" Đóa Hồng Quỷ Quyệt - Dot Hutchison & Hoài Thu (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đóa Hồng Quỷ Quyệt - Dot Hutchison & Hoài Thu (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Cho những cô gái nguy hiểm có nụ cười sắc sảo Tên nàng là Darla Jean Carmichael và nàng là mối tình đầu của anh. Nhưng anh thật sự vẫn chưa biết gì về nàng đâu. Điều duy nhất mà anh biết, trong ngày xuân tươi đẹp này, chỉ là dường như ngay cả Chúa cũng dốc tâm dốc sức làm nàng trở nên lộng lẫy hơn. Nàng là vẻ đẹp thuần túy, chân thật, không giả tạo cũng chẳng phô trương; và đó là lý do vì sao anh yêu nàng. Mái tóc vàng óng ả của nàng đổ những lọn sóng xuống tấm lưng và nàng đang mặc lại chiếc váy trắng Phục sinh kiểu cổ của mình, thậm chí còn mang găng tay đăng ten và đội mũ kết đăng ten. Anh đã từng chiêm ngưỡng một tuyệt tác nào đẹp đến dường này chưa? Thuần túy tới dường này chưa? Và ngay cả thiên nhiên hôm nay cũng đồng ý với anh. Dọc hai bên con đường đầy bụi và không một bóng cây dẫn tới nhà thờ, cỏ mọc xanh rì lẫn với những bụi thủy tiên cả vàng cả trắng, như thể chúng không hề có ý định vươn cao hơn để với tới Darla Jean. Kể cả những đóa cúc đại cũng chỉ mang hai sắc vàng, trắng, và từ bấy đến nay chúng chỉ như những dải ruy băng tô điểm cho hoa oải hương tím nhẹ nhàng chạy xuyên qua những cánh đồng. Nhưng năm nay chỉ có Darla Jean mà thôi. Ngoại trừ… đó không hoàn toàn là Darla Jean. Tay nàng vòng qua cánh tay của một gã trai trẻ, bấu lấy khuỷu tay gã như thể tay nàng thuộc về nơi ấy, nhưng thật sự nó không dành cho nàng. Bàn tay nàng không thuộc về nơi đó vì gã kia không phải anh. Darla Jean là của anh. Nàng luôn là của anh. Nàng chưa từng cần anh nói với nàng điều này, bản thân nàng luôn biết nàng là của anh, theo cách mà nàng nên thế, bởi hai người sinh ra là dành cho nhau, bất kể người khác có nói gì nếu biết về điều này. Giận dữ, tan nát, anh theo họ tới nhà thờ nhỏ xây bằng gạch, tựa lưng vào hằng hà sa số những cây hoa đang thì rực rỡ, khiến cho nhà thờ trông như một mũi kim. Bằng cách nào đó, mặc dù cảm xúc đang chạy đua dồn dập trong hai tai anh như một nhịp tim khác, anh vẫn có thể cảm nhận được những điều khác. Bàn tay còn lại của gã trai kia cầm một cái lẵng chứa những kỷ vật mà mẹ nàng muốn nàng mang tới lễ đường, mỗi món được gói lại cẩn thận để bán nhằm quyên góp cho nhà thờ xây lại phần ngói mới trước khi mùa bão tới. Hắn cứ tựa vào nàng mỗi khi nàng cười. Còn nàng thì đang cười rất nhiều. Nhưng những thanh âm đó là của anh, giống như mọi thứ thuộc về nàng, chúng là của anh, làm sao nàng lại có thể chia sẻ chúng với một người khác cơ chứ? Tiếng cười ấy đã luôn vỗ về anh, xoa dịu cơn giận dữ đang bùng nổ trong anh. Nhưng giờ đây mỗi khi nghe thấy tiếng cười của nàng - lanh lảnh và mềm mại, tựa như những ngọn gió trên mái hiên nhà sau - anh đều cảm thấy đau nhói trong lồng ngực, một vọng âm nhói cả óc. Họ cùng tiến vào lễ đường và chỉ một hai phút sau, anh đã tìm thấy một ô cửa sổ nơi anh vừa có thể nhìn thấy họ rõ ràng, vừa tránh bị phát hiện. Nàng không nên biết anh đang ở đó để chứng kiến nàng đã nợ anh những gì và lẽ ra nàng nên cư xử như thế nào. Bên trong lễ đường, những mảng tối sáng của ánh mặt trời rực rỡ ngoài kia đan vào nhau tạo nên một khoảng không mơ hồ khiến anh không thể biết điều gì đang diễn ra trong đó. Nhưng rồi anh nhận ra. Tất cả những gì anh thấy là máu. Gã đang hôn nàng, hay nàng đang hôn gã, hai gương mặt nghiêng về phía nhau, còn cơ thể hai người chỉ cách nhau có một gang tay. Đó có lẽ là nụ hôn đầu của gã. Anh biết đó là nụ hôn đầu của nàng. Nụ hôn mà lẽ ra phải thuộc về anh - nụ hôn anh đã đợi chờ suốt những năm tháng qua. Nhưng thật kỳ lạ, anh lại đang chúc phúc cho nàng, bởi anh biết rằng nàng quá thuần khiết, quá trong sáng và không đáng bị những hờn ghen vớ vẩn bôi nhọ. Nàng quả thật quá thuần khiết. Quá trong sáng. Anh trượt xuống bức tường bao ngoài nhà thờ, những mảnh gạch ngói thô ráp cào xước và xuyên qua áo quần, đâm vào da thịt anh đau nhói. Anh rùng mình - có lẽ anh đang khóc. Làm sao nàng có thể? Làm sao nàng có thể làm điều đó cho chính nàng, và cho anh? Làm sao nàng có thể để chính mình bị bôi nhọ? Bây giờ nàng chẳng có giá trị gì, chẳng khác chi những cô gái điếm ngoài kia, lúc nào cũng phô bày cơ thể, nụ cười cùng ánh mắt vừa độc ác vừa lọc lõi của mình. Thế mà, anh những tưởng đã có thể tôn thờ nét tinh khôi của nàng cho tới hơi thở cuối cùng. Nhưng anh vẫn yêu nàng. Làm sao anh có thể vẫn yêu nàng cơ chứ? Tình yêu anh dành cho nàng đủ lớn để cứu rỗi nàng, ngay cả khi anh phải cứu nàng khỏi chính nàng. Anh nghe thấy tiếng cậu bé rời đi, một lời xin lỗi buột khỏi đôi môi cậu - cậu phải rời đi để giúp những người anh em chuẩn bị sẵn sàng. Anh nghe thấy tiếng cha xứ vui vẻ chào Darla Jean. Cha nói với nàng rằng cha phải vào thị trấn để mua cốc đựng nước chanh - và hỏi liệu nàng sẽ ổn khi ở một mình chứ. Đương nhiên nàng sẽ ổn. Nàng lớn lên trong chính nhà thờ này. Nơi đây là mái ấm an toàn của nàng. Nàng chẳng thể tưởng tượng ra thế giới ngoài kia, nơi không phải lúc nào mọi thứ cũng thật, cũng đúng. Trong khi nhìn theo bóng cha xứ đi xuống phía con đường, xa dần, xa dần, anh bỗng nghe thấy nàng cất tiếng hát. Những bài hát của nàng cũng là của anh và không ai khác có thể nghe chúng lúc này. Nàng chào anh bằng một nụ cười thành tiếng khi anh đi vào lễ đường, đôi mắt nàng bừng sáng. Anh không thể gọi đó là chân thật. Không còn chân thật nữa. Không hề chân thật khi mà giờ đây nàng đã mất đi sự trong sáng. Nụ cười của nàng trở nên ngượng ngùng khi anh tới gần. Nàng có đủ dũng khí để hỏi anh rằng vấn đề ở đây là gì. Anh biết anh chẳng có nhiều thời gian - từ đây vào thị trấn chỉ chưa tới hai dặm và cha xứ thường xuyên đi bộ tới đó - nhưng anh có đủ thời gian để nói cho nàng nghe. Anh sẽ nói cho nàng nghe mọi điều. Anh đã hứa sẽ ở bên nàng cả cuộc đời, anh sẽ luôn ở đó khi nàng cần. Anh đã hứa cho nàng cả thế giới. Nhưng nàng đã ném lời hứa đó đi. Đó hoàn toàn là lỗi của nàng. Anh đã bỏ chạy thật nhanh, trong lòng vẫn sục sôi những tổn thương và phản bội. Darla Jean ở lại phía sau, nằm dài trên tảng đá, chiếc váy Phục sinh tan tác và rách vụn, như vừa được lôi lên từ một bể nước đỏ. Những đóa thủy tiên anh ngắt cho nàng - một món quà và hãy xem nàng đã làm gì với nó kìa - đang nằm la liệt xung quanh nàng. Đôi mắt nàng mở to và trống rỗng, một tiếng vang của nỗi hoang mang, và anh đã trao cho nàng một nụ cười nham nhở mà nàng có thể chia sẻ cho cả thế giới nếu nàng muốn. Nàng không thể cười, không thể hát, không thể phá hủy những thứ là của anh nữa. Nàng không thể làm gì nữa. Có lẽ đây không phải là điều anh mong muốn. Có lẽ lưỡi dao săn mồi của anh đã trượt khỏi tay và đâm quá sâu. Có lẽ anh đã quên rằng có quá nhiều máu gần với bề mặt. Có lẽ anh đã hành động đúng như những gì anh mong muốn. Sau tất cả nàng cũng chỉ là một cô gái điếm. Giờ đây Darla Jean đã chết. Anh không hề biết nàng là mối tình đầu của anh. Có điều này anh chưa biết, nàng cũng không phải là người cuối cùng của anh. THÁNG HAI Những xấp giấy tờ công việc, nếu không được ai thu vén, có thể nhân lên theo cấp số mũ, với tốc độ chóng mặt như đám thỏ và lộn xộn như móc treo quần áo ngoặc vào nhau. Cau có nhìn những tập tài liệu mới nhất trên bàn, Đặc vụ Brandon Eddison không thể ngừng băn khoăn trông chúng sẽ ra sao khi cháy. Sẽ không tốn nhiều thời gian để đống giấy tờ này hóa thành tro bụi. Chỉ một cú đánh diêm, gạt bật lửa vào góc của một, hai trang giấy nằm giữa là ngọn lửa sẽ cháy đều, và rồi tất cả đám giấy tờ kia sẽ cháy rụi. “Nếu anh đốt chúng, anh vẫn phải in lại và rồi anh sẽ có thêm giấy tờ về vụ hỏa hoạn này nữa,” một giọng cười vang lên ngay bên phải anh. “Im đi, Raimrez,” anh thở dài. Mercedes Ramirez - cô bạn thân và cũng là đồng nghiệp của anh - chỉ tiếp tục cười lớn và ngả ra ghế của mình, kéo căng chiếc ghế thành một đường cong dài. Chiếc ghế của cô rên lên cót két phản đối. Bàn làm việc của cô cũng bề bộn giấy tờ. Không phải được xếp thành từng chồng mà là vứt ngổn ngang. Nhưng nếu anh hỏi cô về bất kỳ thông tin nào, cô cũng sẽ tìm thấy nó mà chẳng cần tốn đến một phút và anh chẳng bao giờ hiểu nổi tại sao cô có thể. Ở trong góc, đối diện với những chiếc bàn chữ L của họ là hang ổ của sếp, Quyền đặc vụ cấp cao Victor Hanoverian. Có một điều khiến Eddison vừa sợ vừa ngưỡng mộ đó là giấy tờ trên bàn làm việc của Victor dường như đều được xử lý và phân loại trong những tệp tài liệu có màu sắc khác nhau. Là sếp của bộ ba gan dạ này, số giấy tờ mà Vic phải xử lý nhiều hơn cả, nhưng lúc nào ông cũng là người hoàn thành chúng đầu tiên. Ba mươi năm trong ngành đã biến ông thành người như vậy, Eddison đoán, nhưng đó là một suy nghĩ đáng sợ. Anh quay lại phía bàn làm việc của mình và nhìn chồng giấy mới nhất, càu nhàu khi đọc những trang trên cùng. Anh có một hệ thống, và hệ thống của anh khiến Ramirez phát điên như phong cách làm việc của cô khiến anh mệt mỏi, và bất kể chồng giấy tờ có cao đến đâu, anh cũng không tốn nhiều thời gian để sắp xếp chúng vào đúng những chồng giấy phía cuối bàn, phân loại theo chủ đề và cả mức độ ưu tiên. Chúng được sắp đặt gọn gàng, vuông vức với cạnh trong và các góc của bề mặt, xen kẽ nhau theo chiều dọc và chiều ngang. “Đã có vị bác sĩ tài ba nào nói chuyện với anh về vấn đề này chưa?” Ramirez hỏi. “Thế A&E đã bao giờ cố gắng can thiệp vào vấn đề của cô chưa?” Cô cười khúc khích rồi quay về bàn làm việc của mình. Sẽ thật hay ho nếu trong một khoảnh khắc bất cẩn nào đó, cô sập bẫy. Cô tuyệt nhiên không hề bình tĩnh nhưng thật kỳ lạ, cô luôn miễn nhiễm với những lời trêu đùa. “Mà này, Vic đâu nhỉ?” “Trên đường quay lại phòng hỏi cung; Bliss yêu cầu ông ấy phải có mặt ở đó.” Eddison băn khoăn liệu có nên chỉ ra rằng cách đây ba tháng rưỡi, sau khi họ cứu những cô gái khỏi khu vườn đang cháy, cô vẫn đang sử dụng tên của những loài bướm để gọi những nạn nhân, những cái tên do chính kẻ bắt cóc đặt cho họ. Nhưng anh không nói ra. Có lẽ cô cũng tự biết. Phần lớn thời gian, công việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều nếu họ có thể sắp xếp mọi thứ gọn gàng vào những chiếc hộp nhỏ trong đầu, và việc sắp xếp được tên các cô gái này trước khi họ bị bắt cóc còn khó hơn nhiều. Anh cần phải bắt tay vào công việc. Anh sẽ dành hôm nay, hoặc phần lớn hôm nay, để giải quyết giấy tờ và anh thật sự nên thanh toán xong ít nhất một trong những chồng giấy kia vào cuối ngày. Mắt anh dừng lại ở chồng tài liệu màu mè nằm ở góc trong cùng bên phải bàn làm việc, chồng giấy tờ cứ cao lên theo năm tháng mà không hề nhận được câu trả lời. Chồng tài liệu này chẳng bao giờ biến mất. Anh ngả người ra ghế và nghiên cứu hai tấm ảnh lồng khung nằm ngay trên đầu trong chiếc tủ đựng tài liệu trơ ì chứa văn phòng phẩm và những biểu mẫu còn trống. Một trong những bức ảnh là ảnh chụp anh và em gái mình vào dịp Halloween cách đây nhiều năm, một trong những lần cuối cùng anh trông thấy con bé trước khi nó bị lôi đi trên phố trên đường đi học về. Khi đó con bé mới tám tuổi. Logic mách bảo anh rằng chắc hẳn con bé đã chết. Đã hai mươi năm kể từ ngày đó và anh vẫn thấy mình điều tra bất kỳ cô gái nào trạc hai mươi tuổi trông giống em gái mình. Hy vọng là một điều lạ lùng và luôn thay đổi. Nhưng rồi, cả Niềm tin cũng thế, lạ lùng và dễ lung lay, khi đó cô chỉ là em gái anh, chứ không phải một đứa trẻ trong danh sách trẻ mất tích. Bức ảnh còn lại mới hơn, được chụp cách đây chỉ vài năm, một món quà lưu niệm từ chuyến dã ngoại phiền toái và bất ngờ nhất không liên quan tới công việc mà anh từng tham gia. Priya và mẹ cô đã lôi anh tham gia hàng tá những chuyến thưởng ngoạn kỳ cục trong thời gian khoảng sáu tháng họ sống ở D.C., nhưng chuyến đi đó đầy những cơn ác mộng. Anh thậm chí còn không chắc bằng cách nào họ đã tới được cánh đồng đặt tượng bán thân của các đời Tổng thống Mỹ. Nhưng mà thật sự họ đã tới được đó và trong một khoảnh khắc Eddison và Priya đã thật sự leo lên tới vai của ngài Lincoln, cả hai cùng chỉ vào một lỗ lớn đằng sau đầu của bức tượng. Là thật? Đúng vậy. Do người ta cố ý tạo ra? Nếu dựa trên những vùng méo mó khác của những bức tượng cao tới hai mươi foot này thì… không, không hẳn là do cố ý. Ngày hôm đó họ còn chụp nhiều bức ảnh khác - chúng đã được cất giữ an toàn trong hộp giầy đặt ở đáy tủ quần áo của anh - nhưng đây là bức ảnh anh thích nhất. Không chỉ vì bức tượng khiến người ta bối rối của một vị tổng thống bị ám sát, mà bởi đó là bức ảnh mà Priya tự khiến nàng ngạc nhiên bằng một nụ cười. Anh chưa từng thấy Priya cười vô tư. Priya đó đã vỡ vụn chỉ vài ngày trước khi anh gặp cô gái tái sinh từ những mảnh vỡ. Priya mà anh biết gai góc, sắc lạnh, lúc nào cũng hằm hè và nụ cười thì như tát vào mặt người khác. Bất kể điều gì mềm mỏng hơn, nhân hậu hơn ở con người ấy đều chỉ là ngẫu nhiên. Mẹ cô có lẽ đã thấy được những lần dịu dàng đó, nhưng người khác thì chắc chắn không, nhất là kể từ khi chị gái cô chỉ tồn tại trên những bức ảnh và ghi chép trong một tệp tài liệu giữa vô số tệp tài liệu màu mè nằm nơi góc bàn trong cùng của anh. Eddison dám chắc rằng anh sẽ chẳng bao giờ có thể làm bạn với cô nàng Priya của ngày xưa. Ngay cả với Priya mới này, anh vẫn cảm thấy có chút sợ sệt. Cô lẽ ra chỉ nên làm em gái của một nạn nhân trong một vụ sát hại, một người để anh thực hiện những cuộc phỏng vấn và thấy cảm thương mà không hề hiểu rõ, nhưng những ngày sau vụ án của chị gái mình, Priya đã vô cùng tức giận. Cô nổi điên với tên sát nhân, với chị gái mình, với cảnh sát, với cả thế giới đáng nguyền rủa này. Eddison đã quá quen thuộc với kiểu giận dữ này. Và vì anh đang nghĩ tới cô, chính vì hôm nay là ngày giải quyết công việc giấy tờ sau một chuỗi ngày tồi tệ phải chiến đấu cật lực để ngăn chặn sự can thiệp của truyền thông tới vụ Vườn Bướm Đêm, anh kéo ngăn tủ cá nhân của mình ra, chụp nhanh một tấm ảnh được đóng khung và gửi tin nhắn cho cô. Anh không hy vọng cô sẽ trả lời - lúc này là chín giờ và anh biết cô đang ở đâu, nếu không phải dậy đi học, có lẽ cô vẫn đang cuộn tròn trong chăn. Thế nhưng, chỉ một giây sau, điện thoại anh rung lên với một dòng tin nhắn. Bức ảnh là một cú máy dài chụp lại một tòa nhà bằng gạch đỏ đáng lẽ phải vững chắc nhưng lại trông rất giả tạo, một mảng tường được quây lại bằng những tấm lưới sắt gỉ mà có lẽ đã là giàn thường xuân trong những tháng ấm áp. Những ô cửa sổ cao, hẹp, mang phong cách thời Trung cổ được xây rải rác dọc bức tường. Cái quái gì thế này? Điện thoại anh lại rung lên. Đây là ngôi trường mà tôi từng mắc kẹt trong suốt những năm tháng học ở đó. Anh nên nhìn đồng phục của nó. Tôi biết ngày trước anh chỉ học trực tuyến nên có thể mặc pyjama cả ngày. Ồ, không CHỈ pyjama. Anh có biết ngài hiệu trưởng đã cáu tiết khi mẹ tôi nói với ông ta rằng chúng tôi sẽ không nhập học? Tôi đã bảo bà rằng bà đang làm một việc sai trái khi bắt tôi học tập trong một môi trường giáo dục kém cỏi như thế. Anh nhăn mặt. Tôi không thể tưởng tượng rằng mọi việc lại tốt đẹp. Tôi đoán ông ta đã quen với việc uốn cong dương vật của mình để có được thứ mình muốn. Cái đó của mẹ tôi còn ấn tượng hơn nhiều. Một sức nặng đè lên vai anh và anh lùi lại, nhưng đó hóa ra chỉ là Ramirez. Định nghĩa về không gian riêng tư của cô khác hoàn toàn với định nghĩa của anh, và chắc chắn là anh hiểu không gian riêng tư nghĩa là gì. Thay vì tranh cãi, nó chẳng mang lại điều gì tốt đẹp, anh nghiêng màn hình để cô có thể đọc được. “Uốn cong… Eddison!” Cô búng tai anh một cái thật mạnh đủ để làm anh đau điếng. “Anh đã dạy con bé điều này sao?” “Con bé gần mười bảy tuổi rồi, Ramirez. Nó hoàn toàn có khả năng tự mình ngu ngốc.” “Anh là một kẻ có ảnh hưởng xấu.” “Thế nếu tự con bé là ảnh hưởng xấu thì sao?” “Ai mới là người lớn cơ chứ?” “Chắc chắn không ai trong số hai người,” một giọng nói khác cất lên. Cả hai cùng co rúm lại. Nhưng Vic không hề dừng lại nhắc nhở họ rằng lẽ ra không được dùng điện thoại cá nhân trong giờ làm việc hay họ còn có những việc khác lẽ ra phải làm ngay. Ông chỉ đi qua họ, mùi cà phê mới bao quanh ông và ông quay lại nói qua vai mình, “Gửi lời chào của tôi tới Priya.” Eddison miễn cưỡng gõ lại những lời đó trong khi Ramirez âm thầm quay về bàn mình. Anh cười lớn vì dòng tin nhắn phản hồi của Priya. Aww, thế anh có bị giam giữ không? Mà thôi, thế lúc tỉnh táo anh làm gì? Đi dạo à. Cuối cùng thì trời cũng chuyển mùa rồi. Trời lạnh lắm đúng không? Vâng, nhưng mà tuyết ngừng rơi rồi, cũng không còn ảm đạm và mưa lạnh ẩm ướt nữa. Để xem ở đây có gì. Gọi cho tôi sau nhé. Kể cho tôi về những việc ở đó. Anh đợi câu khẳng định của cô, rồi trượt điện thoại lại vào ngăn kéo đựng chung khẩu súng và huy hiệu, cùng hàng tá những thứ khác mà anh thường chơi khi ngồi tại bàn làm việc. Trong suốt khoảng thời gian chết tiệt gần như không thuyên giảm chứa đầy những nỗi kinh hoàng, chính là công việc mà anh đang theo đuổi, Priya như một tia sáng lóe lên trong cuộc đời. Anh đã công tác trong ngành này đủ lâu để cảm thấy biết ơn vì điều đó. Huntington, Colorado tháng Hai trời lạnh đến run người. Thậm chí khi đã khoác đủ áo trong áo ngoài đến mức người tôi như to ra tới ba lần thì cái lạnh vẫn bằng cách nào đó len lỏi vào giữa những thớ vải. Chúng tôi đã ở đây một tuần rồi, và hôm nay là ngày đầu tiên mà thời tiết có vẻ đẹp để ra ngoài khám phá. Tới giờ, tất cả mọi thứ ở nơi đây đều rất giống những địa điểm chúng tôi từng sống trong suốt bốn năm qua. Công ty của mẹ đã đảo lộn cuộc sống của chúng tôi, đẩy chúng tôi tới khắp mọi miền trên đất nước này để bà có thể chóng vánh giải quyết công việc. Trong vòng ba tháng tới, chúng tôi lại chuyển nhà tiếp và nếu mọi chuyện tốt hơn, bà có thể sẽ đảm nhiệm bộ phận Nhân sự tại chi nhánh Paris. Không nhất thiết nước Pháp là địa điểm cuối cùng, nhưng tôi nghĩ cả tôi và mẹ đều hy vọng như thế. Priya ở Paris nghe thật thú vị làm sao. Trong khi đó, Huntington cũng cách Denver đủ gần để mẹ có thể dễ dàng đi lại và cũng đủ xa để nó giống một cộng đồng hơn là một thành phố, đó là những gì người đại diện công ty nói với chúng tôi khi đưa chúng tôi vào nhà mới trong ngày đầu tiên tới đây. Sau năm ngày tuyết tan, tuyết lại rơi suốt dịp cuối tuần, để lại trên những bãi cỏ lớp tuyết trắng mềm như tơ còn viền xung quanh thì xám xịt và bẩn thỉu. Nơi đây trông còn có phần xấu xí hơn cả đống tuyết được cào. Nhưng những con đường đã sạch sẽ và các vỉa hè đều nhuốm màu xanh của muối. Nó khiến người ta có cảm giác đang đi bộ qua những tàn dư của một cuộc thảm sát Xì trum. Tôi thọc mạnh tay vào túi áo khoác trong lúc đi bộ, một phần là để tận hưởng chút hơi ấm trên cùng của đôi găng tay, phần còn lại là để giữ những ngón tay mình không ngứa ngáy với một chiếc máy ảnh tốt hơn cái điện thoại tôi đang có. Tôi đã để máy ảnh ở nhà, nhưng Huntington lại có phần thú vị hơn những gì tôi tưởng tượng. Ngang qua trường tiểu học gần nhất là một ngôi nhà mùa đông cho sóc được dựng lên ở một phía sân chơi; về cơ bản thì đó là một cái chuồng gà dựng cao chót vót và được sơn màu đỏ tươi. Có một cái lỗ dưới đáy để lũ sóc chui ra chui vào và một cái đèn nháy màu đỏ từ máy quay bên trong giúp lũ trẻ ở trường để mắt tới lũ sóc trong mùa đông lạnh giá. Bây giờ đang có vài con sóc ngủ ngon lành trên những miếng mền bông và mùn cưa vỡ vụn. Vâng, đúng là tôi đang liếc trộm chúng. Đó là một ngôi nhà cho sóc. Cách đó chừng một dặm, có một khu vực trống trơn nằm sâu trong góc ngã tư, khoảnh đất này quá nhỏ để có thể đỗ một thứ gì, nhưng lại có một ban công rèn sắt tuyệt tác nằm ngay chính giữa. Kiểu như là ban công, nó chẳng có tầng, chỉ có những chiếc cột đóng sâu xuống nền đất lạnh cóng, những chiếc cọc chống sẽ trông như được bọc lại lùm xùm bằng băng gạc, còn phần đỉnh có hình dáng giống củ hành trông mong manh như đăng ten. Nó giống một nhà thờ nơi người ta tổ chức đám cưới, nhưng bao quanh là những quầy bán đồ ăn nhanh và một văn phòng đo mắt đứng một mình một góc. Quay về trên cung đường vòng rộng lớn, tôi phải chạy xe qua một ngã bảy, một nửa số ngã rẽ là đường một chiều và mọi biển báo đều chỉ sai hướng. Chẳng có chiếc xe nào chạy trên bảy ngã rẽ trong tầm nhìn. Đúng, bây giờ mới là mười một rưỡi sáng và người ta chủ yếu đang đi làm hoặc đi học, nhưng tôi lại có cảm giác rằng ngã bảy này được nối với nhau chỉ bởi những tài xế đầy cam chịu định mệnh của cái chết và sự diệt vong. Thế nhưng tôi vẫn chụp ảnh mọi thứ; mặc dù khi xem trên điện thoại những bức ảnh đều trở nên vô dụng, nhưng tôi vẫn chụp vì đó là nghề của tôi. Thế giới dường như ít đáng sợ hơn một chút, bằng cách nào đó, khi tôi có thể giữ ống kính máy ảnh giữa mình và vạn vật. Thế nhưng chủ yếu tôi sẽ gửi các bức ảnh mình chụp cho Chavi, để chị cũng được thấy những điều tôi thấy. Chavi đã mất gần năm năm rồi. Tôi vẫn gửi ảnh cho chị. Cái chết của Chavi chính là duyên cớ cho tôi gặp những đặc vụ FBI, và họ là những đặc vụ của tôi theo một cách rất quan trọng, Eddison, Mercedes và Vic. Vụ của chị gái tôi Chavi lẽ ra cũng phải được họ giải quyết, nhưng nó mãi chỉ nằm trên giấy tờ, dù vậy họ vẫn thường xuyên kiểm tra tôi sau này qua những tấm thiệp, email và những cuộc điện thoại. Có thời điểm tôi đã không còn oán hận những điều nhắc nhớ về vụ án của Chavi và cảm thấy biết ơn vì chúng tôi không ngừng chuyển chỗ ở, tôi đã có một nhóm bạn lạ lùng ở Quantico. Tôi đi bộ qua một thư viện trông giống nhà thờ, được bao quanh bởi những tấm kính đã lấm bẩn và một tháp chuông, cùng một quán rượu được những nhân viên luật chuyên giải quyết mấy vụ lái xe khi dùng chất kích thích cọc giữ. Xa hơn một chút là trung tâm thương mại với một phòng gym to tướng hoạt động 24/7 ở một đầu và một cơ sở chăm sóc giáo dục ngoài giờ ở đầu còn lại, giữa chúng là bảy quán bán bảy loại đồ ăn nhanh khác nhau. Nơi này đủ kỳ dị để tôi cảm thấy thích nó, với đủ sự mâu thuẫn và lộn xộn, nhận thức được những ý định của chúng tôi có thể gây rắc rối cho chúng và bản chất xấu xa của chúng tôi đang ở ngay đó chờ được bộc lộ. Một trung tâm thương mại lớn hơn nhiều - hai tầng với đống đồ trang trí quá sức trau chuốt so với bất kỳ khu mua sắm nào nên có - là đại bản doanh của cái được gọi là niềm yêu thích quốc gia Kroger. Một tấm biển treo bên ngoài quảng cáo cho quán Starbucks bên trong, nhưng còn một quán Starbucks khác nằm trong trung tâm và một quán nằm bên đường, trông thì có vẻ giống một trò hề, nhưng không, đó là sự thật đấy. Có lẽ tôi nên ăn trưa, nhưng tôi cố gắng không ăn một mình nếu có thể chịu được cơn đói. Điều đó không liên quan gì tới sức khỏe; cho tôi đồ ăn trưa mẹ nấu mang đi thì tôi sẽ xơi tái chúng. Vấn đề là ăn một mình. Sau vài năm cố gắng cân bằng nhu cầu của cơ thể và cảm xúc, tôi vẫn chưa thể làm tốt chuyện này. Đôi khi - hầu hết là vào những ngày tâm trạng tồi tệ, còn gì tệ hơn thế - tôi vẫn tự ăn một mình và chán ghét cuộc đời khi nhận ra Chavi không ở đây, chị không còn ở đây, và điều đó đau lòng tới mức không thể hiểu nổi, bởi vì bất kể thứ gì gây tổn thương nhiều nhường ấy lẽ ra đều khiến máu chảy, lẽ ra đều có thể giải quyết, nhưng điều này thì không. Vậy nên tôi chọn cách nhồi nhét đống bánh Oreo cho tới khi bụng no căng, người ngợm thì chuột rút và nôn thốc nôn tháo để tạo ra một lý do cho cơn đau trong lòng. Đã một vài tháng kể từ khi tôi đu đưa giữa hai bên lằn ranh mà mình tự vẽ ra rồi sụp đổ trước cửa nhà vệ sinh - và bánh Oreo thì chắc chắn không còn ngon nữa kể từ lần thứ hai tôi dùng cách đó - nhưng tôi vẫn… nhận thức được, tôi đoán là như vậy, rằng sự kiểm soát của tôi đang không đi đúng hướng. Mẹ luôn lo ngại về tình trạng ăn tới nôn mửa của tôi hơn là cân nặng của tôi, nhưng giữa hai chúng tôi - mẹ, với tinh thần thép và tôi, với sự nhẹ nhõm phó mặc vào tinh thần thép của mẹ - luôn có cách ổn định lại mọi việc nên tôi đã không còn bấp bênh, điên loạn giữa những thái cực đáng sợ của da bọc xương và béo tròn trùng trục. Cân nặng của tôi bây giờ khiến tôi trông giống Chavi hơn bao giờ hết. Vào những ngày tâm trạng tốt, đó chỉ đơn giản là một sự rùng mình, cẩn trọng né tránh mọi tấm ảnh hay tấm gương nào to hơn gương gấp cầm tay một chút. Còn vào những ngày tâm trạng tồi tệ, điều đó chính xác là những mũi kim đang trườn dưới da tôi, còn những ngón tay tôi thì co quắp lục tìm bánh Oreo. Mẹ gọi tôi là một công trình dang dở. Tôi tiến vào bên trong khu Kroger. Tôi khá chắc rằng vì cái lạnh bên ngoài mà mũi tôi đang đông cứng, nên một món đồ uống nóng chắc chắn không phải là điều tồi tệ nhất. Nếu tôi không ăn gì cho tới khi về nhà, tôi sẽ khó gây rắc rối cho mình hơn. Nhân viên pha chế là một bà lão nhỏ nhắn như chim sẻ, và chắc hẳn bà đã tám mươi tuổi, mái tóc màu hoa oải hương rực rỡ đổ xuống theo kiểu búi tóc của các cô gái Gibson với đám cặp tăm cố định màu tím. Tấm lưng và đôi vai bà đã gù xuống còn tay thì có dấu hiệu viêm khớp, nhưng đôi mắt bà vẫn sắc sảo và nụ cười hân hoan, còn tôi thì tự hỏi mình rằng liệu bà có thật sự cần công việc này hay chỉ là một trong số những người làm việc bán thời gian sau khi nghỉ hưu bởi ngôi nhà hay ông chồng khiến bà trở nên phát cáu trong một thời gian dài. “Cô bé tên gì vậy?” Bà hỏi, cầm chai Sharpie trong tay khi với lấy chiếc cốc. “Jane ạ.” Bởi mải mê theo dõi mọi người, tên bán thịt priya đã gặp rắc rối. Một vài phút sau, tôi đã có đồ uống của mình. Có một đống bàn ghế được xếp gọn gàng trong góc cửa hàng tiện lợi, và trên tầng, dàn loa đang phát âm thanh êm ái của nhạc jazz từ đĩa CD, nhưng đó là tất cả, và tất cả bị chôn vùi dưới tạp âm của mọi thứ còn lại trong cửa hàng: những cuộc gọi quang quác từ bộ đàm nội bộ, âm thanh va đập của xe hàng với nào thùng, nào hộp, tiếng trẻ con la hét, những bản pop rock - âm thanh hỗn tạp, khô cứng và khiến cho cả quán cà phê kiêm cửa hàng tiện lợi này có chút gì đó kì dị hơn. Vậy nên tôi quay ra bên ngoài giá lạnh, một cơn gió ngay lập tức chào đón tôi, và rồi đi bộ về bãi đỗ xe. Tôi đi đến theo con đường vòng phía sau khu trung tâm, nhưng con đường trước mặt lại dẫn tôi thẳng về nhà và có lẽ đã tới lúc tôi làm thế. Thay vào đó, tôi đông cứng trước hình ảnh của một túp lều nhỏ kỳ lạ. Nó được dựng lên trên một hòn đảo phủ đầy cỏ, một trong vô vàn điểm đỗ xe bị phân tách rải rác, đống sắt được bao quanh cả ba mặt bởi một thứ trông giống tấm vải bạt màu trắng nặng nề. Những chiếc máy sưởi, những cuộn dây lấp lánh màu đỏ tươi, treo lủng lẳng từ những giá đỡ, vừa đủ an toàn trên đầu một nhóm người mà phần lớn là những cụ ông, với những chiếc mũ bóng chày giống hệt nhau màu xanh đậm hoặc đen cùng vành mũ màu vàng, tất cả tạo nên tầng tầng lớp lớp chống lại cái lạnh ập vào từ phần vải bạt bị cuốn lên. Họ ngồi quanh một chiếc bàn đá dành cho người đi dã ngoại, với những bàn cờ và quân cờ rải đầy xung quanh. Lẽ ra điều này chẳng là gì cả, nhưng không, nó thực sự có ý nghĩa, bởi khung cảnh này quen thuộc tới mức làm người ta đau đớn. Chẳng có gì trông giống với những cụ già tập trung đánh cờ. Bố và tôi đã từng chơi cờ cùng nhau như thế. Ông chơi rất tệ và tôi phải giả vờ mình cũng tệ, việc này thậm chí còn khiến ông phiền lòng nhiều hơn tôi, nhưng chúng tôi vẫn chơi với nhau vào mỗi sáng thứ Bảy ở công viên gần nhà hoặc ở nhà thờ bỏ trống gần đó trong suốt những mùa đông dài đằng đẵng ở Boston. Đôi khi ông muốn chơi cả những ngày trong tuần, nhưng có điều gì đó về truyền thống ngày thứ Bảy đặc biệt hấp dẫn tôi. Ngay cả khi không còn chơi với bố nữa, tôi vẫn tìm kiếm những đám người tụ tập chơi cờ ở khắp nơi chúng tôi từng chuyển tới. Trận nào tôi cũng thua, và ít nhất một nửa trong số đó là do tôi cố tình, nhưng tôi vẫn muốn chơi. Mặc dù mọi điều khác về Bố đã được cất giữ cẩn thận, nhưng vì tôi đã khiến tất cả tin rằng tôi chơi cờ dở tệ, tôi vẫn phải tiếp tục vờ vịt. Một chiếc ô tô đỗ cạnh đó kêu rít lên khi mở cửa, kéo sự chú ý của tôi ra khỏi những cụ già kia và bàn cờ của họ. Cách đó vài bước, một phụ nữ trẻ, khoảng hơn hai mươi tuổi, đang ngồi bên ghế lái, với những cuộn len đan đặt trong lòng, và mỉm cười với tôi. “Cô có thể tới nói chuyện với họ, cô biết đấy,” cô nói. “Họ không cắn đâu. Ít nhất bởi vì họ không còn răng nữa.” Tôi không còn quá giỏi trong việc tươi cười nữa - điều đó với tôi còn có chút đáng sợ là đằng khác - nhưng tôi vẫn cố gắng nặn ra một nét mặt thân thiện đúng mức. “Tôi chỉ không muốn tự dưng chen vào. Họ có cho người khác chơi cùng không?” “Đôi khi. Họ sẽ cho phép, tùy người, nhưng hỏi xin một lần thì cũng chẳng mất gì. Ông tôi cũng đang chơi ở đó.” Điều này lý giải cho những cuộn len kia. Tạ ơn Chúa - nếu không phải vì thế, khu đỗ xe Madame Defarge có lẽ là vô cùng kì dị. “Tới hỏi đi,” cô giục, ngón tay cái gần như mất hút trong khi đang móc những vòng len đỏ xung quanh những vòng len hồng. “Điều tệ nhất họ có thể làm là từ chối.” “Cô khuyến khích tất cả mọi người đang dừng chân nơi này và nhìn họ sao?” “Chỉ những người trông cô độc thôi.” Cô đóng cửa lại trước khi tôi kịp đáp lời nào. Sau một vài giây đứng chôn chân như một tên ngốc, cảm giác như một tòa nhà chất đầy nỗi đau trong mọi ngõ ngách con người tôi mà chưa bị đông cứng, tôi bước tới, đi trên bãi cỏ hướng vào căn lều gần như ấm áp. Những cụ già đang chơi cờ đều ngừng lại và nhìn chằm chằm vào tôi. Hầu hết những người đàn ông này đều đã già, và rõ ràng họ là những cựu binh, tôi biết điều đó dựa vào dấu vết của những cuộc phẫu thuật và dấu hiệu đơn vị trên mũ của họ. Khu dừng chân chơi cờ là địa điểm mà những cựu binh thường lui tới, cho nên mặc dù tôi không thể gọi tên các loại phẫu thuật, tôi vẫn biết đủ để xếp họ vào từng nhóm. Hầu hết những người này đều phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, một vài người trở về từ Hàn Quốc, một vài người từ trận Bão Sa mạc, và có một cụ đã rất già, người quấn đầy khăn khố và chăn và ngồi gần máy sưởi nhất, đội một chiếc mũ với dòng chữ Operation Neptune thêu trên vành, chỉ thêu đã phai thành màu mù tạt rách rưới. Chết tiệt. Ông cụ đã tham gia trận đánh trên Biển Normandy trước cả khi ông bà tôi ra đời. Một trong những cựu binh trong chiến tranh Việt Nam, một người đàn ông luộm thuộm với khuôn mặt như đeo một chiếc túi phình to ra, với chiếc mũi có những mạch máu đã vỡ, khiến tôi nhận ra chơi cờ có lẽ là điều giữ ông tránh uống rượu cả ngày, bỗng buông lời nạt tôi. “Chúng ta không cần tiền ủng hộ, cô gái ạ.” “Không, cháu không có ý đó. Cháu chỉ đang tự hỏi liệu các ông có cho phép người khác cùng chơi cờ không.” “Cháu chơi ư?” Nghe có vẻ như ông chẳng tin tôi chút nào. “Cháu chơi tệ thôi, nhưng vâng. Bất cứ nơi nào cháu chuyển tới, cháu đều tìm một nơi để chơi cờ.” “Hừm. Ta nghĩ đó là lý do vì sao người trẻ dùng Internet.” “Không giống nhau đâu ạ.” Ông cụ già nhất hắng giọng, và những người khác quay lại nhìn cụ. Cộng đồng nào cũng có tôn ti trật tự, cộng đồng cựu chiến binh cũng vậy, và khi trật tự thực sự được thiết lập, những cựu binh trở về từ Thế chiến II rõ ràng luôn là thủ lĩnh. Ông cụ này đã vượt qua cả địa ngục và mang những vết sẹo trên mình lâu hơn bất kỳ ai ở đây. Trật tự này không bao giờ dừng lại hay bị xóa bỏ. “Tới đây nào.” Tôi đi vòng qua bàn và ngồi ghé vào mép ghế thò ra bên cạnh ông. Ông quan sát tôi - vì điều gì tôi không rõ - và cái mùi ngọt tới mức phát ốm từ hơi thở của ông khiến tôi không ngừng tự hỏi liệu ông có bị tiểu đường không và ông có thấy ổn không khi ngồi ngoài trời trong thời tiết này, với một đống máy sưởi và tầng tầng lớp lớp khăn khố bên cạnh. Da ông mỏng như giấy và nhăn nheo, nước da không đều màu do tuổi tác, mang một mạng lưới gồm những mạch máu xanh mỏng trên hai thái dương và dưới mắt. Một miếng sẹo lượn quanh một bên thái dương, chạy sâu ra tận đằng sau tai. Một trái phá từ trận Normandy? Hoặc một trận chiến khác hoàn toàn? “Cháu cũng có một cuộc chiến của riêng mình, đúng không, cô gái?” Tôi nghĩ về điều đó, khiến cho ý nghĩa đằng sau ngôn từ trở nên rõ ràng. Câu hỏi mang bóng hình Chavi, tất cả những sự giận dữ, sầu muộn và tổn thương mà tôi đã mang từ khi chị ra đi. “Vâng,” cuối cùng tôi cũng cất tiếng. “Cháu chỉ không biết bên kia chiến tuyến là ai.” Cuộc chiến nào cũng cần kẻ thù, nhưng tôi không chắc chắn kẻ thù nào có thể ra tay tàn độc hơn chính mình. “Chúng ta đều có lúc băn khoăn về điều này,” ông đồng tình, đôi mắt nhấp nháy với những ông cụ khác. Tất cả mọi người đều đang nhìn chúng tôi, trừ một người, một người duy nhất đang nghiên cứu bàn cờ của mình với một nét nhăn nhó nhẹ nhàng và bất ngờ nhận ra quân Tướng của ông đang gặp nguy hiểm. “Thế tên cháu là gì?” “Priya Sravasti. Còn ông?” “Harold Randolph.” “Gunny!” Hầu hết những cụ ông còn lại đều ho vào tay họ. Chỉ có một người duy nhất ngưng lại và trông ông không giống một cựu chiến binh chút nào. Ông trẻ hơn, mềm mỏng hơn và có điều gì đó trong mắt ông - hoặc điều gì đó không ở trong mắt ông - nói rằng ông không giống những người ở đây. Ông Gunny đảo mắt. Ông từ từ tháo chiếc găng len để lộ ra bàn tay bên dưới, đó là một bàn tay đã cụt hết các ngón và nước da vàng vọt đã phai mờ như những con chữ trên chiếc mũ ông đội. Khi ông khẽ đưa tay lên, bàn tay ông run nhẹ - tôi nghĩ đây là chứng bại liệt chứ không chỉ do trời lạnh - và chạm một ngón tay lên đầu mũi tôi. “Cháu có cảm nhận được không?” Tôi gần như đã cười, nhưng tôi không muốn khiến ông sợ hãi, cũng như khiến tôi ít được chào đón hơn. “Không ạ, thưa ông.” “Thế thì hôm nay cháu hãy về nhà đi và quay lại bất cứ khi nào cháu muốn. Nhưng chúng ta không chơi nhiều vào cuối tuần, những ngày đó nơi đây thường rất đông.” “Cháu cảm ơn ông,” Tôi nói. Tự nhiên, tôi hôn lên một bên má ông, cảm nhận được những cọng râu mềm cù trên môi. “Cháu sẽ quay lại ạ.” Một người đàn ông với chiếc mũi to tổ chảng cười hề hề. “Nhìn kìa, ông Gunny vừa có thêm một cô vợ cũ trong tương lai.” Đa số những người còn lại đều gật đầu với tôi, cái gật đầu ghi nhận chứ không có vẻ thân thiện cho lắm, nhưng cũng không sao. Tôi phải kiếm được một vị trí ở đây, để họ thấy rằng tôi không nhạt nhẽo và ù lì. Tôi đứng dậy và đi dọc theo mặt sau khu chơi cờ, đắm mình vào những làn hơi ấm trước khi về thẳng nhà và chăm chú quan sát người đàn ông ngồi ở góc xa những bàn cờ, cái người không có vẻ thuộc về nơi đây. Ông không đội mũ lưỡi trai mà chỉ đội một chiếc mũ len bị kéo tuột ra sau để lộ mái tóc sáng màu mà tôi không thể gọi là nâu hay vàng. Ông nở một nụ cười vô vị với tôi. “Trông ông rất quen,” đột nhiên tôi buột miệng nói ra. Nụ cười của ông vẫn không thay đổi. “Ta cũng thấy thế?” Ôi không. Ông rõ ràng trông chẳng giống ai cả cho nên chắc chắn là ông giống với bất kì ai ở một nét nào đó. Cũng chẳng có lấy một nét nào điển hình ở ông, không một nét nào khiến tôi có thể nhận ra ông giữa đám đông. Ông không đẹp, cũng chẳng xấu, ông chỉ… bình thường. Thậm chí màu mắt ông trông cũng âm u, một sắc độ không phân biệt nổi. Và ngay cả nụ cười cũng không khiến gương mặt ông thay đổi. Điều đó thật kì lạ. Bình thường khi cười gương mặt người ta sẽ thay đổi, với gò má nghiêng nghiêng, hình dáng khuôn miệng, những nếp nhăn quanh mắt. Nhưng gương mặt ông hoàn toàn không chút gì khác biệt so với trước khi ông cười. Đó không hoàn toàn là vì gương mặt trông rất giả, mà chỉ là, bạn biết đấy, không được tự nhiên. Nhưng thú thực, khu chơi cờ là nơi trú ẩn của những kẻ dị biệt trong xã hội. Có lẽ tôi chỉ nên cảm thấy ấn tượng vì ông đã cố gắng giao tiếp bằng ánh mắt. Tôi gật đầu với ông, trong lòng vẫn cảm thấy có chút gì đó bất ổn, và rồi tôi thẳng tiến về nhà. Tôi không cảm thấy quá lạnh nhưng cảm giác chỉ như lời cảnh báo “Này tên ngốc hãy vào nhà ngay trước khi bị đông cứng ngoài trời” hơn là dấu hiệu của một ngày ấm lên. Khi đã ở trong khu nhà mình, tôi dừng lại trước phần mái nhô ra của bức tường đặt những hòm thư của khu phố. Có cả một chiếc thùng rác được xích lại quanh một hòm thư để người ta bỏ thư rác. Mỗi khi tâm trạng trở nên nhạy cảm, tôi thường nhớ hòm thư nhà mình ở Boston, với hình một bàn tay sáng màu được in lên nền sơn vàng đầy tươi vui. Bố không muốn chỉ có hình bàn tay của ông được in lên, vì ông cho rằng thế là không công bằng nên ba người chúng tôi đã tấn công ông bằng chổi sơn và kết thúc là một hình vẽ bộ ria nhiều màu sắc được in trên mặt nắp phía ngoài. Tôi tự hỏi liệu chúng tôi có còn giữ hộp thư ấy không. Tôi đã không nhìn thấy nó trong một, hai lần chuyển nhà gần nhất. Và đương nhiên, đó là số phận chung cho ít nhất một nửa số đồ đạc của chúng tôi - công việc dỡ ra rồi đóng lại chưa bao giờ đáng để làm. Tôi lấy ra đầy tay một xấp thông tư và postcard to vật vã đề người nhận là “Những bạn hàng xóm của chúng tôi” hoặc “Gửi cư dân…” và quẳng chúng vào thùng rác, kèm theo là tấm postcard nhắc lịch hẹn khám răng gửi từ Birmingham. Có một tấm thiệp chào mừng được đặt trong bì thư màu xanh đầy tươi vui, một màu sắc của mùa xuân, với chữ viết tay của Mercedes ở mặt trước. Tôi không mấy bất ngờ khi thấy thiệp của cô; thực ra hôm nay tôi bắt đầu học một khóa học trên mạng, với một gia sư ở Pháp để tôi có thể tập tư duy và làm việc bằng một ngôn ngữ khác, Mercedes thì luôn luôn gửi cho tôi một tấm thiệp vào ngày đầu tiên tôi đi học, bất kể một năm có bao nhiêu ngày đầu tiên như thế. Điều khiến tôi ngạc nhiên là hai bì thư còn lại, gần như giống hệt nhau về kích cỡ. Một tấm được đề chữ in hoa toàn bộ, chữ viết sạch sẽ và dễ đọc mà dường như người viết chẳng cần nhọc công nắn nót, kiểu chữ viết gắn kết với nhau chặt chẽ kể cả khi giấy hay mực bắt đầu phai đi, chữ viết bằng mực đen trên nền giấy hồng rực. Phong thư còn lại màu xanh nhạt, nét chữ nguệch ngoạc nhưng ngăn nắp, và người ta có thể đọc được chỉ với vài cái liếc mắt. Thiệp của Mercedes luôn luôn đúng lịch, còn của Vic và Eddison thường khác biệt một chút. Chỉ có tấm thiệp họ sẽ gửi vào tháng Năm là đặc biệt, tấm thiệp mà họ cùng nhau ký tên phía dưới. Tấm thiệp không có lấy một lời chúc, kể cả loại lời chúc in sẵn. Chỉ có chữ ký của họ. Tấm thiệp chỉ với một ý nghĩa duy nhất rằng vụ án mạng của chị tôi vẫn chưa rơi vào quên lãng. Và người gửi thiệp ắt phải lên kế hoạch cẩn thận lắm, cùng với ý thức tuyệt vời từ dịch vụ bưu điện để đảm bảo tấm thiệp đó không tới cùng những tấm thiệp sinh nhật tôi. Bởi chẳng có gì tệ hại hơn là chúc mừng sinh nhật một người bằng lời nhắc rằng FBI vẫn chưa tìm ra hung thủ giết chị gái bạn cùng một loạt các cô gái khác trong hàng năm trời. Vào nhà, tôi cởi bỏ lớp áo khoác ngoài cùng và treo trong tủ quần áo đầu tiên, sau đó đi thẳng lên tầng vào phòng, vừa đi vừa cởi nốt những lớp quần áo tiếp theo. Những tấm thiệp nằm vương vãi trên giường, còn đống áo quần ngổn ngang trên chiếc ghế mà tôi đã kéo từ căn phòng ăn bị quên lãng lên phòng mình để chứa những mớ hỗn độn. Nước tắm nóng hổi khiến mũi và những đầu ngón tay tôi bắt đầu có cảm giác trở lại, tôi quay xuống bếp và pha cháo yến mạch đóng gói, thêm một chút quế, mật ong và sữa, sau đó mang lên tầng. Đó là lần đầu tiên tôi thật sự nằm trên giường trong bộ đồ ngủ, món cháo yến mạch thật sự phát huy tác dụng tuyệt diệu của nó khi làm ấm cơ thể tôi từ bên trong khiến tôi đủ sức với tới đám phong thư ngổn ngang kia. Tấm thiệp của Mercedes chính xác là những gì tôi mong đợi, một dòng thông điệp “Chào mừng quay lại trường học” được viết bằng bút màu neon, một nửa trong số đó là tiếng Tây Ban Nha bởi khi tôi viết thư cho cô bằng tiếng Pháp cô đã cười ngặt nghẽo. Tôi lấy ra tấm thiệp tiếp theo của Vic, một bức ảnh đen trắng chụp ba con mèo đeo kính râm to vật vã. Thông điệp bên trong cũng không có gì đặc biệt, một vài dòng về những lá thư được gửi từ chị gái lớn nhất của ông trong những năm đại học và về tiết trời mưa gió não nề ở Bắc Virginia. Tấm thiệp của Eddison, với một bức tranh được chia ranh giới cẩn thận giữa kinh dị và hài hước, chẳng có một chữ nào trong đó. Nhưng tại sao lại là cả ba tấm thiệp cùng tới một lúc? Sau đó tôi xem lại tấm thiệp của Mercedes, mặt ngoài trang hoàng lấp lánh đủ để khiến một con kỳ lân trông nhố nhăng vô cùng với vẻ mặt tươi vui và tôi nhận ra có một phần lấp lánh không giống những phần còn lại. Những phần nhũ còn lại mịn màng tinh xảo và được phối cùng tông màu pastel. Tuy nhiên ở đâu đó có những vòng xoáy trông như được làm từ nhũ lấp lánh, dày, không đều và khô lại thành những cái chóp nhỏ sáng màu. Tôi trượt móng tay cái bên dưới một trong những vòng xoáy đó, nhẹ nhàng tách nó ra. Tấm giấy rách ở một góc và sau đó lộ dần ra. Một thoáng sau, tôi đã tách ra được một vòng tròn keo thô ráp trên một ngón tay và nhìn thấy một góc rõ ràng của tấm thiệp gốc. Cô ấy đã che đi hình những chú bướm. Tên cô là Zoraida Bourret, và đó là ngày Chủ nhật Phục sinh. Chắc hẳn anh thích tham dự lễ Phục sinh trong những nhà thờ truyền thống, nơi những bé gái và những người phụ nữ vẫn mặc váy trắng đăng ten và đội mũ gắn kim tuyến hoặc hoa lá. Có điều gì đó hết sức hấp dẫn khi được ngồi gần phía sau nhà thờ và ngắm nhìn biển mũ Phục sinh này. Và năm nay, anh thấy Zoraida. Đương nhiên, anh đã thấy cô từ trước, đang phụ giúp mẹ chăm sóc bầy em nhỏ. Anh từng nghe những lời đồn đại và những lời đó thực chất chẳng giống lời đồn, cũng chẳng giống tin tức. Bố cô là một quân nhân đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, và mặc đù Zoraida chắc chắn có một suất vào đại học và nhận được nhiều điều tốt đẹp, cô vẫn từ bỏ mọi hoạt động ngoại khóa và có lẽ là cả cơ hội học cao học của mình để ở nhà giúp đỡ mẹ, trong khi thậm chí không ai đòi hỏi cô phải làm thế. Thật là một cô gái tốt bụng, một phụ nữ nói. Thật là một đứa con ngoan. Thật là một người chị tuyệt vời. Cô trông không hề giống Darla Jean, nhưng có điều gì đó ở cô gợi nhớ cho anh về nàng. Đã gần một năm trôi qua kể từ khi Darla Jean phản bội anh, kể cả như thế thì anh vẫn yêu nàng, nhớ nàng và thương tiếc nàng. Nhưng Zoraida thực sự là một cô gái tốt bụng. Anh đã theo dõi cô đủ lâu để dám chắc về điều đó. Cô về thẳng nhà sau khi tan học, đón các em trên đường về, giúp chúng giải quyết mọi việc từ ăn uống tới bài tập và các hoạt động, và gần như lúc nào cô cũng hoàn thành bữa tối trước khi mẹ đi làm về. Cô giúp các em nhỏ tắm rửa và cho chúng đi ngủ, tới khi mọi việc xong xuôi cô mới có thời gian ngồi vào bàn và học bài của mình. Cô phải thức khuya để làm xong bài vở và sáng hôm sau vẫn dậy thật sớm, đảm bảo tất cả mọi người đều ăn sáng, thay quần áo xong xuôi và tới trường. Và khi đám con trai vây quanh tán tình - đương nhiên chúng sẽ vây quanh cô, vì cô xinh đẹp và ơn Chúa, cả thế giới đều sáng bừng lên vì nụ cười của cô - cô lịch sự từ chối họ, bởi với cô gia đình quan trọng hơn rất nhiều. Bởi cô là một cô gái ngoan. Khi nghi lễ kết thúc, thật dễ để Zoraida có thể lấy hai chiếc ví nhựa của một cặp chị em trẻ hơn cô để quên trên băng ghế. Cặp sinh đôi này, họ lúc nào cũng để quên ví và chỉ nhớ ra chúng khi đã đi được nửa đường về nhà, và vì họ đi bộ một quãng xa tới nhà thờ để tiết kiệm xăng xe, lúc nào cũng là Zoraida mang ví trả cho họ. Lần nào cô cũng lắc đầu than phiền nhưng vẫn mỉm cười, bởi cô yêu quý cặp sinh đôi này và có thể làm mọi việc vì họ. Và anh biết anh phải giúp cô. Vì cô, anh phải đảm bảo rằng cô mãi là cô gái tối bụng, ngây thơ, thuần khiết này. Cho nên khi biết cặp sinh đôi quên ví, anh đã lấy chúng và đợi đến khi cô quay lại. Nhà thờ hôm nay vắng người nhanh hơn bình thường, mọi người đều đi thẳng về nhà để tham gia cuộc săn trứng Phục sinh hoặc tận hưởng bữa tối với đại gia đình. Anh ngồi dưới bóng râm và chờ đợi, còn cô đang bước tới, tay cầm mũ phe phẩy cho đỡ nóng. Chiếc mũ của cô được phủ đăng ten trắng muốt, vừa cứng vừa cố định, những chiếc ruy băng màu đào được thắt lại quanh vành mũ và đế vương miện. Màu đào của ruy băng và màu trắng tinh của chiếc mũ trông lại thành ra quá mềm so với nước da bánh mật của cô. Một đóa hoa ly tím được cài trên váy cô để trang trí, nhưng lại gần như cao bằng vai. Anh đi ngay sau cô, bước nhẹ nhàng trên tấm thảm mỏng và dùng tay bịt miệng cô lại. Cô thở hắt ra một cái và bắt đầu hét lên, nhưng cánh tay anh đã kịp đưa lên chặn ngay họng cô. Cô cố gắng thoát ra nhưng anh biết cần giữ chặt cô bao lâu là đủ, và cô đã ngất đi. Chiếc váy của cô trắng tinh và sạch sẽ. Quá đỗi ngây thơ, thuần khiết. Anh không thể cưỡng lại suy nghĩ sẽ hủy hoại nó. Cho nên khi một đứa em trai của cô trở lại một lúc sau đó, lo lắng khi không thấy cô trở về nhà sau buổi lễ hôm nay, nó đã tìm thấy cô nằm ngoài trời ngay trước án lễ, những đóa ly trắng được xếp thành vòng thánh ngay trên đầu cô, quần áo của cô đã được gấp lại gọn gàng ngay ngắn và xếp chồng trên một băng ghế, với chiếc mũ được đặt trên đầu và đôi ủng nằm ngay bên cạnh. Vết cắt qua cổ cô là một đường thẳng tắp, bởi vì khi đó cô đã không còn chống cự được nữa. Không đau đớn, không sợ hãi. Cô không có cơ hội để ngã xuống như Darla Jean, không phải đối mặt với cơn thịnh nộ và sự phản trắc. Zoraida sẽ mãi mãi là một cô gái ngoan. Căn hộ của Eddison không bao giờ là loại có thể được trao giải thưởng ngôi nhà trang trí đẹp nhất. Nó trông chẳng dễ chịu mà cũng chẳng ấm cúng. Nếu có chút gì thẩm mĩ thì có lẽ trông nó hơi giống với một văn phòng. Nơi đây vô cùng ngăn nắp - ngay cả những chồng đĩa trong bồn rửa cũng đã được tráng sạch và xếp gọn, đợi được cho vào máy rửa - nhưng chẳng có lấy một dấu vết cho thấy sự hiện diện cá nhân trong căn hộ này. Toàn bộ tường vẫn giữ nguyên sơn màu vỏ trứng từ trước khi anh chuyển vào. Thật ra anh đã mua thêm rèm cửa sổ, một phần là bởi tấm chắn vẫn để lọt nhiều ánh sáng, một phần là bởi anh không muốn ai có thể nhìn thấy căn hộ của mình qua cửa sổ. Điểm nhấn duy nhất trong căn hộ này là chiếc bàn ăn kỳ quái được phủ đá và sơn màu tươi sáng mà Priya và mẹ cô đã lấy về từ một nhà hàng đồ Mexico đang sập tiệm và tặng cho anh như một trò đùa, còn lại tất cả nội thất trong nhà đều tối màu và có tính ứng dụng cao. Những bộ phim và cuốn sách trú ngụ trong những ngăn tủ ngẫu nhiên cạnh ti-vi. Nhìn chung Eddison thích cách bài trí này. Mỗi khi trở về sau một nhiệm vụ nơi anh phải điều tra nhà của mọi người, quan sát mọi cách người ta bài trí không gian sống, anh lại cảm thấy biết ơn khi anh có một chốn hoàn toàn trung lập để có thể tập trung vào chính mình. Có lẽ một phần là do chứng bệnh hoang tưởng. Anh không dám chắc anh biết người nào làm trong mấy ngành liên quan đến luật pháp và thực thi công lý này lại không có điểm yếu, đó gần như là một nỗi sợ không thể nói thành lời, rằng một ngày nào đó sẽ có ai theo dõi chính người mà họ yêu thương để báo thù. Nếu anh không có ai để yêu thương, cũng không để lại bất cứ dấu vết gì về những điều mong manh, dễ tổn thương nhất cho người khác nắm bắt, ngay trong chính căn hộ của mình, anh sẽ cảm thấy an toàn hơn. Anh không mất dấu em gái mình vì đã gia nhập FBI - anh gia nhập FBI vì đã đánh mất em gái mình - nhưng anh không thể chịu đựng nổi suy nghĩ rằng bố mẹ anh, cùng rất nhiều cô, dì, chú, bác và anh chị em họ mà anh vẫn giữ liên lạc cũng đang gặp nguy hiểm. Thế nhưng hôm nay, sau một ngày dài cắm mặt vào đống giấy tờ tương đương lượng công việc anh phải giải quyết trong cả tuần, anh đã không thể chịu đựng nổi khi nhận ra hóa ra nơi anh sống hoàn toàn vô trùng. Sau khi cởi bỏ bộ vest đang mặc, anh trở ra và ngồi yên vị trên xô pha với một hộp đồ ăn gói mang về. Vợ và mẹ của Vic không khác gì những vị thánh tốt bụng khi đã nhiều lần dạy anh cách nấu nướng nhưng đến cuối cùng, món anh có thể nấu mà không để lại một đống lộn xộn chỉ là mì ramen và mì ống phô mai hộp xanh. Trái ngược với những lời chế giễu của Ramirez, việc này không do anh là đàn ông, tất cả đều vì anh tự cảm thấy chán nản giữa chừng. Anh dám chắc chủ nhà sẽ không hài lòng chút nào khi cứ phải sơn đi sơn lại những vết ám khói trên trần bếp. Những bức ảnh cá nhân, bất cứ thứ gì liên quan đến anh và những người anh yêu thương hay một nơi có kết nối với anh, tất cả đều được gói ghém kỹ càng trong những hộp giày giấu ở một khoang ít ai ngờ tới trong tủ quần áo tại phòng ngủ. Chúng ở đó để anh có thể xem lại khi muốn và khó có ai có thể tìm ra. Một vài tấm hình đủ an toàn để được treo lên và anh thường ngắm nhìn chúng khi có thời gian rảnh thay vì tìm một trò chơi trên ti-vi. Anh không có chút ý niệm gì rằng mình đã kể cho Priya lý do anh không có ảnh treo trong nhà khi cô và mẹ cô ghé qua đón anh đến bữa tiệc nướng ngoài trời ở nhà Vic trong những ngày tháng họ sống ở D.C. Anh chỉ hơi nhớ rằng hình như mình đã kể chuyện này cho mẹ cô, mặc dù anh không hề kể những lý do thật sự. Thật ra thì Deshani Sravasti là một phụ nữ khá sắc sảo với khả năng tuyệt vời (và có phần đáng sợ nữa) là đọc vị người khác. Bà có lẽ đã nhận ra sự thiếu vắng của những bức ảnh trong căn hộ của anh trước khi anh kịp nói gì và đã đoán trúng phóc lý do cho việc này. Vậy nên có lẽ chính bà đã kể lại cho Priya. Và đó cũng là lý do mà những cuộc phiêu lưu của Đặc vụ Ken bắt đầu. Eddison không biết Priya lấy con búp bê Ken đó ở đâu - anh đoán là cô xin từ một cô con gái nhà Vic - nhưng cô đã may cho nó một bộ vest với áo khoác gió nhỏ xíu màu xanh navy có thêu dòng chữ FBI to tướng bằng chỉ vàng ở sau lưng. Giờ đây cô và mẹ đi đâu, Đặc vụ Ken cũng đi cùng, và luôn có những tấm ảnh của riêng mình với bối cảnh nổi tiếng hoặc đặc biệt thú vị. Những bức ảnh mà Eddison đã cẩn thận đóng khung được sắp xếp thành hình vòng cung ngay trên ti-vi. Bức ảnh yêu thích của anh được chụp ở Berlin, trong đó con búp bê gần như bị bẻ cong thành hai nửa, mặt úp xuống một chiếc bàn cạnh một chai bia còn khoảng một phần tư và còn to hơn cả Ken khi nó đứng. Anh có thể nhìn thấy chiếc quần ngố kiểu Đức bé xíu thò ra từ dưới chiếc áo khoác gió. Anh khá chắc rằng Priya là người duy nhất anh biết cảm thấy bình thường khi khiến cho một con búp bê trông có vẻ say xỉn để chụp ảnh ở một địa điểm công cộng. Cô không ký cũng không ghi ngày chụp đằng sau bức ảnh, chỉ viết địa điểm khiến cho bối cảnh càng trở nên mờ ảo. Rất cá nhân trong cảm xúc, nhưng lại rất khó nhận ra nhân dạng. An toàn. Điện thoại anh đổ chuông, rung và xoay tròn trên bàn cà phê. Anh thận trọng nhìn nó cho tới khi anh nhớ ra Priya sẽ gọi. “Thế cuộc sống của cô ở thành phố mới thú vị chứ?” Anh hỏi, thay vì chào cô. “Thú vị là một cách miêu tả hơi quá dành cho nó,” cô đồng tình. “Những trung tâm thương mại là sự pha trộn kỳ quặc nhất của những ý tưởng tuyệt vời và sự cam chịu.” “Cuối cùng tôi cũng có cơ hội đọc lý lịch của mẹ cô trên tờ Economist số tháng Mười hai,” anh nói. “Đó là một bản thảo ấn tượng.” “Buổi phỏng vấn ban đầu hơi khó khăn, anh ta cứ liên tục hỏi tôi về Chavi và bố, còn mẹ thì vô cùng khó chịu.” Khó chịu đối với Deshani Sravasti thường có nghĩa là nạn nhân của bà may mắn trốn thoát khỏi đó mà không tè ra quần. Rõ ràng là tờ Economist đã gửi tới một người rất khó nhằn, và vô cùng kiên định, bất kể phần cuối của cuộc nói chuyện đi về đâu. “Khi anh ta ít hỏi mấy chuyện cá nhân hơn, buổi phỏng vấn đã trở nên thoải mái hơn,” cô nói. “Mẹ thích nói về việc dập lửa ở những cành khác nhau.” “Tôi mừng là họ nhận ra đặc điểm đó của bà ấy.” Anh đã giật mình khi vào nhà sách và thấy hình Deshani trên trang bìa tạp chí, với ánh nhìn thẳng và đầy thách thức hiện rõ ngay cả trên ảnh. Trong bài viết còn nhiều ảnh hơn, một tấm được chụp ở văn phòng của bà tại Birmingham, tấm còn lại chụp cùng Priya trên ghế băng dài. Anh không bất ngờ khi thấy dòng chữ in xác nhận Priya là người chụp những tấm ảnh không có cô trong đó. Cuộc điện thoại bỗng gián đoạn một chút, ít hơn một giây lưỡng lự, và đó là điều chưa từng xảy ra ở Priya. Đó là cô gái mà chỉ trong vòng mười phút gặp nhau đã ném con gấu bông vào đầu anh và bảo anh đừng có kỳ dị như thế nữa. Họ đã trở thành bạn bè từ đó. Thường thì anh không thích phải điều tra những gì hiện tượng đó nói về anh. “Gì thế, Priya?” “Các anh chị ổn chứ?” Câu hỏi khiến anh lạnh sống lưng, vì lý do gì đó mà anh không thể gọi tên, và đâm lại chiếc dĩa nhựa vào món mì. “Hả, cả đội ư? Chúng tôi ổn.” “Ổn ư? Bởi vì tôi nhận được thiệp từ cả ba người vào hôm nay.” Chết tiệt. Anh không hề biết Vic có ý định gửi tấm thiệp, nhưng lẽ ra anh nên nhớ Ramirez sẽ gửi một tấm. Nếu chỉ có hai tấm thiệp, liệu chuyện này có ít thu hút sự chú ý hơn không? Nhưng đó là Priya, và cô là con gái của mẹ cô, và cả hai người đều chưa từng cần đến một gợi ý để có thể đi từ điểm A tới điểm M. “Anh không cần phải kể cho tôi chuyện gì đang diễn ra đâu. Tôi biết anh có lẽ không muốn, hoặc không thể. Tôi chỉ hơi lo lắng thôi.” Lại thêm những giây phút lưỡng lự, như thể đang thăm dò tảng băng trước khi đặt chân bước tới. “Mercedes đã rắc nhũ lấp lánh lên những con bướm trên tấm thiệp của mình.” Ôi chết tiệt. Nhưng thứ Ba tuần trước - cái ngày anh gửi thiệp đi - là một ngày tồi tệ đối với cả ba người bọn họ. Anh lẽ ra không nên ngạc nhiên. “Thế để tôi nói lại một chút nhé,” cô tiếp lời. “Các anh chị ổn chứ?” Eddison im lặng một lúc, để cho tất cả lắng sâu xuống tận xương tủy như thể anh sẽ tìm thấy câu trả lời ở đó. Priya không nói gì thêm, không ép buộc, kích thích hay giục giã anh phải đưa ra câu trả lời. Cô khá giỏi chờ đợi. Những cô Bướm luôn giỏi chờ đợi, một số người giỏi hơn hẳn. Hầu hết những người còn sót lại thì không còn giỏi nữa. Anh đã không ở Vườn khi họ lôi thi thể các cô gái chết trong những giây phút ngay trước trận nổ lớn hoặc ngay trong lúc diễn ra vụ nổ. Anh đang trên đường quay lại Quantico, giận dữ lao vào những địa điểm đã bị làm trống rỗng bởi những gì anh nhìn thấy. Khi họ biết chuyện gì đã xảy ra với những cô gái, toàn bộ cơ thể anh đã đầy chật những sự thật rằng vụ án này sẽ không bao giờ kết thúc. Không phải vì nó chưa được giải quyết, cuối cùng nó cũng sẽ được phá mà thôi. Nhưng đây không phải một vụ án phá xong là xong và chuyển qua vụ mới. Thậm chí không phải một vụ để vô cảm nhìn lại khi nhớ về sự nghiệp của ai đó. Đây là một vụ án có sức phá hủy bạn, tàn nhẫn vùi dập cả phần đời sau đó của bạn bởi bạn không thể tin nổi sao lại có người dám làm điều này? Và bởi vì Priya đang hỏi, Priya - người biết rõ cảm giác không ổn là như thế nào - hiểu rằng cảm thấy không ổn là hoàn toàn bình thường nên anh phải cân nhắc giới hạn những điều anh được phép và không được phép kể cho cô, sau đó quyết định dù thế nào những sự việc này vẫn sẽ lên mặt báo, nhưng cô không phải là người chia sẻ chúng. “Một trong những nạn nhân sống sót trong vụ án Vườn Bướm Đêm đã tự vẫn vào tuần trước.” Phía cô có một tiếng thở khẽ, giống như suy nghĩ hơn là hồi âm. “Điều đó không quá bất ngờ,” anh tiếp lời. “Không phải một bất ngờ đối với cô gái ấy. Chúng tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn vì cô ấy đã không tự tử sớm hơn.” “Do gia đình đúng không?” “Cô ấy đã mất tất cả ngay cả khi ở trong gia đình. Chính gia đình đã hủy hoại phần đời còn lại của cô ấy. Nhưng cô ấy làm…” “Đã có ba vụ.” Cô nói nên anh không cần phải nói nữa, cô đáp nhẹ tênh. “Đã có ba vụ tự tử trong chưa đến bốn tháng.” “Hai vụ án còn lại đã được các chuyên gia tâm lý cảnh báo. ‘Có nguy cơ cao’ là cách mà họ nói về chúng.” “Thế những người còn lại?” “Thời gian sẽ trả lời.” Anh ghét cụm từ này, nhưng anh còn ghét hơn vì nó quá đúng. “Một vài người trong số họ sẽ cảm thấy… không ổn, tôi đoán vậy, nhưng họ vẫn đang ổn nhất có thể. Tất cả mọi thứ đang cố gắng hủy hoại họ, họ sẵn lòng thiêu rụi cả thế giới để mang chúng đi theo.” “Bốn tháng không phải là quá dài.” “Ít hơn bốn tháng.” “Vâng, ít hơn bốn tháng,” cô đồng tình, không phải bởi tầm quan trọng của tính chính xác về thời gian mà vì anh vẫn còn rất thẳng thắn, cô biết điều đó. Anh lẽ ra còn bất ổn hơn bây giờ. Nhưng vì anh là một đặc vụ FBI, chết tiệt, cho nên nếu cảm thấy yếu đuối, anh cũng không cần ai nhìn thấu điều đó. “Cô đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa?” Anh bất ngờ hỏi. “Chưa.” Câu trả lời của cô ngắn gọn, nhưng không hề nhanh. Không phòng thủ, cũng không phản ánh. “Chavi là một phần to lớn trong thế giới của tôi, nhưng chị ấy không phải là tất cả. Dù cho tôi đã và đang đau lòng đến nhường nào, tôi vẫn phải vượt qua. Đó là sự khác biệt, đúng không?” “Phải không?” “Ngay cả khi không đúng thì những việc khác vẫn tạo nên sự khác biệt. Chị gái tôi đã bị cướp đi khỏi cuộc đời tôi. Nhưng tôi không mất tự do. Tôi không mất danh tính. Tôi không có một ngày được mặc định từ trước là phải chết.” Ngày hết hạn - đó là cách một nạn nhân sống sót trong vụ Vườn Bướm Đêm gọi nó. Cuộc đời giống như một hộp sữa đợi ngày hết hạn vậy. Anh có thể cảm nhận món tôm sữa lo mein trong dạ dày mình. “Tôi mất đi chị gái. Còn những cô Bướm của anh đánh mất chính họ. Ít nhất là vẫn có sự khác biệt chứ.” “Chúng tôi biết cô ấy sẽ làm thế. Chúng tôi đã cảnh báo cha mẹ cô ấy, cầu xin họ để cô nhận sự giúp đỡ mà cô được trao.” “Vic xin chứ gì.” “Cả Ramirez nữa,” anh nói mà không thấy xấu hổ, bởi cầu xin là việc anh không bao giờ làm. Anh luôn làm việc hiệu quả với những đối tượng tình nghi hơn là nạn nhân. Đó là một sự thật cho thấy rõ bản chất con người anh. “Việc biết trước không hề thay đổi cảm giác của cô khi chuyện đó xảy ra.” Nhưng có thật thế không? Lại một lần nữa, đây không phải một câu hỏi mà cô trăn trở quá lâu. Kẻ giết Chavi vẫn nhởn nhơ ngoài đó, ngay cả khi họ tìm ra hắn, điều đó cũng không mang chị cô trở về. “Vậy tôi có cần gặp họ không?” Cô hỏi. Anh nháy mắt, gần như kéo điện thoại ra xa khỏi tai và nhìn chăm chăm vào nó. “Gặp ai cơ?” “Những người sẵn lòng thiêu đốt cả thế giới nếu họ phải làm thế. Nghe có vẻ họ chính là mẫu người của tôi.” Câu nói của cô khiến anh bật cười lớn. “Ôi, họ ư, không đâu. Đương nhiên là không, cô sẽ không bao giờ được phép gặp họ,” anh phản đối, trong đầu mường tượng ra những ý nghĩa của câu nói vừa rồi. Lạy Chúa, Priya đương nhiên sẽ hòa hợp và trở nên thân thiết với Inara và Bliss thôi. Tình cảm của họ sẽ mãnh liệt như một ngôi nhà cháy rực vậy. Cho nên chắc chắn câu trả lời là không. Cô khẽ cười, tiếng cười còn nhẹ hơn cả một hơi thở, nhưng lại giúp anh gỡ được nút thắt trong lòng, thật kỳ lạ là giờ đây anh vừa cảm thấy tốt hơn lại vừa cảm thấy tệ đi. Nhưng vì chính anh, và cả thế giới rộng lớn ngoài kia, hơn bao giờ hết anh cần họ không bao giờ gặp nhau. Buổi sáng thứ Tư chết tiệt, tôi giật bắn mình vì đang ngủ thì bị véo một cái đau nhói, cảm giác như chiếc giường bị lật ngược lại. Hoặc gần như thế. Tôi bật nảy lên trên tấm đệm, đưa tay dụi hết đám bụi ra khỏi mắt. Phòng tôi vẫn tối, nhưng ánh sáng vừa đủ từ hành lang để tôi nhận ra hình bóng của mẹ, đang đứng ngay ở cuối giường, tay chống nạnh kiểu Superman. Ván giường tôi kêu cọt kẹt dưới sức nặng của bà. Tôi rên rỉ và co người lại, úp mạnh cái gối lên mặt mình. “Cái quái gì thế hả mẹ?” Bà cười và nằm phịch xuống bên cạnh tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi cà phê trong hơi thở của bà, ấm áp và quen thuộc phả vào cổ tôi, trong khi bà vòng tay qua ôm lấy tôi. “Con có thể mặc pajama để tham dự lớp học không có nghĩa là con có thể dậy muộn.” “Bên ngoài trời vẫn tối mà mẹ?” “Ừ.” “Thế thì không thể gọi là thức dậy đúng giờ.” Mẹ lại cười và nhấc cái gối lên để thơm má tôi. “Dậy đi nào, con yêu. Mẹ sẽ nấu bữa sáng cho con.” Mẹ thật sự đã làm món bánh quế ngon tuyệt cho tôi. Có lẽ chúng xứng đáng để tôi ra khỏi giường. Mẹ đi làm ngay sau bữa sáng và tôi dành cả buổi sáng cố gắng bắt não mình tư duy về các môn Toán, Khoa học và Lịch sử bằng tiếng Pháp. Quá nhiều kiến thức lịch sử - tôi thậm chí còn chưa hiểu nổi… cho tới khi tôi phải chơi trò đuổi bắt với lũ trẻ mà tôi sẽ học cùng trong mùa thu tới. Khi đầu tôi bắt đầu đau âm ỉ vì những kiến thức ngôn ngữ quá tải, tôi dẹp hết mọi thứ và đắp lên mình tám đến mười lớp áo để thách thức cái lạnh bên ngoài. Bầu trời tươi sáng, nhưng lạnh vô cùng. Lạy Chúa, lạnh thấu xương. Một phần trong tôi tự hỏi vì sao những cựu binh thà ngồi ngoài trời với những chiếc máy sưởi chứ không vào bên trong. Trời vẫn lạnh thấu xương ngay bên ngoài căn lều và người ta đã cho xây ba quán Starbucks cách nhau một bước chân. Nhưng tôi không định hỏi. Đó sẽ là lần đầu tiên tôi thật sự chơi cờ với họ nên tôi phải tới xí chỗ. Luật này được áp dụng với tất cả các nhóm. “Tới đây, cô bé Xanh Dương, cháu sẽ chơi cùng ta hôm nay,” người cựu binh trở về từ chiến tranh Việt Nam với chiếc mũi đỏ dõng dạc tuyên bố trước khi tôi tới bãi cỏ. Một vài người khác cười khúc khích với cái tên ông đặt cho tôi, nhưng kể ra cũng có lý. Viên đá đính giữa hai mắt tôi màu xanh pha lê được nạm bạc, cùng kiểu với viên đá gắn trên cánh mũi phải của tôi, và ngay sau khi tôi bỏ chiếc mũ len ra, những sợi tóc màu xanh dương của tôi tỏa sáng rực rỡ. Người đàn ông đặt cho tôi cái tên cô bé Xanh Dương nháy mắt với những lọn tóc của tôi, sau đó cười lớn như thể ông vừa nhận ra điều gì thú vị lắm. “Thế cháu nên gọi ông là gì ạ?” Tôi hỏi trong lúc trèo qua băng ghế. “Cháu cứ gọi ông già chết tiệt này là Corgi, cháu đã nghe qua chưa?” Ông già ngồi cạnh rít lên, mặc kệ Corgi thúc cùi chỏ vào sườn. Chiếc mũ họ đội giống hệt nhau, và tôi tự hỏi bằng cách nào chiếc mũ gớm ghiếc này có thể sống sót qua địa ngục để lại chễm chệ trên đầu người khác. Dù sao đó cũng là một loại địa ngục khác. Mất mát là mất mát, mẹ và tôi còn có nhau, chỉ có điều chúng tôi không phải trải qua chiến tranh kiểu đó. Một vài người khác giới thiệu về họ trong khi Corgi và tôi ngồi xếp quân cờ - Steven và Phillip và Jorge, và ngồi cạnh Corgi là Happy, trông như đang hơi say. Những người khác chăm chú quan sát ván cờ. Tôi có cảm giác ngờ ngợ ở góc quen thuộc, nơi đó Gunny đang mỉm cười và vẫy tay với tôi, sau đó quay lại ván cờ ông đang đấu với người đàn ông có khuôn mặt nhạt nhòa mà tôi đã nói chuyện cùng lần trước. Khi tôi và Corgi bắt đầu chơi, Happy và Jorge tập trung vào ván cờ của chúng tôi còn hơn của họ, cả hai người bọn họ đều cố gắng chỉ dẫn tôi với phong cách như cãi nhau. Ngoại trừ Happy cáu tiết lúc ban đầu, họ đều đã cư xử tốt nhất có thể, nói đúng ra là họ liên tục thay đổi từ cực đoan tới nhã nhặn một cách khó chịu và cả cái kiểu thô bỉ mà có lẽ sẽ khiến hạ binh của họ phải khóc với niềm tự hào trong ngày trở về. Họ ngần ngại xin lỗi ngay sau khi nhận ra tôi đang lắng nghe. Nhưng tôi cười với họ, và dần dần họ đã thoải mái hơn để bộc lộ tinh thần thường ngày của họ, hoặc ít nhất là giống nhất có thể khi có phụ nữ ở đây. “Ta nghĩ cháu đã nói là cháu thích chơi cơ đấy,” Corgi nói đầy ngờ vực sau khi thắng ván thứ hai dễ như ăn bánh. “Nhưng cháu có nói là cháu chơi giỏi đâu ạ.” “Lý luận hay đấy,” Jorge nói. Bố lại là kiểu chơi cờ kém bẩm sinh nên việc cố thua ông còn khó hơn là đánh bại một người chơi bình thường. Khi tôi phát hiện ra những người khác sẽ dễ dàng đồng ý cho tôi chơi cùng nếu tôi không đe dọa lòng tự hào của họ? Ồ. Có lẽ phần nào đó trong tôi đã giữ thói quen này cho bố, nhưng đó cũng là một loại võ đoán kỳ lạ. Chơi để thua giúp tôi giữ những cuộc chơi của mình không vướng vào thị phi. Chúng tôi xếp lại cờ cho ván tiếp theo và Happy đi vòng qua để thế chỗ tôi, đồng thời dọa sẽ chơi cho Corgi thua không ngóc đầu lên được như một sự sỉ nhục hiển nhiên. Corgi gầm gừ. Đàn ông thường có những cách bày tỏ tình yêu rất kỳ lạ mà bạn không thể ngờ tới. “Tới chơi với ta nào, quý cô Priya,” Gunny mời tôi trong khi xếp những quân cờ lại vạch xuất phát. Mọi người đều đứng lên sắp xếp lại, tìm cho mình những bạn chơi mới và cãi nhau quang quác để chọn màu quân cờ. Tôi ngồi vào chỗ dành cho “người vô hình”, nhưng ông trượt ghế xuống một chút để nhìn thấy người cựu binh trông khá trẻ trở về từ chiến trường Bão Sa mạc, tự giới thiệu mình là Yelp. Tôi đã cố gắng không hỏi về cái tên Corgi và Happy, nhưng tại sao lại là Yelp? Ông hơi nhăn mặt, đôi má ửng hồng và nở một nụ cười bẽn lẽn. “Ta có tên này từ trận Basic,” ông lẩm bẩm. “Trung sĩ cứ đi theo đằng sau và rống những mệnh lệnh vào tai ta. Luôn nhảy tới một bước rất gần và đặt tên ta là Yelp.” Và những cái tên kiểu đó cứ theo họ suốt đời. “Người vô hình” nhìn tôi và khẽ nở nụ cười, nhưng không lý giải tên mình. Tôi cũng không hỏi - có điều gì đó ở ông, và tôi không muốn đánh liều làm ông mất đi sự nhã nhặn chỉ để thỏa mãn lòng hiếu kỳ của mình. Sự tập trung của Gunny vào ván cờ không tốt chút nào. Lúc thì ông quên mất đã đi nước cờ gì, lúc lại quên bây giờ tới lượt ai. Đôi khi ông bị cuốn vào những câu chuyện vu vơ và quên mất ông vẫn chưa đi cờ. Tôi không cố nhắc ông, trừ phi trông ông có vẻ bối rối. Thật lòng mà nói, tôi thích nghe chuyện ông và những người bạn của mình say xỉn trong một lâu đài bỏ hoang và cố gắng dạy một con bò trượt tuyết. Thật khó tưởng tượng ra một ông lão lại có năng lượng như vậy, nhưng có lẽ khi bắt đầu đi lính, ông cũng không già hơn tôi bây giờ là mấy. Thỉnh thoảng Yelp nhìn qua bàn cờ của tôi và lắc đầu, trao cho tôi một ánh nhìn gượng gạo. Còn tôi thì chỉ nhún vai, nhưng không cố gắng giải thích. Tôi có lý do riêng của mình. Gunny ngủ gật khi chúng tôi đang chơi dở ván thứ hai. Một trong những cựu binh trở về từ chiến tranh Triều Tiên, tự giới thiệu tên mình là Pierce, khoác cho ông một tấm chăn lên vai, luồn chăn xuống cằm và tay ông. “Trung tâm thương mại mời chúng ta tới dùng cà phê của họ,” ông nói với giọng điệu cộc cằn, và ngượng nghịu do chính lòng tốt của ông, tôi nghĩ. “Gunny nói rằng ông đã già, nhưng chưa chết, và chúng ta sẽ ở ngoài trời hoặc là chẳng ở đâu cả.” “Chẳng có gì sai với lòng tự tôn cả,” tôi đáp. “Ít nhất là khi ông có những người anh em để chia sẻ những nỗi bực dọc này.” Ông nháy mắt với tôi, cái nháy mắt khiến tôi khẽ rùng mình, và ông cười. “Có lẽ cháu nên về thôi. Còn vài việc ở trường cháu cần làm xong trước ngày mai.” Tôi đứng dậy khỏi băng ghế, giãn những khối cơ đã cứng đờ và mỏi rã rời của mình. “Cháu sẽ lại tới vào thứ Sáu, nếu được.” “Cứ đến bất cứ lúc nào cháu muốn, cô bé Xanh Dương,” Pierce lên tiếng. Tôi có cảm giác như Gunny là người duy nhất gọi tôi bằng cái tên Priya. “Cháu luôn được chào đón ở đây.” Một bong bóng nhỏ đầy ấm áp đang phập phồng trong lồng ngực tôi. Tôi từng được phép tham gia một vài nhóm cờ trong suốt những năm qua, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thật sự cảm thấy được chào đón kể từ khi rời Boston. Tôi chỉnh lại áo khoác, kéo lại mũ và đi thẳng qua bãi đỗ xe tiến vào Kroger để mua một món đồ uống nóng. Những chiếc máy sưởi ngoài trời khiến cho căn lều dễ chịu, nhưng đó là xét về khía cạnh tâm lý, chứ con đường về nhà dài đằng đẵng khiến tôi muốn một tách ca cao nóng làm bạn đồng hành. Hàng người đứng đợi lấy cà phê khá dài, có vẻ do người thợ pha chế mới, làm việc một mình nhưng luôn cố gắng đáp ứng những lời gọi món thay đổi liên xoành xoạch của một nhóm những bà thím trong trang phục đỏ và tím. Liệu có một danh từ tập hợp nào dành riêng cho các Quý bà Mũ đỏ này không nhỉ? Bên cạnh hàng người, chỉ cách tôi vài bước chân, ai đó đang ngồi xuống một chiếc ghế, trong khi đặt tấm áo choàng nặng nề màu nâu của ông sau lưng chiếc ghế bên cạnh. Đó là người vô hình trong nhóm cờ. Ông lôi một quyển sách từ trong túi áo ra, một tập giấy to và luộm thuộm tới mức tôi chẳng thể nhận ra đó là sách gì. Những trang sách quăn tít mép, gáy sách bị gãy làm nhiều phần, bìa sách đã bong cả ra. Ông mở sách nhưng không hề nhìn vào nó. Ông đang nhìn tôi. “Một món đồ uống có lẽ chính là điều tuyệt nhất lúc này.” Thế thì tại sao ông lại không xếp hàng? Tôi nặng nề tiến lên, lê từng bước một. Ông ấy thậm chí còn không ở gần như thế, nhưng tôi vẫn có cảm giác như không gian riêng tư đang bị xâm phạm. Và có lẽ tôi không nên gọi ông là người vô hình, bởi vì tuy rằng tôi không cố ý nhưng dường như nó đã khiến ông cảm thấy khó chịu. “Cháu không nghĩ là cháu đã biết tên ông.” “Ta cũng không nghĩ là ta đã nói cho cháu biết.” Tôi tiến dần lên theo dòng người. Một trong những quý bà mũ tím đỏ đang chửi rủa và anh thợ pha chế trông có vẻ như sắp khóc đến nơi. “Bên ngoài trời lạnh đó,” người đàn ông nói sau một khoảng im lặng khá dài. “Thì bây giờ đang là tháng Hai ở Colorado mà.” “Đi bộ sẽ lạnh lắm đó,” ông tiếp tục, mà hình như đã bỏ lỡ hoặc lờ đi lời châm biếm của tôi. “Cháu có muốn đi nhờ xe không?” “Không ạ, cảm ơn ông.” “Cháu thích trời lạnh à?” “Cháu cần tập thể dục một chút.” Tôi không quay lại nhưng có thể cảm nhận ông cụp mắt xuống, rồi lại ngẩng lên. “Cháu không cần, không thật sự cần. Cháu vẫn ổn mà.” Cái quái gì đang xảy ra với mọi người ở đây vậy? Tôi lại tiếp tục tiến lên, xa ông hơn một chút để có thể lịch sự đáp lời và sau một vài phút nữa, tôi đã tới quầy gọi đồ. “Cho tôi một cốc sô cô la nóng Venti.” “Tên cô là gì?” “Jane.” Tôi trả tiền, lấy lại tiền thừa và đi dọc theo quầy để tới điểm nhận đồ. Nhóm những quý bà đội mũ tím đỏ dạo quanh quầy bán hương liệu, dần dần tiến vào một góc nơi họ đẩy tất cả bàn lại với nhau. “Jean!” Người thợ pha chế gọi tên tôi. Đủ gần để tôi nghe rõ. Tôi khó nhọc len qua đám phụ nữ kia, nhận đồ uống của mình và đi thẳng về phía cửa. “Trời sẽ tối nhanh đó, cháu có chắc là cháu không muốn đi nhờ không?” Người vô hình hỏi lại tôi khi tôi lướt qua ông. “Cháu chắc ạ, cảm ơn ông.” “Tên ta là Landon.” Không, tên ông ta là Kinh dị mới đúng. Nhưng tôi chỉ gật đầu và đi thẳng. Những tên đàn ông kinh dị là một sự thật không may mắn của cuộc sống. Tôi đã chứng kiến Chavi bị lạm dụng từ nhỏ và tôi phải chịu đựng cuộc sống của chính mình ngay cả trước khi chịu những hình phạt tuổi dậy thì. Tôi chưa từng chứng kiến ai đủ dũng cảm để chống đối mẹ, nhưng tôi chắc chuyện đó từng xảy ra. Có lẽ chúng chỉ bộc phát. Chỉ duy nhất một lần tôi thấy ngạc nhiên khi kiểm tra hòm thư: một bì thư trắng phau với địa chỉ gửi mà tôi không nhận ra, nhưng thông tin của tôi được viết bằng thứ mực dính của Vic và sự trung thực tới từ Quantico. Bên trong nhà, tôi cởi bỏ quần áo và treo vào tủ đồ phía trước, sau đó quay về phía chiếc bàn dài ẽo ọt mặt đá dưới cầu thang. Một chú bướm với đôi cánh mở rộng xòe ra cả bốn viên gạch, mềm mại, và có màu tím xanh mộng mơ, nhưng hầu hết được bao phủ bởi những đóa cúc bằng lụa vàng, một cây nến đỏ to tướng và một khung ảnh. Đó là nơi Chavi đang sống, trong chiếc khung này và những chiếc khung tương tự. Chiếc khung được mạ vàng sáng lấp lánh, ở góc trên cùng bên trái sơn đã bị mờ và tróc ra. Ba người chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để quyết định sẽ lồng bức ảnh nào vào đó. Chúng tôi biết mình thích bức nào, và bức nào giống Chavi nhất, nhưng đó cũng là bức ảnh mà cảnh sát và báo chí sử dụng, tràn lan trên các trang mạng, báo chí và poster thu thập thông tin về cô. Cuối cùng, chúng tôi chọn bức ảnh đó. Đó là Chavi. Đó là tấm ảnh cũ của chị, thậm chí còn đi ngược lại quy chuẩn là phông nền xám loang lổ và dáng chụp đặt cằm lên nắm tay dở tệ một cách cố tình, những điều khiến chị là phiên bản rực rỡ nhất của chính mình. Đôi mắt chị lấp lánh, được đóng khung bởi đôi cánh đen tuyền nặng nề và những bóng sáng vàng trắng, với một tia đỏ rực rỡ nơi khóe miệng để hòa hợp với những vệt dài trên mái tóc. Món trang sức trên trán và mũi chị màu đỏ pha lê, nổi bật trên khung nền vàng rực, đậm đà và ấm áp. Da chị sẫm màu hơn da tôi, màu da được thừa hưởng từ bố, khiến cho những màu sắc kia càng trở nên nổi bật. Điều khiến cho bức ảnh mang dấu ấn cá nhân của Chavi chính là chị thậm chí đã quên sạch mình có buổi hẹn hôm đó. Chị dành cả buổi sáng chơi với hộp màu dầu mới của mình, sau đó cuống cuồng chuẩn bị và xoay xở thành công để trông thật hoàn hảo - trong khi vẫn lưu lại những vệt màu pastel tạo hình cầu vồng phía má ngoài nắm tay chị đang chống cằm. Sau khi lục tìm sâu trong ngăn kéo bé xíu dưới bàn để tìm ra một hộp diêm, tôi thắp cây nến đỏ lên và cúi xuống để hôn lên góc khung tranh đã mờ sơn. Đó là cách chúng tôi giữ Chavi lại bên mình, một phần của cuộc đời chúng tôi theo cái cách không hề bi lụy, đáng sợ hay điên rồ. Chúng tôi không có bức ảnh nào cho bố, nhưng Chavi không chọn rời đi, còn bố thì có. Sau khi đã yên vị trên ghế bành, tôi lật qua lật lại bì thư trong tay hòng tìm kiếm manh mối cho nội dung nó hàm chứa. Tôi không thật sự thích những bức thư bí ẩn; tôi đã nhận được quá nhiều bức thư như vậy sau khi Chavi mất, mọi người khắp cả nước đã tìm ra địa chỉ của chúng tôi và gửi tới những bức thư, thiệp và cả hoa nữa. Tôi cũng ghét cả thư từ; và tôi không thể hiểu nổi có quá nhiều người cảm thấy cần phải viết thư cho người lạ để nói với họ vì sao người họ yêu thương lại “xứng đáng” phải chết. Chữ viết tay chắc chắn là của Vic, nhưng cũng thật lạ. Với bất cứ thứ gì khác những tấm thiệp, ông thường cảnh báo tôi phải thật cảnh giác. Và chắc chắn chữ viết tay bên trong không phải của Vic. Nội dung bên trong cũng hợp lý với địa chỉ gửi, những con chữ trông thanh thoát nhưng đơn giản, dễ đọc. Không có lấy một câu chào mà người viết đã vào thư ngay: Victor Hanoverian kể với tôi rằng cô biết việc sắp xếp lại cuộc sống sau những điều kinh khủng là như thế nào. Tôi cũng đang trải qua điều đó hoặc đã từng. Có lẽ tôi vẫn đang sắp xếp lại cuộc sống, cho chính mình, nhưng còn những cô gái khác, và tôi không chắc tôi phải nói với họ điều gì hoặc giúp họ bằng cách nào. Đó không phải cách tôi từng biết hoặc có thể đoán ra. Tên tôi là Inara Morrissey và tôi là một trong những nạn nhân của vụ Vườn Bướm Đêm do Vic phụ trách. Chết tiệt. Tôi liếc qua phần còn lại của lá thư, thậm chí tôi còn không thèm đọc lướt nhiều như kiểm tra chữ viết tay để xem Vic có để lại ghi chú gì không, một dấu hiệu cho thấy lý do ông quyết định gửi bức thư này. Chẳng phải hành động này là phá luật hay sao? Tôi biết tên cô gái này, đương nhiên rồi - vì những cô Bướm đã xuất hiện trên bản tin quốc gia trong gần bốn tháng nay - nhưng những vụ án của chúng tôi thường chỉ được kết nối qua các đặc vụ. Chẳng phải vẫn có một ủy ban luật pháp nào đó để đảm bảo những vụ án không can hệ gì với nhau hay sao? Nhưng mà chẳng phải Vic là người vô cùng cẩn thận hay sao? Ông không cho Inara địa chỉ của tôi; ông sẽ tự mình gửi thư cho tôi. Tôi cũng không phải trả lời, tôi không phải cho cô ta địa chỉ của mình. Thế thì làm sao cô ta lại biết về tôi? Tôi quay lại phần tôi đang đọc dở. Tôi đã thấy ảnh của cô trên bàn của Eddison vài tuần trước, và Eddison đúng là một tên khốn gai góc, tôi đã cảm thấy rất tò mò. Tôi thậm chí còn không nghĩ anh ta thích loài người. Vic đã kể cho tôi cô là ai, à không, đúng hơn là cô là gì, ít nhất là khi họ gặp cô. Ông nói rằng cô đã mất đi chị gái trong một vụ giết người hàng loạt, và ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là “Ồ, tôi cũng vậy”. Tôi nghĩ đó là lần đầu tiên tôi gọi một cô gái là chị và tôi cũng ngạc nhiên vô cùng khi biết việc này đau đớn dường nào. Đánh mất họ một lần nữa theo cách hoàn toàn khác, có lẽ thế, hoặc tôi cảm nhận cách này về họ mà tôi chưa từng nói ra. Tôi không hỏi chuyện gì đã xảy ra với cô. Tôi biết tôi hoàn toàn có thể tra cứu, nhưng tôi không muốn. Thú thực, tôi không hứng thú với những chuyện xảy ra với cô bằng những việc cô lựa chọn làm sau đó. Vụ Vườn Bướm Đêm dễ khiến người ta mạnh mẽ hơn. Những người khác nhìn vào tôi và tôi cho phép họ làm thế bởi tôi biết cách thăng bằng trên nước và có thể giữ họ trong khi họ học. Thế nhưng, vụ ấy đã kết thúc nhưng họ vẫn đang dõi theo tôi và muốn tôi phải mạnh mẽ như hồi còn trong vụ Vườn, tôi thì không biết phải xoay xở ra sao khi bị mọi người dõi theo. Tôi không biết cách làm bất cứ điều gì. Trong tôi luôn luôn đổ vỡ, và tôi thì luôn thấy ổn với điều đó. Tôi là chính mình. Giờ đây mọi người đang đổ dồn vào xem tôi tự chữa lành cuộc đời mình, còn tôi thì KHÔNG MUỐN chữa lành gì cả. Lẽ ra tôi không nên làm những điều tôi đã làm. Nếu tôi muốn cuộc đời mình đổ nát, liệu đó có phải lựa chọn của tôi không? Khi Vic nhắc tới cô, hoặc nghe thấy tên cô, ông trông như một trong những cô gái trong vụ án của ông khi bỗng dưng được nhắc tới. Eddison thật sự có vẻ thích cô và tôi thì khá chắc rằng anh ta ghét tất cả mọi thứ có mạch đập. Mercedes nở nụ cười, trông hơi buồn, tôi thì dần hiểu ra cô không cười với ai cả mà chỉ thấy buồn cho những người cô yêu thương. Họ đã chấp nhận cô, theo cách của họ, và giờ đây họ cũng chấp nhận tôi, còn tôi thì không chắc có thể coi họ là những người thân thiết. Cô không cần phải viết lại cho tôi. Tôi biết tôi không thể nói chuyện với các cô gái khác về bất cứ thứ gì trong chuyện này bởi họ cần tôi trông thật mạnh mẽ, còn tôi không muốn làm họ thất vọng. Nhưng Vic đã cười khi tôi hỏi liệu có ổn không khi tôi viết thư, vì thế tôi hy vọng ý tưởng này sẽ tốt hơn những gì tôi cảm nhận về nó. Làm cách nào ta có thể ráp lại những mảnh vỡ đã vĩnh viễn biến mất trong khi chúng là lý do duy nhất người ta nhìn vào mình? Ừm. Cô ta đang hỏi tôi về một việc mà tôi không chắc là mình đã thật sự làm hay chưa. Nếu tôi phải đoán, đó chính xác là lý do mà Vic gửi bức thư này: bởi vì cô ta hoàn toàn đúng. Đúng ra chúng ta không phải sửa lại nếu chúng ta không muốn. Đúng ra chúng ta không phải mạnh mẽ, dũng cảm, lạc quan hay làm bất kể trò vớ vẩn gì. Mẹ đã luôn khoan dung mà bảo tôi rằng việc cảm thấy bất ổn là vô cùng bình thường. Chúng ta không nợ ai bất cứ thứ gì vì điều đó. Tôi cần phải ngồi xuống bình tâm trong vài ngày tới. Vài tiếng sau, khi mẹ về nhà, với túi laptop và tài liệu trên một bên tay, những chiếc túi đựng đồ ăn mang về ở bên còn lại, tôi đã hoàn thành bài viết của mình và đang tìm cách giải thích cho mẹ việc Pierce nói tôi được chào đón ở căn lều chơi cờ có ý nghĩa như thế nào với mình. “Con lấy đĩa nhé?” Mẹ nói trong lúc đang cúi xuống để hôn khung ảnh và gần như chạm cả chiếc khăn bà đang đeo vào ngọn lửa. Bà đặt đống túi bên cạnh, những túi đồ ăn được đặt cẩn thận hơn chiếc laptop. Trông bà vừa xinh đẹp vừa đáng gờm trong trang phục đi làm, chân váy bút chì màu xám và áo vest được may đo kỹ lưỡng, cùng áo lụa tay bồng màu tím oải hương và chiếc khăn kẻ sọc cũng không lấy gì mềm mại hơn. Mái tóc dài của bà được tết gọn gàng và búi chặt lại, đôi cao gót bà mang thì vừa đủ cao để thể hiện uy lực, cũng vừa đủ thấp để bà có thể tung một cước vào mông bạn. Điều duy nhất không hòa hợp với tổng thể con người bà là những thứ bà mang về sau khi tan sở, đồ trang sức bindi cùng khuyên mũi màu xanh ngọc và vàng, và một chiếc vòng vàng mảnh uốn quanh môi dưới. Mẹ đã rất chủ động và có mục đích khi để lại cả gia đình và văn hóa của mình ở thành phố London khi chúng tôi tới Mỹ mười hai năm trước, nhưng bà vẫn giữ một chút những gì mình thích. Đa phần bà giữ lại những thứ cho người khác thấy chúng tôi theo đạo Hồi. Bà không quan tâm liệu người khác có coi đó là những hành động báng bổ thánh thần hay không, miễn là bà giữ được sự an toàn cho hai cô con gái da màu của mình. Bindi, những món trang sức, những hình vẽ henna, tất cả đều giàu ý nghĩa hơn những gì chúng tôi dành cho chúng. Tôi đứng dậy, sắp xếp đĩa và dao dĩa. Sau khi mang những túi đồ ăn sẵn ra phòng khách, tôi trở lại bếp và lấy hai cốc sữa cùng vài chiếc hộp nhựa sạch. Thế rồi tôi ngồi đợi mẹ lấy thức ăn ra. Đó là khả năng tự kiểm soát. Tôi chỉ cảm thấy tốt hơn khi để mẹ kiểm soát và chia phần thức ăn. Bà đi từ trên gác xuống, mặc quần tập yoga và áo dài tay rộng từng có logo của trường trung học mà Chavi đã theo học in to tướng ở mặt trước. Bạn vẫn có thể nhìn thấy một phần hình logo còn sót lại nếu chịu khó nheo mắt và biết nó là dòng chữ gì. Những phần khác đều đã phai đi và bong ra, thậm chí sờn đi. Mái tóc bà giờ đã không còn được kẹp lại mà xõa ra từng lọn và rơi lung tung xuống lưng. Đó là mẹ - người thích ấn sâu những ngón tay xuống đất và giúp những thứ khác lớn lên, luôn nhanh nhẹn như cách mà hai cô con gái của bà bắt đầu một trận chiến gối bông. Chúng tôi ngồi bệt xuống thảm để chiếc bàn cà phê giống một chiếc bàn đúng nghĩa, rồi mẹ bắt đầu lấy những chiếc hộp và chia thức ăn ra. Tôm nấu cam và mì lo mein cho Mẹ, gà sốt chua ngọt và cơm trắng cho tôi, hai phần ăn được chia chính xác vào các đĩa và hộp nhựa. Bà mở gói trứng cuộn và không chia những bát xúp ra - món hoành thánh cho tôi và trứng đánh của mẹ. Món xúp mua sẵn không đủ nóng để khiến chúng tôi tha thiết. Ngày mai, chúng tôi sẽ ăn nốt phần còn lại vào bữa trưa và một vài loại đồ ăn sẵn khác cho bữa tối. Hầu hết những món ăn trong bếp của chúng tôi đều được cất vào hộp, điều này sẽ không thay đổi trong những tuần kế tiếp. Nấu ăn không phải là điều sẽ xảy ra ở đây. “Thế con chơi cờ thế nào?” Bà hỏi trong khi đang ăn món tôm. “Cũng tốt ạ. Con đang mong đến ngày được chơi tiếp.” “Con thấy mọi người đều chào đón mình chứ?” “Vâng, hầu hết mọi người ạ.” Mẹ nhìn tôi đăm đăm, cái nhìn sắc sảo, nhưng tôi chỉ nhún vai và cắn một miếng gà ngập sốt. “Con sẽ tránh những trường hợp ngoại lệ.” “Con sẽ mang theo bình xịt cay đề phòng chứ?” “Con gắn trên chùm chìa khóa rồi. Và chùm chìa khóa nằm trong túi ngoài cùng của áo khoác.” “Tốt lắm.” Chúng tôi cứ thế yên lặng ăn một lúc, nhưng điều này hoàn toàn không khó chịu hay bất tiện, đó chỉ là cách để một ngày trôi qua và lọc ra những điều chúng tôi có thể tận hưởng vào cuối ngày. Cuối cùng, mẹ bật ti vi để nghe tin tức rồi lại tắt tiếng đi, chỉ để đọc lướt những dòng tít ở mục tin tức hoặc dưới những bức ảnh hiện trường. Khi ăn xong, chúng tôi cùng đứng lên dọn lại bàn. Bà lấy phần thức ăn thừa và giấy rác, còn tôi thì dọn đĩa và dao dĩa. Chúng tôi có máy rửa bát, gần đây đã bị che lấp bởi hai chồng cao toàn hộp, nhưng đó không thật sự là lý do để chúng tôi không dùng tới nó, nhất là khi chi có hai mẹ con. Tôi xả sạch và rửa tất cả mọi thứ rồi để chúng lên giá cạnh bồn rửa cho ráo nước. Mẹ lại quay về ngồi trên tấm thảm, bật Xbox và chơi Lego. Tôi thì nằm dài trên ghế để viết nốt nhật ký. Suốt một lúc lâu, những từ duy nhất trên trang giấy là Chavi yêu dấu. Chavi đã bắt đầu viết nhật ký thậm chí trước cả khi tôi được sinh ra. Chị lấy những cuốn sổ được trang trí nhạt nhẽo và thiết kế lại bìa cho chúng, rồi bắt đầu viết những lá thư để chuẩn bị cho cô em gái bé bỏng bước vào đời. Khi tôi đủ lớn để biết viết và bắt đầu thói quen viết nhật ký của riêng mình, việc tôi viết lại cho chị là hoàn toàn dễ hiểu. Chúng tôi không hẳn đã đọc nhật ký của nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi có sao chép một vài phần hoặc lời dẫn của nhau, hoặc đọc to một vài đoạn. Chúng tôi từng ngồi cạnh nhau trên giường tôi hoặc giường chị và viết sau khi bố bảo chúng tôi đi ngủ - bởi nếu bố mệt, chúng tôi chắc hẳn cũng đều rất mệt - và tôi không thể nghĩ ra nổi đã bao lần tôi ngủ gật và cắm mặt vào trang giấy trong khi tay vẫn cầm bút, rồi tỉnh dậy ngay bên cạnh chị và được chị ôm ấp, bao bọc. “Liệu chúng ta có đang bỏ Chavi lại phía sau không ạ?” Tôi đột ngột hỏi. Mẹ dừng chơi và ngoái lại phía tôi. Sau một lúc, bà đặt tay cầm chơi game lên mặt bàn và ngồi dựa lưng vào ghế. “Tới Pháp,” tôi giải thích. “Liệu chúng ta có đang bỏ rơi chị ấy ở phía sau không ạ?” “Chúng ta đã để con bé lại khi rời Boston ư?” Tro cốt của chị được đựng trong một chiếc hũ trông giống một tuýp rượu để khiến người ta đỡ đau lòng. Bố khăng khăng muốn chúng tôi đặt chiếc hũ trên lò sưởi, nhưng mẹ và tôi đã gói ghém kỹ càng để sau đó mang tới Pháp và rải tro cốt chị trên những cánh đồng hoa oải hương. Thật ra Chavi chưa từng yêu cầu điều này, bởi có mấy thanh thiếu niên mười bảy tuổi nghĩ tới ước nguyện của mình khi chết đi, mẹ và tôi làm điều này chỉ vì chúng tôi cảm thấy đứng đắn. Chị luôn thích những chuyến đi tới Thung lũng Loire khi chúng tôi ghé thăm nơi đó hồi còn sống ở London. Nhưng Chavi không thật sự chỉ là tro cốt. Chị sẽ là chính mình nhiều hơn trong bức ảnh đặt tại lăng mộ với những bông cúc đại đóa và ánh nến lung linh thay vì hũ tro cốt này, nhưng nó vẫn chưa… “Thế Pháp sẽ là nhà mình chứ ạ?” “À, bây giờ thì mẹ hiểu rồi.” Vặn người lại để thấy tôi, mẹ vòng cánh tay quanh cổ chân tôi để có thể thoải mái mà kê cằm lên đôi tất xù lông của tôi. “Chúng ta đã chuyển chỗ ở vài lần kể từ khi Chavi mất, nhưng chúng ta vẫn chưa thật sự có một nơi gọi là nhà, đúng không con?” “Mẹ là nhà.” “Và sẽ luôn là như thế.” Bà nói đầy tự tin. “Nhưng đó là một con người. Và con đang nói về một địa điểm.” “Vậy đòi hỏi này có ích kỷ quá không ạ?” “Ôi con yêu, không hề.” Ngón tay cái của mẹ xoa nhẹ chỗ lõm sau xương mắt cá của tôi. “Mất đi Chavi là một điều vô cùng tồi tệ. Vết thương đó sẽ theo chúng ta cả đời. Con biết chúng ta đã ở trong tình trạng cố hết sức giữ gìn nó không rỉ máu bằng những lần chuyển nhà liên tục, nhưng khi chúng ta về Pháp, con có tưởng tượng nổi chị con sẽ buồn như thế nào nếu chúng ta không thể ổn định ở đó? Nếu chúng ta lúc nào cũng khiến mình cảm thấy tạm bợ?” cằm mẹ tì sâu vào đầu bàn chân tôi. “Năm năm trước, chẳng phải chúng ta không thể tưởng tượng ra một cuộc sống không có Chavi hay sao?” “Nhưng đó là cuộc sống của mẹ con mình hiện tại.” “Đúng, đó là cuộc sống hiện tại của chúng ta,” mẹ đồng ý. “Và khi chúng ta ở một nơi nào đó trong hơn năm tháng, khi nơi đó trở thành của chúng ta, chúng ta nợ mình và nợ chị con vì không thể biến nơi đó thành nhà. Đó là một suy nghĩ đáng sợ, đúng không?” Tôi gật đầu, thế giới như mờ đi. “Chúng ta yêu chị con; điều đó có nghĩa là chúng ta không thể bỏ con bé lại phía sau.” Tôi lại gật đầu. “Còn một chuyện nữa.” Khi tôi không trả lời ngay, mẹ di dần hai ngón tay lên chân tôi cho tới khi bà chạm vào điểm buồn nhất gần đầu gối. “Priya.” “Một cô gái nữa sẽ chết vào mùa xuân này,” tôi thì thầm, bởi đó dường như là một điều quá sức khủng khiếp để có thể nói to. “Hắn sẽ lại ra tay, bởi vì chừng nào họ chưa bắt được hắn, không có lý do gì để hắn dừng lại. Thế thì sao người ta có thể ngăn hắn giết người?” “Về cá nhân mà nói ư? Cứ trói ngược hắn lên ở chỗ hai hòn bi và lột da hắn bằng một con dao cùn gỉ sắt. Mẹ nghe cánh cảnh sát cau có vì điều đó.” Và có lẽ đó là điều vẫn luôn dằn vặt tôi về bức thư của Inara. Mọi thứ về vụ Vườn Bướm Đêm đang được thu thập trong cơn bão truyền thông chết tiệt và sẽ không có gì thay đổi trong thời gian tới. Mọi người đều có ý kiến riêng, giả thuyết riêng của mình. Mọi người đều có cách hiểu riêng về công lý. Tôi đã từng nghĩ tôi chẳng muốn gì hơn là được nhìn thấy kẻ sát nhân đã giết Chavi bị bắt, nhưng càng ngày tôi càng thấy cách tiếp cận trực diện vấn đề của mẹ có sức hút hơn. Vậy điều đó đã tạo nên cái gì ở tôi? Buổi sáng hôm diễn ra tang lễ, Eddison đón Ramirez từ ngôi nhà bé xíu của cô (mà cô cứ khăng khăng đúng ra phải gọi là nhà tranh) và lái tới chỗ Vic. Trời lúc này còn tối một cách quá đáng, nền trời thậm chí còn chưa ngả màu xám, nhưng quãng đường lái xe tới nhà Kobiyashi ở tận Bắc Carolina quá dài. Anh tấp xe vào lề đường để không cản đường Vic hoặc một trong hai quý bà nhà Hanoverian. Cánh cửa trước mở rộng trước khi họ đến mái hiên. Bà Hanoverian lớn tuổi hơn, mẹ Vic, lùi lại để họ vào trước. “Nhìn hai người kìa,” bà thở dài. “Đúng là lũ quạ, cả hai người.” “Đây là lễ tang, Marlene ạ,” Ramirez nhắc nhở bà, trong khi đặt một nụ hôn lên má bà. “Khi ta chết đi, sẽ không ai trong số các người được phép mặc màu đen trong lễ tang. Ta sẽ viết lại điều này trong bản di chúc của mình.” Bà đóng cửa rồi kéo mạnh áo của Eddison để anh chúi xuống và bà có thể hôn má anh. Anh mới cạo râu một tiếng trước nên râu ria không hề luộm thuộm và lởm chởm. “Chào buổi sáng, con yêu. Hãy vào bếp và ăn bữa sáng nhé.” Anh buột miệng từ chối như một thói quen - anh không thích ăn quá sớm, vì đồ ăn sẽ ứ nghẹn trong dạ dày và khiến anh phát ốm - nhưng Marlene Hanoverian đã sở hữu một lò bánh mì cho tới khi bà quyết định nghỉ hưu và chắc chắn từ chối những gì bà làm là điều ngu ngốc nhất mà anh có thể thực hiện. Họ đi vào bếp và anh dừng lại nhìn chăm chú vào chiếc bàn đã đầy người. Hai thiếu nữ, đều ở tuổi mười tám đôi mươi, nhìn lại anh. Một trong số họ giật giật khóe môi như để ra tín hiệu cô đã nhận ra anh. Người còn lại cười toe toét và giơ ngón tay thối về phía anh. Trước mặt họ là những chiếc đĩa nhỏ, trên đó có những thanh quế cắm vào món kem lạnh. Anh không chắc mình bất ngờ vì điều gì. Đương nhiên một vài nạn nhân sống sót sẽ muốn đến viếng. Trong khi với một vài người, việc này có vẻ quá sức chịu đựng, anh có thể dễ dàng tưởng tượng ra một vài người có lẽ sẽ đến viếng bởi họ thực lòng muốn thấy những ai đồng cảnh ngộ được hạ quan an toàn, hơn là bị đóng khung kính và nhựa ở các hành lang trong vụ Vườn Bướm Đêm như đa số nạn nhân khác. “Chào buổi sáng,” anh thận trọng nói. “Vic cho chúng tôi đi nhờ,” người cao hơn nói. Inara Morrissey - anh có vẻ như đang hồi tưởng việc thay tên này là chính thức - mặc một bộ váy đỏ sẫm tưởng chừng tương phản với nước da nâu bóng của cô nhưng lại không hề. Cô trông vô cùng thanh lịch và mọi thứ đều hoàn hảo cho buổi sớm hôm nay. “Chúng tôi bắt tàu tới đây vào hôm qua.” Họ hiện đang sống ở New York, ừ thì, Inara từng ở đó trước khi cô bị bắt cóc. Bliss từng sống ở Atlanta, cô ấy dọn tới sống cùng Inara và những cô bạn khác ngay sau khi hết thời hạn giám hộ. Gia đình cô ấy đã di cư tới Pháp vì công việc của bố và nếu Eddison thỉnh thoảng tự hỏi liệu tình cảm gia đình họ có bị méo mó đi không, anh sẽ không dại mà hỏi cô ấy về điều đó. Anh biết anh không nên gọi cô ấy là Bliss - đó là cái tên mà hung thủ của vụ Vườn Bướm Đêm đã gọi cô ấy, nó vừa đau thương vừa điên dại - nhưng anh không thể gọi cô ấy là Chelsea. Chelsea thật ra chỉ là một cái tên hết sức bình thường, và Bliss thật là tinh nghịch. Cô ấy nhỏ nhắn, chỉ cao tới vai Inara ngay cả khi họ ngồi. Những lọn tóc xoăn đen hoang dã của cô ấy được gắn chặt lại bằng những chiếc lược cài và cô ấy đang vận một bộ váy xanh dương đậm hơn vài tông so với đôi mắt xanh ngả tím của mình. Anh không ngạc nhiên khi không ai trong số họ mặc đồ đen. Anh biết là nhìn chung họ không né tránh. Cả hai đều thích nghi tốt (mặc dù đôi khi anh cũng hơi ngờ vực về Bliss) và làm việc tại nhà hàng có đồng phục màu đen. Trang phục duy nhất của họ trong vụ Vườn Bướm Đêm, đáng buồn thay, lại có màu đen. Màu đen, và phần lưng hở để khoe đôi cánh của họ. Trong buổi tưởng niệm một người trong số họ, họ sẽ không bao giờ chọn mặc màu đen. Anh chỉ hy vọng người nhà Kobiyashi không nghĩ rằng đó là sự thô lỗ. Nhưng rõ ràng là Bliss thô lỗ. Đây không phải lần đầu tiên cô chào anh bằng cách giơ ngón tay thối. “Còn ai khác tới không?” Anh hỏi, cẩn trọng để Ramirez trượt vào băng ghế dài uốn cong trước. Có thể anh trân trọng hai cô gái này vì họ đã kiên cường vượt qua địa ngục mà vẫn ít nhiều nguyên vẹn, nhưng anh chưa bao giờ chắc chắn mình thích hai cô. Cảm giác khó hiểu này, đôi bên đều cảm nhận được. Bất cứ khi nào có thể anh đều để ít nhất một người ngồi giữa mình và họ và anh không cảm thấy chuyện đó kỳ cục chút nào. “Có lẽ Danelle và Marenka sẽ tới,” Inara trả lời, trong khi liếm chút kem dính trên ngón tay. Một mảng da khác màu ở mu bàn tay cô là dấu tích của lửa và những vết cắt khủng khiếp nhất trong cái đêm Khu vườn nổ tung. “Khi chúng tôi nói chuyện với họ hôm thứ Tư, họ vẫn chưa quyết định.” “Họ sợ nhà Kobiyashi sẽ đối xử tệ với họ,” Bliss nói thêm. Khi Ramirez nhìn cô nghi hoặc, Bliss vẽ một chú bướm lên mặt mình. Cả hai đặc vụ đều nhún vai. Bởi vì bằng cách nào đó, vụ việc ngày càng tệ hơn. Một vài cô gái, đã tan vỡ từ trước đó hoặc nghĩ mình có thể trốn thoát, đã lừa tên bắt cóc và hắn đã đánh dấu họ bằng cách xăm lên mặt họ một đôi cánh tạo thành một bộ với đôi cánh trên lưng họ. Những cô gái khác có thể che đôi cánh trên lưng mình khi họ thoát khỏi vụ Vườn Bướm Đêm. Riêng Danelle và Marenka, hai người sống sót duy nhất với đôi cánh thứ hai, phải phụ thuộc vào một đống mỹ phẩm chết tiệt. Ngay cả khi đôi cánh nhỏ trên mặt đã được che đi, những ai biết họ đều cư xử với họ hoàn toàn khác biệt. Theo một cách tệ hại hơn, như thể việc cố gắng sống sót lâu hơn biến họ thành ác quỷ. Anh hy vọng họ quyết định sẽ không đến. Anh thật lòng quý Danelle và Marenka, hai cô gái đều bình tĩnh, ổn định và không gai góc như Inara và Bliss. Tốt hơn là họ nên thương tiếc cho Tereza - Amiko, anh tự nhắc mình tên cô là Amiko - mà không có ông bố bà mẹ đáng ghét của cô. Marlene bày đĩa ra trước mặt anh và Ramirez, sau đó bà rót cà phê cho họ từ bình. Mặc dù bây giờ còn sớm và bà sẽ không tới tang lễ, bà vẫn ăn vận chỉnh tề, đeo một chuỗi ngọc trai mềm mại và nghiêm trang nổi bật trên nền áo len xanh thẫm. “Cô gái xấu số,” bà nói. “Ít nhất bây giờ cô ấy đã được yên nghỉ.” Mọi việc đều tùy vào góc nhìn của bạn, chẳng phải như vậy sao? Ramirez đưa tay chạm lên thánh giá trên cổ mình và không nói gì. Inara và Bliss đều cố cắn một miếng bánh to tướng và nhai nhồm nhoàm để khỏi phải mở miệng. Eddison không chắc niềm tin của mình là gì khi nói về cái chết, tự sát hay bất kỳ điều gì tương tự. Sau đó Vic đi vào bếp, chỉnh lại nút thắt trên chiếc cà vạt màu nâu đậm của mình. Eddison và Ramirez đều diện trang phục để tới một tang lễ bình thường; còn trang phục Vic diện hôm nay lại dành riêng cho tang lễ của một cô Bướm, màu nâu và ngà ngà đủ tối để bày tỏ sự tôn nghiêm tới hai vị phụ huynh đang đau lòng và khác với màu đen để tạo cảm giác thoải mái cho những nạn nhân sống sót khác. Đây chắc chắn là sự nhạy cảm và trực giác cùng một loạt các tính từ khác mà Eddison không bao giờ có được, thậm chí trong những ngày anh ở trạng thái tốt nhất. “Ngồi xuống đây và ăn đi nào, Victor,” mẹ ông nói. Ông hôn lên đỉnh đầu mẹ, đủ xa để giữ an toàn cho những lọn tóc bạc được kẹp chặt vào vị trí. “Chúng ta phải đi thôi mẹ, đã gần…” “Victor, con phải ngồi xuống ăn và bắt đầu cái ngày kinh khủng này ngay lập tức.” Ông ngồi xuống. Inara lấy một tay che miệng, nhưng đôi mắt màu nâu nhạt của cô sáng lên. Cô là người có nội tâm phức tạp và luôn cố gắng không bộc lộ cảm xúc của mình. Những người sống sót khác thì khác nhau đôi chút, nhưng anh có cảm giác cô là người duy nhất thật sự thoải mái giữa nhóm người mà cô sống cùng. “Bà Hanoverian, làm ơn nói với cháu là bà từng viết giấy nhớ cho bữa trưa ở trường của ông ấy.” “Để xem nào, thứ Hai hàng tuần ta bảo thằng bé hãy đưa ra các lựa chọn sáng suốt; thứ Ba ta bảo nó hãy khiến ta tự hào; thứ Tư ta bảo nó…” Nhưng giọng bà cứ nhỏ dần đi, và dần chuyển sang một nụ cười trong khi các cô gái tan ra giữa tràng cười yên lặng và tựa vào nhau. “Và mẹ còn nghi ngờ con,” Vic lên tiếng trách bà trong khi đang nhồm nhoàm cuộn bánh quế. Thật lạ lùng khi bật cười ngay trước khi họ tới tang lễ của một thiếu nữ mười bảy tuổi. Đúng hơn là mười sáu. Chỉ còn vài tuần nữa là tới sinh nhật cô. Inara bắt gặp ánh mắt anh và nhún vai. “Anh đang cười hay khóc thế. Anh muốn làm gì hơn?” “Hét lên,” anh trả lời ngắn gọn. “Tôi cũng thế,” Bliss trả lời, răng khít lại như gầm gừ. Một miếng bánh quế đặc bị mắc kẹt giữa hai răng cô. Anh đoán ra Inara cuối cùng sẽ kể cho cô về điều đó. Chuyến xe dài bảy tiếng đồng hồ tới Bắc Carolina yên tĩnh, nhưng không hoàn toàn im lặng. Ramirez duỗi thẳng người trên ghế sau cùng, bởi nếu cô là một hành khách không cần giấy tờ để khiến mình bận rộn, cô sẽ ngủ gật ngay trước khi tới trạm tiếp theo, lần nào cũng vậy. Inara và Bliss ngồi ghế giữa, tiếng radio bị vặn nhỏ xuống để họ có thể trò chuyện cùng Vic trên ghế lái. Eddison lắng nghe nhưng không thật sự góp lời. Chủ yếu anh tập trung vào điện thoại của mình, đọc lướt qua những thông báo trên Google về những cái xác được tìm thấy trong nhà thờ. Còn khá sớm để tên sát nhân đã giết hại Chavi lại ra tay, nhưng anh cứ kiểm tra thường xuyên phòng trường hợp xấu. Bliss đang đi học lại, bù đắp những lỗ hổng trong quá trình học hành để có thể lấy được tấm bằng tú tài mùa hè này. Dường như cả cô và Inara đều chưa quyết định có vào đại học hay không. Anh hiểu điều đó. Nếu họ biết họ muốn làm gì - anh không nghĩ là họ biết - tại sao họ lại phải lăn xả vào hiện tại khi cuối cùng họ biết phán quyết cuối cùng sẽ tốn rất nhiều thời gian? Họ đã xuống D.C. khá thường xuyên để trả lời những câu hỏi trước phiên tòa. Họ đều được gọi để làm chứng nếu vụ án được xét xử trước khi họ tám mươi tuổi và Inara đã hứa với những cô gái khác rằng cô sẽ ở đó khi họ tới lượt lên bục làm chứng. Bất kể anh nghe những bằng chứng của Inara trong vai trò của một bà nội trợ thường xuyên đến thế nào, anh vẫn chưa thể hiểu nổi. Giống như một con chó Pitbull mặc váy xòe. Một cô Bướm với găng tay boxing. Sau hai lần dừng để đổ xăng và ăn uống, họ tới nhà thờ để dự lễ tang. Trong bãi đỗ không có nhiều xe lắm. “Chúng ta đến sớm ư?” Ramirez cuống cuồng hỏi trong khi với lấy chiếc túi để sửa lại lớp trang điểm. “Một chút,” Vic trả lời. Ramirez vẫn chưa tỉnh hẳn, nhưng Eddison đã nghe thấy lớp ngôn ngữ cuối cùng đọng lại trong một vài từ đơn giản: Vic không nghĩ là sẽ có nhiều người tới đây. Bliss cởi dây an toàn đánh cạch một cái và âm thanh nặng nề của chiếc khóa đập vào cửa xe. “Tôi đã nói rồi mà, nhà Kobiyashi rặt một bọn khốn nạn. Chúng có khi còn chẳng tổ chức đám tang nếu truyền thông không quan tâm tới vụ tự sát.” Eddison quay lại nhìn Inara, người biết rõ Tereza hơn là Bliss, nhưng cô đang nhìn ra ngoài cửa kính để ngắm khu nhà thờ sơn trắng. Họ bước ra khỏi xe và duỗi người, Vic nắm lấy tay Bliss và đặt nó khoác qua khuỷu tay mình trong khi họ rảo bước về phía cánh cửa ghép lớn. Một phần lý do cho hành động này của Vic là thói quen - ông đã được Marlene nuôi dạy để trở thành một người đàn ông lịch thiệp - nhưng trong thâm tâm Eddison dám cá một tháng lương rằng Vic đang hy vọng sẽ khóa được Bliss khỏi đi nói chuyện linh tinh. Ramirez kiểm tra lại gương mặt mình trên cửa kính xe và vội vã chạy theo phía sau. Eddison không vội. Anh dựa vào một bên xe và quan sát nhà thờ Baptist. Ngoại trừ không gian phía trước, tòa nhà này được bao bọc bởi những hàng cây bụi dày và tối màu phủ mùn cưa đỏ. Có một phần không gian trước những hàng cây bụi, một đường kéo dài của những hàng thông trước khi bãi cỏ lụi tàn kia chiếm lấy không gian. Đất trồng hoa ư? Nhà thờ có lẽ trông sẽ tuyệt đẹp với đám hoa nở rộ này, nhưng nó lại khiến anh nhớ tới Khu vườn, đúng hơn là cảnh sắc Khu vườn trước vụ nổ mà anh đã được nghe tả, và chết tiệt, có điều gì mà vụ án đó không thể chạm tới cơ chứ? Số đám tang anh từng dự nhiều hơn so với số anh có thể nhớ được, nhưng mỗi một đám tang lại… Inara đứng dựa vào xe ngay bên cạnh anh, hai tay chống hông. Chiếc ví cầm tay màu đen vàng treo lủng lẳng nơi ngón út cong cong của cô. “Anh không nhất thiết phải tới đây, anh biết mà.” “Ừ, tôi…” Anh đột ngột ngưng lại, cố nuốt cơn tức giận bộc phát của mình, bởi vì đó là Inara. Inara, những ý nghĩa trong lời nói của cô đều giống với vỏ ngôn từ của nó, nhưng thường thì không phải theo cách mà bạn nghĩ ban đâu. Và rồi anh nhận ra đúng là chẳng có điều gì bắt anh phải tới đây. Chẳng có yêu cầu nào từ cơ quan, không một lời đề nghị, không một bản hướng dẫn đã được thỏa thuận, cũng chẳng có gì chính thức bắt anh phải có mặt ở lễ tang của một cô gái đã tự sát bởi những ranh giới cô đã phá vỡ lần đầu tiên quá mong manh để có thể hàn gắn thêm lần này. Chính lương tâm đã khiến anh tới đây hôm nay, chính nguyên tắc của anh đã bắt anh phải đối diện với những điều kinh khủng bởi đó là việc đúng đắn nên làm. Đó là lựa chọn của anh. Anh nhìn sang cô, không ngạc nhiên khi thấy cô cũng đang nhìn mình, những suy nghĩ của cô về vấn đề này đã được sắp xếp và cất giữ gọn gàng, anh không thể nào hiểu nổi. Đó không phải là thứ cô học từ vụ Vườn Bướm Đêm hay sau đó. Nó luôn thuộc về cô. “Cảm ơn cô.” “Hãy cẩn thận, Eddison,” cô trêu anh, đôi tay giơ lên làm động tác vờ đầu hàng. “Có thể sẽ có người nghe được và lầm tưởng rằng anh đang gần thích tôi đấy.” “Gần thôi,” anh đùa lại, để rồi nhìn thấy nụ cười bối rối và khiếp sợ của cô. Anh không đưa tay cho cô khoác, cô cũng không mong chờ điều đó. Họ đẩy người thẳng lên khỏi chiếc xe và cùng nhau đi bộ vào trong nhà thờ, nghiêm trang hết sức có thể, bởi vì họ đều nhận thức được đây chắc chắn không phải tang lễ cuối cùng của nhũng cô Bướm nhưng có lẽ là tang lễ tồi tệ nhất. Đối với Inara, đây có lẽ là tang lễ tồi tệ nhất, chấm hết, nhưng còn Eddison, anh biết rõ một điều là mùa xuân đang tới. Tên sát nhân đã giết hại Chavi Sravasti và biết bao cô gái khác sẽ lại ra tay, một hành động khiêu khích của một tên mà FBI không thể định danh, Eddison sẽ lại đứng kế bên Vic và Ramirez trong một lễ tang khác và cảm thấy mình như một kẻ tệ hại, bởi anh sẽ biết ơn vô cùng khi đó không phải Priya. Tôi đã tốn năm năm để khắc sâu vào tận xương tủy thực tế rằng Chavi đã mãi mãi ra đi, nhưng điều đó đôi khi vẫn không thể giúp ký ức thôi rỉ máu, không thể ngăn những cơn ác mộng dựng tôi dậy mà đầm đìa mồ hôi và họng khản rát vì la hét. Tôi không biết điều gì có thể ngăn chặn chúng mãi mãi. Mẹ lắc mạnh tôi một cái để gọi tôi dậy, đôi tay bà vòng qua người tôi trước khi tôi kịp mở mắt, trước khi tôi có thể nghe được tiếng vọng rằng tôi đang an toàn, trên chiếc giường trong căn hộ đi thuê của chúng tôi ở Huntington, cách rất xa khu nhà thờ mà chúng tôi từng ở tại Boston nơi tôi nhìn thấy chị gái mình lần cuối. Những cơn ác mộng không có dạng thức cố định - chẳng có cách nào đoán nổi điều gì đã khiến tôi gặp ác mộng - nhưng chúng xảy ra thường xuyên tới độ phát triển thành một thói quen xử lý chính chúng. Trong khi tôi vào phòng tắm xối nước lạnh lên người, mẹ thu dọn ga giường đã đẫm mồ hôi của tôi và xuống phòng giặt ủi dưới lầu. Khi bà quay lại, trên tay cầm hai bình trà, tôi đã thay xong bộ pajama mới và yên vị trên giường bà. Cả hai chúng tôi đều không muốn tôi phải ở một mình sau mỗi giấc mơ như vậy, nhưng tôi sẽ không ngủ lại được nữa và tôi không muốn bà cũng mất ngủ vì phải ngồi với tôi cả đêm, cho nên đó là thỏa thuận của chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem một chiếc đĩa DVD và mẹ sẽ lăn ra ngủ khi xem được một nửa tập đầu tiên của chương trình Thiên nhiên trên kênh BBC. Tôi mang nhật ký của mình vào phòng mẹ, nhưng không thật sự cảm nhận được nó. Đã nhiều năm những cơn ác mộng xuất hiện trong hàng tá cuốn nhật ký của tôi; kể cho Chavi nghe về một giấc mơ như thế cũng chẳng ích gì. Có lẽ kể cho người khác lại tốt hơn. Bức thư của Inara kẹp ở đầu cuốn sổ, nó đã ở đó trong suốt vài tuần qua. Có lẽ cuối cùng tôi cũng biết trả lời cô như thế nào. Inara thân mến, Chị gái tôi Chavi đã mất vào một ngày thứ Hai, hai ngày sau sinh nhật lần thứ mười hai của tôi. Khi đó chị mười bảy tuổi. Chúng tôi đã dành toàn bộ cuối tuần để tổ chức sinh nhật cho tôi. Thứ Bảy, chúng tới ở công viên cạnh nhà. Thật ra nó là một sân nhà thờ nhưng nhà thờ đã biến thành một mớ lộn xộn do không đóng đủ thuế và bị chiếm lại, khu phố của chúng tôi thì… như là bị chiếm luôn vậy. Vạn vật đều nở rộ và ngày hôm đó tràn ngập tiếng cười, trò chơi, cùng đồ ăn. Không phải tất cả nhưng phần lớn mọi người trong khu phố đều sống hòa thuận với nhau. Chủ nhật là ngày dành cho gia đình, những bữa ăn và bộ phim mà chúng tôi yêu thích. Chuyến đi dã ngoại đầu tiên là khi mẹ và Chavi dẫn tôi tới trung tâm thương mại để bấm khuyên mũi cho tôi. Bố luôn phản đối. Bố mẹ tôi đều sinh ra ở Ấn Độ và lớn lên ở London, ông luôn cho rằng việc để lại cả một cộng đồng Văn hóa đằng sau có nghĩa là từ bỏ mọi dấu hiệu của nó. Thế nhưng, thứ Hai, chúng tôi trở lại trường học. Thông thường, Chavi sẽ đạp xe từ trường cấp ba xuống trường cấp hai và chúng tôi sẽ cùng nhau về nhà nhưng hôm đó tôi có một buổi họp mặt đồng khóa, và chị phải ở lại học nhóm. Chavi có nhiều tự do hơn bạn cùng lớp của chị, chủ yếu vì chị không lạm dụng nó. Chị cho mẹ biết khi chị tới và rời khỏi mỗi nơi, luôn cập nhật cho mẹ mỗi khi kế hoạch, địa điểm hay mọi người thay đổi. Luôn luôn. Khi Chavi nhắn tin bảo rằng chị sẽ về nhà trước chín giờ, chúng tôi có mọi lý đo để tin rằng chị sẽ có mặt đúng lúc, nhưng chín giờ đã qua và vẫn chưa thấy Chavi đâu cả. Rồi mười giờ và Chavi vẫn chưa về nhà. Chị không trả lời tin nhắn và cuộc gọi, Chavi không làm thế. Mẹ gọi cho những người bạn khác trong nhóm nhưng họ đều có chung một câu trả lời: chị đã rời khỏi quán cà phê vào khoảng tám giờ, đạp xe theo đúng hướng bình thường chị ấy luôn đi. Một cậu bạn còn đề nghị đưa chị về, nhưng chị từ chối. Chavi luôn từ chối khi cậu ta muốn giúp chị cái gì, bởi vì cậu ta đang thầm thích chị còn chị thì không có cảm xúc ấy. Bố thì cười mẹ và tôi vì đã lo lắng thái quá. Chavi đang là một thiếu nữ, ông nói, và khi chị về tới nhà, chị sẽ bị cấm túc và không bao giờ dám cư xử như vậy nữa. Nhưng đó không phải là cách hành xử của Chavi. Danh sách phát trong đĩa hiện lên màn hình ti-vi, phát ra những âm thanh lanh canh trong khoảng hai mươi giây. Thay vì ngồi dậy để thay đĩa, tôi chọn ấn nút “phát lại tất cả”. Tôi duỗi nhanh cánh tay và xoa xoa chỗ bắt đầu chuột rút. Thật dễ để nói rằng Chavi bị mất tích. Nhưng điều sau đó mới khó nói. Nhưng những cơn ác mộng của Inara vẫn ở đó cho cả thế giới trông vào; cho tới khi cô gái tiếp theo phải chết, còn những cơn ác mộng của tôi chỉ ở trên trang thư tôi viết cho cô mà thôi. Tôi chỉ có thể làm thế. Mẹ đã bảo cảnh sát. Điều phối viên nghe và đồng ý đó là một hành vi khác với thói quen ứng xử thông thường, rồi bắt đầu đặt ra những câu hỏi cho chúng tôi. Nơi chị được nhìn thấy cuối cùng là ở đâu? Khi đó, chị mặc trang phục gì? Chúng tôi có thể email cho họ tấm ảnh gần nhất của chị không? Khi ấy chúng tôi sống ở ngoại thành Boston. Chavi được nghỉ học ở trường vào mùa thu, nhưng chị mới mười bảy tuổi nên vẫn được tính là trẻ em. Điều phối viên nói rằng một cảnh sát sẽ tới nhà chúng tôi, trong trường hợp Chavi quay lại, còn những người khác sẽ tiến hành tìm kiếm. Đến lúc đó bố nổi điên với từng người chúng tôi. Với Chavi, vì chị đã khiến cho cả nhà lo lắng. Với mẹ, vì đã gây ra một mớ bòng bong. Với tôi, thậm chí vì tôi đã khăng khăng đòi ra ngoài tìm kiếm cùng mẹ. Tôi nhớ gần như tất cả mọi điều họ tranh cãi với nhau, bởi mẹ đã bắt tôi lên gác thay món đồ khác ấm hơn, nhưng khi tôi xuống lầu thì người cảnh sát mới tới đang đứng ở giữa lối đi và nhìn quanh một cách khó chịu, trong khi mẹ bảo bố đứng đợi đi nếu ông không thể đổ một giọt mồ hôi vì đứa con gái đang mất tích của mình. Bạn không thể làm cái quái gì trái ý mẹ. Trời đã khuya tới mức xe cảnh sát không thể hụ còi. Thay vào đó, chúng chỉ nháy đèn và ánh đèn khiến cho tất cả hàng xóm của chúng tôi phải ra khỏi nhà, thế là có thêm nhiều người tham gia tìm kiếm. Thật sự, có một điều đáng để quan sát là tất cả mọi người đã trùm thêm áo khoác bên ngoài bộ đồ ngủ của mình và mang theo đèn pin với còi đi tìm kiếm. Josephine - bạn thân của Chavi và cũng là bạn gái của chị, mặc dù chỉ với một chút manh mối - cũng lao tới trường tìm kiếm. Mẹ của Josephine phải giữ đèn pin bởi vì cô ấy đang run rẩy vô cùng. Cô ấy biết điều mà mẹ và tôi biết: đó là Chavi sẽ không bao giờ đi chơi qua đêm. Mẹ và tôi tới nhà thờ. Nó không hẳn là nhà thờ kể từ sau khi chúng tôi chuyển tới đây, nhưng mọi người vẫn gọi nó là nhà thờ. Một vài thành viên của giáo đoàn cũ thậm chí từng quyên góp tiền lương cho Frank, người cựu binh trở về từ trận Bão Sa mạc sống ở căn hộ khép kín phía sau bãi đỗ xe và giữ cho mọi thứ trong khu nhà thờ ổn định. Một trong những cánh cửa bên luôn được để mở phòng khi thời tiết xấu hoặc có ai đó cần một chỗ trú chân. Có khi Chavi đã ngã xe và không thể tự về nhà. Có lẽ cú ngã giả định của chị đã làm điện thoại hỏng nên chị không thể gọi cấp cứu. Chúng tôi tìm kiếm quanh khu công viên trước, nhưng khi bước tới hàng cây phía sau khu nhà mẹ bảo tôi đợi gần nhà thờ. Bất cứ khi nào trời ấm dần lên, dân ngụ cư lại bắt đầu dựng trại ở đây qua đêm, cho nên mẹ không muốn tôi trở lại đó ngay cả khi đi cùng bà. Mẹ dặn tôi đứng đợi, hứa rằng bà sẽ đánh thức Frank dậy để bà không ở một mình. Tôi không đi theo bà nhưng cũng không đứng đợi. Tôi không thể đợi, không thể nếu vẫn có khả nàng chị gái tôi đang ở trong tòa nhà kia. Trong đầu tôi không mảy may suy nghĩ rằng nguy hiểm có lẽ còn tiềm tàng trong đó. Nhà thờ là nơi an toàn, không phải bởi lý đo tôn giáo nào mà bởi nó luôn an toàn. Chavi và tôi luôn cảm thấy an toàn ở đó. Chúng tôi có thể dành hàng giờ ở đây vào những ngày nắng đẹp. Chị sẽ ngồi trên sàn, với bảng vẽ đặt trên một đầu gối, những vũng màu sáng trên nền đá xám xung quanh chị. Chúng tôi yêu những ô cửa kính với những vệt nước vô cùng. Chị luôn nói rằng chị sẽ không thể vẽ ra những bức tranh đẹp, và chị cố gắng, cố gắng mãi, còn tôi đứng gọn vào một bên, dùng máy ảnh của mình để chụp lại những đám bụi nhảy múa trong vạt nắng, những vệt màu trên nền đá, cái cách ánh sáng và bụi khiến chị như phát sáng lấp lánh. Những ngày tốt đẹp đó, Chavi mà tôi nhìn thấy khi nhắm mắt lại: ánh sáng, màu sắc và sự lấp lánh. Tôi ấn nút phát lại trên danh mục đĩa và ấn bàn tay mình vào chăn để nó ngừng run rẩy. Tôi chỉ có thể làm đến thế. Tôi thậm chí còn không bắt buộc phải gửi bức thư này, nếu điều đó vượt quá sức chịu đựng của tôi. Nhưng hoàn thành bức thư thì tôi có thể. Đã bao lần Inara phải kể câu chuyện của mình cho những người lạ cơ chứ? Chị đang nằm ngoài khuôn viên mở hình chữ T giữa bệ thờ và phần sàn nhà đã phai màu nơi người ta từng đặt ghế ngối. Chị nằm đó hoàn toàn lõa thể, nhưng tâm trí tôi không hề để ý tới chuyện đó - bởi chị là chị gái tôi và tôi đã thấy chị khỏa thân trước đó. Thay vào đó, tôi nhận ra quần áo của chị được gấp lại gọn gàng và đặt cẩn thận trên chiếc ba lô chị mang theo cách đó vài bước chân. Chavi có lẽ còn dị ứng với việc gấp quần áo nếu so sánh tần suất chị gấp quần ảo của mình. Nhưng việc nhìn thấy chiếc áo chị yêu thích sạch sẽ bao nhiêu càng làm tôi nhận ra có bao nhiêu máu chảy dưới sàn xung quanh chị. Tôi quỳ sụp xuống bên chị, đẩy mạnh người chị để gọi chị dậy, làm ơn, hãy tỉnh dậy đi. Tôi chỉ la hét trong vô vọng. Chưa khi nào tôi nhìn thấy nhiều máu đến thế. Tôi không nghe thấy Frank đi tới nhưng rồi đột nhiên ông xuất hiện ở đó, quần áo mặc dở chừng và mang theo một cây súng sơn. Ông nhìn Chavi một thoáng, rồi khuôn mặt ông xám xịt lại, và ông quay cuồng xung quanh theo một quỹ đạo hoang dại. Trong khi tìm kiếm kẻ đã gây nên chuyện này, tôi mất một lúc mới chợt nhận ra. Sau đó ông vòng tay quanh người tôi và cố lôi tôi đi. Tôi nghĩ là tôi nhớ ông đã nói gì đó? Tôi cũng không chắc nữa. Nhưng tôi không chịu rời đi. Tôi chống cự sức mạnh của ông, và thật lòng thì ông đã quá sốc khi phải sử dụng quá nhiều sức mạnh sau đó. Tôi vẫn không ngừng la hét bên cạnh Chavi, tay không ngừng chọc vào điểm buồn nhất trên mạng sườn chị bởi chị sẽ không thể ngủ tiếp nếu tôi làm thế, nhưng chị vẫn không cựa quậy. Có âm thanh ở phía cửa, theo sau là tiếng hét thất thanh của mẹ, tên tôi vang lên sắc buốt, the thé và đầy sợ hãi. Frank chạy tới chỗ bà. Ông giữ không cho bà đi tới, dùng hình thể vạm vỡ của mình chắn ngang đường và ông cầu xin bà, vừa cầu xin vừa khóc, gọi tôi về phía bà. Gọi tôi đi xa khỏi Chavi. Tôi sẽ không bao giờ quên những đóa hoa xung quanh chị và trên tóc chị: những bông cúc đại đóa nở rộ như mặt trời. Chắc hẳn cô cũng biết tầm quan trọng của những sự kiện hoặc bi kịch nếu có được những tấm hình đắt giá và mang tính biểu tượng đó chứ? Và rồi hàng năm, thậm chí hàng thập kỉ qua đi, ngươi ta vẫn nhận ra tấm hình đó? Khi một nhà báo đăng bài về chuyện này, họ chẳng có được tấm hình nào chụp thi thể của Chavi, chỉ có bức hình của chị trong cuốn kỷ yếu và tất cả những gì họ tìm được trên Facebook. Cho nên họ đã lấy hình tôi. Một đứa bé mười hai tuổi, thân mình dính đầy máu, đang gào khóc thảm thiết và rướn mình về phía nhà thờ - về phía chị gái mình - trong khi một nhân viên cấp cứu với gương mặt dữ tợn đang kéo tôi đi. Hàng tháng trời sau đó, tấm ảnh đó xuất hiện khắp mọi nơi. Tôi không thể trốn thoát khỏi nó và nó lại bị đào xới lên mỗi mùa xuân khi có thêm một cô gái bị giết hại với những đóa hoa được trưng bày đẹp đẽ và cổ họng bị cắt sâu, cùng với việc ai đó gọi cho FBI để trình bày giả thuyết rằng chuyện này đều do một người làm. Tôi không ở đó khi họ nói với bố về sự việc. Chắc chắn không phải nhân viên đợi ở nhà làm việc đó. Bố đã tới bệnh viện, một bác sĩ ở đó đã cho tôi một liều an thần để tôi không lên cơn sốc, và rồi ông rời đi chầm chậm, như thể toàn thân ông đang đau mỏi. Như thể ông đã sống hàng thế kỷ. Ông đã cười vào nỗi lo lắng của chúng tôi. Tôi không nghĩ là tôi còn nghe ông cười lần nào nữa từ sau đó. Tin Chavi tử vong được truyền thông chính thức tuyên bố khoảng chín, mười giờ tối thứ Hai. Những người còn lại trong nhà tôi đều như chết rồi từ nửa đêm hôm đó, chỉ tốn một chút thời gian để chúng tôi chắc chắn về điều đó. Mẹ và tôi là những con phượng hoàng, sẽ bay lên theo cách của chúng tôi. Còn bố thì cháy, cháy rụi cho tới khi không còn gì nữa. Công chúng lấy cắp bi kịch từ chính nạn nhân. Nghe thì có vẻ lạ lùng, tôi biết, nhưng tôi nghĩ cô có lẽ là một trong số ít người hiểu điều tôi đang muốn nói. Những điều đó xảy ra với chúng tôi, với người chúng tôi yêu thương, nhưng rồi tin tức này lên mặt báo và đột nhiên tất cả mọi người chỉ cần có ti-vi hay máy tính đều cảm thấy họ được quyền can dự vào những phản ứng và sự hồi phục của chúng tôi. Nhưng họ không thể. Chúng tôi mất một thời gian để thật sự tin vào điều đó, nhưng chúng tôi không nợ gì họ. Những đặc vụ của chúng ta giỏi tiếp nhận những người đi lạc, nhưng chúng ta không thật sự cho phép họ. Họ đưa ra lời đề nghị, nhưng chính chúng ta cho phép lời đề nghị đó thành sự thật. Ở đó có một sự cám dỗ thoải mái khó tả, khi biết rằng chúng ta, bất kể thời điểm nào, có thể ra đi, và họ chắc chắn sẽ để chúng ta ra đi. Thậm chí còn thoải mái hơn khi nhận ra chúng ta muốn ở lại, và đó là một điều tốt mà chúng ta được phép có. Rằng chúng ta được phép hạnh phúc. Tôi vẫn loay hoay trong vấn đề này, nhưng bây giờ thì sao? Chúng ta được phép vỡ vụn. Chúng ta không phải cảm thấy xấu hổ vì điều đó. Hãy viết lại cho tôi, nếu cô muốn. Tôi không biết liệu mình có đủ thông thái để truyền đạt không, nhưng những lá thư của cô luôn được chào đón. Cô chỉ hơn tôi một tuổi rưỡi. Tôi đoán tuổi tác không phải là vấn đề. Nhiều giờ sau, khi mẹ đi làm, tôi quay lại phòng của mình và cuộn tròn trong chăn như một chiếc bánh cuộn. Tôi không thật sự ngủ, chỉ là tôi bị kéo ra khỏi giường khi bàng quang đau buốt và gào thét không thể chịu nổi nữa, và có lẽ sẽ là tốt nhất nếu tôi không bò lại giường vào lớp chăn. Cơn đói cuộn lên và cồn cào trong bụng tôi. Suy nghĩ về việc ăn uống thật là… đáng lo ngại. Tôi biết cảm giác này. Nếu bắt đầu ăn, tôi sẽ không ngừng lại. Thậm chí ngay cả khi tôi đã no, đã duỗi thẳng người và cảm thấy đau đớn, vì kiểu đau đớn này hợp lý hơn cơn đau buồn âm ỉ và cuồng nộ đang rỉ máu dưới da tôi. Tôi đi tắm rồi vào sấy tóc, ghi một tờ giấy nhớ để dặn mẹ lau đi những vệt bẩn vì đã có gần một phân rễ mọc ra, sau đó vẽ mắt và tô son cho mình một cách chật vật. Chavi đã dạy tôi tất cả những mẹo nhỏ để tạo ra sự khác biệt giữa vẻ thách thức với vẻ bông đùa và đáng gờm. Chị luôn nằm ở khoảng giữa thách thức và bông đùa, gương mặt chị trở nên mềm mại hơn với phấn sáng màu trắng và vàng ánh kim. Còn tôi thường dùng màu bạc và trắng, nhưng không phải cho hôm nay. Hôm nay là màu đen và đỏ, gần như khó chịu tới mức mà bạn có thể tưởng tượng ra. Khi thay đồ xong và chắc chắn rằng lọ xịt hơi cay đã nằm ở vị trí dễ lấy trong túi áo khoác ngoài cùng, tôi rời nhà để đến chỗ chơi cờ. Không khí hôm nay khô đến độ khiến người ta đau đớn và tôi có cảm giác rằng chỉ vài giờ nữa thôi, tôi sẽ phải dùng khăn giấy trong túi áo còn lại để lau nước mũi chảy ra. Khi tôi đang dẫm lên đám cỏ đã héo úa mà đi tới, Corgi nhìn lên và huýt sáo, âm thanh nhẹ nhàng nhưng ấn tượng vô cùng. “Cháu thật sự là một phần của chúng ta, đúng không cô bé Xanh Dương?” Tôi cười, tiếng """