"Đọc Kim Dung Tìm Hiểu Văn Hóa Trung Quốc - Nguyễn Duy Chính full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đọc Kim Dung Tìm Hiểu Văn Hóa Trung Quốc - Nguyễn Duy Chính full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo] Ebooks Nhóm Zalo Table of Contents Tựa Lời người viết BA TẤC SEN VÀNG Lời mở đầu Lịch sử Hình dáng Các kiểu chân Bàn chân và tính dục Cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ Kết luận Tài liệu tham khảo ĐÔNG Y Lịch sử Phương pháp và biện chứng của y thuật Trung Hoa Kết luận CUỘC KHỞI NGHĨA LẬT ĐỔ TRIỀU NGUYÊN Lời nói đầu Sơ lược về triều đại Nguyên – Mông Tình thế cuối triều Nguyên Những cuộc nổi dậy Phương Quốc Trân Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông Từ Thọ Huy và Trương Sĩ Thành Trần Hữu Lượng Chu Nguyên Chương Ỷ Thiên Đồ Long Ký, tiểu thuyết và lịch sử Tổng kết Tài liệu tham khảo MINH GIÁO Minh Giáo: Bái Hỏa giáo hay Mani Giáo? Minh Giáo theo Kim Dung Kết luận Tài liệu tham khảo QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT Những hình tướng của Quan Thế Âm bồ tát Tài liệu tham khảo LINH CHI Kỹ nghệ trồng Linh Chi NHÂN SÂM Lịch sử Nhân sâm theo Đông y Nhân sâm tại Âu Mỹ Sâm Hoa Kỳ Kỹ nghệ trồng sâm hiện nay Các loại sâm Các tính năng của nhân sâm Tài liệu tham khảo RƯỢU Lịch sử Các loại rượu Trung Hoa Các loại đồ đựng và uống rượu Rượu thuốc TRÀ TÀU VÀ ẤM NGHI HƯNG Lời mở đầu Trà Tàu Lịch sử Dược tính của trà Các loại trà Sản xuất trà Ấm Nghi Hưng Đặc điểm của ấm Nghi Hưng Ấm Nghi Hưng theo thời gian Trà cụ Cách dùng ấm Cách pha trà Kết luận Tài liệu tham khảo VĂN PHÒNG TỨ BẢO: BÚT, NGHIÊN, GIẤY, MỰC Bút Nghiên Giấy Mực Phụ thuộc Kết luận Sách tham khảo THƯ, HỌA Thư pháp Họa Tài liệu tham khảo CHÙA THIẾU LÂM VÀ VÕ THUẬT TRUNG HOA Võ là gì? Võ thuật Trung Hoa, hình thành và phát triển Lịch sử Võ thuật Trung Hoa như thế nào? Bắc phái – Nam phái Nội gia – Ngoại gia Ngạnh công – Nhuyễn công Chùa Thiếu Lâm Có bao nhiêu ngôi chùa Thiếu Lâm? Võ Việt Nam? Tài liệu tham khảo THÁI CỰC QUYỀN BẢO KIẾM Lời mở đầu Bảo kiếm và tiểu thuyết võ hiệp Lịch sử Phương pháp Kết luận Tài liệu tham khảo ĐỌC KIM DUNG TÌM HIỂU VĂN HÓA TRUNG QUỐC Tác giả: Nguyễn Duy Chính Nhà Xuất bản Trẻ 02/2002 Số trang: 448 Lời người viết Đã từ lâu tôi theo lời khuyên của nhà văn quá cố Nguyễn Hiến Lê là khi không biết về vấn đề gì thì nghiên cứu và viết về đề tài đó cũng như học sinh ngữ bằng cách dịch văn chương. Phương pháp đó quả thật hữu hiệu vì chỉ có viết về một đề tài, người ta mới chịu bỏ công tìm kiếm tài liệu, cân nhắc, so sánh để sắp xếp ý tứ. Có như vậy, sự hiểu biết về đề tài đó mới tương đối có chiều sâu. Lẽ dĩ nhiên, khi nghiên cứu về bất cứ một vấn đề gì thì chúng ta cũng bị giới hạn bởi chính cái sở học và hoàn cảnh của mỗi người, dù nỗ lực thế nào, chúng ta cũng chỉ biết được một phần rất nhỏ, và cái học đó bị lệ thuộc vào cái kiến thức của người khác chứ không mấy khi là do kinh nghiệm từng trải của chính mình. Cách đây hai mươi năm, tôi đã định bụng sẽ dành một khoảng thời gian lớn để làm một số công việc mình thích. Đó là dịch lại toàn bộ truyện của Kim Dung theo ấn bản sau cùng của ông để cống hiến cho độc giả Việt Nam một áng văn chương đã một thời làm say mê nhiều thanh niên nam nữ. Thế nhưng khi bắt tay vào việc thì lại thấy cái sở học của mình hết sức ít ỏi, không phải chỉ vì cái vốn Hán văn nghèo nàn mà chính vì cái biết về Trung Hoa còn quá thô thiển. Thế hệ mà tôi sinh ra và lớn lên dường như không được mọc rễ trong một cái nôi văn hoá nào nên tình trạng kiến thức của mình ở vào thế “chân không đến đất, cật không đến trời”, dở dở ương ương, Tây cũng không đến đâu mà Tàu cũng chữ tác đánh chữ tộ. Có lẽ không phải chỉ cá nhân tôi mà nhiều người khác cũng ở vào hoàn cảnh tương tự, cái biết nào cũng lem nhem mà không cái gì biết cho rành. Truyện Kim Dung nếu nhìn về phương diện tình tiết và kết cấu, chúng ta có cái cảm phục riêng. Ông đã dựng truyện và giải kết một cách tài tình. Điều đó không ai có thể phủ nhận. Thế nhưng, bên cạnh đó, truyện Kim Dung lại còn giống như một pho bách khoa bao gồm nhiều tiết mục văn hóa mà những ai muốn tìm hiểu đều phải mất nhiều thời gian và công phu. Những chi tiết ông đề cập tưởng như dễ dàng nhưng lùng kiếm trong kho tàng văn hóa Trung Hoa chúng ta tại thấy một chiều sâu hết sức đáng kể. Từ cầm kì thi họa, đến nho y lý số, võ thuật, khí công, cả một nền triết học bao quát và phong phú nằm ẩn tàng trong ba mươi sáu cuốn sách, mà mỗi chương, mỗi dòng người đọc nếu tìm hiểu đến lại bị dẫn đi từ đầu dây này sang mối nhợ khác. Đó là một tập đại thành của văn học và triết học, sử học khiến cho người nghiên cứu như đi vào một mê lọ, một khu rừng um tùm. Để dàn dựng cho công trình đọc và dịch Kim Dung, tôi phải đi ngược lại tìm hiểu cái sinh mệnh nằm xuyên suốt chiều dài lịch sử, đối chiếu các nguồn văn minh đã dung nhập trong kho tàng văn hóa của họ mà gần như dù có bỏ hết đời chúng ta cũng chỉ mới biết qua trên mặt bì phu. Người ta vẫn thường nói văn hóa Trung nguyên là một sự tổng hợp của tam giáo: Nho – Thích – Lão. Thế nhưng mỗi một nhánh lại chia ra biết bao nhiêu nhánh nhỏ. Riêng Lão giáo hay đạo giáo, khởi nguyên đã phức tạp mà bàng môn, chi lưu lại thật nhiều. Từ thuyết âm dương, ngũ hành đẻ ra một bản đồ mù mịt bao gồm đủ cả nho y lý số, rồi phong tục tập quán của cả một xã hội với những thần tích không sách vở nào mô tả đủ. Cái phong hóa đó thấm sâu vào đời sống, đâm chồi nẩy lộc thành thiên hình vạn trạng khiến cho dù chúng ta nghiên cứu về một ngành nào cũng phải biết qua. Thế nhưng, quan trọng hơn cả là cái vỏ ngày càng dày, càng thêm nhiều tình tiết mà xa rời dần cái gốc. Cho nên, dịch Kim Dung không chưa đủ, chúng tôi lại muốn làm cả công việc bổ sung và giải thích những chi tiết quan trọng nhất mà độc giả muốn biết thêm; nhất là một người Việt Nam như tôi, muốn biết đằng sau đó người Trung Hoa nghĩ gì, và tạ i sao họ lại suy nghĩ như thế. Để chuẩn bị cho công trình dịch thuật, chúng tôi cố gắng làm một số biên khảo tiên khởi về một số điểm chính mà trong khi trà dư tửu hậu chúng ta thường nhắc đến. Những bài viết ngắn này mong sẽ làm sáng tỏ thêm một vài điều mà giới hạn của thể loại tiểu thuyết không cho chúng ta biết, hoặc giả Kim Dung đã hàm ý cho rằng phàm hễ là người Trung Hoa thì ai ai cũng biết cả rồi, nhưng người Việt mình thì lại chỉ biết một cách mơ hồ. Điều đó cũng dễ hiểu vì mình chỉ đọc ké văn chương của một dân tộc khác nên vấn đề làm thế nào để thưởng ngoạn cho trọn vẹn hơn là việc của mình chứ đâu phải của người. Loạt bài này bao gồm nhiều đề tài được viết như những nghiên cứu nho nhỏ – do một người hoàn toàn dốt về vấn đề mình đang viết – cốt để làm sáng tỏ những điểm thắc mắc trong khi dịch. Chúng tôi dự định là sẽ dùng những bài viết trong những phụ đính, như một kẻ rong chơi, lâu lâu dừng lại ngắm một bông hoa dại, quan sát một con chim, cánh bướm trên đường, để làm câu chuyện thêm hứng thú. Những đề tài đó có thể ở đủ loại từ võ thuật và các môn phái Trung Hoa, đến y học, tôn giáo, bang hội, tổ chức hành chánh, hệ thống cung đình, và cả những chi tiết lịch sử mà Kim Dung dùng làm bối cảnh cho tiểu thuyết. Có những đề tài lớn nhưng cũng có những đề tài nhỏ, nhưng lại quan trọng cốt để đọc Kim Dung thú vị hơn. Có những đề tài thiết thực cho đời sống thì cũng có những đề tài chỉ cốt mua vui. Tuy nhiên, dù lớn hay nhỏ, chúng tôi cũng cố đi theo nhung tiêu chuẩn khách quan, và nhất là dựa theo tài liệu nào khả tín chứ không dựa trên những sách vở ngụy tạo. Chúng tôi cũng không làm công việc phóng đại một nền văn minh mà chỉ cố làm công việc “thuật nhi bất tác” (thuật lại chứ không chế tác), không thêm mắm thêm muối cho câu chuyện thêm ly kỳ. Có lẽ đó cũng là một cách tôn trọng tác giả Kim Dung và độc giả. Thế nhưng, như đã trình bày ở trên, những nghiên cứu này có mục đích mua vui nhiều hơn, và chỉ hết sức khái lược, có thể đóng góp ít nhiều cho những người không biết chứ không phải dành cho người chuyên môn. Nó lại hoàn toàn có tính sách vở chứ không do kinh nghiệm bản thân và nhấn mạnh vào việc làm sáng tỏ một số chi tiết mà khi đọc tiểu thuyết Kim Dung chúng ta gặp phải. Đó cũng là mục tiêu đầu tiên và cuối cùng của người viết những bài này. Sau cùng, tập sách này có lẽ cũng chưa ấn hành ngay lúc này được nếu không có sự quan tâm tận tình của Nhà xuất bản Trẻ và của một số bằng hữu thân yêu, đặc biệt là của các anh Lê Đình Thuyên, Nguyễn Trọng Tiến, Lê Anh Dũng và Trần Văn Chánh. Mỗi người bằng cách riêng của mình đã giúp cho tập sách sớm được ra đời, nhân đây tôi xin trân trọng ghi nhận lòng biết ơn thật chân thành. Nguyễn Duy Chính BA TẤC SEN VÀNG Lời mở đầu Mới đây tiểu bang California đã thông qua một đạo luật cho phép người đàn bà được quyền cho con bú nơi công cộng. Thế nhưng nhiều luật gia vẫn lên tiếng chỉ trích là đạo luật đã xóa đi một nét đặc thù của nền văn minh, nền văn minh Tây phương mà chúng ta đang thấy. Cứ theo những tài liệu về nghệ thuật và văn hóa, người Âu Châu đã chiêm ngưỡng cái đẹp thân thể từ rất lâu, nhất là bộ ngực người đàn bà. Những pho tượng cổ của Hi Lạp cho thấy là nét đẹp mà họ tôn sùng hai ngàn năm trước đến nay vẫn còn được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên, khi đối chiếu với những dân tộc khác, sự chiêm ngưỡng bộ ngực – để rồi trở thành một thứ cấm kỵ như ngày nay – không mấy phổ thông. Chỉ có 13 trong số 190 dân tộc trên thế giới coi hai trái đào là biểu tượng của dục tính. Chín trong số 13 dân tộc này trọng bộ ngực to, hai dân tộc thích loại vú mướp (pendulous) và hai dân tộc còn lại thì thích bộ ngực vểnh lên. (Kathleen Kelleher, It’s Legal, So Why Isn’t it Accepted? The Strangest Speccies, LA Times 28/7/97). Tuy nhiên, tại nhiều nơi, dù có coi bộ ngực đàn bà là gợi cảm thì cũng vẫn không coi việc cho con bú nơi công cộng là vấn đề vì đó là một bản năng của con người vốn dĩ nguyên thủy là một động vật hữu nhũ. Hơn thế nữa, quan niệm thẩm mỹ và tính dục đổi thay rất nhiều, theo thời đại, theo địa phương. Có nơi coi khuôn mặt là quan trọng, vùng khác lại để ý đến cặp đùi, bàn tay, vòng eo, cổ hay vai. Sự khác biệt về quan niệm đưa đến những dị biệt về văn hóa, cách ứng xử, đối đãi của mỗi dân tộc. Nơi này che đậy thì nơi khác lại phô bày. Cái cấm kỵ ở khu vực này không hẳn đã quan trọng đối với địa phương khác. Ngay tại Việt Nam, tại nhiều vùng quê miền Bắc cách đây không lâu cũng không coi việc lõa thể là cấm kỵ. Trong một số Hoài Bão Quê Hương của hội cựu SVQGHC gần đây, một cựu sinh viên đã kể rằng khi ông đi dạy học tại một vùng quê miền Bắc, học trò (đã trưởng thành) khỏa thân đứng tắm một cách bình thản và ngạc nhiên khi thấy ông thầy của mình tắm mà lại mặc quần. Trong bài này, chúng tôi đề cập đến một quan niệm về thẩm mỹ và tính dục rất khác biệt với chúng ta và đã ảnh hưởng đến nhiều biến chuyển lịch sử, trực tiếp hay gián tiếp. Ở bên Tàu, suốt trong hơn một nghìn năm – mãi tới sau thời Dân Quốc mới thôi – lại coi bàn chân phụ nữ là nơi kín đáo và gợi dục nhất trên cơ thể. Một người đàn ông khi đã nắm được chân người đàn bà là coi như hoàn toàn chinh phục và một người đàn bà cho người đàn ông coi bàn chân là đã sẵn sàng hiến dâng tất cả những gì còn lại. Cái cấm kỵ đó quan trọng đến nỗi ngay trong những bức tranh thuộc về Xuân Cung Đồ (tranh vẽ trai gái ái ân), người đàn bà cũng không mấy khi để lộ hai bàn chân cho dù hoàn toàn lõa thể. Quan niệm về tính dục đó đã biến thái để trở thành một phong tục tàn ác là tục dùng băng vải bó bàn chân cho nhỏ lại mà cho tới ngày nay vẫn không hiếm những nhà trí thức Trung Hoa bị ám ảnh bởi quan niệm đó. Trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, Trương Vô Kỵ cù gan bàn chân Triệu Mẫn trong một hầm tối để bức bách nàng thả chàng ra. Thế nhưng, ngoài ý nghĩa cụ thể của câu chuyện, còn một nghĩa bóng là một khi cho đàn ông nắm chân, người đàn bà coi như đã thất thân với nam nhân. Từ đó tình yêu nảy nở và cũng là cái động lực khiến nàng Quận chúa phải bỏ cha, bỏ anh để đi theo một tên “đại ma đầu”, kẻ thù của triều đình và của chính dân tộc Mông Cổ. Vài chục năm trước, thỉnh thoảng người ta còn gặp trong những khu đông Hoa kiều những bà già có đôi bàn chân nhỏ, đi hài thêu, bước từng bước nặng nhọc, khó khăn và thường phải có người nâng dắt. Đó là những phụ nữ Trung Hoa theo tục lệ bó chân, một quan niệm thẩm mỹ cổ điển mà sau này đã bị nhiều người đả kích. Một điều lạ là nhiều học giả Trung Hoa lại lên tiếng bênh vực, coi như đó là một nét đặc thù hơn là một thái độ áp bức. Lâm Ngữ Đường cho là việc bó chân cũng không khác gì tục lệ thắt eo của Tây Phương thời Trung Cổ, vũ ballet trên đầu ngón chân hay mốt đi giày cao gót hiện đại, vì bản chất của tục lệ này là mỹ thuật và tính dục, hình thái tự nhiên mà đàn bà muốn được đàn ông chiều chuộng và tán thưởng. Ông còn đi xa hơn để biện minh rằng bó chân tuy có đau nhưng cũng không đến nỗi ngất xỉu như người Tây Phương thắt lưng ong. (Lin Yutang, My Country and My People, Halcyon House, 1938, trang 167). Lý Lạp Ông thì nhận định là ba tấc sen vàng (tức bàn chân nhỏ do tục bó chân) đặt trên mặt đất tính ra diện tích đế và trọng lực cũng không khác gì hơn một đôi chân bình thường đi giày cao gót của phụ nữ tân thời. Tôi đã quan sát một đôi chân ba tấc nếu không đi giày cao gót và một đôi chân bốn, năm tấc đi giày cao gót nếu đứng trên cùng một địa điểm, thì chân ba tấc xem ra còn lớn hơn chân bốn, năm tấc. Tục lệ này đã trở nên lỗi thời từ khi chế độ Dân Quốc được thành lập và đến khoảng thập niên ba mươi thì không còn ai theo nữa. Tuy nhiên trong suốt một ngàn năm, cái quan niệm mà người ta cho là đẹp ấy đã dày vò hàng trăm triệu người từ khi còn là một đứa trẻ thơ ba bốn tuổi kéo dài đến suốt cuộc đời. Đó là chưa kể không biết bao nhiêu người không chịu nổi đau đớn và nhiều nỗi thống khổ có trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc bó chân. Trong cuốn China, A New History, John King Fairbank, một học giả lỗi lạc chuyên về Trung Hoa (mới mất không lâu) cho biết là trong thời gian gia đình ông sống ở Bắc Kinh đầu thập niên 1930, việc đàn bà bó chân là một trong ba hiện tượng đặc thù của nước Tàu. Những nhà truyền giáo ước tính khoảng 10% nữ nhi yểu vong vì không chịu nổi đau đớn hay bị các chứng bệnh liên quan đến việc bó chân mà chết. (Fairbank, John King, China, A New History,The Belknap Press of Harvard University Press, London 1992 trang 175). Cái đau đớn thân thể chỉ là một trong những hậu quả của tục lệ kỳ quái này vì còn nhiều ảnh hưởng tâm lý, xã hội khác chưa mấy ai để tâm tới, nhất là ảnh hưởng kinh tế và sản xuất khi một phần lớn dân số bị hạn chế năng lực để trở thành những ký sinh hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Tuy có một số học giả chống đối tục lệ này, phần lớn vẫn chấp nhận, lắm khi còn biện hộ như chúng ta đã thấy, hoặc lặng thinh không đề cập tới. Thành thử, nhìn lại lịch sử Trung Hoa trong vài trăm năm qua, những nỗi nhục nhã của dân tộc này có ít nhiều liên quan đến những hủ tục, mà tục bó chân là một. Người Tàu đã coi những dân tộc khác không biết làm cho chân nhỏ lại là những dân tộc kém văn minh, cũng như người mình trước đây chê cười ai không nhuộm răng là “răng trắng như răng bò”. Thật đúng là “cái đẹp của con cóc đực là con cóc cái”. Lịch sử Theo sử sách Trung Hoa thì đời xưa đàn bà mang giày có mũi nhọn là vì đôi giày được coi như một loại vũ khí tự vệ. Trên những bích họa tại đền chùa, các sách Chu Lễ, Sử Ký, Hán Thư đều có dấu tích của giày mũi nhọn (lợi lý). Từ đời Tần Hán trở về sau, vì đàn ông ưa chuộng nữ nhân yểu điệu, thanh tú nên thiên hạ đều coi mình hạc xương mai là đẹp. Nhạc Phủ (thơ của vợ Tiêu Trọng Khanh đời Hán) có câu: Tiêm tiêm tác tế bộ, Tinh diệu thế vô song (Uyển chuyển đi những bước chân nhỏ nhắn, quả thực thế gian không có gì dịu dàng bằng) cho thấy là đời xưa người ta chuộng đàn bà mảnh khảnh. Còn về hai chữ “sen vàng” (kim liên) thì đầu tiên xuất hiện trong Đông Hôn Hầu của Nam Tế khi mô tả bước chân của Phan Phi là “mỗi bước đi lại thành ra một đóa sen vàng”. Thế nhưng từ việc chuộng bàn chân nhỏ nhắn một cách tự nhiên biến thành tục bó chân thì sử sách cho rằng chỉ bắt đầu từ đời Nam Đường Lý Hậu Chủ (Lý Dục). Trong nghiên cứu về giày và vớ của phụ nữ (Phụ Nữ Hài Miệt Khảo), Dư Hoài chép là: Hậu Chủ có người cung phi tên là Yểu Nương, người xinh đẹp thanh tú, giỏi việc ca múa. Hậu Chủ cho làm những đóa sen vàng cao sáu thước, treo những đồ quí giá, buộc dải lụa để cho nàng dùng vải bó chân, múa trên những bông hoa trông chẳng khác gì múa trên mây. Nhiều người bắt chước sau thành tục bó chân. Tục bó chân từ trong cung cấm sau truyền ra ngoài, trước tiên là ca kỹ, vũ nữ, rồi đến cả những khuê nữ con các đại gia dần dần lan rộng khắp dân gian. Đến đời nhà Minh, sách Khuê Môn Nữ Nhi Kinh coi việc bó chân là một trong những điều răn dạy con gái. Nữ Nhi Kinh viết là: Quan trọng là việc bó chân cho con, chẳng những cong cong đẹp như cánh cung, lại không lo chạy rong ra ngoài ngõ, chẳng cần phải lấy dây mới buộc được. Việc bó chân từ đó được coi như một tập tục không thể không có cho một cô gái con nhà đứng đắn. Hình dáng Bàn chân bó nhìn ngang trông giống như hình chiếc cung nên vì thế còn gọi là “cung túc”, dân gian gọi là chân nhỏ còn kẻ văn nhân thì gọi là “đóa sen vàng” (kim liên). Theo truyền thống, bàn chân phải nhỏ chừng ba tấc – tức khoảng 12 phân tây – là vừa nhưng càng nhỏ thì càng đẹp. Bàn chân chỉ chừa ngón cái, khum khum cong lên, mu bàn chân gồ lên vì những ngón chân bị kéo lại, có tên là “lang đầu” (núm cau). Ngón chân quặp vào dưới lòng bàn chân, biến thành như hình cái trứng nên gọi là “áp đản lựu”. Nếu nhìn từ dưới gan bàn chân thì thấy bàn chân có hình tam giác, gót chân tròn, phải chịu sức nặng của toàn thân vì phần đầu hoàn toàn tàn phế không còn sử dụng được đụng đến sẽ đau nhói. Mỗi khi đi đâu người đàn bà phải hoàn toàn đi bằng gót chân và người phải đứng thẳng, mông ưỡn về phía sau, không có thể uyển chuyển được, gót chân chạm đất nặng nề, khó nhọc. Mỗi bước chỉ đi được chừng ba, bốn tấc, cũng không đứng yên được mà chốc chốc phải đi tới hay lui một vài bước, nghiêng ngả cho đỡ đau, nếu không có người nâng thì sẽ ngã khuỵu xuống. Tây Sương Ký đã mô tả là “mỗi bước đi đều khiến người ta thương cảm, như cành liễu rủ trước gió”. Thoạt đầu khi mới có tục bó chân thường khởi sự khi còn là một thiếu nữ trẻ tuổi, người ta dùng vải quấn chặt nên chân thường sưng lên, rất đau đớn. Khi đó chân cũng đã lớn, khó có ai bóp lại cho nhỏ để thành một bàn chân ba tấc được. Về sau, khi tập tục này đã phổ biến, người mẹ bó chân cho con ngay từ khi còn nhỏ, và chia thành hai loại, bó sớm và bó trễ. Bó sớm, còn gọi là bó chậm (mạn triền) thường là tại những gia đình giàu có, ngay từ ba, bốn tuổi. Người mẹ lấy vải quấn các ngón chân và đi giày chặt cho con hằng đêm, càng lớn lên càng thắt cho chặt thêm, thân thể có tăng trưởng nhưng bàn chân thì giữ nguyên. Trừ ngón chân cái, những ngón khác dần dần quặp vào lòng bàn chân, hay bị thoái hóa không lớn mà thun lại bằng hạt đậu. Mu bàn chân không giãn bề ngang nên u lên, khiến cả bàn chân thuôn thuôn như hình trái cau (lang đầu), tổng cộng không quá ba tấc (khoảng 12 phân tây). Loại chân nhỏ này được gọi là Dương Châu cước, bó từ khoảng bốn tuổi đến năm tám tuổi thì hoàn tất. Những cô gái bị bó chân quá sớm thường không phát triển bình thường, hay quặt quẹo đau yếu luôn, và thường chết yểu. Nếu có thọ thì dung mạo cũng rầu rĩ, không tươi vui. Bó gấp, hay bó nhanh (cấp triền hay khoái khỏa) thường là con nhà nghèo, phải làm việc, cha mẹ cũng không có thì giờ bó chân cho con từ nhỏ, nên mãi tới tám, chín tuổi, có khi mười bốn, mười lăm không chừng mới bắt đầu bó chân. Theo cách này, người ta chọn ngày lành, tháng tốt (?), mẹ không nỡ bó chân con nên thường nhờ những bà già có kinh nghiệm, rồi người lớn xúm vào giữ chặt đứa nhỏ, rồi người ta thật nhanh nhẹn bẻ gẫy bốn ngón cho gập vào lòng bàn chân. Sau đó dùng dây vải quấn chặt, kéo xuống gót chân xiết lại. Tiếp theo, người ta sẽ uốn cho mu bàn chân cong lên thành hình chữ kỷ, chẳng khác gì uốn một thân cây. Công việc này chỉ làm một lần là xong và cứ để như vậy chứ không uốn từ từ như cách thứ nhất. Cứ hai ba ngày người ta lại tháo băng ra, dùng nước nóng rửa sạch máu mủ, rắc hương liên tán (một loại thuốc bột để bớt mùi hôi) rồi lại quấn chặt. Thời gian từ lúc bắt đầu cho tới khi bàn chân biến dạng không còn hồi phục được nữa khoảng ba tháng, các vết thương cũng liền da nhưng phải khoảng nửa năm sau thì đứa trẻ mới được đi lại. Tuy thời gian có ngắn hơn nhưng phương pháp này làm cho nạn nhân đau đớn hơn nhiều. Vì bó chân khi đứa trẻ đã khá lớn nên cũng ít trường hợp bị chết yểu và sau này vẫn còn làm được công việc nặng nhọc. Phụ nữ vùng Thiểm Tây, Sơn Đông áp dụng cách này và vẫn còn có thể mang vác nặng vượt qua núi, có người còn luyện võ. Thế nhưng khuyết điểm là “lang đầu” quá lớn, mu bàn chân không tròn trịa vì dấu gãy xương vẫn còn nên không được ưa chuộng như cách thứ nhất. Bàn chân cũng chỉ có thể giữ được khoảng 4, 5 tấc thứ không thể nào đạt mức lý tưởng là 3 tấc sen vàng. Cách này cũng làm cho nạn nhân bị đau nhức nhiều hơn khi về già, nhất là những ngày âm u. Khi đã bó chân rồi, muốn cho giữ nguyên hình trạng, người đàn bà Trung Hoa không chỉ dùng những đôi giày được chế tạo riêng cho họ mà phải có thêm một số phương tiện phụ thuộc. Đễ giữ cho bàn chân không trở lại hay biến dạng, họ phải dùng một mảnh vải dài chừng sáu thước, bề ngang khoảng hai tấc, màu xanh đậm để quấn chân. Màu xanh là màu để cho vết máu khỏi hiện rõ. Chỉ khi đã về già, chân không còn chảy máu mới dùng màu trắng. Mỗi người tối thiểu phải có khoảng ba sợi như thế hầu giặt giũ, thay đổi hàng ngày. Bên ngoài lớp vải bó là các loại vớ rồi ngoài cùng mới đến giày. Đôi giày có tên là cung hài vì hình tượng của lớp đáy trông giống hình cánh cung. Giày có nhiều loại, hình dáng, phẩm chất khác nhau nhưng nói chung thì có những loại sau đây: Tú hài: là loại giày thêu thùa rất mỹ thuật, kỹ lưỡng thường dùng cho con gái trong lễ cưới hay để phụ nữ mang khi có khách đến thăm, có loại gọi là “mã khẩu tuyến hài” hoặc “nguyệt lượng môn hài” thường thêu hoa, thêu hình ngọc như ý. Mũi giày nhọn như mỏ chim, có đính những hạt ngọc trai, tú cầu hoặc thêu hình nhụy hoa. Đế giày cứng thường là bằng gỗ nhưng gót mềm lót bằng nhiều lớp vải. Bên trong gót giày có một mảnh gỗ hình giống như chiếc mũ đạo sĩ nên còn được gọi là “đạo sĩ quan”. Loại giày này để hết trọng lực vào gót chân, ngón chân không bị tì vào đất nên ít đau. Tiện hài: là loại giày thường dùng hàng ngày (tiện là tiện lợi) bằng vải, đế mềm, có loại thêu hoa, có loại chỉ để trần. Thụy hài: là loại giày đàn bà mang khi đi ngủ để ngừa chân nếu để không sẽ giãn ra nên gọi là giày ngủ (thụy hài). Giày ngủ chỉ có một lớp vải ít khi thêu thùa trang sức, hình dáng cũng gần như tiện hài. Ngoài giày vớ, người đàn bà Tàu còn dùng một số dụng cụ phụ thuộc để độn chân và trợ giúp khi di chuyển, khi đi trời mưa … Các kiểu chân Người Trung Hoa môn gì cũng thích phân biệt chi li. Đối với đôi chân của người đàn bà họ lại càng vẽ vời. Bàn chân bó được chia làm ba loại, thượng trung hạ, mỗi loại lại chia làm ba cấp, có tên như sau: thần phẩm, diệu phẩm, tiên phẩm (thượng), trân phẩm, thanh phẩm, diễm phẩm (trung) và dật phẩm, phàm phẩm, ưng phẩm (hạ). Sau đây chúng tôi chỉ mô tả một vài loại chính: Hồng lăng cước: hình củ ấu, đầu chân thuôn nhọn là loại tiêu chuẩn và được ưa chuộng nhất. Tống tử cước: hình cái bánh giò (loại bánh có bốn góc) nhưng mu bàn chân thuôn đuột, không gồ lên hình chữ kỷ, kém loại trên một bực. Man ngư cước: đầu chân không được nhọn, hình bầu bầu giống hình con cá sộp, kém một bực nữa. Văn minh cước: là loại về sau cuối thời Mãn Thanh đặt tên cho những người trước bó chân sau cởi ra không tiếp tục nữa. Còn có tên là bán lãm cước (hình nửa cái giỏ), ngón chân quặp vào, đầu chân uốn về phía sau. Quài tử cước: lúc bó chân cũng làm nhanh rồi sau lại cởi ra nên hình dạng méo mó, hình xấu xí, khiến chân đi như người què. Đoàn mộc cước: cũng thuộc loại chân trước bó sau cởi ra, ngón chân duỗi ra được nhưng mu bàn chân bị gãy, nên có tên là chân hình khúc củi. Ngoài ra còn phải kể đến một loại chân bó giả, làm bằng gỗ đẽo như hình chân phụ nữ, là của phường tuồng nam giả nữ (đích thực là một loại cà khêu ngắn để họ đi). Bàn chân và tính dục Người Trung Hoa coi bàn chân của phụ nữ là bộ phận tối gợi cảm và kín đáo, là biểu trưng của nữ tính và là vùng khích động nam nhân nhiều hơn cả. Nhiều bức tranh trong Xuân cung thư hay Phòng trung thuật mô tả người đàn bà hoàn toàn lõa thể nhưng hai bàn chân vẫn bó. Bàn chân không những là nơi kín đáo mà còn là vùng cấm kỵ nữa. Cùng lắm nghệ nhân chỉ vẽ đến người đàn bà đang tháo băng chân. Bàn chân còn là nơi gợi cảm và việc vuốt ve, hôn hít bàn chân là những động tác tiền giao hoan. Khi một nam nhân được làm quen với một thiếu nữ, được mời ăn thường giả vờ để rơi đũa, hay rơi khăn rồi nhân dịp đó đụng vào bàn chân người đối tượng. Đó là cách để thử xem ý trung nhân có thuận tình chăng. Người đàn ông có thể vô tình đụng vào mông, vào ngực người đàn bà nhưng việc đụng vào chân không thể xem là một hành vi sơ xuất. Một số tác giả Trung Hoa cho rằng việc bó chân có ảnh hưởng đến việc phát triển bộ phận sinh thực khí của người đàn bà, nhất là gò âm môn (mons veneris) và phản xạ co thắt của âm đạo. Cô Hồng Minh (1857-1928), một học giả cận đại còn khẳng định là người đàn bà nào bàn chân càng nhỏ thì những nếp gấp của âm thần càng kỳ diệu. Người ta giải thích là vì bị bó chân, người đàn bà Trung Hoa đi lại khó khăn nên âm đạo bị thắt lại, cũng giống như người ta tập co thắt các cơ vòng của bộ phận sinh dục sau khi sinh nở. Tuy nhiên, những nghiên cứu y học tân tiến đã hoàn toàn phủ nhận giả thuyết này và cho đó chỉ là sự tưởng tượng của người Tàu. Một số khác thì lại cho rằng việc bó chân là một hậu quả của lễ giáo, muốn giới hạn việc di chuyển của phụ nữ, và cũng chứng tỏ vai trò thấp kém của nữ giới trong xã hội phong kiến và là một hậu quả của văn hóa Khổng Mạnh. Việc che đậy và sùng bái bàn chân (foot fetish) không phải chỉ có ở Trung Hoa mà xuất hiện tại nhiều dân tộc – chẳng hạn như người phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ và người Mông Cổ vùng Siberia, có thể cởi trần những ngày nóng, nhưng lại không phô bày đôi bàn chân cho ai ngoại trừ người chồng. Thế nhưng việc coi bàn chân là một biểu tượng tính dục là một cảm nhận đặc thù của người Tàu và họ cho rằng người nước ngoài không thể nào hưởng được cái khoái cảm đó nếu không ý thức được như họ. Nhiều giáo sĩ đã nghe con chiên xưng tội là “trong lòng dậy lên ý nghĩ đen tối khi nhìn vào bàn chân người đàn bà”.(Seagrave, Sterling The Soong Dynasty, Harper & Row 1985 trang 159). Cũng nên biết thêm là tại Trung Hoa, chỉ có người khách gia (hakka, tức người Hẹ) là dân tộc duy nhất chống lại và không theo tục lệ này. Người khách gia là một dân tộc di cư từ miền bắc xuống vào khoảng thế kỷ 11 đến thế kỷ 13, sản sinh ra nhiều nhân tài kiệt hiệt, có đầu óc cải cách, độc lập mà hiện nay chúng ta có thể kể như Đặng Tiểu Bình, Lý Quang Diệu, Lý Đăng Huy, Lý Bằng, Vương Vĩnh Khánh … Trong những kỹ viện và chốn ăn chơi, việc dùng những đôi hài của kỹ nữ làm trò đánh đố, làm ly đựng rượu, và làm vật trợ hứng cho nam nhân thường xảy ra. Lý Lạp Ông đưa ra 48 cách đàn ông dùng bàn chân phụ nữ để tìm vui trong đó đủ cả ngũ giác (28 cách dùng tay, 6 cách dùng miệng, 4 cách dùng chân, 2 cách dùng vai, 4 cách dùng thân thể). (Lại Kỳ, Trung Quốc Cổ Đại Tính Tàn Hại, Hạ Hỉ Văn Hóa Công Ty Đài Bắc 1995, trang 70). Khi tìm cách giải thích hoặc biện minh cho tục bó chân, nhiều tác giả đã lý luận rằng người Trung Hoa rất thích dùng biểu tượng, dùng một vật này để chỉ một ý nghĩa khác. Việc chúc tụng chẳng hạn, người ta dùng con dơi (biển bức) để thay cho chữ phúc (âm tương đồng giữa bức và phúc), dùng trái đào tượng trưng cho sự trường thọ (ăn đào sống lâu theo truyền thuyết bàn đào của bà Tây Vương Mẫu), hay trái lựu để mong đông con trai (đa tử, lắm hột) … Người Tàu lại hay kiêng cữ những điềm gở, dù rằng đôi khi rất mơ hồ. Số nhà, số xe họ kỵ số bốn (tứ, đồng âm với tử là chết). Cách đây không lâu, báo chí đã đăng tải một bệnh viện ở Los Angeles bán không được vì có số nhà đọc lên nghe như bốn chữ “thập tử nhất sinh” (1413). Thời cổ, những tiếng kim liên (sen vàng), tân nguyệt (trăng non), kim hoa (hoa vàng) … dùng để chỉ bộ phận sinh thực của nữ giới (chữ liên đồng âm với chữ lân hay liên là đáng yêu, đáng thương), cũng như con cá tượng trưng cho dương cụ của nam giới. Thành thử một bức tranh vẽ cá đùa giỡn một bông hoa sen còn có ý nghĩa nam nữ hợp hoan. Cho nên bốn chữ “ba tấc sen vàng (tam thốn kim liên)” có ý nghĩa ẩn dụ, cũng như khi nghiên cứu diện tướng, nhiều người cho rằng mũi (đàn ông) và miệng (phụ nữ) với tính dục có tương quan. Vì thế khi uốn bàn chân cho thành hình tam giác hay gọi là đóa sen vàng, người Trung Hoa muốn ám chỉ sự liên quan giữa bàn chân và bộ phận sinh thực khí. Cũng có thể đó chỉ là một cách giải thích vì người ta hay thêm thắt cho li kỳ, đặt ra một số huyền thoại để cắt nghĩa một việc mà chính họ cũng không hiểu rõ. Cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ Không phải người Trung Hoa không có ý thức về vai trò và ảnh hưởng của tục bó chân đối với văn hóa, chính trị, kinh tế nước Tàu. Chính một nho sĩ đời Minh đã đưa ra một “quốc sách” là dạy cho những dân tộc Hung Nô phương Bắc tục bó chân để cho họ bị mê mệt về đóa sen vàng của chính họ mà khỏi xâm lăng nước Tàu. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng không hiếm người phản kháng lại tục lệ kỳ quái này, nhất là đời Thanh. Chính triều đình cũng nghiêm cấm việc bó chân. Vào Thuận Trị nguyên niên, Hiếu Trang hoàng hậu ra lệnh chém đầu những thiếu nữ nào bó chân, không cho nhập cung, năm thứ hai lại ra lệnh mọi người dân không được bó chân cho con. Tới Khang Hi nguyên niên, nhà vua lại ra một đạo dụ khác cấm nữa, nếu ai vi phạm thì cha mẹ và gia trưởng đều bị tội. Năm Đạo Quang 18, triều đình lại ra lệnh cấm chỉ một lần nữa. Từ Hi thái hậu cũng hạ chỉ “Mãn Hán có thể lấy nhau, cấm phụ nữ bó chân”. Năm Quang Tự 20, tổng đốc Tứ Xuyên cũng phổ biến một đạo dụ có tên là “Khuyến Giới Triền Túc Dụ”. Tuy nhiên, dân chúng vẫn lén lút bó chân cho con và tìm cách ẩn lậu. Có người cho rằng đó cũng là một hình thức phản kháng tiêu cực của người Hán chống lại người Mãn Thanh. Công khai vận động chống đối thì có năm người: Lý Nhữ Trân đời Gia Khánh viết Kính Hoa Lục, chủ trương nam nữ bình đẳng, coi việc bó chân là một thảm hình không gì ác độc hơn. Cung Tự Trân đỗ tiến sĩ đời Đạo Quang làm thơ chống đối việc bó chân, ca tụng việc lấy được vợ có bàn chân bình thường. Hồng Tú Toàn là lãnh tụ Thái Bình Thiên Quốc xưng đế ở miền Nam Trung Hoa, tuyên bố nam nữ bình đẳng, đàn bà cũng được đi thi. Khi kéo quân đến Giang Ninh liền ra lệnh cho dân chúng không được bó chân, ai vi lệnh sẽ bị chém đầu. Từ đó về sau nhân dân vùng Quế Việt hơn một nửa không còn theo hủ tục này nữa. Tây Côn Hùng Tử, người đất Thục đời Đồng Trị viết cuốn Lạc Thế tổng cộng 130.000 chữ cũng bài xích tục bó chân, mà chính gia đình ông tự làm trước. Ba người con gái của ông đều không theo tục này. Trịnh Quan Ứng người đất Quang Thời viết cuốn Thịnh Thế Nguy Phương, đả kích những hủ tục và hô hào duy tân. Trong thiên Nữ Giáo ông viết: “Trên khắp năm châu không dân tộc nào như Trung Quốc. Phàm đã là cha mẹ ai cũng thương con, vậy mà trẻ mới 4, 5 tuổi cho chí 7, 8 tuổi lại đem ra hành hạ áp bức coi đó làm vui. Thật khốn khổ cho người nào sinh ra làm phận nữ nhi Trung Quốc.” Sau cuộc chiến tranh Trung Nhật, phong trào cải cách ngày càng lan rộng, việc vận động để chân tự nhiên ngày càng lên cao. Năm Quang Tự thứ 22, Khang Hữu Vi sáng lập hội không bó chân ở Quảng Châu, vừa mới đầu đã có hàng vạn hội viên. Năm Quang Tự thứ 23, Lương Khải Siêu viết Biến Pháp Thông Luận trong chương Luận Nữ Học có một đoạn viết là: “Hủy thân thể người khác, làm cho người khác máu đổ thịt rơi để thỏa mãn cái thích của mình, sao gọi là học? Còn bó chân một ngày thì việc nữ học chưa có thể thành được. Sức của một ông vua (nói về việc vua Khang Hi ra lệnh cấm bó chân) không thể thay đổi cái mù quáng của số đông dân chúng, cái đầu cứng của kẻ đàn ông, không mềm bằng cái chân của người phụ nữ.” Sau đó, nơi nào cũng có hội để chân tự nhiên (Thiên Túc Hội), các thành thị lớn lại có Tổng hội, nông thôn thì có phân hội. Các hội viên tất cả ước định với nhau sẽ không bó chân con cái mình, và cũng không lấy gái bó chân. Vận động này tới cuối đời Quang Tự đã lên tới cao điểm. Tới thời Dân quốc, hầu hết các nơi đều không còn hủ tục này. Kết luận Cho đến bây giờ, tục bó chân của người Tàu vẫn được nhìn dưới nhiều quan điểm khác nhau. Dù bênh hay chống, chúng ta cũng thấy là tục lệ này đã ảnh hưởng rất lớn đến dân tộc Trung Hoa trong một thời gian dài. Ngoài ảnh hưởng xã hội, kinh tế, nó còn mang nhiều hiện tượng tiêu cực trên cả mặt chính trị. Tuy nhiên, xét tục bó chân của người Trung Hoa trong một tiến trình lịch sử dài thì người ta thấy rằng thoạt tiên nó mang ý nghĩa và quan niệm về sắc đẹp, nhưng về sau lại được gán thêm cái nghĩa văn minh Hán tộc, dùng để biện biệt với các dân tộc man di, mọi rợ khác không có tục này. Đến thời nhà Thanh, tục bó chân lại còn có một ý nghĩa đối kháng ngấm ngầm với triều đình, coi đó là một hành vi bất khuất hưng Hán, bài Mãn. Một điều đáng để ý là hình như nền văn minh Hán tộc đã khiến cho người ta có máu “sa đích”, thích chứng kiến hay hưởng thụ những hành vi tàn ác. Phụ nữ đã bị coi như một món đồ chơi, không được coi như bình đẳng với nam giới. Nhiều trẻ gái vừa sinh ra đời đã bị bóp mũi hay trấn nước cho chết, và hiện nay, với chính sách chỉ được phép sinh một đứa con, tục lệ này càng thêm lan rộng. Tỉ lệ chênh lệch nam nữ ở bên Tàu nay nhiều nơi lên tới 100/120 (100 nam, 120 nữ). Vào thời xưa, việc mua bán, trao đổi phụ nữ rất phổ thông và nhiều phú gia đã nạp hàng chục thiếu nữ làm tì thiếp. Họ lại còn có quan niệm cho rằng phá tân một người con gái là một việc may mắn và nhiều thương nhân đã bỏ tiền mua trinh tiết để giải hạn hay lấy hên. Thế nhưng, không phải chỉ ở Trung Hoa mà tại nhiều nơi cũng có những tục lệ xâm phạm đến thân thể người đàn bà, chẳng hạn như tại một số quốc gia Bắc Phi đến nay vẫn còn duy trì tục cắt âm hạch (clitoridotomy) cho con gái. Trong suốt một nghìn năm, cái quan niệm về thẩm mỹ và tính dục của người Tàu đã khiến cho không biết bao nhiêu máu và nước mắt phải âm thầm đổ ra, thật là một thảm kịch của một dân tộc vốn vẫn coi mình là tâm điểm của thế giới, và là đỉnh cao của văn minh. Để kết luận, chúng tôi lược dịch lời tự thuật của một phụ nữ Trung Hoa trong tác phẩm Chinese Footbinding: The History Of A Curious Erotic Custom của Howard L. Levy, một tác phẩm mà nhiều người cho rằng đây là một Kinsey Report của Trung Hoa (New York, Walton Book 1966 từ trang 224 đến trang 227): Tôi ra đời tại một huyện ở miền tây tỉnh Hồ Nam, vào cuối triều Mãn Thanh. Theo tục lệ, tôi phải bó chân khi lên bảy. Từng chứng kiến nỗi khốn khổ của những người chị em họ, nên tôi rất sợ. Mùa thu năm đó, thảm họa đã giáng xuống đầu tôi. Một hôm, mẹ tôi bảo: con đã bảy tuổi rồi, vừa đúng tuổi để bó chân. Để lâu hơn nữa, chân con cứng lại càng đau nhiều. Đáng ra mẹ đã bó chân cho con từ mùa xuân nhưng vì con yếu quá nên phải đợi tới bây giờ. Con cái các nhà khác đã bó chân xong cả rồi. Sáng mai mình bắt đầu nhưng mẹ sẽ làm cho con nhè nhẹ để con ít đau, vì con gái nhà ai cũng phải qua cái cảnh khổ này. Sau đó mẹ tôi cho tôi ăn trái cây và cho tôi xem một đôi giày có đầu nhọn như mỏ phượng, an ủi tôi với những lời: Chỉ có người bó chân mới đi vừa đôi giày đẹp đẽ này thôi. Nếu không chân con to như chân voi, người ta cười con và con sẽ xấu hổ lắm. Tôi thấy yên tâm, và lòng ham muốn được đẹp đẽ khiến tôi cương quyết, cả đêm không ngủ được. Sáng hôm sau, khi tôi trở dậy, mẹ tôi đã sẵn sàng mọi thứ. Mẹ tôi để tôi ngồi trên một cái ghế đẩu ngay cạnh giường. Mẹ tôi xỏ chỉ một cây kim gài lên tóc tôi, tán một miếng phèn (alum) xếp cùng với vải bó chân và một đôi hài thêu hoa. Sau đó bà đóng cửa phòng lại. Đầu tiên mẹ tôi ngâm châm tôi vào nước ấm, lau sạch, và cắt các móng chân tôi bằng một cái kéo nhỏ. Bà để chân phải tôi vào hai bàn tay và chà xát theo chiều lòng bàn chân. Bà cũng rắc phèn tán vào những kẽ ngón. Bà cho tôi cầm một quản bút theo niềm tin là có thế sau này chân tôi mới thuôn nhọn như ngòi bút. Bà lấy một dải vài dài chừng một thước tây, ngang độ hai phân rưỡi, nắm chặt chân tôi bẻ quặt bốn ngón chân nhỏ xuống phía gan bàn chân, cột lại với nhau rồi quấn từ gót chân lên mu bàn chân, đi trở xuống. Quấn như thế năm vòng rồi bà lấy chỉ khâu lại. Để cho khỏi lỏng, bà nhồi bông vào dưới bàn chân bên đầu ngón chân. Chân trái cũng được làm y như thế rồi bà ấn chân tôi vào đôi hài hoa, vốn dĩ đã hơi nhỏ hơn chân tôi. Đầu mũi hài được thêu như hình hạt lúa. Một giây vải đính vào đôi hài buộc xuống gót chân tôi cho khỏi tuột. Mẹ tôi bảo tôi xuống giường bước đi bảo là nếu không đi thì chân sau này sẽ thành tật. Chân tôi vừa chạm đất, tôi hầu như tê bại, phải thử mấy lần mới đi được nhưng những đầu ngón chân đau thật là đau. Đêm đó hai chân tôi sưng vù và nóng hừng hực. Ngoài việc tập đi, tôi chỉ ngồi trên giường. Mỗi tuần mẹ tôi lại bó lại cho tôi một lần, mỗi ngày chặt thêm một chút khiến tôi càng lúc càng hãi hùng. Tôi lắm khi phải trốn sang hàng xóm để tránh việc bó chân. Nếu tôi nới lỏng ra, mẹ tôi mắng tôi là không muốn làm đẹp. Sau khoảng nửa năm, những ngón chân tôi đã quặp vào gan bàn chân và đầu mũi thêm nhọn dần. Một năm sau ngón chân tôi đã chết hẳn và bắt đầu thối. Những cục chai cũng đóng và một thời gian lâu chân tôi không thấy khá hơn. Mẹ tôi tháo băng chân và dùng dao lạng bớt những cục chai và lấy kim khều những nhân trong đó. Tôi sợ lắm nhưng không dãy được vì mẹ tôi nắm rất chặt. Năm tôi chín tuổi, cha tôi hứa gả tôi cho một nhà hàng xóm họ Triệu và tôi phải sang đó hầu hạ việc nhà, tập làm dâu. Mẹ chồng tôi bó chân còn chặt hơn mẹ tôi, nói là chân tôi chưa đủ tiêu chuẩn. Nếu tôi khóc thì bà ta đánh đập rất tàn nhẫn và nếu nới ra, thì đánh cho thâm tím khắp người mới thôi. Chân tôi tương đối có da thịt nên mẹ chồng tôi nói là phải làm cho sưng tấy lên mới có kết quả. Tôi phải ngâm chân vào một loại thuốc và mỗi lần ngâm xong chân rất đau. Nhìn xuống tôi thấy các ngón chân, trừ ngón cái, đều sưng húp và bắt đầu rữa. Mỗi khi tháo băng tôi phải lấy tay dần cho lỏng ra vì băng dính đầy máu mủ. Mỗi lần lột băng ra, máu lại chảy ròng ròng. Tôi đau thấu tâm can, người run bần bật vì xúc động. Mẹ chồng tôi đã không thương lại còn nhét gạch vào để cho chân mau thối. Tôi khóc lóc bà cũng mặc kệ. Cứ cách một ngày, bà lại quấn lại cho chặt thêm và giày cũng chật thêm. Cạnh giày cứng và tôi phải ấn mạnh mới cho chân vào được. Tôi phải đi quanh sân, và ráng sống tuy đau đớn không sao tả xiết. Gia đình tôi chỉ trung lưu nên tôi vẫn phải kéo nước, giã gạo. Đến mùa đông, chân tôi càng đau đớn nhiều. Đêm đêm tôi cố co chân lên cho ấm nhưng chỉ càng thêm đau. Khí hậu thay đổi làm một ngón chân tôi bị rụng và thịt thối đi khiến chân tôi thành nhọn như đọt măng, cong lên như củ ấu. Mu bàn chân gồ lên còn bốn ngón chân teo lại bằng hạt đậu quặp hẳn vào gan bàn chân, chỉ cách gót chân một quãng ngắn. Lòng bàn chân hũm vào khiến tôi có thể xếp vài đồng tiền vẫn còn lọt. Chân tôi chỉ có ba tấc, bà con, bạn bè ai cũng ngợi khen, không ai biết đến bao nhiêu máu và lệ đã đổ ra để được như thế. Chồng tôi vui lắm vì tôi có bàn chân nhỏ nhưng đã qua đời hai năm trước. Của cải phân tán hết nên ngày nay tôi phải lang thang đi kiếm việc. Tôi thèm muốn được như người ta không bị bó chân. Nếu tôi sinh muộn độ mươi năm, tôi đã không phải khổ sở như thế này. Giữa người bó chân với người không thật cách biệt một trời một vực. Tài liệu tham khảo Anh ngữ Lin Yutang, My country and my people, Halcyon House, New York 1938. R.H. Van Gulik, Sexual Life in Ancient China, Barnes & Nobles Books, New York, 1996. Huard Pierre, Wong Ming, Oriental Methods of Mental and Physical Fitness: The Complete Book of Meditation, Kinesitherapy, and Martial Arts in China, India, and Japan (translated by Donald N. Smith) Funk & Wagnalls, New York 1977. Chu, Valentin, The Yin-Yang Butterfly, Jeremy P. Tarcher/Putnam Book, New York, 1994. Tài liệu Internet Hoa ngữ Lại Kỳ, Trung Quốc Cổ Đại Tính Tàn Hại, Hạ Hỉ Văn Hóa Công Ty Đài Bắc, 1995. Từ Dịch Sơn, Tam Thốn Kim Liên Tung Hoành Đàm, Lịch Sử Nguyệt San, 2/1997. ĐÔNG Y Cho đến gần đây, ở các nước Âu Mỹ người ta vẫn nghĩ rằng chỉ có Tây y là có căn bản khoa học và có giá trị, những phương pháp chữa trị khác đều bị hạn chế, không đáng tin cậy. Thế nhưng những khủng hoảng về y tế mới đây, cả trên việc chữa chạy một số bệnh trầm kha lẫn phí tổn điều trị đã khiến cho người ta phải xét lại nhiều quan điểm, trong đó có cả việc chấp nhận một số phương pháp luân chuyển (alternative medicine) để phụ với y thuật qui ước (conventional medicine). Tuy nhiên, bên cạnh những phương pháp chữa bệnh tương đối thô sơ và một số hình thức ngoại khoa mà hiệu quả còn đang trong vòng nghiên cứu của nhiều bộ môn dân gian, những y gia Âu Mỹ đang tìm hiểu và đánh giá lại y học Trung Hoa, vì đây không phải chỉ giản dị là một ngành thảo dược y (herbal medicine), dùng một số cây cỏ trong thiên nhiên để chữa bệnh thuần túy do kinh nghiệm cổ truyền như người ta thường thấy trong một số bộ lạc thiểu số. Y học Trung Hoa có một quá trình lâu dài, có cơ sở lý luận và có cách thức điều trị, bao gồm cả phương (toa thuốc) lẫn pháp (cách lý luận). Nhiều đặc điểm và quan niệm y khoa của Trung Hoa được xem là rất tiến bộ, về cả phép chữa lẫn cách bào chế thuốc. Đông y cho rằng trị bệnh phải trị từ lúc bệnh chưa phát, mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ có những nét đặc thù và vì thế thuốc men liều lượng phải gia giảm tùy từng người, tùy từng lúc, và đối với mỗi con bệnh, người thầy thuốc phải đưa ra một chiến lược khác nhau, uyển chuyển linh động, lúc tiến lúc thoái, khi kinh khi quyền chẳng khác gì một viên tướng ngoài mặt trận. Người thầy thuốc lại không hành xử như một nghề chuyên môn, mà thường phải nắm vững tình trạng sinh hoạt và tâm tính bệnh nhân, nhiều khi phải ở chung với gia chủ một thời gian trước khi đưa ra một biện pháp chữa trị. Biện pháp đó có thể bao gồm nhiều cách thức, đổi cách ăn uống, tập luyện thân thể, quan niệm sống. Nhiều danh y vốn dĩ là đạo sĩ, tinh thông nhiều ngành bao gồm tam giáo cửu lưu. Hoa Đà, một danh y đời Tam quốc cũng là người sáng tạo ra Ngũ Cầm Hí, một phương pháp tập luyện dựa theo động tác của năm loài vật. Mỗi thang thuốc là một tổng hợp cân đối dùng để điều chỉnh lại những mất thăng bằng, giúp cho con bệnh có đủ sức để đối kháng lại ngoại tà chứ không thay thế con bệnh làm nhiệm vụ phòng chống bệnh. Những quan niệm âm dương, khí huyết, tạng phủ, kinh lạc… không phải chỉ là một mớ tín niệm mơ hồ mà nhiều phần đã được kiểm chứng một cách khoa học. Một trong những vấn nạn lớn khi người Âu Tây nghiên cứu về y thuật Trung Hoa là họ muốn coi y học như một ngành riêng mà quên rằng quan niệm chữa bệnh bắt nguồn và tồn tại theo đời sống. Đối với cổ nhân, chữa bệnh chỉ là một giai đoạn, giai đoạn bất đắc dĩ sau cùng phải thực hiện khi mọi phương thức khác đã thất bại. Để làm sao khỏe mạnh, người ta đã phải thông hiểu nhiều bộ môn khác, từ ẩm thực, đến dưỡng sinh, khí công, đạo dẫn, thổ nạp. Đó là chưa kể một số bàng môn khác, tuy không trực tiếp liên quan đến sức khỏe nhưng lại giúp cho con người sống đạt quan hơn như mệnh lý, phong thủy, thiên văn, lịch số. Tất cả các môn đó đều từ một nguồn, từ một quan điểm mà người ta cho là mọi thứ trong trời đất đều cùng một thể và nếu như nhất pháp thông, thì vạn pháp thông. Chính đó là tâm điểm nở ra thành nền văn minh Trung Hoa. Trong bài này, chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ biên khảo rất thô thiển, nhằm trình bày một số dữ kiện hơn là đi vào lý luận của Đông y. Lịch sử Y học Trung Hoa được hình thành do kinh nghiệm chữa bệnh trong nhiều ngàn năm, bao gồm cả các loại thuốc dân gian lẫn phương pháp lý luận. Sách vở về đông y tổng cộng từ trước đến nay có đến 6.000 quyển, chép đầy đủ cả phòng bệnh, chữa bệnh. Ngoài việc dùng thuốc, đông y còn bao gồm cả châm cứu, xoa bóp, đạo dẫn (hô hấp, thổ nạp, khí công) và những phương pháp ngoại khoa. Các loại dược vật cũng thật phong phú, trong các loại sách bản thảo chép có khoảng 2.500 loại khác nhau và cho tới nay nhiều học giả, y sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu để kết hợp cả đông y lẫn tây y hình thành một khoa học tân đông y, tân đông dược. Cứ theo các học giả về Trung Hoa, ngay từ thời thượng cổ, con người khi đấu tranh để sống còn đã phải đối phó với những thiên tai, rắn độc, thú dữ và phải quan tâm đến việc phòng và trị bệnh. Thời kỳ đồ đá, người ta dùng những dụng cụ nhọn để mổ những mụn nhọt, khởi đầu cho phương pháp châm thích. Đến khi tìm ra lửa, dùng hơi nóng, để sưởi ấm, xoa bóp và làm giảm đau khởi đầu cho phương pháp ngải cứu và thôi nã. Những hiện tượng đó phát triển tự nhiên không phải ở một nơi mà hầu như ở bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Chữa bệnh và dùng thuốc phát triển tự nhiên theo con người. Chính vì liên hệ trực tiếp đến đời sống, y dược có những điều kiện, ảnh hưởng và hạn chế, theo hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa của mỗi thời đại. Theo sử Tàu, thời viễn cổ, vì nhu cầu sinh tồn, con người phải làm “tổ” trên cây để tránh mưa nắng, gió bão và thú dữ. Sau đó, vì khí hậu và nóng lạnh, di chuyển xuống hang động thiên nhiên, và biết cách dùng da thú hay vỏ cây để che thân. Tới khi nhân loại biết tập hợp thành bầy, việc sinh sống có tổ chức hơn, nên tìm cách làm nhà để ở. Theo Họa Sách trong Thương Quân Thư thì “vào thời vua Thần Nông, đàn ông trồng tỉa để kiếm đồ ăn, đàn bà dệt vải để làm quần áo”. Thời kỳ đó, việc làm sao có thể sống còn là điều quan trọng hơn hết. Ở thời kỳ hái lượm, con người đi tìm thức ăn bằng cách thử các loại thảo mộc, thực và động vật. Từ những kinh nghiệm thực tế, họ biết được loại nào độc, loại nào không, loại nào ăn được, loại nào không ăn được. Cũng như những loài thú khác, con người còn có bản năng biết tìm đến những loại thực phẩm thiên nhiên để trị bệnh và từ đó tích lũy thành kiến thức về thuốc men. Trong Tu Vụ Huấn, sách Hoài Nam Tử có chép: Vua Thần Nông nếm trăm loại cây cỏ để xem tư vị ra sao, uống các loại nước suối xem ngọt đắng thế nào, để cho dân biết cái nào nên, cái nào tránh. Lẽ dĩ nhiên chuyện này không phải thực mà chỉ để giải thích về quá trình kinh nghiệm mà người ta nghĩ là thời thượng cổ, cách duy nhất để tìm hiểu dược tính là dùng thử xem hậu quả ra sao. Khi xã hội chuyển từ thời hái lượm sang thời kỳ bộ tộc, con người biết hợp quần thành nhóm, có tôn ti trên dưới, biết sản xuất vật chất một cách hệ thống hơn, của cải ngày một nhiều, sinh hoạt văn hóa cũng theo đó mà dồi dào. Y học vì thế cũng tiến bộ. Theo những tài liệu viết bằng lối chữ cổ viết trên mai rùa và xương thú (giáp cốt văn) đào được ở Hồ Nam vào năm 1899, đời Quang Tự nhà Thanh, thì ngay từ thời Ân Thương người ta đã biết nhiều loại bệnh chẳng hạn như đau đầu, đau tai, đau mắt, đau mũi, đau răng. Xem một số chữ tượng hình có thể hiểu được là thời đó người ta đã có một số ý niệm về bệnh chứng. Tuy nhiên, cũng như những xã hội thái sơ khác, người đời đó cho rằng bệnh tật là do ma quỉ làm nên việc chữa bệnh luôn luôn gắn liền với thần quyền, thể hiện bằng cầu cúng, trừ tà, bắt ma, y học với tôn giáo cũng khó phân biệt, và thời đó thầy thuốc với các pháp sư, đồng cốt là một. Người ta cho rằng chữ shaman ngày nay dùng để chỉ các thầy pháp trong những bộ lạc chính là từ chữ phạn sramana để chỉ giai cấp tăng lữ, sau chuyển sang Hán ngữ thành sa môn. Thời kỳ đó, những pháp sư cũng là những người đi tiên phong về khoa học và y thuật, sau này thành tầng lớp đạo sĩ. Tới thời Xuân Thu Chiến Quốc, xã hội Trung Hoa đã chuyển sang thời kỳ phong kiến. Vào thời kỳ này nhiều mặt sinh hoạt và tư tưởng đã tiến bộ rõ rệt. Chính trị, văn hóa, kinh tế biến đổi hẳn. Từ việc sử dụng mai rùa, phiến đá, da thú để ghi chép, người Trung Hoa đã biết dùng thanh tre, thanh gỗ và lụa để viết. Nhiều tài liệu có liên quan đến y thuật đã được các nhà khảo cổ tìm thấy trong thời gian gần đây. Trong những khai quật năm 1972, 73, 74 ở Cam Túc và nhất là tại đồi Mã Vương, Trường Sa, tỉnh Hồ Nam người ta đào được hơn 600 thanh tre và gỗ, trên đó không những ghi chép một số bệnh tật mà còn khoảng một trăm vị thuốc, cùng nhiều phương pháp chữa bệnh bao gồm cả châm (accupunture) và cứu (moxibustion). Đặc biệt nhất, trong hai trăm thanh có ghi một số lý luận của Đông Y, viết theo cùng một phong cách như Hoàng Đế Nội Kinh và Ngoại Kinh. Ngoài ra, y thuật cũng có những bước ngoặt mới. Theo lịch sử, thời đó những thầy thuốc đã thành một nghề chuyên môn, chia ra nhiều ngành như nội khoa, phụ khoa, trẻ con, ngũ quan và cả thú y nữa. Y thuật lại cũng có nhiều phương pháp gồm cả châm cứu, thảo mộc, và mạch lý. Thời Chiến Quốc, Biển Thước nước Tề đã nghiên cứu và lý luận về kinh mạch. Cũng thời đó, thầy thuốc tách ra thành một tầng lớp riêng, và đã phản đối phương thức trị bệnh của bọn vu thuật (đồng cốt, pháp sư) coi đó là tà môn không đúng đắn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, Biển Thước Thương Công Liệt Truyện thì có sáu chứng, nếu phạm vào thì lương y cũng không thể trị được, trong đó “tin đồng cốt không tin thầy thuốc” là một loại, tỏ ra rằng ngay từ thời bấy giờ người ta đã muốn tách rời y thuật và phương thuật. (Theo nhiều tài liệu khác nhau ghi chép về Biển Thước, nhân vật này xuất hiện tại nhiều nơi. Cái tên sau cùng Tần Việt Nhân là tác giả Nạn Kinh. Vì thế người ta cho rằng Biển Thước không phải là một người mà là nhiều nhân vật khác nhau trong một thời gian dài khoảng 400 năm.) Vì chưng kinh nghiệm ngày một thêm nhiều, nên thời Chiến Quốc, các y gia đã tổng kết lại, mượn danh Hoàng Đế, soạn thành sách “Nội Kinh” bao gồm mười tám quyển, gồm phần “Tố Vấn” chín quyển, và “Linh Khu” chín quyển. Đây là bộ sách thuốc đầu tiên của Trung Hoa, trong đó có đủ cả giải phẫu, sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, và trị liệu. Những nguyên tắc được xiển thuật trong sách này đến nay vẫn còn là căn bản cho những ai muốn nghiên cứu về Đông y. Bộ sách cũng đưa ra nhiều quan điểm rất hợp lý và khoa học, chẳng hạn tương quan giữa con người và thiên nhiên, sự biến chuyển của môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe như thế nào. Vì bệnh tật với thời tiết, khí hậu có liên hệ chặt chẽ, nên mỗi địa phương, mỗi hoàn cảnh cần những phương pháp trị liệu khác nhau. Sách cũng nhấn mạnh vào việc trị bệnh từ khi chưa phát (trị vị bệnh, trị bệnh tất cầu ư bản) và khẳng định một nguyên tắc độc đáo là bệnh bị coi là bất khả trị là do chưa biết rõ căn bệnh như thế nào, hoặc người thầy thuốc chưa có đầy đủ kinh nghiệm, hiểu biết đồng thời cũng phản đối trị bệnh bằng hình thức mê tín, thiếu cơ sở. “Nội Kinh” có từ bao giờ cho đến nay vẫn còn là điều tranh cãi. Một thuyết cho là một sản phẩm tổng kết kinh nghiệm của y gia kéo dài nhiều thế kỷ bắt đầu từ thời Chiến Quốc tới thời Tây Hán thì hoàn thành. Tuy nhiên, cũng như nhiều sách vở các ngành khác, y thư đều không còn nguyên bản mà đời nào cũng có người thêm thắt, san nhuận. Để cho thêm mức khả tín, nhiều phương sĩ không tự mình viết một quyển sách riêng mà sửa đổi và thêm vào sách cũ những quan điểm của mình, thác danh là của tiền nhân. Vì chưng không phải do một người làm nên lý thuyết trong cũng có chỗ mâu thuẫn, nhưng đại để đều là những diễn dịch từ triết học âm dương, ngũ hành mà ra. Âm dương, ngũ hành là một học thuyết giải thích tự nhiên, nhằm phi bác quan điểm quỉ thần, làm cơ sở cho việc phát triển của y học trong một mức độ nào đó. Thế nhưng phương pháp lý luận đó chưa hoàn toàn giải thích được mọi vấn đề nên vì thế y học cũng bị giới hạn theo. Học thuyết này xuất phát từ quan niệm Thiên Nhân Hợp Nhất, coi con người là một vũ trụ thu nhỏ, cái gì trời có thì người cũng có, áp dụng và suy diễn trong nhiều ngành mà chúng ta thấy nhan nhản trong thiên văn, phong thủy, tướng thuật, tử vi, tử bình… Người ta lý luận “đầu tượng trời nên tròn, chân tượng đất nên vuông, trời có nhật nguyệt, người có hai mắt, trời có bốn mùa, người có tứ chi. Trời có mùa đông, mùa hạ, người có hàn nhiệt, trời có tinh tú, người có răng xương …” Ngoài ra, Nội Kinh cũng đem cả những hiện tượng xã hội để giải thích y học, chẳng hạn như phân nội tạng ra quí tiện, dùng quân, thần, tương, tướng để mô tả các cơ năng, tạng tâm là quân (vua), đản trung là thần (bầy tôi), can là tướng (quan võ), phế là tương (quan văn). Nếu trên có minh chúa thì bên dưới yên ổn, thiên hạ xương thịnh. Việc chữa bệnh chủ yếu là tái tạo quân bình, bổ chỗ bất túc, tả chỗ hữu dư v.v… đều rút ra từ quan điểm hình nhi thượng học và xã hội học của Nho gia. Sau Nội Kinh, nhiều tác phẩm khác cũng do tập hợp những kinh nghiệm cũ và bổ túc bằng những đóng góp mới mà thành. Đó là Bản Thảo Kinh, Thương Hàn Luận, và Kim Quĩ Yếu Lược, cộng với Nội Kinh được coi là bốn bộ kinh điển của y gia. Bản Thảo Kinh tên nguyên thủy là Thần Nông Bản Thảo Kinh, được hình thành vào khoảng cuối đời Đông Hán, là của người sau thác danh họ Thần Nông sáng tác. Tác phẩm này tập hợp những kinh nghiệm về dược vật từ đời Hán trở về trước, tất cả 365 loại, trong đó thực vật chiếm đa số (252 vị), kế là động vật (67 vị) và sau cùng là khoáng thạch (46 vị) và có thể coi là cuốn sách về dược học đầu tiên của Trung Hoa. Dược thảo được chia làm ba loại, thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng. Thượng đẳng là những loại thuốc ích khí, dùng lâu không có hại gồm 120 vị. Trung đẳng là những vị thuốc bổ gồm 120 vị. Hạ đẳng là thuốc chữa bệnh gồm 125 vị. Những món thuốc bắc thông thường đến nay vẫn còn dùng chẳng hạn như đại hoàng để thông tiện, lôi hoàn để sát trùng, hoàng liên dùng trị bệnh kiết lỵ, đương qui để điều kinh, thường sơn để trị sốt rét … đều có chép trong bộ sách này. Người ta thấy rằng ngay từ đời Hán người Tàu đã có những nhận định chính xác về nhiều loại dược vật, và cũng có những kinh nghiệm phong phú về việc sử dụng những loại thuốc đó. Hoa Đà đời Hán đã biết dùng những loại ma túy trong mổ xẻ, châm chích mụn nhọt trong những môn ngoại khoa. Trong một ngôi mộ đời Hán tại gò Mã Vương, Trường Sa (Hồ Nam) người ta đã đào được những loại dược vật đã bào chế tinh vi chứng tỏ ngay từ hơn hai nghìn năm trước người Tàu đã biết dùng thuốc để giữ cho thực phẩm khỏi hủ nát. Tuy nhiên, trong Bản Thảo Kinh, cũng như bất cứ sách vở nào của Trung Hoa còn truyền lại đều không thiếu những thêm thắt của bọn phương, thuật sĩ cho ly kỳ, dùng vào những mục tiêu không thiết thực, chẳng hạn thuốc chống thối thì dùng để ướp xác, thuốc bổ dùng vào việc phục vụ khoái lạc hay trường sinh. Thương Hàn Luận và Kim Quĩ Yếu Lược, trước đây là cùng chung một bộ sách có tên là Thương Hàn Tạp Bệnh Luận do Trương Cơ (Trọng Cảnh) hồi cuối đời Đông Hán sáng tác. Cuốn sách tổng kết kinh nghiệm trị bệnh, phòng bệnh, các lý luận y khoa thêm kinh nghiệm định bệnh (lâm sàng) về thương hàn và tạp bệnh. Sách này đưa ra biện chứng định và chữa bệnh là một tác phẩm quan trọng trong tiến trình phát triển của Trung y, chuyển từ một bộ môn chỉ dùng kinh nghiệm sang một khoa học lý luận có phương pháp. Người ta thấy rằng tương quan giữa văn hóa và y khoa rất mật thiết. Rất nhiều hệ luận và kết quả của tư tưởng được đem vào y học. Ngoài bốn bộ sách cổ nêu trên, trên phương diện thảo dược học, đời nhà Lương có Đào Hoằng Cảnh chỉnh đốn lại Thần Nông Bản Thảo Kinh, tu đính thành bộ Danh Y Biệt Lục. Bộ sách này tăng số lượng dược thảo lên tới 730 vị nghĩa là gần gấp đôi bộ Bản Thảo Kinh. Cả hai được gộp lại thành bộ Bản Thảo Kinh Tập Chú là bộ sách Trung dược đầu tiên có thêm lời bình của y gia. Từ đó trở đi, bản thảo ngày càng thêm nhiều, đời Đường có Tân Tu Bản Thảo do triều đình tập trung các danh y lại soạn thành năm 659 và sau được in ra để sử dụng trên toàn quốc. Đó là bộ sách thuốc đầu tiên do chính quyền ban hành, cũng là bộ dược khoa từ điển đầu tiên của thế giới. Từ đời Đường tới đời Minh, về dược học, tại Trung Hoa có bốn lần tu bổ và thêm thắt do nhiều người thực hiện và bốn lần tu đính do công sức cá nhân. Tập thể thì có Tân Tu Bản Thảo (Đường), Thục Bản Thảo (Ngũ Đại), Khai Bảo Tân Bình Định Bản Thảo, Khai Bảo Trùng Định Bản Thảo (Tống) Gia Hữu Bổ Chú Bản Thảo (Tống). Về phần cá nhân có Bản Thảo Thập Di do Trần Tàng Khí đời Đường soạn, Nhật Hoa Tử Chư Gia Bản Thảo do một người không rõ tính danh đời Tống soạn, Kinh Sử Chứng Loại Bị Cấp Bản Thảo do Đường Thận Huy đời Tống soạn, và Bản Thảo Diễn Nghĩa do Khấu Tông Thích đời Tống soạn. Ngoài việc càng ngày càng thêm những dược vật mới, cách dùng cũng mỗi lúc một phong phú hơn, việc bào chế cũng thêm đa dạng. Đến đời Minh, một nhà dược thảo học vĩ đại của Trung Hoa là Lý Thời Trân hoàn thành một công trình to lớn chưa từng có. Ông đã tổng kết tất cả những sách vở cũ, đem tất cả những điều thực dụng, đích thân lên núi tìm kiếm những dược thảo mới, hỏi nông dân, ngư dân, tiều phu, những nhà trồng thuốc, và các thầy lang dân dã để thu thập kinh nghiệm, tìm hiểu sự sinh trưởng, cách sao tẩm, cách dùng tất cả các loại từ thân, rễ, củ, lá, hoa, các loại động vật đem về giải phẫu quan sát, so sánh các loại khoáng vật và cách bào chế. Ông cũng tìm hiểu cách trồng tỉa, chế luyện, đọc hơn 800 cuốn sách thuốc, miệt mài trong hai mươi bảy năm viết thành bộ Bản Thảo Cương Mục, bao gồm 1892 dược phẩm đồng thời đưa ra những cơ sở cho phân loại thực vật. Có thể nói ông là một trong những thực vật gia đầu tiên làm việc có phương pháp khoa học. Sau khi Bản Thảo Cương Mục ra đời, những dược thảo và y gia Trung Hoa tiếp tục nghiên cứu và tăng bổ thêm nhiều vị thuốc mới. Đời Thanh, Triệu Học Mẫn sáng tác Bản Thảo Cương Mục Thập Di, thu tàng 716 loại dược vật, phần lớn là những vị mà Bản Thảo Cương Mục chưa hề đề cập đến. Đây là những loại thuốc dân gian thường dùng như vạn niên thanh, nha đản tử, thái tử sâm, đông trùng hạ thảo… là bộ sách rất thực dụng trong quần chúng. Về sách vở viết về các phương thuốc (formulas) Thương Hàn Tạp Bệnh Luận gom góp nhiều thang thuốc được coi như “phương thư chi tổ”. Đời Đường có Thiên Kim Yếu Phương, Thiên Kim Dực Phương và Ngoại Đài Bí Yếu, đời Tống có Thái Bình Thánh Huệ Phương, đời Minh có Phổ Huệ Phương đều là những sách viết về những thang thuốc tương đối phức tạp. Giản dị thì có Thái Bình Huệ Dân và Tễ Cục Phương, Tễ Sinh Phương đời Tống, tuy không có nhiều thang thuốc nhưng dùng vào việc trực tiếp quan sát để chẩn bệnh (lâm sàng) rất tiện lợi. Đời Thanh có Xuyên Nhã Nội Ngoại Biên của Triệu Học Mẫn sưu tập rất nhiều những phương thuốc dân gian của các thầy lang vườn (linh y) rất đáng quí. Sách vở về Đông y hiện nay đa số là sách chép các thang thuốc, và qua mỗi đời lại thêm nhiều phương thuốc mới, do những thầy lang thu thập mà thành là một kho tàng kinh nghiệm rất quan trọng. Về nguyên do bệnh, triệu chứng và chẩn đoán, người xưa cũng gom góp được nhiều cả kinh nghiệm lẫn suy luận. Đời Tấn có Vương Thúc Hòa viết Mạch Kinh, kế thừa cơ sở Nạn Kinh (tương truyền do Tần Việt Nhân tức Biển Thước soạn ra), chia mạch ra làm 24 loại, lại tổng kết toàn bộ ý nghĩa của các loại chẩn. Các danh y đời sau như Cao Dương Sinh, Thôi Tử Hư, Lý Thời Trân, Lý Sĩ Tài… cũng bổ túc và đóng góp thêm về mạch học. Đời Tùy có Sào Nguyên Phương soạn bộ Chư Bệnh Nguyên Hầu Luận, chép hơn 1700 loại bệnh tật, kỹ lưỡng chi li các triệu chứng đủ cả về bệnh truyền nhiễm, bệnh ký sinh, mẫn tính phản ứng… có so sánh và phê bình từng loại một. Đời Tống có Trần Vô Trạch viết Tam Nhân Cực Nhất Bệnh Chứng Phương Luận, đưa ra ba loại nguyên nhân sinh bệnh tật là nguyên nhân từ bên ngoài (ngoại nhân), nguyên nhân từ bên trong (nội nhân) và không do bên ngoài hay bên trong. Tuy họ Trần chia ra làm ba loại nguyên nhân nhưng thực ra cũng đều là nguyên nhân từ bên ngoài cả. Về phương pháp xem lưỡi để coi bệnh (thiệt chẩn) phát triển tương đối trễ, chỉ mới bắt đầu từ đời Nguyên. Thời đó tuy đã có sách bàn về chẩn đoán lưỡi nhưng chưa thành thục. Cho đến khi các thuyết về ôn bệnh học phát triển, việc xem lưỡi mới trở thành quan trọng và ngày càng thêm kinh nghiệm góp vào. Sang đời Thanh, Diệp Thiên Sĩ viết Ôn Nhiệt Luận, trong đó tổng kết các phương pháp xem lưỡi, đã được Vương Mạnh Anh nhận định là “phương pháp vừa tinh (kỹ lưỡng) vừa tường (rõ ràng)”. Về châm cứu học thì ngày nay còn bộ Châm Cứu Giáp Ất Kinh là kỳ cựu nhất, do Hoàng Phủ Mật đời Tấn theo những luận thuật về kinh lạc, huyệt vị, và phương pháp châm trong Nội Kinh, sửa đổi lại và thêm thắt những kiến thức của đời đó mà soạn thành. Đời Tống, Vương Duy Nhất tổng hợp lại tất cả những học thuật trong sách vở của người đi trước về châm cứu, thêm kinh nghiệm của chính mình, soạn thành cuốn Đồng Nhân Thự Huyệt Châm Cứu Đồ Kinh. Cuốn này thống nhất tất cả những khác biệt của mọi phái, kế thừa công trình của Hoàng Phủ Mật, là một công trình đáng kể trong ngành châm cứu học. Họ Vương cũng đúc hai người bằng đồng (đồng nhân), trên có ghi những huyệt đạo và khởi thủy phương pháp huấn luyện cho ngành này một cách có qui tắc. Đời nhà Nguyên, Hoạt Bá Nhân theo thực tế mà nhận ra rằng hai mạch nhâm đốc trong kỳ kinh bát mạch có những huyệt riêng, nên xếp đồng đẳng với 12 kinh kia, viết thành cuốn Thập Tứ Kinh Phát Huy. Ngày nay người ta vẫn gọi Thập Tứ Kinh chính là khởi đầu từ lúc này. Thời Minh, Dương Kế Châu, tập hợp tất cả những công trình từ trước, thêm kinh nghiệm trị liệu của chính mình viết thành bộ Châm Cứu Đại Thành. Bộ này nội dung hết sức phong phú, quả thực đáng gọi là đại thành và là một bộ sách tham khảo quí giá cho đời sau. Về phương diện ngoại khoa, cứ như sử sách, cuối đời Đông Hán, Hoa Đà đã sử dụng thuốc gây mê toàn thân để khoét mụn nhọt, mổ bụng, là tài liệu về phẫu thuật sớm nhất của nhân loại. Hoa Đà là một y gia lỗi lạc, ông có sự hiểu biết toàn diện, bao gồm cả châm cứu, dược vật, chẩn đoán lâm sàng lẫn phương pháp tập luyện cơ thể. Thành tựu lớn nhất của ông thuộc phạm vi ngoại khoa, nhưng sách vở ông soạn bị hủy hết nên không còn lưu truyền. Bộ Trung Tàng Kinh của Hoa Đà hiện lưu truyền là tài liệu người đời sau thác danh ông chứ không phải thật. Về phương diện ngoại thương, các phương thuốc cổ nhất còn có được là những toa thuốc của Lưu Quyên Tử do Cung Khánh Tuyên thu thập được. Sưu tập này bao gồm nhiều loại thuốc rịt vết thương (kim sang), mụn nhọt, ngứa ngáy và các loại thuốc trị bệnh ngoài da, cầm máu, giảm đau, giải độc… dùng hoàng liên, hùng hoàng, thủy ngân là những vị dùng để tiêu độc, giảm sưng được chế thành cao dán chỗ đau. Đời nhà Đường, Lận đạo nhân soạn quyển Lý Thương Tục Đoạn Bí Phương là cuốn sách chuyên khoa trị gãy xương cổ nhất của Trung Quốc. Trong sách chỉ phương pháp để làm liền xương bị gãy, có ghi cả các hoạt động của từng loại khớp xương. Đời Nguyên, Nguy Diệc Lâm soạn cuốn Thế Y Đắc Hiệu Phương, tổng kết tất cả các kinh nghiệm chữa ngoại thương, có cả phép trị gãy xương sống, so với những quốc gia khác đi trước cả năm sáu trăm năm. Đời Minh có Trần Thực Công viết Ngoại Khoa Chính Tông, đời Thanh có Vương Hồng Tự viết Ngoại Khoa Toàn Sinh Tập, một bên chủ trương ngoại trị, một bên chủ trương nội trị là hai phái chính yếu của Trung y trong ngoại khoa, đều có ảnh hưởng sâu rộng trong giới làm thuốc. Về sản phụ khoa, Kim Quĩ Yếu Lược đã có ba thiên đề cập đến chửa đẻ, sản hậu và các chứng tạp bệnh của phụ nữ. Đến đời Đường, Tôn Tư Mạc lại càng đặt nặng phụ khoa, trong Thiên Kim Yếu Phương, phụ nhân phương đứng vào hàng đầu mặc dù không phải là sách chuyên về đàn bà. Cho đến nay sách chuyên môn về phụ khoa còn tồn tại có Cao Ân soạn quyển Kinh Hiệu Sản Bảo là xưa nhất, nhưng ảnh hưởng sâu rộng hơn cả lại là bộ Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương của Trần Tự Minh đời Tống. Bộ này tổng hợp tất cả sách vở viết về phụ khoa từ trước, là một bộ sách chuyên môn có phương pháp và đầy đủ. Đời Minh có Vương Khải Đường viết Nữ Khoa Chứng Trị Chuẩn Thằng và Thông Hành viết Tế Âm Cương Mục, Vạn Mật Trai viết Vạn Thị Nữ Khoa, rồi đời Thanh lại có Phó Sơn soạn Phó Thanh Chủ Nữ Khoa đóng góp rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm cho cả bốn phương diện kinh (lý luận), đới (bệnh đàn bà), thai (mang bầu), sản (sinh nở). Về bệnh trẻ con (nhi khoa), thời Đường Tống còn lưu truyền đến nay là bộ Lô Tín Kinh, nhưng ảnh hưởng quan trọng lại là Tiểu Nhi Dược Chứng Chân Quyết của Tiền Ất và Tiểu Nhi Đậu Chẩn Phương Luận của Trần Văn Trung (Tống). Về thuốc men thì trước kia người ta chủ trương dùng những liều nhẹ (nhu nhuận) để chữa trẻ con nhưng về sau thì nhiều y gia lại chủ trương dùng thuốc ấm và bổ (ôn bổ) để trợ lực cho bệnh nhân đối kháng với bệnh tật. Về các loại thang thuốc (phương trị) thì thế kỷ thứ 16 về trước đã biết phương pháp tiếp chủng ngừa bệnh đậu mùa (tương tự việc chủng đậu của Tây y). Đối với bốn chứng chẩn, đậu, kinh, cam là bốn loại bệnh thông thường của trẻ con, việc chẩn đoán và trị liệu đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua nhiều triều đại. Đời Minh có Vạn Mật Trai, đời Thanh có Hạ Vũ Chú, Trần Phục Chính, Trang Tại Điền tất cả đều dày công nghiên cứu và phát huy những chứng bệnh của trẻ em. Lược qua như thế chúng ta thấy y học của Trung Hoa tích lũy do kinh nghiệm, dần dần thoát ra được những phương pháp mê tín, thần quyền. Càng về sau, y gia càng có thêm những phát huy mới, đời nào cũng có những nhân tài nên Đông y mỗi lúc một thêm phong phú. Thời cổ, do nhu cầu sinh hoạt và hoàn cảnh thiên nhiên, người ta đặt nặng trị liệu và phương dược ngoại thương nên những thành tựu ban đầu chú trọng về chữa trị bên ngoài. Ta thấy có Hoa Đà và Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh đời Hán, đời Nguyên thì có Thế Y Đắc Hiệu Phương của Nguy Diệc Lâm, đời Minh có Ôn Dịch Luận của Ngô Hựu Khả đều là y học chữa trị những chứng bệnh thông thường mà quần chúng mắc phải. Về phương diện phát triển, thoạt đầu y học và vu thuật (chữa bệnh theo lối trừ tà) chen lẫn với nhau. Thời đó, giới vu hích (tức pháp sư, đồng cốt) dùng bùa chú, cúng tế và tà thuật, là giai cấp được coi trọng nên thường xen lẫn pháp thuật với một số thuốc men, trị bệnh cho người. Chính y gia cũng bị ảnh hưởng của bọn thầy pháp nên y thuật thời đó cũng mang một số dấu vết của đồng cốt. Tuy nhiên càng ngày hai bên càng tách rời và những thầy thuốc chân chính như Biển Thước, Trương Trọng Cảnh đều chống lại bọn vu hích, không chấp nhận chữa bệnh bằng thần quyền. Xã hội càng phát triển, vị thế của y thuật càng lên cao. Trong Hán Thư, Nghệ Văn Chí, y học được gọi là phương kỹ (một kỹ thuật), chia làm bốn loại gồm y kinh loại (phép lý giải và cơ sở luận đoán), kinh phương loại (các thang thuốc, dược thảo), phòng trung loại (phép giao tiếp nam nữ, thuật phòng the), và thần tiên loại (phương pháp luyện đan, tu tiên, thuốc trường sinh). Hai loại đầu là y học nhưng hai loại sau mang tính chất huyền môn, phần lớn do bọn phương sĩ bịa đặt và phóng đại, nhiều khi tưởng tượng ra mà chưa được chứng nghiệm. Kiến thức và kinh nghiệm y dược được dùng vào việc tìm thuốc trường sinh, nên bên cạnh y dược học, lại thêm những phái luyện đan tu tiên, bào chế các loại dược vật và sinh ra nhiều môn ra khỏi hẳn ý nghĩa của y khoa. Trong lịch sử y học, các y gia chân chính luôn luôn phải đối phó với giới thuật sĩ, và chính vì sự cạnh tranh này mà hai bên đều cố gắng tìm tòi và sách vở về y thuật, phương thuật càng ngày càng nhiều. Chẳng hạn như trong dược vật học, Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân cũng đã phê phán các loại thảo mộc do giới luyện đan tu tiên như Cát Hồng, Đào Hoằng Cảnh đưa vào, đem khoa học phân tích và loại trừ những loại thuốc men tà môn khiến cho ngành dược thảo của Trung Hoa có màu sắc khoa học hơn. Về phương diện lý luận, khi văn hóa Trung Hoa xoay quanh thuyết thiên nhân tương dữ, một số nho gia, đạo gia và phương sĩ đem luật âm dương ngũ hành vào dùng giải thích cơ thể con người khiến cho y học mất tính chất thực nghiệm mà trở thành thuần lý, lại mang tính chất thần bí, huyền hoặc. Nội Kinh đem trộn lẫn với hình nhi thượng học của Đổng Trọng Thư khiến cho y học bị trói buộc trong mớ lý luận tối mù không tìm ra lối thoát. Phải đến đời Đông Hán, nhà y học trứ danh Trương Trọng Cảnh trong tác phẩm Thương Hàn Tạp Bệnh Luận mới căn cứ trên kinh lạc, tạng phủ và kinh nghiệm chữa trị, chẩn đoán của ông phá vỡ được những lý giải huyền học vốn dĩ làm bế tắc y khoa Trung Hoa. Có thể nói, đây là một cuộc cách mạng lớn vì cho đến thời kỳ này, người ta vẫn tin rằng thuyết âm dương ngũ hành là một loại thánh thư mặc khải từ trời cao, một chìa khóa có thể mở được mọi loại cánh cửa nếu chịu suy ngẫm cho đến nơi đến chốn. Một điều đáng nói là không phải riêng y khoa, nhiều ngành học khác cũng không ra ngoài thông lệ là trừu tượng hóa mà quên đi phần thực nghiệm nên đi quá trớn. Cụ thể nhất, học thuyết ngũ vận lục khí (gọi tắt là vận khí học thuyết), tin tưởng rằng có thể tính toán, ngày giờ, can chi để suy diễn ra nguyên nhân và phương pháp trị liệu bệnh tật, đến nay vẫn còn được nhiều người tin theo, coi như một trình độ cao của y học, dùng hình nhi thượng học để tìm đáp số cho hình nhi hạ. Những y gia có quan điểm khoa học hơn đều chống lại phương pháp này. Đời Minh ta thấy có Mục Trọng Thuần coi thuyết ngũ vận lục khí là hoang đường, không phải con đường chính đáng của y gia, những người nổi tiếng như Tần Việt Nhân (Biển Thước), Trương Trọng Cảnh, Hoa Đà đều không nói gì đến số học. Về dược học, từ đời Tống trở về sau, có nhiều học phái, học thuật chẳng hạn như Lưu Hà Gian (Hoàn Tố) chủ trương “Lục Khí đều do Hỏa hóa thành”, “Ngũ Chí đi đến cực độ đều sinh Hỏa” nên khi dùng thuốc lấy các vị có tính mát, tính hàn làm chủ, là đại biểu cho hàn lương phái, Trương Tử Hòa thì đề xướng “Đuổi được tà thì an được chính”, trị bệnh chủ trương làm sao ra mồ hôi, nôn, hay đại tiểu tiện là chủ yếu là đại biểu của công hạ phái, Lý Đông Viên thì đề xuất “Thổ là mẹ của muôn loài”, trị bệnh lấy bổ tì vị là căn bản, là đại biểu cho bổ tì phái, Chu Đan Khê (Chấn Hanh) cho là “con người thường thừa dương mà thiếu âm” nên trị bệnh lấy tư âm làm chính, đại biểu cho tư âm phái. Đó là bốn phái chính trong việc chữa trị, người ta gọi là Tứ đại gia. Nói chung thì cả bốn phái đều có chỗ đặc sắc riêng, cho rằng “toa thuốc cũ không chữa được bệnh mới (cổ phương bất năng trị kim bệnh)”, nên đưa ra được nhiều cách giải thích khác nhau khiến cho y học thêm phong phú. Chẳng hạn như hàn lương phái đã thay thế phương pháp trước đây trị cảm mạo từ tân ôn chuyển sang các vị tân lương là một chuyển biến quan trọng và thay đổi quan niệm về các chứng ôn bệnh, và phương pháp nhận bệnh cũng thêm độc đáo. Bổ tì về sau biến thành ôn bổ phái, những danh y như Triệu Dưỡng Quỳ, Trương Cảnh Nhạc đã đưa mệnh môn học thuyết, là cơ sở chính yếu về lý luận tạng phủ của y học Trung Hoa. Phong khí học thuật đó ngày thêm phát triển, thêm tiến bộ. Đời Minh, Ngô Hựu Khả đưa ra lý thuyết là nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm là do một loại khí có tên là “lệ khí”, không thuộc vào những loại cũ như phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa mà người xưa đã phân loại. Bệnh thuộc về loại này xâm nhập do miệng và mũi, không do bì phu (da dẻ) mà vào. Đó cũng là một nhận thức mới mẻ so với thời trước, gần với Tây y hơn. Đời Thanh, Vương Thanh Nhiệm lại coi trọng việc giải phẫu, viết bộ Y Lâm Cải Thác, đính chính lại những sai lầm của sách cũ về mặt mổ xẻ, đưa ra lý luận mới về các chứng ung sang, ứ huyết. Hai quan điểm đó tuy chỉ mới khái quát nhưng quả là một đóng góp có giá trị về phương diện thực tiễn cho khoa Đông y. Tuy nhiên, vì khoa học tự nhiên chưa phát triển, chưa có những phương tiện để nghiên cứu sâu xa hơn nên đông y bị ngừng lại tại đây mà không tiến vào khoa vi trùng học hay cơ thể học như Tây y được. Ngoài ra, chưa ai nghĩ đến y tế đại chúng và những vấn đề mang tính chất xã hội cũng không được nghiên cứu đến nơi đến chốn, khoa dinh dưỡng cũng chỉ hoàn toàn khái niệm chứ không cụ thể. Tuy Lý Đông Viên có nhận định là việc ăn uống đói no thất thường có ảnh hưởng đến tì vị, nhất là làm việc quá độ sẽ gây ra nội thương, nhưng cũng chỉ đi đến kết luận “thổ là mẹ của vạn vật” (tì thuộc thổ), nên chữa các bệnh lao dịch phải dùng thuốc bổ tì, chứ không đưa ra những phương pháp ăn uống hay sinh hoạt nào sâu xa hơn, vẫn chỉ nằm trong một mớ lý luận trừu tượng, không thiết thực. Còn “tư âm học thuyết” của Chu Đan Khê tuy trên phương diện y học là tập hợp các sở trường của cả Lưu Khả Gian, Lý Đông Viên nhưng lối lý luận “dương động âm tĩnh, con người dương thường có thừa mà âm không đủ” là mượn lối lý luận của Chu Hi trong hình nhi thượng học của Tống nho, nghĩa là cũng như nhiều ngành khác chỉ tưởng tượng mà không so sánh đối chiếu với thực tế, nhất là hoàn toàn không dựa trên phương pháp thống kê xã hội để hỗ trợ cho quan điểm của mình. Đó cũng là một khuyết điểm chung của nhiều ngành Đông phương học, thuần suy diễn mà thiếu hẳn phần thực nghiệm, thích đưa ra những khẳng định mà không đưa ra cơ sở nào để bảo chứng. Những ai nghiên cứu về phong thủy, tướng thuật, tử vi, tử bình đều thấy điểm này. Chu Hi cho rằng thái cực là lý, có trước khi khí sinh ra, nên thái cực sinh âm dương, một động một tĩnh, tuần hoàn không ngừng, rồi từ đó sinh sinh hóa hóa ra ngũ hành, vạn vật. Chu Đan Khê soạn bộ Cách Chí Dư Luận cũng do quan điểm này mà ra. Chu Đan Khê còn còn đem hiện tượng “âm hư dương kháng” trong y học để suy rộng ra xã hội, cho là lý luận “chủ hỏa” trong Nội Kinh cũng không khác gì quan điểm “ngũ tính cảm động” của phái lý học, “âm đạo hư” trong Nội Kinh cũng giống như “dưỡng âm” trong Lễ Ký. Nếu như con người phải hành động có chừng mực (động giai trúng tiết) thì cũng đó cũng là theo đạo “trung dung” của Khổng Tử. Ông chủ trương tu tâm dưỡng tính, không nên “tương hỏa” nghĩa là vọng động, lại phải đem quan điểm “an thiên mệnh” áp dụng vào y học. Quan điểm này cũng có điểm hay gần giống như quan điểm sống cho phù hợp với thiên nhiên ngày nay, nhưng cũng đôi khi đi vào chỗ hủ, câu nệ và cứng nhắc. Từ đó trở đi, một thành phần y gia mới xưng là Nho y, là những người học hành thất chí, không thành đạt chuyển sang làm nghề thuốc (bất vi lương tướng, tiện vi lương y), đem phương pháp lý luận và nguyên tắc của nhà nho vào y khoa. Chính vì thế mà một số nhà nghiên cứu đã lên tiếng chỉ trích, vì những thầy thuốc nửa mùa này hoàn toàn không có kinh nghiệm chữa bệnh mà chỉ hoàn toàn thuần túy lý luận mà thôi. Những người này lại đem quan điểm từ chương vào y học, nghĩa là tôn Nội Kinh và Thương Hàn Luận lên thành những “thánh kinh hiền truyền” coi đó là những chân lý tuyệt đối phải theo, không dám thay đổi một chữ một nét. Thành ra những gì gọi là thay đổi hay mới mẻ đều bị lên án là “ly kinh phản đạo” hay “dị đoan tà thuyết”, và chính từ đó làm cản trở bước tiến của y thuật Trung Hoa. Không cứ gì ngành thuốc, nhiều ngành khác cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự và một đám hủ nho luôn luôn chống đối những gì khác với lối suy nghĩ của họ. Cái tệ nạn “duy ngã độc tôn” ấy không phải chỉ có ở Trung Hoa mà cho đến nay ở đâu cũng có người vẫn không chấp nhận một lối suy nghĩ khác với suy nghĩ của mình. Cho nên mặc dầu Tống nho đóng góp nhiều công lao cho việc xiển dương tư tưởng Nho gia, hậu thế vẫn lên án họ và những người theo đường lối của họ vì thái độ câu nệ và bài xích đó. Chính vì sự phức tạp của nhiều môn phái và đường hướng trong y thuật Trung Hoa, hậu nhân cần phải phân biệt và tìm hiểu thêm, ấn chứng với tân học cũng như loại trừ những “cặn bã”, phần lớn không do kinh nghiệm và y án cụ thể mà chỉ thuần túy do lý luận mà ra. Mỗi môn phái đều có chỗ độc đáo, nhưng không môn phái nào giải quyết được mọi vấn đề và những người có quan niệm chín chắn bao giờ cũng tham bác nhiều phương pháp khác nhau cũng như phải dựa theo số liệu và khảo sát của phương pháp khoa học. Phái hàn lương cho ta phương pháp trị ngoại cảm, phái công hạ có những phương pháp trị cấp tính về đường ruột, mệnh môn học thuyết và thận âm thận dương, có thể áp dụng trong việc định bệnh liên quan đến các tuyến biến dưỡng và nội tiết. Cho đến nay, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng một sự dung hợp hai đường lối Tây y và Đông y có thể đem lại những kết quả tốt. Một số thảo mộc dùng trong Đông y nay cũng đã thịnh hành ở Tây phương và nhiều môn như châm cứu, chỉ áp (ấn huyệt bằng ngón tay) đã được công nhận như những phương pháp trị liệu bổ túc. Một số hình thức dưỡng sinh của Đông phương như nhập định (meditation), khí công, án ma (xoa bóp), Thái Cực Quyền… cũng được nhiều y gia nghiên cứu tìm tác dụng tích cực của những môn này trong sinh hoạt hàng ngày, để ngừa hay trị bệnh. Ngược lại, Đông y cũng áp dụng những phương pháp đo lường, máy móc thử nghiệm mà Tây y vẫn dùng vào việc khám nghiệm để gia tăng hiệu năng và sự chính xác. Nhiều ngành trước đây phải đòi hỏi một thời gian thực hành lâu để có kinh nghiệm như thiệt chẩn (xem bệnh bằng lưỡi), thiết chẩn (xem mạch bằng cổ tay) đã được đo lường bằng máy móc và đem lại kết quả chính xác hơn lối cũ. Một số ngành mới tuy khởi nguyên từ Đông y nhưng lại được khai triển và phát huy bằng kỹ thuật Tây phương như nhĩ châm (auriculotherapy), tức phương pháp châm vào các huyệt ở tai để trị bệnh. Châm cứu (acu moxatherapy) cũng được dùng để trị một số bệnh sau khi được chẩn đoán bằng phương pháp Tây y. Tuy nhiên, cái gì cũng có giới hạn của nó và làm thế nào khai thác sao cho kết quả nhiều nhất bằng phương tiện ít nhất vẫn là một vấn đề, vì thực tế mỗi người phải tự tìm lấy con đường cho chính mình hơn là tuân theo những qui luật bất biến. Trong những năm gần đây, tại Hoa Kỳ, một số đông người Mỹ đã quan tâm đến những phương pháp của Đông phương và dùng vào việc trị bệnh luân chuyển (alternative medicine) bên cạnh những phương pháp trị liệu của Tây y. Người Việt chúng ta dẫu sao cũng bị ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Hoa nên việc dung nạp không mấy khó khăn và thường gia đình nào cũng phối hợp cả thuốc tây và thuốc nam, thuốc bắc, cả nội khoa lẫn ngoại khoa, nhất là trong việc phòng và trị bệnh thông thường. Phương pháp và biện chứng của y thuật Trung Hoa Đông y bao gồm cả hai phần thực nghiệm lẫn lý luận. Thực nghiệm do kinh nghiệm mà có, còn lý luận do suy đoán mà nên. Cơ sở lý luận bao gồm âm dương, ngũ hành, khí huyết tân dịch, kinh lạc, tạng phủ…, xiển thuật kết cấu cơ thể và tổ chức của con người, nhận định công năng của mỗi bộ phận, tìm hiểu nguyên nhân rồi đề ra một phương thức chữa trị. Cho nên Đông y bao gồm pháp (phép tắc trị bệnh) và phương (toa thuốc chữa), tùy từng y gia, có người chuyên về phép tắc, có người chỉ đặt nặng về phương, nghĩa là sưu tầm một số toa thuốc nhất định, ai đau bệnh gì thì dùng toa đó, và cũng có người phối hợp cả hai. Căn bản việc định bệnh bao gồm tứ chẩn (bốn phép chẩn bệnh), bát cương (tám cách biện luận), phân khí huyết, tạng phủ, bệnh tà, nội ngoại. Về phương, có các cách bào chế và phối hợp thuốc men, gia giảm loại này loại khác để đưa ra toa thuốc chữa từng loại bệnh. Giản thuật những phương pháp trên như sau: Âm dương ngũ hành: Âm dương ngũ hành là nguyên tắc mà người xưa dùng để phân loại và nhận định thiên nhiên, dùng làm cơ sở để suy luận trong Đông y. Đối với cơ thể con người, âm dương được dùng để phân khí huyết, tạng phủ, ngũ hành tương ứng với ngũ tạng và lẽ tương sinh tương khắc dùng giải thích liên quan giữa bộ phận này với bộ phận khác. Về bệnh lý, âm dương phân bệnh ra hàn nhiệt, hư thực, và lẽ ngũ hành sinh khắc được dùng để giải thích bệnh này liên quan đến bệnh kia, và luôn cả giải thích các loại dược vật để chữa bệnh. Khí huyết tân dịch: là bốn loại lưu chất hoạt động trong cơ thể. Về phương diện lý luận, y gia Trung Hoa đưa ra lý luận về sự sinh thành của các loại và nếu như thất điệu sẽ đưa đến bệnh tật. Tạng phủ: bao gồm ngũ tạng và lục phủ. Ngũ tạng gồm tâm, can, tì, phế, thận còn lục phủ là đảm, vị, đại trường, tiểu trường, bàng quang và tam tiêu. Kinh lạc: là hệ thống liên lạc giữa các cơ quan trong cơ thể con người, từ trong ra ngoài, gân, da, thịt, xương để thành một khối thống nhất. Lý luận kinh lạc đưa ra các nguyên lý và tuần hoàn các lộ tuyến, công năng và tác dụng, và các chứng bệnh thể hiện do các bế tắc của kinh lạc. Nguyên nhân bệnh tật: chỉ các nguyên nhân gây ra bệnh mà Trung y đề ra bao gồm cả nguyên lý và nguyên nhân của bệnh tật. Về nguyên lý, y học Trung Hoa nhấn mạnh vào việc quân bình âm dương, coi việc tăng cường sức mạnh nội tại để chống lại ngoại tà là việc hết sức quan trọng. Trong khi Tây y chủ trương dùng thuốc để trợ lực con bệnh, hoặc thay thế con bệnh chống với vi trùng, thì Đông y chủ trương làm mạnh con bệnh để tự mình chống lại bệnh. Dĩ chính tại nội, tà bất khả can (nếu chính ở bên trong thì tà không thể xâm nhập) hay tà chi sở thấu, kỳ khí tất hư (nếu như tà có thể đến ắt là khí đã hỏng). Phương pháp làm tăng cường hệ thống miễn nhiễm hiện nay cũng đã được Tây y đề cao và đang được nghiên cứu trong việc chống lại bệnh ung thư. Tứ chẩn: là những phương pháp của y gia dùng để chẩn đoán bệnh (lâm sàng) gồm có vọng (inspectio, nhìn), văn (ausculatio et olfactio, ngửi và nghe), vấn (interrogatio, hỏi) và thiết (palpatio, bắt mạch bằng tay hay nhìn lưỡi). Những phương pháp này không được sắp xếp một cách khoa học vì bị hạn chế bởi thời đại và tiến bộ trong các ngành khác nên phần lớn do kinh nghiệm và trực quan của y gia. Tuy nhiên, trong bốn phép vọng quan vấn thiết, mạch chẩn (bắt mạch) và thiệt chẩn (nhìn lưỡi) là những phương pháp hết sức tinh tế, và ngoài việc coi bệnh do trực tiếp ghi nhận, còn một phần lý luận biện chứng rất phức tạp. Bát cương biện chứng: chủ yếu của bát cương biện chứng bao gồm phân biệt âm dương, biểu lý (bên ngoài, bên trong), hàn nhiệt, hư thực. Âm dương là tổng cương, còn biểu, nhiệt, thực là các chứng dương, còn lý, hàn, hư là các chứng âm. Y gia dùng biểu lý để xem bệnh nặng nhẹ, dùng hàn nhiệt để xem tình trạng, còn hư thực để xem chính tà xem mạnh yếu thế nào. Khí huyết biện chứng: là phương pháp xem bệnh thuộc khí hay thuộc huyết để biết là khí hư hay huyết hư, khí trệ hay huyết ứ, huyết nhiệt … ngõ hầu xem bệnh sẽ biến chuyển ra sao mà tìm cách chữa. Tạng phủ biện chứng: Người thầy thuốc căn cứ trên nhận định và chẩn đoán con bệnh bao gồm đặc điểm và tương quan giữa các bộ phận, xem bệnh tình sẽ biến hóa ra sao, xem xét âm dương, khí huyết rồi đưa ra phương pháp chữa trị. Bệnh tà biện chứng: Căn cứ vào hiện tượng con bệnh, những đặc điểm mà phân ra ngoại tà (bệnh từ ngoài xâm nhập) hay thể nội (bệnh từ trong cơ thể mà ra) rồi từ đó đưa ra một đường lối tổng quát để chữa bệnh. Ngoại cảm nhiệt bệnh biện chứng: Là phương pháp trị những bệnh mà ngày xưa người ta cho là do tà khí xâm nhập, chẳng hạn như cảm mạo, ôn dịch. Về các chứng này y gia sử dụng thương hàn học thuyết và lục kinh biện chứng cùng vệ khí và doanh huyết để chữa. Trị tắc và trị pháp: Trị tắc là nguyên tắc chữa bệnh lấy từ quan điểm “trị bệnh tất cầu ư bản (chữa bệnh phải chữa ở gốc)” để xem bệnh hoãn hay cấp (đến chậm hay đến mau), chính tà thịnh suy ra sao, âm dương cường nhược thế nào để dùng một trong những cách thức cấp trị, hoãn trị, khử tà, phù chính, điều chỉnh âm dương mà áp dụng. Trị pháp là phép cụ thể dùng trị bệnh, áp dụng ngay cho người bệnh để thực hiện những nguyên tắc mà người thầy thuốc đưa ra chẳng hạn như hãn (sudatio, làm chảy mồ hôi), thổ (vomitio), tả (purgatio), thanh (làm mát cơ thể), hòa (composio), ôn (tepefactio), bổ (suppletio), tiêu (dispulsio), khai khiếu, trấn nạp… Để có cái nhìn rõ ràng về y thuật của người Trung Hoa, chúng ta cần biết qua một vài khái niệm: Quan niệm chỉnh thể: Có người cho là quan niệm chỉnh thể của Đông phương rất cao siêu, có người lại cho rằng quá đơn sơ và ấu trĩ. Quan niệm đó bao gồm hai phần: Trong cùng một con người, có hai phần âm dương và chính từ những cơ bản của tính chất âm dương, mà phân ra thành trên dưới, trong ngoài, biểu lý. Cũng do âm dương mà phân các bộ phận trong con người thành tạng và phủ, khí và huyết… Tất cả sự vận động trong con người không ngoài các nguyên lý tương sinh tương thừa của âm dương, ngũ hành mà ra. Cho nên hiểu được thuyết âm dương ngũ hành là có thể đoán định được sự vận hành của cơ thể. Cái lẽ âm dương tiêu trưởng, khí huyết sinh hóa đó đều do sự mâu thuẫn đối đãi mà hình thành, nếu như không đúng cách sẽ đưa đến sự phá hoại và sinh ra bệnh tật. Thành thử âm dương thất điệu, huyết khí bất hòa là căn nguyên của mọi chứng bệnh. Về phương diện tương quan giữa con người và thiên nhiên, con người với trời đất tuy khác biệt nhưng vẫn cùng một thể, con người phải sống thuận theo lẽ tự nhiên và tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi cho hợp với tiết điệu của vạn vật. Con người được coi như một tiểu vũ trụ trong đó bao gồm mọi hình tướng mà vũ trụ hiển hiện. Chính vì cá nhân là một tiểu thiên địa nên tự nó có những cơ năng điều chỉnh một khi bị lệch lạc. Y sư là người giúp cho sự tái lập quân bình ấy được mau chóng và đúng đắn hơn, nhưng chính bản thân con bệnh là yếu tố tích cực nhất để chữa bệnh. Người thầy thuốc hoàn toàn không có khả năng cải tử hoàn sinh nếu bệnh nhân đã mất đi cơ năng phục hồi. Biện chứng trị liệu: là phương thức suy luận cụ thể khi gặp con bệnh, bao gồm hai phần, phần lý luận (biện chứng) và phần áp dụng những suy luận đó trong phương pháp chữa trị (thi trị). Biện chứng là tiền đề của thi trị, còn thi trị là mục đích tối hậu của biện chứng. Tứ chẩn là phương pháp đi tìm các yếu tố để luận đoán, tức sưu tầm dữ kiện, sau đó dùng bát cương, tạng phủ, và nguyên nhân gây ra bệnh để phân định rồi theo những cách thức tương ứng mà chữa trị. Tuy nhiên như đã nói ở trên, thuốc men chỉ là một phần của việc trị liệu. Trên nguyên tắc trị bệnh từ khi chưa có bệnh, một đời sống lành mạnh làm giảm thiểu tối đa những mầm bệnh là phương thuốc hay nhất. Ăn uống, dưỡng sinh, thể dục, và sinh hoạt tinh thần đều là những phương thuốc để ngăn ngừa bệnh tật. Chính vì thế mà việc dùng thuốc, đau đâu chữa đó được coi là bá đạo nghĩa là hạ sách trong việc trị bệnh, đứng sau đế đạo (trị bệnh từ lúc chưa bệnh nghĩa là sống hợp với lẽ tự nhiên, ăn uống sinh hoạt cho phải phép) và vương đạo (trị bệnh bằng cách dùng thuốc tái lập quân bình). Kết luận Khi tìm hiểu về Đông phương, hầu như bất cứ ngành nào cũng có những phần thật cao, nhưng cũng không hiếm những điều thật thấp. Chính vì thế một sự lựa chọn và cân nhắc là điều cần thiết, vì ở đâu cũng có nhiều góc cạnh khác nhau mà tùy theo mỗi người, chúng ta có cảm quan riêng về ngành đó. Y thuật cũng vậy, một phần được nghiên cứu và lưu truyền bằng những huyền thoại, mà người ta nghĩ rằng do những siêu nhân để lại, bằng kinh nghiệm hay bằng trước thuật, nhưng mặt khác lại có rất nhiều phương thuốc, chữa mẹo, bằng lá lảu của dân gian, do những thầy lang vườn sưu tầm, lại cộng thêm những ngoại khoa, pháp thuật, có khi cả một chút tâm lý học giản dị mà người ta gọi là chữa mẹo. Thành ra, khi nghiên cứu về phương thức trị và chữa bệnh, ngừa bệnh, hầu như chúng ta bị rơi vào một mê lộ trùng điệp giữa khen và chê, giữa bênh và chống. Trước đây trong ngành y khoa lại không có một chương trình huấn luyện có cơ sở, mà tùy theo cái cơ duyên mỗi người. Người vì thất bại trên đường khoa cử nên xoay sang làm thuốc, người khác có một vài phương thuốc gia truyền nên tiếng lành đồn xa, nhiều người đến nhờ cậy và nghiễm nhiên thành một ông lang. Chính cái thực tế đó đã khiến cho những nhà khoa học phương Tây vốn trọng những cơ bản trường ốc không khỏi nghi ngờ về giá trị của những khoa học Đông phương. Ngay chính người Tàu trong một giai đoạn mà họ bị choáng mắt trước nền văn minh vật chất và sức mạnh của súng đạn cũng phủ nhận nền y học truyền thống và phương pháp cổ điển. Thời Dân Quốc, chính quyền Trung Hoa đã ban hành một đạo luật bãi bỏ việc dùng thuốc bắc trên toàn quốc nhưng phải thu hồi vì họ chưa có một hệ thống và mạng lưới y tế hoàn chỉnh cho mọi người. Đối với Âu Tây, người ta không quan tâm tới những gì ngoài thế giới của chính họ. Chỉ mới gần đây, khi một số nhà nghiên cứu đi tìm những căn nguyên khoa học của Á châu mới ý thức rằng đây là một trong những nền văn minh có chiều sâu mà trước đây người ta chỉ nhận định một cách hời hợt bề ngoài. Hơn một trăm năm trước, khi Tây phương tìm ra được vi trùng là đầu mối của nhiều chứng bệnh truyền nhiễm, họ đã tin tưởng rằng khoa vi trùng học (bacteriology) sẽ là chìa khóa mở được nhiều, nếu không nói là mọi cánh cửa trong việc chống lại bệnh tật. Quả thực nhiều bệnh dịch trước đây là mối đe dọa lớn cho nhân loại nay gần như hoàn toàn biến mất, nhiều bệnh hiểm nghèo cũng đã hoàn toàn kiểm soát được trong những quốc gia có một hệ thống vệ sinh và y khoa khả quan. Những con số thống kê về y tế đại chúng đã chứng minh điều đó. Số tử vong của trẻ em sơ sinh tụt hẳn đi, và đời sống con người cũng kéo dài ra nhiều. Quan niệm “thất thập cổ lai hi” không còn đúng vì tuổi thọ trung bình đã kéo dài trên 70 tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên việc loại trừ tất cả mọi bệnh tật vẫn còn là một niềm mơ ước, vì tuy một số căn bệnh không còn đe dọa con người thì một số chứng khác – không do vi trùng gây ra mà do đời sống con người mất quân bình – lại có nguy cơ nảy nở nhanh trong một số khu vực. Trong khi tại những quốc gia nghèo đói, tình trạng thiếu dinh dưỡng (undernutrition) đã đưa đến nhiều bệnh suy nhược như lao phổi, còi xương, chậm lớn, đần độn … thì tại những quốc gia giàu có những căn bệnh liên quan đến việc thất điệu và dinh dưỡng không đúng cách (malnutrition) như ung thư, tim mạch, tiểu đường… lại gia tăng. Tuy những tiến bộ y khoa hiện đại có làm chậm lại một số triệu chứng và kéo dài sự hấp hối cho một số bệnh nhân nhưng đó chưa phải là câu trả lời đích thực nếu mục tiêu cuộc đời phải là sống vui, sống mạnh. Trong tác phẩm Y Khoa Trong Khủng Hoảng Của Thời Đại Chúng Ta (Medicine In The Crisis Of Our Times), bác sĩ Arthur Jores đã thấy rằng Tây y phải bó tay và “nhiều trường hợp chỉ giữ cho con bệnh khỏi chết mà không phục hồi sức khỏe cho họ và đó là nguyên nhân chính của những bệnh kinh niên (In many cases medical science prevents the patient from dying without restoring him to health. It is thus a primary cause of chronic illness)”. Cuộc chiến chống bệnh tật chuyển hướng từ những bệnh truyền nhiễm sang những bệnh do sự rối loạn của hệ thống sinh lý và tim mạch, mà sự chuyển hướng này đã gây ra sự tốn phí nhiều hơn, và sự thành công mỗi lúc một mơ hồ. Ngoài những nguyên do kinh tế và tài chánh, việc quay về với một số phương pháp chữa trị, cũng phần nào do sự thất vọng hay tuyệt vọng của bệnh nhân trong phương pháp y khoa hiện đại. Đó là chưa kể nhiều chứng vẫn bị coi là có thể trị nhưng không thể chữa (treatable but incurable, nghĩa là dùng thuốc có thể giúp cho người bệnh sống còn nhưng không trị được dứt hẳn) lại có thể chữa lành bằng những phương pháp được mệnh danh là “không chính thống (unconventional)”. Chắc chắn không ai trong chúng ta phủ nhận những đóng góp và tiến bộ hết sức vĩ đại của Tây y trong một trăm năm qua, nhưng không phải vì thế mà không nhìn lại nhiều vấn đề, nhất là trong một thời kỳ mà nhiều thành tựu to lớn của Tây phương đang bị thách đố, trong đó có cả những vấn đề xã hội, kinh tế hay chính trị. Phải nói là Đông y đã tạo được những sắc thái hết sức độc đáo trong cả lý luận về cơ năng con người, biến hóa của bệnh lý, và cách chẩn đoán bệnh tật, phương pháp trị liệu. Mà đó không phải chỉ riêng y khoa, nhiều ngành khác người Trung Hoa cũng đã có những kho tàng hết sức phong phú mà mãi gần đây người Âu châu mới khám phá ra được. Càng ngày người ta càng tìm ra được những tài liệu khoa học rất sớm ở Trung Hoa và hiện nay nhiều học giả đang tìm cách giải thích tại sao một nền văn minh bề thế như vậy bỗng dưng đứng chựng lại trong nhiều ngàn năm. Những ai nghiên cứu về Trung Hoa không thể không để ý tới bộ sách vĩ đại về khoa học và văn minh do Viện Nghiên Cứu Needham liên tục ấn hành từ gần 50 năm qua (The Science and Civilisation in China, Cambridge University Press) để nghiên cứu chuyên về những khoa học mà người Tàu đã phát triển. Tất cả học thuật và văn minh của người Trung Hoa xoay quanh học thuyết âm dương, ngũ hành biến hóa và học thuyết này lại không ra ngoài quan niệm thiên địa vạn vật đồng nhất thể, thiên nhân tương dữ. Người phương Đông coi cá nhân là một phần của vũ trụ, của thiên nhiên nên việc sống hòa hợp với thiên nhiên là chân lý tối hậu của đời sống. Việc tìm hiểu về y học Đông phương sẽ giúp cho chúng ta mở một cánh cửa mới nhìn con người như một thực thể toàn diện hơn là chia cắt cơ thể thành những mảnh mún li ti. Khi tách rời một bộ môn thành một khoa học riêng rẽ để phán đoán, người Tây phương không khỏi có cái nhìn cục bộ và phiến diện. Người ta vẫn nghĩ rằng khi nghiên cứu về Trung Hoa thì trọng tâm phải nghiên cứu là Nho giáo và các học thuyết chính trị. Thực ra, căn bản chính yếu của cả nền văn minh Hán tộc nằm trong hệ thống Đạo giáo (Taoism) vì từ đó nảy sinh ra tất cả mọi chi lưu, từ cao tới thấp, từ trong đến ngoài. Đời sống người Tàu đi rất gần với những sinh hoạt và tập tục bắt nguồn từ Đạo giáo mà dù ở đâu, giai cấp nào họ cũng vẫn áp dụng một cách nghiêm túc. Đó là những chỉ dấu họ dùng làm cái áo lót mình, gắn chặt với đời sống riêng của họ dẫu rằng cái tên đã đổi hẳn vì nhu cầu sinh tồn và vươn lên. Ngày hôm nay, chúng ta cần có một quan điểm dung hợp Đông Tây, áp dụng sự tiến bộ to lớn của Tây Y để chữa trị những bệnh tật liên quan đến vi trùng, mổ xẻ nhưng cũng đừng quên cái ảo diệu của Đông phương trong việc tạo một đời sống quân bình, và trị bệnh từ khi chưa có bệnh. Chúng ta cần đánh giá một cách sáng suốt những kinh nghiệm và biện chứng trong Đông y, đồng thời biết gạn đục khơi trong, tìm ra được những gì còn thực dụng để khai triển đồng thời cũng loại trừ những suy luận có tính chất thuần lý, dựa vào một số tín điều của hình nhi thượng học, mà quên rằng bất cứ ngành nào cũng có những giới hạn riêng của nó. Trong một thế giới đa nguyên ngày hôm nay, trong bất cứ một bộ môn nào, kể cả những khu vực lấy tín niệm làm nền tảng như tôn giáo cũng phải tái thẩm định nhiều vấn đề, huống chi một bộ môn mang màu sắc được coi là khoa học và thực nghiệm như y khoa. Cho đến giờ phút này, con người càng ngày càng đi sâu vào những tổng hợp mới, trong đó đời sống được coi là một mô hình đa phương dung chứa nhiều quan niệm, nhiều nguồn văn hóa, nhiều xu thế, lắm khi hoàn toàn đối nghịch nữa. Những quan điểm cứng nhắc, bất biến không những bị xem là lỗi thời mà còn khó có thể được chấp nhận trong một xã hội văn minh. Tháng 12/1998 CUỘC KHỞI NGHĨA LẬT ĐỔ TRIỀU NGUYÊN Lời nói đầu Kim Dung viết ba truyện dài liên tiếp bắt đầu từ Xạ Điêu Anh Hùng Truyện, tiếp theo là Thần Điêu Hiệp Lữ và sau cùng là Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Xạ Điêu Anh Hùng Truyện có bối cảnh là cuối đời nhà Tống, Thần Điêu Hiệp Lữ là giai đoạn người Trung Hoa chống lại nạn Bắc xâm, chủ yếu là việc thủ thành Tương Dương và Ỷ Thiên Đồ Long Ký viết về cuối đời Nguyên trong thời kỳ những thế lực tôn giáo lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên. Cả ba bộ truyện đã kéo dài hơn một trăm năm từ đầu chí cuối triều đại của người Mông Cổ hình thành một đế quốc được coi là vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, bao trùm một khu vực địa dư từ Á sang Âu. Bài viết này vẽ lại bức tranh lịch sử của thời kỳ đó, nhấn mạnh vào giai đoạn cuối đời Nguyên để nhằm làm sáng tỏ một số câu hỏi liên quan đến lịch sử ngõ hầu tạo một khoảng cách giữa thực tế và tiểu thuyết hầu cho chúng ta cái nhìn chính xác hơn về cuộc diện Trung Hoa vào cuối thế kỷ 14. Một tác giả Hoa Kỳ bảo rằng người Trung Hoa (và cả người Việt Nam nữa chăng?) nhìn lịch sử của họ chẳng khác gì một người già cả nhìn lại thuở thanh xuân. Cái quá khứ xa xăm kia bao giờ cũng sống động, huy hoàng và mỗi lần kể lại, người ta lại tô điểm cho nó thêm rực rỡ, phóng đại và sẵn sàng bóp méo nhiều chi tiết (History in China is like an old man’s memory. The distant past is often more vivid than the present, and its stories are polished, exaggerated and distorted by many tellings.” Clayre, Alasdair: The Heart of The Dragon, Dragonbook ApS 1984 p. 32). Chính vì thế việc phân tích và lựa chọn tài liệu là một việc khó khăn và rất khó nhìn vấn đề cho trung thực và khách quan. Tóm tắt một giai đoạn nhiễu nhương và nhiều biến cố trong mươi trang giấy một cách chính xác là điều gần như không thể làm được, nhất là mỗi sử gia lại nhìn dưới một góc cạnh khác nhau. Thành thử chúng tôi chỉ chọn lựa những chi tiết nào có thể đóng góp một cái nhìn lịch sử, bổ túc cho bản dịch bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký mà thôi chứ không có ý định viết thành một biên khảo về một giai đoạn phức tạp của Trung Hoa. Một trong những vấn đề mà bất cứ ai đọc về tình trạng cuối đời Nguyên đều khó tìm ra manh mối vì chúng ta thấy có nhiều cuộc nổi dậy tại nhiều vùng, mỗi người cát cứ một phương. Họ có liên hệ với nhau không? Phải chăng cùng trong một tổ chức như Kim Dung miêu tả? Trong những người đó ai hơn ai, người nào chỉ huy người nào? Thực tế, đây đều là những nhóm độc lập, mặc dầu khi cần thiết họ vẫn liên minh với nhau để tồn tại. Có những nhóm dựa vào sức mạnh tôn giáo và thần quyền vận động quần chúng bằng lối tuyên truyền mê tín, có nhóm thì dựa vào lòng hoài vọng tiền triều nhân danh khôi phục nhà Tống, cũng có nhóm lại chỉ vì đói khó quá mà đi ăn cướp sau lớn dần thành một lực lượng quân sự. So sánh giai đoạn này với cuộc nội chiến ở Trung Hoa thời Dân Quốc đầu thế kỷ 20 sau khi nhà Thanh bị lật đổ, chúng ta thấy có nhiều điểm tương đồng. Phải chăng lịch sử cũng chỉ là những lập lại trên những qui mô khác nhau nhưng bản chất cũng chỉ là một cuộc đuổi hươu tranh đỉnh? Nếu thoát hẳn ra khỏi những chi tiết sống động mà Kim Dung đã vẽ nên trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký, chúng ta có thể rút tỉa được một số bài học về chính trị và quân sự, và có cái nhìn chính xác hơn về một triều đại ngã xuống và một triều đại mới vươn lên. Sơ lược về triều đại Nguyên – Mông Người Mông Cổ cai trị nước Tàu gần đúng một trăm năm, từ năm 1271 đến năm 1368. Trước đó, nhà Tống là một triều đại bị nhiều sử gia coi là hèn yếu nhất trong lịch sử Trung Hoa, tuy có một số thành tựu về văn học và nghệ thuật nhưng luôn luôn bị những tiểu quốc chung quanh uy hiếp, phải triều cống cho lân bang để được yên. Cũng chính triều đại này đã đem quân sang đánh nước ta hai lần nhưng lần nào cũng bị đại bại. Lý Thường Kiệt, danh tướng đời Lý còn đem quân sang tận Ung Châu (1076) rồi lại rút về. Ngay từ đầu thế kỷ thứ 11, Tống triều hàng năm đã phải “cống” cho nước Liêu mười vạn lượng bạc (100.000) và hai chục vạn (200.000) tấm lụa nhưng kể từ năm 1042 thì tăng lên thành hai mươi vạn (200.000) lượng bạc và ba chục vạn (300.000) cây lụa để họ khỏi đem quân quấy phá biên thùy phía Bắc. Năm 1126, người Nữ Chân (tức nước Kim) tiến đánh kinh đô Khai Phong, hai cha con vua Huy Tông và hơn 3.000 tông thất bị bắt và chín năm sau nhà vua chết trong ngục (1135). Một nửa nước Tàu bị chiếm đóng, nhà Tống phải thiên đô xuống Hàng Châu và triều đình chỉ còn kiểm soát miền nam sông Hoài trở xuống, sử gọi là Nam Tống. Mỗi năm nhà Tống phải “triều cống” một số tiền rất lớn cho người Nữ Chân. Một danh tướng là Nhạc Phi nhiều lần cố đem quân khôi phục lại những đất bị mất vào tay người Kim nhưng không thành công. Thành thử, trong khoảng một thế kỷ rưỡi, người Trung Hoa hết nhượng bộ cho người Khiết Đan (Liêu) lại triều cống cho người Nữ Chân (Kim) và sau cùng thì bị người Mông Cổ chiếm đóng. Ngay từ thời thượng cổ, những dân tộc phía bắc đã là một mối đe dọa lớn cho người Trung Hoa. Những bộ lạc phía bắc là giống dân du mục, sống bằng chăn nuôi rất thiện chiến. Mỗi khi đói kém, họ tràn xuống miền nam quấy phá và cướp bóc lương thực. Người du mục sinh sống trên lưng ngựa ngay từ khi còn nhỏ nên khi trưởng thành nam cũng như nữ đều thiện nghệ về cung tên, quen với chém giết vì đó là sinh hoạt gần như tự nhiên để sinh tồn. Không những họ tàn nhẫn với người Tàu ở phương nam mà cũng luôn luôn tranh giành giữa bộ lạc này với bộ lạc khác, đánh lẫn nhau để cướp gia súc, đàn bà, tài vật. Thành thử một khi họ liên kết được với nhau thì trở thành một sức mạnh khủng khiếp. Sức mạnh chủ yếu của họ trong chiến đấu là sự di động. Ngựa miền mạc bắc tuy nhỏ con nhưng dai sức, chạy rất nhanh (Giống ngựa sa mạc tuy không hùng tráng như giống ngựa Ả Rập nhưng lại thích hợp cho chiến đấu. Ở vùng Ferghana tại Tân Cương (Turkestan) có một giống ngựa chạy rất nhanh, bờm dài đuôi rậm. Giống ngựa này sống trên núi rất khó bắt, có đặc tính là khi chạy nhanh toát mồ hôi thì cổ ngựa nhểu ra những giọt máu, trong bộ Anh Hùng Xạ Điêu có nhắc đến gọi là Hãn Huyết Bảo Câu. Thần tích ly kỳ về giống ngựa này vẫn được truyền tụng, coi như một loại thần mã hiện ra từ sông hồ. Người Mông Cổ thường dẫn ngựa cái tới thả những nơi có loài này xuất hiện trong những đêm trăng để gây giống. Tới gần đây những khoa học gia đã tìm ra nguyên nhân của việc xuất hãn huyết này. Nguyên là có một loài ký sinh trùng (con ghẻ) sống bám dưới làn da và trong bờm ngựa tiết ra một loại độc tố làm mỏng những thành huyết quản. Khi ngựa chạy nhanh, nhiệt độ trong cơ thể dâng cao khiến cho những mạch máu nhỏ bị vỡ. Tuy nhiên việc đổ máu không làm cho ngựa bị thương tổn bao nhiêu, ngược lại còn cho giống bảo mã này một thần kỳ. (Hope W. Rathbun: Echoes of Chinese History, Magic Horses of Ferghana, Charles E. Tuttle Co. Japan 1967, p. 32). Mỗi chiến sĩ thường đem theo hai ba con ngựa và đi bộ để dưỡng sức, chỉ khi nào tới gần quân địch mới nhảy lên xông thẳng vào trận địa. Vũ khí chính yếu của họ là cung tên, họ có thể vừa phi ngựa vừa bắn cung bách phát bách trúng. Theo sách vở, mỗi kỵ binh Mông Cổ thường mang hai loại cung, một loại bắn gần và một loại để bắn xa (có thể tới 300 mét). Túi đựng của họ mang được đến 60 mũi tên, có loại bắn thủng được áo giáp, có loại khi bắn ra có tiếng rít dùng để truyền tín hiệu. Quân sĩ của họ lại rất có kỷ luật và nhạy bén trong chiến trận. Đời Đường người Khiết Đan thành lập nước Liêu, mặc dù chỉ bao gồm độ mươi bộ tộc, dân số chỉ độ non một triệu nhưng cũng đã khiến cho người Trung Hoa điêu đứng. Cũng ở phía bắc, người Nữ Chân (tức Mãn Châu) tuy luôn luôn bất hòa với người Khiết Đan nhưng lại cũng đe dọa nước Tàu. Người Nữ Chân lại có trình độ kỹ thuật quân sự khá cao, biết sử dụng những loại chiến xa và súng bắn đá nên đã tiến đánh những thành thị của Tống triều ở miền bắc một cách dễ dàng. Tới cuối thế kỷ thứ 12, khí hậu miền quan ngoại trở nên khắc nghiệt. Nhiều vùng bị hạn hán lâu năm khiến cho các thảo nguyên bị khô cháy, thiếu thực phẩm cho những bầy gia súc. Để sinh tồn họ chỉ còn nước nhòm ngó cái kho thực phẩm ở phương nam và người khai thác được cơ hội là Thành Cát Tư Hãn (Chinggis hay Ghengis Khan 1162-1227) một nhân vật nổi danh trong lịch sử thế giới. Thành Cát Tư Hãn là một con người khát máu, thích chém giết và chinh phục. Ông ta đã từng tuyên bố rằng “Nỗi vui sướng nhất của con người là đánh bại được kẻ thù, săn đuổi họ, cướp tài vật, chứng kiến thân nhân họ khóc than, cưỡi ngựa của họ và đoạt lấy vợ con họ làm tài sản của mình” (Time & Life Books: What Life Was Like in the Land of the Dragon (Imperial China 960-1368) 1998 trang 112). Sau khi thống trị được nhiều bộ lạc gồm nhiều sắc dân khác nhau, Thành Cát Tư Hãn xây dựng một đội quân tinh nhuệ và trở thành một lãnh tụ. Năm 1206, các bộ tộc tôn ông ta lên làm Đại Hãn (Universal Ruler) nghĩa là chúa tể của các bộ lạc khác. Thành Cát Tư Hãn liền tổ chức lại lực lượng, thay vì để cho mỗi bộ lạc theo cơ chế riêng, ông tập trung lại thành một quân đội duy nhất theo hệ thống thập phân, cứ mỗi 1.000 kỵ sĩ thành một đơn vị, người chỉ huy được cha truyền con nối và chỉ tuân hành quyền lực duy nhất của Đại Hãn mà thôi. Ngoài việc khai thác được sở trường của mình là sự di động nhanh và kỹ thuật chiến đấu, Thành Cát Tư Hãn còn thiện nghệ trong việc điều quân, áp dụng được binh pháp một cách tài tình, kể cả ba mặt giáp công, trá bại, trá tẩu và biết liên minh đúng lúc với kẻ thù. Ông ta cũng biết sử dụng nội gián (espionage and intelligence) để thu lượm tin tức trước khi tấn công. Thành Cát Tư Hãn cũng qui định lại pháp chế, chữ viết và tỏ ra là một người có tài tổ chức, lấy kỷ luật sắt và nghiêm hình để cai trị. Ông tự chỉ huy một đoàn thân binh chừng một vạn người là những binh lính có khả năng nhất tuyển chọn trong các bộ lạc. Sau khi củng cố thực lực rồi, Thành Cát Tư Hãn sai người chiêu hàng các bộ lạc, ai thần phục thì được yên còn nếu chống lại sẽ bị tàn sát không thương tiếc. Chỉ trong hai năm 1212-1213 có đến hơn chín mươi thành bị san thành bình địa. Khi họ chiếm kinh đô nước Kim của người Nữ Chân năm 1215, thành phố này bị đốt cháy đến hơn một tháng mới hết. Năm 1218, một đoàn thương nhân người Hồi được Thành Cát Tư Hãn bảo hộ bị cướp tại nước Khwarizm (Hoa Thích Tử Mô) dẫn đến việc quân Mông Cổ tiến vào Trung Đông rồi tràn qua tận Đông Âu. Trong ba năm nhiều triệu người bị tàn sát, kể cả đàn bà con trẻ, thậm chí cả súc vật cũng bị giết sạch. Chính chiến dịch này đã làm cho người Mông Cổ nổi tiếng về sự dã man và những nơi nào kháng cự lại họ sẽ bị tiêu diệt không thương tiếc. Hai người con trai thứ hai và thứ ba của Thành Cát Tư Hãn là Chagatai và Ogedei chỉ huy đoàn quân này và quân đội đem về những bao đầy tai người làm chứng tích chiến thắng. Sau khi hạ thành Nishapur, bao nhiêu cư dân đều bị giết sạch, đầu của họ được chất thành ba đống, đàn ông, đàn bà, trẻ con. Các sử gia đã tổng kết cuộc viễn chinh này là 700.000 trong thành Merv, 1.600.000 người tại Heart và 1.747.000 người tại Nishapur (Time&Life Books, The Mongol Conquests, Time Frame AD (1200-1300) 1989 tr. 20). Chỉ trong gần 20 năm cho tới khi Thành Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ đã bành trướng gần khắp châu Á suốt từ Mãn Châu đến tận Trung Đông. Khi Thành Cát Tư Hãn đột ngột từ trần, những người con ông ta tranh nhau ngôi vị nhưng sau cùng, người thứ ba là Oa Khoát Đài (Ogodei) đánh bại những người khác và trở thành Đại Hãn. Oa Khoát Đài tiến đánh phần còn lại của nước Kim tràn xuống phương Nam cũng như bành trướng qua phía Tây, chiếm cả Moscow, Kiev và Đông Âu. Tuy người Mông Cổ lúc đó chỉ độ 1,5 triệu, họ trở thành sức mạnh vô địch vì biết sáp nhập những đạo quân của các bộ lạc hay dân tộc khác dưới quyền chỉ huy của họ. Họ khai thác được những ưu điểm của đối phương trong đó phải kể các chiến xa của người Nữ Chân và thủy quân của người Hán, sử dụng những võ khí mới thu được làm phương tiện tấn công. Trong những lần tiến đánh nước ta, người Mông Cổ đã dùng những chiến thuyền của nhà Tống. Trong khi những cận thần muốn du mục hóa người Hán, biến miền Bắc nước Tàu thành đồng cỏ cho gia súc thì vị tể tướng của Oa Khoát Đài là Gia Luật Sở Tài (Yelu Qucai, gốc hoàng tộc Khiết Đan) đã khuyên ông ta theo đuổi một chính sách văn minh hơn. Đó là đánh thuế nông dân bằng vàng bạc, lụa là, thóc lúa. Những sắc dân du mục theo đạo Hồi ở vùng Trung Á được giao nhiệm vụ thu thuế và chính vì thế họ bị cả người Hoa lẫn người Mông Cổ ghét bỏ. Tuy nhiên phải đến khi cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Khubilai) lên ngôi thì đế quốc Nguyên Mông mới phát triển đến cực điểm. Hốt Tất Liệt thiên đô từ Karakorum ở Mông Cổ về Bắc Kinh, khi đó có tên là Đại Đô và đến năm 1271, ông ta đổi quốc hiệu là Nguyên, tổ chức triều đình theo nghi thức nhà Tống. Trước đây, sông lạch miền Nam Trung Hoa vẫn là những chiến lũy thiên nhiên ngăn chặn bước chân của đoàn kỵ binh Mông Cổ nhưng sau khi chiếm được miền Bắc, họ đã để tâm xây dựng một đội chiến thuyền. Năm 1268 họ vây hãm thành Tương Dương (Xiangyang), một thành phố ở Hồ Bắc, cửa ngõ huyết mạch xuống miền hạ lưu sông Dương Tử. Cuộc công hãm kéo dài đến năm năm, sử dụng hàng ngàn thuyền bè và hàng vạn binh sĩ. Các chuyên viên hải quân người Hán, Triều Tiên, Nữ Chân, Hồi Hột và Ba Tư được điều động vào việc chế tạo các loại chiến thuyền. Kỹ sư người Muslim chế tạo những súng bắn đá có thể ném những tảng đá nặng hàng trăm pounds. Hai bên đều phải dựa vào thuyền bè để chuyên chở quân nhu, thực phẩm và tiếp liệu. Về phía nhà Tống, vấn đề chỉ huy tương đối lỏng lẻo. Nhà vua lúc đó còn nhỏ tuổi và các đại thần mỗi người một ý, không thống nhất. Sau khi quân Mông Cổ vượt qua được Trường giang, bà Thái Hậu xuống chiếu Cần vương và khắp nơi nhân dân nổi lên hưởng ứng. Thế nhưng người Mông Cổ lại sử dụng chiến thuật tàn sát thị uy giết sạch những thị trấn nào chống trả lại họ nên sau cùng triều đình phải đầu hàng để tránh đổ máu (Khi tấn công vào Chương Châu, quân Mông Cổ giết đến mấy trăm ngàn người trong thành, chỉ còn sống sót khoảng 400. Xác người chất lên cao đến cả chục mét trong khoảng đất một mẫu tây (Time & Life Books: What Life Was Like in the Land of the Dragon (Imperial China 960-1368) 1998 tr. 102). Những tôn thất nhà Tống chạy về vùng duyên hải cố gắng chống trả thêm được ba năm nhưng tới năm 1279 thì bị hoàn toàn tiêu diệt. Tới thời kỳ này, tuy người Mông Cổ cai trị một khu vực rất rộng lớn nhưng họ không còn thống nhất là một đế quốc mà đã chia thành nhiều khu vực dưới quyền của những hoàng thân quốc thích mỗi khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa vùng bị cai trị và họ thường đánh lẫn nhau. Ở phía tây, họ hội nhập với văn minh Hồi giáo (Islam) của người Thổ (Turkish) hay Thiên chúa giáo (Christanity) trong khi đế quốc phía đông thì những nền văn minh bản xứ của Khổng, Phật, Lão… có ưu thế. Mặc dầu người Mông Cổ không muốn bị đồng hóa vào văn minh Hán tộc và đưa ra nhiều luật lệ khắt khe để trấn áp và phân chia giữa người thống trị và kẻ bị trị, họ vẫn tiêm nhiễm nếp sống có văn hóa và văn minh của người Trung Hoa. Nhiều định chế cai trị và sinh hoạt của Trung Hoa được bắt chước kể cả hệ thống thi cử, điển chế mặc dầu vẫn ưu đãi người Mông Cổ và rất khắt khe với người bản xứ. Về chính sách, người Mông Cổ phân chia dân chúng ra thành mười giai cấp với bốn thứ bậc chính. Người Mông Cổ có vị trí cao nhất, kế đến là các dân tộc ở ngoài đất Trung Hoa, chủ yếu là các vùng quan ngoại phía bắc được gọi là sắc mục như Hồi (Uighurs), Thổ (Turks), Tạng (Tibetans), Tây Hạ (Tanguts), Ba Tư (Persians)…, dưới nữa là Hán nhân tức những người cũng mới bị chinh phục nhưng ở phương bắc nước Tàu như Khiết Đan (Khitans) hay Nữ Chân (Jurchens). Hạng thấp nhất là khu vực người Hán chính gốc của nhà Nam Tống được gọi là Nam nhân (Giới nho sĩ được xếp vào hàng thứ chín, dưới gái đĩ (thứ 8), trên ăn mày (thứ 10), Louise Levathes: When China Ruled the Seas, Simon & Schuster, New York 1994 tr. 49). Các giai cấp này bị đối xử phân biệt, thuế má và luật lệ thi hành cũng khác, Nam nhân hầu như rất ít được bổ nhiệm vào những chức vụ hành chánh. Họ cũng bị cấm đoán nhiều thứ và nếu phạm tội thì sẽ bị những hình phạt rất khắt khe. Người Hán không được quyền lấy người Mông Cổ làm vợ nhưng người Mông Cổ thì có quyền nạp thiếp người Hán. Thành thử, người Hán càng căm thù bọn dị tộc kém văn minh, dã man, ăn uống nhồm nhoàm, người hôi hám dơ bẩn đang cai trị trên đầu trên cổ họ. Trong một cuộc chiến mà kẻ thắng trận có trình độ kém cỏi hơn kẻ bại trận, hiện tượng nghịch hành cũng là chuyện bình thường. (Người Mông Cổ vẫn giữ thói quen ăn uống của dân du mục, ăn thịt uống máu tươi và ít dùng bát đũa. Họ còn kiêng cữ việc tắm gội – bắt nguồn từ việc thiếu nước trong sinh hoạt trên sa mạc và cho rằng mặt nước phản ảnh bầu trời, là một hình ảnh thiêng liêng nên tắm gội sẽ làm dơ bẩn Thượng Đế. Họ quan niệm mùi thân thể có liên quan đến linh hồn, càng nặng mùi thì bản thể càng mạnh. Quần áo họ không bao giờ thay mặc đến nát mủn ra thì thôi. Trong khi di hành, họ cắt thịt để dưới yên ngựa và miếng thịt được nhồi như thế sẽ chín trong khi chạy. Họ nấu ăn bằng cách đó cho khỏi mất thì giờ. (Jacques Brosse: 100.000 years of daily life, A Visual History, Golden Press NY 1961 tr. 82) Tình thế cuối triều Nguyên Một trong những đặc tính của triều Nguyên là tuy họ cai trị rất tàn ác nhưng lại rất cởi mở và bao dung trong việc đối xử với các tôn giáo. Trong khi ở Âu Châu có những cuộc thánh chiến rồi tiếp theo là thanh trừng dị giáo (inquisition), chém giết người khác đạo rất đẫm máu thì triều đại của người Mông Cổ lại ưu đãi mọi hàng giáo phẩm từ các đạo sĩ tới sư sãi, lạt ma, và cả những người Thiên Chúa giáo mới truyền qua. Các tu sĩ được miễn sai dịch (corvee) và có nhiều đặc quyền. Tuy nhà Nguyên có đôi khi liên minh với một tôn giáo này để tiến đánh một tôn giáo khác nhưng vì lý do quân sự và bành trướng hơn là sự bất đồng về tín ngưỡng. (Năm 1258, Hulegu, em trai của Nguyên chúa Mông Kha (Mongke) đem quân đánh thành Baghdad được sự yểm trợ tích cực của người Thiên Chúa giáo vì họ vốn có tư thù với người Muslim) Triều Nguyên cũng tin dùng người ngoại quốc hơn người Hán và phần lớn các chức vụ hành chánh quan trọng ở trong tay người Mông Cổ và những sắc dân miền Tây Vực. Trong triều có cả những người Âu Châu làm quan, và Marco Polo một người Ý đã ở trong triều của Hốt Tất Liệt 17 năm. Cuốn ký sự Những chuyến du hành của Marco Polo (The Travels of Marco Polo) xuất bản tại Nuremberg năm 1477 đã mang tiếng vang rất lớn tại Âu Châu về sự huy hoàng của miền Đông Á. Về tôn giáo, nhà vua đã chuyển hướng từ sùng bái Thiền Tông Trung Hoa sang Mật Tông Tây Tạng vì Mật Tông có nhiều lễ nghi, cầu cúng và tăng lữ Tây Tạng cũng quen thuộc hơn với việc can dự vào triều chính. Hoàng hậu Chabi rất mộ đạo và đứa con đầu đã mang tên Tây Tạng là Dorji. Các lạt ma Tây Tạng trở nên lộng quyền, khai quật cả các lăng tẩm tiền triều để tìm châu báu. Còn người Hồi Tây Vực (Muslim) thì lại càng tệ hại hơn, ngoài việc thu tóm hết tài nguyên và độc quyền nhiều ngành buôn bán, họ còn đóng vai trò thu thuế cho triều đình nên người Hán coi họ là những hung thần ác sát. Cuộc sống mỗi lúc một thêm áp bức nhất là những năm sau cùng của nhà Nguyên khi chi phí mỗi lúc một gia tăng, thuế má mỗi lúc một nặng, để có đủ tiền triều đình phải ra lệnh cho in thêm tiền giấy và vì thế nạn lạm phát càng cao. Những cuộc viễn chinh đánh Nhật Bản, Java, Đại Việt, Chiêm Thành càng làm cho quốc khố trống rỗng và chính đó là giai đoạn suy tàn của đế quốc Nguyên Mông. Khi Hốt Tất Liệt (Kubilai) từ trần năm 1294, cháu nội ông ta Temur Oljeitu lên nối ngôi (Nguyên Thành Tông). Đến khi Oljeitu chết năm 1307, tình thế trở nên bất ổn. Trong 26 năm từ 1307 đến 1333 có đến bảy đời vua, luôn luôn có những tranh giành quyền lực, ám sát, tiêu diệt lẫn nhau giữa các phe phái. Đến khi Toghan Temur (Nguyên Huệ Tông) lên ngôi năm 1333, lúc ấy mới 13 tuổi thì quyền hành vào trong tay viên thái sư Ba Diên, một người đưa ra nhiều điều luật rất hà khắc để phân biệt Hán – Mông, chẳng hạn như cấm người Hán mang vũ khí và ra chỉ thị tiêu diệt năm họ lớn nhất của Hán tộc tính ra là đại đa số người Trung Hoa (Giai đoạn này được mô tả trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký khi Thường Ngộ Xuân dẫn Trương Vô Kỵ đi đến Hồ Điệp Cốc gặp Y Tiên Hồ Thanh Ngưu). Huệ Tông làm vua cả thảy 33 năm nhưng không còn mạnh như những đời trước. Sau nhiều năm không chinh chiến, khả năng quân sự của họ suy giảm, lại thêm mất mùa dịch tễ tại nhiều nơi khiến cho lòng người càng thêm oán giận. Theo sử sách, dân số Trung Hoa trước khi người Mông Cổ cai trị vào khoảng 100 triệu thì đến cuối đời Nguyên chỉ còn chừng 60 đến 80 triệu người (Time & Life Books: What Life Was Like in the Land of the Dragon (Imperial China 960-1368) 1998 trang 113). Trong khi nhà vua chỉ ham mê tửu sắc và tin dùng bọn Lạt Ma Tây Tạng, quyền hành dần dần lọt vào tay những tướng lãnh. Để chống lại với những cuộc nổi dậy, nhà Nguyên cho phép những người có thế lực tại các địa phương được tổ chức quân đội riêng để bảo vệ cho mình. Theo những tài liệu mới đây, có đến hai mươi cuộc khởi nghĩa lớn trên toàn quốc. Tuy những đội quân địa phương này giúp triều đình trấn áp được những sứ quân cát cứ nhưng cũng khiến cho triều đình suy yếu đi nhiều và thế lực của những thân vương càng gia tăng. Trong vùng đất Hoài ở miền bắc Trung Hoa, Chaghan Temur, một địa chủ thuộc sắc tộc Hồi Uighur đã trở nên lẫy lừng vì có công đánh dẹp nhiều vụ nổi dậy và trở thành một thân vương quyền uy (John W. Dardess: The Transformations of Messianic Revolt and the Founding of the Ming Dynasty, The Journal of Asian Studies V. XXIX, No. 3, May 1970 tr. 549). Năm 1362, Chaghan bị một hàng tướng mưu sát. (Đây chính là người mà Kim Dung gọi là Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ, cha của nàng quận chúa xinh đẹp Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ Triệu Mẫn (xin xem thêm ở dưới). Những cuộc nổi dậy Phương Quốc Trân Cuối đời Nguyên tình hình chính trị suy đồi, dân chúng bị áp bức lại thêm kinh tế thất bại, mất mùa đói kém liên miên nên đâu đâu cũng có những cuộc nổi dậy. Năm Chí Chính thứ ba (1343) Chu Quang Khanh ở Quảng Châu nổi lên. Năm Chí Chính thứ 8 (1348) Phương Quốc Trân ở Hào Châu (nay thuộc Lâm Hải, Triết Giang) làm loạn kết tụ những người cùng khổ ở ven biển đi ăn cướp các thuyền buôn. Quan hành tỉnh Triết Giang là Đóa Nhi Chỉ Ban đem quân đánh đuổi tuy lúc đầu có thắng thế nhưng sau lại thua luôn, từ đó Phương Quốc Trân làm chủ một giải dọc theo bờ bể. Đến năm 1451, triều đình sai Bột La Thiếp Mộc Nhi chinh phạt bị Phương Quốc Trân dùng hỏa công khiến quân Mông Cổ bị chết đuối đến quá nửa, Bột La Thiếp Mộc Nhi bị bắt sống. Các nơi khác cũng nổi lên theo khiến triều đình không sao dẹp hết được phải ra chiếu chiêu dụ. Anh em Phương Quốc Trân nghe lời ra hàng được phong làm Định Hải Úy. Họ Phương hàng rồi lại phản, cứ thế mấy lần, triều đình cũng không sao có thể trừ được. Thế lực của Phương Quốc Trân mỗi lúc một to, quan chức được phong cũng càng ngày càng lớn. Đến năm Chí Chính thứ 16 (1456) y lên đến chức Vạn Hộ Hầu, đến năm sau lên Giang Triết hành tỉnh tham tri chính sự. Tuy y nhận quan tước nhà Nguyên nhưng trên thực tế là một sứ quân lãnh chúa một vùng Khánh Nguyên, Ôn, Đài. Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông Đời Nguyên các tôn giáo được ưu đãi, các Lạt Ma Tây Vực càng được trọng vọng, dâm loạn cung vi tại triều đình, ở trong dân chúng thành loạn Bạch Liên Giáo. Sở dĩ gọi là Bạch Liên giáo vì bắt nguồn từ Bạch Liên Xã trong Phật giáo, Tịnh Độ tông do cao tăng đời Tấn là Tuệ Viễn thành lập nhưng khi truyền trong dân gian trở thành một chi phái tôn giáo nhiều mê tín. Hàn Sơn Đồng người Vĩnh Bình vốn là giáo đồ Bạch Liên giáo chiêu tập dân chúng, năm Chí Chính nguyên niên (1440) tuyên ngôn khẩu hiệu “Phật Di Lặc xuống trần, Minh chúa ra đời” (Di Lặc Phật giáng thế, Minh chúa đương xuất) không khác gì khẩu hiệu “Trời xanh đã chết, Trời vàng hiện ra” (Thương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập) của giặc Hoàng Cân đời Hán mạt. Hàn Sơn Đồng tự xưng là cháu tám đời vua Tống Huy Tông sau được thêm những nhóm khác của Lưu Phúc Thông, Đỗ Tuân Đạo, La Văn Tố kết hợp. Thời đó đúng vào lúc Giả Lỗ (Toghto) đang đắp đê chống lụt sông Hoàng Hà, Lưu Phúc Thông liền bí mật sai người tạc một pho tượng đá một mắt, chôn sẵn ở Hoàng Lăng Cương, rồi phao ngôn rằng: “Tượng đá một mắt đừng chê, Đào sông thiên hạ tứ bề nổi lên” (Thạch nhân nhất chích nhãn, Khiêu động Hoàng Hà thiên hạ phản). Khi phu phen đào thấy tượng đá này lòng người trở nên dao động nên họ Lưu bèn giết trâu đen, ngựa trắng bí mật liên lạc với Hàn Sơn Đồng khởi sự. Tuy nhiên việc bại lộ, Hàn Sơn Đồng bị huyện quan phát giác đem quân bắt được. Vợ Hàn là Dương thị cùng con là Hàn Lâm Nhi chạy thoát. Lưu Phúc Thông bèn tập hợp đồng đảng đánh vào Dĩnh Châu (nay thuộc An Huy) rồi chia binh ra đánh các nơi, thanh thế rất lớn, quân có đến hơn mười vạn người. Đỗ Tuân Đạo được phong làm mưu sĩ (1451). Quân của y đều chít khăn đỏ nên còn gọi là Hồng quân, hay Hương quân. Quân Nguyên ra sức đánh dẹp mà không xong. Nhân dịp Lưu Phúc Thông nổi lên, Lý Nhị ở Tiêu Huyện, Quách Tử Hưng ở Hào Châu cũng nổi lên theo. Quân Nguyên đem đại binh đến đánh bị thua to. Năm 1455, Lưu Phúc Thông tìm được con trai của Hàn Sơn Đồng là Hàn Lâm Nhi tôn lên làm hoàng đế, đặt đế hiệu là Tiểu Minh Vương, đóng đô ở Hào Châu quốc hiệu là Tống, là năm Long Phượng nguyên niên. Mẹ Dương thị được tôn làm Thái Hậu, Đỗ Tuân Đạo, Thịnh Văn Úc làm Thừa Tướng còn Lưu Phúc Thông và La Văn Tố làm Bình Chương Chính Sự. Thế nhưng chẳng bao lâu vì thấy Đỗ Tuân Đạo chuyên quyền, Lưu Phúc Thông bèn giết đi tự mình làm Thừa Tướng. Từ Thọ Huy và Trương Sĩ Thành Cùng thời gian Lưu Phúc Thông và Lý Nhị, Quách Tử Hưng nổi lên còn có Từ Thọ Huy. Từ Thọ Huy tên thực là Trinh vốn làm nghề buôn vải, thường qua lại đất Kỳ Châu. Thời đó có Bành Oánh Ngọc, Nghê Văn Tuấn, Trâu Phổ Thắng thấy Thọ Huy tướng mạo khôi ngô, cho rằng có tướng phi thường nên suy tôn lên làm minh chủ, khởi binh chống lại Nguyên triều. Năm Chí Chính thứ 11 đời Nguyên Huệ Tông, Từ Thọ Huy xưng đế, quốc hiệu là Thiên Hoàn, phong Trâu Phổ Thắng làm Thái Sư. Từ Thọ Huy tuy chiếm được một khu vực rộng lớn nhưng không đủ tài để cai quản bộ thuộc thành thử đến năm Chí Chính 20 thì bị một bộ tướng là Trần Hữu Lượng giết chết. Trương Sĩ Thành người đất Thái Châu, cùng hai em Sĩ Đức, Sĩ Tín làm nghề buôn muối, tính tình hào sảng rộng rãi nên được nhiều người quí mến. Thời đó phu phen bị hà hiếp nhưng không có ai lãnh đạo, Sĩ Thành bèn kêu gọi đứng lên được mọi người bầu làm minh chủ chiếm lấy các thành Thái Châu, Hưng Hóa. Năm Chí Chính thứ 13 tự xưng là Thành Vương, đặt quốc hiệu Đại Chu, niên hiệu Thiên Hựu. Thanh thế Trương Sĩ Thành càng lúc càng lớn, vua nhà Nguyên phải sai Thoát Thoát Thiếp Mộc Nhi đem đại quân đến đánh. Tuy nhiên khi Trương Sĩ Thành kiệt lực sắp đầu hàng thì Nguyên Huệ Tông nghe lời dèm pha phái Thoát Thoát đem quân xuống Vân Nam nên họ Trương mới thoát nạn. Tới thời kỳ đó, nhóm Hồng Cân của Lưu Phúc Thông đã hùng cứ chiếm đóng nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc, Trương Sĩ Thành bèn thừa thế quân Nguyên phải lo đánh nhau với những thế lực đó bèn xua quân tiến chiếm vùng Giang Nam. Chiếm được Giang Nam rồi, Trương Sĩ Thành trở nên sa đọa, ham mê tửu sắc. Bộ tướng của Lưu Phúc Thông là Chu Nguyên Chương thấy họ Trương trải rộng bèn đem quân tấn công, bắt được em trai Trương Sĩ Thành là Trương Sĩ Đức. Năm 1357 (Chí Chính thứ 17) Trương Sĩ Thành ra hàng nhà Nguyên, đem quân tấn công giết được Lưu Phúc Thông, đuổi được Hàn Lâm Nhi. Năm Chí Chính thứ 23 (1363), Trương Sĩ Thành đòi được phong làm Ngô Vương nhưng triều đình không thuận, y liền tự lập một cõi, phong cho em Sĩ Tín làm thừa tướng, tin dùng bọn văn nhân. Chu Nguyên Chương khi đó đã trừ được Trần Hữu Lượng rồi liền sai Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đem hai mươi vạn quân tấn công, các tướng của Trương Sĩ Thành lần lượt đầu hàng Chu Nguyên Chương. Quân Minh vây đánh Bình Giang, dùng đại pháo bắn vào, Trương Sĩ Tín tử trận, Trương Sĩ Thành phải tự sát. Trần Hữu Lượng Ngoài Chu Nguyên Chương, có lẽ Trần Hữu Lượng là người đáng được để ý nhất. Trần Hữu Lượng có thể nói là nhân vật số hai trong tất cả những cuộc nổi dậy cuối đời Nguyên tranh giành ngôi vị bá chủ với Minh Thái Tổ. Một điểm đáng nói khác là theo Đại Việt sử ký bản kỷ thì Trần Hữu Lượng chính là con trai của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc (con trai thứ năm vua Trần Thái Tông) sang hàng Nguyên nhưng không có gì làm chắc chắn nên Khâm Định Việt Sử đã bác bỏ chuyện này. (Ngô Tất Tố, Văn Học Đời Trần, Khai Trí, 1960 tr. 124. Chính người viết năm 1980 đã đem chuyện này ra chất vấn Tiến Sĩ John W. Dardess, giáo sư sử học đại học Lawrence, Kansas, một chuyên viên nghiên cứu về triều đại Nguyên-Minh thì ông cho biết ông chưa từng nghe nói đến. Gần đây sử gia Trần Quốc Vượng cũng đã làm một hệ phổ của Trần Ích Tắc nhưng không thấy nói gì đến việc này. Do đó chi tiết này không thể coi là đáng tin cậy. Một vấn đề được đặt ra là họ Trần nguyên thủy là tên một tiểu quốc (nước Trần) và từ đó biến thành họ, không phải chỉ xuất hiện ở một vùng mà trải dài theo duyên hải từ nam Trung Hoa sang bắc Việt Nam. Do đó nhiều người cho rằng rất có thể cùng một nguồn gốc ở một thời kỳ xa xăm nhưng sau này không có liên hệ gì với nhau nữa). Theo sử Tàu, Trần Hữu Lượng là con một nhà thuyền chài, lúc nhỏ ham học nên khá giỏi văn chương, có hồi đã làm một chân nha lại trong huyện. Khi Từ Thọ Huy khởi binh, Lượng gia nhập binh đội của Nghê Văn Tuấn, lập được nhiều chiến công, lên đến lãnh binh Nguyên Soái. Lúc đó Nghê Văn Tuấn quyền hành khuynh loát cả Từ Thọ Huy có ý muốn giết chủ để tự mình lên làm vua. Thọ Huy phải chạy trốn vào trong quân của Trần Hữu Lượng, Hữu Lượng liền nhân cơ hội đó hộ giá đem quân tấn công Nghê Văn Tuấn cứu Từ Thọ Huy nên được thăng lên Bình Chương Chính Sự. Về sau Trần Hữu Lượng đem quân phá được An Khánh, rồi qua sông chiếm luôn Long Hưng, Thụy Châu, Cát An, Thiệu Võ trở thành thế lực mạnh nhất vùng nam sông Dương Tử. Khi đó lãnh địa của Trần Hữu Lượng đã sát với khu vực của Chu Nguyên Chương nên đang lúc y phải phòng ngự quân Nguyên, Chu Nguyên Chương liền sai Thường Ngộ Xuân tấn công lấy mất đất Trì Châu, hai bên trở thành thế nước lửa. Từ khi thanh thế trở nên lừng lẫy, Trần Hữu Lượng có ý muốn trừ khử Từ Thọ Huy để tự mình lên làm vua. Năm Chí Chính thứ 20, Trần Hữu Lượng giết Từ Thọ Huy lên ngôi hoàng đế đổi quốc hiệu là Hán, cải niên hiệu thành Đại Nghĩa nguyên niên. Tuy nhiên các bộ hạ của Từ Thọ Huy không phục nên đều bỏ đi cả thành thử Trần Hữu Lượng bị Chu Nguyên Chương đánh thua mấy trận liền. Năm Đại Nghĩa thứ tư (1363), hai bên đại chiến tại hồ Bà Dương, Trần Hữu Lượng thua to bị trúng tên chết trên sông Cửu Giang, con làTrần Lý kế vị năm sau thì về hàng Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương Nhân vật đã thu hoạch được thắng lợi sau cùng để lập nên một triều đại mới là Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương tuổi trẻ nghèo khổ, học hành rất ít nhưng là con người tính toán, nhìn xa trông rộng. Cha mẹ mất sớm, Chu phải vào chùa cạo đầu làm sư sống qua ngày. Cứ theo dã sử, ông là người xấu xí, mặt lưỡi cày, đầy nốt ruồi. Tuy nhiên theo dung mạo mà họa gia trong triều vẽ thì cũng rất oai nghi, có lẽ khi lên ngôi ăn uống đầy đủ, đầy đủ uy quyền tướng mạo cũng vì thế mà biến đổi. Chu Nguyên Chương nhìn thấy thế cục khó lòng có thể khởi binh ở miền Bắc nên tìm đường gây thanh thế ở miền Nam sông Dương Tử. Về sau được Liêu Vĩnh Trung và Du Thông Hải ở Sào Hồ giúp đỡ nên tìm được đường xuôi nam. Chu Nguyên Chương chiếm được mấy thành nghiêm cấm sĩ tốt không được cướp bóc như những nhóm khác nên đi đến đâu cũng được dân chúng đón rước rất là nồng hậu. Năm Chí Chính thứ 16 (1356), Chu Nguyên Chương chiếm Kim Lăng, đổi thành phủ Ứng Thiên bề ngoài thần phục Lưu Phúc Thông và Hàn Lâm Nhi, coi mình là thần tử nhà Tống nên được phong là Ngô Quốc Công. Kể từ đây, Chu Nguyên Chương có hai bộ mặt, bên ngoài coi như là một bộ tướng của Hoàng Đế nhà Tống (Hàn Lâm Nhi) nhưng thực tế họ Chu có toàn quyền hành động như một sứ quân. Về sau Chu Nguyên Chương sai Từ Đạt, Đặng Dũ, Thường Ngộ Xuân các tướng đem quân chiếm các nơi, mở rộng địa bàn hoạt động. Khi đó, các nơi chung quanh Chu Nguyên Chương có Trần Hữu Lượng xưng Hán Đế ở đất Giang Sở, Trương Sĩ Thành xưng Chu Đế ở Đông Ngô, Minh Ngọc Trân xưng Hạ Đế ở Ba Thục ba mặt nhòm vào, tình thế thật là nguy hiểm. Tuy nhiên dưới trướng họ Chu có những mưu sĩ giỏi như Lý Thiện Lương, Lưu Cơ, Tống Liêm, bên ngoài lại có những tướng tài như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Dặng Dũ… nên dần dần bình định được những sứ quân chung quanh. Đến thời kỳ này, Chu Nguyên Chương tự cảm thấy mình đã đủ sức thống nhất Trung Hoa nên sai người lật thuyền giết chết Hàn Lâm Nhi (con của Hàn Sơn Đồng, vua nhà Tống) vào tháng giêng năm 1366 và sau đó không còn nhân danh triều đình bù nhìn này để ra lệnh nữa. (Hàn Lâm Nhi làm vua 11 năm chứ không phải chỉ mới lên vài tháng thì bị giết như trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký). Trần Hữu Lượng bị diệt từ năm 1364, kế đến là Trương Sĩ Thành bị giết năm 1367, và Phương Quốc Trân đầu hàng cuối năm đó. Sau khi đã dẹp được những đối thủ đáng ngại nhất, Chu Nguyên Chương mở những chiến dịch lớn để tấn công lên miền bắc và đồng thời bình định nốt những nơi lẻ tẻ ở miền nam. Năm Chí Chính thứ 27 (1367), Chu Nguyên Chương phong Từ Đạt làm Chinh Lỗ đại tướng quân, Thường Ngộ Xuân làm phó tướng đem hai mươi nhăm vạn quân tiến lên đánh vào kinh đô nhà Nguyên, lại phái một bộ phận khác tiêu diệt đám tàn quân của Phương Quốc Trân và những dư đảng của các nhóm khác còn sót tại Vân Nam, Hồ Quảng. Chủ trương của Chu Nguyên Chương là lấy Sơn Đông trước để ngăn chặn đường tiến của quân Mông Cổ, đồng thời chiếm lấy Hà Nam để chặn tiếp viện rồi sau lấy Đồng Quan ba mặt cùng tiến về Đại Đô. Ngày 23 tháng giêng năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng Đế đặt quốc hiệu là Minh, niên hiệu Hồng Võ. Những ai không tán thành việc lên ngôi của ông ta về sau đều bị giết cả. Về việc đặt quốc hiệu là Minh, nhiều sử gia đã cho rằng họ Chu muốn khẳng định sự hiện diện của Minh Giáo trong quá trình nổi dậy nhưng cho tới nay cũng vẫn chỉ là một giả thuyết. Tôn giáo, kể cả các nhóm Di Lặc Tông, Bạch Liên Giáo, Minh Giáo có thể có ít nhiều đứng sau lưng những vụ khởi nghĩa nhưng không phải là một lực lượng duy nhất. Kim Dung có lẽ đã mượn lý luận này của Ngô Hàm (Wu Han), một sử gia nổi tiếng của Hoa Lục khi bắt đầu viết bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký năm 1961. (Ngô Hàm (Wu Han): Ming-chiao yu Ta-Ming ti-quo (Minh giáo dữ Đại Minh đế quốc) Tu-shih cha-chi (Peking, 1961), dẫn theo John W. Dardess trong The Transformations of Messianic Revolt and the Founding of the Ming Dynasty (The Journal of Asia Studies, V. XXIX, No. 3, May 1970) Đến tháng 10 năm 1368, vua nhà Nguyên cùng quần thần bỏ chạy ra mạc bắc và Chu Nguyên Chương tiến quân vào kinh đô. Từ một người cùng đinh nghèo khổ có lúc phải làm “sãi chùa quét lá đa”, ông đã lên ngôi một cách vẻ vang ở tuổi 40 và lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một đoàn quân do một lãnh tụ từ miền nam sông Dương Tử đã tiến lên đuổi được người Mông Cổ ra ngoài biên ải. Ở vào thời buổi này chúng ta không thấy được sự huy hoàng đó nhưng nếu nhớ lại rằng miền Bắc đó đã nằm trong tay người Thát Đát 432 năm qua các triều đại Liêu, Kim, Nguyên thì mới thấy rằng đó là một thắng lợi rất to lớn của giống dân nông nghiệp đối với giống dân du mục, phá tan cái huyền thoại sức mạnh của những kỵ sĩ từ sa mạc. Trong những năm kế tiếp, một mặt Chu Nguyên Chương tiêu diệt tất cả những mầm nội loạn có thể có, mặt khác đưa ra một chính sách đồng hóa qui mô, tiêu diệt bằng võ lực, cai trị bằng nghiêm luật và loại trừ những tổ chức tôn giáo trong đó kể cả những tổ chức trước đây đã ủng hộ ông ta. Ỷ Thiên Đồ Long Ký, tiểu thuyết và lịch sử Nhiều người đọc xong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký đã chắc lưỡi than thầm Trương Vô Kỵ đã để cho Chu Nguyên Chương lừa một cách dễ dàng, và xem ra công cuộc đấu tranh lật đổ triều Nguyên cũng không có gì khó khăn lắm. Thực tế, ngay từ năm 1340 thì đã bắt đầu có những cuộc nổi dậy và riêng Chu Nguyên Chương, ông ta phải chiến đấu liên tục gần hai mươi năm mới thành công trong việc đuổi được người Mông Cổ ra khỏi Trung Hoa. Thắng lợi của Chu Nguyên Chương có những yếu tố khách quan không thể phủ nhận được và phải nói rằng họ Chu là người có chí khí hơn tất cả những sứ quân khác. Trong khi hầu như tất cả mọi người một khi có chút thành tựu đều xưng đế, xưng vương, Chu Nguyên Chương đã nghe theo lời khuyên của Chu Thăng để áp dụng ba điều: Thứ nhất là xây dựng một căn cứ địa thật vững chắc (cao trúc tường) là Kim Lăng, một nơi hiểm yếu, ngoài đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ để làm nơi đóng đô. Thứ hai là tích trữ lương thảo (quảng tích lương), khai khẩn đất đai khuyến khích canh nông để làm kế lâu dài. Trong khi những người khác chủ trương đánh cướp các nhà giàu để lấy tiền của nuôi quân, Chu Nguyên Chương dùng kế tổ chức quần chúng, phát triển lực lượng làm kế sâu rễ bền gốc. Thứ ba là đừng vội vàng xưng vương (hoãn xưng vương) nghĩa là không tạo cho mình thành một cái gai trong mắt người Mông Cổ cũng như sự đố kỵ với các nhóm khác. Trong khi ta thấy Lưu Phúc Thông lập Hàn Lâm Nhi lên làm vua (dù danh nghĩa kế thừa Tống triều), Từ Thọ Huy lập triều đại Thiên Hoàn, Trần Hữu Lượng lập nên nhà Hán, Minh Ngọc Trân lập nên nhà Hạ… thì Chu Thăng khuyên Chu Nguyên Chương tiếp tục danh nghĩa thần tử nhà Tống, dùng niên hiệu Long Phượng để mang chính nghĩa về cho mình. Như thế ta thấy Chu Nguyên Chương là người biết ẩn nhẫn, có chí lớn đã đành mà cũng nhìn xa trông rộng khác hẳn với đám thảo khấu khác tự mãn với nhất khoảnh giang sơn có được trong tay để rồi đi vào chỗ kiêu căng, xa xỉ và khinh địch. Một nhân vật thứ hai chúng ta cũng phải để ý đến là cha của Quận Chúa Triệu Mẫn, người con gái Mông Cổ xinh đẹp lắm mưu nhiều kế sau trở thành vợ cả (?) của Trương Vô Kỵ Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ. Đặc Mục Nhĩ là phiên âm của chữ Temur, vốn là một họ gốc Hồi (Uighur) ở mạn Bắc Tân Cương. Chaghan Temur tự là Diên Thụy còn được gọi dưới tên Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi, ông tằng tổ theo quân Mông Cổ đến vùng Hà Nam, sống tại vùng Trẩm Khâu, cha là Lương Vương A Lỗ Đài. Năm Chí Chính thứ 12 (1352) đem quân đánh với giặc Hồng Cân được phong làm Đạt Lỗ Hoa Xích phủ Nhữ Ninh (tuần phủ) trấn áp đẫm máu những cuộc nổi dậy ở Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Tây. Năm Chí Chính 19 (1359), Chaghan đem quân vây Biện Lương đuổi được Hàn Lâm Nhi, Lưu Phúc Thông phải bỏ chạy ra An Phong. Năm 1361, Chaghan đem quân tấn công Sơn Đông, chiêu hàng được bọn Điền Phong Vương Sĩ Thành rồi công hãm Quan Châu, Đông Xương, Đông Bình, Tế Ninh, Tế Nam, được thăng lên Trung Thư Bình Chương Chính Sự. Năm 1362, ông ta bị bọn hàng tướng Điền Phong Vương Sĩ Thành giết chết. Quyền bính giao lại cho đứa con nuôi (vốn là cháu gọi bằng cậu) là Koko Temur (Khố Khố Đặc Mục Nhĩ). (Có nơi lại chép là đứa trẻ người Hán tên thật là Vương Bảo Bảo được ông nhận làm con nuôi nhưng đích thực là cháu gọi bằng cậu. Bản thân Saghan Temur cũng là người miền Uighur nên đôi chỗ chép lầm ông là người Hán mà thực ra Hán nhân ở đây là những dân tộc miền Bắc Trung Hoa theo phân loại của triều Nguyên như Khiết Đan, Nữ Chân, Hồi Hột… chứ không phải người Tàu. Trung Quốc Lịch Sử Từ Điển (Trương Tác Hiểu chủ biên, Văn Hóa Nghệ Thuật, Bắc Kinh 1991 tr. 1619). Người thứ hai trong gia đình quí tộc này là Koko Temur mà Nguyên Sử dịch ra là Khoáng Khuếch Thiếp Mộc Nhi, Hán danh Vương Bảo Bảo, tức anh trai của Triệu Mẫn trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Như trên đã nói, theo chính sử, người này là cháu gọi Nhữ Dương Vương bằng cậu, cũng là một nhân vật rất đặc biệt. Sách chép rằng y được Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương coi là đệ nhất kỳ nhân mà một trong ba mối hận trong đời ông ta là không bắt được Vương Bảo Bảo. Trong công cuộc đánh dẹp những vụ nổi dậy, Vương Bảo Bảo lập được rất nhiều công lao, lẫy lừng còn hơn cả Sát Hãn. Tuy nhiên đến cuối đời Nguyên vì những tranh chấp quyền bính trong triều đình, chính người Mông Cổ tự làm cho họ suy yếu vì các thân vương đánh giết lẫn nhau. Vương Bảo Bảo một mình lo đánh đông dẹp bắc, tiêu diệt rất nhiều nhân vật quan trọng của nghĩa quân được thăng lên đến Hà Nam Vương, thống lĩnh toàn bộ binh quyền nhưng vì bị một số bộ tướng làm phản nên quân Nguyên thua to, Vương Bảo Bảo phải dẫn mười tám kỵ binh thân tín chạy về mạc bắc (Trung Quốc Lịch Sử từ điển trang 568). Cái tên Vương Bảo Bảo không những đi vào lịch sử mà còn được truyền tụng dân gian như một kỳ nhân (Có một câu tục ngữ đại ý thách thức những ai huênh hoang là có giỏi thì ra sa mạc bắt Vương Bảo Bảo) và về sau khi người Mông Cổ bị đuổi ra khỏi đất Trung Hoa rồi, y vẫn còn là một mối đe dọa mãi chưa dứt. Chu Nguyên Chương đã nhiều lần dụ hàng nhưng Vương Bảo Bảo không chịu, còn giết sứ giả. Theo Minh Thực Lục, Chu Nguyên Chương đã bảy lần viết thư rất thống thiết, hai lần sai người tâm phúc của Vương Bảo Bảo đã về hàng sang chiêu dụ nhưng không thành công. Vương Bảo Bảo chết năm 1375. Thế còn Triệu Mẫn, nàng quận chúa Mông Cổ vừa xinh đẹp, vừa khôn ngoan, chỉ huy một tập thể cao thủ đông đảo, em gái của Vương Bảo Bảo, nhân vật có thể nói là vai chính thứ nhì trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký là ai? Theo sử sách, Khoáng Khuếch Thiếp Mộc Nhi có hai người em, em trai là Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi, em gái là Vương Thị. Thoát Nhân theo anh đánh trận còn cô em gái thì tuổi còn nhỏ, sống quanh quẩn trong vùng Trẩm Khâu, Hà Nam hoặc với ông nội là A Lỗ Đài ở Biện Lương. Sau khi quân Minh chiếm được Hà Nam rồi, cô ta sống bình thường như một người dân. Chính vì thái độ kiêu hùng của Khoáng Khuếch, Minh Thái Tổ cũng kính trọng lây thân quyến nên định cưới Vương Thị cho con trai thứ hai của ông ta là Tần Vương Chu Sảng. Tuy nhiên cô em gái của Khoáng Khuếch cũng quật cường, lấy cớ là còn đang để tang cha nên cự tuyệt lời cầu hôn, sau Minh Thái Tổ phải nhờ Lễ Bộ Thượng Thư Đào Khải đứng ra chủ hôn, chính thức lập Vương Thị làm Tần Vương Vương Phi. Thời kỳ đó chính là giai đoạn mà Khoáng Khuếch đã đại bại binh lực tan tác và Chu Nguyên Chương muốn tỏ một cử chỉ hòa hiếu để dụ hàng nhưng đã không thành công. Khi Chu Sảng từ trần, Vương Thị tuẫn tiết chết theo chồng. Sau khi anh chết rồi, em trai Vương Bảo Bảo là Thoát Nhân vẫn tiếp tục theo phò Nguyên chúa, đánh nhau với quân Minh chẳng may bị bắt rồi bị giết. Tổng kết Xét những cuộc nổi dậy trong những năm cuối triều Nguyên chúng ta thấy tuần tự có ba xu hướng chính: Đầu tiên là những anh hùng thảo khấu từ các bang hội bí mật, các nhóm lục lâm nổi lên, vừa có tính chất thảo dã, vừa có tính cách anh hùng kiểu Lương Sơn Bạc muốn cát cứ một phương. Đại diện cho thành phần này là Phương Quốc Trân vốn dĩ là một tay buôn muối lậu và là giặc bể. Tuy cũng thành công trong một số mặt nào đó, họ vẫn không thoát được tính chất giặc cỏ để rồi đi đến chỗ thiếu kỷ luật tàn sát lẫn nhau nên bị quân Nguyên tiêu diệt. Kế đó là những tổ chức tôn giáo phát nguồn từ một số chi lưu của Phật giáo như Bạch Liên giáo, và nhất là nhóm chít khăn đỏ (Hồng Cân). Cứ theo sử sách thời kỳ đó nhiều tôn giáo cùng hiện diện trên đất Trung Hoa và ảnh hưởng của những tôn giáo từ Trung Đông rất đáng kể. Chính sự pha trộn nhiều màu sắc khác nhau, ta thấy cùng một lúc có mặt cả Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Bái hỏa giáo (tức Minh giáo), Phật giáo Mật tông, Lạt ma giáo… và tín ngưỡng bản xứ như Lão giáo, Khổng giáo hoạt động cùng một lúc trên đất Trung Hoa. Trong thực hành, những tôn giáo này đều ít nhiều có tính mê hoặc và một số thủ lãnh cũng biết khai thác mặt tích cực của tôn giáo đối với quần chúng bằng cách tung ra những sấm vĩ, tiên tri, tự cho mình là đại diện thần linh để dễ bề chiêu dụ bách tính. Mặc dù đã có lúc những thế lực tôn giáo trở nên mãnh liệt nhưng chung qui vẫn chỉ thành những sứ quân, một mặt chống lại nhà Nguyên nhưng mặt khác vẫn tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Sau cùng chỉ có Chu Nguyên Chương là người có đầu óc hơn cả, nhìn được thế cục một cách rõ ràng, biết liên minh và khai thác thời cơ đúng lúc nên đã là người đạt được thắng lợi. Lúc đầu họ Chu đã dựa vào thế của Hàn Lâm Nhi ở mạn bắc làm phiên dậu cho mình khỏi bị quân Nguyên trực tiếp tấn công, dồn hết nỗ lực để tiêu diệt những thành phần yếu hơn ở miền nam sông Dương Tử. Chu Nguyên Chương diệt được Trần Hữu Lượng rồi bình Trương Sĩ Thành, hàng phục Phương Quốc Trân trở thành chủ nhân ông một nửa Trung Hoa màu mỡ. Tới khi đã chắc chắn có được ưu điểu thiên thời địa lợi rồi, họ Chu liền tiêu diệt nốt kẻ đồng minh sau cùng là Hàn Lâm Nhi, đồng thời tiến hành một phương sách đoạn tuyệt với những thế lực mà ông ta cho rằng mê tín dị đoan, có thể trở thành những mầm họa sau này. Những tôn giáo trước đây tưởng rằng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong triều đại mới cũng đều lần lượt bị tiêu diệt trong đó có cả Phật giáo là nơi ông ta xuất thân. Đứng trên nhãn quan phân tích lịch sử đó, chúng ta không còn thấy Chu Nguyên Chương là một kẻ đáng ghét như đã bị bẻ quặt qua ngòi bút của Kim Dung. Khi nghiên cứu về thời đại này, các sử gia Âu Mỹ phân tích những nguyên nhân gần và xa bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đã đưa đến những cuộc nổi dậy thì những sử gia Trung Hoa lại chú trong nhiều đến chi tiết cá nhân, coi mỗi người là một biến cố riêng biệt. Riêng tại lục địa, dưới nhãn quan duy vật biện chứng và giai cấp đấu tranh, các sử gia Trung Quốc lại nhấn mạnh đến tính chất quần chúng, gán cho những vụ nổi dậy chiêu bài nông dân khởi nghĩa và cố làm nổi bật một số nhân vật mà họ coi là tiêu biểu. Bành Oánh Ngọc (tức Bành hòa thượng) được miêu tả như một nhân vật chuyên đi tìm chân chúa để thúc giục nổi dậy, từ việc ủng hộ Chu Tử Vượng lập nên Di Lặc Giáo đến việc vận động giúp Từ Thọ Huy, sử dụng tôn giáo pha lẫn thần quyền để khích động quần chúng. Tuy nhiên họ cũng không thể nào phủ nhận được sự đóng góp to lớn của thành phần trí thức, điển hình là Lưu Cơ (Bá Ôn), Chu Thăng và chính nhờ những người đọc sách này mà Chu Nguyên Chương đã thành công. Về cá nhân Chu Nguyên Chương ông ta là người rất biết đại thể nên đã xây dựng những mẫu mực thật căn bản. Trong khi những người khác lo củng cố đế vị, Chu Nguyên Chương lại để tâm vào việc xây dựng một bộ máy hành chánh, thiết lập qui mô luật lệ cho có lớp lang ngõ hầu tạo cho mình một tổ chức có thực lực để về sau không rơi vào vết xe đổ của Tống triều đã đành mà còn thực hiện những gì mà đế quốc Nguyên Mông chưa hoàn tất. Phải nói rằng đúng như những chính trị gia đã nhận định, một người lãnh tụ phải biết được chữ “nhẫn”, vừa có nghĩa đen là nhẫn nại, nhẫn nhục mà còn cả nghĩa bóng là tàn nhẫn mới có thể đi đến thành công. Họ Chu quả đã có cả hai đặc tính đó. Ba mươi năm sau khi Chu Nguyên Chương lên ngôi, con trai thứ của ông ta là Chu Lệ, tức vua Thành Tổ (Vĩnh Lạc) nhà Minh đã sai Trương Phụ đem quân sang chiếm nước ta. Chính sách cai trị hà khắc của người Tàu đã châm ngòi cho những cuộc nổi dậy tuy nhỏ hơn nhưng cũng đã phần nào lập lại những gì đã xảy ra ở Trung Hoa một nửa thế kỷ trước. Không biết Lê Lợi có nghiên cứu về sử Tàu không nhưng những gì ông ta làm không khác Chu Nguyên Chương bao nhiêu, từ việc lập Trần Cảo lên làm vua để mượn danh nghĩa nhà Trần đến việc giết hại công thần khi đã lên ngôi. Phải chăng nước Nam ta là một cái bóng phản ảnh những gì thay đổi tại Trung Hoa trong một qui mô mới ở một thời điểm khác? 4/01 Tài liệu tham khảo Brosse, Jacques: 100.000 years of daily life, A Visual History, Golden Press NY 1961. Clayre, Alasdair: The Heart of The Dragon, Dragonbook ApS 1984. Dardess, John W.: The Transformations of Messianic Revolt and the Founding of the Ming Dynasty, The Journal of Asian Studies V. XXIX, No. 3, May 1970. Diệp Lão Sư: Trung Quốc Lịch Sử, Bảo Thành văn hóa, Đài Bắc 1986. Ebrey, Patricia Buckley: Cambridge Illustrated History: China, Cambridge University Press 1996. Gernet, Jacques: A History of Chinese Civilization (Le Monde Chinois, Paris 1972 translated by J. R. Foster), Cambridge University Press, New York 1986. Grousset, Rene: The Rise and Splendour of the Chinese Empire, Barnes & Noble Book, Inc. 1992 Khưu Thụ Lâm: Trung Quốc Lịch Sử Cố Sự (Nguyên triều), Thiếu Niên Nhi Đồng xb xã, Bắc Kinh 1986. Lê Kiệt: Minh Sử, Hải Kiều, Hong Kong 1962. Lê Đông Phương: Tế Thuyết Minh Triều, Văn Tinh tùng san 1966 (A Detailed History of Ming by Orient Lee, Book World Co. Ltd.). Lê Đông Phương: Tế Thuyết Nguyên Triều, Truyện Ký văn học xã, Đài Bắc 1976. Louise Levathes: When China Ruled the Seas, Simon & Schuster, New York 1994. Ngô Tất Tố: Văn Học Đời Trần, Khai Trí, 1960 (Đại Nam in lại, California USA). Phan Khoang: Trung Quốc Sử Cương, Đại Nam, Calif. tái bản (không đề năm). Rathbun, Hope W.: Echoes of Chinese History, Charles E. Tuttle Co. Japan 1967. Time & Life Books, The Mongol Conquests, Time Frame AD 1200-1300 1989. Trần Trí Bình: Trung Hoa Thông Sử (V. 8: Nguyên Sử), Lê Minh văn hóa sự nghiệp công ty, Đài Bắc 1978. Trương Tác Hiểu (chủ biên): Trung Quốc Lịch Sử Từ Điển, Văn Hóa Nghệ Thuật, Bắc Kinh 1991. MINH GIÁO Hình như ai trong chúng ta khi đọc Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung (được Tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch ra Việt ngữ dưới nhan đề Cô gái Đồ Long) đều tự hỏi Minh giáo có thực hay không, những bang phái, giáo hội đã sinh hoạt và ảnh hưởng thế nào trong xã hội. Theo bộ tiểu thuyết kiếm hiệp này, Minh giáo là một tôn giáo được tổ chức chặt chẽ và qui mô, đứng đầu phe tà và đã từng nhiều lần đụng độ với phe chính phái. Sự xuất hiện của họ thật kỳ bí và như một tấm màn dần dần vé lên, mỗi lúc lại cho chúng ta biết thêm một số chi tiết về hoạt động, về tổ chức cũng như về giáo qui của họ. Trong sử sách, Minh giáo cũng được nhắc đến, tuy không phong phú như những tôn giáo khác, nhưng cũng đại biểu cho một hệ thống tư tưởng, cái hệ thống nhị nguyên không những phổ biến trong nhiều cơ sở triết học của thế giới, mà lại cũng dễ dàng được quần chúng chấp nhận hơn vì phân biệt trắng đen, thiện ác, có những tiêu chuẩn nhất định không mơ hồ như hệ thống nhất nguyên. Nhìn theo quan điểm xã hội, hệ thống tư tưởng của Minh giáo lại tương đồng với Tây phương và trong một thời gian khá dài, những cơ sở đó tranh huy với những tôn giáo khác, tuy trên bình diện triết học không áo diệu bằng Phật học hay Lão học, nhưng về phương diện tổ chức, Minh giáo có tính quần chúng hơn và phát triển cũng có qui củ hơn. Chỉ về sau này, khi Nho giáo được đưa lên thành hệ thống học thuật làm thước đo cho khả năng của kẻ sĩ, đẩy lùi các tôn giáo khác ra khỏi quan trường, Minh giáo mới suy yếu và dần dần biến mất. Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ đối chiếu những chi tiết mà Kim Dung đưa ra trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký với Minh giáo trong sách vở để nhìn lại một vấn đề luôn luôn hiện hữu trong suốt lịch sử Trung Hoa: vai trò của tôn giáo trong các cuộc nổi dậy. Minh Giáo: Bái Hỏa giáo hay Mani Giáo? Khi nói tới Ba Tư (tức Iran ngày nay), chúng ta vẫn hình dung đó là một xứ mà mình vẫn gọi là “nghìn lẻ một đêm” với những truyện thần kỳ thật phong phú. Có lẽ ít ai biết rằng ở vào những thế kỷ đầu Công Nguyên, khu vực Trung Đông cũng đã có nhiều giao tiếp với Trung Hoa trên nhiều mặt, và tôn giáo chính của họ khi đó cũng khác hẳn với thế giới Muslim chúng ta thấy ngày nay. Đã có những triều đại thân cận với nước Tàu đến nỗi khi họ bị xâm chiếm, họ chạy qua cầu cứu và nhờ viện binh để quay về “phục quốc”, chẳng khác gì những Lê Chiêu Thống, Trần Thiêm Bình ở nước ta. Đời nhà Đường, vì gốc tích của họ cũng mang giòng máu ngoại vực, việc trao đổi văn hóa giữa các dân tộc vùng Trung Đông và Hán tộc cũng được dễ dàng. Sự phát triển và thịnh trị của thời kỳ này cũng nhờ vào chính sách tương đối khai phóng thuở ấy. Không những khoa học, kỹ thuật, các loại sản phẩm công nghiệp được trao đổi, mà tôn giáo cũng từ bên ngoài du nhập vào Trung thổ rất nhiều. Thời kỳ đó, phía Tây Trung Hoa có một dân tộc tương đối phát triển là Thổ Phồn, tổ tiên của dân tộc Tây Tạng ngày nay, là một chi lưu của người Khương. Khi vua Đường Thái Tông lên ngôi (626 Tây Lịch), vua nước Thổ Phồn là Tùng Tán Hãn Bố giao hiếu với Trung Hoa, được vua nhà Đường gả Văn Thành Công Chúa cho (641 TL). Sử sách chép rằng Công Chúa mang theo một đoàn tùy tùng rất lớn đến hơn năm ngàn năm trăm người, lại không biết bao nhiêu là sản vật, gia súc, tư trang, hàng hóa. Từ đó những vương tôn công tử nước Thổ Phồn sang Trường An du học mở đầu cho một thời kỳ giao lưu văn hóa giữa Trung thổ và các nước phía Tây. Chính thời này, các phát kiến của Trung Hoa như chế tạo nông cụ, dệt vải, nuôi tằm, xây cất, làm giấy, đồ gốm, luyện kim, lịch toán, y học… truyền ra bên ngoài và ngược lại nhiều kỹ thuật từ các nước Trung Đông cũng truyền vào nước Tàu. (Dư Tử Lựu, Nguồn Gốc Con Rồng – Long Đích Căn, Thương Vụ Ấn Thư Quán, Hongkong 1985, tr. 176) Về tôn giáo, việc truyền bá từ bên ngoài vào Trung Hoa đã có từ lâu. Ngay thời Nam Bắc Triều, một tôn giáo từ Ba Tư có tên là Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism) được truyền vào Trung Quốc. Tôn giáo này do một người Ba Tư tên là Zarathushtra – nguyên nghĩa là con lạc đà già – thành lập từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên tại Đại Hạ (nay ở biên giới Apganixtan). Người ta gọi họ là Majus hay Mazdeans. Giáo đồ của tôn giáo này lấy kinh của Ba Tư là A Duy Tư Đà (Avesta Gatha) làm kinh điển (Kinh này gồm những bài hát trong đó dạy những điều luân lý. Người viết nghĩ rằng những bài hát Tiểu Siêu hát trên Quang Minh Đính và trên thuyền trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký có lẽ Kim Dung rút ra từ kinh này), chủ trương phân ra làm hai bên thiện ác, nhị nguyên. Theo họ, việc gì quang minh, lửa, thanh tĩnh, sáng tạo, sự sống thuộc về thiện đoan. Còn hắc ám, ác, dơ bẩn, phá hoại, chết thuộc về ác đoan. Con người được tự do chọn lựa để làm điều thiện hay điều ác. Khi chết đi sẽ được Thượng đế (tức Ahura Mazda) phán xét, ai qua được thì lên thiên đường, người nào không qua thì xuống địa ngục. Vì thế khi còn sống mọi người phải làm lành, lánh dữ, bỏ chỗ tối mà tìm chỗ sáng. Châm ngôn đạo đức của họ là nghĩ điều lành, nói điều lành, làm điều lành. Họ có một nghi thức riêng để lễ “thánh hỏa” dưới quyền chủ tế của một “majus”. Tôn giáo này có thời là quốc giáo của Ba Tư trong triều đại Sasanian. Đạo Bái Hỏa truyền vào bắc Trung Hoa từ năm 516-519 theo phái đoàn của người Ba Tư. Đến đời Tùy, họ được thành lập ở Trường An những khu vực riêng để hành đạo. Ngoài việc trao đổi các sứ thần giữa hai bên, các thương nhân Ba Tư cũng sang Trung Hoa buôn bán. Hiện nay, tại Quảng Châu, Tuyền Châu, Dương Châu và Trường An, Lạc Dương vẫn còn nhiều dấu tích của người Ba Tư thời đó. Năm 621, tiên từ (shrine) đầu tiên được xây dựng cho người “hồ” ở kinh đô và đến năm 631 thì một tu sĩ (Magi) được vào làm quan trong triều. Đến năm 652, khi người Muslim từ Ả Rập (Islam) sang xâm chiếm Ba Tư, họ bị đánh đuổi, một phần chạy sang phía tây nước Ấn (nay còn lại ở Bombay được gọi là Parsees có nghĩa là người Persian) nhưng một số lớn chạy sang Trung Hoa, khi đó vào đời nhà Đường. Vua cuối cùng của triều đại Sasanian là Yazdegird đệ tam (Yazdagard III) cầu viện vua Đường Thái Tông để đem quân khôi phục đất nước. Tuy nhiên, nhà Đường từ chối và họ đành phải sống lưu vong với dân chúng vùng Tân Cương ở Trung Á nhưng lại bị thổ dân phản bội. Gần đây, khi khai quật một số địa điểm vùng Tây An, người ta đã tìm thấy một số tiền làm bằng bạc của Ba Tư thời kỳ này, nhiều mộ chí bằng cả hai thứ tiếng Ba Tư và chữ Hán. (Dư Tử Lựu, tr. 183) Nhà Đường tiếp tục bảo vệ con của Yazdegird là Peroz (Firuz) và cho phép họ được xây cất đền thờ và tiếp tục hành đạo. Peroz vẫn được công nhận là vua nước Ba Tư và được phong một chức võ quan tại triều. Ông ta chết ở Trường An và con là Narseh được tập tước vương. Narseh cố gắng đem quân Tàu về lấy lại nước nhưng thất bại và những người thuộc triều đại Sasanian định cư tại Trung Hoa trong khoảng 200 năm. Một số tiểu quốc được hình thành nằm giữa biên giới Ba Tư và Trung Hoa không theo đạo Hồi, độc lập đã tồn tại trong nhiều năm và nhiều phái bộ, sứ thần đã đến kinh đô nhà Đường trong khoảng từ 713 đến 755. Những cư dân của các tiểu quốc này trở thành những người buôn ngọc, phù thủy, thợ thủ công và thương nhân. Họ xây dựng bốn, năm tiên từ (thánh đường), tại Trường An, hai, ba tiên từ tại Lạc Dương, một tại Khai Phong và nhiều nơi khác như Dương Châu, Đôn Hoàng, Thái Nguyên… Họ cũng di cư đến nhiều nơi khác, có người tới tận Hải Nam và vùng nước ta nhưng không biết rồi ra sao. Đến năm 845, nhà Tống tiêu diệt các tôn giáo và bài xích tất cả các tôn giáo từ nước ngoài, nhất là đạo Phật và Bái Hỏa giáo cũng bị tiêu diệt. Vì họ coi lửa là đại biểu của quang minh (sáng sủa), nên việc thờ phụng “lửa thần” (thánh hỏa) là nghi lễ chính yếu. Người Trung Hoa gọi tôn giáo này dưới nhiều tên như Tiên giáo, Hỏa tiên giáo, Bái hỏa giáo, Ba Tư giáo… Bái hỏa giáo đến đời Nguyên hay Minh thì không còn ai biết đến. Theo sách vở, Bái hỏa giáo là một tôn giáo chỉ thu hẹp trong phạm vi chủng tộc và không chủ trương bành trướng hay chiêu dụ người ta theo đạo. Kinh điển của họ không được dịch sang tiếng Tàu và có lẽ người Tàu cũng không ai đổi qua theo đạo này. Tuy nhiên, họ cũng đem lại một số ảnh hưởng, vì đời Đường là triều đại mở cửa nên nhiều kỹ thuật mới được du nhập, nhiều sắc thái văn hóa được đón nhận trong sinh hoạt hàng ngày. Một tôn giáo khác cũng truyền từ Ba Tư là Ma Ni giáo (tức Manichaeism, do Mani người Ba Tư sáng lập vào thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên). Ma Ni giáo kết hợp nhị nguyên luận của hỏa tiên giáo, đồng thời dung hợp nhiều tôn giáo trong đó có một số tư tưởng của Phật giáo và Ki tô giáo mà thành. Ma ni giáo được gọi là tôn giáo của ánh sáng (Religion of Light) và truyền vào Trung Hoa qua nhiều sự tích ly kỳ. Cho đến giờ phút này, người ta vẫn chưa rõ Mani là tên người hay là một cách xưng hô tôn quí. Nghĩa của chữ này cũng không rõ ràng, theo cổ ngữ Hi Lạp thì là skeuos và homilia, nhưng hình như nguyên thủy lại bắt nguồn từ tiếng Babylonian-Aramaic có nghĩa là Vua của Ánh Sáng. Mani sinh ra tại Baghdad, khoảng thế kỷ thứ 3, dưới thời mà người Ba Tư làm chủ cả khu vực Mesopotamia, ngày nay là Iraq. Cha ông hình như là người Mandaeans. Sau khi đi lang thang trong vài năm, sống đời khổ hạnh để suy tưởng về giáo lý, năm 242 (có chỗ chép rõ là ngày 20 tháng 3) ông được mặc khải và tự cho mình là một nhà tiên tri, lập nên một giáo phái mới. “Cũng như Phật Thích Ca đến Ấn Độ, Zoroaster với Ba Tư, hay chúa Jesus đến miền Tây, thời kỳ này thiên sứ đến với ta, tức Mani, đến với vùng Babylonia”. Đó là lời tuyên bố của ông và tự cho mình là một tông đồ của Thượng đế. Ông lại đi lên Bactria ở miền tây bắc Ấn Độ, và nghiên cứu thêm về Phật giáo. Ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của các tư tưởng Gnostic (một chi phái của Thiên Chúa giáo thời kỳ sơ khai, bị coi như tà giáo). Đến năm 241, ông quay về Ba Tư sau khi vua Shapur đệ nhất lên ngôi, là người dung chứa các tôn giáo. Ông bắt đầu truyền giáo, dung hợp cả Gnosticism, Zoroastrianism, Christianity, Buddhism, Lão giáo và những tôn giáo địa phương tại Ba Tư. Trong suốt thời vua Shapur, ông được tự do truyền giáo và hoạt động trong khối giáo đồ của mình. Thế nhưng khi vua Bahram đệ nhất lên ngôi, người giáo đồ Bái hỏa coi Mani là thù nghịch. Mani bị cầm tù và bị đóng đinh, xác bị bêu tại cổng thành để răn đe những người theo ông. Những tín đồ của đạo Mani cũng bị tàn sát không thương tiếc. Theo sử sách ông chết khoảng 276-277 sau Công Nguyên. Tôn giáo của ông truyền sang tận Bắc Phi, Nam Âu châu và Trung Hoa. Tư tưởng chính yếu của đạo Manichaeism là nhị nguyên đối đãi và mục tiêu của con người là làm sao giải thoát được bằng cách khai mở luồng ánh sáng vốn bị vật chất giam hãm. Có hai đẳng cấp trong giáo phái này, đẳng cấp tu sĩ là thành phần được “thiên khải”, và “giáo đồ” là đại số quần chúng phục vụ cho thành phần được Thượng Đế lựa chọn. Tu sĩ sống độc thân, khắc kỷ, chỉ lo đi truyền giáo và học đạo. Những tu sĩ chắc chắn sẽ được giải thoát ngay khi chết vì họ đã được ân sủng của minh tôn. Giáo đồ có quyền lập gia đình nhưng phải chăm lo phục vụ các trưởng lão, và khi chết đi sẽ được tái sinh làm tu sĩ. Chính đạo này, dưới cái tên Ma ni giáo, Minh tôn giáo hay Minh giáo đã ảnh hưởng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của Trung Hoa trong một thời gian khá dài, hơn hẳn những tôn giáo khác cũng xuất xứ từ Ba Tư. Ma ni giáo truyền vào Trung Thổ khoảng năm 694 đời nhà Đường, mặc dù đạo này có một số ảnh hưởng đến Lão giáo từ trước đó. Năm 694 cuốn Nhị Tông Kinh (Erzongjing) bộ kinh chính yếu của họ được đem vào nước Tàu. Theo Minh Sử viết vào thế kỷ thứ 17, một mục sư vào truyền giáo dưới thời vua Cao Tông (650-683) nhưng nhiều học giả không đồng ý mà chỉ công nhận là năm 719 có một đại trưởng lão của họ từ Tokharistan đến mà thôi. Năm 732, trong một chỉ dụ của nhà Đường có nhắc tới họ đi truyền tà giáo mang danh nghĩa một tông phái của đạo Phật. Tuy nhiên vì đây là một tôn giáo của người Hồ nên triều đình không cấm chỉ miễn là họ giới hạn việc sinh hoạt trong những dân tộc thiểu số. Năm 745, người Hồi Hột (Uighur) kiến tạo một vương quốc rộng lớn, kéo dài từ sông Ili (Y lê) đến tận sông Hoàng Hà. Một trong những tiểu vương (khans) theo đạo Ma ni năm 762 và Ma ni giáo trở thành quốc giáo của Tân Cương. Tới lúc đó, một số lớn người Hồi (Uighurs) đã cải đạo theo đạo Ma ni và sau khi họ giúp nhà Đường chống lại loạn An Lộc Sơn, một số đông người Hán cũng theo. Họ có thể đã xây cất nhiều đền đài từ trước nhưng sách vở chỉ chắc chắn là có một đền Ma ni – dưới tên Hán tự là Đại Vân Quang Minh (Dayun huangming) được thành lập tại Trường An năm 768. Khoảng năm 771, tại các vùng Kinh, Dương, Hồng (Nam Xương), Việt (Thiệu Hưng) cũng có đền Ma ni và đầu thế kỷ thứ 9, tại Lạc Dương, Thái Nguyên đã có những đền thờ của họ được xây cất. Như vậy xét về mặt địa lý, giáo phái này bành trướng từ miền Tây Trung Hoa lan sang tận miền đông, sát bờ biển. Nhà Đường tương đối khoan dung hơn người La Mã khi họ bách hại người Thiên Chúa giáo và người Ma ni giáo vào thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên. Đến năm 842-843, khi dân tộc Hồi suy yếu vì bị người Kirghiz đánh bại, triều đình lại bắt đầu một chính sách bài giáo, đặc biệt là những tôn giáo từ bên ngoài truyền vào Trung thổ nhất là Phật giáo. Ma ni giáo cũng bị càn quét, đền đài bị phá hủy, của cải bị tịch thu, kinh sách bị đốt. Tại Trường An, hơn 70 nữ tu Ma ni bị giết. Từ đó họ phải lui vào bóng tối, hoạt động âm thầm và biến thành một đoàn thể bí mật. Họ chia ra thành nhiều chi phái, dưới nhiều tên khác nhau và cũng hoạt động trong những khu vực hay hình thái khác nhau. Chi lưu mạnh nhất có tên là Minh Giáo, tôn Trương Giác đời Đông Hán làm giáo tổ, còn thờ Ma Ni làm thần Quang Minh. Chính đây là tôn giáo mà Kim Dung đã huyền thoại hóa trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký thành Minh Giáo, một đoàn thể vừa mang màu sắc bang hội, vừa có thêm một số nghi lễ thần bí, đứng đầu phe hắc đạo. Giáo nghĩa của họ chủ yếu là phân biệt hai đằng thiện ác, sáng tối, dùng thuyết tam tế phân biệt ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai làm nền tảng, và tin tưởng rằng quang minh rốt ráo sẽ chiến thắng hôn ám. Giáo đồ Minh giáo mặc đồ trắng, sống giản dị, cần kiệm, ăn chay, không uống rượu, người chết thì để trần truồng đem bỏ ngoài sa mạc cho chim ăn, không thờ tổ tiên, thần, Phật mà chỉ lễ bái mặt trời, mặt trăng. Tổ chức trong giáo phái này rất nghiêm mật, trưởng lão của họ gọi là hành giả, giáo đồ chia thành thị giả, thính giả, cô bà, trai tỉ… Họ truyền bá mạnh tại các vùng Hoài Nam, Mân, Triết, Cám (Giang Tây). Về sau họ hợp nhất với Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo. Minh giáo phát triển mạnh khoảng thế kỷ thứ 11 sau Công Nguyên. Theo Al-Beruni, một sử gia Ả Rập thì “đa số người Hồi, người Trung Hoa và Tây Tạng ở vùng Tây Vực, cả một số người Ấn Độ cũng theo đạo Mani”. Những kinh điển và tài liệu người ta tìm được ở Turfan gần đây phù hợp với những nhận định đó. Thời kỳ này Minh giáo đã bành trướng mạnh và trở thành một tôn giáo có thế lực. Qua đời Ngũ Đại, Tống, Nguyên họ khởi nghĩa nhiều lần, đặc biệt là cuộc nổi dậy Mẫu Ất thời kỳ cuối của nhà Lương, hay Phương Lạp đời Tống (1120-1122). Cuộc khởi nghĩa quan trọng nhất mà họ tham gia có lẽ là cuộc nổi dậy chống lại người Mông Cổ vào thế kỷ thứ 14, lập nên triều đại nhà Minh, mặc dầu nhiều học giả không cho rằng nhà Minh có liên quan đến Minh giáo. Hiện nay, đền thờ duy nhất của người Mani còn sót lại trên thế giới ở tại Quan Châu (Phúc Kiến), vùng duyên hải Trung Hoa trong đó có khắc nổi tượng Ma Ni dưới danh hiệu Quang Minh Phật (Buddha of Light). Có lẽ vì tên Mani tương đồng với Thích Ca Mâu Ni nên nhiều người đã lầm lẫn giữa hai tên này. Tuy nhiên hình tượng khác hẳn hình tượng của Phật giáo. Trên đầu có một vòng hào quang, với hai chùm tóc chảy từ đầu xuống vai. Hình tượng mặc áo trắng và theo tự tích khắc ở đó thì ngôi đền này do một giáo đồ kiến lập năm 1340. Tài liệu ngày nay người ta kiếm được để nghiên cứu về đạo Mani được gọi là Turfan (Turpan), là những kinh điển mà các khảo cổ gia người Đức đào được ở Đôn Hoàng (Dunhuang) vào khoảng 1902-1914. Trong số các tự tích tìm thấy có cả những đoạn mà từ lâu nay bị mất trong thánh kinh của họ, cả những văn chương viết bằng tiếng Pahlavi, Saghdian, Thổ Phồn và tiếng Hán. Một số tài liệu khác về đạo Ma ni thì kiếm thấy ở Ai Cập năm 1933 và trong những sách vở bài xích đạo Ma Ni do người đạo Thiên Chúa, Muslim hay Bái Hỏa viết. Thi nhân Bạch Cư Dị đã từng viết một bức thư thay mặt vua nhà Đường trả lời cho vua nước Hồi khi họ xin triều đình Trung Hoa bảo vệ những người theo đạo Mani. Julia Ching nhận định là vấn đề của đạo Mani là họ vay mượn từ các tôn giáo khác khiến cho đối với các dân tộc Cận Đông thì họ giống như Thiên Chúa hay Do Thái giáo, trong khi đối với các dân tộc Viễn Đông thì họ lại giống như Phật giáo. Chính Mani cũng coi Jesus là đấng tiên tri của người Do thái, Zoroaster là đấng tiên tri của người Ba Tư, còn Phật Thích Ca là đấng tiên tri của người Ấn Độ. Và khi ông tổng hợp được nhiều tôn giáo trong đạo của mình, ông ta tin rằng “Giáo hội của ta ưu việt hơn các giáo hội đã có từ trước, và những tôn giáo trước đây chỉ phổ biến tại một số quốc gia hay thành thị, còn Giáo hội của ta sẽ lan truyền đến khắp mọi thành phố, và lời giao rảng của ta sẽ đến khắp thế gian.” (Julia Ching, Chinese Religions tr. 174) Một trong những đặc tính của các tôn giáo ở Trung Hoa là những tổ chức này không hoàn toàn mang tính chất tôn giáo mà luôn luôn pha thêm một số hình thức thế tục trên phương diện xã hội hay chính trị. Tôn giáo cũng không có một vị trí quyền lực cao cấp như tại Tây phương. Tuy có một số thời kỳ, nước Tàu có những Quốc Sư nhưng những vị cao tăng đó không thể nào sánh được với thế lực của những giáo hoàng hay giáo chủ ở Âu Châu hay Trung Đông. Minh giáo hình thành vào đời Đường là giai đoạn văn hóa tương đối khai phóng nên được chấp nhận dễ dàng cũng như Phật giáo nhưng đến triều Minh, Thanh, khi Nho giáo đã có một vị trí độc tôn, các tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài không còn được coi trọng nữa. Chính vì thế, cũng như nhiều tôn giáo khác, Minh giáo dần dần tàn lụi. Trên thực tế, Minh giáo là một tôn giáo rất khắt khe. Những tu sĩ của họ phải sống một đời sống khắc kỷ và giữ mình nghiêm nhặt. Theo kinh điển của giáo phái này, những người được Thượng đế lựa chọn (Primates Manichaeorum) có một đời sống khổ hạnh và phải luôn luôn di hành, không được ở yên một chỗ. Họ không được quyền có tài sản, không ăn thịt, uống rượu, và trấn áp mọi dục tình. Họ cũng không có quyền có nghề nghiệp, buôn bán, hay học những ma thuật hoặc nghiên cứu tôn giáo ngoài chính tôn giáo của họ. Nhiệm vụ chính yếu của họ là kìm giữ và đóng kín ba cửa ải – miệng, tay và ngực (oris, manuum, sinus). Để giữ miệng, họ không được nói năng độc địa, không ăn uống các chất độc hại. Thịt gia súc sẽ khởi động ma vương trong cơ thể con người, vì thế họ chỉ được ăn rau cỏ và trái cây. Để giữ gìn cho bàn tay khỏi ô uế, họ không được sát sinh, bẻ cây hái trái. Để giữ gìn cho trái tim được trong sáng, họ không được nghĩ ngợi bậy bạ chẳng hạn như nghĩ những điều không trong sạch hay trái với giáo lý của đạo Mani. Họ cũng không được lập gia đình vì coi rằng sự truyền chủng là một hành động kéo dài sự tăm tối, và loài người sinh sản chính là vì bị Thượng đế trừng phạt. Chính vì khó khăn như thế nên số người được ở trong hàng giáo phẩm rất hiếm hoi. Minh Giáo theo Kim Dung Không biết rằng vô tình hay cố ý, Kim Dung đã cố tình pha trộn giữa Bái hỏa giáo và Ma ni giáo. Mặc dù hai tôn giáo này có những điểm chung, sử sách không nói rằng Ma ni giáo cũng coi lửa làm biểu tượng của quang minh như Bái hỏa giáo. Do đó Minh giáo qua Kim Dung là một tổ chức được tiểu thuyết hóa, ít tôn giáo mà nhiều tính chất bang hội. Chính vì thế chúng ta thấy Minh giáo được tổ chức chặt chẽ nhưng lại dựa trên những liên kết thế tục hơn là thần quyền. Từ một đoàn thể bí mật, Minh giáo đã nhanh chóng biến mình để thành một đảng cách mạng. Chúng ta có thể nói rằng Minh giáo của thời Mạt Nguyên có nhiều điểm tương đồng với Thiên địa hội đời Thanh sơ hay Thái Bình Thiên quốc đời Thanh mạt và hoàn toàn khác hẳn những tôn giáo sẵn có ở Trung Hoa, tiêu biểu là Phật giáo hay Lão giáo. Ngay từ sau chương giới thiệu câu chuyện, Kim Dung đã cho xuất hiện nhiều nhân vật liên quan đến tà giáo nhưng không đề cập đến nguyên ủy ngọn ngành của họ. Một Ân Tố Tố nữ cải nam trang cố tình làm cho phái Thiếu Lâm tưởng Trương Thúy Sơn là thủ phạm vụ giết người ở Long Môn tiêu cục, một Tạ Tốn thần oai lẫm lẫm khi đến Vương Bàn Sơn đảo cướp thanh đao Đồ Long. Rồi những nhân vật hạng nhì như Thường Kim Bằng hay Bạch Qui Thọ cũng có võ công hơn người khi dương đao lập uy. Hết việc nọ tới việc kia, cho tới khi hai vợ chồng Trương Thúy Sơn – Ân Tố Tố tự sát, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ tà phái được tổ chức như thế nào. Tấm màn bí mật đầu tiên được vén lên là khi Trương Tam Phong cứu Thường Ngộ Xuân khi người này bị quân Mông Cổ truy kích trên sông Hán Thủy: … Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói: - Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ. Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói: - Thường anh hùng không cần phải dùng đại lễ. Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi: - Phải chăng Thường anh hùng đã bị nội thuơng? Thường Ngộ Xuân nói: - Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ xuôi Nam, giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng. Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng. Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh dưỡng. Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép, tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt. Trương Tam Phong thấy cô bé đáng thương, hỏi: - Cô nương, tên cô là gì? Cô gái đáp: - Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược. Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay” nên hỏi tiếp: - Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về. Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp: - Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền thôi… chứ không có ai khác. Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: “Cô gái này nhà tan người mất, lại bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?” Thường Ngộ Xuân nói: - Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì? Trương Tam Phong cười: - Lão là Trương Tam Phong. Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng: - Hoá ra lão đạo gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng. Trương Tam Phong mỉm cười: - Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến vết thương. Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo: - Ngươi bị thuơng không phải là nhẹ, chớ nên nói nhiều. Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn: - Hai chữ chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì cũng là chính nhân quân tử. Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt, cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ “tà ma” càng lúc càng thấy ghét bỏ. Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia (tức cấp trên của Thường Ngộ Xuân) chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh giáo, năm trước khởi sự tại Viễn Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng đều là chi lưu của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện tại Triết Giang. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động, và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản nguyện. Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu, không chịu ăn. Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói: - Đạo trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này. Trương Vô Kỵ nói: - Ta no rồi, không muốn ăn nữa. Chu Chỉ Nhược nói: - Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư? """