làm mình đau, chứ không phải lỗi tại ai cả. Sự chịu đựng ấy khiến ông già Earnshaw nổi giận khi cụ phát hiện ra là con trai mình hành hạ đứa trẻ tội nghiệp không cha, như cụ gọi nó. Cụ yêu Heathcliff một cách kỳ lạ, tin mọi điều nó nói, (về vấn đề này nó nói rất ít và thường thường là đúng sự thật), cụ còn chiều nó hơn Cathy nhiều, cô bé này vốn quá nghịch ngợm và ngang ngạnh nên không được cưng nhất. Thế đó, ngay từ đầu, nó đã gây ác cảm trong nhà, và chưa đầy hai năm sau, khi cụ bà Earnshaw mất, cậu chủ nhỏ đã đi đến chỗ coi cha như một kẻ áp chế hơn là một người bạn, coi Heathcliff như một kẻ thoán đoạt những đặc quyền và tình thương yêu của cha mẹ mình; và càng nghĩ về những thua thiệt ấy cậu ta càng cay. Một dạo, tôi cũng đồng tình; nhưng khi đám trẻ bị lên sởi và tôi phải chăm nom chúng, bỗng chốc đảm đương những lo toan của một người đàn bà, thì tôi bèn thay đổi ý kiến. Heathcliff lâm bệnh nguy ngập và khi nằm liệt trầm trọng nhất nó cứ đòi tôi phải luôn luôn ở bên gối nó. Tôi cho rằng nó cảm thấy tôi phục vụ nó rất đắc lực và không đủ trí khôn để đoán là tôi buộc phải làm thế. Dù sao tôi cũng phải nói thế này: nó là đứa trẻ chịu đựng lặng lẽ nhất mà một người bảo mẫu có thể được dịp trông coi. Sự khác nhau giữa nó với những đứa kia buộc tôi phải bớt thiên vị. Cathy và cậu anh trai quấy tôi ghê gớm, còn nó thì như con cừu non chả kêu rên gì hết, mặc dầu việc nó ít gây phiền nhiễu, là do bản chất cứng rắn chứ đâu phải do tốt nết. Nó qua khỏi, bác sĩ khẳng định đó là nhờ tôi phần lớn, và khen ngợi công lao săn sóc của tôi. Tôi dương dương tự đắc về những lời tuyên dương của ông và trở nên dịu dàng với cái đứa đã khiến tôi có cơ hội được khen như vậy, thế là Hindley mất nốt người đồng minh cuối cùng; tuy nhiên, tôi không thể mê được Heathcliff và cứ thường tự hỏi không biết cụ chủ tôi thấy cái gì hay hớm đến thế ở cái thằng bé quàu quạu ấy, mà theo tôi nhớ, nó chẳng bao giờ đáp lại sự nuông chiều của cụ bằng bất cứ dấu hiệu biết ơn nào. Nó không hỗn hào với vị ân nhân mà chỉ vô tình thôi, tuy nó hoàn toàn hiểu nó nắm chắc trái tim ông già trong tay và biết rằng nó chỉ cần nói một tiếng là cả nhà bắt buộc phải uốn mình theo ý muốn của nó. Ví dụ, tôi nhớ có lần cụ Earnshaw mua một đôi ngựa non ở hội chợ hàng xứ và cho mỗi cậu một con. Heathcliff lấy con đẹp nhất nhưng chẳng bao lâu nó đâm tập tễnh; khi phát hiện ra cái tật ấy, cu cậu bèn bảo Hindley: - Anh phải đổi ngựa cho tôi, tôi không thích con của tôi; nếu anh không chịu, tôi sẽ mách cha là anh đã đánh tôi ba trận trong tuần này và chìa cho ông cụ thấy cánh tay tôi tím bầm đến tận vai như thế nào. Hindley thè lưỡi và bợp tai nó. - Biết điều thì anh nên đổi ngay đi, nó vẫn nằng nặc, đồng thời chạy ra cổng (hai đứa đang ở trong chuồng ngựa). Anh sẽ phải đổi; và nếu tôi mách cả về những cú này nữa, anh sẽ được trả nợ kèm theo cả lãi nữa đấy. - Cút đi, đồ chó! Hindley hét, dọa nó bằng một quả cân sắt dùng để cân khoai tây và cỏ khô. - Ném đi, nó đáp và đứng im, rồi tôi sẽ mách chuyện anh huênh hoang rằng hễ ông cụ chết là anh sẽ tống cổ tôi ra khỏi nhà, để xem cụ có đuổi chính anh đi ngay không nào. Hindley ném quả cân trúng ngực nó, nó ngã xuống nhưng loạng choạng đứng dậy ngay, hổn hển, mặt tái mét, và nếu tôi không ngăn lại thì hẳn nó đã cứ thế đi đến cụ chủ và ắt sẽ phục thù được hoàn toàn bằng cách để nguyên trạng thái của nó tố cáo ai đã gây nên thế. “Thôi thì mày lấy ngựa của tao đi, đồ di-gan”, cậu Earnshaw nói. “Và tao cầu sao nó làm cho mày gãy cổ. Lấy nó đi, quỷ tha ma bắt mày, đồ ăn mày được đằng chân lân đằng đầu! Cứ tán tỉnh lấy hết của cải của cha tao đi, có điều sau này, hãy để cho ông già thấy mày là cái giống gì, thằng tiểu yêu của Satan… Thế rồi, tao mong ông cụ sẽ đá mày phọt óc ra!” Heathcliff đi tới cởi dây buộc con ngựa kia chuyển sang khoang của mình; cu cậu đang đi vòng đằng sau con ngựa thì Hindley kết thúc diễn từ của mình bằng một đòn quật ngã xuống dưới chân ngựa, và không dừng lại để xem xem ước muốn của mình có đạt hay không, cắm cổ chạy thật nhanh. Tôi ngạc nhiên thấy thằng bé hồi lại thản nhiên như không và tiếp tục thực hiện ý đồ của mình, thay yên cương cùng mọi thứ, rồi ngồi xuống một mớ cỏ khô cho dịu cơn nôn nao do cú đánh hung dữ gây nên, trước khi bước vào nhà. Tôi dễ dàng thuyết phục nó để tôi đổ vạ cho con ngựa về những vết thâm tím trên người nó, nó chẳng mấy bận tâm, muốn kể sao thì kể, miễn là nó đã có cái nó muốn. Thực vậy, nó ít khi phàn nàn về những vụ xô xát như thế, đến nỗi tôi thật thà nghĩ là nó không có bụng thâm thù. Tôi đã nhầm hoàn toàn, như ông sẽ nghe sau đây. T5 hời gian qua đi, cụ Earnshaw bắt đầu suy nhược. Trước, cụ hoạt động khỏe mạnh là thế, vậy mà đùng một cái, cụ đâm mất sức và khi phải chôn chân ru rú ở góc lò sưởi, cụ trở nên cáu bẳn ghê gớm. Một chuyện không đâu cũng làm cụ phật ý; và hễ ngờ ai coi nhẹ uy quyền mình là cụ gần như nổi cơn lôi đình thịnh nộ. Điều đó càng đặc biệt dễ thấy nếu ai định bắt nạt hay áp chế thằng bé cưng của cụ; cụ khổ sở canh chừng xem có ai nói xấu nó câu nào không, dường như đã đinh ninh trong đầu rằng vì cụ yêu thích Heathcliff nên tất cả đều ghét nó và muốn cho nó một vố. Làm thế chẳng lợi gì cho thằng bé, vì rằng những thiện ý hơn trong bọn tôi không muốn làm cụ chủ phiền lòng nên chúng tôi chiều theo sự thiên vị của cụ; và sự chiều ý ấy là nguồn dinh dưỡng phong phú nuôi lớn tính kiêu kỳ và dữ dằn của nó. Tuy nhiên, cách nào đấy cái đó trở nên tất yếu. Hai ba lần, việc Hindley biểu thị lòng khinh ghét nó trước mắt cha cậu đã khiến ông cụ nổi điên lên; cụ lấy gậy định đánh con và tức run người vì không đủ sức. Cuối cùng, vị phó cha xứ của chúng tôi (hồi ấy xứ đạo chúng tôi có một cha phó lương không đủ sống phải kiếm thêm bằng cách dạy trẻ con hai gia đình Linton và Earnshaw, và tự trồng cấy mảnh đất nhỏ của mình) khuyên nên gửi cậu thiếu niên đến trường trung học nội trú và cụ Earnshaw đồng ý mặc dầu chẳng vui gì, vì cụ bảo: “Hindley là đồ vô tích sự, nó có lang thang đi đâu cũng chẳng mọc mũi sủi tăm được”. Tôi hết lòng hy vọng là từ nay chúng tôi sẽ được yên ổn. Tôi thấy đau lòng khi nghĩ rằng cụ chủ tôi lại bị phiền rầy vì chính việc làm từ thiện của mình. Tôi ngờ rằng nỗi bực bội với tuổi già và bệnh tật phát sinh từ những lục đục trong gia đình cụ, như chính cụ cũng muốn mọi người hiểu thế – thật ra, ông biết đấy thưa ông, nó là do cơ thể suy sụp của cụ. Tuy nhiên, lẽ ra chúng tôi có thể sống khá hòa thuận nếu không có hai người, cô Cathy và Joseph, lão đầy tớ; tôi dám chắc ông đã gặp lão ta trên ấy. Lão ta dạo xưa và rất có thể hiện giờ vẫn là tên đạo đức giả đáng ngán nhất luôn tự cho mình đúng đắn, lục tìm trong Kinh Thánh để vơ những hứa hẹn về mình và ném những nguyền rủa sang người bên cạnh. Nhờ có ngón thuyết pháp, nói năng ngoan đạo, lão xoay xở gây được ấn tượng mạnh đối với cụ Earnshaw; và cụ chủ càng yếu đi, lão càng giành được nhiều ảnh hưởng. Lão không ngừng mè nheo cụ phải lo cho phần hồn mình, cứng tay trị con cái. Lão khuyến khích cụ coi Hindley như một kẻ tội lỗi đáng đày xuống địa ngục, và hết đêm này sang đêm khác, lão cứ lầm bầm đều đặn tuôn ra hàng chuỗi dài những chuyện tố cáo Heathcliff và Catherine, bao giờ cũng chú ý phỉnh nịnh chỗ yếu của cụ Earnshaw bằng cách đổ tội nặng nhất lên đầu Catherine. Quả thực, cô bé có những thói riêng mà trước đó tôi chưa từng thấy ở đứa trẻ nào khác, và mỗi ngày cô khiến tất cả chúng tôi phát bực đến dăm bảy chục bận hoặc hơn thế nữa. Từ cái giờ cô ở trên gác xuống đến giờ cô lên ngủ, bọn tôi không yên thân được lấy một phút khỏi lo cô quấy phá. Cô luôn luôn phấn hứng cao độ, miệng lưỡi liến thoắng – nào hát, nào cười và trêu chọc tất cả những ai không làm như cô. Cô ta là một đứa bé tai ác, bất trị nhưng cô có con mắt đẹp nhất, nụ cười dịu dàng nhất và bước chân thanh thoát nhẹ nhàng nhất xứ đạo, với lại, nói cho cùng, tôi tin rằng cô ta chẳng có ý định hại ai; nếu cô làm cho người nào phát khóc thật, chả mấy khi cô không xoắn xuýt bên người đó và dỗ ép đến phải nín cho cô yên lòng. Cô mê thích Heathcliff quá đỗi. Hình phạt nặng nhất có thể đặt ra để trị cô là cách ly cô khỏi nó, tuy nhiên cô lại bị rầy la vì nó nhiều hơn bất kỳ ai trong bọn chúng tôi. Khi chơi đùa, cô đặc biệt thích đóng vai bà chủ nhỏ, vung tay đánh loạn xị và chỉ huy các bạn cùng chơi. Cô giở thói đó với tôi, nhưng tôi không chịu để cô bợp tai, sai bảo và tôi bảo cho cô biết vậy. Cụ Earnshaw thì không hiểu những câu đùa vui của các con, bao giờ cụ cũng chặt chẽ và nghiêm nghị với họ; về phần Catherine, cô không hiểu tại sao cha mình trong điều kiện ốm đau lại đâm cáu kỉnh hơn và kém kiên nhẫn hơn thời còn khỏe. Những lời quở mắng, gắt gỏng của cụ đánh thức ở cô một cái thú ranh ma muốn khiêu khích cụ. Cô ta không bao giờ sung sướng bằng khi tất cả chúng tôi cùng một lúc rầy la cô, còn cô thì thách thức chúng tôi bằng cái nhìn táo tợn, ngược ngạo và những câu đối đáp nhanh, biến những lời rủa nguyền theo giọng đạo của Joseph thành lố bịch, quấy nhiễu tôi và làm cái điều cha cô ghét nhất – chứng minh chính thái độ hỗn xược giả đò của cô, mà cụ tưởng là thật, lại có uy lực đối với Heathcliff mạnh mẽ hơn sự ân cần của cụ như thế nào, thằng bé làm theo lệnh cô trong bất kỳ việc gì, và chỉ theo lệnh cụ khi thấy phù hợp với ý thích của bản thân nó. Sau khi thả sức quấy phá suốt ngày, tối đến, đôi khi cô tới vuốt ve làm lành với cha. “Này, Cathy”, lúc ấy ông già thường nói, “tao không yêu mày được, mày lại còn tệ hơn cả thằng anh mày. Đi cầu kinh đi con, và hãy xin Chúa tha tội. Tao chắc mẹ mày và tao phải hối hận là đã nuôi nấng mày!” Những lời ấy mới đầu còn làm cô khóc; nhưng rồi, bị cự liên tục, đâm chai dạn, cô chỉ cười lớn mỗi khi tôi bảo cô xin lỗi. Nhưng cuối cùng, cũng tới giờ phút chấm dứt những ưu phiền của cụ Earnshaw trên trái đất. Cụ chết lặng lẽ vào một tối tháng 10, trong khi ngồi trên ghế bên lò sưởi. Một cơn gió mạnh lồng lộn quanh chính sảnh và gào rú trong ống khói; nghe man rợ và hãi hùng, nhưng không rét. Chúng tôi tụ tập tất cả bên nhau – tôi ngồi hơi xa lò sưởi cắm cúi đan, và Joseph đọc Kinh Thánh ngay gần bàn (vì dạo ấy, các gia nhân thường ngồi cả trong chính sảnh, sau khi làm xong công việc). Cô Cathy mới ốm dậy và do đó chịu ngồi im; cô tựa vào đầu gối cha và Heathcliff nằm dưới sàn, gối đầu vào lòng cô. Tôi nhớ là cha cô, trước khi ngủ thiếp đi, còn vuốt mái tóc đẹp của cô – hiếm khi cụ hài lòng được thấy cô hiền dịu – và nói: “Tại sao con không thể luôn luôn là một cô gái ngoan, hở Cathy?” Và cô ngửa mặt lên nhìn vào mặt cụ, cười đáp: “Tại sao cha không thể luôn luôn là một đàn ông ngoan, hả cha!” Nhưng vừa thấy cụ lại có vẻ phật ý, cô liền hôn tay cụ và hứa sẽ hát ru cụ ngủ. Cô bắt đầu hát rất nhỏ, cho đến khi tay cụ rời khỏi tay cô, thõng xuống và đầu gục xuống ngực. Lúc ấy, tôi bèn bảo cô im tiếng và đừng động đậy, sợ làm cụ thức giấc. Tất cả chúng tôi câm như hến cả nửa tiếng đồng hồ và hẳn còn tiếp tục im lặng lâu hơn nữa, có điều là Joseph đọc xong chương sách trong Kinh Thánh bèn đứng dậy bảo là phải đánh thức cụ chủ dậy cầu kinh rồi đi về giường ngủ. Lão bước tới, gọi tên và sờ vào vai cụ chủ nhưng thấy cụ không động cựa, lão bèn cầm lấy cây nến, nhìn vào mặt cụ. Tôi nghĩ là có điều không ổn vì lão đặt nến xuống và nắm lấy bọn trẻ, mỗi đứa một cánh tay thì thầm bảo chúng “nên gác và đừng có nàm ồn – tối lay, bọn chúng có thể đọc kinh một mình – não còn phải nàm cái lày”. “Trước hết, tôi còn phải chúc cha ngủ ngon cái đã”, Catherine vừa nói vừa quàng tay ôm cổ ông cụ trước khi chúng tôi kịp ngăn lại. Cô bé tội nghiệp lập tức phát hiện ra tổn thất của mình; cô thét lên: “Ôi, cha chết rồi! Heathcliff! Cha chết rồi!” Và cả hai òa lên khóc nghe đến nát lòng. Tôi cũng hờ theo, ầm ĩ và thảm thiết; thế nhưng Joseph bèn hỏi chúng tôi nghĩ thế nào mà lại gào lên như vậy vì nỗi vị thánh về trời. Lão bảo tôi khoác áo choàng chạy đến Gimmerton gọi bác sĩ và cha xứ. Lúc ấy, tôi không đoán được hai người có thể giúp ích gì. Tuy nhiên, tôi vẫn đội mưa gió đi và đưa một người, ông bác sỹ cùng về; còn người kia bảo sáng mai sẽ tới. Để mặc Joseph kể lể đầu đuôi, tôi chạy lên phòng trẻ. Cửa phòng hé mở, tôi thấy chúng vẫn không chịu nằm mặc dầu đã quá nửa đêm; nhưng chúng đã bình tĩnh hơn và không cần tôi vỗ về nữa. Những đứa nhỏ đang an ủi nhau bằng những ý hay hơn là tôi có thể nghĩ ra. Không một mục sư nào trên thế giới hình dung ra thiên đường đẹp như chúng tưởng tượng trong câu chuyện ngây thơ của chúng trong khi tôi thổn thức đứng nghe. Tôi không khỏi cầu ước sao cho tất cả chúng tôi sum họp an lành ở đó. C6 ậu Hindley về nhà đưa đám; điều khiến chúng tôi ngỡ ngàng và hàng xóm xôn xao bàn tán, là cậu ta mang về một cô vợ. Cô ta là người như thế nào, sinh ở đâu, cậu không hề cho chúng tôi hay; có lẽ cô không giàu có, cũng chẳng phải con dòng cháu giống gì, nên cậu mới giấu cha chuyện hôn phối này. Cô ta không phải loại người làm cả nhà xáo lộn vì mình. Mọi vật cô trông thấy khi bước qua ngưỡng cửa, hình như đều làm cô thích thú, cũng như mọi tình huống xảy ra quanh cô, trừ việc chuẩn bị tang lễ và sự hiện diện của những người đưa đám. Tôi cho là cô ta nửa ngây nửa dại, bằng vào ứng xử của cô trong khi mọi việc đó được tiến hành; cô ta chạy vào trong phòng của mình và nhắn tôi đến với cô, mặc dầu đáng lẽ lúc đó tôi phải mặc quần áo cho lũ trẻ; cô ngồi đó, run cầm cập, hai tay đan vào nhau, hỏi đi hỏi lại: “Họ đã đi chưa?” Rồi, với một xúc động cuồng loạn, cô ta bắt đầu kể lể là cô thường bị kích động như thế nào nhìn thấy toàn một màu đen; và cô giật bắn người, run lẩy bẩy, và cuối cùng khóc sướt mướt đến khi tôi hỏi có chuyện gì vậy? Thì cô trả lời là không biết; nhưng cô cảm thấy sợ chết biết bao! Tôi nghĩ cô ta cũng như tôi, dễ gì mà chết được. Cô có phần hơi mảnh dẻ, nhưng trẻ măng, da dẻ tươi mát và mắt long lanh sáng như kim cương. Nói cho đúng, tôi có nhận thấy là khi lên cầu thang, cô thở rất gấp, chỉ cần một tiếng động bất thần hết sức nhỏ cũng khiến cô run toàn thân và đôi khi cô ho một cách khó nhọc; nhưng tôi chẳng biết những triệu chứng đó báo điềm gì và không thấy gì thôi thúc mình phải thông cảm với cô ta. Ở đây, ông Lockwood ạ, thường thường chúng tôi không tỏ cảm tình với người lạ, trừ phi họ tỏ cảm tình với chúng tôi trước. Cậu Earnshaw đã thay đổi nhiều trong ba năm vắng nhà. Cậu gầy đi, xanh xao, nói năng và ăn mặc khác hẳn; ngay hôm trở về, cậu đã bảo lão Joseph và tôi từ nay phải rút vào ở bếp sau, để chính sảnh cho cậu. Thực vậy, đáng lẽ cậu đã trải thảm sàn và phủ giấy lên tường một căn buồng nhỏ dự trữ định làm phòng khách nhưng cô vợ tỏ ra thích mê cái sàn trắng, cái lò sưởi lớn rực lửa, bộ đĩa bằng thiếc, cái hòm đồ gốm vùng Delft, Hà Lan, cái cũi chó và cái khoảng rộng để đi đi lại lại quanh nơi họ thường ngồi, đến nỗi cậu thấy việc đó không cần thiết cho sự tiện nghi của vợ, nên từ bỏ ý định. Mợ ta cũng tỏ ra thích thú khi thấy một cô em trong số những người quen mới. Thoạt đầu, mợ trò chuyện huyên thuyên với Catherine, hôn hít cô, đi loanh quanh với cô và cho cô vô khối quà. Nhưng tình cảm thương mến của mợ ta mệt mỏi rất sớm và khi mợ đâm bẳn tính thì Hindley trở nên bạo ngược. Một vài câu từ miệng mợ ta tỏ ra không ưa Heathcliff cũng đủ đánh thức dậy trong cậu mối thù hận cũ đối với thằng bé. Cậu đuổi nó khỏi nhóm bạn bầu với họ, tống nó xuống đám gia nhân, không cho học cha phó nữa và khăng khăng rằng thay vì học Heathcliff cần lao động ngoài trời, buộc nó phải làm cật lực như bất cứ lao công nào khác ở trại. Thoạt đầu, Heathcliff chịu đựng khá tốt sự giáng cấp này và Catherine dạy lại nó những gì cô học được và cùng làm hoặc cùng chơi với nó ở ngoài đồng. Cả hai đều có cơ lớn lên mông muội như những kẻ man rợ. Cậu chủ vốn hoàn toàn không để ý đến việc chúng cư xử ra sao và làm gì, cho nên chúng tránh xa cậu ta. Thậm chí, cậu cũng chẳng ngó ngàng gì đến chuyện chúng đi nhà thờ ngày chủ nhật, mãi mà Joseph và cha phó rầy la sự chểnh mảng của cậu lúc chúng vắng mặt, bấy giờ cậu mới nhớ đến, mà ra lệnh đánh đòn Heathcliff và phạt Catherine nhịn bữa chiều hoặc bữa tối. Nhưng một trong những thú vui chính của chúng là sáng sớm chạy ra đồng hoang và ở đó cả ngày, còn hình phạt sau đó chỉ là trò cười. Tha hồ cho cha phó muốn bắt Catherine học thuộc lòng bao nhiêu chương tùy thích, tha hồ cho Joseph quất Heathcliff đến bại cánh tay, ngay cái phút chúng lại ở bên nhau hoặc chí ít là cái phút chúng nghĩ ra một kế hoạch báo thù tai quái nào đó, là chúng quên hết mọi sự, và hơn một lần, tôi đã khóc thầm khi thấy chúng mỗi ngày một thêm táo tợn mà tôi thì không dám hé răng, e mất nốt chút uy lực tôi còn giữ được đối với hai sinh linh bất kham ấy. Một buổi tối chủ nhật, chúng bị tống cổ ra khỏi phòng khách vì làm ồn hoặc vì một lỗi nhẹ tương tự. Đến giờ đi gọi chúng về ăn tối, tôi không sao tìm thấy chúng đâu. Chúng tôi lùng sục nhà trên, nhà dưới, sân sướng, chuồng bò, chuồng ngựa; chúng biến mất tăm và cuối cùng, Hindley phát khùng bảo chúng tôi then cửa lại, cậu chửi thề cấm không ai được để chúng vào nhà đêm hôm đó. Cả nhà đi ngủ. Riêng tôi, quá bồn chồn không nằm yên được, mở cửa sổ mắt cáo và thò đầu ra ngoài nghe ngóng, mặc dầu trời mưa; tôi nhất quyết để chúng vào nếu chúng quay về, bất chấp lệnh cấm. Một lát, tôi thấy tiếng chân bước trên đường và ánh một ngọn đèn xách thấp thoáng qua cánh cổng. Tôi quàng một chiếc khăn san lên đầu và chạy ra ngăn chúng đừng gõ cửa kẻo cậu Earnshaw thức dậy. Chỉ có độc Heathcliff mà thôi; thấy có một mình nó, tôi giật thót người. - Cô Catherine đâu? Tôi vội vàng kêu lên. – Chắc không có tai nạn gì đấy chứ? - Ở ấp Thrushcross, nó trả lời, và đáng nhẽ tôi cũng đã ở đấy luôn, nhưng họ bất lịch sự không mời tôi ở lại. - Được, rồi cậu sẽ ăn đòn cho mà xem! Tôi nói. Bao giờ người ta tống cổ cậu đi thì cậu mới bằng lòng. Cái quái gì đã đưa đường dẫn lối cho cô, cậu lang thang đến ấp Thrushcross? - Chị Nelly[8], hãy để tôi trút bỏ bộ quần áo ướt này đã, rồi tôi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho chị nghe, nó đáp. Tôi dặn nó cẩn thận đừng có làm cậu chủ thức giấc, và trong khi nó cởi quần áo, còn tôi đợi cho nó xong để tắt nến, nó kể tiếp: Cathy và tôi trốn khỏi nhà giặt quần áo để chơi rông cho thỏa thích, thế rồi thấy ánh đèn ở Ấp, chúng tôi bèn nghĩ mình có thể chỉ đảo đến xem bọn trẻ nhà Linton tối chủ nhật có phải đứng suốt, run rẩy trong góc nhà hay không trong khi bố mẹ chúng ngồi ăn uống, hát cười và sưởi đến rát cả mặt trước đống lửa. Chị có cho là chúng phải thế không? Hay là phải đọc kinh và bị lão gia nhân khảo giáo ký, và bắt học thuộc một lô tên Thánh, nếu trả lời không đúng? - Có lẽ không, tôi đáp. Chúng là những đứa trẻ ngoan, chắc chắn thế, và không đáng phải xử trí như đối với hạnh kiểm xấu của cậu. - Đừng có giở giọng đạo đức giả, chị Nelly, nó nói, rõ tào lao! Chúng tôi chạy từ ánh đèn đến vườn hoa không dừng lại lần nào. Catherine bị bại hoàn toàn trong cuộc đua, vì cô ta đi chân không. Ngày mai chị phải tìm giày cho cô ấy ở trong đầm lầy đấy. Chúng tôi trườn qua một chỗ hàng rào gãy, mò mẫm tới lối đi và đứng trụ trên một bồn hoa dưới cửa sổ phòng khách. Ánh sáng phát ra từ đấy. Họ không khép cánh cửa và rèm chỉ kéo một nửa. Cả hai chúng tôi đều có thể nhìn vào bằng cách đứng trên nền, bám vào gò cửa sổ, và chúng tôi trông thấy – Ôi! Đẹp làm sao! Một nơi lộng lẫy trải thảm đỏ thắm, những bàn ghế phủ vải đỏ thắm, một cái trần nhà trắng tinh viền băng vàng, những giọt thủy tinh rủ xuống như mưa thành những dây chuyền bạc từ chính giữa và lung linh ánh nến êm dịu. Ông bà Linton không có ở đó, Edgar và em gái nó hoàn toàn làm chủ. Chúng nó có sướng không cơ chứ? Vào địa vị ấy, chắc chúng tôi sẽ nghĩ mình đang ở trên thiên đường. Và bây giờ chị thử đoán xem những đứa trẻ ngoan của chị lúc ấy đang làm gì? Isabella – tôi cho là nó mười một, kém Cathy một tuổi – nằm la hét ở đầu đằng kia phòng, tru tréo như đang bị những mụ phù thủy chích kim nung đỏ vào người, Edgar đứng trên nền lò sưởi lặng lẽ khóc, và ngồi giữa bàn là một con chó nhỏ, chân run rẩy, kêu ăng ẳng. Qua những lời chúng kết tội lẫn nhau, chúng tôi hiểu rằng chúng đã giành nhau, suýt xé đôi con vật. Đồ ngốc! Thú vui của chúng là thế đấy: giành nhau xem đứa nào giữ được một mớ lông ấm, rồi mỗi đứa bắt đầu khóc, vì cả hai, sau khi giằng co tranh cướp đều không chịu lấy cái của nợ ấy. Chúng tôi cười thẳng vào mặt những cái đồ được nuông chiều ấy; chúng tôi thực sự coi khinh bọn nó! Liệu chị có bắt được tôi muốn đoạt lấy cái gì Catherine thích không? Hoặc thấy riêng độc trọi hai đứa tôi tìm thú tiêu khiển trong việc gào thét và khóc nức nở, và lăn lộn trên mặt đất, mỗi đứa nằm tít tận một đầu phòng? Có cho tôi một nghìn cuộc đời tôi cũng chả đổi thân phận tôi ở đây lấy thân phận của Edgar ở ấp Thrushcross – dù có cho tôi cái đặc quyền ném lão Joseph từ trên đầu hồi nhà cao nhất xuống và quét mặt trước nhà bằng máu của Hindley, cũng không. - Im đi, im đi nào! Tôi ngắt lời. Heathcliff, cậu vẫn chưa kể cho tôi hay làm sao cậu lại để Catherine ở lại. - Tôi đã nói với chị là chúng tôi đã phá lên cười mà, nó trả lời. Bọn trẻ nhà Linton nghe tiếng chúng tôi và nhất tề lao như tên bắn ra cửa. Im lặng một lát rồi một tiếng kêu: “Ôi, má, má! Ôi má lại đây! Ôi, ba ôi!” Quả thật chúng đã rú lên những gì đại loại như thế. Chúng tôi bèn làm những tiếng động kinh khủng để khiến chúng hoảng sợ hơn nữa, rồi buông thành cửa sổ vì có người kéo then chắn và chúng tôi cảm thấy nên chuồn là hơn. Tôi nắm tay Cathy và đang giục chạy cho nhanh thì bỗng nhiên cô ngã xuống. “Chạy đi, Heathcliff, chạy đi!” cô thì thào. “Họ đã thả con chó bò[9], nó vớ được tớ!” Con quỷ ấy đã ngoạm mắt cá chân Cathy chị Nelly ạ! Tôi nghe tiếng khịt gớm chết của nó. Cô không la hét – không! Dù có bị một con bò điên húc thủng bụng, cô cũng chả thèm kêu đâu. Thế nhưng tôi thì lại kêu! Tôi xổ ra những lời nguyền rủa đủ độc địa để diệt bất cứ ma quỷ nào; và tôi vớ được một hòn đá, ấn vào giữa hai hàm con chó và lấy hết sức mạnh cố tọng vào cổ họng nó. Cuối cùng, một tên đầy tớ khốn kiếp xách đèn chạy tới thét: “Giữ cho chặt. Skulker, giữ cho chặt!” Thế nhưng, gã thay đổi thái độ khi trông thấy con mồi của Skulker. Con chó bị nghẹt, cái lưỡi đỏ tía to tướng thè lè ra khỏi miệng đến gần một gang tay và cặp môi thưỡi xuống ròng ròng dãi lẫn máu. Gã kia nhấc Cathy dậy. Cô nôn ọe, không phải vì sợ, tôi chắc chắn thế mà vì đau. Gã mang cô vào nhà; tôi đi theo, làu bàu rủa và dọa trả thù. “Bắt được cái gì, Robert?” từ cửa vào, Linton hỏi to. “Thưa ông, Skulker vớ được một con bé”, gã trả lời; “còn có một thằng bé nữa đây”, gã nói thêm, túm lấy tôi. “Nom nó có vẻ sừng sỏ đấy! Rất có thể, bọn trộm đã định tuồn chúng qua cửa sổ để mở các cửa lớn cho cả bọn vào sau khi mọi người ngủ, nhằm tha hồ tàn sát chúng ta. Im cái mồm, thằng ăn cắp nói năng tục tĩu! Mày sẽ bị treo cổ vì tội này. Ông Linton, xin ông đừng buông súng”. “Không, không Robert”, lão già ngu ngốc nói. “Bọn bất lương biết hôm qua là ngày ta thu tiền thuê đất thuê nhà, chúng đã tính chuyện lột ta ngon lành. Vào đây, ta sẽ tiếp chúng một chầu. Kìa John, chằng xích đóng chặt cửa lại. Cho con Skulker ít nước, Jenny. Dám thách thức một ông quan tòa ngay trong pháo đài của ông ta, lại vào dịp lễ Sabbath nữa, ghê thật! Không biết chúng còn hỗn láo đến đâu nữa mới thôi? Ồ, Mary thân yêu, nhìn này! Đừng sợ, đó chỉ là một thằng bé thôi – tuy nhiên mặt nó hằm hằm, rành là hung ác. Đem treo cổ nó tức thì trước khi bản chất nó kịp biểu hiện thành hành động cũng như trên diện mạo, khéo mà lại ích quốc lợi dân cơ đấy!” Ông ta kéo tôi ra dưới chùm đèn treo và bà Linton đặt mục kỉnh lên sống mũi và giơ tay lên kinh hãi. Hai đứa trẻ hèn nhát cũng mon men bò lại gần hơn. Isabella lắp bắp: “Cái đồ gớm ghiếc! Cho nó vào hầm rượu đi, ba. Nó giống hệt cái thằng con trai lão thầy bói đã ăn cắp con trĩ của con, phải không, Edgar?” Trong khi bọn họ xem xét tôi, Cathy tiến đến; cô nghe những câu vừa rồi và cười lớn, Edgar Linton, sau một cái nhìn soi mói đã đủ tinh tường để nhận ra cô. Bọn nó đã thấy chúng tôi ở nhà thờ, chị biết đấy, tuy chúng tôi ít khi gặp chúng ở chỗ khác. “Đây là cô Earnshaw! Nó thì thầm với mẹ, và má nhìn xem con Skulker đã cắn cô ta như thế nào kìa – chân cô ta chảy máu dữ quá!” “Cô Earnshaw? Tầm bậy!” bà ta kêu lên. “Cô Earnshaw mà tại đi rông với một tên di-gan! Ờ, mà con thân yêu, cô bé có để tang đây này… Thôi chắc chắn là đúng rồi… Khéo cô bé thành tật suốt đời mất!” “Sự bất cẩn của anh trai cô ta thật đáng tội!” ông Linton thốt lên, quay ngoắt từ tôi sang Catherine. “Tôi nghe Shielders” (tức là cha phó, thưa ông) “nói rằng cậu ta để mặc em gái lớn lên trong sự vô đạo hoàn toàn. Nhưng còn đây là ai? Cô ấy đã vớ được thằng bạn này ở đâu vậy? Úi chà chà! Tôi dám chắc nó là cái của lạ ông bạn láng giềng quá cố của tôi đã rước về, trong chuyến đi Liverpool đây – một thằng nhóc Ấn Độ, hay một thằng bé Mỹ hoặc Tây Ban Nha bị bỏ rơi!” “Dù sao đi nữa thì cũng là một thằng nhỏ hung dữ”, bà già nhận xét, “và hoàn toàn không thích hợp với một nhà tử tế! Mình có để ý lời ăn tiếng nói của nó không, Linton? Em đau buồn vì các con mình đã nghe thấy những lời đó”. Tôi lại bắt đầu văng tục – đừng có cáu, chị Nelly – thế là họ bèn sai Robert đem tôi đi khỏi. Tôi không chịu đi nếu không có Cathy. Gã lôi xềnh xệch tôi ra vườn, giúi chiếc đèn xách vào tay tôi, đe là thể nào cậu Earnshaw cũng sẽ được bảo cho biết về hành vi của tôi và, sau khi bảo tôi xéo thẳng, đóng cửa cài then lại cẩn thận. Rèm cửa sổ vẫn còn vén lên ở một góc, và tôi trở lại chỗ cũ dò xét; bởi vì, nếu Catherine muốn về, tôi định bụng sẽ đập tan những ô kính lớn của họ ra làm triệu mảnh, trừ phi họ để cô ra khỏi nhà. Cô lặng lẽ ngồi trên một cái xô-pha. Bà Linton tháo giúp cô chiếc áo choàng của chị hàng sữa mà chúng tôi mượn lén để đi chơi, lắc đầu và nhẹ nhàng quở trách cô, là tôi đoán thế. Cô là một tiểu thư và họ phân biệt đối xử giữa cô và tôi. Rồi người đầy tớ gái mang một chậu nước nóng vào rửa chân cho cô, ông Linton hòa nước nóng vắt chanh và rượu vang vào trong một cái cốc; và Isabella trút cả một đĩa bánh ga tô vào lòng cô, Edgar thì đứng há hốc mồm cách đó một quãng. Sau đó họ hong khô và chải bộ tóc đẹp của cô và đưa cô một đôi dép lê to tướng, đặt cô lên ghế có bánh xe đẩy đến bên đống lửa sưởi. Tôi để cô lại trong trạng thái hết sức vui vẻ, cô chia suất ăn của mình cho con chó nhỏ và con Skulker, trong khi con này ăn, cô bẹo mũi nó. Cô nhóm lên một tia lửa tinh thần trong những cặp mắt xanh vô hồn của bọn trẻ Linton – đó là một ánh mờ phản quang từ bộ mặt mê hồn của cô. Tôi thấy chúng đầy vẻ ngưỡng mộ ngu xuẩn; cô hơn bọn nó một trời một vực – hơn tất cả mọi người trên trái đất, phải không, chị Nelly? - Chuyện này sẽ có nhiều hậu quả hơn cậu tưởng, tôi đáp, đắp chăn cho nó và tắt nến. Cậu thật bất trị, Heathcliff ạ; cậu Hindley sẽ phải đi đến cực kỳ khắc nghiệt cho mà xem. Tiên đoán của tôi hóa ra lại đúng hơn tôi mong muốn… Cuộc phiêu lưu không may ấy làm Earnshaw nổi khùng. Và rồi, để vá víu mọi sự, hôm sau, ông Linton thân hành sang thăm chúng tôi; và lên lớp cho cậu chủ chúng tôi một bài học về việc điều khiển gia đình, khuyên cậu ta nhúc nhắc lên mà lo việc nhà cho nghiêm chỉnh. Heathcliff không ăn trận đòn nào, nhưng bị cảnh cáo rằng hễ còn mở mồm nói với cô Catherine là sẽ bị đuổi dứt khoát, còn mợ Earnshaw cam đoan sẽ kiềm chế đúng mức em chồng khi cô trở về nhà, bằng sự khéo léo, chứ không bằng vũ lực, mợ ta biết là không thể dùng vũ lực được. C7 athy ở lại ấp Thrushcross năm tuần, cho đến lễ Giáng Sinh. Lúc này, mắt cá chân cô đã lành hẳn và cách cư xử của cô đã tiến bộ nhiều. Mợ chủ chúng tôi, trong thời gian đó, sang thăm cô luôn và bắt đầu kế hoạch cải tạo của mình bằng cách dùng quần áo đẹp và phỉnh nịnh (mà cô sẵn sàng nhận), nhằm cố gắng nâng cao lòng tự trọng của cô; thành thử, thay vì một cô bé hoang dã bạt mạng, đầu không mũ mãng, nhảy bổ vào nhà và lao tới hổn hển ôm chầm lấy tất cả chúng tôi, thì kìa, từ trên mình một con ngựa ô nhỏ, đẹp, bước xuống một con người rất đĩnh đạc, với những lọn tóc nâu xõa xuống từ một chiếc mũ hải ly cắm lông chim, mặc một bộ đồ nữ kỵ sỹ lượt thượt mà cô phải kéo lên bằng tay mới có thể đi vào nhà được. Hindley đỡ cô xuống ngựa, sung sướng kêu lên: - Chà Cathy, em là một giai nhân thực sự rồi! Anh suýt không nhận ra em đấy; nom em bây giờ như một công nương. Isabella Linton không thể so với em nó, phải không Frances? - Isabella không có những ưu điểm tự nhiên của Cathy, cô vợ trả lời, nhưng về đây, cô ấy phải chú ý, đừng có trở lại hoang dã như trước nữa. Ellen, giúp cô Catherine cởi bớt đồ ra đi – khoan, em thân yêu, khéo làm xổ những lọn tóc, để chị tháo quai mũ ra đã. Tôi cởi bộ đồ nữ kỵ sĩ và kìa, lấp lánh bên trong là một chiếc áo dài lụa sọc vuông sang trọng, quần trắng bốp, giày bóng loáng. Và tuy mắt cô ánh lên vui thích khi lũ chó nhảy tới mừng, Cathy hầu như không dám sờ vào chúng, sợ chúng xun xoe bám vào y phục lộng lẫy của mình. Cô khẽ hôn tôi – người tôi trắng xóa toàn bột vì đang làm bánh Nôen, nếu ôm ghì tôi thì chả hay ho gì; rồi cô nhìn quanh tìm Heathcliff. Cậu mợ Earnshaw hồi hộp theo dõi cuộc gặp mặt, thầm nghĩ nó sẽ cho phép họ có thể, trong chừng mực nào, nhận định xem có cơ sở gì để hy vọng ly gián được đôi bạn. Mới đầu, thật khó mà tìm thấy Heathcliff. Nếu như trước khi Catherine vắng nhà, nó đã bừa bãi không chịu tự chăm sóc và không được ai chăm sóc, thì từ đó đến nay, nó lại càng tệ gấp mười thế. Ngoài tôi ra, không ai thậm chí đủ hảo tâm để nhắc nó tắm rửa mỗi tuần một lần cho đỡ bẩn; trẻ con vào tuổi nó thì chả mấy khi tự nhiên lại thích xà phòng và nước. Do đó, chưa kể đến quần áo đã ba tháng dầm bùn và bụi cùng mớ tóc dày bù xù không chải, mặt mũi và tay nó đều lem luốc dễ sợ. Rất có thể nó lẩn sau chiếc ghế từ khi trông thấy một cô tiểu thư duyên dáng, rạng rỡ như vậy bước vào nhà thay vì một đứa đầu bù tóc rối thuộc loại nó như nó chờ đợi. “Heathcliff có ở đây không?” cô hỏi, rút găng và phô ra những ngón tay trắng muốt do ở lì trong nhà không đụng đến việc gì. “Heathcliff, mày có thể tiến ra được đấy”, cậu Hindley nói to, khoái trá về sự lúng túng của nó và hài lòng thấy nó buộc phải trình diện với dáng vẻ một thằng bé mạt hạng gớm guốc như thế. “Mày có thể đến chúc mừng cô Catherine như những gia nhân khác”. Cathy vừa thoáng thấy bạn mình ở chỗ nó nấp, liền chạy bay tới ôm chầm lấy nó; trong một giây đồng hồ, cô hôn lên má nó bảy, tám cái, rồi dừng lại và lùi ra, cười phá lên: “Chà, nom đằng ấy mới đen và cau có làm sao! Và mới… mới ngộ dữ dội làm sao chứ! Nhưng đó là tại vì tớ quen thấy Edgar và Isabella Linton đấy mà. Này, Heathcliff, đằng ấy quên tớ rồi sao?” Cô đặt câu hỏi đó là cũng có lý do, sự xấu hổ cùng lòng tự ái làm vẻ mặt Heathcliff càng u ám gấp đôi và khiến nó im sững. - Bắt tay đi, Heathcliff, cậu Earnshaw nói với vẻ chiếu cố, thỉnh thoảng mày cũng được phép thế. - Tôi không bắt, thằng bé đáp, cuối cùng đã mở được miệng. Tôi không chịu để người ta cười tôi. Tôi không chịu thế đâu! Và nó đã toan băng ra khỏi vòng người, nhưng cô Cathy lại túm lấy nó. - Tớ không định bụng cười đằng ấy đâu, cô nói. Tớ không tự ghìm nổi mình đấy thôi mà. Heathcliff, chí ít cũng bắt tay cái đã nào! Đằng ấy giận dỗi cái gì? Chỉ tại trông đằng ấy kỳ kỳ là. Nếu đằng ấy rửa mặt và chải đầu thì sẽ tươm cả thôi. Mà sao đằng ấy bẩn thế? Cô lo ngại nhìn đăm đăm vào những ngón tay đen đủi nằm trong tay mình, đồng thời nhìn cả vào chiếc áo dài mà cô sợ chẳng đẹp đẽ gì thêm qua chà xát với quần áo nó khi cô ôm chầm lấy nó ban nãy. - Thì bận gì cô phải chạm vào người tôi, nó đáp, nhìn theo luồng mắt của cô và giựt tay ra. Tôi cứ để bẩn thật lực theo như tôi muốn. Tôi thích bẩn và tôi sẽ bẩn. Nói rồi, nó cắm đầu lao ra khỏi phòng giữa sự vui thích của cậu mợ chủ khiến Catherine bối rối thật sự; cô không thể hiểu nổi làm sao những nhận xét của mình lại làm bùng ra một cơn cáu giận như thế. Sau khi xong nhiệm vụ hầu gái cho cô bé mới trở về, cho bánh vào lò và làm vui nhà bếp bằng những đống lửa lớn, phù hợp với không khí đêm Nôen, tôi sửa soạn ngồi xuống, tự tiêu khiển bằng cách hát những khúc carol[10] một mình, bất chấp những lời của Joseph cả quyết rằng lão coi những làn điệu vui vẻ tôi chọn là gần giống như ca khúc. Lão đã rút về phòng để cầu nguyện riêng, và cậu mợ Earnshaw đang phô với cô em những đồ vật linh tinh vui mắt định dành cho cô làm quà tặng bọn trẻ nhà Linton, gọi là cảm ơn lòng tốt của họ. Cậu mợ đã mời hai đứa đến Đồi Gió Hú chơi cả ngày hôm sau và bên ấy đã nhận lời với một điều kiện là bà Linton yêu cầu giữ gìn thận trọng, đừng để những cục cưng của bà lại gần cái “thằng bé hư đốn hay chửi thề” ấy. Trong hoàn cảnh ấy, tôi còn lại độc một mình. Tôi ngửi cái mùi ngào ngạt của gia vị đang nóng lên và ngắm nghía những đồ dùng làm bếp sáng loáng, cái đồng hồ bóng lộn trong khung gỗ ô-rôn, những cốc bạc xếp trên một cái khay sẵn sàng để được rót đầy rượu bia hâm cho bữa ăn tối, và nhất là công trình tinh khôi không chút bụi bặm, kết quả sự chăm chút đặc biệt của tôi – quét tước sạch bong. Tôi thầm khen mọi vật một cách thích đáng, rồi nhớ dạo xưa cụ Earnshaw thường hay bước vào khi mọi cái đã được dọn dẹp tinh tươm, cụ gọi tôi là một cô gái linh hoạt, và giúi vào tay tôi một đồng silinh gọi là tiền thưởng Nôen. Từ đó, tôi tiếp tục nghĩ lại thuở sinh thời cụ rất cưng Heathcliff và chỉ sợ là nó sẽ bị bỏ mặc sau khi cụ chết; điều ấy đương nhiên dẫn tôi đến chỗ suy ngẫm về tình cảnh hiện tại của thằng bé tội nghiệp, thế là đang hát tôi chuyển sang khóc. Tuy nhiên, liền đó tôi chợt nghĩ giá có làm sao bù đắp một số thua thiệt của nó thì còn nghĩa lý hơn là bãi nước mắt thương hại. Tôi đứng dậy, đi ra sân tìm Heathcliff. Nó không đâu xa, tôi thấy nó đang vuốt mượt bộ lông óng ánh của con ngựa non mới đẻ trong chuồng và cho những con khác ăn theo thường lệ. - Làm mau đi, Heathcliff! Tôi nói, nhà bếp rất ấm cúng dễ chịu và Joseph đang ở trên gác; mau lên, để chị mặc cho em thật bảnh trước khi cô Cathy ra, rồi các em có thể ngồi với nhau một mình chiếm cả lò sưởi và chuyện trò thật lâu đến khi đi ngủ. Nó cứ tiếp tục công việc, không buồn quay đầu về phía tôi. - Lại đây… em có lại không? Tôi nói tiếp. Có bánh ga tô nhỏ, mỗi em được một cái đấy, cũng tạm đủ; và em cần nửa tiếng để mặc quần áo. Đợi năm phút, không thấy nó trả lời, tôi bèn bỏ đi. Catherine ăn tối với anh trai và chị dâu; Joseph và tôi chia nhau một bữa ăn bất hòa, lấy cãi vã làm gia vị, bên thì cằn cặt nhiếc mắng, bên thì ngược ngạo vặc lại. Bánh ga tô và phó mát của Heathcliff còn lại trên bàn suốt đêm cho tiên cho quỷ. Nó loay hoay tiếp tục làm việc đến tận chín giờ, rồi lầm lầm lũi lũi đi về phòng. Cathy thức đến khuya, cô mình có hàng đống việc phải xếp đặt để tiếp đón những người bạn mới. Cô vào bếp một lần, định nói chuyện với cậu bạn cũ, nhưng nó đi đâu mất rồi, nên cô chỉ dừng lại hỏi xem nó có điều gì khúc mắc rồi trở về phòng riêng. Sáng ra, nó dậy sớm; và vì đó là ngày nghỉ, nó mang cái tâm trạng bực bội của mình ra chốn đồng hoang, mãi đến khi gia đình bắt đầu đi lễ nhà thờ mới xuất hiện trở lại. Dường như nhịn ăn và suy nghĩ đã khiến nó phấn chấn hơn. Nó xun xoe quanh tôi một lúc rồi thu hết can đảm, đột ngột thốt ra: - Chị Nelly, chị hãy làm cho tôi nom chỉnh tề, tôi sắp ngoan rồi. - Đã đến lúc rồi đấy, Heathcliff ạ, tôi nói – cậu đã làm Catherine buồn; tôi dám chắc cô ấy đang ân hận là đã về nhà! Coi bộ như cậu ghen tị vì thấy cô ấy được trọng thị hơn mình. Nó không tiếp thu được cái khái niệm ghen tị với Catherine, nhưng cái hàm ý làm cho cô buồn thì nó hiểu khá rõ. - Cô ấy có bảo là cô ấy buồn không? Nó hỏi, vẻ rất nghiêm trang. - Cô ấy đã khóc khi tôi nói là sáng nay cậu lại biến mất. - Này, đêm qua, tôi đã khóc, nó đáp, và tôi có lý do để khóc hơn cô ấy. - Phải, cậu có lý do để đi ngủ với một trái tim kiêu điệu và một cái bụng rỗng, tôi nói. Những người kiêu kỳ thường nuôi đau buồn cho chính mình. Nhưng nếu cậu thấy xấu hổ vì cái thói hay động lòng thì khi cô ấy về, cậu nhớ phải xin lỗi nghe. Cậu phải đi tới và đề nghị được hôn và nói là… mà cậu biết hơn ai hết phải nói gì rồi đấy; có điều là phải nhiệt tâm, chứ đừng làm như thể cậu nghĩ là cô ấy đã thành người xa lạ vì cái áo dài lộng lẫy. Bây giờ, mặc dầu chị bận làm bữa trưa, chị vẫn ăn bớt thời gian soạn sửa cho em, làm sao để Edgar Linton nom sẽ hệt như một con búp bê bên cạnh em, mà quả nó thế thật. Em nhỏ tuổi hơn, nhưng chị cam đoan là em cao hơn và rộng vai gấp đôi nó. Em có thể đánh ngã nó trong nháy mắt, em có cảm thấy thế không nào? Mặt Heathcliff sáng lên một lúc rồi lại sầm xuống, và nó thở dài. - Nhưng chị Nelly ạ, nếu em có đánh ngã nó đến hai mươi lần thì cũng chả làm cho nó kém đẹp trai hoặc làm em đẹp thêm lên chút nào. Em ước sao mình có bộ tóc sáng, nước da trắng, ăn mặc đi đứng chững chạc và có cơ sau này cũng giàu như nó! - Và chốc chốc lại khóc gọi mẹ, tôi thêm vào, và run lên khi một gã trai làng giơ nắm đấm dọa, và ngồi ru rú ở nhà cả ngày vì một trận mưa rào. Ôi! Heathcliff, cậu đang phô bày một tinh thần thật xoàng xĩnh! Lại mà soi gương này, tôi sẽ chỉ cho cậu thấy điều cậu nên mong ước. Cậu có nhận thấy hai cái nét này ở giữa hai mắt cậu và cặp lông mày rậm kia đáng lẽ uốn cong lên thì lại võng xuống ở giữa; và hai cái thằng quỷ đen kia ẩn sâu thế, chả bao giờ mạnh dạn mở cửa sổ đàng hoàng mà cứ nhấp nháy thậm thụt bên dưới như cái đồ gián điệp của Satan ấy? Hãy mong ước và học cách là cho phẳng lì những nếp nhăn cau có, ngước cặp mí mắt lên một cách thẳng thắn, biến những con quỷ kia thành những thiên thần ngây thơ, đầy lòng tin cậy, không ngờ vực, hoài nghi gì, và luôn luôn nhìn thấy bạn nơi không chắc là có thù. Đừng mang cái vẻ của một con chó dữ biết là mình đáng bị đá, song lại căm ghét cả thế gian cũng như người đá mình, vì nỗi mình bị đau. - Nói cách khác là tôi phải mong ước có đôi mắt to, xanh và vầng trán phẳng của Edgar, nó đáp. Tôi có mong ước thế thật… nhưng có mong cũng chả được. - Một tấm lòng tốt sẽ giúp cậu có một bộ mặt đẹp cho dù cậu có là người da đen thực thụ, cậu em ạ, tôi nói tiếp, nhưng một trái tim độc ác sẽ biến bộ mặt đẹp thật trở thành một cái gì còn tệ hơn là xấu xí. Và bây giờ, rửa ráy, chải chuốt và dằn dỗi xong rồi – cậu hãy nói cho tôi xem cậu có nghĩ là mình cũng khá đẹp trai không nào? Tôi nói cho cậu biết, tôi thấy thế đó. Cậu có vẻ như một hoàng tử cải trang ấy. Biết đâu cha cậu chả là Hoàng đế Trung Hoa và mẹ cậu là Hoàng hậu Ấn Độ, mỗi người bỏ thu nhập một tuần ra cũng đủ tậu cả Đồi Gió Hú lẫn ấp Thrushcross? Và cậu đã bị bọn thủy thủ hiểm ác bắt cóc đem về Anh. Ở địa vị cậu tôi sẽ hình dung mình là dòng dõi cao quý và những ý nghĩ về gốc gác của mình sẽ cho tôi can đảm và phẩm cách để chịu đựng những áp bức của một nông gia quèn. Cứ thế tôi liến láu, và Heathcliff mất dần nét cau có. Nó đã bắt đầu có vẻ hoàn toàn thích thú thì đột nhiên cuộc trò chuyện của chúng tôi bị cắt ngang bởi một tiếng lọc cọc từ mé dưới đường đi lên và vào sân. Nó chạy ra chỗ cửa sổ, còn tôi thì ra chỗ cửa lớn, vừa kịp trông thấy hai anh em nhà Linton từ chiếc xe nhà bước xuống, trùm kín trong áo choàng, khăn lông thú, và anh em Earnshaw cũng xuống ngựa – mùa đông, họ thường cưỡi ngựa đi lễ nhà thờ. Catherine dắt mỗi đứa một tay đưa vào nhà và đặt chúng ngồi trước đống lửa. Hơi ấm khiến bộ mặt trắng nhợt của chúng mau chóng hồng hào lên. Tôi giục cậu bạn tôi mau ra tỏ bày thái độ hòa nhã của mình, và nó vui vẻ nghe theo; nhưng rủi thay, khi nó mở cửa bên phải nhà bếp thì Hindley cũng mở cửa phía bên kia. Hai người gặp nhau, cậu chủ bực mình vì thấy nó sạch sẽ, vui tươi, hoặc có lẽ do sốt sắng muốn giữ lời hứa với bà Linton, bèn đẩy nó vào bằng một cái giúi mạnh đột ngột và giận dữ ra lệnh cho Joseph “giữ cái thằng này ở ngoài phòng – tống nó lên gác xép cho đến khi xong bữa trưa. Nếu để nó một mình trong giây phút với đồ tráng miệng, nó sẽ vọc tay vào bánh và ăn cắp hoa quả đấy”. - Này, thưa cậu chủ, tôi không đừng được, trả lời, cậu ấy sẽ không đụng vào cái gì đâu, chắc chắn vậy; với lại, tôi thiết tưởng cậu ấy cũng phải có phần trong những món ăn ngon lành như chúng ta chứ. - Nó sẽ hưởng phần bàn tay này nếu tôi bắt được nó dưới nhà trước khi trời tối. Hindley nói to. Xéo đi, đồ ma cà bông! Sao, mày định học đòi làm công tử bột đấy à? Hãy đợi đến lúc tao tóm được những lọn tóc tao nhã kia, xem tao có kéo dài thêm tí nữa không. - Thế cũng đã khá dài rồi đấy, cậu Linton nhận xét, từ khung cửa lớn ghé mắt nhòm ra. Không biết tóc tai như vậy có làm nó đau đầu không. Trông như một cái bờm ngựa phủ lên mắt nó ấy. Linton đánh bạo nêu nhận xét ấy, không hề có ý lăng mạ, nhưng bản chất dữ dội của Heathcliff không sẵn sàng chịu đựng chút gì có vẻ ngược ngạo ở một kẻ mà hình như ngay từ bấy giờ nó đã ghét như một tình địch. Nó vớ lấy một cái liễn nước xốt táo nóng (vật đầu tiên trong tầm tay nó) và hắt toẹt vào mặt, vào cổ kẻ vừa nói: cu cậu này lập tức la ầm ĩ khiến Isabella và Catherine hớt hải chạy đến. Cậu Earnshaw liền túm ngay lấy tên thủ phạm, giải đến buồng mình, ở đó chắc cậu cho nó một liều thuốc thô bạo để làm nguội cơn khùng của nó, vì lúc trở ra, cậu đỏ mặt tía tai, thở không ra hơi. Tôi lấy khăn lau bát đĩa và khá bực bội chùi cọ mũi mồm cho Edgar, thầm cho là đáng đời nó, ai bảo xen vào. Em gái nó thì bắt đầu khóc đòi về và Cathy đứng bên, lúng túng đỏ mặt ngượng cho tất cả mọi người. - Đáng lẽ anh không nên nói với cậu ấy làm gì! Cô thân mật trách cậu Linton. Cậu ấy vốn đã cáu kỉnh sẵn, và bây giờ anh đã làm hỏng cuộc đến thăm, còn cậu ấy thì sẽ bị đánh đòn. Tôi không thích cậu ấy bị đòn một tí nào! Tôi không bụng nào mà ăn trưa được nữa. Tại sao anh lại nói với cậu ta, hở Edgar? - Tôi có nói với nó đâu, cu cậu nức nở, buột khỏi tay tôi và lấy chiếc khăn tay bỏ túi bằng vải lanh mịn lau nốt mặt mũi. Tôi đã hứa với má là sẽ không nói lời nào với nó và đã làm đúng như thế. - Thôi, đừng khóc, Cathy đáp, vẻ khinh bỉ, anh có bị giết đâu. Đừng gây thêm chuyện phiền nữa; anh tôi đang đến kia kìa, lặng im nào! Im đi! Isabella! Có ai làm đau cô không nào? - Nào, nào, các em ngồi đi. Hindley nói lớn, tất tưởi bước vào. Cái thằng nhỏ vũ phu ấy làm anh nóng cả người lên. Bận sau, cậu Edgar ạ, hãy nắm luật bằng quả đấm của chính mình – làm vậy, em sẽ ăn ngon miệng. Đám liên hoan nhỏ trở lại thanh thản khi nhìn thấy bữa tiệc thơm ngào ngạt. Họ đã đói bụng sau khi phóng ngựa tới đây và dễ dàng khuây khỏa, bởi lẽ không có gì tai hại thật sự xảy đến với họ. Cậu Earnshaw xắn những phần hào phóng tiếp vào các đĩa, và nữ chủ nhân sôi nổi trò chuyện, làm mọi người vui lên. Tôi đứng hầu bàn đằng sau cái ghế của mợ ấy, và khổ tâm nhìn thấy Catherine mắt ráo hoảnh, vẻ tỉnh bơ, bắt đầu cắt một cái cánh ngỗng trước mặt mình. “Một đứa bé không có tình cảm”, tôi nghĩ thầm. “Nó bỏ rơi những buồn khổ của thằng bạn chơi cũ một cách nhẹ nhàng làm sao. Mình không ngờ nó lại ích kỷ đến thế”. Cô đưa một miếng lên miệng rồi lại đặt xuống, má đỏ bừng lên, nước mắt trào rơi trên má. Cô đánh tuột cái nĩa xuống sàn và vội vàng bổ xuống dưới gầm bàn để giấu nỗi xúc động. Tôi không gọi cô là một đứa bé không có tình cảm nữa; vì tôi nhận thấy cô suốt ngày như trong ngục sám hối, chỉ mong gặp dịp để được một mình hoặc đến thăm Heathcliff bị cậu chủ khóa cửa nhốt ở trên gác – tôi phát hiện thấy thế khi tìm cách tuồn riêng cho nó một mớ thức ăn hẩu lốn. Đến tối, có khiêu vũ, Cathy bèn xin thả nó vì Isabella không có bạn nhảy; những lời cầu khẩn của cô không ăn thua và tôi được chỉ định lấp chỗ trống. Nhảy nhót phấn hứng lên, chúng tôi xua tan được mọi u ám, và sự thích thú của bọn tôi càng tăng khi ban nhạc Gimmerton tới, với tổng số mười lăm người; một tom-pét, một tom bôn, nhiều clarinet, bát-xông, kèn co và một xe-lô, chưa kể các ca sĩ. Mỗi dịp Nôen, họ đi tua tất cả các nhà tử tế khá giả, được thù lao, và nghe họ chơi, bọn tôi xem như được một chầu chiêu đãi hạng nhất. Sau những carol thường lệ, chúng tôi bảo họ chuyển sang chơi ca khúc và những bài ca bốn bè. Mợ Earnshaw thích nhạc, thế là họ cho chúng tôi nghe ê hề. Catherine cũng thích nhạc, nhưng cô bảo đứng trên đầu cầu thang nghe hay nhất và cô đi lên trong bóng tối; tôi liền theo sau. Họ đóng cửa dưới nhà, không để ý thấy sự vắng mặt của chúng tôi, vì phòng đầy những người là người. Cô không dừng lại ở đầu cầu thang mà tiếp tục lên nữa, tới gác xép nơi Heathcliff bị nhốt, và lên tiếng gọi. Hồi lâu, nó một mực không chịu trả lời; cô vẫn kiên trì và cuối cùng dỗ được nó nói chuyện với mình qua vách gỗ. Tôi để cho đôi trẻ tội nghiệp trò chuyện với nhau, không quấy rối, cho đến lúc đồ chừng là các bài hát sắp chấm dứt và các ca sĩ sắp nghỉ để giải khát đôi chút; bấy giờ tôi mới leo lên chiếc thang để báo cho cô. Thay vì thấy cô bên ngoài, tôi nghe thấy tiếng cô ở bên trong. Cái con khỉ con đã chui qua ô cửa mái của gian gác xép kia, và tôi phải khó khăn hết sức mới dỗ được cô trở ra. Heathcliff cùng ra với cô và cô nằng nặc đòi tôi phải đưa nó vào nhà bếp, vì lão gia nhân đồng bạn với tôi đã đi sang một nhà hàng xóm để thoát khỏi âm thanh bài “thánh ca quỷ quái” của chúng tôi, như lão ưng gọi thế. Tôi bảo chúng là tôi không mảy may có ý định khuyến khích những mưu mẹo của chúng, song vì tên tù nhân kia từ bữa chiều qua chưa có tí gì lót dạ, nên tôi nhắm mắt làm ngơ cho nó đánh lừa cậu Hindley một lần này thôi, Nó đi xuống; tôi đặt một cái ghế đẩu cho nó cạnh đống lửa và thết nó một số món ngon lành, nhưng nó nôn nao trong người, chỉ ăn được ít thôi, những cố gắng của tôi nhằm tiếp đãi nó đều bị khước từ. Nó tỳ hai khuỷu tay lên đầu gối, tay đỡ cằm và chìm đắm trong suy tư câm lặng. Tôi hỏi nó nghĩ gì thì nó trả lời nghiêm trang: - Tôi đang cố xác định xem sẽ trả miếng Hindley như thế nào. Tôi bất cần phải chờ bao lâu, miễn là cuối cùng tôi có thể làm được điều ấy. Tôi hy vọng cha ấy đừng chết trước khi tôi trả được hận! - Thật xấu hổ, Heathcliff! Tôi nói. Trừng phạt kẻ ác là việc của Chúa, chúng ta phải học tha thứ. - Không. Chúa sẽ không thỏa ý được thấy tôi tha thứ đâu, nó đáp. Tôi chỉ ước sao biết được cách trả thù tốt nhất thôi! Cứ để mặc tôi, rồi tôi sẽ nghĩ ra mưu kế, trong khi nghĩ đến điều đó, tôi cảm thấy khổ sở. Nhưng, thưa ông Lockwood, tôi quên mất là những chuyện này không mua vui được cho ông. Tôi lấy làm ân hận là sao mình lại rông dài đến mức ấy, để cháo của ông nguội lạnh và ông thì gà gật buồn ngủ rũ ra! Lẽ ra, tất cả những gì ông cần nghe về chuyện của Heathcliff, tôi có thể nói trong dăm, bảy chữ thôi. Tự ngắt câu chuyện của mình như vậy, bà quản gia đứng dậy toan bỏ đồ khâu sang bên, song tôi cảm thấy không thể rời khỏi lò sưởi; mà tôi đâu có ngủ gật. - Ngồi yên, bà Dean, tôi kêu lên, cứ ngồi lại nửa tiếng nữa. Bà kể chuyện thong thả thế là phải. Đó là cái cách tôi thích; và bà nên kể nốt vẫn theo kiểu ấy. Tôi quan tâm đến mọi nhân vật bà đã nhắc tới, ít hoặc nhiều. - Đồng hồ đánh mười một tiếng rồi, thưa ông. - Không thành vấn đề, tôi không quen đi ngủ vào quãng này. Một, hai giờ cũng là sớm chán đối với một người nằm dài đến mười giờ sáng. - Ông không nên nằm đến mười giờ. Phần tốt đẹp nhất của buổi sáng đã qua lâu trước lúc đó. Người nào đến mười giờ mà chưa làm được nửa công việc hàng ngày thì dễ có cơ bỏ dở nửa kia. - Dù sao mặc lòng, bà Dean, bà cũng cứ trở lại ghế đi đã, vì mai tôi định kéo dài đêm đến tận chiều. Tôi tiên đoán chí ít mình cũng cảm hàn dai dẳng. - Tôi hy vọng không phải thế, thưa ông. Thôi được, ông phải cho phép tôi bỏ quãng độ ba năm; trong thời gian đó mợ Earnshaw… - Không, không. Tôi không cho phép điều gì như thế cả! Bà có biết cái tâm trạng khi ta ngồi một mình, trước mặt là mèo mẹ liếm láp mèo con trên thảm, ta theo dõi hoạt động ấy chăm chú đến nỗi chỉ cần mèo mẹ bỏ qua một bên tai là khiến ta đâm bực mình? - Một tâm trạng lười nhác ghê gớm, tôi dám nói vậy. - Trái lại, một tâm trạng hoạt động đến mệt nhoài. Đó là tâm trạng tôi lúc này, và do đó bà cứ tiếp tục kể thật tỷ mỉ đi. Tôi nhận thấy người vùng này so với người tỉnh thành, có cái ưu điểm tương tự như con nhện trong ngục tối làm người tù khuây khỏa hơn là con nhện trong nhà có thể giải sầu cho người nhàn cư ở đó; tuy nhiên, sự hấp dẫn sâu sắc không phải hoàn toàn tùy thuộc tình yêu của người quan sát. Họ quả có sống nghiêm túc hơn, nội tâm hơn và ít hời hợt, phù phiếm bề ngoài hơn. Tôi nghĩ ở đây một tình yêu trọn đời là hầu như khả thế, mà tôi vốn là kẻ một mực không tin có tình yêu nào đậu được lấy một năm. Một đằng, giống như đặt một người đói ngấu trước một món duy nhất, anh ta có thể hoàn toàn tập trung nỗi thèm ăn vào đó và thưởng thức ngon lành; đằng kia là đưa anh ta vào một bàn tiệc do các đầu bếp Pháp bày biện, có lẽ xét chung cả bữa, anh ta cũng có thể khoái như vậy đấy, nhưng tách riêng từng món thì chỉ là một hạt nguyên tử trong sự đánh giá và hồi ức của anh ta mà thôi. - Ờ! Ở đây chúng tôi cũng giống như ở mọi nơi khác thôi, khi ông hiểu chúng tôi hơn, bà Dean nhận xét, hơi bối rối khi thấy tôi nói thế. - Xin lỗi, tôi trả lời chính bà, người bạn tốt của tôi, là một bằng chứng hùng hồn bác bỏ lời khẳng định đó. Trừ một vài nét tỉnh lẻ vặt vãnh, ở bà không có dấu hiệu gì của những cung cách mà tôi thường quen coi là đặc trưng của tầng lớp bà. Tôi chắc chắn bà hay nghĩ ngợi nhiều gấp bội lớp gia nhân nói chung. Bà đã buộc phải vun trồng những năng lực suy tư của mình vì thiếu những cơ hội phí phạm cuộc đời vào những chuyện tầm phào ngu ngốc. Bà Dean cả cười: - Chắc chắn tôi tự đánh giá mình là một loại người vững vàng, biết điều, bà nói, không hẳn là do sống giữa đồi núi và chỉ thấy một loạt bộ mặt, một loạt hành động hết năm này sang năm khác, nhưng tôi đã trải qua kỷ luật khe khắt, điều đó dạy tôi biết khôn ngoan; với lại, tôi đã đọc nhiều hơn ông tưởng, thưa ông Lockwood. Trong cái thư viện này, ông không thể tìm thấy cuốn sách nào mà tôi chưa từng đọc qua, hơn thế nữa, chưa từng rút ra điều bổ ích ở đó, trừ phi nó ở ngăn sách tiếng Hy-La và ngăn tiếng Pháp thôi – đám này thì tôi phân biệt được quyển nọ với quyển kia; đó là mức tối đa mà ông có thể chờ đợi ở con gái một người đàn ông nghèo khổ. Dù sao đi nữa, nếu cần kề cà theo đúng giọng chuyện phiếm thì tốt hơn là tôi cứ kể tiếp, và thay vì nhảy cóc ba năm, tôi sẽ chuyển luôn qua mùa hè năm sau – hè 1778, tức là gần hai mươi ba năm trước đây. V8 ào một buổi sáng đẹp trời tháng sáu, đứa bé xinh xẻo đầu tiên được giao cho tôi nuôi và là người cuối cùng của dòng họ Earnshaw, ra đời. Bọn tôi đang bận dỡ cỏ phơi khô ở một cánh đồng xa thì cô gái thường mang bữa điểm tâm cho chúng tôi chạy ngang qua bãi cỏ và ngược con đường nhỏ, sớm hơn thường lệ tới một tiếng đồng hồ, vừa chạy vừa gọi tôi. - Ôi! Đứa bé mới kháu làm sao chứ! Cô hổn hển. Thằng bé đẹp nhất từng cất tiếng chào đời! Cơ mà ông đốc tờ bảo mợ chủ đi đứt mất thôi; ông ấy bảo mợ bị ho lao từ nhiều tháng nay. Tôi nghe thấy ông ta bảo cậu Hindley thế. Bây giờ không có gì cứu được nữa và mợ ấy sẽ chết trước mùa đông. Chị phải về nhà ngay. Chị phải nuôi nó, Nelly ạ, cho nó ăn sữa với đường và ngày đêm chăm nom nó. Tôi ước gì tôi là chị vì nó sẽ hoàn toàn thuộc về chị khi không còn mợ chủ nữa! - Nhưng mợ ấy ốm nặng lắm à? Tôi hỏi vứt cái cào xuống và thắt chiếc mũ vải. - Tôi chắc thế, nhưng nom mợ ấy thật can đảm, cô gái đáp, vì mợ ấy nói chuyện như thể mợ nghĩ là mình sẽ sống để thấy nó khôn lớn nên người. Mợ vui sướng mê mẩn, nó đẹp thế cơ mà. Nếu tôi là mợ ấy, tôi dám chắc tôi sẽ không chết. Chỉ nhìn nó là sẽ đỡ bệnh, bất chấp ông Kenneth. Tôi cáu ông ấy ghê. Bà Earnshaw bế chú thiên thần nhỏ xuống chính sảnh cho cậu chủ xem và mặt cậu ấy vừa mới sáng bừng lên thì lão già báo điềm gở đã bước tới nói: “Earnshaw, thật phúc đức là mợ ấy đã qua khỏi mà để lại cho cậu đứa con trai này. Khi mợ ấy đến đây tôi đã cảm thấy chắc là mợ ấy không đậu được lâu; và bây giờ, tôi phải nói với cậu là có lẽ mùa đông tới sẽ kết liễu đời mợ. Đừng choáng váng và quá phiền muộn vì chuyện đó! Vô phương cứu chữa! Lẽ ra cậu phải khôn ngoan hơn đừng có chọn một cô gái phế phẩm như thế!” - Thế cậu chủ trả lời ra sao? Tôi hỏi. - Hình như cậu chửi thề, cơ mà tôi không để ý đến cậu ấy, tôi lén mải nhìn thằng bé, và cô ta lại bắt đầu say sưa tả nó. Cũng háo hức như cô, tôi hăm hở chạy vội về nhà để chính mắt mình chiêm ngưỡng, tuy tôi cũng rất buồn cho Hindley. Trong tim cậu, chỉ có chỗ cho hai thần tượng – vợ cậu và bản thân cậu. Cậu mê cả hai và phụng thờ một, tôi không hình dung sao cậu có thể chịu đựng được tổn thất này. Khi chúng tôi về tới Đồi Gió Hú, thì cậu đứng đó, ngay cổng trước. Lúc đi qua, tôi hỏi: “Em bé thế nào?” - Sắp sửa biết chạy quanh rồi, Nelly ạ cậu đáp, miệng nở nụ cười vui vẻ. - Thế còn mợ? Tôi đánh bạo hỏi. Ông đốc-tờ bảo mợ… - Ma bắt ông đốc-tờ đi! Cậu ngắt lời, mặt đỏ tía tai. Frances chẳng sao cả; bằng giờ tuần sau, mợ sẽ hoàn toàn khỏe mạnh. Chị có lên gác không? Bảo mợ là tôi sẽ lên nếu mợ hứa không nói chuyện. Sở dĩ tôi để mợ nằm một mình là vì mợ không chịu ngơi miệng; mà mợ phải… bảo mợ là ông Kenneth nói mợ phải im lặng. Tôi chuyển lời nhắn ấy cho mợ Earnshaw, tâm trí mợ có vẻ như đang bay bổng, và mợ vui vẻ trả lời: - Tôi hầu như không nói một lời, Ellen ạ, thế mà anh ấy đã khóc bỏ ra ngoài hai lần. Thôi được, bảo là tôi hứa không nói, nhưng thế không có nghĩa là tôi không được cười anh ấy! Tội nghiệp! Cho đến trước khi chết một tuần, tâm trạng vui vẻ đó không lúc nào rời mợ và cậu thì cứ khăng khăng một mực, nói cho đúng hơn, điên cuồng khẳng định là sức khỏe của mợ khá lên từng ngày. Khi ông Kenneth báo cho cậu biết mọi thuốc thang đều vô ích khi bệnh tình đã đến giai đoạn này và cậu không cần phải tiêu thêm để chạy chữa cho mợ, cậu vặc lại: - Tôi biết là không cần… nhà tôi khỏe… nhà tôi không cần gì ông chạy chữa thêm nữa! Nhà tôi chẳng bao giờ ho lao cả. Đó là một cơn sốt và nó dứt rồi, mạch cô ấy bây giờ cũng chậm như mạch tôi và má cô ấy cũng mát như má tôi. Cậu cũng nói với mợ như vậy và mợ dường như tin lời cậu; nhưng một đêm, khi đang dựa lưng vào vai cậu, nói rằng có lẽ hôm sau mình có thể dậy được, thì mợ bị một cơn ho – một cơn rất nhẹ thôi. Cậu bế thốc mợ lên; mợ vòng hai tay ôm cổ cậu, mặt biến sắc, và mợ chết. Như cô hầu gái đã tiên đoán, thằng bé Hareton được phó thác hoàn toàn cho tôi. Về phần cậu Earnshaw, miễn sao thấy nó khỏe mạnh và không bao giờ nghe thấy tiếng khóc, là cậu bằng lòng. Đối riêng bản thân thì cậu trở nên tuyệt vọng; nỗi đau buồn của cậu thuộc loại không cất lên thành tiếng than van. Cậu không khóc lóc, cũng chẳng cầu nguyện; cậu nguyền rủa và thách thức, ghét cả Thượng Đế lẫn người đời, buông thả chơi bời phóng đãng, bất cần mọi sự. Đám gia nhân không thể chịu đựng lâu dài cách cư xử bạo ngược và xấu xa của cậu; Joseph và tôi là hai người duy nhất ở lại. Tôi chẳng nỡ bỏ đứa bé được giao cho tôi trông nom. Hơn nữa, ông biết đấy, tôi đã từng là chị em sữa của cậu ấy và sẵn sàng tha thứ hành vi của cậu hơn là một người dưng. Joseph ở lại để nạt nộ tá điền và đám lao công. Thiên hướng của lão là trụ ở chỗ nào có nhiều đồi bại để cho lão quở trách. Những thói tật xấu và bạn bè xấu của cậu chủ hình thành một tấm gương hay hớm cho Catherine và Heathcliff. Cách đối xử của cậu với Heathcliff đã đến mức để làm cho một vị thánh biến thành một con quỷ. Và quả thật, vào thời kỳ đó dường như thằng bé đã bị một cái gì ma quái ốp vào người vậy. Nó khoái trá chứng kiến sự sa đoạ khôn bề cứu vãn của Hindley và càng ngày sự lì lợm man rợ và tính hung hãn của nó càng rõ nét. Tôi không thể lột tả, dù chỉ là nửa phần, cái cảnh địa ngục trong nhà chúng tôi lúc bấy giờ. Cha phó thôi không đến nữa, và cuối cùng chẳng còn người tử tế nào đi lại gần gũi chúng tôi nữa; trừ phi những lần Edgar Linton đến thăm cô Cathy có thể coi là ngoại lệ. Đến tuổi mười lăm; cô là nữ hoàng tuyệt sắc của vùng nông thôn này, không ai sánh kịp. Và cô đã trở thành một con người kiêu kỳ, ương bướng! Tôi thú thật là tôi không ưa cô từ khi cô qua thời thơ ấu, và tôi luôn chọc tức bằng cách hạ bệ thói hợm hĩnh của cô. Tuy vậy, cô không bao giờ ghét tôi. Cô có một tấm lòng chung thủy tuyệt vời với những quan hệ gắn bó cũ; ngay cả Heathcliff cũng vẫn được cô thương mến như xưa, không chút suy suyển, và cậu Linton, mặc dù hơn hẳn nó, cũng khó lòng gây được một ấn tượng sâu bằng. Edgar Linton là ông chủ quá cố của tôi; ảnh của ông trên lò sưởi đấy. Trước đây, ảnh ông thường treo một bên, còn bên kia là ảnh vợ, nhưng ảnh bà ấy bị cất đi rồi, nếu không thì ông có thể thấy được phần nào diện mạo bà ấy ngày xưa ra sao. Ông có nhìn rõ bức kia không? Bà Dean giơ cây nến lên và tôi nhìn thấy một bộ mặt đường nét dịu dàng, rất giống cô gái ở bên Đồi nhưng sắc thái tư lự và hòa nhã hơn. Một bức ảnh đẹp. Mái tóc dài, sáng màu, hơi loăn xoăn ở hai bên thái dương; đôi mắt to và nghiêm nghị; vóc hình có phần quá yểu điệu. Tôi không lấy gì làm lạ về việc Catherine Earnshaw có thể vì một con người như thế này mà quên người bạn thuở ban đầu. Điều làm tôi ngạc nhiên nhiều là một con người có trí tuệ tương xứng với hình thể như ông ta làm sao lại có thể mê được Catherine Earnshaw như tôi hình dung cô trong ý niệm. - Một bức chân dung rất dễ thương; tôi nhận xét với bà quản gia. Có giống không? - Giống đấy, bà trả lời, nhưng khi ông ấy linh hoạt thì còn đẹp hơn, đây là cái vẻ thường ngày của ông; nói chung, ông ấy thiếu linh lợi. Catherine đã tiếp tục duy trì mối quan hệ quen biết với anh em Linton từ khi cô ở năm tuần trong nhà họ. Vì cô không muốn phô bày khía cạnh thô lỗ của mình khi ở nơi mà lúc nào cô cũng chỉ thấy một phong độ lịch sự như thế, nên vô hình trung, cô đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với hai ông bà già bằng sự thân mật hồn nhiên của mình; chiếm được lòng ngưỡng mộ của Isabella, trái tim và linh hồn của cậu anh. Những thành công này khiến cô thích chí ngay từ đầu bởi cô vốn đầy tham vọng, và dẫn cô đến chỗ mang một tính cách hai mặt mà thực ra không có ý định lừa ai ở cái nơi mà cô nghe thấy gọi Heathcliff là một thằng nhãi vô lại thô bỉ và còn “tệ hơn một tên cục súc”, cô thận trọng không hành động như nó; nhưng ở nhà, cô chẳng mấy có khuynh hướng thực hành phép lịch sự – làm thế chỉ tổ bị cười – và cũng chẳng cần kiềm chế cái bản chất ngỗ ngược, khi mà điều đó chẳng khiến cô được khen hoặc kính nể. Cậu Edgar họa hoằn mới thu thập đủ can đảm để công khai đến thăm Đồi Gió Hú. Cậu khiếp tiếng Earnshaw và lẩn tránh không muốn gặp cậu này; tuy nhiên bao giờ chúng tôi cũng cố gắng tiếp cậu một cách lịch sự nhất. Bản thân chủ nhân cũng tránh không xúc phạm cậu, tuy biết rõ lý do đến thăm, và khi nào không thể thanh nhã được thì lánh mặt. Tôi có phần nào nghĩ là Catherine không thích cậu đến chơi. Cô không biết giảo hoạt, không bao giờ điệu đàng và hiển nhiên là không muốn hai bạn trai của mình gặp nhau chút nào; vì khi Heathcliff lộ vẻ khinh bỉ Linton ngay trước mặt cậu này, cô không thể đồng tình phần nào như cô vẫn làm thế sau lưng cậu; và khi Linton tỏ ra ghê tởm và ác cảm với Heathcliff, cô không dám dửng dưng với thái độ của cậu, như thể việc coi là người bạn cùng chơi là chẳng mấy hệ trọng đối với cô. Nhiều lần tôi đã cười những bối rối và những phiền muộn khôn xiết kể mà cô hoài công giấu để khỏi bị tôi chế. Điều đó nghe có vẻ tệ nhưng cô kiêu kỳ đến nỗi người ta đâm ra thực sự không thể thương hại những đau khổ của cô, cho đến khi nào cô chịu sửa chữa để trở nên nhũn nhặn hơn. Cuối cùng, cô đã quyết định thú nhận và tâm sự với tôi – vì chẳng còn người nào khác khả dĩ có thể khuyên nhủ cô. Một buổi chiều, cậu Hindley đi vắng và Heathcliff lợi dụng dịp đó để nghỉ ngơi. Hồi ấy, hình như gã đã đến tuổi mười sáu và, mặc dầu không có những nét độc ác hoặc không đến nỗi thiếu thông minh gã vẫn tạo một ấn tượng gớm guốc về cả tinh thần lẫn ngoại hình mà dáng dấp hiện thời của ông Heathcliff không còn giữ lại dấu vết. Trước hết, hồi này gã đã mất hết những gì được giáo dục dạo bé. Làm lụng vất vả liên tục, từ sớm đến khuya, đã dập tắt mọi tò mò ham muốn hiểu biết từng đã cháy lên trong gã, cũng như mọi sự yêu thích sách vở hoặc học hành. Cái ý thức hơn trội nhiễm vào đầu óc gã hồi thơ ấu do sự thiên vị của cụ Earnshaw, nay đã tiêu tan. Gã đã vật lộn một thời gian dài để duy trì mức ngang bằng với Catherine trong việc học hành và đã bỏ cuộc với một nỗi luyến tiếc thầm lặng mà buốt nhói; nhưng gã đã chịu thua hoàn toàn, không có cách nào thuyết phục được gã dấn bước vươn lên khi mà gã thấy mình tất yếu phải tụt xuống dưới trình độ đạt được trước đây. Thế rồi vẻ bề ngoài cá nhân cũng hòa đồng với sự sa sút tinh thần, gã đâm có dáng đi rũ rượi và bộ dạng bần tiện, thiên tư dè dặt của gã bị đẩy lên thái quá thành một tính khí ủ ê khó gần, quá quắt đến mức gần như ngu xuẩn, và gã có vẻ tìm thấy một thích thú hiểm độc trong việc kích thích ác cảm, chứ không phải là trọng thị, ở số người quen ít ỏi của gã. Catherine và Heathcliff vẫn luôn luôn bên nhau, trong những vụ nghỉ của gã. Song gã đã thôi bộc lộ lòng trìu mến đối với cô thành lời và rụt lại với vẻ nghi ngờ giận dữ, né tránh những vuốt ve hồn nhiên của cô gái, kiểu như gã biết rõ việc ban phát hào phóng cho gã những dấu hiệu quý mến như thế, không thể mang lại chút thỏa mãn nào. Vào cái dịp nói trên, gã vào trong nhà để thông báo ý đồ của mình là bữa nay không làm gì hết, giữa lúc tôi đang giúp cô Cathy mặc chiếc áo dài cho chỉnh tề. Cô đã không tính đến chuyện Heathcliff quyết định nghỉ việc và, ngỡ là sẽ được độc chiếm cả nhà, cô đã tìm cách báo cho Edgar biết anh cô đi vắng, và giờ đây đang chuẩn bị tiếp cậu ta. - Cathy, chiều nay, đấy có bận không? Heathcliff hỏi. Đấy có định đi đâu không? - Không, trời đang mưa, cô trả lời. - Vậy thì sao đấy lại mặc chiếc áo lụa dài ấy? Gã nói. Chắc không có ai đến chơi đấy chứ? - Theo đây biết thì không, cô ấp úng, nhưng lẽ ra bây giờ đấy đang phải ở ngoài đồng cơ mà, Heathcliff. Đã quá giờ ăn trưa một tiếng. Đây tưởng đấy đã đi rồi. - Chả mấy khi chúng ta thoát khỏi sự có mặt đáng nguyền rủa của Hindley, gã trai trẻ nhận xét. Hôm nay đây sẽ không làm gì nữa; đây sẽ ở nhà với đấy. - Ờ, nhưng Joseph sẽ mách đấy, cô gợi ý; đấy nên đi đi thì hơn! - Joseph đang lấy vôi ở sườn bên kia núi Penistone; phải đến tối mịt, lão mới xong việc, lão sẽ chẳng biết đâu. Nói rồi, gã đủng đỉnh đến chỗ lò sưởi và ngồi xuống. Catherine nghĩ một lúc, lông mày nhíu lại – cô thấy cần phải đón đường cho cuộc đột nhập được êm thấm. - Isabella và Edgar Linton có nói là định đến chơi chiều nay, cô nói sau một phút im lặng. Vì trời mưa nên đây không có ý chờ họ mấy; song họ cũng có thể đến và nếu họ đến, đấy có cơ bị mắng oan, chả lợi lộc gì. - Bảo Ellen nói là đấy bận, Cathy, gã cố gắng; đừng có hê đây ra vì những đứa bạn thiểu não, ngẩn ngơ ấy của đấy. Đôi khi, đây đã suýt than phiền rằng chúng… nhưng thôi đây chả nói… - Rằng chúng làm sao? Catherine kêu lên, mắt đăm đăm nhìn gã với một vẻ bối rối. Ơ Nelly! Cô cáu kỉnh nói thêm, ngoắt đầu ra khỏi tay tôi, chị chải tóc tôi mất hết quăn rồi? Thôi đi, để mặc tôi. Đấy vừa suýt than phiền về cái gì, hở Heathcliff? - Chả có gì đâu… có điều là đấy hãy nhìn tờ lịch trên tường kia. Gã chỉ một tờ giấy đóng khung treo gắn cửa sổ và nói tiếp – Những dấu chữ thập là những tối đấy chơi với anh em nhà Linton, những dấu chấm là những tối với đây. Đấy thấy không? Đây đã đánh dấu từng ngày. - Vậy đấy, ngốc ơi là ngốc; làm như đây để ý ấy, Catherine đáp, giọng dằn dỗi. Thế thì có nghĩa gì? - Để chứng tỏ là đây có để ý, Heathcliff nói. - Và tôi bao giờ cũng phải ngồi với anh hử? Cô hỏi, mỗi lúc một bực hơn. Tôi được lợi cái gì. Anh nói những chuyện gì? Dù anh có nói gì để mua vui cho tôi hay anh có làm gì đi nữa thì cũng như thể anh câm hoặc anh là một đứa trẻ sơ sinh ấy! - Cathy, trước đây cô chưa bao giờ bảo rằng tôi quá ít mồm ít miệng, hoặc cô không thích bầu bạn với tôi! Heathcliff kêu lên, rất đỗi xao xuyến. - Khi người ta chẳng biết gì và chẳng nói gì thì đâu phải là bầu bạn, cô lẩm bẩm. Bạn cô đứng phắt dậy, nhưng gã không đủ thì giờ phát biểu thêm tình cảm của mình, vì tiếng chân ngựa đã vang lên trên những phiến đá lát đường và, sau khi gõ cửa nhẹ nhàng, cậu Linton bước vào, mặt mày rạng rỡ vui thích vì lời nhắn gọi bất ngờ đã nhận được. Rành rành là Catherine ghi nhận sự khác nhau giữa hai người bạn của mình, khi một người bước vào và người kia đi ra. Sự tương phản ấy giống như cái mà ông thấy khi đang từ một vùng than xám heo hút đồi núi, chuyển sang một thung lũng đẹp đẽ, phì nhiêu; và giọng nói, lời chào của Linton cũng trái ngược hẳn, như dáng vẻ con người. Cậu ta có cách nói nhỏ nhẹ, dịu dàng, phát âm giống như ông – có nghĩa là đỡ thô thiển hơn lối nói năng của chúng tôi ở đây và êm ái hơn. - Tôi không đến quá sớm đấy chứ? Cậu ta nói, đưa mắt nhìn tôi. Tôi đã bắt đầu lau bát đĩa và dọn dẹp mấy cái ngăn kéo tủ buýp-phê ở đầu đằng kia. - Không đâu, Catherine đáp. Chị làm gì ở đằng ấy, Nelly? - Làm công việc của tôi, cô ạ, tôi trả lời (cậu Hindley đã ra lệnh cho tôi sắm vai thứ ba trong mọi cuộc đến thăm riêng của Linton). Cô bước tới đằng sau tôi và cáu kỉnh nói thầm: “Đi đi, cả chị lẫn những cái giẻ lau của chị! Khi nhà có khách thì đầy tớ đừng có giở giói lau lau cọ cọ trong căn phòng họ đang ngồi chơi”. - Lúc này cậu chủ đi vắng là một dịp tốt chứ, tôi lớn tiếng trả lời. Cậu ấy không thích tôi loay hoay với những thứ này trước mặt cậu. Tôi chắc cậu Edgar sẽ bỏ quá cho tôi. - Tôi không thích chị loay hoay trước mặt tôi, cô tiểu thư kêu lên hống hách, không để cho người khách của mình kịp nói. Cô đã không lấy lại được bình tĩnh từ lúc cãi vã với Heathcliff. - Tôi lấy làm ân hận không thể làm khác, thưa cô Catherine, đó là câu trả lời của tôi và tôi tiếp tục công việc của mình một cách cần mẫn. Đoán chừng Edgar không thể trông thấy, cô giựt chiếc khăn lau khỏi tay tôi và rất cáu giận, véo vào cánh tay tôi một cái kéo dài. Tôi đã nói với ông là tôi không ưa cô ta và có phần khoái với việc thỉnh thoảng hạ nhục cái thói hợm hĩnh của cô, hơn nữa, cô làm tôi đau cực kỳ, cho nên tôi giật bắn người, đang quỳ đứng phắt dậy và la lên: “Ôi, cô chơi ác thế! Cô không có quyền cấu tôi, tôi không chịu đâu”. - Tôi không hề đụng đến chị, đồ nói dối! Cô kêu lên, ngón tay còn ngứa ngáy muốn lặp lại động tác ấy và tai đỏ lên vì giận dữ. Cô không bao giờ đủ sức giấu nộ khí của mình, bao giờ cũng làm cháy rực toàn bộ màu da cô. - Thế thì cái gì đây? Tôi vặc lại, phô ra một bằng chứng tím bầm không thể chối cãi để bác bỏ lời cô. Cô giậm chân, ngần ngừ một lúc, rồi không cưỡng nổi sự thôi thúc của bản năng tai ngược trong cô, tát tôi một cái vào má một đòn đau điếng khiến cả hai mắt tôi tràn đầy nước. - Catherine thân yêu! Catherine! Linton xen vào, rất choáng váng trước cái lỗi kép hai bề, cả man trá lẫn hung bạo, mà thần tượng của cậu ta vừa phạm. - Ra khỏi phòng, Ellen! Cô nhắc lại, toàn thân run lên. Thằng bé Hareton, vốn theo tôi đi khắp nơi, đang ngồi trên sàn, nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi, cũng bắt đầu khóc nức nở trách “Cô Cathy ác”, khiến cô trút cơn thịnh nộ lên cái đầu rủi ro của nó. Cô nắm hai má nó lắc lấy lắc để, kỳ đến khi thằng bé tội nghiệp tái xanh tái tử và Edgar không chút suy tính, nắm lấy hai tay cô để gỡ cho nó. Trong giây lát, một bàn tay văng ra và cậu thiếu niên ngỡ ngàng cảm thấy bàn tay ấy vả vào tai của chính mình một cách không thể lầm là đùa giỡn được. Cậu ta lùi lại, bàng hoàng. Tôi bế thốc Hareton lên và đi vào nhà bếp, để ngỏ cửa thông với buồng, vì tôi tò mò muốn theo dõi xem hai cô cậu giải quyết mối bất hòa ra sao. Người khách bị lăng nhục bước tới chỗ cậu ta đã để mũ, mặt tái đi và môi run lên. “Thế là phải!” Tôi tự nhủ. “Hãy lấy đó làm bài học và đi đi thôi! Vậy mà lại hay, để cho cậu thấy tính khí đích thực của cô ta”. - Anh đi đâu? Catherine vừa hỏi vừa tiến đến chỗ cửa ra vào. Cậu ta né sang bên, định vượt qua. - Anh không được đi! Cô kêu lên quả quyết. - Tôi phải đi và sẽ đi khỏi. Cậu đáp bằng một giọng dịu dàng. - Không, cô khăng khăng, nắm lấy quả đấm cửa; chưa đi được, Edgar Linton ạ, ngồi xuống, anh không được bỏ tôi đi một cách giận dỗi như thế. Tôi sẽ khổ sở suốt đêm và tôi không muốn khổ sở vì anh. - Có thể nào tôi ở lại sau khi cô đã đánh tôi? – Linton hỏi. Catherine câm lặng. - Cô đã làm tôi sợ cô và xấu hổ cho cô, cậu nói tiếp. Tôi sẽ không trở lại đây nữa! Mắt cô bắt đầu long lanh ướt và mí mắt chớp chớp. - Và cô đã cố tình nói một điều không đúng sự thật! Cậu nói. - Không phải! Cô kêu lên, lại mở được miệng. Tôi không làm điều gì cố tình cả. Thôi được, đi đi, nếu anh muốn… bước khỏi đây. Và bây giờ tôi sẽ khóc… Tôi sẽ khóc đến phát ốm! Cô khuỵu gối xuống bên một cái ghế và bắt đầu khóc thật sự. Edgar kiên trì quyết tâm của mình cho đến lúc ra sân; tới đó, cậu chần chừ nán lại. Tôi quyết định động viên cậu. - Cô ấy ngang ngược dễ sợ, cậu ạ, tôi nói vọng ra. Tệ như bất kỳ đứa trẻ hư nào. Cậu cứ phóng ngựa về nhà đi là hơn, kẻo cô ấy lại đập bệnh chỉ cốt làm khổ chúng tôi thôi. Cậu bé mềm yếu nhìn qua cửa sổ, nghi nghi hoặc hoặc; sự kiên quyết dứt đi của cậu ta cũng khác nào một con mèo kiên quyết bỏ một con chuột nhắt bị giết gần chết, hoặc một con chim đã ăn hết nửa. “Chà”, tôi nghĩ, “sẽ chả có cách nào cứu được cậu ta, cái kiếp của cậu đã định và cậu đang bay tới số mệnh của mình!” Và quả nhiên, cậu ta quay ngoắt lại, vội vã trở vào nhà, đóng cửa lại đằng sau và lát sau, khi tôi vào báo cho họ biết Earnshaw đã về, say không còn biết phải, trái là gì, sẵn sàng khuấy đảo làm lộn tùng bậy cả nhà lên (tâm trạng thông thường của cậu ta khi quá chén) thì thấy cuộc xích mích nọ chỉ tạo nên một tình thân thiết gần gũi hơn – nó đã phá vỡ lớp công sự ngoại vi của tính rè rụt trẻ thơ và khiến họ có thể vứt bỏ cái vỏ ngụy trang tình bạn để thú nhận tình yêu với nhau. Tin cậu Hindley về khiến Linton hối hả ra chỗ buộc ngựa và Catherine vội vã về phòng riêng. Tôi đi giấu Hareton và lấy đạn ra khỏi cây súng bắn chim của cậu chủ vì trong cơn khích động điên dại, cậu rất thích nghịch nó, đe dọa tính mạng của bất kỳ ai trêu ngươi hoặc thậm chí chỉ cần khiến cậu quá chú ý tới. Tôi đã nghĩ ra cái mẹo tháo đạn để ngộ nhỡ cậu có đi đến chỗ nổ súng thì cũng đỡ gây thiệt hại. C9 ậu bước vào, gầm gừ những câu chửi thề nghe ghê cả người và bắt quả tang tôi đang giấu con trai cậu vào tủ buýp-phê trong bếp. Linh tính Hareton in đậm một nỗi khiếp sợ phải gặp một trong hai thái độ của bố, hoặc là sự âu yếm kiểu dã thú, hoặc là cơn khùng của người điên; trong trường hợp thứ nhất, nó có nguy cơ bị ôm ghì, hôn hít đến chết, và trong trường hợp kia, có thể bị quẳng vào lửa hoặc quật vào tường, cho nên thằng bé tội nghiệp nằm im thin thít ở bất cứ nơi nào tôi chọn đặt nó. - Ấy đấy, cuối cùng, ta đã tìm thấy nó! Hindley kêu lên, túm gáy tôi kéo lại như kéo một con chó. Thiên địa quỷ thần, các người đã thề với nhau ám hại thằng bé! Bây giờ ta mới biết làm sao mà ta không bao giờ gặp nó đâu. Nhưng với sự tiếp sức của quỷ Satan, ta sẽ bắt ngươi phải nuốt con dao pha thịt này. Nelly! Ngươi đừng có cười vì ta vừa mới nhận đầu Kenneth xuống Đầm Ngựa Đen đó; và hai thì cũng như một thôi – ta muốn giết một đứa nào đó trong bọn bay, chưa làm được điều đó thì ta chưa yên! - Nhưng mà tôi không thích dao pha thịt, cậu Hindley ạ, tôi đáp, nó được dùng để thái cá trích đó. Xin cậu bắn tôi còn hơn. - Đẩy mày xuống địa ngục còn hơn! Cậu nói. Và mày sẽ được thế. Không có luật nào nước Anh này cấm người ta giữ cho nhà mình tử tế hẳn hoi, mà nhà tao thì thật gớm ghiếc! Há mồm ra. Cậu cầm con dao trong tay và ấn mũi nó vào giữa hai hàm răng tôi nhưng về phần mình, tôi chẳng bao giờ sợ gì lắm những thói bất thường của cậu. Tôi nhổ toẹt, và cả quyết là nó có một vị tởm lợm – muốn sao thì sao, tôi cũng chả chịu nuốt nó đâu. - Ồ, cậu nói và buông tôi ra, tôi thấy cái thằng quỷ con gớm ghiếc này không phải là Hareton, tôi xin lỗi chị, Nelly nhé. Nếu là Hareton thì nó đáng bị lột da sống vì tội không chạy đến đón mừng và tội la thét cứ làm như tôi là quỷ sứ không bằng. Đồ cún con dị dạng, lại đây! Tao sẽ dạy cho mày lạm dụng một ông bố tốt bị lừa dối. Này, chị có nghĩ là thằng bé nếu xẻo tai đi sẽ đẹp hơn không? Một con chó xẻo tai đi sẽ dữ hơn, và tôi vốn thích cái gì dữ tợn – kiếm cho tôi cái kéo – một cái gì dữ tợn và gọn ghẽ! Vả lại nâng niu cái đôi tai, đó là làm bộ làm tịch kiểu địa ngục – đó là thói hợm của quỷ sứ – không có tai chúng ta cũng đã đủ giống người chán. Im, nhóc, im nào! Thôi thì nó là cục cưng của tôi! Suỵt, lau khô nước mắt đi – của quý, hôn ta đi. Sao! Không à? Hôn ta đi, Hareton! Ma bắt mày, hôn tao đi nào! Lạy Chúa, dễ thường tao sẽ nuôi một con quái vật như thế này à! Chắc chắn là ta đang sống đây, ta sẽ bẻ gãy cổ thằng nhãi. Bé Hareton tội nghiệp la thét, cố hết sức giãy đạp trong vòng tay bố, và càng gào dữ hơn khi cậu bế nó lên gác và nhấc qua thành lan can. Tôi kêu lên rằng khéo cậu làm nó sợ đến lên cơn động kinh mất và chạy tới cứu nó. Khi tôi tới chỗ họ, Hindley đang cúi trên lan can để nghe một tiếng động bên dưới, hồ như quên bẵng mình đang mang gì trong tay. Ai đó? Cậu hỏi khi nghe thấy có người lại gần chân cầu thang. Tôi cũng cúi mình ra phía trước để ra hiệu cho Heathcliff (tôi nhận ra tiếng chân của gã) đừng tiến nữa; và đúng lúc mắt tôi rời Hareton, nó bật người ra đột ngột, thoát khỏi đôi tay thèo đảnh giữ nó, và rơi xuống. Chúng tôi hầu như không kịp rùng mình kinh hãi trước khi thấy ra là thằng bé khốn khổ không làm sao cả. Heathcliff tới bên đứa bé đúng vào lúc gay cấn, do một thôi thúc bản năng, gã đỡ được đứa bé đang rơi và vừa đặt nó đứng xuống đất, vừa ngước nhìn lên tìm kẻ gây ra tai nạn. Một kẻ keo kiệt vừa bán đi một vé xổ số may mắn lấy năm silinh để hôm sau thấy là mình đã mất năm nghìn silinh, cũng không thể phô ra một vẻ đờ đẫn hơn gã khi nhìn thấy bóng dáng cậu Earnshaw bên trên. Điều đó nói lên, rõ ràng hơn mọi lời lẽ, sự chua xót tột độ về nỗi đã tự biến mình thành công cụ phá ngang cơ hội báo thù cho bản thân. Giá bây giờ trời tối – tôi dám nói vậy – ắt gã đã tìm phương sửa chữa sai lầm bằng cách đập nát đầu Hareton trên bậc cầu thang; song chủ tôi chứng kiến cảnh cứu nạn, và tôi lập tức xuống bế cái báu vật được giao cho mình, ghì chặt vào ngực. Hindley bước xuống đủng đỉnh hơn, tỉnh rượu và ngượng ngùng. - Đó là lỗi tại chị đấy, Nelly, cậu nói; đáng lẽ chị phải giữ cho nó khuất mắt. Lẽ ra chị phải mang nó đi khỏi tôi! Nó có bị thương đâu không? - Bị thương! Tôi cáu tiết lên. Nếu nó không chết thì cũng sẽ thành ngớ ngẩn! Ôi! Không hiểu làm sao mà mẹ nó dưới mộ không dậy mà xem cậu hành nó. Cậu còn tệ hơn cả quân vô đạo – ai lại đối với giọt máu của chính mình như thế bao giờ. Cậu định sờ vào thằng bé; thấy đã ở trong tay tôi, nó lập tức nín bặt những tiếng nức nở kinh hãi. Nhưng, ngón tay đầu tiên của cha nó vừa chạm vào, nó la thét to hơn trước và giãy giụa như sắp lên cơn co giật vậy. - Cậu đừng có dính vào nó! Tôi nói tiếp. Nó ghét cậu… mọi người đều ghét cậu… đó là sự thật! Hạnh phúc chưa, cái gia đình của cậu và cậu đã đến cái nông nỗi hay hớm nhỉ! - Ta sẽ còn đi đến nông nỗi hay hớm hơn nữa cơ, Nelly ạ! Con người lầm đường lạc lối cả cười, lại trở nên cứng rắn. Bây giờ thì chị lẫn nó xéo đi. Còn Heathcliff, mày nghe đây. Mày cũng cút đi cho rảnh, đừng để tao túm được và nghe thấy mày. Tao chưa muốn giết chúng mày đêm nay; trừ phi tao đốt cái nhà này đi cũng nên, nhưng đó còn tùy theo sở thích của tao. Trong khi nói vậy, cậu lấy một chai rượu mạnh nửa lít ở tủ buýp phê và rót chút ít vào một cái cốc. - Thôi đừng! Tôi năn nỉ. Cậu Hindley, hãy rút kinh nghiệm. Nếu cậu chẳng thiết gì đến bản thân nữa, thì cũng thương lấy thằng bé xấu số này. - Bất kỳ ai cũng sẽ có ích cho nó hơn ta, cậu đáp. - Thì hãy thương lấy linh hồn của cậu vậy! Tôi nói, cố giằng lấy cốc rượu từ tay cậu. - Hơi đâu mà ta thương linh hồn ta. Trái lại, cho nó xuống trầm luân dưới địa ngục để trừng phạt cái đấng tạo sinh ra nó mới thật khoái, con người báng bổ ấy thốt lên. Đây là để chúc nó đi tới quỷ sứ cho ngon lành! Cậu uống chỗ rượu và bực dọc bảo chúng tôi cút đi, kết thúc mệnh lệnh ấy bằng một chuỗi lời nguyền rủa gớm ghiếc, quá tục tằn, chẳng bõ nhắc lại hoặc nhớ làm gì. - Đáng tiếc là y ta không tự sát bằng rượu được. Heathcliff nhận xét, lẩm bẩm rủa lại như một tiếng vang khi cửa đóng lại. Y đã làm hết sức mình, song thể trạng y bất chấp. Ông Kenneth bảo ông sẵn sàng đánh cuộc con ngựa cái của mình là y sẽ sống lâu hơn bất kỳ người đàn ông nào ở mé bên này Gimmerton, và phải đến khi thành một kẻ tội lỗi đầu bạc phơ mới xuống mồ; trừ phi có một ngẫu nhiên tốt đẹp nào ngoài lẽ thông thường đổ xuống đầu y. Tôi vào bếp và ngồi xuống ru con cừu non của tôi ngủ. Tưởng Heathcliff đi thẳng đến chuồng ngựa. Về sau, hóa ra gã sang mé bên kia cái ghế tủ, gieo mình xuống một chiếc ghế cạnh tường, khuất khỏi lò sưởi và nằm im. Tôi đang đu đưa Hareton trong lòng và âm a một bài hát mở đầu bằng: Đêm khuya tiếng trẻ khóc than Dưới mồ thao thức mẹ nằm mẹ nghe… thì Cathy (cô đã lắng nghe tiếng huyên náo từ trên buồng mình) thò đầu vào thì thào: - Có một mình chị thôi phải không, Nelly? - Phải, cô ạ, tôi đáp. Cô vào, lại gần chỗ lò sưởi. Đồ rằng cô sắp sửa nói gì, tôi ngước nhìn lên… Vẻ mặt cô như bối rối, lo âu, đôi môi hơi hé mở như định nói, và cô hít một hơi, nhưng nó thoát ra không thành lời mà thành một tiếng thở dài. Tôi tiếp tục hát, chưa quên được hành vi ban nãy của cô. - Heathcliff đâu rồi? Cô nói, cắt ngang câu hát của tôi. - Làm công việc của nó ở chuồng ngựa, tôi trả lời. Gã không cải chính, có lẽ gã đã ngủ thiếp đi. Lại im lặng hồi lâu trong khi đó tôi thấy một vài giọt nước mắt từ má Catherine rỏ xuống sàn đá. “Phải chăng cô ân hận vì cách xử sự đáng xấu hổ của mình?” tôi tự hỏi. “Thế thì là điều mới lạ đấy, nhưng cứ để tùy cô ấy đi vào vấn đề – tôi sẽ chẳng giúp cô đâu! Không, cô chả mấy cảm thấy lo phiền về bất kỳ chuyện gì trừ những gì liên quan đến bản thân”. - Ôi! Lạy Chúa! Cuối cùng cô kêu lên. Sao mà tôi khổ sở thế này. - À, thương nhỉ, tôi nhận xét. Thật khó mà làm vừa ý cô, nhiều bạn thế và ít phải lo thế mà vẫn chưa bằng lòng. - Nelly, liệu chị có giữ kín cho tôi một điều bí mật không? Cô nói tiếp, quỳ xuống bên cạnh tôi và ngước đôi mắt đầy sức quyến rũ hướng vào mặt tôi một cái nhìn đủ ma lực để dập tắt sự cáu giận, – dù là khi người ta có mọi lý do trên đời để nổi nóng. """