"
Đợi Chờ - John Le Carré full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đợi Chờ - John Le Carré full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
Chương1
Chương2:
Chương2(Tt):
Chương3:
Chương4:
Chương4(Tt):
Chương5:
Chương6:
Chương7:
Chương7(Tt):
Chương8:
Chương9:
Chương10:
Chương11:
Chương12:
Chương13:
Chương14:
Chương15:
Chương16:
Chương17(ChươngKết):
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 1
Tại lầu chót của một khách sạn kiến trúc kiểu Staline, nằm trên một đại lộ ở Matxcơva, hội chợ audio đầu tiên được British Council tổ chức để quảng bá văn hóa nước Anh, sắp bước vào giai đoạn bế mạc. Lúc 17 giờ rưỡi. Hôm ấy là một ngày mùa hè, thời tiết thay đổi một cách kỳ cục: suốt buổi sáng, những trận mưa rào lớn đã đổ xuống thành phố, nhưng bây giờ ánh mặt trời lấp lánh trong các vũng nước và hơi nước nhè nhẹ bốc lên từ các lề đường. Khách bộ hành trẻ tuổi mặc quần jean và mang giày thể thao, trong khi những người lớn tuổi hơn thì thu mình trong những bộ đồ ấm.
Gian phòng do British Council thuê, giá không lấy gì làm đắt, và cũng không thấy thích hợp đối với cuộc triển lãm này. Các gian hàng của các nhà trưng bày sản phẩm tập trung trong phần tầng lầu được xây nhô ra ngoài, trông như các phòng của một ngôi đền, nơi người ta mưu mô sắp đặt những điều bí mật.
Dù sao thì hội trợ triển lãm cũng đã được tổ chức. Dân Matxcơva, những người có giấy mời, đã đến dự. Họ đến dự có thể vì phép lịch sự, vì tò mò, hoặc vì để được nói chuyện với người nước ngoài, hay đơn giản chỉ để là có đến dự. Tối hôm ấy, ngày thứ năm và cũng là ngày chót, có tổ chức một bữa tiệc lớn, chia tay giữa các nhà có sản phẩm trưng bày với các khách mời. Một số cán bộ của cơ quan văn hóa Liên Xô đang đứng tập trung dưới chùm đèn treo bằng pha lê: các bà đầu tóc chải một cách cầu kỳ, mặc áo dài vải hoa, các ông mặc complê sang trọng cắt may theo kiểu Pháp. Duy chỉ có các vị khách người Anh của họ là mặc những bộ complê xám bình thường. Tiếng chuyện trò mỗi lúc một râm ran, trong lúc các nữ tiếp viên mặc tạp dề mời các quan khách dùng bánh xăng-uých và rượu vang trắng hâm nóng. Một nhà ngoại giao Anh cấp cao nhưng không phải là đại sứ, bắt tay các cán bộ quan trọng hơn hết, miệng luôn luôn nói: “Rất hân hạnh”.
Chỉ còn một mình Niki Landau không tham dự bữa tiệc. Cúi xuống trên chiếc bàn trong gian hàng trống trải của mình, anh ta cộng sổ các đơn đặt hàng và kiểm tra các chi phí, vì phương châm của anh là không bao giờ đi vui chơi trước khi hoàn tất công việc.
Liếc mắt, anh ta chợt thấy loáng thoáng hình bóng một phụ nữ người Nga bận áo dài xanh và vẻ bồn chồn. Vẫn cặm cụi làm việc, anh ta nghĩ: “Chỉ thêm phiền phức về sau. Nên tránh thì hơn”.
Mặc dù là người thích ăn chơi tiệc tùng, nhưng không khí hôm nay đã không hấp dẫn Landau. Trước hết anh ghét các nhà chức trách người Anh kể từ khi bố anh bị cưỡng bức phải trở về Ba Lan. Sau này Landau có nói với tôi rằng người Anh nói chung là những người đáng được tôn kính. Bản thân Landau cũng đã nhập quốc tịch Anh và anh đã tỏ ra không thể lay chuyển được sự tôn kính ấy, nhưng anh ta xếp riêng đám người ở bộ Ngoại giao ra. Các người này càng tỏ ra ta đây, làm điệu làm bộ, hay nhướng chân mày lên một cách ngu ngốc, Landau càng ghét họ thêm khi nghĩ đến bố mình. Vả lại, nếu việc này chỉ quan hệ đến một mình Landau thôi, thì anh đã không bao giờ đến tham dự hội chợ audio này, và đã ở lại Brighton trong tổ ấm với Lydia, cô bạn gái nhỏ nhắn, xinh đẹp và ngoan ngoãn của mình.
Landau đã khuyên các đồng nghiệp trong công ty: “Tốt hơn là chúng ta nên dành nỗ lực để tham dự hội trợ triển lãm sách tại Matxcơva vào tháng Chín tới. Này Bernard, anh thấy đó, người Nga thích sách, còn thị trường audio làm cho họ sợ, và họ chưa sẵn sàng để tiếp nhận. Nếu dấn thân vào hội chợ sách, chúng ta sẽ thành công lớn. Nếu lăn vào hội chợ audio, chắc chắn sẽ thất bại”.
Nhưng các đồng nghiệp của Landau còn trẻ và khá giàu, họ không tin là sẽ thất bại
Tối hôm ấy, khi thoáng thấy thiếu phụ áo xanh người Nga, Landau đã không muốn để ý đến cô ta. Anh nôn nóng đáp máy bay trở về Luân Đôn ngay ngày hôm sau. Và nếu người thiếu phụ Nga áo xanh ấy vẫn kiên trì lôi kéo sự chú ý của anh trong lúc anh bận kết thúc sổ sách kế toán, thì chắc chắn anh sẽ nói với cô ta một điều gì đó bằng tiếng Nga mà cả hai sẽ hối hận suốt đời.
Cô ta mang nơi cổ tay một cái túi lưới bằng chất dẻo, thường dùng để đựng đồ khi đi mua sắm. Cô ta đến đứng cạnh bàn nơi Landau đang làm việc, thở dài tỏ vẻ nôn nóng và lên tiếng hỏi:
- Xin ông thứ lỗi. Ông có phải là người Nhà xuất bản Abercrombie and Blair không? - Không phải ở đây, người đẹp ạ - Landau trả lời mà không ngước lên nhìn
Vì cô ta nói tiếng Anh, nên Landau cũng trả lời bằng tiếng Anh, theo thói quen.
- Ông có phải là ông Barley không?
- Không, không phải là Barley mà là Landau.
- Nhưng đây là gian hàng của ông Barley.
- Không, không phải là gian hàng của Barley. Mà là gian hàng của tôi. Gian hàng Abercrombie and Blair ở kế bên.
Vẫn không ngước mắt lên nhìn người đối thoại, Landau đưa cây bút chì lên lắc lắc chỉ về phía một gian hàng trống ở bên trái, nơi có một tấm panô màu xanh lục ghi bảng hiệu “Nhà xuất bản Abercrombie and Blair” bằng chữ vàng.
- Nhưng gian hàng ấy bỏ trống – Thiếu phụ phàn nàn – Chẳng có ai trong đó cả. Ngày hôm qua cũng bỏ trống như thế.
- Đúng. Hoan hô! – Landau nói cụt lủn, tỏ vẻ không muốn bị quấy rầy thêm nữa.
Và anh ta lại cặm cụi làm việc, chờ cho cái bóng hình áo xanh biến đi. Anh ta biết mình đã tỏ ra thô lỗ, nhưng sự kiên trì của người thiếu phụ Nga đã làm cho anh càng thô lỗ hơn.
Cô ta không bỏ đi. Cô hỏi:
- Nhưng ông Scott Blair ở đâu? Cái ông mà người ta gọi là ông Blair ấy ở đâu? Tôi cần gặp ông ấy. Có việc rất khẩn cấp.
Landau bắt đầu gắt gỏng một cách vô lý. Anh ta ngẩng đầu lên một cách đột ngột và nhìn thẳng vào mặt người thiếu phụ. Anh ta nói:
- Thưa cô, ông Scott Blair mà các bạn thân thường gọi là Barley, vắng mặt và không xin phép. Nói cho rõ hơn, ông ta đã đào nhiệm. Thật thế, công ty của ông ta đã đăng ký một gian hàng. Tuy là chủ tịch, làm giám đốc, là tổng quản lý và theo chỗ tôi được biết, là người nắm giữ độc quyền công ty suốt đời, nhưng Scott Blair đã không đặt chân đến gian hàng của ông ta…
Trong lúc nói những lời mỉa mai trên, Landau bắt gặp cái nhìn của người thiếu phụ và bắt đầu thay đổi thái độ. Anh ta nói:
- Xin người đẹp thông cảm, số là tôi phải ra sức làm việc vì sinh kế, tay làm hàm nhai mà, chắc cô cũng
đồng ý về điểm đó, phải không nào? Tôi không làm việc cho ông Barley Scott Blair, dù tôi rất hâm mộ ông ấy.
Nói đến đây, Landau ngừng hẳn lại, sự giận dữ lúc ban đầu bây giờ đã đổi thành sự ân cần của một trang nam nhi hào hoa phong nhã, vì thấy người thiếu phụ run run. Anh nhận thấy điều đó trước hết là hai bàn tay cô bóp chặt cái túi lưới, rồi đến cái cổ áo đăng ten của chiếc áo dài xanh phập phồng nơi cổ cô, và sau nữa là làn da cô đột nhiên trở thành trắng bệch. Nhưng miệng cô và quai hàm cô cắn chặt, biểu lộ một ý chí mãnh liệt.
- Xin ông vui lòng, ông hãy tỏ ra tử tế với phụ nữ một chút. Ông hãy giúp tôi – Cô ta van lơn, như thể không còn cách nào khác.
Landau có biệt tài am hiểu nữ giới.
“Harry. Đàn bà, đó là trò tiêu khiển của tôi lúc nhàn nhã, là đề tài nghiên cứu và là sự đam mê của tôi”. Một hôm Landau đã tâm sự với tôi như thế với một niềm tin cũng trịnh trọng như một hội viên hội Tam Điểm tuyên thệ. Anh ta hân hoan thú nhận rằng anh ta đã chiếm được trên một trăm người đàn bà và không một người nào trong số đó có chút lý do gì để hối tiếc đã thí nghiệm chung sống với anh ta. Không ai biết những gì anh ta nói đúng được bao nhiêu phần trăm, nhưng cũng không ai có thể nghi ngờ những kinh nghiệm anh ta đã thu thập được trong tình trường mà đã giúp anh ta hình thành một ý kiến về người thiếu phụ này.
Cô ta thật trang nghiêm, thông minh, cương nghị và lo sợ, song trong đôi mắt u sầu của cô ánh lên một tia hài hước sáng ngời. Cô có cái phẩm chất hiếm có mà Landau, với ngôn ngữ hoa mỹ của mình, thích gọi là “Cái phẩm chất mà chỉ một mình Mẹ Thiên Nhiên mới có thể ban cho”. Nói cách khác, cô ta có cái vẻ thanh cao và cương nghị. Landau nhận thức được tất cả các điều đó chỉ trong phút chốc, và đã tự kiềm chế khi người thiếu phụ lại bắt đầu nói.
Sau một tiếng thở dài, cô ta nói:
- Một trong những người bạn của tôi có viết một tác phẩm văn học. Đó là một cuốn tiểu thuyết lớn. Thông điệp của nó quan trọng đối với toàn thể nhân loại.
Cô ta ngừng lại, vì không tìm thêm được những luận cứ nào khác.
- Một cuốn tiểu thuyết sao? – Landau hỏi, rồi hỏi tiếp – Tên quyển tiểu thuyết ấy là gì, cô bé của tôi?
Landau nghĩ rằng mãnh lực toát ra từ người cô ta không phải là do sự khoác lác hay sự vô ý thức, mà là do niềm tin của nàng.
Landau nhấn mạnh:
- Thế thì thông điệp của nó là gì, nếu nó không có tên?
- Nó đề cao sự hành động chứ không phải diễn văn. Nó than phiền sự chậm chạp của Perestroika. Nó đòi hỏi sự hành động và bác bỏ mọi thay đổi có tính cách hoàn toàn hình thức.
- Tuyệt! – Landau nói một cách xúc động.
“Harry, cô ta nói như mẹ tôi không bằng. Cô ta hắt cằm lên và vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt tôi”
- Dù có glasnost và đường lối tự do trong chính sách đổi mới, quyển tiểu thuyết của bạn tôi chưa có thể xuất bản tại Liên Xô, được ông Scott Blair đã nhận xuất bản quyển tiểu thuyết ấy một cách thận trọng và
kín đáo.
- Thưa cô – Landau nói một cách nhã nhặn – Nếu quyển tiểu thuyết của bạn cô được nhà xuất bản đáng kính Abercrombie and Blair ấn hành, thì việc giữ bí mật, xin cô hãy tin ở tôi, cô sẽ không bị thất vọng đâu.
Anh ta đã nói như thế vì thích đùa, nhưng cũng vì linh tính của anh nhắc anh phải làm cho cuộc đối thoại bớt căng thẳng, để nó bớt khả nghi nếu có người đang theo dõi. Mà dù có hiểu hay không câu nói đùa ấy, người thiếu phụ cũng mỉm cười, một nụ cười mỉm thoáng hiện trên gương mặt cô và cô đã lấy lại được can đảm, đó là dấu hiệu cô đã chiến thắng sự lo sợ
- Thế thì thưa ông Landau, nếu ông là người yêu chuộng hòa bình, thì tôi xin ông hãy mang bản thảo này sang nước Anh, và giao nó ngay lập tức cho ông Scott Blair. Giao tận tay cho ông ta. Đó là một bằng chứng cho sự tín cẩn.
Những gì xảy ra sau đó cũng mất rất ít thì giờ, chẳng khác nào một sự điều đình nơi góc đườn giữa một người bán dốc lòng bán và một người mua dốc lòng mua. Trước tiên, Landau liếc mắt nhìn ngang qua bên trên vai người thiếu phụ, đơn giản đó chỉ là biện pháp đề phòng cho cả hai người. Như anh ta đã nhận xét được, mỗi khi người Nga trù hoạch một mưu mô gì, luôn luôn có những người canh chừng theo dõi đâu đó. Nhưng phần này của gian phòng vắng tanh và các gian hàng trong hành lang chìm trong bóng tối lờ mờ. Cuộc tiệc đang giữa lúc náo nhiệt nhất tại trung tâm gian phòng. Còn ba nhân viên an ninh mặc áo vét da, thì đang trò chuyện với nhau, trông có vẻ cau có.
Quan sát tình hình xong, Landau đọc tên người thiếu phụ trên cái bảng tên bằng chất dẻo ghim nơi ve áo của cô ta, điều mà lẽ ra anh đã làm sớm hơn, nếu đôi mắt màu nâu đen của cô đã không làm anh mê mẩn. Ekaterina Orlava. Và ngay bên dưới là chữ “Tháng Mười” bằng tiếng Anh và tiếng Nga, tên của một trong những nhà xuất bản quốc doanh ở Matxcơva chuyên dịch các sách của Liên Xô để xuất bản chủ yếu là sang các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Sau đó, hay có thể là trong lúc đọc bảng tên, Niki Landau giải thích cho người thiếu phụ những gì cô ta cần phải làm. Là một kẻ thành thạo, Landau biết phải dàn cảnh như thế nào. Đánh giá theo những gì đã biểu lộ ra ngoài, chắc chắn thiếu phụ này cũng gan dạ bằng sáu con sư tử, nhưng cô ta không có vẻ gì là một kẻ có mưu mô. Thế là anh ta không do dự che chở cho cô gái và ngỏ lời với cô như với bất cứ người đàn bà nào cần đến những khuyến cáo thực tiễn của anh ta, đại loại như tìm ở đâu phòng khách nơi anh trọ, hay nói ngon nói ngọt như thế nào với ông chồng khi về đến nhà.
- Thế người đẹp của tôi có mang theo bản thảo đến đây không? – Landau hỏi, miệng mỉm cười thân thiện và liếc nhìn cái túi lưới.
- Dạ có
- Ở trong đó phải không?
- Dạ phải
- Tốt, hãy trao tất cả cho tôi, như một món quà mọn – Landau nói và nhắc cho người thiếu phụ lần lượt làm theo những điều chỉ dẫn của anh ta. Sau khi thiếu phụ trao cái túi lưới cho Landau, anh ta nói tiếp:
- Như thế đó. Bây giờ cô hãy ôm hôn tôi như một cách ngoan ngoãn theo kiểu Nga. Một cái hôn hình thức. Tuyệt vời. Cô đã mang đến tặng cho tôi một món quà chia tay, một món quà xã giao trang trọng. Một món quà sẽ thắt chặt các quan hệ Anh – Xô. Làm như thể chỉ là một việc bình thường. Hôm nay tôi đã phải nhận hơn nửa tá những món quà thuộc loại này.
Vừa nói với cô gái, Landau vừa cúi xuống, rút gói đồ bọc trong giấy kraft ra khỏi cái túi lưới và xoay người đút lẹ vào trong cái cặp đựng giấy tờ của anh. Rồi anh hỏi người thiếu phụ:
- Katia, cô có chồng chưa?
Cô ta không trả lời, có thể cô không nghe. Hay là cô quá bận nhìn anh ta.
- Chính chồng cô đã viết quyển tiểu thuyết, phải không? – Landau hỏi, không nản lòng vì sự im lặng của Katia.
- Có thể nguy hiểm cho ông đấy, thưa ông – Katia nói khẽ - Nhưng nếu ông tin tưởng ở những gì ông làm, mọi sự sẽ tốt đẹp.
Không phản ứng lại lời cảnh cáo ấy, Landau chọn trong các món hàng mẫu mà anh đã dành riêng để phân phát tối hôm nay, một cái hộp đựng bốn cuốn băng cát xét Songe d’une nuit d’été (Giấc mộng đêm hè) của hãng Royal Shakespeare Company, và đặt lên bàn thật đàng hoàng để ai cũng có thể trông thấy, trước khi dùng bút lông đề tặng trên bao bì bằng chất dẻo: “tặng Katia, nhân danh hòa bình. Niki” và ngày tháng năm. Rồi một cách trịnh trọng như muốn phô bày cho mọi người thấy, Landau đặt cái hộp đựng băng cát xét vào trong cái túi lưới. Anh ta nhập hai quai túi lưới lại với nhau rồi trao vào tay Katia vì anh ta thấy Katia tái mặt, sợ cô hốt hoảng và mất bình tĩnh. Chỉ lúc ấy, bằng cách giữ tay cô ta trong tay mình, Landau đã trấn an cô, một sự trấn anh mà hình như cô rất cần đến. Một bàn tay lạnh, nhưng xinh đẹp, Landau đã nói với tôi như thế.
Landau nhỏ nhẹ nói với Katia:
- Tất cả chúng ta một ngày nào đó đều phải làm một việc gì đó mang tính chất nguy hiểm, phải không nào? Và bây giờ chúng ta hãy đi tham dự bữa tiệc liên hoan chia tay cùng với mọi người.
- Không!
- Hay là tôi đưa cô đi dùng bữa tối với tôi ở đâu đó?
- Không phải lúc
- Tôi xin tiễn cô đến cửa?
- Nếu ông muốn như thế
- Thiết tưởng chúng ta nên tươi cười thì có lợi hơn – Landau nói với Katia và hai người đi băng qua gian phòng.
Landau luôn luôn dùng tiếng Anh để nói chuyện với Katia. Khi hai người ra đến bậc đầu cầu thang của tầng lầu, Landau bắt tay Katia và nói:
- Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở hội trợ triển lãm sách vào tháng Chín, phải không? Và xin cảm ơn lời khuyên của cô, tôi sẽ nhớ điều ấy. Nói cho cùng, điều cốt yếu, là chúng ta đã hoàn tất công việc của chúng ta. Vẫn luôn luôn thoải mái, cô có thấy như thế không?
Katia nắm tay Landau và hình như đã tìm thấy được ở đó sự can đảm, vì cô lại mỉm cười, một nụ cười e lệ, nhưng biết ơn và nồng nhiệt một cách không thể kiềm chế được.
- Bạn tôi đã làm được một việc lớn – Katia giải thích – Tôi nhờ ông yêu cầu ông Blair ý thức cho điều đó.
- Tôi sẽ nói với ông ấy như thế, cô an tâm.
Landau những muốn được hưởng thêm một nụ cười nữa của người đẹp, nhưng Katia đã không còn để ý đến anh nữa. Cô lục lọi trong ví, tìm một tấm danh thiếp để trao cho Landau, điều mà cô đã quên chưa làm cho đến lúc này. “Orlova, Ekaterina Borissovna”. Một bên in bằng mẫu tự Slave và một bên in bằng mẫu tự Rômanh. Danh từ “Tháng Mười” in cả hai mặt tấm danh thiếp cũng bằng chữ đó. Trao danh thiếp cho Landau xong, Katia đi xuống các bậc cấp, dáng vẻ căng thẳng, đầu ngẩng cao, một tay vịn lan can cẩm thạch và tay kia cầm cái túi lưới. Các nhân viên an ninh mặc áo vét da nhìn theo cô cho đến tận tiền sảnh. Đút tấm danh thiếp vào túi áo trên cùng với nửa tá danh thiếp khác, Landau để ý đến vẻ nhìn của họ và nháy mắt với họ. Họ cũng nháy mắt đáp lại sau khi suy nghĩ chín chắn. Bây giờ là thời mở cửa, nên một cặp mông xinh đẹp của một phụ nữ Nga, có quyền được người ta chiêm ngưỡng, dù đó là một người nước ngoài.
Trong năm mươi phút chót của cuộc liên hoan, Nika Landau lăn xả vào các cuộc vui chơi một cách thục mạng. Anh ta ca hát và khiêu vũ với một nữ giám đốc thư viện người Xcốtlen; kể một giai thoại chính trị đầy tính hài hước về bà thủ tướng Thatcher với hai nhân viên cục bản quyền VAAP, cuối cùng hai nhân viên này đã phá lên cười; nịnh hót ba bà cán bộ nhà xuất bản Tiến bộ và tặng mỗi bà một món quà kỷ niệm. Nhưng những sự vui đùa ấy không ngăn cản Landau liếc mắt canh chừng cái cặp đựng giấy tờ của mình. Và trước khi khách khứa ra về, anh ta đã một tay cầm cái cặp một tay vẫy chào tạm biệt. Suốt trên chuyến xe riêng đưa các đại diện thương mại về khách sạn, Landau giữ cái cặp giấy tờ trên đầu gối mình, trong lúc hát những bài hát phóng túng cùng với các người khác, được điều khiển như mọi khi bởi Spikey Morgan.
- Các bạn hãy cẩn thận, ở đây có mặt các bà đấy nhé! – Landau nhắc nhở.
Landau đứng dậy bảo các bạn đừng hát những đoạn quá suồng sã. Nhưng suốt thời gian anh ta giữ vai trò điều khiển, anh ta vẫn nắm chặt quai chiếc cặp đựng giấy tờ trong tay.
Trước cửa khách sạn là cả một đám ma cô, bọn bán ma túy và những người đổi tiền chui. Các nhân viên KGB nhìn đoàn khách nước ngoài đi vào, nhưng Landau chẳng có gì đáng phải lo âu khi thấy thái độ của họ, không quá chăm chú cũng chẳng quá lơ là. Người thương binh già canh gác hành lang dẫn đến thang máy, như thường lệ, đòi hỏi phải xuất trình giấy thông hành, nhưng khi Landau, người đã biếu cho lão hơn một trăm bao thuốc lá Marlboro, hỏi lão bằng tiếng Nga, vì sao tối nay lão không tán tỉnh cô bạn nhỏ của lão, thì lão phá lên cười và vỗ vai anh một cách thân mật.
Sau này Landau đã thuật lại với tôi như sau: “Này Harry, lúc đó tôi đã tự nhủ rằng nếu đây là một âm mưu có sắp đặt, thì họ sẽ được lợi nếu tóm cổ tôi ngay lập tức, trong khi đường dây chưa kịp nguội. Để chặn kẻ địch sau cánh cửa, người ta phải khám xét ngay, trong khi tang chứng còn trên người kẻ phạm tội”.
Lên đến cửa phòng mình, Landau phải tập trung can đảm mới đút được chìa khóa vào ổ. Anh ta nghĩ rằng bây giờ họ sẽ ra tay. Ở đây và bây giờ sẽ là lúc tốt hơn hết để họ tóm mình với tập bản thảo.
Nhưng khi anh ta vào trong phòng, mọi thứ đều ngăn nắp. Yên tâm, anh ta đặt cái cặp đựng giấy tờ lên trên giường.
Landau kéo các màn cửa lại, treo ở ngoài cửa tấm bảng “Xin đừng quấy rầy” và khóa cửa. Anh ta lấy hết đồ trong các túi bộ complê ra, kể cả cái túi trong đó anh để các tấm danh thiếp của anh. Anh cởi sao vét, càvạt, và cuối cùng cởi áo sơmi. Anh ta mở tủ lạnh, uống một chút Vodka chanh. Anh ta nói với tôi rằng, thật sự anh không phải là một bợm nhậu, nhưng ở Matxcơva nên nhâm nhi một ly nhỏ Vodka chanh để chấm dứt một ngày. Anh ta đem ly rượu vào phòng tắm, ở đó anh dành hơn mười phút để xem xét một các lo âu tóc tai mình, tìm những chân tóc bạc mà anh đã ngụy trang nhờ một tân dược thần kỳ mới. Sau
khi mãn nguyện với công việc ấy, anh trùm lên đầu một khăn tắm cầu kỳ, vừa tắm vừa hát bài “I am the very model of a modern major-general”. Rồi anh ta lau mình thật mạnh để kích thích gân cốt, choàng vào người một chiếc áo rộng vải hoa đỏ rực và trở lại phòng ngủ, vừa đi vừa hát nghêu ngao.
Anh ta tuân thủ một cách đều đặn nghi thức ấy theo thói quen, mà cũng do anh ta hãnh diện đã một lần vì người đẹp mà tống khứ tính khôn ngoan thận trọng ra khỏi bản thân mình, và đã viện ra hai mươi lăm lý do để từ chối hành động, như đáng lẽ anh ta cũng phải làm vào thời kỳ đó.
“Harry, cô ta quả thật là một phụ nữ tuyệt vời, Cô ta có vẻ lo sợ và cần được giúp đỡ. Niki Landau có bao giờ từ chối một điều gì với một phụ nữ tuyệt vời như thế đâu?”. Nhủ thầm như vậy, vì trong thâm tâm anh ta lo sợ có người đặt máy nghe lén. Landau lấy món đò của Katia ra, và bắt đầu tháo sợi dây nhợ mà không cắt bỏ nó, như xưa kia mẹ anh đã bày cho anh. Người mẹ yêu dấu của anh cũng có cái vẻ sáng rỡ như Katia, anh ta nghĩ như thế với một nỗi niềm luyến nhớ quê hương trong lúc cặm cụi tháo cái nút dây buộc. Cũng nước da Salave ấy. Cũng đôi mắt Slave ấy, và nhát là nụ cười mỉm ấy. Hai người phụ nữ Slave xinh đẹp.
Cuối cùng rồi anh ta cũng tháo được cái nút thắt, cuốn sợi dây lại để nó trên giường. Người đẹp của tôi ơi, nàng thông cảm cho tôi nhé, Landau nhủ thầm trong lòng với Ekaterina Orlova, tôi phải biết. Tôi không muốn dính dáng vào những gì không liên quan đến tôi. Tôi không thuộc loại người tò mò, nhưng tôi phải nói dối khi làm thủ tục hải quan, tôi cần phải biết cái vật mà tôi nói dối, như thế sẽ dễ dàng hơn.
Landau tháo lớp giấy kraft một cách cẩn thận để nó khỏi rách. Quả thật anh ta không coi mình là một vị anh hùng, ít ra chưa là một vị anh hùng. Những gì là một sự nguy hiểm cho một nhan sắc Nga, chưa hẳn cũng là một sự nguy hiểm đối với anh. Đúng là anh đã lớn lên trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Vùng East End ở Luân Đôn không phải là một nơi sống thoải mái cho một thiếu niên di dân mới mười tuổi đầu, và Landau đã từng bị sứt môi, gãy mũi, trật khớp, bong gân và bụng trống rỗng. Nhưng nếu bây giờ người ta hỏi anh định nghĩa một người anh hùng là như thế nào, anh sẽ trả lời không một chút do dự rằng đó là người đầu tiên chuồn ra cửa sau khi người ta kêu gọi một cách tình nguyện.
Dù sao đi nữa, khi nhìn nội dung gói đồ bọc trong lớp giấy kraft, Niki cầm chắc một điều: anh cảm thấy đầy hăng hái và sẵn sàng hoạt động. Anh ta sẽ tìm hiểu lý do sau. Nhưng nếu tối nay có một việc ám muội phải làm, thì Niki Landau là người của tình thế. Bởi vì một khi cảm thấy đầy hăng hái, Harry, không ai câu cá giỏi hơn Landau, tất cả đàn bà con gái đều biết điều đó…
Điều anh thấy trước tiên: đó là một phong vì và trong phong bì là ba quyển tập, tất cả được cột lại bằng một sợi dây thun lớn bản. Phong bì màu nâu, vuông vức và dán không kỹ, anh thấy điều đó trước tiên, bởi vì nó mang chữ viết của người thiếu phụ, nét chữ rõ ràng của một nữ sinh: “Thư riêng. Kính gửi ông Bartholomew Scott Blair. Khẩn”.
Landau lấy phong bì ra khỏi dây thun và đưa soi trước ánh đèn, nhưng vì phong bì màu nâu nhạt nên anh không thấy gì ở bên trong. Xoa xoa thử giữa ngón và ngón trỏ, anh đón nó có lót một tờ giấy mỏng, hai tờ là nhiều nhất. Anh ta nhớ lại câu: “Ông Scott Blair đã nhận trách nhiệm in quyển sách này với sự thận trọng cần thiết. Ông Landau, nếu ông là một người yêu chuộng hòa bình… ông hãy trao ngay lập tức bản thảo này cho ông Scott Blair. Trao tận tay. Đó là một bằng chứng của sự tín cẩn.”
Anh ta nghĩ: Nàng cũng tin cậy nơi ta. Khi lật phong bì lại, mặt sau không có chữ.
Vì người ta không thể biết gì nhiều với một phong bì màu nâu dán kín, và vì Landau có phương châm là không bao giờ đọc thư riêng của người khác, trong trường hợp này là của Barley, anh ta mở cặp da đựng giấy tờ của mình, lấy ra từ trong một ngăn, một phong bì bằng giấy thô màu vàng có in ở góc trên bề mặt: “M. Nicholas P. Landau”. Anh lấy phong bì màu nâu cho vào trong cái phong bì màu vàng đó, dán lại và
đề lên trên: “Barley”, rồi xếp vào cái ngăn mang chữ “Linh tinh” trong cái cặp. Ngăn này chứa đựng tất cả các thứ lặt vặt, từ các tấm danh thiếp mà những người không quen biết đã trao cho anh ta, cho đến những bản kê những vật dụng mà anh ta đã hứa mua cho mọi người, như một chủ Nhà xuất bản cần nhiều lố mực Parker, một cán bộ Bộ Văn hóa muốn có một cái T-shirt Snoopy cho cháu của ông ta, hay cái cô cán bộ Nhà xuất bản Tháng Mười đã đến gặp anh ta lúc anh thu xếp gian hàng của mình.
Landau có biện pháp đề phòng ấy, vì linh tính của một nghề nghiệp anh chưa bao giờ học, nhắc anh trước hết là phải xếp phong bì xa các quyển tập, càng xa càng tốt. Nếu các quyển tập có gì nguy hiểm, anh ta muốn không có điều gì có thể liên hệ giữa chúng với phong bì, và ngược lại, về điểm này anh ta hoàn toàn có lý. Các huấn luyện viên giàu kinh nghiệm hơn hết trong cơ quan tình báo, cũng không thể khuyến cáo anh một điều gì hơn.
Sau đó anh lắng nghe xem có tiếng chân đi trong hành lang hay không. Anh lấy ba quyển tập ra khỏi sợi dây thun. Ba quyển sổ tay loại giấy xấu, anh thầm nghĩ. Anh chọn quyển thứ nhất và lật một cách chậm rãi. Hai trăm hai mươi bốn trang khổ giấy in-quarto.
Cuối cùng anh ta mở quyển sổ ra và đọc trang đầu. “Con bé gàn thật” Landau nghĩ và cố nén sự bất bình của mình. “Nó ở trong tay một thằng khùng! Tội nghiệp con bé”.
Toàn là những câu vô nghĩa, viết nghuệch ngoạc không theo hàng lối, với một ngòi bút lông và mực tàu, viết ở ngoài lề, hàng ngang hàng dọc, ngay cả hàng chéo, giống như chữ viết khó đọc của bác sĩ. Tất cả đều điểm thêm những dấu than và những gạch dưới to tướng. Một phần bằng mẫu tự của dân Slave, một phần bằng tiếng Anh “Thượng đế tạo ra những Thượng đế con. Thực tại. Hư không. Phản thực tại”. Tiếp theo sau là một bài thơ kỳ cục bằng tiếng Pháp chống chiến tranh, và tiếp đó là những câu hỏi hỗn loạn không thể hiểu được. Hoan hô! Landau nghĩ và lật một trang, rồi một trang nữa. Cả hai trang đều đầy những chữ viết nghuệch ngoạc. Những câu trích trong các tác phẩm của các nhà văn Nga và châu Âu. Những lời bình phẩm về Nietzsche, Kafka và những người mà anh ta chưa bao giờ nghe nói đến. “Người già tuyên chiến, người trẻ chiến đấu. Bây giờ già trẻ đều tham gia chiến đấu”. Landau lật thêm một trang nữa và để ý ngay đến một vết tròn màu nâu. Anh đưa quyển sổ tay lên mũi và ngửi. Nó hôi mùi rượu. Hèn chi lão ta là bạn của Barley Blair, lão ta cũng là bợm rượu như Barley.
Trên trang tiếp theo là một bài thơ:
“Nó cuốn lại rồi bung ra,
Để lại dấu vết của nó trên đường.
Nhưng theo hướng nào? Đó là điều khó lường,
Mà con rắn gieo vài đám quần chúng chúng ta”.
Landau đứng dậy, giận dữ bước tới cửa sổ trông ra một cái sân đầy rác chưa được thu dọn.
“Harry, đúng là thơ của một thi sĩ gàn dở. Đó là những gì mà tôi có thể đánh giá. Một loại người nghiền ma túy mà tưởng mình là trí thức tài ba. Và con bé ngây thơ kia đã buôn mình vào vòng tay hắn”.
Cũng may cho con bé kia, vì trong phòng không có cuốn niên giám điện thoại của thành phố Matxcơva, nếu không, Landau đã gọi để cho nó biết cảm nghĩ của anh ta.
Giận dữ, Landau bỏ quyển sổ tay thứ nhất xuống, cầm quyển thứ hai lên, anh ta thấm nước bọt và lật hết trang này đến trang khác một cách khinh khỉnh. Cuối cùng anh ta để ý đến các đồ họa. Đột nhiên, xung quanh là bóng tối hoàn toàn, như có một màn bạc trống trơn ngay ở đoạn giữa của cuốn phim. Anh ta tự
nguyền rủa mình là một gã Slave hung hăng, nông nổi thay vì là một người Anh điềm tĩnh và phớt ăng-lê. Rồi anh ta ngồi xuống giường một cách thận trọng.
Nếu Landau khinh khi những gì mà anh ta thường cho là văn chương, trái lại anh rất quan tâm đến các đề tài kỹ thuật. Ngay cả khi anh ta không hiểu những gì anh ta đọc, anh ta vẫn đọc một cách thích thú một đề tài toán học trong suốt một ngày. Và anh ta hiểu, ngay khi mới nhìn qua, rằng những gì mở ra trước mắt có một giá trị lớn. Đây không phải là những đồ họa vẽ với những thước kẻ, nhưng các bức vẽ phác ấy gạch bằng tay, không dùng dụng cụ, lại càng thêm giá trị. Những đường tiếp tuyến, những parabol, những hình nón và ở giữa những hình ấy là những điều mô tả chi tiết như của các kiến trúc sư hay kỹ sư. Những từ như “điểm ngắm”, “khối lượng nguy kịch”, “sai số nhất định”, “trọng lực”, và “quỹ đạo”, một phần bằng tiếng Anh, một phần bằng tiếng Nga, Harry ạ.
Tuy nhiên, khi Landau so sánh nét chữ đẹp của quyển sổ tay thứ hai với nét chữ nghuệch ngoạc của quyển thứ nhất, anh ta ngạc nhiên xiết bao khi khám phá ra có một điểm tương đồng không thể chối cãi, đến nối anh ta có cảm giác như đang xem nhật ký riêng của một người mắc chứng loạn thần kinh.
Landau nghiên cứu quyển thứ ba, cũng có hệ thống và chính xác như quyển thứ hai, nhưng dưới hình một số nhật ký trên tàu thủy, thuật lại những luận lý toán học, những công thức và chữ “sai số” được lặp lại một cách thường xuyên và thường được gạch dưới, hay nhấn mạnh bởi một dấu than.
Rồi đột nhiên Landau trố mắt, bị mê hoặc và không thể không đọc tiếp. Sự tối nghĩa của những từ ẩn nghĩa được tác giả dùng, cuối cùng chấm dứt bằng một thành tích vĩ đại, cũng như những lời huyên thuyên về triết học và những đồ họa của tác giả. Bây giờ các chữ lộ ra một cách rõ ràng.
“Các nhà chiến lược Mỹ có thể ngủ yên giấc. Những cơn ác mộng của họ sẽ không bao giờ trở thành hiện thực. Liên Xô chỉ còn là một cường quốc hạng nhì như các nước Anh. Các ông hãy tin lời tôi”.
Landau không đi xa hơn. Một tình cảm tôn trọng người khác, cộng thêm một linh tính tự bảo vệ, khuyến cáo anh không đào sâu thêm nữa. Anh ta lượm sợi dây thun lên và buộc ba quyển sổ tay lại với nhau. Thế là xong, anh nghĩ thầm. Kể từ bây giờ tôi lo công việc của tôi và tôi làm tròn bổn phận của mình: tôi mang bản thảo này về nước Anh thân yêu của tôi và trao ngay lập tức cho ông Bartholomew biệt danh là Barley Scott Blair.
Barley Blair! Anh ta sửng sốt suy nghĩ trong lúc mở tỷ để lấy ra một cái valy lớn bằng nhôm, trong đó anh xếp các hàng mẫu. Thế thì tốt! Người ta thường tự hỏi, phải chăng người ta đã cài một điệp viên trong lòng chúng ta, và bây giờ, người ta đã biết.
Landau bình tĩnh một cách oai vệ, anh ta đoan quyết với tôi như thế. Con người Anh một lần nữa đã lại thắng thế con người Ba Lan nơi anh ta. Sau này anh ta đã nói với tôi: “Này Harry, nếu Barley có thể làm việc ấy, thì lúc đó tôi cũng đã tự nhủ rằng chính tôi cũng đủ khả năng gánh vác việc ấy”.
Anh ta để cái valy lên giường, mở khóa và lấy ra hai cái hộp đựng băng video mà các nhà chức trách Liên Xô đã ra lệnh cho anh không được trưng bày: một hộp về đề tài lịch sử mà họ cho là có tính cách tuyên truyền chống Liên Xô, và một hộp thứ hai là về đề tài thân thể con người với những hình ảnh các động tác luyện tập để cho có eo mà các nhà chức trách sau khi ngắm nghía một cách thèm thuồng người nữ huấn luyện viên trẻ trung, mềm dẻo, mặc áo nịt ngang hông xinh đẹp như một nữ thần, đã đánh giá là có tính cách khiêu dâm.
Hộp lịch sử bên ngoài giống như một quyển sách, và bên trong có nhiều cái túi đựng băng cát xét, các văn bản kèm theo, các phiếu chú thích. Landau lấy hết các thứ trong các túi ra và thử cho các quyển sổ tay vào trong đó, nhưng không có cái túi nào đủ rộng nên anh ta quyết định sửa hai cái túi thành một. Anh ta đi
lấy cái kéo cắt móng tay của mình và bắt tay ngay vào việc.
Barley Blair! Anh ta lại nghĩ khi đưa mũi kéo để cắt miếng ngăn ở giữa hai cái túi. Đáng lẽ mình phải sinh nghi. Gã Bartholomew Scott Blair, hậu duệ cuối cùng của nhà xuất bản Abercrombie and Blair: một điệp viên! Anh chàng mà thành tích vẻ vang cách đây hai năm, tại hội chợ triển lãm sách ở Belgrade, là đã thắng trong cuộc thi uống rượu Vodka làm cho Spikey Morgan nhào lăn xuống bàn, và sau đó chơi kèn saxo ténor rất hay, lại là một gián điệp! Một nhà quý phái gián điệp. Và bây giờ đây tớ lại làm con chim bồ câu đưa thư cho bồ của cậu!
Landau lấy các cuốn sổ tay và cố nhét vào chỗ anh ta vừa làm xong, nhưng không được. Anh lại phải ghép ba cái túi thành một cái.
Landau nghĩ thầm: Barley, cậu chơi trò bợm rượu, một trò ngốc nghếch! Thế mà chúng tớ đã tin điều đó như những thằng ngu xuẩn! Cậu đã phung phí gia sản, cậu làm cho công ty càng lúc càng thêm lỗ vốn. Đúng rồi! Nhưng bằng cách này hay cách khác, luôn luôn cậu xoay xở tìm một ngân hàng lớn để rút tiền đúng lúc, phải không? Và cái lối chơi cờ của cậu… Nếu Landau biết quan sát, thì đó là chứng cớ! Làm sao một người trở thành đần độn vì rượu lại có thể thắng cờ bất kỳ ai, nếu người đó không phải là một tên gián điệp được huấn luyện kỹ lưỡng?
Ba cái túi đã được làm thành một cái, trong đó các sổ tay nhét vào được chăng hay chớ. Nhãn vẫn được ghi là “Những chú thích dành cho sinh viên”.
Ngay bây giờ Landau đã lẩm nhẩm trang đầu những gì sẽ nói với nhân viên hải quan ở phi cảng Cheremetievo: “Ông thấy đó, đây là những mục chú thích đã được ghi rõ trên nhãn”. Những mục chú thích dành cho sinh viên. Đó là lý do vì sao có một cái túi riêng dành cho các mục chú thích. Và những mục chú thích mà ông đang cầm trong tay là công trình của một sinh viên đã thật sự có theo học khóa học này. Chắc ông hiểu, phải không? Và các hình vẽ, chúng có liên hệ đến…”
Nhưng còn một đêm dài đang chờ đợi anh ta và biết đâu sáng sớm ngày mai họ lại không đạp tung cửa, đột nhập vào phòng anh, tay cầm súng lục miệng hét lên: “Nào Landau, hãy giao các quyển sổ tay cho chúng tôi!”. Nếu xảy ra trường hợp ấy, cái hộp dán nhãn “Những mục chú thích” sẽ chẳng ích lợi gì. Landau nghĩ sẽ trả lời: “Các quyển sổ tay, thưa quý ông? Các quyển sổ tay? A, các ông muốn nói đến cái gói giấy má vô giá trị mà một thiếu phụ Nga xinh đẹp nhưng hơi vớ vẩn đã ép tôi phải nhận ở hội chợ triển lãm tối nay? Thưa quý ông, tôi nghĩ rằng quý ông sẽ tìm thấy chúng trong sọt giấy, nếu người bồi phòng chưa đem đi đổ!”.
Để đối phó với sự bất ngờ ấy, Landau dành cảnh một cách rất cẩn thận. Anh ta lấy các quyển sổ tay ra khỏi cái túi đựng cái hộp lịch sử, bỏ chúng vào trong cái sọt giấy như thể anh ta đã liệng chúng vào đó trong cơn giận dữ của mình khi mới đọc lần đầu. Để thêm phần dễ tin, anh ta cũng vào sọt giấy những tập quảng cáo thừa, cùng với một vài món quàn vô ích mà anh ta nhận được. Lại còn bỏ thêm vào cái sọt giấy một đôi tất mà chỉ một gã nhà giàu mới dám vứt đi.
Thêm một lần nữa, tôi phải thán phục cái biệt tài bẩm sinh của Landau.
Đêm hôm đó, anh ta không đi ra ngoài để vui chơi. Anh ta kiên nhẫn tự giam mình trong phòng khách sạn. Qua cửa sổ, anh ta nhìn hoàng hôn từ từ trở thành bóng tối. Anh ta pha trà và ăn một thỏi trái cây khô. Với nỗi nhớ nhung, anh ta nghĩ đến cuộc chinh phục êm đềm hơn hết trong các cuộc chinh phục các cô bạn nhỏ của anh ta. Anh ta gồng mình chịu đựng, gợi lại cuộc đời thơ ấy gian khổ của mình để tự an ủi. Anh ta kiểm điểm lại những đồ vật trong ví, trong cặp da và trong các túi của mình. Rồi anh ta nằm dài trên giường. Từng lúc, anh ta cảm thấy cảm đảm, và có những lúc khác, anh ta lại lo sợ, đến nỗi phải bấm móng tay vào lòng bàn tay để khỏi bị run rẩy.
Chỉ một lần, trong một lúc tinh thần suy nhược, Landau chợt nghĩ tới việc đến Sứ quán Anh để xin sự giúp đỡ của chiếc valy ngoại giao. Nhưng sự yếu hèn tạm thời làm cho anh ta nổi giận. “Cầu cạnh bọn người đê tiện ấy sao?” Landau tự nhủ với vẻ khinh bỉ. “Những kẻ đã trục xuất cha ta về Ba Lan sao?”
Và dù sao đi nữa thì đó không phải là cách mà người thiếu phụ áo xanh đã yêu cầu anh ta làm.
Sáng hôm sau, Landau diện bộ complê bảnh nhất của mình và cho tấm ảnh của mẹ anh ta vào trong túi áo sơmi, để linh hồn bà phù hộ cho anh thêm nghị lực đi làm nhiệm vụ.
Anh ta bước trên con đường Matxcơva ấy, dáng đi ung dung, tay xách cái valy bằng nhôm, quên tất cả những gì chứa đựng trong đó, nhưng sẵn sàng liều mình, bất chấp mọi việc có thể xảy ra.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 2:
Toàn thể Whitehall đồng thanh nói rằng không bao giờ có một sự việc bắt đầu như thế này. Các vị bộ trưởng liên quan đến sự việc bừng bừng nổi giận. Các ngài cử một ủy ban điều tra tối mật để khám phá sự sai lầm sơ khởi, thu thập các lời khai, tìm ra tên những người liên hệ, bất kể người đó là ai, buộc tội, làm rõ những vùng bóng tối, ngăn chặn mọi sự tái phạm. Các ngài cử tôi làm chủ tịch ủy ban điều tra và trình lên các ngài một bản báo cáo. Những kết luận của ủy ban điều tra ấy sẽ được giữ bí mật.
Theo ngôn ngữ ít trau chuốt của Ned và các đồng sự của anh ta: “Tất cả bắt đầu bởi một sự ngu đần không thể tưởng tượng vào một ngày Chủ nhật đẹp trời, khoảng giữa 17 và 20 giờ rưỡi, một tên Nicholas P.Landau nào đó, một công dân và là người đóng thuế sòng phẳng, không có vết tích trong phiếu lý lịch tư pháp, mặc dù là gốc người Ba Lan, đến cửa bốn Bộ trong Whitehall - không ít hơn bốn Bộ - và năn nỉ nhân viên bảo vệ cho hắn ta được tiếp xúc khẩn cấp với một sĩ quan tình báo Anh quốc. Hắn ta bị nhạo báng, chê cười, bị đẩy ra ngoài, thậm chí bị ngược đãi. Hai nhân viên bảo vệ của Bộ Quốc Phòng còn dùng cả vũ lực, chộp cổ áo véttông của hắn ta để tống ra ngoài, như lời của Landau đã khẳng định, nhưng theo lời khai của hai nhân viên bảo vệ trình bày với ủy ban điều tra thì họ đã giúp Landau tìm lối đi ra.”
Ủy ban hỏi:
- Nhưng vì sao các người lại đối xử với ông ấy như thế?
- Thưa quý vị, vì ông Landau từ chối không cho chúng tôi khám xét cái cặp da của ông ta xem trong có những gì. Đúng là ông ta có đề nghị giao cái cặp ấy cho chúng tôi giữ, với điều kiện là ông ta vẫn giữ chìa khóa. Nhưng như thế là trái với qui định. Và cũng quả thật ông ta có lắc lắc cái cặp trước mặt chúng tôi, đã bóp bóp nó, đã liệng nó lên cao và giật lại, rõ ràng là để chứng tỏ với chúng tôi là no không đựng vật gì nguy hiểm. Nhưng như thế cũng không đúng theo quy định. Và khi chúng tôi muốn ông ta giao cái cặp da ấy cho chúng tôi, ông ta đã kháng cự và bắt đầu la hét với giọng của người nước ngoài, làm huyên náo.
- Nhưng ông ta hét lên những gì? Ủy ban hỏi, bất bình với ý nghĩ là người ta lại có thể to tiếng lại Whitehall.
- Dạ, thưa quý vị trong ủy ban, ông ta la lối om sòm. Chúng tôi chỉ có thể hiểu được rằng ông ta bảo cái cặp da của ông ta đựng những tài liệu tối mật do một phụ nữ người Nga trao cho ông ta ở Matxcơva.
Ngay cả tại bộ ngoại giao, chỉ sau khi hết lời van nài, Landau mới tiếp xúc được với ngài Palmer Wellow.
Nếu Landau đã không dùng một chiến thuật mới, chắc chắn bao nhiêu lời lẽ của anh ta cũng vô ích. Nhưng lần này anh ta mở cặp da ra và để lên bàn để cho nhân viên bảo vệ trực nhật khám xét. Sau khi kiểm tra thấy màu nâu, người bảo vệ nói:
- Hãy trở lại vào ngày thứ Hai, khoảng giữa 10h và 17h.
Nói xong, người bảo vệ lui vào trong bót gác chỉ sáng mờ mờ.
Hàng rào cản hé mở. Landau liếc mắt nhìn quanh người bảo vệ, rồi đột ngột, anh ta chộp cái cặp da, vượt rào cản, co giò chạy băng qua cái sân vuông như một con sơn dương, và leo lên như bay các bậc cấp
dẫn đến tiền sảnh uy nghi. Lần này anh ta gặp may mắn. Palmer Wellow thuộc cánh trung dung ở bộ Ngoại giao. Và chính hôm nay lại là phiên trực của ông. Ông bước xuống tầng cấp khi trông thấy Landau mặt đỏ rần, thở dốc, hai bên anh ta có hai cảnh binh oai vệ sẵn sàng đối phó nếu cần.
- Lạy Chúa! Ông đã tự đặt mình vào một tình thế rắc rối đấy, ông có biết không? Tôi là Wellow. Tôi là Thứ trưởng trực ở đây, ông vừa nói vừa đưa tay về phía Landau. - Tôi không muốn gặp một Thứ trưởng - Landau nói. - Tôi muốn gặp một sĩ quan cao cấp, chứ không muốn gặp ai khác.
- Nhưng Thứ trưởng cũng là một cấp khác cao - Palmer khẳng định với một giọng khiêm tốn - Xin ông đừng hiểu lầm danh từ.
Ủy ban điều tra chúng tôi phải thừa nhận rằng cho đến lúc này, tiết mục nhỏ của Palmer Wellow không chê được một chút nào. Ông ấy biết tỏ ra hài hước để đạt được hiệu quả, và không phạm một sơ suất nào. Ông dẫn Landau vào trong một phòng thẩm vấn, mời anh ta ngồi, và đối xử với anh ta một cách ân cần, bảo người tùy phái mời anh ta một tách nước trà đường và một cái bánh bích quy để giúp anh ta bình tĩnh trở lại. Dùng một cây bút máy đắt tiền do một người thân tặng, ông ghi tên và địa chỉ của Landau, cũng như của các hãng nơi anh ta đã làm việc, số giấy thông hành, năm và nơi sinh của anh ta: 1930, Varsovie. Ông giải thích là ông không biết gì về các vấn đề của cơ quan tình báo, nhưng cam kết sẽ giao các tài liệu của Landau cho “các nhà chức trách có thẩm quyền” và chắc chắn họ sẽ dành cho các tài liệu ấy sự chú ý đặc biệt. Và theo thỉnh cầu của Landau, ông viết một biên nhận trên một tờ giấy mỏng màu xanh của bộ Ngoại giao, ký tên và lệnh cho người tùy phái đi đóng dấu, ghi ngày giờ. Ông nói thêm, nếu các nhà chức trách cần những thông tin đầy đủ hơn, chắc chắn người ta sẽ liên lạc với anh, có thể đơn giản là bằng điện thoại.
Đến lúc ấy, Landau mới quyết định trao phong bì màu nâu và ba quyển sổ tay cho ông Thứ trưởng. Anh ta đau nhói trong tim khi nhìn bàn tay ông Palmer cầm các tài liệu ấy một cách thờ ơ.
Nhìn thấy cái tên ghi trên phong bì, Palmer hỏi:
- Vì sao ông không giao trực tiếp cho ông Scott Blair?
- Đó là những gì tôi đã cố làm, nhưng không làm được. Tôi đã có trình bày với ông Thứ trưởng rồi mà. Tôi đã gọi điện thoại khắp nơi, tôi đã gọi ba mươi sáu lần. Ông ta không có ở nhà, không có ở sở làm việc, không có ở câu lạc bộ, không có ở đâu cả - Landau phát cáu, quên cả văn phạm - Tôi gọi cả ở phi cảng. Vẫn biết, thứ Bảy khó gặp lắm.
- Hôm nay là Chủ Nhật, - Palmer cải chính và mỉm cười khoan dung.
- Thế thì hôm qua là thứ Bảy, không phải hay sao? Tôi gọi đến những người quen biết ông ta. Tôi tra niên giám điện thoại. Tìm thấy số điện thoại của một người tên là Archie Parr. Tôi gọi: “Archie, làm ơn cho tôi biết Barley hiện ở đâu? Tôi cần gọi điện thoại cho ông ta. Rất khẩn cấp”. Archie trả lời: “Ông ta đã trốn đi đâu biệt tích từ mấy tuần nay rồi. Niki, anh không biết là ông ta thường tạm lánh đi đâu đó một ít lâu như thế sao?”. Gọi đâu cũng không có kết quả. Tôi đâm ra nghĩ, hay là ông ta là một…
- Là một gì? - Palmer băn khoăn hỏi.
- Như Archie Parr đã nói đó. Scott Blair đã biến mất, phải không nào? Ông ta đã làm điều đó. Chắc chắn ông ta có những lý do để biến mất, những lý do mà ông Thứ trưởng không biết, vì ông không xem là mình phải biết. Có thể có những mạng người đang lâm nguy… và không phải chỉ có mạng của Scott Blair! Những tài liệu này là tối khẩn theo như thiếu phụ kia đã nói. Và tối mật. Thế thì ông hãy chuyển ngay các tài liệu này cho cơ quan tình báo, tôi van ông đấy, ông Thứ trưởng.
Tối hôm ấy, chẳng có bao nhiêu biến cố trên thế giới, ngoại trừ một cuộc khủng hoảng thuộc loại chán ngắt ở vùng Vịnh và một vụ xì căng đan tài chính ở Washington. Palmer đến dự một dạ hội tại Montpelier Square, do các cựu sinh viên đại học Cambridge đồng khóa với ông tổ chức. Họ là những người còn độc thân vui nhộn như ông.
Đêm đã khuya, khi chơi vài khúc nhạc của Chopin, vì liên tưởng, Palmer sực nhớ lại Landau. Ông ta bèn hỏi:
- Này các bạn, có ai trong các bạn biết một người tên là Scott Blair không? Không ai nhớ Scott Blair ở Cambridge sao?
- Ờ, tớ nhớ ra rồi - một người bạn trả lời, - Vài năm trước chúng tớ ở Trinity College. Anh ta muốn sống bằng nghề chơi kèn saxo. Nhưng ông già của anh ta phản đối. Đúng, đúng, Barley Blair… Luôn luôn say sưa từ sáng sớm.
Wellow hỏi:
- Có phải là một tên gián điệp ghê gớm không?
- Người cha ấy à? Ông ta chết rồi.
- Đồ ngốc! Tớ hỏi về người con, Barley ấy?
- Tớ không biết Barley có phải là một tay gián điệp ghê gớm hay không - anh bạn học của Palmer từ hồi còn học ở Trinity College nói. - Nhưng tớ biết hắn là một kẻ không thành đạt vì thiếu tài năng và may mắn.
Palmer, mà bây giờ tính hiếu kỳ được kích thích, trở về căn hộ rộng thênh thang của mình tại Bộ Ngoại giao, lấy lại các quyển sổ tay và phong bì của Landau mà ông đã giao cho người tùy phái giữ. Kể từ lúc đó, cách hành động của Palmer thật đáng chê trách; hay theo lời lẽ sống sượng của Ned và các đồng nghiệp của anh ta, trong bất cứ một nước văn minh nào, P.Wellow cũng đáng bị cột hai ngón tay cái lại với nhau và treo lên một trong các nhà cao hơn hết của thành phố để ông ta suy ngẫm về các hành vi sai trái của ông ta.
Thực tế suốt hai đêm và một ngày rưỡi, Palmer giải trí bằng cách đọc các quyển sổ tay mà ông ta thấy nội dung rất vui. Ông ta không mở cái phong bì màu nêu - trên đó Landau đã viết: “Tối mật. Người nhận: Ông Scott Blair, hay một vị chỉ huy cao cấp của cơ quan tình báo” - vì Palmer cũng như Landau, thuộc loại người cho việc đọc thư riêng của người khác là bất lịch sự. Nhưng quyển sổ tay thứ nhất biểu lộ một sự khinh khi đối với các nhà chính trị và quân sự, đầy dẫy những trích dẫn và những câu châm ngôn, ngạn ngữ phi lý đã mê hoặc ông ta.
Ông ta không thể nắm bắt được sự khẩn cấp của tình thế và trách nhiệm của ông ta. Ông ta là một nhà ngoại giao, chứ không phải là một “Người bạn” như người ta gọi các điệp viên. Theo Palmer, các “Người bạn” là một loại người hoàn toàn không có động lực trí thức. Nói thật, ông ta phàn nàn rằng chế độ cao quý của Bộ Ngoại giao mà ông ta là thành phần, càng lúc càng làm bình phong che chở của các “Người bạn”. Quả thật, Palmer là một người học rộng. Ông ta đã học tiếng Ả rập, đậu hạng ưu về lịch sử hiện đại, học tiếng Nga và tiếng Phạn, nhưng rất kém về môn toán, điều đó giải thích vì sao ông ta đã bỏ những trang nhạt nhẽo về các công thức đại số, các phương trình và các biểu đồ là phần cốt yếu của hai quyển sổ tay khác. Điều đó cũng giải thích vì sao Palmer quyết định không đếm xỉa gì đến Điều lệnh liên quan đến những người tự rời bỏ hàng ngũ và sự cung cấp những tin tức tình báo theo yêu cầu hay tự nguyện, và Palmer đã hành động theo ý thích của mình.
Giữ lại các tài liệu ấy để đọc từ tối Chủ nhật cho đến sáng thứ Ba, Palmer mới nghĩ rằng đã đến lúc phải
nói chuyện với một bạn đồng nghiệp nào đó về các tài liệu quý giá mà ông đã thủ đắc. Thế là Palmer đã nói với một bạn đồng nghiệp ở bộ phân nghiên cứu:
- Này Tig, nhất thiết anh phải đọc các tài liệu này - Trong tất cả các lĩnh vực, ông ta đều có đưa ra những tương quan theo lối suy nghĩ hoàn toàn lệch lạc.
- Nhưng làm sao anh biết đó là một người đàn ông, Palms?
Người bạn đồng nghiệp của Palmer đọc quyển thứ nhất, quyển thứ hai, ngồi xuống và nghiên cứu rất lâu quyển thứ ba. Rồi trở lại quyển thứ hai để nghiên cứu các biểu đồ. Lúc đó, với kinh nghiệm nghề nghiệp, ông ta biết mình đang đứng trước một tình thế rất nghiêm trọng. Ông ta nói:
- Này Palms, ở vào địa vị của anh, tôi sẽ chuyển tất cả cho họ ngay lập tức.
Nhưng sau khi suy nghĩ, ông ta đã đích thân gọi điện thoại cho Ned theo đường dây trực tiếp và yêu cầu Ned đợi mình.
Hai ngày sau, hiệu lệnh sửa soạn cuộc chiến được ban ra. Bốn giờ sáng thứ Tư, đèn còn sáng ở tầng chót một ngôi nhà nhỏ bằng gạch ở khu phố Victoria, chi nhánh do Ned chọn, ở đó vừa chấm dứt trong sự kinh hoàng tập thể, cuộc họp đầu tiên của toán đặc nhiệm đảm trách chiến dịch, sau này được mệnh danh là “Chim Xanh”. Năm giờ sau đó, trong hai cuộc họp khác tại tổng hành dinh của cơ quan Tình báo ở một cái
tháp mới trên Embankment, Ned lại ngồi sau bàn giấy của mình, bao quanh bởi những chồng hồ sơ dày cộm, giống như những chướng ngại vật.
Ned nói với Brock, viên phụ tá tóc hoe của ông ta:
- Có thể Trời cũng không xâm nhập được, nhưng cách ông ta chọn các Joes của mình còn khó xâm nhập hơn!
Trong ẩn ngữ của nghề nghiệp, một Joe là một nguồn cung cấp thông tin, theo tiếng thông thường: Một điệp viên. Khi nói đến Joe, phải chăngd ám chỉ Landau? hay Katia? hay tác giả vô danh của các quyển sổ tay? Hay ông ta đã chỉ đích danh nhân vật còn trong bóng tối lờ mờ: nhà quý phái - điệp viên lớn của nước Anh là Bartholomew Scott Blair? Brock không biết điều đó và cũng không cần phải biết. Một tuần trôi qua trước khi Ned quyết định - không phải không có những sự thận trọng thường lệ - mời “ông già Palfrey đến cộng tác”. Đã từ lâu lắm rồi, tôi luôn luôn là cái “ông già Palfrey ” ấy.
- “Ông già Palfrey” ở đâu rồi? Hãy đi mời cái ông cử nhân luật ấy đến đây. Việc kia thuộc phần của Palfrey.
Vài hàng đủ để tôi tự giới thiệu. Không cần phải mất nhiều thì giờ. Tôi tên là Horatio Benedict de Palfrey. Nhưng trong cơ quan, người ta gọi tôi với cái ẩn danh Harry. Cố vấn pháp luật tại cơ quan tình báo.
°
Niki Landau được gọi đứng dưới lá cờ Anh quốc đúng bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau khi các quyển sổ tay đáp xuống trên bàn giấy của Ned. Kể từ khi gặp bao nhiêu khó khăn vất vả ở Whitehall, Landau sinh bệnh vì tức giận và nhục nhã. Anh ta đã không đi làm việc trở lại và bỏ bê căn họ nhỏ của mình ở Golder Green, mà thường lệ anh ta chăm sóc dọn dẹp, yêu dấu như con người mình. Ngay cả Lydia cũng không thể kéo anh ta ra khỏi sự ưu sầu. Tôi đã vội vã xin phép Bộ Nội vụ được nghe lén đường dây điện thoại của anh ta. Và khi Lydia điện cho anh ta, chúng tôi nghe Landau trả lời từ chối không tiếp cô ta. Và khi cô ta xuất hiện nơi cửa nhà anh, các nhân viên tình báo của chúng tôi báo cáo rằng anh ta chỉ để Lydia vào nhà
đủ thời gian để uống một tách trà, rồi tiễn cô ta ra ngay.
Các mật báo viên nghe Lydia buồn bã nói:
- Em không biết em đã làm điều gì sai trái, nhưng em xin lỗi anh.
Lydia vừa ra đến ngoài đường thì Ned gọi điện cho Landau:
- Alô, Niki Landau? - Giọng của Ned rất nghiêm nghị.
- Ông muốn gì? - Landau vặn lại.
- Tôi là Ned đây. Chúng ta có một người bạn chung, tôi tin như thế. Không cần phải nêu tên. Ông đã có nhã ý để lại bức thư cho ông ấy hôm kia. Sự việc không được rõ ràng, tôi phải thú thật điều đó. Còn có cả một gói đồ nữa.
Giọng nói của Ned hấp dẫn Landau ngay lập tức. Một giọng nói quả quyết, đầy uy quyền. Giọng nói của một quý ngài đàng hoàng, Harry ạ, chứ không phải một kẻ vô liêm sỉ.
- Vâng, đúng như thế - Landau bắt đầu.
Nhưng Ned đã nói chặn lại:
- Không cần đi vào chi tiết bằng điện thoại. Nhưng chúng ta cần gặp nhau để nói chuyện nhiều, và tôi thiết tưởng tôi phải cám ơn ông, càng sớm càng tốt. Khi nào ông rảnh?
- Khi nào ông muốn cũng được. - Landau đáp.
- Không bao giờ được để đến ngày mai… Bây giờ, ông có bằng lòng không?
- Ned, ý kiến của ông rất hay!
- Tôi cho xe đến đón ông ngay lập tức. Ông hãy ở nhà và đợi tiếng còi. Sẽ là một chiếc Rover màu xanh lục, biển số B. Tài xế tên là Sam. Nếu ông có chút nghi ngờ nào, hãy bảo anh ta xuất trình chứng minh thư. Và nếu như thế vẫn chưa đủ, thì hãy gọi số điện thoại ghê trên chứng minh thư ấy được chưa?
- Người bạn chung của chúng ta mạnh giỏi chứ? - Landau hỏi, nhưng Ned đã cúp máy.
Hai phút sau tiếng còi vang lên. Sự thật thì chiếc xe đã đợi nơi góc đường, Landau nghĩ trong lúc bước xuống cầu thang như đang đi trong một giấc mộng. Được rồi, ta đang ở trong tay những người nhà nghề, Landau thầm nghĩ. Anh ta được đưa đến một ngôi nhà nằm trong một ốc đảo vừa mới được sửa sang lại tại khu phố sang trọng Belgravia. Vào lúc hoàng hôn trắng lấp lánh như mời gọi Landau. Lâu đài của những quyền lực bí mật cai trị sự tồn tại của chúng ta. Ở cửa, một tấm bảng đồng láng bóng, đề chữ: “Cơ quan liên lạc với người nước ngoài”. Khi Landau bước chân lên các bậc cấp và bước vào nhà, một người mặc đồng phục liền đóng cửa lại. Landau thấy một người đàn ông bước tới để đón tiếp mình. Ông ta người dong dỏng cao, độ bốn mươi tuổi, nghiêm nghị và khỏe mạnh. Landau đánh giá cao cái bắt tay nhã nhặn nhưng cứng rắn, như cái bắt tay của một sĩ quan hải quân.
- Tuyệt vời, Niki! Mời vào.
Một giọng nói khả ái không phải khi nào cũng đi đôi với một khuôn mặt khả ái, nhưng Ned có cả hai cái đó. Đi theo ông ta đến cài bàn giấy hình bầu dục, Landau có cảm giác rằng con người này luôn luôn sẽ đứng về phía mình. Landau nhận thấy nhiều chi tiết nơi Ned làm cho anh ta có cảm tình ngay lập tức: cái
vẻ duyên dáng và tế nhị, sự quả quyết bình tĩnh của một cấp chỉ huy. Anh cũng khám phá ra Ned biết nói nhiều thứ tiếng như chính anh. Nếu anh nêu ra một từ hay một từ ngữ bằng tiếng Nga, thì Ned lập tức tán thưởng bằng một nụ cười và đáp lại cũng bằng thứ tiếng ấy. Đó là một người thuộc phe chúng ta, Harry ạ.
Nếu chúng ta biết được một điều bí mật nào, chúng ta phải thổ lộ với ông ấy, chứ không phải với cái tên hèn hạ kia ở Bộ Ngoại giao.
Cho đến khi Landau bắt đầu nói, anh ta không nhận thức được anh cần tin cậy vào Ned đến mức nào. Hễ anh ta mở miệng ra, không còn gì có thể ngăn chặn anh ta lại nữa. Anh ta nghe chính chuyện của mình với sự ngạc nhiên, vì anh ta thuật lại chuyện Katia, các quyển sổ tay, vì sao anh ta đã giấu các tài liệu này, và anh đã giấu nó như thế nào. Anh cũng nói về cuộc đời của mình, về nỗi khó chịu do gốc gác Slave của mình gây nên, nói về lòng yêu nước Nga của mình và tình cảm của mình bị xâu xé giữa hai nền văn hóa. Tuy nhiên Ned không thúc đẩy, cũng không ngăn cản Landau. Ông ta là một thính giả bẩm sinh, biết im lặng lắng nghe. Ông ta chỉ ghi một cách rất tế nhị vài điều vào những tờ phiếu nhỏ, và chỉ ngắt lời Landau một cách hiếm hoi, để làm sáng tỏ một điểm chi tiết - thí dụ như lúc ở phi cảng Cheremetievo, khi Landau đi qua các ghisê mà không bị kiểm soát gì cả.
- Có phải tất cả những người trong đoàn của ông, ai cũng đi qua các ghisê một cách dễ dãi như ông không?
- Tất cả. Chỉ một cái hất đầu ra hiệu, và tất cả chúng tôi đều đi qua một cách tuyệt đối dễ dàng. - Ông không cảm thấy một mình ông được biệt đãi sao?
- Về phương diện nào?
- Ông không có ấn tượng rằng sự đối xử ấy chỉ áp dụng cho một mình ông sao? Một lối đối xử đặc ân.
- Hoàn toàn không có. Họ đã lùa chúng tôi đi ngang qua như một đàn cừu, tôi muốn nói như một bầy cừu… Họ trả hộ chiếu lại cho chúng tôi và không đòi hỏi gì thêm nữa.
- Ông có để ý đến các đoàn người khác mà họ cũng cho đi qua mau như thế không?
- Người Nga có vẻ rất thoải mái. Có lẽ vì hôm đó là thứ Bảy, lại là mùa hè, hay có thể là vì có chính sách glasnost. Thỉnh thoảng họ có kéo vài hành khách đứng riêng ra, lục soát và để cho các hành khách khác đi qua. Thú thật tôi đã cảm thấy kỳ cục. Nếu tôi biết trước như thế này, thì tôi đã không nhọc công sắp đặt tất cả mọi sự đề phòng ấy.
- Ông không kỳ cục đâu. Ông đã hành động một cách tuyệt diệu. - Ned nói và ghi vài hàng vào phiếu, rồi hỏi thêm:
- Ở trong máy bay, ai ngồi hai bên ông, ông có nhớ không?
- Spilkey Morgan.
- Còn phía bên kia?
- Không ai cả. Tôi ngồi kế bên cửa sổ.
- Ông có nhớ số ghế ông ngồi không?
Landau nói ngay số ghế. Anh ta có thói quen lấy số ghế như nhau trong mỗi lần đi máy bay, nếu có thể được.
- Ông có nói chuyện với người ngồi bên cạnh không?
- Có. Nói rất nhiều.
- Về vấn đề gì?
- Ôi chao! Nhất là về vấn đề đàn bà. Đêm hôm trước, Spilkey xách hành lý đến Notting Hill ngủ với hai gái ăn sương - Ned mỉm cười thích thú.
- Ông có nói chuyện về các quyển sổ tay với Spilkey không? Vì lúc đó ông đã cảm thấy nhẹ nhõm rồi. Niki,… trong tình huống ấy… ông thổ lộ… đó là một điều tự nhiên.
- Ned. Điều đó không hề thoáng qua trong đầu óc của tôi. Tôi đã không tin cậy bất cứ ai. Tôi đã không thổ lộ và sẽ không bao giờ thổ lộ với bất cứ ai. Tôi tin cậy ông, bởi vì người bạn chung của chúng ta đã biến mất và vì ông là một nhà chức trách có thẩm quyền về việc này.
- Còn Lydia?
Sự đụng chạm đến danh dự của Landau làm cho anh ta tạm thời không còn khâm phục Ned nữa, và đồng thời cũng ngạc nhiên thấy Ned biết rất rõ đời tư của anh đến thế nào.
- Ned, những người đàn bà mà tôi có quan hệ, biết vài điều nhỏ nhặt về tôi, chuyện đó đúng, và chắc chắn họ tin rằng họ biết được nhiều hơn. Nhưng tôi không bao giờ cho họ biết được những điều bí mật của tôi.
Ned tiếp tục ghi chép. Và một cách nào đó, những cử động chính xác của cây bút máy của ông ta, cộng thêm sự khôn khéo của Ned sợ rằng Landau có thể phạm một sơ hở nào đó, càng khuyến khích Landau tỏ ra tò mò muốn tìm hiểu Ned nhiều hơn. Anh ta đã để ý thấy vẻ mặt điềm đạm và quả quyết của Ned có vẻ khựng lại khi anh ta nêu lên cái tên Barley.
- Quả thật Barley mạnh khỏe chứ, ông Ned? Chẳng có điều gì xảy đến với ông ta chứ? Ned có vẻ như không nghe, và cầm lên một phiếu mới để ghi chép.
Landau hỏi tiếp:
- Tôi tin rằng Barley đã cầu cứu với Sứ quán, phải không? Một người nhà nghề như ông ta, không bao giờ nên chơi cờ giữa công chúng, nêu ông muốn biết ý kiến của tôi. Chính điều đó đã tố cáo ông ta.
Chỉ đến lúc ấy Ned mới ngẩng mặt lên hỏi các giấy má của ông ta, và Landau thấy vẻ mặt lạnh lùng của ông ta còn dễ sợ hơn cả những lời ông ta nói:
- Niki, ở đây không bao giờ người ta nêu đích danh ai. Ngay giữa chúng ta với nhau cũng thế. Lẽ tất nhiên ông không có lỗi, vì ông không biết điều đó. Nhưng đừng vi phạm nguyên tắc ấy lần nữa.
Rồi, chắc thấy hiệu quả gây nên bởi thái độ của mình, Ned đứng lên, đi lấy một chai rượu nho trắng Tây Ban Nha để trên một cái bàn gỗ nhỏ, rót hai ly đầy và đưa mời Landau một ly. Ông ta nói:
- Vâng, ông ấy vẫn mạnh khỏe.
Hai người lặng lẽ nâng cốc chúc sức khỏe người bạn chung, còn cái tên Barley thì Landau đã mười lần thề thầm trong lòng rằng sẽ không bao giờ nói ra nữa.
Ned tuyên bố:
- Chúng tôi không muốn ông tới Gdansk tuần sau. Chúng tôi đã cho lấy một giấy chứng nhận của bác sĩ, và lẽ tất nhiên chúng tôi sẽ tặng ông một số tiền bồi thường. Ông bị bệnh. Có thể bị ung thư. Từ nay ông sẽ không đi làm việc, đồng ý chứ?
- Tùy ý ông - Landau đáp.
Trước khi ra về, lẽ tất nhiên Landau phải ký tên vào một tờ cam kết theo đúng bản Điều lệ về sự giữ bí mật. Đó là một văn bản lời văn cầu kỳ với những danh từ pháp lý, cốt để gây ấn tượng với người ký tên vào tờ cam kết.
Sau đó Ned ngắt các micrô và camêra viđeô giấu kín mà tầng lầu thứ mười hai đã đòi hỏi. Cho đến lúc này, Ned đã hành động một mình, đó là đặc quyền của ông với tư cách là chỉ huy. Những người có nhiệm vụ tiếp xúc với các người khác, trước hết là với những người hoạt động đơn lẻ. Ngay cả ông già Palfrey kia, Ned cũng chưa gọi đến. Chưa…
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 2 (Tt):
Nếu Landau đã cảm thấy bị bỏ rơi cho đến chiều hôm ấy, thì nay anh ta đã được chiếu cố suốt thời gian còn lại của tuần lễ. Ned gọi điện cho anh ta vào sáng hôm sau, để yêu cầu anh ta - với lời lẽ nhã nhặn quen thuộc - đến một địa chỉ ở Pimlico, mà khi đến, anh ta mới biết đó là ngôi nhà thời năm 1930 với những cửa sổ hình vòng cung, sườn sắt sơn xanh và một tiền sảnh giống như của một rạp xinê. Với sự hiện diện của
hai người đàn ông mà Ned không giới thiệu với Landau, ông ta yêu cầu anh thuật lại chuyện của anh, rồi sau đó giao anh cho hai người đàn ông ấy hỏi cung.
Người đầu tiên hỏi Landau là một người có đôi mắt sáng ngời và hai má hồng đào như má của con nít, vẻ mặt dễ xúc động, và giọng nói có âm điệu như hát. Ông ta mặc áo vét tông bằng vải xanh, hài hòa với màu tóc vàng nâu của ông ta.
Ông ta bắt đầu hỏi:
- Ông có nói cô ta mặc một cái áo màu xanh, có đúng như thế không? Nhân tiện tôi xin tự giới thiệu tôi tên là Walter - Ông ta nói thêm.
- Dạ thưa ông, đúng như thế.
- Ông có chắc không?
- Dạ thưa ông, tuyệt đối chắc. Cô ta cầm một cái túi lưới màu ma-rông. Thông thường các cái túi đựng đồ mua sắm hàng ngày ấy bằng lưới, nhưng cái của cô ta lại bằng chất dẻo. Lúc đó tôi đã tự nhủ: “Thôi đi, Niki, không phải lúc. Nhưng nếu sau này, biết đâu, mày muốn thử thời vận với cô ta, thì mày phải mang từ Luân Đôn đến đây, tặng cô ta một cái xắc tay thật đẹp, màu xanh, hợp với cái áo dài của cô ta”. Đó là lý do vì sao tôi nhớ rõ màu áo của cô ta.
Ngay cả bây giờ, khi tôi cho chiếu lại các cuốn băng, tôi thấy thật kỳ cục, Landau một điều “thưa ông” hai điều “thưa ông” với Walter, trong khi anh ta luôn luôn gọi Ned bằng tên. Nhưng đó không phải là một dấu hiệu kính trọng đối với Walter, mà đó chỉ là một dấu hiệu khó chịu mà Walter đã gây nên cho anh ta. Sau hết, Landau là một con người thích đàn bà, mà Walter thì trái lại.
- Và tóc đen, có đúng như thế không?
- Dạ thưa ông, đúng như thế. Đen bóng. Gần như màu cánh quạ. Tôi chắc như vậy. - Tóc nhuộm?
- Nếu là tóc nhuộm thì tôi đã có thể nhận ra.
- Ông có nói cô ta là người ở Leningrad. Vì sao ông biết?
- Thưa ông, dáng điệu, phong thái của cô ta khiến tôi nhận ra gốc gác của cô ta. Lúc đó tôi có trước mắt tôi một phụ nữ người Nga từ Rome đến, nếu so sánh thì tôi so sánh như vậy. Tôi đã thấy cô ta như thế đó. Và tôi nhủ thầm: Saint Pétersbourg.
- Ông không nhận thấy cô ta là một người gốc Arménie? Géorgie? hay Do Thái sao?
Landau ngẫm nghĩ đến sự gợi ý sau cùng, nhưng rồi cũng bác bỏ một cách nhanh chóng.
- Chính tôi đây là người Do Thái. Tôi không dám tự phụ rằng chỉ một người Do Thái mới nhận ra được một người Do Thái khác, nhưng lúc đó tôi đã không cảm thấy có âm hưởng nào dội lại nơi tôi như vậy.
Sự im lặng tiếp theo sau đó, có lẽ đượm sự khó chịu, cho nên Landau nói tiếp:
- Nói cho đúng, tôi thiết tưởng tự coi mình trước hết là người Do Thái, điều đó đã lỗi thời. Nếu ai còn giữ thái độ ấy, tôi chúc họ được may mắn. Nhưng về phần tôi, trước hết tôi là người Anh, tiếp theo là người Ba Lan, và tất cả còn lại đến sau cùng. Có những người khác chọn thứ tự ngược lại, nhưng đó là vấn đề của họ.
- Ông nói hay tuyệt, chỉ gói ghém trong một ít từ - Walter tán thưởng một cách nhiệt tình. - Và ông nói cô ta nói thạo tiếng Anh?
- Thưa ông, còn hơn thế nữa. Không những nói thạo, mà còn nói rất đúng.
- Nói tiếng Anh như một cô giáo, phải không?
- Đó là ấn tượng mà tôi đã có lúc ấy. Không phải của một cô giáo, mà là của một giáo sư đại học. - Cô ta không thể chỉ là một người phiên dịch sao?
- Thưa ông, những người phiên dịch giỏi, biết tự làm lu mờ mình. Ít ra đó là ý kiến của tôi. Còn thiếu phụ này biểu lộ cá tính của mình khi nói.
- Đó là một câu trả lời rất đúng - Walter thừa nhận. - Và cô ta có đeo một chiếc nhẫn kết hôn?
- Thưa ông, đúng như thế. Một chiếc nhẫn đính hôn và một chiếc nhẫn kết hôn. Luôn luôn đó là những gì tôi dò xem trước tiên, sau khi nhìn phớt qua toàn bộ con người. Và ở Nga phải biết nhìn ở đâu, vì không phải như ở nước Anh, nhẫn kết hôn đeo ở tay phải. Đàn bà Nga độc thân, quả thật là một tai họa thực sự, vả lại ly dị là điều thường xảy ra. Về phần tôi, họ chỉ bắt đầu làm cho tôi để ý khi nào có một người chồng vững vàng và có hai hay ba đứa con nhỏ, buộc họ tối phải về nhà.
- Ông đã nói rằng cô ta đã có con. Chắc không?
- Thưa ông, chắc.
- Nào, nào, vô lý - Walter kêu lên một cách hài hước. - Theo chỗ tôi biết, ông không phải là một thầy bói!
- Tôi thấy điều đó ở mông của cô ta. Dạ, chính ở cặp mông. Vẻ đứng đắn trong dáng điệu của cô ta, ngay cả khi cô ta sợ sệt. Cô ta không phải là một phụ nữ yểu điệu, và cũng không phải là một gái giang hồ. Đơn giản, cô ta là một bà mẹ.
- Tầm cao của cô ta? Ông có thể cho chúng tôi biết tầm cao của cô ta không? Hãy so sánh với tầm cao của ông. Đứng một bên cô ta, ông ngước mắt lên hay ông nhìn xuống?
- Tầm cao trên trung bình, tôi đã nói điều đó với ông rồi mà!
- Thế là cao hơn ông, phải không?
- Dạ, đúng thế.
- Một mét bảy mươi? Một mét bảy mươi ba?
- Gần một mét bảy mươi ba.
- Và tuổi của cô ta? Lần đầu ông đã do dự.
- Nếu cô ta hơn ba mươi lăm tuổi, trông cô ta, không ai có thể biết được. Nước da mịn màng, hình dáng xinh đẹp, nói tóm lại là một người đàn bà đẹp đang độ phát triển hoàn toàn, nhất là về phương diện tinh thần.
- Quả thật ông có tài xét đoán rất cao. Suy cho cùng, ông đã xét đoán theo phương pháp khoa học, phải không?
- Ồ, chỉ là vài kiến thức sơ đẳng. Chỉ có thế. Ngoài ra là những mánh lới mà tôi đã gặt hái được mỗi nơi một ít.
- Trình độ hiểu biết của ông về môn vật lý?
- Thưa ông, trình độ tú tài, không hơn. Tôi tự học. Tôi không chắc là sẽ thi đậu bằng tú tài, ngay cả bây giờ. Nhưng nhờ đọc sách, tôi đã trau dồi kiến thức của tôi.
- Đối với ông, sự đo từ xa nghĩa là gì?
- Tôi không hiểu nghĩa là gì cả.
- Và CI?
- Xin lỗi, thưa ông, ông muốn nói gì?
- Cercle d’Incertitude. Lạy Chúa! Ông ta đã viết rất nhiều về vấn đề này trong các quyển sổ tay mà ông đã giao cho chúng tôi. Ông đừng có nói rằng các chữ hoa CI đã không làm cho ông chú ý.
- Tôi đã không thấy. Theo tôi nghĩ, chắc là tôi đã bỏ sót các trang ấy.
- Cho đến đoạn “Các nhà chiến lược Mỹ có thể ngủ yên giấc”. Kể từ đoạn đó ông đã không tiếp tục đọc nữa, tại sao?
- Tôi đã không bắt đầu đọc trở lại từ chỗ đó một cách cố ý. Mà đó chỉ là một sự ngẫu nhiên.
- Chúng ta hãy chấp nhận như thế đi. Và ông đã có một ý nghĩ. Phải không? Về những gì tác giả nói với chúng ta với hình thức ấy. Ông nghĩ như thế nào?
- Tôi nghĩ rằng ông ta muốn nói người Nga có những lầm lẫn.
- Họ nhầm lẫn về những gì?
- Về các hỏa tiễn, thí dụ. Tôi chẳng hiểu gì cả. Đó là thuộc phạm vi nghề nghiệp của ông, phải không nào? - Giọng nói gắt gỏng của Landau tăng gấp đôi giá trị so với các lời cung khai của anh ta. Quả thật anh ta không có khả năng am hiểu trong một số lĩnh vực đã làm cho Walter yên tâm và cảm thấy nhẹ nhõm.
- Tôi nghĩ rằng anh ta đã xoay xở rất giỏi - Walter tuyên bố như thể không có mặt Landau ở đó, và lắc lắc bàn tay để kết luận một cách hoa mỹ rằng: - Anh ta đã nói với chúng mình những gì anh ta nhớ. Anh ta không cố ý đặt bày để tô điểm câu chuyện cho anh ta.
Đột nhiên Walter hỏi với một chút lo ngại:
- Ông không thêm thắt gì cả, phải không Niki?
- Thưa ông, không. Ông đừng lo.
- Có thật đúng như thế không? Bởi vì trước sau gì rồi chúng tôi cũng khám phá ra, và lúc đó các lời khai của ông sẽ mất hết giá trị.
- Dạ thưa ông. Tôi đã khai đúng sự thật trăm phần trăm, không thêm cũng không bớt một chút nào. - Tôi công nhận. - Walter kết luận. Rồi quay qua các đồng nghiệp của mình, ông ta nói:
- Điều khó nhất trong nghề của chúng ta, đó là có thể nói: “Tôi tin Niki là một người hiếm có”. Nếu có được nhiều người thuộc loại ông ấy, thì thế giới không còn cần đến các cơ quan của chúng ta.
Ned nói với Landau:
- Đây là Johnny. Bây giờ đến lượt ông ta. Johnny tóc hoa râm và gợn sóng, quai hàm vuông, tay cầm một tập điện tín. Với cái đồng hồ vàng và bộ comlê may đo, ông ta có thể làm cho các cô tiếp viên nhà hàng tưởng nhầm ông ta là người Anh, nhưng chắc chắn Landau thì không nhầm.
Với giọng Mỹ hơi kéo dài của vùng biển phía đông, ông ta bắt đầu:
- Niki, trước hết, chúng tôi phải cám ơn ông. Chắc ông không phiền lòng về việc tôi hỏi thêm vài điều chứ?
- Không, nếu Ned đồng ý, - Landau đáp.
- Tôi đồng ý - Ned nói.
- Tốt. Chúng ta đã từng có mặt tại hội chợ Audio chiều hôm ấy. Phải không, ông bạn của tôi? - Đúng. Lúc nhá nhem tối thì đúng hơn.
- Ông tiễn Ekaterina Orlova đến tận cầu thang, trên đó có các cảnh sát canh gác. Ông đã nói với người thiếu phụ lời chào tạm biệt.
- Cô ta vịn vào cánh tay tôi.
- Cô ấy vịn vào cánh tay ông? Tuyệt! Trước mũi các cảnh sát. Ông nhìn cô ta bước xuống các bậc cấp cầu thang. Ông bạn của tôi, ông hãy cho tôi biết, ông có thấy cô ta đi ra ngoài đường không?
- Có, tôi có thấy.
- Thấy đi ra ngoài đường, đúng là ngoài đường? Ông hãy suy nghĩ cho kỹ. Ông hãy thư thả, suy nghĩ kỹ trước khi trả lời.
- Quả thật, cô ta đã đi ra ngoài đường, và đồng thời đi ra khỏi cuộc đời tôi.
- Niki, trong hai mươi bốn giờ chót ấy, người ta đã bố trí người ở trên cầu thang và theo họ thì đứng ở đó, người ta không thể trông thấy đường.
Mặc Landau nhăn nhó, không phải vì khó chịu mà vì tức giận.
- Tôi đã thấy cô ta đi xuống các bậc cấp cầu thang, đi qua tiền sảnh, rồi đi ra ngoài đường, và tôi đã không thấy cô ta quay lại.
- Ông có thấy một người nào đó đi theo bám gót cô ta không?
- Trong cầu thang? Hay ở ngoài đường?
- Cả hai.
- Không nhưng tôi thì không thấy, ngay cả khi cô ta đi ra ngoài đường, còn ông thì vừa nói với tôi rằng điều đó không thể có được. Thế thì vì sao không đảo ngược vai trò? Tôi đặt câu hỏi và ông trả lời.
Ned can thiệp:
- Niki, một số chi tiết cần phải được gạn lọc. Tiền đặt vào ván bạc này quá lớn, và Johnny chỉ tuân thủ các mệnh lệnh đã nhận được.
- Nhưng tôi cũng là người đáng kể trong sự việc này. Lời khai của tôi có can hệ đến sự việc ấy, và tôi không thích thấy lời khai của tôi bị nghi ngờ bởi một người Mỹ không phải là thần dân của Nữ hoàng Anh!
Johnny lại nghiên cứu hồ sơ, sau đó mới tiếp tục hỏi cung.
- Niki, ông vui lòng tả lại sự bố trí an ninh cho cuộc hội chợ ấy, ít ra là những gì ông đã để ý đến. Landau thở một hơi dài, vẻ căng thẳng.
- Những gì nào… - Landau bắt đầu - Có hai cảnh sát trẻ tuổi mặc đồng phục trong tiền sảnh. Họ có nhiệm vụ ghi tên tất cả những người ra vào. Đó là việc làm bình thường. Ở trên tầng lầu, và bên trong phòng, có những nhân viên an ninh mặc thường phục. Người ta gọi họ là những người đi rảo, là toptonny. Sau hai ngày, người ta đã nhận ra được bọn họ chẳng khó khăn gì. Họ không mua gì cả, không ăn cắp các đồ trưng bày trong các gian hàng, không hỏi xin các hàng mẫu, và luôn luôn có một người có mái tóc màu vàng rơm. Ông đừng có hỏi tôi vì sao. Lần ấy có ba người, cũng luôn luôn là những người ấy suốt cả tuần. Chính bọn họ đã đưa mắt theo dõi Ekaterina khi cô ta bước xuống các bậc cấp cầu thang.
- Không có ai khác?
- Theo tôi biết thì không có ai khác. Nhưng chắc chắn người ta sắp chứng minh rằng tôi sai lầm.
- Ông có để ý đến hai bà tóc màu xám khó đoán được tuổi tác, ngày nào cũng đến hội chợ, đến sớm, về trễ, không mua gì cả, không bao giờ giao dịch với các nhà trưng bày hàng và có vẻ không có một lý do chính đáng nào để đến dự hội chợ không?
- Chắc ông muốn nói đến Gert và Daisy?
- Xin lỗi!
- Đó là hai con dê cái già làm việc ở các thư viện. Hai con mụ ấy đến đó để uống bia bằng con mắt. Cái thú lớn hơn hết của họ là thu lượm những quyển sách khâu sơ trong các gian hàng và lượm tất cả những gì được biếu không để quảng cáo. Người ta đã đặt tên cho họ là Gert và Daisy, để nhớ lại một chương trình phát thanh của nước Anh trong thời chiến tranh.
- Và ông đã không hề nghĩ rằng hai bà ấy có thể cũng là người trong hệ thống an ninh? Ned định ngăn Landau phản ứng, nhưng không kịp.
Landau giận như điên.
- Johnny, người ta đang ở Matxcơva, Ô-kê? Matxcơva ở Nga. Nếu tôi chú ý một cách thật sự đến vấn đề an ninh, tôi sẽ không bao giờ ra khỏi giường buổi sáng và cũng sẽ không ngủ trên giường của tôi buổi tối được. Ở bên đó, các con chim ở trên cây cũng có thể được cài máy nghe lén.
Nhưng Johnny đã cúi xuống tập điện tín trong tay.
- Ekaterina Orlova có nói với ông rằng ngày hôm trước ở gian hàng kế bên gian hàng của ông, nghĩa là gian hàng Abercrombie and Blair, không có ai trông nom cả. Đúng không?
- Đúng.
- Nhưng ngày hôm trước, ông không trông thấy cô ta. Cũng đúng?
- Vâng, đúng.
- Tuy nhiên, ông đã nói rằng ông không bao giờ bỏ sót mà không chú ý đến một phụ nữ đẹp. - Đúng như thế, và tôi hy vọng còn lâu tôi mới thay đổi được điều đó.
- Như thế, ông có nghĩ rằng ngày hôm trước đáng lẽ ông đã có thể để ý đến cô ta?
- Thỉnh thoảng tôi cũng có thể bỏ lỡ cơ hội. Thí dụ lúc đó tôi quay lưng, hay đang cúi xuống trên bàn giấy, hay đang ở trong phòng vệ sinh.
- Ông có gia đình ở Ba Lan, phải không ông Landau?
- Có
- Ông có một người chị giữ một chức vụ cao trong chính phủ Ba Lan?
- Chị tôi làm việc tại Bộ Y tế với chức vụ thanh tra các bệnh viện. Đó không phải là một chức vụ cao, và chị tôi đã quá tuổi về hưu.
- Có một lúc nào, ông đã là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp bị làm áp lực hay đe dọa? Landau ngước mắt nhìn Ned.
- Một nạn nhân nghĩa là thế nào? Tôi e rằng tôi chưa thông thạo tiếng Anh lắm.
- Một nạn nhân biết rõ mình là nạn nhân, ý thức được rằng mình là nạn nhân, - Ned giải thích. - Không bao giờ.
- Trong những chuyến xuất ngoại của ông sang các nước phương Đông, ông có giao thiệp với đàn bà các nước ấy không?
- Tôi có ngủ với một số đàn bà, nhưng không bao giờ tôi có những giao thiệp thân mật. Walter đưa tay che miệng ngáp dài, nhưng Johnny vẫn kiên trì tiếp tục hỏi:
- Ông Landau, trước ngày ấy, ông có bao giờ tiếp xúc với các cơ quan mật vụ của các nước đồng minh hay thù địch?
- Không.
- Và ông có một ý niệm nào, dù là mơ hồ, về thông điệp tổng quát chứa đựng trong các tài liệu mà ông có trong tay không?
- Thưa ông, tôi không có chúng trong tay. Tôi đã chuyển giao tất cả cho các ông rồi. - Nhưng ông đã có đọc qua, phải không nào?
- Vâng, tôi có đọc chút ít mà tôi có thể hiểu được. Rất ít. Và sau đó tôi đã không đọc nữa, tôi đã nói với ông điều đó rồi mà.
- Vì sao?
- Vì ý thức nghiêm túc, nếu ông muốn biết.
Johnny lại lục lọi tập hồ sơ, lấy ra một phong bì, và rút từ trong phong bì ấy ra một xấp ảnh cỡ bưu thiếp mà ông ta xếp theo hình rẻ quạt ở trên mặt bàn. Đó là những ảnh phụ nữ từng nhóm hay từng người, đi xuống các tầng cấp của một công sở.
- Cô ta đây! - Landau đột nhiên kêu lên và đưa ngón tay trỏ chỉ vào một tấm ảnh. Johnny giả vờ làm ra vẻ thất vọng và ngờ vực, như thể ông ta bắt được quả tang Landau đang nói dối.
- Làm sao ông dám quả quyết đến như thế? Lạy Chúa! Ông chưa bao giờ thấy cô ta mặc áo măng-tô mà.
Nhưng Landau không mất bình tĩnh.
- Đó là cô ta, đó là Katia. Katia. Trong hình này, tóc cô ta được vuốt lên, nhưng chính là cô ta, Katia. Và cũng đúng là cái túi lưới bằng chất dẻo của cô ta. Và còn chiếc nhẫn kết hôn của cô ta nữa. - Landau nói tiếp và vẫn luôn luôn xem xét kỹ tấm ảnh, với vẻ như quên đi trong chốc lát rằng không phải chỉ có một mình anh ta trong phòng- Ta sẽ có đảm trách công việc cô ấy giao phó, nếu còn phải làm lại bao nhiêu lần cũng được.
Thế là cuộc hỏi cung hằn học của Johnny đã kết thúc một cách tốt đẹp.
Các cuộc hỏi cung vẫn còn tiếp diễn, không bao giờ hai lần cũng một địa điểm, không bao giờ với những người đã hỏi cung các lần trước, người trừ Ned. Landau có cảm tưởng rằng các sự việc đã lên đến đỉnh điểm của chúng. Trong một căn phòng nghe lén ở phía sau Porland Place, người ta đã cho anh ta nghe những băng ghi âm giọng nói của những phụ nữ người Nga nói tiếng Anh. Nhưng Landau không nhận ra giọng nói của Katia.
Một ngày khác được dành để hỏi về vấn đề tài chính, không phải của họ, mà là của Landau. Lần này anh rất lo lắng. Những số tiền anh ta gởi ở ngân hàng, những số tiền anh ta đóng thuế, tiền lương, tiền gửi tiết kiệm, tiền vay, tiền đóng bảo hiểm…, họ xoay anh còn hơn cả cơ quan thuế vụ!
Ned trấn an Landau:
- Niki, anh hãy tin cậy chúng tôi.
Thứ hai, Landau nghĩ thầm: Họ sắp đề nghị chúng ta làm việc cho họ. Họ sắp tuyển ta làm gián điệp như Barley.
Thứ ba, anh ta tự nhủ: Họ cố chuộc lại lỗi lầm đã phạm đối với bố ta hai mươi năm sau khi ông qua đời. Sáng thứ tư, tài xế Sam bấm chuông nhà anh ta lần cuối cùng và mọi sự trở thành minh bạch.\ - Sam, hôm nay chúng ta đi đâu đây? - Landau hỏi một cách vui vẻ.
- Đi đến Sing-Sing, - Sam đáp, và cười khúc khích.
Sam không đưa Landau đến Sing-Sing mà đến tiền sảnh của một trong những trụ sở Bộ ở Whitehall, nơi mà Landau đã cố vượt qua cửa mà không được, mới chưa đầy mười một ngày trước đây. Brock, một người có đôi mắt màu xám đục, đi theo anh ta đến bên trên một cầu thang, rồi biến đâu mất. Landau đi vào trong một gian phòng rộng trông ra sông Tamise và thấy mình đứng trước những người ngồi một dãy sau một cái bàn dài. Bên trái là Walter, đeo cà vạt và đầu tóc chải bóng. Bên phải là Ned. Cả hai có vẻ nghiêm nghị. Ở giữa hai người là một người tôi trẻ hơn, hai bàn tay lật ngửa để trên bàn, quai hàm cắn chặt, miệng cười nhếch mép một cách nghiêm khắc, rõ ràng là cấp trên của hai người kia. Đôi môi mỏng dính mím lại, ông ăn mặc rất chỉnh tề như sắp xuất hiện trên màn ảnh truyền hình. Ông ta độ bốn mươi tuổi.
Ông ta nói, giọng có pha một chút mỉa mai:
- Tôi tên là Clive. Landau, anh vào đi.
Ngồi phía sau Clive, Niki Landau thấy tôi, cái ông già Palfrey ấy.
Reg, một người cao lớn, tóc đỏ hoe, vẻ mặt làm cho người khác yên tâm, dẫn Landau đến một cái ghế đặt ở chính giữa phòng, mời anh ta ngồi và cũng ngồi xuống bên cạnh anh ta.
Sau khi Landau đã ngồi đâu vào đấy, Clive mới nói lại, giọng lạnh lùng:
- Anh đã hoàn thành công việc một cách đáng khen, nhưng chúng tôi không giải thích cho anh biết vì sao sự việc này có thể nguy hiểm cho anh. Chúng tôi chỉ có thể nói với anh như thế này. Một chút ít mà anh đã biết được là đã quá nhiều rồi đó. Vì thế chúng tôi không thể để cho anh xuất ngoại sang các nước phương Đông, mang theo các bí mật của chúng tôi trong đầu. Thật là quá nguy hiểm cho anh và cho tất cả các người liên quan trong việc này. Anh đã giúp chúng tôi một công việc đáng hãnh diện, nhưng ngược lại, anh đã trở thành một mối lo âu lớn cho chúng tôi. Trong thời kỳ có chiến tranh, anh có thể bị tù
giam , cũng có thể bị hành quyết. Nhưng bây giờ không có chiến trang, ít ra là không công khai có chiến tranh.
Trong quá trình leo lên một cách khôn ngoan các bậc của bộ máy cầm quyền; Clive đã đọc được một cách mỉm cười. Ông ta nói tiếp với một giọng dịu dàng, đến nỗi mọi người đều nín thở lắng nghe. Ông ta nói:
- Nói cho cùng, anh sẽ có thể tố cáo những người rất quan trọng. Tôi biết rằng anh sẽ không làm điều đó một cách tự ý, tự mình muốn, nhưng khi người ta bị lâm vào một tình trạng bị xích vào một cái máy phát nhiệt, rốt cuộc, người ta không còn cách lựa chọn nào khác....
Khi ước lượng rằng mình đã làm cho Landau sợ hãi đủ rồi, Clive quay sang phía tôi, hất đầu ra hiệu cho tôi, rồi nhìn tôi mở cái cặp da đựng tài liệu mà tôi đã mang theo. Tôi rút trong cặp ra một văn bản dài mà tôi đã soạn thảo, quy định rằng Landau cam kết một cách vĩnh viễn không đi đến các nước phương Đông, không bao giờ ra khỏi nước mà không báo cho Reg biết trước bao nhiêu ngày, các chi tiết phải được dàn xếp sau đó giữa hai người với nhau và Reg sẽ kiểm tra hộ chiếu để ngăn ngừa mọi sự bất trắc. văn bản ấy cũng quy định rằng Landau chập nhận một cách vĩnh viễn sự có mặt của Reg, hay của người nào được nhà
chức trách cử thay thế Reg, với vai trò là người bạn tâm phúc, nhà trọng tài kín đáo trong tất cả các công việc của mình - kể cả vấn đề tế nhị về tấm ngân phiếu một trăm ngàn bảng.
Ngoài ra, để sự sợ hãi nhà chức trách của Landau được kích động một cách đều đặn, cứ sáu tháng một lần, anh phải trình diện với Harry, cố vấn pháp luật của Sở, để nhắc lại các cam kết của anh về việc giữ bí mật.
Sau cùng là điều khoản nói rằng mọi chi tiết liên hệ đến một người đàn bà Nga nào đó, bản viết tay của người bạn của bà và vai trò của một nhà xuất bản Anh nào đó, kể từ giờ phút này phải được tuyên bố một cách long trọng rằng không có, đã được chôn vùi vĩnh viễn không còn dấu vết, kể từ nay và mãi mãi .
Văn kiện này chỉ có một bản. bản này sẽ vào nằm trong tủ sắt của tôi cho đến khi nó mủn ra thành bụi bặm. Tôi đưa cho Landau , anh ta đọc hai lần, Reg cũng cùng đọc với anh ta. Rồi anh ta trầm ngâm suy nghĩ một lát, không đếm xỉa gì đến những người đang quan sát anh ta, những người muốn anh ký tên vào văn bản và thôi không còn là một vấn đề nữa. Vì Landau biết lần này anh ta là người mua chứ không phải là người bán.
Anh ta thấy mình lại đứng trước cửa sổ phòng mình tại khách sạn ở Matxcơva. Anh ta nhớ lại đã bao lần anh ta mong ước được cột dây đôi giày đi du lịch của mình, và sống một cuộc đời ít sôi động hơn.
Và anh ta chợt có ý nghĩ tức cười rằng " Tạo hóa chắc đã bắt anh ta làm đúng theo lời nói và đã làm việc của anh một cách dễ dàng ". Vì thế, anh ta buột miệng cười khảy, làm cho mọi người cảm thấy khó chịu.
Landau nói:
- Này Harry, tôi hy vọng rằng chính ông Mỹ Johnny là người đã trả tiền.
Nhưng câu nói đùa của anh hoàn toàn thất bại, vì anh đã đạt được mục đích của mình rồi mà không biết. Landau lấy cây bút máy của Reg và ký tên vào với tư cách là nhân chứng. Tôi đặt tờ giấy cam kết quý báo ấy vào trong cái hòm da của nó và nhè nhẹ đậy nắp lại. Sau đó mọi người bắt tay nhau chúc mừng.
- Niki, chúng tôi rất biết ơn anh,- Clive nói, như trong cuốn phim mà Landau tin tưởng mình là người anh hùng.
Mỗi người lại bắt tay Landau một lần nữa, rồi nhìn anh ta đi ra một cách oai vệ trong ánh sáng buổi chiều tà, hay đúng hơn, đi ra một cách ung dung trong hành lang, vừa đi vừa nói chuyện với Reg cao gấp đôi anh ta. Rồi mọi người nôn nóng chờ đợi băng từ ghi âm cuộc nói chuyện ấy mà tôi đã được phép làm với lý do không thể bác bỏ được, vì người Mỹ đã biểu lộ sự quan tâm đặc biệt của họ đến sự việc này.
Sau đó họ đặt máy để nghe lén điện thoại của Landau, đọc trộm thư tín của anh và gắn một máy định vị di động nơi cầu sau của chiếc xe hơi hiệu Triumph mui trần của anh.
Họ đặt người theo dõi anh ta trong những lúc anh nhàn rỗi, và tuyển ngay một cô thư ký đánh máy trong phòng làm việc của anh để canh chừng anh.
Họ bố trí những cô gái trẻ mai phục sẵn trong các quán bar mà anh ta thường lui tới. Nhưng dù có các sự đề phòng
vô ích ấy, do người Mỹ đòi hỏi phải làm, họ cũng không thành công. Họ không nghe ngóng được gì cả. Landau không bao giờ than van, cũng không một lần nào khoe khoang, cũng không một dịp nào nói huyên thuyên.
Anh ta không bao giờ tìm cách tiếp xúc với Barley, tay gián điệp tầm cở của nước Anh. Ngay cả trong ngày khai trương cửa hàng vidéo của anh ta, một ngày trọng đại mà anh rất muốn phô trương trước sự hiện diện của người anh hùng bí mật ấy, anh ta cũng đã giữ gìn không làm gì vi phạm các khoản quy định trong văn bản mà anh ta đã ký tên vào. Anh ta đã thỏa mãn khi nhớ lời Katia khích lệ lòng trung thực của anh. Katia, mạnh bạo, có dũng khí, can đảm và xinh đẹp, mặc dù sợ hãi cho chính mình, nàng đã báo cho anh biết trước những sự nguy hiểm mà anh có thể gặp:" Ông phải có niềm tin vào những gì ông làm".
Và Landau đã có niềm tin ấy.
Cửa hàng Vidéo của Landau phát đạt.
Và chúng tôi cũng có thể thương mến Landau, vì anh ta đã có được một hình ảnh mà chúng tôi muốn: những người nắm giữ những điều bí mật của quốc gia, toàn tâm toàn trí, hữu hiệu và anh hùng.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 3:
Không có nghiệp vụ gián điệp nào đôi lúc không trở thành một trò hề, như chúng tôi, những người lão luyện trong nghề thường thích đùa với nhau. Và sự việc càng quan trọng, tiếng cười càng giòn giã không dứt. Cuộc săn lùng trong một tuần lễ để tìm kiếm Bartholomew, bí lanh Barley, Scott Blair là một việc đáng ghi nhớ trong cơ quan, vì nó phát sinh một sự hăng say nhiệt tình và những trò lừa gạt ly kỳ đến nỗi nó phải huy động đến một tá mạng lưới tình báo. Những anh lính trẻ tò te mới vào nghề như Brock, ác cảm ngay với Barley khi còn chưa hề thấy mặt ông ta.
Sau năm ngày tìm kiếm, người ta đã biết được tất cả về Barley ngoại trừ chỗ ông ta đang ở. Người ta biết ông thuộc dòng dõi những người vô tín ngưỡng, và các cuộc nghiên cứu tốn kém của ông ta, cũng như các chi tiết không mấy rõ ràng về cuộc hôn nhân của ông ta, tất cả đều đổ vỡ. Người ta dò la được tại Camden Town, tiệm cà phê nơi ông ta đánh cờ với bất cứ một người nhàn nhã nào.
Người ta đã hỏi các nhạc sĩ của một dàn nhạc jazz nghiệp dư, trong đó Barley thỉnh thoảng có chơi kèn saxo. Người ta đã hỏi vị mục sư nhà thờ tại Kentish Town, nơi ông ta hát giọng cao tuyệt vời trước sự ngạc nhiên của mọi người.
Người ta cũng tìm được dấu vết của ông ta trong các hồ sơ lưu trữ của chúng tôi. Người ta gửi tên của Barley qua New York để kiểm tra, chiếu theo một hiệp định an ninh song phương. Brock bất bình, đòi hỏi sở lưu trữ phiếu lý lịch trung ương phải thẩm tra lại một lần nữa. Nhưng cũng chẳng có kết quả.
Một sự thất vọng khác: cảnh sát tìm thấy xe của Barley đậu trong Lexham Gardens, vè xe bên trái bị móp méo vì bị húc mạnh, một bằng lái xe đã quá hạn và nửa chai Scotch trong cái hộp để găng tay cùng với những bức thư tình do chính tay ông ta viết.
Cảnh sát trưởng gọi điện thoại cho Ned, hỏi:
- Cho xe đến kéo nó đi, hay bán nó cho một người buôn sắt vụn?
- Thôi, ông đừng quan tâm tới nữa – Ned trả lời, giọng chán nản.
Ned và Brock vội vã đến đó để xem qua một chút, với hy vọng tìm ra một điều chỉ dẫn. Các bức thư tình được gửi cho một bà ở khu phố ấy, bà ta đã gửi trả lại cho Barley. Bà ta khai không biết hiện giờ ông ta ở đâu.
Đến thứ năm, sau khi kiểm tra một cách cẩn thận các bản lược kê hàng tháng các tài khoản của Barley, Ned để ý đến các khoản chuyển ngân một trăm đồng bảng ba tháng một lần cho một công ty kinh doanh bất động sản ở Lisbonne, công ty Real Limitada. Nhìn tên của công ty này với con mắt ngờ vực, chăm chú một lúc rồi trái với thói quen của ông ta, Reg buông một tiếng chửi thề. Lập tức ông ta gọi điện thoại cho hãng hàng không dân dụng, yêu cầu họ kiểm tra danh sách hành khách trên các chuyến bay đến Gatwich và Heathrow ở Lisbonne.
Khi nhận được câu trả lời, ông ta lại chửi thề một lần nữa. Cuối cùng, họ đã thành công sau bao ngày dài tìm kiếm không có kết quả. Merrdew đã tìm thấy Barley đang ngồi nơi quầy rượu của một khách sạn, ngất ngưởng trên một chiếc ghế cao. Ông ta đang bô bô nói chuyện với một thiếu ta pháo binh lưu vong, sau mèm, tên là Graves, thiếu tá Arthur Winslow Graves. Barley quay cái lưng dài thượt về phía cửa mở
trông ra một cái sân lát đá, Merridew mới ba mươi tuổi mà đã béo phì, anh ta đang lấy lại hơi thở trước khi trổ tài phỉnh gạt khéo léo của mình. Anh ta đã đuổi theo Barley suốt nửa ngày trời, nhưng ở đâu anh ta cũng tuột sẩy mất và mỗi lần thất bại, anh ta lại nổi giận thêm một chút.
Tại thư viện, một nhân viên đã cho Merridew biết Barley đã chúi mũi suốt buổi chiều vào các quyển sách, điều đó có nghĩa là Barley đã say túy lúy.
Trong một tửu lầu kiểu Tudor ở Estoral, Barley và các bạn của ông ta đã ăn một bữa ăn tối toàn thức ăn lỏng, và đã rời nơi này chưa đầy nửa giờ trước.
Để vào được bên trong khách sạn, ở đó nn đang ngồi nơi quầy rượu nói chuyện với thiếu tá Arthur Winslow Graves, Merridew phải leo lên một cầu thang bằng đá. Lên đến bậc cấp trên cao và sau khi liếc mắt nhìn thoáng qua để quan sát, Merridew phải vội vã đi xuống dưới để nói với Brock: “Chạy, anh nghe cho rõ, nhanh đến quán cà phê nơi góc đường, phôn ngay cho Ned”. Sau đó anh ta lại hấp tấp leo lên cầu
thang, vì vậy phải thở dốc. Mùi đá ẩm ướt và mùi cà phê mới xay, hòa lẫn với mùi hương cũng những cây có hoa thơm ngát ban đêm. Merridew thở hụt hơi nên không có cảm giác gì. Xa xa có tiếng rít của tàu điện và tiếng còi của tàu biển. Barley đang nói gì đó với Graves, nhưng Merridew không nghe rõ.
- Graves, ông bạn thân của tôi ơi, bọn trẻ con mù lòa không nhai được đâu – Barley giải thích một cách kiên nhẫn, ngón tay trỏ tựa vào lỗ rốn của viên thiếu tá và cùi chỏ vào trên quầy rượu, bên cạnh một ván cờ chưa đánh xong. – Đó là một điều khoa học Graves ạ. Bọn trẻ con mù lòa cần được người ta dạy cho chúng ăn. Hãy xích lại gần tôi và nhắm mắt lại.
Barley đưa hai bàn tay ôm đầu viên thiếu tá một cách thân thương, kéo về phía mình và hé môi đẩy một trái đào lộn hột vào miệng viên thiếu tá. – Rất tốt! Bây giờ, làm theo lệnh của tôi, nhai, nhai đi! Coi chừng cái lưỡi. Nhai! Tiếp tục nhai đi.
Thừa lúc Barley đang nói, Merridew quyết định đi vào, miệng tươi cười vượt qua ngưỡng cửa, ngạc nhiên thấy hai bên mình có hai bức tượng đàn bà lai da đen, cao to như người thật, mặc áo dài lộng lẫy, tóc màu đỏ hung, mắt màu xanh lục. Merridew nhớ lại phiếu đo vóc dáng của Barley. Một mét tám mươi ba, thon thả, mặt mày nhẵn nhụi, nói năng rạch ròi, ăn mặc kỳ quặc. Kỳ quặc? hay là ta hoa mắt? Anh chàng Merridew béo phì đang còn thở dốc nhủ thầ. Áo cộc vải lanh, quần nỉ mỏng màu xám, chân mang dép quai.
- Xin ông thứ lỗi, có phải ông là Bartholomew Scott Blair không? Đúng là ông, phải không? Barley xoay người lại và nhìn Merridew từ cái mũi giày lên đến cái miệng đang mỉm cười.
- Tên tôi là Merridew, tôi làm việc ở tòa đại sứ. Tôi là phụ tá tùy viên thương mại. Tôi rất tiếc đã làm phiền ông, nhưng chúng tôi có nhận được một bức điện tín khẩn gửi cho ông theo tuyến của chúng tôi. Theo chúng tôi thì hình như ông phải đến nhận bức điện tín ngay lập tức. Như vậy không biết có phiền cho ông không?
Một các máy móc, Merridew có một cử chỉ mà các nhà chức trách thường làm. Anh ta trịnh trọng đưa bàn tay lên vuốt tóc như thể để xem tóc tai mình có đàng hoàng không. Cái cử chỉ ấy làm cho Barley bối rối một cách lạ lùng. Ông ta hỏi:
- Có phải ông bạn muốn nói cho tôi biết có một người nào vừa chết phải không?
- Thưa ông Barley kính mến, không phải như thế. Đây là một áp phe thương mại, nếu không thì nó đã không được chuyển qua cơ quan của chúng tôi.
Nhưng Barley không tin một chút nào. Linh tính cho ông ta biết có điều gì đó quan trọng đã xảy ra. Ông ta hỏi:
- Tốt, thế thì thật sự người ta muốn cho tôi biết chuyện gì nào?
- Dạ, đó là một bức điện tín khẩn gửi theo đường ngoại giao.
- Ai đánh giá sự khẩn cấp ấy?
- Không ai cả. Tôi không thể cho ông biết các chi tiết ở chỗ công cộng. Đây là điện tín mật. Tối mật.
Họ đã quên nói cho mình biết về cặp mắt kính của ông ta, Merridew nghĩ thầm khi nhìn thẳng vào mặt của Barley. Mắt kính tròn, gọng đen, quá nhỏ đối với ông ta, mà ông ta để cho nó tụt xuống đầu sống mũi khi ông ta đăm đăm nhìn người đối diện với vẻ cau có.
- Một món nợ nhỏ, rất có thể để đến thứ hai sẽ hay – Barley dõng dạc nói và xoay người trở lại về phía viên thiếu tá – Ông Merridew, hãy cứ để yên đó đi, có sao đâu. Hãy uống một ly với bọn hạ cấp chúng tôi đã.
Merridew không phải là kiểu người yếu mềm, nhưng anh ta có thủ đoạn, có thể vận dụng trăm phương nghìn kế để trấn áp đối phương.
- Scott Blair, ông hãy nghe tôi nói đây. Công việc của ông không liên can gì đến tôi. Tôi không phải là một công tố viên, nhưng tôi cũng không phải chỉ là một người đưa tin tầm thường. Tôi là một nhà ngoại giao, và tôi có một địa vị xã hội nào đó chứ. Tôi đã mất cả nửa ngày nay để tìm kiếm ông rồi. Tôi có một chiếc xe và một người phụ tá đang đợi ở bên ngoài. Tôi cũng có việc của tôi. Rất tiếc đã phải làm phiền ông.
Cuộc đấu khẩu có thể tiếp tục không biết đến bao giờ mới chấm dứt, nếu thiếu tá Graves không đột ngột tỉnh rượu. Ông ta vươn vai, duỗi thẳng hai tay, đứng nghiêm ra vẻ tôn kính và hét to:
- Lệnh của Nữ Hoàng, Barley! Tòa đại sứ, đó là điện Buckingham nhỏ. Một giấy mời là một mệnh lệnh. Không được cưỡng lại lệnh của Nữ Hoàng.
- Ông này không phải là Nữ Hoàng. Ông ta không đội vương miện – Barley phản đối một cách bình tĩnh.
Merridew tự hỏi có nên gọi Brock lên trợ lực hay không. Anh ta cố mỉm cười khuyến dụ Barley nghe theo mình, nhưng Barley tránh không nhìn Merridew mà nhìn về phía buồn ngủ nơi đó có một chậu hoa héo che cái lò sưởi trống trơn. Nhưng cố nài:
- Xong rồi phải không? Chúng ta đi chứ? – Anh ta nói như nói với vợ, hãy mau lên kẻo trễ bữa ăn tối do bạn mời.
Nhưng Barley, vẻ lơ láo, cứ nhìn đăm đăm các bông hoa khô héo, như thể chúng biểu hiện cả cuộc đời của ông ta, mỗi khúc quanh thất bại, mỗi bước vấp ngã suốt dọc đường đời. Và rồi đúng lúc Merridew không còn hy vọng gì nữa, Barley vơ các đồ vật của mình và đút vào các túi áo một cách tuần tự như thể ông ta đi tham gia một cuộc săn thú dữ ở Bắc Phi châu: cái ví da đã sờn, đựng đầy ngân phiếu không ký chuyển nhượng, giấy hộ chiếu đã nhòe vì mồ hôi của quá nhiều cuộc hành trình, quyển sổ tay và cây bút chì để ghi nguệch ngoạc những lầm lẫn kỳ cục khi say rượu, để rồi suy ngẫm trong những lúc uống rượu có chừng mực hơn. Rồi ông ta liệng lên trên quầy một tờ giấy bạc có giá trị lớn với vẻ thờ ơ của một người không cần đến tiền bạc trong một thời gian lâu dài.
- Manuel, anh hãy đưa thiếu tá ra tắc xi. Hãy đỡ ông ta xuống cầu thang, đỡ ông ngồi vào ghế sau, trả trước tiền xe cho tài xe, còn thừa bao nhiêu anh giữ lấy. Graves, tớ xin từ biệt và cảm ơn nhé. Cả hai chúng mình đã vui cười hả hê rồi.
Bên ngoài đã có sương rơi. Trăng non treo lơ lửng trên bầu trời đầy sao. Barley và Merridew đi xuống cầu thang. Merridew đi trước, dặn Barley coi chừng các bậc cấp. Hải cảng lung linh ánh đèn chiếu sáng. Một chiếc xe hơi mang bảng hiệu ngoại giao đoàn đợi sẵn dọc theo lề đường, và Brock lặng lẽ canh chừng trong chỗ tối gần đó. Một chiếc xe cải dạng thành loại xe bình thường đậu xa hơn ở phía sau.
- Đây là Eddie – Merridew chỉ Brock giới thiệu – Tội nghiệp cho Eddie đã phải chờ đợi lâu. Chắc anh đã gọi điện thoại rồi chứ?
- Dạ rồi – Brock đáp
- Ở nhà, mọi người đều thường cả chứ, Brock?
Mấy đứa nhóc ngủ cả rồi, phải không? Và bà xã của anh không đợi anh với cán rulô cán bột chứ? - Mọi sự đều tốt đẹp, mọi sự đều tốt đẹp – Brock đáp.
Barley ngồi vào hàng ghế trước, ngả đầu lên cái giá tựa đầu và nhắm mắt lại. Merridew cầm tay lái, Brock ở hàng ghế sau, ngồi yên một chỗ và lặng thinh. Chiếc xe thứ hai rồ máy và chạy từ từ ở phía sau, hộ tống một cách kín đáo.
- Ông chạy theo đường này để đến tòa đại sứ sao? – Barley hỏi, vì ông ta chỉ giả vờ ngủ thôi.
- Không, nhưng gã bảo vệ trung thành đã mang bức điện tín về nhà gã – Merridew giải thích một cách ân cần – Ông thấy đó, cuối tuần chúng tôi phải đặt chướng ngại vật phòng vệ tòa đại sứ, đề phòng người Ailen.
Merridew mở radio. Tiếng một nữ ca sĩ hát giọng cổ đang ngân nga trầm bổng một ca khúc trầm buồn, tuyệt diệu.
- Un fado – Merridew bình phẩm – Tôi mê lối hát fado.
Anh ta đưa tay đánh nhịp, nhại cử chỉ của một nhạc trưởng với cái bàn tay rảnh.
- Chính người nhà của ông đã đến quấy rầy con gái tôi để hỏi hàng đống câu hỏi kỳ cục – Barley hỏi. - Ồ, người nhà chúng tôi, họ chỉ sắp xếp lo toan các công việc thương mại – Merridew đáp. Nhưng trong lòng anh ta rất dao động, thấy Barley đã biết rõ đến như thế.
Họ đã thuê nhà của một nhân viên cũ của cơ quan, một chủ ngân hàng người Anh có ngôi nhà phụ ở Cintra “Ông già Palfrey” đã ký hợp đồng thuê mướn. Họ muốn tránh không dùng các trụ sở cơ quan, để khỏi lưu lại dấu vết về sau. Merridew kéo chuông, Brock canh chừng phía sau.
- Xin chào. Mời ông vào – Ned vừa nhã nhặn nói vừa mở cửa.
- Còn tôi, tôi xin từ giã – Merridew vừa nói vừa rút lui ra xe.
Một lúc lâu, Brock thấy Ned và Barley đánh giá nhau. Hai người có vóc dáng bề thế như nhau, đẳng cấp như nhau và ngang tàng như nhau. Vì có đủ những điểm giống nhau để nhận biết nhau. Có những tiếng đàn ông thì thầm sau cánh cửa đóng kín, nhưng Ned giả vờ không nghe. Ông ta dẫn Barley đi dọc theo
hành lang đến phòng thư viện.
Để Brock đứng lại trong tiền sảnh, Ned nói với Barley:
- Mời ông vào đây. Ôg có uống nhiều rượu lắm không? – Ned hạ giọng hỏi và đưa cho Barley một ly nước đá lạnh.
- Tôi chẳng uống một chút rượu nào. Những người bắt cóc tôi là ai, và sự thật đã xảy ra chuyện gì?
- Tôi tên là Ned. Tôi sẽ nói cho ông biết sự thật. Không có điện tín. Công việc của ông không có gì không tốt. Và người ta đã không bắt cóc ông. Tôi là người của cơ quan tình báo Anh quốc, cũng như những người đang đợi ông trong phòng bên cạnh. Trước kia ông có yêu cầu được cộng tác với chúng tôi. Bây giờ ông có dịp giúp chúng tôi rồi đấy.
Im lặng. Ned đợi Barley trả lời
- Tôi không biết gì cả.
- Chúng tôi mong ông có thể khám phá ra điều gì.
- Các ông hãy tự tìm lấy.
- Không thể được. Không thể được nếu không có sự giúp sức của ông. Vì lý do ấy mà chúng ta gặp nhau ở đây.
Barley bước vào phòng thư viện, nghiêng đầu liếc nhìn nhan đề các cuốn sách trong lúc uống ly nước đá. Ông ta nói:
- Trước tiên, các ông nói là nhân viên phòng thương mại, và bây giờ các ông hóa ra là nhân viên tình báo.
- Ông nên trao đổi đôi lời với ông đại sứ.
Ông ta cầm lên một quyển sách và nhìn xem nhãn sách.
- Chẳng ra cái quái gì cả - Ông ta nói một cách khinh khi – Chắc chắn các sách này được mua cân kilô. Ai là chủ nhân?
- Ông đại sứ ra bảo lãnh cho chúng tôi. Nếu ông đề nghị thứ năm chơi với ông ta một ván golf, ông ta sẽ trả lời: không trước năm giờ.
- Tôi không chơi golf – Barley vừa nói vừa cầm lên một quyển sách khác – Sự thật, tôi không chơi gì cả. Tôi đã bỏ, không còn chơi môn gì nữa hết.
- Trừ môn cờ tướng – Ned vừa nói vừa đưa cho Barley xem cuốn niên giám điện thoại đã mở ra ở trang cần thiết.
Barley nhún vai và quay số. Nghe giọng nói của ông đại sứ, Barley cười một cách chế giễu. - Tubby hả? Barley Blair đây. Thứ năm chơi một ván golf chứ? Chơi môn này tốt cho gan đấy. Có tiếng trả lời, giọng chua cay rằng “người ta” bận cho tới năm giờ.
- Không, không phải lúc năm giờ - Barley nói – Người ta sẽ chơi trong đêm tối mà. A, cái thằng khốn
nạn này đã cúp máy rồi – Barley vừa càu nhàu vừa lắc lắc cái ống nghe.
- Ông thấy đó, không phải là một chuyện đùa – Ned nói – Việc rất nghiêm trọng.
- Biên giới quả thật rất nghiêm trọng và quả thật rất kỳ cục, mà cũng quả thật là rất mỏng manh – Barley nhận xét.
- Thế thì chúng ta hãy vượt qua biên giới. Ý kiến ông thế nào? – Ned đề nghị.
Các tiếng thì thầm sau cánh cửa đã im lìm. Barley vận tay nắm và bước vào. Ned đi théoau. Brock đứng trong tiền sảnh để canh cửa. Chúng tôi đã nghe được tất cả những gì họ nói qua máy tiếp phát.
Nếu Barley tự hỏi điều gì có thể xảy đến với ông ta ở trong phòng này, thì cúng tôi cũng băn khoăn lo âu như ông ta. Thật là một trò kỳ cục khi lục lọi cuộc đời của người mà ng ta chưa bao giờ gặp mặt. Barley tiến vào chầm chậm, bước tới vài bước và đứng lại, trong lúc Ned đã đến nửa đường, giữa cửa và cái bàn, giới thiệu với Barley những người ngồi nơi bàn.
- Đây là Clive, Walter, đây là Bob và Harry. Thưa quý ông, đây là Barley.
Barley chào sơ qua từng người, tin vào con mắt nhận xét của mình hơn là những gì người ta nói với mình.
Đột nhiên Barley để ý đến các bàn ghế quá nhiều và mớ cây tạp nham trang trí trong phòng. Có cả một cây cam trồng trong chậu. Barley sờ một quả cam và một ngọn lá, rồi ngửi ngón tay cái và ngón tay trỏ của mình như thể để chắc chắn đích thực là mùi thơm của cam. Ông ta nén giận.
Tôi cũng nhớ hôm đó ông ta có vẻ hào hoa phong nhã. Chắc chắn không phải nhờ cách ăn mặc xoàng xĩnh của ông ta, mà trong các cử chỉ, vẻ quý phái bẩm sinh và tính nhãn nhặn tự nhiên của ông ta.
- Các ông không kiểm tra đến dòng họ chứ? – Barley hỏi sau khi quan sát hiện trường. - Không, rất tiếc – Clive đáp
- Bởi vì tuần trước có một ông Riby nào đó đã đến nhà con gái tôi là Anthea, xưng là thanh tra cơ quan thuế, và nói là để điều chỉnh một tờ khai sai lạc. Ông ta cũng ở trong nhóm hề các ông, phải không?
- Theo sự mô tả của ông, tôi nghĩ rằng ông nói có lý – Clive trả lời với sự ngạo mạn của một người không cần nói dối.
Barley nghiên cứu Clive, bộ mặt Ăng-lê kiểu mẫu, đôi mắt thông minh, vẻ nhìn nghiêm khắc và khó dò xét. Barley quay sang nhìn Walter, thân hình tròn vo, đầu tóc rối bù, trông có vẻ vui tính. Rồi lại nhìn Bob, dáng điệu của một người có quyền lực, đã lớn tuổi, trông có vẻ hiền lành.
- Barley, tôi đã chen vào chiếm một chỗ không đáng của mình – Bob tuyên bố một cách vui vẻ với giọng kéo dài của vùng Boston – Tôi nghĩ rằng tôi là người lớn tuổi hơn hết ở đây, và tôi không muốn kéo dài sự thiếu minh bạch. Tôi năm mươi tám tuổi, đúng thế, và tôi làm cho CIA, có tổng hành dinh ở Langley, bang Virginia, như ông đã biết. Lẽ tất nhiên tôi có một tên họ, nhưng tôi sẽ không nói với ông làm gì, vì nó không có liên hệ gì với tên họ thật của tôi.
- Ông Barley, tôi rất hoan hỉ được gặp ông. Chúng ta hãy cố gắng vui đùa với nhau một chút trong khi làm việc nghề nghiệp của chúng ta.
- Ít ra điều đó có tính hữu nghị - Barley vừa nói vừa xoay về phía Ned – Thế thì chúng ta sẽ ra tay hành
động ở đâu đây? Nicaragua, Chilê, Salvador, Iran? Nếu các ông muốn ám sát một nhà độc tài của thế giới thứ ba, thì tôi là người của các ông.
- Ông đừng có quá bồng bột – Clive ngắt lời Barley – Chúng ta không hơn toán của Bob và chúng ta cộng tác với toán của Bob. Chỉ có điều là chúng ta có một Điều lệ về việc giữ gìn bí mật mà họ không có, và ông sẽ ký một bản.
Nói xong, Clive bắt đầu ra hiệu cho tôi, làm cho Barley hơi để ý đến tôi. Gặp tình huống ấy, luôn luôn tôi xoay xở để tránh ra xa một chút.
- Vì sao ông đã không đi Matxcova? – Clive hỏi ngay khi Barley còn chưa ngồi vào bàn họp – Người ta đã đợi ông ở đó. Ông đã thuê một gian hàng, giữ chỗ máy bay và giữ một phòng ở khách sạn, nhưng ông đã không đi đến đó. Ông đã đi Lisbonne cùng với một người đàn bà. Vì sao?
- Có lẽ ông muốn tôi đi cùng với một người đàn ông? Tôi đi đến đó với tình nhân của tôi hay với một cô gái xinh đẹp người Nga thì việc đó liên can gì đến ông và CIA?
Barley kéo một cái ghế và ngồi xuống nói với vẻ nổi khùng.
Clive ra hiệu cho tôi và tôi bắt đầu đóng màn kịch nhỏ quen thuộc của tôi. Tôi đứng dậy, đi quanh cái bàn họp, và đặt xuống trước mặt Barley một bản của Điều lệ về việc giữ gìn bí mật. Tôi rút từ áo gilê ra một cây bút máy loại đắt tiền và đưa cho Barley với một vẻ buồn rầu như người đi đưa đám. Nhưng Barley có vẻ xa vắng, quên cuộc họp hiện tại, nhìn đăm đăm vào một góc tối mờ của mảnh vườn bí mật của ông ta, chi tiết mà tôi đã nhận thấy tối hôm đó và cũng thường thấy trong các tháng sau đó, cùng với cái lối đột ngột la hét om sòm như để xua đuổi tà ma mà chỉ một mình ông ta nhìn thấy.
- Ông sẽ ký vào văn bản ấy? – Clive nhắc lại.
- Điều gì sẽ xảy ra, nếu tôi từ chối? – Barley hỏi.
- Chẳng có gì xảy ra cả. Tôi báo cho ông biết ngay từ bây giờ, một cách chính thức và có người làm chứng, rằng cuộc họp này và tất cả những gì sẽ được nói ra ở đây phải được giữ bí mật. Harry là người của luật pháp.
- Đúng như thế - Tôi nói
- Và tôi, tôi cũng báo cho ông biết trước, nếu việc này làm cho tôi ngứa miệng quá, thì tôi sẽ leo lên các nóc nhà kêu lên thật to – Barley bình tĩnh nói và đẩy văn bản chưa được ký ra.
Tôi trở về chỗ ngồi, tay cầm cây bút máy tuyệt đẹp của tôi.
- Hình như ông cũng đã để lại một mớ việc rắc rối ở Luân Đôn - Clive vừa nói vừa sắp xếp văn bản và hồ sơ của ông ta – Nợ nần khắp nơi, không có địa chỉ nhất định, một bầy tình nhân than khóc. Chắc ông tìm cách tự hủy hoại mình?
- Tôi thừa kế những quyển sách hồng – Barley nói
- Ông nói cái gì thế? – Clive hỏi – Có phải đó là từ riêng của ông để nói các quyển sách dâm ô?
- Ông nội tôi đã kiếm được địa vị trong việc viết sách cho giới nữ hầu phòng. Thời ấy, người ta còn có những tỳ nữ hầu phòng mà. Bố tôi gọi những quyển sách ấy là “những cuốn tiểu thuyết dành cho các đám đông quần chúng”. Bố tôi vẫn tiếp tục viết những loại sách như thế.
Bob động lòng, góp vài lời an ủi:
- Kìa Barley, sao ông lên án văn chương có nước hoa hồng? Bà nhà tôi đọc hàng tấn sách thuộc loại ấy và rất khỏe mạnh chứ có sao đâu. Chúng còn hơn những thứ rác rưởi được xuất bản bây giờ.
- Nếu ông không thích những quyển sách mà ông xuất bản, vì sao ông không thay đổi chủng loại? – Clive hỏi, vì ông ta không đọc gì ngoài các hồ sơ của cơ quan và báo chí bảo thủ.
- Tôi tùy thuộc một ủy ban – Barley đáp, giọng mệt mỏi – Tôi có một hội đồng quản trị, những cổ đông trong gia đình tôi. Những bà cô thích những gì có thể đảm bảo, những gì có giá trị chắc chắn, những cuốn sách chỉ nam đủ loại, những tiểu thuyết ái tình, những vấn đề thời sự, những sách viết về các bậc kỳ tài của Đế quốc Anh… về CIA nhìn từ bên trong.
- Vì sao ông không đi dự hội chợ Matxcova? – Clive hỏi lại.
- Các bà cô của tôi đã hủy bỏ dự án ấy.
- Ông có thể giải thích cho chúng tôi biết về dự án ấy là gì không?
- Tôi đã quyết định tham dự hội chợ triển lãm audio ấy. Gia đình tôi đã phong thanh dự án và đã quyết định rằng đó sẽ là một sự sai lầm. Hết!
- Thế là ông đã tránh khéo đi nơi khác? – Clive nói – Đó là điều ông hay làm mỗi khi người ta cản trở ông, phải không? Tốt hơn là ông nên nói cho chúng tôi biết ý nghĩa của bức thư này? – Ông ta nói thêm và đẩy một tờ giấy về phía Ned.
Đây không phải là nguyên bản, nó còn lưu ở Langley để được nghiên cứu mọi mặt, từ các dấu tay đến các vết tích về các chứng bệnh của lính lê dương, nhờ có những khả năng không thể bác bỏ được của kỹ thuật công nghệ học. Chúng tôi chỉ có một phần bản sao y nguyên bản cho đến phong bì màu nâu niêm phong, trên đó có chữ do Katia tự tay viết: “Thư riêng. Gửi ong Batholomew Scott Blair. Khẩn”.
Clive đưa cho Ned, Ned trao cho Barley. Walter gãi đầu và Bob có cái vẻ cao đạo của một người tài trợ cho chiến dịch. Barley nhìn tôi như thể ông ta vừa mới quyết định chọn tôi làm luật sư của ông ta. “Tôi làm gì với cái đó? – Đôi mắt ông ta như hỏi tôi – Tôi đọc, hay liệng nó vào mặt họ?”. Tôi giữ vẻ thản nhiên.
- Ông hãy đọc một cách cẩn thận – Ned khuyến cáo.
- Ông Barley, ông cứ thong thả mà đọc – Bob nhấn mạnh thêm.
Tuần trước, tất cả chúng tôi đã đọc đi đọc lại bức thư này biết bao nhiêu lần rồi. Tôi tự nhủ khi thấy Barley xem xét cái phong bì, lật qua lật lại, đưa ra xa, đưa lại gần. Đã có biết bao ý kiến khác nhau được đưa ra, rồi bị bác bỏ. “Bức thư này đã được viết tay, trong một toa xe lửa”, sáu chuyên viên ở Langley đã quả quyết như thế. “Nằm trên giường mà viết”, ba chuyên viên khác ở Luân Đôn lại khẳng định như thế. “Viết ở hàng ghế sau của một chiếc xe hơi. Viết hấp tấp. Do một người đàn bà viết, hay do một người đàn ông viết? Do một người cầm bút bằng tay trái viết hay do một người cầm bút bằng tay phải viết? Viết bởi một người dùng mẫu tự gốc là mẫu tự của dân Slave, mẫu tự Rômanh, cả hai thứ không phải thứ này, cũng không phải thứ kia”.
Để chấm dứt cái trò hề ấy, người ta đã hỏi cái ông già Palfrey. Tôi đã nói với họ: “Chiếu theo luật pháp của chúng tôi về quyền tác giả, người nhận thư là chủ sở hữu của bức thư, nhưng người viết thư là người giữ bản quyền. Tôi nghĩ rằng, không có ai sẽ kéo chúng ta ra trước các tòa án Liên Xô đâu”. Tôi không biết lời tuyên bố của tôi có làm cho họ cảm thấy nhẹ nhõm, hay càng làm cho họ lo ngại thêm.
- Barley, ông có nhận ra nét chữ không? – Clive hỏi.
Barley thò ngón tay vào phong bì, rút bức thư ra với một cái bĩu môi xem thường, như thể ông ta sắp thấy đây là một tờ hóa đơn phải thanh toán. Rồi ông ta lấy kín xuống, đặt trên bàn và kéo ghế ra xa bàn thêm một chút. Càng đọc, mặt ông càng thêm cau có. Ông ta đọc nhanh trang đầu, nhìn sơ qua trang chót để tìm chữ ký, trở lại trang thứ hai và tiếp tục đọc cho đến hết. Ông ta đọc lại một mạch toàn thể bức thư, từ câu đầu “ông Barley yêu dấu của em” cho đến câu chót “… em yêu ông. K của ông”. Sau đó, ông ta giữ bức thư trong hai bàn tay đặt trên đầu gối, và cúi xuống trước không cho chúng tôi nhìn thấy mặt. Ông ta thì thầm cầu nguyện gì đó mà chỉ một mình ông ta biết mà thôi.
- Cô ta khùng rồi! – Barley nói trống không – Thật là gàn dở, ngớ ngẩn. Ngay cả bản thân cô ta, không biết có ở bên đó không nữa.
Không ai hỏi cho rõ hơn về “ cô ta” và “bên đó”. Ngay cả Clive cũng thấu hiểu giá trị của một sự im lặng hợp lúc.
- K là chữ cái đầu của Katia, là giản từ của chữ Ekateria – Walterr nói – Họ của cô ta là Borissovna.
- Tôi không biết quen biết K, Katia cũng không, Ekaterina cũng không – Barley tuyên bố - Borissovna cũng không nốt. Tôi không bao giờ hôn hít hay chỉ tán tỉnh, cũng không cầu hôn, hay lấy làm một vợ một người nào có cái tên ấy. Tôi đã cố sức nhớ lại, nhưng đều không có. À, có!
Tất cả mọi người chờ đợi, tôi cũng chờ đợi, và sự chờ đợi ấy có thể kéo dài suốt đêm, không có một tiếng ghế kêu rắc rắc nhỏ nhặt nào của sự chuyển mình hay xê dịch, hay một tiếng ho khan trong lúc Barley lục lọi trong ký ức để tìm một người đàn bà tên Katia.
- Một con dê cái ìa ở Aurora – Barley nói – Bà ta đã tìm cách bán đổ bán tháo cho tôi những bản in khắc của những nghệ sĩ người Nga, nhưng tôi đã không dại gì để bị bà ta gạt.
- Aurora? – Clive hỏi, vì không biết đó là một thành phố hay một cơ quan của chính phủ. - Một nhà xuất bản.
- Ông có nhớ tên khác của bà ta không?
Barley lắc đầu.
- Người ta gọi bà ta là Katia râu xồm – Ông ta nói một cách cụt lủn.
- Barley, ông muốn đọc to lên không? – Bob hỏi với giọng thân mật của một bạn hướng đạo sinh cũ – Có lẽ làm như thế, ông có thể nhớ lại dễ dàng hơn. Barley, ông hãy thử đi chứ?
Người này kêu Barley, người kia kêu Barley, tất cả mọi người đều là bạn của Barley, ngoại trừ Clive luôn luôn gọi Barley là ông Blair.
- Đúng đấy, đó là một ý kiến hay. Ông hãy đọc to lên – Clive nhấn mạnh với giọng như ra lệnh.
Tôi lấy làm ngạc nhiên vì hình như Barley cũng thấy cái ý kiến ấy hay. Ông ta ngẩng đầu lên, xoay người lại để bức thư và khuôn mặt ông được chiếu sáng hơn. Ông bắt đầu đọc to với vẻ giễu cợt.
- “Ông Barley yêu dấu của em” - ông ta hạ thấp bức thư xuống một chút, rồi đọc lại – “Ông Barley yêu dấu của em. Ông còn nhớ điều đã hứa với em vào một buổi tối ở Peredelkino, trong lúc chúngta ngồi ở hiên nhà của các bạn chúng ta, để đọc các bài thơ của một nhà thần bí học nổi tiếng người Nga rất có cảm
tình với nước Anh. Ông đã hứa với em rằng ông luôn luôn coi trọng nhân loại hơn các quốc gia, và rằng khi cơ hội đến ông sẽ hành động với tư cách là một con người, xứng đáng với cái danh xưng ấy”.
Barley lại ngừng đọc.
- Tất cả các điều ấy đều không có gì đúng với sự thật cả, phải không? – Clive hỏi. - Tôi lặp lại với ông rằng tôi không bao giờ gặp cái bà tốt bụng ấy cả!
Rồi Barley đọc tiếp:
- “Vậy thì bây giờ em yêu cầu ông hãy giữ lời hứa, nhưng không phải bằng cách mà chúng ta đã hình dung tối hôm ấy, khi chúng ta đã quyết định trở thành tình nhân của nhau”. Tất cả đều là những điều ngu xuẩn – Ông ta lầm bầm – Cái con đàn bà đần độn này hoàn toàn điên rồi – “Em yêu cầu ông cho các người Anh đồng quan điểm với chúng ta xem quyển sách này. Hãy xuất bản quyển sách này giúp em, hãy đưa ra những lý lẽ, nhưng bằng chứng mà lúc đó ông đã dùng với biết bao nhiệt tình. Hãy đưa quyển sách này cho các nhà bác học, các nghệ sĩ, giới trí thức của các ông xem, và hãy nói với họ rằng đây là tảng tuyết đầu tiên của một trận tuyết lở trên núi xuống kéo theo đất, đá, và rằng chính họ phải ném tảng tuyết thứ hai. Hãy nói với họ rằng cái thời kỳ mở cửa hiện nay, chúng ta có thể cùng nhau phá hủy con quái vật vũ khí hạt nhân mà chúng ta đã đẻ ra. Hãy hỏi họ cái gì nguy hiểm hơn hết cho nhân loại: phục tùng như những người nô lệ hay kháng cự như những con người. Hãy hành động với tư cách là con người xứng đáng với danh xưng ấy, Barley. Em yêu nước Anh của Hezen và em yêu ông. K của ông”. Lạy Chúa, cô gái này là ai thế? Cô ta hoàn toàn điên rồ. Vả lại, cả hai đều điên cả.
Để bức thư xuống bà, Barley đi đến ẩn mình trong bóng tối mờ mờ ở đầu kia gian phòng, miệng lẩm bẩm và nắm bàn tay mặt lại, đánh vào khoảng không. Ông ta nổi khùng:
- Lạy Chúa! Người đàn bà này tìm kiếm cái gì mới được chứ? Bà ta trộn lẫn hai chuyện hoàn toàn không dính dáng gì đến nhau. Và sự thật, quyển sách ấy ở đâu?
Đột nhiên, nhớ lại sự hiện diện của chúng tôi, Barley quay mặt về phía chúng tôi. - Quyển sách ấy đang ở một nơi an toàn – Clive nói và liếc xéo tôi một cái
- Nó đang ở đâu? Nó thuộc về tôi mà.
- Chúng tôi nghĩ rằng nó thuộc về người bạn của bà ta thì đúng hơn – Clive bắt bẻ.
- Người ta đã ký thác nó cho tôi. Ông thấy rõ những gì ông ta đã viết. Tôi là nhà xuất bản của ông ta. Vì thế nòa là vật sở hữu của tôi. Ông không có quyền gì đối với nó cả.
Ông ta đã chỉ đúng vào điểm mà chúng tôi không muốn ông ta nêu lên, nhưng Clive đã có phản ứng lại bằng cách đánh lạc hướng sự chú ý của ông ta.
- “Ông ta” nào? Ông muốn nói rằng Katia là một người đàn ông? Vì sao ông nói là “ông ta”? Thật là lộn xộn. Quả thật ông là một con người lộn xộn, làm cho người ta chẳng biết đâu mà lần.
Tôi đã đoán trước thế nào cũng xảy ra một sự bùng nổ. Cho nên khi Barley sải bước tới gần bàn họp, từ từ đưa hai bàn tay lên, tôi biết ông ta sẽ không dành cho Clive một câu trả lời từ tốn nào, nhưng tôi cũng ngạc nhiên không ngờ sự bùng nổ mạnh đến vậy.
- Ông không có quyền! – Barley quát tháo và đập hai bàn tay xuống bàn ầm ầm, đến nỗi tờ giấy tờ của tôi bay tung lên.
Hốt hoảng, Brock đột nhập vào phòng, nhưng Ned ra lệnh cho anh ta trở ra ngay ngoài tiền sảnh.
- Bản thảo quyển sách ấy là của tôi. Tác giả của nó đã gửi nó cho tôi. Để tôi xem xét nó một cách tùy nghi. Ông không có quyền chiếm đoạt nó, đọc nó và giữ nó. Vậy thì ông hãy giao quyển sách ấy ngay lập tức cho tôi, và ông hãy trở về cái hòn đảo thối nát của ông…
- Đó cũng là hòn đảo của ông – Clive nhắc khéo – Còn quyển sách, như ông nói, không phải là một quyển sách. Và không ai có quyền với nó – Ông ta nói tiếp một cách lạnh lùng và hoàn toàn thiếu thiện cảm – Nghĩa vụ nhà xuất bản của ông không quan hệ gì đến tôi. Ở đây không có ai bận lòng về việc ấy. Điều quan trọng, đó là bản tài liệu viết tay chứa đựng những bí mật quân sự về Liên Xô mà giả sử chúng ta xác thực, thì chúng quan hệ đến sự phòng thủ của phương Tây… mà ông cũng thuộc về phương Tây, nếu tôi không lầm. Ở vào địa vị của chúng tôi, ông sẽ làm gì? Ông sẽ không đếm xỉa đến tài liệu ấy chăng? Ông sẽ liệng nó xuống biển chăng? Hay ông sẽ cố tìm hiểu lý do vì sao nó lại được gửi cho một nhà xuất bản của một người Anh sắp mạt vận?
- Ông ta muốn quyển sách ấy được xuất bản. Do tôi xuất bản. Và không bị chôn vùi trong các căn phòng được phòng thủ vững chắc của các ông.
- Được – Clive thừa nhận và nháy mắt với tôi một lần nữa
- Tài liệu viết tay ấy đã được chính thức ký thác tại phòng lưu trữ hồ sơ và được xếp và loại hồ sơ tối mật.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 4:
Barley đã đóng trại ở phía đầu kia gian phòng, càng xa chúng tôi càng tốt. Ngồi ngất ngưởng trên một chiếc ghế học trò không tiện nghi, ông ta cầm ly rượu uýt-ki trong hai tay và ngắm nghía ly rượu, đầu nghiêng nghiêng như một triết gia hay nói đúng hơn là một nhà tư tưởng tự do cô đơn, vì thực tế ông ta nói với chính mình, với một giọng vừa khoa trương vừa sâu sắc, chỉ ngừng để uống một ngụm rượu hay gật đầu khi nhấn mạnh một chi tiết cá nhân và thường là tối nghĩa trong chuyện kể của ông ta. Ông ta kể với vẻ quan trọng của một nhân chứng hay ngờ vực của một thảm kịch, thí dụ một sự chết chóc hay một tai nạn xe hơi: tôi ở đây, ông đứng đầu kia, và kẻ đi đến từ phía này.
- Tại hội chợ triển lãm sách vừa qua ở Matxcơva, một ngày Chủ nhật. Không phải Chủ nhật trước, mà là Chủ nhật sau, - Barley kể.
- Một chủ nhật của tháng chín – Ned nhắc.
Barley quay đầu về phía Ned và nói đôi lời cám ơn, như thể ông ta tán thưởng sự trợ lực của Ned. Rồi ông ta kể tiếp:
Chúng tôi mệt lử. phần nhiều các người có sách trưng bày, ngày thứ sáu đã sắp xếp hành lý để ra về. Chỉ còn lại một nhóm nhỏ những người có những hợp đồng cần điều chỉnh, và những ai không có một lý do nào đích xác để trở về nước sớm. Tối thứ bảy, chúng tôi dự một buổi tiệc ăn uống say sưa, và Chủ nhật đi đến Peredelkino, trong chiếc xe của Jumbo.
Bỗng nhiên hình như ông ta nhớ lại là ông ta có một thính giả.
- Peredelkino là làng của các nhà văn Liên Xô. – Ông ta giải thích như thể chứng tôi chưa bao giờ nghe nói đến làng ấy. – Người ta cấp cho họ một số datcha (1). Hội Nhà văn quản lý ngôi làng.
- Jumbo là ai thế? – Ned hỏi.
- Jumbo Oliphant, giám đốc Nhà xuất bản Lupus Books. Ông ta là người AiLen và là một nhân vật quan trọng của Hội Tam Điểm. Ông ta có thẻ vàng.
Chợt nhớ ra có mặt Bob ở đây, Barley quay đầu về phía Bob và nói:
- Không phải thẻ vàng của American Epress, mà là thẻ vàng của hội chợ triển lãm sách ở Matxcơva. Có thẻ vàng ấy, Jumbo được cấp miễn phí một chiếc xe, một phiên dịch, một phòng khách sạn và một hộp cavian, Jumbo đã sinh ra với một thẻ vàng trong nôi.
Bob mỉm cười một cách cởi mở để chứng tỏ rằng mình cũng thích đùa.
Barley tiếp tục kể:
- Thế là tất cả chúng tôi đã đi thăm làng của các nhà văn Liên Xô, Oliphant của nhà sách Lupus; Emery của Bodley Head; và một cô của Penguin mà tôi không nhớ tên. À, nhớ ra rồi: Magda. Quỉ tha ma bắt, làm sao tôi lại có thể quên cô ta được? Và Blair của A and B. Chúng tôi có ý định đi tham quan ngôi nhà cũ và mộ của Pasternak (2). Lúc khởi hành, Jumbo Oliphant không biết Pasternak là ai, nhưng Magda đã nói nhỏ “Tác giả quyển tiểu thuyết Bác sĩ Jivago mà ông ta có xem phim rồi đó”.
Barley ngừng lại một lát rồi kể tiếp:
- Mộ của Pasternak ở trên một ngọn đồi. Ngày hôm ấy, với không khí tự do mới mẻ của thời mở cửa, khi chúng tôi đến nơi, đã có trên vài trăm người hâm mộ đủ mọi thành phần tụ tập chung quanh mộ của nhà văn. Tấm bia biến mất dưới những bó hoa chất chồng càng lúc càng cao. Người ta phải chuyển các bó hoa từ tay người này sang tay người khác, qua trên đầu họ, để có thể đặt bó hoa lên chóp đống hoa. Rồi để tỏ lòng tôn sùng Pasternak, người ta trích đọc các tác phẩm của nhà văn. Một người đàn ông nhỏ thó, đọc thơ của Pasternak. Một cô gái mập mạp đọc văn xuôi. Tiếp đến, có một người nào đó cất tiếng hát to. Các người khác đồng thanh hát lại các điệp khúc và cảnh trạng chung quanh ấy đã có không khí như một lễ hội. Tiếng hát càng lúc càng to hơn và cũng huyền bí hơn. Tôi biết được năm ba chữ tiếng Nga, các người khác thì còn biết ít hơn nữa.. nhưng điều đó không thể ngăn cản chúng tôi cùng tham dự lễ với họ. Điều ấy cũng đã không ngăn cản Magda khóc như một Madeleine, và Jumbo tuyên bố với giọng nghẹn ngào rằng, có Chúa Trời chứng giám, ông ta sẽ xuất bản toàn bộ tác phẩm của Pasternak từ chữ đầu đến chữ cuối, và ông ta hứa sẽ xuất tiền túi để in ấn ngay sau khi về đến nhà. Jumbo thỉnh thoảng có những lúc bồng bột như thế.
Barley mỉm cười ngừng kể, nhăn mày một lần nữa, cất kính mắt rồi nhìn đăm đăm chúng tôi hết người này đến người khác như thể nhớ lại tình hình hiện tại trước khi kể tiếp.
- Chúng tôi đang tiếp tục từ trên đồi đi bộ xuống, thì cũng người Nga nhỏ thó đó vội vã chạy tới phía chúng tôi, tay cầm một điếu thuốc ngang mặt như cầm một ngọn nến và hỏi chúng tôi có phải là người Mỹ không.
Clive ngắt lời Barley và hỏi:
- Cũng người Nga nhỏ thó ấy? người Nga nhỏ thó nào? Cho đến bây giờ chúng tôi có nghe ông nói đến đâu.
- Ôi, lạy Chúa! Thì là cái ông đã ngâm thơ của Pasternak ở bên mộ ấy. Tôi đã nói rồi mà. Ông không nhớ sao mà còn hỏi. Chính ông ấy đã hỏi chúng tôi có phải là người Mỹ không. Và tôi đã trả lời là không phải, cám ơn Chúa, chúng tôi là người Anh.
Tôi nhận thấy Barley đã đóng vai trò phát ngôn viên của đoàn, chứ không phải Oliphant, Emery hay Magda.
Barley chuyển sang cuộc đối thoại ttrực tiếp. Nhờ có tài bắt chước giọng của người khác, Barley nói giọng Nga khi đóng vai người đàn ông nhỏ thó và nhại giọng Ailen khi đóng vai Oliphant.
- Các ông là nhà văn? – Người đàn ông Nga nhỏ thó hỏi (do miệng của Barley nói giọng Nga). - Không, chúng tôi chỉ là những nhà xuất bản – Barley trở lại giọng của chính mình để trả lời. - Những nhà xuất bản Ăng-lê?
Chúng tôi tham dự hội chợ triển lãm sách ở Matxcơva. Tôi cai quản một nhà xuất bản nhỏ có tên là Abercrombie and Blair. Còn ông này chính là giám đốc của nhà xuất bản Lupus Books. Một người rất giàu. Một ngày nào đó ông ta sẽ đứng ra bảo trợ cho các nhà văn. Thẻ vàng và tất cả những gì nữa. Không phải sao Jumbo?
Oliphant trách Barley lắm điều. Nhưng người đàn ông nhỏ thó muốn biết thêm.
- Tôi xin hỏi các ông đã làm gì bên phần mộ của Pasternak?
- Ồ chỉ là ngẫu nhiên thôi, - Oliphant nhanh nhảu đáp – Một điều hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng tôi thấy có đám đông, nên đã đến xem việc gì đang xảy ra. Quả thật chỉ là hoàn toàn ngẫu nhiên. Thôi, chúng tôi đi đây.
Nhưng Barley không hề có ý định bỏ đi. Những lời lẽ và cử chỉ của Oliphant làm cho ông ta bực tức, và ông ta không muốn để cho một anh chàng tỉ phú Ailen mập ú đối xử với người đàn ông nhỏ thó kia như thế.
- Chúng tôi đã làm như tất cả các người ở đây đã làm – Barley đáp – Chúng tôi đã đến đây để ngưỡng mộ một nhà văn lớn. Chúng tôi đã vô cùng tán thưởng những bài thơ mà ông đã đọc. Thật là cảm động. Ông đã trích đọc một đoạn rất hay. Thật tuyệt vời.
- Ông khâm phục Pasternak chứ?
Oliphant một lần nữa lại xen vào (cũng do Barley nhại giọng của Oliphant để nói).
- Chúng tôi không có một quan niệm nào về Boris Pasternak hay bất cứ một nhà văn Liên Xô nào khác. Chúng tôi đến đây với tư cách là khách được mời. Và chỉ với tư cách là khách được mời. Chúng tôi không có ý kiến về các vấn đề nội bộ của Liên Xô.
- Chúng tôi nhận thấy Pasternak là một thiên tài – Barley cắt ngang – Ông là một ngôi sao có tầm cỡ thế giới.
- Nhưng vì sao? – Người đàn ông nhỏ thó hỏi.
- Chúng tôi trân trọng tài năng nghệ thuật của Pasternak. – Barley đáp. – Trân trọng lòng nhân ái và nhất là khả năng của Pasternak làm xúc động trái tim của dân chúng Nga.
- Nếu các ông có long kính trọng Pasternak đến như thế, các ông hãy đi với tôi, và tôi sẽ giới thiệu với các ông những người bạn. – Người đàn ông nhỏ thó gợi ý. – Tất cả chúng tôi đều là nhà văn. Chúng tôi có một cái Datcha. Chúng tôi sẽ rất hân hạnh được đàm luận với những nhà xuất bản Ăng-lê có nhân quan.
Theo Barley, Oliphant hốt hoảng khi nghe người đàn ông nhỏ thó nói những lời đầu tiên. Ông ta sợ bị gài bẫy, bị lôi cuốn vào việc mua bán ma tuý…. Hơn nữa, ông ta đang cố gắng ký một hợp đồng liên doanh xuất bản qua trung gian của VAAP.
Barley bảo Oliphant, Emery, và Magda lên xe về trước. Còn ông ta đi theo người đàn ông nhỏ thó.
- Nejdanov! – Đột nhiên Barley reo lên. – Bây giờ tôi nhớ lại tên ông ta rồi. Nejdanov. Một nhà viết kịch.
- Này ông bạn thân mến bây giờ là một anh hùng. Ba trong các vở kịch một hồi của ông sắp được diễn tại Maxcơva trong năm tuần liền và mọi người đều nô nức sẽ đi xem cho bằng được.
Lần này là lần đầu tiên kể từ khi ông ta gặp Barley, gương mặt ông ta rạng rỡ một niềm hân hoan mãnh liệt, và đột nhiên tôi có cảm tưởng đó là bản chất sâu kín của con người ông ta.
- Thế thì tuyệt vời! – Barley reo lên với vẻ thích thú chân thực của một người biết tán thưởng sự thành công của người khác. – Tuyệt vời. Cám ơn ông đã cho tôi biết điều đó. – Barley nói thêm với vẻ như đột nhiên trẻ trung lại.
Nhưng chẳng mấy chốc nét mặt ông ta lại sa sầm, và ông ta nhấp giọng rượu uýt-ki trong ly.
- Nói tóm lại, có rất đông người. Người ta càng điên, người ta càng vui cười. Tôi giới thiệu với ông, đây là người em họ của tôi. Ông hãy dùng một cái bánh hot-dog đi cho nóng.
Một ngôi nhà thật lớn đầy dẫy những xó, những góc, Barley diễn tả theo kiểu văn điện tín mà ông ta đã chọn. Tường lát ván xéo chồng nhau. Những mái hiên một khu vườn, một rừng phong. Nhiều ghế dài, một bếp di động đun bằng than. Khoảng ba mươi người ở trong vườn, phần nhiều là đàn ông, người ngồi, người đứng, người đang nấu nướng, người đang uống rượu. Đậu dọc theo đường là những chiếc xe cũ giống như xe Ăng-lê trước khi Thatcher lên cầm quyền. Những người này mặt mày khả ái, nói năng một cách thoải mái. Tất cả đều thuộc giới văn nhân thi sĩ. Nejdanov đi đến, Barley đi theo sau.
- người tiếp đãi chúng tôi là một nhà thơ nữ - Barley nói – Tamara gì đó. Lesbienne, mỹ miều. Chồng là chủ bút một tạp chí khoa học. Nejdanov là em rể của ông ta. Ở đây ai cũng là anh hay em rể, anh hay em vợ của một người khác.
Barley kể với chúng tôi rằng ông ta đã cùng với Nejdanov đi đến với nhóm này, nhóm khác, rồi sau đó một mình vừa uống rượu vừa nói chuyện với bất cứ ai nói chuyện với ông ta.
- Khi đến giờ ăn trưa – Barley kể tiếp. – Chúng tôi ngồi chung quanh một cái bàn gồm một tấm ván kê trên những con ngựa gỗ. Tôi ngồi một đầu, Nejdanov ngồi ở đầu bên kia, trên bàn có những chai rượu vang trắng, sản phẩm của Géorgie, mọi người đàm luận bằng tiếng Anh về chính sách Perestroika.
Clive lại ngắt lời Barley. Ông ta không muốn nghe những chi tiết vô ích, ông muốn biết tên những người nói chuyện với Barley.
- Clive, ông muốn biết tên, thì đây. Một người là giáo sư đại học quốc gia ở Matxcơva, nhưng tôi không nhớ tên ông ta. Một người khác quản lý các kho hoá phẩm, đó là người anh em cùng cha khác mẹ của Nejdanov, và họ gọi ông ta là dược sư. Cũng có một người khác nữa, tên là Grégor, nhưng tôi không biết ông ta họ gì. Chỉ biết ông ta là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
- Có phụ nữ cùng ăn không? – Ned hỏi.
- Có. Có hai người, nhưng không có Katia, - Barley đáp.
- Nhưng cũng có một người khác nữa phải không.
Barley từ từ ngửa đầu lên để uống rượu, rồi kẹp cái ly vào giữa hai đầu gối, cúi xuống nhìn vào đó như thể để tìm nơi đó một câu trả lời thận trọng.
- Đúng như thế, luôn luôn phải có một người nào khác. Nhưng không phải là Katia.
Giọng nói của Barley đã thay đổi, mặc dù tôi không đủ khả năng để phân tích nó thay đổi như thế nào. Có thể là ít lanh lảnh hơn, với một chút luyến tiếc hay ân hận.
- Tôi cũng như những người khác, chúng tôi chờ đợi, vì chắc chắn chúng tôi đã cảm thấy có một điều gì đó khác thường đang lộ ra nơi chân trời.
- Một người nhiều râu – Barley nói tiếp, đôi mắt nhìn vào bóng tối lờ mờ như thể cuối cùng ông ta chợt nhận ra người kia. – Cao lớn, mặc một bộ đồ màu sẫm và đeo cà vạt đen. Mặt hốc hác. Chắc chắn đó là lý do vì sao ông ta nhiều râu. Tóc đen. Say rượu luý tuý.
- Ông ta có một cái tên chứ? – Ned hỏi.
Barley luôn luôn thám xét trong bóng tối lờ mờ, tả người mà không một ai trong chúng tôi có thể nhìn
thấy.
- Geothe. – cuối cùng Barley trả lời – Họ gọi ông ta là Geothe (3). Tôi giới thiệu với các ông nhà văn đại tài của chúng ta, Geothe. Ông ta trông có vẻ như đã năm mươi tuổi hay mới mười tám đôi mươi.
Sau này, khi cho phát lại cuốn băng ghi âm, Ned cho biết đúng lúc ấy, nói một cách kỹ thuật, Chim Xanh cất cánh. Barley chọn lúc ấy để lên cơn hắt hơi. Mới đầu ông ta nhảy mũi vài cái cách nhau, rồi tăng dần lên đến một tràng dài liên tiếp trước khi dịu dần.
- Xin lỗi – Barley nói. Rồi ông ta kể tiếp: - Trong lúc đàm đạo, tôi nói năng lưu loát, không hề vấp váp. Tôi là nhà vô địch, là ngôi sao sân khấu và màn bạc. người phương Tây nhã nhặn và hấp dẫn. Chính vì thế mà tôi đã sang bên ấy, phải không? Chỉ có người Nga khờ khạo mới chịu nghe những chuyện ngu ngốc của tôi.
Barley lại chúi mũi xuống trên ly rượu.
- Bên kia là như thế đó. Người ta làm một chuyến đi chơi ở vùng quê, và người ta thấy mình ở trung tâm một cuộc tranh luận về tự do và trách nhiệm với những nhà thơ say mèm. Nếu bạn đi tiểu tiện trong những nhà vệ sinh công cộng, sẽ có một người nào đó nghiêng mình qua bức tường ngăn và hỏi bạn có sự sống sau cái chết hay không. Bạn là người phương Tây, bạn phải biết điều đó. Thì bạn cứ trả lời với người ấy rằng chẳng có gì mất đi hết.
- Barley, ông hãy cho chúng tôi biết những gì đã xảy ra và dành cho chúng tôi phần bình luận, ông đồng ý chứ? – Clive gợi ý.
- Những gì đã xảy ra, tôi đã tỏ ra khá xuất sắc trong lúc đàm đạo với họ. Thôi hãy cho qua đoạn này đi. - Ông đã nói về những vấn đề gì? – Clive hỏi.
- Ôi, – Barley nhún vai – nói về chính sách Perestroika, về hoà bình tiến bộ và Glanost, về sự giải trừ binh bị ngay lập tức vô điều kiện.
- Ông có thể cho chúng tôi biết những gì ông đã nói không? – Clive hỏi.
- Tôi đã nói rằng giải trừ binh bị không phải là một vấn đề quân sự và cũng không phải là một vấn đề chính trị, mà đơn giản chỉ là một vấn đề ý chí của con người. Vấn đề là phải biết người ta sẽ gặt hái những gì mà người ta sẽ gieo.
Barley ngừng lại để phân trần với Ned:
- Tôi đã nói căn cứ theo những bằng chứng mà tôi đã đọc được nơi này một ít nơi kia một ít. Chắc hiểu rằng chúng tôi chờ đợi một sự giải thích rõ ràng hơn, ông ta nói tiếp:
Tôi đã nói rằng tôi tin cậy ở Gorbatchev. Tôi đã nói rằng Tây phương phải có một Gorbatchev của mình và Đông phương phải hiểu sự quan trọng của ông Gorbatchev của họ. Rằng nếu người Mỹ cũng tha thiết với việc giải trừ binh bị bằng việc đưa con người lên mặt trăng, thì người ta đã có được sự giải trừ binh bị lâu rồi. Tôi cũng đã có nói rằng tội ác lớn hơn hết của Tây phương là tin rằng họ có thể phá tan hệ thống Xô Viết bằng một sự vượt trội trong cuộc chạy đua vũ trang, vì lẽ nếu xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ ba,thì toàn thể nhân loại sẽ bị huỷ diệt.
Walter lấy tay che miệng cười khúc khích.
Không nao núng, Barley nói tiếp:
- Có người đã hỏi tôi rằng tôi không nghĩ rằng vũ khí hạch tâm đã gìn giữ hoà bình trong bốn mươi năm hay sao? Tôi đã trả lời rằng đó là những luận điệu ngu xuẩn. Nói như thế chẳng khác nào nói thuốc súng đại bác đã gìn giữ hoà bình trong thời gian giữa Waterloo và Sarajevo. Và nói cho cùng, thế nào gọi là hoà bình? Bom đạn đã không ngăn cản được chiến tranh Triều Tiên cũng như không ngăn cản được chiến tranh Việt Nam. Bom đạn cũng đã không can ngăn được người ta đừng xâm chiếm Tiệp Khắc, đừng phong toả Berlin, đừng xây bức tường Berlin hay đừng đưa quân vào Afghanistan. Nếu gọi đó là hoà bình thì chúng ta hãy cố gắng đem lại hoà bình mà không có bom đạn. Tôi có nói điều người ta phải làm, không phải là nghiên cứu về không gian mà là về nhân tính. Rằng các siêu cường phải chung sức, phải đoàn kết để giữ gìn trật tự trên toàn thế giới. Tôi đã nói một cách say sưa.
- Và bây giờ ông tin một cách thật sự những gì ông đã nói? – Clive hỏi.
Barley không trả lời câu hỏi ấy mà nói tiếp:
- Và sau đó, người ta đã nói về nhạc jazz, Bix Beiderbecke, Louis Armstrong, Lester Young. Tôi cũng có chơi một chút.
- Ông muốn nói một người nào đó có một cái kèn saxo? – Bob reo lên một cách thích thú, - Họ có những nhạc khí gì khác nữa? Một cái trống lớn? Một cái não bạt?
Tôi tưởng Barley sắp đi ra ngoài. Ông ta đứng lên, đưa mắt tìm cửa và đi tới phía đó. Nhưng Barley ngừng lại ở giữa đường, trước một cái bàn thấp bằng gỗ chạm, cúi xuống trên cái bàn ấy và hát “pah-pah pah-pah- pah-pah-pah”, vừa hát giọng mũi, vừa gõ gõ các đầu ngón tay để bắt chước đánh nhịp hoà theo của não bạt và trống lớn.
Bob đã vỗ tay, cũng như Walter và tôi. Ned cười. Chỉ một mình Clive là chẳng có vẻ gì thích thú.
- Sau đó có người đã hỏi tôi như thế này: “Barley, hay lắm. Giả thiết rằng tất cả đều đúng như ông nói. Ai sẽ đảm trách các cuộc nghiên cứu về nhân tính?”
- Người nào hỏi? – Clive hỏi.
Một trong những thực khách. Có gì quan trọng?
- Chúng ta hãy theo quy tắc là tất cả mọi sự đều quan trọng – Clive bắt bẻ. – Và ông đã trả lời người ấy như thế nào?
- Tôi đã trả lời: Chính các ông phải đảm trách công việc ấy. Chứ sao lại là chúng tôi. Bởi vì muốn có những thay đổi triệt để, người Nga giỏi hơn người Tây phương chúng tôi. Các ông có một giới lãnh đạo tập trung và một giới trí thức có rất nhiều ảnh hưởng đối với dân chúng. Trong một nền dân chủ kiểu Tây phương, làm cho dân chúng nghe theo là một việc khó khăn hơn nhiều.
- Này Barley – Bob nói, - đó là một quan niệm hơi trừu tượng, nhưng tôi tin rằng trong đó cũng có phần đúng.
- Ông có kiến nghị một hành động nào không? – Clive hỏi thêm.
- Tôi nói chỉ còn vấn đề lý tưởng và những gì mà hai mươi năm trước đây có vẻ như là một điều mơ tưởng điên rồ, thì bây giờ là hy vọng duy nhất của chúng ta, đó là vấn đề tài giảm binh bị, vấn đề sinh thái học, hay nói một cách đơn giản, vấn đề sống còn của nhân loại. Tôi cũng nói giới trí thức Tây phương phải
lấy lại ảnh hưởng của mình, Tây phương phải nêu gương chứ không phải đợi người ta làm trước rồi mới noi theo.
- Ông muốn nói Tây phương phải đơn phương tài giảm binh bị chứ gì? – Clive nói và siết chặt hai bàn tay lại với nhau. – Thế đó. Tốt, được rồi.
Ông ta không nói “rồi” mà nói “rùi”, đó là lối nói của ông ta khi nghĩ một đường mà nói một nẻo. Rồi ông ta lại hỏi thêm:
- Và trong lúc ông trổ tài hùng biện như thế thì cái ông Goethe có nói gì không?
- Không nói gì cả. Mọi người đều có phát biểu ý kiến, trừ ông ta.
- Nhưng ông ta nghe và trố mắt ra, phải không?
- Lúc ấy, người ta đang kiến thiết lại thế giới. Yalta (4), họ thân mật vỗ vai nhau lần thứ hai. Mọi người tranh nhau nói, trừ Goethe. Ông ta không ăn, không nói. Tôi không ngừng nhìn vào mặt ông ta mà phát biểu ý kiến, chỉ vì ông ta không tham gia vào cuộc đàm luận. Nhưng điều đó chỉ thúc đẩy ông ta uống rượu nhiều hơn. Cuối cùng tôi đành chịu thua.
Vẫn với giọng thất vọng bất bình, Barley nói tiếp:
Và Goethe không đưa ra một quan điểm nào. Suốt cả buổi chiều không nói một tiếng. Goethe nghe, mắt đăm đăm nhìn đâu đâu. Đôi khi ông ta cười, nhưng không bao giờ cười khi có điều gì đó ngộ nghĩnh một chút. Thỉnh thoảng ông ta đứng lên, đi thẳng tới cái bàn rượu tìm một chai vodka khác, trong lúc mọi người uống rượu vang, và trở về chỗ cũ với một cốc đầy mà ông ta chỉ uống vài hớp là cạn khi người ta đề nghị nâng ly rượu mừng. Nhưng chính ông ta thì không bao giờ đề nghị. Ông ta thuộc hạng người nhờ im lặng mà gây được một ảnh hưởng tâm lý, đến nỗi cuối cùng người ta tự hỏi rồi người ấy sẽ chết vì sinh bệnh hay đang dựng lên một dự án lớn.
Khi Nejdanov đưa tất cả mọi người vào trong nhà để nghe nhạc, Goethe lặng lẽ đi theo. Đêm đã khuya, trong lúc tôi hầu như đã quên trên đời này có Goethe, tôi mới nghe ông ta nói.
Bây giờ mới nghe Ned đặt một câu hỏi:
- Các người khác đối cử với Goethe như thế nào?
- Họ kính trọng ông ta. Họ coi ông ta là bậc thầy của họ. Họ nói “chúng ta bây giờ xem Goethe có ý kiến như thế nào về vấn đề ấy”. Goethe nâng ly lên uống chúc mừng mọi người, và mọi người đều vui cười trừ ông ấy.
- Các bà cũng có thái độ như thế chứ?
- Tất cả. Họ khâm phục ý kiến của ông ta. Có thể nói họ trải thảm đỏ để rước ông ta. - Và không có ai nói với ông nơi Goethe ở, nơi ông ta làm việc sao?
- Không. Họ chỉ nói ông ta đến đây từ một nơi mà ở đó ông ta không thể uống rượu được, và vì thế ông ta thường đi nghỉ phép nơi này đến nơi khác để uống.
- Ông tin rằng họ che chở ông ta phải không?
Tôi có ý nghĩ rằng những lúc tạm ngừng của Barley, quả thực rất lạ lùng. Sự tiếp xúc của ông ta với
môi trường chung quanh mỏng manh đến nỗi tâm trí ông ta hình như đang nghĩ gì ở đâu. Chú thích:
(1) Datcha: ngôi nhà kiểu nông thôn ở nước Nga – ND.
(2) Pasternak: Nhà văn Nga (1890-1960), giải thưởng Nobel văn chương 1968. Bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn Liên Xô, nhưng đã được phục hồi danh dự năm 1987. – ND.
(3) Geothe (1749-1832): Đại văn hào Đức.
(4) Yalta: tại hội nghị Yalta năm 1945, ba nước Anh, Mỹ và Liên Xô đã bắt tay nhau.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 4 (Tt):
- Phải, - đột nhiên Barley nói – Phải, phải, họ che chở ông ta. Đúng như thế. Đây là câu lạc bộ của những người hâm mộ ông ta nhiệt liệt.
- Vì sao họ che chở ông ta?
Barley lại tạm ngừng.
- Có thể vì ông ta không phát biểu ý kiến. Lúc đó tôi cũng không có ý nghĩ như thế, nhưng bây giờ thì có.
- Và vì sao ông ta muốn tránh phát biểu ý kiến? Ông có thể cung cấp cho chúng tôi một lý do, mà lý do đó không phải do ông bịa ra không? – Clive nhấn mạnh, rõ ràng là để chọc giận Barley.
Nhưng Barley không tỏ vẻ bực tức.
Tôi không bao giờ bịa đặt, - ông ta đáp.
Barley lại im lặng. Rồi nhăn mày, ông ta lẩm bẩm vài lời nguyền rủa, và đột ngột cười lên một tiếng, rồi nói:
- Tôi giật mình thức dậy lúc nửa đêm. “Lạy Chúa, tôi đang ở đâu thế này?” Tôi đang ở trong một mái hiên, nằm trên một cái ghế dài, đắp một cái áo choàng. Thoạt tiên tôi tưởng mình đang ở bên Mỹ. Vì bên đó tại một số bang, có mái hiên tương tự. Nhưng tôi không hiểu sao tôi lại có thể đi đến Mỹ nhanh như thế sau một bữa ăn trưa ở Peredelkino. Và rồi tôi sực nhớ ra họ đã thôi không còn nói chuyện với tôi nữa, và tôi đã đâm ra buồn chán. Chẳng có gì bất lịch sự cả. Đơn giản chỉ vì họ quá chén và tôi cũng đã ngán nghe những lời lẽ của những người say rượu. Thế là tôi đi ra ngoài mái hiên với một chai uýt-ky. Một người nào đó đã đắp cho tôi một cái áo choàng để che sương. Chắc là ánh trăng rằm đã đánh thức tôi dậy. Và tôi nghe có tiếng người nói với tôi. Vẻ nghiêm chỉnh. Tiếng Anh rất sỏi. Lạy Chúa, tôi tự nhủ, giờ này mà còn có khách khứa. “Này ông Barley, có những sự đau đớn cần phải có. Nhưng cũng có những sự đau đớn khác tai hại hơn cần thiết.” Ông ta trích dẫn những gì tôi đã nói trong bữa ăn trưa, một câu mà tôi đã trích dẫn trong bài diễn thuyết của tôi về vấn đề hoà bình trên thế giới. Tôi không nhớ chính tôi đã trích dẫn câu nói ấy của ai. Tôi nhìn ông ta gần hơn, và tôi đã thấy con diều hâu nhiều râu kia, một chai rượu vodka cầm tay, tóc tung bay trước gió. Ông ta ngồi gần bên tôi, và đã rót rượu đầy ly. “Chào Goethe”, – tôi nói – “Ông còn chưa chết? Nhờ đó mà tôi có cái thú được gặp ông”.
Nhìn nét mặt ông ta đột nhiên sa sầm, Barley hình như có vẻ khó chịu, rồi kể tiếp:
- Và ông ta lại nêu ra một câu khác trong những câu châu ngọc mà tôi đã nói trong bữa ăn trưa: “Tất cả các nạn nhân đều bằng nhau. Không ai hơn ai”. Tôi đã cười, nhưng không cười nhiều. Tôi cảm thấy hơi bực dọc. Tôi có cảm tưởng bị người ta theo dõi. Lão ta đã ngồi lỳ trong suốt cả bữa ăn ấy, say tuý luý, không ăn, không nói một tiếng nào. Và đột nhiên, mười giờ sau, lão ta tuôn ra những lời tôi đã nói như một cái máy ghi âm. Thật là khó chịu.
Tôi đã nói với lão ta: “Goethe, ông là ai? Ông làm gì trong đời khi ông không uống rượu và không nghe người khác nói?”
“Tôi là một người đứng ngoài vòng pháp luật về mặt tinh thần. Tôi nghiên cứu những học thuyết lớn có tính thế tục”.
“Gặp được một tác giả luôn luôn là điều thích thú đối với tôi. Lúc này ông đang viết những gì?”
“Mỗi loại một ít. Những tiểu luận lịch sử, những vở kịch, những chuyện hư cấu, giả tưởng, những chuyện tình.”
“Rồi ông ta chọc quê tôi: “Này ông Barley. Ông là nhà xuất bản. Sao ông không hỏi tôi đã tìm ý ở đâu?”
“- Barley. Tôi tìm ý, thứ nhất…” và ông ta đếm trên các đầu ngón tay của ông ta.
Barley duỗi thẳng các ngón tay của mình ra để bắt chước Goethe và đổi giọng sang giọng người Nga, nói:
“Tôi tìm ý của tôi… một, trên các khăn bàn ăn bằng giấy của các quán cà phê ở Berlin trong các năm của thập niên 30”. Goethe uống một hớp vodka, rồi ợ lên: “Hai, trong các sách, báo xuất bản của những người giỏi hơn tôi. Ba, trong các dự định hay ước mơ bỉ ổi của các tướng lãnh hay chính trị gia của tất cả các nước. Bốn, trong giới chuyên viên khoa học bị bọn phát xít cưỡng bức làm việc cho chúng. Năm, trong dân chúng Liên Xô. Và sáu, trong những dịp rất hiếm có, trong tài trí của một nhà trí thức xuất sắc của phương Tây, đột ngột xuất hiện trong đời tôi. “Rõ ràng là ông ta muốn ám chỉ tôi, vì ông ta nhìn tôi đăm đăm để dò phản ứng của tôi. Và bỗng ông ta thay đổi thái độ, ông ta có vẻ nghi ngờ”. Trong bữa ăn trưa, ông đã đóng kịch rất khéo. Bằng cách nào ông đã thuyết phục Nejdanov mời ông đến dự với chúng tôi?” “Thật chua cay, chẳng khác nào ông ta nói: Tôi không tin ông”.
“- Tôi đã không thuyết phục Nejdanov . Đó là ý của ông ta. Thật sự ông muốn nói bóng gió đến điều gì?”
“Ý ấy không của ai hết. Chính ông đã nhồi nhét ý ấy vào trong đầu óc của Nejdanov. Ông là một người có thủ đoạn. Ông giỏi lắm, hoan hô!”
Và thay gì tiếp tục tuôn ra những lời lẽ chế giễu có tính cách xúc phạm tôi, Goethe bám vào vai tôi như một người sắp chết đuối. Tôi sợ ông ta có thể nôn ra trên người tôi. Tôi cố giúp đỡ ông ta, nhưng không biết phải làm gì. Ông ta nóng hừng hực, mồ hôi toát ra như tắm… Tôi tự nhủ phải mở nút cổ áo sơ mi của ông ta. Và sau đó tôi nghe tiếng ông ta nói ngay trong lỗ tai tôi. Mới đầu tôi không hiểu ông ta nói gì, vì ông ta đứng quá gần. Tôi thụt lùi, nhưng ông ta vẫn bám sát vào tôi.
Ông ta đã thì thầm: “Tôi tin từng lời ông đã nói ra. Các lời ông nói đã đi thẳng vào trái tim tôi. Ông hãy hứa với tôi rằng ông không phải là một điệp viên Ăng-lê, và tôi sẽ hứa với ông rằng tôi không phải là một điệp viên của Nga.” Ông ta đã nói câu ấy từng chữ một như thể ông ta lấy làm xấu hổ. Ông ta nhớ từng câu tôi đã nói. Và tôi, tôi cũng nhớ từng lời ông ta đã nói.
“- Không, Goethe thân mến, tôi không phải là một điệp viên. Tôi chưa bao giờ là điệp viên và sẽ không bao giờ là một điệp viên cả. Ông thích chơi cờ chứ? Chúng ta hãy nói chuyện chơi cờ đi”.
Hình như ông ta không nghe câu tôi hỏi. Vì ông ta hỏi tôi: “- Và ông không phải là điệp viên của Mỹ chứ? Ông không phải là điệp viên của bất cứ ai, ngay cả của Nga cũng không?”
“- Này Goethe, hãy nghe tôi nói đây. Không giấu gì ông, tôi bắt đầu bực mình rồi đấy. Tôi không phải là gián điệp của bất cứ ai. Tôi là tôi. Thế thì, hoặc là chúng ta nói chuyện chơi cờ, hoặc là ông đi gõ một cánh cửa khác, đồng ý không?” Tôi tưởng ông ta ngậm tăm, nhưng tôi đã lầm. Ông ta rất thạo môn cờ, và
đã nói với tôi rằng: “mỗi tay chơi cờ có chiến lược của mình, và nếu tay này không đoán được chiến lược của tay kia, hay lơ là không chú ý một chút thì tay kia thắng. Trong cuộc cờ, lý thuyết là sự thật. Nhưng trong cuộc đời, ít ra là trong một số trường hợp, người ta có thể ở trong một tình thế mà một tay chơi cờ có những ý tưởng kỳ cục về tay kia đến nỗi cuối cùng anh ta tự tạo cho mình kẻ thù mà anh ta cần. Không phải sao?” – “Vâng, Goethe, tôi hoàn toàn đồng ý”. Và Goethe đột ngột thanh minh như tất cả những người đã uống quá chén thường làm. Vì sao ông ta còn sống trên đời? Độc nhất chỉ để tôi nghe ông ta? Ông ta nói rằng ông ta sinh ra với hai linh hồn, như Faust (1), vì thế mà người ta gọi ông là Goethe. Ông ta kể với tôi về gia đình của ông ta, về cuộc đời của ông ta và cuối cùng ông ta nói ông ta muốn hứa với tôi một điều, rằng ông ta khâm phục người Anh. Người Anh có đạo đức hơn hết ở châu Âu, là những máy điều hoà kín đáo, những người làm thống nhất ý tưởng lớn của châu Âu. Còn người Mỹ thì đã đầu độc thế giới với lý luận thực dụng của họ. Nếu người láng giềng của tôi có một chiếc xe, tôi phải có hai chiếc. Nếu người láng giềng của tôi có một khẩu súng lục, tôi phải có hai khẩu. Nếu người láng giềng của tôi có một trái bom, tôi phải có một trái to hơn và nhất là nhiều hơn, ngay cả nếu chúng được thả xuống không trúng đích. Thế là tất cả những gì tôi phải làm, đó là tưởng tượng ra khẩu súng của người láng giềng của tôi và chế tạo ra một khẩu súng giống như thế, bằng lập luận ấy, tôi biện minh tất cả những gì tôi chế tạo là chính đáng. Không phải sao?
Vladimir Petcherine. Ông ta muốn tận tâm phục vụ nhân loại. Ông ta đã đi tu và trở thành giáo sĩ. Petcherine yêu Chúa nhưng ghét khoa học, ngoại trừ nếu khoa học chú trọng đến linh hồn con người. Tôi đã hỏi ông ta bao nhhiêu tuổi. Tuổi của Goethe, chứ không phải của Petcherine. Vì lúc ấy, người ta có thể nói ông ta mới lên bảy hay đã bảy mươi bảy cũng được. Và ông ta đã nói với tôi rằng ông gần đất xa trời rồi. Ông ta năm mươi tuổi, nhưng vừa mới được sinh ra.
Walter hạ thấp giọng hỏi như đang ở trong một nhà thờ:
- Vì sao ông lại hỏi tuổi của Goethe, trong lúc có biết bao nhiêu câu hỏi mà đáng lẽ ông phải đặt ra hơn? Trong một lúc như thế, biết lão ta có mấy cái răng phỏng có ích lợi gì?
- Bởi vì, thật là khó hiểu. Mặt ông ta không có lấy một nếp nhăn, trừ khi ông ta nhíu mày. - Và ông ta nói “khoa học”? Không nói “vật lý”, khoa học, phải không?
- Phải. Khoa học. Ông ta dùng danh từ: khoa học. Ông ta nói “Petcherine cũng mê say nước Anh như tôi. Nước Anh, cái nôi của công lý, của chân lý và của tự do.
- Còn tôi, - Barley kể tiếp, - lúc ấy tôi chỉ mong muốn một điều: đó là ông ta hãy để cho tôi được yên. Tôi bắt đầu sợ. Nhưng trái lại, ông ta ép sát người vào tôi, mặt hầu như dính vào mặt tôi. Ông ta thở như một con bò, tim đập thình thịch như muốn vỡ ra.. Ông ta trố cặp mắt màu nâu, nhìn tôi. Tôi hỏi ông ta: “Goethe, ông đã uống gì? Uống cortisone(2) phải không?”.
“- Ông biết những gì ông đã nói trong bữa ăn trưa không?” – Goethe hỏi lại tôi .
“- Không biết gì cả. Tôi không có mặt trong bữa ăn trưa. Đó là người anh em sinh đôi với tôi”. Nhưng một lần nữa Goethe không nghe tôi nói.
“- Ông đã nói: “Trong thời đại chúng ta, phải suy nghĩ như một người anh hùng để rồi hành động như một con người xứng đáng với danh xưng ấy:.
“- Điều đó chẳng có gì mới mẻ lắm. Tất cả những gì tôi đã nói cũng thế thôi. Không phải do tôi sáng tác. Mà đó là những điều tôi đã đọc, nơi này nơi kia. Thế thì bây giờ ông quên đi những gì tôi đã nói và ông trở về với bạn bè của ông đi”. Nhưng Goethe vẫn không chịu nghe lời tôi. Ông ta nắm cánh tay tôi.
Ông ta có hai bàn tay như con gái, nhưng nắm tay cứng như thép. Ông nói với tôi: “Hãy hứa với tôi đi, nếu tôi tìm được can đảm để suy nghĩ như một người anh hùng, thì ông sẽ hành động như một con người xứng đáng với danh xưng ấy”.
“- Này Goethe, hãy nghe lời tôi. Chúng ta hãy quên tất cả những điều đó, và chúng ta đi tìm một cái gì để ăn đi. Có xúp ở trong nhà. Tôi nghe có mùi thơm đấy. Ông thích món xúp phải không? Món xúp nóng?”
Tôi không thật sự nghĩ rằng lão ta khóc, nhưng khuôn mặt lão trắng bệch, ướt đẫm. Hình như lão ta toát mồ hôi vì đau đớn. Lão bám chặt vào tôi như vào một người mà lão có thể tỏ bày tâm sự được. Lão nói: “Hãy hứa với tôi điều đó đi!”
“- Lạy Chúa! Nhưng tôi biết hứa gì với ông đây?”
“- Hãy hứa rằng ông sẽ hành động như một nhà quý tộc!”
“- Tôi không phải là một nhà quý tộc. Tôi là một nhà xuất bản”.
Và thế là Goethe phá lên cười. Lần đầu tiên. Cười oan oan. Lão tuyên bố: “Ông không thể biết khi ông từ chối thì tôi lại tin cậy ông đến mức nào”.
Tôi đứng lên. Từ từ để khỏi làm cho Goethe sợ. Và lão ta vẫn bám chặt vào tôi. Lão nói: “Tôi có tội với khoa học mỗi ngày. Tôi cải tiến những lưỡi cày thành gươm giáo. Tôi lừa gạt các bậc thầy của chúng tôi. Tôi tiếp tục lừa gạt không ngừng. Mỗi ngày tôi ám sát nhân tính mà tôi mang trong người tôi. Ông hãy nghe tôi”.
“- Này ông bạn Goethe thân mến, bây giờ tôi phải đi. Chắc các bà gác cổng khách sạn đang đợi tôi và lo lắng cho tôi. Ông vui lòng buông tôi ra, ông bẻ gãy cánh tay tôi rồi đây này!”.
Goethe ôm chặt lấy tôi. Tôi có cảm tưởng tôi là một người to lớn đồ sộ, còn lão ta thì nhỏ thó ẻo lả. Tóc tai, râu ria lão ướt nhèm. Người lão nóng hừng hực.
“- Hãy hứa với tôi điều đó đi!”
Lão ta đã giựt được ở tôi lời hứa của lão. Bằng sự nhiệt tình của lão. Tôi chưa bao giờ thấy một điều như thế. Lão nói: “Hãy hứa đi! Hãy hứa đi!”
Tôi đã nói: “Đồng ý. Nếu bao giờ ông đạt đến mức là một anh hùng, tôi sẽ là một con người xứng đáng với danh xưng ấy. Hợp đồng đã được ký kết. Đồng ý? Bây giờ hãy ngoan ngoãn nào, và hãy để cho tôi đi”
“- Hãy hứa đi đã!” Goethe lặp lại.
“- Tôi hứa với ông điều đó”, tôi vừa nói vừa gỡ tay Goethe ra.
Barley vừa nói dứt lời, Walter vội xen vào. Không một lời can ngăn của chúng tôi, hoặc một nét nhìn giận dữ nào của Ned, của Clive hay của chính tôi có thể kềm chế ông ta lâu hơn.
- Barley, nhưng ông có tin lão ta không? Có phải lão ta đang phỉnh gạt ông không? Ông là một người khôn ngoan. Ông có những cảm nghĩ như thế nào?
Im lặng. Im lặng kéo dài. Và cuối cùng, Barley nói:
- Lão ta say như chết. Tôi cũng đã say nhừ tử như thế đôi ba lần. Lão ta đã nốc rất nhiều rượu vodka suốt cả ngày, và luôn luôn uống cả ly đầy như uống nước. Nhưng lúc đó lão ta có được một lúc minh mẫn.
Tôi đã tin lão ta. Lão không phải là loại người không đáng tin.
- Nhưng ông đã tin cái gì? – Walter hỏi một cách giận dữ - theo ý ông, lão ta đang nói gì với ông? Ông nghĩ như thế nào về những việc lão ta làm? Một tràng diễn thuyết về những gì mà nhắm mắt trật đích, lừa dối các bậc thầy của lão ta và của cả ông nữa, môn cờ không phải là một trò chơi mà là một cái gì khác? Ông biết suy nghĩ chứ? Vì sao ông đã không đến gặp chúng tôi? Tôi, tôi biết vì sao! Ông rúc đầu vào trong cát như một con đà điểu. “Tôi không biết bởi vì tôi không muốn biết.” Ông giống con đà điểu như đúc!
Và những gì người ta nghe được sau đó trên băng từ là Barley đi thật mau trong gian phòng, vừa đi vừa rủa: “Cút! Cút! Cút!” Barley thì thầm không ngớt cho đến khi có tiếng của Clive bảo ông ta thôi đi. Nếu bao giờ có một ngày nào đó Clive ra lệnh huỷ diệt vũ trụ, ông ta sẽ dùng cái giọng nói ấy…
Tôi lấy làm tiếc phải báo cho ông biết rằng chúng tôi sắp rất cần đến sự giúp sức của ông. Chú thích:
(1) Faust: Nhân vật chính trong tác phẩm của Goethe.
(2) Cortisone: kích thích tố ở tuyến thượng thận.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 5:
Bây giờ chúng tôi đang tập trung trong thư viện nơi Ned và Barley đã nói chuyện với nhau lần đầu tiên. Brock đã xếp đặt một màn ảnh, một cái máy chiếu và những chiếc ghế đặt theo hình bán nguyệt. Anh ta đã tính trong đầu mỗi cái ghế dành cho một người trong chúng tôi. Barley trầm tư, ngồi nghỉ một cách thoải mái ở hàng ghế đầu, giữa Bob và Clive, với vẻ thờ ơ của một vị khách đặc biệt được mời đến dự một buổi họp để phê bình một vở kịch trước khi cho lên sân khấu lần đầu. Đầu ông ta cuối xuống phía trước, nổi bật khi Brock bật công tắc của máy chiếu, và ngẩng lên một cách đột ngột khi hình ảnh đầu tiên hiện ra trên màn ảnh. Ned, ngồi bên tôi, im lặng, nhưng tôi cảm nhận được cường độ của sự kích thích của ông ta. Trên màn ảnh lần lượt hiện ra vài mươi khuôn mặt đàn ông, phần nhiều là các nhà bác học Liên Xô, mà sau những cuộc sưu tra tiên khởi, vội vã, trong các tủ phiếu lưu trữ ở Luân Đôn và ở Langley, đã được đánh giá là có liên quan đến các thông tin "chim xanh".
Có những hình xuất hiện trên màn ảnh nhiều lần, lần trước có râu, lần sau không có.
- Lão ta không có trong số đó, - Barley tuyên bố, sau khi việc trình chiếu vài mươi hình ảnh ấy trên màn ảnh chấm dứt. Nói xong, Barley đột ngột đưa bàn tay lên đầu như thể bị một con muỗi đốt.
Bob hỏi một cách nhã nhặn :
- Không một chút do dự sao, Barley? Không một chút nghi ngờ chứ?
- Không. - Barley đáp rồi lại trầm tư như trước.
Đến lượt Katia xuất hiện trên màn ảnh, nhưng Barley chưa biết cô ta. Bob đề cập đến vấn đề một cách vô cùng thận trọng. Quả thật ông ta là một tay chuyên nghiệp của Langley.
- Barley, bây giờ đến lượt hình ảnh đàn ông có đàn bà có, họ là những người đã có lui tới nơi cuộc triển lãm sách ở Matxcơva - Bob nói với một giọng rất ung dung - Những người mà ông có thể đã gặp trong những chuyến ông đi qua Nga, trong những cuộc tiếp tân hay triển lãm sách. Nếu ông nhận ra được một người nào, ông hãy nói ngay.
- Kìa, đó là Leonora! - Barley reo lên khi thấy trên màn ảnh một người đàn bà, hình dáng lực lưỡng, mông to như mông ngựa cái - Đó là bà mập cho mượn sách tại SK.
- SK? - Clive lập lại.
- Soyouzkniga. SK đặt mua và phân phối sách nước ngoài trong toàn cõi Liên Xô. Leni thật tuyệt vời. - Ông biết họ của bà ta chứ?
- Zinovieva.
Bob mỉm cười. Chúng tôi đã ngầm giao ước với nhau: Bob sẽ mỉm cười mỗi khi Barley nói đúng.
Brock chiếu hình những người khác lên màn ảnh, Barley nhận ra được một số, và Bob mỉm cười. Nhưng khi ảnh Katia xuất hiện, lúc cô ta đi xuống các bậc tam cấp, mặc áo măng tô, tóc chảy ra phía sau và tay cầm cái túi lưới, Barley nói "Chiếu tiếp ảnh khác" như đối với những hình ảnh mà ông ta không
nhận ra là của người nào. Bob tỏ vẻ bối rối và lo sợ.
- Không, ông hãy vui lòng nhìn kỹ ảnh này, - Bob nói với giọng hờn giận đến nỗi một đứa con nít cũng có thể nhận ra ảnh này tiềm ẩn một tầm quan trọng.
Bob ngừng lại... và chúng tôi ngừng thở.
Bob nói tiếp:
- Barley, thiếu phụ tóc đen có đôi mắt to kia làm việc trong nhà xuất bản Tháng Mười ở Matxcơva. Cô ta nói tiếng Anh rất giỏi, rất đúng như ông và Goethe. Chúng tôi biết cô ta là Redaktor, cô ta biên tập các tác phẩm Nga dịch sang tiếng Anh. Ông không nhận ra cô ta sao?
- Không. Rất tiếc! - Barley càu nhàu.
Clive hất đầu ra hiệu giao Barley cho tôi. Đến lượt ông chơi rồi đó. Chứng nhân đang ở trong tay ông. Hãy làm cho gã sợ.
Khi tôi khiển trách ai, tôi luôn luôn vận dụng một giọng nói làm cho người ta sợ. Tuy nhiên, tối hôm đó, khi một mình tôi gặp riêng Barley, tôi đã có một giọng nói che chở. Tôi không nói với Barley như với một kẻ có tội tầm thường, mà như với một người bạn mà tôi có ý khuyên phải đề phòng.
- Đây, việc như thế này đây, - Tôi nói, cố gắng tránh dùng danh từ pháp lý được chừng nào hay chừng ấy, - Đó là một cái thòng lọng mà người ta sắp quàng vào cổ của ông. Ông hãy cẩn thận. Hãy suy nghĩ cho kỹ.
Thường thường, tôi để người ta ngồi nghe tôi nói, nhưng tôi đã để ý thấy Barley có vẻ thoải mái hơn khi người ta để cho ông được vận động, đi bách bộ, và vươn vai, duỗi tay, duỗi chân một cách tuỳ thích.
Tôi để ý đến vài chi tiết mà tôi đã bỏ sót không nhận thấy trong cuộc họp toàn thể.
Tôi để ý đến vẻ mặt trầm tư của Barley trong lúc ông ta nghe tôi khuyên nhủ, thỉnh thoảng ông ta nêu lên vài chi tiết, rồi quay lưng bỏ đi. Tôi thấy cái lưng của ông ta cũng có vẻ chống đối như gương mặt khép kín của ông ta.
Khi Barley đi trở lại phía tôi, ông ta không có vẻ mặt đê tiện của phần nhiều những kẻ mà tôi đã khuyên nhủ.
Tôi lại nghĩ đến hồ sơ của Barley. Biết bao hành vi không suy nghĩ, hầu như tự sát. Rất ít thận trọng. Một học bạ tồi tệ. Những nỗ lực để dành vài vòng hoa chiến thắng trong các cuộc đấu quyền Anh, để cuối cùng nằm trạm y tế nhà trường với một hàm răng gãy. Bị đuổi, sau khi đọc Epitre (thánh thư của các sứ đồ) trong tình trạng say rượu. "Thưa ông, hôm qua tôi đã uống quá chén. Tôi không cố ý làm như thế". Bị phạt roi và bị đuổi.
Ned cũng đã cho tôi tất cả các thông tin về cuộc đời của Barley, kể cả các thông tin mật, các khoản thu nhập, nhân tình, vợ con của ông ta. Chẳng có gì đặc biệt trong các tài liệu ấy. Chẳng có thành tích vẻ vang, cũng chẳng có những tội ác lớn. Nói tóm lại, chẳng có gì quan trọng.
Và đột nhiên, trước khi tôi nhận thức được, các vai trò đã đảo ngược. Barley đứng đó, trước mặt tôi, nhìn tôi với tất cả tầm cao của ông ta. Toán của tôi vẫn đợi trong thư viện, tôi nghe được những tiếng thì thầm, vì họ nôn nóng muốn biết kết quả. Bản văn về việc giữ gìn bí mật đã để sẵn trên bàn, nhưng Barley không nghiên cứu nó.
Tôi ngước mắt lên nhìn ông ta và hỏi:
- Ông có hỏi thêm gì tôi không? Ông có muốn tôi nói rõ thêm vài điều trước khi ký không?
Cuối cùng tôi đã lấy lại giọng nói nghiêm khắc vì phản ứng tự vệ. Mới đầu Barley tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi sau đó thích thú, như đây là một trò đùa vui.
- Vì sao? Ông có những câu trả lời khác mà ông muốn cho tôi sao?
- Đây là một việc khó gỡ ra được, - tôi nói với Barley một cách nghiêm nghị. - Dù không muốn, ông đã trở thành người biết được một điều tối mật mà ông không có thể xoá bỏ được. Ông biết điều bí mật ấy khá đủ để đưa một người đàn ông và chắc chắn cả người đàn bà đến chỗ bị treo cổ. Điều đó đặt ông vào một vị trí đặc biệt với những nghĩa vụ mà ông không thể thoái thác được.
Barley nhún vai, hất gánh nặng của ông ta xuống.
Ông ta tuyên bố:
- Tôi không đếm xỉa đến những gì tôi biết.
Có tiếng người gõ cửa.
Tôi dịu giọng lại để cố làm cho Barley hiểu thấu lòng ưu ái của tôi đối với ông ta:
- Vấn đề là chắc chắn họ sẽ muốn cho ông biết nhiều hơn nữa. Những gì mà ông đã biết rồi, có thể chỉ là bước đầu của những gì mà họ mong muốn thấy ông khám phá ra.
Barley ký. Không cần đọc. Thật là một thân chủ kỳ cục nhất trên đời, rất có thể ông ta sẽ ký bản án tử hình của mình mà không cần biết và chẳng cho đó là điều quan trọng. Người ta vẫn gõ cửa, nhưng tôi còn phải ký tên tôi với tư cách là nhân chứng.
- Cám ơn, - Barley nói với tôi.
- Về việc gì thế?
Tôi cất cây bút máy đắt tiền của tôi. Cuối cùng rồi ta cũng có một thân chủ, tôi tự nhủ, dương dương tự đắc, nhưng không vui, đúng vào lúc Clive và cả toán bước vào. Một thân chủ khó tính mà rốt cuộc ta cũng đã lấy được chữ ký.
Tuy nhiên, tôi cảm thấy xấu hổ và lo âu một cách lạnh lùng. Tôi có cảm tưởng đã nhen nhúm một bếp lửa trong trại của chúng tôi, mà không thể biết trước nó sẽ cháy lan đến đâu và cũng không biết ai sẽ dập tắt nó.
Điều hay ho duy nhất của màn tiếp theo là nó ngắn ngủi. Tôi cảm thấy buồn cho Bob. Ông ta không phải là người xảo trá, và cũng không phải là người cuồng tín. Ông ta có vẻ bộc trực, điều đó theo chỗ tôi biết, chưa phải là một trọng tội, ngay cả trong giới mật vụ. Ông ta thuộc loại người có tính kiên cường như Ned, chứ không như Clive, và lề lối làm việc của ông ta hợp với lề lối của chúng tôi hơn là lề lối của Langley.
- Này Barley, về tính chất của các tài liệu mà Goethe đã gởi cho ông, ông không có một chút ý kiến nào cả sao? Đại khái nội dung thông điệp của ông ta là gì? - Bob hỏi một cách khéo léo và còn tặng thêm một nụ cười cởi mở.
Tôi nhớ Johnny cũng đã có hỏi lần đầu như thế..., nhưng lần này ông đã gặp một câu trả lời thật bất ngờ.
- Làm sao tôi biết được? - Barley vặn lại, - Đến cả việc nhìn thấy các tài liệu ấy, tôi cũng không được phép. Ông từ chối không chịu đưa cho tôi xem mà!
- Ông có chắc chắn một cách tuyệt đối rằng Goethe đã không cho ông biết trước vài điều chỉ dẫn? Vài lời nói nhỏ riêng với ông, giữa tác giả và nhà xuất bản ấy mà, về những gì mà Goethe có thể gởi cho ông một ngày nào đó, nếu cả hai người, Goethe và ông, đều tôn trọng những lời đã hứa với nhau? Hay một điều gì đó mà ông có thể quên khi kể lại cuộc nói chuyện kéo dài rất lâu ở Peredelkino về vấn đề vũ trang và các kẻ thù tưởng tượng?
- Tôi đã nói với ông tất cả những gì tôi nhớ.
Cũng như Johnny trước đó, Bob liếc nhìn hồ sơ để trên đầu gối.
- Barley này, trong tám lần lưu lại ở Liên Xô trong bảy năm vừa qua, ông có liên lạc, dù chỉ một thời gian ngắn ngủi, với các người theo chủ nghĩa hoà bình, các người bất đồng ý kiến hay những tổ chức không chính thức không?
- Phải chăng đó là một trọng tội?
- Ông hãy vui lòng trả lời câu hỏi của Bob - Clive can thiệp.
Và trước sự ngạc nhiên của toàn thể, Barley nghe theo. Nhiều lúc Clive thiếu tế nhị đến nỗi Barley chẳng cần bực mình.
- Bob, như ông đã biết, người ta gặp đủ hạng người. Trong giới nhạc Jazz, hay giới nhà văn, trí thức, nhà báo, nghệ sĩ. Vì thế, đó là một câu hỏi mà tôi không thể trả lời được. Rất tiếc!
- Tôi có thể đặt thêm một câu hỏi nữa không. Vậy ông có liên lạc với các người theo chủ nghĩa hoà bình ở nước Anh không?
- Tôi không hề có một chút ý nghĩ nào, nói chi đến việc có liên lạc!
- Barley, ông có biết trong câu lạc bộ có vận động viên điền kinh, mà trong đó ông chơi giữa năm 1977 và 1980, có hai hội viên đã tham gia chiến dịch đòi tài giảm vũ khí hạt nhân?
Barley tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng rốt cuộc thích thú.
- Thật vậy sao? Và người ta có thể biết tên của hai vị ấy không?
- Ông có ngạc nhiên nếu tôi cho ông biết đó là Maxi Burns và Bert Wunderley?
Barley phá lên cười thật lớn, mọi người lấy làm thích thú, trừ Clive.
- Ôi, lạy Chúa! Bob, ông chớ chụp mũ "hoà bình chủ nghĩa" cho hai người ấy. Maxi là cộng sản đến tận chân răng kẽ tóc. Nó có thể làm cho nổ tung Quốc hội, nếu nó có một trái bom. Và Bert đã bắt tay với Maxi.
- Hình như hai anh chàng ấy đồng tình luyến ái?
-Pê đê như hải cẩu.
Đến đây Bob xếp hồ sơ của ông ta lại, tỏ vẻ nhẹ nhõm và liếc nhìn Clive một cái, ra hiệu rằng ông ta đã hỏi cung xong. Ned đề nghị Barley đi ra ngoài hóng gió một chút. Walter vội vã đi tới cửa và mở cửa ra. Chắc chắn do Ned đã yêu cầu, nếu không, Walter không bao giờ dám đi theo họ. Sau một lát do dự, Barley lấy một chai uýt-ky và một cái ly đút vào túi áo, cử chỉ mà theo tôi nghĩ là nhằm làm cho chúng tôi khó chịu. Trang bị đầy đủ những thứ cần dùng rồi, Barley đi theo hai người kia, để lại ba chúng tôi ngồi im lặng trong phòng.
- Ông đã đem những câu hỏi của Russell Sheriton mà hỏi Barley, phải không? - Tôi hỏi Bob một cách nhã nhặn.
- Harry, Russell giỏi hơn tôi nhiều. Nếu là ông ta, ông ta đã không hỏi những câu ngốc nghếch như tôi đâu - Bob trả lời với vẻ ganh ghét rõ rệt.
Những cuộc tranh giành ảnh hưởng ở Langley là một điều bí mật ngay cả đối với những người trong cuộc. Nhưng ở giữa những cuộc vận động ngấm ngầm và những mưu mô thầm kín, tên của Sheriton thường được nhắc đến.
- Thế thì ai đã bật đèn xanh, để ông đặt những câu hỏi ấy? Bob, ai đã thảo ra những câu hỏi ấy? - Có thể là Russell.
- Ông vừa nói Russell giỏi hơn thế mà.
- Có thể ông ta bị bắt buộc phải trấn an các cấp trên của ông ta. -Bob trả lời với vẻ lúng túng, rồi đốt ống điếu với một que diêm mà ông ta lắc lắc để tắt.
Trong công viên gần bờ đê, có một cây to bóng mát. Tôi thường ngồi dưới gốc cây ấy để nhìn bình minh thức dậy trên cảng, trong lúc sương đầu mùa thấm ướt chiếc áo choàng của tôi. Dưới gốc cây có một chiếc ghế dài. Barley ngồi giữa Ned và Walter. Sau này Barley có kể lại với tôi rằng, trước tiên ba người đã nói chuyện trong không khí êm dịu của một quán rượu, rồi sau đó đã đến ngồi dưới gốc cây này. Brock ngồi lại trong một chiếc xe thuê để canh chừng. Lúc đó mới năm giờ sáng.
- Các ông hãy chọn một người khác đi, -Barley lặp lại một lần nữa - Tôi không phải là người đáng được các ông chọn.
- Không phải chúng tôi đã chọn ông. Chính Goethe đã chọn ông. Nếu chúng tôi tìm được cách gặp ông ta mà không qua trung gian của ông, chúng tôi sẽ không do dự mà làm ngay. Nhưng hình như Goethe đã say mê ông. Đã gần mười năm ông ta chờ đợi một người như ông.
- Ông ta đã chọn tôi chính là vì tôi không phải là một tên gián điệp - Barley nói - Vì tôi đã nói một thôi một hồi chẳng khác nào ca một đoạn ca cách mạng.
- Nhưng bây giờ ông cũng sẽ không phải là một điệp viên, - Ned nói. - Ông sẽ còn là một nhà xuất bản... nhà xuất bản in sách của ông ta. Tất cả những gì chúng tôi đòi hỏi ở ông, đó là ông hãy cộng tác với tác giả tập bản thảo đã gởi cho ông và cộng tác với cả chúng tôi nữa. Có điều gì không ổn đâu nào!
- Ông đã gặp một vận may đặc biệt, và ông lại rất có tài, - Walter nói thêm, - Bây giờ chúng tôi mới thấy ông rượu chè say sưa không phải là một điều kỳ lạ. Đã hai mươi năm người ta không được dùng tài nghệ của ông. Đây là một dịp may để ông trổ tài, thật là một dịp may hiếm có.
- Có thể ông sẽ thừa sức trả hết tất cả các khoản nợ nần, - Ned nói. - Ba tuần sửa soạn ở Luân Đôn trong khi chờ hộ chiếu, tiếp theo là một tuần tuyệt vời ở Matxcơva, và ông sẽ thoát khỏi khó khăn suốt đời.
Với bản tính thận trọng, Ned đã tránh dùng từ "huấn luyện" và thay thế vào đó là từ "sửa soạn".
Walter lại tấn công trở lại, khi thì kích thích, khi thì hơi tâng bốc quá đáng, nhưng Ned cứ để cho ông ta làm.
- Ned, không phải là vấn đề tiền bạc. Barley cao hơn thế nhiều. Mà đây là hành động vì tổ quốc. Có biết bao người không bao giờ có được một dịp may như thế. Họ mơ ước, họ làm đơn tình nguyện, nhưng không bao giờ được chọn. Sau đó, khi người ta đã làm xong nhiệm vụ, người ta có thể ung dung hưởng thụ những phần thưởng mà người ta biết rằng mình xứng đáng được hưởng.
Ned đã thấy đúng, vì Barley đã phì cười và nói với Walter:
- Thôi, ông hãy ngừng lại đi thì vừa.
Ned quay sang Barley nói :
- Cũng là một cử chỉ đẹp đối với tác giả của ông đấy. Ông cứu mạng ông ta. Nếu ông ta quyết định trao cho ông những bí mật quốc gia, ít ra ông cũng có thể giao lại cho các người có thẩm quyền. Ông tốt nghiệp ở Harrow, phải không? - Ned hỏi như thế chợt có một cảm hứng bất ngờ - Tôi đã có đọc được ở đâu đó rằng ông là sinh viên đại học Harrow?
- Tôi chỉ là học sinh, thế thôi. - Barley đáp. - Walter phá lên cười, và Barley cũng cuời theo vì phép lịch sự.
- Vì sao hai mươi năm trước, ông đã có thỉnh cầu được làm việc với chúng tôi? Ông có còn nhớ các lý do của ông lúc bấy giờ không? - Ned hỏi. - Một ý thức nào đó về bổn phận, đúng không?
- Lúc đó tôi không muốn làm việc trong công ty của bố tôi. Một bạn học của tôi đề nghị tôi làm nghề gõ đầu trẻ ở bậc tiểu học, và Lionel, người anh em họ của tôi, gợi ý tôi gia nhập ngành tình báo. Và các ông đã bác bỏ đơn thỉnh cầu của tôi.
- Đúng, nhưng ông sẽ không có hai lần cái may mắn ấy, - Ned đùa. như những người bạn cũ, ba người lặng lẽ nhìn các bờ đê. Một đoàn tàu thuỷ chặn ngang cửa biển, những dụng cụ đu đưa trước gió trông như những tràng hoa lấp lánh.
Walter nhìn đại dương, đột nhiên nói:
- Ông biết không? Tôi luôn luôn mơ tưởng một phép lạ thuộc loại ấy. Tôi tin là có Chúa. Tôi luôn luôn nghĩ rằng sớm muộn gì rồi cũng có một người như lão ta. Này ông bạn Barley, tôi xin hỏi thật ông: trình độ khoa học của ông tới đâu? Một con số không? Điều đó chẳng có gì lạ. Ông thuộc thế hệ chót những người theo nghề văn thuần tuý. Nếu tôi hỏi ông tỉ suất đốt cháy là gì, chắc chắn ông sẽ nghĩ tôi muốn nói về việc nướng một cái bánh.
- Chắc chắn là như vậy, - Barley thừa nhận và cười một cách miễn cưỡng .
- Và CI? Không có một chút ý niệm nào phải không?
- Tôi ghê tởm những chữ viết tắt chỉ có chữ cái đầu.
- Đó là chữ : Cercle d'Incertitude, ông biết chứ?
Barley không trả lời.
- Thôi được rồi. Grosse Salope, GS là gì?
Barley chỉ nhún vai.
- GS là hoả tiễn tối tân của Liên Xô : SS9. - Walter giải thích. - Nó đã được đem ra phô trương trong một cuộc diễu hành Mồng một tháng năm, thời chiến tranh lạnh xa xưa. Nó có kích thước khủng khiếp. Vấn đề là không biết nó có thể, chỉ một phát, phá huỷ ba hầm chứa hoả tiễn của Mỹ không. Có người cho rằng hoả tiễn SS9 để tàn phá các thành phố chứ không phải phá huỷ các hầm chứa hoả tiễn. Vì vậy họ đã bật đèn xanh cho chương trình hoả tiễn chống hoả tiễn. Tôi thấy hình như ông không nghe kịp nữa, phải không?
- Ông đã bỏ xa tôi từ đầu, - Barley nói.
- Nhưng lẽ tất nhiên ông ta sẽ học nhanh thôi, - Walter nói với Ned với vẻ thoả mãn. - Các nhà xuất bản luôn luôn có tài xoay xở để thoát khỏi vòng khó khăn một cách bình yên vô sự.
- Tất cả những gì người ta đòi hỏi ở ông là những thông tin - Ned nói. - Người ta không đòi hỏi ông chế tạo hoả tiễn, cũng không đòi hỏi ông bấm nút, mà chỉ yêu cầu ông giúp chúng tôi hiểu rõ đối phương hơn. Nếu ông chống vũ khí hạt nhân thì điều đó càng tốt. Và nếu đối phương tỏ ra là một người bạn, thì vấn đề là ở đâu?
- Tôi tin là chiến tranh lạnh đã chấm dứt rồi, - Barley nói.
Nghe Barley nói thế, Ned tỏ vẻ hốt hoảng một cách thật sự và càu nhàu:
- Ôi, lạy Chúa!
Walter không cần che giấu sự bất bình của mình.
- Tất cả những điều đó chỉ là những trò hề chính trị và những trò thân thiện lừa phỉnh, - Walter chỉ trích với vẻ khinh bỉ. Bây giờ chúng ta đang ở trung tâm của cuộc đối đầu, thế mà ông vừa nói rằng cuộc báo động đã chấm dứt, bởi vì một nhúm nhà lãnh đạo quốc gia cho rằng đã đến lúc bắt tay nhau một cách công khai và tống khứ vài món đồ chơi lỗi thời cho các nhà kinh doanh phế liệu. Liên Xô sụp đổ. Kinh tế khủng hoảng. Ông đừng có nói với tôi rằng đó là những lý do đủ để hạ khí giới. Mà đó là một lý do tốt để dò thám quân địch hai mươi lăm giờ trên hai mươi bốn.
- Thôi, được rồi. Chúng ta hãy tóm lược tình hình. -Ned nói. - Tôi sẽ nói thẳng thắn: Ông là một người bàng quan thụ động hay muốn đóng một vai tích cực?
Barley đang còn suy nghĩ câu trả lời thì Walter đã trả lời thay cho Barley với giọng khẳng định, bác bỏ mọi sự chối từ:
- Ông có bổn phận lựa chọn.
Barley từ từ đứng dậy và đưa bàn tay xoa bóp lưng, ngay ở trên thắt lưng, nơi hình như ông ta có một điểm đau đớn thường xuyên, có lẽ vì thế mà ông ta có dáng đi hơi nghiêng nghiêng.
Rồi xoay về phía Ned, Barley nói:
- Tôi đã cho ông biết trước, tôi không phải là người thích đáng để đương đầu với tình thế này, và ông đã sai lầm khi dùng tôi.
- Có bao giờ một người trong chúng ta là người thích đáng đâu. Vả lại các tình thế lúc bắt đầu luôn luôn
sai lệch.
Barley đi băng qua bãi cỏ, vỗ vỗ các túi để tìm chìa khoá. Ông ta đi vào một con đường ngang. Đến trước một ngôi nhà hẹp, Barley mở cửa rồi đóng lại liền.
Đây là một người đàn bà tốt mà người ta không thể chê trách vào đâu được. Dẫu sao thì cũng luôn luôn có những người đàn bà tốt, tin tưởng họ có một nhiệm vụ đối với Barley, cũng như Hannah trước kia đối với tôi.
Bà ta nằm dài trên giường, mệt lử, có thể đã ngủ thiếp đi. Bà ta đã quét dọn sạch sẽ toàn thể căn hộ. Barley sờ vai bà ta, nhưng bà ta không nhúc nhích, do đó ông biết bà ta không ngủ.
- Anh phải đến tòa đại sứ, - Barley giải thích. - Ở Luân Đôn, có những người muốn giết anh. anh phải đến đó và chuồn lẹ, nếu không, chúng sẽ rút lại giấy thông hành của anh.
Ông ta lôi cái vali ở dưới giường ra và xếp vào đấy các áo sơmi mà bà ta đã ủi cho ông.
- Anh đã nói lần này anh sẽ trở lại đấy nữa mà, - bà ta nhắc. - Rằng anh không còn có những nghĩa vụ đối với nước Anh. Anh đã làm xong nhiệm vụ của anh rồi mà.
- Họ đã lấy sẵn vé cho anh trong chuyến bay đầu tiên sắp tới. Anh không thể làm gì khác được. Chốc nữa sẽ có xe đến đón anh.
Barley đi vào phòng tắm lấy bàn chải răng và bộ đồ cạo râu. Ông ta nói tiếp:
- Họ đã đặt anh vào tình thế không thể làm khác được.
- Và em, em trở về nhà chồng em.
- Em cứ ở lại đây. Anh chỉ đi trong vài tuần. Sau đó, anh sẽ được yên ổn.
- Nếu anh không hứa hẹn với em biết bao nhiêu điều, thì bây giờ sự việc đã đơn giản hơn. Anh hãy đọc lại các bức thư của anh, và hãy nhớ lại những gì anh đã nói với em.
Cúi xuống trên chiếc va li của mình, Barley tránh nhìn bà ta.
Bà ta nói:
- Anh hãy cố gắng đừng có làm như thế này với một người đàn bà khác.
Nói xong bà ta khóc nức nở.
Ned và toán của ông ta chỉ có ba tuần để tận lực huấn luyện Barley. Nhưng ông ta đã hướng dẫn công việc một cách tài tình. Mặc dù bản tính hay thay đổi ý kiến, cuối cùng Barley cũng trở nên vững vàng và ngày lên đường làm nhiệm vụ càng đến gần, lập trường của ông ta càng thêm kiên định.
Ned đã làm đẹp lòng Barley bằng cách tạo ra một không khí thân mật gia đình : những cuộc trò chuyện vui vẻ trong các bữa ăn, tinh thần cộng đồng, và những ván cờ mà ông già Palfrey chơi với Barley, làm cho Barley có cảm tưởng mình là thần đồng trong một gia đình.
- Ông hãy đến chơi với chúng tôi bất cứ lúc nào ông muốn, - Ned đã nói với tôi với một cái vỗ vai thân mật.
Do đó, tôi đã trở thành "ông bạn già Harry" của Barley. Baley cũng trở nên thân mật với tôi. Ông ta thường nói: "Harry, ông bạn già của tôi, chúng ta chơi một ván cờ đi!" hay "Harry, vì sao ông không ở lại ăn tối với chúng tôi?" hay "Harry, ly của ông đâu rồi?"v.v...
Ned ít khi mời Bob, và không bao giờ mời Clive. Ông ta muốn tránh mọi trường hợp có thể làm cho Barley nổi khùng.
Để cách ly Barley, Ned đã chọn một ngoôi nhà xinh đẹp tại khu Knightsbridge là nơi Barley không có ai quen biết. Clive cho rằng giá thuê ngôi nhà ấy quá đắt, nhưng sự chỉ trích của ông ta không đúng chỗ. Miss Coad, nữ quản gia của Sở, được giao nhiệm vụ coi sóc ngôi nhà ấy, sau khi tôi buộc cô ta ký bản cam kết giữ bí mật trong chiến dịch Chim Xanh. Phòng chơi của trẻ con được cải biến thành phòng hội họp, và được gắn đầy máy nghe lén cũng như tất cả các gian phòng khác rất tiện nghi và trang bị nội thất sang trọng.
- Đây là nơi trú ngụ phụ của ông trong suốt thời gian chiến dịch, - Ned nói với Barley trong lúc đưa ông ta đi xem các phòng, - Đây là phòng của ông.
Vì Barley và cả tôi nữa ít ngủ, chúng tôi chơi cờ trong lúc những người khác ngủ. Barley là một con người có tính xung động, thích tấn công đối phương, thường tỏ ra xuất sắc, nhưng tôi có tài tiên đoán mà ông ta không có, và tôi biết rõ các điểm yếu của ông ta hơn ông ta biết các điểm yếu của tôi. Nói cho cùng, tôi đã nghiên cứu hồ sơ của ông ta. Tuy nhiên, tôi còn nhớ một số ván cờ trong đó ông ta đoán được chiến thuật của tôi chỉ trong một nháy mắt. Và chỉ bằng ba hay bốn nước cờ, ông ta đã buộc tôi phải chịu thua.
- Harry, tôi đã lừa được ông rồi...
Ông ta cười, rồi đứng lên, đi bách bộ trong phòng và để cho tâm trí mông lung.
- Harry, ông có vợ không?
- Từ xa.
- Nghĩa là?
- Vợ tôi ở thôn quê. Tôi ở thành phố.
- Lâu chưa?
- Lâu lắm rồi.
- Ông có yêu vợ ông không?
- Ông bạn thân mến của tôi ơi, ông hỏi một câu hay nhỉ! Có yêu. Từ xa.
- Và bà ta, có yêu ông không?
- Tôi nghĩ là có. Lâu lắm rồi tôi không hỏi bà ta điều ấy.
- Mấy con?
- Một trai. Khoảng ba mươi tuổi.
- Thỉnh thoảng ông có thăm hỏi anh ta không?
- Có. Trong các dịp ma chay và cưới hỏi. Và hằng năm nó có gửi thiếp Noel cho tôi. Chúng tôi rất hợp
ý nhau, theo cách của chúng tôi.
- Anh ta làm gì?
- Nó đã thử làm luật sư. Bây giờ nó làm giàu.
- Anh ta có được hạnh phúc không?
Tôi nổi giận. Hạnh phúc, ái tình, ý nghĩa và giá trị của những điều đó không liên quan gì đến ông ta. Nói cho cùng, ông ta chỉ là một Joe. Tôi, tôi có quyền tìm hiểu ông ta, chứ ông ta không có quyền tìm hiểu tôi. Thấy tôi nổi giận, ông ta đỏ mặt và tìm cách nói lảng sang chuyện khác.
"Không thể nói ông ấy là một người bướng bỉnh"- Candyman, chuyên viên nghiên cứu các sách mới xuất bản, báo cáo với Ned, -"Chắc chắn ông ấy không phải là một điệp viên bẩm sinh, nhưng ít ra ông ấy chịu nghe những gì người ta nói, và ông có một trí nhớ kinh khủng".
"Ông ta đúng là một người lịch sự" - Một nữ trinh sát có nhiệm vụ dạy cho Barley các điều sơ bộ về do thám, báo cáo - "Ông ta rất thông minh và có khiếu hài hước. Theo tôi, đó là những gì khá đầy đủ để trở thành một điệp viên giỏi".
Ngày lên đường càng đến gần, sự phục tùng của Barley càng tăng. Ngay cả khi tôi dẫn Christopher, kế toán viên của Sở đến gặp Barley, ông ta cũng không tỏ vẻ phản đối. Christopher đã phải bỏ ra năm ngày để kiểm tra sổ sách của nhà xuất bản Abercrombie and Blair.
- Ông bạn Chris của tôi ơi, người ta biết rõ rằng tất cả các nhà xuất bản nhỏ, kém thế lực, đều túng thiếu. Các nhà xuất bản lớn như Jumbo chỉ để cho chúng tôi những thứ văn chương chẳng ra gì - Barley nói.
Nhưng Ned và tôi, và cả Chris nữa, chúng tôi đâu có phải lo lắng cho những nhà xuất bản nhỏ kia. Điều quan tâm duy nhất của chúng tôi là chiến dịch đang được tiến hành, và mối ám ảnh của chúng tôi là xuất bản của Barley có thể bị phá sản nửa chừng và làm hỏng tất cả.
- Nhưng tôi đâu cần một cố vấn vô dụng. Tôi không thể trả lương cho một cố vấn vô dụng và các bà cô của tôi sẽ nổi giận nếu tôi tuyển một cố vấn vô dụng.
Sự thật, tôi đã dùng tiền để có được sự trợ lực của các bà cô của Barley. Tự xưng là một nhân vật quan trọng của Bộ Ngoại giao, tôi đã nói với phu nhân Pandora Weir-Scott, cô của Barley, rằng Nhà xuất bản Ambercrombie and Blair sắp được hưởng một món tiền tặng của Rockefeller như là tiền hoa hồng để phát triển các quan hệ văn hoá Anh-Xô. Nhưng xin bà giữ bí mật, đừng nói hở ra dù chỉ một tiếng, nếu không, số tiền ấy lập tức sẽ bị rút lại và trao cho một nhà xuất bản khác cũng xứng đáng được hưởng.
- Nhưng tôi là người xứng đáng hơn bất cứ người nào khác trong nghề này, ai ai cũng biết mà! - Phu nhân Pandora đã phán như thế.
Tôi đã lừa bà ta vào bẫy bằng cách hỏi bà ta:
- Tôi có thể nói chuyện này với cháu bà không?
- Đừng cho nó biết. Để tôi lo liệu. Nó chẳng biết gì về công việc của công ty, và ngay cả việc nói láo nó cũng không biết.
Thế là sự cần thiết phải có một vị thần bản mệnh phụ tá cho Barley trở nên khẩn cấp.
Ned đưa cho Barley xem một mảnh giấy cắt trong một tờ báo văn học số mới nhất và nói:
- Ông có đăng báo tuyển phụ tá đây: Nhà xuất bản kỳ cựu Anh Quốc cần tuyển người giỏi tiếng Nga làm cố vấn văn học viễn tưởng và kỹ thuật, tuổi từ 25 đến 45. Thư cho CV.
Chiều hôm sau, Leonard Carl Wicklow đến trình diện tại trụ sở Abercrombie ang Blair tại đường Norfolf Street. Leonard Carl Wicklow sinh năm 1964 o83 Brington, cử nhân ưu hạng, Học viện Ngôn ngữ Slaves và Đông Âu, Đại học Luân Đôn.
Tối hôm ấy tại Knighsbridge, trong lúc chúng tôi đang cùng nhau leo lên cầu thang để gặp Walter, Barley đã nói với Ned:
- Tôi không biết cái thằng vô dụng ấy nhe răng doạ nạt người khác hay che dấu những đòn hiểm độc dưới những vuốt ve mơn trớn bề ngoài.
- Cả hai môn ấy, nó đều giỏi cả, -Ned đáp.
Sau khi nghe Walter thuyết giảng về cục diện thế giới, Barley hỏi:
- Thế thì ai sẽ cứu vớt chúng ta, Walt?
- Nếu một điều gì đó có thể cứu vớt chúng ta, thì đó sẽ là tính tự cao tự đại, -Walter đáp, - Không một nhà lãnh đạo quốc gia nào muốn để hậu thế coi mình là một thằng khốn nạn đã huỷ diệt nước mình trong một buổi chiều. Và có thể là sự nhát gan nữa. Xin tạ ơn Chúa! Phần nhiều các chính trị gia của chúng ta không thích tự huỷ diệt một chút nào.
- Nếu không thì không có một hy vọng nào cả sao?
- Không có hy vọng nào đối với người không có đức tin, - Walter đáp với vẻ thích thú, vì đã hơn một lần ông ta nghiêm chỉnh tính chuyện đi tu thay vì vào làm việc trong cơ quan này.
- Được rồi, thế còn Goethe, ông ta định làm gì?
- Ồ, chắc chắn ông ta muốn cứu thế giới, cũng như tất cả chúng ta đều muốn làm điều đó. - Nhưng bằng cách nào? Thông điệp của ông ta là gì?
- Nhiệm vụ của ông là khám phá điều đó, không phải sao?
- Cho đến bây giờ, Goethe đã cho chúng ta biết những gì rồi? Vì sao người ta không nói gì với tôi cả? - Ông bạn của tôi ơi, đừng có ngây thơ đến như thế! - Walter kêu lên với vẻ bất bình.
- Ông đã biết tất cả những gì ông phải biết, - Ned lập tức can thiệp với giọng quả quyết và giải hoà. - Ông là sứ giả. Người ta chuẩn bị cho ông làm vai trò ấy, và đó là những gì ông ta mong đợi ở ông. Ông ta đã cho chúng ta biết rằng mọi sự không êm xuôi ở Liên Xô. Ông ta đã phát hoạ bức tranh về sự thiếu tinh thần trách nhiệm ở tất cả các cấp, những sai lầm, thiếu khả năng, việc điều hành không hiệu quả. Có thể ông ta nói đúng, nhưng cũng có thể ông ta bịa đặt ra tất cả, chính ông ta hay một người nào khác. Dù sao thì đây cũng là một vấn đề hết sức khó khăn, làm cho người ta rất hoang mang.
- Nhưng chúng ta, chúng ta có tin những điều đó không? -Barley cố hỏi cho được. - Tôi sẽ không trả lời câu hỏi đó.
- Vì sao?
- Vì khi bị hỏi cung, người nào cũng nói. Không có các anh hùng nữa. Ông sẽ nói, tôi sẽ nói, Walter sẽ nói, Goethe sẽ nói, thiếu phụ kia cũng sẽ nói, cho nên, nếu người ta nói với ông những gì người ta biết về chúng, người ta có thể làm hỏng các cơ may để do thám chúng. Người ta có biết được những điều bí mật xác thực liên quan đến chúng không? Nếu câu trả lời là không, lúc đó chúng sẽ biết rằng chúng ta thiếu logic tự biện, thiếu trang bị công thức, hay thiếu trạm địa phương tối mật để khám phá ra chúng. Và nếu câu trả lời là có, chúng sẽ có những phương pháp đối phó hữu hiệu để chúng ta không còn có thể do thám chúng nữa.
Barley và tôi chơi một ván cờ.
- Thế là ông nghĩ rằng hôn nhân chỉ có thể xuôi chèo mát mái khi người ta ở xa nhau, phải không? - Barley hỏi tôi, nối tiếp theo cuộc đàm đạo bị bỏ lửng hôm trước.
- Tôi tin chắc là như thế, tôi nhún vai trả lời, rồi tôi lập tức chuyển sang một đề tài ít có tính cách cá nhân hơn.
Tối hôm ấy là đêm chót của Barley ở trong ngôi nhà này. Miss Coad đã đãi một bữa tiệc cá hương. Bob mang đến một chai rượu uýt-ky loại hiếm, và hai chai rượu vang trắng. Nhưng cuộc vui ấy không làm cho Barley thoát khỏi tâm trạng trầm ngâm của ông ta. Chỉ có bài thuyết giảng mãnh liệt cuối cùng của Walter mới kéo Barley ra khỏi uể oải.
- Chìa khoá để giải điều bí ẩn này là cái lý do của nó. Đó là điều chúng ta tìm hiểu. Không phải nội dung mà là lý do. Vì sao? Nếu chúng ta thấy cái lý do ấy làm cho chúng ta có thể tin được, chúng ta sẽ có thể tin cậy ông ta và do đó có thể tin cậy những tài liệu của ông ta gửi cho chúng ta. Khởi đầu không phải là Thiên Chúa, cũng không phải là hành vi, cũng không phải là con rắn quái ác ấy. Vì sao Eve đã hái quả
táo? Vì sầu muộn? Vì tò mò? Vì bị mua chuộc? Adam có thúc đẩy nàng làm chuyện đó không? Và nếu không thì một người nào khác? Quỷ sứ luôn luôn được dùng như một cái cớ để bào chữa cho đàn bà. Có phải nàng đã cho một người nao khác mượn tên? Nếu trả lời rằng : "Vì quả táo có sẵn ở đó", thì là một việc quá dễ dàng. Nhưng chắc chắn đó không phải là một lý do đủ đối với Goethe, cũng như đối với chúng ta, nói chi đối với các bạn đồng minh Hoa Kỳ của chúng ta đây, phải không Bobby?
Và vì chúng tôi phá lên cười, Walter nhắm mắt lại và nói tiếp giọng kẻ cả:
- Hãy lấy trường hợp của nàng Katia xinh đẹp làm thí dụ. Vì sao Goethe đã chọn cô ấy? Vì sao ông ta đặt sinh mạng người thiếu phụ vào vòng hiểm nguy? Và vì sao Katia chấp nhận? Chúng ta không biết được điều đó. Nhưng chúng ta phải biết. Chúng ta phải thu thập tất cả các thông tin về người thiếu phụ ấy, vì trong nghề của chúng tôi, người sứ giả mang thông điệp đến chính là thông điệp. Nếu Goethe thành thật, cái đầu của người thiếu phụ ấy đã kê lên máy chém. Đó là điều chắc chắn. Nếu Goethe giả dối, thì người thiếu phụ ấy chơi cái trò gì đây? Có phải các tài liệu ấy là do cô ta bịa đặt ra không? Quả thật cô ta có tiếp xúc với Goethe không? Hay với một người nào khác? Mà người đó là ai? Và rồi có cả ông nữa, ông Barley thân mến ạ - ông ta vừa nói vừa chĩa thẳng ngón tay trỏ về phía Barley -Có phải Goethe đã cho ông là một tên gián điệp? Có phải người ta đã nói cho Goethe biết ông là một tên gián điệp? Ông hãy làm như con kiến. Hãy chất vào lòng tất cả những gì mà ông thu lượm được. Và cầu xin Chúa phù hộ cho ông cũng như cho tất cả những người đã cùng ông đáp trên một chuyến tàu.
Sáng sớm tinh sương hôm sau, chỉ vài giờ trước khi lên đường, Barley mới được quyền đọc qua các tài liệu mà ông ta đã đòi hỏi được xem một cách khẩn thiết: Các quyển sổ tay của Goethe, sao y nguyên bản ở Langley và đóng dấu tuyệt mật, cho đến các tờ bìa bằng các-tông dày, có trang trí những hình vẽ của học sinh Liên Xô.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 6:
Katia giật mình thức dậy với linh tính biết trước hôm nay là ngày N. Trong người thiếu phụ tân tiến này còn có những khuynh hướng mê tín dị đoan.
Ở bên ngoài những bức màn đã sờn, ánh mặt trời đục mờ chiếu sáng các sân trước của các ngôi nhà gạch ở vùngngoại ô phía bắc của thành phố Matxcơva.
Hôm nay là ngày thứ hai, nàng nghĩ thầm. Ta đang nằm trông giường của ta .Cuối cùng ta đã thoát khỏi con đường ấy. Nàng nhớ lại giấc mộng của mình.
Nàng nằm yên ko nhúc nhích một lát, tìm cách xua đuổi những tư tưởng đen tối của mình, nhưng không có kết quả. Thế là với bản tính năng động, nàng nhảy ra khỏi giường và đi vào phòng tắm.
Như Landau đã để ý, nàng xinh đẹp, cao lớn, thân thể đầy đặn, dáng hình có những đường cong rõ nét, cặp giò rắn chắc. Màu tóc màu đen bù xù, làm cho nàng có vẻ như một cô bé người rừng khi nàng không chải tóc. Với gương mặt tinh nghịch và thông minh, hình như nàng làm tăng vẻ sống động những vật xung quanh.
Sự duyên dáng biểu hiện trong mỗi cử chỉ của nàng, dù nàng có mặt quần áo hay không.
Tắm xong, Katia khóa cái vòi nước lại thật kỹ. Nàng hát khe khẽ trong miệng và cầm cái gương soi trở lại phòng ngủ để mặt quần áo. Nàng lại nghĩ đến con đường ấy. " Nhưng nó ở đâu kìa? Ở Leningrad hay ở Matxcơva" Nàng tự hỏi. Nước nàng tắm đã không rửa sạch kỹ ức giấc mộng của nàng.
Phòng ngủ của nàng là căn phòng nhỏ nhất trong ba phòng của căn hộ chật hẹp. Nhưng Katia đã quen sống nơi chật chội này, và các cử chỉ nhanh nhẹn để chải tóc trước khi đi làm có vẻ nhục cảm tự nhiên. Đáng lẽ nàng phải có một căn hộ nhỏ hơn, nếu công việc của nàng đã không làm cho nàng được cấp thêm hai mươi mét vuông. Bác Matvei ở chung hộ với nàng, nên nàng cũng được cấp thêm chín mét vuông nữa.
Con đường ấy có lẽ ở Kiev , nàng thầm nghĩ, nhớ lại cuộc tham quan mới đây tại thành phố ấy. " Không phải. Đường Kiev rộng , còn đường kia hẹp" , nàng nhủ thầm.
Đang khi nàng mặc áo quần , thì trong chung cư, người ta bắtđầuthức dậy. Và Katia hoàn toàn trở lại với cuộc sống thực tế thường ngày ở đây.
Trước hết, đồng hồ báo thức của gia đình Goglidze điểm sáu giờ rưỡi, tiếp theo là tiếng sủa vang của con chó barzoi đã được mở xích muốn chạy ra ngoài . Tội nghiệp gia đình Goglidze , ta phải biếu họ một cái gì mới được, nàng tự nhủ. Tháng trước, Natacha đã mất mẹ và thứ sáu vừa rồi người tađãphải đưa bố nó đi bệnh viện cấp cứu. Ta sẽ biếu họ mật ong, nàng quyết định , và đồng thời vì liên tưởng , nàng mỉm cười buồn bã nhớ lại người tình cũ, một họa sĩ có nuôi một tổ ong mật trên mái nhà. Theo các bạn bè của Katia ông ta đã đối xử với nàng một cách kỳ cục. Nhưng nàng luôn tìm cách bào chữa cho ông ta. Nói cho
cùng, đó là một nghệ sĩ, hơn thế nữa, là một thiên tài. Và cũng là một người tình tuyệt vời nữa. Ông ta đã làm cho nàng vui cười khi nào ông ta không nổi cơn khùng. Nàng đã yêu ông ta chính vì ông ta đã làm được một việc không thể làm được.
Một tuần trước, bao lơn căn hộ của họ đã sập, đè chết một viên cảnh sát và một con chó. Các nhóc con
tinh nghịch trong khu chung cư đã tổ chức quyên tiền để chôn con chó đó.
Bây giờ, Katia chuẩn bị làm nhiệm vụ cung cấp lương thực cho cả chung cư. Thứ hai, đôi khi có thể mua gà và rau tươi một cách lén lút từ thôn quê lên. Một người anh em họ của Tania, bạn nàng , làm trung gian. Nàng sẽ gọi điện cho Tania.
Ý nghĩ ấy làm nàng nhớ lại các vé đi dự cuộc hòa nhạc. Ngay khi đến văn phòng, nàng sẽ nhận các vé của Philharmonique mà Nhà xuất bản Barzine đã hứa với nàng.
Sau khi đi mua các thức vào giờ ăn trưa, nàng sẽ giao các vé ấy cho người gác cổng Moroov để đổi lấy hai mươi bốn miếng xà phòng nhập cảng gói trong giấy kiểu ngộ nghĩnh. Với lại xà phòng sang trọng ấy, nàng sẽ mua một khổ vải ca-rô màu xanh lục bằng len mà ông chủ quản lý cửa hàng may mặc đã hứa để dành cho nàng. Tối nay , sau cuộc tiếp tân chiêu đãi các vị khách Hunggary, nàng sẽ giao khổ vải ấy cho Olga Stanislavski để nhờ may hai cái áo sơ mi, vì Olga mới đổi được cái máy Singer cũ lấy một cái máy may mới của Đông Đức. Vừa kịp đúng ngày sinh nhật của hai đứa con sinh đôi của nàng.
Và thế là vĩnh biệt cuộc hòa nhạc.
Máy điện thoại để trong phòng khách, nơi bác Matvei ngủ. Một máy điện thoại màu đỏ, loại sang, sản xuất ở Balan, mà Volodia đã lén lút lấy ở xưởng nơi ông làm việc và đem về nhà riêng. Ông ta đã tế nhị không mang đi khi ông chia tay với Katia. Nàng nhón chân đi nhẹ nhàng, vì bác Matvei đang còn ngủ. Matvei là anh của bố Katia. Nàng kéo sợi dây điện thoại về tận phòng nàng, đặt máy lên giường và bấm số.
Trong gần hai mươi phút , nàng điện cho các bạn của nàng, trao đổi tin tức vặt với nhau, phần nhiều là để biết chỗ nào có thể mua cái này hay cái khác, và đôi khi đề cập đến những đề tài riêng tư hơn. Hai lần, khi nàng đặt máy xuống, thì chuông lại reo lên. Alexandra đã đánh giá nhà sản xuất cuốn phim Tiệp cuối cùng là một người tuyệt vời không thể tưởng tượng nổi. Đêm hôm trước, ông taở tại nhà Zoia và bây giờ Alexandra muốn gọi điện nói chuyện với ông ta cho vui. Nhưng không biết viện cớ gì? Katia đào óc suy nghĩ và gợi ý cho cô ta:hãy nói về ba nhà điêu khắc tiền phong, lâu nay bị cấm, bây giờ được phép trưng bày tác phẩm tại trụ sở nghiệp đoàn công nhân đường sắt. Vì sao không mời ông ta cùng đi với mình đến đó? Alexandra hớn hở cảm ơn. Katia luôn có những ý kiến phi phàm.
Olga thì cho Katia biết trái dứa Cuba được bán trong một cửa hàng ở phía sau đường Kropotkine.
Gọi điện xong, Katia chợt cảm thấy bực bội vì cuốn sách vì về tài giảm vũ khí mà Nazayan đã cho nàng mượn. Nazayan là người chịu trách nhiệm về các tác phẩm đầu tay ở Nhà xuất bản Tháng Mười. Không ai ưa ông ta cả, người ta không hiểu vì sao ông tađãcó đượcvai trò quan trọng ấy. Nhưng rồi chẳng bao lâu người ta để ý thấy ông ta giữ chìa khóa của chiếc máy photocopy duy nhất, điều đó chứng tỏ ông ta ở trong hàng ngũ những người có trách nhiệm. Tại căn hộ của Katia, các kệ sách được xếp đầy từ sàn đến trần dọc hàng lang. Nàng đi tìm quyển sách Con ngựa thành Troie để tống khứ nó đi, quyển sách mà Nazayan đã đem vào nhà nàng.
Một hôm, trong lúc ông ta :
- Tôi tin một người nào đó sẽ dịch quyển sách ấy? Có phải vì thế mà ong muốn tôi đọc quyển sách ấy không?
Ông ta đã trả lời:
- Tôi nghĩ rằng cô sẽ thích đọc quyển sách ấy. Cô đã có con cái và là người theo chủ nghĩ tự do. Cô đã nổi giận về sự cố Tchernobyl. Nhưng nếu cô không muốn mượn quyển sách ấy, thì đó là quyền của cô.
Katia tìm thấy quyển sách đáng ghét ấy nằm kẹt ở giữa tác phẩm của Hugh Walpole và tác phẩm của Thomas Hardy. Nàng lấy một tờ báo bọc nó lại và nhét vào cái túi lưới của mình. Rồi nàng móc túi lưới vào nơi cái tay nắm của cánh cửa ra vào, vì mấy lúc này nàng có thể nhớ tất cả cũng như quên tất cả.
"Cái tay nắm của cánh cửa này chúng mình đã mua nó ở chợ trời !- nàng thầm thì trong một lúc tình yêu đột ngột dâng trào trong lòng nàng, - Volodia, người chồng yêu dấu và khó chịu của em, tội nghiệp! Chắc anh đang nhớ thời quá khứ!"
Nàng tưới các chậu cây một cách nhanh chóng, rồi vào đánh thức hai đứa con sinh đôi nằm ngủ lọn đầu đuôi trong một cái giường ngủ nhỏ chung cho hai đứa. Katia cuối xuống nhìn chúng một cách âu yếm, không nỡ đánh thức chúng ngay lập tức. Rồi nàng mỉm cười để chúng thấy nàng đang mỉm cười khi chúng mở mắt ra.
Sau đó nàng dành một giờ để chăm sóc con như mỗi ngày. Nàng nấu món canh kacha cho chúng, bóc vỏ cam cho chsung và cùng hát với chúng những bài hát trẻ con. Trong lúc chúng uống trà, nàng chuẩn bị bữa ăn trưa cho chúng: bánh bột mì cho Serguei, bánh bột mạch đen cho Anna và mỗi đứa một cái bánh bột rán nhân thịt . Rồi nàng gài nút áo cho Serguei và sửa lại khăn quàng đỏ cho Anna. Nàng ôm cả hai đứa trước khi chải tóc cho chúng lần chót, vì ông hiệu trưởng trường tiểu học là một người theo chủ nghĩa Liên Sla-vơ, mà đối với người theo chủ nghĩa này, thì ăn mặc chỉnh tề là một biểu hiện của lòng tôn kính tổ quốc.
Sau đó, nàng ngồi xổm trên sàn nhà, ôm chặt hai đứa con, như tất cả thử hai từ một tháng nay.
- Hai con của mẹ ngoan lắm, hai con sẽ làm gì nếu một tối nào đó mẹ không về, vì mẹ bận đi họp hay đi thăm một người bạn bị bệnh?- Nàng hỏi, giọng dịu dàng.
- Con phôn cho ba và con nói với ba hãy đến đây với con, - Serguei đáp và gỡ tay mẹ nó ra. - Và con, con chăm sóc ông Matvei, - Anna nói thêm.
- Nếu ba cũng đi vắng, thìcác con sẽ làm gì?
Cả hai đứa cười khúc khích.
- Chúng con sẽ đi đến nhà dì Olga, - Anna reo lên. - Và chúng con sẽ lên dây cót cho con chim canari máy để nó hót cho chúng con nghe.
- Và hai con có nhớ số điện thoại dì Olga không? Hai con có thể hát số điện thoại ấy cho mẹ nghe như hai con chim cu gáy không?
Cả hai đứa bắt chước giọng chim cu và cả ba mẹ con phá lên cười.
Chúng nó còn cười khi bước xuống cầu thang hôi hám được dùng làm tổ uyên ương cho đám thiếu niên nam nữ, làm quầy bán rượu cho các bợm nhậu và rõ ràng là phòng toilet cho mọi người, ngoại trừ chúng. Khi ra khỏi cầu thang, ba mẹ con đi song song, Serguei và Anna mỗi đứa cầm một bàn tay của Katia.
- Này Serguei, mục đích phấn đấu ngày hôm nay của đồng chí là gì? - Katia hỏi với vẻ nghiêm nghị giả vờ sửa lại cổ áo cho Serguei thêm một lần nữa.
- Phục vụ nhân dân hết sức mình.
- Và?
- Và không để Vitali Karpov ăn cắp đồ ăn trưa của con!
Luôn luôn cười, hai đứa anh em sinh đôi đi băng qua công viên để đến trường, và Katia vẫy tay chào cho đến lúc chúng đi khuất.
Trong tàu điện ngầm, Katia để ý đến sự thể người ta đọc báo, một điều rất hiếm thấy một năm trước đây. Nếu là một năm trước , có lẽ Katia cũng đọc một tờ báo, hay một quyển sách, hay một bản thảo về côn việc của nàng. Nhưng hôm nay, mặc dù hết sức cố gắng để quên đi giấc mộng kỳ cục của mình , nàng vẫn sống lại quá nhiều giai đoạn khác nhau trong cùng một lúc. Nàng làm món cá xúp cho bố nàng để được bố thứ lỗi; nàng bị bà già Tatiana Sergueiévna quở trách vì nàng thiếu chăm chỉ trong lúc học đàn piano; nàng chạy ngoài đường, không thể nào thức dậy được. Hay nói cho đúng hơn, con đường đuổi theo nàng.
Khi đến cơ quan làm việc, nàng ngạc nhiên nhìn thấy có những người thợ cầm búa cầm cưa ở trong tiền phòng. Trong một khoảnh khắc, nàng có ấn tượng khủng khiếp rằng các người thợ ấy đến dựng một cái đoạn đầu đài để xử tử nàng.
- Các người thợ ấy đến để sửa chữa mấy chỗ hư hỏng, - ông già Morozov giải thích với giọng ồ ồ. - Tiền đã được cấp cách đây sáu năm rồi. Bây giờ người ta mới ký giấy cho thực hiện. - Ông lão Morozov luôn luôn tìm dịp để trao đổi với Katia vài lời.
Nàng đi lên cầu thang một cách vội vã , không hiểu sao nàng lại vội vã đến như vậy. Về sau khi nhớ đên điều này, nàng tự hỏi phải chăng máy điện thoại của nàng ở trên đó đã thúc giục nàng bước nhanh, vì chuông đang reo rộn rã khi nàng bước vào phòng làm việc.
Katia cầm điện thoại lên và vừa thở hổn hển vừa hỏi: "Ai?" nhưng liền hối tiếc đã nói hấp tấp đến thế, vì nàng nghe một giọng nói đàn ông hỏi bằng tiếng Anh: "Có phải bà Orlova không?".
- Chính tôi đây, - nàng cũng trả lời bằng tiếng Anh.
- Bà Ekaterina Orlova?
- Vâng. Ông là ai? Ông vui lòng cho biết quý danh. Có phải là Lord Peter Wimsey không? Ai?
Lại một đứa trong đám bạn bè của mình muốn chọc mình đây, nàng tự nhủ, hay một lần nữa lại là chồng của Liouba. Nhưng đột nhiên nàng cảm thấy miệng nàng khô khốc.
- Bà không biết tôi đâu. Tôi tên là Scott Blair. Barley Scott Blair, Nhà xuất bản Abercrombie and Blair ở Luân Đôn. Tôi đang có công việc ở đây. Chúng ta có một người bạn chung là Niki Landau. Niki đã tha thiết yêu cầu tôi gọi điện cho bà. Tôi rất hân hạnh được nói chuyện với bà.
- Tôi cũng thế - Nàng trả lời, đột nhiên cảm thấy toàn thân nóng bừng và bụng nhói đau.
Vừa lúc ấy Nazayan bước vào, hai tay đút trong túi quần, râu không cạo. Đó là cái lối ông ta muốn tỏ ra là người trí thức. Thấy Katia đang cầm điện thoại, ông ta nhún vai và bĩu môi, tỏ ý khiển trách. Ông ta muốn nàng đặt máy xuống.
- Xin chào, Katia Borissovna! - Ông ta kêu lên, giọng nhạo báng.
Nhưng ở đầu kia đường dây, người đối thoại của nàng đã tiếp tục nói một cách khẩn thiết. Một giọng nói mạnh mẽ - giọng của một người đàn ông vóc dáng cao lớn - nàng nghĩ thế, một giọng nóiquả quyết, kiêu hãnh, loại người Ăng-lê phục sức đắt tiền, hai tay chấp sau lưng.
- Đây là lý do tôi gọi điện cho bà- ông ta nói - Hình như Niki đã có hứa với bà sẽ tìm cho bà những tác
phẩm của Jane Austen, ấn bản cũ, đúng không?
Và không để nàng có kịp thời giờ trả lời , ông ta nói tiếp ngay:
- Tôi có đem theo đây hai tác phẩm, tôi phải nói là khá hay, và tôi mong được biết chúng ta có thể gặp nhau ở một nơi nào đó tiện cho bà và tôi, để tôi trao cho bà hai tác phẩm ấy.
Nhìn nàng một cách giận dữ chán chê rồi, Nazayan bắt đầu lục lọi trong cái khay đựng công văn thư tín mới nhận, theo thói quen của ông ta.
- Quả thật ông quá tốt ! - Nàng nói trong máy với giọng tỉnh bơ.
- Niki cũng có gởi cho bà một tấn trà Jackson, do tôi chuyển giao.
- Một tấn? - Katia kêu lên- Thật sự ông muốn nói gì?
- Thú thật,chính tôi cũng không biết Jackson luôn luôn có được một cơ sơ kinh doanh phát đạt vững chắc như vậy. Trước kia họ có một tiệm trà thật, sang trên đại lộ Piccadillyf chỉ cách Hatchard vài nhà. Nói tóm lại, tôi có ở đây ba thứ trà khác nhau của họ.
Một phút im lặng. " Thôi rồi, ông ta đã bị bắt", nàng thầm nghĩ : "Cú điện thoại này chẳng bao giờ có. Đây còn là giấc mơ của mình.Ôi , lạy Chúa, tôi phải làm gì đây?"
-... Assam, Darjeeling và Orange Pekoe, "Pekoe" là gì nhỉ? Theo tôi , đó là một con chim nhập từ nước ngoài thì phải?
- Tôi cũng không biết nữa. Tôi thiết nghĩ đó là một loại cây.
- Và tôi thiết nghĩ là bà nói có lý. Dù sao đi nữa, phải quyết định bằng cách nào để tôi có thể đem đến cho bà tất cảmọi thứ. Tôi đem đến cho bà ở đâu? Hay là bà có thể đến khách sạn để dùng một ly rượu và để chúng ta có dịp làm quen?
Nàng bắt đầu hiểu ra những lời lẽ ba hoa của ông ta , cốt để cho nàng có đủ thì giờ để trấn tĩnh lại. Nàng đưa bàn tay lên sờ mái tóc, ngạc nhiên thấy tóc mình được chải gọn gàng.
- Ông không nói cho tôi biết ông ở khách sạn nào.
Nazayan quay phắt đầu về phía nàng, tỏ dấu chê bài.
- Ôi, lạy Chúa, tôi thật là ngốc! Tôi ở Odessa. Chắc bà biết. Ở cuối đường xưa kia là các hồ tắm công cộng. Tôi rất thích khách sạn ấy. Tôi luôn luôn muốn có một phòng ở đó, nhưng có khi không được.Ban ngày, thường thường tôi bận, vì có các cuộc hội họp. Nhưng tối, tương đối rảnh rang hơn. Nếu không có gì trở ngại...vì sao chúng ta lại không chọn tối nay nhỉ? Không nên để công việc đến ngày mai bao giờ.... Tối nay, bà thấy được không?
Nazayan châm một điếu thuốc hút, mà ở đây mọi người đều biết Katia rất ghét mùi thuốc lá. Katia nhăn mặt ghê tởm:
- Được. Tối nay tôi phải đi dự một cuộc tiếp tân chính thức tại khu phố ông ở, để chiêu đãi một phái đoàn Hunggary - nàng nói thêm.
- Tuyệt vời! Mấy giờ? 18 giờ? hay 20 giờ? Tùy bà.
- Cuộc tiếp tân bắt đầu vào lúc 18 giờ. Tôi có thể tìm gặp ông... có lẽ vào lúc 20 giờ 15.
- Vào lúc 20 giờ 15. Tốt lắm. Bà đã ghi rõ ràng chưa? Scott Blair. Scott trùng tên với nhà thám hiểm đã hy sinh ở Nam Cực, và Blair là cái lỗ mũi. Xin lỗi.
Tôi nói thế cho bà dễ nhớ. Tôi cao vào gầy. Già rồi, đã hai trăm tuổi và đeo kính, nhưng với kính ấy tôi không thấy gì cả. Niki có nói với tôi rằng bà là một tuyệt sắc giai nhân, chẳng khác nào tác phẩm phỏng theo tượng thần Vệ Nữ Milo, cho nên tôi sẽ nhận ra bà, dễ thôi.
- Thật là tức cười - Nàng kêu lên, và không thể không phì cười.
- Tôi sẽ đợi bà trong tiền sảnh khách sạn. Nhưng tôi cứ cho bà số phòng của tôi, để phòng mọi sự bất ngờ. Bà có cây bút đấy chứ?
Nàng ghi trước khi cúp máy và thả lỏng cho các tình cảm trái ngược xâm chiếm tâm hồn mình. Nàng xoay người về phía Nazayan, nổi khùng nói:
- Grigori Tigranovitch, dù chức vụ của ông là gì đi nữa, ông không có quyền la cà trong phòng làm việc của tôi, lục lọi giấy tờ thư tín của tôi và nghe các cuộc điện đàm của tôi. Đây, quyển sách của ông đây. Nếu ông có điều gì muốn nói với tôi, thì một lát nữa ông hãy trở lại.
Nàng lấy bản thảo một bản dịch tài liệu về các hợp tác xã nông nghiệp ở Cuba và lật từng trang, giả vờ đếm. Một giờ sau, nàng điện cho Nazayan.
- Tôi xin ông thứ lỗi cho tôi. Một trong những người bạn thân của tôi mới mất cuối tuần vừa rồi. Tôi như người mất trí.
Đến giờ ăn trưa, nàng thay đổi tất cả những điều nàng đã dự tính lúc sáng sớm. Morozov vẫn sẽ nhận được các vé, người bạn hàng, các bánh xà phòng thơm và Olga Stanislavski, tấm vải của nàng. Katia đi bộ một lát, rồi đi xe buýt chứ không đi taxi. Xuống xe, lại đi bộ. Băng qua hết sân này đến sân khác, cho đến một khu nhà đổ nát mà nàng tìm, và đi vào con đường hẻm dọc theo khu nhà ấy.
" Đó là cách duy nhất để liên lạc với tôi khi khẩn cấp, ông ta đã nói. Người gác cổng là một trong những người bạn thân của tôi. Lão ta sẽ không biết ngay cả người làm ám hiệu."
"Phải tin tưởng những gì chúng ta làm", nàng nhớ lại. " Bà, tôi tin tưởng như thế, hoàn toàn tin tưởng".
Nàng cầm sẵn nơi tay cái bưu thiếp in châm dung nhà danh họa Rembrandt có ghi " Gửi lời thăm tất cả" và ký tên "Alina", tiếp theo là một trái tim vẽ tay.
Katia đã tìm được con đường. Nàng đi theo con đường đó, và đó là con đường trong giấc mộng của nàng. Nàng bấm chuông ba lần, rồi cho tấm bưu thiếp vào dưới kẹt cửa.
°
Một buổi sáng thật lý tưởng ở Matxcơva, trời trong sáng hứa hẹn một bầu không khí trong lành như trên núi cao, một ngày mà người ta tha thứ tất cả mọi sự. Sau khi điện thoại cho Katia, Barley từ trong khách sạn đi ra lề đường đầy ánh nắng. Ông vươn vai, vươn cổ để thư giãn, rồi mở rộng tâm trí đón nhận làn sóng tiếng động và mùi vị của thành phố, để nhấn chìm trong làn sóng ấy các điều lo âu của mình. Xin chào mùi ét-xăng, mùi thuốc lá, mùi nước hoa rẻ tiền, mùi nước sông! Xin chào các đoàn xe từ ngoại ô đổ vào trung tâm thành phố! Những chiếc cam nhông màu nâu với tiếng động cơ nổ bất tận, nối đuôi nhau chạy dọc theo các đại lộ rải rác những ổ gà. Xin chào các chiếc xe Li-mu-din sang trọng kính mờ, các ngôi nhà không có bảng hiệu... công sở , trại lính, trường học. Xin chào các chàng trai đang hút thuốc và đứng
chờ dưới mái che lớn một tòa lâu đài, các tài xế taxi đang ngồi trong xe đọc báo, chờ khách... " Vì sao thành phố này luôn hấp dẫn ta?" Ông tự hỏi. " Vì sao ta đã luôn luôn trở lại nơi này?" Barley không thể không cảm thấy mình rất khoan khoái. Ông không biết sợ là gì.
" Có lẽ bởi vì những người này lấy lòng tốt để chống lại nghịch cảnh" Barley tự trả lời " Bởi vì họ biết chịu đựng khó khăn hơn chúng ta.
Bởi vì Chúa trời đã luôn luôn tìm lý do này hoặc lý do khác để không đến nơi này. Bởi vì họ có tính trào lộng cũng bằng chúng ta, và còn hơn cả chúng ta nữa là khác. Bởi vì đây là vùng đất chót để khám phá trong một thế giới đã bị khám phá quá nhiều. Bởi vì họ đang nôn nóng muốn đuổi kịp chúng ta trong lúc nền kinh tế của họ trì trệ đến mức nào.
Bởi vì đây là một trái tim khổng lồ đang đập trong một sự hỗn loạn khổng lồ. Bởi vì sự hỗn loạn này chính là sự hỗn loạn của chính ta."
" Tôi sẽ đến, có thể là vào lúc 20 giờ 15", nàng đã nói như thế. Ta đã đoán được gì trong giọng nói ấy? Một sự thận trọng nào đó? Để bảo vệ cho ai? Cho chính nàng? Cho ông kia? Cho chính ta đây? Trong nghề của chúng ta, những sứ giả mang thông điệp đến , chính là thông điệp.
Hãy nhìn về phía bến ngoài, đó là nơi an toàn duy nhất, Barley tự nhủ.
Từ tàu điện ngầm, Barley thấy đi lên một đoàn thanh niên nam nữ, nữ thì mặc áo dài bằng vải và nam mặc bờ-lu-đông jean, đi đên sở làm hay đến trường học, gương mặt học sáng lên một nụ cười tươi khi trông thấy bất cứ điều gì hay hay. Khi trông thấy người nước ngoài đang nhìn họ, họ lạnh lùng quan sát từ đầu đến chân: mắt kính hình tròn lồi lên dày cộm, đôi giày da đã sờn, bộ com lê cũ. Nhập gia tùy tục, ở Matxcơva, Barley Blair ăn mặc như thế cho hợp với lối ăn mặc ở đây.
Barley để mình bị lôi cuốn bởi làn sóng người đi bộ, chẳng cần biết mình đi bộ đến đâu. Khí sắc hớn hở không gì lay chuyển được của ông ta tương phản với vẻ mặt nóng nảy là lo âu cùng những người xếp hàng nối đuôi nhau dài thòng trước các cửa hàng phân phối thực phẩm. Trong đám đông ấy có cả những cựu chiến binh, đeo huân chương lấp lánh dưới ánh mặt trời. Họ luôn luôn đi trễ. Họ nhàn rỗi, không có việc gì để làm.
" Có thể vào lúc 20 giờ 15", Barley lại thầm nghĩ.
Khi đến bờ sông lớn, Barley có cảm giác mình trở lại tâm hồn của một kẻ lãng du. Ở bờ bên kia, những mái vòm của điện Kremlin cao sừng sững trong bầu trời xanh ngắt không chút gợn mây.
Nghe có tiếng nói gần bên mình,Barley vội xoay người lại và thấy một cặp vợ chồng già, phục sức ngày Chủ Nhật, hỏi đường ông ta. Mặc dù có trí nhớ rất cao. Barley chỉ biết chút ít tiếng Nga. Đó là một câu ông đã thường nghe, nhưng không bao giờcó can đảmđểtrả lời. Barley mỉm cười với vẻ hối hận.
- Rất tiếc, tôi không thạo tiếng Nga. Tôi là người Anh....
Ông già bắt tay Barley và siết chặt một cách thân thiện.
Trong tất cả các thành phố nước ngoài mà Barley đã từng đến, có những người lạ đã hỏi ông rằng đường nào đi đến chỗ này hay chỗ khác mà ông không biết và cũng không biết tiếng của họ. Nhưng chỉ ở
Matxcơva người ta đã cảm ơn ông.
Đi trở lui, Barley la cà trước các tủ kính của các cửa hàng để nhìn các đồ vật trưng bày trong đó. Những con búp bê bằng gỗ sơn màu sắc lòe loẹt. Trái cây hay cá đóng hộp...Ông trở về khách sạn. Một bà già đặt vào tay ông một bó hoa tu-líp bọc trong giấy báo.
- Đẹp lắm, cảm ơn bà - Ông nói và lục túi lấy ra một rúp trao cho bà lão.
Một chiếc Lada màu xanh lục đặt trước khách sạn. Nơi góc kính chắn gió có cài một miếng bìa cứng, trên đó có ghi VAAP. Tài xế đang cúi xuống tháo các phần cao su của cái que gạt nước trên kính trước, sợ bị ăn cắp. Ông hỏi:
- Ông đợiScott Blair, phải không? Tôi đây!
Nhưng người tài xế tiếp tục làmcông việc của mình, chẳng chú ý gì đến Blair. Ông ta lại nói to hơn: - Tôi là Blair, Scott Blair!
- Hoa này là để cho tôi, phải không ông lớn? - Wicklow đứng sau lưng Barley, vội lên tiếng nói đùa - Ông đã xoay xở rất khéo. Thật tài tình! - Wicklow hạ thấp giọng nói thêm.
Ned đã có nói với Barley: " Wicklow sẽ luôn luôn canh chừng phía sau ông. Hơn ai hết, ông ta đã biết ông có bị theo dõi hay không?".
"Wicklow và còn ai nữa?" Barley tự hỏi.
Ngay khi Wicklow và Barley vừa đặt chân tới khách sạn tối hôm qua, Wicklow đã biến mất cho tới nửa đêm, và lúc sắp đi ngủ, Barley đã từ cửa sổ nhìn thấy anh ta ở ngoài đường đang nói chuyện với hai người đàn ông còntrẻ mặc đồ jean.
Barley và Wicklow ngồi ở ghế phía trước và nói chuyện với tài xế bằng tiếnậgNga thật sõi, không chê vào đâu được. Người tài xế cười vang và Wicklow cũng cười đáp lại.
- Cho tôi tham gia với được không? - Barley hỏi, Wicklow vội vã cho Barley biết:
- Tôi đã hỏi anh ta có muốn làm tài xế lái xe cho Nữ hoàng đến viếng thăm chính thức không. Ở đây học có câu ngạn ngữ: " Nếu mày ăn cắp, hãy ăn cắp một triệu. Nếu mày hôn, hãy hôn mộtnữ hoàng".
Barley hạ cửa kính xe xuống và chơi một điệu nhạc piano bằng cách gõ vào mép cửa. Cuộc đời là một cuộc vui cho đến "có thể là vào lúc 20 giờ 15".
°
- Barley! Hoan nghênh ông bạn thân mếncủa tôi đã đến đây. Lạy Chúa, đừng bắt tay với tôi nơi ngưỡng cửa. Ồ trông ông còn phong độ quá! Alik Zapadny kêu lên với vẻ lo lắng. Sao ông chẳng có vẻ gì là đau đầu và nói lè nhè của một bợm nhậu, hãy nói cho tôi biết đi nào? Ông đang yêu, phải không Barley? Ông lại ly dị một lần nữa, phải không? Ông đã làm gì bậy bạ, phải không? Nào, hãy thú thật tất cả đi.
Mặt mày hốc hác, dấu vết chưa bị phai mờ của thời gianbị giam cầm. Zapadny hăm hở quan sát Barley để xét đoán một cách sáng suốt. Bây giờ Zapadny đã là một anh hùng của thời kỳ tái cấu trúc.
- Tôi đã nghe đài, Alik ạ, Barley giải thích và biểu lộ tình bạn thân thiết của mình bằng cách cho vào trong tay Zapadny một tập những số báo cũ của tờ Times và giới thiệu: - Đây là Wicklow , chuyên viên
tiếng Nga của chúng tôi. Anh ta biết nhiều về ông còn hơn cả ông nữa đấy, phải không, Léonard Carl?
- Rất may mắn là đã có những điều như thế - Zapadny reo lên - Nhân tiện cho phép tôi hỏi ông Wicklow: Ông biết những gì về ông chủ mới của ông? Ông có nghe nói Barley mơ ước bán các loại sách gì để họ tự học tiếng Hy Lạp, phép lượng giác, hay những công việc nội trợ. Chúng tôi đã giải thích cho ông ấy rằng, ở đây người bình dân dành những lúc nhàn rỗi để nhậu nhẹt. Và xin đố ông Wicklow: Ông có biết họ đã mua sách gì không? Một quyển sách về môn chơi golf! Ông không thể biết đồng bào chúng tôi say mê môn thể thao tư bản ấy đến mức nào đâu! Không phải chúng tôi có những nhà tư bản ở đất nước chúng tôi đâu.
Họ có mười người tất cả, ngồi chung quanh một cái bàn màu vàng dưới một bức tượng của Lénin. Zapadny nói, những người khác ngồi nghe và hút thuốc. Theo hiểu biết của Barley, không ai trong số học có đủ thẩm quyền để ký kết một hợp đồng hay thừa nhận một sự giao dịch nào cả.
- Này ông Barley, ông nói sao? Sao lại có cái chuyện vô lí ấy? Ông nói rằng ông đến đây để mua những sách của chúng tôi? - Zapadny hỏi để mở đầu cuộc họp, nhướng mày lên và đan các đầu ngón tay lại với nhau theo cách của Sherlock Homes. Người Anh các ông không bao giờ mua sách của chúng tôi. Nhưng các ông biết cách làm cho chúng tôi mua sách của các ông. Hơn nữa, ông, ông chẳng còn được bao nhiu vốn liếng, chí ít, đó là những gì bạn bè tôi ở Luân Đôn cho biết. Họ nói nhân viên nhà xuất bản "A and B" ngồi chơi xơi...rượu uýt-ky. Riêng tôi, tôi thấy chế độ ấy thật tuyệt vời. Nhưng thế thì vì sao ông đến đây? Theo tôi nghĩ, chắc ông tìm một cái cớ để đến thăm chúng tôi, phải không nào?
Thời gian trôi qua. Chiếc bàn màu vàng có vẻ bồng bềnh trong tia ánh sáng mặt trời, bao trùm trong một đám mây khói thuốc lá. Những tấm ảnh đen trắng của Katia diễu hành trong đầu Barley. Quỷ sứ luôn luôn tạo trường hợp ngoại phạm cho đàn bà. Chủ khách uống trà trong những cái tách xinh đẹp sản xuất ở Leningrad.
- Alik, chúng tôi đã được vay thêm vốn - Barley giải thích- Thời gian đã thay đổi. Bây giờ Liên Xô đã thành công lớn. Tôi chỉ cần nói với các ngài đại tư bản rằng tôi đang chuẩn bị xuất bản các tác phẩm của của các tác giả Liên Xô, thế là họ ba chấn bốn cẳng chạy theo tôi.
- Nhưng này Barley, các nhà đại tư bản ấy, như ông nói đó, không nhất thiết là những ông bự bất vụ lợi - Zapadny nhận xét - Nhất là, nếu họ muốn thu hồiđược vốn và có lời.
- Alik, tôi đã có giải thích với ông trong bản télex của tôi rồi. Nhưng có lẽ như ông không có thì giờ để đọc đấy thôi. Nếu tất cả mọi việc tiến hành đúng theo dự định, " A and B" sẽ lăng xê nội trong năm nay một bộ sưu tập gồm đủ các loại tác phẩm của các tác giả Nga. Tiểu thuyết, tiểu luận, thi tuyển, sách nhi đồng , sách khoa học.
- Barley, tôi xin lỗi ông trước khi hỏi ông câu này: Cuối cùng rồi ông đã tin tưởng và khả năng tiêu thụ của các sách của ông hay ông mong đợi sự phù hộ của thần linh như trước?
Dằn lòng để không bảo Zapadny phải giữ gìn lời nói, Barley nói tiếp:
- Chúng tôi thương thảo để ký kết một hợp đồng phát hành với nhiều nhà xuất bản. Trừ loại sách tiểu thuyết. Về lãnh vực ấy chúng tôi sẽ dành cho mạng lưới phát hành của chúng tôi.
- Thưa ông, tiểu thuyết luôn luôn vẫn là nguồn lợi nhuận quý giá của Nhà xuất bản Abercrombie and Barley. Wicklow nói với Zapadny để hỗ trợ cho Barley.
- Tiểu thuyết luôn luôn phải là nguồn lợi nhuận quý giá nhấtcủa tất cả mọi người, Zapadny đính chính. Ngoài ra, tiểu thuyết là hình thức nghệ thuật cao quý hơn hết. Còn hơn cả thơ và truyện ngắn. Lẽ tất nhiên,
điều này chúng ta nói riêng với nhau thôi.
Zapadny xoay người về phía Barley:
- Về tiểu thuyết, nhân dịp này, chúng tôi mong được dùng người dịch của chúng tôi và lấy thêm năm phần trăm phụ trội trên tác quyền.
- Được rồi - Barley tán thành với vẻ ngật ngưỡng như người nửa thức nửa ngủ - Bây giờ Nhà xuất bản "A and B" có thể chi một cách rộng rãi.
Nhưng trước sự ngạc nhiên của Barley, Wicklow vội vã can thiệp:
- Xin ông thứ lỗi cho, điều đó kéo theo việc trả tiền tác quyền hai lần. Chúng ta sẽ không sống được với lối điều đình ấy. Chắc ông đã nghe không rõ nhữnggì ông Zapadny nói.
- Đúng , anh có lý! - Barley kêu lên và đột ngột ngồi thẳng dậy trên ghế của mình.
Cảm thấy đã đến lúc đóng tiếp màn kịch của mình, Barley mở cặp da, lấy một tập sách mỏng và trưng ra sáu bảy trang đầu. Ông nói với Zapadny:
- Ông sẽ thấy ở trong hai, sự mô tả giấy giao nhận của chúng tôi với nhà xuất bản Potomac Boston. Abercrombie and Barley độc quyền mua bản dịch ra tiếng Anh bất cứ tác phẩm nào của tác giả Nga và nhượng lại cho Potomac.
- Barley, quả thật ông đã in quyển sách này?
- Potomac in - Barley đáp.
-Nhưng sông Potomac rất xa thành phố Boston - Zapadny bắt bẻ, làm ra vẻ sành sỏi về địa lý nước Mỹ - Trừ trường hợp họ mới thay đổi dòng chảy của nó, còn không thì sông Potomac chảy qua Washington mà. Có một sự liên hệ nào giữa Boston và con sông ấy không? Đây là một nhà xuất bản đã có từ lâu rồi, hay mới có. Cũ hay mới, Barley?
- Mới về nghề xuất bản, cũ trong việc kinh doanh. Họ là con buôn, trước kia ở Washington, bây giờ ở Boston. Công ty đầu tư vào những việc kinh doanh có rủi ro, sản xuất phim, bãi đậu xe, máy đánh bạc, gái điếm hẹn bằng điện thoại và ma túy. Nghề xuất bản chỉ là một trong những việc kinh doanh phụthêm của họ.
Nhưng ở giữa những tiếng vang, Barley nghe tiếng nói của Ned trong đầu ông ta: "Barley, xin có lời khen ngợi ông. Bob đã tìm cho chúng được cho chúng ta một người bạn giàu có ở Boston chấp nhận hùn vốn với ông. Ông sẽ chỉ có việc xài tiền của ông ta thôi."
°
11 giờ 30. Còn tám giờ bốn mươi lăm phút nữa mới tới " có thể vào lúc 20 giờ 15."
- Lão tài xế muốn biết nhữngchi tiết về Nữ hoàng trước khi gặp bà ta - Wicklow nói lớn - Lão ta đã băn khoăn bứt rứt thật sự. Lão hỏi: Bà ta có nhận tiền hối lộ không? Bà ta có ra lệnh chém đầu những người phạm tội nhỏ nhặt không? Sống dưới sự khắc nghiệt của hai bà chủ, người ta có cảm giác như thế nào?
- Hãy nói với lão ta rằng: Cũng mệt lắm, nhưng chúng tôi đủ sức chịu đựng - Barley ngáp dài đáp, trước khi uống một hớp nước tăng lực và ngồi lún sâu xuống trong một tấm nệm êm ái của chiếc ghế.
Một lát sau, Barley thức dậy, đi theo Wicklow đến thăm Youri tại văn phòng của ông ta.
- Barley, lạy Chúa! Hoan nghênh ông bạn đã đến đây. Người ta có nói với tôi rằng, cuối cùng ông cũng moi ra được tiền. Ai là người tài trợ vậy? Chúng ta sẽ thương thảo với nhau không qua trung gian. Ô kê? Cóc cần bọn VAAP.
- Youri! Rất vui mừng được gặp lại ông. Đây là Len Wicklow, cố vấn văn học của chúng tôi. Anh ta nói tiếng Nga rất trôi chảy.
Youri hỏi Wicklow:
- Ông là điệp viên?
- Thưa ông, chỉ là điệp viên trong những lúc rảnh rang.
- Giỏi lắm. Chàng trai hấp dẫn. Anh làm cho tôi nhớ lại em trai tôi.
Người ta tưởng đang ở đại lộ Madison. Những bức mành sản xuất ở Venise, những đồ biểu treo trên tường, và những trước ghế bành lớn sang trọng. Youri là một người Do Thái phì nộn, tính khí sôi nổi. Barley đã đem biếu ông ta một chai rượu Black Label, và mấy đôi tất cho bà vợ mới cưới sinh đẹp của ông ta. Youri mở chai rượu, rót một ít uýt-ky vào những cái tách uống trà. Youri nói về Boungakov, Platonov, Akhmatova. Họ cười vui, họ nâng ly chúc mừng nhau. Youri hỏi tin tức những người bạn Anh và nguyền rủa cơ quan VAAP. Liên Xô biến đổi rất nhanh chóng. Barley có biết không? Trong đó có một bài viết về bọn phát xít mới, bọn quốc gia chủ nghĩa cực đoan, bài xích người Do Thái và bài xích tất cả mọi người, ngoại trừ bọn chúng. Và bài viết về Sigmund Freud trong tờ Ogoniok, Barley, ông có đọc không?
Youri nói đến các tiểu thuyết mới nhất của Liên Xô. Ông ta đã chọn tám quyển trong thư mục của ông ta và nói:
- Ông bạn Barley thân mến của tôi, chắc chắn đây sẽ là những quyển sách bán chạy nhất. Nếu ông xuất bản, ông có thể mở một tài khoản ở Thụy Sĩ cho tôi.
Sau đó họ nói chuyện về kịch nghệ, về Afghanistan
- Chẳng bao lâu nữa tất cả chúng ta sẽ gặp lạinhau ở Luân Đôn - Youri nói lớn như một ta chơi liều mạng đặt trọn tiền trong một canh bạc.
- Tôi sẽ gửi con trai tôi cho ông, ô kê? Ông hãy gửi con trai ông cho tôi. Ông hãy nghe lời tôi, chúng ta trao đổi con tin cho nhau, như thế chúng ta sẽ không liệng bom vào mặt nhau.
Mọi người yên lặng khi Barley lên tiếng. Wicklow phiên dịch.
Có một người muốn biết vì sao nước Anh còn bị cai trị bởi đảng Bảo thủ. Vì sao giai cấp công nhân không tống cổ chúng ra ngoài?
Barley đưa ra sự giải thích không mấy mới mẻ về chế độ dân chủ Tây phương, cho rằng đó là chế độ tệ hơn hết trong các chế độ. Không ai cười cả. Có lẽ họ đã nghe lối nói đùa ấy rồi, hoặc họ không tán thưởng cái lối nói đùa ấy.
Một người khác lại hỏi tại sao anh dám lên tiếng bảo vệ quyền con người, trong lúc chính họ áp bức Ai len và Xcôtlen?
Một bà trọng tuổi , tóc màu vàng nâu, hỏi to:
- Vì sao anh ủng hộ cái chính phủ ghê tởm phân biệt chủng tộc Nam Phi ấy?
Barley đáp:
- Thưa bà, tôi không ủng hộ chính phủ ấy.
Ra đến cửa Youri còn nói với Barley:
- Tôi có một điều khuyên ông, ông hãy đề phòng thằng chó chết Zapadny. Hiểu chưa?Tôi không nói nó là ngưiờ KGB, nhưng tôi tin rằng nó đã có nhữngliên hệ đê hèn để ngoi lên. Ông, ông là một người tốt. Ông hiểu tôi chưa?
Barley đáp:
- Youri, bà già tôi đã dạy cho tôi tin rằngtất cả các ông đều là người của KGB.
- Ngay cả tôi?
- Nhất là ông!
- Barley, tôi rất mến ông. Đồng ý chưa? Ông gửi con trai của ông cho tôi sớm sớm. Nó tên gì?
13 giờ rưỡi. Barley và Wicklow chậm mất một giờ để đến trạm tiếp theo trên con đường dài dẫn tới : " có thể vào lúc 20 giờ 15".
Ván lát tường màu sẫm ảm đạm, món ăn ngon tuyệt, người phục vụ cung kính, không khí vương giả. Họ ngồi chung quanh một bàn dài tại trụ sở Hội Nhà Văn. Một lần nữa Alik Zapadny chủ tọa. Có những nhà văn mới đầy hứa hẹn. Zapadny giới thiệu với Barley những người mới ra tù. Wicklow làm phiên dịch, Barley đàm đạo rất xuất sắc.
Đến 18 giờ, sau khi dự hai cuộc họp khác, và sau khi từ chối một cách tài tình nửa tá mời họp mặt đêm nay, Barley trở về phòng khách sạn của mình. Ông tắm để cho tỉnh táo, Wicklow nói chuyện với ông một cách vui vẻ về việc xuất bản để cho các micro đặt lén ghi. Theo lệnh của Ned, Wicklow phải ở bên cạnh Barley chođến phút chót, để đề phòng sự hoảng sợ làm tê liệt tâm trí ông ta, trường hợp ông ta quên bài bản của mình.
ĐỢI CHỜ
John Le Carré
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Văn Hòa - Nhất Anh
Chương 7:
Năm thứ ba(1) của công cuộc đổi mới, khách sạn Odesse, tuy không phải là con chủ bài của nền kỹ nghệ du lịch luôn luôn còn phôi thai ở Matxcơva, nhưng cũng đông khách, được chọn lọc kỹ càng.
Từ sáu giờ đến chín giờ tối, tiền sảnh khách sạn đột nhiên trở thành ngã tư đường của hàng trăm quốc gia trên thế giới, các viên chức Tachkent sang trọng, các giáo viên Esthonie đầu tóc vàng hoe như râu bắp, các cán bộ ở Turknénnistan và ở Géorgie, các giám đốc xưởng kỹ nghệ ở Kiev, các kỹ sư hàng hải Arkhangelk, chưa nói người Cu Ba, người Afganistan, người Ba Lan, người Hunggari, và người Đông Đức.
Và tối hôm ấy, Barley đang ngồi, thì một bà già vỗ vai ông để đòi ngồi vào ghế của ông.
Ông bèn đi đến đứng gần một bên thang máy, nhưng ở đó chẳng được bao lâu ông thấy mình chẳng khác nào bị cầm cố sau một bức tường thành xây bằng vali và hộp các-tông. Cuối cùng ông phải rút lui ra đứng gần một bên cột trụ chính giữa tiền sảnh, ở đó ông có thể canh chừng cửa ra vào. Thỉnh thoảng ông rời bóng một cột trụ, một tay cầm quyển “Emma” của Jane Austen áp sát vào ngực để người ta dễ thấy và tay kia cầm cái túi xách bằng chất dẻo của phi cảng Heathrow.
Cũng rất may, Katia đã đến.
Cuộc gặp mặt của hai người chẳng có gì là bí mật, cách ứng xử của họ chẳng có gì bí ẩn. Họ nhìn thấy nhau trong lúc Katia còn kẹt trong đám đông đang chen lấn xô đẩy nhau. Barley giơ cao và huơ huơ quyển tiểu thuyết của Jane Austen.
- Xin chào. Tôi, Blair đây – Tuyệt lắm! – Ông kêu to.
Katia biến mất, rồi xuất hiện trở lại. Không biết nàng có nghe tiếng Barley không? Nàng mỉm cười, ngước mắt nhìn lên trần nhà, diễn tả bằng bộ điệu để xin lỗi về sự chậm trễ của nàng. Nàng đưa tay hất một lọn tóc đen ra phía sau. Barley nhìn thấy chiếc nhẫn đính hôn và chiếc nhẫn kết hôn mà Landau đã nói.
Các cử chỉ của nàng diễn tả lý do sự chậm trễ của nàng thay cho lời nói, chẳng hạn: “Nếu ông biết được tôi đã phải khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cuộc tiếp tân ấy!”. Hay: “Tôi không làm sao tìm được một chiếc taxi!”.
Barley cũng đáp lại bằng cử chỉ, có ý nói: “Không sao. Không sao!”.
Nàng phải ngừng cuộc trao đổi cử chỉ ấy để lục trong ví của nàng với vẻ tức giận, để tìm thẻ chứng minh mà viên cảnh sát mặc thường phục đòi hỏi. Anh ta có nhiệm vụ thật dễ chịu, là kiểm soát tất cả đàn bà con gái xinh đẹp đi vào trong khách sạn. Nàng giơ lên một tấm thẻ màu đỏ mà Barley đoán rằng thẻ hội viên Hội Nhà văn Liên Xô.
Barley cũng phải quay sang bên để cố giải thích bằng tiếng Pháp cho một người Palestine cao lớn, rằng rất tiếc mình không phải là thành viên của phong trào Hoà Bình, và cũng không phải là Giám đốc của khách sạn.
Wicklow đứng ở nửa chừng trên cầu thang, đã quan sát cái cảnh ấy từ đầu, và sau này anh ta cho rằng chưa bao giờ anh thấy một cuộc tiếp xúc “chính thức” dàn cảnh khéo hơn thế.
"""