"Đó Đây - Trúc Chi full mobi pdf epub azw3 [Tùy Bút] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đó Đây - Trúc Chi full mobi pdf epub azw3 [Tùy Bút] Ebooks Nhóm Zalo VĂN HỌC 1 Tặng Đoan Thư, cùng hai con Kỳ Anh và Trác Như ĐÓ ĐÂY tập tùy bút của Trúc Chi Trình bày bìa: Hoàng Ngọc Biên Ảnh bìa: Nhân & Dân, Studio Garamond Văn Học, USA xuất bản lần đầu, 1999 Copyright 1999 by Author Truc Chi Tác giả và giữ bản quyền 2 MỤC LỤC Lời vào tập Nguyễn Mộng Giác Chị Đàn Chén Nội phủ “Hà Nội” và Hà Nội Cành phượng tím Một nét thu Nghe đàn Hai lần tiễn bạn và mấy thứ bỏ dở Gánh Hàn huyên Chuyện ngày mưa Huế, một đêm mưa Mấy mảnh vụn Nước chấm Gần hết năm, ghi vội Bên cạnh một lá thư Mấy là cỏ bồng 3 Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ. Ca dao Lời vào tập Nguyễn Mộng Giác Trong văn chương Việt Nam hiện đại, số người viết tùy bút thành công không được bao nhiêu! Nói tới thể loại này, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Tuân. Ông là một bậc thầy trong loại tùy bút. Sau Nguyễn Tuân, những người viết tùy bút, không nhiều thì ít, đều chịu ảnh hưởng của ông. Ngoài Bắc, có lẽ “chủ nghĩa cá nhân” bị lên án dữ dội nên không thấy có người nào đi theo Nguyễn Tuân. Trong Nam, viết tùy bút giỏi có Võ Phiến và Mai Thảo. Ở hải ngoại, suốt một phần tư thế kỷ, chỉ có hai người viết tùy bút thành công, là Nguyễn Bá Trạc với Ngọn Cỏ Bồng, và Trúc Chi với cuốn sách này. Vì sao ít người viết tùy bút như thế? Câu trả lời khá đơn giản: Viết tùy bút khó! 4 Viết truyện ngắn hay truyện dài, tác giả mặc sức “giả dạng vô danh” núp đằng sau các nhân vật để nói cho đã miệng, mà khỏi phải chịu trách nhiệm gì hết. Nhân vật nói được những lời vàng ngọc: tác giả nhận ngay mình mới là người thực sự nghĩ ra những lời cao siêu ấy. Ngược lại, nhân vật lỡ phun những lời ngu xuẩn ngược ngạo, người viết đổ hết mọi trách nhiệm cho hư cấu. Những người viết kịch cũng có lợi-thế như người viết truyện. Anh ta đóng vai người đạo diễn núp đằng sau cánh gà, nhắc nhở, quan sát diễn tiến của vở kịch. Cùng một câu thoại, diễn viên này diễn tả xuất sắc hơn diễn viên kia, thế là người viết kịch có vô số những câu “tại vì...” để biện hộ cho cái bất tài của mình. Có những thể loại văn chương gần gũi với tùy bút ở chỗ tận dụng chủ quan của người viết, như thế “ký”, và “hồi ký”. Trong hai thể loại này, người viết phải bắt buộc xưng “tôi” và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mình viết ra. Nguyên tắc đạo đức căn bản của “ký” và “hồi ký” là sự thành thật, người viết hồi ký phải tôn trọng sự thật mặc dù được phép viết một cách chủ quan. Nhưng viết bút ký và hồi ký cũng chưa phải là trò chơi nguy hiểm. Người viết ký chỉ cần công nhận mình chủ quan trong cách ghi chép sự việc là ngay lập tức mọi lỗi lầm được tha thứ. Người viết hồi ký còn rộng chân rộng tay hơn nữa. Vì chỉ những người đã may mắn “có một chút danh gì với núi sông” mới viết hồi ký. Trong ánh hào quang của danh vọng và sự an toàn của người đã ra ngoài cuộc, người viết hồi ký chiếm được nhiều tiện nghi. Có cái sang trọng hấp dẫn của “miệng nhà quan”, và vì ông quan “có gang có thép” một thời ấy bây giờ đã “từ quan”, nên không còn là đối tượng của những ghen ghét, đố kỵ. Nói hay người ta khen, nói dở người ta thông cảm. 5 Chỉ còn những người liều lĩnh chọn viết một thể loại nguy hiểm, là tùy bút. Vì người viết tùy bút phải đem cái tôi ra nói từ đầu chí cuối, như là một người khỏa thân ngay giữa chợ. Chẳng những thế, tuy được phép nói về mình, nhưng tùy bút không cho phép nói có đầu có đuôi, có thắt có mở như người viết truyện. Tùy bút cũng không cho phép ăn nói nghiêm trọng. Trong một cuộc hội họp bù khú cuối tuần, người được Trời ban cho cái giọng thiên phú, thu hút thiên hạ bằng những lời hiệu triệu chính trị hùng hồn hoặc những bài hát karaoke. Người có tài kể chuyện cũng là chúa tể của một nhóm khác. Riêng các anh chị viết tùy bút, trong những dịp ấy, họ chẳng khác nào những người có tài tán gẫu, nói những chuyện có vẻ bông lơn chẳng có gì trầm trọng nhưng ai nghe cũng thích thú. Khi chia tay, cảm giác thích thú ấy cứ còn hoài, tuy cố nhớ thì cũng không thấy anh chàng ăn nói lan man có duyên ấy nói những chuyện gì. Trong The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê dịch thành cuốn Một Quan Niệm Về Sống Đẹp), Lâm Ngữ Đường bàn về những cái thú ở đời. Lâm tiên sinh có bàn về một cái thú rất dễ tìm nhưng ít ai lưu ý: cái thú tán gẫu. Những lúc đó, vô phúc gặp phải những tay hùng biện thao thao bất tuyệt về những chuyện vá trời lấp biển, thì phí mất một ngày cuối tuần. Hoặc gặp phải một ông thầy tu dạy dỗ những điều phải làm, ngồi nghe phải kính cẩn xếp hai bàn tay ngay ngắn trên đầu gối, miệng đánh nhịp “bạch thầy” với “lạy cha” thì cũng chán chết. Kẻ may mắn mới gặp được những chuyên gia tán gẫn trong những tối cuối tuần, hoặc đọc được những tập tùy bút có duyên. “Tán gẫu” không phải là “tán thán”, lại càng không phải là “tán 6 nhảm”. Chuyện đem ra bàn không phải là chuyện có đầu có đuôi, một người xướng rồi những người nói sau phụ họa như một giàn hợp xướng đơn điệu. Ở đây, không có ai dẫn đạo, không có ai theo đuôi. Đề tài được mở rộng, cái gì hứng khởi thì cho tới luôn, đang tới mà thấy cái gì lạ thì bẻ ngoặc rẽ sang hướng khác cũng không sao. Võ hiệp gọi là “vô chiêu”. Người tán gẫu giỏi hay người viết tùy bút hay, không lụy vào bất cứ khuôn thước nào, cứ tùy hứng mà bay nhảy thoải mái. Trúc Chi viết tùy bút như thế! “Trong cuộc sống hàng ngày, tôi vẫn thích có được mươi mười lăm phút ngồi một mình như vậy. Ngồi im vậy thôi chứ không có bận tâm gì về cái thiên hình vạn trạng của hai chữ xuất xứ của người nay và người xưa. Đời tôi kể cũng có một đôi lúc khá xui, nhưng chưa bao giờ phải xuất, phải bất hạnh mà gánh lấy việc quân quốc trọng sự như ông quân sư đầy mưu thần chước quỷ nọ, ngồi một mình bên hồ cá nghĩ kế chận năm đạo quân xâm lược đang rục rịch tiến vào Thành Đô. Còn về chữ xử, thì hình như tôi vẫn chân trong chân ngoài. Tôi ngồi trong một tư thế rất thoải mái cho cơ thể tôi, không phải kiết già kiết trẻ chi, mà cũng không phải để thiền thiếc gì. Những lúc ấy đầu óc tôi bận rộn lắm, nhảy hết chuyện này sang chuyện khác, cứ loạn xà ngầu cả lên như là màn ảnh ti-vi chớp từ đài này sang đài kia. Cứ ngồi vậy thôi, để cho bộ máy thần kinh hoàn toàn độc lập, tự do, nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Những lúc ấy, hình như tôi... hạnh phúc lắm. Không biết đó có phải là hạnh phúc thật không, nhưng riêng tôi, tôi lấy đó làm một cái thú thường nhật”. 7 Lúc cô độc một mình, Trúc Chi thích nghĩ lan man. Cho nên khi viết, anh cũng thích viết lan man. “Ấy, cái lối viết lách của tôi nó vậy đó. Định viết về một chuyện mà rồi lại nhảy sang chuyện khác. Nó cứ giống như thói quen của các bà nội trợ tham con diếc tiếc con rô mà tôi vẫn thường thấy trong các siêu thị ở đây. Thấy bó rau muống tươi, sắp sửa mua thì lại bị mấy quả xoài đầu mùa nhập cảng từ Mễ Tây Cơ nó cám dỗ. Thành ra cái rổ chợ (đúng ra thì phải nói cái xe chợ) nhiều khi có phần... đa mang. Thành ra bài vở của tôi cũng vậy, nhét quá nhiều thứ, mà lại không có đầu đuôi gì cả. Hỏng!”. Đọc tùy bút của Trúc Chi, không thể không nghĩ tới tùy bút của Nguyễn Tuân. Phong cách tùy bút của hai người có nhiều điểm giống nhau: giọng thiết tha khi nói đến thanh đến sắc, niềm xót thương cho những thân phận ca kỹ về chiều, chút khinh bạc dành cho những kẻ tối mặt vì những thứ phù vân. Những trang tùy bút hay nhất của Trúc Chi, cũng như Nguyễn Tuân, là những trang “thương hoa tiếc ngọc”. Đọc những trang viết ấy tôi cứ liên tưởng đến mấy câu của Chu Mạnh Trinh viết trong Bài Tựa Truyện Kiều (qua bản dịch): “Ta cũng nói tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, còn hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên...”. Nhưng tôi cũng nhận ra được điểm khác biệt lớn lao giữa Nguyễn Tuân và Trúc Chi. Lấy lại hình ảnh những buổi tán gẫu trên kia. Trong những dịp họp mặt thích thú đó, một người như Nguyễn Tuân dĩ nhiên là cái đinh của cuộc vui. Tùy bút Nguyễn Tuân hay, điều đó khỏi cần bàn cãi. Qua cái ảo diệu uyển chuyển của 8 ý và lời, trong tùy bút Nguyễn Tuân, tôi vẫn lờ mờ thấy có cái phần “biểu diễn”, cái phần “muốn lấn lướt” để vượt lên trên đám nhân sinh lổn nhổn đang vây quanh ông. Ngyễn Tuân không hề che giấu lòng khinh mạn lũ người ngợm dung-thường đang trố mắt thán phục ông, cho nên trong cái ngang tàng ngất ngưởng của Nguyễn Tuân, có chen nhiều chất “kịch”. Trong buổi tán gẫu có mặt Nguyễn Tuân, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Tuân xướng, và ông cũng không muốn cho ai khác hơn ông được xướng. Tùy bút Trúc Chi không có cái phần “kịch” ấy. Trúc Chi là một người biết rõ cốt tủy của thú tán gẫu: sự bình đẳng. Ông hòa đồng chứ không muốn nổi bật. Ông tỉ tê lan man chứ không cao giọng. Nguyễn Tuân nói rõ những kẻ đáng khinh đáng ghét. Trúc Chi chia nhân loại làm hai hạng: đáng yêu chiếm đa số; thiểu số còn lại là những người đáng thương. Hãy nghe Trúc Chi “tán gẫu” về một người chồng phụ bạc: “... Bởi vì nó đang đưa tôi về với một buổi chiều hè trong một quán rượu ở đường Montparnasse, có Hoài, có tôi, có nhiều mất mát. Vẫn biết, như câu chuyện cũ trong sách giáo khoa, mình mất người khác được, nhưng những thứ mà Hoài và tôi từng bị đời cướp mất, lại không ai buồn lượm cả. Thành ra cái buổi hội ngộ sau tháng Tư 75 ấy, nó nhuốm một chút bùi ngùi, đượm một chút chua chát. Hôm ấy là lần đầu tiên Hoài nói thật với tôi rằng Nhân quyết định ở lại Việt Nam, không phải vì Nhân thích “bên kia” như tôi vẫn tưởng, mà chính vì Nhân không thể xa người đàn bà ấy, vốn cũng là bạn của tôi. Trong cái nháo nhào, trong cái tuyệt vọng của số đông vào cái ngày 30 tháng Tư năm ấy, có hai tâm hồn tự tách rời ra khỏi những biến cố trọng đại của lịch sử để 9 mà xây một cái tổ ấm trên cái đống tro còn nóng của một thời khói lửa. Kể cũng can đảm. Mà cũng đẹp chứ không phải không. Cái anh chàng Nhân bạn học của tôi, tôi nghĩ mà thương. Ngày còn thanh niên, Nhân vui vẻ, hay đùa giỡn, trêu thầy, chọc bạn. Ra đời nhờ bẩm sinh thông minh lanh lẹn, lại thành công sớm trong ngành thầu xây cất. Tôi biết rõ Nhân lắm, con người hoạt bát và lịch lãm ấy hẳn không phải là không nát óc, không nát ruột khi phải chọn giữa bên vợ và bên bồ. Tôi nghĩ đến những vở kịch thời cổ bên Hy Lạp mà cốt chuyện được dựng trên cái xung đột nội tâm của nhân vật chính. Tôi nghĩ đến cái dằng co giữa Hiếu và Tình, giữa Trung và Hiếu trong một đôi tuồng hát bộ. Phải rồi: Song phủ cứu lai chánh hậu Ngửa vái trời soi thấu lòng ngay Xét thân hổ với cao dày Phơi gan giúp chúa, chau mày phụ cha. Xót xa lắm chứ. Tôi còn thấy được hình ảnh khổ đau của nhân vật này trong tuồng Sơn Hậu, nếu tôi không lầm, đôi lông mày nhíu lại cơ hồ chỉ còn có một đường ngang dưới trán, hai tay dang ra với một vẻ sững sờ hầu như là tuyệt vọng khi kẹt trong một cái thế lưỡng nan: giết cha hay phò chúa. Vậy nhưng mà trong lòng những con người thời trước, có cao dày, có trời đất chứng giám cho, còn ở trong lòng người bạn hiền mang tên Nhân, mà tôi biết là không tin ở một đấng nào trong cõi siêu hình cả, động cơ nào đã thúc đẩy anh đi đến quyết định bỏ Hoài mà ở lại với người đàn bà rất tài hoa kia? Hình như nó là cái chữ Tình thì phải. Chữ Tình mà người đời trước đã tự hỏi xem nó là cái chi chi!”. 10 Một phong cách thật sự thoải mái, thư giãn, đi chung với một tâm hồn nhân hậu, tôi nghĩ đó là kết hợp tuyệt vời tạo ra vẻ đẹp trong tùy bút của Trúc Chi. Xin bạn đọc gác tạm những lo toan vướng víu sang một bên, và cùng Trúc Chi hưởng cái thú tán gẫu bằng những trang tùy bút sau đây. 11 CHỊ ĐÀN Thế nào mà các bà chọn ngay cái bàn cạnh quầy rượu để ngồi mà to nhỏ. Thành thử, không lắng tai mà cũng nghe mấy mẩu chuyện của họ khi tôi loay hoay gắp cho được mấy viên nước đá đã dính với nhau mà kết thành một khối xoay tròn trong cái bát thủy tinh đắt tiền, mỗi lúc tôi dùng cái muỗng sắt đè nó xuống để cho chúng rời ra. Nhìn quanh quất để tìm một cái muỗng lớn hơn. Nhưng mà trên bàn lại không có. Không lẽ lại lấy tay mà cầm, mà bẻ, mà bốc. Thượng sách là nắm lấy cả khối đá ấy mà đập vào góc bàn cho nó văng đi hết, chỉ giữ lại, một cách hết sức ích kỷ, cái phần mình cần cho một lý rượu. Nhưng mà phép lịch sự khi ăn uống nơi công cộng lại không cho phép mình làm như vậy. Việc giản dị vậy mà tự nhiên đâm ra rắc rối. Cứ giống như là cuộc đời. Câu chuyện của các chị bạn đang giòn tan xung quanh một vấn đề nóng hổi: làm sao giảm bớt trọng lượng cụ thể trước mắt của những thứ mà thời gian đã để lại trên những tấm hình hài đã có một thời thon và gọn: mỡ đùi, mỡ bụng, mí mắt, đường nhăn trên trán, trên cổ. Tôi nghĩ đến một câu nói đùa khá độc của một anh bạn vốn “đa mang” trên con đường tình duyên và đã từng là nạn nhân khốn khổ của một đôi câu chuyện 12 ngồi lê: “Có cái miệng là các bà cần phải sửa trước, thay vì cứ đi sửa những cái gì ở đâu đâu ấy”. Cũng vừa lúc ấy, cậu con trai anh bạn chủ nhà bưng ra một cái bát lớn đựng đầy những viên đá rời nhau và đem cái khối đá lì lợm đã tạo ra một điều nhất thời nan giải cho tôi mà đổ ngay xuống thảm cỏ. Việc rắc rối vậy mà thành ra giản dị. Cũng như cuộc đời vậy. Tôi trở về bàn. Lúc đi ngang qua phòng khách, từ ngoài nhìn vào tôi thấy có mấy người có vẻ như không thích nói chuyện, đang chăm chú theo dõi một băng video ca nhạc Việt Nam. Từ ngoài nhà, tôi không nghe được tiếng hát, nhưng mà chỉ liếc qua tôi cũng thấy được lối trang phục rất đơn sơ - đơn sơ theo nghĩa khá tiết kiệm với diện tích những tấm vải che thân - của một nữ ca sĩ vừa hát vừa láy bằng thân thể. Những cái láy khoe khoang đầy tự tín mà cũng nặng phần khêu gợi. Câu chuyện của mấy ông bạn cùng bàn cũng đang nở như bắp rang chung quanh những biện pháp và phương pháp giữ gìn sức khỏe. Mọi người đều đồng ý rằng nay đã đến lúc cần phải bảo trì tối đa để giữ cho thật lâu cái phần còn lại trong cái sức khỏe mà ai cũng đã từng có lúc phung phí quá nhiều theo kiểu tiêu mà không đếm hoặc là có đếm mà vẫn cứ tiêu. Thể dục, đi bộ, sinh tố. Thuốc men đủ loại. Kể cả một thứ được cho là thần dược hiện thịnh hành khắp thế giới, vốn có cái khả năng giúp cho người đàn ông phục hồi hoặc tăng cường cái hùng tính của mình. Tình còn có lúc đầy lúc vơi huống chi là hùng tính! Từ thuốc bổ qua đến Viagra lúc nào tôi không biết. Mà từ Viagra nhảy sang đạo Thiền hồi nào tôi cũng không hay. Cuộc sống có những lối chuyển mạch tinh tế, tự nhiên và nhẹ nhàng đến độ mình không bắt chước nổi để đưa nó vào văn chương chữ nghĩa cho lối viết của 13 mình được suông sẻ, trôi chảy. Ông bạn thầu khoán đang nói về cái hay, cái ích lợi của phép tọa Thiền. Ông kết thúc một đoạn giảng giải khá dài đầy đủ thuật giữ của Thiền đạo bằng một hớp rượu vang. Không rõ ông bạn thấy được những gì là tội lỗi, là u mê ám chướng trên mặt tôi, mà ông thấy cần phải lôi tôi ra mà thuyết phục riêng tôi trong số bảy tám người ngồi cùng bàn. Ông thành thật vui vẻ nhìn thẳng vào mắt tôi mà hạ giọng, nghiêng người về phía tôi trong một tư thế thân mật: “Tôi có mấy cuốn sách Thiền dịch sang Anh ngữ từ tiếng Nhật. Hay lắm. Nếu anh thích, tôi gửi anh xem”. Xưa nay, có bao giờ có người cho mượn hoặc biếu sách mà tôi từ chối đâu. Huống hồ đây là sách Thiền học của Nhật Bản, một nước đã tạo ra được một sắc thái đặc biệt, riêng biệt cho đạo Thiền từ những lời dạy vào buổi đầu của ngài Bồ Đề Đạt Ma, khi ngài mới sang Trung quốc. Duyên nghiệp của lòng mình với chữ nghĩa đã tạo ra trong tôi cả một mớ tơ vò rồi. Tơ vò là nói cho văn vẻ vậy, chớ thật ra lắm lúc nó là một mớ bòng bong. Bây giờ có người đưa cho mình một sợi Thiền nó vốn có cái khả năng buộc lại cho gọn những gì là rối rắm, là ngổn ngang trong lòng. Không biết mình có đủ cơ duyên - nói theo thuật ngữ của thuyết nhân quả - mà sử dụng nó hay không. Nhưng mà hãy cứ nhận lấy đã. Nên lắm chứ. Biết đâu lại không có chỗ dùng sau này. Biết đâu nó lại chẳng có ích cho những phút hiếm hoi mà tôi thấy nên và cần phải dẹp bớt cái nếp sống, cái lối sống quá gần gũi, quá thân thiết với tất cả những gì là tục, là lụy trong thế giới của thanh và sắc, trong cái cõi đời vừa đáng yêu vừa đáng ghét này. Yêu cuộc đời thì yêu si mê cuồng dại mà ghét nó thì có lúc tôi cũng ghét cay ghét đắng. Rứa mới bực mình. 14 Đạo hạnh thì đương nhiên là một mảy may, tôi cũng không có. Thành thử cũng đương nhiên là không có chi mà trau giồi. Nhận lấy mấy cuốn sách thiền để mong thấy trên mặt giấy kinh nghiệm của người trước trên con đường kiếm lấy một đôi phút thanh thản, những lúc tính đến chuyện học đòi những bậc đại trí từng chống gậy trúc, áo tơi, nón lá mà vân du trong cái chốn... bụi hồng này. Thế thôi. Con người tôi nó nặng nợ với nhiều thứ lắm. Thành ra tôi vẫn thích, vẫn thèm một chút gì đó, vốn nhẹ hơn, như là cái đẹp của những gì là đạt, là thoát. Muốn được như vậy là phải tu, ít ra là tu theo cái nghĩa đen là dựa vào một tiêu chuẩn đạo đức luân lý nào đó mà sửa mình. ai chả biết thế! Nhưng mà đôi khi loay hoay tự xét mình, tôi thấy tôi coi bộ khó tu! Dù vậy, tôi đã dọn một câu thật văn hoa mà tạ cái tấm thịnh tình của bậc thiền giả vưà mới nhắp xong mấy hớp rượu ngon với cái tỉnh thức đầy đủ của vị giác và khứu giác. Nhìn ông đang tận hưởng hớp rượu mà tôi cũng phát thèm. Tôi nhấc ly rượu của tôi. Nhưng mà vành ly vừa chạm môi, tôi sực nhớ tới một người đàn bà, không họ hàng cho cả, mà tôi vẫn xem như là một người chị. Bởi vì chính từ cửa miệng của người chị này, lớn hơn tôi một giáp, vốn có một lối nói thiệt nhẹ nhàng hiền dịu, mà lần đầu tiên trong đời, tôi đã nghe được hai tiếng tĩnh lự, đồng nghĩa với đạo Thiền. Ở đây, tôi không muốn dùng chữ từ, mà tôi cố ý dùng chữ tiếng, bởi vì tĩnh lự đối với tôi còn là hai nốt nhạc trong toàn thể âm thanh và âm sắc của cái giọng thiệt là hiền dịu của chị Đàn. Đúng ra chị có caí tên kép là Nam Đàn, nhưng cả nhà chị đều gọi chị là Đàn. Ông cụ thân sinh ra chị lấy cái tên huyện lỵ ấy mà đặt cho người con gái đầu lòng của ông, dùng nó làm chùm nhau, làm sợi dây vô hình 15 mà cột gia đình ông vào quê cha đất tổ ở Nghệ. Gần đây, người ta hay nhắc đến huyện Nam Đàn vì đó là sinh quán của một lãnh tụ cộng sản, nhưng mà ngày trước nó nổi tiếng nhờ ở một đặc sản gắn liền với cơm chay: tương. Quê ngoại tôi ở Hà Tĩnh. Ngày nhỏ tôi vẫn nghe mẹ tôi nhắc đến “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”. Tôi chưa hề được nếm hai thứ đó, nhưng mẹ tôi kể cho tôi nghe rằng nhút là một loại dưa làm bằng nhiều thứ rau trong số có xơ mít. Một thức ăn của xứ nghèo. Còn tương Nam Đàn thì ngọt mà dịu, vẫn theo lời mẹ tôi. “Chị Đàn, bọn em đi ciné xong, chị cho bạn em ăn cơm tối luôn”. Đó là lời Đạt, em trai của chị và bạn cùng lớp với tôi, vào một ngày trong mấy tuần nghỉ lễ Phục Sinh tại Đà Lạt, ở cái thời kỳ mà cả vùng cao nguyên Trung phần còn mang tên Hoàng Triều Cương Thổ. Cũng chính vào tối hôm ấy mà sau khi biết được cái tên kép của chị, tôi đã nhắc đến những điều mẹ tôi kể cho tôi nghe về quê hương của chị. Rồi sau khi Đạt cho chị biết rằng tôi cũng có mang một phần máu “cá gỗ” trong huyết quản, tôi trở thành một người thân của gia đình ấy. Chồng chị Đàn, anh Phương người Cần Thơ, là công chức trong một ty thuộc guồng máy hành chánh miền cao nguyên. Anh dễ tính, hểu hảo. Những buổi lũ bạn của Đạt, trong đó có tôi, ra nhà anh mà chị lại đi vắng, anh thường vẫn bảo bọn tôi vào trong nhà “có chi thì tụi bây lục ra mà ăn. Đừng có đi ăn hàng, để dành tiền mà đi ciné”. Nói vậy nhưng mà thường anh vẫn bảo chị người làm chạy đi mua bánh mì ổ, bánh bao, cam chuối. Lũ bạn của Đạt có đến quấy rầy trong những ngày chủ nhật hay ngày lễ, tôi thấy anh bắc cái ghế mây ra ngoài hiên mà đọc báo Thần Chung, Ánh Sáng, Paris-Match hoặc Reader’s Digest, bản tiếng Pháp. Thỉnh thoảng, nghe anh âm ư một đôi 16 câu vọng cổ hoặc hát một đôi bài ca tiếng Pháp thịnh hành ở Việt Nam từ thời Tino Rossi, Rina Ketty. Cái tật xấu duy nhất của anh mà tôi biết là anh cứ đứng chỉ nước cho cả hai bên mỗi khi xem Đạt và tôi đánh cờ tướng. Dễ ghét lạ! Nếu có ai gặp chị Đàn đến ba bốn lần đâu đó, chắc cũng không để ý đến chị. Trên người chị, trên gương mặt của chị không có chi đặc sắc cả, nếu chỉ tìm cái sắc. Biết chị Đàn rồi thì tự nhiên mà không muốn cũng phải chú ý ngay cái nét phúc hậu, tươi tắn trên gương mặt đầy đặn, hồng hào. Gương mặt chị chiếu ra bên ngoài cái niềm vui của một người tốt bụng, của một người có đạo tâm. Tô thêm đẹp cho tấm lòng ấy là một giọng nói thật dịu dàng, nhỏ nhẹ. Chưa bao giờ tôi nghe chị la mắng hai thằng con trai lúc ấy vào khoảng sáu bảy tuổi, phá như giặc. Quá lắm, chị cũng chỉ nghiêm nét mặt, rung rung ngón tay trỏ mà đe: “Đẻ nói không nghe, chút nữa ba về, đẻ méc ba là bị đòn đó”. Đi đứng, chị Đàn cũng nhẹ nhàng như một cái bóng. Một buổi chiều chủ nhật, đang ngồi đánh cờ tướng với Đạt ở ngay phòng ăn, tôi đã giật mình vì không biết từ lúc nào, từ hướng nào chị tiến đến cạnh bàn, tay bưng hai chén chè đậu đỏ, giọng thiệt là thành thật: “Chè chị nấu từ hôm thứ sáu ăn chưa hết. Chị mới hâm lại, hai em ăn giùm chị, để nó siu đi, lại phải đổ. Mang cái tội phí của trời”. Rồi chị cười, để lộ hai hàm răng đều đặn: “Chị mới đọc trong báo Phổ Thông tuần trước, thấy nói có chất đường, đầu óc sáng ra. Ăn đi cho sáng nước mà chiếu bí nhau”. Chưa kịp cám ơn, thì chị đã cốc nhẹ vào đầu tôi: 17 “Gạt tàn thuốc vào cái dĩa này, đừng có rảy xuống đất. Mà em tập hút thuốc làm chi vậy. Hại phổi”. Chưa kịp cãi bướng thì chị đã khoan thai biến mất vào nhà trong. Những thoáng nghĩ trên đây về chị Đàn, về những mẩu đời đã cũ đến gần năm mươi năm chứ không ít, đã vụt lướt nhanh trong đầu tôi vào lúc tôi cầm ly rượu lên định uống một hớp. Nhưng mà tôi đã đặt nó xuống mặt bàn. Đặt ngay vào chỗ cũ của nó, có một vết ướt tròn trên cái khăn bàn giấy màu lá mạ. Tôi thường vẫn hay làm như vậy để đo độ rượu trong người tôi những lúc vui chén. Chệch ra ngoài thì tôi ngưng uống, nếu đi một mình mà phải tự lái lấy xe để về nhà. Dĩ nhiên, nếu lại có vợ tôi làm tài xế thì đặt chệch hay đặt trúng gì tôi cũng tiếp tục, nhất là vào những buổi họp bạn có nhạc, có thơ vốn là hai thứ nó vẫn nâng cao tửu hứng của tôi. “Nhưng mà anh cũng phải coi chừng, có khi vô ý mà đặt trúng chỗ cũ, dù đã hơi say. Anh phải thử đi thử lại một hai lần cho nó chắc”. Đó là lời khuyên của anh bạn đã thận trọng chỉ cho tôi cái phương pháp thử nghiệm độ rượu không lấy gì làm khoa học lắm. Dẫu sao thì đó cũng là một lối dẫn mình vào con đường khổ hạnh (?) những khi uống mà lại quá ngon trớn. Hai chữ vô ý trong lời dặn dò ân cần của anh bạn tôi cần phải được hiểu là tình cờ. Mà cũng tình cờ mà tôi nghe được hai tiếng tĩnh lự nhẹ thoát từ giọng nói êm dịu của chị Đàn, một chiều ghé vào nhà chị, định rủ Đạt đi chơi. Khung cảnh và khung trời hôm ấy không có gì đáng ghi. Vẫn cây thông già phía vườn sau nhà chị Đàn, cao và mạnh như trăm nghìn gốc khác trùng điệp trên núi đồi cao nguyên. Vẫn là bầu trời trong và xanh của một chiều cuối năm ở Đà Lạt. Sương chưa xuống nhưng nghe 18 chừng đã lạnh. Mới khoảng bốn năm giờ chiều mà bóng cây thông đã đổ xuống mái ngói chỗ phòng của Đạt. Ngày ngắn đi rồi. Nhìn quanh quất trong nhà không thấy Đạt, tôi chạy tuột ra vườn sau, chỗ có mái hiên khá rộng có kê một cái bàn bóng bàn đã tróc sơn, ván có chỗ cong lên, oằn xuống. Cái mặt bàn lượn sóng này là cái cớ mà tôi thường vẫn vin vào để biện minh cho việc đỡ hụt những cú xoáy, cú tạt, cú tiu ác liệt của Đạt. Cái tật “đổ tại” này nó đâm rễ con, rễ cái, rễ phụ trong tôi đã từ lâu lắm rồi, từ ngày còn là một tấm bé lắc xắc. Nó thành nếp trong tôi rồi. Từ cái ngày mà chị người làm vẫn đấm bôm bốp vào bức tường vô tội mà trị tội nó, những khi tôi khóc ré vì vừa chạy mà va đầu vào tường. Bây giờ thì không phải tại tường nữa, mà tôi cho là tại Mỹ, tại Nga, tại Tây, tại Tàu, tại nhiều thứ khác nữa... Kể cũng tiện cho mình! Đang nhớn nhác nhìn quanh tìm Đạt, tôi chợt nghe tiếng chị Đàn: “K.! Ra đây ăn khoai với chị. Chị nhờ Đạt đi đổi mấy quyển truyện thuê. Nó về bây giờ”. Chị tựa mình vào phía bên kia gốc thông trước mặt tôi, nên tôi không thấy chị. Lúc đến bên cây thông tôi thấy chị ngồi trên một cái đòn gỗ, một chân duỗi, một chân co, lưng dựa vào gốc thông, trong một tư thế rất thoải mái. Chị mặc quần đen, áo cánh trắng, bên ngoài là một chiếc áo len tay dài màu nâu. Bên cạnh là một cái rổ con, có mấy củ khoai vàng. Không đợi chị mời đến lần thứ hai, tôi bốc một củ đang còn ấm. Khoai bột mà chắc, tôi bị nghẹn. Chị cười: “Ăn thủng thẳng”. Tôi chạy vào nhà nốc một ly nước lạnh cho hết cơn nghẹn. Lúc trở ra vườn, tôi ngồi đối diện chị, trên một cái rễ thông lớn đội đất mà lên. Tôi hỏi chị: 19 “Chị làm chi mà em thấy chị hay ngồi đây cả giờ vậy?” “Chị nghỉ chút thôi. Thằng Cần với thằng Mẫn đi học về là chị hết nghỉ. Lăng xăng việc nhà cả ngày có khi cũng mệt. Em ăn thêm củ nữa đi”. Tôi bốc thêm một củ nhỏ. Lần này có nhai cẩn thận. Đột nhiên chỉ hỏi tôi: “Em ăn cơm chay được không?” Tôi vồ lấy cơ hội, khoe ngay kiến thức về kinh kệ: “Em theo mẹ em lên chùa ngoài Huế từ hồi bảy tám tuổi. Chú Đại Bi, chú Vãng Sanh, Tâm Kinh... em đọc ngược còn được, huống hồ ăn cơm chay, mấy em ăn cũng hết, miễn là có chao với ớt”. Chị cầm con dao bài, cắt một lát khoai, vừa cười vừa trêu tôi: “Đã ăn cơm chay thì có chi ăn nấy, không có miễn là chi cả. Nhưng mà đọc ngược bài Tâm Kinh chị nghe”. Bị bắt quả tang là mình đang nói tướng, tôi gồng mình, nhưng mà đọc rất chậm. Tôi nhắm mắt không phải vì thành kính mà vì đang cố hình dung ra mặt chữ trên trang giấy trong quyển Nghi Thức Tụng Niệm ở nhà tôi. Chữ to. In đậm: “Lần Ba, Ha Bà Tát Đề Bồ... (...Bồ Đề Tát Bà Ha. Ba Lần.) Chị người ngặt ngẽo: “Thôi. Có tội chết. Mà em cũng giống như thằng Đạt vậy. Chỉ được cái nói dốc là giỏi. Thứ sáu này, chị làm giỗ cho thầy đẻ chị ngoài chùa. Thầy đẻ chị mất cách nhau có hai hôm, nhưng mà khác năm. Chị coi em cũng như Đạt vậy. Chị vô đây, không có ai bà con ở ngoài Nghệ cả. Có hai thẫu chao chị ủ cũng đã hai tuần. Mấy bữa nay trời lạnh, không biết có chín kịp 20 không. Nhưng mà ngoài chùa có bà người Huế làm mắm cà chay ngon lắm...” Tôi ngắt lời chị: “Thế nào em cũng ra chùa. Từ ngày lên học ở Đà Lạt. Tết nhất em mới đi chùa, chớ hồi còn ở Huế, có khi không có lễ lạc chi, em với mấy thằng bạn em cũng đạp xe lên chùa chơi. Chùa nào có cây trái gì chín mùa nào, tháng nào, tụi em thuộc hết. Chị có hay đi chùa không?”. “Rằm, mùng Một, vía các Đức Phật, chị vẫn gắng thu xếp thì giờ, nhưng mà cũng không được đều. Mấy năm gần đây, chị có học được một phép ... chị cũng không biết nói sao nữa, một phép... dưỡng cái thân và cái tâm của mình. Ngồi ở đâu mà dưỡng cũng được. Thành ra lỡ phải bỏ một buổi ra chùa, chị cũng đỡ áy náy. Hồi nãy, khi em tới, chị vừa ăn khoai vừa dưỡng đó”. Mặt tôi lúc đó chắc đang ngớ ra nên tôi thấy chị nhìn tôi mà cười: “Chị có nói em cũng không biết đâu. Mà cũng không biết em có hiểu không? Phép tĩnh lự”. Hai tiếng tĩnh lự thoát ra trên cái miệng cười ấy nhẹ nhàng như hai nốt cuối của một đoạn dương cầm mà âm thanh nhỏ dần đi theo những cái vuốt lúc càng dịu dàng của người nắn phím. Tôi vừa nghĩ về cái nghĩa đen của hai tiếng lạ hoắc đó, vừa thừ người ra mấy giây vì cái âm sắc dịu dàng trong giọng nói của chị Đàn. Tôi ngần ngừ nói thật chậm, sợ bị hố, chê dốt: “Chắc em hiểu nghĩa đen thôi. Tĩnh lự... tĩnh... bình tĩnh... lự là suy nghĩ... để cho lòng mình bình tĩnh mà suy nghĩ. Phải không chị? Mà suy nghĩ thì phải suy nghĩ về cái gì chớ. Không lẽ chị đang suy nghĩ về miếng khoai trong miệng à?”. 21 Chị Đàn cười phá lên, cười dòn tan, cười ngon lành. Rút cái khăn tay để chặm những giọt nước mắt trào ra sau một chuỗi cười thích thú, chị nói: “Chính chị đang nghĩ về củ khoai đó. Nhưng mà để hôm khác, chị nói thêm về phép tĩnh lự cho em nghe, nếu em muốn nghe... Mấy cháu về kia rồi. Cần! Mẫn! Cất sách vở, rửa tay mau ra ăn khoai với đẻ”. Lẽ tất nhiên là tôi không muốn nghe. Ở cái tuổi mười lăm mười sáu ấy, thì giờ đâu mà tôi dành cho chuyện dưỡng thân với dưỡng tâm. Ở cái tuổi mà hàng triệu tế bào trong cơ thể đang hăm hở đi tìm sự sống của chúng trong những chu kỳ thoát thai từ một thành hai, hai thành bốn... thân tôi chưa cần phải dưỡng. Còn tâm, lúc ấy chỉ mới là cõi lòng. Mà cõi lòng ở cái tuổi ấy lại đang sang xuân, tươi sáng, vô tư. Thành thử, kinh nghiệm sống của chị Đàn, với tôi lúc ấy, là một điều xa lạ, một phương trời không có trong vũ trụ của tôi. Mà ngay lúc này, khi vừa đặt ly rượu xuống bàn, cả cái hiện tại của một buổi họp bạn lại là cả một vũ trụ trong đó lại không có cái phương trời của hai tiếng tĩnh lự. Tôi mơ hồ có cảm tưởng rằng chính chị Đàn với tiếng cười trong trẻo của chị, với củ khoai bùi ngọt mới là hiện tại. Còn mấy người bạn ngồi xung quanh tôi với những mẩu chuyện mà tôi nghe rõ mồn một, ghi nhận đầy đủ, lại thuộc về một nơi khác, không hẳn là quá khứ, nhưng mà xa xôi lắm. Câu chuyện đang xoay quanh vấn đề an xinh xã hội, tiền đầu tư vào các ngân hàng, quỹ tiết kiệm của người cao niên... Những đề tài thường vẫn lảng vảng trong những mẩu chuyện bắt nguồn từ cái chết đột ngột của đôi người quen, chết về bệnh tim, đứt mạch máu não, tai nạn lưu thông. Mà lại là những người bạn trạc tuổi chúng tôi. Tưởng chuyện bách niên dừng lại... Dừng 22 lại, không phải để mà ngùi cảm về cái phù du của kiếp sống trong cái ngắn ngủi của một cuốn lịch nhân tạo chỉ còn có bốn năm tháng nữa là được 2.000 tuổi. Mà dừng lại để nói đến chuyện bảo hiểm nhân thọ! Anh bạn ngồi cạnh tôi, trước là sĩ quan công binh, bây giờ là chuyên viên điện toán, kéo một hơi thuốc lá dài, quay mặt ra sau lưng mà phì khói, chậm rãi kể: “Tôi không có bảo hiểm nhân thọ. Không phải vì không biết lo xa. Nhưng mà nhà tôi nhất định không chịu mua. Chả giấu gì các anh, trong gia đình tôi, tôi chỉ là bộ trưởng bộ ngoại giao lái xe chạy hiệu ở ngoài thôi, còn nhà tôi là thủ tướng kiêm tất cả các bộ khác trong chính phủ. Bà ấy sợ lỡ bà chết trước, mà tôi lại còn nấn ná mãi ở cái cõi đời này, thì tôi sẽ lãnh tiền bảo hiểm mà kiếm bồ mới. Đàn bà họ như vậy đó, chen rồi còn ghết (chết rồi còn ghen)”. Câu chuyện tiếu lâm, nhưng mà nó cũng khiến cho tôi nghĩ rằng cái nhìn của trí tuệ người đàn ông, lắm lúc không phóng cho đến tận một đôi chỗ lo xa của người đàn bà, tủn mủn đấy mà thành ra quan trọng. Nhìn anh bạn nổi tiếng là người làm chúa trong gia đình anh, tôi đã nghĩ rằng, ngược lại với quan niệm xưa ở Trung quốc, thời buổi này nên giao việc nước cho phụ nữ. Lúc cần phải giữ một thứ gì, cho là giữ một cách vị kỷ đi nữa, họ giữ rịt lấy, giữ vững lắm, giữ được lâu lắm, bền lắm. Nhất là ở những nước mà gần đây tài sản bị thất thoát nhiều, ở những nơi mà những giá trị đạo đức tinh thần xem chừng chỉ còn là những cái bóng nhạt mờ, xa dần như những cái bóng người yêu dấu trong sương chiều của một số các vần thơ lãng mạn, trên con đường đi về... thiên cổ. Giao cho các bà giữ, may ra... Tôi đã góp những ý kiến trên đây vào câu chuyện, sau khi đã dọn cho đầy đủ một bộ mặt trịnh trọng, một 23 thế ngồi nghiêm chỉnh của một kẻ được bằng hữu xa gần biết đến như là một người lơ đễnh và lơ là với việc nước, mà bây giờ lại xen vào chuyện quốc gia đại sự, xía vào cái địa hạt của chuyện an bang tế thế, vốn không phải là sở trường của tôi, nếu quả tôi có được một thứ sở trường nào đó. Tuy vui câu chuyện, nhưng mà chị Đàn với khung trời của tĩnh lự vẫn không hề rời tôi. Thật tình, tôi không ngờ âm sắc của giọng chị Đàn lại để lại trong tôi một ấn tượng sâu đậm như vậy. Đầu óc tôi bây giờ là một cái màn ảnh trên đó có hai bộ phim được chồng lên nhau mà đem chiếu cùng ra một lúc. Chỉ có cái khác là trong tôi, cả hai phim đều rõ trên màn bạc. Tôi đang “thấy” ngôi nhà nhỏ xinh xắn sạch sẽ của chị trên con đường dốc phía sau bệnh viện Đà Lạt, nhìn qua ngọn đồi của các Bà Phước Domaine de Marie. Một chiều, hơn hai mươi năm sau cái lần ăn khoai mắc nghẹn, có chút việc lên Đà Lạt, tôi ghé thăm chị Đàn. Tuy xa cách đã lâu, nhưng chị nhận ngay ra tôi và tôi cũng nhận ngay chị, hồng hào khỏe mạnh hơn cả cái hồi chị mới có hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi. Chị có hơi mập ra chút xíu, gương mặt phúc hậu của chị trông lại càng thêm phúc hậu. Vẫn cái vồn vã thành thật ngày xưa, vẫn giọng nói dịu dàng ngày trước, chị không gọi tôi bằng tên nữa mà lại theo hai cháu Cần và Mẫn mà dùng tiếng cậu thật là thân thiết: “Cậu ở lại ăn cơm chay với chị. Uổng quá, anh mới đi công tác ở Kontum hôm thứ Ba tuần trước, không thì gặp cậu rồi. Không có anh ở nhà, chị ăn cơm với rau luộc, cà muối...”. Tôi ngắt lời chị: “Em lên đây là cốt để ăn cà pháo của chị. Chị không cho em cũng đòi cho được. Nhưng mà bây giờ... lớn 24 rồi, em xin chị một chai bia của anh, Anh vẫn còn uống bia?” Nhìn cái tẩu thuốc trên tay tôi chị cười: “Chừng nào mà cậu bỏ thuốc được thì chắc lúc đó anh mới bỏ la-ve”. Tôi nhìn qua bàn thờ kê ngay trong cái phòng khách quen thuộc. Phía trên là tượng Quan Âm bằng gỗ, thấp hơn chút nữa là một cái án thờ. Vẫn hai bức chân dung cũ của thầy đẻ chị Đàn, màu có bạc đi. Bây giờ có thêm bức ảnh của một người đàn ông trẻ tuổi, hao hao giống anh Phương. Tôi biết đó là di ảnh của em anh Phương, tử trận trong một lần đụng độ ở Pleiku. Tôi nghĩ đến câu quân bất kiến sa trường chinh chiến khổ... trong tuyển tập Đường Thi Tam Bách Thủ, không nhớ của ai. Cứ lâu lâu tạt vào nhà một người quen, người thân, liếc lên bàn thờ thỉnh thoảng lại thấy có thêm di ảnh của một quân nhân. Chiến thời mà. Biết làm sao bây giờ! Những lần bắt gặp một cái nhìn thẳng thắn, một đôi mắt buồn, một miệng cười đầy tin tưởng trên những bức ảnh thờ ấy, tôi đâm ra hoang mang về ý nghĩa của cuộc đời, bởi trong lòng tôi không có đủ một niềm tin tôn giáo nào vững chãi để cho tôi vịn vào đó mà ngưng thắc mắc về những gì tôi không hiểu được. Hoang mang mất vài phút thôi. Bởi vì cái chuyện ăn ngon nó đưa tôi về với thực tại nhanh như chớp. Mà bữa cơm chay hôm ấy tại nhà chị Đàn thì quả là hết sẩy. Dĩa rau luộc đang bốc hơi, bát canh bó ngô bùi ngọt lấm tấm những hột đậu xanh xinh xắn, dĩa cà pháo mặn mòi, chén muối mè mới rang mới giã thơm điếc cả mũi, cọng thêm với tương và chao quanh năm không bao giờ thiếu trong nhà chị Đàn, tương chao tự tay chị Đàn ủ lấy làm lấy, rồi đến mấy trái ớt xanh đỏ vui mắt mà cay thì cũng cay đổ mồ hôi hột, tất cả 25 những thứ đó đã dẹp hết thảy mọi hoài nghi của tôi đối với những triết thuyết cổ kim cố tìm một định nghĩa ổn thoả nào đó cho cuộc đời, những triết thuyết mà một đôi lần tôi cũng có tò mò thử tìm hiểu. Nhưng mà không biết mình có nắm được hay không cái chỗ uyên áo trong những trang giấy đầy những danh từ có phần xa lạ, hóc búa, không phải là luôn ở đầu lưỡi mọi người trong câu chuyện hàng ngày. Dẫu sao thì bữa cơm chay (có bia “33”) nhà chị Đàn hôm ấy có cái tác dụng của một trận mưa rào mát mẻ đổ xuống lòng tôi đang ủ dột, dao động vì bức ành thờ một người mình không quen biết. Chị Đàn đòi xới cho tôi thêm một chén cơm nữa. Nhưng mà vui miệng, ngon miệng, tôi no lắm rồi. Tôi nhắc chuyện cũ: “Em vẫn còn háu ăn như ngày trước. Nghẹn miếng khoai, chị còn nhớ không?” Chị Đàn mỉm cười, vét nốt những hột cơm trong chén, đặt đũa xuống: “Nhớ chớ. Hôm ấy, cậu bị chị truy bài tâm kinh đọc ngược”. “Mà cũng là hôm đầu tiên trong đời em biết được hai tiếng tĩnh lự”. Chị Đàn mở to đôi mắt với một cái nhìn thẳng thắn. Không bợn một chút tra hỏi, nghi ngờ, hoặc trêu ghẹo mà nhìn thẳng vào mắt tôi: “Bây giờ thì cậu biết tĩnh lự là chi chưa?”. Tôi đáp: “Dạ chưa. Nói cho ngay, sau khi biến cố 63, các hiệu sách khắp nước nhan nhản những sách nói về Phật giáo, kinh Phật... Em cũng có tò mò rinh vài quyển về xem chơi, kể cả một đôi quyển về Thiền, về tĩnh lự. Không hiểu chi mấy... Phải nói là không biết 26 chi cả thì đúng hơn. Mà chị biết không, cũng tại chị mà em thích hai tiếng tĩnh lự hơn, nghe... hay hơn”. Chị Đàn dường như không để ý đến lời tôi, nhưng tôi biết chị chăm chú nghe. Chị rót cho tôi một chén trà nóng đang bốc hơi, đẩy dĩa kẹo đậu phụng đường đen dưới có lót bánh tráng về phía tôi: “Cậu tráng miệng thử miếng kẹo. Bà bạn của chị làm. Mới đem đến cho chị hôm qua. Còn giòn lắm. Mùa này còn đỡ, qua mùa mưa bánh kẹo để hở gió một buổi là ỉu xìu. Trà Blao (Bảo Lộc) đó. Hơn một năm nay, anh uống trà tàu cứ hay mất ngủ thành ra chị cũng không mua nữa... Mà cậu phân biệt Thiền với tĩnh lự làm cho chị mệt óc, rối trí. Cậu thích chữ nào hơn thì nó cũng chỉ là... chừng đó thôi”. Tôi chỉ biết cười trước câu nói đầy lương tri của chị Đàn. Hết đường cãi bướng. Phải rồi, đóa hồng, gọi nó là gì đi nữa thì hương vẫn ngọt ngào... Nhưng mà tôi cười chính tôi nhiều hơn. Cái cố tật của tôi, cái tật mê đờn ca xướng hát vốn nó đã trói tôi vào khá nhiều hệ lụy với nhiều thanh sắc, nhiều vướng víu với nhiều hương phấn trên những đoạn đường lang bạt cũ. Những đoạn đường mà bây giờ, vào những đêm có mưa to, có gió lớn đến quấy rầy giấc ngủ, nghĩ đến, tôi đã phải tung chăn ngồi dậy mà uống vội một viên thuốc an thần, uống với một hớp trà còn thừa lại tự đầu hôm, hớp trà mà hương đã bay hết, vị cũng lạt thếch, đã nguội, đã lạnh. Cái thứ chớp bể mưa nguồn ấy nó hay khơi dậy những ngày mưa gió cũ trong lòng mình. Nguy hiểm lắm. Nhiều đêm, có thuốc an thần rồi mà cũng không ăn thua chi. Lại tốn thuốc cho mấy cái tẩu, tốn thêm một hai ly rượu nhắp về khuya, uống một mình! Tốn thêm cả một vài trang giấy nguệch ngoạc những hàng chữ vô ý nghĩa, không đầu không đuôi! 27 Cũng vì cái tật mê nhạc ấy mà đôi khi cứ tẩn mẩn lắng nghe, lắng tìm nhạc tính của một chữ, một từ nào đó trong một câu nói, câu thơ, câu văn. Chữ trên mặt giấy, kể cả chữ nghĩa của tôi, có khi chết cứng, cứng đờ. Nhưng mà chữ còn là tiếng, còn là âm thanh. Trong mọi nền văn minh, có ngôn ngữ rồi mới có văn tự. Vì vậy nên mới có tiếng mẹ đẻ mà không làm chi có cái văn tự mẹ đẻ. Đây này, Bình bạc vỡ tuôn đầy mặt nước/ Ngựa sắt dong sàn sạt tiếng đao... khó mà tránh được cái sức hút của cái khí, cái lực của sàn sạt trong đoạn tả tiếng tỳ bà của người ly phụ bên bến Tầm Dương. Có những âm thanh trong ngôn ngữ nó rơi tuột vào lòng mình như vậy. Đi thẳng một lèo, lý trí của tôi không có thì giờ, không kịp hỏi han đến nó, không biết nó là tính từ, động từ hay bất cứ một loại từ nào khác. Vòng vo Tam Quốc như vậy thật ra cũng cốt chỉ để nói rằng tự nhiên mà tôi mê hai tiếng tĩnh lự qua âm sắc giọng nói của chị Đàn, mê ngay trước khi tôi hiểu nghĩa đen của nó. Mà mãi về sau này, có dịp xem qua dăm cuốn sách về lịch sử Phật giáo, tĩnh lự vẫn đưa lại cho tôi cái rung cảm nguyên sơ của đôi nốt nhạc, không dính dáng chi đến chuyện thiền hành, tham thiền, nhập định... vốn là những điều mà tôi mù tịt. Vì vậy mà lúc chị Đàn khuyên tôi không nên phân biệt chữ này nọ, tôi thấy mình quả là lì lợm trong cái chuyện yêu ghét một số âm tiết trong ngôn ngữ. Nhưng mà, ở một chừng mực nào đó hình như cái thói xấu đó lại là một phần của tự do của tôi trong chuyện lựa chọn chữ nghĩa của tôi. Có được cái tự do sống đầy đủ với chữ nghĩa của mình kể cũng sướng! Hay dở là chuyện khác. Nói cho ngay, một đôi lần tôi cũng đã từng tự nhủ mình rằng không nên quá phũ phàng với những thứ mà tôi không ưa. Nhưng mà, tôi không 28 phải là một con người của chừng mực, điều độ. Hình như đức Khổng Tử đã từng nói rằng đạo Trung Dung của ngài khó lắm. Rất ít người theo được. Trong cái số rất đông còn lại, lố nhố những người chưa học được cho kỹ, chưa theo được cái đạo ấy của người quân tử, tôi thấy có tôi đứng xớ rớ. Nghĩ mình cũng bậy. Câu chuyện trong bàn tiệc đang tiến từ bảo hiểm nhân thọ sang chuyện giữ gìn cái cốt cách Việt Nam trong lối sống của người mình ở đây. Lần này tôi đã bắt được cái liên hệ giữa các đề tài được nêu ra trong lúc tửu hậu. (Chị bạn chủ nhà tiến đến bàn mà báo cho biết là năm mười phút nữa mới có trà và cà phê: “Các anh vui lòng chờ một chút”. Không vui thì cũng phải chờ chớ làm caí gì bây giờ!). Nguyên nói đến tiền bảo hiểm nhân thọ để lại cho con cái, cái ông lầm lì ngồi đối diện tôi nãy giờ chỉ ừ hử, bỗng cất tiếng thao thao đến gần mười phút về sự ích lợi lớn hơn của việc giữ gìn những truyền thống văn hóa nước nhà, ngay trong gia đình của từng người. Có vẻ mọi người đều đồng ý nhưng chưa biết làm cách nào. Không biết trong lá số Tử Vi của tôi ngày hôm nay hội đủ những bộ văn tinh nào mà cách đây không đầy nửa tiếng, có người ngỏ ý định cho mượn sách Thiền, bây giờ lại có một người trong bàn, đề nghị tôi nên soạn một quyển sách với một chương kê khai những nét văn hóa thuần túy Việt Nam - lời người đưa ra đề nghị - trong sinh hoạt hàng ngày của một gia đình ở đây để cho mọi người dựa vào đó mà tổ chức đời sống của họ. Tôi nghĩ mình không đủ sức làm việc đó và tôi đã nói ra như vậy. Nhưng mà trong đầu tôi, vụt một cái, tôi nghĩ, và “nguyên văn” cái ý nghĩ đó nó như thế này: “Mới làm nhà văn thôi mà đã không có ngày giờ, đã chết cha rồi, bây giờ lại làm nhà văn hóa nữa thì bỏ mẹ!” Một ý nghĩ đầy tính chủ quan, chỉ áp dụng riêng 29 cho tôi mà thôi, một ý nghĩ thành thật nhưng mà lời lẽ dùng để diễn đạt nó lại không được thanh tao cho lắm, khiếm nhã nữa là khác. Nó bắt nguồn từ một nỗi bực mình vì đương không mà có người muốn trao cho mình một cái gánh quá nặng chở những mục lục, những thời khóa biểu khí viển vông. Nhưng mà lỡ nghĩ như vậy thì tôi cũng phải viết ra cho nó đỡ bực. Thiếu chi những thứ ngớ ngẩn nó làm cho mình bực mình khi gặp những người quá ưu thời mẫn thế. Nhưng mà đôi khi, nghe những chuyện nó khiến cho lòng mình kém yên tĩnh, đúng ra là tôi phải nói mất bình tĩnh, trong cái đảo điên của một nếp sống luôn ở trên một trăm cây số một giờ tại nơi tôi đang ngồi gõ những hàng chữ này, tôi lại sực nghĩ đến tĩnh lự của chị Đàn. Tôi không biết một chút xíu chi về phép tĩnh lự, nhưng mà một đôi lần, chỉ cái nghĩa đen của hai tiếng đó qua giọng nói của chị Đàn hình như cũng đủ có cái công hiệu của ba chén nước lạnh chữa bệnh Trương Phi của ông Hoàng tính nóng như lửa trong quyển sách học ngày nhỏ. Tôi mới gặp lại chị Đàn năm ngoái đây trong một căn phố nhỏ sau chợ Tân Định. Có địa chỉ hẳn hoi trong tay, do Đạt - hiện ở Pháp - gửi cho tôi mà cũng mất hết mười lăm phút len lỏi qua hàng quán, đám đông trên con đường ngày trước gọi là Bà Lê Chân, tôi mới tìm ra nhà chị. Vợ chồng Cần hiện ở Úc. Chị sống với vợ chồng Mãn và hai cháu nội. Khi mở cửa, Mẫn không biết tôi là ai mà chính tôi cũng không nhận ra Mẫn. Kể cũng ngót năm mươi năm tính từ hồi ở Đà Lạt, lúc Cần và Mẫn mới bắt đầu trả cửu chương cho chị Đàn. Nhưng mà sau khi tôi khai danh tính, Mẫn mừng rỡ lớn tiếng gọi vọng lên gác sau: “Đẻ ơi! Có cậu K. tới thăm đẻ này!”. 30 Căn phòng bày biện sơ sài, toàn bàn ghế thấp loại gỗ rẻ tiền, để mộc. Chỉ có cái án thờ có khảm xà cừ là món đắt tiền nhất. Một lát sau, tôi thấy chị vịn vào thang gác mà cẩn thận xuống từng nấc thang. Chị mặc bộ bà ba hàng trơn, màu xám. Tóc chị đã bạc hết, nước da có kém hồng hào, nhưng trông chị vẫn khỏe mạnh. Câu chuyện hàn huyên chứa nhiều điều bất thường trong đời sống của những người mà chúng tôi nhắc đến. Những điều bất thường trong một giai đoạn lịch sử cũng bất thường luôn. Thấy tôi nhìn ảnh anh Phương trên án thờ, chị nói: “Anh mất được hai năm rồi. Anh mệt có mấy hôm, không chịu ăn uống chi cả, rồi đi luôn”. Tôi thấy chị im lặng. Nét mặt chị thản nhiên. Không buồn mà cũng không vui. Tôi đoán rằng đó là một phút mặc niệm. Chợt thấy chị mỉm cười: “Hôm chị nhận được thư của Đạt cách đây mấy năm, nói đã bắt được liện lạc với cậu, anh nói là anh biết cậu ghét cái tật của anh, đứng xem cờ mà lại chỉ nước cho cả hai bên nhưng mà không có cái chìa nào khóa miệng anh được, nguyên văn lời của anh đó”. Lòng tôi vui vui. Một vài hình ảnh của thời vô tư vut hiện về. Tôi nói với chị Đàn: “Vậy mà hồi đó, em tưởng là em giấu kín ý nghĩ của em lắm. Ngay cả Đạt em cũng không nói. Hồi ở Đà Lạt... vui ghê...”. Vọt miệng nói ra câu đó, rút về không kịp. Trong đầu tôi, tôi vả vào miệng tôi một cái đánh bốp. Bởi vì trong nhiều năm qua, đã nhiều lần gặp lại nhiều chỗ quen biết cũ, cứ động đến “ngày ấy, dạo ấy... vui ghê” bất luận từ cửa miệng của ai, là sau mấy phút sống với những dư âm và ảo ảnh của ngày vui đã qua, y như rằng thế nào ai cũng hơi buồn cũng hơi chán với một cái hiện tại mà ít người vừa lòng hoặc vui lòng chấp 31 nhận. Vẫn viết đây là một điều rất con người trong lòng mọi người, nhưng mà nói sao bây giờ... tôi nghĩ đến một câu Kiều... mà trong vinh hiển xót xa đã nhiều. Vương tướng chi mà vinh hiển! Khi trích câu Kiều này, tôi không nghĩ đến những người tự thấy mình đã vinh hiển ở đây. Nhưng mà bây giờ tôi biết cái vả miệng của tôi là thừa khi người ngồi đối diện tôi là chị Đàn. Chị cắt một trái vú sửa, sắp vào lòng cái dĩa sâu đựng đá: “Cậu chờ một chút cho nó lạnh. Ăn ngọt hơn. Chắc bên đó không có vú sửa. Mà nói thiệt với cậu ngày xưa ở Đà Lạt chị vui, mà bây giờ chĩ cũng vui vậy”. Tôi im lặng chờ chị nói thêm, nhưng sực nhớ là, ngược lại với tôi, chị Đàn không phải là người hay ba hoa về chính mình, tôi phải khơi: “Em cứ nghĩ từ 75 đến bây giờ...” Chị đoán ngay được ý nghĩ của tôi: “Dĩ nhiên là có nhiều điều làm cho chị suy nghĩ, nhưng mà những cái xui xẻo mất mát... như biết bao cái xui xẻo mất mát của những người xung quanh mình không làm chị buồn. Với lại, ai cũng cầu được sinh thuận tử an, anh được cả hai điều, phước của anh. Nghĩ vậy là chị cũng vui rồi. Lần này tôi mạnh dạn hỏi: “Em nghe Đạt kể là trong thời gian Cần Mẫn đi tù cải tạo, chị bới xách vất vả lắm mà...” Chị Đàn lại cười. Hình như trên miệng chị luôn có một nụ cười: “Lâu ngày mới nghe hai tiếng bới xách, ở đây bây giờ người ta gọi là thăm nuôi. May có Đạt chạy được qua Pháp, giúp đỡ cho chị ngay từ lúc đầu, nên chị cũng không đến nỗi... như nhiều người khác. Chị bây giờ... cháu Cần ở bên Úc có công ăn việc làm, con cái mạnh khỏe cả. Chút chị lấy hình cho cậu coi, nếu có 32 gặp, cậu cháu còn nhận ra nhau. Chị ở với vợ chồng Mẫn, hiếu thảo lắm. Có mấy đứa cháu con Mẫn, phá phách cũng vui. Thật ra, lòng chị thanh thản cũng nhờ...” “Tĩnh lự”. “Nhưng mà cũng một phần nào thôi. Cậu còn nhớ à?” “Quên sao được, em không biết tôn ti trong các chùa có cái chức đại lão ni cô không, chớ còn em biết chị bắt đầu tu từ hồi còn ở Đà Lạt. Bây giờ chị không sư bà, sư cố thì cũng là đại lão ni cô rồi”. “Cậu vẫn còn cái tật hay ba lơn. Chị mà tu hành chi, chẳng qua chị học được một đôi điều trong cuộc sống, qua lời chỉ vẽ của một người quen... Cậu lựa mấy cái miếng xấu mặt này mà ăn thử, thường chỗ nào bên ngoài vỏ bị nám, cơm bên trong lại ngọt hơn. À mà ở bên đó cậu có dịp đi chùa không?”. Chị Đàn ơi, ở nơi bàn tiệc này người ta cũng đang dọn ra một dĩa lớn đựng nhiều thứ trái cây nhiệt đới có, ôn đới có. Xoài Nam Mỹ, vải Đài Loan, cam Texas, nho từ đâu tới, em không biết, nhưng mà em chưa thử thứ nào vì chưa cạn ly rượu. Rượu với trái cây nó ít khi đi đôi với nhau lắm. Tôi đã nói thầm với chị Đàn như vậy khi ông bạn ngắt cho tôi một chùm nho năm sáu trái. Tôi cám ơn ông bạn rồi đặt chùm nho xanh mọng xuống cái dĩa giấy nhỏ màu lục đậm. Nhìn những quả nho to bằng đốt ngón tay cái, tôi nghĩ đến những quả nho giả bằng đá, bằng ngọc chưng trong các tiệm vàng, nữ trang. Có một đôi chùm được những ngón tay tài tình của người thợ ngọc, thợ đá tạo cho một vẻ sinh động tươi mát, linh hoạt lạ thường. Mới nhìn tưởng như nho thật, lá thật. Nghệ thuật bắt chuớc cuộc đời hay là cuộc đời bắt chước nghệ thuật? Thiên hạ đã tốn khá nhiều giấy mực mà tranh luận về 33 câu hỏi nòng cốt này trong vấn đề sáng tác, sáng tạo. Đương không mà mình lại tự hỏi mình một cách khơi khơi vậy thôi. Trong đầu không có nghiêng về nghệ thuật, mà cũng không ngả về cuộc đời. Bởi vì cuộc đời mà không có nghệ thuật thì kể như là... còn nghệ thuật mà không có cuộc đời thì cũng... kể như là... tiêu tùng cả hai! Nói cho ngay, tôi đã nghĩ đến vấn đề này khi tôi nhớ đến câu hỏi khá đột ngột của chị Đàn: “À, mà ở bên đó cậu có dịp đi chùa không?”. Đúng ra, câu hỏi ấy đã khiến tôi suy nghĩ về nghệ thuật trong lối sống của chị Đàn. Đối với chị Đàn, ông Trời quả đã không hểu hảo, rộng lượng trong cái khoản nhan sắc mà ông vẫn ban cho nhiều người đàn bà khác. Vậy mà ngay từ cái thời tôi chỉ mới biết nhìn và tìm nhan sắc của lớp nữ sinh cùng tuổi để mà tốn vào đó những đêm mất ngủ vì những lời thơ, những bức thư mà tôi tưởng rằng càng dài càng hay, càng nhiều tính tuyết phục, ngay từ cái thời mười lăm mười sáu tuổi ấy, tôi đã cảm được, qua nếp sống khiêm tốn của chị, trong nhà chị, xung quanh chị, một cái gì đó mà tôi biết là rất đẹp. Cũng như mọi cái đẹp khác trong nghệ thuật mà không ai định nghĩa nổi, hoặc có làm được chuyện đó thì cũng không tránh được cái phần chủ quan trong mỹ cảm, cái đẹp tỏa ra từ con người chị Đàn hồi đó tôi không biết nó là cái chi. Tôi chỉ biết trong cái đẹp đó có âm sắc trong giọng nói của chị, có cách nói năng dịu dàng, có lời lẽ ôn tồn, có đôi tay siêng năng việc nhà, có cách đi đứng khoan thai, trang phục bình thường nhã nhặn, nhất là gương mặt thật phúc hậu tươi vui của chị Đàn. Anh Phương là công chức, mà lại là lớp công chức chỉ biết trông vào đồng lương tháng, thành ra gì thì gì, không thể dùng chữ giàu mà 34 tả nếp sống vật chất trong gia đình chị Đàn. Nhưng mà, chị đưa lại cho tôi cái cảm tưởng là chị luôn luôn đầy đủ. Có vẻ như cái đẹp mà hồi đó tôi vẫn rất thích được gần gũi, một phần của nó là cái yên ổn của một cái tổ ấm trong đó có con chim mái hiền lành, cởi mở, độ lượng, vui vẻ đón nhận lũ chim lạ chúng tôi, vốn là mấy đứa học trò xa nhà. Hiểu theo nghĩa thông thường của hai chữ hạnh phúc, thì tôi thấy và biết chị Đàn và gia đình chị có hạnh phúc. Còn nghệ thuật của chị Đàn trong việc tạo ra, đóng góp vào và nuôi dưỡng cái hạnh phúc đó, cho đến bây giờ tôi vẫn không biết đích nó là cái chi. Hình như phép tĩnh lự có giúp cho chị một phần nào, như lời chị nói. “Còn riêng em thì nói thật với chị, không có tĩnh lự, tĩnh liếc chi cả. Ngoài những mục quan hôn tang tế, thỉnh thoảng cũng có đi chùa thật. Nhưng mà em đi chùa cũng như Tôn Ngộ Không cân đẩu vân ra biển Nam Hải, hạ xuống núi Phổ Đà mà cầu cứu đức Quan Âm, những lúc phá không được bửu bối của lũ yêu quái dọc đường sang Tây Trúc”. Tôi đã nửa đùa nửa thật như vậy mà trả lời câu hỏi của chị Đàn. Nhưng mà... những con dốc quanh co, gồ ghế dẫn tôi đến với một đôi tiếng chuông chiều lan ra từ một vài mái rêu cũ kỹ cong vòng; mùi hương trầm đã phai, không còn ngào ngạt sau giờ cúng Ngọ, quyện lấy ánh nắng rực rỡ đang đổ xuống những mảng rêu quanh những gốc sứ già; điệu nhạc thấp, trầm đục của những bài mật chú đều đều nhẹ nhàng, nhẹ nhàng mà chứa cả cái hùng lực của lớp sóng hải triều âm; đôi búp sen tía trắng vươn lên từ cái tù hãm của một hồ nước có những nhánh rong dài xanh, những mảng bèo tấm dật dờ trong cái tĩnh lặng của trưa hè đứng gió; từng nhịp ve ra rả có khi át cả những câu xướng tán ngân nga 35 trầm bổng; những lời khấn thành khẩn tha thiết xuýt xoa thoát ra từ những hàm răng đen, những đôi môi nhăn nhúm thoáng một đôi vết nước trầu, những cái lưng đã hơi còng đang cúi xuống với cả niềm tin trọn vẹn; những chén chè dĩa xôi lấm tấm chút tàn nhang, những bữa cơm chay thanh đạm... tất cả những thứ đó là nếp chùa ẩn hiện đâu đó trong tôi những khi tỉnh rượu lúc tàn canh giữa cái bữa tiệc đời mà tôi đã trót ngồi vào với rất nhiều đam mê, nhiều ảo vọng đối với tất cả những gì là thanh, là hương, là sắc. Đôi khi tôi cũng nhớm mình lặng lẽ rời bàn tiệc trong giây lát với chút ê chề, chút hoài nghi, nhưng mà nhiều lúc trong lòng cũng loáng thoáng bóng dáng một niềm vui đột ngột, ảo ảnh của một nỗi hân hoan bất ngờ. Mà cuối cùng rồi tôi cũng ngồi lại vào bàn với đầy đủ cái hăm hở của một người ham sống với cái nhân thế này! Ngồi nhớ lại mà viết ra, thì nó là đoạn trên đây. Nhưng thật ra tôi còn ba hoa nhiều hơn nữa, dài dòng hơn nữa, luộm thuộm hơn nữa về ngôi chùa của tôi khi trả lời câu hỏi của chị Đàn. Nghe tôi nói xong, chị Đàn lại cười, vồn vã mời tôi như ngày trước: “Cậu ở lại ăn cơm chay với chị, có món mít trộn rắc sân lốt mà cậu mới nhắc đến trong ngôi chùa của cậu”. Nhưng mà bận một vài việc, tôi phải chối từ. Lúc ra về, tôi biếu chị một món quà mọn, nói khéo (với chị Đàn chuyện chi mà lại phải nói khéo!) là để mua bánh kẹo cho các cháu. Chị vui vẻ cầm lấy cái phong bì nhỏ. Lần này chị cười hóm hỉnh: “Không giấu chi cậu, Đạt và Cần nhờ trời khá lắm, chu toàn cả cho chị và gia đình Mẫn đã từ lâu rồi. Tiền cậu cho hôm nào chị gửi ra biếu viện mồ côi của ni cô Minh Tú ngoài Huế... để... dọn đường cho cậu về với chùa sau này... nếu cậu muốn”. 36 Sau này về chùa nào thì tôi chưa biết, mà có lẽ không bao giờ tôi biết được, nhưng mà đã đến lúc tôi phải rời buổi họp mặt hôm nay rồi bởi vì đêm cũng khuya, mà tôi cũng vừa nhận lấy tách cà phê thứ ba, thật đậm, thật thơm do chính tay chị bạn chủ nhà đích thân pha chế. Chị bạn chìa cái dĩa sứ men rạn màu lá chuối non mà ải hơn một chút, loại men céladon giả cổ, đựng đường cát vàng mà lại trong hơn, gần giống như đường phèn (tôi nhớ có lần đã được nếm loại đường này tại Mỹ Khê, Quảng Ngãi, đục hơn một chút mà đậm đà vô tả): “Anh không dùng đường à? Tôi pha đậm lắm đấy. Anh uống vậy mà không đắng à?”. “Cám ơn chị. Đắng chớ. Nhưng mà ngon”. Tôi nghĩ thêm là đắng như cuộc đời và ngon như cuộc đời vậy, nhưng mà không nói ra. Tôi tiến đến gần quầy rượu, đưa mắt ra hiệu cho vợ tôi. Hôm nay là thứ Bảy, vợ tôi là một con chiên ngoan đạo, sáng chủ nhật nào cũng dậy sớm đi lễ Nhà Thờ. Tôi đã viết xong và chấm hết những dòng loăng quăng trên đây vào tháng trước ở hai chữ Nhà Thờ cuối câu trên. Tôi in một bản gửi qua bên Pháp cho Đạt xem. Nói theo ngôn ngữ ngoại giao giữa các nước, thì tôi gửi bài cho Đạt xem để thông báo chớ không phải để tham khảo. Hai tuần sau, tôi nhận được một bức thư khá dài của Đạt trong đó có đoạn sau đây: “... Cái người chỉ những điều dơ đẳng về phép tĩnh lự cho chị Đàn là bồ cũ của chị. Hai người yêu nhau từ cái hồi còn học Collège Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình Phật giáo. (Đi chùa lạy Phật đại khái theo kiểu moa và toa vậy). Sau anh đi tu dòng Franciscain ngoài Quảng Trị. Bây giờ không biết ở đâu. Hai người có gặp nhau ở Huế, hồi chị Đàn mới sinh thằng Cần. (...) Toa kể chuyện đời một người đàn bà nhiều tình 37 cảm như chị Đàn mà lại không nhắc nhở chi đến tình yêu cả là vụng lắm. Dù là tình học trò vớ vẩn. Bộ toa tưởng những người có đạo tâm như chị Đàn không biết yêu hay sao? Anh Phương mất rồi, có nhắc đến chuyện đó bây giờ cũng không sao...”. Tôi đưa thư của Đạt cho vợ tôi xem, cũng là để thông báo, chớ không phải để tham khảo ý kiến. Nhưng mà không tránh được! Với cái tính hồn nhiên, ngây thơ còn sót lại từ thời còn học trường Bà Xơ, vợ tôi “đề nghị” nên tả cuộc gặp gỡ giữa chị Đàn và người yêu của chị khi mới hồi cư, sau nhiều năm lạc nhau, cho thật là lâm ly, có đủ những bàn tay hốt hoảng tìm nhau, những ngậm ngùi câm nín của phút biệt ly vân vân và vân vân. Nhưng mà đời là như rứa đó. Có những điều đáng lẽ phải biết trước thì việc nó gọn hơn, mà mình lại biết sau và đảo lại. Bố cục sao cho giống như cuộc đời thật với những chuỗi cười đúng lúc, những giọt nước mắt không trái tiết, coi vậy mà khó thật. Ngòi bút lạng quạng của tôi lại không bắt chước được. Thôi thì cứ để nguyên vậy. 38 CHÉN NỘI PHỦ Kể ra, sống lâu năm ở Huế, đừng nói chi xa xôi, cứ so với nhiều người bạn cùng trường, cùng một lứa tuổi, tôi đã thua họ rồi. Còn cái hiểu biết của tôi về Huế, thôi, nói ra thêm ốt dột. Chưa bị cho là mất gốc đã là may lắm. Mới tuần trước đây, ngồi tán dóc với mấy người hạn dân Nội Lách (Vĩ Dạ) uống nước trà, ăn kẹo đậu phụng Phi Luật Tân, kẹo hột điều Hương Cảng, (cũng đậm đà không kém những miếng kẹo đậu phụng đường đen, dưới có lót miếng bánh tráng hình tam giác, mua nơi tiệm Thím Ba, gần Chợ Mới Vĩ Dạ) mà cũng phải mất đến mười, mười lăm phút mới nhớ ra tên cái bánh vả: một trong nhiều thứ mà mình vẫn tưởng là không bao giờ quên được. Vậy mà còn to gan, anh em bạn có ai điện thoại, nhủ viết một bài cho số đặc biệt về Huế là vọt miệng ra “ẩu” liền, không do dự, không lưỡng lự. Kể mình cũng có “ẩu” thiệt! Đặt máy xuống rồi mới lo. Không phải lo chuyện trùng điệp giữa hàng nghìn hàng vạn trang giấy chở nặng tâm tư của người dân Hương Bình. Chuyện người ta nói rồi, mình có nói lại cũng không can chi. Bởi vì, theo chỗ tôi biết, không có người Huế nào nhiều lần nghe hoặc đọc một mẩu chuyện về Huế mà lại thốt cái câu biết rồi khổ lắm nói mãi, câu nói quen thuộc của một nhân vật nọ của Vũ Trọng Phụng. Bởi vì người Huế đọc những bài nói về Huế để mà vui, mà buồn, mà ngạc nhiên khi gặp một điều gì đó ở Huế trước đây mình không biết là chuyện 39 đã đành, nhưng tôi nghĩ còn có một lý do giản dị nữa: mấy ai đã dửng dưng được với những thứ đã từng nuôi dưỡng, bồi bổ cái chất Huế trong cái thao thức của mỗi người Huế, cũng như của bất cứ một ai đã từng trằn trọc vì một giọng rue m não nuột bên ngọn đèn dầu leo lét, vì một điệu hò nổi trôi đâu đó bên bến, trên đò. Không, tôi không lo chuyện bổn cũ soạn lại như chuyện bún bò, chuyện cơm hến, vốn là những thứ mà chỉ nghe là cũng đủ thèm rồi, làm sao mà chán được. Nhưng mà lo là vì tôi không có chuyện vui về Huế mà viết, mà kể. Thường, tôi hay buồn mỗi khi nghĩ đến Huế, viết về Huế. Ở đâu thì tôi không biết, chớ còn ở cái nước Mỹ này, cuối một ngày mà chuyện mưu sinh đã dần cho thể xác cũng như tinh thần mình đến rã rời, có được nửa tiếng, bốn mươi lăm phút để đọc một bài viết, một trang sách mà không ríu mắt ríu mũi không phải là chuyện dễ. Thường là cứ quơ nạo một quyển sách, một tạp chí, một tờ báo nào đó trên kệ sách, trên bàn, đọc mà không cần suy nghĩ chi nhiều, cho đến khi giấc ngủ đến với mình. Thì giờ của người đọc đã vậy, mà cái tâm trạng hân hoan mỗi khi cầm bút để viết về Huế thì không tài nào mà tôi có được. Tôi không muốn gieo nỗi buồn vào một giấc ngủ bình yên mà ai cũng cần phải có để đương đầu với công việc ngày hôm sau. Có cái lạ là cứ mỗi lần cầm bút lên để viết về Huế, ít khi tôi vui lắm. Kỷ niệm vui không phải là không có. Nhưng mà hình như Huế là cái nguồn buồn của tôi, ngay cả khi dăm hình ảnh tươi sáng vụt về với chút hân hoan mong manh. Ở đâu đoạn này tôi viết “có cái lạ...”. Thật ra, đó chỉ là một cách nói, nhưng nghĩ lại tôi biết rằng vui là vì thoáng được sống với một cành phượng hiền hòa hong nắng ngoài hiên trường, vui vì 40 chợt bắt được cái nhịp điệu suông sẻ của một lời rao rất dài... xương hầm bò bo bún bò nem chả trứng vịt lộn chè hột sen ai thời...i...i... vân vân và vân vân. Đi suốt từ Bắc chí Nam, chưa chắc đã có một nơi nào khác dùng chữ thời một cách ngon lành như vậy trong lối rao hàng trên mặt sông. Nhưng mà lại chợt nghĩ ngay rằng những âm thanh, hình ảnh đó, dù cho nay có đứng ngay bên bờ sông Gia Hội, hay trước cổng trường Quốc Học chưa chắc đã đem lại cho mình niềm vui ngày cũ, vì chính mình cũng đã đổi thay. Cái mất mát đó, nó làm cho mình buồn. Cái tiếc nhớ những thứ đó, nó khiến cho mình sầu. Lại thêm cái cay đắng trong hoàn cảnh lịch sử đất nước, nó làm cho mình xót xa. Ngồi với vài người bạn mà chắc chuyện Huế có khi cũng cười vang, nhưng mà ngồi một mình, nghĩ đến Huế, thương lại không được như vậy. Đã hai mươi ba năm nay, tôi không nhìn thấy mặt Huế. Có thấy một đôi hình ảnh qua vài chương trình truyền hình của người Mỹ cũng như của người Việt ở đây. Có nhìn kỹ một vài tấm ảnh mà bà con tôi về thăm nhà chụp được rồi đưa cho tôi xem. Nhưng mà tôi không nhận được cái Huế cũ trong lòng tôi. Cái xa, cái cách trong thời gian và không gian đương nhiên là lý do tạo ra tâm trạng đó. Nhưng mà hình như còn một lý do nào đó sâu hơn trong tiềm thức, thầm kín hơn nữa mà tôi chưa phát giác được. Trở lại Thăng Long vào lúc những công trình xây cất của triều Nguyễn Gia Miêu Ngoại Trang đã được hoàn tất, Nguyễn Du đã thấy cái cảnh: Thiên niên cự thất thành quan đạo Nhất phiến tân thành một cố cung. (ở chỗ ngày trước có những ngôi nhà lớn được xây cất đã từ lâu rồi, nay là đường cái; còn cung điện cũ cũng biến mất, dành chỗ cho một dãy thành mới). 41 Nguyễn Du chỉ khách quan ghi nhận sự đổi thay. Như những câu liệt kê sự kiện trong một bản tin ngắn, thường vẫn thấy trên các nhật báo ở đây. Không có lời bình luận của ký giả. Nhưng mà đọc mấy câu thơ đó, tôi hình dung ra được nỗi ngậm ngùi của thi nhân khi ông nghĩ đến những dinh thự thành quách xây cất từ triều Hậu Lê, loáng thoáng chút bùi ngùi của một niềm hoài cổ, ẩn hiện cái tâm sự riêng mà ông không tiện nói ra. Và cũng vậy, mỗi khi nghĩ về Huế, nhìn kỹ một tấm ảnh chụp những con đường quen thuộc từ Đập Đá xuống Vĩ Dạ, từ cầu Trường Tiền ngược lên Cột Cờ, nay đã được tô thêm nhiều nét mới (đẹp hay không là chuyện khác), lòng tôi vẫn gợn lên một chút xao xuyến trước những đổi thay không tránh được. Nhưng mà tuyệt đối không có được cái thiên tài của Nguyễn Du để gói ghém tâm trạng mình cho đạt được cái hàm súc của ý tứ trong hai câu thơ trên đây, đành phải dài dòng với nỗi buồn của mình. Nghĩ và viết về Huế, chưa bao giờ tôi có dịp dùng đến những tính từ nguy nga, lộng lẫy, tráng lệ, huy hoàng. Không, tôi không có ý chê Huế, không dám chê Huế mình đâu. (Mình mà chê Huế, thì thánh không vật, bà con họ cũng xúm lại mà… “thổ đựng” mình). Tôi chỉ muốn nói rằng những hình ảnh Huế luôn trở về với tôi trong cái mờ mờ nhàn nhạt của một gamme thanh sắc dìu dịu, hơi héo úa, cái loại màu sắc và âm thanh của những thứ loáng thoáng ẩn hiện, tưởng như là mất rồi mà vẫn còn đó. Tiếng chèo nhẹ nhẹ khuấy nước, tiếng chuông chùa trầm lặng, điệu chầu văn lơ lớ nhạc Chàm, màu nước bạc sau ngày lụt lội, tiếng gà trưa xa vắng... luôn đến với tôi trong một tâm trạng tiếc nhớ gần như khắc khoải. Một lần, ngồi nói chuyện với một anh bạn thân người Vĩng Long, tôi tâm sự với bạn về nỗi tiếc nhớ 42 này, bạn tôi nói rằng “tại phần lớn người Huế các cậu đa sầu đa cảm”. Kể cũng có đúng thật. Đừng đi đâu xa, cứ sơ sơ lứa bạn cùng tuổi với tôi, nam cũng như nữ, người nào cũng có ít ra là dăm bài thơ (có bài dấu kín trong tim, nay vẫn chưa viết xuống giấy) ghi lại một nụ cười trao duyên bên cành hoa phượng, hay một cái nhìn không hứa hẹn trên chuyến đò ngang. Chừng đó thôi, chưa chi mà đã thành dang dở, chưa chi mà đã lỗi hẹn hò. Người khó tính với chủ nghĩa, xem những bài thơ đại loại như vậy, thường chỉ liếc qua rồi cho rằng thơ toàn những hình ảnh cũ rích cũ rang, toàn những cái sáo, cái clichés cũ cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chán chết. Nhưng mà riêng tôi thì tôi nghĩ rằng phượng thì cứ gọi nó là phượng, đò ngang thì cứ gọi nó là đò ngang. Không lẽ phải làm một cuộc cách mạng mà đổi hết những hình ảnh thơ mộng của người ta! Mà thật ra người ta chỉ làm thơ thôi, người ta không nuôi cái mộng trở thành thi sĩ. Đọc những bài thơ của “dân” Quốc Học và Đồng Khánh (ít ra thơ của các anh chị bạn cùng một lứa tuổi ngoại sáu mươi của tôi) tôi nghĩ phải sống với cái rung động bên cành phượng, trên chuyến đò Thừa Phủ. Phải đặt mình vào cung cách ứng xử của nhiều thế hệ học sinh, dù học trường Thuận Hòa, Phú Xuân, Hồ Đắc Hàm, Thiên Hựu hay Pellerin, vốn được nuôi dưỡng bằng tinh thần chung của cả nước trong mấy quyển “giáo khoa thư” vô cùng quí báu ở cấp tiểu học. Có như vậy mới bắt được cái đẹp, cái say mê trong vẻ e dè kín đáo của lối tỏ tình thời ấy. Có một chút gì đó - un je ne sais quoi - nó khiến cho những người bạn thơ của tôi không nói hết được những điều muốn nói. Thôi thì đành mượn cảnh mà gửi tình... Ai về nhắn hỏi sông Hương / Sông Hương nước chảy có thường hay không. Thấm thía lạ. Ai là sông Hương trong hai câu lục bát này thì người 43 đó biết, còn không thì thôi bà lôi ai cần! Cho người ta lẫy một chút! Thương mà. Vì nói không được - đếm sao hết những mối tình câm - nói không hết, cho nên tôi nghĩ đa số người Huế đều mang cái tâm sự của một chút gì giống như Đường Tơ Chưa Dứt (Symphonie Inachevée) của Schubert, bản đại hòa tấu không có đoạn thứ ba, không có phần cuối. Nó vấn vương, nó gặm nhấm, nó khiến cho mình thương hoài nghìn năm như cái ray rứt trong câu ca dao tuyệt đẹp nọ. Mà thương đây không hẳn đã là thương người cũ. Mà chính là thương cả trăm nghìn hình ảnh nó xoắn chặt lấy cả “một thời” riêng biệt trong lòng mỗi người. Đọi bún bò, tô cơm hến, dĩa bánh bèo cùng ăn cả nhà mỗi người cảm một cách. Tôi không muốn nói đến cái ngon, cái phẩm chất của mấy món quà sớm quà chiều này, tôi muốn nhắc đến cái hương vị đậm đà của những hình ảnh cũ nó rộn ràng thấp thoáng trong mùi cay của một trái ớt mới xé, trong những màu xanh đỏ tím trắng trên tô cơm hến chưa trộn. Ăn uống vui nhộn với bạn bè ở chỗ đông người thì không nói chi, nhưng mà những lần ngồi một mình, tôi đã chầm chậm nuốt từng mảng quá khứ. Đôi khi thấy nghẹn. “Một thời” trong lòng mỗi người là vậy đó. Nói sao cho hết. Cái tình trong lòng mỗi người đã vậy. Mà cái cảnh ở bên ngoài, vốn gắn liền với bối cảnh lịch sử trong hơn nửa thế kỷ nay, cũng khó mà nhen được một chút ấm áp trong ờng người Huế những khi để lòng về cố đô. Những tiếng súng của chiến tranh mà tôi nghe lần đầu tiên trong đời vào đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, khơi ngòi cho nhiều cuộc binh biến, chính biến có cái sức phá hoại khủng khiếp, thiêu rụi cả một lối sống, một nếp sống, không hẳn đã luôn tươi đẹp đối với tất cả mọi người dân Huế, nhưng mà chắc chắn là hiền 44 lành, đôn hậu. Cái mất mát đó nó làm cho tôi buồn. Tôi không lo Huế không nhận ra tôi, tôi chỉ lo mình nhận không ra Huế nếu một chiều nào đó, một chiều quang đãng ấm áp sau những ngày mưa lụt lội, lại có dịp thả bộ trên đường Hộ Thành, trên dốc Nam Giao. Cách đây cũng đã 25 năm, nhân một lần đến thăm nhà khảo cổ danh tiếng của miền Nam là cụ Vương Hồng Sển bên Gia Định, tôi đã được cụ Vương cho xem một cái bát nội phủ, đường kính chừng 20cm mà cụ nói là hiếm, do đó rất quí, cả nước may ra chỉ còn được một hai cái. Tôi không rành về đồ sứ nên cũng không nhớ nó thuộc thời nào. Đó là một cái bát đã bể ra nhiều mảnh mà cụ Vương đã ra công gắn lại. Miệng bát có vành bạc, thiếu mất một vài mảnh nhỏ mà cụ Sển nói với tôi là người bán lại cho cụ đã vô ý, không lượm cho hết khi cái bát bị vỡ. Tôi nghĩ đến cái bát cổ men bleu de Huế đó khi viết những hàng trên đây. Phải rồi, Huế của tôi là một cái chén kiểu mà lịch sử đập tan ra nghìn mảnh. Không lượm được cho hết những “mảnh Huế” để mà gắn lại cho thành một cái chén xưa là chuyện đã đành. Mà cho dù có gắn được thì cái nhức nhối trên những vết sứt mẻ, vỡ vụn đó... muối xát lòng ai nấy mặn mòi. Có những vết thương đã thành sẹo rồi mà nỗi đau vẫn không chịu tan. Niềm đau, nỗi buồn của tôi có phá giấc ngủ của một người bạn Huế đâu đó, thì tôi cũng đành chịu vậy. Nhưng mà, ai cấm mình nghĩ rằng lời thở than của mình may ra có thể ru cho Huế đi vào một giấc ngủ yên bình, không trằn trọc, không thao thức. Một giấc ngủ không có những cơn ác mộng của nửa thế kỷ vừa qua. 45 “HÀ NỘI” và HÀ NỘI Những điều nghe và thấy trong mấy hôm lang thang qua 36 Phố Phường, ghi trong quyển sổ tay Made in Hong Kong mua tại phố Hàng Điếu đang nằm chờ tôi từ mấy hôm nay mà vẫn chưa có được một chữ nào cho Hà Nội cả. Đối với một thành phố tuy xa lạ mà quen thuộc, tôi chưa biết bắt đầu ra sao cho nó ổn. Rời cái lành lạnh dễ chịu của một ngày thu Hà Nội có mặt Hồ Gươm hơi nhăn trong một đôi đợt gió chiều mang theo nó một ít bụi, rất nhiều không khí ô nhiễm và một làn sương mỏng, rời những thứ đó để bước vào cái thời tiết nóng ấm ngược đời này của một thành phố Los Angeles đang tưng bừng sửa soạn ăn Nô-En, tôi đã hẹn với quyển sổ tay của mình rằng thế nào nó cũng được lật ra, được đọc lại kỹ, được ghi chú thêm những sắc, thanh, hương, vị đã lọt vào giữa những hàng nguệch ngoạc vội vàng có chỗ nay phải cố gắng lắm mới nhận ra mặt chữ. Tôi muốn viết về Hà Nội. Bởi vì tuy không phải là người Hà Nội, tôi đã sống với Hà Nội khá nhiều, dường như có một chút gì đó, ít ỏi lắm mà lại khá mặn nồng giữa chốn nghìn năm văn vật ấy với tôi. Duyên thì có rồi đấy mà nợ thì hình như vẫn chưa vương. Nhưng mà chưa được. Viết chưa được cũng bởi vì mấy hôm, trời nổi gió Snata Ana - một loại gió nóng như nồm bên mình - làm tan hết tuyết trên đỉnh núi miền San Bernatdino, 46 và cuốn luôn theo nó tất cả những gì là đông giá lạnh lẽo của một ngày cuối năm, năm đây là năm Tầy, năm 1998. Những chiếc lá, mấy hôm trước còn ẩm hơi sương, chiều nay, theo cơn gió đến bất thần từ lục địa châu Mỹ đang chạy dài trên hè phố. Trông giống như một cuộc đua xe hơi tí hon của lũ trẻ thường vẫn hay nô đùa ngoài đường gần nhà tôi. Nếu như tôi đang cố tình nặn ra một câu thơ thì dùng cái tính từ tượng thanh xào xạc kể cũng được. Nhưng quả tình, tôi chỉ thấy lá khô queo mà không nghe tiếng lá xiết mặt đường, vì đường luôn nhiều xe qua lại. Có chăng là tiếng gió vi vu qua những loài cây không đổ lá vào mùa đông. Cái thứ tiếng vi vu này, ở vào một ngày lạnh giá, hẳn đã khiến tôi não lòng. Nhưng mà giờ này, trong cái hâm hấp của luồng khí nóng mang theo nó vô lượng cát bụi từ những vùng sa mạc vô biên, tôi thấy rờn rợn. Cái thứ gió nóng này đang khiến tôi nghĩ đến một trận cháy lớn đâu đó, không có thật mà lại rất gần. Hơn một lần, tôi đã cảm thấy cái loại nhiệt khí này trên mặt mũi, thân thể: cái hừng hực của một đám cháy sau một trận pháo kích, một trận giao tranh. Cái loại hơi nóng đã từng phà vào mắt mũi tôi cái cay cay của khói súng vừa mới loãng ra, cái khen khét của chất hữu cơ bị đốt cháy: cái chất hữu cơ trong hình hài con người. Hình hài của con người mà Nguyễn Công Trứ đã từng hỏi, một cách hết sức tự nhiên, không mào đầu bằng một loại triết lý thâm viễn cao siêu nào cả, rằng nó, cái hình hài đó đã chắc thiệt hay chưa, mà lẽo đẽo... Cái chiều liên tưởng của tôi, xét ra, thì nó vẫn không thoát nổi ám ảnh của một cuộc huynh đệ tương tàn kể như là khốc liệt nhất trong bốn nghìn năm ấy. Bực quá đi mất! 47 Chuyện phải trái, chính tà đàng nào thì cũng là chuyện của người đời nay, của hiện tại. Những trang sử được người trong cuộc - cuộc chiến, cuộc cờ, cuộc bể dâu - viết ra mà ghi lại những gì vừa hoặc đang xẩy ra trong lúc này, chẳng qua cũng chỉ mới là bản thảo, bản nháp. Đời sau rồi còn có người gạn lọc qua những sự kiện trong những bản nháp này mà viết lại với cái bình tĩnh, cái độ lượng mà khoảng cách trong thời gian sẽ đưa lại. Tôi đang nghĩ đến cái chín chắn, cái công bình của Lê Quí Đôn trong bộ Phủ Biên Tạp Lục, của Edward Gibbon trong bộ Suy Vong Của Đế Quốc La mã (*), của Tư mã Thiên trong bộ Sử Ký. Cái khoảng cách này trong thời gian, nó cũng có cái công dụng tương tự như khoảng cách trong không gian cần phải có cho người họa sĩ, những lúc anh ta lùi lại vài bước mà nhìn vào tác phẩm đang được thực hiện. Vào cái hồi tôi tập tễnh bước vào cái nghề lang thang của tôi cách đây cũng đã ngoài bốn mươi năm, những ngày túng tiền mà lại đói bạn, tôi vẫn thường tới quấy rầy anh bạn họa sĩ Ái Nhĩ Lan, tóc hung, mà lại có đôi mắt xanh trong vắt, để mà tự pha lấy một tách cà phê, ngồi xem bạn vẽ hoặc vơ một quyển sách trên kệ đọc chán rồi về. Thích nói chuyện thì bạn tôi thẩy mấy cái cọ vào ly nước lạnh, đốt cái tẩu tổ bố lên mà bàn chuyện tình đời ấm lạnh, kim cổ phế hưng. Còn không thì anh để mặc kệ tôi, tự tôi tiếp lấy tôi trong nhà anh. Ngày ấy, bạn tôi là một họa sĩ chưa có tên tuổi nên cũng nghèo. Bạn tôi sống già nhân ngãi non vợ chồng với một người đàn bà hơn anh mười hai tuổi, tên là Deirdre, dạo ấy đang làm việc trong một hãng chế tạo dược phẩm. Tuy lương hậu cũng không cao lắm, nhưng mà được cái Deirgre khéo tém vén, nên họ nghèo mà không túng. Hôm nào bán được một bức 48 tranh mà lại thừa ra chút ít, sau khi thanh toán xong những món nợ mà anh gọi là “khẩn” (urgent) thế nào Bill và Deirdre cũng gọi điện thoại rủ tôi đi ăn cơm Tàu vì họ cho là tôi biết chọn những món không quá nhiều dầu mỡ. Hẹn giờ giấc, địa điểm xong, thường Bill vẫn thòng một câu: “Đó là cái là lý do độc nhất cho sự hiện diện của mày trong bữa cơm tối nay”. Một lần, trong khi tôi đang “nghiên cứu” cái thực đơn viết tay đầy lỗi chính tả tiếng Anh trong cái tiệm nhỏ mà nổi tiếng nhờ món gà hấp ở East End, gần thương cảng Luân Đôn, bạn tôi, sau khi nốc một hơi hết nửa ly bia đen, đã dọn một bộ mặt nghiêm chính rồi trịnh trọng tuyên bố: “Mày cứ gọi thêm vài món nữa. Một tác phẩm vĩ đại khác của tao lại vừa mới lọt vào tay một tên phàm tục. Hồi chiều tụi tao mới làm tình để đánh dấu cái biến cố ấy. Cho nên cả hai đứa đang đói meo”. Quen với cái kiểu tận dụng quyền tự do ăn nói của Bill, nên Deirdre chỉ mỉm cười nhìn tôi mà lắc đầu ra chiều ngao ngán. Ấy vậy nhưng mà cái con người cố ý phát ngôn cái kiểu táo bạo như vậy cốt để làm cho những ai thuộc loại “con gái nhà lành” phải giật nẩy mình, con người ấy cũng tế nhị và sâu sắc lắm. Một hôm, trời tháng tư ở Luân Đôn, nắng mới đang sưởi ấm những cành cây gầy guộc, ẩm ướt thấp thoáng những chồi non mạnh khỏe ứ nhựa, tôi trèo lên con dốc FitzJohn’s Avenue, dẫn lên khu nhà của Bill gần Hampstead Heath, định rủ anh đi ăn sáng. Bill mở cửa, mời tôi vào, chỉ cái đi-văng: “Ngồi chơi. Tao bận vẽ”. Vừa nói Bill vừa lùi mấy bước để ngắm một bức vẽ lớn khoảng hai mét vuông có những khoảng màu sắc mà sơn còn ướt. Biết tính bạn, tôi vào bếp làm cà phê, 49 ở bếp ra, bưng cái khay có đủ hai tách cà phê, đường và sữa, tôi thấy Bill vẫn còn đứng yên chỗ hồi nãy, cách cái giá vẽ chừng ba mét. Thấy cái nhìn của Bill, tuy ngắm bức tranh chưa hoàn tất đấy, nhưng mà đầu óc lại để những đâu đâu, tôi đùa: “Bức tranh rộng thế này chắc Deirdre lại phải xén bớt tiền thuốc cho cái tẩu của mày mà mua sơn. “Tôi dùng tính từ large để tả bức vẽ. Bill nháy mắt: “Cấm nói chuyện. Mà vì nó rộng cho nên tao phải đứng đây mới thấy nó lớn (great).” Nét mặt Bill chợt nghiêm hẳn: “Thật ra, lùi lại vài bước cốt là để cho có được khoảng cách mà nhìn toàn thể bức tranh, trẻ lên ba cũng biết điều đó. Thường những khi tao nhìn một bức tranh đang vẽ, tao tìm tao ở trong đó nhiều hơn. Đường nét, mầu sắc, hình thể dĩ nhiên là nó đập vào thị giác mình. Nhưng mà những khi nhìn như vậy, tao thấy rõ tao hơn để mà thêm, mà bớt, mà tiến, mà lùi, mà sống với cái đam mê của mình trên con đường... đường nào tao cũng không biết nữa, nhưng mà hình như là nó đẹp vô cùng”. Câu nói cũng đã cũ lắm rồi, của người bạn cũ giờ này đang lởn vởn trong đầu, bên cạnh những mẩu Hà Nội trong quyển sổ tay, trong trí nhớ, thị giác và thính giác. Có vẻ như trong tiềm thức, tôi vẫn có ý định để chúng lắng xuống, cho nó có một khoảng cách, cho nó thăng hoa, hay kết tinh lại thành một cái gì đó trước khi viết về Hà Nội, ít ra là cái thành phố Hà Nội của mấy hôm lang thang qua đến hơn một trăm mấy chục phố phường. Cứ 36 mà nhân bốn nhân năm lên thì nó ra con số đó. Bởi vì, có lẽ khác với những người sống đã lâu ở 50 bất cứ một nơi nào, quen nước quen cái đi rồi, ít ai để ý đến những điều nhàm mắt nhàm tai đối với họ nhưng lại là những điều lạ đối với người mới đến. Tôi nhất định sống với cái bỡ ngỡ, cái ngạc nhiên của một người ngoài cuộc mà không phải là ngoại quốc. Một người sẵn sàng tìm mà ghi nhận cái lạ, cái đẹp và cái xấu của một con phố, một góc đường, một ngõ thuôn, một quán bánh cuốn, vào những giờ khác nhau trong một ngày. Tôi nói một trăm mấy chục phố phường là vì vậy. Vào cái giờ này ngồi nhìn quyển sổ tay, cái khó của tôi khi nghĩ đến và nghĩ về Hà Nội, nó nằm ở nơi chỗ tôi đang sống với những thứ vừa quen thuộc vừa xa lạ. Thà rằng có được cái tâm trạng của đôi tình nhân Kim Kiều vào cái đêm hợp cẩn sau mười lăm năm lạc nhau để mà “bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa” cho nó... đơn giản! Cho nó cam! Thà cứ như vậy đi, lại có đủ xúc cảm để cho ngòi bút nó vẫy vùng, tha hồ mà ghi cái đa dạng mà tôi đã thấy trong nội dung nhiều bài viết của những người Hà Nội đã rời cố đô Thăng Long từ hồi hiệp định Genève, hoặc sau nữa, rồi trở lại Hà Nội trong những năm gần đây. Nhưng mà tìm đâu cho ra những rung động đó. Tôi đang nghĩ đến một mẩu chuyện ở phi trường Los Angeles trước khi đáp máy bay đi Saigon. Ra tiễn chân tôi, chú em ruột tôi, vừa đỡ hộ chiếc va-li khá nặng vừa hỏi. “Chuyến này, anh có định đi Hà Nội không?”. Tôi đáp: “Anh về Huế trước, xây sanh phần cho mẹ xong, sau đó, có dư chút thì giờ anh sẽ ra Hà Nội vài bữa”. Nó là vậy đó, cả hai anh em tôi - ít ra là trong tâm tư - đủ “thẩm quyền” để về Huế. Còn Hà Nội thì chúng tôi chỉ mới đi và ra thôi. 51 Tôi đi Hà Nội chuyến này là chuyến thứ hai. Về cái chuyến “bắc du” lần thứ nhất ấy đâu khoảng năm 1939-40, tôi giữ lại hình ảnh một ông bác sĩ Tôn Thất Tùng cao lớn trong chiếc blouse trắng toát, một Ông Thánh Đồng Đen bóng nhoáng như đổ mồ hôi, và mấy thẫu kẹo Tây gây thèm thuồng trong nhà hàng Gô-Đa. Hồi ấy, bà nội tôi đau nặng phải chở từ Huế ra điều trị ở nhà thương Phủ Doãn. Cha tôi tin ở Tây y và thánh thủ của một vị lương y đồng hương, mẹ tôi đặt lòng tin vào một loại Đông y đặc biệt: sức ủng hộ của thần linh nơi đền chùa. Ngoài những giờ mà mẹ tôi đi van vái hết chùa này đến đền khác hoặc phải vào bệnh viện để chăm bà tôi, thỉnh thoảng tôi được một người chị họ nói tiếng Pháp như đầm đưa đi phố. (Tôi nghe những người xung quanh nói vậy chớ ngày ấy ngay cả chữ un là một, tôi cũng chưa biết). Và bây giờ gần sáu mươi năm sau... Từ hồ Thiền Quang, tôi rẽ qua đường Hồ Xuân Hương, ghé vào một hiệu cà phê có ánh đèn lù mù hắt ra từ căn sau, sâu mà hẹp. Sâu mà hẹp như cái ngõ thuôn mà tôi vừa đi ngang qua hồi nãy, thoang thoảng mùi hồi chưa dịu của một nồi nước phở chưa tới, thấp thoáng cái dáng khiêm tốn, nghèo nàn của một quán nhỏ. Hơn mười giờ tối rồi, tiệm cà phê có sân khấu dành cho khách chuộng karaoke đã vắng. Nhạc, vào giờ này là một bài hát nghe loáng thoáng những hẹn hò, những gắn bó cho đến kiếp sau. Còn như đến cái kiếp sau nữa thì có vẻ như người đặt lời ca chưa nghĩ tới hoặc có nghĩ tới mà lại bí, nên tôi nghểnh tai lắng nghe mà không thấy nhắc nhở gì đến cái đoạn có nhiều ẩn số đó. Thôi thì yêu nhau cho trọn được hai kiếp cũng đã là quá thừa thãi rồi. Khách, vào giờ này 52 là một đôi nam nữ, quần jeans xám, áo blouson cứt ngựa, giày Nike - trang phục y chang cái kiểu che thân của thanh niên ở phố Bolsa, California - đang thì thầm trò chuyện bên một chiếc bàn con ở một góc, có ánh nến vàng mà không vàng vọt - cái màu này quả khó tả thật. Xung quanh chỗ họ ngồi là một vùng bóng tối. Cái cảnh na ná như bối cảnh trong lối sáng tối tương phản sắc sảo trong một bức danh họa của Rembrandt. Chỉ có cái khác là không khí xung quanh đôi tình nhân này - cứ cho họ là tình nhân đi cho nó tiện - dường như thân mật hơn ấm cúng hơn. Chủ là một người đàn bà trạc ngoài ba mươi, thân hình gọn gàng, mặt mũi vuông vắn đều đặn, lớp phấn trắng quá - trắng như mặt phụ nữ trong một bức cổ họa Nhật Bản - trên đôi môi dày tô một lớp son đỏ choét. Không có chi đặc sắc ngoài hai bàn tay có những ngón chải chuốt thật dài và thon và ngoài cái giọng Hà Nội với những tiếng được kéo dài ra ở cuối câu nói. Những tiếng sao thế...ế...ế... hoặc ...nhiều quá...á...á... có vẻ như thoáng một chút ngần ngại, đắn đo. Khác với cái sắc gọn trong giọng nói của những anh bạn “Bắc Kỳ Cũ”, cũng như “Bắc Kỳ Di Cư”, thường vẫn cố chống lại sức phá hoại của thời gian sinh sống trên cái phần trù phú nhất của đất nước, nhất định giữ lấy cái “nguyên chất” trong lối phát âm mà ghì chặt lấy cái giọng Hà Nội cũ chính cống (Bà Lang Trọc) của họ. Một anh bạn nay còn thuộc lòng hết các ngõ ngách của Hà Thành đã than với tôi là dân Hà Nội bây giờ là “người ở đâu ra ấy!” Thôi thì ở đâu ra cũng được, miễn là người Việt với nhau còn hiểu nhau khi sử dụng tiếng mẹ đẻ là được rồi. Tôi lật đật viết thêm câu sau đây: ít nhất cũng còn hiểu nhau qua tiếng mẹ đẻ, còn như hiểu nhau ở những điều mình nói ra bằng tiếng mẹ đẻ, ở thời kỳ và giai đoạn này của lịch sử nước nhà, hình như lại là chuyện 53 khác. Đọc mấy chữ Thiền Lưu Quang cỡ lớn, màu đen, nét chữ chân mà hơi đá chút hành thư, bên một lớp vôi màu trắng mới được quét lên bên ngoài cái kiến trúc cổ ấy ngay bên bờ hồ, tôi đã nghĩ rằng, đường phố mang tên người như Nguyễn Trường Tộ, Lê Văn Hưu vân vân thì không nói làm chi, còn như những địa danh có hai hoặc ba âm tiết, lâu đời, người mình vẫn rút ngắn lại cho nó... gọn, thành ra bây giờ chỉ còn là hồ Thiền Quang. Ngay cả những địa danh chỉ có hai âm tiết như hồ Hoàn Kiếm mà qua những lần trò chuyện với người Hà Nội cũ và mới, tôi để ý thấy cái tên Hồ Gươm vẫn thông dụng hơn. Ở Huế, chợ Dương Nỗ bây giờ là Chợ Nọ, ở Nghệ An, cửa Hoàng La là Cửa Lò... cả nước thiếu gì những địa danh Hán Việt có kèm theo một cái tên đơn tiết cộc lốc thuộc loại “tục gọi là...”. Và tôi nghĩ rằng nếu có một cái gì dân chủ nhất trong đời sống lâu bền của một dân tộc thì đó là ngôn ngữ. Cái loại dân chủ này, nó không cần biết đến thuyết phân quyền của Montesquieu bên Pháp hay là hiến chương Magna Carta của nước Anh. Địa danh nào mà người thường dân không thích hoặc thấy lỉnh kỉnh là họ tìm cách tránh né hoặc lược đi, hoặc nói trại đi. Ngày còn nhỏ, tôi đã nghe được trong lối nói của một đôi gia đình quí tộc ở Huế, hai tiếng “nhãn châu” để chỉ một thứ trái cây. Và cũng cái quả đó, ra ngoài vườn hay ra chợ, nó là trái măng cụt. Giờ này ra chợ Đông Ba mà hỏi mua một chục “nhãn châu”, nếu không gặp phải cái hàm hồ hàm chứa của o bán hàng trên sạp trái cây, thì chắc cũng bị cho là sống lâu bên Mỹ nên nay đã hơi điên! 54 Duyên còn có thể ép được ở vào cái thời mà cha mẹ đặt đâu con ngồi đó - thường những cuộc phối ngẫu như vậy, người con gái vẫn bị thiệt thòi - nhưng mà chữ nghĩa của dân gian thì...đố! Bởi vì, nó ương ngạnh lắm mà ương ngạnh trúng cách, nó luôn đòi quyền sống. Cả cái Hàn Lâm Viện Pháp mà thành phần gồm những bộ óc uyên bác mệnh danh là Bất Tử (Les Immortels) ngày đêm lo đặt ra những từ mới, chận đứng những từ ngoại quốc được / bị nhập cảng “bất hợp pháp”. Nhưng mà không xong. Báo chí Pháp hiện nay vẫn sử dụng một số danh từ và động từ gốc tiếng Anh bởi vì người dân Pháp đã quen dùng. Chữ nghĩa từ trên áp đặt, nhét vào miệng người dân, nếu họ không thích thì tùy ở cái mức độ tự do có được trong chính thể của nước họ, hoặc là họ nhả ra, hoặc là họ nuốt trộng, nuốt lốn, hoặc là họ cứ ngậm mà không nuốt! Ngoài cái luật đào thải của thiên nhiên, có vẻ như còn có luật đào thải của con người nữa. Nói chon gay, ngồi bên ly Black Label trong cái quán karaoke này ở đường Hồ Xuân Hương, tôi không muốn đánh một vòng qua Pháp, qua Anh, qua lịch trình biến hóa của một thứ ngôn ngữ nào cả. Chẳng qua cái cố tật lang thang ngoài đời của tôi nó đưa tôi đi lung tung, nó hiện ra trong cái lối viết lách của tôi như vậy. Có cố giấu cũng không được, mất công. Cứ viết đi đã rồi nó ra sao thì ra. Chữ “nó” ở cái câu mà tôi vừa viết, tôi không biết nó đại diện cho cái chi. Bước vô định mãi trên đường Tràng Thi, nhìn hàng cây sấu ở vào cái lớp tuổi đủ già để chứng kiến mọi biến cố trọng đại của lịch sử từ năm 1945 đến nay, tôi đã nghĩ đến hàng kem Zéphyr, Quán Nghệ Sĩ, phòng trà Tuyết Sơn... những cái tên mà anh bạn nhạc sĩ Lê 55 Trọng Nguyễn đã từng tả cho tôi nghe vào một buổi chiều ở California. Một buổi chiều mà lòng của cả hai chúng tôi đang chùng xuống rồi rười rượi theo một niềm hoài tư dai dẳng sau khi nhắc đến cái buồn lê thê trong một câu vọng cổ. Buổi chiều hôm ấy, vào cái lúc mà lượng rượu trong chai whisky đặc sản miền Tô Cách Lan đã vơi gần hết một phần ba, tôi nghĩ về tiếng nức nở của một ngón đàn nguyệt của một người nghệ sĩ tài hoa nghèo xơ xác, lê một cuộc đời không có ánh sáng - cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - vì ông là một nhạc sĩ mù, dưới một nếp tranh dột nát xiêu vẹo bên ngoài chùa Tra Am, gần núi Ngự Bình. Còn bạn tôi, tác giả bản Nắng Chiều, hôm ấy đang nghĩ về và nhớ đến...thiếu thời hoan lạc sự...đến... những ngày Hà Nội. Anh nói rất nhiều về cái Quán Nghệ Sĩ, nơi anh đã gặp nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát lần đầu tiên trong đời - một cuộc gặp gỡ đánh dấu một mối tình bằng hữu nghệ sĩ bất chấp cả mọi thứ ở trên đời này, kể cả ý thức hệ chính trị ở số nhiều... Dọc bờ Hồ, tôi đã định tìm một người lớn tuổi để tò mò hỏi xem Quán Nghệ Sĩ ấy ngày trước, nó nằm ở chỗ nào. Nhưng mà...thôi... bởi vì lớp sóng lăn tăn bên một bờ Hồ Gươm vào một đêm có chút ánh sáng trăng yêu ớt không địch nổi với đèn phố, có chút gió lành lạnh, cái lớp sóng ấy, dù không phải là sóng phế hưng, nó vẫn nhắn với tôi rằng, gì thì gì, dù rằng bờ Hồ hơi vắng bóng liễu, thì con đường vòng quanh bờ Hồ này đã, đang và sẽ là đề tài cho bao chuyện vui, buồn, thương tiếc. Người Hà Nội của thời tiền chiến - tôi muốn nói trước năm 1945 - như nhạc sĩ Trần Văn Nhơn đã từng than vào hồi đầu thập niên 50 rằng hồ xanh nay vẫn xanh nhưng liễu xưa ven hồ đâu tá, còn người Hà Nội của năm 1998 về sau này, chừng một hai cuộc dâu bể nữa, tiếc cái chi đây? 56 Xưa nay, tôi chúa ghét những thành phố không có sông hồ mà Los Angeles là một thí dụ điển hình. Lái xe hàng cây số không thấy đâu một giọt nước của ông Thợ Tạo! Nói ra thì gánh lấy tiếng một con người bạc bẽo với cái nơi nó đã dung được mình, nó đã cầm được chân mình cũng khá lâu, nhưng mà nếu không vì cái gánh thê nhi, nếu không vì chuyện mưu sinh thì cứ đoan chắc một trăm mốt phần trăm là tôi đã tếch đi nơi khác từ lâu rồi. Thành phố gì mà có chỗ thẳng tấp hàng mấy dặm không có lấy một bóng cây cho người ta nhờ. Có được đôi cái hồ nhân tạo con con thì lại toàn là những vòi nước chỉ thiên ngay hàng thẳng lối, trông như đội giàn chào nghiêm chỉnh đứng chờ một vị nguyên thủ quốc gia nào đó, có nước đấy mà không có nổi cái sinh động của nước. Không phải ngẫu nhiên mà những giòng nước trong loại cổ họa sơn thủy của Trung Quốc không bao giờ là một đường thẳng cả. Đi bộ trên các đường lớn của thành phố Thiên Thần này, tôi đã từng có những phút khát khao thấy cho được một bờ sông có in bóng một giáo đường, một ngôi chùa cổ, một rặng núi, một hàng cây, những thứ nó làm cho gạch đá xung quanh nó “đỡ” vô tri, nó thổi vào những bức tường vôi cát một loại sinh khí nào đó. Và cũng vì đã lâu lắm cái thiếu thốn đó nó ẩn tàng trong tôi, cho nên đứng bên bờ Hồ tôi hân hoan ghi nhận cái vẻ dịu dàng, cái vuốt ve, cái gợi cảm của làn sóng nước thấp thoáng ánh điện đường. Tôi hiểu được cái dịu ngọt của một muổng kem mà những đôi thanh niên nam nữ thời trước đã từng chia xẻ với nhau, tôi thấy được những tà áo của Thu trong Bướm Trắng, của Phượng trong Hoa Vông Vang dịu dàng phấp phới trên Phố Hàng Ngang, Hàng Đào. Tôi hiểu được - dù không có kỷ niệm ở Hà Nội để mà cảm 57 - cái xao xuyến, rung cảm của người trước. Nhưng mà... hình như là Tháp Rùa vẫn còn soi bóng trên hồ đấy chứ. Dĩ nhiên, như tôi đã để ý vào buổi sáng đầu tiên tản bộ bên bờ Hồ, có cái nghèo nàn trên một gánh khoai lang, một rổ khoai từ, khoai sọ bên cạnh cái sang trọng của một bộ áo quần thể thao đắt tiền trên thân thể cường tráng của một vài thanh niên đang vung tay vung chân cho nó giãn gân giãn cốt. Tiền đâu cho họ sắm sửa cái lối trang phục giá đến hàng trăm đô la ấy không phải là điều thắc mắc của tôi vào lúc này! Có cái thiếu ăn của một người ngồi cho thuê một cái cân tự động, nhẫn nại chờ cho những người đang chạy nhảy, những người thừa calorie bước lên cái cân kiếm sống của mình. Có hàng ngàn hàng vạn cái tương phản giữa cùng khổ và xa hoa. Nhưng mà tôi không phải là một thông tín viên của nước ngoài viết về Hà Nội. Mà thật ra đem cái rách rưới đặt bên cạnh cái nhung lụa của một thành phố thường là một đề tài mà những tay mệnh danh là nhà báo nước ngoài thường vẫn sử dụng hoặc khai thác. Chả là - xin được phép dùng đến một cái thành ngữ ở đầu lưỡi của người Hà Nội - chả là, trong nghề thông tin, bài vở có kỳ hạn của nó, nó tương đương với hồi trống ngoại hạn mà sau đó người cử tử thời trước không nộp quyển được nữa. Đã hơn hai chục năm nay, tôi không còn làm cái nghề dễ đứng tim ấy nữa và tôi cũng không dám mỉa làng tôi đâu - dù là làng cũ - nhưng mà sự việc nó còn sờ sờ ra đây này: Ở Sàigòn, vào thời kỳ có cuộc Nam Bắc phân tranh ác liệt nhất ở thế kỷ thứ XX này, có lúc có đến hàng trăm thông tín viên ngoại quốc đêm ngày lóc cóc gõ vào máy viễn ấn mà không bị kiểm duyệt. Đa số lại toàn là dân ù ù cạc cạc về lịch sử Việt Nam. Trên 58 nguyên tắc thì ngày nào cũng có phải có bài gửi về cho cơ quan của họ cho đúng giờ đúng giấc. Những lúc tình hình chiến sự tương đối không có chi là sôi nổi, những lúc mà Mặt Trận Miền Tây Hoàn Toàn Yên Tĩnh, nói như cái nhan đề của danh tác ấy, họ viết về cái gì? Họ viết về tệ nạn xã hội như tham nhũng, mãi dâm, trộm cắp, cướp giựt. Riết rồi, độc giả của họ ở các nước thấy Sàigòn qua cái nhìn phiến diện ấy. Họ có ác cảm với miền Nam chăng? Không. Tại Bangkok, Jakarta, New Delhi, Phnom Penh tôi thấy họ cũng làm y chang như là ở Sàigòn. Nghĩa là hết chuyện viết thì cứ đè cái tương phản giữa đói với no mà gõ là chữ nó tuôn ra ngay. Vô thưởng vô phạt đối với cơ quan của họ. Mà lại còn khơi được cái từ tâm của độc giả trong nước họ vốn no ấm hơn. Còn dạo ấy, sức mấy mà họ dành thì giờ cho một xa lộ Đại Hàn mới mẻ trơn tru, một cố gắng khuếch trương Đại Học Huế trong chiến thời, một kế hoạch tu thư của Đại Học Vạn Hạnh, một nỗ lực tăng năng xuất điện của đập nước Đa-Nhim vào thời ấy! Sức mấy! Hình như tôi đang bực mình vì điều mà tôi cho là sự bất công, thiếu vô tư của các bạn đồng nghiệp cũ người nước ngoài đối với đất nước tôi. Còn tôi, về nước để mà viết về cái chênh lệch quá rõ ràng giữa những người rủng rỉnh và những kẻ không có đồng xu dính túi tôi hơi ngài ngại. Dĩ nhiên, ngại không phải vì tội sợ chạm đến những kẻ không có đủ lý do pháp lý để biện minh cho cái giàu của họ, cũng như những kẻ, trên nguyên tắc, có bổn phận lo cho người dân được no ấm. Nhưng mà viết về cái cơ cực mà tôi thấy tận mắt, nghe tận tai trong mấy tuần lễ đi đây đi đó trong nước, tôi thấy có chút gì nó hơi bất nhẫn. 59 Mà nghĩ lại, cũng không trách mấy ông bạn ngoại quốc của tôi hồi đó. Họ chưa đọc Vũ Trọng Phụng nên họ chưa thấy những Nghị Hách, những Xuân Tóc Đỏ thời trước hiện vẫn còn trường thọ ở bên ngoài sách vở. Họ chưa đọc Nguyễn Đình Lạp nên cái nghèo ở ngoại ô Hà Nội họ cho là mới. Nói cho ngay, nằm ở bên ngoài cái mảnh đất rộng ba mươi mốt vạn hai nghìn cây số vuông ấy, ai muốn viết gì thì viết, quyền của người ta... Nghề thế, việc nhà, có điều điếm nhục cho gia phong mà người ngoài xía vào... tôi thấy nó không được ổn. Cần phải thêm ngay rằng, tuy thực tâm nghĩ như vậy, nhưng tôi chưa bao giờ tin tưởng ở tính chất pháp lý và kết quả tốt của cái gọi là xử lý nội bộ... Nhìn những công trình xây cất mới, nào là khách sạn, cao ốc, bin-đinh tôi đã nghĩ đến những món nữ trang mà một người đàn bà sẵn có nhan sắc kiều diễm đeo vội vào cổ, vào tai, vào tay vì tiệc tùng bắt đầu rồi, trễ quá rồi, có so đo lựa chọn nhưng mà không phải lúc nào cũng chín chắn, không phải lúc nào những “đồ phụ tùng” ấy cũng “đi” với cái toàn thể của đường nét, màu sắc trên thân thể. Những công trình ấy, tôi hy vọng rằng chúng đã được xây cất theo một cái kế hoach nào đó trong một chương trình thiết kế đô thị mà tôi chưa có được cái nhìn toàn diện. (Tôi không muốn nói đến những biệt thự của tư nhân trên đê, nay có cái đã được triệt hạ. Cũng nên!) Nhưng đặt chúng nằm chình ính giữa khung cảnh cổ kính của một thành phố được dựng lên từ khi có Rồng Vang nổi lên mà báo điềm lành cho ông Lý Công Uẩn, tôi thấy có chút gì nó sai sái. Bên cạnh và ở ngoài châu thành Hà Nội thiếu gì chỗ. 60 Rồi thì đến những quán cóc đủ loại hàng quà nhô ra, thụt vào nhan nhản trên các đường phố, những cửa tiệm, cửa hàng mà bề ngang có chỗ chỉ có hai mét là nhiều. Những lề đường chật xe gắn máy không có chỗ chen chân đã khiến tôi nghĩ rằng, trong hình học mặt phẳng, đoạn thẳng không phải luôn luôn là khoảng ngắn nhất giữa hai điểm. Chưa nói đến trăm thứ khác như rác rưởi, phân người, cứt chó nó vẫn đi theo cái sinh hoạt thương mại thiếu tổ chức đó như bóng với hình. Cống rãnh, suốt mấy ngày không có mưa, tôi thấy có chỗ vẫn có đọng... Tôi là một người chưa hề, và có lẽ sẽ không bao giờ đặt niềm tin của tôi vào một chủ thuyết chính trị nào cả, tôi chỉ tin ở quyền sống của con người, của mỗi người, của từng người trong một tập thể... Tôi ngưng viết mà tự xét lòng mình rồi thấy nó như vậy vì tôi vừa nghĩa: “Sao lại không dẹp bớt hàng quán, xe cộ, sắp xếp lại, tổ chức lại cho phố xá nó được nở mặt nở mày, cho xứng với caí tên nghìn năm văn vật?” Nghĩ vơ thì nó là thế, nhưng mà nghĩ vẩn thì... sống, ai lại không muốn ngoi lên. Ngay cả cái số rất ít, trong mọi tập thể, đã ở nơi cao ráo mát mẻ rồi mà còn muốn ngoi lên thêm một chút xíu nữa cho được thoáng thêm chút xíu nữa - nhà Phật gọi đó là cái tham - huống hồ là số đông trong bóng tối đang cố ngóc đầu mà chưa biết có nổi hay không. Những người buôn thúng bán mẹt, những gánh quà rẻ mạt, những quán lụp xụp bên vệ đường, tôi biết họ thuộc số đông đang cố tìm một chút ánh sáng, họ đang kiếm sống một cách lương thiện. Họ có quyền làm ăn như vậy. Sức mấy mà tôi lại tính đến chuyện truất cái quyền ấy của họ! Nói cho ngay, tôi lý luận cù nhầy với chính tôi như vậy chẳng qua là tại tôi hơi tiếc rẻ cho cái đẹp của Hà Nội. Mà Hà Nội đẹp thật. 61 Tuy không phải là một người đã từng thấy cái thời mệnh danh là vàng son của Hà Nội trước đêm mồng 9 tháng ba năm 1945, cái đêm mà hoàng quân Nhật sáp nhập bán đảo Đông Dương vào một vùng lãnh thổ to lớn mệnh danh là Đại Đông Á, nằm dưới quyền thống trị của họ, nhưng tôi đã sống với Hà Nội qua sách vở, báo chí, âm nhạc và một số khá đông bạn bè “ở ngoài nớ” mà tôi chơi thân từ thời còn nhỏ. Tôi biết Hà Nội giàu sang thanh lịch, nhờ vào tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Đỗ Tốn... tôi sống với Hà Nội thơ mộng qua Thế Lữ, Nguyễn Bính... thưởng thức món ăn Hà Nội với Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, tôi xót xa cho kẻ nghèo khó ở Hà Nội với Nguyễn Đình Lạp, Tô Hoài, Nguyên Hồng... Tôi hiểu cái lối cười của người Hà Nội qua Tú Mỡ, Hà Thượng Nhân... Tôi thân thiết với cách nói năng hàng ngày của người Hà Nội, kể cả mấy tiếng chửi thề mang tính cách nhất thống của ngôn ngữ. Những tiếng chửi thề có một mẫu số chung cho cả ba miền Trung Nam Bắc: chúng bắt đầu bằng hai chữ cái đầu tiên của danh xưng một nước Bắc Âu, nước Đan Mạch! Tiếng xe cộ rầm rộ quá, thêm vào đó là khí ô nhiễm hữu sắc và vô sắc phun ra từ hàng nghìn chiếc xe vào giờ tan sở làm tôi hơi ngột thở, không lắng nghe được tiếng thở than của hồn thu thảo! Nhưng mà tôi đang dừng lại ở thành Cửa Bắc. Loáng thoáng trong đầu những âm thanh cũ trong một câu hát, quen thuộc tự thiếu thời, trong bài Thăng Long Hành Khúc Ca của Văn Cao... này thành Cửa Bắc cũ, ngậm ngùi màu rêu phong, Miếu Văn Trường Thi hoài u cuộc tồn vong... Tôi nhìn kỹ một loài cây dại cằn cỗi mà mạnh mẽ trổ ra trên những chỗ nứt nẻ, lở lói của những viên gạch cổ, trông giống như loại cây bồn tài của người Nhật, 62 nhưng mà sù sì hơn, hoang dại hơn. Tôi không biết di tích cuối cùng này của thành Hà Nội, bị người Pháp san bằng khoảng cuối thế kỷ trước, đâu khoảng năm 1894-95, từ ngày ấy có được sửa chữa thêm thắt chi không, nhưng mà cứ cho rằng đây là những viên gạch đúc và nung từ thời triều Nguyễn Gia Miêu xây lại thành Thăng Long khoảng năm 1810-1812, cứ cho như thế đi thì quả là nó cổ thật. Ngót hai trăm năm chứ không ít. Bao nhiêu là công, là sức, là kỹ thuật, là nghệ thuật bỏ vào đấy. Chuyện tốn công tốn của để mà xây một cái thành kiểu Vauban, ở đây không bàn đến. Bởi vì có thể lại đặt ra vấn đề phong kiến bóc lột sức lao động, phung phí tài sản đất nước vân vân, đối với tôi không những nó đã nhức đầu mà còn vô bổ nữa! Nói cho ngay, không có phong kiến thì đào đâu ra Vạn Lý Trường Thành, ra Kim Tự Tháp cho người đời nay bò đến tận nơi mà tấm tắc, mà trầm trồ, cho người dân Trung Quốc và Ai Cập đi đến đâu cũng có quyền ưỡn ngực ra, vác mặt lên mà tự hào về những công trình vĩ đại ấy của ông cha họ. Nhìn ngắm những mảng rêu, những vết sứt mẻ trên chút tàn tích, chút di thể của một vòng thành mà ngày trước hẳn là kiên cố, lòng tôi gợn lên một chút sóng hoài cổ, một phút cảm hoài. Tôi chưa từng chứng kiến một màn nào, một cảnh nào của cái cuộc hí trường trên thành xưa phố cũ ở đây, tôi không có được cái đau đứt ruột của Bà Huyện Thanh Quan, nhưng mà hình như lòng tôi đang chùng xuống trước cái thờ ơ nếu không hẳn là lãnh đạm của người đời nay và biết đâu của người đời sau nữa. Tôi không muốn nói đến cái đám đông xe cộ hằng ngày rầm rập qua lại Cửa Bắc, nhưng mà nhìn rác rưởi dưới chân thành, áo quần phơi dọc phơi ngang bên ngoài những gian nhà bên cạnh và 63 phía trên thành, tôi đã nghĩ rằng nếu mà cái đống gạch sắp đổ nát này nằm ở Luân Đôn, La mã, hẳn nó đã được dành cho một khuôn viên riêng, nó đã có cái ngai riêng của nó, được chăm chút cẩn thận hơn, kỹ lưỡng hơn. Chỉ có hai thước vuông ở chỗ một bà hoàng hậu vợ vua Henry VIII bị hành quyết tại Tower of London bên bờ sông Thames, mà cái gống Hồng Mao vốn được ngoại quốc trọng nể một phần nhờ vào lòng tôn trọng truyền thống dân tộc, di tích lịch sử của họ, cái giống Hồng Mao này đã khoanh chỗ ấy lại để làm dấu, có bảng ghi lời chỉ dẫn hẳn hoi. Tôi hơi buồn khi nghĩ rằng nét duyên dáng già nua này, thành Cửa Bắc này, phiến cổ lũy này của một Hà Nội cổ kính biết đâu lại không sắp sửa bước vào thiên cổ. Tôi vừa sực nghĩ rằng tôi đã từng thích một thành phố, một thắng cảnh nào đó, như tôi đã từng thích Kuala Lumpur, Angkor Wat, mà không cần phải biết một tí gì về những nơi chốn ấy, thích khơi khơi vậy thôi. Dĩ nhiên là có biết thêm được chút đỉnh về sinh hoạt của địa phương, về quá trình xây cất vân vân nhưng mà hời hợt lắm. Thích nhìn, xong rồi “bái bài”, không có nặng tình khứ lưu chi cả. Lúc chia tay những du khách cùng đi một chuyến xe buýt, hoặc tình cờ gặp gỡ, tôi chưa bao giờ cảm thấy caí nhu cầu của một bài lưu giản. Tay chân có táy máy thì lại cũng chỉ gõ ra được một bài thuộc loại tiểu dẫn trong một quyển sách bỏ túi dành cho khách du lịch. Có lẽ vì lòng mình nó đã dửng dưng ngay từ trước khi thấy cảnh. Nhưng mà đối với Hà Nội, cũng như đối với tất cả mọi nơi khác trên đất nước, tôi chưa bao giờ là một khách du lịch, một người đi chơi đây đó, đi xem... cho biết. Dù muốn dù không, tôi cảm thấy tôi sống, tôi cảm thấy tôi là một phần của những nơi chốn mà tôi đặt chân lên và đảo lại, chúng là một phần của tôi, bất 64 luận dưới chính thể nào. Hiểu theo một chừng mực nào đó, mà hiểu theo lối nhìn của một tông phái Phật giáo, khi đứng suy nghĩ về những viên gạch, tự thân chúng nó đã là nặng rồi, nay lại chở thêm trọng lượng của ngóy hai trăm năm nhiều biến cố, tôi không biết tôi là khách hay là chủ, bởi vì có lẻ như khách với chủ là một. Cái mất mát của chủ cũng là cái thiệt thòi của khách và đảo lại. Nói cho ngay, lo (?) cho số phận của mấy viên gạch nọ rồi tôi nghĩ quanh nghĩ quẩn vậy thôi, chớ còn, thế thường, cái số người mua vàng để tích trữ mà phòng xa phòng gần, mà lo cho cái “bách niên thân” của họ xưa nay vẫn nhiều hơn số người tiếc lục tham hồng mà sưu tầm cổ vật. Nói có vong linh cụ Vương Hồng Sển, ông vua chơi đồ cổ của Sàigòn, cả nước nay đào ra cho được một người như cụ, kể cũng gay. Bãi Chợ Hàng Da. 11 giờ sáng. Ồn ào là chuyện dĩ nhiên. Đã gọi là chợ mà. Thêm vào tiếng người huyên náo từ thủa con người biết họp chợ mà buôn bán, lại còn tiếng động cơ của đủ loại xe hai bánh, tiếng còi inh ỏi cao thấp - mà không phải là trầm bỗng - của năm 1998. Nói điếc tai thì có vẻ hơi nói quá đi một chút, nhưng mà nhức óc thật. Lắng nghe những mẩu đối thoại xung quanh: có điểm dăm tiếng được các nhà làm tự điển liệt vào loại tục. Không cần ghi lại. Cũng không cần viết ra. Đã là người Việt tự khắc biết! Hàng hóa, nói theo kiểu một thằng bạn cũ gốc Thanh Hóa, mê man ra. Ngoài thịt thà, rau rá, hoa quả, trà lá, kể như chín mươi phần trăm là hàng nhập cảng. Có những thứ tình không biên giới: tình nhân loại. Có những y sĩ không biên giới: lòng nhân đạo. Có luôn cả hàng hóa không biên giới: hàng lậu. Đi đâu mà biết được rằng đó là hàng lậu? Thì cứ giở báo Nhân Dân, 65 báo Tuổi Trẻ ra, viết bằng tiếng nước ta, bằng chữ quốc ngữ hẳn hoi. Cứ cái đà này rồi thì đến những năm đầu của thiên niên kỷ sắp tới, thế giới đại đồng là cái chắc. Biên giới giữa các nước chỉ còn là những đường xanh đỏ trên địa đồ. Đang ung dung tự tại mà ngoạn cảnh, bỗng - cũng đã lâu lắm mới phải dùng đến cái chữ bỗng này - có người vô ý (mong như vậy) hắt toẹt một chút cặn cà phê vào đôi giày Reebok mới mua trước khi về nước. Vẫn biết cà phê nằm trong ly không có gì là bẩn thỉu cả. Nhưng mà khi nó dính vào giày trắng thì chiếc giày có vẻ không được sạch sẽ lắm. Tức. Chờ đợi một tiếng xin lỗi. Chỉ thấy một cái cười. Tôi nghĩ đến câu nói nổi tiếng của ông Nguyễn Văn Vĩnh: “An Nam ta cái gì cũng cười” Quả có đúng thật. Hòa cả làng vậy. Người ta cười mà mình khóc là mình để lộ nhược điểm của mình rồi. Không nên. Cố thản nhiên nhưng không biết có thành công hay không. Soi mặt mình vào mặt kính trên một cái tủ nhỏ đựng kéo cắt móng tay, đồng hồ quartz, ví da bỏ túi, nữ trang giả... thấy mình thành ông Lưu Bị: vui mừng buồn giận không lộ ra mặt. Sực nghĩ rằng đây là lần đầu tiên tôi đứng soi gương giữa chợ. Hy vọng là lần cuối. Mua xong cái bật lửa Made in Taiwan của cô bán hàng chào mừng đon đả, nói năng nhã nhặn, giọng có hơi đá chút âm thanh vùng quê của thiên tài Nguyễn Du, tôi bước ra khỏi chợ, dạo qua dạo lại Phố Hàng Da đến mấy lần. Bởi vì câu nói của ông Nguyễn Văn Vĩnh đã khiến tôi nghĩ đến An Nam Tạp Chí do Tản Đả chủ trương hồi thập niên 30. Tôi tò mò mà nhìn kỹ từng số nhà trên Phố Hàng Da, mong được thấy một cái biển lưu niệm ghi địa chỉ báo quán của tờ An Nam Tạp Chí mà, như lời Nguyễn Vỹ kể lại, ngày trước tọa lạc ở Phố này. Nhưng mà không có. Lại định hỏi một 66 bậc cao niên, nhưng quanh quất không có ai. Những người ở cái lớp tuổi biết đích xác An Nam Tạp Chí nằm ở đâu, nếu có còn, cũng lơ thơ lắm. Biết đâu mà thăm hỏi. Tôi nghĩ đến cái nghèo túng lúc sinh thời của nhà thơ vùng Bất Bạt, đến những thúng chữ nghĩa ế ẩm giữa cái chợ đời đầy đen đỏ mà vắng hẳn một đôi mắt xanh. Tôi nhớ đến hai câu lục bát mà Nguyễn Vỹ nói đã liếc mắt coi lén trên tờ giấy mà Tản Đà để trên bàn, vào cái hôm ông tìm đến báo quán của An Nam Tạp Chí: “Đi ra rồi lại đi vào / Vẩn vơ chỉ tốn thuốc lào mà thôi”. Thời ấy, giá thuốc lào có cao lắm không? Tôi không biết. Nhưng mà những chuyến đi ra đi vào trong căn phố nhỏ nào đâu đây, trên con đường này, hẳn không phải đã là vô bổ. Giữa hai lần khói thuốc lào mà Tản Đà phải hút một cách dè sẻn, sợ hao tốn, biết đâu lại chẳng phải là những tứ, những vần, những chữ mà có chỗ hay đến lạnh cả người... Vèo trông lá ruing đầy sân. Cái chữ vèo này, hay cho mà hay ác rứa không biết! Thiệt là tuyệt diệu hảo từ. Cảnh thì tấp nập người, xe. Con đường hẹp do đó dâm ra chật chội. Nhưng đó cũng là cái duyên dáng của những khu phố cũ hoặc cổ tại khắp nơi trên thế giới. Nắng thu thì vàng dịu. Màu sắc thì tươi. Tôi mở máy hình, chụp một vài “pô”. Cố ghi lại một phút mặc niệm. Cái mớ tóc bạc của bậc thi sĩ tửu đồ ấy, mà tôi được thấy qua di ảnh của ông trong quyển Thi Nhân Việt Nam, cứ ám ảnh tôi mãi, như là hình ảnh khổ lụy của một đấng tài hoa bất đắc chí. Tôi rẽ vào một hiệu sách trên một đường phố gần Chợ Hàng Da, hỏi mua một bộ Tản Đà Vận Văn, dù ở nhà tôi đã có một bộ rồi. Tôi muốn đánh dấu một lần gặp gỡ bậc thiên tài mệnh bạc ấy, gặp gỡ trong tâm tư những mà ở ngoài 67 đời thì quá là “tại” báo quán của An Nam Tạp Chí phố Hàng Da. “Thưa, không còn quyển nào cả. Sách của Tản Đà lâu nay không có tái bản. Mà cứ mỗi lần in ra là bán hết ngay”. Lời người chủ tiệm sách. Thôi, biết vậy cũng hay. Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ. Tôi chắc chắn là tiên sinh đã lầm khi người hạ câu đó trong một phút chán nản. Sinh tiền thì như vậy, mà tử hậu như thế này. Bậc trích tiên ấy đã trở về ngôi rồi. Tôi tin vậy. Ở nhà người anh họ ra về, người anh họ mà tôi đã gặp lại sau hơn năm mươi năm của cả lớp người chẳng may phải sống với nước mắt nhiều hơn mà tiếng cười, tôi nghe gió cuối thu Hà Nội về đêm lạnh hơn mấy hôm trước cũng vào khoảng giờ này. Suốt buổi tối, hai anh em tôi ngồi nhắc chuyện cũ ở Huế. Hình như những chuyện vật hoán tinh di kỷ độ thu, chuyện vật đổi sao dời thu mấy độ, thường nó vẫn khiến lòng tôi trùng xuống. Tôi rảo bước cho ấm người, đi về phía Hồ Gươm. Con đường Bà Triệu về khuya thênh thang quá. Người công an trước cổng Cơ Quan Xây Cất Thành Phố Hà Nội ngồi thu hình trong cái “điếm canh” chật chội của thế kỷ thứ XX chỉ vừa đủ chỗ cho một người, mấy hôm nay nhìn người khách lạ này của Hà Nội qua lại đã nhiều lần thành ra quen, thoáng một nét cười chào hỏi. Tôi cũng đáp lễ bằng một cái huơ tay vô thưởng vô phạt, không thân mà cũng không sơ. Lề đường rộng mà nhiều chỗ có ổ gà, về đêm khó thấy nên phải cẩn thận lỡ mà sỉa một cái rồi sái chân sái cẳng, hỏng cả một chuyến ra Thăng Long mà cho đến giờ này vẫn được song suốt cả. Đến bờ Hồ, hình như gió có thêm phần lạnh. Nhìn một đôi cái bóng vụt lướt qua bên tôi, tôi thấy áo quần họ có vẻ đủ ấm, giày 68 tất cũng che được những bàn chân không mà ngày trước, kể như là ở khắp nước, tôi đã từng thấy đã phải đầm trong nước, trong bùn lạnh vào những ngày mưa gió, lạnh giá. Ở miền thôn quê ra sao tôi không được biết nhưng mà quanh quẩn ở những con đường chính tại Hà Nội, ít thấy những cảnh rách rưới khổ mắt. Thôi, như vậy cũng đỡ cho mình bị gặm nhấm bởi cái mặc cảm của một người may có được cả no lẫn ấm, cái thứ mặc cảm thường vẫn đưa mình đến một loại suy nghĩ có khuynh hướng dẫn mình đi hơi xa, đến những vấn đề có tính cách xã hội chẳng hạn, nhiều khi đi thẳng luôn đến những câu hỏi có tính cách siêu hình của tôn giáo nữa, nếu mình không biết thắng gấp. Riêng về cái khoản này, tôi biết rõ tôi hơn ai hết. Chút lòng trắc ẩn bẩm sinh thì tôi có. Còn như cái đức vị tha to lớn cần có để dấn mình vào một số việc làm được gói ghém trong ý nghĩa của một số danh từ và động từ to lớn cũng không kém, tôi chịu mua. Đứng trước những việc làm trọng đại như hy sinh cho công việc này, cho tương lai của chuyện kia, cho ngày mai của cái này, ngày mốt của cái nọ, tôi thắng gấp. Mà hình như càng lớn tuổi, cái bộ thắng này nó càng tốt. Đạp nhẹ một cái là bốn bánh lập tức ngừng xoay. Cũng may mà cái nhân loại này nó có người này người khác, chứ ai cũng giống như tôi cả thì hỏng. Hết nhìn mặt hồ đen thẫm thấp thoáng và lấp lánh một đôi vệt sáng ngoằn ngoèo của một ánh đèn khuya đâu đó, tôi lại ngắm Tháp Rùa bất động, lặng lẽ từ cái phút nó vừa được kiến tạo xong. Tôi nghĩ đến cái đứt ruột của một người Hà Nội cũ, đến Vũ Hoàng Chương “Ôi thôi khoảnh khắc đâu thành bể / Gươm Báu Rùa Thiêng cũng đoạn trường”. Tôi nghĩ đến nỗi buồn của một danh sĩ miền Nam, ông Đông Hồ, khi ông trở lại 69 Hà Nội khoảng đầu thập niên 50 “Bão táp tơi bời trời cố quốc / Gió mưa ủ rũ đất danh đô”. Thì ra thi nhân xưa nay vẫn thích tiêm vào thớ gỗ vào gân đá cả nỗi đau của mình. Mà ai bảo rằng mộc thạch đã tuyệt đối là loài vô tri vô giác. Bởi vì ngày xưa... đâu đó trong một quyển sách Thiền xem lướt qua cũng đã lâu lắm rồi, tôi đọc thấy có những phiến đá đã từng gật đầu khi được hỏi về ý nghĩa một lời Kinh. Nhưng mà hãy tạm gác cái giây phút liễu ngộ kia của loài đá. Tôi dùng chữ liễu ngộ này với cái dè dặt thận trọng của một người phàm là tôi, mang nặng cái nhục thân trong đó ngũ uẩn luôn ở trong thời kỳ cực thịnh; dè dặt là vì tôi chỉ biết lờ mờ về cái nghĩa của hai chữ liễu ngộ mà cũng vì trong hơn sáu mươi năm nay, tôi chưa bao giờ thử ngồi Thiền xem nó ra sao. Thú thật, tính tôi lau chau, ngồi một chỗ không yên. Tạm gác chuyện đá nghe Kinh mà trở lại với Rùa Thiêng và Gươm Báu, với trời cố quốc, với đất danh đô. Trước đây, tôi chưa từng sống ở Hà Nội một ngày nào nên tôi chỉ biết được cái đau của Vũ Hoàng Chương của Đông Hồ mà tôi không cảm được cái lý do sâu xa đã gây xốn xang, xót xa trong lòng họ. Nhưng mà qua cái “biết” của tôi về Hà Nội, tôi được chuẩn bị. Tôi có sẵn một Hà Nội ở trong tôi để mà so sánh với Hà Nội cụ thể trước mắt. Và tôi cũng không hiểu tại sao sự so sánh đó mấy hôm nay lại làm tôi hơi buồn. Mộng không như thực chăng? Hai chú cháu ngồi trong một quán nhỏ gần vườn hoa Chi Lăng, nếu tôi nhớ không lầm (trong quyển sổ tay tôi quên ghi tên công viên). Bà chủ quán trẻ tuổi - trẻ hơn tôi là cái chắc - có một mái tóc ngắn thật đen thật dày mà sợi lại nhỏ. Cái thứ tóc này mà để dài xuống quá bờ vai chừng năm bảy phân thì tha hồ mà 70 nó bồng bềnh trong gió thu Hà Nội, mà gợi được rất nhiều những cái thứ thơ diễm tình cho những ai chỉ thích ngắm tóc mà không để ý nhìn những khoản khác trên thân thể một người đàn bà. Tôi không thuộc số đó. Biết cháu tôi thích uống rượu mạnh, tôi nhờ bà chủ quán chạy đi mua một cáhi Martell. “Bây giờ như vậy là khá lắm rồi đấy chú ạ. Cách đây mười mấy năm, lắm hôm chỉ một viên thuốc đau bụng mà cả nhà chạy ngược chạy xuôi mới kiếm ra. Hàng quán dọc phố đâu được nhiều như bây giờ. Ở đây, bây giờ chỉ có thiếu tiền thôi, chứ có tiền chú muốn mua gì cũng có”. Lời người cháu xa bên ngoại, mấy hôm vẫn đưa tôi đi chơi đây đó. Chú cháu suýt soát tuổi nhau mà về cái khoản nhậu thì chú lại phải nhường cháu đến mấy bước, không ỷ vào vai vế mà bắt nạt ai được, bởi cháu tôi thuộc loại hủ chìm. Bây giờ là ly Martell thứ tư rồi. Rượu trong người cháu tôi nó bắt đầu tỏa, men bắt đầu ngấm, và nó bắt đầu bốc. “Xem nào. À, hồi 70-71 ấy à. Cháu ở bên Lào. Bộ đội mà. Trên có lệnh đi đaư thì mình đi thôi. Cháu về hưu cũng đã lâu rồi. Xem như là thất nghiệp. Đi lính đâu có phải là một cái nghề. May nhà cháu xoay xở cũng tàm tạm. Già rồi chú ạ. Có muốn làm gì cũng không được. Vốn liếng không có, chữ nghĩa bằng cấp cũng không”. Đi chơi với nhau mấy hôm, có lần tôi đã hỏi lướt qua hoàn cảnh của người cháu có một cái đầu bạc cũng không kém gì những sợi cước trên đầu tôi. Tôi nghĩ cháu tôi vì tự trọng mà không trả lời một đôi câu khá tò mò. Tôi biết cháu tôi không muốn tôi thương hại, không muốn tôi tội nghiệp, sợ tôi hiểu lầm mà nghĩ rằng anh có ý nhờ vả, xin xỏ. Cho đến cái ly thứ tư này thì... sóng rượu thường vẫn có khả năng xoáy 71 tận vào những chuyện sâu kín nhất trong lòng người. Mấy hôm ăn uống với nhau, tôi biết cháu tôi uống nhiều nhưng mà không nát rượu. Càng uống mặt cháu tôi càng tái, càng chì ra, mà sắc diện lại càng lì lợm. Vậy mà chiều nay, sóng rượu lại cuốn lên đầu lưỡi một mảnh chuyện lòng, một câu nói có vẻ như tự nguyện kể tâm tình. Tôi nghĩ rằng tôi đoán đúng cái nguyên nhân nó khiến cho cái tính cứng cỏi lộ rõ trên gương mặt rắn rỏi của người cháu nó miềm đi, dù chỉ trong giây lát: Nguyên từ trong quán nhìn ra, chúng tôi thấy được Cột Cờ Hà Nội. Hai người đàn bà mà ngồi tâm sự hoặc ngồi lê với nhau thì có khi hằng nửa tiếng họ không ngớt tiếng, cứ như là buổi phát thanh tối của đài BBC vậy. Không phải đàn ông ít lời hơn, nhưng mà khi hai người đàn ông ngồi đối diện nhau mà ở giữa lại là một cái ấm trà, hai cái lọc cà phê hay là hai ly rượu thì có khi họ cũng im lặng được mà chuyên, mà rót, mà pha, mà chế. Vào một phút ngừng nói và ngừng say, tôi đã nhìn vào cái màu cổ đồng, của một loại rượu sản xuất từ một vùng đất nổi tiếng ở miền Nam nước Pháp, trong cái ly đã gần cạn của cháu tôi để rồi thấy rằng cháu tôi uống khỏe thật, đi đấu tửu với Đoàn Công Tử được chứ không phải giỡn đâu. Ngước nhìn lên mặt người cháu nhuốm một nét phong trần rõ rệt, tôi cũng nhận ra một vẻ chán chường lúc này đang hiện ra sau một làn khói thuốc xám mà đặc. Tôi tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở: “Thế những năm trước ngày mất nước, à quên, xin lỗi, trước ngày giải phóng anh ở đâu”. Cháu tôi nhìn tôi, nở một nụ cười độ lượng, thông cảm: “Chú mất cái gì cháu không biết nhưng mà... cháu có được gì đâu”. 72 Có vẻ như muốn tránh cái nhìn hơi quá tò mò của tôi, anh quay ra nhìn lên Cột Cờ. Tôi cũng nhìn theo. Chúng tôi im lặng rất lâu. Ngắm một đám mây vật vờ qua kỳ đài, tôi đã tự tách mình ra khỏi những tiếng động xung quanh tôi trong cái quán nhỏ đã bắt đầu đông người, tiếng ly tách lóc cóc và lách cách, tiếng kéo ghế xê bàn lạch xạch, lẹt rẹt, tiếng chửi thề không chát chúa lắm nhưng mà cũng hơi khó nghe. Tôi hát thầm một câu khác cũng trong bài hành khúc nọ của Văn Cao... Cột Cờ còn kia, Cột Cờ còn đó, xác xơ hoàng hôn lạc loài trên đài cao... Đó là cái ngậm ngùi của người thơ yêu nước trong lòng nhạc sĩ Văn Cao khi ông viết ra câu này dưới thời Pháp thuộc. Còn tôi, giờ này, ngồi giữa một thành phố Hà Nội vừa trải qua nhiều đổi thay - chữ vừa này, xin hiểu theo nghĩa tương đối - âm ư một câu hát mà nghĩ đến một cái cột cờ khác. Lần về thăm cố đô Huế giữa những ngày khói lửa cách đây cũng đã ba mươi năm, đứng trước cổng trường Quốc Học, nhìn qua Cột Cờ và cửa Ngọ Môn bên tả ngạn giòng Hương, tôi cũng có bồi hồi mà “lai láng” một đôi vần khi nghĩ đến những chính biến, binh biến tự ngày thất thủ kinh đô năm Ất Dậu vào thế kỷ trước. Bài thơ cũng khá dài nay tôi quên gần hết cả chỉ còn nhớ được dăm câu mà khi viết xong tôi lấy làm sướng lắm. Trích thơ mình trong một bài viết của mình thật ra là một điều mà tôi vẫn cho là cấm kỵ, vẫn cố tự chế. Nhưng mà, nói như câu danh ngôn nọ của Oscar Wilde: “Tôi có thể chống lại mọi thứ, trừ sự cám dỗ”. Xin được phép đầu hàng trước sức cám dỗ của tính khoe khoang: Kỳ đài cờ đổi bao nhiêu lá Ngũ Phụng lầu trơ nét đế vương Vàng phai son nhạt thôi thôi vậy 73 Lăng tẩm rêu phong đáng vẫn Rồng. Còn cháu tôi? Tôi quay sang, thấy anh đang nhìn sững vào lá cờ trên kỳ đài. Cái ngôi sao vàng năm cạnh ấy có lẽ đang khiến anh nghĩ đến những hăm hở, những hy sinh của anh, của bạn đồng đội, những ngày thiếu thốn, khó khăn, của những bà mẹ, của những người vợ, người em gái. Danh từ trừu tượng để làm hiển dương cái thành quả của sự hy sinh của cả một lớp người xung quanh anh thì nhiều lắm, đếm không hết. Nhưng có vẻ như phần thưởng cụ thể cho những người đã từng đóng góp cả một cuộc đời mình cho những thành quả ấy, mà may còn sống sót, còn đủ cả tứ chi và ngũ quan, lại ít ỏi quá. Một đồng lương hưu không đáng kể so với vật giá ở Hà Nội, chút liêm sỉ còn sót lại nó không cho phép anh làm những điều xằng bậy, xét theo tiêu chuẩn luân lý trong mấy quyển Giáo Khoa Thư, và những ngày thoi thóp, lây lất được nhờ cả vào cái tài xoay xở của một người vợ. Tôi nghĩ đó là cái tâm sự của cháu tôi khi nhìn lên Cột Cờ Hà Nội mà thốt ra câu nói chán nản trên đây. Tôi bỏ dở miếng dồi phơm phức mùi rau húng quế trong đĩa long chay - ở Huế, đĩa lòng heo không có huyết mang cái tên hiền từ và thanh đạm là lòng chay - thật bùi béo. Tôi nốc cạn ly rượu. Trong đầu tôi có hình ảnh cả hàng trăm quán, gánh quà sớm quà chiều, cả hàng trăm người đàn bà gánh gồng, bưng, xách, rao, mời, dọc đường phố, bãi chợ. Bên dưới những cái nón che mưa nắng hai mùa ấy là những gương mặt thanh có, thô có, lanh lợi có, chậm lụt có, đẹp có, duyên dáng có. Khác nhau cả đấy, nhưng mà cùng có chung một nét nhẫn nại ở trong thế ngồi hầu như là bất động vào những giờ ế ẩm, trong cái góc độ hơi nghiêng nghiêng cúi xuống của những mái đầu đã quen chịu đựng. 74 Tôi nghĩ đến người vợ đảm đang của cháu tôi, đến những người vợ người mẹ của bạn bè tôi, của thân nhân tôi trong thời kỳ chồng con bị đi tù cải tạo ngoài Bắc này ở những địa danh mà nay nhắc đến, người ta liên tưởng ngay đến Côn Lôn, Lao Bảo, người ta có đủ kinh nghiệm bản thân để mà xếp chúng lên trên cả những chốn đầy ải kia của thực dân Pháp, nếu chỉ xét sơ sơ về kỹ thuật hành hạ thể xác và tinh thần những người bất hạnh lọt vào đó. Tôi nghĩ đến cái tần tảo đáng kính và đáng phục của những người phụ nữ hay lam hay làm thắt lưng bó que. Các bà Phan Thanh Giản, bà Nguyễn Khuyến, bà Tú Xương, bà Phan Bội Châu, bà Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, kể sao cho hêt. Và tuy mủi lòng trước một cuộc sống mà hậu vận không được sáng sủa lắm của cháu tôi và của nhiều người khác nữa quen biết và không quen biết, đâu đó trong tôi vẫn thấp thoáng chút ánh sáng của lạc quan, có thể là lạc quan một cách vô ý thức, đứng trước cảnh thiếu thốn, nghèo khó của đa số trên cái giang sơn gấm vóc này trên đó có Hà Nội. Có chú cháu tôi. Có tôi đang ngồi bên một miếng dồi ngon, hơi chuếnh choáng vì bây giờ đã là ly Martell thứ ba rồi, mà lại là một ly nguyên chất, để mà triết lý vẩn vơ về lẽ cùng thông của vạn vật: đâu đó trong một bản Kinh Dịch Việt ngữ tôi nhớ có hiểu được sơ sơ cái đoạn nói rằng vật cùng tắc biến vân vân... Góp phần trực tiếp vào cái biến dịch vô hình chậm rãi và chắc chắn trong một chu kỳ từ chỗ cùng đến chỗ thông ấy, ngoài hằng trăm yếu tố khác nữa hữu hình và vô hình, vẫn là cái đức hy sinh nhẫn nại muôn thủa của những người đàn bà đáng kính phục kia. Ở đây không bàn đến cái nguyên nhân tại sao lớp phụ nữ này lại phải thay chồng hoặc đỡ cho chồng mà 75 xốc lên vai gánh lấy cái gánh nghìn cân ấy, vì ở đây không đặt câu hỏi ai gây dựng cho nên nỗi này. Nhưng mà, nhìn sức chịu đựng dai dẳng của lớp phụ nữ tầm vóc nhỏ bé này - bề cao trung bình không quá 1m55 - lòng tôi gợn lên một chút thương cảm, đồng thời cũng nghe nhẹ rung lên đâu đó tiếng réo rắt của một điệu nhạc vui: họ tô cho Hà Nội một nét sinh hoạt thật sống động. Và tự nhiên tôi thấy Hà Nội đẹp lạ. Cùng với những thành phố khác ở những nước kém phát triển, chậm tiến, Hà Nội có rác rưởi, có lưu thông vô trật tự, có không khí ô nhiễm, nhưng mà riêng tôi, tôi thấy Hà Nội vẫn đẹp qua cái sức sống hiện rõ trên và tiềm tàng trong những đôi vai mạnh, yếu, dẻo dai, gầy gò, xương xẩu của những người đàn bà khi xông xáo trong nắng sớm, dưới sương chiều, lúc lầm lũi bên đèn đường lù mù, trên ngõ thuôn lầy lội. Đó là những cái đầu cúi xuống để cho những người thân yêu có cơ được hiên ngang ngẳng lên trong cái tư thế làm dân - vâng, dân cũng có tư thế - và làm người. Nếu những cái đầu đang cúi xuống ấy không phải là một phần của sức sống của cả một dân tộc thì nó là cái gì? Mới sáng hôm nay, vừa ra khỏi khách sạn, tôi đi về phía phố Mai Hắc Đế để tìm một ly cà phê thật - tôi vẫn gọi cà phê bột khuấy tan vào nước sôi là cà phê giả - để mà chuẩn bị cho một ngày lang thang nữa của tôi ở Hà Nội. Ở góc phố Nguyễn Du và phố Bà Triệu, một em gái chừng mười lăm mười sáu tuổi mời tôi mua bó cúc vàng thật tươi, cánh thật nõn, lá dưới cuống mọng nước. Tôi hỏi giá. Nhưng mà tôi không mặc cả, vì tôi không biết đàng nào mà mặc cả. Một phần là cũng tại tôi sợ bị hố đã đành mà một phần cũng do ở nơi cái nhìn của tôi đối với cuộc đời: tôi không giàu nhưng mà đời ra giá bao nhiêu thì tôi trả bấy nhiêu và đảo lại, những thứ mà tôi bày ra giữa 76 phiên chợ đời, tôi không bao giờ chịu bớt một xu, những lúc hiếm hoi có người hỏi mua. Tôi lên mặt thạo: “Cúc trồng ở vùng Nghi Tàm đấy à?” “Thưa không ạ”. “Vậy ở vùng Nghi Tàm bây giờ còn trồng hoa không?” “Thưa cháu cũng không biết nữa ạ”. Mấy tiếng “thưa” và “ạ” rất tự nhiên, không gượng gạo ở đầu và cuối hai câu nói của em gái bán hoa, tôi nghe rõ lắm. Tôi mừng. Tôi nghĩ rằng những xung đột quân sự và đấu tranh chính trị trong hơn năm mươi năm qua trên đất nước đã hủy hoại bao nhiêu là cái đẹp trong đời sống con người Việt Nam, trong sự sống của thiên nhiên, nhưng cũng may là chúng chưa tận diệt lối nói năng lễ độ, nhã nhặn và lịch sự cố hữu tự nghìn xưa. Cái phong cách này của một dân tộc vốn là một thứ rất cần cho cuộc sống thường nhật: nó làm cho đời sống dễ chịu hơn, do đó cuộc sống một phần nào cũng bớt ngột ngạt, nó có cái khả năng giảm stress. Hồi nãy, nhìn mấy bó cúc tôi đã nghĩ đến Nghi Tàm, đến quyển Gánh Hàng Hoa của Khái Hưng. Một cái cò lặn lội trong tiểu thuyết. Một cốt chuyện có hậu. Còn ngày mai của em gái này rồi ra sao đây? Tôi nhìn theo người con gái bán hoa vừa đẩy cái xe đạp vừa mời một vài người bộ hành khác. Trông mớ cúc ở cái giỏ lớn trên cái porte-bagage có vẻ đang với nhanh. Em gái hơi gầy này mà đáng lẽ ở một hoàn cảnh khác, giờ này phải được ngồi trong lớp học hoặc chơi ngoài sân trường, quay lại nhìn tôi cười thật tươi, thật hiền lành, thật dễ thương khi thấy tôi vẫn đứng yên bên hè phố mà ngắm thấy đóa cúc. Lòng tôi vui vui. Tôi trở lại khách sạn, mượn một cái lộc bình nhỏ cắm đỡ mấy 77 đóa cúc. Dưới ánh nắng thu trong vắt xuyên qua kính cửa sổ, mấy đóa cúc xinh quá sức tưởng tượng. Nhìn hoa, tôi đã nghĩ rằng trong thi văn, mà không cứ là chỉ có thi văn Việt Nam, hoa thường vẫn được dùng để tả cái xinh tươi của một thiếu nữ. Giờ này tôi muốn nghĩ rằng nụ cười hồn nhiên của em gái bán hoa kia còn xinh gấp mấy lần những đóa cúc nõn nà trên những đài hoa màu lục đậm mang sẵn cái tuyệt hảo của thiên nhiên. Mà tôi cũng không bao giờ ngờ rằng giữa cái dòng “ngựa xe” này ngay giữa thành phố Hà Nội ở vào cái giờ rất nhộp nhịp này, tôi lại có dịp suy nghĩ rất lâu và cũng rất lung về một nét đẹp của đất trời bên cạnh một vẻ hồn nhiên của một nụ cười. Từ một trong những biệt thự này, bây giờ được người ngoại quốc thuê làm sứ quán của họ, trên con đường này trong một khu vực mà ngày trước hình như được gọi là khu phố Tây, đã lâu lắm rồi, tôi đã nhận được rất nhiều những lá thư ngoài bì có dán tem hình Quốc Trưởng Bảo Đại, Hoàng Hậu Nam Phương, những bức thư dài kể chuyện mưa thu, chuyện nắng hè Hà Nội, chuyện Chùa Keo Chùa Trầm phong sương dầu dãi, chuyện Hàng Ngang Hàng Đào tấp nập, chuyện bún ốc nguội đậm đà, cốm đầu mùa thơm phức, chuyện Na-Sầm Điện Biên mịt mù lửa khói... Không viết ra thành lời, nhưng mà những tờ thư màu xanh da trời ấy cũng có chuyện lòng, có một mối tình ở cái tuổi đôi mươi. Suốt mấy năm trời, cứ đến dịp hè là một tuần hai lần đều đặn, tôi lại có dịp đọc chuyện Hà Nội. Nếu tôi nhớ không lầm thì người ấy cũng đọc được rất nhiều về Nam Giao, Bến Ngự trong những bức thư tôi gửi ra từ Huề. Ngôn ngữ thời ấy, coi vậy mà có vẻ dè xẻn với những động từ dính dấp đến chuyện yêu thương. Người ta gửi tình vào: “ô mai sấu 78 ngon lắm, hôm nào rentrée, Loan đem vào anh ăn thử”. Người ta không chờ thư, người ta chỉ nói chuyện thời tiết: “Thấy báo nói phi trường Phú Bài bị ngập, chắc lại không có những chuyến bay Huế-Hà Nội”. Người ta mong mùa thu tới, không phải để mà sầu, mà nhớ, mà vì thu là mùa khai trường, là lúc chúng tôi gặp lại có dịp trông thấy nhau, chỉ để mà nhìn nhau giữa cái sân trường rộng thênh thang ấy. Quá rộng. “Lá trên cành cây mà Loan không biết tên gì đã bắt đầu vàng rồi, vui lạ”. Trời đất! Vậy mà cũng gần năm mươi năm rồi Loan ơi! Tôi bước chậm lại giữa con đường này có những ngôi nhà kiểu Pháp, cổng có treo cờ ngoại quốc. Trời tối nên tôi không trông thấy rõ, nhưng mà tôi biết người công an trước cái cổng kia đang chăm chú nhìn tôi. Thôi thì cũng là phận sự của người ta. Các hữu kỳ phận, ai có phần người ấy. Hơi đâu mà bực mình. Một cơn gió mạnh lào rào qua hàng cây bên đường. Tôi đưa tay giữ lại cái mũ cát-két suýt bị gió thổi bay, vuốt lại mấy sợi tóc vướng trên trán và sực nhớ rằng đầu mình đã bạc hết rồi. Đã mười mấy năm nay, ngày ngày mỗi sáng soi gương chải đầu, tôi thấy đấy mà không chú ý cho lắm đến màu tóc của tôi. Vậy mà bây giờ, hình như cơn gió bất thần đâu đó tạt qua con đường này của một thành phố Hà Nội nhuốm thu đã khiến tôi nghĩ rất nhiều về cái đổi thay của sắc màu trên mái tóc mà Lý Bạch đã dùng để tả bước đi vùn vụt của ngày tháng. Phải rồi... triêu như thanh ti, mộ như tuyết... sớm còn là những sợi tơ xanh đó mà chiều đã là những đóa tuyết trắng xóa rồi. Và trong cái khoảng “sớm chiều ấy”, bao nhiêu là chuyện. Chuyện chúng mình, chuyện đất nước, chuyện trong lòng, chuyện ngoài đời... Tôi hát thầm câu cuối trong một bài nhạc của Vũ Thành...nghẹn ngào thương... nhớ...ớ... e...e...em...Hà 79 Nội ơi...i...i... Cũng phải nhiều duyên nợ lắm với một thành phố, nhạc sĩ mới gọi nó là em., mới hạ được một chữ em thần tình như vậy. Còn tôi, hình như duyên thì chỉ mới chớm mà nợ thì... Ngôn ngang quá tâm sự ơi! Loan ơi! Hà Nội ơi! “Mai là tôi đi Sàigòn rồi”. Tôi lặp lại câu nói đó đến lần thứ hai rồi mà cái anh nhân viên này của một công ty du lịch, có đôi mắt thật sắc, vẫn cứ nằng nặc, nhất định mời tôi đi Chùa Hương cho được. Nguyên có mấy người Pháp trong khách sạn thuê xe của công ty X. để đi Chùa Hương, mà theo chỗ tôi biết thì hình như là cứ có thêm khách cùng đi chung trong một chuyến xe như vậy, thì người nhân viên này lại kiếm thêm được chút đỉnh. “Sáng đi chiều về, còn kịp chán. Ông đi chơi cho biết. Xem nào, bây giờ là tám giờ mười...” Người thông ngôn của công ty cũng nói vào: “Vâng, mời ông đi cho biết. Mấy thủa ông từ bên Mỹ về chời...” Tôi nhớ đến cái lì lợm của một số người bán xe hơi bên Mỹ, dai như đỉa đói. Thật ra đi cũng được, nhưng mà lỡ xe cộ chết máy dọc đường, hụt chuyến máy bay đi Sàigòn thì rầy rà lắm. Vì tôi có hẹn với hai người bạn cũ ở Sàigòn, không được may mắn như tôi. Hai anh bạn cũng đã từng ra Bắc, nhưng mà trong một hoàn cảnh khác, không có thì giờ ghé Hà Nội, họ đi thẳng lên Hoàng Liên Sơn và ở lì trên đó đến sáu bảy năm cho đến khi thân tàn ma dại mới chịu về. Chuyến này tha hồ mà hàn huyên. Vẫn biết đây là cái “thủa” thứ nhất mà tôi có dịp đi thăm Đệ Nhất Động, nhưng mà Hương Sơn Phong Cảnh còn đấy chứ có ai bưng nó đi chỗ khác đâu. Thôi để chuyến sau, nếu lại có dịp về nước. Tôi đang nghĩ thầm như vậy thì cái anh có đôi mắt sáng quắc không 80 """