"
Đinh Trang Mộng - Diêm Liên Khoa & Minh Thương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hiện Thực]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đinh Trang Mộng - Diêm Liên Khoa & Minh Thương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hiện Thực]
Ebooks
Nhóm Zalo
ebook©vctvegroup
Diêm Liên Khoa
ĐINH TRANG MỘNG
Minh Thương dịch
Phát hành: Tao Đàn
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2019
QUYỂN MỘT
Giấc mơ của quan Chánh chước tửu - tôi mơ thấy có một cây nho ở trước mặt tôi, cây có ba cành, hình như đã đâm chồi, trổ bông, nho ở trên đầu đều đã chín. Chiếc cốc của Pharaon trong tay tôi, tôi liền hái nho ép nước vào trong cốc, rồi dâng cốc lên tay Người.
Giấc mơ của quan Chánh ngự thiện - trong giấc mơ, tôi thấy mình đội ba giỏ bánh trắng trên đầu, trong chiếc giỏ trên cùng có đủ món đồ ăn nướng cho Pharaon, có con chim bay đến rỉa đồ ăn trong chiếc giỏ trên đầu tôi.
Giấc mơ của Pharaon - mơ thấy mình đứng bên bờ sông, có bảy con bò cái vừa khỏe đẹp vừa béo tốt từ dưới sông đi lên, gặm cỏ trong bãi lau. Tiếp đó lại có bảy con bò cái từ dưới sông đi lên, vừa xấu xí vừa gầy guộc, đứng cùng với bảy con bò kia bên bờ sông. Bảy con bò cái vừa xấu xí vừa gầy guộc đó nuốt sạch bảy con bò cái vừa khỏe đẹp vừa béo tốt. Pharaon liền tỉnh dậy. Người lại ngủ tiếp, mơ giấc mơ thứ hai, Người mơ thấy một cây mạch trổ được bảy bông, vừa xinh đẹp vừa chắc khỏe, tiếp đó lại mọc ra bảy bông, vừa lép yếu lại vừa bị gió đông thổi xơ xác. Bông mạch lép yếu này nuốt lấy bảy bông mạch vừa chắc khỏe vừa mập mạp kia.[1]
QUYỂN HAI
Chương một
1
Một ngày cuối thu, hoàng hôn cuối thu. Mặt trời lặn trong hoàng hôn, trên bình nguyên đất Dự Đông[2], vì là hoàng hôn, nó tròn như máu, màu đỏ tràn khắp đất khắp trời. Đỏ lênh láng, nên có hoàng hôn của mùa thu. Cuối thu rồi, khí lạnh cũng dày hơn. Vì cái lạnh này, khắp đầu thôn cuối xóm, không một bóng người qua lại.
Chó đã về ổ.
Gà đã lên chuồng.
Trâu trong chuồng cũng sớm đi nằm tìm hơi ấm.
Cái tĩnh trong thôn, cái tĩnh dày đặc, không một tiếng động. Đinh Trang đang sống, mà giống như đã chết. Bởi cái tĩnh tuyệt đối, bởi đã rất thu, bởi vì hoàng hôn, thôn xóm đã tàn, người cũng đã tàn. Cứ héo tàn như thế, cuộc sống theo đó cũng khô khan, như xác chết vùi trong lòng đất.
Cuộc sống như xác chết.
Cỏ trên bình nguyên, đã xác xơ rồi.
Cây trên bình nguyên, đã héo khô rồi.
Đất cát và hoa màu trên bình nguyên, sau hồi đỏ máu, chúng cũng héo rồi.
Người Đinh Trang, họ cũng co mình trong nhà, không ra khỏi cửa. Khi ông nội Đinh Thủy Dương từ thành phố trở về, hoàng hôn đã phủ trên bình nguyên. Chiếc xe khách đường dài chở ông từ huyện Vy chạy về, rồi lại chạy đến Đông Kinh xa tít tắp, để ông lại bên đường, như mùa thu đánh rơi chiếc lá bên đường. Con đường thông với Đinh Trang, khi mười năm trước nhà nhà người người Đinh
ề Ô
Trang đều bán máu, đã được làm thành con đường xi măng. Ông đứng bên đường, nhìn Đinh Trang trước mắt, gió vừa thổi, đầu óc lơ mơ suốt cả chặng đường cuối cùng cũng trở nên tỉnh táo. Rốt cuộc đã lần ra đầu mối của một mớ lộn xộn suốt chặng đường. Hiểu ra rồi, ông sáng sớm đã rời khỏi thôn, bắt xe vào thành phố nghe bên trên nói cả ngày những việc mơ hồ, trên đường về Đinh Trang, đã có chút rõ ra như mặt trời mọc trong ngày nắng.
Hiểu ra có mây thì có mưa.
Hiểu ra cuối thu thì sẽ lạnh.
Hiểu ra người bán máu mười năm trước, hôm nay tất sẽ mắc bệnh nhiệt. Mắc bệnh nhiệt rồi thì sẽ chết như lá rụng. Bệnh nhiệt ẩn trong máu. Ông nội ẩn trong mộng.
Bệnh nhiệt yêu máu huyết, ông nội yêu giấc mộng. Ông thích nằm mộng, người chung quanh cũng thích nằm mộng. Dường như, ai cũng thích mộng. Rải những giấc mộng lên thế giới này, chắc chắn còn nhiều hơn lá rụng.
Ông nội mỗi ngày đều nằm mộng. Ba ngày nay, mỗi ngày ông đều mơ một giấc mơ giống nhau, mơ thấy thị trấn trong huyện Vy và trong thành phố Đông Kinh mà trước đây ông từng đến, cống ngầm dưới đất giống hệt như mạng nhện, mỗi đường ống đều đang chảy máu. Những mối ghép của các đường ống chưa được nối, những đoạn ống uốn cong, máu và nước phun ra, bắn lên trong không trung, như những hạt mưa màu đỏ sẫm đang rơi xuống, hơi máu tanh thẫm đỏ xộc vào trong mũi. Còn trên bình nguyên, ông nhìn thấy nước trong giếng, trong sông đều trở thành máu đỏ lòm, tanh nồng nặc, ông mơ thấy tất cả các bác sĩ trong bệnh viện, đang bật to tiếng khóc bi thương vì bệnh nhiệt, nhưng mỗi ngày đều có một ông bác sĩ ngồi cười trên đường Đinh Trang. Mặt trời vàng óng, trong Đinh Trang tĩnh lặng, người Đinh Trang đóng chặt cửa chặt cổng, nhưng ông bác sĩ trung niên đó, mặc chiếc áo dài trắng tuyết, đặt hòm thuốc của ông bên chân, sau đó, sau đó ông ngồi cười dưới gốc cây hòe già trên đường thôn. Ngồi cười trên hòn đá dưới gốc hòe già. Cười ha hả. Cười tiếng lớn. Tiếng cười đó xán lạn ánh vàng, lanh lảnh đanh vang, chấn động đến mức lá vàng trong thôn ào ào rơi xuống, như gió thu thổi không ngừng nghỉ trong thôn.
ề
Mơ xong, bên trên liền triệu ông lên huyện họp. Đinh Trang không có Trưởng thôn, liền để ông đi họp thay. Lần họp này, vừa trở về, ông đã hiểu ra một chuỗi các sự việc liên quan.
Hiểu ra một là bệnh nhiệt kì thực không gọi là bệnh nhiệt, tên khoa học của nó là bệnh AIDS; hai là chỉ cần ai năm đó từng bán máu, thời gian đó từng bị sốt trong vòng mươi ngày nửa tháng, hôm nay ắt sẽ mắc AIDS; ba là bị bệnh AIDS rồi, triệu chứng ban đầu giống như tám năm, mười năm trước, nóng như bị cảm, uống chút thuốc hạ sốt, sốt hạ rồi, người sẽ như được phục hồi, nhưng sau nửa năm, có thể là dăm ba tháng, bệnh lại phát tác, toàn thân mất hết sức lực, trên người lở loét, cuống lưỡi thối rữa, người khô như không có nước, cố chịu đựng thì được ba tháng đến nửa năm, cũng có thể bạn chịu được hơn tám tháng, nhưng bạn rất khó chống chọi được cả năm. Sau đó, sau đó bạn sẽ chết.
Lá rụng người chết.
Đèn tắt mạng vong.
Việc thứ tư mà ông nội hiểu ra, là trong khoảng chưa đầy hai năm này, mỗi tháng Đinh Trang đều có người chết. Hầu như nhà nào cũng có người chết. Có dạo chết liền ba mươi mấy người, mộ ở đầu thôn như nấm mọc sau mưa, có người tưởng là bị viêm gan, có người tưởng là viêm phổi, có người gan, phổi đều tốt cả, chỉ là không ăn được cơm. Nửa tháng sau, người đói như cọng cỏ, thỉnh thoảng nhổ một bụm máu, hoặc nôn ra nửa chậu máu, rồi qua đời. Lá rụng người chết, đèn tắt mạng vong. Lúc đó, ai cũng nói anh này hay cô kia bị bệnh dạ dày, bệnh gan, bệnh phổi, kì thực, đó đều là bệnh nhiệt. Đều là bệnh AIDS. Điều thứ năm hiểu ra, là bệnh nhiệt vốn dĩ chỉ có ở nước ngoài, chỉ có trong thành phố, là bệnh mà chỉ những kẻ tâm tính và hành vi bất chính mới mắc, bây giờ Trung Quốc cũng có, nông thôn cũng có, kẻ mắc bệnh đều là người tử tế. Hơn nữa bị là bị cả đám, như châu chấu bay qua ruộng hoa màu, hễ bay là bay cả đám. Sáu là mắc bệnh này tất phải chết, là bệnh nan y mới trên thế giới, tốn bao nhiêu tiền cũng không chữa khỏi. Bảy là bệnh này kì thực cũng mới bắt đầu, đại dịch phải năm sau, năm sau nữa mới đến. Lúc đó, người chết sẽ như con châu chấu, con thiêu thân, con kiến. Bây giờ mỗi người chết còn như chó chết. Chó trên thế gian
ấ ấ ề
này quý hơn thiêu thân, châu chấu rất nhiều. Tám chính là tôi, chôn dưới chân tường sau phòng ông nội, vừa qua mười hai tuổi, mới đi học được năm năm, thì đã chết rồi. Vừa ăn quả cà chua vào thì chết. Ăn quả cà chua nhặt ở đầu thôn xong thì chết. Chết vì trúng độc. Nửa năm trước con gà nhà tôi bị người ta hạ độc chết. Một tháng sau, con lợn mà mẹ tôi nuôi ăn phải mẩu củ cải ai đó vứt trên đường thôn cũng chết luôn. Mấy tháng sau, tôi ăn quả cà chua của người ta ở đầu thôn cũng chết. Quả cà chua đó là cà chua độc, ai đó đã đặt lên hòn đá bên đường tôi tan học, vừa ăn vào, ruột trong bụng như bị ai cầm kéo cắt, chẳng cất nổi mấy bước đã ngã xuống đường thôn, chờ bố tôi chạy đến ôm tôi về nhà, đặt lên giường thì tôi đã sùi bọt mép mà chết luôn.
Tôi chết rồi, nhưng tôi chết không phải vì bệnh nhiệt hay còn gọi là bệnh AIDS. Tôi chết vì cuộc lấy máu lớn của bố tôi ở Đinh Trang mười năm trước. Mua máu và bán máu. Chết vì ông là đầu nậu máu lớn nhất trong vùng, từ thôn Đinh Trang, thôn Liễu, Hoàng Thủy, thôn Lý Nhị, cả thảy mười thôn tám xã. Là tổng tư lệnh của rất nhiều đầu nậu máu. Ngày tôi chết, bố tôi không khóc, ông ngồi hút một điếu thuốc bên người tôi, rồi cùng với chú hai tôi, một người cầm một chiếc xẻng sắc bén, còn người kia, cầm con dao phay sáng loáng. Hai người đứng ở ngã tư chính giữa Đinh Trang, xé cổ ra gào, xé cổ ra chửi.
Chú tôi gào: “Có gan thì ra đây, mẹ kiếp đừng có lén lút hạ độc, ra đây xem Đinh Lượng này một dao bổ chết mày.”
Bố tôi chống cây xẻng sắt sắc lẻm mắng: “Ghen tức vì thấy Đinh Huy này có tiền không có bệnh đúng không? Đố kị phải không? Đinh Huy tao chửi tổ tiên tám đời nhà mày, chúng mày đầu độc gà nhà tao, đầu độc lợn nhà tao, còn dám đầu độc con tao!”
Hét liên hồi, chửi liên hồi, chửi từ giữa trưa đến tối, cũng không thấy có ai đi ra tiếp lời bố tôi. Tiếp lời chú tôi.
Cuối cùng, liền chôn tôi.
Vì tôi mới mười hai tuổi, vẫn chưa phải người trưởng thành, theo tục lệ, không được chôn trong phần mộ tổ tiên. Ông nội liền ôm tấm thân nhỏ bé của tôi, chôn tôi ở phía sau căn phòng ông sống trong
ể ỗ ỗ ắ
trường tiểu học Đinh Trang, trong cỗ quan tài gỗ trắng nhỏ hẹp, đặt vào trong đó sách đi học, bút viết bài tập của tôi.
Ông nội từng đi học, quản việc đánh chuông trong trường, khắp người toát lên khí chất văn chương, người trong thôn đều gọi ông là thầy giáo Đinh, ông còn đặt sách truyện vào trong quan tài cho tôi. Tuyển tập truyện. Còn có mấy quyển thần thoại và truyền thuyết. Có cả từ điển và tự điển.
Sau đó thì sao, sau đó ông tôi không có việc gì nữa, liền đứng trước mộ tôi nghĩ ngợi, người trong thôn còn hạ độc người nhà họ Đinh nữa hay không? Có tiếp tục hạ độc cháu gái ông, em gái Anh Tử của tôi không? Có hạ độc cháu trai còn lại của ông, Đinh Quân, con trai của chú tôi không? Ông liền nghĩ để cho bố tôi, chú tôi đến từng nhà trong thôn dập đầu, cầu xin mọi người đừng tiếp tục hạ độc nhà họ Đinh nữa. Trong thời gian ông nội nghĩ ngợi, chú hai cũng mắc bệnh nhiệt, ông biết bệnh nhiệt mà chú mắc phải thực ra là báo ứng, mắc vì thay bố tôi mua máu, bán máu, liền không nghĩ việc chú tôi đến các nhà Đinh Trang dập đầu nữa, chỉ nghĩ việc để bố tôi đến dập đầu trước mỗi nhà mỗi hộ ở Đinh Trang.
Còn có chín. Chín là ông nội hiểu ra rằng sau một năm hai năm nữa, bệnh nhiệt sẽ bùng nổ ở Đinh Trang, bùng nổ như hồng thủy ở Đinh Trang, thôn Liễu, thôn Hoàng Thủy, thôn Lý Nhị, và trăm làng nghìn thôn khác, quét qua trăm làng nghìn thôn như Hoàng Hà đê vỡ, lúc đó, người chết cũng như kiến chết, một người chết cũng như một chiếc lá rơi. Lá rụng người chết, đèn tắt mạng vong. Lúc đó, người Đinh Trang gần như chết sạch. Đinh Trang sắp biến mất trên thế giới này. Người Đinh Trang như lá trên một cái cây già, trước úa sau vàng, cuối cùng tất cả xào xào xạc xạc rơi xuống, sau một trận gió, lá cây cũng như Đinh Trang không biết đi đâu rồi.
Đinh Trang cũng như lá cây không biết đi đâu rồi.
Tiếp nữa là mười. Mười là bên trên yêu cầu phải tập trung những người bệnh trong thôn ngay lập tức, sợ bệnh nhiệt truyền đến những người chưa bán máu. Hiểu ra mười việc này, ông liền nghĩ đến cái chết của tôi, khi bố là đầu nậu máu lớn nhất trên bình nguyên, ông không chỉ muốn bố tôi dập đầu hết nhà này đến nhà khác trong thôn, còn muốn để bố tôi dập đầu xong thì chết luôn đi, nhảy xuống giếng, ố ố ổ ề ế ầ ế
uống thuốc độc, treo cổ đều được. Chết ngay lập tức. Chỉ cần chết trước mắt mọi người là được.
Chỉ cần nghĩ tới việc bảo bố tôi sau khi dập đầu trước mặt tất cả mọi người dân trong thôn rồi chết, ông có chút bàng hoàng. Sững ra một chút, ông liền đi vào trong thôn.
Đi vào nhà chúng tôi. Thật sự đi vào. Ông phải nói với bố tôi việc ông muốn bố chết.
2
Đinh Trang xảy ra việc lớn động trời, một cái thôn nhỏ không đến tám trăm nhân khẩu, chưa được hai trăm hộ, trong thời gian không đầy hai năm, lại chết bốn mươi mấy người. Tính ra, trong thời gian qua, cứ cách dăm bữa nửa tháng, Đinh Trang lại chết một người, mỗi tháng chết chừng ba người. Hơn nữa, mùa người chết đó cũng chỉ mới đến, năm sau, người chết sẽ nhiều như lương thực vụ mùa, nhiều như lá rụng mùa thu. Những người chết, lớn thì năm mươi mấy, nhỏ thì ba tuổi hoặc năm tuổi. Quy luật là mỗi người trước khi phát bệnh, đều phải sốt mười ngày hoặc nửa tháng, cho nên bệnh đó được gọi là bệnh nhiệt. Bệnh nhiệt lan tràn, đã chẹt cứng yết hầu của Đinh Trang rồi, làm Đinh Trang người chết không ngừng, tiếng khóc không dứt.
Những người thợ mộc làm quan tài trong thôn, đều đã thay đến ba bộ cưa và rìu.
Cái chết, như màn đêm đen tối, úp chụp lấy Đinh Trang, và cũng úp chụp lấy những thôn làng gần đó. Mỗi ngày, tin tức truyền trên đường thôn toàn tin đen tối, không phải là ai đó nhà ai lại sốt, thì là ai đó nhà ai nửa đêm qua đã chết rồi. Ai đó nhà ai chồng chết, vợ đang chuẩn bị cải giá, phải cải giá đến nơi cực xa, xa hút sâu trong núi, cách xa cái nơi quỷ quái đang tràn lan bệnh nhiệt trên bình nguyên này.
Cuộc sống không thể chịu đựng được nữa. Cái chết, mỗi ngày đều lắc lư trước cửa từng nhà, như con muỗi bay qua bay lại, rẽ vào nhà ai, nhà đó liền nhiễm bệnh nhiệt, chỉ trong thời gian vài ba tháng, sẽ có người chết trên giường.
ế ề ố
Người chết nhiều lên, có nhà khóc cả ngày hoặc nửa ngày, cuối cùng cũng cố gắng tốn một khoản tiền, dùng quan tài gỗ đen chôn người chết. Có nhà có thể không khóc, chỉ vây quanh tử thi ngồi yên lặng hồi lâu, than thở một chút, rồi đem chôn.
Trong thôn, cây bào đồng có thể dùng làm quan tài, những cây dùng được đều đã chặt sạch rồi.
Ba người thợ mộc già, vì ngày ngày đều làm quan tài, có hai người mệt quá bị bệnh đau lưng.
Người họ Vương biết cắm hoa giấy làm vòng hoa, cắm nhiều quá, hết động dao lại động kéo, mới đầu thấy trên tay xuất hiện mấy chục cái bọng nước, sau đó bọng nước vỡ ra, khô lại, trên tay anh ta liền xuất hiện thêm mười mấy vết chai vì mài kéo.
Người sống đã trở nên uể oải. Cái chết trực sẵn ngoài cửa, nhà nào cũng lười trồng trọt, cũng không ra ngoài làm việc kiếm tiền, cứ ngồi ở nhà như vậy, ngày ngày đóng chặt cổng chặt cửa, sợ bệnh nhiệt từ ngoài cửa tràn vào. Thực ra, cũng là chờ bệnh nhiệt từ ngoài cửa tràn vào. Chờ từng ngày từng ngày, từng ngày từng ngày đợi. Có người nói, nhà ai có bệnh nhiệt, Chính phủ sẽ phái xe tải quân dụng cỡ lớn, đem người bệnh kéo đến sa mạc Cam Túc chôn sống, như chôn sống người mang bệnh dịch năm nào như đồn đại. Biết rõ tin đó là tin vịt, nhưng trong lòng vẫn cứ tin. Liền cứ đợi ở nhà như thế, đóng cổng đóng cửa đợi, cứ chờ cứ đợi bệnh nhiệt đến, và người theo đó cũng chết luôn.
Chết nhiều rồi, thôn xóm cũng chết theo.
Đất hoang rồi, không đi cuốc.
Ruộng khô rồi, không đi tưới.
Có nhà có người chết, cơm vẫn ăn từng bữa, nhưng không rửa bát rửa nồi. Từ bữa sáng đến bữa chiều, vẫn dùng bát nồi chưa rửa đó đi nấu cơm, còn dùng chiếc bát, đũa chưa rửa đó ăn cơm.
Lại có người, dăm bữa nửa tháng không thấy anh ta trên đường thôn, không cần phải hỏi anh ta đi đâu nữa, thầm nghĩ chắc chắn đã chết rồi.
Có lẽ anh ta đã chết.
ỗ ế ế
Nhưng bỗng nhiên khi bạn đến giếng múc nước, gặp anh ta cũng đang múc nước ở giếng, cả hai sẽ giật nảy mình, cùng nhìn nhau một hồi lâu, một người nói: “Anh vẫn còn sống à?” Người kia nói: “Đau đầu mất mấy ngày, tưởng là bệnh nhiệt, hóa ra lại không phải.” Cùng vui mừng phấn khởi, một người gánh một gánh nước, một người gánh hai chiếc thùng không, vai chạm vai bước trên thềm giếng.
Đây chính là Đinh Trang.
Đây chính là cuộc sống và bệnh nhiệt mà Đinh Trang phải khổ sở chịu đựng, khổ sở đợi chờ.
Ông nội từ bên con đường cái trở về thôn, đến đầu thôn, có một người vợ bị bệnh nhiệt từ trong nhà đi ra. Chị ra cửa đi tìm con gà mái mơ nhà chị. Chị có bệnh, con gà mái mơ nhà chị thì không có bệnh. Bệnh nhiệt chỉ có ở người, không dính dáng gì đến gia súc, gia cầm. Năm đó khi khắp thiên hạ đều bán máu, chỉ có người bán máu, không có gia súc, gia cầm bán máu. Chị ra ngoài để tìm con gà mái mơ nhà chị. Con gà mái mơ mỗi ngày đều đẻ cho chị một quả trứng, chị đương nhiên không thể mất con gà mái mơ nhà chị, như những người mất vì bệnh nhiệt.
Chị ra cửa đi tìm con gà mái mơ nhà chị, nhìn thấy ông tôi đi trong hoàng hôn, chị liền nhớ ra bệnh nhiệt của chị. Bệnh nhiệt của chị đã đến giai đoạn cuối rồi, mụn trên mặt đã nốt này kề nốt khác, mọc như hạt đậu đã chín mõm. Cánh tay lộ ra ngoài áo, mụn ở mu bàn tay và cổ tay cũng như trên mặt, những cái mới mọc lên sau khi cái cũ rụng đi, đều hiện rõ màu đỏ tươi hệt như mặt trời lặn, cái này kề cái khác, cái nọ dồn cái kia, vì ngứa, vì lúc nào cũng gãi, chúng liền loét mủ ra, trên cánh tay còn đang dính nước trắng, thoang thoảng mùi thối chua pha chút mằn mặn.
Theo lệ thường, chị mắc bệnh nhiệt nửa năm rồi, những vết loét trên người không thể cứu vãn được nữa, lẽ ra đã chết từ lâu, nhưng chị vẫn còn sống.
Người bình thường, trên người có mụn, chỉ nổi lên lặn xuống ba lần là chết, nhưng chị đã nổi lên lặn xuống tới bốn phen mà vẫn sống.
ầ ồ
Chị tên là Triệu Tú Cần. Chồng chị tên là Vương Bảo Sơn. Vương Bảo Sơn bán máu để cưới chị, chị theo Vương Bảo Sơn đi bán máu, nhưng Vương Bảo Sơn không bị nhiễm bệnh nhiệt còn chị lại bị. Ba tháng rưỡi trước, trong mấy ngày bị sốt, mỗi ngày chị đều ngồi bệt trong sân nhà, lấy gót chân giậm mạnh lên nền đất, vừa khóc vừa gào nói:
“Oan uổng cho tôi quá…”
“Oan uổng cho tôi quá…”
Vương Bảo Sơn ra kéo chị, chị lấy tay cào mặt Vương Bảo Sơn bật máu, chửi rằng: “Chính anh đã hại tôi… Đồ khốn kiếp! Chính anh đã hại tôi… Đồ khốn kiếp!”
Chị vừa khóc vừa gào trên mặt đất, giậm đến mức đất bay loạn cả lên. Nhưng vài ngày sau, chị không khóc nữa. Không gào nữa. Lại đi nấu cơm như cũ, cho gà ăn như cũ, và còn bưng cơm đến tận tay Vương Bảo Sơn như trước đây.
Chị ra ngoài đi tìm con gà hoa mơ của chị. Chị không tìm thấy gà nhưng lại tìm thấy ông nội tôi. Chị đi về phía ông, gọi ông từ rất xa. “Thầy giáo Đinh, thầy đi họp ở trên về đúng không?”
Ông tôi nhìn chị: “Tú Cần à, là chị à?”
Chị liền nói: “Không phải tôi thì ai? Ông không nhận ra tôi nữa sao? Thầy giáo Đinh, ông đi họp ở trên à?”
Ông tôi nói: “À… chị gầy đến mức này rồi, bây giờ tôi mới nhìn ra chị.”
Hỏi: “Bên trên nói có chữa được bệnh này không?”
Ông tôi nói: “Có… người ta nói sắp có thuốc mới rồi. Hễ thuốc mới đến, tiêm một mũi là khỏi.”
Chị mừng ra mặt: “Thuốc mới khi nào mới đến?”
“Không lâu nữa đâu.”
“Không lâu là bao lâu?”
“Không lâu nữa nghĩa là chẳng mấy hôm nữa.”
“Rốt cục là mấy hôm?”
Ông tôi nói: “Mấy ngày nữa tôi lại đi lên trên hỏi.”
ề Ô ề
Nói xong, ông tôi liền đi. Ông men theo con ngõ đi về phía trước, trong khung cửa của các nhà các hộ hai bên ngõ, nhà nhà hộ hộ đều dán câu đối trắng, câu mới và câu cũ, trắng đến nhức mắt, bước vào đây, ông như xuyên qua một con ngõ trắng chất đầy tuyết. Đúng lúc ông từ con ngõ này rẽ sang con ngõ khác, Triệu Tú Cần lại gọi ông:
“Thầy giáo Đinh, tôi nhớ ra rồi, lần đầu tôi bán máu là con cả Đinh Huy nhà ông bảo tôi bán. Tất cả máu trên người tôi đều bán cho hắn, thuốc mới đến tôi tiêm bao nhiêu mũi, ông đều phải bảo hắn trả tiền cho tôi.”
Ông tôi không biết nên nói gì nữa.
Khi ông tôi không biết nên nói điều gì, vệt sáng cuối cùng của hoàng hôn đã nhạt dần, như một trang giấy vàng vọt. Đầu thôn, tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng rên rỉ của người mắc bệnh nhiệt nhà ai xuyên tường vọng đến.
Chính trong cái tĩnh này, ông đi tìm bố tôi.
Ông đi men theo con ngõ, nhìn thấy trên cửa lớn của nhà người em cùng mẹ chưa quá năm đời của ông, do người con trai chưa đến ba mươi của nhà người em này chết vì bệnh nhiệt, hai câu đối trắng trên cửa lớn viết rằng “Người đi phòng vắng khóc ba thu; Đèn tắt chiều buồng đắm ánh tà.” Còn có nhà họ Lý, người con dâu mới cưới chưa lâu thì chết, bệnh nhiệt của cô ta là từ nhà mẹ đẻ mang tới, sau đó lây cho chồng, sinh con lại lây sang con, để bệnh nhiệt của cháu nội nhà họ có thể khá lên, câu đối trên cửa viết rằng “Trăng tàn sao lặn nhà tăm tối; Ước nguyện ngày mai nắng chiếu soi.” Còn nhà người tiếp theo, ông tôi không biết chắc là nhà họ Đinh hay họ Lý, thấy trên cửa ngoài hai câu đối màu trắng ra, trên giấy không có một chữ mực đen nào cả. Ông không hiểu dán câu đối trắng, nhưng lại không viết chữ có nghĩa gì, liền đi đến sờ sờ, mới phát hiện ra bên dưới câu đối đó còn có hai tầng câu đối trắng. Liền biết nhà họ ít nhất đã có ba người chết vì bệnh nhiệt, dán câu đối trắng đến phát ớn rồi, dán chán rồi, nên kiên quyết chỉ dán câu đối mà không viết chữ.
Ông liền đứng ngây trước cánh cửa đó.
Trời đã tối, đã không còn nhìn thấy bóng người, bóng cây nữa. Nhà hai bên ngõ đã có người bật đèn. Ánh đèn như nước chảy qua
Ô ắ ế ề
khe cửa. Ông tôi lại xuôi theo con ngõ trắng tuyết đi về phía trước, đi đến nhà chúng tôi. Ông muốn thật lòng thật dạ nói với bố tôi rằng: “Mày quỳ xuống dập đầu trước mặt tất cả người trong thôn, sau đó chết trước mặt cả thôn. Nhảy xuống giếng, uống thuốc độc, treo cổ đều được, chỉ cần chết trước mặt cả thôn là được.”
3
Nhà tôi ở trên phố mới phía nam thôn.
Phố mới rốt cuộc vẫn là phố mới.
Phố mới là con phố mới quy hoạch sau khi Đinh Trang giàu có. Nhà bạn có tiền rồi, muốn xây nhà mới, vậy thì nhà bạn sẽ chuyển từ trong thôn ra phố mới, theo quy định của Chính phủ được xây nhà hai tầng. Một mẫu đất, phía trên là nhà lầu, ba mặt là tường bao, nhà lầu đều được ốp gạch trắng, tường bao đều là gạch đỏ. Gạch ốp một năm bốn mùa đều tỏa ra vị trắng, gạch đỏ một năm bốn mùa đều tỏa ra vị đỏ. Khi mùi vị hợp vào nhau, liền trở thành mùi đỏ đỏ trắng trắng, mang theo mùi lưu huỳnh vàng ánh.
Cả con phố đều là mùi lưu huỳnh của gạch mới, ngói mới. Một năm bốn mùa đều là mùi lưu huỳnh mới cóng.
Một thế giới đều là mùi lưu huỳnh của gạch mới, ngói mới. Nhà tôi dựng trong chính mùi lưu huỳnh này. Mùi lưu huỳnh ngày đêm đập vào mũi, va vào tai, đâm vào mắt, nhưng nó lại mời gọi lòng người. Trong thôn có rất nhiều nhà đều sống trong mùi lưu huỳnh này. Rất nhiều người đều muốn sống trong mùi lưu huỳnh này, cho nên đều bán máu.
Cho nên đều mắc bệnh nhiệt.
Tổng cộng có hai mươi mấy hộ sống trên phố mới, chủ nhân của hai mươi mấy hộ năm đó đều là đầu nậu máu. Đầu nậu máu kiếm nhiều tiền, liền xây nhà trên phố mới. Liền sống trên phố mới. Thế là có phố mới. Năm đó, bố tôi là đầu nậu máu sớm nhất, sau này là đầu nậu máu to nhất, cho nên nhà tôi sống ở nơi trung tâm nhất của phố mới, không phải nhà hai tầng, mà là ba tầng. Chính phủ quy định mỗi nhà chỉ được xây hai tầng, nhưng nhà tôi xây ba tầng.
ầ
Nhà người khác xây ba tầng Chính phủ sẽ ra tay can thiệp, nhưng khi nhà tôi xây ba tầng thì không có ai quản hết. Cũng không phải ngay từ đầu nhà tôi đã xây ba tầng. Khi người khác đều ở nhà gianh vách đất, thì bố tôi đã xây tường gạch mái ngói. Khi người khác xây tường gạch mái ngói, bố tôi liền dỡ tường gạch mái ngói đó ra xây thành nhà hai tầng. Khi người khác xây nhà hai tầng, bố lại thêm một tầng nữa thành ba. Khi người khác muốn thêm một tầng hoặc xây luôn thành ba tầng, Chính phủ liền ra tay can thiệp, nói thôn kiểu mẫu trong huyện đều là nhà hai tầng, không phải ba tầng.
Nhà tôi là nhà ba tầng. Ba tầng cao hơn hai tầng một tầng. Cổng nhà tôi cũng cao hơn nhà người khác hai thước. Khi cổng nhà người khác đều cao một trượng hai, nhà tôi là trượng rưỡi; khi nhà người khác cao trượng rưỡi, nhà tôi liền nâng cổng cao lên trượng sáu. Khi người khác đua theo cũng xây đến trượng sáu, bố tôi ngay lập tức lại đôn lên trượng tám. Một trượng tám, tròn sáu mét, không nhà nào dám đọ cao với nhà tôi nữa, cao thêm nữa thì sẽ không hợp với nhà hai tầng nhà họ. Sẽ phá hỏng phong thủy. Nhà tôi là nhà ba tầng, không sợ hỏng phong thủy.
Trong sân nhà chúng tôi, thứ không tương xứng với tòa nhà này là trong chiếc sân kiểu tây có chuồng lợn, chuồng gà, dưới mái hiên còn có ổ chim câu. Khi xây nhà, bố đều ngắm theo kiểu nhà mang phong cách phương Tây của Đông Kinh, trên nền nhà lát toàn gạch viên lớn màu trắng phớt hồng, sân lát những tấm xi măng một mét vuông. Mấy cây bào đồng trong sân, đều dùng gạch hoa xây bồn hoa và bồn cây, ngay cả nhà xí đã xây từ trước trong sân, cũng thay cái hố xí ngồi xổm dùng từ trăm nghìn năm trước thành bệ xí bệt như trong thành phố, nhưng bố tôi, mẹ tôi ngồi trên cái bệ xí đó, ngồi mãi cũng không đi được, đành phải đào một cái hố ngồi trên phần đất lộ thiên ở sau nhà.
Phòng tắm trong nhà có một cái máy giặt quần áo, nhưng mẹ tôi vẫn thích bưng chậu giặt vào trong sân để giặt tay.
Phía trên nhà bếp ở phía bắc sân là nhà ăn, bên bàn ăn bày bốn cái ghế tựa, nhưng cả nhà chúng tôi đều thích bưng bát cơm vào trong sân, hoặc là bưng bát cơm ra phố, nếu không ngồi ăn trên hòn đá trên phố, thì cũng ngồi bệt trên dép của mình ăn.
ế ề ồ
Cứ thế, cái xí bệt liền trở thành đồ trang trí.
Máy giặt cũng trở thành đồ trang trí.
Có tủ lạnh, tủ lạnh cũng thành đồ trang trí.
Phòng ăn, bàn ăn đều thành đồ trang trí.
Khi ông tôi đến nhà tôi, cả nhà đang đóng cổng ăn tối trong sân. Màn thầu trắng, nước gạo, miến và củ cải hầm cải thảo. Trên lá cải thảo có ớt nổi lên đỏ như tranh xé giấy trong ngày Tết. Bố mẹ ngồi trên cái ghế con, giữa sân bày chiếc bàn nhỏ, cả nhà đang vây quanh chiếc bàn nhỏ ăn cơm. Ông tôi gõ cửa. Bố tôi hỏi ai đấy, sau khi em gái Anh Tử của tôi ra mở cửa, mẹ tôi liền bưng canh cho ông, lấy ghế ra, nhưng chính lúc sắp ăn cơm, ông tôi cầm lấy cây đũa lạnh lùng nhìn bố, lạnh lùng như nhìn một người không quen biết.
Bố tôi cũng lạnh lùng nhìn ông tôi, cũng như đang nhìn một người không quen biết.
Cuối cùng, bố tôi nói: “Bố, bố ăn đi.”
Ông tôi nói: “Con cả, bố nghĩ đi nghĩ lại phải nói với con một việc.”
Bố tôi nói: “Khỏi cần nói, bố ăn đi.”
Ông tôi nói: “Không nói bố không ăn được, đêm cũng không ngủ được.”
Bố tôi bỏ chiếc bát trong tay đặt lên bàn, bỏ đũa lên trên bát, lạnh lùng nhìn ông nói: “Bố nói đi.”
Ông tôi nói: “Hôm nay bố đi họp bên trên.”
“Có phải nói chuyện bệnh nhiệt chính là bệnh AIDS không? Bệnh AIDS là bệnh nan y mới trên thế giới không?” Bố tôi nói: “Bố, bố ăn cơm đi, những cái này bố không nói con cũng biết rồi. Hai phần ba người trong thôn đều biết. Chỉ có những người bị mắc bệnh nhiệt là không biết. Những người bị mắc bệnh nhiệt có biết họ cũng giả vờ như không biết.” Sau đó, bố tôi liếc ông tôi một cái, vẻ mặt đầy lạnh lẽo và coi thường, giống như một học sinh liếc tập bài thi trong tay thầy giáo mà nó đã sớm biết cách làm rồi. Cuối cùng, bố bưng lấy bát, cầm lấy đũa, tiếp tục ăn.
Ô ầ
Ông tôi được xem là thầy giáo, thực ra chỉ là người cả đời gõ chuông trong trường học, cho đến hôm nay sáu mươi tuổi rồi vẫn gõ chuông. Có lúc cũng trông coi học trò thay cho những giáo viên bị ốm hay có việc, dạy môn ngữ văn cho học sinh lớp một: “thượng, trung, hạ; trái và phải.” Cầm phấn viết chữ to như cái bát.
Bố tôi cũng được ông tôi dạy, nhưng bây giờ bố không còn kính trọng ông như kính trọng thầy giáo giống khi xưa nữa. Ông nhìn ra điều này từ trong mắt bố. Ông nhìn bố bưng bát cơm của mình cứ thế ăn, liền nhẹ nhàng đặt bát cơm của mình lên trên bàn.
Cuối cùng nói: “Huy, bố không nói con chết trước mặt cả thôn nữa, nhưng con cũng nên dập đầu trước mặt cả thôn.” Bố tôi trừng mắt nhìn ông: “Sao phải thế?”
“Con là đầu nậu máu.”
“Những người sống trên phố mới này đều là đầu nậu máu.” “Họ đều học theo con. Bọn họ không ai kiếm tiền nhiều hơn con.” Bố cũng đặt mạnh cái bát xuống bàn, canh trong bát bắn ra rớt
xuống mặt bàn; vứt đũa lên trên bàn, đũa lại lăn xuống đất. “Bố,” bố tôi trừng mắt nói với ông nội. “Từ nay về sau bố còn nhắc đến việc con dập đầu ở Đinh Trang nữa, thì bố không phải là bố của con, bố cũng đừng nghĩ đến việc bảo con dưỡng già đưa ma cho bố.”
Ông sững ra, đũa khựng lại trong tay, nói khẽ: “Xem như bố con cầu xin con quỳ xuống dập đầu trước cả thôn con cũng không chịu sao?”
Bố tôi lớn tiếng nói: “Bố, bố đi đi, bố nói thêm một câu nữa thì bố thực sự không phải là bố của con.”
Ông tôi nói: “Huy, chỉ là cái dập đầu thôi, dập đầu xong mọi chuyện cũng qua mà.”
Bố tôi nói: “Bố đi đi. Từ nay về sau, bố không phải là bố con nữa. Bố không phải là bố con, nhưng bố chết con cũng sẽ đưa bố xuống mộ.”
Ông tôi sững người một lúc, chầm chậm đặt đũa lên trên bát, đứng dậy nói: “Trong thôn đã chết hơn bốn mươi người rồi, con đến
ầ ỗ ố ề
dập đầu trước mỗi nhà, cũng chỉ đập hơn bốn mươi cái, điều này làm con mệt phải không? Làm con mệt phải không?” Hỏi như vậy, dường như ông cũng thấy mệt, hơi tàn lực kiệt, liếc mẹ tôi một cái, rồi lại nhìn Anh Tử nói: “Anh Tử, ngày mai cháu đến trường học đi, ông nội dạy bù môn ngữ văn cho cháu. Thầy giáo dạy toán của các cháu không bao giờ đến nữa, từ nay về sau chúng ta đều học môn ngữ văn.”
Nói xong, ông liền đi ra.
Chầm chậm đi mất, lưng còng xuống, đầu cúi xuống, chầm chậm đi mất.
Chương hai
1
Nói chuyện Đinh Trang một chút nhé.
Đinh Trang nằm ở phía nam con đường cái từ Đông Kinh đến huyện Vy, trong thôn tổng cộng có ba con phố. Đông tây một con phố, nam bắc hai con phố. Trong hai con phố thì một con là phố mới. Nếu như không có con phố mới đó, phố Đinh Trang sẽ có hình chữ “thập” (+) ngay ngắn, có con phố mới đó, hình dạng phố liền trở thành chữ “thổ” (±).
Ông tôi từ phố mới đi ra, ánh trăng mông lung. Đầu óc ông cũng mông lung, nghe thấy đầu thôn hình như có tiếng đàn đứt quãng, như có người đang kéo đàn hát. Nhưng đầu ông đang mông lung, biết bệnh nhiệt chụp lấy Đinh Trang rồi, Đinh Trang sẽ không còn có tiếng ca, tiếng hát, tiếng cười nữa.
Cuối cùng bước mông lung về phía nhà chú hai tôi.
Ông muốn đến nhà chú hai tôi ngồi một lúc.
Bệnh nhiệt của chú hai đã bị mấy tháng rồi, đã qua sự khó chịu ban đầu, tuy xách nửa thùng nước cũng không có sức, nhưng đã có thể ăn nửa cái bánh, có thể uống nửa bát cháo. Hồi đầu năm, bệnh nhiệt ập xuống người chú, tưởng là cảm sốt thông thường, nhưng qua thời kì bình ổn ba tháng, người chú bắt đầu ngứa. Trong một đêm, trên mặt trên hông và trong bẹn, chỗ nào cũng phát thủy đậu. Khắp người ngứa ngáy đến mức muốn lao đầu vào tường. Họng cũng đau một cách kì lạ. Dạ dày thì ngày ngày cồn lên như sóng cuộn, biết là đói nhưng lại không ăn được. Ăn một miếng thì hận không thể nôn ra hai miếng. Lúc đó, chú biết mình đã mắc bệnh nhiệt, sợ bệnh sẽ lây cho thím tôi và con trai nhỏ Tiểu Quân, nên tự
ể ố ồ
mình chuyển ra khỏi phòng chính, sống trong buồng nhỏ, một mặt nói với thím tôi: “Dăm bữa nửa tháng nữa anh chết đi, em đem Tiểu Quân đi lấy người khác, lấy xa xa một chút như người ta, cách xa cái thôn Đinh Trang quỷ quái này.”
Mặt khác, đi nói với bố tôi rằng: “Anh, Tống Đình Đình và Tiểu Quân đều đi huyện Vy xét nghiệm rồi, họ không có bệnh nhiệt, em chết rồi anh nhất định phải nghĩ cách giữ hai mẹ con họ lại, không thể em vừa chết thì cô ấy đã tái giá, để em chết mà lòng vẫn không yên.”
Chú yêu thím tôi.
Yêu thế giới này.
Mỗi lần chú nghĩ đến việc mình có bệnh nhiệt, chẳng bao lâu nữa sẽ chết, nước mắt liền giăng đầy trên mặt.
Thím hai nói: “Anh khóc cái gì?”
Chú nói: “Anh không sợ chết, chỉ thương em ở lại. Anh chết rồi em đưa Tiểu Quân đi lấy người khác đi.”
Nhưng chú lại đi nói với ông tôi rằng: “Bố, Đình Đình nghe lời bố, trên đời này không có ai yêu cô ấy hơn con, lấy ai cũng không có người đối tốt với cô ấy như con, bố hãy thường xuyên khuyên nhủ cô ấy, để cô ấy sau này ở nhà thủ tiết đừng lấy chồng nữa.”
Ông tôi không nói về việc có để cho Đình Đình cải giá hay không. Ông tôi nói: “Con cứ sống tốt thì cô ấy sẽ không đi lấy chồng khác.”
Ông tôi nói: “Mọi việc đều có ngoại lệ, ai cũng nói ung thư là chết, chẳng phải có người bị ung thư vẫn sống được tám năm mười năm sao?”
Chú hai đã vì cái ngoại lệ đó mà sống tiếp, lại bắt đầu từ ăn hai bữa cơm, uống hai cốc rượu trắng. Điều khổ não nhất khi chú hai tiếp tục sống là chú vẫn chưa đến ba mươi, thím mới chỉ hai mươi tám, nhưng mỗi đêm thím đều quả quyết không cho chú động vào người. Ngay cả kéo tay thím cũng không cho, chú liền cảm thấy nỗ lực sống để làm ngoại lệ cũng chẳng có ý nghĩa gì, muốn nói việc này với ông tôi và người khác, nhưng lại không biết phải nói từ đâu.
Liền thường xuyên thở vắn than dài trước mặt ông.
Ô ế ồ
Ông thì thường xuyên đến ngồi ở nhà chú hai tôi.
Nhưng bây giờ nhà chú hai tôi không có người.
Có bệnh nhiệt nhưng lại không có người ở nhà.
Cổng ngoài khóa lại.
Cổng nhà hàng xóm ở phía tây cũng khóa.
Cả con ngõ đều khóa cổng.
Cả một con ngõ không có người, nhưng lại có tiếng đàn vọng lại. Gió ở trong ngõ thổi lúc to lúc nhỏ, như tiếng đàn trong ngõ tuôn chảy bập bùng. Ông nghe thấy trong tiếng đàn thô tháp đó, thấp thoáng có tiếng hát, khác với tiếng hát của người thuyết thư, nghe khàn khàn, nhả chữ không được rõ, nhưng chính vị thô khàn này làm cho tiếng hát trở nên độc đáo, giống như bát canh sườn bỏ nhiều muối, mặn nên có vị.
Đứng ở cửa nhà chú một lúc, nghe một lúc, ông liền men theo âm thanh đó đi về phía đầu thôn. Ông biết đa số mọi người đều đến đầu thôn để nghe trụy Dự[3]. Nhưng ông không hiểu là đa phần các nhà đều có người mang bệnh nhiệt, đa phần đều có người chết, trong nhà đa phần đều có người sắp chết, làm gì có tâm tư đi nghe điệu hát trụy khản đặc này, sao còn có người đi kéo hồ cầm, đi hát điệu trụy Dự đây.
Ông liền mượn ánh trăng bước đi.
Thì nghe thấy tiếng hát ở đầu thôn, hóa ra là Đinh Hương Lâm đang vừa kéo vừa hát khúc Du nhiên ca trong bài trụy đó, nghe ca từ giống với ca từ ông đã gặp ở đâu:
Mặt trời mọc ở biển đông lặn ở núi tây, sầu cũng một ngày, vui cũng một ngày; làm việc kiếm chút ít tiền tiêu, được nhiều cũng vui, được ít cũng vui…
Ông liền theo tiếng hát đi về phía trước, đến đầu thôn, nhìn thấy trên cành cây hòe già quả nhiên có treo dây mắc đèn, Đinh Hương Lâm bốn mươi tuổi đang ở dưới ánh đèn đó, vừa kéo hồ vừa lắc lư đầu hát. Cả thôn - đa phần những người có bệnh nhiệt hoặc sợ bị mắc bệnh nhiệt, già trẻ gái trai, cả đám hơn trăm người, có lẽ là hai trăm, nhà có ti vi cũng không thích ở nhà xem ti vi, đều đi ra tụ tập ở
ể
đây, hòa vào sự náo nhiệt để nghe đàn, nghe Đinh Hương Lâm hát trụy hồ ở đầu thôn.
Đinh Hương Lâm, mười năm trước theo một nghệ nhân thuyết thư học hát trụy, vì giọng khàn, kéo trụy hồ lại toàn sai điệu, cho nên hễ ông hát là có người vỗ tay chế nhạo, cuối cùng bị sư phụ đuổi đi. Còn chưa nhập môn đã bị đuổi rồi. Sau khi bị đuổi, ông bắt đầu bán máu. Bán ra bệnh nhiệt. Nhưng có bệnh nhiệt rồi không biết vì sao đêm nay ông lại vừa kéo đàn vừa hát. Có bệnh nhiệt còn vừa kéo đàn vừa hát. Ánh đèn trong sân diễn hơi tối, nhưng trong bóng tối đó, những người bệnh mắc bệnh nhiệt xuất hiện, có người ngồi trên ghế đẩu, có người nằm trên ghế có tựa lưng, có người thì nằm luôn trên cái giường trúc có thể di chuyển của nhà họ. Còn có người, trẻ con nhà họ phát bệnh nhiệt sớm nhất, bố mẹ nó liền vừa ôm đứa trẻ vào lòng, vừa nhẹ nhàng gãi vết ngứa trên người nó, vừa để nó nghe hát trụy, để nó chìm trong sự huyên náo, quên đi những vết ngứa trên người.
Quên bệnh trên người.
Đinh Hương Lâm là người bị bệnh nhiệt, những bọc mụn trên mặt đã hiện rõ ràng ở trán, nhưng trong ánh đèn dưới gốc cây hòe, ông đang gân cái cổ họng khàn lên, như đang biểu diễn trên sân khấu, mặt ngẩng lên trời, chân giậm xuống đất, mắt nhắm hờ, trên trán lóe lên ánh sáng của những giọt mồ hôi, hai tay vừa kéo trụy hồ, vừa hát với những chấm nước bọt trắng liên tiếp treo bên mép. Những người nghe, những người đang nghe, chưa chắc đã nghe rõ ông hát gì, nhưng bởi vì ông hát ở đó, nên đều chăm chú lắng nghe. Cũng không phải vì nghe ông hát gì, mà vì khi Đinh Trang bế quan tỏa cảng, họ ở trong nhà quá lâu rồi, đều muốn ra ngoài gặp gỡ cho vui.
Ông tôi đi đến.
Ông tìm ở bên ngoài đám người, cuối cùng đến bên trái phía sau Đinh Hương Lâm, đứng sau một thanh niên hỏi: “Lượng phải không? Nghe gì thế?”
Thanh niên đó nói: “Vừa rồi hát Ngọc đường xuân, bây giờ đang hát Du nhiên ca.”
Ông tôi hỏi: “Có hay không?”
ề ắ ắ ồ
Thanh niên đó nói: “Mọi người đều sắp tắc thở trong nhà rồi, đột nhiên nghe nói có thuốc mới có thể chữa khỏi bệnh nhiệt, bây giờ hát gì cũng hay.”
Người nói đó, kì thực chính là chú hai tôi, vì chú nghe chăm chú đến mức không quay đầu lại, không nhìn thấy ông, ông liền không hỏi tiếp nữa, đứng đó nhìn chú hai tôi, lại nhìn Đinh Hương Lâm trước mặt, rồi lại nhìn đám người bị mắc bệnh nhiệt của Đinh Trang đen ngòm phía trước, để ánh mắt rơi xuống mặt chú hai và thím hai ở phía trước chú, nhìn thấy trên mặt thím hai, lại có ánh sáng mà trước đây mỗi ngày đều có. Từ khi chú hai có bệnh nhiệt mới không nhìn thấy ánh sáng đó nữa. Mặt chú hai, cũng có vẻ nhẹ nhõm mà nửa năm nay không có, giống như đánh mất thứ gì đó, sau nửa năm lại tìm được, ngay cả những vết mụn trên mặt cũng đều phát sáng dưới ánh đèn. Nhìn ánh sáng đó, ông tôi hỏi có chút mông lung: “Lượng, con nghe ai nói có thuốc mới có thể chữa khỏi bệnh nhiệt?”
Chú hai quay đầu nói: “Bố, là bố à,… mọi người đều nói có thuốc mới rồi, nói tiêm một mũi bệnh nhiệt sẽ khỏi. Đinh Hương Lâm vừa nghe nói có thuốc mới là treo đèn lên hát trụy.”
Ông tôi sững người. Ngẩn ra một chút, và cũng cùng nghe khúc trụy đó với chú tôi.
Cứ thế nghe khúc trụy mà Đinh Hương Lâm hát.
2
Ông ở sân diễn đó nghe hát chút xíu rồi trở về trường học. Đi về phía nam thôn, một dặm rưỡi đường, chỗ trước đây là ngôi miếu Quan Công, trường học ở dãy phụ của ngôi miếu đó, Quan Công thì ở chính đường. Người Đinh Trang muốn phát tài đều đến chính đường thắp hương, thắp mấy chục năm, cuối cùng vẫn phải bán máu kiếm tiền, cuối cùng dỡ miếu. Không tin Quan Công nữa, tin vào bán máu.
Tin vào bán máu. Cuối cùng xây được ngôi trường mới này. Tin vào bán máu, ông nội cũng chỉ thường xuyên sống trong trường.
ấ ấ ẫ ấ
Đất mười mấy mẫu, trên vùng đất hoang của bình nguyên, xây bức tường hoa gạch đỏ, xây hai tầng lầu ở nơi cao nhất của mặt phía đông, cửa sổ lắp kính lớn, ngoài cửa có biển gỗ viết “lớp một”, “lớp hai”, “lớp năm”. Trong sân trường dựng một giá bóng rổ, trên cánh cổng sắt lớn treo tấm biển gỗ “Trường tiểu học Đinh Trang”, chỗ này cuối cùng cũng trở thành trường học. Trong trường, ngoài ông nội còn có hai giáo viên dạy toán và văn thể. Hai người đều còn trẻ, người thôn ngoài, vừa nghe nói Đinh Trang có bệnh nhiệt là không đến dạy học nữa.
Không bao giờ đến nữa.
Chết cũng không đến.
Trong trường, chỉ còn lại mình ông. Bám trụ cửa sổ, cửa kính, bàn ghế và bảng đen của ngôi trường, bám trụ với những ngày khổ nạn bệnh nhiệt lan tràn khắp Đinh Trang và bình nguyên.
Trong trường học, đến bây giờ vẫn còn mùi lưu huỳnh của gạch mới ngói mới. Giữa lúc nửa đêm của ngày thu muộn này, mùi lưu huỳnh còn nồng nặc hơn trên phố mới, giống như mùi ngũ cốc trên ruộng hoa màu sau vụ thu, mùi ngũ cốc thơm vàng óng, hun vào mũi, dụi vào mắt. Mỗi khi ông ngửi thấy mùi gạch mới ngói mới trong trường, những lo lắng trong lòng ông cũng tĩnh lại, rồi sẽ nghĩ đến rất nhiều việc. Từ chỗ biểu diễn trở về trường học, đêm đã sâu như cái giếng, tiếng hát trụy vẫn còn văng vẳng, bay lúc cao lúc thấp như tiếng trùng kêu. Cái tĩnh trên bình nguyên, cái tĩnh như nước chảy bao trọn lấy ngôi trường, như sương mù tỏa ra từ trường học. Ông ngồi trên thanh xà thấp của giá bóng rổ giữa trường, đó là cái giá bóng làm bằng gỗ cây du và ống thép, thanh xà thấp vừa to vừa cứng, ông như ngồi trên một tảng đá. Ông nhìn trời, trời như được rửa bằng nước, tiếng hát trụy bay đến từ bầu trời ẩm ướt. Nghe âm thanh đó, lòng ông có chút đau, như có búa đập vào tim, lúc mạnh lúc nhẹ. Bảo bố tôi đến dập đầu trước mặt người trong thôn thì bố không chịu. Ngay cả chú hai cũng tin rằng sắp có thuốc mới có thể trị bệnh nhiệt rồi. Tiêm một mũi là khỏi. Ông ngồi trên cái xà dưới của giá bóng, dựa vào thân giá, ngửa đầu nhìn trời, để hơi ẩm của đêm thu lướt qua mặt ông. Ông hơi đói, đi huyện Vy một ngày chỉ ăn một bữa cơm. Vì đói, trong lòng có chút hoang mang. Vì hoang mang, nỗi đau
ề ố ế
đớn liền giống như sợi dây thừng siết chặt tim ông. Sợi dây mảnh, mỗi lần siết lại nhói lên một cái, vai ông theo đó run lên từng hồi. Lần run này, ông liền nhớ đến việc mùa xuân năm đó. Việc mùa xuân năm đó, như cây đâm chồi cỏ mọc xanh trải ra trước mặt ông, rõ ràng minh bạch, giống như ánh trăng phủ trước mặt ông.
Ông liền nhìn thấy việc mùa xuân năm đó, đang rõ ràng mồn một. Gió thổi, lá cây rung rinh, vai lắc lắc. Lần lắc này, tháng Hai năm đó liền hiện ra. Trưởng phòng Giáo dục trong huyện cũng hiện ra, dẫn theo hai cán bộ huyện, đến Đinh Trang động viên bán máu. Giữa mùa xuân, trong thôn rất ấm áp và khoan khoái, mùi thơm trên phố xộc vào mũi. Trưởng phòng Giáo dục đang ở giữa mùi thơm này, đi tìm Trưởng thôn Lý Tam Nhân, nói bên trên cần tổ chức việc bán máu toàn dân. Lý Tam Nhân liền kinh ngạc há to miệng, nói: “Trời ơi, anh bảo bán máu sao!”
Há to miệng: “Ông trời ơi, bắt dân bán máu sao!”
Lý Tam Nhân không tham gia buổi họp động viên người Đinh Trang, ba ngày sau Trưởng phòng Giáo dục lại đến, lại bảo ông vận động Đinh Trang đi bán máu, ông liền không nói gì, chỉ ngồi xổm dưới đất hút thuốc.
Qua nửa tháng, Trưởng phòng Giáo dục lại đến, tìm Lý Tam Nhân, không động viên ông tổ chức Đinh Trang đi bán máu nữa, không động viên ông nữa, nhưng lại cách chức Trưởng thôn của ông.
Cách chức Trưởng thôn mà ông đã làm bốn mươi năm. Mở cuộc họp tuyên bố một chút rồi cách chức.
Sau khi cách chức, Lý Tam Nhân vẫn còn há to miệng, hồi lâu không nói ra lời. Chính trong cuộc họp này, Trưởng phòng Giáo dục đích thân động viên Đinh Trang bán máu, ông nói rất nhiều trong cuộc họp với dân Đinh Trang. Nói trước, nói sau, nói quá khứ và tương lai của Đinh Trang, cuối cùng trong cuộc họp nhìn chăm chăm vào dân chúng hét to: “Tôi nói mọi người có nghe không? Xem như tôi cầu xin người Đinh Trang, cầu xin mọi người nói một câu, không
ể ể ề ể
thể để tôi ở đây nói cả ngày mà tai mọi người đều như để quên trên giường ở nhà vậy!”
Ông gào lên, gà sợ quá phải bay vụt, rời khỏi hội trường rõ xa rồi vẫn còn cục ta cục tác. Con chó bị dọa cho sợ khiếp, đứng dậy bên chủ nhân, tức giận sủa gâu gâu với Trưởng phòng. Sự tức giận của con chó, lại làm chủ nhân nó sợ chết khiếp, nhìn trộm Trưởng phòng và cán bộ trên bục một cái, đá mạnh một cái vào bụng con chó, mắng: “Sủa gì mà sủa! Ai mày cũng dám sủa à, ai mày cũng dám sủa à!”
Sau đó, con chó đó kêu ăng ẳng rồi chạy mất.
Sau đó, Trưởng phòng Giáo dục quẳng tập công văn trong tay lên bàn, chán nản ngồi xuống. Ngồi một lúc thì ông ta đến trường học tìm ông tôi.
Ông tôi không phải là thầy giáo của trường. Nhưng có thể xem như thầy giáo. Thầy giáo già nhất. Hồi nhỏ, ông có thể đọc Tam tự kinh, biết đọc Bách gia tính, còn biết tính sinh nhật và bát tự trên lịch vạn niên. Sau giải phóng, bên trên yêu cầu các thôn phải có lớp xóa mù chữ, Đinh Trang liền mở một trường tiểu học trong miếu Quan Công ở phía nam thôn, ông tôi liền đến miếu Quan Công làm thầy giáo, trước tiên là dạy học trò đọc Bách gia tính, sau đó dạy học trò dùng cây gậy viết Tam tự kinh trên đất, sau này, còn dạy học trò trong thôn học Đệ tử quy. Có chữ lạ trong Đệ tử quy ông tôi không biết, phải đến chỗ thầy giáo ở thôn kế bên hỏi mới có thể quay lại dạy học trò Đinh Trang. Cứ thế vài năm sau, bên trên cử thầy giáo chuyên dạy học xuống, tập trung học sinh của các thôn Liễu, Hoàng Thủy, Lý Nhị ở miếu Quan Công của Đinh Trang, thầy giáo kia bắt đầu dạy “thượng trung hạ, tả trung hữu,” và “đất nước chúng ta là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thủ đô là Bắc Kinh,” còn có “Một đàn nhạn lớn bay về nam.” Ông tôi không dạy học nữa thì làm việc vặt ở trường. Quản việc đánh chuông. Quản việc quét dọn. Quản đồ trong miếu không để người khác trộm. Cứ quản như thế, loáng cái đã mấy chục năm, giáo viên nào có việc, ông liền thay giáo viên đó quản học sinh làm bài tập. Giáo viên nào bị điều đi, ông lại thay giáo viên đó đứng trên bục giảng kể chuyện, kể Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tinh Vệ lấp biển, Hoàng Đế bắt Xi Vưu, còn kể chuyện Nữ Oa tạo ra loài
ằ ố
người, Ngưu Lang và Chức Nữ, Hằng Nga bỏ trốn lên cung trăng, chờ có thầy giáo mới đến, ông lại quản việc đánh chuông, quản việc quét dọn, quản không cho học sinh đại tiểu tiện bừa bãi, mót thì phải vào nhà vệ sinh.
Thù lao của thầy giáo là lương, thù lao của ông tôi là phân và nước tiểu trong nhà xí. Phân và nước tiểu đó đều thuộc về ruộng nhà ông nội, cứ như thế năm này qua năm khác. Một năm lại một năm, qua mấy chục năm, người trong thôn đều coi ông tôi là thầy giáo, trường học phát lương không coi ông tôi là thầy giáo, nhưng khi thiếu giáo viên, cần có người thay thế, thì đều coi ông tôi là giáo viên.
Ông tôi cũng coi mình là thầy giáo.
Bố tôi mua máu, bán máu phát tài, nói: “Bố, bố về nhà nghỉ ngơi đi.”
Ông nhìn bố, nhìn một hồi lâu, thở vắn than dài nói: “Bố nửa đời dạy học, tiếc là không dạy nổi con.”
Chú hai mỗi khi nhìn thấy ông đều cười híp mắt, vừa cười vừa nói: “Bố, bố dạy học nửa đời, đổi lại được bao nhiêu phân trong trường học?”
Ông liền sầm mặt lại, trừng mắt nhìn chú hai nói: “Lượng ơi Lượng, tính cả nhà họ Đinh chúng ta thì con là vô dụng nhất, đến giờ ngay cả tên mình cũng không viết được cho ngay ngắn.”
Ông không phải thầy giáo. Nhưng có thể xem là thầy giáo. Khi Trưởng phòng Giáo dục ở trên đến trường học đi tìm ông tôi, ông đang quét sân trường, nghe nói Trưởng phòng trên huyện muốn tìm mình, mặt ông ửng đỏ, bỏ rơi cây chổi trong tay, vội vã bước đến cổng trường. Bước đi gấp gáp, khi nhìn thấy Trưởng phòng Giáo dục đứng ở cổng trường, niềm hưng phấn trên mặt như cảnh sắc mùa thu.
Ông tôi nói: “Trưởng phòng, Trưởng phòng, mời ông vào trong ngồi.”
“Không ngồi nữa,” Trưởng phòng nói. “Thầy giáo Đinh, các phòng, các sở trong toàn huyện đều xuống bên dưới động viên nông dân bán máu, phòng Giáo dục được phân công động viên năm mươi
ế ấ
thôn, tôi vừa đến Đinh Trang còn chưa động viên được mấy câu thì đã gặp khó.”
Ông tôi nói: “Bán máu à?”
Trưởng phòng nói: “Thầy đức cao vọng trọng, lúc này Đinh Trang chưa có cán bộ, lúc này thầy không thể không xuất hiện.” Ông tôi nói: “Trời ơi, bảo bán máu sao?”
Trưởng phòng nói: “Phòng Giáo dục bắt buộc phải động viên được năm mươi thôn nguồn máu, Đinh Trang thầy không ra mặt thì ai ra?”
Ông tôi nói: “Trời ơi, là động viên bán máu sao?”
Trưởng phòng nói: “Thầy giáo Đinh, thầy là người có học, sao lại không hiểu cái đạo lí máu trên người cũng như nước suối càng bán càng đầy?”
Ông đứng đó, nỗi thất vọng trên mặt ông như mùa đông trên bình nguyên.
Trưởng phòng Giáo dục nói: “Thầy giáo Đinh, thầy ở trường học đánh chuông giữ cổng, không tính là thầy giáo, nhưng mấy lần nhà trường báo cáo thầy làm giáo viên điển hình tôi đều phê chuẩn. Mỗi lần làm điển hình, đều được giấy khen và tiền thưởng, bây giờ Trưởng phòng Giáo dục giao một chút nhiệm vụ cho mà thầy cũng không hoàn thành, thầy coi thường Trưởng phòng tôi có phải không?”
Đứng ở cổng trường, ông tôi không nói gì. Không nói gì, ông liền nghĩ đến dịp bình xét giáo viên điển hình hàng năm, giáo viên dạy toán, giáo viên dạy văn đều muốn tranh. Lần đó tranh, không cho ai làm cả, cuối cùng đề xuất ông lên huyện. Trên huyện liền phê chuẩn ông làm giáo viên điển hình, đến huyện vừa lĩnh giấy khen lại lĩnh tiền thưởng. Tiền không nhiều, có thể mua được hai túi phân hóa học, nhưng giấy khen thì đỏ thắm, bây giờ vẫn dán ở phòng ông.
Trưởng phòng Giáo dục nói: “Các phòng khác vừa động viên là động viên được bảy, tám chục thôn bán máu, còn tôi ngay cả bốn, năm chục thôn cũng không động viên được, sau này chức Trưởng phòng của tôi sao làm được nữa.”
Ô ề
Ông tôi không đáp lời. Học sinh trong trường đều chen nhau bám ở cửa lớp, cửa sổ nhìn ra ngoài, giống như một đám vỏ dưa hấu màu đen xếp trên cửa lớp, trên cửa sổ.
Hai giáo viên mãi không được làm giáo viên điển hình cũng đang nhìn, trên mặt có ánh sáng khác lạ, nghĩ đến việc trước đây nói chuyện với Trưởng phòng, nhưng Trưởng phòng căn bản không nhận ra họ.
Trưởng phòng chỉ nhận ra một người là ông tôi.
Trưởng phòng nói: “Thầy giáo Đinh, tôi không bắt thầy làm việc khác, tôi chỉ cần thầy nói với người Đinh Trang rằng bán máu thực sự không phải là việc gì to tát. Quả thực máu cũng như suối, càng bán càng đầy. Chỉ có vài câu thế, chỉ có chút việc thế, thầy không muốn làm cho phòng Giáo dục sao?”
Ông tôi cuối cùng cũng lúng búng nói: “Vậy để tôi thử xem.” Trưởng phòng nói: “Thật mà, chỉ có vài câu thôi.”
Lại gõ chuông lần nữa, triệu tập mọi người đến đầu thôn, Trưởng phòng bảo ông tôi nói vài câu với người trong thôn, nói cái lí máu cũng như suối, càng bán càng đầy. Ông tôi đứng dưới gốc cây hòe ở giữa thôn, nhìn người Đinh Trang đen ngòm một đống, như đứng trong lớp học nhìn đám học sinh khi ông giảng “thượng trung hạ” lúc thỉnh thoảng thay thầy giáo ngữ văn giảng bài. Dưới ánh tà dương của tháng Hai năm nay, ông tôi nhìn người Đinh Trang không mào đầu gì hết, lặng lẽ nhìn một hồi lâu, bình thản nói với người trong thôn: “Đến đây cả đi.” Ông tôi nói: “Tất cả theo tôi đến bãi sông phía đông thôn xem một chút.”
Người trong thôn cũng đi theo ông, đến bãi sông cạn phía đông thôn. Tiết tháng Hai, có nước mưa, nhưng Đinh Trang vốn nằm trên Hoàng Hà cổ đạo[4]. Cứ nằm như thế loáng cái đã hơn nghìn năm. Thôn làng ở đây đều nằm trên Hoàng Hà cổ đạo. Đều đã ở đây mấy trăm năm, hơn nghìn năm rồi. Đất cát bãi, tuy cực kì khô, nhưng dù sao cũng đã vào tiết mưa xuân. Ông tôi tìm một chiếc xẻng, xách trên tay phải, đi hàng đầu. Trưởng phòng Giáo dục và cán bộ huyện theo sau ông. Người trong thôn cũng đều đi sau ông. Đi sau ông mà không hiểu vì sao. Tất cả đến bên bờ sông chọn chỗ đất ướt, dừng
ắ ắ
lại, nắm một nắm cát, vo vo trong tay, đào đào trên cát. Đào ra nước, nửa hố nước. Rồi ở đâu đó làm một cửa đột phá bằng cái bát, múc một gáo, rồi lại múc; múc từng bát từng bát, tưởng rằng sắp múc cạn cái hố đó rồi, dừng một lúc, nước vẫn còn nửa hố.
Cuối cùng cũng không múc cạn được, càng ngày càng đầy. Ông tôi vứt cái bát trên nền cát, xoa xoa tay, nhìn người Đinh Trang một cái: “Nhìn thấy rồi chứ?” Ông nói lớn: “Đây chính là máu người, càng múc càng đầy.”
“Múc không cạn, càng múc càng đầy.”
Sau khi nói xong, ông liền nhìn Trưởng phòng Giáo dục nói: “Trường học còn chờ tôi về đánh chuông, tôi không đánh chuông thì bọn trẻ không biết giờ tan học.”
Trưởng phòng không quan tâm đến việc học sinh tan học hay không, ông nhìn ông tôi, rồi lại nhìn người Đinh Trang, cũng gân cổ lên gào: “Hiểu chưa? Nước múc không cạn, máu bán không hết. Máu cũng như nước suối này, đây là khoa học.”
Cuối cùng lấy cái bát trên nền cát, đá sang bên một phát, nói: “Giàu hay nghèo, đều do mọi người tự định; muốn hưởng phú quý vinh hoa đủ đầy sung túc hay nghèo rớt mùng tơi - Đinh Trang chính là thôn nghèo nhất huyện, muốn giàu hay muốn nghèo thì về nhà nghĩ đi.”
Trưởng phòng nói: “Tất cả về nhà nghĩ đi.”
“Suy nghĩ đi,” Trưởng phòng nói. “Huyện khác đã sớm bán máu đến phát điên rồi, nhà lầu trong thôn xây hết tòa này đến tòa khác, còn Đinh Trang các bạn sau giải phóng đã mấy chục năm, thôn các bạn vẫn là nhà cỏ lúp xa lúp xúp.”
Trưởng phòng nói xong rồi đi.
Ông tôi cũng đi.
Ông vội đi gõ chuông báo hết giờ cho học sinh của mình. Trưởng phòng vội xuyên đêm đến động viên thôn khác. Trong một tháng, ông ta bắt buộc phải động viên được năm mươi cái thôn bán máu, không động viên được trên huyện sẽ cách chức ông. Trưởng phòng ngồi trên chiếc xe jeep cũ, đi về phía thôn khác.
ề ồ ề ồ
Người Đinh Trang, cũng đều tản đi rồi. Về nhà rồi, giàu hay nghèo đều do họ.
Sự hoang lạnh dày đặc bên bờ sông, màu đỏ sậm của mặt cát phát sáng trong mặt trời xuân, màu nâu đậm, đỏ đầm đìa như máu. Mùi tiểu mạch xanh non trên ruộng hoa màu phía xa bay đến, bồng bềnh trên nền cát.
Bồng bềnh đi, biến mất như gợn nước.
Bố tôi không đi. Không rời khỏi cổ đạo. Không rời khỏi hố nước ông tôi đào. Bố cứ đứng nhìn bên hố nước. Cứ nhìn như thế, khom lưng đến bên hố vốc tay lấy nước, rửa tay, sau đó thì cười.
Bố đưa tay vào trong cái hố đó, đào đào, cái hố liền trở thành dòng suối. Nước suối róc rách đùn lên, nước từ trong hố tràn ra, chảy men theo bãi cát khô khốc.
Chảy một dòng như cái đũa.
Như cành liễu càng chảy càng xa.
Bố tôi hai mươi ba tuổi liền cười.
3
Khi Đinh Hương Lâm không hát trụy nữa thì ông tôi đi ngủ. Ngủ say.
Mơ một giấc mơ. Trong mơ, việc bán máu mượn gió đêm thổi về phía ông, ông liền nhìn rõ ngọn nguồn lạch sông của bệnh nhiệt. Ngọn nguồn lạch sông của việc bán máu. Ngọn nguồn lạch sông của sự giàu có. Hiểu rõ rất nhiều việc như xuân gieo thu gặt, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
Căn phòng ông ngủ nằm bên cánh cổng lớn của trường, tường gạch đỏ, nhà mái bằng, gian bên trong kê giường và bàn; gian ngoài, kê nồi bếp, để ghế băng, bát đũa và chậu rửa. Rất nhiều lần ông hiểu rõ một việc, đó là chỉ cần ông dọn dẹp gọn gàng hai gian phòng này, trước khi ngủ đem ghế băng ở gian ngoài vào kê dưới chân tường, xếp bát đũa lên bàn, đặt thùng nước vào dưới kệ bếp; ở gian bên trong, chỉ cần đem nửa hộp đầu mẩu phấn nhặt được đặt lên góc phải của bàn, đem chồng sách cũ và vở bài tập nhặt được cất trong
ồ ể
ngăn bàn. Đồ đạc nên đặt ở đâu thì đặt vào vị trí đó, để cho hai gian nhà này ngăn nắp gọn gàng, giấc mộng trong đêm của ông chắc chắn cũng chỉnh tề ngay ngắn, ngày hôm sau mở mắt tỉnh dậy, giấc mộng đêm qua vẫn hiện ra rõ ràng mồn một trước mắt ông, một câu cũng không quên, một chi tiết cũng không quên.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ, ông đều chỉnh lại căn phòng một lượt. Giấc mơ của ông, chính xác rõ ràng như vở bài tập của học sinh học giỏi.
Trong mơ, ông hiểu ra rõ ràng, nhìn thấu việc bán máu năm đó.
Trạm máu đầu tiên trong huyện đùng một cái cắm ở đầu thôn Đinh Trang, lều bạt vải bố màu xanh thẫm phát ra ánh sáng màu củ cải non dưới nắng mặt trời. Ở đó có tấm biển gỗ trắng dựng dưới lều viết năm chữ lớn màu đỏ TRẠM MÁU BỆNH VIỆN HUYỆN, nhưng cả một ngày, Đinh Trang không có một người đi bán máu. Ngày thứ hai, cũng không có người đi bán máu. Ngày thứ ba, Trưởng phòng Cao của phòng Giáo dục, lại ngồi trên chiếc xe jeep của ông ta đi tìm ông tôi. Chiếc xe jeep xiêu vẹo như muốn đổ đó dừng lại ở cổng trường, chính ở cổng trường đó, ông ta nói vài câu với ông tôi.
Ông ta nói, thầy giáo Đinh, Huyện trưởng sắp cách chức Trưởng phòng của tôi rồi, thầy nói nguồn máu Đinh Trang phải làm thế nào đây. Ông ta nói, tôi không làm khó ông, thầy giáo Đinh. Ngày mai tôi sẽ phái hai chiếc xe tải đến, phải kéo người Đinh Trang đến huyện Thái tham quan. Huyện Thái là huyện kiểu mẫu giàu có của toàn tỉnh. Thầy chỉ cần thay tôi tổ chức mỗi nhà cử một người đến huyện Thái tham quan là được. Ông ta nói, đi huyện Thái mỗi người mỗi ngày không chỉ được hỗ trợ mười đồng tiền, trên đường qua tỉnh lị còn để mọi người đến tháp tưởng niệm Mùng 2 tháng Bảy[5] một vòng. Đến bách hóa Á Châu xem một lượt. Nói, xin lỗi thầy giáo Đinh, nếu thầy không giúp tôi tổ chức người trong thôn đi tham quan, sau này chuông của trường học thầy đừng gõ nữa, thầy cũng không cần làm ở trường tiểu học Đinh Trang nữa. Trưởng phòng Cao nói xong lại ngồi trên chiếc xe jeep đi đến thôn khác. Trên bình nguyên mênh mông, tiếng còi của chiếc xe jeep đó nghe hiền hòa hơn tiếng còi của máy cày. Ông tôi đứng ở cổng trường, nhìn theo đám khói phía sau chiếc xe jeep, trên mặt đông lại một tầng trắng nhạt. Ông biết, huyện Thái là huyện nghèo rớt mùng tơi thuộc khu vực khác, nhưng ông không biết huyện Thái đã trở thành huyện kiểu mẫu giàu
ấ ế ế
nhất tỉnh như thế nào. Trưởng phòng Cao biến đi như ngọn gió, ông không thể không đến từng nhà từng hộ trong thôn để thông báo và động viên, trong bóng hoàng hôn khi mặt trời đã lặn, ông liền đi thông báo từng nhà từng hộ, bảo sáng mai mỗi nhà cử một người đến đầu thôn, chờ chiếc xe tải lớn trên huyện chở đến huyện Thái tham quan.
Hỏi, có thật là đi thì mỗi người mỗi ngày được mười đồng không? Ông tôi đáp, Trưởng phòng Cao nói rồi, ông ta có thể không đưa sao. Hỏi, có thật là tham quan về còn được đến tỉnh lị xem một chút? Ông tôi đáp, Trưởng phòng Cao nói rồi, ông ta có thể không cho xuống xe xem một chút sao?
Cứ như vậy, người và việc đều được động viên, chuẩn bị tốt cho Đinh Trang bán máu, cũng giống như mùa xuân rải phân bón lót cho mùa thu. Khi ông tôi ở trong mơ nhìn thấy cảnh tượng người Đinh Trang đến huyện Thái tham quan, ông thở dài một tiếng trên giường, trở người dậy, có hai giọt lệ treo trên mắt ông.
Huyện Thái cách huyện Vy hơn ba trăm dặm đường, khi người Đinh Trang dậy sớm ngồi trên xe tải, đến huyện Thái đã là gần trưa rồi. Không biết tham quan thôn Thượng Dương của xã nào trong huyện Thái, xe vừa đi vào địa phận huyện Thái đã giống như xe chạy trong mơ. Không ngờ hai bên đường cái trong thôn, nhà nhà đều là nhà kiểu Tây. Đều là nhà hai tầng gạch đỏ ngói đỏ, từng dãy từng dãy tề chỉnh như vạch kẻ trên giấy. Trước cửa các nhà đều bày hoa. Trong sân các nhà đều trồng cây đông thanh. Đường phố đều trải xi măng. Trên tường trước cổng mỗi nhà đều treo một tấm biển hình vuông viền đỏ đáy vàng. Trong tấm biển có treo năm ngôi sao năm cánh lấp lánh, có nhà thì treo bốn ngôi sao năm cánh. Khỏi cần nói, nhà treo năm ngôi sao chính là gia đình tốt bán máu năm sao, treo bốn ngôi sao chính là gia đình tốt bán máu bốn sao, treo ba sao tất nhiên là gia đình bán máu bình thường.
Trưởng phòng Cao liền đưa những người Đinh Trang đến thôn Thượng Dương tham quan, họ đi ra khỏi ngôi nhà này, rồi lại đi vào ngôi nhà khác. Không ngờ thôn Thượng Dương lại giống hệt như thành phố. Không ngờ những ngõ thôn trước đây đều lấy những cái tên nghe cực hay như phố Quang Minh, phố Đại Đồng, phố Dương Quang, phố Hạnh Phúc. Trước cửa các nhà đều có biển và đánh số. Chuồng lợn đắp bằng bùn, chuồng gà xây bằng đất vốn đặt trước cửa và trong sân nhà trước đây, giờ đều được tập trung ở đầu thôn. Chuồng lợn ổ gà cũng có tường bao
ấ ằ ố
thấp chừng một mét xây bằng gạch đỏ, hoàn toàn giống những trang trại nuôi lợn, nuôi gà đã gặp đâu đó. Còn trong các nhà, tủ lạnh đều đồng loạt đặt ở phía trái cửa ra vào, ti vi đều đặt trên giá màu đỏ đối diện với sô pha. Máy giặt đều ở trong phòng tắm giặt bên cạnh nhà bếp. Cửa sổ của các nhà đều là hợp kim nhôm. Hòm, tủ đứng, kệ tổng hợp của các nhà đều in hoa vàng sơn đỏ. Trên giường của mỗi nhà đều xếp chăn lụa, phủ thảm lông cừu, khắp phòng dậy lên mùi thơm nức.
Trưởng phòng Cao đi đầu tiên.
Bố tôi đi ngay sau Trưởng phòng.
Người Đinh Trang thì đi sau bố tôi.
Nhìn thấy vài phụ nữ ở thôn Thượng Dương từ đầu kia phố thôn đi đến, nói nói cười cười, trong tay mỗi người đều xách vài cân thịt, cầm một bó rau tươi, hỏi họ nói là đi chợ, họ nói đi đâu mua thức ăn cơ, chính là tới Ủy ban thôn lĩnh thức ăn. Nói hàng ngày đến giờ nấu cơm, các nhà đều đến Ủy ban thôn lĩnh thức ăn, muốn cải bó xôi thì đến giá cải bó xôi lĩnh cải, muốn hẹ thì đến giá hẹ lấy hẹ. Nói muốn ăn thịt lợn thì đi lĩnh thịt lợn, muốn ăn cá thì đi đến ao cá lĩnh cá.
Người Đinh Trang nhìn những người phụ nữ đó không dám tin vào mắt mình, vẻ nghi ngờ trên mặt dày như bức tường thành. Bố hỏi thật sao? Rồi lại nói làm gì có chuyện đó. Những người phụ nữ đó lạnh lùng nhìn người Đinh Trang một cái, liếc bố tôi một cái, rồi về nhà nấu cơm. Giống như lời hỏi của bố tôi đã sỉ nhục họ, nên chẳng thèm nói chuyện với người Đinh Trang nữa, đi rồi còn quay đầu lại nhìn bố tôi một cái với vẻ rất coi thường.
Bố tôi liền ngây ra. Đứng trên đường phố chỉnh tề sạch sẽ của thôn Thượng Dương, thấy lại có một người phụ nữ ba mươi mấy tuổi xách cá và rau xanh đi đến, vội vã đi lên phía trước ngăn người ta lại, nói, này, cá này, rau này của các chị được phân thật đấy à?
Người phụ nữ ba mươi mấy tuổi đó dùng ánh mắt nghi ngờ nhìn bố tôi.
Bố liền hỏi, ngày ngày phân cá phân thịt, các chị lấy tiền ở đâu? Người phụ nữ liền xắn tay áo lên cùi chỏ của chị ta, lộ ra những mắt kim như đám hạt vừng đỏ trên cánh tay, rồi nheo mắt nhìn bố tôi một cái, ngạc nhiên nói, các anh đến thôn Thượng Dương tham quan không biết Thượng Dương chúng tôi là thôn nguồn máu kiểu mẫu của toàn huyện, toàn tỉnh à? Không biết chúng tôi nhà nhà hộ hộ đều bán máu sao? Bố liền nhìn những mắt kim châm như đám hạt vừng trên cánh tay của chị ta im lặng hồi lâu, thay chị hít một hơi khí lạnh, hỏi tiêm như thế này có đau không?
ế ắ
Người phụ nữ cười cười, ngày mưa thì có chút ngứa, như kiến cắn ấy.
Bố lại nói, ngày ngày bán máu mọi người không váng đầu sao? Người phụ nữ đó lại nhìn bố tôi có chút kinh ngạc, sao có thể ngày ngày bán, mười ngày, nửa tháng còn chẳng bán nữa là. Không cho anh bán, người anh còn phù lên khó chịu, như tức sữa mà không cho con bú ấy.
Cuối cùng cũng hỏi xong.
Để cho người phụ nữ đó xách cá và rau xanh về ngôi nhà số 25 trên phố Quang Minh của chị.
Người Đinh Trang lại bắt đầu tản ra đi trên đường phố thôn Thượng Dương, xem hai dãy nhà lầu hai bên phố, xem chuồng lợn và chuồng gà ở đầu thôn, nhà trẻ ngói đỏ chóp xanh phía trước thôn, trường tiểu học không một hạt bụi phía sau thôn, hoặc là xem ruộng nương của những người trung tuổi và người già vì bị bệnh mà không thể bán máu. Muốn xem gì thì xem đó, muốn hỏi gì thì hỏi đó, mọi người không hỏi vòng vo, đáp cũng không cần trốn tránh, khiến bạn không thể không tin họ là thôn nguồn máu điển hình của toàn tỉnh, toàn địa khu, toàn huyện, cuộc sống trong mơ này đều là nhờ bán máu. Trạm máu của huyện và địa khu được xây ở ngã tư trung tâm thôn, phía trên cổng dựng một chữ thập màu đỏ như bệnh viện, bác sĩ ở đó ra ra vào vào, công việc hàng ngày chính là lấy máu và xét nghiệm, sau đó lại phân ra các loại máu và tập trung trong cái bình lớn đựng được cỡ mười cân, khử trùng xong, niêm phong lại, sau khi trải qua quá trình xử lí thì chuyển đi chỗ khác.
Bố liền đến trạm máu đó xem, người ta hỏi bố đến bán máu à? Bố lắc đầu với người ta, người ta liền bảo bố ra khỏi trạm máu, sợ bố đem vi trùng vào trong trạm máu. Sau đó bố liền cùng với vài người trẻ tuổi trong thôn, cứ thế bước về phía một con phố to rộng nhất, tên là phố Khang Trang, ở giữa phố nhìn thấy một câu lạc bộ. Trong câu lạc bộ toàn là những người thanh niên và trung niên, mặt mũi hồng hào, tinh thần phấn chấn, không đánh bài thì đánh cờ, hoặc vừa cắn hạt dưa vừa xem ti vi, xem tiểu thuyết, đánh bóng bàn, loại bóng mà chỉ ở trường học và thành phố người ta mới đánh. Vì xuân đã ấm, hơi ấm trên bình nguyên đã nóng như đầu hạ, họ không làm ruộng, mà chơi trong câu lạc bộ, nhưng trên trán mỗi người đều có mồ hôi như đang trồng trọt, họ đánh bài, đánh cờ đến mức kích động, hét hò ầm ĩ, xắn tay áo của mình lên, những thanh niên, trung niên này cũng như người phụ nữ ba mươi tuổi kia, trên mỗi cánh tay đều lộ ra một đám kim châm, như có một đám hạt vừng đỏ đen đang phơi trên đó. Bố liền cùng với mấy người trong thôn đi loanh quanh
ấ ố ấ ề
trong câu lạc bộ, rất muốn hỏi họ vài câu, nhưng thấy người ta đều bận đến mức không thèm nhìn mình, liền ra khỏi câu lạc bộ.
Ngay ở cửa hỏi một thanh niên vừa cắn hạt dưa vừa đọc tiểu thuyết. - Năm nay cậu bao nhiêu tuổi?
- Mười bảy tuổi.
- Không đi học nữa sao?
Thanh niên lạnh lùng nhìn bố và người Đinh Trang một cái, nói lên đại học làm gì? Tôi chỉ cần mỗi tháng đến trạm máu bán máu một lần, lĩnh thẻ bán máu, trong thôn liền phân cho tôi một cái biệt thự nhỏ, ngày ngày không làm ruộng, tháng tháng đều có tiền tiêu không hết. Lên đại học tôi lấy vợ còn phải mất tiền sắm lễ, nhưng tôi có thẻ bán máu, các cô gái thôn khác phải tranh nhau để lấy tôi. Gả cho tôi nếu cô ta không có của hồi môn, không xinh đẹp thì tôi còn không thèm lấy. Gả cho tôi, cô ta có ăn có mặc có biệt thự, không làm ruộng, sống còn sướng hơn người thành phố.
Nói một cách dương dương tự đắc như vậy, rồi lại lãnh đạm liếc người Đinh Trang một cái, nói xong, cậu ta xoay xoay mông, xoay lưng lại bố tôi, hừ mũi một cái, rồi lại lầu bầu nói, các anh là thôn nào? Không ở nhà bán máu còn chạy đến đây xem cái gì.
Bố tôi và người Đinh Trang liền ra khỏi câu lạc bộ đó, đứng trên đường phố lát xi măng bằng phẳng rộng rãi, để ánh mặt trời sáng chói chiếu vào, tắm trong hơi ấm và hương thơm nồng nàn xán lạn đến từ thôn Thượng Dương, mỗi người đều xắn ống tay áo của mình lên cùi chỏ, để hai ống tay áo lộ ra ngoài, để ánh nắng soi lên từng mẩu từng đoạn da và thịt trên cánh tay, giống như từng khúc, từng đoạn của củ cải đỏ bày ra trên phố lớn, có một mùi da thịt, vừa sống vừa tanh tràn ra trên bầu trời thôn Thượng Dương, giống như có một dòng nước sông vừa đục ngầu vừa dính sệt cuốn theo bùn cát chảy qua đường phố sạch sẽ.
Họ nhìn vào cánh tay nhẵn nhụi của mình nói:
- Mẹ kiếp, họ là người còn chúng ta không phải người sao! Họ vỗ vào cánh tay không một vết sẹo của mình nói:
- Mẹ kiếp, bán. Cho dù chết cũng phải bán.
Họ dùng tay vặn mạch máu trên cánh tay, vặn đến mức thịt trên cánh tay nổi lên miếng xanh, miếng tím, giống như thịt ba chỉ trên người con lợn, nói:
- Mẹ tám đời nhà nó, chỉ có máu và tay của nó là vàng thôi sao?
4
ắ ầ
Đinh Trang bắt đầu bán máu.
Đinh Trang đùng một cái bán máu đến phát điên.
Trong một đêm, Đinh Trang mấy trăm con người, đột nhiên mọc lên mười mấy cái trạm máu. Trạm máu Bệnh viện huyện, trạm máu Bệnh viện xã, trạm máu Ủy ban xã, trạm máu Công an huyện, trạm máu Phòng Tổ chức, trạm máu Phòng Truyền thông, trạm máu Trạm thú y, trạm máu Phòng Giáo dục, trạm máu Phòng Công thương, trạm máu Quân đội, trạm máu Hội Chữ thập đỏ, trạm máu Trạm phối giống, hết trạm này đến trạm khác, dựng một tấm biển gỗ, viết lên vài ba chữ, cử đến hai hộ sĩ và kế toán, một trạm máu liền được thành lập.
Ở đầu thôn, ở ngã tư, ở gian phòng nhà ai còn bỏ trống, hoặc là quét dọn chuồng trâu vốn bỏ không, đem rửa một tấm ván, gác tấm ván lên cái máng trâu, đặt kim tiêm, ống tiêm, bình thủy tinh, rồi lại treo bình thủy tinh lấy máu lên xà ngang chuồng trâu, thế là bắt đầu mua máu, bán máu.
Trong thôn chỗ nào cũng đầy mùi máu tanh tưởi tươi mới, chỗ nào cũng treo ống nhựa truyền máu như dây như leo, và bình máu như trái nho đỏ. Chỗ nào cũng đầy các bình máu và thùng máu thu thập các máu loại O, loại A, loại B, loại AB. Trên đất chỗ nào cũng có máu nhỏ giọt và máu bắn ra tung tóe, không khí cả ngày tỏa ra mùi máu tanh đỏ thẫm. Trên cành cây mùa xuân, trên lá xanh, vì lá cây mỗi ngày đều hít thở mùi và vị đỏ sậm, lá cây thầu dầu, cây du, cây bào đồng đều bắt đầu có chút màu đỏ nhạt. Không khí cũng có màu đỏ sẫm. Lá cây hòe vừa mỏng vừa mềm, trước kia dưới ánh mặt trời những chiếc lá mới mọc đều có màu vàng nhạt, gân lá giống như đường chỉ màu nâu nhạt, nhưng năm nay, lá cây hòe mới mọc đều trở thành màu đỏ nhạt, gân lá đỏ thành màu nâu tím. Trạm máu Trạm thú y đặt ở dưới gốc cây hòe phía tây thôn, vì hút nhiều máu, không ngờ chẳng bao lâu, lá vàng của cây hòe trở nên đỏ như lá cây hồng mùa thu, hơn nữa lá cây hòe năm đó còn to hơn rất nhiều, dày hơn rất nhiều lá cây hòe trước đây.
Chó trong thôn, mỗi ngày đều ngửi mùi máu chạy về phía trạm máu, bị người đá cho một phát còn muốn gặm lấy mấy cục bông y tế đã thấm máu chạy đi, trốn ở đâu đó ăn miếng bông đã thấm máu vào trong bụng.
Các bác sĩ và y tá mặc áo blu trắng ở Đinh Trang bận đến mức trên trán lấm tấm mồ hôi, đi vào đi ra, tay chân không ngừng nghỉ, giống như vội đi trảy hội làng. Họ gặp ai cũng đều nói ấn bông vào chỗ tiêm năm phút. Ấn năm phút, trở thành câu cửa miệng của mỗi bác sĩ, y tá. Nụ cười dồn đống trên mặt họ, vui như Tết, lấy máu cho người này xong rồi, lại lấy máu trên người người kia, bận đến mức mồ hôi trên mặt không kịp rớt. Trên đường thôn, chỗ nào cũng là bông sát trùng và đầu kim tiêm bỏ, chỗ nào cũng là ống tiêm thủy tinh và bình thủy tinh bị vỡ.
ầ ấ ố
Bác sĩ yêu cầu lấy máu xong thì uống nước đường, đường trong cửa hàng toàn huyện liền hết sạch, nếu cần gấp thì đến tỉnh khác, thành phố khác nhập đường về.
Bác sĩ bảo sau lấy máu xong thì nằm trên giường nghỉ ngơi dăm ba ngày, trong ngõ phố Đinh Trang, cho dù trong nhà hay ngoài phố, hễ chỗ nào có ánh mặt trời là có giường trúc, giường gỗ bày đầy ra đó.
Bác sĩ cho phép người thôn kế bên đến Đinh Trang bán máu, trên đường phố Đinh Trang người như mắc cửi, qua lại không ngừng. Trên đường phố Đinh Trang cũng có thêm hai nhà mở quán ăn, thêm hai nhà chuyên bán muối, bán đường, hàng tạp hóa bán thuốc bổ.
Đinh Trang phồn hoa rồi.
Đinh Trang náo nhiệt rồi.
Trong chớp mắt Đinh Trang liền trở thành thôn nguồn máu kiểu mẫu của huyện Vy. Trưởng phòng Cao của phòng Giáo dục năm đó đã bán con xe jeep rách của ông ta, mua một chiếc xe hơi đời mới kiểu mới. Khi Trưởng phòng Cao lần đầu tiên ngồi trên con xe đời mới của ông quay lại Đinh Trang, chạy mấy vòng quanh thôn, nhìn nhìn ngó ngó, sau khi đến từng trạm máu thăm hỏi tình hình, rồi trực tiếp đến trường tiểu học Đinh Trang nắm lấy tay ông nội tôi, nói đi nói lại những lời cảm ơn và kính phục ông tôi. Ông ta nói thầy giáo Đinh, ông là cứu tinh của Đinh Trang.
- Ông là cứu tinh giúp Đinh Trang thoát nghèo!
5
Sự phồn hoa của Đinh Trang qua đi rất nhanh, chẳng mấy chốc thì nước cạn đá bày.
Sự náo nhiệt của Đinh Trang qua đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã có mấy phần lạnh lẽo.
Đúng lúc này, Đinh Trang liền xuất hiện một nhân vật là bố tôi. Đinh Trang bán máu theo kiểu tuần hoàn, theo độ tuổi, nhóm máu và tình trạng sức khỏe của mỗi người, người Đinh Trang già thì tối đa năm mươi tuổi, trẻ thì từ mười tám, đều được phát một tấm thẻ lấy máu, màu vàng nhạt, giấy da bò, rộng tấc rưỡi, dài hai tấc, mặt trước viết họ tên, tuổi tác, nhóm máu và bệnh thường gặp của bạn, mặt sau vẽ một cái bảng, ghi ngày tháng và số lượng mỗi lần bạn bán máu. Theo tấm thẻ này, quy định có người ba tháng mới có thể bán máu một lần, có người hai tháng mới có thể bán một lần. Cũng may, đa số ề ể ỗ ầ
mọi người đều có thể mỗi tháng bán một lần. Với những người còn trẻ, từ mười tám đến hai mươi lăm, người sinh máu nhanh, cũng có thể để họ nửa tháng bán một bình.
Như thế, trạm máu chỉ có thể trở thành trạm lưu động, tháng này cắm ở Đinh Trang, tháng sau liền chạy đến thôn Liễu, Hoàng Thủy hoặc thôn Lý Nhị.
Cứ thế, người Đinh Trang bán máu không còn tiện nữa, không còn có thể đang bưng bát cơm, vừa ăn, vừa uống, vừa giơ cánh tay lên không trung, để một bình máu treo dưới đai lưng, cuối cùng ăn xong cơm, bình máu được hút đầy, tiền cũng nhận liền tay. Người Đinh Trang không thể giống như trước đây, khi đi làm đồng tiện đường rẽ ra trạm máu bán một bình máu đỏ tươi, cầm tờ tiền một trăm đồng soi dưới mặt trời xem là thật hay là giả, khi nhìn thấy chân dung vĩ nhân ẩn tàng dưới tờ tiền, nụ cười trên mặt liền thắm tươi xán lạn như bình máu phát sáng lấp lánh dưới mặt trời.
Cứ thế, bất ngờ một hôm, bố tôi vào thành phố trở về, vác theo một túi kim tiêm, ống tiêm, bông khử trùng và bình thủy tinh đựng máu. Về nhà đem những thứ đồ đó đặt lên chiếc giường ngủ của bố, rút một tấm ván ở chuồng lợn ra, mượn một cái bào, bào cho tấm ván đó vừa trắng vừa sáng, mời người dùng chữ Tống thể, viết bốn chữ màu đen trên tấm ván đó: Trạm máu họ Đinh, bố liền đến gốc cây hòe ở giữa thôn, nhặt một mẩu gạch đập mạnh vào cái bánh xe bò treo trên cây hòe đó, sau đó xé cổ ra gào với Đinh Trang:
“Ai muốn bán máu thì đến tìm Đinh Huy tôi - bọn họ trả 80 đồng một bình, Đinh Huy tôi trả 85 đồng một bình.”
Sau khi hô liền vài tiếng, người Đinh Trang quả thật đều từ trong nhà đi ra, từng đoàn từng đoàn vây lấy nhà tôi. Đều vây lấy nhà chúng tôi. Trạm máu họ Đinh của Đinh Trang đã ra đời vào chính buổi trưa hôm đó. Đùng một cái ra đời.
Chương ba
1
Sáng sớm hôm sau, sáng sớm mùa thu. Ánh mặt trời trong buổi sớm, trên bình nguyên Dự Đông, vì là sáng sớm, nó tròn lại như cục máu, đỏ khắp đất trời. Màu đỏ trải ra, nên có buổi sớm ngày hôm nay. Trong buổi sớm, tin từ ngoài thôn truyền đến, nói có cán bộ bên trên đến, vì bệnh nhiệt, không muốn bước vào Đinh Trang, bảo ông tôi ra ngoài thôn nói vài chuyện. Ông liền đi, xuyên qua Đinh Trang, đến con đường quốc lộ phía bắc thôn, nhìn thấy cán bộ bên trên đó, hai mươi mấy tuổi, đỗ chiếc xe nhỏ ở bên đường, bộ dạng vội vã, nói cuộc họp hôm qua yêu cầu tốt nhất là người bệnh mỗi thôn đều tập trung lại sống cùng một chỗ, cùng ăn, cùng ngủ, cùng quản lí. Nói Đinh Trang không có cán bộ, bên trên giao công việc này cho ông tôi, yêu cầu ông nhanh chóng tập trung những người bệnh lại.
Ông tôi nói: “Tôi làm sao được, tôi làm sao được?”
Cán bộ nói: “Ông sao không được? Mười năm trước khi động viên bán máu, Trưởng phòng Cao nói cả ngày không xong, chẳng phải ông chỉ mất vài câu là đã kêu gọi được Đinh Trang?” Những lời này khiến ông tôi kinh ngạc, muốn hỏi cán bộ đó là ai, người ta nhìn ông cười cười, nói mình là thư kí của Huyện trưởng Cao trên huyện. Nói Huyện trưởng Cao vốn là Trưởng phòng Giáo dục, bây giờ là Huyện trưởng. Phó của Huyện trưởng[6]. Vì năm đó ông ta tổ chức bán máu hiệu quả nhất, được thăng làm Huyện phó, không chỉ quản giáo dục, mà còn phụ trách cả công tác bệnh nhiệt trong toàn huyện. Nói trong dăm ba ngày nữa, nếu ông tôi không tập trung người bệnh của Đinh Trang lại, sau khi bệnh nhiệt qua, sẽ phá trường tiểu học Đinh Trang. Nói xong rồi đi, ngồi trên chiếc xe con màu đen, đi rồi còn
ầ ồ ấ ổ
thò đầu ra cửa xe gào: “Tôi nói với ông rồi đấy, có tổ chức người bệnh cùng ăn cùng ở hay không, là việc của ông.”
Ông tôi ngây ra một lúc bên đường, bắt đầu đi vào thôn, nghĩ đến cán bộ cấp trên đó, kể cũng có chút hoang đường, việc lớn ngút trời, việc liên quan đến mạng người, vài câu như vậy là xong. Nghĩ cho dù thế nào, đã cùng ăn cùng ở, thì bên trên cũng phải vào thôn tuyên bố một chút, làm gì có chuyện nói xong rồi đi, không chút dấu vết như khói thoảng qua. Ông vừa đi vừa nghĩ, những việc nên để Trưởng thôn làm ở Đinh Trang này, không ai làm tốt hơn Tam Nhân. Lý Tam Nhân nửa đời làm Trưởng thôn, nửa đời vì Đinh Trang làm việc, công lao tuy không nhiều, nhưng khổ lao cũng không ít, chỉ vì không muốn bán máu, không muốn tổ chức mọi người bán máu nên đã bị cách chức.
Lần cách chức này, vì rất nhiều thứ phức tạp, Đinh Trang đã mười năm không có cán bộ. Không có cán bộ, rất nhiều việc, đều bị gác lại. Việc bệnh nhiệt, việc mạng người, đương nhiên phải có người quan tâm. Ông muốn đến nói với Tam Nhân, nói Đinh Trang có tai họa bệnh nhiệt này, không có cán bộ dứt khoát không được, việc này cần ông đứng ra gánh vách, đứng ra tổ chức người mắc bệnh nhiệt đến sống trong trường học, cùng ăn, cùng ngủ, cùng quản lí.
Ông liền đi vào thôn.
Đang đi thì nhìn thấy trong ánh mặt trời như lửa, đứa con Đinh Tiểu Tứ nhà Đinh Hương Lâm từ trong thôn chạy về phía ông. Vừa chạy vừa kêu, tay chân múa loạn lên:
“Thầy giáo Đinh - bố cháu sắp chết rồi, ông ấy muốn thầy qua một chút.”
Mặt ông liền trắng nhợt vì kinh hãi, liền bước nhanh về phía đứa trẻ, dắt tay nó vội vã đi vào thôn. Đến nhà Đinh Hương Lâm, quả nhiên nhìn thấy Đinh Hương Lâm nằm trên giường, người co quắp, co giật từng hồi ở trên giường, như thể có chỗ nào đó đau đớn khó chịu trong người. Nhà là nhà ngói mới xây mấy năm trước, tường trong nhà còn chưa kịp quét vôi trắng, cả nhà đã dọn vào trong phòng ở. Khi xây xong căn nhà đó, Đinh Hương Lâm thường ở ngoài cổng nhìn vào trong nhà nói:
Ô ồ ồ
“Ông trời ơi, không ngờ trồng trọt cả đời, không trồng ra được một gian nhà ngói, bán máu một năm, đã bán ra luôn ngôi nhà ngói ba gian này.”
Ông liền bán máu, xây nhà. Nhưng không kịp bán thêm hai lần nữa để quét vôi trắng lên mặt tường thì bệnh nhiệt ập đến. Tất cả các trạm máu đều đột ngột biến mất. Chiếc xe thu mua máu có thể giữ lạnh mà mỗi đêm đều dừng ở bên đường cũng không xuất hiện nữa, máu trong người ông trướng đến mức làm huyết quản đau đớn, nhưng cũng không có nơi nào để bán tiếp.
Ông liền hối hận nói: “Sớm bán thêm vài lần thì tốt, để vợ tôi, con tôi cũng bán thì tốt, thì đủ vôi quét nhà.”
Khi ông mắc bệnh nhiệt, mắc bệnh nhiệt nửa năm, chắc sẽ chết chỉ hôm nay ngày mai, ông bỗng cảm thấy nên gọi ông tôi đến, nên nói với ông tôi vài câu.
Ông tôi đứng trước giường ông, nhìn vợ và bốn đứa con của Đinh Hương Lâm, lố nhố cao thấp bên giường, mặt mỗi người đều có màu trắng xám, như bức tường chưa kịp quét vôi trắng kia.
Tối qua khi Đinh Hương Lâm hát trụy xong trở về nhà, không cẩn thận bị ngã lăn ra đất. Ngã lăn ra đất thì ngã lăn ra đất, nhưng lại bị rách đùi, chảy máu. Chảy máu thì chảy máu, đầu tiên là đau chỗ rách, băng bó lại, cầm máu xong thì đau khắp người. Đau không hiểu vì sao. Động vào chỗ nào đau chỗ đó, thế là ông liền nằm co trên giường như con tôm khô, cả đêm không dám động đậy, cả một đêm nằm co, trên trán có những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu. Mồ hôi vàng xán lạn. Nhìn thấy ông tôi bước vào phòng, Ông nghiến răng trở mình một chút, quay đầu chỉ vào chiếc ghế, nói khẽ:
“Thầy giáo Đinh, mau ngồi đi.”
Ông tôi không ngồi, đứng đó nói: “Ông là người lớn, đi đường sao không cẩn thận một chút.”
Đinh Hương Lâm liền co lại bên giường, mặt nở nụ cười. “Thầy giáo Đinh,” ông nói. “Tôi biết mình chẳng sống được bao lâu nữa. Sắp chết rồi, thầy có thể nói một câu thật lòng với tôi không?”
Ông tôi hỏi: “Ông hỏi gì?”
Ô ề ố ể
Ông ta liền nói: “Có thật là có loại thuốc mới có thể chữa khỏi bệnh nhiệt không? Tiêm một mũi không đến mấy ngày thì bệnh nhiệt sẽ khỏi không?”
Ông tôi nghĩ một lúc, im lặng một hồi rồi nói: “Ông không tin sao? Đinh Thủy Dương tôi sống sáu chục tuổi đầu rồi, tôi có thể nói dối bà con sao? Tôi cả đời ở trường học, cho dù là chỉ là thầy giáo một nửa cũng không thể nói dối.”
Đinh Hương Lâm nhìn ông tôi một cái, trên mặt lại nở nụ cười vàng võ, nói: “Lòng tôi lo sợ, e không chờ được thuốc này.” Nói đến đây, ông lại nhìn ông tôi một cái, như thể sợ ông chế giễu mình, ông cười một mình, cười xong thì tự nói: “Thầy giáo Đinh, nói thầy đừng cười, thầy biết hồi còn trẻ tôi từng theo người ta học hát trụy, hát không tốt nên bị sư phụ đuổi đi, cả đời tôi nằm mơ cũng chỉ muốn được đứng trên sân khấu hát vài khúc trụy. Không ngờ tôi hát không tốt, đêm hôm qua lại có nhiều người đến nghe tôi hát vậy. Không ngờ khi tôi hát trụy toàn thân lại có sức sống.” Rồi lại cười cười, nụ cười pha chút đắng: “Thế này nhé, thầy giáo Đinh, tôi muốn mỗi ngày đều hát trụy để chờ thuốc đó, không chừng nhờ hát trụy tôi có thể sống thêm được mấy ngày, có thể thực sự chờ được thuốc mới.” Nói: “Thế này nhé, tôi nghĩ trường học là một nơi tốt để hát trụy, thầy chỉ cần thay tôi hô hào một tiếng là được. Thầy ra mặt hô một tiếng, người Đinh Trang có bệnh hay không, họ sẽ đều đến trường, sẽ ngồi kín sân trường.”
Nói: “Ban đầu chính thầy kêu gọi nên Đinh Trang mới đi bán máu. Bây giờ tôi bán ra bệnh nhiệt rồi - bán ra bệnh nhiệt rồi, muốn xin thầy đứng ra kêu gọi mọi người đến trường học, để tôi mỗi ngày hát một vở cho họ nghe.”
Ông ta nói: “Thầy giáo Đinh, nói thật với thầy, toàn bộ máu của tôi đều bán hết cho cậu cả nhà thầy rồi, khi cậu cả nhà thầy lấy máu của tôi, một cục bông có thể lau chín lần trên cánh tay của ba người. Chuyện ấy tới giờ tôi chưa từng nói ra, nhưng cậu cả nhà thầy đến bây giờ, đi trên đường nhìn thấy tôi cũng không thèm gật đầu với tôi một cái. Chuyện ấy tới giờ tôi chưa từng nói ra, tôi chỉ xin thầy ra mặt kêu gọi mọi người đến nghe tôi hát trụy vài lần, không chừng hát vài khúc trụy, trong lòng phấn chấn thì có thể chờ được thuốc.”
Ô ồ ồ
Ông tôi đứng bên giường của Đinh Hương Lâm, nghĩ một hồi, rồi lại nghĩ thêm hồi nữa, rồi mới dùng sức gật đầu với ông: “Ông muốn khi nào thì hát?”
Đinh Hương Lâm liền cười: “Tốt nhất là đêm nay hát cho người trong thôn, họ thích nghe thì sau này ngày nào tôi cũng hát.”
2
Ông tôi liền đến từng nhà từng hộ thông báo đêm nay đến trường học nghe Đinh Hương Lâm hát trụy. Đẩy cửa nhà này nói: “Này, tối đến trường học nghe trụy đi, có thuốc mới trị bệnh nhiệt rồi, còn ở trong nhà làm gì cho bí bức.”
Người ta hỏi: “Có thuốc mới thật sao?”
Ông tôi liền cười: “Tôi dạy học cả đời, chưa bao giờ nói dối một câu nào cả.”
Rồi lại đẩy cửa một nhà khác:
“Này, đừng có rầu rĩ cả ngày trong nhà như thế, tối đến trường học nghe hát trụy đi.”
Người ta nói: “Vẫn là Đinh Hương Lâm hát à?”
Ông tôi nói: “Bệnh nhiệt của ông ta đến lúc rồi, trước khi chết muốn hát một bài cho thật đã, buổi tối không có việc gì thì đến nghe nhé.”
Ông tôi cứ thông báo cho từng nhà từng nhà như vậy. Khi thông báo đến phố mới, bố tôi, mẹ tôi và Anh Tử đang đi trên con đường xi măng của phố mới về nhà. Trong tay mẹ cầm một bó rau, khỏi cần nói, ba người nhà họ vừa từ vườn rau về. Nhìn thấy ông, họ đều đứng ngây giữa phố, như gặp phải một người không muốn gặp. Ông cũng đứng ở giữa phố, trên mặt nở nụ cười gượng gạo, nói với cháu gái rằng: “Anh Tử, tối đến trường học nghe hát nhé, vui hơn xem ti vi ở nhà nhiều.” Mẹ không đợi con gái bà đáp lời, liền kéo cánh tay Anh Tử về nhà. Lướt qua người ông để đi về. Đi về rồi, chỉ còn lại bố tôi và ông tôi. Hai cha con cầm cự nhau trên phố, mắt đối nhau. Ánh mặt trời đã chếch về nam từ đỉnh đầu họ trút xuống phố mới. Trong mùi xi măng, mùi gạch ngói trên phố có ấ ồ
hơi ấm của mùa thu. Trong cái lạnh lẽo bàng bạc từ đồng ruộng ngoài thôn mang tới, có mùi thơm tươi mới của đất mới lẫn vào. Ông liền ngẩng đầu, từ góc của một ngôi nhà mới nhìn ra, thấy người chồng Vương Bảo Sơn của Triệu Tú Cần đang cày trong ruộng nhà mình. Trước đây anh ta cũng nói trồng trọt chẳng có ý nghĩa gì, liền để đất hoang, nhưng bây giờ nghe nói có thuốc mới có thể trị được bệnh nhiệt rồi, tới mùa liền đi cày trở lại.
Nói đất đã cày có thể giữ ẩm.
Nói kịp thì trồng chút mầm cải thảo.
Nói cho dù không gieo không trồng, cày rồi thì cũng không làm cho đất xốp trở thành đất cằn.
Liền tiếp tục cày ở đó. Lúc đang cày thì ông tôi đưa mắt nhìn anh ta, ông nhìn một chút, rồi thu ánh mặt lại, trên mặt nở nụ cười, nhìn bố tôi nói: “Buổi tối con cũng đến nghe Đinh Hương Lâm hát nhé.” Bố nói: “Nghe cái đó làm gì?”
Ông tôi nói: “Cả thôn đều đi nghe. Nhân lúc đông người, con ở trên bục dập đầu trước mọi người một cái, xin lỗi mình sai là được. Dập đầu xin lỗi thì tất cả mọi việc cũng sẽ qua.”
Bố liền nhìn ông một cách kì quái: “Bố, bố có bị thần kinh không đấy? Người Đinh Trang không ai bảo con thế này thế nọ, bố lại bắt con phải thế này thế nọ.”
Ông liền nhìn bố một cách chăm chú, nhìn thấy cơn giận xám xịt như có bức tranh hộ pháp đang dán lên mặt bố, ông liền hừ mũi một cái: “Huy, con tưởng bố không biết hay sao, hồi đó con lấy máu của người ta, ba người mới đưa một cục bông, bao nhiêu người cũng chỉ một cái kim tiêm đó.”
Bố liền lạnh lùng nhìn ông, lạnh lùng nói: “Bố, nếu bố không phải là bố đẻ của con, quả thật chắc con tát lên mặt bố một cái.” Nói xong câu này, bố liền giẫm lên bước chân của mẹ tôi đi mất. Bước qua người ông đi mất. Sượt qua vai ông đi mất. Từ bên người ông hừ mũi bước qua.
Ông liền quay người lại, đuổi theo bóng lưng của bố lớn tiếng gào: “Huy, không bảo con quỳ xuống dập đầu nữa, nhưng con đến trước mặt dân thôn nói vài câu xin lỗi được không?”
ố ế
Bố tôi không quay người lại, cũng không tiếp lời ông nữa. Ông liền đuổi thêm một bước hỏi: “Có phải một câu xin lỗi con cũng không muốn nói không?”
Bố liền đẩy cổng nhà tôi, đẩy xong lại quay đầu ra nói lớn với ông: “Sau này bố không cần phải hận Đinh Huy này nữa, trong năm nay, nhà con sẽ rời khỏi Đinh Trang này, về sau bố đừng nghĩ đến việc gặp lại đứa con này nữa.”
Nói xong, bố liền né người, lách vào góc sân nhà mình, đóng sầm cửa lại, còn lại ông, ông đứng chôn chân trên phố mới như một cái cọc, lại một lần nữa nhìn thấy cảnh tượng bán máu, nhìn thấy cõi mộng toàn máu đỏ.
3
Ngoài trạm máu họ Đinh nhà chúng tôi ra, Đinh Trang còn có trạm máu họ Vương của nhà Vương Lâm, trạm máu họ Giả của Giả Minh Lượng, trạm máu Xuân Lai của Lưu Xuân Thủy. Chí ít Đinh Trang có bảy hoặc tám cái trạm máu tư, họ lấy máu xong không biết bán đi đâu, liền bán cho nhà tôi. Bố liền tập hợp máu lại phân loại theo nhóm máu, loại A thì đổ tất vào một cái thùng lớn loại A, loại B thì đổ tất vào cái thùng lớn loại B, loại AB thì đổ vào cái chậu lớn AB. Cho dù máu của bạn loại gì, cứ có bệnh viêm gan, mỗi cân máu của bạn sẽ đắt hơn người khác hai mươi đồng. Máu viêm gan có thể trở thành vắc xin gan, vì thế những người mắc bệnh gan có đường phát tài, mỗi ngày mặt đều tươi rói, người ta một tháng bán máu hai lần, họ hận không thể một tháng bán năm lần. Người ta một tháng bán năm lần, họ lại hận không thể ba ngày bán một lần. Máu viêm gan phải phân ra thành gan A, gan B và gan C, trong mỗi loại máu viêm gan tất nhiên cũng phải phân thành loại A, loại B, loại AB, như thế phải có đủ các loại các cỡ, chậu chậu, hộp hộp, bình bình, túi túi, tường tận tỉ mỉ phân phân chia chia các loại máu, sau đó vào thành phố mua mấy chai bia ngon, đem bia ngon về đổ vào mỗi thùng, chậu, hộp, bình, túi đó, lấy hai tay khuấy khuấy lắc lắc, chờ khi hương lúa mạch trong bia biến hẳn thành mùi máu cũng là lúc bia đã hòa trong máu. Bọt bia và bọt máu hòa làm một. Cuối cùng lấy máu trong thùng lớn chia vào những túi ni lông năm nghìn cc một túi, cho túi loại A vào hòm loại A, túi loại B vào hòm loại B, túi loại O vào hòm loại O, máu viêm gan phân đến các loại hòm máu viêm gan, đến nửa đêm chuyển những hòm máu này đến xe thu máu bên
ố ầ ề ấ ề
đường thì việc của bố hoàn thành, cầm về nhà một xấp tiền to. Xe thu máu liền kéo chỗ máu đó đi trữ trong kho máu chờ truyền máu cho người khác hoặc làm chế phẩm huyết tương.
Bởi vì nhà tôi lấy máu, thu mua máu luôn cao hơn Chính phủ năm đồng, trạm máu của Chính phủ dựng lên chưa đầy một năm đã đìu hiu. Không ai muốn bán máu của mình cho các trạm máu của Chính phủ. Trạm máu của Chính phủ không lo ăn uống, trạm máu của nhà tôi chỉ cần bạn là người thôn ngoài, người thôn khác, nếu bạn bán máu đúng vào lúc ăn cơm, sẽ có người bưng bát cơm đến tận tay cho bạn. Trạm máu của Chính phủ lấy máu còn phải kiểm tra thẻ máu của bạn, khi bạn cần bán gấp thì họ không lấy, còn nói mù mờ những lời gọi là lời khoa học. Còn cánh bố tôi chưa bao giờ kiểm tra thẻ máu của bạn, chỉ cần bạn nhớ rõ nhóm máu của mình là được. Đến trạm máu bạn báo nhóm máu của mình là được.
Không phải họ nên bán bao nhiêu thì bạn lấy bấy nhiêu, mà là họ muốn bán bao nhiêu thì bạn lấy bấy nhiêu. Không muốn kiếm tiền bạn cũng không kìm được, giống như có cục vàng từ trên trời rơi xuống muốn đập vào đầu bạn, nếu không dùng tay đỡ thì sẽ mất mạng. Để lúc nào cũng có thể dùng tay đỡ được miếng vàng đó, trạm máu nhà chúng tôi từ trong nhà dọn ra cái sân trống ở đầu thôn. Chủ nhân của cái sân đó xây nhà mới nhưng lại đi công tác trong thị xã huyện Vy, sân và nhà đều để trống. Để trống rồi, vừa khéo để nhà tôi làm trạm máu, lại thuê lấy vài cô nương nhanh nhẹn, dạy họ cách khử trùng và lấy máu, dạy họ cách tiếp khách. Mỗi ngày họ đều làm việc ở trạm máu như y tá, cuối tháng đến chỗ bố lĩnh lương.
Chẳng bao lâu, cô nương xinh đẹp nhất Tống Đình Đình liền trở thành đối tượng của chú hai tôi. Sau đó thì trở thành thím hai tôi. Lúc đó, Chính phủ tranh nguồn máu với nhà chúng tôi, Chính phủ thấy trạm máu tư nhân thì phạt tiền, đập phá hoặc thu giữ các lọ, các bình đựng máu, chú hai tôi ban ngày thì đóng cửa đánh bài, uống bia, tối đến thì giúp bố tôi lấy máu và bán máu, ngày tháng tiêu dao như thần tiên vậy, không làm ruộng, không làm việc, không có việc gì thì huýt sáo đi lại phất phơ trên phố, cách dăm ba bữa thì lại dẫn thím hai tôi và các cô nương khác đến quán cơm bên đường, ăn cơm uống bia, đến tối thì chú ngồi ở trạm máu bảo người khác lấy máu, chú nhấc một cái ghế đến ngồi bên bàn máu, liên tục dùng lưỡi liếm đầu ngón tay, đếm tiền đưa cho những người thôn Đinh Trang, thôn kế bên đến bán máu, đưa tiền vào trong tay họ như đang phát lương.
Sau nửa đêm, máu đã lấy xong, bia đã thêm vào, việc chia túi đóng gói cũng hoàn thành, thì đem những túi máu đã dùng bỏ vào làn và rổ đến
ầ
ao nước đầu thôn rửa túi. Cái ao đó là ao nước mưa, khi chưa bán máu thường có các bà các chị đến đó giặt giũ, rửa rau, khi cái ao đó dùng để giặt túi máu rồi, cánh đàn bà con gái liền không đến rửa rau, giặt giũ nữa, thế là, cái ao đó liền trở thành ao chuyên dụng để giặt bao đựng máu.
Ánh trăng như nước rắc lên mặt ao, thôn làng phía xa tĩnh lặng như một bức họa dưới trăng. Tiếng côn trùng trong ruộng hoa màu không ngừng vọng đến bên ao, tiếng ếch kêu trong ao còn to hơn đánh trống nhiều lần. Tiếng ếch lúc to lúc nhỏ lại được chen vào tiếng kim loại và tiếng đập của đầu gỗ cứng, bắn ra đỏ tóe, ầm ĩ khiến cho mấy nhà ở bên ao tỉnh giấc.
Thực ra thì, trước đây tiếng ếch ở đây cũng giống như tiếng ếch ở chỗ khác, kêu có thơ có ca, kêu như đàn như sáo, chỉ là vì bố và chú hai đến đây giặt túi đựng máu nhiều lần, ngày nào cũng giặt, đêm nào cũng giặt, nhiều thì trăm cái, ít thì mấy chục, khiến cho cái ao nước xanh cũng biến thành ao máu, nước trong biến chất, trở thành nước máu đen ứ đọng. Dần dần, ngày qua ngày, cái bụng trắng của con ếch trong ao liền trở thành màu đỏ thẫm, to gấp rưỡi cái bụng của con ếch bình thường, tiếng kêu đó liền trở thành âm thanh có kim loại và gỗ cứng gỗ đập vào nhau, ngay cả muỗi ở bên ao cũng to hơn, khỏe hơn trước, tiếng muỗi bay như tiếng bướm bay.
Bố và chú hai đến bờ cái ao này để giặt những bao máu đó, cho dù hôm nay bạn đựng máu loại A hay máu loại B, sau khi giặt xong tất cả đều đặt vào rổ vào làn, xách về treo lên dây thừng phơi đến trưa hôm sau, lần sau khi lấy máu, gặp máu loại O thì đựng vào loại O, gặp máu loại AB thì đựng vào loại AB. Nhưng đêm hôm đó, khi bố dẫn theo người đi giặt bao đựng máu, ông tôi từ trường học trở về. Trời đã nóng, ông mang chăn về nhà để đổi lấy chiếc chăn mỏng, nhìn thấy bố và chú hai tôi đang giặt túi loạt xoạt ở ao, liền đứng lại sau lưng bố nói:
- Đinh Huy, con giặt túi máu ở đây à?
Bố tôi nói, giặt ở đây thì làm sao? Trạm máu của người khác ngay giặt còn không giặt, hôm sau lại dùng chính cái túi đó lấy máu. Ông tôi nói, sao con không dùng túi mới cho mọi người?
Bố liền nói, một túi máu hai xu, một trăm cái là hai mươi đồng. Một ngày hai mươi đồng, mười ngày hai trăm đồng, một tháng là sáu trăm đồng. Một tháng sáu trăm đồng, vậy một năm là bao nhiêu? Mười năm là bao nhiêu? Bố ở trường đánh chuông cả đời có thể kiếm bao nhiêu tiền? Cho dù tính thêm cả phân và nước tiểu mà nhà trường tặng không cho bố, đổ phân vào trong ruộng, lương thực thu hoạch mười năm có thể bán được chỗ tiền này không?
ố ề ẫ
Hỏi như vậy, bố liền dẫn những người trong trạm máu của ông đi vào trong thôn.
Ông nhìn cái ao nước to hai mẫu, dài dài hẹp hẹp đó, cỏ hoang trong ao mọc mạnh như rừng, ếch nhái và muỗi to bự đều nằm trong rừng cỏ. Có một mùi tanh tưởi nồng nặc từ ao nước đó lan rộng ra ngoài, mượn ánh trăng có thể nhìn thấy mùi tanh tưởi màu đỏ đó như đám mây trước cơn mưa, cuồn cuộn trên mặt nước máu, cuộn một lúc thì từ từ dâng lên khỏi ao, bay qua thôn xóm và đồng ruộng. Ông liền đứng trong âm thanh đen đỏ đó, nghe tiếng bước chân đi về phía thôn của bố và người trong trạm máu của ông, đầu ông cũng ong ong vang theo, cuối cùng lóe lên ác niệm người con cả này không thể chết một cách dễ dàng. Ác niệm để nó sống cũng không bằng chết.
Buổi hát đã bắt đầu.
Chính là nói buổi hát trụy đã bắt đầu.
Dây điện trong phòng học được kéo ra, hai bóng đèn 100W treo trên giá bóng rổ làm cho cả ngôi trường sáng rực. Sân khấu không phải là sân khấu, mà chỉ kê vài hòn gạch lên đất, đặt hai cánh cửa lên trên, bày một cái ghế cao, để Đinh Hương Lâm ngồi khi vừa kéo đàn vừa hát, còn bày một cái ghế hơi thấp trước cái ghế cao, trên đó để một cái ấm, rót một bình trà, thế là đầy đủ rồi. Đã dựng được một sân khấu rồi. Còn dưới bục thì sao, người ngồi còn nhiều hơn cả đêm hôm trước. Nhiều hơn nhiều. Người có bệnh và người không có bệnh đều đến cả. Ăn cơm xong, họ đều giẫm lên con đường từ trong thôn ra trường học, đến hòa vào sự náo nhiệt.
Cả một đám lớn ngồi dưới sân khấu.
Cả một đám lớn đen ngòm.
Lần này có đến hai trăm người, gần ba trăm người thật. Hai, ba trăm người, cả một đám lớn đen ngòm. Người có bệnh ngồi trước, người không có bệnh ngồi sau. Cả một đám lớn đen ngòm. Cuối thu rồi. Đêm cuối thu, hơi lạnh đã trải rộng khắp cả tỉnh và huyện, trải rộng trên bình nguyên Dự Đông mênh mông. Đinh Trang, thôn Liễu, Hoàng Thủy, Lý Nhị, các thôn làng xung quanh đều thấy lạnh. Người Đinh Trang đến nghe Đinh Hương Lâm hát trụy, có người đã mặc áo bông. Có người không mặc thì vắt áo lên vai. Người có bệnh nhiệt, sợ nhất là trúng gió cảm lạnh. Bởi vì trúng gió cảm lạnh là sẽ chết,
trong thôn không phải chỉ có một vụ, hai vụ, không phải chỉ một người, hai người như vậy. Thế là đều khoác áo bông, mặc áo bông, như ngồi trên sân bóng mùa đông. Cả một đám lớn, ngồi la liệt, nói chuyện với nhau. Nói chuyện có thuốc mới rồi. Nói chuyện tiêm một mũi là khỏi thì trên mặt hiện rõ vẻ hạnh phúc. Có niềm an ủi dán lên trên mặt. Nụ cười như cánh ve sầu kết lại trên khuôn mặt. Lúc này, ánh trăng đã treo lơ lửng phía sau trường. Đinh Hương Lâm đã ngồi trên chiếc ghế chuẩn bị cho ông trên bục. Cơn đau đớn ở trong người, cơn đau đớn toàn thân tối hôm qua, bây giờ dường như không còn đau nữa. Không đau nữa nhưng mái đầu vốn hoa râm của ông bây giờ đã toàn màu trắng.
Lặng lẽ chuyển sang màu trắng.
Những vết mụn vốn có màu đỏ trên mặt bây giờ đã chuyển sang xanh.
Màu xanh là sắp đi, sắp tạ thế rồi.
Sắp chết rồi.
Ông tôi xách một ấm nước sôi từ chỗ ông ở đến, cầm hai cái bát, nói to với đám người dưới bục: “Có ai uống nước không?” Rồi lại hỏi mấy người cao tuổi: “Có uống nước không?” Chờ khi họ nói không uống, ông mới để ấm và bát ở một góc sân khấu, nói to với Đinh Hương Lâm sắp chết: “Bắt đầu đi, trăng đã lên rồi.”
Buổi hát liền bắt đầu.
Cuối cùng cũng bắt đầu.
Vừa nói bắt đầu, trên người Đinh Hương Lâm liền xuất hiện kì tích. Ông thử dây đàn của mình. Dây đàn vốn dĩ đã chỉnh chuẩn rồi, nhưng ông vẫn muốn thử chỉnh một chút trên sân khấu. Hóa ra khi ông ngồi trên sân khấu chờ bắt đầu hát thì không có gì khác biệt. Tóc trắng, mụn xanh, môi đen, đó là điềm triệu rõ ràng báo hiệu người sắp chết, nhưng khi vừa nói bắt đầu, vừa thử dây hai cái, mặt ông đột nhiên hồng hào. Ông cười với người trong thôn, khi bắt đầu thu nụ cười lại để kéo đàn, vẻ hồng hào trên mặt ông giống như người trẻ tuổi chuẩn bị kết hôn, ngay cả vết mụn xanh trên mặt cũng chuyển thành màu đỏ, phát sáng dưới ánh đèn, từng chiếc từng chiếc trở thành những đốm sáng nhỏ. Tóc vẫn trắng như vậy, nhưng đôi môi
ồ Ô ề ắ ầ ắ ắ
đen như có máu đỏ dồn lên. Ông liền khẽ lắc đầu, nhắm hờ mắt, không nhìn ai cả, giống như không có người bên dưới. Trục đàn và dây đàn trong tay trái chuyển động khi nhanh khi chậm; tay phải kéo đẩy cung vĩ khi vào khi ra, lúc chậm lúc nhanh. Tiếng đàn như tiếng nước chảy vào vùng đất cát khô cằn, giữa âm thanh trong mát có xen chút khàn khàn khô ráp. Trong cái khô ráp đó lại có dòng chảy trong veo. Ông vừa nói vừa lắc lư cái đầu: “Trước hết tôi hát khúc dạo đầu,” rồi hắng giọng một cái, dùng cổ họng thô và khàn của ông hát khúc Xuất môn từ mà cả thôn đều biết.
Ông hát rằng:
Con sắp lên đường đi phương xa
Mẹ tiễn con đến tận đầu thôn
Giản dị vài lời căn dặn nhỏ
Ngẫm kĩ lời lời nặng ngàn cân
Mẹ dặn rằng (Nói):
Con ơi con
Ra ngoài không giống ở nhà đâu
Trời lạnh con nhớ thêm áo mặc
Bụng đói nhất định phải ăn cơm
Gặp ông già con phải kính như ông nội
Gặp bà già con phải kính như bà nội
Gặp cô thì con gọi bác
Gặp chị thì con gọi cô
Gặp em gái thì con tôn là chị
Gặp em trai thì con gọi là anh
Sau khi hát xong Xuất môn từ, ông lại bắt đầu hát Mục Quế Anh, hát Trình Giảo Kim, hát Dương gia tướng, Tam hiệp ngũ nghĩa và Tiểu bát nghĩa. Hóa ra khi thực sự để Đinh Hương Lâm thoải mái tự do hát trên sân khấu, thì mới nhớ ra, ông không thể thuộc lời bài hát, nhớ ra hồi học hát trụy năm xưa, ông là người sợ học thuộc cuốn sổ ca từ nhất. Thích hát nhất nhưng lại sợ thuộc lời nhất, lại còn luôn bị rớt từ tông cao xuống thấp khi vừa kéo vừa hát, sư phụ đành phải
ổ ế ố ổ
đuổi ông đi. Thế là Đinh Hương Lâm không hát theo cuốn sổ chép lời trên sân khấu nữa, nhớ đoạn nào thì hát đoạn đó. Những đoạn người ta có thể nhớ đều là đoạn hay. Những đoạn mà Đinh Hương Lâm có thể nhớ đều là những đoạn hay. Như thế, cả đêm những đoạn mà Đinh Hương Lâm hát đều là tinh hoa trong hí khúc. Tinh hoa cũng như mật ong, có mùi rượu lâu năm. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên trong đời Đinh Hương Lâm đường đường chính chính hát trụy cho người trong thôn nghe. Là hát trụy trên sân khấu. Là buổi hát ông tôi tổ chức riêng cho khi ông bệnh nặng. Là buổi hát để ông hoàn thành tâm nguyện trước lúc qua đời, tất nhiên phải nhập tâm và chuyên chú gấp trăm lần. Mắt khép hờ, không nhìn ai cả, tay trái đặt trên cung vĩ và trục đàn lúc lên lúc xuống, tay phải ôm lấy cung vĩ đẩy vào rồi lại kéo ra. Cổ họng tuy hơi khàn, càng lúc càng khàn, nhưng những phương ngữ và thổ ngữ nhả ra từ miệng ông, từ nào người Đinh Trang cũng hiểu. Những câu chuyện và nhân vật trong hí khúc, người có tuổi một chút trong thôn thực ra đều biết, gì chứ Mục Quế Anh, Trình Giảo Kim, Dương Lục Lang, những nhân vật này mỗi năm đều xuất hiện trong tranh Tết. Câu chuyện về họ giống như những việc Đinh Trang mới gặp hôm qua. Biết chuyện rồi lại chỉ nghe toàn đoạn hay, cũng như ăn một bàn tiệc toàn thức ăn ngon vậy. Còn thiếu niên, thanh niên, hay trẻ con không rõ ngọn nguồn lạch sông của những câu chuyện đó, thì chỉ nhìn màn biểu diễn và sự nhập tâm của Đinh Hương Lâm cũng đủ rồi. Trên trán Đinh Hương Lâm có mồ hôi, trên khuôn mặt sắp chết lóe lên hồng quang, khi lắc đầu lắc mặt, những giọt mồ hôi trên trán, dưới cằm bị ông hất đi, như những hạt ngọc bị ông hất khỏi sân khấu. Khi ông hát, tay chuyển động, đầu lắc lư, chân cũng đánh nhịp vào tấm ván cửa. Tiếng bộp bộp do chân trước của ông gõ vào tấm cửa gỗ liễu, như tiếng mõ gõ không ngừng trên sân khấu. Khi hát tới đoạn mấu chốt, ví như khi Dương Lục Lang đến hồi nguy cấp, chân của ông, chân phải, sẽ nhấc lên giẫm xuống tấm cửa, như chân ông đang đạp vào mặt trống.
Người ông như đang ngồi trên mặt trống.
Sân trường chất đầy âm nhạc của Đinh Hương Lâm. Ngoài âm thanh của ông, không có âm thanh nào khác. Tĩnh đến mức khó tả. Trăng sao trắng sữa trên trời. Trắng như sữa, bình nguyên dềnh lên
ắ ầ ồ
sữa trắng. Những mầm mạch đã hiện màu xanh nhạt trên đồng ruộng, âm thanh của sự sống như đám lông chim sẻ từ không trung rơi xuống. Còn có mùi thơm khô trắng của cỏ dưới ánh trăng, những cọng cỏ vốn đã khô cong trong đêm thu, hoang trong những khoảnh ruộng vô vọng. Còn có mùi cát khô của cổ đạo Hoàng Hà cách đó không xa, mùi vị như cát rang trên lửa rồi lại được rắc thêm chút nước, tất cả đang phủ lên, tỏa ra trong sân trường này. Đang dày đặc lên, trở thành sự yên tĩnh khác lạ dẫn dụ lòng người. Lại vì tiếng hát của Đinh Hương Lâm, có mùi vị khác lạ.
Ông cứ lắc đầu hát như thế, hát nhập tâm như không có lần hai, ngay cả cổ họng của ông càng ngày càng khàn ông cũng không biết nữa. Người Đinh Trang cũng đang chăm chú, nhập tâm lắng nghe như thế. Cũng không hoàn toàn chỉ là nghe chăm chú, mà còn là nhìn chăm chú. Nhìn Đinh Hương Lâm đang thả hồn phiêu trong buổi hát độc nhất vô nhị này, đều quên mất mình cũng giống như ông đang là bệnh nhân bệnh nhiệt, không phải hôm nay thì cũng là ngày mai hoặc là ngày kia sẽ chết. Đều hòa trong sự nhập tâm của Đinh Hương Lâm. Quên hết mọi thứ. Không nhớ gì nữa cả. Trong trường học, ngoài tiếng hát của Đinh Hương Lâm, tiếng đàn của ông, và tiếng nhịp chân của ông xuống tấm ván cửa, không còn một âm thanh nào khác.
Không có gì nữa cả.
Tĩnh kì lạ. Tĩnh như chết. Nhưng chính trong cái tĩnh này, trong cái tĩnh tuyệt đối mà hai, ba trăm người như một người, khi Đinh Hương Lâm hát “Tiết Nhân Quý vung đao đi chinh tây, ba ngày ba đêm tám trăm dặm, đến giữa thôn người ngựa mệt nhoài, nghìn quân vạn mã đều đổ gục”, sân khấu trong trường không tĩnh nữa. Mới đầu chỉ thì thào, sau đó thì to dần thành tiếng. Tiếp nữa, có người quay đầu nhìn về phía sau. Không biết là gì, mọi người đều nhìn về phía sau. Trong lúc nhìn, trong lúc nói, Triệu Tú Cần và người chồng Vương Bảo Sơn của chị đột nhiên đứng dậy giữa đám người, xé cổ họng ra gào:
“Thầy giáo Đinh, thầy giáo Đinh!”
Tiếng hát nói đột nhiên ngừng lại.
Ông tôi đứng lên từ phía trước đám người: “Có chuyện gì vậy”? ầ ố ố
Triệu Tú Cần nói to với ông: “Rốt cuộc có thuốc mới trị bệnh nhiệt hay không? Lừa một phụ nữ như tôi có nghĩa là ông lừa gạt cả thôn.” Ông tôi lại hỏi: “Tôi dạy học cả đời, mọi người thấy tôi đã bao giờ nói dối ở Đinh Trang chưa?”
“Nhưng con trai Đinh Huy nhà ông ở phía sau, anh ta nói chưa hề nghe thấy việc có thuốc mới trị bệnh nhiệt.” Vương Bảo Sơn chất vấn ông, rồi lại quay đầu về phía sau.
Kéo theo cả đám đầu người Đinh Trang đều quay lại. Tất cả đều nhìn thấy bố Đinh Huy của tôi kéo em gái Anh Tử đứng sau mọi người. Chẳng ai ngờ, cuối cùng ông lại đến nghe hát trụy. Đến chỗ náo nhiệt. Sợ cô đơn nên tìm đến chỗ náo nhiệt để nghe hát trụy. Trong lúc nghe hát trụy, ông liền nói câu không có thuốc mới có thể chữa được bệnh nhiệt đó.
Nói xong thì sinh chuyện.
Tất cả người Đinh Trang đều quay đầu nhìn ông, giống như có thể từ trên mặt ông, trong miệng ông lấy được thuốc mới trị bệnh nhiệt.
Đinh Hương Lâm không hát nữa. Ông đứng ở trên bục diễn nhìn xuống dưới. Cái tĩnh dưới bục diễn, cái tĩnh lạnh lẽo cuối thu, cái tĩnh dày đặc, cái tĩnh như khoảnh khắc sau khi bọc thuốc nổ đã châm ngòi, khiến tất cả người Đinh Trang im đến mức không dám thở, như thể có ai đó thở thì bọc thuốc đó sẽ nổ tung. Tất cả đều nhìn bố tôi, nhìn ông tôi, nhìn hai cha con họ, chờ xem nước cạn đá bày sẽ ra sao.
Bố đã chống lại lời ông. Bố rốt cuộc vẫn là con của ông, nhưng đã dám chống lại lời ông nói. Cách cả đám người, bố nói từ khoảng cách rất xa: “Bố, bố lừa bà con thôn xóm làm gì, cuối cùng bố có thể làm ra thuốc mới trị bệnh nhiệt không?”
Dân chúng đều dồn ánh mắt lên người ông.
Ông tôi không nói gì. Ông lạnh lùng đứng một lúc, nhìn tất cả người Đinh Trang đang nhìn ông, vòng qua đám người đi về phía con trai ông. Bước đi không nhanh không chậm. Bước đi trong ánh mắt của mọi người, vùng vẫy bước khỏi những ánh mắt đó, cách một bước chân đứng trước mặt bố tôi, trên mặt hiện rõ màu xanh và màu
ắ ắ
tím, hai hàm răng cắn chặt môi dưới, lạnh lùng nhìn con trai ông, mắt lồi lên như muốn bật khỏi tròng. Ánh đèn vàng sáng rõ, tròng mắt ông đỏ long lên, hai tay bất giác nắm chặt hai dòng mồ hôi. Bố cũng không nói gì, nhìn ông với ánh mắt thách đố. Ông và bố cứ đọ mắt như thế, một ánh mắt lạnh lẽo, một ánh mắt thờ ơ; một ánh mắt cứng, một ánh mắt ngoài mềm trong cứng. Cả hai cứ đọ mắt như thế, tất cả người Đinh Trang cũng nhìn hai người họ. Những ánh mắt trong sân trường dính đặc như rừng cây, như gió cát bay mù mịt trên khắp bình nguyên, họ cứ nhìn bố không nói gì. Cái nhìn chết chóc. Cái nhìn lạnh lẽo, nhìn một lúc, lại thêm lúc nữa, hai người như hai con trâu đang trừng mắt. Trừng mắt một lúc, vết nhăn trên miệng ông như bị ai đó kéo giật. Đột nhiên, ông “Á” lên một tiếng, nhào tới dùng hai tay bóp cổ bố tôi.
“Á!” một tiếng, xô ngã bố, nhào tới bóp chặt cổ bố.
Không ai ngờ, ông có thể nhào lên siết cổ bố không chịu buông tay, nghiến chặt răng, hét lớn: “Sao mày biết không có thuốc mới? Sao mày biết không có thuốc mới?”
Ông hét lớn:
“Tao cho mày bán máu người!”
“Tao cho mày bán máu người!”
Chính trong tiếng hét đó, hai ngón tay cái của ông ra sức ấn xuống từng chút từng chút một. Bố tôi bất ngờ bị ông xô đổ, ngã ngửa ra, đầu hướng về tây, ông liền cưỡi lên người bố, hai ngón tay cái ấn chính xác vào yết hầu của bố, chỉ một lúc cái yết hầu đã sụp vào trong cổ họng, tròng mắt bố cũng như lòi ra ngoài như tròng mắt của ông. Mới đầu bố còn dùng sức đạp chân ra, đạp đạp mấy cái trên đất, rồi dần dần không động nữa. Bàn tay ra sức đẩy ngực ông ra cũng không còn sức như trước nữa.
Sự việc có chút nhanh, như không có mây mà có giông tố vậy. Sự việc quả thực hơi nhanh, như không thấy mây mà có giông, việc ông tôi muốn bóp chết bố tôi đùng một cái xảy ra. Không thể hạ màn. Nhưng nói cho cùng, ông tôi là bố của bố tôi, bố đẻ; bố tôi là con trai của ông tôi, con đẻ, họ không nên như vậy, kẻ sống người chết. Một
ấ ấ
mất một còn. Nhưng họ đã như vậy, một còn một mất. Em gái Anh Tử của tôi đứng bên cạnh òa lên khóc, thét chói tai: “Bố! Bố!…” “Ông! Ông!…”
Những người khác cũng đều kinh ngạc. Tất cả như đang kinh hãi, đứng đó nhìn không nói. Vây quanh xem không nói. Không nói gì, như xem một đôi dê đang húc nhau. Ai cũng nhìn mà không nói, như vây lấy xem một đôi gà chọi, chờ xem con nào thắng.
Chờ ông bóp bố chết tươi.
Nhưng em gái tôi đã hét lên ở đó: “Ông! Ông!…”
“Bố! Bố!…”
Lần này thét mạnh đến mức tay ông cứng lại trên cổ bố, không còn dùng sức như trước nữa. Giống như ai đó dùng gậy đập mạnh lên gáy ông, tay ông không còn sức nữa.
Cuối cùng ông lỏng tay ra.
Sự việc cuối cùng đã qua đi như vậy, như giông tố qua đi. Ông như tỉnh lại từ trong mộng, đứng dậy khỏi người bố, đờ đẫn đứng trong đám người, nhìn bố tôi đang nằm dưới ánh đèn, lúng búng nói những lời mà người ta nghe không hiểu:
“Nhân lúc người đông bảo con dập đầu con cũng không chịu sao?”
“Nhân lúc người đông bảo con dập đầu con cũng không chịu sao?”
Bố cũng đã ngồi dậy, sắc mặt hết trắng bệch lại dồn đỏ lên. Một trận trắng một trận đỏ, như cố hết sức để trèo lên một cái dốc, trèo lên trên rồi, người cũng mệt nhoài, muốn ngồi xuống thở dốc nghỉ ngơi một chút. Bố kéo cổ áo ra, để gió thổi vào trong cổ, bố dùng tay kéo mạnh cái cổ áo thu đông tròn màu xám, kéo xuống dưới, để gió thổi vào trong cổ, để hai vết ngón tay bỏng rát lộ ra trên cổ, để mặc cho hai giọt lệ từ trên mắt dồn ra vẫn treo trên vành mắt. Không nói gì. Không nói ra lời. Trong cổ phát ra tiếng khò khè như người bị suyễn.
Khò khè một lúc, bố liền chầm chậm ngồi dậy, lạnh lùng nhìn ông một cái, gằn mắt nhìn ông một cái, nhưng lại đột nhiên tát một cái
không mạnh không nhẹ lên mặt em gái Anh Tử của tôi: “Không cho mày đến, mày lại cứ đến, lần này tao cho mày đến! Lần này tao cho mày đến!” Rồi lại lạnh lùng nhìn, gằn mắt nhìn ông, liếc liếc người trong thôn đang đứng đó nhìn ông tôi siết cổ mình, người trong thôn không ai đến kéo ông tôi một cái, bố liền lôi Anh Tử đang khóc nhè đi mất.
Lôi con gái ông đi mất.
Cuối cùng cũng đi mất.
Trong ánh đèn, ông nhìn bố từng bước từng bước đi ra khỏi cổng trường, cứ thế nhìn theo bóng bố mờ nhòe ở cổng trường rồi ông mới quay người lại, trên mặt có mồ hôi, từng bước từng bước nặng nề bước lên bục sân khấu, đi đến trước mặt Đinh Hương Lâm đang ngây ra trên đài. Đứng trước mặt tất cả người Đinh Trang cũng đang ngây ra, ông đột nhiên quỳ xuống, quỳ rầm một cái, nói to với tất cả dân thôn:
“Bây giờ Đinh Thủy Dương tôi xin quỳ lạy mọi người. Tôi sáu mươi tuổi quỳ trước mọi người, quỳ thay con trai cả Đinh Huy của tôi. Xin mọi người nhìn con thứ Đinh Lượng nhà tôi cũng bị bệnh nhiệt giống mọi người, cháu trai tôi vừa mới mười hai đã bị người ta hạ độc, cho dù bệnh nhiệt của cả thôn là vì con cả của tôi lấy máu gây nên, nhưng việc đến mức này xin mọi người đừng để trong lòng nữa.”
Nói đến đây, ông liền dập đầu trước người Đinh Trang trên sân khấu: “Đinh Thủy Dương tôi xin quỳ xuống dập đầu trước mọi người, cầu xin mọi người đừng oán hận nhà họ Đinh chúng tôi nữa.”
Rồi lại dập đầu cái nữa: “Đinh Thủy Dương tôi có lỗi với mọi người, lúc đầu chính tôi đã nói với mọi người cái lí máu cũng như nước suối, càng bán lại càng đầy.”
Rồi lại dập đầu cái nữa: “Còn một việc nữa, chính tôi đã thay Chính phủ tổ chức mọi người đến huyện Thái tham quan, mọi người mới bắt đầu bán máu, mới bán ra cái bệnh này.”
Khi ông tôi dập đầu cái đầu tiên, thì có người đến kéo ông. Vừa kéo vừa liên tục nói: “Cần gì phải thế. Cần gì phải thế.” Rồi giữ chặt ông lại. Nhưng ông vẫn vùng người ra dập đầu ba cái, nói những
ề ầ ồ Ô
điều ông cần nói, như trả một món nợ nào đó rồi đứng dậy. Ông đứng lên, quét ánh mắt một vòng như thầy giáo nhìn học sinh trong lớp, nhìn đám người đứng ngồi lố nhố dưới đài cũng đang chằm chằm nhìn ông, ông liền tuyên bố như tuyên bố bắt đầu buổi học: “Từ mai, Đinh Trang đã mười mấy năm không có cán bộ, nếu mọi người tin Đinh Thủy Dương tôi, phàm là người có bệnh, ai cũng có thể vào trường sống. Ăn ở cả trong trường, tôi sẽ lên trên xin chút lương thực trợ cấp cho mọi người. Ở trong trường, mọi người có việc gì đều có thể đến tìm Đinh Thủy Dương tôi. Đinh Thủy Dương tôi nếu không cố gắng làm cho mọi người, thì mọi người có thể đến nhà con cả Đinh Huy, con thứ Đinh Lượng để hạ độc, hạ độc lợn nhà chúng, hạ độc gà nhà chúng, cũng có thể hạ độc những người khác trong nhà chúng.”
Ông tôi nói: “Giờ tôi nói thật nhé, người ta nói bệnh nhiệt chính là bệnh AIDS. Đây là một loại ôn dịch nguy hiểm. Nhà nước cũng không có cách nào chữa trị, là loại bệnh hiểm nghèo mới mà nếu mắc chỉ còn nước chết. Bà con có bệnh nếu không sợ lây cho người nhà thì hàng ngày cứ ở trong nhà, nếu sợ lây, thì đến sống trong trường học, ăn ở trong trường, để những người không có bệnh ở nhà được an toàn.”
Nói đến đây, ông còn muốn nói điều gì nữa, liền lướt ánh mắt lên mọi người, nhưng khi sắp nói điều gì đó thì đột nhiên nghe thấy “Ầm” một tiếng phía sau, như có một cây gỗ đổ ập xuống sân khấu. Quay người lại, thì nhìn thấy Đinh Hương Lâm đã ngã khỏi ghế, cổ cong lên, sắc mặt như tờ câu đối trắng, chiếc đàn trụy rơi bên người ông, rung lên bần bật.
Đinh Hương Lâm nghe lời kêu gọi của ông tôi xong thì đổ ầm xuống bục. Có một đường máu rỉ ra kẽ miệng. Mũi cũng chảy ra hai dòng máu.
Trong trường, cuối cùng đã có hơi máu của người chết.
4
Tạ thế rồi.
Đinh Hương Lâm đã tạ thế rồi.
ế ấ
Tạ thế trên sân khấu mà ông hát. Lúc chôn, ông tôi thay nhà ông ta chuẩn bị việc nhập quan, thay nhà ông mời đến một họa sĩ không biết Đinh Trang có bệnh nhiệt, vẽ cho Đinh Hương Lâm một bức tranh. Đó là bức tranh ông ngồi trên sân khấu hát say sưa, còn vẽ đầy người ở dưới sân khấu nghe ông hát. Hàng nghìn hàng vạn người đều ngồi bên dưới, nhìn ông vừa kéo đàn vừa hát. Vẽ cảnh dưới sân khấu hết chỗ ngồi, có người phải ngồi trên tường của trường học, có người trèo lên cành cây trong trường. Cả biển người. Ngàn vạn người. Trong đám người nghe hát đó, còn có người đang bán khoai lang nướng, bán nước hoa quả, bán kẹo hồ lô và kẹo mút như buổi hội làng.
Thật là một bức tranh náo nhiệt.
Cuộn bức tranh đó lại đặt trong quan tài, đặt một bên người Đinh Hương Lâm. Phía bên kia người ông, đặt chiếc đàn trụy hồ mà ông thích kéo.
Đinh Hương Lâm đã được chôn như vậy.
Cuối cùng cũng chôn rồi.
QUYỂN BA
Chương một
1
Chôn Đinh Hương Lâm xong, bệnh nhân bệnh nhiệt liền đến ăn ở trong trường.
Mùa đông đến rồi. Trời lạnh lắm, tuyết rơi, bông tuyết to bay như lông ngỗng. Bay thật lực cả đêm thì trắng hết. Một thế giới trắng. Bình nguyên giống như trang giấy. Trang giấy hơi mềm, hơi xốp. Thôn xóm như được vẽ ra trên giấy. Người như gà, lợn, mèo, chó, vịt điểm lên trên giấy. Còn có cả lừa và ngựa.
Mùa đông đến rồi.
Người Đinh Trang mắc bệnh nhiệt, trời lạnh không có chỗ nào đi, đa số đều bằng lòng chạy đến trường học. Trường học trở thành trạm dã chiến của bệnh nhân bệnh nhiệt. Trước đây nó là miếu Quan Đế, sau trở thành trường tiểu học Đinh Trang. Đến bây giờ, nó lại trở thành trạm dã chiến của bệnh nhân bệnh nhiệt. Củi và than chuẩn bị cho học sinh sưởi năm trước, giờ phải lấy ra cho người bệnh sưởi. Có lửa sưởi, người bệnh đến càng nhiều. Lý Tam Nhân cũng mắc bệnh nhiệt, ông ở nhà ăn, ngủ, đun thuốc bắc, vợ chăm sóc không chu đáo, liền đến trường học, không muốn quay về. Ông nở nụ cười trên gương mặt đã vương màu thần chết, cười nói:
“Thầy giáo Đinh, tôi đến ở trong trường nhé?”
Lý Tam Nhân đem chăn đệm của ông đến trường học thật. Trường học tốt hơn ở nhà ông, tường không hút gió, còn có lửa đốt. Ăn cơm có lúc ăn cùng ông tôi, có lúc ăn một mình trong gian phòng ở đầu hồi.
Mùa đông đến rồi.
ế ế
Mùa đông vừa đến, trong thôn lại chết một người căn bản chưa từng bán máu, mà vẫn bị mắc bệnh nhiệt. Chị tên là Ngô Hương Chi, vừa quá ba mươi, khi chị gả vào nhà họ Đinh còn chưa đến hai mươi hai. Lúc đó vì chị trông trẻ trung, tính tình nhút nhát, nhìn thấy máu liền ngất xỉu ở đầu thôn, vì thế được chồng chiều, người chồng cho dù bản thân phải bán máu đến chết cũng không để chị đi bán máu. Nhưng bây giờ, chồng chị bán máu mà vẫn sống, còn chị chưa từng bán một giọt lại mắc bệnh nhiệt mà chết. Mấy năm trước, chị cho con gái bú sữa, con gái chị đã bị nhiễm bệnh nhiệt chết trước chị rồi. Như thế không thể không tin bệnh nhiệt lây lan thế này thế khác. Liền đều ào ào vào sống trong trường học.
Người có bệnh đa phần đều dọn vào trường ở.
Chôn cất Ngô Hương Chi đúng vào ngày tuyết lớn, chôn ở góc xa nhất trong phần mộ tổ tiên nhà chị. Trên mảnh đất trồng tiểu mạch ở phía nam thôn, dỡ mảnh ruộng ở đó ra, đào một cái hố nho nhỏ, rồi đặt quan tài của chị vào trong hố.
Thế là đã chôn xong một cô gái xinh đẹp ba mươi tuổi chưa hề bán máu mà vẫn mắc bệnh nhiệt.
Lúc rời đi, lúc mười mấy người rời khỏi mộ phần, chồng chị Đinh Dược Tiến, quỳ xuống trước mộ chị, quỳ nhưng không hề dập đầu, chỉ nhìn nấm đất mới đó tát lên mặt mình một cái.
Tát một cái rất kêu.
Một người anh con chú con bác của anh ta đến kéo anh ta rồi hỏi: “Chú em, chú có bệnh mà vẫn động vào cô ấy sao?”
Đinh Dược Tiến gật đầu.
“Trước khi biết có bệnh hay là sau khi biết có bệnh?”
Đinh Dược Tiến nhìn nấm mộ trước mặt khẽ nói: “Việc đã mấy năm rồi.”
Người anh con bác nói rất thản nhiên: “Ai biết được bán máu sẽ có bệnh? Ai biết được bệnh này lại thích lây ở trên giường? Chỉ cần sau khi biết có bệnh, chú không động vào người cô ấy, thì chú không cần phải hổ thẹn với cô ấy.”
Đinh Dược Tiến liền đứng dậy trước mộ, cùng người trong thôn rời mộ về nhà. Về đến nhà, liền cuốn chăn đệm đi đến trường ăn ở. ấ ề ắ ế ố
Có rất nhiều người mắc bệnh nhiệt cũng theo anh ta đến sống trong trường, cầm theo bát đũa, nồi niêu, lương thực, đi về phía trường học như đi ra ngoài làm việc.
Đi thành hàng thành lũ.
Chú hai cũng đến trường. Thím hai đưa chú hai đến cổng trường, hai người đứng trên nền tuyết, chú nói với thím hai tôi: “Em về đi, ở đây người bệnh nhiều, anh không lây cho em không chừng người khác lại lây.”
Thím hai liền đứng ngoài cổng trường, hoa tuyết bay trên đầu thím.
Chú hai nói: “Em về đi, bố ở đây, anh không thiệt đâu.” Vợ chú liền đi về. Thím hai tôi đi về, đi rất xa rồi, chú hai tôi lại quay về phía sân tuyết gào lên: “Nhớ nhé, ngày nào cũng đến thăm anh!” Chờ khi nhìn thấy thím quay lại gật đầu với chú, xác nhận vợ mình đã nghe thấy câu này, chú mới cắp chăn đi vào trong trường học.
Trường học đột nhiên rất nhiều người. Không có học sinh nhỏ tuổi nữa, nhưng lại có mấy chục người lớn. Đều là đàn ông và phụ nữ chừng trên dưới ba mươi đến khoảng bốn mươi lăm. Theo ý của ông tôi, đều phân khai, đàn ông sống trong lớp học ở tầng hai, phụ nữ sống trong lớp học ở tầng một. Có người kéo giường từ nhà đến, có người lấy ở đâu đó vài mảnh ván, lại có người ghép các bàn học lại với nhau thành một cái giường nằm. Trong sân có tiếng nói chuyện như nước chảy. Vòi nước ở đầu hồi chảy không ngừng. Hai gian phòng ở bên cạnh vòi nước, vốn là nhà kho bỏ không của trường, để mấy chiếc bàn hỏng, ghế gãy, bây giờ chỗ đó liền trở thành nhà bếp để người bệnh nấu cơm. Nhà này bắc nồi ở cửa, nhà kia bày bàn ăn ở dưới cửa sổ, căn phòng đó ngay lập tức chật đến mức không có chỗ nào đặt chân xuống nữa.
Tuyết trắng trong sân bị giẫm thành bùn.
Bên dưới cầu thang chất đầy chai lọ và lương thực.
Ông tôi trở nên bận rộn, nói đem cái này đặt chỗ này, đem cái kia để chỗ kia. Rồi đem những đồ dùng có ích nhất trong trường như
ấ ắ ể
bảng đen, phấn trắng và sách giáo khoa, vở bài tập mà học sinh để lại trong lớp vội vã khóa vào trong một gian phòng.
Những bàn ghế còn mới một chút cũng đem vào phòng khóa lại. Học sinh không đi học nữa. Nhưng trường học rốt cuộc cũng có ích. Đã có người. Ông tôi liền trở nên bận rộn, trên khuôn mặt đã già treo những giọt mồ hôi của tuổi trẻ, có vất vả một chút cũng đáng. Mái đầu xám bạc của ông tuy rằng vẫn bạc, nhưng đã có chút sức sống tươi mới, sáng bóng, chứ không phải bạc xác xơ. Xếp gọn bàn học của lớp hai sang một bên, đặt ghế vào giữa phòng học, đây chính là hội trường của người bệnh nhiệt. Chính trong hội trường này, những người bệnh không thạo nấu cơm nói: “Sắp chết rồi, lại còn phải tự nấu cơm, không bằng mọi người hợp lại ăn chung.” Thế là cùng tính toán, nếu người bệnh mỗi nhà đều tự mình bắc bếp nấu cơm, vừa tốn củi lại vừa tốn gạo, nếu mỗi nhà đều góp lương thực theo đầu người mắc bệnh, thì sẽ tiết kiệm được chút củi chút gạo.
Điều quan trọng nhất là, bên trên nói nếu cùng ăn cùng ở thì sẽ hỗ trợ một chút gạo và tính bột. Ăn cùng người khác thì sẽ tiết kiệm của mình một chút, lại không cần phải nấu ăn hàng ngày khi trong người có bệnh, sao không hợp lại ăn chung?
Ông tôi liền mở một cuộc họp cho tất cả bệnh nhân trong lớp học. Ông tôi có thể xem là thầy giáo, ở đây rất nhiều người dù chỉ biết vài chữ, nhưng đa số những người biết chữ đó đều từng được ông dạy trong những buổi dạy thay, có thể coi như học sinh của ông. Ở đây đa phần đều là người lớn, nhưng không có ai cao tuổi hơn ông. Đây là trường học, trường học vốn do ông quản. Người ở đây toàn là người bệnh, là những người sống hôm nay không biết ngày mai, chỉ có ông là không mắc bệnh nhiệt, ông cũng không sợ bị lây, lẽ tất nhiên, ông trở thành người quản lí.
Có thể xem là lãnh đạo.
Mọi người ngồi lẻ tẻ trong lớp học. Ngồi trên ghế, ngồi trên bàn, hoặc là đứng và ngồi xổm, hút thuốc, hoặc ngẩng đầu nhìn ra đâu đó, chuyện nói ra có câu đáp, có câu không. Đang là mùa đông, hoa tuyết ngoài cửa sổ như tơ liễu mùa xuân bay bay. Khói trong phòng
ố ấ ổ ố
cũng bay bay. Giữa phòng đốt một chậu lửa, lửa rất mạnh, nổ lốp bốp. Ánh lửa chiếu lên mặt mỗi người, mặt mỗi người đều khô khốc màu chết chóc, ánh sáng nâu xỉn hắt lên như dán mảnh lụa khô phập phập phồng phồng trên da mặt họ. Nguyên do những cuốn vở bài tập, bài thi, và tranh màu sáp mà học sinh vẽ khi học thực địa trong vườn trường vốn dán trên tường, lúc này bay phấp phới trong ánh lửa.
Màu đỏ tươi và xanh thẫm trên những bức tranh và bài thi đó cũng tươi sáng như có thêm sinh khí.
Dù cùng ngồi trong phòng học, nhưng mọi người đều nhìn nhau. Không biết vì sao rất nhiều người đều nhìn chú hai tôi, nhìn chú hai ngồi trong lớp học của bố chú có chút nực cười.
Chú tôi ngồi ở hàng cuối cùng, chú đang cầm một cây gậy viết gì đó trên đất. Giả vờ viết. Giả vờ không nhìn thấy những người đang nhìn chú.
Đinh Dược Tiến, Triệu Tú Cần, Đinh Trang Tử, Lý Tam Nhân, Triệu Đức Toàn, và bao nhiêu người Đinh Trang khác, Đinh Trang có ba mươi mấy người mắc bệnh nhiệt, người đứng người ngồi, chen đầy trong lớp học, chen nhau tìm hơi ấm, làm cho trên mặt mỗi người bệnh đều có nụ cười nhẹ nhõm của việc chen sát cạnh nhau. Họ đều nhìn ông tôi không nói gì, giống như các học sinh đang chờ lên lớp.
Ông tôi đứng trên cái bục giảng được xây bằng ba tầng gạch, nhìn những người bệnh như nhìn học sinh, nói: “Mọi người ngồi xuống đi, ngồi xuống đi.” Chờ những người đang đứng dựa vào tường và bậu cửa đều ngồi xuống, ông liền nói một cách rất từng trải với mọi người: “Mất lòng trước được lòng sau, tôi cả đời làm trong trường học, tuy không hoàn toàn là giáo viên nhưng có thể xem như có một nửa là thầy giáo, mọi người đều đến trường học rồi, đến trường học thì đều phải nghe tôi. Bây giờ, ai không muốn nghe tôi thì giơ tay lên.”
Ông tôi liền liếc mọi người bên dưới.
Liếc thấy mấy người lớn đang ngồi dưới cười như trẻ con. Cười khanh khách.
Ô ề
Ông tôi nói: “Không có ai giơ tay thì đều phải nghe tôi nói. Tôi nói một, trước khi có gạo cứu trợ của bên trên, cần thu gom lương thực của các nhà lại một chỗ, có Đinh Dược Tiến làm kế toán, ghi rõ từng loại ngô khoai, hay thóc gạo vào trong sổ, ai mang nhiều thì tháng sau nộp ít, ai mang ít thì tháng sau nộp nhiều. Hai, trong trường uống nước không phải trả tiền, dùng điện thì mỗi tháng đều phải trả, mọi người không thể thức quá nửa đêm mà không ngủ, cần phải tiết kiệm điện như ở nhà mình. Ba, nấu cơm là việc của phụ nữ, lao động là việc của đàn ông. Triệu Tú Cần quản việc nấu cơm của phụ nữ, người bệnh nhẹ thì làm nhiều, người bệnh nặng thì làm ít, mọi người có thể luân phiên nấu từng ngày, cũng có thể nấu ba ngày thì đổi. Bốn, tôi đã ngoài sáu mươi rồi, mọi người cũng đang trong cảnh sống hôm nay không biết ngày mai, chúng ta cần nói thẳng với nhau cho rõ, chúng ta chết rồi người khác vẫn phải sống, trẻ con sau này vẫn còn đến ngôi trường này đi học, bắt đầu từ hôm nay, các bạn đã sống trong trường rồi, không được hễ có chuyện hay không có chuyện là chạy về nhà, chỉ cần sướt da, chảy máu, hôn vợ, con một cái, chưa biết chừng sẽ lây bệnh cho người nhà mình. Nhưng các bạn đã sống trong trường, thì cũng phải yêu bàn học, ghế ngồi, cửa sổ của ngôi trường này. Đừng cho rằng không phải đồ nhà mình thì cứ dùng không thương tiếc. Năm, sống trong trường, không chỉ vì sợ truyền bệnh cho người khác, mà còn vì để mọi người sống ngày nào được vui ngày đó, cho nên mọi người ngoài việc đánh cờ, xem ti vi, các bạn muốn làm gì thì cứ nói ra. Muốn ăn gì cứ nói ra. Có thể làm gì thì cứ nói ra, muốn ăn gì thì ăn cái đó. Đến đây cùng ăn ở với tinh thần ‘có bệnh nhiệt à, trời có sập thì cũng phải sống mấy ngày cho thoải mái’.”
Nói đến đây, ông ngừng một chút trên bục giảng, quay đầu nhìn tuyết trắng ngoài cửa sổ. Hoa tuyết to như hoa lê, trắng như hoa lê, chớp mắt đã che phủ hết những dấu chân nhuốm bùn in trong trường học. Bên ngoài lại tuyết trắng mênh mông. Có một luồng khí lạnh tươi mới từ bên ngoài tràn đến, gặp mùi bệnh nhiệt bẩn thỉu trong phòng, giống như nước đục, nước trong hòa vào nhau một chỗ, có tiếng khuấy nước khe khẽ, như lông gà, lông ngỗng chạm vào nhau khi bay trên không trung. Có con chó vện nhà ai theo chủ
ế ỗ ổ
nhân tìm đến, đứng ở chỗ giá bóng rổ trong sân trường tìm chủ. Nó lơ ngơ đứng trên sân bóng nhìn sang đây, cả người trắng tuyết, như một con dê bị lạc nhà.
Nhìn đến đó ông liền thu mắt lại, quay lại nhìn người Đinh Trang ngồi đầy trong phòng học, nhìn những khuôn mặt xanh lét và đen xạm, ông nói: “Còn ai có ý kiến không? Không có ý kiến thì bắt đầu nấu cơm đi, hôm nay là bữa cơm đầu tiên, cho dù ai nấu thì cũng phải nấu ngon một chút. Nồi thì dùng cái nồi lớn mà nhà trường chuẩn bị cho học sinh thôn khác, bếp thì dùng bếp học sinh ở phía tây sân bóng.”
Cuối cùng cũng tan họp.
Đều vui vẻ cười đùa vây quanh đống lửa giữa phòng, rồi đi về phía lớp học vẫn chưa trải xong chăn, kê xong giường của mình. Ông tôi đi ra khỏi phòng học, tuyết bay trên mặt ông, như nước rắc trên mặt ông. Có gió thổi, tuyết không phải là bay nữa, mà như bị gió táp lên trên mặt, táp ầm ầm vào mặt. Trên mặt vẫn còn hơi ấm trong lớp học, vẫn còn có chút nhiệt huyết mà ông nói một, hai, ba, bốn vừa rồi. Tuyết bị ném lên mặt đã tan, như giọt nước bị gió vứt trên mặt.
Đất trắng xóa.
Trắng mênh mông.
Giẫm lên đi thì kêu rin rít.
Đang đi, chú tôi từ phía sau đuổi kịp ông, chú gọi một tiếng “bố”, chờ ông quay người lại, chú nói: “Con cũng ngủ ở phòng lớn như những người khác sao?”
Ông tôi nói: “Con ngủ cùng với bố, phòng đó nhỏ, ấm áp.” Chú tôi nói: “Bố, sao lại để Dược Tiến quản việc kế toán?” Ông tôi nói: “Cậu ấy đã từng làm kế toán trong thôn mà.” Chú liền nói: “Không bằng con quản.”
Ông tôi nói: “Quản cái này làm gì?”
Chú lại nói: “Tốt xấu con cũng là con bố, con quản thì bố yên tâm.”
Ông liền nói: “Cậu ấy quản bố cũng yên tâm.”
ề ề
Chú hai liền cười: “Thực ra ai quản cũng như nhau, đều là người sắp chết, không ai làm trò mèo trên sổ sách.”
Hai bố con liền đi vào căn nhà mái bằng ở cổng trường, lội trên nền tuyết, nói chuyện với nhau, trong chớp mắt, người đã hòa vào trong tuyết.
Tan vào trong tuyết.
2
Mấy ngày sau, khi tuyết đã tan, cuộc sống của bệnh nhân bệnh nhiệt sướng hơn ở trong mơ. Cơm nấu xong, ông tôi hô một tiếng, tất cả đều cầm lấy bát, thong thả đến trước gian nhà mái bằng phía tây ăn cơm. Muốn ăn bao nhiêu đơm bấy nhiêu, muốn ăn gì đơm đó, đặc có đặc, loãng có loãng, có rau có thịt, ăn xong thì đến bên bồn nước rửa bát, để bát vào một chỗ, hoặc để trong một cái túi, treo trên cây hoặc trên giá bóng rổ. Tìm một phương thuốc bắc nghe nói có thể chữa khỏi bệnh nhiệt, đun một nồi thuốc lớn, mỗi người đến múc một bát. Có người nhà đến đưa bánh hấp thì cũng đều lấy ra chia cho mọi người cùng ăn. Ăn cơm rồi, uống thuốc rồi, sau đó, sau đó thì không có việc gì nữa, muốn sưởi nắng thì đi sưởi nắng, muốn xem ti vi thì xem ti vi, muốn đánh tú lơ khơ thì tìm bốn người, đánh cờ tướng thì tìm hai người, tìm chỗ khuất gió có nắng mà ngồi xổm chơi thỏa thích.
Không phải nghĩ gì hết. Cho dù bạn thong thả dạo quanh sân trường, hay nằm ngáy o o trên giường của bạn cũng không có ai quản bạn và hỏi bạn, tự do như bông bồ công anh trên bãi cỏ. Muốn về nhà, thì bạn trở về Đinh Trang.
Muốn ra ruộng hoa màu của bạn, thì bạn đi đến đứng ở đầu ruộng nhà mình.
Muốn việc gì khác nữa thì nhờ chuyển lời, một lúc sau người nhà bạn sẽ chạy đến trường.
Cuộc sống của bệnh nhân bệnh nhiệt còn sướng hơn ở trong mơ. Nhưng sướng được nửa tháng thì không thể sướng nữa. Trộm cắp đã xảy ra. Kẻ trộm như con chuột chạy khắp sân trường. Đầu tiên mất hơn nửa bao gạo trong nhà bếp. Sau đó bao đậu tương đặt ế ấ ấ ồ
ở góc bếp cũng mất luôn. Sau nữa, Lý Tam Nhân nói mấy chục đồng mà ông giấu dưới gối cũng không thấy nữa. Còn có cô dâu mới lấy về thôn, là cô dâu mới của Đinh Tiểu Minh, em con chú ruột gọi chú tôi là anh, chồng Tiểu Minh của cô ấy và bố tôi, chú tôi có cùng ông nội, bố chồng cô ấy và ông nội tôi có chung một bố, năm nay cô ấy ngoài hai mươi tuổi, tên là Dương Linh Linh, vừa lấy về thì mắc bệnh nhiệt. Mấy năm trước ở nhà mẹ đẻ cô đã từng bán máu, bây giờ có bệnh nhiệt cô không oán hận ai, chỉ là mỗi ngày buồn sầu không nói, trên mặt chưa bao giờ nở nụ cười. Cái ngày biết cô bị bệnh nhiệt, Đinh Tiểu Minh tát lên mặt cô một cái, nói: “Khi hai chúng ta gặp nhau, tôi hỏi cô đã bán máu bao giờ chưa, cô một mực chối là chưa bán. Bây giờ cô còn nói chưa bán nữa không?”
Một cái tát mà sưng cả mặt.
Tát đến mức mặt cô không bao giờ còn nở nụ cười.
Ngay cả ý nghĩ tiếp tục sống cũng bị tát bay.
Rồi đưa cô đến trường học này sống cùng với những người mang bệnh nhiệt khác.
Ngày thứ ba đến đây, cô nói chiếc áo bông lụa đỏ mà cô treo ở đầu giường không thấy nữa. Ban ngày vẫn còn đó, khi trời tối muốn mặc, thì áo bông đã không còn.
Kẻ trộm giống như chuột, chạy đầy khắp sân trường. Việc này không thể không quản. Trước khi trời tối, ông tôi gọi tất cả mọi người đến hai gian phòng học, yêu cầu mọi người ngồi xuống, nhưng rất ít người ngồi, thế là đứng cả dậy, ông tôi cuối cùng nói lớn:
“Đã đến lúc này rồi, mạng cũng sắp mất rồi, các bạn vẫn còn trộm tiền trộm gạo, trộm áo mới của người ta. Sắp mất mạng rồi các bạn còn cần tiền làm gì nữa? Sắp chết rồi còn cần chỗ lương thực đó làm gì? Có lửa sưởi còn cần áo bông của người ta làm gì nữa?” Ông tôi nói. “Tất cả nghe lời tôi, một là hôm nay không ai được trở về thôn, không thể mang những đồ lấy trộm về nhà; hai là ai trộm tôi cũng không truy cứu, đến nửa đêm các bạn tự mang ra. Trộm lương thực thì trả về nhà bếp, trộm tiền thì trả tận tay người mất, trộm áo bông thì đưa đến đầu giường của người ta.”
Á ế
Ánh mặt trời đang phai màu từ sân trường bò đến, phòng học chảy đầy sắc đỏ của hoàng hôn. Gió tháng chạp ù ù như những nhát đâm, thổi bay đám tro lửa trong phòng ra bốn phía. Những người bệnh Đinh Trang, người bệnh nhẹ hay người bệnh nặng nghe những lời ông tôi nói, đều ở trong căn phòng đó nhìn nhau, kiếm tìm bốn phía, cứ như nhìn thế, tìm thế là có thể nhìn ra kẻ trộm, tìm ra kẻ trộm, nhưng nhìn một hồi rồi, tìm một hồi rồi, vẫn không tìm thấy, chú tôi liền hô lên trong đám người: “Lục soát! Lục soát!”
Những người trẻ tuổi đều hô lục soát.
Ông tôi ở trên bục liền nói: “Lục soát cái gì, nửa đêm đưa ra là được, ngại không đưa đến đầu giường hoặc tận tay người ta thì để ở góc sân.”
Cuối cùng cũng không nói gì nữa, để mọi người giải tán. Từ gian phòng đó đi ra, đám đàn ông chửi kẻ trộm ở cái thôn này thật kém cỏi, sắp chết rồi còn tham nửa bao gạo, một bao đậu. Chú hai tôi liền đi đến bên vợ của người em chú nói:
“Linh Linh, sao em lại không để áo của mình cẩn thận?” “Áo bông mà, không mặc không treo đầu giường thì treo ở đâu?” “Anh vẫn còn một cái áo, anh lấy cho em nhé?”
“Không cần đâu. Em đã mặc hai cái áo len trong người rồi.” Đêm đến, có người xem ti vi, có người nói chuyện phiếm như thường lệ, có người không tin vào thuốc trong nồi tập thể, tự mình đi bắc nồi đun thuốc trong bếp hoặc trong phòng mình ở. Trong lớp học, trong phòng, trong hành lang tầng trên tầng dưới, chỗ nào cũng bày nồi đun thuốc, đổ đầy bã thuốc, khiến cho lớp học, trường học và cả bình nguyên, ban ngày ban đêm đều là mùi thuốc bắc vừa thơm vừa đắng, như thể trường tiểu học Đinh Trang là một tiệm thuốc bắc vậy. Đun thuốc xong, mỗi người đều uống xong, cuối cùng cũng đi ngủ. Lục tục đi ngủ cả. Trong sân trường trở nên yên tĩnh như bên ngoài. Bên ngoài cũng yên tĩnh như trong sân. Chỉ có ngọn gió mùa đông, thổi như huýt sáo ở sân trường.
Chú hai sống ở trong phòng của ông, chuyển chiếc bàn vốn để rất nhiều vở bài tập đi, kê một chiếc giường dưới cửa sổ, thế là sống cùng ông. Tống Đình Đình về nhà mẹ đẻ của thím rồi. Thím vừa về ố ố
nhà mẹ đẻ là chú tôi đã hoang mang, nói: “Bố, con bảo bố nói chuyện với Đình Đình, bố đã nói chưa?”
“Nói gì?”
“Nói con chết rồi cũng không được cho cô ấy lấy chồng.” “Con ngủ đi!”
Hai bố con họ không nói tiếp nữa. Trong tiết trời lạnh lẽo âm u, bóng tối trong phòng trở nên nặng nề đặc quánh, không khí chảy trong căn phòng đặc quánh như keo. Đêm đã rất sâu rồi, sâu như cái giếng khô. Trong đêm khuya vừa sâu vừa tĩnh đó, chú tôi nghe thấy hình như có tiếng bước chân ở bên ngoài, nghe kĩ một lúc, lại trở mình trên giường hỏi: “Bố, bố nói trong cả đám người bệnh nhiệt này ai là kẻ trộm?”
Chờ ông tôi trả lời, nhưng lại nghe thấy trong cái yên tĩnh như lòng giếng cạn hình như có tiếng bước chân.
Chú tôi cảnh giác nói: “Bố… bố ngủ rồi à?”
Vẫn không có hồi đáp.
Vẫn không thấy ông có động tĩnh gì, chú liền chầm chậm xuống giường, chú muốn đi ra sân xem một chút, xem ai đem đồ ăn trộm đặt trong sân. Liền lặng lẽ khoác áo xuống giường. Lúc sắp đi, ông tôi trở mình trên giường.
“Con đi đâu?”
“Bố vẫn chưa ngủ sao?”
“Bố hỏi con đi đâu?”
“Đình Đình hôm nay lại về nhà mẹ đẻ, con không sao ngủ được.” Ông liền trở người ngồi dậy trên giường: “Con ơi, sao con cứ kém cỏi như thế?”
Chú tôi nói: “Bố, con nói thật với bố, trước khi Đình Đình lấy con, cô ấy đã từng tìm được nhà chồng rồi. Gã đó ở cùng thôn với nhà mẹ cô ấy.”
Ông tôi không nói gì nữa, nhìn chú hai tôi trong bóng đêm, giống như nhìn một cái cột bị khói hun đen. Nhìn một lúc, ông nói một câu: “Thuốc bắc nấu hôm nay con đã uống chưa?”
“Đừng giấu con nữa, con biết là bệnh này không chữa được.”
“Không chữa được thì cũng thử chữa.”
“Kệ nó, không chữa được là không chữa được, chỉ cần con có thể truyền căn bệnh này lên người Đình Đình, để cô ấy không lấy chồng được nữa, thì có chết con cũng yên tâm.”
Ông giật sững người, trong lúc ông đang ngạc nhiên, chú hai đã mặc áo bông của chú ra ngoài. Ra sân trường, trong sân trường to rộng, ánh trăng kết lại trên mặt đất như lớp băng mỏng. Như đang trải một lớp pha lê mỏng. Chú cẩn thận nhón chân đi, như sợ giẫm vỡ tấm pha lê đó, thử đi hai bước, dừng lại nhìn dãy nhà phía chính tây ở đằng kia. Hai tầng lầu. Vốn là lầu học, bây giờ mỗi phòng học đều có năm, tám người đàn ông hoặc phụ nữ ở, nó đã trở thành nhà của các bệnh nhân bệnh nhiệt. Còn là nhà của kẻ trộm. Họ đều đã ngủ rồi. Mấy chục người đều đã ngủ rồi, có thể nghe thấy tiếng ngáy ngủ giống như tiếng nước trong kênh, rì rầm rì rầm. Vang lên liên tục. Chú tôi liền đi vào trong bóng ngôi nhà đó, chú nhìn thấy trong bóng ngôi nhà có cái gì đó đen đen, giống như bao gạo mà kẻ trộm đem trả. Liền đi về phía cái vật đen đó.
Đi đến gần, là một người.
Là vợ của em họ chú, là Dương Linh Linh nửa năm trước lấy về thôn.
“Ai?!”
“Em. Anh là anh Đinh Lượng?”
“Linh Linh à, nửa đêm em ở đây làm gì?”
“Em muốn xem Đinh Trang các anh ai là kẻ trộm, ai trộm áo bông của em.”
Chú tôi liền cười: “Em nghĩ giống anh, anh cũng muốn xem ai là kẻ trộm, ai trộm áo bông của em.” Nói rồi chú liền ngồi xuống với Linh Linh. Linh Linh dịch dịch người lên phía trên, họ cùng ngồi với nhau, như hai bao gạo dựng cạnh nhau. Ánh trăng rất sáng, có thể nhìn thấy mèo hoang và chuột hoang chạy ở phía xa trong sân trường, có thể nghe thấy tiếng chân mèo hoang và chuột cọ lạo xạo trên nền đất cát của sân bóng. Chú tôi nói: “Linh Linh, em sợ không?” Linh Linh nói: “Trước đây cái gì cũng sợ, nhìn thấy người ta giết gà em đã
ề
mềm nhũn cả chân, nhưng từ khi bán máu, gan cũng to lên, bây giờ biết mình có bệnh này, thì không sợ gì nữa cả.”
Chú tôi nói: “Sao em lại bán máu vậy?”
Linh Linh nói: “Muốn mua một chai dầu gội đầu. Thôn em có một cô nương dùng dầu gội đầu gội tóc khiến tóc mượt như nước chảy, em cũng muốn dùng một chút, cô ấy nói đó là chai dầu gội đầu mà cô ấy phải bán máu mới mua được. Em liền đi bán máu để mua dầu gội đầu.”
Linh Linh nói xong, chú tôi nhìn bầu trời như làn nước màu lam: “Vậy à?”
“Sao anh lại bán máu?”
“Anh trai anh là đầu nậu máu, thấy người khác đều bán cho anh ấy nên anh cũng bán.”
Linh Linh nhìn chú tôi một lát:
“Mọi người đều nói anh trai anh làm bậy, lấy của người ta một bình máu thực ra đều là một bình rưỡi.”
Chú tôi liền cười. Cười với Linh Linh, không nói chuyện máu nữa, dùng cùi chỏ chạm vào cùi chỏ của Linh Linh, cười nói: “Người ta lấy áo bông của em, em sẽ không đi trộm đồ của người ta chứ?” Linh Linh nói: “Làm người phải giữ tiếng chứ.”
“Sắp chết rồi, còn quan tâm giữ cái tiếng hão làm gì.” Chú tôi nói: “Tiếng của em tốt, nhưng chồng Tiểu Minh của em chẳng phải vừa nghe em có bệnh nhiệt đã tát em một cái sao? Em mắc bệnh, không thương xót, lại còn tát em ác thế.” Chú tôi nói: “Đó là em. Nếu là anh, có bệnh anh cũng không nói với chồng, không truyền bệnh nhiệt này cho hắn ta không được.”
Linh Linh nhìn chú hai tôi có chút kinh ngạc, như nhìn một người mà cô căn bản không hề quen biết, tránh người ra xa, như tránh một tên trộm.
“Anh truyền cho chị dâu rồi?”
“Sớm muộn cũng có ngày đó.”
Nói xong, chú tôi liền ngồi lên chỗ thoát nước láng xi măng dưới mái hiên, dựa lưng vào tường gạch, đầu ngửa lên trời. Khí lạnh trên
ấ ấ ố
tường gạch, rất nhanh thấm qua áo bông của chú xuyên qua sống lưng chú, làm cho sống lưng chú có một luồng khí lạnh xuyên qua, như có một luồng nước băng giá chảy qua sống lưng của chú. Chú liền để mặt song song với trời, không nói gì, nhưng lại có hai hàng nước mắt chảy xuống từ mặt chú.
Linh Linh không nhìn thấy nước mắt của chú, nhưng cô nghe thấy giọng chú như muốn khóc.
Cô liền ngẩng đầu lên nhìn chú: “Anh hận chị dâu em?” Chú tôi lau nước mắt: “Chị dâu em trước đây rất tốt với anh, nhưng anh có bệnh thì không tốt với anh nữa,” rồi quay đầu đi chỗ khác, nhìn vợ của người em họ trong bóng đêm. “Nói em đừng cười,” chú tôi nói, “Linh Linh à, nói em đừng cười, từ khi anh có bệnh, chị dâu em không cho anh chạm vào người cô ấy. Em nói xem, anh còn chưa đến ba mươi.”
Linh Linh lại cúi đầu xuống, như sắp chạm vào nền đất vậy. Cô lặng im không nói một hồi lâu. Chú tôi không nhìn thấy màu đỏ dồn lên, hơi nóng dồn lên trên mặt cô, chờ một hồi rất lâu, lâu như chờ Tết đến, sắc đỏ đó mới biến mất, hơi nóng mới nguôi dần, cô ngẩng đầu liếc chú hai tôi một cái, chầm chậm khe khẽ nói: “Anh Đinh Lượng, đều giống nhau thôi, nói anh cũng đừng cười, em có bệnh Tiểu Minh cũng không đụng vào em một cái. Em mới hai mươi tư, vừa qua hai mươi tư, kết hôn mới mấy tháng.”
Cuối cùng, hai người cũng nhìn nhau.
Nhìn nhau rất gần. Mặt trăng đã di chuyển ra ngoài trường học, nhưng sân trường vẫn sáng như thế. Nước lãng đãng trên nền đất sáng. Lãng đãng tỏa sáng, như kết một tầng băng mỏng. Như trải một tầng pha lê mỏng. Bởi vì sáng, dưới bóng tối của lầu học, họ mới thể nhìn nhau rõ ràng như vậy. Chú tôi nhìn thấy mặt Linh Linh giống một quả táo chín. Chín mọng rồi, chín đến mức mọc đốm rồi. Đó chính là những cái mụn do bệnh nhiệt nổi trên mặt cô. Nhưng trên quả táo đó, có khi mấy cái đốm đó sẽ làm cho nó có hương vị và vẻ đẹp khiến người ta thương xót. Chú tôi nhìn Linh Linh như nhìn một quả táo chín đến mức có đốm, ngửi thấy trên người cô ngoài mùi mụn nhọt, còn có mùi vị thanh xuân của thiếu nữ chưa chồng không thể nào ngăn nổi, như mùi nước trong chưa bị người ta nhúng đục; ế
lại như có mùi vị đàn bà vừa mới kết hôn, như nước trong bị người ta nhúng tay vào.
Chú tôi hắng giọng một cái, dũng cảm nói:
“Linh Linh, anh muốn nói với em một chuyện.”
Cô liền hỏi:
“Chuyện gì?”
Chú tôi đột nhiên nói:
“Mẹ kiếp, chi bằng chúng ta làm chuyện tốt đẹp đi.”
Linh Linh ngạc nhiên:
“Chuyện tốt đẹp gì?”
Chú tôi nói:
“Đều là người đã kết hôn, người sắp chết, muốn tốt gì thì cùng tốt cái đó.”
Linh Linh lại kinh ngạc nhìn chú hai tôi, như nhìn một người mà cô không quen biết.
Quá nửa đêm, trời lạnh lắm, mặt chú hai có chút xanh, trong sắc xanh đó, những nốt mụn bệnh nhiệt như những viên đá vùi dưới lớp băng. Linh Linh nhìn chú hai tôi, chú hai cũng nhìn cô, ánh mắt họ chạm nhau trong ánh trăng. Cuối cùng, cuối cùng cô không chịu nổi ánh mắt của chú hai. Hai mắt của chú hai như hai cái động đen ngòm, muốn nuốt chửng cả người cô. Cô không thể không cúi đầu lần nữa.
“Anh Đinh Lượng, anh quên mất Tiểu Minh là em con chú của anh sao?”
“Nếu Tiểu Minh đối tốt với em, thì anh đã không có ý nghĩ đó.” Chú tôi nói: “Nhưng Tiểu Minh không tốt với em. Còn đánh em. Tống Đình Đình không tốt với anh như vậy anh còn chưa bao giờ đánh cô ấy.”
“Tốt xấu gì anh cũng là anh của anh ấy, anh ấy là em anh.” “Anh em gì, anh và em đều là người sắp chết.”
“Người khác mà biết sẽ róc da anh và em mất.”
“Róc thì róc, dù sao anh với em cũng đều là người sắp chết.”
“Người khác quả thực sẽ róc da anh và em.”
“Dù sao cũng đều là người sắp chết. Người khác biết hai chúng ta cùng chết là được.”
Linh Linh lại ngẩng đầu nhìn chú hai tôi, như thể muốn biết rõ chú hai tôi có phải là người nói chết là chết như chú nói không. Cô liền nhìn thấy khuôn mặt xanh xao ban ngày của chú bây giờ không xanh nữa, nó trở thành một vòng đen mơ hồ trong bóng tối mơ hồ. Nhưng trong cái mơ hồ đó, chú hai đang nói chuyện, hơi trắng nóng hổi từ miệng chú phun ra, phun lên mặt Linh Linh, giống như hơi nước ấm áp phun lên mặt cô.
Linh Linh hỏi: “Anh chết rồi có chôn cùng với em không?” Chú tôi nói: “Mong sao có thể chôn cùng với em.”
Linh Linh nói: “Tiểu Minh nói với em, nói anh ấy có chết cũng không chôn cùng một chỗ với em.”
Chú tôi nói: “Anh tha thiết được chôn cùng một chỗ với em.” Nói rồi chú liền dịch dịch người về phía Linh Linh.
Chú liền thử ôm chặt lấy Linh Linh. Đầu tiên là nắm lấy tay cô, sau đó thì ôm chặt lấy cô. Như ôm một con cừu non nửa đời đi tìm nhà của mình, ôm thật chặt, như sợ cô hối hận mà chạy mất. Cô cũng để mặc chú ôm, khẽ tựa vào lòng chú. Đêm đã sắp vào sâu lắm rồi. Sâu đến mức như trời sắp sáng, sắp sang ngày hôm sau rồi. Sự tĩnh lặng trên bình nguyên lúc này, có thể nghe thấy tiếng chuyển động của khí đêm. Chỗ tuyết dồn lại dưới bóng cây, lúc này đã sắp đông lại. Tiếng tuyết đóng băng như có vô số vô số hạt băng đang chuyển động trong không khí, khe khẽ nhè nhẹ chạm vào tường, trượt xuống rơi trên người chú tôi và Linh Linh, và mặt đất xung quanh, kêu lạo xạo lạo xạo.
Họ cứ ngồi tựa một lúc như thế, không nói gì rồi đứng dậy khỏi mặt đất.
Không nói gì, rồi đi vào một gian phòng bên cạnh nhà bếp. Cạnh nhà bếp có một gian phòng, nhà kho, để lương thực và đồ lặt vặt của bệnh nhân bệnh nhiệt. Họ không nói gì, liền đi vào trong gian phòng đó.
ấ ề ấ ấ ề
Trong phòng ấm áp, vào đó họ liền ấm lại. Người ấm lên, họ liền nắm chặt lấy ý vị của sự sống.
3
Ánh mặt trời sáng tỏ đã chiếu ấm Đinh Trang.
Chỉ trong một đêm, hoa khắp bốn phương tám hướng đều tưng bừng nở rộ. Trên đường thôn, trong góc sân, trên ruộng nương ở đầu thôn, cả trên cổ đạo Hoàng Hà ở phía xa kia, hoa cúc, hoa mai, mẫu đơn, thược dược, hoa hồng, còn có hoa nghênh xuân mọc hoang, hoa phong lan, cỏ mã đề, bồ công anh, cỏ đuôi chó, bình thường đều nở ở nơi đồi hoang dốc núi, bây giờ xanh thắm, đỏ, vàng, hồng, tím, trắng, còn có những bông hoa không rõ tên nửa tím nửa đỏ, nửa hồng nửa xanh, nửa lục nửa lam, nửa xanh thẫm xen chút xanh nhạt, to thì như cái bát, nhỏ thì như cái cúc, đồng loạt ầm ầm ra hoa, ngay cả trên tường chuồng lợn của các nhà các hộ, rào dậu của chuồng gà và bên máng trâu cũng đều bừng rộ những bồng hoa đủ màu đủ sắc. Có mùi hoa thơm nhức mũi điên cuồng chảy trong thôn, như nước lũ có mùi thơm tràn dâng khắp Đinh Trang. Ông tôi không biết vì sao trăm hoa nghìn cỏ này lại cùng bừng nở trong một đêm như vậy, ông tò mò bước men theo con đường từ phía đông sang phía tây thôn, nhìn thấy chủ nhân các nhà, người lớn và trẻ em, trên mặt đều nở nụ cười, vội vã đi đi lại lại trên con đường thôn trải hoa, có người gánh hai cái làn dùng chăn và quần áo che lên, có người vác một cái túi bó miệng, ngay cả những đứa trẻ trai trẻ gái mới mấy tuổi cũng ôm bọc gì đó vuông chằn chặn nặng trình trịch bên trong. Bạn hỏi họ làm gì, bận gì, họ đều không nói, chỉ vội vã đi về nhà, rồi lại vội vã từ nhà đi ra, nói là đi nhưng thực ra không khác chạy là mấy.
Từ giữa con đường thôn đầy hoa, ông tôi liền bước ra theo họ, đến đầu thôn phía tây mới nhìn thấy đồng ruộng bên ngoài thôn đều nở đầy hoa, hoa phủ khắp đất trời, mênh mông không dứt như một biển hoa. Từ đầu thôn nhìn ra, biển hoa bằng phẳng đó dập dờn trong gió, diễm lệ mênh mông nhuộm không gian thành màu đỏ, màu vàng nhạt, còn những người trong thôn đang bận rộn kia, mỗi nhóm ba người hoặc năm người đều ở trong ruộng nhà mình, đàn ông thì đang giơ cuốc cầm xẻng, đào hoặc bới bên dưới những cây hoa đó, giống như bới khoai lang trước khi vào đông. Giống như bới lạc. Ông tôi đứng ở đầu thôn, nhìn thấy Lý Tam Nhân vốn rất ít nói chuyện, lúc này cũng bận rộn như mọi người, nụ cười nở trên mặt, mồ hôi chảy trên trán, đang cong mông lên đào xới từng nhát xẻng trong ruộng nhà mình, không ngừng khom lưng đập đập giũ giũ những
ồ
hoa quả vừa đào được đó, rồi lại vứt hoa quả đó sang một bên, sau đó lại bận rộn đi đào cây hoa khác. Chờ khi đào được mười mấy cây, hai mươi mấy cây, ông ngồi xuống cùng với vợ mình, các con mình, đem những đồ đã đập xong cho vào trong giỏ nhặt. Nhặt xong, lại dùng chăn đậy lên giỏ, rồi gánh hai cái giỏ nặng trình trịch đó về nhà, vừa đi vừa lảo đảo, như thể sẽ ngã ngay lập tức, nhưng ông gồng người lên để mình không bị ngã.
Lý Tam Nhân là Trưởng thôn cũ của Đinh Trang. Ông ta chỉ nhỏ hơn ông tôi hai tuổi, từng nhập ngũ, nhập ngũ ở thành Hàng Châu thiên đường phương Nam, trong khu doanh trại dùng lưới thép quây lại đó, ông đã vào Đảng, đã lập công, khi quân đội muốn đề bạt ông, ông đột nhiên bừng ngộ, liền cắn nát ngón tay viết cho thượng cấp một bức thư. Quyết tâm thư bằng máu. Nói ông nhất định phải trở về thôn, phải biến thôn mình trở thành một tiểu Giang Nam.
Liền từ bộ đội trở về.
Trở thành cán bộ thôn.
Làm cán bộ thôn mấy chục năm, dẫn người trong thôn đi ủ phân, trồng trọt, tưới tiêu và thu hoạch bất kể ngày đêm. Bên trên bảo xới đất thì xới đất, bảo trồng bông thì có phải đạp lên lúa mạch cũng phải trồng bông, nhưng qua mấy chục năm, mấy chục năm qua đi như mặt trời mọc rồi lại lặn, trong thôn vẫn hệt như mấy chục năm trước, ngoài việc người nhiều lên, nhà ngói chẳng nhiều thêm gian nào. Máy móc chẳng nhiều hơn một cỗ. Máy xay chẳng nhiều hơn một chiếc. Máy cày có tay đỡ[7], cũng chẳng nhiều hơn. So với các thôn Liễu, Hoàng Thủy, Lý Nhị, thì Đinh Trang vẫn nghèo như vậy. Đinh Trang vẫn nghèo rớt mồng tơi, cuối cùng có người nhổ nước bọt lên mặt ông, nói: “Lý Tam Nhân, ông còn có mặt mũi làm cán bộ nữa sao?”
Nói: “Lý Tam Nhân, ông làm Trưởng thôn và Bí thư chi bộ mấy chục năm, nhà tôi mấy chục năm Tết không được ăn no một bữa bánh chẻo.”
Cuối cùng, lúc bán máu đó ông liền bị cách chức.
Cuối cùng, ông liền trở thành người rất ít nói.
Cuối cùng, mặt ông luôn mang vẻ xám xịt của người bị kẻ khác dùng dép đánh.
ố ấ ố ầ ầ
"""