"
Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider - Anthony Horowitz full mobi pdf epub azw3 [Tình Báo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider - Anthony Horowitz full mobi pdf epub azw3 [Tình Báo]
Ebooks
Nhóm Zalo
ANTHONY HOROWITZ
ĐỈNH TUYẾT
TRYỆN PHIÊU LƯU DÀNH CHO THIẾU NIÊN NGƯỜI DỊCH: TỊNH THÚY
THỰC HIỆN EBOOK: HOA QUÂN TỬ
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
I
RƠI XUỐNG
Chiếc xe hơi vẫn chở ông đi làm vào bảy giờ mười lăm phút sáng là một chiếc Mercedes được chế tạo theo đơn đặt hàng, có bọc thép và các ô cửa đều được lắp kính chống đạn. Tài xế của ông là một nhân viên FBI đã về hưu, lúc nào cũng thủ trong người một khẩu súng lục Beretta tự động và rất thành thạo cách sử dụng nó. Từ chỗ chiếc xe hơi dừng đến lối vào tòa nhà Roscoe, nằm trên Đại lộ số Năm ở New York, chỉ cách nhau có năm bước chân, thế nhưng những chiếc camera được gắn vào hệ thống truyền hình cáp vẫn theo sát ông ta trong từng cử động. Các cánh cửa tự động nhẹ nhàng khép lại sau lưng ông; một tay bảo vệ mặc đồng phục - có trang bị vũ khí - dõi theo khi ông băng qua phòng lớn, bước vào thang máy riêng.
Chiếc thang máy riêng của ông có những bức vách lát đá cẩm thạch trắng muốt, một tấm thảm màu xanh dương, một tay vịn màu bạc, và không có nút bấm nào cả. Ông Roscoe đặt bàn tay của mình lên một ô kính nhỏ. Bộ phận cảm biến đọc vân tay của ông, kiểm tra lại chúng và kích hoạt thang máy. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại, thang máy lên thẳng một mạch tới tầng thứ sáu mươi. Không một ai có thể sử dụng nó. Mà nó cũng không bao giờ dừng lại ở bất cứ tầng nào trong tòa nhà. Trong lúc thang máy đi lên, các nhân viên tiếp tân ở tiền sảnh bắt đầu nhấc điện thoại, thông báo cho tất cả nhân viên trong tòa nhà biết rằng ông Roscoe đang đến.
Mọi người làm việc trong văn phòng riêng của ông Roscoe đều đã được lựa chọn một cách cẩn thận và xem xét chặt chẽ, kỹ lưỡng cả về lý lịch lẫn chuyên môn. Không bao giờ có thể gặp ông mà không hẹn trước. Hẹn trước rồi thì phải ba tháng sau mới được gặp.
Khi người ta giàu, người ta phải cẩn thận. Cuộc sống có nhiều người kỳ quặc lắm, những kẻ bắt cóc, những tên khủng bố - liều lĩnh và cướp bóc. Ông Michael J. Roscoe là chủ tịch Tập đoàn điện tử Roscoe và là người thứ chín, hay thứ mười, giàu nhất trên thế giới, thế nên ông rất cẩn thận. Từ lúc chân dung ông Roscoe xuất hiện trên trang bìa tạp chí Thời đại (Vua điện tử), ông biết rằng mình đã trở thành mục tiêu của nhiều người.
Khi ở chốn công cộng, ông bước đi rất nhanh, đầu cúi xuống. Mắt kính râm ông chọn phải che được nhiều nhất gương mặt tròn trịa và bảnh
trai của ông. Bộ complê ông Roscoe mặc rất đắt tiền nhưng vô danh. Nếu đến nhà hát hay đi ăn tối, thì vào đến phút chót, ông mới đến, ông không hề thích phải đi quanh quẩn đâu đó. Cuộc sống của ông có hàng tá hệ thống bảo vệ khác nhau, mặc dù chúng làm ông khó chịu, nhưng ông đã biến chúng trở thành thói quen.
Hãy hỏi bất kỳ một điệp viên hay nhân viên an ninh nào đi. Thói quen là thứ có thể giết chết người ta. Nó báo cho kẻ đối địch biết rằng ta sẽ đi đâu và khi nào thì ta tới đó. Thói quen sẽ giết chết ông Michael J. Roscoe, và hôm nay là ngày thần chết đã chọn để gọi ông.
Lẽ tất nhiên, ông Roscoe không hề có ý niệm gì về chuyện này khi ông bước ra khỏi thang máy mở thẳng vào văn phòng riêng của mình, một căn phòng rất to chiếm lĩnh một góc tòa nhà với những cửa sổ kéo dài từ sàn tới trần nhà, trông ra hai hướng: Đại lộ số Năm ở hướng đông và một phần của Công viên Trung tâm ở hướng Bắc. Hai bức tường còn lại có một cửa ra vào, một kệ sách thấp và một bức tranh sơn dầu đơn độc - một bức tranh vẽ bình hoa của họa sĩ Vincent van Gogh.
Các vật dụng trên mặt kính đen ở bàn làm việc của ông được sắp xếp gọn ghẽ: một máy vi tính, một sổ tay bọc da, một máy điện thoại và một tấm ảnh của cậu bé mười bốn tuổi nằm trong khung hình. Khi cởip chiếc áo vét-tông ra và ngồi xuống, ông nhận ra mình đang nhìn vào bức ảnh của cậu bé. Tóc vàng, mắt xanh, và có tàn nhang. Paul Roscoe giống bố mình như đúc hồi ba mươi năm trước, ông Michael Roscoe năm nay đã bước vào tuổi năm mươi hai và bắt đầu nhận ra tuổi tác của mình, mặc dù nước da ông vẫn rám nắng quanh năm. Con trai ông cao gần bằng bố. Tấm hình này chụp vào mùa hè năm ngoái, trên đảo Long Insland. Họ đã trải qua những ngày lênh đênh trên biển. Sau đó là bữa ăn đồ nướng trên bãi biển. Đấy là một trong những ngày hạnh phúc mà họ đã có cùng nhau.
Cửa mở, người thư ký bước vào. Helen Bosworth là người Anh. Cô rời nhà, dĩ nhiên, cả chồng nữa, để đến và làm việc ở New York; cô yêu mỗi phút giây ở đây. Cô đã làm việc trong văn phòng này được mười một năm rồi, và trong suốt quãng thời gian đó, cô chưa hề quên một chi tiết hay phạm một lỗi lầm nào.
- Xin chào ông Roscoe - Cô lên tiếng.
- Chào cô, Helen.
Cô đặt xấp tài liệu lên bàn ông.
- Số liệu mới nhất từ Singapore. Dự toán về tổ chức R-15. Ông có bữa trưa với Thượng nghị sĩ Andrews lúc mười hai giờ rưỡi. Tôi đã đặt chỗ ở Ivy.
- Cô đã gọi đi London chưa ? - ông Roscoe hỏi.
Helen Bosworth chớp chớp mắt. Cô chưa bao giờ quên điều gì, vậy tại sao ông ta lại hỏi thế ? Cô đáp:
- Chiều hôm qua, tôi đã gọi tới văn phòng ông Alan Blunt rồi. Buổi chiều ở New York là buổi tối ở London. Cô Helen nói tiếp: - Ông Blunt không rảnh, nhưng tôi đã sắp xếp cho ông một cuộc điện
thoại gọi qua tổng đài vào chiều nay. Chúng tôi có thể nối số vào xe hơi của ông.
- Cảm ơn cô, Helen.
- Tôi đem cà phê cho ông nhé ?
- Không cần đâu, cảm ơn Helen. Hôm nay tôi không uống cà phê. Helen Bosworth rời khỏi phòng, cô thực sự hoảng hốt. Không uống cà phê ? Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo nữa đây ? Theo như những gì cô biết thì ông Roscoe luôn bắt đầu một ngày làm việc của mình với hai tách cà phê kia mà. Liệu có phải ông bị ốm không nhỉ ? Gần đây ông hoàn toàn không còn là ông nữa - không phải là từ lúc Paul trở về nhà từ ngôi trường ở miền Nam nước Pháp. Lại còn cuộc điện thoại cho ông Alan Blunt ở London nữa chứ ! Chưa có ai kể với cô về con người này cả, nhưng cô đã từng nhìn thấy cái tên này trên một tệp tài liệu, ông Roscoe có việc gì đó với Cục tình báo quân đội. MI6. Ông Roscoe đang làm gì vậy, nói chuyện với một điệp viên ư ?
Cô Helen Bosworth quay trở lại văn phòng làm việc của mình, cố gắng làm dịu nỗi kích động, không uống cà phê - cô không thể chịu nổi điều này - mà uống một tách trà làm tỉnh người trong bữa trà điểm tâm của Anh. Một điều gì đó rất lạ đang diễn ra, và cô không hề thích thú điều đó.. Cô không thích điều đó chút nào.
Trong lúc ấy, dưới đó sáu mươi tầng, một người đàn ông bước vào tiền sảnh, hắn mặc quần yếm xám với một huy hiệu nhận diện đính trên ngực. Huy hiệu cho biết hắn là Sam Green, một kỹ sư bảo dưỡng của Công ty liên hợp Thang máy X-Press, một tay hắn xách một chiếc cặp, tay kia
xách một cái hộp dụng cụ lớn, màu bạc. Hắn đặt cả hai xuống phía trước quầy tiếp tân.
Same Green không phải là tên thật của hắn. Tóc hắn - đen và hơi nhờn - là tóc giả; cũng là giả cả cặp kính mát, hàng ria mép và hàm răng không bằng phẳng. Trông hắn khoảng năm mươi tuổi, nhưng sự thật thì hắn chỉ mới gần ba mươi. Không ai biết tên thật của người đàn ông này, nhưng với công việc hắn đang làm, cuối cùng, hắn cũng đã để lại tiếng tăm. Hắn được biết đến với cái tên vỏn vẹn: "Quý ông'', là một trong những tên giết mướn thành đạt nhất và được trả lương cao nhất trên thế giới. Hắn được tặng biệt danh này bởi vì hắn luôn luôn gửi hoa đến gia đình nạn nhân của hắn.
Người bảo vệ ở tiền sảnh nhìn hắn chằm chằm.
- Tôi đến để xem thang máy - Hắn lên tiếng. Hắn nói gọng khu Bronx (nằm ở phía Đông Bắc thành phố New York) mặc dù cả đời hắn chưa bao giờ ở đó quá một tuần.
- Để làm gì ? - Người bảo vệ hỏi - Người của ông đã đến đây tuần trước rồi mà.
- Vâng. Đúng rồi. Chúng tôi đã phát hiện thấy một dây cáp bị hư ở thang máy số mười hai. Nó cần được thay thế, nhưng lúc ấy, chúng tôi lại không có thiết bị. Thế nên họ mới cử tôi quay trở lại.
Quý ông lục tìm trong túi, lấy ra một tờ giấy nhàu nát.
- Anh có cần gọi đến văn phòng chính không ? Thật sự là tôi được chỉ định đến đây mà.
Nếu người bảo vệ mà gọi cho Công ty Liên hiệp Thang máy X-Press, thì anh ta sẽ khám phá ra được rằng quả thực Công ty có nhận một người tên là Sam Green vào làm - nhưng đã hai ngày qua, chẳng thấy mặt mũi ông ta đâu. Bỏi vì Sam Green thật hiện đang nằm ở dưới đáy sông Hudson với một con dao trên lưng và một khối bê-tông nặng chín kilôgram buộc ở chân. Nhưng người bảo vệ đã không gọi điện cho Công ty. Quý ông cũng đã đoán trước được rằng anh ta sẽ không gây cản trở cho mình. Xét cho cùng thì thang máy vẫn luôn bị hỏng như thế. Lúc nào mà chả thấy thợ sửa chữa đi ra đi vào. Có gì khác biệt nếu có thêm một người nữa vào làm ?
Người bảo vệ đưa ngón tay cái ra hiệu. Anh ta nói:
- Lên đi.
Quý ông cất tờ giấy vào túi, xách đồ đạc lên, đi lại phía thang máy. Có mười hai tòa nhà chọc trời đang được bảo dưỡng, thêm tòa nhà của ông
Michael J. Roscoe nữa là thứ mười ba. Thang máy số mười hai nằm ở phía cuối. Khi hắn bước vào, một chú bé giao hàng cầm trên tay một bưu kiện cũng cố gắng vào theo.
- Xin lỗi nhé - Quý ông nói - Phải đóng cửa để sửa chữa.
Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại. Quý ông bắt đầu làm công việc của mình. Hắn nhấn nút lên tầng sáu mươi mốt.
Quý ông chỉ mới được giao nhiệm vụ này vào tuần trước. Hắn đã phải tiến hành thật nhanh, giết một kỹ sư bảo dưỡng thật, bắt chước hình dáng của ông ta, tìm hiểu cách bố trí trong tòa nhà Roscoe, và cố gắng sử dụng thành thạo một số dụng cụ mà hắn biết trước là hắn sẽ phải cần đến. Những người thuê hắn muốn nhà triệu phú này phải bị loại trừ càng sớm càng tốt. Quan trọng hơn, trông nó phải giống với một vụ tai nạn. Vì vậy, người ta đã nhờ đến Quý ông - và hắn được trả một trăm ngàn đôla. Tiền được gửi vào một tài khoản ở ngân hàng Thụy Sĩ; họ trả trước một nửa và sẽ trả tiếp nửa kia sau khi xong việc.
Cửa thang máy lại mở ra. Tầng sáu mươi mốt được sử dụng chủ yếu cho hoạt động bảo vệ. Đây là nơi người ta đặt bể nước, cũng như những máy vi tính điều khiển nhiệt độ, máy điều hòa không khí, camera theo dõi và những thang máy trong tòa nhà. Quý ông tắt thang máy bằng cách sử dụng chiếc chìa khóa đã từng thuộc về Sam Green, sau đó, hắn đi lại phía những chiếc máy vi tính. Hắn biết chính xác những chiếc máy vi tính này nằm ở đâu. Thực tế, hắn có thể nhận ra chúng đang được che lại. Hắn mở chiếc cặp của mình ra. Trong cặp có hai ngăn. Ngăn thấp chứa một chiếc máy vi tính xách tay. Ngăn cao hơn đặt những mũi khoan và các dụng cụ khác, mỗi món đồ đều được buộc ràng lại, nằm cố định một chỗ.
Hắn mất mười lăm phút để xâm nhập vào máy vi tính trung ương và kết nối nó vào máy vi tính xách tay của hắn. Việc truyền dữ liệu qua hệ thống bảo vệ tòa nhà Roscoè lại mất thêm một khoảng thời gian nữa nhưng cuối cùng nó cũng trót lọt. Hắn gõ một lệnh vào bàn phím, ở tầng dưới, thang máy riêng của ông Michael J. Roscoe vừa làm một việc mà trước đây nó chưa hề làm bao giờ. Nó lên thêm một tầng nữa - tầng thứ sau mươi mốt. Tuy nhiên, cửa thang máy vẫn đóng. Quý ông cũng chẳng cần bước vào.
Thay vào đó, hắn nhấc chiếc cặp cùng với cái hộp dụng cụ màu bạc lên, mang trở lại vào thang máy mà hắn đã lên đây từ tiền sảnh. Hắn mở khóa và nhấn nút xuống tầng năm mươi chín. Một lần nữa, hắn lại khóa
thang máy. Rồi hắn với tay lên, đẩy. Nóc thang máy là một cửa lật. Hắn đặt chiếc cặp và chiếc hộp dụng cụ màu bạc lên trên đó rồi nhảy lên trên nóc thang máy. Lúc này, Quý ông đang đứng trong khoang thang máy chính của tòa nhà Roscoe. Bốn phía xung quanh hắn toàn những cột và các ống đen xì những dầu mỡ cùng bụi bẩn. Những sợi dây cáp làm bằng thép dày buông thõng xuống, một số kêu o o khi chúng đang tải vật nặng. Nhìn xuống phía dưới, hắn có thể trông thấy một đường hầm trông như kéo dài vô tận, với những khe sáng do cửa thang máy trượt ra rồi đóng lại khi những chiếc thang máy đi lên các tầng khác nhau. Chúng tạo ra một làn gió nhẹ thổi tung bụi vào mắt hắn. Bên cạnh hắn là cửa thang máy, mà nếu mở ra, chúng sẽ dẫn hắn vào thẳng văn phòng ông Roscoe. Bên trên những cánh cửa này, phía trên đầu của hắn, thêm vài mét nữa về bên phải là mặt dưới thang máy riêng của ông Roscoe.
Cái hộp đựng dụng cụ đang ở bên cạnh hắn. Một cách thận trọng, hắn mở chiếc hộp ra. Xung quanh chiếc hộp được lót một miếng bọt biển dày. Trong lòng miếng lót ấy là một vật dụng trông như một máy chiếu phim phức tạp, màu bạc, hình lòng chảo, có một thấu kính thủy tinh dày. Hắn lấy chiếc máy ra, sau đó, nhìn vào đồng hồ. Tám giờ ba mươi lăm phút sáng. Quý ông còn những một tiếng đồng hồ nữa để lắp thiết bị này vào bên dưới thang máy của ông Roscoe, và thêm chút xíu thời gian nữa để kiểm tra lại cho chắc chắn rằng nó đang hoạt động. Hắn còn cả khối thối gian nữa.
Mỉm cười với chính mình, Quý ông lấy ra một cái tuavít vạn năng và bắt đầu làm việc.
Mười hai giờ trưa, cô Helen Bosworth nói vào điện thoại: - Thưa ông Roscoe, xe hơi của ông đến rồi.
- Cảm ơn cô, Helen.
Buổi sáng hôm ấy, ông Roscoe không làm việc nhiều, ông tự nhận ra rằng mình chỉ để có một nửa đầu óc vào công việc. Một lần nữa, ông lại nhìn vào bức ảnh trên bàn. Paul. Làm thế nào mà cha và con lại trở nên hục hặc với nhau như thế chứ ? Và điều gì đã xảy ra vào mấy tháng cuối cùng đó khiến cho tình cảm cha con của họ trở nên tồi tệ đến như vậy ?
Ông đứng dậy, mặc áo vét-tông vào, rời khỏi phòng làm việc, lên đường đi ăn trưa với Thượng nghị sĩ Andrews. Ông hay ăn trưa với những chính khách. Những người này hoặc muốn tiền, muốn ý kiến của ông - hoặc chỉ là muốn quan hệ xã giao với ông. Bất cứ ai giàu sụ như Roscoe cũng đều muốn kết bạn với người có quyền lực, và các chính khách thì lại cần có những người bạn như thế.
Ông nhấn nút thang máy, cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, ông bước một bước về phía trước.
Điều cuối cùng ông Michael J. Roscoe còn nhìn thấy trong cuộc đời mình chính là mặt trong chiếc thang máy của ông, với những vách cẩn đá cẩm thạch trắng, tấm thảm xanh dương, và tay vịn màu bạc. Chân phải của ông, mang chiếc giày da màu đen do một cửa hàng nhỏ ở thủ đô Rôma làm bằng tay để dành riêng cho ông, đặt lên tấm thảm và đã xuyên qua nó, kéo theo cả thân hình của ông đổ nghiêng vào trong thang máy và rồi cũng xuyên qua tấm thảm, ông lọt xuống, rơi khỏi sáu mươi tầng lầu cho đến chết.
Ông Roscbe hoàn toàn không thể hiểu được điều gì đã xảy ra, ông đã ngạc nhiên đến độ không thể kêu lên được một tiếng nào. Ông rơi vào bóng tối đen ngòm của khoang thang máy, rơi dọc theo những bức vách, và đâm sầm vào nền bê-tông rắn chắc ở bên dưới, cách đó bốn trăm năm mươi bảy mét.
Chiếc thang máy vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trông nó vẫn vững chắc, nhưng thật ra, nó không còn ở đó nữa. Cái mà ông Rosoe bước vào chỉ là một hình ảnh ba chiều, một hình ảnh được chiếu vào khoảng không trống rỗng của khoang thang máy, nơi có để chiếc thang máy thật. Quý ông đã lập trình cho cửa mở ra khi ông Roscoe bấm nút, và ung dung nhìn thấy ông đi vào quên lãng. Nếu nhà triệu phú ngước nhìn lên một chút, ông sẽ nhận ra một máy chiếu không gian ba chiều màu bạc, đang chiếu ra một hình ảnh, cái máy ấy chỉ ở bên trên đầu ông có vài mét. Nhưng người đàn ông bước vào thang máy để xuống ăn trưa không hề ngước mắt lên. Quý ông đã biết trước điều đó. Và hắn chưa bao giờ tính toán sai.
Mười hai giờ ba mươi lăm phút, người lái xe gọi lên, nói rằng ông Roscoe không vào xe hơi. Mười phút sau, cô Helen Bosworth báo động khẩn cấp, cô bắt đầu rảo quanh phòng lớn của tòa nhà. Lúc một giờ, người ta gọi tới nhà hàng. Ngài Thượng nghị sĩ vẫn đang chờ ở đó. Nhưng ông Roscoe thì không thấy tăm hơi.
Thật ra, mãi đến ngày hôm sau, người ta vẫn chưa tìm ra được thi thể của ông Roscoe; nhưng vào tại thời điểm đó, sự mất tích của nhà triệu phú đã trở thành tin tức nổi cộm của các báo. Một tai nạn kỳ quặc - có vẻ như vậy. Không ai có thể lý giải được điều đã xảy ra. Bởi vì lúc đó, lẽ dĩ nhiên, Quý ông đã lập trình lại máy vi tính, gỡ máy chiếu ra và xóa bỏ mọi dấu vết, trước khi bình thản rời khỏi tòa nhà.
Hai ngày sau, một người đàn ông trông giống một kỹ sư bảo dưỡng bước vào sân bay quốc tế John F. Kennedy. Ông ta đáp chuyến máy bay đến Thụy Sĩ. Nhưng trước tiên, ông ta đến một cửa hàng hoa, đặt mười hai bông hoa uất kim hương đen, yêu cầu gửi đến một địa chỉ nào đó. Người đàn ông ấy gửi tiền mặt, ông ta đã không để lại tên.
II
DẤU VẾT XANH
Khoảnh khắc tồi tệ nhất là khi ta cảm thấy cô độc giữa đám đông. Alex Rider đang bước đi trong sân trường, chung quanh cậu là hàng trăm cậu bé, cô bé đồng trang lứa. Tất cả đều đang đi cùng một hướng, họ mặc đồng phục áo xám và quần xanh dương hay váy xanh dương, phần lớn có lẽ đều cùng có những suy nghĩ giống nhau. Môn học cuối cùng trong ngày vừa kết thúc. Làm bài tập, ăn tối và xem truyền hình sẽ lấp đầy khoảng thời gian còn lại cho đến lúc lên giường. Lại một ngày đi học khác. Thế nhưng tại sao cậu bé lại cảm thấy mình cứ như đang ở ngoài cuộc, như thể cậu đang ngắm nhìn những tuần cuối cùng của kỳ học mùa xuân từ cái mặt khác của một tấm gương khổng lồ vậy ?
Alex quặp chiếc balô lên một bên vai, tiếp tục đi đến bãi xe đạp. Chiếc balô rất nặng. Như thường lệ, trong đó chứa hai bài tập về nhà... tiếng Pháp và lịch sử. Cậu bé đã nghỉ học những ba tuần, nên bây giờ cậu phải học hành chăm chỉ để theo kịp bài vở. Các thầy, cô giáo đã không chấp nhận chuyện cậu nghỉ học. Chẳng ai nói gì nhiều cả, nhưng cuối cùng, khi cậu trở lại trường với bức thư của bác sĩ trên tay ("một chứng cảm cúm nặng có kèm theo biến chứng") thì họ đều gật đầu và mỉm cười, thầm nghĩ rằng Alex cần được thương yêu và chiều chuộng hơn một chút. Mặt khác, họ cũng phải đồng ý với đơn xin phép này. Ai cũng biết rằng Alex không còn bố mẹ, rằng cậu phải sống với một người bác, nhưng ông này lại cũng vừa mới mất trong một vụ tai nạn xe hơi nào đó. Nhưng dù cho có là như thế thì, ngay cả những người bạn thân nhất của Alex, cũng phải thừa nhận rằng cậu bé đã nghỉ học quá lâu.
Alex không thể kể sự thật với mọi người. Cậu không được phép hé môi với bất kỳ ai về những chuyện đã xảy ra. Thật là quái quỷ. Alex nhìn các bạn xung quanh mình đang ùa ra khỏi cửa trường, một số đang rê những quả bóng, một số khác đang nói chuyện qua điện thoại di động. Cậu bé nhìn theo các thầy cô giáo đang ngồi vào trong những chiếc xe hơi cũ mua lại. Lúc đầu, cậu nghĩ rằng toàn bộ ngôi trường đã thay đổi trong lúc cậu vắng mặt, cậu không hiểu tại sao lại như thế. Nhưng rồi cậu cũng đã nhận ra được một điều còn tệ hơn. Mọi thứ vẫn như cũ. Chỉ có cậu là thay đổi mà thôi.
Alex mười bốn tuổi, là một học sinh bình thường học tại một ngôi trường bình thường ở phía Tây London, ít ra là đã từng như thế. Ba tuần trước, cậu bé đã khám phá ra một điều rằng bác cậu chính là một điệp viên, làm việc cho Cục tình báo quân đội MI6. Bác ấy - Ian Rider - đã bị ám sát, và MI6 đã buộc Alex phải thế chỗ. Họ đã cho cậu học một khóa về sự va chạm nằm trong chương trình huấn luyện về kỹ thuật sống sót của Quân chủng Không quân Đặc biệt và gửi cậu đến vùng biển phía Nam để thực hiện một nhiệm vụ quái đản. Cậu đã bị săn đuổi, bị bắn, thậm chí suýt chút nữa là bị giết. Cuối cùng, cậu cũng hoàn thành nhiệm vụ và được đưa trở lại trường như không hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng trước tiên, họ đã buộc cậu phải ký tên vào Đạo luật Cấm tiết lộ Bí mật quốc gia. Alex mỉm cười khi nhớ lại những điều đó. Cậu chẳng cần phải ký tên vào cái gì cả. Dù sao đi nữa, ai mà tin cậu chứ ?
Giờ đây, đó là chuyện cậu phải giữ bí mật. Bất cứ lúc nào, có ai hỏi cậu rằng cậu đã làm gì trong những tuần vắng mặt đó, thì cậu buộc phải trả lời rằng cậu nằm trên giường, đọc sách báo, đi lòng vòng quanh nhà, và mọi thứ đại loại như thế. Alex không hề muốn khoe khoang những gì mình đã làm được, nhưng cậu ghét phải lừa dối bạn bè. Điều đó làm cho cậu bé nhức nhối. MI6 không chỉ đặt cậu vào vòng nguy hiểm, họ còn ấn nhét toàn bộ cuộc đời cậu vào cái tủ, khóa lại, rồi ném chìa khóa đi.
Alex đã ra đến bãi để xe đạp. Có ai đó đi cùng phía với cậu, khẽ chào.
- Tạm biệt nhé.
Cậu gật đầu đáp lại, rồi hẩy đầu để hất ngược lọn tóc vàng vừa xòa xuống mắt của cậu. Đôi lúc, cậu lại ước rằng những chuyện liên quan đến MI6 chưa bao giờ xảy ra. Nhưng rồi lúc ấy - cậu cũng phải thừa nhận rằng - một phần trong cậu lại muốn tất cả những chuyện đó lại xảy ra một lần nữa. Thình thoảng, Alex có cảm giác mình không còn thuộc về cái thế giới an toàn, ấm cúng của trường Trung học tổng hợp Brookland nữa. Đã có quá nhiều thay đổi. Cuối ngày rồi, bất cứ thứ gì lúc này cũng đều thú vị hơn hai bài tập về nhà kia.
Alex nhấc chiếc xe ra khỏi bãi, mở khóa, đeo balô vào hai vai, chuẩn bị đạp xe đi. Ngay lúc ấy, cậu trông thấy một chiếc xe hơi trắng đã cũ. Đây là lần thứ hai trong tuần, chiếc xe hơi trắng đó đậu ở cổng trường.
Ai cũng biết cái người đàn ông đang ngồi trong chiếc xe hơi trắng ấy.
Hắn khoảng hơn hai mươi tuổi, hói đầu, có hai cái răng cửa chỉ còn chân, tai hắn đeo năm chiếc khoen. Hắn không hề quảng cáo tên của mình. Khi nói về hắn, người ta hay gọi hắn là Skoda, ấy là gọi theo tên chiếc xe hơi của hắn. Một số người nói rằng tên hắn là Jake, đã từng có thời kỳ ở Brookland. Nếu đúng là như vậy thì hắn đã trở lại đây như một bóng ma, chẳng được ai hoan nghênh; mới ở đây một phút, thế mà phút sau, hắn đã biến mất tăm... không hiểu sao lúc nào hắn cũng có thể nhanh hơn đến vài giây so với bất kỳ xe cảnh sát nào chạy qua hay của thầy cô giáo nào tò mò quá mức.
Skoda buôn bán ma túy. Hắn bán ma túy nhẹ, chẳng hạn như cần sa và bồ đà, cho những đứa trẻ nhỏ hơn, và ma túy nặng cho những người lớn ngốc nghếch. Alex có vẻ không tin là Skoda có thể trốn thoát được một cách dễ dàng như thế, hắn có thể phân phát những tép ma túy nhỏ ngay giữa ban ngày. Cũng dễ hiểu thôi, trường học luôn có những quy tắc ứng xử. Không ai lại đẩy người khác vào tay cảnh sát, thậm chí đó là một con chuột cống như Skoda. Nhưng e rằng nếu Skoda xuống đây, một số người được hắn cung cấp ma túy - là bằng hữu, bạn học của Alex - có thể sẽ đi theo hắn.
Ma túy chưa bao giờ là vấn đề nghiêm trọng ở Brookland, nhưng gần đây, điều đó đã thay đổi. Một bộ phận thanh thiếu niên mười bảy tuổi đã bắt đầu mua hàng của Skoda, giống như một hòn đá rơi xuống hồ, những gợn sóng nhanh chóng lan tỏa ra xung quanh. Những vụ trộm cắp xảy ra tới tấp, cũng như một vài vụ trấn lột đã xảy ra - học trò lớp dưới bị mấy tên đàn anh bắt phải nộp tiền. Những thứ mà Skoda bán có vẻ như càng ngày càng đắt hơn, mà ngay từ đầu, nó cũng đã chẳng rẻ gì cho cam.
Alex trông thấy một cậu bé mắt đen, mặt đầy mụn trứng cá, đang vác nặng nhưng cũng cố lết đến chỗ chiếc xe hơi, dừng lại ở ô cửa sổ đang mở, rồi tiếp tục đi tiếp. Alex bỗng chợt cảm thấy trong lòng mình có một nỗi căm ghét đang trào dâng. Cậu bé ấy tên là Colin, một năm trước, cậu ta rất chăm học và được mọi người yêu mến. Nhưng hiện nay, cậu ta đã bị bạn bè xa lánh. Alex chưa bao giờ nghĩ nhiều đến ma túy, ngoại trừ cậu chỉ biết mỗi một điều là cậu sẽ không bao giờ để cho cái thứ đó thâm nhập vào trong cơ thể của mình. Cậu có thể thấy rằng gã đàn ông ngồi trong chiếc xe hơi trắng kia không chỉ đang đầu độc một vài đứa trẻ chưa đủ trí khôn. Hắn đang đầu độc toàn trường.
Một viên cảnh sát tuần bộ xuất hiện, đang đi về phía cổng trường. Thoáng chốc, chiếc xe hơi trắng phóng đi mất, để lại đám khói đen ngùn ngụt bốc ra từ ống khói đã hỏng. Alex nhảy phóc lên xe trước khi kịp nhận ra mình đang làm gì, cậu đạp xe như bay ra khỏi sân trường, quẹo tránh cô thư ký, cô cũng đang chuẩn bị về nhà.
- Đừng chạy nhanh như thế, Alex.
Cô thư ký gọi với theo rồi thở dài khi thấy cậu bé phớt lờ. Cô Bedfordshire luôn dành cho Alex một tình cảm đặc biệt mà bản thân cô cũng chẳng hiểu tại sao. Trong trường chỉ có mình cô là tin rằng Alex không nghỉ học quá quy định của bác sĩ.
Chiếc Skoda trắng chạy nhanh xuống đường, quẹo trái rồi quẹo phải, Alex đã tưởng như mình sắp mất dấu nó. Nhưng sau một hồi lách qua những con phố vắng vẻ, chiếc xe hướng ra đường King's Road và gặp phải một vụ ách tắc giao thông không thể tránh khỏi lúc bốn giờ chiều, phải tạm dừng lại và nhích dần khoảng một trăm tám mươi hai mét về phía trước.
Vận tốc giao thông trung bình ở London - vào đầu thế kỷ hai mươi mốt này - còn chậm hơn cả thời đại của nữ hoàng Victoria nữa. Trong giờ hành chính, bất kỳ một chiếc xe đạp nào cũng có thể vượt qua cả xe hơi ở bất cứ đoạn đường nào. Và Alex không phải đang lái một chiếc xe đạp thông thường như thế. Cậu vẫn đang dùng chiếc xe đạp hiệu Condor Junior Roadracer được đặt làm riêng tại một phân xưởng kinh doanh ở Holborn, phân xưởng vẫn còn giữ nguyên tên cũ cách đây hơn năm mươi năm. Gần đây, cậu bé đã nâng cấp nó với hệ thống cần số tích hợp vào phanh gắn ở tay lái, bây giờ cậu chỉ cần ấn nhẹ ngón tay cái của mình là có thể cảm nhận được chiếc xe đạp chuyển sang chế độ chạy bằng bánh răng khác, những bánh răng làm bằng kim loại titan nhẹ tênh chuyển động êm ái ở bên dưới.
Alex đuổi kịp chiếc xe hơi khi nó quẹo vào một góc phố và đụng phải vụ kẹt xe trên đường King's Road. Cậu bé hy vọng kẻ kia sống trong thành phố, cậu không nghĩ là hắn phải đi rất xa. Kẻ buôn bán ma túy này sẽ không chọn Trường trung học tổng hợp Brookland là mục tiêu nếu hắn ở ngay đó. Nơi hắn ở phải nằm đâu đó trong vùng lân cận - nơi không quá gần chỗ bán, nhưng cũng không quá xa.
Đèn báo hiệu giao thông thay đổi, chiếc xe hơi trắng bật lên phía trước, đi về phía tây. Alex đạp xe từ từ, đi sau một vài chiếc xe ôtô, đề phòng trường hợp Skoda nhìn vào kính chiếu hậu và thấy cậu. Khi họ đến
một góc phố được mệnh danh là Tận cùng Thế giới thì con đường trở nên thông thoáng, Alex ấn cần số chuyển đổi chế độ bánh răng, đạp thật nhanh để theo kịp. Chiếc xe hơi vẫn bon bon trên đường, qua khỏi Parson' Green, chạy xuống Putney. Alex lách vào một khe hẹp để cắt qua mặt một chiếc xe tắcxi, cậu nhận được ngay lập tức nguyên một hồi còi. Hôm đó là một ngày ấm áp, cậu bé có thể cảm nhận được bài tập tiếng Pháp và lịch sử đang cọ vào lưng. Họ còn đi bao xa nữa đây ? Alex đang tự dò hỏi lòng mình rằng liệu đây có phải là một ý kiến hay hay không thì chiếc xe hơi tắt máy, cậu hiểu rằng mình đã đến nơi.
Skoda lái xe vào một khu vực đang trải nhựa dở dang, đó là một bãi đậu xe tạm thời cạnh sông Thames, cách cầu Putney không xa lắm. Alex đứng trên cầu, mặc cho xe cộ qua lại, cứ chú mục nhìn theo tên buôn hàng trắng bước ra khỏi xe hơi, bắt đầu rảo bước. Khu vực này đang được quy hoạch lại, một tòa nhà khối đang mọc lên, in hình trên nền trời London. Hiện giờ nó mới chỉ là một bộ khung thép có gắn thêm những khối bê tông đúc sẵn, trông thật xấu xí. Xung quanh tòa nhà là những người đàn ông đội mũ bảo hộ lao động. Có cả xe ủi đất, máy trộn ximăng, và cao hơn hẳn là một chiếc cần cẩu màu vàng nhạt, ở đây còn có một tấm biển ghi chú: NHÀ NGẮM SÔNG. Bên dưới là hàng chữ: TẤT CẢ KHÁCH THAM QUAN HÃY ĐĂNG KÝ Ở VĂN PHÒNG.
Alex tò mò, không biết tên Skoda có hoạt động kinh doanh ở chỗ này không. Hắn đang tiến đến cửa ra vào. Đột nhiên, hắn rẽ sang hướng khác. Alex nhìn theo, càng lúc càng khó hiểu.
Khu đất đang được xây dựng này nằm vào giữa một bên là cầu, một bên là dãy tòa nhà hiện đại. Nơi này có một quán rượu, một tòa nhà trông giống như một trung tâm tổ chức hội nghị mới toanh, cuối cùng là một đồn cảnh sát với một bãi đậu xe, một nửa bãi xe đã chật kín xe hơi của các công chức. Ngay bên cạnh khu xây cất là một cầu tàu bằng gỗ hướng ra sông, có hai chiếc thuyền máy và một chiếc sà lan cũ bằng sắt đã hoen rỉ đang nằm yên trên mặt nước đục ngầu. Lúc đầu, Alex chẳng chú ý gì đến cái cầu tàu, nhưng Skoda lại đi thẳng ra đó, leo lên chiếc sà lan. Hắn đến trước một cái cửa, mở nó ra và biến mất vào bên trong đó. Đây là nơi hắn ở sao ? Mọi chuyện trở nên tối tăm, Alex bỗng nghi ngại rằng hắn đang chuẩn bị một chuyến du ngoạn trên sông Thames.
Cậu bé quay lại chiếc xe đạp, đạp xe đến cuối cầu rồi tiến vào bãi đậu xe. Cậu để chiếc xe đạp cùng balô của mình ở chỗ khuất rồi chậm rãi
bước đến cầu tàu. Cậu không sợ bị bắt gặp. Đây là chốn công cộng, ngay cả khi Skoda có xuất hiện trở lại thì hắn cũng chẳng làm gì được cậu. Alex đang rất hiếu kỳ. Tên buôn hàng trắng ấy đang làm gì trên sà lan thế nhỉ ? Xem ra đấy là một nơi kỳ quặc để lưu lại. Alex vẫn không biết rõ mình sẽ làm gì, cậu chỉ muốn nhìn vào bên trong thôi. Và cậu bé quyết định thực hiện điều đó.
Cầu tàu kêu kẽo kẹt dưới chân khi cậu bé bước đi trên đó. Chiếc sà lan có tên là Dấu vết Xanh, là một đống sắt hoen rỉ, trên sàn đầy những vết dầu mỡ, sơn đã tróc rất nhiều, chỉ còn sót lại mấy vệt sơn màu xanh nước biển. Chiếc sà lan dài hai mươi bảy mét rưỡi, rất vuông vức với một cái khoang duy nhất ở chính giữa. Nó nằm thấp hơn mặt nước, Alex đoán rằng các sinh hoạt đều diễn ra ở dưới này. Alex quỳ xuống, giả bộ như đang buộc lại dây giày, hy vọng có thể nhìn vào bên trong, xuyên qua những ô cửa sổ hẹp, nghiêng nghiêng. Nhưng tất cả các ô cửa đều đã bị che chắn hết rồi. Làm sao bây giờ ?
Chiếc sà lan được cột vào một bên cầu tàu. Hai chiếc tàu máy được cột vào phía bên kia, nằm cạnh nhau. Skoda muốn kín đáo - nhưng hắn cũng cần phải có ánh sáng chứ, như vậy thì ở phía hướng ra sông, hắn sẽ không che rèm, Alex sẽ phải bước lên sà lan thôi. Cậu nhận ra điều đó chỉ trong giây lát. Cũng đáng để liều một phen lắm. Giữa ban ngày ban mặt thế này, sẽ chẳng có ai dám đụng đến cậu.
Cậu bé đặt một chân lên sàn chiếc sà lan, sau đó từ từ đưa cả thân người lên trên đó. Cậu có hết sức tránh làm cho chiếc sà lan tròng trành, vì nếu không thì sẽ bị lộ. Chắc chắn là chiếc sà lan phải bị chìm xuống một chút dưới sức nặng của Alex, nhưng cậu bé đã lựa chọn thới điểm rất đúng lúc. Một chiếc xuồng máy của cảnh sát vừa chạy qua, hướng ra phía đầu nguồn con sông rồi sẽ quay trở lại thành phố. Chiếc sà lan nhấp nhô tự nhiên theo đường rẽ sóng của chiếc xuồng, khi chiếc sà lan thôi không dập dềnh nữa thì Alex cũng đã đứng trên sàn, lom khom bên cạnh cửa ra vào của khoang.
Bây giờ, cậu bé đã có thể nghe thấy tiếng nhạc từ bên trong vọng ra. Đó là tiếng hát nặng nề của một ban nhạc rock. Alex không muốn làm điều này nhưng cậu chỉ còn một cách để nhìn vào thôi. Cậu có tìm lấy một chỗ trên sàn không có quá nhiều vết dầu mỡ, rồi nằm úp bụng xuống. Cậu bám lấy lan can, chúc đầu và vai xuống, sau đó đẩy người lên phía trước, nửa người cậu đang cúi lộn xuống, thấp hơn cả mặt nước.
Alex đã đoán đúng, ô cửa phía bên này sà lan không bị che rèm. Nhìn qua tấm kính cửa sổ bẩn thỉu, cậu bé trông thấy hai người đàn ông. Skoda ngồi trên chiếc giường ngủ, đang hút thuốc. Người đàn ông còn lại có mái tóc vàng hoe, xấu xí, với đôi môi cong vều, và bộ râu ba ngày chưa cạo; hắn mặc chiếc áo khoác dài tay đã rách và một chiếc quần jean, đang pha một tách cà phê cạnh một bếp lò nhỏ. Nhạc đang phát ra từ một chiếc máy radio cátsét đặt trên kệ. Alex nhìn quanh khoang. Ngoài hai chiếc giường ngủ và khoảnh bếp nhỏ xíu, chiếc sà lan chẳng có thứ gì tiện nghi để phục vụ cho sinh hoạt cả. Như vậy là nó được dùng vào mục đích khác. Skoda và bạn của hắn đã biến nó thành một phòng pha chế nổi.
Có hai dụng cụ kim loại dùng trong pha chế, một cái bồn rửa chén và một chiếc cân điện tử. Khắp nơi là những ống nghiệm, những đèn Bunsen, các bình thót cổ, các ống thủy tinh và những cái muỗng dùng để đong. Toàn bộ nơi này thật dơ dáy - rõ ràng là cả hai gã đàn ông đều không hề quan tâm đến vấn đề vệ sinh - Alex biết rằng mình đang nhìn vào trung tâm làm việc của họ. Đây là nơi bọn họ điều chế ma túy để bán: chia nhỏ ra, cân đo và đóng gói lại để phân phối đến các trường học địa phương. Đúng là ý tưởng điên rồ khi dùng sà lan làm nơi pha chế ma túy, gần như ngay chính giữa London, sát ngay bên cạnh đồn cảnh sát, chỉ độ trong tầm hòn đá ném. Nhưng đây cũng lại là một ý tưởng láu lỉnh. Ai mà sục sạo ở đây chứ ?
Gã đàn ông có mái tóc vàng quay lại, Alex nhanh như cắt, đu người lên, trượt về phía sau. Trong chốc lát, cậu bé thấy xây xẩm cả mặt mày. Cúi lộn người xuống như thế thì máu sẽ dồn cả lên đầu còn gì. Cậu hít thở vài cái, cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ. Bây giờ mà đến đồn cảnh sát kể lại hết những gì nhìn thấy cho những người có trách nhiệm nghe thì dễ quá rồi. Họ sẽ tiếp nhận ngay vụ này.
Nhưng trong lòng Aex bỗng có cái gì đó trỗi lên, khiến cậu phải bác bỏ ngay cái suy nghĩ ấy. Nếu là vài tháng trước đây thì cậu đã làm điều đó rồi: để người khác tự lo chuyện của họ. Nhưng cậu bé đạp xe từng ấy quãng đường để đến tận đây không phải chỉ để báo cho cảnh sát. Cậu nhớ lại lúc nhìn thấy chiếc xe hơi màu trắng đậu ngoài cổng trường. Cậu nhớ lại lúc Colin, bạn cậu, lê bước đến bên chiếc xe, một lần nữa, trong lòng cậu lại bùng lên lửa giận. Cậu phải tự mình làm một cái gì đó.
Nhưng Alex có thể làm gì được bây giờ ? Nếu mà chiếc sà lan có một cái nút thì Alex sẽ mở nó ra, cho đắm toàn bộ mọi thứ. Tất nhiên mọi chuyện không bao giờ dễ dàng như thế. Chiếc sà lan được cột vào cầu tàu ẳ
bằng hai sợi dây thừng thật to. Cậu có thể tháo nó ra, nhưng cũng chẳng có ích gì. Chiếc sà lan có thể trôi đi, nhưng ở đây là Putney. Chẳng có xoáy nước hay thác nước nào cả. Skoda sẽ lại mở máy và lái nó về đây.
Alex nhìn quanh. Một ngày làm việc ở khu xây cất sắp kết thúc. Có mấy người đàn ông đang chuẩn bị ra về, trong lúc nhìn quanh quất như vậy, cậu bé phát hiện ra ở trên cùng của chiếc cần cẩu có một cái cửa lật, nó ở bên trên cậu khoảng một trăm ba mươi bảy mét và đang được để mở, một người đàn ông có thân hình chè bè bắt đầu trèo xuống. Alex nhắm mắt lại. Một loạt hình ảnh chợt hiện ra trong đầu cậu, giống như những mảng hình khác nhau trong một trò chơi xếp hình.
Chiếc sà lan. Khu xây cất. Đồn cảnh sát. Chiếc cần cẩu với cái móc khổng lồ, đang đung đưa bên dưới.
Ở khu vui chơi Blackpool. Cậu bé đã có lần đến đó với người quản gia của mình, cô Jack Starbright, cậu đã thấy cô lấy được một chú gấu nhồi bông, cô móc nó ra khỏi chiếc thùng thủy tinh, đưa nó qua cái máng trượt như thế nào rồi.
Liệu chiếc cần cẩu kia có làm nổi không ? Alex nhìn lại lần nữa, nhẩm tính các góc cạnh. Được chứ. Chắc chắn là nó sẽ làm được. Alex đứng dậy, rón rén đi lại phía cánh cửa mà Skoda đã vào. Bên cạnh nó có một sợi dây dài, cậu bé nhặt lên, quấn nó quanh tay nắm cửa rồi móc sợi dây vào khoen móc khóa trên vách, cậu kéo thật chặt. Cánh cửa đã bị khóa cứng. Còn cánh cửa thứ hai ở cuối sà lan. Alex khóa nó lại bằng chiếc khóa xe đạp của mình. Cậu bé nhìn thấy những ô cửa sổ, nhưng chúng quá hẹp, không thể chui lọt được. Bây giờ thì nội bất xuất, ngoại bất nhập rồi.
Alex rón rén rời khỏi sà lan, trở lại cầu tàu, tháo hai sợi dây thừng ra, để mặc chúng nằm cong queo, lòng thòng bên cạnh những cái cọc kim loại - là những cột chống đỡ cầu tàu - đã từng neo chiếc sà lan lại. Nước sông vẫn chảy. Một lát sau, chiếc sà lan mới trôi đi.
Cậu bé đứng thẳng người lên. Công việc của cậu vẫn còn nhiều lắm, cậu bắt đầu chạy.
III
MÓC CÂU
Lối vào khu xây cất đông đúc những công nhân xây dựng đang chuẩn bị ra về. Alex bỗng nghĩ đến Brookland, cậu đã rời trường được một tiếng đồng hồ rồi. Đúng là khi ta lớn lên, chẳng có gì thay đổi cả - ngoại trừ một điều là ta chẳng còn bị giao bài tập về nhà làm nữa. Đàn ông và phụ nữ đang nườm nượp túa ra ngoài khu xây cất với dáng vẻ mệt mỏi, ai nấy đều hối hả ra về. Chắc chắn đó là lý do vì sao chẳng có ai ngăn Alex lại khi cậu bé len vào giữa họ, bước đi hoàn toàn có chủ đích, như thể cậu biết được mình đang đi đâu, như thể cậu được phép đến đó vậy.
Nhưng ca làm việc vẫn chưa hoàn toàn kết thúc. Một số công nhân khác vẫn còn đang bưng bê những dụng cụ, sắp xếp lại gọn ghẽ những thiết bị, máy móc, và gói ghém tất cả các thứ lại để sẽ làm tiếp vào buổi tối.
Những người công nhân này đều đội mũ lưỡi trai. Trông thấy một chồng mũ bảo hộ lao động làm bằng nhựa cứng, Alex chụp ngay lấy một cái, đội lên đầu. Tòa nhà khổng lồ đang xây hiện ra sừng sững trước mặt cậu bé. Để đi ngang qua nó, cậu buộc phải đi vào giữa hai dàn giáo. Bỗng nhiên một người đàn ông to lớn mặc quần yếm trắng ở đâu không biết đứng ngay trước mặt cậu bé, chặn lại:
- Cháu đi đâu vậy ? - Ông ta gặng hỏi.
- Bố cháu...
Không cần suy nghĩ, Alex chỉ ngay một người công nhân đang bước đi. Đúng là một trò tinh nghịch. Người đàn ông kia thôi không chặn cậu lại nữa.
Cậu bé đi thẳng đến phía chiếc cần cẩu, bậc thầy trong xây dựng. Nó vẫn còn đang được để mở. Khi đã đến gần, Alex vẫn không thể ngờ là nó cao đến như vậy. Tháp cần cẩu được gắn vào một khối bê-tông to. Nó rất hẹp - khi len được vào giữa những cột sắt, cậu bé chỉ với tay lên là đụng ngay vào bốn cạnh của nó. Có một cái thang dẫn thẳng lên khoang điều khiển. Không kịp dừng lại suy nghĩ, Alex bắt đầu leo lên.
Chỉ là một cái thang thôi mà, cậu tự nhủ với mình như vậy. Ta đã leo cả đống thang trước đây rồi. Ta chẳng có gì mà phải lo lắng cả. Nhưng sự thật là cái thang này có tới ba trăm bậc. Nếu Alex sơ sểnh để trượt chân thì
ẳ
sẽ chẳng gì có thể đỡ được cậu bé cả, cậu sẽ rơi xuống cho đến chết. Trên thang có những bục để tạm nghỉ chân, nhưng Alex đã không dám dừng lại để thở nữa. Ai đó có thể sẽ nhìn lên và trông thấy cậu. Còn chiếc sà lan nữa, nó đã bị mất chỗ buộc rồi, chắc nó đang trôi đi. Alex biết rằng mình cần phải nhanh chân lên.
Sau khi leo lên được hai trăm năm mươi bậc thang, tháp cần cẩu trở nên hẹp hơn. Alex nhìn thấy khoang điều khiển cần cẩu ở ngay bên trên mình. Cậu bé nhìn xuống. Những người ở khu xây cất đang trở nên bé tí xíu và xa vời vợi. Cậu leo lên nhanh hơn. Trên đầu cậu có cửa lật. Nhưng khổ nỗi, nó bị khóa rồi.
May mắn thay, Alex đã đề phòng chuyện này từ trước. Khi MI6 cử cậu đi làm nhiệm vụ đầu tiên, họ có cấp cho cậu một số vật dụng cải tiến - Alex không muốn gọi nó là vũ khí - để giúp cậu thoát khỏi những tình huống bất trắc. Một trong số đó là ống tuýp có ghi chú là TRỊ- MỤN. LÀM DA DẺ KHỎE MẠNH HƠN. Nhưng kem bên trong ống tuýp lại làm được nhiều việc hơn là chỉ dùng để tẩy sạch mụn.
Mặc dù Alex đã sử dụng gần hết, nhưng cậu bé cũng đã xoay xỏ để giữ lại một ít và thường mang theo ống tuýp bên mình để làm kỷ niệm. Hiện giờ nó đang nằm trong túi của cậu. Một tay nắm lấy thang, tay kia, cậu bé lấy ống tuýp ra. Chỉ còn rất ít kem thôi, nhưng Alex biết rằng cậu cũng chỉ cần có một tí xíu thôi. Cậu mở ống tuýp ra, nặn một ít kem trét vào ổ khóa và chờ đợi.
Ít giây sau, trên ổ khóa có tiếng xì xì kèm theo một làn khói nhỏ. Kem đang phân hủy kim loại, ổ khóa bất ngờ mở ra. Alex đẩy cửa lật lên và bước tiếp những bậc thang cuối cùng. Cậu bé đã vào được bên trong khoang điều khiển.
Phải đóng cửa lật lại mới có thêm được chỗ để đứng. Alex nhận ra mình đang ở trong một cái khoang kim loại vuông vức, có kích cỡ giống như một khoang nhỏ dùng để chơi điện tử. Ở đây cũng có một ghế ngồi với hai cần điều khiển - nằm hai bên - và thay vì có màn hình để chơi trò chơi thì ở đây lại có một cửa sổ trổ dài từ nóc tới sàn, qua đó, có thể nhìn thấy được toàn cảnh khu xây cất, dòng sông và toàn bộ khu Tây London. Ở góc khoang có một màn hình máy vi tính và ở ngang đầu gối có một chiếc radio.
Thật ngạc nhiên là hai cần điều khiển chẳng phức tạp chút nào. Mỗi cái có sáu nút bấm - hai nút xanh lục, hai nút đen, và hai nút đỏ. Có cả sơ
đồ hướng dẫn sử dụng những nút này nữa. Cần điều khiển bên phải dùng để nâng lên, hạ xuống chiếc móc cần cẩu. Cần điều khiển bên trái dùng để đưa nó chuyển động dọc theo cần trục, kéo lại gần hay đưa ra xa khoang điều khiển. Cần điều khiển bên trái còn dùng để điều khiển chóp cần cẩu, có thể xoay nó ba trăm sáu mươi độ. Không thể nào đơn giản hơn như thế được nữa. Ngay đến nút START cũng được ghi chú rất rõ ràng. Đây là cái công tắc của trò chơi khổng lồ.
Cậu bé bật công tắc lên và cảm nhận được một luồng sức mạnh đang dâng trào trong khoang điều khiển. Màn hình máy vi tính sáng lên với hình ảnh một chú chó đang sủa khi chương trình bắt đầu khởi động. Alex ngồi phịch xuống ghế điều khiển. Dưới khu xây cất vẫn còn chừng hai mươi hai đến ba mươi người. Nhìn qua đầu gối, Alex trông thấy họ đang lặng lẽ đi lại bên dưới. Không ai để ý đến chuyện đang xảy ra. Nhưng Alex hiểu rằng mình cần phải làm thật nhanh.
Alex nhấn nút màu xanh lục ở cần điều khiển bên phải - nút xanh lục dùng để di chuyển móc cần cẩu - rồi đặt mấy ngón tay vào cần điều khiển và kéo. Chẳng thấy chuyện gì xảy ra ! Alex cau mày. Chắc là nó phức tạp hơn cậu nghĩ. Cậu có quên điều gì không ? Tay vẫn giữ cần điều khiển, cậu hết nhìn sang trái, rồi lại nhìn sang phải, tìm kiếm xem còn có nút bấm nào nữa không. Tay phải của cậu bé khẽ động đậy, đột nhiên, móc cần cẩu đang từ dưới đất bỗng nâng lên cao. Nó đang hoạt động.
Alex không hề biết rằng những bộ phận cảm biến nhiệt độ giấu trong hai chiếc cần điều khiển vừa mói "đọc" được nhiệt độ trong cơ thể cậu nên mới kích hoạt cần cẩu. Tất cả những cần cẩu hiện đại đều được gắn hệ thống đảm bảo an toàn như vậy bên trong, nhằm đề phòng trường hợp người thợ điều khiển lên cơn đau tim hoặc bị chết. Chỉ khi không có tai nạn nào xảy ra thì cần cẩu mới hoạt động nhờ vào nhiệt độ cơ thể.
May mắn cho cậu bé, (tác giả cho nhân vật của mình gặp may khá nhiều trong tất cả tình huống, nếu không, cậu ấy chẳng thể làm được gì cả hehe) chiếc cần cẩu này là Liebherr 154 EC-H, một trong những cần cẩu hiện đại nhất trên thế giới. Chiếc cần cẩu Liebherr này dễ sử dụng đến không thể ngờ được, sự chính xác của nó cũng rất đặc biệt. Ngồi trên cao, cách xa mặt đất như vậy mà người thợ điều khiển vẫn có thể nhấc một túi trà lên và bỏ nó vào trong một ấm trà Trung Quốc nhỏ nhắn. Lúc này, tay trái của Alex đang kéo cần điều khiển sang một bên, cậu bé há hốc mồm ngạc nhiên khi thấy chiếc cầu cẩu xoay theo. Cậu có thể nhìn thấy cái cần trục trước mặt mình đang
vươn dài ra, chiếc móc cần cẩu đang đung đưa bên trên những nóc nhà của London. Cậu kéo cần điều khiển càng nhiều, cần trục di chuyển càng nhanh. Sự di chuyển của nó trơn tru đến mức hoàn hảo. Chiếc Liebherr 154 này sử dụng một thứ chất lỏng để nối động cơ điện với các cơ cấu khác bên trong, nên nó không bao giờ bị xóc hay bị rung. Chiếc cần trục đang lướt đi. Alex tìm thấy một nút màu trắng nằm bên dưới ngón tay cái, cậu nhấn vào nút trắng đó. Sự chuyển động này dừng lại ngay tức khắc.
Cậu bé đã sẵn sàng. Cậu biết chắc chắn mình có thể làm được chuyện đó, nhưng cậu cũng cần có vận may bất ngờ để không ai nhìn lên mà phát hiện ra rằng chiếc cần cẩu đang vận hành. Cậu bé lại kéo tay trái một lần nữa, lần này, cậu chờ cho đến khi cần trục của chiếc cần cẩu quét ngang qua cầu Putney và nằm bên trên sông Thames. Khi cần trục hướng đúng tới chiếc sà lan, Alex dừng tay lại. Cậu dùng tay kia để điều khiển bộ phận giữ móc cần cẩu. Đầu tiên, cậu cho nó trượt về phía cuối cần trục. Cứ để như vậy, cậu đưa cần trục hạ xuống mặt đất, càng lúc càng chậm. Móc cần cẩu làm bằng kim loại cứng. Nếu nó va phải sà lan, tên Skoda thể nào mà chẳng nghe thấy, và cậu sẽ bị phát hiện. Nào, bây giờ phải thật cẩn thận, từ từ thôi, từng chút, từng chút một. Alex liếm môi, hết sức tập trung, cậu ngắm thật cẩn thận.
Móc cần cẩu va phải sàn sà lan. Alex tự mắng mình. Chắc chắn là tên Skoda đã nghe thấy, hẳn là bây giờ hắn đang vật lộn với cánh cửa. Nhưng rồi Alex chợt nhớ đến chiếc radio cátsét. Thật là may, tiếng nhạc có thể sẽ át được tiếng ồn. Cậu bé nâng chiếc móc cần cẩu lên, cùng lúc đó, đưa nó bay ngang qua sàn. Cậu đã nhìn thấy mục tiêu. Gần cuối sà lan có một cây cột kim loại được hàn cứng vào sàn. Nếu cậu có thể quấn cái móc cần cẩu quanh chiếc cột, cậu sẽ bắt được con cá này. Bây giờ thì cậu chuẩn bị quấn vào nó.
Ở lần thử đầu tiên, Alex bắt hụt chiếc cột những hơn ba mươi xăngtimét. Cậu tự ra lệnh cho mình không được hoang mang. Cậu phải làm điều này thật chậm rãi, bằng không thì sẽ chẳng bao giờ làm được. Cậu bé điều khiển chiếc cần cẩu bằng cả hai tay, tay phải lẫn tay trái, cố gắng để hai tay chuyển động cân xứng với nhau, giờ thì cậu đã đưa được chiếc móc cần cẩu trở lại chiếc cột. Cậu chỉ hy vọng rằng cái radio cátsét vẫn đang chơi nhạc và chiếc móc kim loại đang trượt đi kia không tạo ra quá nhiều tiếng ồn. Lần thứ hai, Alex lại bắt hụt chiếc cột. Việc này chắc không thực hiện nổi rồi ! Không. Cậu sẽ làm được. Nó cũng y chang như trò chơi ở
khu vui chơi ngoài trời thôi... chỉ có điều là nó lớn hơn. Cậu bé nghiến răng lại và điều khiển chiếc móc cần cẩu lần thứ ba. Lần này, cậu đã nhìn thấy điều mong đợi xảy ra. Chiếc móc cần cẩu ôm lấy cây cột. Cậu tóm được nó rồi.
Cậu bé nhìn xuống, vẫn chưa có ai phát hiện thấy điều đang xảy ra. Giờ thì... làm sao mà nhấc nó lên đây ? Cậu kéo tay phải. Chiếc móc siết vào. Sợi dây cáp căng ra. Alex hoàn toàn cảm nhận được sức nặng của chiếc sà lan mà cái cần cẩu của cậu sẽ phải nâng lên. Toàn bộ tháp cần cẩu đang nghiêng đi một cách đáng lo ngại, cậu bé suýt chút nữa là trượt ra khỏi chỗ ngồi. Lần đầu tiên, Alex nghi ngại, cậu không biết kế hoạch của mình liệu có thể hoàn toàn thực hiện nổi hay không. Liệu cái cần cẩu có thể cẩu nổi chiếc sà lan lên khỏi mặt nước không ? Vật nặng tối đa mà nó có thể cẩu được là bao nhiêu ? Ởl cuối cánh tay cần cẩu có dán một tờ giấy trắng, trên tờ giấy có ghi một thông số - 3.900kg. Alex nhẩm tính nhanh. Vậy là gần bốn tấn. Chắc chắn chiếc sà lan không thể nặng như thế. Cậu bé nhìn vào màn hình máy vi tính. Một loạt các con số thay đổi liên tục khiến cậu chẳng đọc được gì cả. Chúng đang hiện thị sức nặng mà chiếc cần cẩu đang tải. Nếu cái sà lan quá nặng thì chuyện gì sẽ xảy ra ? Liệu máy vi tính có chế độ tự động ngưng hoạt động không ? Hay là toàn bộ chiếc cần cẩu sẽ đổ ập xuống ?
Alex ngồi lại ngay ngắn rồi lại tiếp tục kéo chiếc cần điều khiển, tò mò không biết điều gì sẽ xảy đến.
Trong khoang sà lan, Skoda đang mở một chai rượu gin. Hắn đã có một ngày đẹp trời, hắn lời những một trăm năm mươi đôla khi bán hàng cho lũ trẻ con ở ngôi trường cũ. Điều tuyệt vời nhất là tất cả bọn chúng sẽ tiếp tục quay lại để mua hàng. Chẳng bao lâu nữa, hắn sẽ chỉ bán với điều kiện là lũ học trò hứa sẽ rủ rê bạn bè đến mua. Bọn bạn của chúng sẽ lại trở thành khách hàng của hắn. Đây là thị trường béo bở nhất trên thế giới. Hắn đã câu được bọn nhóc. Bây giờ chúng là của hắn, chúng sẽ làm tất cả những gì hắn muốn.
Gã thanh niên tóc vàng đang làm việc cùng với hắn tên là Beckett. Hai gã bọn chúng đã gặp nhau trong tù và hẹn khi được phóng thích sẽ cùng hợp tác làm ăn với nhau. Sà lan là ý tưởng của Beckett. Ở đây chẳng
có nhà bếp, nhà vệ sinh nào cả, vào mùa đông còn bị lạnh cóng nữa... thế nhưng nó rất được việc. Bọn chúng thậm chí còn lấy làm vui khi "đóng đô" gần đồn cảnh sát. Thỉnh thoảng bọn chúng lại thích thú ngắm nhìn những chiếc xe hơi hay tàu của cảnh sát chạy qua. Lẽ dĩ nhiên, tụi cớm chẳng bao giờ nghĩ đến việc cần phải tìm kiếm kẻ phạm pháp ngay trên ngưỡng cửa của chính chúng.
Đột nhiên Beckett chửi rủa.
- Cái quáiii... ?
- Gì thế ? - Skoda ngước lên.
- Cái tách...
Skoda nhìn vào tách cà phê đang nằm trên kệ, nó đang chuyển động. Cái tách nảy sang một bên, rồi rơi xuống đánh xoảng một tiếng, cà phê nguội ngắt đổ cả ra tấm giẻ rách màu xám mà chúng vẫn gọi là tấm thảm. Skoda ngạc nhiên. Hình như chiếc tách tự nó chuyển động. Chẳng có thứ gì đụng vào nó cả. Hắn cười khinh khích.
- Sao mày làm được như thế ?
- Tao đâu có...
- Vậy là...
Gã tóc vàng là người đầu tiên nhận biết việc đang xảy ra - nhưng hắn không thể đoán được sự thật. Hắn kêu lên:
- Chúng ta đang bị đắm.
Hắn lần tới cánh cửa. Skoda cũng đã hiểu ra. Sàn tàu đang nghiêng đi. Những chiếc ống nghiệm và cóc bêse va vào nhau rồi cùng rơi cả xuống sàn. Thủy tinh vỡ dữ dội. Hắn chửi bới om sòm rồi chạy theo Beckett - lúc này thành ra hắn đang phải chạy lên dốc. Mỗi lúc sàn sà lan lại một dốc hơn. Điều lạ là hình như sà lan không hề bị đắm chút nào. Ngược lại, nhìn ra bên ngoài, lại thấy có vẻ như nó đang bay lên khỏi mặt nước. Skoda hét lên:
- Chuyện gì đang xảy ra thế này ?
- Cửa bị khóa rồi !
Beckett cố xoay sở và đã mở hé cửa ra được một chút, nhưng sợi dây bên ngoài đã được cột rất chặt.
- Thử cửa khác đi !
Cửa thứ hai hiện đang ở bên trên chúng. Nhiều chai lọ lăn ra khỏi bàn và vỡ tan. Ở nơi hai gã thường nấu nướng, chén đĩa dơ bẩn va đập vào nhau rồi văng mảnh tung tóe. Không rõ là cằn nhằn hay nức nở, Skoda
đang cố gắng leo lên sườn dốc do chính sàn của sà lan tạo nên. Nó đã trở nên dốc đứng. Cánh cửa giờ đây đang ở trên đầu hắn. Skodar mất thăng bằng, té ngửa về phía sau, kêu thét lên; một giây sau, gã Beckett cũng bị ném xuống, rơi ngay vào người hắn. Hai gã thanh niên lăn vào một góc, vướng vào nhau. Đĩa, cốc, dao, nĩa và hàng tá vật dụng "khoa học" khác rơi cả vào người chúng. Những bức tường trong khoang đang bị ép lại. Một ô cửa sổ đã bị vỡ. Một cái bàn cũng bắt đầu đổi hướng, nó rung lên rồi lao luôn vào hai gã thanh niên. Skoda cảm nhận được một âm thanh kêu thành tiếng "cách" nơi một phần xương tay của mình, hắn hét lên thất thanh.
Chiếc sà lan đã hoàn toàn bị dựng đứng, nó đứng thẳng trong nước đúng chín mươi độ. Nó cứ đứng như thế một lúc. Cuối cùng, nó được nhấc bổng lên...
Alex nhìn chằm chằm vào chiếc sà lan, cậu vô cùng ngạc nhiên. Chiếc cần cẩu đang nâng lên từ từ - nó đang nhấc bổng chiếc sà lan lên, hệ thống nâng bỗng làm việc chậm lại - nhưng nó không có vẻ gì là làm việc quá sức cả. Alex cảm nhận được sức mạnh trong lòng bàn tay của mình. Ngồi trong khoang cần cẩu với hai tay đặt lên hai cần điều khiển, đôi chân dang ra và chiếc cần trục thì đang nhô lên trước mặt, cậu bé có cảm giác như mình và chiếc cần cẩu đã hòa làm một. Cậu chỉ cần khẽ động đậy tay một chút thôi là chiếc sà lan gần bốn tấn sẽ được đưa đến chỗ cậu. Alex thấy rõ điều đó, nó đang đu đưa trên móc cần cẩu và chầm chậm xoay tròn. Nước chảy thành dòng xuôi theo thân chiếc sà lan. Khi đã sạch nước, nó được đưa lên cao theo vận tốc khoảng bốn mét rưỡi một giây. Cậu bé tò mò, không biết bên trong cái khoang ấy hiện đang ra sao.
Ở ngang đầu gối Alex, chiếc radio bắt đầu rít lên:
- Anh thợ điều khiển ! Mặt đất đây. Anh có biết anh đang làm cái quái gì không ? Hết !
Im lặng, chỉ có mỗi tiếng rè rè của chiếc radio. Giọng nói đanh thép lại vang lên:
- Ai đang ở trong cần cẩu vậy ? Ai đang ở trên đó ? Cho biết đi... Trước mặt Alex, ngang với cằm cậu là một cái micrô, cậu muốn nói một điều gì đó, nhưng rồi lại ngưng ngay ý định này. Họ mà nghe thấy giọng nói của một thiếu niên thì chỉ càng thêm hoảng sợ.
Cậu bé nhìn xuống phía giữa hai đầu gối. Cả tá công nhân xây dựng đang bu quanh chân đế. Số khác thì đang chỉ vào chiếc sà lan, mấy người trong số họ đang bàn tán gì đó. Chẳng có tiếng nào lọt được vào khoang cần cẩu. Dường như Alex đã tách mình ra khỏi thế giới bên ngoài rồi. Cậu bỗng cảm thấy an tâm. Cậu không e ngại những người công nhân kia đang chuẩn bị leo lên thang và rồi mọi chuyện sẽ sớm kết thúc, hiện thời, cậu đang là người bất khả xâm phạm. Cậu bé lại tập trung vào công việc của mình. Đưa chiếc sà lan lên khỏi mặt nước mới chỉ là một phần kế hoạch của cậu thôi. Cậu phải tiếp tục làm nốt phần còn lại.
- Này người điều khiển ! Hạ cần trục xuống ! Chúng tôi biết chắc chắn là trong tàu có người và anh đang gây nguy hiểm cho họ. Tôi lặp lại. Hạ cần trục xuống !
Chiếc sà lan đang ở cách mặt nước sáu mươi mốt mét, nó đang đung đưa bên dưới chiếc móc cần cẩu. Alex di chuyển tay trái, đưa chiếc cần cẩu sang một bên, khiến chiếc sà lan đánh một vòng cung chuyển từ sông sang đất liền. Chợt ở đâu đó phát ra tiếng vo vo. Chiếc cần trục bỗng dừng lại. Alex kéo cần điều khiển. Chẳng thấy động tĩnh gì. Cậu bé nhìn vào màn hình máy vi tính. Màn hình trắng xóa.
Có người nào đó dưới mặt đất đã biết phải làm gì, người ta đã hành động chính xác. Anh ta tắt điện nguồn. Chiếc cần cẩu không còn hoạt động được nữa.
Alex vẫn ở nguyên trong khoang cần cẩu, nhìn chiếc sà lan đang đung đưa theo những cơn gió nhẹ. Cậu bé không hoàn toàn thành công như dự định. Cậu tính hạ chiếc sà lan xuống - cũng là điều đang mong muốn của nó - một cách thận trọng xuống bãi để xe ở đồn cảnh sát. Những nhà chức trách sẽ có một sự ngạc nhiên thú vị lắm đây, cậu đã nghĩ như vậy. Nhưng thay vì thế chiếc sà lan lại nằm ngay bên trên trung tâm tổ chức hội nghị mà cậu đã thấy từ lúc ở trên cầu Putney. Đã là cuối ngày rồi, cậu thấy như vậy cũng chẳng có gì khác. Kết quả cũng như nhau mà thôi.
Cậu bé duỗi tay ra, thư giãn, chờ đợi cửa mở. Toàn bộ chuyện này thật khó mà giải thích.
Bỗng một tiếng kẽo kẹt vang lên, cậu nghe thấy rõ mồn một. Chiếc cột kim loại nhô lên ở cuối sà lan không bao giờ được thiết kế để mang vác toàn bộ sức nặng của con tàu. Nội việc nó gánh trọng lượng này từ nãy đến giờ đã là một phép màu rồi. Alex nhìn thấy rất rõ, cậu há hốc mồm, chiếc cột đang từ từ bung ra. Vài giây sau, nó vẫn có níu lấy
chiếc sà lan. Nhưng rồi chiếc đinh tán cuối cùng cũng nảy bật ra khỏi con tàu.
Chiếc sà lan gần bốn tấn đang ở cách mặt đất sáu mươi mốt mét. Giờ thì nó bắt đầu rơi xuống.
Bên trong Trung tâm tổ chức Hội nghị bên bờ sông Putney, cảnh sát trưởng trực thuộc đội Cảnh sát Thủ đô đang đọc diễn văn trước một đám đông các nhà báo, các nhà quay phim truyền hình, các công chức và những quan chức chính phủ. Ông ta cao, gầy và trông rất nghiêm trang. Bộ đồng phục màu xanh dương đậm của ông ta phẳng phiu, lấp lánh ánh bạc - từ những cái khuy trên cầu vai cho đến năm chiếc mề đay - đều được đánh bóng đến sáng lóa. Hôm nay là một ngày trọng đại của ngài cành sát trưởng, ông đang chia sẻ bục đứng của mình với một nhân vật rất quan trọng, đó là ngài Bộ trưởng Bộ nội vụ. Ngài phụ tá cảnh sát trưởng cũng có mặt ở đó cùng bảy sĩ quan nữa ở các cấp bậc thấp hơn. Một khẩu hiệu đang được chiếu lên bức tường phía sau lưng ngài cảnh sát trưởng:
THẮNG LỢI TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG MA TÚY Trên nền áo xanh dương là những chiếc huy hiệu bạc. Xem ra, ngài cảnh sát trưởng đã chọn cho mình bộ quần áo rất phù hợp, ông biết rằng những chiếc huy hiệu bạc là rất thích hợp với bộ đồng phục của mình, ông rất thích cái khẩu hiệu, ông biết rằng ngày hôm sau, tất cả các tờ báo lớn sẽ đăng tải cái khẩu hiệu này lên - song song với nó, cũng quan trọng không kém, là tấm ảnh của ông.
- Chúng tôi không hề bỏ qua chuyện gì cả !
Ông đang phát biểu, giọng nói của ông vang vang khắp khán phòng hiện đại. Ông nhìn thấy cánh nhà báo đang hí hoáy ghi ghi chép chép từng lời của mình. Tất cả các máy camêra truyền hình đều hướng ống kính về phía ông.
- Xin dành lời cảm ơn đến những cá nhân đã nỗ lực tham gia. Chúng ta chưa bao giờ thành công đến như thế - Ông mỉm cười với ngài Bộ trưởng Bộ nội vụ, ông này cũng cười đáp lại - Nhưng chúng ta không được tự mãn với vinh dự này. Không, không được ! Từ ngày hôm nay, chúng ta hy vọng sẽ lại thông báo về một chiến công khác.
Đúng lúc đó, chiếc sà lan rơi xuống, làm vỡ tan tấm mái thủy tinh của trung tâm tổ chức hội nghị. Một cơn chấn động dữ dội. Ngài cảnh sát trưởng chỉ có đủ thời gian để né sang chỗ khác khi một vật khổng lồ, chảy nước, lao thẳng xuống ngài. Ngài Bộ trường Bộ nội vụ bị hất về phía sau, cặp mắt kính của ngài văng ra khỏi khuôn mặt. Những người hộ tống ngài đứng như trời trồng, không biết làm gì cả. Con tàu lao thẳng vào khoảng trống trước mặt họ, giữa bệ đứng và khán giả. Một bên khoang sà lan bị giật tung, phòng thí nghiệm lộ ra cùng với hai tên buôn hàng trắng nằm thẳng cẳng ở một góc, mở mắt thao láo đầy ngạc nhiên nhìn vào hàng trăm cảnh sát và quan chức đang vây quanh mình. Một đám mây bột trắng ở trên cao đột ngột đổ ập xuống bộ đồng phục màu xanh dương đậm của ngài cảnh sát trưởng, phủ từ đầu tới chân ông. Tất cả còi báo cháy nhất loạt vang lên. Đèn đóm tắt ngúm. Người ta bắt đầu kêu thét lên.
Trong lúc đó, một người công nhân xây dựng đã lên đến khoang cần cẩu, anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy một cậu bé mười bốn tuổi đang ngồi ở trong đó.
- Màyyy... - Anh ta lắp bắp - Mày có nhận thức được là mình vừa làm cái gì không hả ?
Alex nhìn chằm chằm vào cái móc cần cẩu trống không và vào cái lỗ hổng trên nóc trung tâm tổ chức hội nghị, bụi và khói đang bốc lên ở đó. Cậu nhún vai ra chiều xin lỗi.
- Cháu chỉ đang "xử lý" tội phạm - Cậu bé lên tiếng - Cháu nghĩ rằng màn đã hạ rồi.
IV
QUAN SÁT RỒI BÁO CÁO !
Ít ra họ cũng đã không phải tốn quá nhiều thời gian để đến chỗ Alex. Hai người đàn ông "áp tải" cậu bé xuống khỏi khoang cần cẩu, một người đứng bên trên và một người đứng ở bên dưới thang. Còn cảnh sát thì đang đứng đợi ở dưới đất. Cậu bé bị dẫn ra khỏi khu xây cất, trước những cặp mắt tò mò của các công nhân xây dựng, để đến đồn cảnh sát chỉ cách đó vài căn nhà. Khi đi ngang qua trung tâm tổ chức hội nghị, cậu nhìn thấy đám đông đang chạy túa ra ngoài. Các xe cứu thương đã được điều tới. Ngài Bộ trưởng Bộ nội vụ đang ngồi trong một chiếc xe hơi đen sang trọng lướt nhanh như gió rời khỏi hiện trường. Lần đầu tiên, Alex cảm thấy lo lắng thật sự, cậu không biết có ai bị chết không. Cậu không ngờ kết cục lại như thế.
Khi họ vào đến đồn cảnh sát, mọi thứ như quay cuồng với những cánh cửa đóng sầm lại, những gương mặt không có cảm xúc của các viên chức nhà nước, những bức tường quét với trắng muốt, những giấy tờ và các cuộc điện thoại. Alex được hỏi tên, tuổi, địa chỉ. Cậu thấy một hạ sĩ cảnh sát đang gõ thông tin vào máy vi tính, điều xảy ra tiếp theo khiến cậu vô cùng ngạc nhiên. Khi viên hạ sĩ nhấn vào nút ENTER, anh ta rõ ràng như hóa đá. Viên hạ sĩ quay sang nhìn chằm chằm vào Alex rồi vội vã rời khỏi ghế. Từ lúc đặt chân vào đồn cảnh sát, Alex đã trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, bỗng dưng giờ đây, mọi người lại có vẻ muốn lảng tránh ánh mắt của cậu. Một viên cảnh sát có cấp bậc cao hơn xuất hiện. Người ta trao đổi với nhau vài lời. Cuối cùng, Alex được đưa đến một lối đi dẫn vào một căn phòng.
Nửa tiếng đồng hồ sau, một nữ cảnh sát xuất hiện cùng một khay thức ăn. Cô nói:
- Ăn tối.
- Tiếp theo sẽ là gì ạ ?
Alex hỏi. Người phụ nữ chỉ mỉm cười một cách lo lắng nhưng chẳng nói gì. Cậu bé nói tiếp:
- Cháu để xe đạp gần chỗ cây cầu.
- Được rồi. Bọn cô sẽ đến đấy lấy xe.
Nói rồi, cô ta rời khỏi phòng thật nhanh.
Alex ăn hết tất cả: xúc xích, bánh mì nướng, bánh ngọt. Trong phòng có một cái giường ngủ, đằng sau tấm màn che là lavabô và phòng vệ sinh. Cậu bé tự hỏi không biết liệu sẽ còn có ai vào, nói chuyện với mình nữa không; nhưng đã không hề có ai đến. Cuối cùng, cậu bé ngủ thiếp đi.
Điều xảy đến tiếp theo, đó là vào lúc bảy giờ sáng hôm sau. Cánh cửa bật mở, một người đàn ông mà cậu bé biết rất rõ đang đứng ở bên giường nhìn xuống cậu.
- Chào Alex - ông ta lên tiếng.
- Ông Crawley.
John Crawley trông giống một người quản lý ngân hàng cấp dưới, lần đầu tiên Alex gặp ông ta, ông ta đã làm ra vẻ như mình đang làm việc trong một ngân hàng. Bộ complê rẻ tiền cùng với chiếc cà-vạt kẻ sọc ông ta đang mặc đều là trang phục của nhãn hiệu Macy dành riêng cho "nhà doanh nghiệp nhạt nhẽo". Thật ra, ông Crawley làm việc cho MI6. Alex không hiểu bộ quần áo ấy chỉ là vỏ bọc hay là sự lựa chọn của chính ông ta nữa.
- Giờ thì cậu có thể đi với tôi được rồi - ông Crawley nói - Chúng ta sẽ rời khỏi đây.
- Ông sẽ đưa tôi về nhà hả ? - Alex hỏi. Cậu bé hiểu người ta đã báo cho ông ta biết rằng cậu đang ở đâu.
- Không. Chưa đâu.
Alex bước theo ông Crawley ra khỏi tòa nhà. Lần này, cậu không nhìn thấy bóng dáng của viên sĩ quan cảnh sát nào cả. Một chiếc xe hơi cùng một người tài xế đang đợi ở bên ngoài, ông Crawley ngồi vào hàng ghế sau cùng với Alex.
- Chúng ta sẽ đi đâu ? - Alex hỏi.
- Cậu sẽ biết ngay thôi mà.
Ông Crawley mở bản sao của tờ nhật báo Điện tín ra và bắt đầu đọc. Ông ta chẳng nói thêm một lời nào nữa.
Chiếc xe đi về hướng đông, ngang qua trung tâm thương nghiệp và tài chính của thành phố London để ra đường Liverpool. Alex lập tức hiểu ngay là mình đang được đưa đi đâu, không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc xe hơi lái lên lối vào một tòa nhà mười bảy tầng gần nhà ga rồi biến mất dưới một cái dốc dẫn xuống bãi xe nằm bên dưới mặt đất. Alex đã từng đến đây. Tòa nhà được ngụy tạo là trụ sở của Ngân hàng Royal & General. Nhưng thật ra, đây là nơi đặt căn cứ của Phân Khu chuyên về Các hoạt động Đặc biệt trực thuộc MI6.
Chiếc xe hơi dừng lại, ông Crawley gấp tờ báo rồi bước ra khỏi xe, ông đưa Alex tiến về phía trước. Dưới tầng hầm có một thang máy, hai người bước vào và lên tầng mười sáu.
- Lối này.
Ông Crawley ra hiệu, chỉ vào một cánh cửa có ghi chú 1605. Âm mưu "đánh bom" Quốc hội, Alex chợt nghĩ như vậy. Chỉ là một ý nghĩ buồn cười chợt hiện lên trong đầu cậu thôi, nó là một chi tiết nhỏ nằm trong bài tập lịch sử mà lẽ ra cậu bé phải làm vào tối hôm qua. Chẳng gì thì vào năm 1605, Guy Fawkers đã từng có âm mưu làm nổ tung Quốc hội kia mà. Cũng được, xem ra bài tập về nhà đành phải gác lại rồi.
Alex mở cửa, bước vào trong, ông Crawley không vào theo. Khi Alex đảo mắt nhìn quanh, cậu thấy ông ta đang dợm bước chân đi. - Vào đi, Alex, và đóng cửa lại.
Một lần nữa, Alex lại nhận ra mình đang đứng trước một người đàn ông nghiêm nghị, không biết cười với người khác bao giờ, và đang điều hành MI6. Bộ complê xám, gương mặt xám, và cuộc đời cũng toàn một màu xám xịt... Xem ra ông Alan Blunt này hoàn toàn thuộc về một thế giới nhạt nhẽo, vô vị. Ông ta đang ngồi sau chiếc bàn gỗ, trong một căn phòng rộng rãi và vuông vức, chẳng khác chi những văn phòng kinh doanh khác trên thế giới. Trong phòng không có một vật dụng cá nhân nào, thậm chí một bức tranh treo tường hay một tấm ảnh trên bàn cũng không. Ngay cả những chú chim bồ câu đang mổ mổ trên bậu cửa sổ cũng màu xám nốt.
Ông ta không ở một mình. Bà Jones, người chỉ huy các hoạt động đặc biệt cũng đang có mặt ở trong phòng, bà ta đang ngồi trên chiếc ghế bọc da, mặc bộ đầm vét màu nâu đất, và như thường lệ, đang nhấm nháp một viên kẹo bạc hà. Người phụ nữ ngước lên nhìn Alex bằng đôi mắt đen, long lanh. Bà ta có vẻ vui hơn người chỉ huy của mình khi nhìn thấy Alex. Chính bà là người đã mời Alex vào. Ông Blunt cũng chỉ vừa nhận ra sự có mặt của cậu bé trong phòng.
Ông ta ngước mặt lên và lên tiếng:
- Tôi không mong là mình sẽ gặp lại cậu sớm như vậy.
- Đó là điều tôi cũng định nói đấy. - Alex trả lời.
Trong văn phòng chỉ còn một chiếc ghế trống. Cậu bé ngồi xuống đấy.
Ông Blunt với lấy một tờ giấy ở trên bàn, xem thoáng qua.
- Cậu đã nghĩ đến cái gì vậy ? - ông ta gặng hỏi - Cậu đã làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Cậu gần như đã phá hủy nguyên một trung tâm tổ chức hội nghị trị giá ba triệu đôla. Đúng là một phép màu khi không có ai bị tử vong cả.
- Hai người đàn ông ở trong tàu sẽ phải nằm viện mấy tháng - Bà Jones nói thêm vào.
- Cậu đã có thể giết chết được ngài Bộ trưởng Bộ nội vụ rồi đấy - ông Blunt tiếp tục nói - Chỉ xém chút nữa thôi. Cậu đã làm cái gì vậy ? - Họ là những kẻ buôn bán ma túy mà.
- Chúng tôi đã biết rồi. Nhưng lẽ ra cậu phải gọi cảnh sát chứ. - Tôi không tìm thấy điện thoại, - Alex thở dài - Họ đã tắt máy cần cẩu. Chứ nếu không, tôi đã đặt được chiếc tàu xuống đồn cảnh sát rồi. Ngay tại ngưỡng cửa.
Ông Blunt chớp chớp mắt rồi phẩy tay như thể gạt bỏ mọi chuyện đã xảy ra.
- Thân phận đặc biệt của cậu đã hiện ngay trên màn hình vi tính của cảnh sát - ông ta thuật lại - Họ gọi cho chúng tôi, và chúng tôi đã phải thu dọn tàn cuộc.
- Tôi không hề biết là mình có một thân phận đặc biệt. - Alex nói. - Ồ, có đấy, Alex. Cậu mà không đặc biệt thì cậu chẳng là gì cả. Ông Blunt nhìn chằm chằm vào cậu bé một lát rồi nói tiếp: - Đó là lý do vì sao cậu có mặt ở đây.
- Thế ông không đưa tôi về nhà sao ?
- Không. Thực ra, Alex ạ, dù sao thì chúng tôi cũng đã nghĩ đến việc liên lạc với cậu. Chúng tôi lại phải cần đến cậu.
- Chắc chắn cậu là người duy nhất có thể làm được những gì chúng tôi đề ra. - Bà Jones nói thêm vào.
- Chờ đã ! - Alex lắc đầu - Cho tới lễ Phục sinh thì tôi vẫn còn phải đi học hai tuần nữa. Mà tôi thì trễ nãi nhiều bài vở lắm rồi. Làm sao đây, tôi không có tâm trí đâu ?
Bà Jones thở dài, nói:
- Chúng tôi có thể, dĩ nhiên rồi, đưa cậu trở lại đồn cảnh sát. Tôi biết rằng họ đã rất háo hức khi nói chuyện với cậu.
- Còn cô Starbright thì sao ? - ông Blunt hỏi.
Jack Starbright - Alex vẫn không biết cái tên ngắn ngủn của cô là tên gọi tắt của Jackie hay Jacqueline - là người quản gia vẫn trông nom Alex kể
từ lúc bác cậu không còn nữa. Đây là một cô gái người Mỹ thông minh có mái tóc đỏ, cô đã đến London để học luật nhưng rồi gắn bó với nơi này luôn, ông Blunt không tin tưởng cô lắm - Alex biết điều đó. Lần cuối cùng cậu bé và người quản gia gặp nhau là lúc ông Blunt thông báo cho cậu biết về "số phận" của cậu. Chỉ cần Alex làm theo những gì ông ta bảo thì cậu sẽ vẫn được ở lại căn nhà của người bác quá cố cùng với Jack. Nếu cậu làm trái ý ông ta thì người quản gia sẽ bị trục xuất về Mỹ.
Alex rất quí Jack. Suốt mười năm qua, cô như một người chị lớn của cậu. Cậu bé cần có cô. Cậu biết rằng mình vẫn còn quá nhỏ để có thể sống một mình, mà người quản gia thì không có quyền chăm sóc cậu, thẩm quyền này thuộc về những người khác. Đó sẽ là một tổ chức từ thiện hà khắc nào đó ở miền Bắc nước Anh. Ông Blunt đã nói rõ với cậu chuyện đó rồi.
- Các người đã nói với cô Jack là tôi ở đâu chưa ? - Cậu hỏi. - Dĩ nhiên là rồi. Xem ra cô ấy không thích chuyện chúng tôi... mời cậu làm việc. Giờ thì tôi sẽ phải ghi nhớ để bảo Jack ký tên vào Đạo luật Cấm tiết lộ Bí mật quốc gia mới được. Tôi không muốn cô ta kể lung tung với những người không tốt.
Đến lượt bà Jones xen vào. Bà ta nói:
- Nào Alex. Tại sao cậu lại cứ phải giả cách làm một cậu học sinh bình thường như thế chứ hả ?
Bà ta có nói bằng một giọng thân mật, có làm ra vẻ như là một người mẹ. Ngay cả con rắn cũng còn có mẹ nữa là, Alex thầm nghĩ. - Cậu đã chứng tỏ mình được một lần rồi - Bà Jones tiếp tục nói - Chúng tôi sẽ tạo cho cậu một cơ hội nữa.
- Hầu như chắc chắn là sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu - ông Blunt tiếp lời - Chỉ cần để ý vài thứ thôi. Cái đó chúng tôi gọi là quan sát rồi báo cáo.
- Sao ông Crawley không làm ?
- Chúng tôi cần một cậu bé.
Alex im lặng. Cậu hết nhìn ông Blunt lại nhìn sang bà Jones. Cậu biết rằng cả hai người này đều không hề do dự lấy một giây khi muốn kéo cậu ra khỏi ngôi trường Brookland, tách cậu ra khỏi bạn bè, và gửi cậu... đến bất cứ đâu. Dù sao đi nữa, đây chẳng phải là điều mà mới hôm qua, cậu đã mong ước đó sao ? Một cuộc phiêu lưu khác. Một cơ hội khác để cứu lấy thế giới này.
- Được rồi - Cậu bé nói - Lần này là gì vậy ?
Ông Blunt nhìn bà Jones, gật đầu; bà ta bóc một viên kẹo bạc hà khác và hỏi lại:
- Tôi không rõ là cậu có biết tí gì về người đàn ông có tên là Michael J. Roscoe không ?
Alex suy nghĩ một lát. "Ông ấy là nhà doanh nghiệp vừa bị tai nạn ở New York - Cậu bé đã xem bản tin trên tivi - Không phải là do ông ấy bị rơi xuống khoang thang máy sao, hay là chuyện gì khác ?"
- Tập đoàn Điện tử Roscoe là một trong những tập đoàn lớn nhất nước Mỹ - Bà Jones giải thích - Thật ra, nó là một trong những tập đoàn lớn nhất thế giới. Máy vi tính, đầu máy video, đầu đĩa DVD... tất cả mọi thứ, từ điện thoại di động cho đến máy giặt. Roscoe là một người rất giàu, rất có thế lực.
- Và rất vụng về - Alex cắt ngang.
- Tất nhiên, có thể thấy đó là một tai nạn kỳ quặc, thậm chí là một tai nạn do cẩu thả nữa - Bà Jones đồng ý - Không hiểu sao thang máy bị trục trặc. Còn ông Roscoe thì không để ý xem mình đang đi đâu. Ông ta rơi xuống khoang thang máy và chết. Đó là ý kiến chung. Tuy nhiên, chúng tôi không tin như vậy.
- Tại sao ông bà không tin ?
- Trước tiên, có một số chi tiết mà người ta không xét đến. Vào ngày ông Roscoe chết, một kỹ sư bảo dưỡng có cái tên là Sam Green đã ghé đến tòa nhà cơ quan ở Đại lộ Số Năm, nơi ông Roscoe làm việc. Chúng tôi hiểu đó là Green - hay một ai khác trông rất giống ông ta - bởi vì chúng tôi chưa thấy mặt mũi ông Green bao giờ. Bọn họ có hệ thống camêra theo dõi nên ông ta bị ghi hình lúc bước vào. Ông ta bảo là đến xem lại sợi cáp bị hư. Nhưng theo công ty nhận ông ta vào làm thì chẳng có sợi cáp nào bị hư cả, và dĩ nhiên là ông ta đến mà không có chỉ thị của họ.
- Sao các người không nói chuyện với ông Green ?
- Chúng tôi muốn lắm chứ. Nhưng ông này đã biến mất tăm, chẳng để lại một dấu vết gì. Chúng tôi nghĩ là có thể ông ấy đã bị giết. Chúng tôi cho rằng có người đã thế chỗ của ông ta và bằng cách nào đó, đã sắp đặt vụ tai nạn nhằm sát hại ông Roscoe.
Alex nhún vai.
- Tôi rất tiếc. Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện ông Roscoe. Nhưng mà, chuyện này thì có liên quan gì đến tôi ?
- Tôi sắp nói đây - Bà Jones ngập ngừng - Điều kỳ lạ nhất là trước hôm ông Roscoe chết một ngày, ông Roscoe đã gọi điện thoại đến văn phòng này. Một cuộc gọi cá nhân, ông ta muốn nói chuyện với ông Alan Blunt.
- Tôi có quen với ông Roscoe ở trường Đại học Cambridge - ông Blunt kể - Chuyện đó qua lâu rồi. Chúng tôi đã trở thành bằng hữu của nhau.
Điều này khiến Alex ngạc nhiên. Cậu bé không nghĩ rằng một người như ông Blunt mà cũng có bạn. Cậu hỏi:
- Thế ông ấy nói gì ?
- Thật không may, hôm ấy tôi không có ở đây để nhận điện thoại - ông Blunt trả lởi - Tôi có thu xếp để ngày hôm sau sẽ nói chuyện với ông ta. Nhưng lúc đó thì lại là quá trễ rồi.
- Các người có biết là ông ấy cần gì không ?
- Tôi đã nói chuyện với thư ký của ông Roscoe - Bà Jones nói - Cô ta không thể kể nhiều, cô ta chỉ biết rằng ông Roscoe muốn nói chuyện với chúng tôi về cậu con trai, ông ấy có một cậu con trai mười bốn tuổi, Paul Roscoe.
Một cậu con trai mười bốn tuổi. Alex bắt đầu hiểu rằng họ đã đi vào vấn đề.
- Paul là con trai duy nhất của ông Roscoe - ông Blunt giải thích - Tôi e rằng tình cảm cha con của họ bị trục trặc, ông ta đã ly dị vợ từ mấy năm trước, mặc dù cậu bé chọn sống với bố nhưng hai cha con họ lại không hòa thuận với nhau. Đó là những vấn đề thường gặp ở thanh thiếu niên, cũng phải thôi, nhất là khi cậu ta lớn lên giữa hàng triệu đôla, thì những vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn. Ở trường, Paul rất hư hỏng. Cậu ta thường trốn học đi chơi và phí phạm thời gian cho những đứa bạn trời ơi đất hỡi. Rồi Paul gặp rắc rối với cảnh sát New York - không có gì nghiêm trọng, nhưng ông Roscoe muốn bưng bít chuyện này - và chuyện đó đã làm cho ông ấy đau khổ. Thỉnh thoảng, tôi có nói chuyện với ông Roscoe. Ông ta rất lo lắng về Paul và cảm thấy cậu bé ngày càng bất trị. Xem ra, ông ta không thể làm gì nhiều.
- Thế thì ông muốn tôi phải làm gì ? - Alex ngắt lời ông Blunt - ông muốn tôi phải gặp cậu này để nói cho cậu ta biết về cái chết của người bố à ?
- Không - ông Blunt lắc đầu, vừa đưa cho bà Jones một tệp hồ sơ.
Người phụ nữ mở ra. Alex thoáng nhìn thấy một tấm ảnh: một người đàn ông có nước da ngăm ngăm trong bộ quân phục.
- Cậu hãy nhớ lại điều chúng tôi đã kể với cậu về ông Roscoe - Bà ta nói - Bởi vì bây giờ tôi muốn kể cho cậu nghe về một người đàn ông khác. Bà Jones đưa cho Alex xem tấm hình.
- Đây là Thiếu tướng Viktor Ivanov. Sĩ quan KGB cũ. Cho đến tháng Mười Hai năm ngoái, ông ta vẫn là chỉ huy Cục Tình báo Ngoại giao và là nhân vật có thế lực thứ hai hoặc thứ ba ở Nga, sau tổng thống. Nhưng ông ta cũng đã gặp chuyện. Đó là một vụ tai nạn tàu thuyền trên biển Đen. Chiếc tuần dương hạm của ông ta bị nổ... chẳng ai biết tại sao.
- Ông ta có phải là bạn của ông Roscoe không ?
- Chắc chắn là họ chưa bao giờ gặp nhau. Nhưng ở đây, chúng tôi có một bộ phận thường xuyên theo dõi tin tức thế giới và các máy vi tính của họ vừa phát hiện ra một vụ trùng hợp rất lạ lùng, ông Ivanov cũng có một cậu con trai mười bốn tuổi... tên là Dimitry. Một điều chắc chắn là Ivanov con với Roscoe con có biết nhau, vì hai cậu bé này cùng học chung một trường.
- Paul và Dimitry... - Alex cảm thấy khó hiểu - Cái cậu người Nga đó cũng học ở New York à ?
- Cậu ta không hề ở New York - ông Blunt ngẩng mặt lên - Như tôi đã kể với cậu rồi đấy, ông Roscoe có vấn đề với cậu con trai. Vấn đề ở trường. Vấn đề ở nhà. Thế nên năm ngoái, ông ta quyết định làm một việc, ông gửi Paul đến châu Âu, một nơi ở Pháp, ở đó có một loại trường dành cho con cái của các nhà giàu. Cậu biết trường dành cho con nhà giàu là gì không ?
- Tôi nghĩ đó là nơi người giàu hay gửi con cái của mình đến - Alex trả lời - để học về các phép tắc trong ăn uống.
- Đó là suy nghĩ chung thôi. Trường này thực ra chỉ dành cho con trai, và không phải là con trai bình thường đâu. Học phí là mười lăm ngàn đôla một học kỳ. Đây là quyển sách thông tin về nó. Cậu xem qua đi.
Nói rồi, ông ta đưa cho Alex một quyển sách vuông vức. Những chữ vàng được khắc ngoài bìa đen, chỉ vỏn vẹn có hai từ: ĐỈNH TUYẾT. Ông Blunt giải thích:
- Nó nằm ngay ở biên giới giữa Pháp và Thụy Sĩ. Phía Nam thành phố Geneva của Thụy Sĩ. Cao hơn thành phố Grenoble của Pháp, nằm trong dãy núi Anpơ. Nó được phát âm là Point Blanc... - ông ta đọc những
từ này bằng giọng Pháp - Có nghĩa là đỉnh tuyết. Đây là một nơi đặc biệt. Một người mất trí nào đó đã cho xây nó thành nhà riêng của mình vào thế kỷ thứ mười chín. Thế rồi sau khi ông ta chết đi, căn nhà trở thành một bệnh viện tâm thần. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, người Đức đã chiếm giữ căn nhà này. Họ biến nó thành một câu lạc bộ giải trí dành cho các quan chức cấp cao của họ. Sau đó, tòa nhà rơi vào tình trạng hư nát cho đến ngày chủ nhân hiện nay của nó mua lại, đó là một người đàn ông tên Grief. Tiến sĩ Hugo Grief. Ông ta là hiệu trưởng của trường học.
Alex mở quyển sách ra, cậu nhận thấy mình đang nhìn vào một tấm ảnh màu chụp Đỉnh Tuyết, ông Blunt nói đúng. Ngôi trường chẳng giống bất kỳ thứ gì mà cậu từng nhìn thấy, nó vừa giống lâu đài của Đức, lại vừa giống lâu đài của Pháp, như bước thẳng ra từ truyện cổ Grimm. Nhưng điều khiến Alex phải hít lấy một hơi dài, không phải là bản thân tòa nhà, mà chính là vị trí của nó. Ngôi trường được xây dựng trên một đỉnh núi, xung quanh chẳng có gì khác ngoài núi và núi, giữa một khung cảnh tuyết phủ bỗng hiện lên một tòa nhà đồ sộ được xây bằng gạch và đá. Xem ra tòa lâu đài không được phép tọa lạc ở đó, như thể nó phải chìm theo một thành phố cổ nào đó chứ không phải còn sót lại một cách tình cờ như thế này. Không có con đường nào dẫn lên hay dẫn xuống cả. Tuyết phủ bốn bề, che hết lối dẫn vào cổng trước. Nhưng khi nhìn kỹ lại một lần nữa, Alex bỗng trông thấy một bãi đáp máy bay trực thăng ở bên trên thành lũy. Cậu tin rằng đó là lối duy nhất để đến đó... và thoát ra.
Cậu bé giở sang một trang khác.
Chào mừng bạn đến với trường đào tạo đặc biệt trên Đỉnh Tuyết, đây là câu mở đầu lời giới thiệu, được in bằng loại chữ mà Alex có thể tìm thấy trong thực đơn của một nhà hàng sang trọng. Một ngôi trường độc nhất vô nhị, hơn hẳn bất cứ một trường học nào khác, được thiết kế để dành riêng cho các em trai muốn đạt được hiệu quả về giáo dục hơn hẳn hệ thống giáo dục thông thường mang lại. Hiện nay, người ta gọi trường của chúng tôi là trường dành cho những "trẻ em ngỗ nghịch", nhưng chúng tôi không tin vào những định kiến đó. Trẻ em là trẻ em, ngỗ nghịch là ngỗ nghịch. Mục đích của chúng tôi là không để cho hai vấn đề đó đi liền với nhau.
- Không cần phải đọc toàn bộ cái thứ đó đâu - ông Blunt bảo - Tất cả những gì cậu cần biết là cái trường đào tạo đặc biệt ấy chỉ tiếp nhận những nam sinh đã bị đuổi học từ các trường khác, ở đó cũng chẳng bao giờ có
nhiều học sinh - mỗi lần nhận, họ chỉ nhận cỡ sáu hay bảy người. Vấn đề trước hết là chỉ có con trai của những người siêu giàu mới được vào học. - Mười lăm ngàn đôla một học kỳ, tôi không ngạc nhiên đâu - Alex nói.
- Cậu chỉ cần ngạc nhiên khi biết rằng có bao nhiêu ông bố bà mẹ đã chấp nhận gửi con vào đó - ông Blunt tiếp lời - Tôi nghĩ rằng một khi cậu theo dõi báo chí, thì sẽ dễ dàng thấy rằng khi người ta sinh ra trong nhung lụa thì người ta sẽ dễ dàng trở nên điên rồ như thế nào. Chẳng có gì lạ nếu bố mẹ là những chính trị gia hay những ngôi sao nhạc pop lừng danh và đầy may mắn lại hay gặp những vấn đề rắc rối với con cái... Càng thành công bao nhiêu, có vẻ như họ lại càng phải chịu áp lực nhiều bấy nhiêu. Trường đào tạo đặc biệt được mở ra là để uốn nắn những người trẻ tuổi, và nhờ những khoản tiền thu được ấy mà nhà trường đã trở nên cực kỳ thành công.
- Trường được thành lập cách đây hai mươi năm - Bà Jones nói - Vào thời đó, trường đã nắm trong tay cả một danh sách tên các khách hàng với những tên tuổi mà cậu sẽ thấy khó mà tin được. Lẽ tất nhiên là họ phải luôn giữ lại những cái tên ấy. Tôi có thể tiết lộ cho cậu biết những ông bố bà mẹ đã gửi con đến đấy, phó tổng thống Mỹ này, một khoa học gia đã đạt giải thưởng Nobel này, một người trong hoàng gia của chúng ta nữa.
- Cũng giống như ông Roscoe và người đàn ông này, ông Ivanov - Alex nói.
- Đúng vậy.
Alex nhún vai:
- Chỉ là trùng hợp thôi. Như hai người vừa kể đó. Hai ông bố nhà giàu có hai đứa con nhà giàu cùng học chung một trường. Thế rồi cả hai ông bố đều bị giết hại một cách đột ngột. Tại sao ông bà không chịu chấp nhận điều đó.
- Bởi vì tôi không thích sự trùng hợp - ông Blunt trả lời - Thực ra, tôi không tin vào sự trùng hợp, tôi nhìn thấy ở đây có âm mưu. Đó là công việc của tôi.
Và bạn luôn được trường học chào đón, Alex chợt nhớ ra. Cậu nói: - Ông thực sự nghĩ rằng ngôi trường và người đàn ông này - Grief - đã nhúng tay vào hai vụ giết người phải không ? Tại sao ? Phải chăng hai ông bố đã quên trả học phí ?
Ông Blunt không hề mỉm cười.
- Ông Roscoe điện thoại cho tôi vì ông ấy lo lắng cho con trai của mình. Ngày hôm sau thì người đàn ông này chết. Chúng tôi cũng biết được nguồn tin từ tình báo Nga cho hay rằng một tuần trước khi ông Ivanov chết, ông ta đã có một cuộc tranh cãi dữ dội với con trai. Dường như ông Ivanov rất lo lắng về một điều gì đó. Giờ thì cậu đã thấy mối liên kết rồi chứ ?
Alex ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Thế nên ông muốn tôi đến dòm ngó ngôi trường này chứ gì. Ông phải xoay sở thế nào đây ? Tôi không có bố mẹ, và dù sao thì họ cũng chưa bao giờ giàu có cả.
- Chúng tôi đã thu xếp chuyện đó rồi - Bà Jones trả lời.
Alex chợt nhận ra rằng người phụ nữ này hẳn đã lên kế hoạch đâu vào đó rồi, trước khi vụ việc chiếc cần cẩu xảy ra. Cho dẫu cậu không thu hút quá nhiều sự chú ý của mọi người thì họ cũng vẫn sẽ đến tìm cậu
- Chúng tôi sẽ tặng cho cậu một ông bố giàu có. Ông ấy là ngài David Friend.
- Friend... trong hệ thống siêu thị Friend ư ?
Alex thường xuyên nhìn thấy cái tên này trên báo chí.
- Hệ thống siêu thị. Hệ thống cửa hàng tổng hợp. Các phòng trưng bày nghệ thuật. Những đội bóng đá - Bà Jones ngừng lại một lát - Dĩ nhiên là Friend cũng cùng hội với Roscoe. Họ cùng là hội viên của câu lạc bộ Những nhà tỷ phú. Friend còn là người có ảnh hưởng trong nội các chính phủ với cương vị là cố vấn riêng của ngài thủ tướng nữa. Rất hiếm những hoạt động nào của quốc gia được diễn ra mà lại không có sự tham gia của ông ta đâu đấy nhé.
- Chúng tôi có làm cho cậu một chứng minh nhân dân giả - ông Blunt nói - Từ giờ trở đi, tôi muốn cậu hãy nghĩ mình là Alex Friend, là cậu con trai mười bốn tuổi của ngài David. Cậu đã bị đuổi khỏi trường Elton. Đồng thời cậu còn mang trên mình một thành tích bất hảo... là ăn cắp vặt ở các cửa hàng, phá hoại các công trình công cộng, và tàng trữ ma túy. Ngài David và phu nhân, bà Caroline, không biết phải làm gì vởi cậu cả. Họ bèn ghi danh cậu vào trường đào tạo đặc biệt và cậu được chấp nhận.
- Trường học không có kỳ nghỉ nào để tựu trường sao ?
- Họ không có chế độ nghỉ ngơi. Trường học mở quanh năm suốt tháng.
- Ngài David đã đồng ý về tất cả những chuyện, này phải không ? - Alex chợt hỏi.
Ông Blunt khịt khịt mũi:
- Thực ra, ông ấy chẳng lấy gì làm vui vẻ về việc phải dùng đến một người hãy còn nhỏ tuổi như cậu. Nhưng tôi đã nói chuyện rất lâu với ông ta và vâng, cuối cùng, ông ta cũng đã nhận lời giúp đỡ rồi. - Khi nào thì tôi sẽ đến trường đào tạo đặc biệt đó ?
- Năm ngày nữa - Bà Jones trả lời - Nhưng trước tiên, cậu phải sống một cuộc đời mới. Khi cậu rời khỏi đây, chúng tôi sẽ thu xếp để cậu đến ở nhà ngài David. Ông ta có một căn nhà ở Lancashire. Ông ấy ở đó với vợ cùng một cô con gái. Cô bé lớn hơn cậu một tuổi. Cậu sẽ nghĩ ngơi ở đó một tuần với gia đình, cậu sẽ có thời gian để tiếp thu mọi thứ cậu cần biết. Điều đó rất cần thiết để cậu có một vỏ bọc cứng cáp. Sau đó, cậu sẽ đến Grenoble.
- Đến đó thì tôi sẽ làm gì ?
- Gần tới ngày đi thì tôi sẽ cho cậu chỉ thị đầy đủ. Về cơ bản thì cậu cần phải tìm hiểu tất cả những gì mà cậu có thể tìm hiểu được. Có thể ngôi trường này là một ngôi trường hoàn toàn bình thường và những cái chết kia chẳng hề liên quan gì với nhau. Nếu như thế thì chúng tôi sẽ kéo cậu ra. Nhưng chúng tôi cần phải được biết một cách chắc chắn cái đã.
- Tôi sẽ phải liên hệ với ông bà bằng cách nào ?
- Chúng tôi sẽ thu xếp tất cả chuyện đó.
Bà Jones hết đưa mắt nhìn Alex lại quay sang nhìn ông Blunt, rồi nói tiếp:
- Chúng ta sẽ phải làm cái gì đó cho diện mạo của Alex chứ. Cậu bé hoàn toàn chẳng giống với hình tượng mới.
- Rồi cũng phải lo liệu thôi.
Alex thở dài. Thật lạ lùng, sự thể là thế. Chỉ đơn giản là cậu chuyển từ trường học này sang trường học khác, chuyển từ một trường trung học tổng hợp ở London đến một trường dành riêng cho con cái nhà giàu ở Pháp. Đó hoàn toàn không phải là một cuộc phiêu lưu như cậu mong đợi.
Cậu bé đứng dậy, đi theo bà Jones ra khỏi phòng. Sau khi cậu rời khỏi phòng, ông Blunt lại ngồi giữa những tập tài liệu của mình, dường như ông ta đã quên khuấy việc Alex vừa ở đây, thậm chí là quên khuấy luôn cả sự tồn tại của Alex trong cõi đời này nữa.
V
HỘI SĂN BẮN
Chiếc Rolls-Royce Corniche lướt dọc theo đại lộ ngút ngàn cây xanh, tiến thẳng tới miền quê Lancashire xa xăm, động cơ 6,75 lít hình chữ V với 8 xylanh lướt đi êm ru giữa một khung cảnh xanh tươi bát ngát. Alex ngồi ở hàng ghế sau, cố gắng không biểu lộ cảm xúc gì đối với chiếc xe hơi có trị giá bằng cả căn nhà này. Hãy quên tấm thảm lót bằng vải nhung lông, những tấm ván ô, và những chỗ ngồi bọc da này đi, cậu bé tự nhủ với mình như vậy. Nó chỉ là một cái xe hơi thôi mà..
Một ngày đã trôi qua kể từ lúc cậu gặp MI6, như ông Blunt đã sắp đặt, diện mạo của cậu bé đã hoàn toàn thay đổi. Cậu phải được trông như một cậu ấm nhà giàu nổi loạn, muốn sống theo ý thích của mình. Thế nên, Alex phải cố tình mặc một bộ quần áo kỳ quái. Trên mình cậu là chiếc áo sơ-mi kẻ carô đã cởi gần hết cúc và chiếc quần jean bạc màu hiệu Tommy Hilfiger. Cậu còn đeo một sợi dây da quanh cổ nữa. Và mặc dù cậu đã phản đối nhưng người ta vẫn cắt mái tóc của cậu ngắn đến mức giờ đây trông cậu không khác gì một tên đầu trọc. Họ còn xỏ lỗ tai bên phải của cậu. Alex có thể cảm thấy tai mình đang rung rung theo cái khoen tạm thời phải luôn đeo để cái lỗ xỏ không bị bít mất.
Chiếc xe hơi tiến vào cánh cổng sắt mở tự động được chạm trổ rất đẹp. Đây là lâu đài Haverstock, một lâu đài to lớn, uy nghiêm có những pho tượng bằng đá đặt trên thềm hiên, trong số đó có bảy pho tượng đã được thẩm định giá. Gia đình ngài David đã sống ở đây qua nhiều thế hệ, bà Jones đã kể với cậu như vậy. Có vẻ như họ đang làm chủ cả một nửa vùng quê Lancashire này. Mỗi bề của khu đất kéo dài cả hàng dặm, lũ cừu đứng rải rác đây đó bên kia những ngọn đồi, còn bên này là bãi nhốt ba con ngựa đang chăm chú nhìn dõi theo chiếc xe hơi. Tòa nhà được xây dựng từ thời vua George: gạch trắng với những ô cửa sổ và cột trụ nhỏ nhắn. Mọi thứ đều gọn gàng, ngăn nắp. Ở đây còn có cả một khu vườn có rào xung quanh, bên trong là những nấm mồ bằng phẳng, nằm cách nhau một khoảng đồng đều, một nhà kính có đặt hồ bơi bên trong và một dãy hàng rào làm bằng những tấm ván được đẽo gọt hoàn hảo.
Chiếc xe hơi ngừng lăn bánh. Lũ ngựa ngoái đầu lại để nhìn Alex bước ra khỏi chiếc xe hơi, đuôi của chúng ve vẩy rất đều để đuổi ruồi.
Không có con nào động đậy chân.
Người tài xế đi vòng ra sau cốp xe.
- Ngài David ở trong nhà ấy - Anh ta nói.
Anh ta không ưa Alex ngay từ lúc nhìn thấy cậu bé. Dĩ nhiên rồi, anh ta chẳng nói gì nhiều, nhưng anh ta là người rất sành sỏi. Cậu bé có nhận thấy điều đó.
Alex bước khỏi chiếc Rolls-Royce, chiếc xe hơi cùng đi về phía nhà kính theo một con đường mòn. Đó là một ngày ấm áp, mặt trời chiếu những tia nắng xuống các tấm kính, mặt nước bên trong có vẻ như đang mời mọc. Cậu bé bước qua cánh cửa để mở. Mùi clor từ dưới nước bốc lên làm cậu khó thở.
Cậu cứ nghĩ rằng hồ bơi không có ai, nhưng khi nhìn vào đó, cậu trông thấy một người trồi lên khỏi mặt nước, đứng ngay trước mặt cậu. Đó là một cô gái trong bộ áo tắm hai mảnh trắng tinh. Cô gái có mái tóc đen dài, màu mắt cũng đen nhưng làn da thì hơi tái xanh. Alex tin rằng cô ta mười lăm tuổi, cậu nhớ lại những gì bà Jones đã kể với cậu về ngài David Friend: "ông ta có một cô con gái... lớn hơn cậu một tuổi." Cô con gái đó hẳn là cô bé này. Cậu thấy cô gái bước ra khỏi hồ bơi. Dáng người cô rất đẹp, gần giống với một người phụ nữ hơn là một thiếu nữ. Cô bé đang trổ mã. Điều đó là hiển nhiên rồi. Vấn đề là cô hoàn toàn biết điều đó. Khi cô gái nhìn Alex, trong đôi mắt cô ta có ẩn chứa một cái gì đó ngạo mạn.
- Cậu là ai ? - Cô gái lên tiếng hỏi - Cậu làm gì ở đây thế ? - Tôi là Alex.
- À, ra thế - Nói rồi cô ta với tay lấy chiếc khăn tắm và quấn quanh cổ - Bố có nói rằng cậu sẽ tới, và tôi chỉ mong có mỗi một điều rằng cậu đừng có lảng vảng đến những nơi như thế này.
Giọng nói của cô gái rất người lớn và ra vẻ đàn chị. Thật ngạc nhiên khi những lời lẽ đó được thốt ra từ miệng của một cô bé mười lăm tuổi. - Cậu có bơi không ?
- Có.
- Thật ngại quá. Tôi không thích phải chia sẻ hồ bơi. Đặc biệt là với một thằng nhóc. Lại là một thằng nhóc sặc mùi London như thế. Cô gái nhìn Alex từ đầu đến chân, dừng lại ở chiếc quần jean rách, mái tóc cắt sát đầu, cái khoen ở dái tai. Cô ta rùng mình:
- Tôi không biết bố đang làm gì mà lại chấp nhận cho cậu ở đây. Lại còn phải đóng giả là em của tôi nữa chứ !
Thật là một ý tưởng rùng rợn ! Nếu mà tôi có một đứa em trai, tôi cam đoan với cậu rằng nó sẽ không giống như cậu đâu.
Alex đang tự hỏi không biết là cậu nên nhấc bổng cô ta lên, ném trở lại hồ bơi hay là ném ra ngoài cửa sổ thì cảm giác sau lưng cậu có một cái gì đó động đậy, cậu bé quay lại và nhìn thấy một người đàn ông có vóc người cao, khá quý phái với mái tóc xoăn đã nhuốm bạc, ông ta mặc một chiếc áo khoác thể thao, sơ-mi hở cổ, và chiếc quần nhung kẻ, đang đứng sau lưng cậu. Trông ông ta có vẻ rất choáng váng trước diện mạo của Alex, nhưng ông cũng nhanh chóng lấy lại được bình tĩnh, giơ một tay ra:
- Alex hả ? - ông hỏi.
- Vâng ạ.
- Ta là David Friend.
Alex bắt tay ông ta.
- Cháu chào ông ạ - Cậu bé chào rất lịch sự.
- Ta hy vọng rằng chuyến đi đến đây của cháu đã diễn ra tốt đẹp. Ta thấy ngay rằng cháu đã gặp con gái của ta.
Ông mỉm cười nhìn cô con gái, lúc này cô bé đang ngồi bên hồ bơi, hong mình cho khô, chẳng để ý gì đến ông bố và Alex.
- Chúng cháu vẫn chưa giới thiệu với nhau.
- Con bé tên là Fiona.
- Fiona Friend - Alex mỉm cười - Đó không phải là một cái tên mà cháu có thể quên được.
- Ta hy vọng hai đứa sẽ hòa thuận với nhau.
Ngài David có vẻ như không tin tưởng lắm về những điều mình vừa thốt ra. Ông ta chỉ tay về phía ngôi nhà, nói tiếp:
- Sao chúng ta không vào và nói chuyện trong phòng làm việc nhỉ ? Alex nối gót theo ông ta trở lại lối đi rồi bước vào tòa lâu đài. Cửa trước dẫn vào gian đại sảnh trông y hệt như tấm hình chụp trong những trang tạp chí đắt tiền. Mọi thứ đều hoàn hảo, đồ đạc, đồ trang trí và những bức tranh đều cổ xưa, chúng được đặt ở những vị trí rất thích hợp. Ở đây chẳng tìm thấy một hạt bụi nào, và ánh sáng mặt trời rọi qua những ô cửa sổ trông có vẻ nhân tạo như thể cốt là để làm nổi bật mọi thứ mà chúng chiếu vào.
- Đẹp quá - Alex thốt lên.
- Cảm ơn về lời khen. Hãy đi lối này.
Ngài David mở cánh cửa nặng trịch, làm bằng gỗ sồi, để lộ ra một văn phòng lộng lẫy và hiện đại. Trong phòng có một bàn làm việc, hai chiếc ghế, hai máy vi tính, một chiếc sôfa bọc da trắng toát và một dãy các kệ sách làm bằng kim loại. Ngài David chỉ tay vào chiếc ghế rồi ông ngồi xuống sau chiếc bàn làm việc.
Alex nhận thấy ngay là ông ta đang thiếu tự tin. Ngài David có thể điều hành công việc kinh doanh trị giá hàng triệu đôla - thậm chí là hàng tỷ đôla - nhưng chuyện lần này thì hoàn toàn mới mẻ đối với ông. Có sự hiện diện của Alex ở đây, biết được cậu bé là ai và đang làm gì, ông không biết phải xử sự ra sao nữa.
- Họ kể với ta rất ít về cháu - ông ta lên tiếng - ông Alan Blunt đã liên hệ với ta và yêu cầu ta chấp nhận cho cháu đến ở tạm trong khoảng một tuần, làm ra vẻ cháu là con trai của ta. Nhưng ta buộc lòng phải nói rằng, cháu chẳng giống ta một tí nào cả.
- Cháu còn không giống chính mình nữa là - Alex trả lời.
- Cháu sẽ lên đường đến một ngôi trường nào đó ở tận dãy núi Anpơ của Pháp. Họ muốn cháu phải điều tra nghiên cứu về nó.
Ông ta dừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Không ai hỏi ý kiến của ta cả. Nhưng dù sao thì ta cũng phải nói cho cháu biết rằng ta không hề thích cái ý tưởng để cho một cậu bé mười bốn tuổi làm điệp viên. Rất nguy hiểm.
- Cháu có thể tự lo cho mình được mà - Alex cắt ngang.
- Ta muốn nói là rất nguy hiểm cho chính phủ. Nếu cháu loay hoay thế nào mà để bị giết hay là để cho ai đó phát hiện ra thì điều đó sẽ đặt ngài thủ tướng vào tình trạng lúng túng, ngượng ngùng.
Nói tới đây, ngài David thở dài, rồi lại tiếp:
-Ta khuyên ông ta không nên làm như thế thì ông ta đã gạt phắt đi. Xem ra họ đã quyết định rồi. Ngôi trường này - ngôi trường đào tạo đặc biệt ấy - đã gọi điện thoại cho ta, báo rằng trợ lý giám hiệu sẽ đến đưa cháu đi vào thứ bảy tới. Đó là một phụ nữ. Bà Stellenbosch. Theo ta nghĩ thì đó là một cái tên Nam Phi.
Trên bàn của ngài David có nhiều tập hồ sơ rất to. Ông ta đẩy nó về phía trước.
- Trong khi chờ đợi, ta biết cháu phải ghi nhớ mọi chi tiết về gia đình ta. Ta đã chuẩn bị hồ sơ rồi. Cháu cũng sẽ tìm thấy thông tin về ngôi
trường mà cháu bị đuổi học nữa - trường Eton. Tối nay, cháu hãy bắt đầu đọc nhé.
Alex nhận lấy xấp hồ sơ, trong khi người đối diện nói tiếp: - Nếu cháu cần biết gì hơn, Fiona lúc nào cũng ở bên cháu - ông ta liếc xuống mấy đầu ngón tay của mình - Ta chắc chắn rằng với chuyện này, cháu sẽ có thêm những kinh nghiệm mới.
Cửa bật mở, một người phụ nữ bước vào, bà ta có thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen, rất giống với cô con gái. Bà mặc bộ quần áo màu hoa cà giản dị, trên cổ có đeo một chuỗi ngọc trai.
- David - Bà lên tiếng, rồi ngừng ngay lại khi nhìn thấy Alex. - Đây là vợ tôi - ông Friend giối thiệu - Caroline, đây là cậu bé mà anh đã kể với em, cậu Alex.
- Rất vui được gặp cháu, Alex - Phu nhân Caroline cố gắng nở một nụ cười, nhưng cố mãi thì đôi môi của bà ta cũng chỉ hơi nhếch ra được một chút đủ để tạo nên nụ cười gượng gạo - Tôi có được biết là cháu sẽ ở đây với chúng tôi ít ngày.
- Dạ vâng, thưa Mẹ.
Gương mặt phu nhân Caroline thoáng ửng hồng.
- Cậu bé phải làm ra vẻ là con trai của chúng ta.
Ngài David nhắc lại cho bà nhớ. Rồi ông quay sang Alex, bảo: - Fiona không biết gì về MI6 và chuyện của cháu. Ta không muốn làm nó hoảng sợ. Nếu cháu muốn, ta sẽ nói với nó rằng chuyện này liên quan đến công việc của ta... một thử nghiệm về quan hệ xã hội. Nó sẽ phải giả vờ xem cháu như em trai, và chơi với cháu một tuần như cháu là thành viên của gia đình vậy. Ta mong cháu đừng kể sự thật với con bé. - Nửa tiếng nữa sẽ ăn tối - Phu nhân Caroline thông báo.
- Cháu ăn được thịt rừng không ? - Bà ta khịt khịt mũi - Có lẽ cháu nên đi tắm trước khi ăn thì sẽ tốt đấy. Tôi sẽ chỉ phòng cho cháu. Ngài David đứng dậy:
- Cháu sẽ phải đọc nhiều lắm. Ta e rằng ngày mai, ta phải quay về London - ta phải ăn trưa với tổng thống Pháp - thế nên ta không thể giúp gì cho cháu được. Nhưng ta đã nói rồi đấy, nếu cháu không rõ điều gì... - Đã có Fiona Friend ạ - Alex đáp lời.
Alex được sắp xếp ở trong một căn phòng nhỏ nhắn, tiện nghi, đằng sau tòa lâu đài. Cậu bé tắm qua loa rồi mặc lại bộ quần áo cũ. Cậu muốn sạch sẽ nhưng cậu buộc phải trông cáu ghét - đó là hình tượng nhân vật mà
cậu đang đóng giả. Cậu bé mở tập tài liệu đầu tiên, ngài David rất chu đáo. Ông ta đã cung cấp cho Alex những cái tên và lịch sử gần đây của toàn gia đình, cũng như những tấm ảnh chụp về kỳ nghỉ hè của họ, những chi tiết về tòa lâu đài và các chuồng ngựa ở Mayfair, những căn hộ ở New York, Paris, Rôma và căn biệt thự ở Barbados. Trong này còn có cả những bài báo, tạp chí được cắt ra... tất cả mọi thứ mà cậu sẽ phải cần đến.
Một tiếng chuông vang lên. Đã bảy giờ tối. Alex xuống lầu và đi vào phòng ăn. Căn phòng có sáu cửa sổ và một chiếc bàn ăn dài đủ chỗ cho mười lăm người, làm bằng gỗ gụ bóng láng. Chỉ có ba người ngồi đó: ngài David, phu nhân Caroline, và Fiona. Thức ăn đã được dọn lên, chắc là do người quản gia hay đầu bếp phục vụ. Ngài David chỉ tay vào một cái ghế trống, Alex ngồi xuống.
- Fiona đang nói về Soloman - Phu nhân Caroline lên tiếng rồi im lặng một lát - Soloman là một con ngựa. Chúng tôi có rất nhiều ngựa - Bà ta quay sang Alex - Cậu có biết cưỡi ngựa không ?
- Cháu chỉ biết cưỡi xe đạp thôi ạ - Alex trả lời.
- Con chắc chắn là Alex không thích ngựa đâu - Fiona lên tiếng. Cô bé luôn có lối nói khó chịu - Thật ra, tôi không tin là chúng ta có điểm chung. Tại sao tôi phải giả vờ coi cậu là em trai tôi nhỉ ? Toàn bộ chuyện này thật là...
- Fiona... - Ngài David khẽ càu nhàu.
- Tốt thôi, có nó ở đây cũng được, bố ạ, nhưng điều đó ảnh hưởng đến kỳ nghỉ lễ Phục sinh của con. Con không nghĩ rằng điều đó là công bằng.
Alex đoán rằng Fiona học ở trường tư. Học kỳ của cô bé kết thúc sớm hơn của cậu.
- Alex ở đây là vì công việc của bố - Ngài David nói.
Thật kỳ cục, Alex nghĩ, cách họ nói về cậu như thể cậu chẳng có mặt ở đây vậy.
- Fiona ạ, bố biết là con có nhiều câu hỏi, nhưng con chỉ cần làm theo những gì bố nói là được rồi. Alex chỉ ở đây với chúng ta đến cuối tuần thôi. Bố muốn con hãy chăm sóc nó.
- Nhưng nó là thằng nhóc thành phố ! - Fiona cứ nhấn đi nhấn lại - Nó sẽ chán ở đấy thôi. Dù sao đi nữa, giả vờ xem nó là em trai thì giúp ích gì được cho hệ thống siêu thị của bố vậy ?
- Fiona... - Ngài David không muốn tranh luận thêm nữa - Bố đã nói với con rồi. Một cuộc thử nghiệm. Con phải khiến nó cảm thấy như đang được đón tiếp chứ.
Fiona nâng ly lên và lần đầu tiên nhìn thẳng vào Alex kể từ lúc cậu bé đặt chân vào phòng.
- Chúng ta sẽ xem xét điều đó - Cô bé nói.
Tuần lễ như kéo dài vô tận. Mới chỉ có hai ngày trôi qua thôi, Alex bắt đầu thấy rằng Fiona nói đúng. Cậu là người thành phố. Hầu hết thời gian cậu sống đều ở London, cậu bỗng cảm thấy mất phương hướng và ngột ngạt giữa miền quê xanh thăm thẳm này. Khu đất xa ngút tầm mắt, xem ra dòng họ Friend này không có mối liên kết nào với thế giới bên ngoài. Alex chưa bao giờ cảm thấy bị cô lập hơn thế. Ngài David đã quay lại London. Phu nhân Caroline luôn tìm mọi cách để tránh mặt cậu. Một hai lần, bà ta lái xe đến Skipton - một thành phố nhỏ gần đây nhất. Lần khác, bà lại bỏ ra rất nhiều thời gian để làm vườn hay cắm hoa. Còn Fiona...
Ngay từ đầu, cô bé đã tỏ rõ rằng cô chẳng hề ưa Alex. Điều này cũng chẳng phải vì lý do gì đặc biệt. Chỉ đơn giản vì rằng cậu bé là người ngoài, thế thôi, và Fiona có vẻ nghi ngờ rằng trong cái thế giới thu nhỏ của lâu đài Haverstock, có một điều gì đó không bình thường. Mấy lần rồi, cô có hỏi Alex là cậu đang thực sự làm gì ở nhà cô. Alex chỉ nhún vai mà chẳng nói gì, cử chỉ đó càng khiến cho Fiona cảm thấy ghét cậu bé hơn.
Và rồi, vào ngày thứ ba, cô giới thiệu cậu bé với những người bạn của mình.
- Tôi sẽ đi săn - Cô bé nói với Alex như vậy - Tôi không nghĩ là cậu muốn đi cùng ?
Alex nhún vai. Cậu bé đã nhớ được hầu hết mọi chi tiết trong các tài liệu và giờ thì cậu đã có thể tự tin đóng giả là một thành viên của gia đình này được rồi. Hiện cậu đang đếm từng giờ trôi qua cho đến lúc người phụ nữ ở trường đào tạo đặc biệt đến đưa cậu đi.
- Cậu đã bắn súng bao giờ chưa ?
- Chưa - Cậu bé trả lời.
- Tôi hay đi săn lắm - Fiona kể - Nhưng dĩ nhiên cậu là một thằng nhóc thành phố. Cậu chẳng hiểu nổi đâu.
- Giết thú thì tuyệt lắm hả chị ?
- Đó là một phần của lối sống thôn dã. Là truyền thống - Fiona nhìn Alex như nhìn một kẻ ngớ ngẩn. Đó là cái cách mà cô bé vẫn thường nhìn
Alex - Dù sao đi nữa, thú vật sinh ra là để như vậy mà.
Hội săn bắn hóa ra toàn những người trẻ tuổi, và - ngoài Fiona ra - toàn là con trai. Năm người họ đang ngồi chờ ở bìa rừng cũng thuộc về lãnh địa của lâu đài Haverstock. Rufus, trưởng nhóm mười sáu tuổi, cường tráng, có mái tóc xoăn đen. Dường như cậu ta là bạn trai của Fiona. Những người khác là Henry, Max, Bartholomew, và Fred - cũng mười sáu tuổi. Alex nhìn họ với tâm trạng nặng trĩu. Bọn họ đều ăn mặc giống nhau: áo khoác hiệu Barbour, quần vải tuýt, mũ bẹt và giày ống da của thợ săn. Tất cả đều nói giọng đàn anh. Mỗi người đều mang theo súng săn, một tay họ cầm nòng súng đã tháo rời. Hai người đang hút thuốc. Ai cũng nhìn Alex bằng cặp mắt ẩn chứa sự coi thường. Fiona hẳn đã kể với họ về cậu - một thằng nhóc thành phố.
Fiona mau mắn giới thiệu. Rufus tiến lên một bước:
- Mừng là có chú mày nhập bọn - Hắn cố ý kéo dài giọng nói. Đôi mắt của Rufus quét lên người Alex, không ngại che giấu sự khinh miệt - Cũng có biết chút ít về săn bắn, phải không ?
- Tôi không có súng - Alex nói.
- Ồ, anh e rằng không thể cho chú mày mượn súng được. Rufus ráp nòng súng lại rồi giơ lên cho Alex xem. Đây là một khẩu súng tuyệt đẹp với nòng súng làm bằng thép sáng bóng, dài sáu mươi bốn xăngtimét, gắn vào báng súng sậm màu làm từ gỗ cây óc chó được trang trí bằng những họa tiết hoa văn màu bạc, chạm trổ công phu. - Đây là khẩu súng săn hai nòng với khóa cò có thể tháo ra lắp vào được, chính hiệu Abbiatico & Salvinelli, nó được làm bằng tay đấy nhé - Rufus khoe - Dù sao đi nữa, nó cũng ngốn của anh hay là của mẹ anh những ba mươi nghìn đôla có đấy. Đó là một món quà sinh nhật. - Hẳn là nó không dễ gói chút nào - Alex nói - Mẹ anh đã gắn ruy băng ở đâu ?
Nụ cười của Rufus biến mất.
- Mày chẳng biết tí gì về súng cả.
Hắn nói rồi gật đầu với một thiếu niên khác, tên này đưa cho Alex một vũ khí rất tầm thường. Đó là một khẩu súng cổ lỗ sĩ đang hoen rỉ. - Mày dùng cái này đi - Rufus nói - Nếu mày ngoan ngoãn và không làm vướng chân vướng cẳng thì bọn anh sẽ cho mày một viên đạn.
Cả bọn đồng thanh phá ra cười. Hai người hút thuốc lá thôi không hút nữa, mọi người chuẩn bị lên đường vào rừng.
Ba mươi phút sau, Alex nhận ra mình đã sai lầm khi đến đây. Bọn con trai cứ nhắm bắn vào bất cứ thứ gì động đậy, hết bên trái tới bên phải. Một con thỏ quay tròn với vết thương đỏ máu vì đạn bắn. Con chim cu rừng ngã lộn khỏi cành cây, đập cánh phần phật quanh đám lá bên dưới. Dù bọn thiếu niên có dùng loại vũ khí xịn đến đâu, chúng cũng không phải là những tay săn giỏi. Lũ thú luôn xoay xỏ để né tránh được, các viên đạn chỉ làm chúng bị thương là cùng, còn Alex thì càng lúc càng cảm thấy muốn phát bệnh khi phải đi theo những vết máu.
Họ đã tới chỗ đất trống và dừng lại để nạp đạn. Alex quay sang Fiona:
- Tôi sẽ về nhà - Cậu bé lên tiếng.
- Sao thế ? Không thể chịu nổi cảnh tượng máu me hả ?
Alex thoáng nhìn con thỏ rừng cách đó mười lăm mét. Nó đang nằm nghiêng một bên, hai chân sau cứ co giật một cách bất lực. Cậu bé nói: - Tôi ngạc nhiên là tại sao người lớn lại cho phép các anh chị mang súng. Nhìn cớ sự, tôi cứ tưởng là mọi người đã mười bảy tuổi rồi cơ đấy. Rufus nghe lỏm được điều này. Hắn ta tiến lên trước một bước, trong mắt ẩn chứa một điều gì đó đen tối. Hắn càu nhàu:
- Ở miền quê này, tụi tao không ngán luật lệ nào đâu.
- Chắc Alex muốn gọi cảnh sát ! - Fiona nói.
- Đồn cảnh sát gần nhất cũng cách đây bốn mươi dặmn - Rufus nói với nụ cười nhạt.
- Mày có muốn mượn điện thoại di động của tao không ? - Một tên trong bọn cất tiếng hỏi.
Cả bọn lại cười ồ lên lần nữa. Alex cảm thấy mình đã chịu đựng quá đủ. Không nói một lời nào, cậu quay lưng, bỏ đi.
Cậu bé nhớ là đã phải đi ba mươi phút thì đến được chỗ đất trống, thế mà bây giờ cũng đã đi được ba mươi phút rồi, cậu vẫn thấy mình đang kẹt trong rừng, xung quanh toàn những cây cao và bụi dại. Alex hiểu rằng mình đã đi lạc. Cậu bực bội với chính mình. Lẽ ra cậu phải chú ý xem mình đang đi đâu trong lúc phải lẽo đẽo theo sau Fiona và những người bạn của cô ta mới phải. Khu rừng thật rộng. Nếu đi sai hướng thì cậu bé sẽ mò ra tới tận những cánh đồng hoang của khu Bắc Yorkshire chứ chẳng chơi... rồi phải vài ngày sau, người ta mới tìm thấy cậu. Mặt khác, những tán lá
cây ở đây dày đến mức tầm nhìn xa của cậu ở mọi phía chỉ tới chín mét là cùng. Làm sao tìm được đường ra đây ? Cậu có nên thoái lui hay là tiếp tục tiến lên phía trước rồi may mắn sẽ gặp lại con đường cũ ?
Alex chợt linh cảm thấy nguy hiểm trước khi có một viên đạn bắn tới phía cậu. Có tiếng cành khô gãy hay là tiếng kim loại gì đó đang lắp ráp lại với nhau. Cậu bé co rúm người lại - chính điều đó đã cứu sống cậu. Một tiếng nổ - lớn và rất sát - cái cây ngay trước mặt Alex, chỉ cách cậu có một bước chân, bị tróc một mảng, những mảnh gỗ văng tứ tung trong không gian.
Alex quay lại, nhìn quanh quất xem ai đã bắn mình.
- Các người đang làm cái gì vậy ? - Cậu hét lên - Xém chút nữa là bắn trúng tôi rồi, biết không.
Đáp lại lời cậu là một tiếng nổ thứ hai, sau đó là tiếng reo vui cười đùa đầy phấn khích. Alex hiểu ra mọi chuyện: họ chẳng nhầm cậu với con thú nào cả. Họ đang nhắm bắn cậu cho vui. Alex quay đầu lại và bắt đầu chạy. Những thân cây khắp mọi phía như bao vây lấy cậu, tìm cách che đường của Alex. Mặt đất mềm nhũn vì mưa đang cố làm chậm bước chân của cậu bé, nó như muốn dán cứng chân cậu xuống đất. Có tiếng nổ thứ ba. Alex hụp ngay xuống, cảm nhận được phát đạn ở ngay trên đầu mình, bay thẳng vào tán lá cây.
So với các nơi khác trên thế giới, nơi này dễ khiến người ta phát điên. Đây là giữa miền quê nước Anh và kia là những kẻ thanh thiếu niên giàu có, chán ngắt, quen hành động theo ý thích của mình. Có lẽ Alex đã xúc phạm đến chúng. Chắc là sự đùa giỡn của cậu về giấy gói quà. Cũng có thể là sự từ chối không cho Fiona biết cậu thực sự là ai. Chúng quyết định dạy cho cậu bé một bài học, rồi chúng sẽ phải lo lắng về hậu quả thôi. Liệu chúng có ý định giết cậu hay không ? "Ở miền quê này, tụi tao không ngán luật lệ nào đâu". Rufus đã từng bảo thế. Nếu Alex bị thương nặng - thậm chí có chết đi chăng nữa - thì bọn chúng cũng sẽ thoát khỏi vụ này. Một tai nạn khủng khiếp. Thằng bé không chịu để ý xem mình đang đi đâu nên đã bước ngay vào đường đạn.
Không. Không thể như thế được.
Bọn chúng chỉ muốn dọa cậu thôi. Tất cả chỉ có thế.
Thêm hai phát đạn nữa. Một con chim trĩ vọt lên khỏi mặt đất, quay mòng mòng như một quả banh lông rồi kêu inh ỏi trên bầu trời. Alex tiếp tục chạy, hơi thở dồn dập làm cho cậu bé cảm thấy khô cả cổ họng. Một
bụi cây dại vươn ra ngang tầm ngực của cậu, xé toạc cả quần áo. Vẫn còn cầm khẩu súng được phát hồi nãy trên tay, cậu dùng nó để gạt cây cối, tìm đường chạy.
Một đám rễ cây nằm ngổn ngang trên mặt đất suýt chút nữa là làm cho Alex ngã sóng soài.
- Alex ? Mày ở đâu ?
Đó là tiếng của Rutus. Giọng the thé đầy chế nhạo của hắn ta phát ra từ sau rặng cây. Lại có tiếng đạn bắn, lần này thì viên đạn bay cách đầu Alex khá cao.
Bọn thiếu niên kia không nhìn thấy cậu bé. Cậu đã thoát rồi thì phải ?
Không, cậu vẫn chưa thể thoát được. Alex dừng lại một lát, cậu bé vã hết cả mồ hôi. Cậu đã ra khỏi khu rừng nhưng vẫn còn bị lạc đường, chẳng còn hy vọng nào nữa. Tệ hơn nữa là cậu đã bị mắc kẹt. Alex đang ở bên một bờ hồ hoang sơ, bẩn thỉu. Nước hồ có váng nâu và trông khá đặc. Chẳng có con vịt hay con chim rừng nào dám tới gần cái hồ. Mặt trời của buổi chiều chạng vạng cũng đang dần dần lặn xuồng hồ, mùi hôi thối bắt đầu bốc lên.
- Nó đi lối kia !
- Không... nó đi qua lối này đấy.
- Bọn mình thử ra hồ xem.
Những lời nói kia bỗng vọng tới tai Alex, cậu bé hiểu rằng cậu không thể để cho bọn họ phát hiện ra mình. Trong đầu cậu chợt hiện ra hình ảnh về chính mình, cậu bị đá đè chìm nghỉm dưới đáy hồ. Hình ảnh ấy gợi cho cậu một ý tưởng. Cậu phải trốn thôi.
Alex bước xuống nước. Cậu cần có một cái gì đó để làm ống thở. Cậu đã thấy người ta làm điều đó trên phim. Họ nằm trong nước, thở bằng một ống sậy. Thế nhưng ở đây lại không có cây sậy nào. Ngoại trừ có và đám tảo dày nhớp nhúa, còn thì chẳng có thứ gì có thể mọc nổi.
Một phút sau, Rufus xuất hiện bên bờ hồ, khẩu súng của cậu ta vẫn còn trên tay. Rufus dừng lại và đảo mắt, đôi mắt biết rành rẽ khu rừng. Chẳng có thứ gì chuyển động cả.
- Hẳn là nó đã quay ngược lại.
Những người còn lại tụ tập sau lưng "thủ lĩnh". Giữa họ giờ đây rất căng thẳng, cảm giác tội lỗi bao trùm bầu không khí im ắng xung quanh. Tất cả hiểu rằng trò chơi đã đi quá xa.
- Bọn mình hãy quên nó đi - Một tên trong bọn lên tiếng.
- Ừ...
- Chúng mình đã dạy cho nó một bài học.
Cả bọn đều nôn nóng muốn trở về nhà. Tất cả đều đồng loạt kéo nhau trở lại con đường đã đến. Riêng Rufus tự ý ở lại, vẫn giữ khẩu súng trong tay, hắn ta ráng sức tìm kiếm Alex. Rufus nhìn xuống mặt hồ lần cuối rồi quay lại, bước theo lũ bạn.
Ngay lúc ấy, Alex tấn công. Cậu bé đã nằm ở dưới nước, quan sát những hình ảnh mập mờ của lũ thanh thiếu niên kia như thể là cậu đang nhìn qua một tấm kính nâu dày. Cậu ngậm nòng khẩu súng săn trong miệng. Đầu kia của nòng súng, cậu để nó nhô lên khỏi mặt hồ. Cậu bé đã thở qua nòng súng. Và giờ đây, cậu trồi dậy, người chảy ròng ròng những bùn và nước - hệt như một nhân vật hay xuất hiện trong những cơn ác mộng hãi hùng. Rufus nghe thấy tiếng động, nhưng đã quá muộn rồi. Alex quật khẩu súng ngay vào chỗ thắt lưng Rufus. Rufus rên lên rồi khuỵu gối xuống, khẩu súng săn của hắn ta tuột khỏi tay. Alex nhặt nó lên. Trong khóa nòng có hai viên đạn. Cậu bé đóng khẩu súng lại, tạo nên một âm thanh đanh gọn.
Rufus nhìn Alex, mọi vẻ cao ngạo của hắn ta vụt biến mất. Rufus trở thành một cậu bé thiếu niên ngốc nghếch đầy sợ sệt, đang quỳ gối trong sự cố gắng.
- Alex...
Lời lẽ đầy thành ý được thốt ra như một tiếng khóc thút thít. Làm như hắn ta mới nhìn thấy Alex lần đầu tiên vậy.
- Tôi xin lỗi ! - Rufus sụt sùi - Chúng tôi thực sự không có ý định làm cậu bị thương. Chỉ là một trò đùa thôi. Fiona bày cho chúng tôi trò này. Chúng tôi chỉ muốn làm cho cậu sợ. Làm ơn...
Alex im lặng, thở ra một cách nặng nề. Sau đó cậu hỏi:
- Tôi có thể ra khỏi đây bằng cách nào ?
- Chỉ cần men theo cái hồ - Rufus trả lời - Có một con đường mòn. Rufus vẫn còn quỳ gối. Mắt rơm rớm nước. Alex nhận ra rằng mình đang chĩa khẩu súng săn mạ bạc vào gã thiếu niên kia. Cậu quay mặt đi, cảm thấy giận mình ghê gớm. Rufus không phải là kẻ thù của cậu. Hắn ta chẳng là gì cả.
- Đừng có đi theo tôi đấy.
Alex nói và chuẩn bị bỏ đi. Rufus gọi với theo:
- Xin hãy làm ơn ! Cho tôi xin lại khẩu súng. Nếu mà mất nó, mẹ tôi sẽ giết tôi mất.
Alex dừng lại. Cậu nhấc nhấc khẩu súng trên tay, rồi lấy hết sức bình sinh quăng nó ra xa. Khẩu súng săn của Ý được chế tạo thủ công lộn hai vòng trong không trung, giữa ánh sáng sắp tàn, rồi rơi tõm xuống giữa hồ, biến mất.
- Anh vẫn còn nhỏ lắm, chưa chơi súng được đâu - Cậu bé nói. Alex bỏ đi, để cho khu rừng nuốt chửng lấy mình.
VI
ĐƯỜNG HẦM
Người đàn ông ngồi trong chiếc ghế vàng cổ xưa đang chầm chậm xoay đầu ngắm nhìn những đống tuyết bên ngoài cửa sổ. Tiến sĩ Hugo Grief gần sáu mươi tuổi, có mái tóc trắng cắt ngắn và gương mặt xanh xao. Nước da ông ta trắng muốt, đôi môi lợt lạt không tạo hình thù gì rõ ràng. Lưỡi của ông ta màu xám. Còn nữa, trên cái khuôn mặt không chút cảm xúc này là một chiếc kính gọng tròn có đôi tròng kính màu đỏ sậm. Đối với ông ta, toàn bộ thế giới là một màu máu. Ông Grief có những ngón tay dài với những móng tay được cắt tỉa cẩn thận, ông ta mặc bộ complê đen cài cúc lên đến tận cổ. Nếu trên đời này có một mẫu người nào đó giống ma ca rồng thì mẫu người đó chính là Tiến sĩ Hugo Grief đây vậy.
- Tôi đã quyết định tiến hành phần cuối Dự án Song sinh - ông ta lên tiếng. Tiến sĩ Grief nói giọng Nam Phi, nhả chữ rõ ràng - Không thể để chậm trễ hơn được.
- Tôi hiểu, Tiến sĩ Grief ạ.
Một người phụ nữ đang ngồi đối diện với Tiến sĩ Grief bà ta mặc một bộ quần áo rất vừa vặn dệt bằng sợi vải đàn hồi, trên đầu đeo một cái băngđô. Đó là Eva Stellenbosch. Bà ta vừa hoàn tất bài tập thể dục nặng dành cho buổi sáng - hai tiếng đồng hồ nâng tạ và tập thể dục nhịp điệu - giờ đây, người phụ nữ này vẫn còn thở hổn hển. Gương mặt bà Stellenbosch không hoàn toàn giống người bình thường, môi bà ta nhô ra, dài hơn cả mũi, vầng trán cao và dồ được che phủ bởi những lọn tóc vàng hoe. Bà ta đang cầm một cái ly có chứa ít chất lỏng rất đục, màu xanh lục. Các ngón tay của bà ta múp míp và ngắn ngủn. Hẳn bà ta phải rất cẩn thận nên mới không làm bể cái ly ấy.
Bà Stellenbosch đang nhấm nháp thức uống của mình, bỗng nhiên cau mày.
- Ông có chắc là chúng ta đã sẵn sàng không ? - Bà ta hỏi. - Chúng ta không còn lựa chọn nào khác. Mấy tháng vừa qua, chúng ta đã có hai kết quả không mấy tốt đẹp. Đầu tiên là Ivanov. Sau đó là Roscoe ở New York. Ngoài phí tổn đã bỏ ra để trả công, việc người ta nối hai cái chết đó lại cũng có thể xảy ra lắm.
- Có thể xảy ra nhưng cũng chưa chắc sẽ xảy ra - Bà Stellenbosch nói.
- Các cơ quan tình báo rất lười nhác và bất tài, sự thật là như vậy. CIA ở Mỹ. MI6 ở Anh. Thậm chí cả KGB nữa. Tất cả giờ đây chỉ là những cái bóng của quá khứ. Dù cho có đúng như thế thì vẫn có khả năng một trong số chúng sẽ tình cờ đánh hơi thấy cái gì đó. Chúng ta càng kết thúc kế hoạch này sớm bao nhiêu thì chúng ta càng có nhiều khả năng ít bị dòm ngó bấy nhiêu - Tiến sĩ Grief đan cài các ngón tay vào với nhau rồi tỳ cằm lên đó - Khi nào thì thằng nhóc cuối cùng đó đến ?
- Alex ấy hả ?
Bà Stellebosch uống thêm một ngụm trong cái ly của mình rồi đặt xuống. Bà ta mở chiếc túi xách tay, lấy ra một cái khăn mùi xoa vẫn thường dùng, lau miệng, rồi đáp:
- Mai, tôi sẽ bay sang London.
- Tuyệt lắm. Trên đường đến đây, cô cho nó ghé Paris nhé ? - Dạ được, thưa Tiến sĩ. Nếu ông muốn thế.
- Tôi rất muốn thế lắm. Chúng ta có thể làm tất cả các bước khởi đầu ở đó. Sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Thế còn thằng Sprintz thì sao ?
- E rằng chúng ta phải chờ thêm vài ngày nữa.
- Nghĩa là nó và Alex sẽ cùng sống ở đây à ?
- Vâng.
Tiến sĩ Grief trầm ngâm, ông ta phải cân nhắc đến việc hai đứa trẻ gặp nhau có thể mang lại những nguy hiểm khi ông ta quyết định đẩy quá nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch. May mắn thay, ông ta có một bộ óc khoa học. Những tính toán của ông Grief chưa bao giờ sai.
- Được lắm - ông ta thốt lên - Thằng Sprintz có thể ở với chúng ta thêm vài ngày nữa. Tôi cảm thấy nó đang bồn chồn lo lắng, có người bạn mới này, nó sẽ bớt căng thẳng thôi.
Bà Stellenbosch gật đầu, uống cạn thức uống của mình, tĩnh mạch nơi cổ của người phụ nữ đập nhanh khi bà ta nuốt vào.
- Alex Friend là miếng mồi ngon tuyệt của chúng ta - Tiến sĩ Grief nhận xét.
- Hệ thống siêu thị ấy hả ? - Giọng nói của người phụ nữ chứa đựng vẻ hoài nghi.
- Thủ tướng cũng còn phải lắng nghe ý kiến của bố nó đấy. Ông ta là một người có sức mạnh. Còn thằng con trai, tôi chắc chắn nó sẽ đáp ứng được sự mong đợi của chúng ta - Tiến sĩ Grief mỉm cười. Mắt ông ta đỏ
rực - Không bao lâu nữa, chúng ta sẽ có Alex, ở đây, ngay tại trường đào tạo đặc biệt này. Thế là cuối cùng, Dự án Song sinh sẽ được hoàn tất.
- Cậu ngồi sai bét rồi - Fiona kêu lên - Lưng cậu không thẳng kìa. Tay phải để thấp hơn. Chân cậu cũng để sai chỗ nữa.
- Cái đó thì quan trọng gì, chị cứ tự do thoải mái đi - Alex nói, cậu bé đang nghiến răng lại.
Đã là ngày thứ tư Alex ở lâu đài Haverstock này. Fiona được căn dặn phải đưa cậu bé ra ngoài cưỡi ngựa. Alex chẳng thấy thích thú gì. Đầu tiên, cậu phải chịu đựng bài lên lớp không thể tránh khỏi - mặc dù cậu đã nghe mãi rồi. Lũ ngựa này thuộc giống Ibêri hay là Hungari gì đó. Chúng đã giành huy chương vàng trong các cuộc đua. Alex chẳng quan tâm. Tất cả những gì cậu biết là con ngựa của cậu to, đen và bị ruồi bu. Cái cách cậu bé ngồi trên lưng ngựa giống như một bao khoai tây đang nhấp nhổm trên một tấm nhún lò xo.
Hai người đề cập đến chuyện ở trong rừng. Khi Alex khập khiễng bước về lâu đài, người ngợm ướt nhem và run cầm cập, Fiona đã lịch sự đưa cho cậu một cái khăn và mời cậu một tách trà.
- Chị đã có ý muốn giết tôi kia mà !
- Đừng có ngốc thế ! - Fiona nhìn Alex, trong đôi mắt cô bé có cái gì đó, hình như là nỗi xót xa - Chúng tôi chẳng bao giờ làm điều đó cả. Rufus là người rất tốt.
- Gì chứ ?
- Chỉ là một trò chơi thôi, Alex. Vui một chút thôi mà.
Thế đấy. Fiona đã mỉm cười như thể mọi chuyện đã được làm sáng tỏ rồi nhảy xuống hồ bơi. Alex dành cả buổi tối để đọc tài liệu. Cậu phải cố gắng nắm bắt phần lịch sử giả mạo kéo dài suốt mười bốn năm. Các cô các chú và bạn bè của cậu đều học ở Eton, cậu phải biết hết những con người này, mặc dù chưa hề gặp một ai trong số họ. Hơn thế, cậu phải ráng làm ra vẻ được sống một cuộc sống xa hoa. Chính vì vậy mà bây giờ cậu phải ở đây, cưỡi ngựa cùng với Fiona - cô bé chững chạc trong bộ quần áo cưỡi ngựa của mình, còn cậu bé thì cứ bị xóc nảy lên nảy xuống, theo sau cô.
Họ đi ngựa được khoảng một tiếng rưỡi thì đến một đường hầm. Fiona đã có gắng chỉ cho cậu bé thực hiện một số kỹ thuật khác nhau - ẳ
chẳng hạn, cho ngựa đi bách bộ, phi nước kiệu và chạy nước tế. Nhưng đây là một môn thể thao mà cậu bé đã từng quyết định là sẽ không bao giờ chơi. Mọi khúc xương trong người cậu muốn long hết cả ra, cái bàn tọa của cậu thâm tím đến độ cậu không biết là mình còn có thể ngồi được không nữa. Xem ra Fiona rất thích thú khi thấy cậu bé khổ sở như thế. Alex cho rằng cô ta đã cố tình chọn tuyến đường thật gập ghềnh để tặng thêm cho cậu những vết bầm tím. Hoặc có lẽ chỉ là do cái lưng con ngựa cậu đang cưỡi quá mấp mô.
Trước mặt hai người là một đường ray xe lửa đơn độc chạy ngang qua một con đường nhỏ có thiết kế cửa chắn tự động, trên cửa là chuông và đèn tín hiệu để báo cho những người lái xe biết là xe lửa sắp đi qua. Fiona thúc vào con ngựa của mình - một con ngựa xám, nhỏ hơn con ngựa của Alex - tiến lên phía trước. Con ngựa của Alex cũng tự động đi theo. Cậu bé đoán họ sẽ băng qua đường ray, nhưng khi bước đến bên hàng rào chắn, Fiona bỗng dừng lại. Cô bé nói:
- Nếu cậu muốn trở về lâu đài thì chúng ta có thể đi đường tắt. - Có đường tắt thì tuyệt quá - Alex hưởng ứng.
- Là đường này này.
Fiona chỉ vào đường ray, phía trước có một đường hầm đen ngòm đâm xuyên qua một ngọn đồi, miệng đường hầm được viền bằng gạch đỏ sậm. Alex nhìn cô bé, xem xem có phải cô ta đang đùa hay không. Nhưng rõ ràng là cô ta rất nghiêm nghị. Đường hầm trông như một nòng súng chĩa thẳng vào cậu bé, cảnh cáo cậu phải tránh xa. Alex bỗng tưởng tượng ra một ngón tay khổng lồ đặt lên cò súng ở phía sau ngọn đồi. Đường hầm dài bao nhiêu ? Cậu bé xem xét cẩn thận hơn, dựa vào ánh sáng lờ mờ cuối đường hầm, cậu có thể, ước chừng đường hầm dài cỡ một dặm.
- Chị chẳng nghiêm túc chút nào - Alex nhận xét.
- Hoàn toàn nghiêm túc, Alex ạ. Tôi không hay nói đùa. Khi tôi nói điều gì thì có nghĩa là lòng tôi muốn như vậy. Tôi giống bố. - Ngoại trừ việc bố của chị không điên rồ như thế - Cậu bé lẩm bẩm. Fiona vờ như không nghe thấy câu nói của cậu bé.
- Đường hầm dài khoảng một dặm - Cô bé giải thích
- Bên kia đường hầm là một cây cầu, sau đó là một cổng chắn khác. Nếu đi đường đó về nhà thì chúng ta chỉ mất có ba mươi phút thôi. Không thì phải mất những một tiếng rưỡi, nếu đi theo đường cũ. - Thế thì đi theo đường cũ đi.
- Ồ Alex, đừng có nhát gan như thế ! - Fiona bĩu môi
- Mỗi giờ chỉ có một xe lửa đi qua thôi, chuyến xe lửa tiếp theo sẽ không đến trước hai mươi phút tới đâu. Tôi đã qua đường hầm này cả trăm lần rồi, chưa có lần nào tôi đi quá năm phút cả. Nếu cậu chạy nước tế thì sẽ mất ít thời gian hơn.
- Cưỡi ngựa trên đường ray xe lửa là điên rồ lắm đấy.
- Được rồi, nếu cậu muốn quay trở lại thì tự tìm lấy đường về nhà nhé - Nói rồi cô bé thúc gót chân, con ngựa của cô phóng nhanh về phía trước, bay qua hàng rào và đáp xuống đường ray xe lửa - Hẹn gặp lại.
Alex cũng phóng theo cô bé. Cậu không thể tự cưỡi ngựa về tòa lâu đài một mình. Cậu không biết đường, mà cậu cũng chỉ mới biết điều khiển ngựa thôi. Vả lại con ngựa cứ đi theo Fiona mà không cần có lệnh của cậu. Liệu hai con vật này có chịu chui vào đường hầm tối đen như mực kia không ? Không thể tin nổi, nhưng Fiona đã bảo rằng trước đây, họ đã đi qua đấy rồi, và không còn nghi ngở gì nữa, lũ ngựa đi ngay vào trong lòng quả đồi không một chút do dự.
Alex rùng mình khi ánh sáng đột nhiên tắt hẳn sau lưng cậu. Trong này thật lạnh và ẩm ướt. Không khí đầy mùi bồ hóng và mùi dầu diezen. Đường hầm rất vang. Tiếng vó ngựa lộc cộc khắp nơi khi chúng giẫm lên những viên sỏi giữa hai thanh tàvẹt. Nếu con ngựa của cậu bị ngã thì sao ? Alex cố xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi đầu mình. Chiếc yên ngựa làm bằng da kêu kẽo kẹt. Dần dần, đôi mắt của cậu bé cũng quen với bóng tối. Chút ánh sáng mặt trời từ phía sau bắt đầu hắt vào. Đỡ hơn rồi, con đường thẳng tắp ngay trước mặt đã có thể nhìn thấy rõ hơn, mỗi bước đi, quầng sáng lại rộng ra. Cậu bé cố gắng thư giãn. Cuối cùng cũng không đến nỗi quá tệ.
Sau khi nói xong, Fiona cho ngựa đi chậm lại, chờ cho ngựa của Alex theo kịp mình.
- Vẫn còn nhát về xe lửa hả Alex ? - Cô bé hỏi với vẻ coi thường - Chắc là cậu muốn đi nhanh hơn.
Alex nghe thấy tiếng roi ngựa vút lên trong không trung, và cậu bé chợt nhận ra con ngựa của mình giật bắn lên khi Fiona quất thật mạnh vào mông nó. Con vật hí lên rồi lao như bay về phía trước. Alex gần như bị ném ngược ra phía sau, bật ra khỏi chiếc yên ngựa. Cậu quặp chân thật chặt, cố gắng ngồi thật vững, tuy nhiên, nửa thân người trên của cậu đã nghiêng hẳn sang một bên, sợi dây cương xiết lấy mõm con ngựa. Fiona bật cười. Sau đó, Alex chỉ còn cảm nhận được gió đang quét qua người ẳ
mình, bóng tối thăm thẳm đang vây quanh và tiếng vó ngựa nện nặng nề trên nền sỏi khi con vật chạy tế về phía trước. Bồ hóng bay vào mắt khiến cậu bé không còn nhìn thấy đường. Cậu có cảm giác là mình sắp sửa bị ngã xuống đến nơi. Từng giây, từng giây một cứ chậm chạp trôi qua.
Và rồi, thật phi thường, cả người và ngựa đã phi nước đại ra ngoài ánh sáng. Alex lấy lại được thăng bằng và bắt đầu điều khiển con ngựa, cậu kéo dây cương về phía sau, đồng thời dùng đầu gối ép chặt vào hông ngựa. Cậu hít thật sâu, chờ Fiona xuất hiện.
Con ngựa của Alex đã ngừng lại trên cây cầu mà Fiona đã nói. Cây cầu được tạo thành từ những cái rầm sắt dày bắc qua sông. Vào tháng đó, mưa rơi rất nhiều, bên dưới cậu bé khoảng mười lăm mét, dòng sông sâu màu xanh rêu đang chảy xiết. Một cách thận trọng, cậu bé quay lại, chú mục nhìn vào đường hầm. Bây giờ mà cậu lạc giây cương thì cậu sẽ bị rơi ra khỏi thành cầu chứ chẳng chơi. Hai bên thành cầu chỉ cao không quá một mét.
Rồi cậu cũng nghe thấy tiếng vó ngựa của Fiona đang đến gần. Cô bé chạy nước kiệu sau cậu, chắc là cười dữ dội suốt quãng đường đi. Alex nhìn chằm chằm vào đường hầm, con ngựa xám của Fiona đang lao ra, phi ngang mặt cậu bé và biến mất sau khi chạy qua khỏi cái cổng ở phía bên kia cây cầu.
Fiona không có trên lưng ngựa.
Con ngựa của cô bé đã ra khỏi đường hầm một mình.
Alex mất vài giây để định thần lại. Đầu cậu bé quay như chong chóng. Hẳn cô gái đã ngã ngựa. Có lẽ con ngựa của cô ta bị vấp. Fiona vẫn còn nằm trong đường hầm. Trên đường ray xe lửa. Còn bao lâu nữa thì đến chuyến tàu kế tiếp ? Hai mươi phút, cô bé đã nói như thế. Ít nhất là đã năm phút trôi qua rồi, mà chắc là ngay từ đầu, Fiona đã thổi phồng về thời gian.
Mặc dù từng nguyền rủa cái lối cư xử khiếm nhã cùng những trò chơi khăm dễ làm người khác thiệt mạng của cô gái xấu tính, nhưng Alex không thể bỏ mặc cô ta được. Cậu túm lấy dây cương, bằng mọi giá, cậu phải bắt con ngựa này tuân lệnh mình. Cậu phải đưa được cô bé ra, và phải làm thật nhanh mới được.
Không hiểu sao, bằng cách nào đó, sự liều lĩnh tuyệt vọng của cậu bé đã truyền vào được não bộ của con ngựa. Con vật quay lại nhưng cố gắng lùi ra xa, Alex bèn thúc gót chân vào hông nó, nó đành miễn cưỡng chui trở lại vào đường hầm tối om. Alex thúc gót chân lần nữa. Cậu bé không ẳ
muốn làm nó đau nhưng cậu biết rằng cậu chẳng còn cách nào khác để bắt nó phải tuân theo lệnh của mình.
Con ngựa bắt đầu phi nước kiệu. Alex nhìn chăm chú về phía trước. - Fiona - Cậu gọi to.
Không có tiếng trả lời. Alex đã hằng hy vọng sẽ được thấy cô bé đi bộ về phía mình, nhưng đằng này, cậu chẳng hề nghe thấy một tiếng bước chân nào. Giá như có nhiều ánh sáng hơn !
Con ngựa dừng lại, cô gái kia rồi, cô ta đang ở ngay trước mặt Alex, nằm trên đất, ngực và tay cô ta vắt trên đường ray. Giờ mà có xe lửa tới thì nó sẽ cắt cô bé ra làm hai mất. Tối quá, Alex không thể nhìn thấy gương mặt Fiona, nhưng khi nghe tiếng cô gái nói, cậu bé có thể nhận ra nỗi đau đớn mà cô ta đang phải chịu.
- Alex... - Fiona nói - Tôi nghĩ là mình bị bể mắt cá chân rồi. - Có chuyện gì vậy ?
- Là mạng nhện hay là cái gì đó. Tôi đã cố gắng đuổi theo cậu. Nhưng cái đó ập vào mặt khiến tôi mất thăng bằng.
Cô bé đã cố gắng đuổi theo cậu ! Cô ta nói ra những lời này như thể đang đổ hết trách nhiệm cho Alex vậy - như thể cô ta đã quên bẵng rằng chính cô ta là người đã quất roi vào con ngựa của cậu, khi cả hai đang ở đầu đường hầm.
- Chị đứng dậy được không ?
- Tôi nghĩ là không.
Alex thở dài. Vẫn nắm chặt dây cương, cậu bé tuột xuống khỏi con ngựa. Fiona nằm ngay ở đoạn giữa đường hầm. Cậu bé tự ra lệnh cho mình không được hoảng hốt. Nếu những gì cô bé nói với cậu là thật thì chuyến xe lửa kế tiếp sẽ đến trong mười phút nữa. Cậu cúi xuống đỡ cô gái dậy. Khi bàn chân cậu đặt lên một thanh ray... cậu bỗng cảm nhận được một điều gì đó. Trạng thái run rẩy từ dưới bàn chân của cậu bé đang lan truyền lên. Đường ray rung lắc dữ dội.
Xe lửa đang chạy trên đường ray của nó.
- Chị phải đứng dậy.
Alex cố gắng không để cho nỗi sợ hãi len vào trong giọng nói của mình. Cậu bé thoáng tưởng tượng thấy cảnh chiếc xe lửa đang lao đi như vũ bão trên đường ray. Khi tới đường hầm, nó sẽ là quả đạn năm trăm tấn làm banh xác hai thiếu niên thành muôn ngàn mảnh. Cậu nghe thấy tiếng
kin kít của những bánh xe, tiếng gầm rống của động cơ. Máu và bóng tối. Đó sẽ là cái chết thật khủng khiếp.
Nhưng cậu bé vẫn còn thời gian.
- Chị cử động được các ngón chân không ?
- Tôi nghĩ là được - Fiona bám lấy Alex.
- Thế thì mắt cá của chị chỉ bị bong gân thôi, không bị bể đâu. Nào. Cậu xốc cô gái dậy, trong đầu nghĩ mông lung rằng khi xe lửa vào đến đường hầm, nó sẽ chỉ chạy trên đường ray, vậy thì khi cả hai nép vào tường, chiếc xe lửa sẽ chỉ đi lướt qua họ. Nhưng Alex lại hiểu rằng không đủ chỗ để có thể đứng nép như thế. Vả lại, nếu chiếc xe lửa có không húc vào cậu và Fiona thì nó vẫn sẽ tông vào con ngựa. Lỡ nó bị trật đường ray thì sao ? Cả tá người sẽ bị chết như chơi.
- Xe lửa chạy tuyến này là xe lửa nào vậy chị ? - Cậu bé hỏi - Nó có chở hành khách không ?
- Có - Fiona nói như khóc - Nó là xe lửa Virgin. Chạy thẳng đến Glasgow.
Alex thở dài. Đúng là cái vận hạn của cậu, từ trước đến giờ, xe lửa Virgin luôn luôn chạy đúng giờ.
Fiona bỗng rùng mình. Cô bé buột miệng hỏi:
- Cái gì thế ?
Cô vừa nghe thấy một tiếng chuông vang rền. Ở chỗ cổng chắn. Đó là tín hiệu báo xe lửa đến, hàng rào chắn hạ xuống.
Rồi Alex nghe thấy tiếng chuông thứ hai, tiếng chuông làm cho máu trong người của cậu bé muốn đông lại. Dễ đến cả một lúc lâu, cậu đã không thể thở được. Thật kỳ lạ. Hơi thở của cậu bé cứ mắc kẹt ở trong lá phổi chứ không chịu đi ra miệng của cậu. Cả người cậu bị tê liệt hoàn toàn như thể cậu vừa bị một ngọn roi nào đó quất trúng não bộ. Cậu bé đang khiếp hãi.
Còi xe lửa rúc lên vang rền. Nó vẫn còn cách đường hầm chừng một dặm hoặc hơn thế, nhưng đường hầm giờ đây đang đóng vai trò là vật truyền âm, Alex có cảm giác như nó đang cứa vào người mình. Và một âm thanh khác cất lên: tiếng động cơ diezen bắt đầu chuyển động. Nó đang lao về phía Alex và Fiona. Dưới chân cậu bé, đường ray rung lắc dữ dội hơn.
Cậu hít một hơi thật sâu và buộc đôi chân phải làm theo ý mình. - Lên ngựa đi - Cậu hét lên - Tôi sẽ giúp chị.
Mặc kệ những đau đớn mà mình có thể gây ra cho Fiona, Alex xốc cô gái lại chỗ con ngựa, buộc cô phải leo lên yên. Mỗi giây trôi qua, tiếng động lại càng lớn hơn. Thanh ray kêu o o đều đặn như một cái âm thoa khổng lồ. Không khí bên trong đường hầm như đang chuyển động, hết sang phải lại sang trái, hòng tránh chỗ cho chiếc xe lửa sắp lao tới.
Fiona kêu thét lên, Alex không còn cảm thấy sức nặng của cô bé trên tay mình nữa khi cô ngồi phịch xuống yên ngựa. Con vật hí lên, loạng choạng dịch chuyển sang một bên, trong giây phút khủng khiếp đó, Alex thoáng có ý nghĩ rằng cô gái sẽ thúc ngựa chạy mất, để cậu lại một mình. Trong đường hầm chỉ có chút ít ánh sáng để nhận ra hình dạng của con ngựa và ngưỡi đang cưỡi nó. Cậu thấy Fiona chụp lấy dây cương. Cô bé kéo con vật trở lại. Alex với tay túm lấy bờm ngựa. Cậu dùng mớ lông dày này để leo lên yên, ngồi đằng trước Fiona. Tiếng xe lửa mỗi lúc một to hơn. Bồ hóng và những mẩu gạch đá vụn rơi ra khỏi những vách tường cong. Các luồng gió ở đâu bỗng xoáy tới, đường ray đang phát ra những tiếng rầm rầm. Trong chốc lát, cả hai kẻ thiếu niên bỗng trở nên bối rối, và rồi cậu bé cũng nắm được cái dây cương, còn cô bé thì ngồi sát vào người cậu, vòng tay ôm ngang ngực Alex.
- Đi nào ! - Cậu hét lên và thúc gót chân vào hông con ngựa. Con vật cũng chẳng cần cú thúc đó. Nó phóng nước đại về phía cuối đường hầm, quăng quật Alex và Fiona hết bật ra sau lại nảy lên trước, khiến cả hai va vào nhau.
Alex không dám nhìn lại phía sau, nhưng cậu bé cảm nhận được là xe lửa đã vào tới miệng đường hầm và đang lao tới, với tốc độ 105 dặm một giờ. Hai kẻ thiếu niên trở nên choáng váng. Con tàu đang đẩy không khí ra khỏi đường đi của nó để lấp đầy khoảng trống bằng các toa thép cứng. Con ngựa cũng cảm nhận được mối nguy hiểm nên tăng tốc độ, phi như bay về phía trước, mỗi lần sải chân, bốn vó của nó bay lên khỏi những thanh tà vẹt. Miệng hầm hiện ra trước mặt Alex và Fiona, nhưng Alex hiểu rằng với tình cảnh bi đát hiện giờ, họ sẽ không thể thoát được. Ngay cả khi đã ra khỏi đường hầm, cả ba vẫn sẽ bị bắt kịp ở chỗ cây cầu. Cổng chắn thứ hai ở bên dưới cầu, cách đầu cầu những chín mươi mét. Họ có thể ra khỏi đường hầm nhưng rồi sẽ chết trong bầu không khí thoáng đạt.
Con ngựa đã thoát khỏi đường hầm. Nhưng Alex bỗng cảm thấy một cái bóng đen đang đổ ụp xuống vai mình. Fiona kêu thét lên, ôm chặt lấy Alex, cô bé siết mạnh đến nỗi cậu cảm thấy khó thở. Cậu khó có thể nghe
được tiếng của cô gái, tiếng ầm ầm của xe lửa ở ngay đằng sau cậu, khi bước sải tuyệt vọng của con ngựa lên đến cây cầu, cậu bé ngoái đầu lại. Cậu chỉ kịp nhìn thấy một con quái vật khổng lồ làm bằng thép đang gầm rống, thân của nó được sơn màu đỏ rực, màu đặc trưng của xe lửa Virgin; phía sau ô cửa, người lái tàu đang nhìn chằm chằm vào cả ba một cách kinh hoàng. Còi xe lửa rúc lên lần thứ hai, lần này nó rúc lên hết cỡ, xung quanh hai kẻ thiếu niên, mọi thứ như muốn nổ tung.
Alex biết mình phải làm gì. Cậu kéo một bên cương dùng gót chân phía bên kia thúc vào hông con vật. Cậu hy vọng con ngựa hiểu điều cậu muốn.
Bằng cách nào đó, con vật cũng hiểu ra, nó xoay qua một bên. Bây giờ con vật đang đối diện với thành cầu. Tiếng còi đinh tai nhức óc của xe lửa rúc lên lần cuối cùng. Khói diezen phủ lên cả người và ngựa. Alex dùng hết sức lực thúc chân vào hông con ngựa. Con vật nhảy dựng lên.
Chiếc xe lửa rầm rập lao qua, chỉ còn cách vài xăngtimét nữa là nó tông phải họ. Các toa xe lửa vẫn đang phóng qua ào ào như vũ bão, giờ đây, nó chỉ là một cái bóng mờ mờ màu đỏ. Fiona kêu thét lên lần thứ hai. Mọi thứ như diễn ra một cách chậm chạp khi cả người lẫn ngựa đều rơi xuống. Mới đó, Alex, Fiona và con vật còn đang ở trên cầu, thế mà chỉ một phút sau, họ đã ở bên dưới, tất cả vẫn đang rơi tự do. Dòng sông màu xanh rêu như hân hoan chào đón họ.
Con ngựa và hai người cưỡi nó đang lao trong không trung rồi đâm sầm xuống mặt sông, Alex chỉ kịp thời gian để hít lấy một hơi. Cậu cứ lo lòng sông không đủ sâu sẽ khiến cả ba rơi gãy cổ; nhưng khi vừa chạm mặt nước, bộ ba bị trôi ngay vào một cái xoáy nước lạnh ngắt màu xanh rêu, xoáy nước đang cuốn lấy họ một cách thèm khát. Fiona bị kéo ra xa khỏi Alex. Cậu bé có cảm giác con ngựa đang vùng vẫy dữ dội. Bóng nước sủi ra đầy miệng Alex, cậu nhận ra mình đang la hét.
Cuối cùng, Alex cũng trồi lên được mặt nước. Dòng sông vẫn cứ trôi, quần áo và đôi giày làm cho cậu bé vướng víu, cậu bơi một cách vụng về vào phần đất liền gần nhất.
Người lái tàu vẫn không dừng lại. Tuy bị một phen khiếp vía trước những gì vừa xảy ra, nhưng ông ta vẫn làm ra vẻ như không có chuyện gì. Dù sao thì xe lửa cũng đã đi qua rồi. Alex bám vào bờ, trườn lên đám cỏ, người cậu run lẩy bẩy. Đằng sau cậu có tiếng thở và tiếng ho, Fiona xuất hiện. Cô bé đã làm mất mũ đi ngựa, mái tóc đen dài của cô phủ xuống mặt.
Alex nhìn ra phía sau cô gái. Con ngựa cũng đã xoay xỏ leo lên được đất liền. Nó chạy tới, giũ giũ mình, xem ra con vật hoàn toàn bình yên vô sự. Alex rất vui vì điều đó. Tất cả đã qua rồi, chính con ngựa đã cứu sống cậu và cô bé.
Alex đứng dậy. Nước từ quần áo cậu chảy xuống thành dòng. Cả người cậu giờ đây chẳng có chỗ nào còn cảm giác. Cậu không biết đó là do nước lạnh hay là do cú sốc mà cậu vừa trải qua. Cậu bước đến chỗ Fiona, xem lại bàn chân giúp cô bé.
- Chị ổn chưa ?
- Rồi.
Cô gái nhìn cậu bằng đôi mắt rất lạ. Cả người cô run rẩy. Alex phải đưa một tay ra để giữ lấy cô bé. Fiona nói:
- Cảm ơn cậu.
- Có gì đâu.
- Không - Cô gái nắm lấy bàn tay Alex. Áo sơ-mi của cô trễ xuống, cô hất đầu mình ra sau để tóc không che lấy mắt - Việc cậu quay trở lại... thật tuyệt vời. Alex, cho mình xin lỗi vì suốt tuần qua đã cư xử không tốt với cậu. Mình đã nghĩ rằng cậu đến nhà mình ở vì hội từ thiện đã gửi cậu tới, mình cứ tưởng cậu là một kẻ thô lỗ và ngu ngốc. Mình đã nghĩ sai về cậu rồi. Thực sự cậu rất tuyệt vời. Mình hiểu rằng kể từ bây giờ, chúng mình sẽ là bạn của nhau.
Cô bé bỗng lim dim đôi mắt và chồm người về phía Alex, đôi môi hơi mở ra. Cô nói:
- Nếu muốn, cậu có thể hôn mình.
Alex buông Fiona ra và quay đi.
- Cảm ơn chị, Fiona - Cậu bé nói - Nhưng hiện giờ tôi chỉ muốn hôn con ngựa thôi.
VII
ẤN BẢN ĐẶC BIỆT
Chiếc trực thăng lượn đúng hai vòng quanh lâu đài Haverstock rồi mới chịu đáp xuống. Đây là chiếc máy bay bốn chỗ ngồi hiệu Robinson R44, sản xuất tại Mỹ. Trong chiếc máy bay chỉ có một người - không ai khác, chính là viên phi công. Ngài David Friend đã từ London trở về, ông cùng vợ của mình ra ngoài, đón chiếc máy bay đang đáp xuống trước tòa lâu đài. Tiếng động cơ đã tắt, các cánh quạt bắt đầu quay chậm lại. Cửa khoang nhẹ nhàng mở ra, viên phi công mặc bộ đồ bay liền thân bằng da, đội mũ sắt và đeo kính râm bước ra ngoài.
Viên phi công đi lại chỗ họ, chìa một tay ra.
- Xin chào ông bà - Người phụ nữ nói như hét để át tiếng ồn của cánh quạt - Tôi là Stellenbosch. Từ trường đào tạo đặc biệt tới... Nếu như ngài David và phu nhân Caroline đã từng muốn ngã ngửa khi lần đầu tiên trông thấy Alex, thì giờ đây, họ lại đứng như trời trồng và hoảng hồn khi trông thấy diện mạo của người trợ lý giám hiệu. Ngài David là người đầu tiên lấy lại bình tĩnh.
- Bà tự lái lấy máy bay à ?
- Vâng... Tôi có đủ chuyên môn đấy ạ.
- Bà vào nhà nhé ? - Phu nhân Caroline mời - Vào nhà và uống trà. Phu nhân dẫn mọi người vào nhà, bước vô tới phòng khách, bà Stellenbosch ngồi xuống ghế xôfa, đôi chân để dang ra, chiếc mũ sắt đặt ở bên cạnh. Ngài David và phu nhân Caroline ngồi đối diện với bà ta. Một khay trà được bưng lên.
- Ông bà không phiền lòng khi tôi hút thuốc chứ ?
Bà Stellenbosch hỏi, rồi không đợi câu trả lởi, bà ta lần tay vào túi, lấy ra một bao thuốc lá nhỏ. Người phụ nữ ấy lấy ra một điếu, châm lửa hút rồi nói tiếp:
- Ngài có một tòa lâu đài rất đẹp, ngài David ạ. Nó thuộc thời vua George, nhưng có bố cục rất thẩm mỹ ! Cho phép tôi hỏi nhé, Alex đâu rồi ?
- Thằng bé đang đi dạo.
- Chắc cậu nhà hơi nóng nảy một chút - Bà ta lại mỉm cười rồi đón lấy tách trà mà phu nhân Caroline vừa mời - Tôi biết là ông bà rất lo lắng
cho cậu ấy.
Ngài David Friend gật đầu. Đôi mắt của ông chẳng để lộ điều gì. Mấy phút sau, ông bắt đầu kể với bà Stellenbosch về Alex, về chuyện cậu bị đuổi khỏi trường Eton ra sao và cậu trở nên bất trị như thế nào. Phu nhân Caroline im lặng ngồi nghe tất cả những điều ấy, thỉnh thoảng lại nắm lấy bàn tay của chồng.
- Tôi vô phương kế rồi - Ngài David kết thúc câu chuyện - Chúng tôi có một con gái lớn, con bé rất ngoan. Còn Alex, nó cứ quanh quẩn với con ngựa, chẳng chịu đọc sách. Cũng chẳng thấy nó say mê, hứng thú cái gì cả. Còn diện mạo của nó... thôi được rồi, bà sẽ hiểu ngay. Trường đào tạo đặc biệt Đỉnh Tuyết là phương sách cuối cùng của tôi, bà Stellenbosch ạ. Chúng tôi mong mọi người có thể uốn nắn được nó.
Người trợ lý giám hiệu rít một hơi dài, làm cho tàn thuốc của bà ta dài thêm ra.
- Ngài David, tôi đoan chắc rằng ngài là một người cha rất tuyệt diệu. - Người phụ nữ nói - Ừm, trẻ em thời nay là thế đấy ! Có những đứa cư xử làm cha mẹ đau lòng lắm. Ông bà hành động rất đúng khi đến với chúng tôi. Tôi cũng chắc là ông bà biết rồi, các năm qua, trường đào tạo đặc biệt có tỷ lệ thành công rất đáng kể đấy.
- Chính xác thì ở chỗ bà sẽ làm gì với những trường hợp như thế ? - Phu nhân Caroline hỏi.
- Chúng tôi có phương pháp của mình - Đôi mắt người phụ nữ trở nên long lanh. Bà ta gạt tàn thuốc vào đĩa đựng tách của mình - Nhưng tôi hứa với ông bà là chúng tôi sẽ uốn nắn lại cậu bé. Xin đừng lo lắng ! Khi trở về cậu nhà sẽ là một người hoàn toàn khác.
Alex đang đứng trên bờ một cánh đồng, cách tòa lâu đài chừng nửa dặm. Trông thấy chiếc máy bay trực thăng đáp xuống, cậu bé hiểu rằng giờ khởi hành đã điểm. Thật ra, cậu bé vẫn chưa sẵn sàng để lên đường. Tối hôm qua, bà Jones đã gọi điện thoại cho cậu. Một lần nữa, MI6 lại cử cậu đi tay không tới một nơi có khả năng chính là hang ổ của bọn người xấu.
Cậu bé trông thấy chiếc máy gặt đập liên hợp đang vận hành trong tiếng động ầm ầm từ từ tiến tới chỗ mình, nó đang gặt hái cái gì đó. Chiếc máy liên hợp đỗ xịch lại, cách cậu bé một quãng ngắn rồi cửa khoang lái được mở ra. Một người đàn ông bước ra ngoài một cách khó khăn, ông ta
to béo đến mức phải cố gắng lắm mới chui ra được, đầu tiên là cái mông, cứ thế, cuối cùng là cái bụng, đôi vai và cái đầu. Người đàn ông mặc một chiếc áo sơ-mi kẻ carô và chiếc quần yếm màu xanh dương - trang phục của người nông dân. Nhưng ngay cả khi ông ta đội mũ rơm, ngậm một cọng cỏ trong miệng thì Alex cũng chẳng thể nào tưởng tượng nổi trong đầu là ông ta đang thu hoạch cái gì đó.
Người đàn ông cười toe toét với Alex.
- Chào anh bạn ! - ông ta lên tiếng.
- Chào ông Smithers - Alex trả lời.
Ông Smithers làm việc cho MI6. Chính ông đã cung cấp các thiết bị để Alex sử dụng trong điệp vụ vừa qua.
- Gặp lại cậu, vui quá ! - ông ta kêu lên - Cậu thấy vỏ bọc của tôi thế nào ? Người ta bảo nó hợp vởi thôn quê lắm.
- Máy gặt đập là một ý tưởng rất hay - Alex trả lời - Ngoại trừ một điều, đang là tháng Tư. Chẳng có thứ gì có thể thu hoạch được cả. - Tôi đã không nghĩ đến điều đó ! - ông Smithers hiểu ra - Vấn đề là tôi đâu phải người nhà nông. Người nhà nông ! - ông ta ngoái đầu nhìn lại rồi cười - Dù sao, tôi cũng thấy vui vì lại có dịp làm việc với cậu, Alex ạ, để được nghĩ ra mấy món gì đó cho cậu. Không phải lúc nào tôi cũng được tiếp xúc với một thiếu niên. Thật sự là vui hơn rất nhiều so với việc phải tiếp xúc với người lớn.
Ông ta trở lại cái khoang xe, lấy ra một chiếc va li.
- Lần này thì phức tạp hơn một chút - ông ta tiếp tục nói.
- Ông lại có bộ trò chơi điện tử hiệu Nintendo khác hả ? - Alex hỏi. - Không. Không phải thế. Trường đào tạo đặc biệt không cho phép đem trò chơi điện tử - hay bất kỳ một máy vi tính nào vô đâu. Họ sẽ cung cấp máy vi tính xách tay của họ. Tôi đã có thể giấu hàng tá vật dụng vào trong một máy vi tính xách tay rồi, nhưng vì cậu đến đó nên thôi ! Giờ thì chúng ta xem nào... - ông ta mở vali ra - Tôi nghe nói trên Đỉnh Tuyết có nhiều dốc tuyết lắm, thế nên cậu sẽ phải cần đến cái này. - Bộ đồ trượt tuyết - Alex thốt lên.
Đó là vật ông Smithers đang cầm trên tay.
- Ừ. Nhưng nó cách điện và ngăn được đạn đấy nhé.
Ông ta lôi tiếp ra ngoài một chiếc kính râm màu xanh lục, nói: - Đây là kính trượt tuyết. Nhưng cậu cũng có thể dùng trong trường hợp đêm hôm phải đi ra ngoài, nó là kính hồng ngoại đó. Trong gọng kính
có giấu một cục pin. Cậu chỉ cần nhấn nút thôi là có thể nhìn thấy mọi vật trong khoảng mười tám mét, dù là hôm ấy không có trăng. Ông Smither lại thò tay vào vali lần nữa.
- Nào, một cậu bé ở tuổi cậu thì thường mang theo cái gì bên mình nhỉ ? Thật may mắn, cậu được phép mang theo một máy nghe đĩa hiệu Sony, người ta sẽ cung cấp cho cậu những đĩa nhạc cổ điển. Ông ta nói rồi dúi vào tay Alex một chiếc máy.
- Thế thì giữa đêm hôm khuya khoắt, khi người ta đang theo dõi cháu, cháu sẽ ngồi dậy nghe nhạc ?
Cậu bé hỏi.
- Đúng đấy. Chỉ cần cậu đừng nghe nhạc Beethoven là được ! - ông ta đưa cho cậu bé một cái đĩa nhạc - Máy nghe đĩa có thể biến thành một cái cưa điện. Đĩa nhạc chính là lưỡi cưa sắc bén. Nó sẽ cắt mọi thứ, rất hữu ích khi cậu muốn thoát ra ngoài một cách nhanh chóng. Tôi có đặt vào đấy một nút khẩn cấp. Nếu cậu lâm vào tình cảnh khó khăn và thực sự cần giúp đỡ thì hãy nhấn nút FAST FORWARD ba lần. Vệ tinh nhân tạo của chúng tôi sẽ bắt được tín hiệu. Và chúng tôi sẽ tìm cách đưa cậu ra.
- Cảm ơn ông Smithers.
Alex nói, nhưng cậu lấy làm thất vọng, nỗi thất vọng ấy thể hiện rõ rệt trên gương mặt cậu bé.
Ông Smithers hiểu điều ấy. ông ta nói:
- Tôi biết cậu cần gì - Nhưng cậu cũng biết là cậu không được có cái đó. Không có súng ống nào hết ! ông Blunt kỷ cương lắm, ông ta nghĩ cậu còn quá nhỏ.
- Thế nhưng đâu phải là quá nhỏ để người ta không giết.
- Tôi biết chứ. Thế nên tôi mới có một ý tưởng nho nhỏ, đó là phải tạo ra... một thiết bị phòng thủ, tôi phải nói với cậu rằng điều này chỉ có cậu và tôi biết thôi, cậu hiểu không. Tôi không chắc ông Blunt sẽ tán thành đâu.
Nói rồi ông Smither xòe một bàn tay ra. Hai mảnh của một cái hoa tai bằng vàng nằm ngay chính giữa lòng bàn tay của ông ta: một mảnh hình thoi, mảnh kia là cái móc của nó. Cái hoa tai thì nhỏ xíu, trong khi những món đồ khác thì lại quá to.
- Họ nói với tôi là cậu đã xỏ lỗ tai - ông ta nói - Thế nên tôi mới làm cho cậu cái này. Sau khi đeo nó vào, cậu phải thật cẩn thận đấy nhé. Hai mảnh hoa tai mà ráp vào với nhau là nó đang ở chế độ kích hoạt đó.
- Kích hoạt cái gì ạ ? - Alex thắc mắc.
- Cái hoa tai trông nhỏ thế chứ nó là thiết bị gây nổ mạnh lắm đấy. Giống như quả lựu đạn thu nhỏ vậy. Gõ nó thành hai mảnh lần nữa thì nó sẽ gây nổ. Chỉ cần cậu đếm đến mười là nó sẽ để lại một cái lỗ trên bất cứ vật gì... bất cứ ai. Tôi phải nói thêm để cậu hiểu.
- Miễn là nó không thổi bay cái tai của cháu đi là được.
Alex khẽ khàng nói.
- Không, không. Nó an toàn khi hai mảnh đó ráp vào với nhau - ông Smithers mỉm cười - Cuối cùng, tôi rất thích cái này. Đây đích thị là cái người ta hay thấy trong hành lý của những cậu bé, tôi thiết kế nó là chỉ để dành riêng cho cậu.
Ông ta giơ ra một quyển sách. Alex nhận lấy. Đây là quyển truyện Harry Potter tập mới nhất, có bìa cứng.
- Cảm ơn ông - Cậu bé nói - Nhưng mà tôi đã đọc rồi.
- Đây là ấn bản đặc biệt. Có một khẩu súng được gắn vào gáy sách, trong ổ đạn có gắn một phi tiêu tẩm thuốc mê. Chỉ cần đưa nó lên ngắm rồi nhấn vào tên tác giả. Chưa đầy năm giây sau, ngay đến người lớn cũng sẽ bị bất tỉnh ngay tức khắc.
Alex mỉm cười, ông Smithers leo trở lại vào cái khoang lái máy liên hợp. Lúc này trông ông ta giống như đang có lèn mình vào ô cửa, và cuối cùng thì ông ta cũng đã xoay sở được để chui lọt vào trong khoang máy.
- Chúc may mắn nhé, anh bạn - ông ta nói - Phải trở về nguyên vẹn đấy ! Tôi thật sự rất vui khi gặp lại cậu.
Đã đến giờ khởi hành.
Hành lý của Alex đang được chất lên máy bay trực thăng, cậu bé đứng bên cạnh bó mạ mới của mình, trên tay vẫn còn cầm chặt quyển Harry Portter. Bà Eva Stellenbosch đứng dưới những cánh quạt, chờ Alex.
Cậu bé cảm thấy choáng váng khi trông thấy diện mạo của bà ta, nên cậu đã tránh mặt ngay. Nhưng rồi cậu cũng phải tự dằn lòng. Cậu không được tỏ ra lịch sự. Nếu là Alex Rider thì được có những cử chỉ tốt chứ còn Alex Friend thì không, bởi vì cậu phải tỏ ra là mình chẳng cần quan tâm đến những gì mà người trợ lý giám hiệu nghĩ. Lúc này, cậu nhìn bà ta với vẻ mặt khinh khỉnh và nhận ra rằng bà ta cũng đang chăm chú nhìn cậu khi cậu chào tạm biệt mọi người.
Một lần nữa, ngài David Friend lại nhập vai một cách hoàn hảo: - Tạm biệt con nhé Alex !- ông bảo - Hãy viết thư cho bố mẹ biết là con vẫn mạnh giỏi, nghe con ?
- Nếu ông muốn thế - Alex trả lời.
Phu nhân Caroline tiến lên phía trước, hôn cậu. Alex lùi lại, ra vẻ khó chịu. Và cậu bé cũng nhận ra rằng người phụ nữ này đã thật sự buồn vì điều đó.
- Đi thôi, Alex ! - Bà Stellenbosch có vẻ vội vã. Bà ta đã nói cho cậu bé biết rằng tầm bay của chiếc trực thăng này chỉ được bốn trăm dặm thôi, rằng họ phải dừng lại ở Paris để tiếp nhiên liệu.
Rồi Fiona xuất hiện, cô bé đi xăm xăm trên có đến chỗ mọi người. Hai ngày qua, Alex đã chẳng chuyện trò gì với cô gái, cho đến khi xảy ra vụ việc ở đường hầm. Cô ta cũng chẳng nói gì với cậu. Cậu bé đã cự tuyệt cô và cậu biết rằng cô sẽ không bao giờ quên cậu. Sáng nay, cô gái không chịu xuống nhà ăn sáng, cậu bé đã đoán rằng cô ta sẽ không xuất hiện cho đến lúc cậu đi khỏi. Thế thì bây giờ cô định làm gì ở đây ?
Đột nhiên Alex hiểu ra. Cô bé đến để gây rắc rối - đây sẽ là nhát đâm chí tử. Cậu thấy điều đó trong mắt cô ta và trong cách đi hối hả trên cỏ của cô ta với hai bàn tay nắm chặt.
Fiona không biết cậu bé là điệp viên. Cô bé chỉ biết rằng Alex ở đây vì một lý do nào đó, cô đoán nó có liên quan đến người phụ nữ đến từ Đỉnh Tuyết này. Thế nên cô gái quyết định ra ngoài và phá hỏng mọi chuyện. Có lẽ cô ta sẽ đặt câu hỏi. Có lẽ cô ta muốn cho bà Stellenbosch biết một điều gì đó đang hiện hữu trong đầu cô. Với cả hai khả năng này, Alex hiểu rằng điệp vụ của cậu sẽ kết thúc ngay trước khi nó bắt đầu. Tất cả những ghi nhớ của cậu trong các tập hồ sơ và quãng thời gian cậu sống với gia đình này sẽ trở nên vô nghĩa.
- Fiona... - Ngài David thì thào. Đôi mắt ông trở nên u ám. Cũng như Alex, ông đang ở bên bờ vực thẳm.
Cô bé phớt lờ lời nhắc nhở của bố.
- Bà từ trường đào tạo đặc biệt đến, có phải không ạ ? - Fiona hỏi, mắt nhìn thẳng vào bà Stellenbosch.
- Đúng thế, cháu gái.
- Được rồi, có một chuyện cháu nghĩ rằng bà cần nên biết. Alex chỉ có thể làm mỗi một việc thôi. Cậu bé đưa quyển Harry Portter lên, nhắm vào Fiona rồi ấn một phát vào gáy sách. Chẳng có tiếng
động gì nhưng cậu có cảm giác quyển sách rung lên trong tay mình. Fiona ôm lấy một bên chân. Gương mặt cô bé biến sắc. Cô ngã vật ra trên cỏ. Phu nhân Caroline chạy đến chỗ con gái. Bà Stellenbosch có vẻ lúng túng. Alex quay sang bà ta, khuôn mặt cậu bé không có cảm xúc, nói: - Chị tôi đấy. Chị ấy dễ xúc động lắm.
Hai phút sau, chiếc trực thăng nhấc mình lên khỏi mặt đất. Alex nhìn qua ô cửa khi lâu đài Haverstock mỗi lúc một trở nên nhỏ xíu và rồi mất dạng ở phía đằng sau họ. Cậu bé nhìn bà Stellenbosch, người phụ nữ đang cúi người bên bàn điều khiển, cặp mắt kính to che mất đôi mắt của bà ta. Cậu bé cố thư giãn trên chiếc ghế của mình, mặc cho người ta đưa cậu bay vào vùng trời đang tối sầm lại. Chiếc máy bay bắt đầu ngập trong mây. Vùng quê đã biến mất. Vũ khí duy nhất của cậu cũng vậy. Từ giờ trở đi, Alex phải tự xoay sở lấy một mình.
VIII
PHÒNG SỐ 13
Paris đang mưa. Cả thành phố trông có vẻ mệt mỏi và chán chường, tháp Eiffel như đang chống đỡ các đám mây khổng lồ. Bàn ghế kê ngoài quán cà phê không có người ngồi, khách du lịch thì chẳng đoái hoài gì tới những quầy hàng nhỏ bán tranh ảnh và bưu thiếp, ai cũng hối hả quay trở về khách sạn. Đã năm giờ chiều, bóng tối đang buông xuống mà chẳng ai hay. Các cửa hiệu và văn phòng vắng ngắt, thành phố cũng chẳng cần ai quan tâm. Nó chỉ muốn một mình lặng lẽ.
Chiếc trực thăng đã đáp xuống khu vực riêng của sân bay Charles de Gaulle, ở đây có một chiếc xe hơi đang đậu sẵn, chờ để đưa họ đi. Trong suốt chuyến bay, Alex chẳng mở miệng nói câu nào, giờ thì cậu đang ngồi ở băng ghế sau, ngắm nhìn những tòa nhà cao tầng đang lướt qua. Xe họ đi dọc theo sông Seine, nó chạy bon bon trên một con đường rộng, hai làn đường, một đường nằm bên trên, một đường nằm bên dưới, thấp hơn cả mặt nước. Theo lộ trình, họ đi ngang qua Nhà thờ Đức Bà Paris. Rồi chiếc xe ngoặt sang hướng khác, nó đi lòng vòng qua những con phố vắng vẻ có những quán ăn và cửa hiệu nhỏ nằm lấn ra vỉa hè.
- Đây là khu Marais - Bà Stellenbosch chỉ ra ngoài ô cửa, nói với Alex.
Alex giả vờ như không quan tâm. Thật ra cậu bé đã từng ở Marais cùng với bác Ian Rider và biết được rằng đây là một trong những khu thời thượng và đắt đỏ nhất Paris.
Chiếc xe hơi quẹo vào một quảng trường rộng lớn rồi dừng lại. Alex nhìn ra ngoài cửa sổ. Bốn phía xung quanh cậu là những căn nhà cao, cổ kính, đây chính là những căn nhà làm cho Paris nổi tiếng. Tuy nhiên, quảng trường như bị bôi nhọ bởi một khách sạn hiện đại. Đó là một tòa nhà vuông vức, màu trắng, có những ô cửa sổ được lắp kính đen để tránh những cặp mắt dòm ngó từ bên ngoài. Khách sạn cao bốn tầng, trên cùng là mái bằng, ở cửa chính là hàng chữ vàng HOTEL DU MONDE (Khách sạn Hoàn Cầu). Nếu như có một con tàu vũ trụ nào đó đáp xuống quảng trường, chen vào giữa những tòa nhà cổ kính, bắt phải nhường chỗ cho nó, thì hẳn nó sẽ trông chẳng khác chi cái khách sạn này.
- Chúng ta sẽ ở đây. Khách sạn này là của trường đào tạo đặc biệt - Bà Stellenbosch thông báo với cậu bé như vậy.
Người tài xế lấy hành lý ra khỏi cốp xe. Alex bước theo bà trợ lý giám hiệu đến cửa ra vào, cánh cửa tự động mở ra để đón họ. Gian tiền sảnh lạnh lẽo, được lát kính và đá cẩm thạch trắng toát, không tạo được chút ấn tượng nào, trong góc có đặt một chậu cây, hình như chậu cây là ý tưởng sau này. Ở đây có một bàn tiếp tân, một nam nhân viên tiếp tân mặc bộ complê đen, đeo mắt kính, chẳng thấy hớn hở tươi cười gì; một máy vi tính và một dãy ngăn kéo. Alex bắt đầu đếm. Mười lăm ngăn kéo cả thảy. Có thể đoán là khách sạn này có mười lăm phòng.
Chẳng để ý đến Alex, nhân viên tiếp tân khẽ gật đầu chào bà trợ lý giám hiệu, anh ta nói bằng tiếng Pháp:
- Bonsoir (Xin chào) bà Stellenbosch. Tôi mong, là bà đã có một cuộc hành trình tốt đẹp từ Anh tới.
Alex không biểu lộ một cảm xúc nào, cậu bé làm ra vẻ như không hiểu được một từ nào cả. Alex Friend không nói được tiếng Pháp. Còn cậu - Alex Rider - thì chẳng ngại học thêm một thứ tiếng nào. Bác Ian Rider đã bắt đứa cháu trai nói tiếng Pháp ngay từ lúc cậu bé bập bẹ nói tiếng Anh. Ấy là chưa kể đến tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha, cậu cũng nói rất sõi.
Nhân viên tiếp tân lấy xuống hai chiếc chìa khóa. Anh ta không hỏi hai người đối diện có muốn vào ở ngay không. Anh ta cũng chẳng yêu cầu thẻ tín dụng. Trường học sở hữu một khách sạn, thế nên họ sẽ không phải thanh toán bất cứ một khoản chi phí nào khi rời khỏi đây. Anh ta đưa cho Alex một cái chìa khóa và nói bằng tiếng Anh với cậu bé:
- Tôi hy vọng cậu không phải là người mê tín.
- Không hề - Alex trả lởi.
- Phòng số mười ba. Lầu một. Tôi đoan chắc rằng cậu sẽ hài lòng về nó - Nhân viên tiếp tân mỉm cười.
Bà Stellenbosch cũng nhận lấy một chiếc chìa khóa. Bà ta nói, giọng người phụ nữ bỗng nhiên trở nên cộc cằn và giống giọng đàn ông một cách kỳ lạ. Hơi thở của bà ta đầy mùi thuốc lá:
- Khách sạn có nhà hàng riêng đấy. Có lẽ tối nay chúng ta sẽ ăn ở đây thôi. Tất cả chúng ta đều không muốn đi ra ngoài khi trời đang mưa, đúng không. Dù sao đi nữa, thức ăn ở đây cũng ngon tuyệt. Cậu thích thức ăn Pháp chứ, Alex ?
- Không thích lắm - Alex trả lời.
- Ồ, tôi cam đoan là chúng ta sẽ tìm thấy món mà cậu thích. Sao cậu không tắm rửa, thay quần áo sau chuyến hành trình nhỉ ? - Bà Stellenbosch nhìn vào đồng hồ - Chúng ta sẽ ăn vào lúc bảy giờ - hãy còn một tiếng rưỡi đồng hồ nữa. Cậu và tôi sẽ có cơ hội nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, tôi đề nghị là cậu nên ăn mặc gọn gàng hơn khi dùng bữa tối nhé ? Người Pháp không có quy định gì cả, nhưng - cậu bé thân mến, cậu thứ lỗi cho tôi được nói điều này: cậu ăn mặc hơi thiếu ý thức đấy. Vào khoảng bảy giờ thiếu năm, tôi sẽ gọi cậu. Hy vọng cậu sẽ thấy thoải mái với căn phòng của mình.
Phòng số 13 nằm ở cuối hành lang dài và chật hẹp. Cánh cửa mở ra một nơi trông ra quảng trường và rộng đến mức không ngờ. Trong phòng có một chiếc giường đôi với tấm chăn bông hai màu đen trắng, một tivi và một chiếc tủ nhỏ đựng rượu, một cái bàn, và hai bức tranh có bọc khung vẽ thành phố Paris treo trên tường. Người phục vụ đã đem hành lý của Alex lên, ngay khi anh ta vừa đi khỏi, Alex đá bật giày ra khỏi chân rồi ngồi phịch xuống giường. Cậu bé thắc mắc tại sao bà Stellenbosch và cậu phải tới đây. Cậu hiểu chiếc máy bay cần phải được tiếp nhiên liệu, nhưng như thế đâu có nghĩa là phải nghỉ lại qua đêm. Tại sao lại không thể bay thẳng tới trường học được chứ ?
Cậu phải làm gì để có thể giết thời gian những hơn một tiếng đồng hồ đây. Trước tiên, cậu đi vào phòng tắm - được lát nhiều kính và đá cẩm thạch trắng - để tắm táp cho thật sạch sẽ. Sau đó, cậu quấn khăn trở lại phòng và bật tivi. Alex Friend xem rất nhiều chương trình truyền hình. Có khoảng ba mươi kênh để chọn. Alex bỏ qua những kênh của Pháp và dừng lại ở kênh MTV (kênh âm nhạc). Cậu nghi ngờ mình đang bị theo dõi. Cạnh chiếc bàn có một tấm gương to, quá dễ dàng để giấu một máy camêra đằng sau nó. À, thế thì sao không cho họ thấy một điều gì nhỉ ? Cậu bé mở tủ rượu, rót ra một ly rượu gin. Sau đó, cậu vào phòng tắm, cho nước vào đầy chai rồi đặt trở lại vào tủ lạnh. Uống rượu lén ! Nếu đang trông thấy cảnh này, hẳn bà Stellenbosch sẽ biết rằng bà ta phải bận bịu vì Alex lắm đây.
Bốn mươi phút còn lại, cậu bé xem tivi và giả vờ thưởng thức rượu gin. Rồi cậu vào phòng tắm, bỏ cái ly vào lavabô. Đã đến giờ phải mặc quần áo. Liệu có nên làm theo những gì bà trợ lý giám hiệu nói không, tức là mặc quần áo chỉnh tề hơn ấy ? Cuối cùng, cậu bé cũng thu xếp được.
Cậu mặc một chiếc áo sơ-mi mới, nhưng vẫn mặc chiếc quần jean cũ. Một lúc sau, chuông điện thoại reo. Đó là điện thoại gọi Alex xuống ăn tối. Bà Stellenbosch đang đợi cậu trong nhà hàng, là một tầng hầm to và thiếu không khí. Ánh sáng dìu dịu và những tấm kính khiến nơi này có vẻ rộng thênh thang, nếu được chọn lựa nơi ăn tối thì cực chẳng đã, cậu mới phải chọn nơi này. Nhà hàng cũng giống như bất cứ nhà hàng nào khác trên thế giới. Có hai vị khách khác cũng tới ăn tối - đều là dân kinh doanh, nhìn dáng vẻ của họ có thể thấy ngay điều đó - tuy nhiên, cả hai đều ngồi riêng rẽ. Bà Stellenbosch đã thay đổi quần áo, bà ta mặc bộ áo dài dạ hội, ở cổ áo có lót lông, đeo một chuỗi hạt cổ được kết bằng những hạt ngọc đen và bạc. Càng mặc quần áo đẹp bao nhiêu thì trông bà ta càng không đẹp bấy nhiêu, Alex thầm nhận xét. Bà trợ lý giám hiệu đang hút thuốc.
- A, Alex ! - Bà ta thở ra khói - Cậu đã nghỉ ngơi ? Hay là xem tivi đấy ?
Alex không nói gì. Cậu bé buông người ngồi phịch xuống ghế và mở thực đơn ra nhưng rồi phải đóng lại ngay, vì cậu thấy tất cả đều ghi bằng tiếng Pháp.
- Cậu phải để tôi gọi rồi. Súp khai vị nhé ? Sau đó là thịt rán. Tôi chưa từng thấy một cậu bé nào mà không thích thịt rán cả. - Anh họ Oliver của tôi là người ăn chay đấy.
Alex trả lời. Cậu đã đọc thấy điều này trong hồ sơ. Bà trợ lý giám hiệu gật đầu như thể bà ta cũng có biết điều đó. Bà ta nói: - Thế thì cậu ta không biết là mình đang bỏ lỡ cái gì đâu nhỉ. Một người hầu bàn có gương mặt tái nhợt bước đến, bà Stellenbosch gọi món ăn bằng tiếng Pháp. Người phụ nữ hỏi:
- Cậu uống gì nào ?
- Cho tôi nước ngọt.
- Đó là thứ thức uống đáng ghét, tôi luôn nghĩ như vậy. Tôi chưa từng nếm hương vị của nó. Nhưng dĩ nhiên, cậu sẽ có thứ cậu muốn. Người hầu bàn mang nước ngọt đến cho Alex và một ly rượu sâmbanh cho bà Stellenbosch. Alex nhìn chằm chằm vào bọt bong bóng đang nổi lên trong hai cái ly, trong ly của cậu màu đen, trong ly của người ngồi đối diện màu vàng nhạt.
- Sarité - Bà ta nói.
- Gì cơ ?
- Là tiếng Pháp, có nghĩa là chúc sức khỏe.
- À. Chúc sức khỏe...
Một sự im lặng kéo dài. Đôi mắt người phụ nữ nhìn lom lom vào cậu bé như thể muốn nhìn thấu cả tim gan của cậu.
- Ra là cậu đã học ở Eton - Bà ta thăm dò.
- Đúng vậy - Alex lập tức cảnh giác.
- Thế cậu ở ký túc xá nào ?
- Ký túc xá Hoa Bia - Đó là tên ký túc xá của trường Eton - Alex đã đọc hồ sơ rất kỹ.
- Tôi từng đến Eton. Tôi nhớ ở đó có bức tượng. Tôi nghĩ đó là tượng của một vị vua. Vô khỏi cổng chính là đụng nó liền... Bà Stelienbosch đang kiểm tra cậu. Alex chắc chắn điều đó. Bà ta nghi ngờ cậu chăng ? Hay đơn thuần chỉ là phòng xa, điều bà ta vẫn luôn luôn làm ?
- Bà đang nói về vua Henry thứ Sáu đấy - Cậu bé trả lời - Tượng của ông ta được đặt ở trong sân trường, ông ta là người đã sáng lập ra trường Eton.
- Nhưng cậu không thích bức tượng đứng ở đó cơ mà.
- Vâng, không thích.
- Tại sao không thích ?
- Tôi không thích mặc đồng phục, tôi cũng không ưa mấy lão thẩm phán.
Alex cẩn thận không dùng từ thầy giáo, ở Eton, học trò gọi thầy giáo là thẩm phán. Cậu cười thầm trong bụng. Nếu bà ta muốn nói theo ngôn ngữ Eton thì cậu sẽ nói cho bà ta nghe. Alex nói tiếp:
- Tôi không phục nội quy. Chúng cổ lỗ sĩ lắm rồi. Tôi không thích có tên trong sổ Đi học trễ. Tôi hay bị tiêu tùng và làm bài sai... hay bị ghi tên trong sổ thiên tào. Kinh thư phát ngấy...
- E rằng tôi chẳng hiểu bất cứ một từ nào cậu nói.
- Kinh thư tức là bài học - Alex giải thích - Tiêu tùng nghĩa là khi học hành không tốt.
- Tôi hiểu rồi ! - Bà ta rít một hơi thuốc dài - Đó là lý do cậu đốt thư viện à ?
- Không phải - Alex trả lời - Chỉ vì tôi không thích sách.
Món ăn đầu tiên được đưa tới. Món súp của Alex màu vàng, có cái gì lợn cợn trong đó. Cậu bé dùng muỗng hẩy hẩy nó một cách nghi ngờ. - Cái gì thế này ? - Cậu hỏi gặng.
- Soupe de moules.
Cậu bé nhìn bà ta, trên nét mặt không có biểu hiện gì.
- Súp trai đấy. Tôi hy vọng cậu sẽ thích nó.
- Tôi thích khoai tây hơn - Alex trả lời.
Món thịt rán rồi cũng được bưng tới, đây là món đặc trưng của Pháp: chỉ nấu sơ qua. Alex cắt lấy một hai lát thịt hãy còn đỏ máu đút vào đầy mồm, sau đó, cậu quẳng dao và nĩa của mình xuống, bắt đầu dùng tay bốc để ăn sạch những miếng thịt rán kiểu Pháp. Bà Stellenbosch kể với cậu về dãy núi Anpơ của Pháp, về môn thể thao trượt tuyết và về những chuyến tham quan đến các thành phố châu Âu của bà ta. Thật là phát ngấy. Cậu bé đang cảm thấy chán. Cậu đã bắt đầu thấm mệt nên cầm ly lên, uống vài hớp nước ngọt, hy vọng nước lạnh có thể khiến cậu tỉnh táo hơn. Hình như bữa ăn đã kéo dài suốt cả buổi tối.
Cuối cùng là đến món tráng miệng - kem phủ sôcôla trắng được đưa đến và được ăn sạch. Alex từ chối không uống cà phê.
- Trông cậu mệt rồi kìa - Bà Stellenbosch nhận xét. Bà ta châm một điếu thuốc khác. Khói thuốc lượn lờ quanh bà ta và làm cho cậu bé cảm thấy chóng mặt - Cậu về giường nhé ?
- Vâng.
- Từ giờ đến trưa mai, chúng ta vẫn chưa khởi hành đâu. Cậu có thời gian để ghé thăm điện Louvre, nếu cậu thích.
Alex lắc đầu:
- Thực ra, tranh ảnh làm tôi chán lắm.
- Thế à ? Tôi thật quê quá !
Alex đứng dậy. Không hiểu sao tay cậu gạt phải cái ly của mình, làm phần nước ngọt còn lại đổ ra tấm khăn trải bàn trắng tinh. Có chuyện gì xảy ra với cậu vậy ? Tự nhiên Alex cảm thấy mệt lử cả người. - Có cần tôi cùng lên với cậu không, Alex ?
Người phụ nữ hỏi. Trông bà ta như đang lo lắng cho cậu bé, nhưng trong đôi mắt đầy sát khí đó có ánh lên niềm vui.
- Không cần. Tôi sẽ không sao đâu - Alex nói rồi bước đi - Chúc ngủ ngon.
Bước lên cầu thang trong trạng thái này đúng là một sự thử thách. Alex muốn đi thang máy, nhưng lại không muốn nhốt mình vào trong cái khoang nhỏ xíu ngột ngạt đó. Hẳn cậu bé đang bị nghẹt thở. Chân cậu bé bước lên cầu thang, vai cậu va phải tường. Rồi cũng đến hành lang dẫn về
phòng, Alex bước đi một cách loạng choạng, cuối cùng, cậu cũng tra được chìa khóa vào ổ. Khi đặt chân vào phòng, cậu cảm thấy tất cả mọi thứ như quay mòng mòng. Có chuyện gì vậy ? Cậu đã uống nhiều rượu gin hơn dự định sao, hay là... ?
Alex há hốc miệng cố nuốt lấy không khí. Cậu đã bị đánh thuốc mê. Có cái gì đó trong nước ngọt. Nó vẫn còn đọng lại trên lưỡi cậu, hơi đăng đắng. Từ chỗ cậu đứng tới cái giường chỉ có ba bước chân, thế mà giờ đây, nó như dài cả dặm. Đôi chân không chịu nghe lời cậu nữa. Chỉ mỗi việc nhấc một chân lên thôi, cậu cũng đã phải dùng hết sức lực. Cậu lao tới, đưa hai tay ra. Dù sao, cậu cũng đã đẩy mình đi đủ xa. Ngực và vai cậu đổ phịch lên giường, lún xuống nệm. Căn phòng cứ quay mòng mòng xung quanh cậu, càng lúc càng nhanh. Cậu bé cố gắng đứng dậy, cố gắng nói thử - nhưng không được. Mắt cậu díp lại. Cậu bằng lòng để bóng tối đưa mình đi.
Ba mươi phút sau, trong phòng vang lên một tiếng động nhỏ, căn phòng bắt đầu thay đổi.
Nếu Alex có thể mở mắt, cậu sẽ nhìn thấy cái bàn, tủ đựng rượu, và những bức tranh có bọc khung vẽ thành phố Paris đang bay lên dọc theo bức tường. Đó là chỉ đối với cậu thôi. Thật ra, các bức tường không hề chuyển động. Chính là sàn nhà đang lún xuống trên một hệ thống thủy lực, mang theo cả cái giường có Alex nằm trên đó - xuống dưới. Toàn bộ căn phòng không là gì khác ngoài một cái thang máy khổng lồ từ từ đưa cậu bé tới một căn hầm nằm bên dưới lòng đất.
Giờ đây, các bức tường chính là những tấm kim loại. Giấy dán tường, những bóng đèn cùng các bức tranh đã ở trên cao. Cậu bé đang rớt dọc theo hầm thông gió, hệ thống bốn tay đòn đưa cậu xuống tới tận đáy hầm. Những luồng ánh sáng chói lòa đột nhiên rọi thẳng vào người cậu. Có một tiếng động nhẹ vang lên. Alex đã đến nơi.
Chiếc giường dừng lại ngay chính giữa một phòng khám trắng toát nằm trong lòng đất. Xung quanh cậu bé đầy rẫy những thiết bị khoa học. Ở đây có rất nhiều máy móc: máy chụp ảnh kỹ thuật số, máy quay phim, máy chụp bằng tia hồng ngoại, và máy chụp X quang. Ngoài ra, còn nhiều dụng cụ khác, đủ mọi hình dạng, đủ mọi kích cỡ, đa số các dụng cụ, máy móc này, nếu là người không có chuyên môn khoa học thì không thể nhận biết được. Mỗi máy đều được nối với các máy vi tính gắn trên tường nhờ hàng tá những dây nối hình xoắn ốc những máy vi tính đang ở chế độ làm việc,
chúng đang kêu o o và hiển thị hình ảnh. Căn phòng có lắp đặt hệ thống điều hòa nhiệt độ. Nếu tỉnh dậy, Alex sẽ run lập cập vì lạnh cóng. Hơi thở của cậu bé biến thành những đám mây trắng mờ nhạt, bay lơ lửng quanh miệng.
Một người đàn ông mập mạp đang đứng chờ. Người này khoảng bốn mươi tuổi, có mái tóc vàng bóng mượt chải ngược ra sau cùng gương mặt lộ rõ tuổi trung niên, đôi má húp híp, cái cổ đọng mỡ. Ông ta đeo kính, để ria mép. Hai người trợ lý đang đứng cạnh ông ta, cả hai đều mặc áo khoác trắng. Gương mặt họ không hề có cảm xúc.
Ba người bắt tay ngay vào việc. Họ chạm đến Alex như chạm vào một cái bao tải đựng rau củ - hoặc là một cái xác chết — vậy, cả ba nâng cậu bé lên, cởi quần áo của cậu ra. Rồi họ bắt đầu chụp hình cậu bằng máy chụp ảnh thông thường. Trước tiên, họ chụp các ngón chân của cậu, rồi cứ thế chụp lên, họ chụp ít nhất là một trăm tấm ảnh, đèn flash lóe liên tục, máy tự động lên phim. Họ không bỏ qua bất kỳ một chỗ nào trên người cậu bé. Tóc cậu được cắt bằng kéo và được bỏ vào một cái phong bì làm bằng nhựa. Một chất liệu dẻo được đưa vào sử dụng để làm nhái mắt của cậu bé.
Họ đúc khuôn răng của Alex, lấy một ít bột mềm đưa vào miệng cậu, rồi ấn vào cằm, buộc cậu phải cắn lại. Họ ghi chép cẩn thận về vết bớt trên vai trái cậu, vết sẹo trên cánh tay, thậm chí cả những đầu ngón tay của cậu nữa. Alex cắn móng tay, điều đó cũng được ghi vào sổ. Sau cùng, họ đặt cậu bé lên một cái cân to, bằng phẳng, để cân trọng lượng của cậu rồi tiến hành đo - chiều cao, vòng ngực, thắt lưng, bắp chân, chiều dài cánh tay, vân vân - mỗi số đo, họ đều ghi chép cẩn thận vào sổ.
Bà Stellenbosch theo dõi chuyện này suốt từ đầu đến cuối qua một cái cửa sổ. Bà ta đứng im, không động đậy. Biểu hiện của sự sống duy nhất có trên gương mặt của bà ta chính là điếu thuốc được ngậm giữa hai bờ môi. Điếu thuốc rực đỏ, khói của nó bay lượn lờ.
Ba người đàn ông đã hoàn thành xong công việc. Người có mái tóc vàng nói vào chiếc micrô:
- Chúng tôi làm xong rồi.
- Cho tôi biết ý kiến của ông đi, ông Baxter - Giọng người phụ nữ vang lên trên hệ thống loa đặt đằng sau bức tướng.
- Được thôi.
Người đàn ông có tên là Baxter ấy là người Anh. Ông ta nói giọng bề trên, rõ ràng là ông ta đang rất hài lòng với chính mình:
"""