" Điều Tra Hiện Trường Án Mạng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điều Tra Hiện Trường Án Mạng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo MỤC LỤC TÁC GIẢ: TÁC PHẨM: CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 ĐIỀU TRA HIỆN TRƯỜNG ÁN MẠNG NHỮNG TỘI ÁC KHÔNG HOÀN HẢO HỨA ĐẠI BẰNG TÁC GIẢ: Tác giả sách tâm lí học, chuyên nghiên cứu tâm lí học tội phạm và tâm lí học đại chúng, đã lên kế hoạch và xuất bản hơn chục cuốn sách tâm lí học. TÁC PHẨM: Cuốn sách này sẽ đưa bạn trở về với hiện trường vụ án, bước vào thế giới huyền bí của việc phân tích tâm lí tội phạm, để bạn hiểu được thế giới nội tâm của tội phạm thông qua những tình tiết vụ án kì quái, hé lộ nội tâm được bao phủ bởi tầng tầng lớp lớp máu tươi cùng sự ghê sợ. Bạn sẽ thấy nó rất nhiều động cơ phạm tội đáng kinh ngạc, đồng thời thấy được tác động của những trải nghiệm thời thơ ấu đối với con người. LỜI NÓI ĐẦU Từ xưa đến nay, phạm tội vẫn được coi là hành vi xấu xa, độc ác có thể mang đến mối nguy cơ lớn đối với an ninh trật tự xã hội. Các nước trên thế giới đều đang không ngừng cố gắng để có thể ngăn chặn triệt để những hành vi phạm tội. Thí dụ như nước Mỹ lập ra Cục Điều tra Liên bang (FBI) , đây chính là cơ quan có chức năng đối phó với các hành vi phạm tội. Bắt đầu từ thế kỉ 20, các quốc gia trên thế giới xuất hiện hàng loạt tội phạm với thủ đoạn gây án vô cùng tàn nhẫn, bởi vì những tên tội phạm này liên tục gây ra các vụ án giết người trước khi bị cảnh sát vây bắt, vì thế chúng được gọi là sát thủ liên hoàn. Những tên sát thủ liên hoàn này đều là những kẻ coi mạng người như cỏ rác, trong quá trình gây án, chúng thường dùng các thủ đoạn vô cùng tàn nhẫn để hành hạ, tra tấn nạn nhân. Có thể nói, tâm lí của những tên sát thủ liên hoàn này rất bất thường, trong số chúng, có tên là kẻ tâm lí biến thái, có tên mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội, còn có những tên là người cực kì tàn nhẫn, cực kì máu lạnh. Có thể khẳng định chắc chắn rằng, tâm lí của những kẻ này hoàn toàn khác với tâm lí của người bình thường, vì thế nên chúng có thể gây ra các hành vi tàn nhẫn đến nỗi người bình thường thậm chí còn không dám nghĩ tới. Cũng chính vì nguyên nhân này, khi những tên sát thủ liên hoàn vừa mới bắt đầu điên cuồng gây án, cảnh sát chưa thể nào bắt chúng ngay được. Trừ phi tên sát thủ sau khi liên tục gây án có để lại một số manh mối quan trọng hoặc chứng cứ mang tính then chốt thì cảnh sát mới có thể nhanh chóng phá án được. Có điều tình huống đó rất hiếm gặp, bởi vì tâm tư của những tên sát thủ liên hoàn đều rất chặt chẽ, cẩn trọng. Thật ra trong quá trình điều tra và giải quyết các vụ án giết người tàn ác, phía cảnh sát luôn có quy trình cố định. Khi có vụ án giết người, cảnh sát sẽ từng bước thu thập chứng cứ và truy tìm hung thủ theo đúng quy trình. Nhưng nếu như hung thủ là tên tội phạm có kinh nghiệm, đã quá quen thuộc với quy trình phá án của cảnh sát, thì hắn sẽ xóa sạch hết mọi chứng cứ ở hiện trường ngay sau khi gây án. Để đẩy mạnh hiệu suất phá án của cảnh sát, các nước trên thế giới đều lập ra các đơn vị chuyên nghiên cứu về hành vi phạm tội và tâm lí tội phạm, gần như cùng lúc đó, tâm lí học tội phạm cũng ra đời. Có được sự hậu thuẫn của chuyên ngành này, khi gặp phải những vụ án giết người kì lạ và những tên sát thủ liên hoàn, cảnh sát sẽ có thể nhanh chóng tìm thấy manh mối quan trọng, sau đó bắt hung thủ về quy án. Các chuyên gia am hiểu về tâm lí tội phạm có thể căn cứ vào những chứng cứ còn lại tại hiện trường gây án và đặc điểm gây án để phán đoán các động thái tâm lí của hung thủ. Nhờ sự trợ giúp từ những kết quả phán đoán này, cảnh sát được chuẩn bị trước, thậm chí còn có thể bày ra những cạm bẫy để chờ hung thủ tự sa vào lưới. Không chỉ nghiên cứu động thái tâm lí của hung thủ, các chuyên gia tâm lí tội phạm còn tổng kết lại động cơ gây án của hung thủ cũng như nguyên nhân khiến cho hung thủ bước vào con đường phạm tội, đồng thời từ đó tìm ra các tín hiệu cảnh báo trước khả năng gây án của hung thủ, nhằm ngăn chặn những việc không hay xảy ra. Trong cuốn sách này, tác giả sẽ cho mọi người thấy các vụ án giết người dã man và các vụ án giết người hàng loạt nổi bật. Thông qua các vụ án thật từng xảy ra này để phân tích thế giới nội tâm của hung thủ. Phải biết rằng, hung thủ gây nên các vụ án như thế này thường là kẻ có vấn đề về tâm lí, thế nhưng, mức độ bất thường trong tâm lí của chúng có sự chênh lệch khác nhau, khuynh hướng lệch lạc trong tâm lí bất thường cũng khác nhau. Có điều trong mắt chuyên gia tâm lí tội phạm, những hành vi của hung thủ đều có thể lí giải được, khi phân tích tâm lí gây án của những tên hung thủ đó, cũng có thể rút ra được một số kết luận, mà những kết luận này có thể vạch trần bản chất xấu xa độc ác của những tên hung thủ giết người và nguyên nhân gốc rể khiến chúng phạm tội. CON QUỶ SÁT NHÂN MẮC CHỨNG ÁI NHI CHƯƠNG 1 Quận Kootenai nằm ở tiểu bang Idaho miền Tây Bắc nước Mỹ, nơi đây có một thị trấn nhỏ tên là Edward. Trấn này nằm kề núi liền sông, phong cảnh vô cùng xinh đẹp. Bốn bề của trấn đều nhìn ra núi, trong trấn còn có một cái hồ lớn. Nước hộ trong vắt, thủy sản phong phú nên hằng năm đều có rất đông du khách tới đây bơi lội, câu cá. Mặc dù phong cảnh thiên nhiên nơi đây vô cùng xinh đẹp, song cũng bởi thuộc khu vực này nên nơi đây không có đông người dân sinh sống lâu dài. Dân trong trấn hầu như đều quen biết lẫn nhau, quan hệ hàng xóm láng giềng rất tốt, vì thế rất hiếm khi xảy ra các vụ án hình sự, bình yên, an lạc chính là phong cách sống của vùng này, nhưng dạo gần đây, tất cả mọi thứ đã thay đổi. Cảnh sát quận Kootenai nhận được một cuộc điện thoại báo án vô cùng kì lạ, người báo án là Robert Linsworth, một người dân thường trú ở địa phương này. Trong cuộc gọi điện báo án, Robert nói với cảnh sát rằng khi anh ta đi ngang qua nhà hàng xóm thì thấy trên cửa nhà đó có vết máu. Robert không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vì thế cũng không dám đường đột xông vào trong nhà để xem xét tình hình, nhưng anh ta rất lo lắng cho an nguy của hàng xóm, vì vậy mới gọi điện báo cảnh sát. Sau khi nhận được điện thoại báo án, cảnh sát quận Kootenai đã ngay lập tức phái đội cảnh sát tuần tra đi tới địa điểm xảy ra sự vụ để xem xét tình hình. Trong lúc đi đến hiện trường, cảnh sát đã điều tra và biết được rằng căn nhà đó đứng tên Brenda Groene. Cô ấy sống cùng bạn trai là Mark McKenzie và ba đứa trẻ vị thành niên (Slade 13 tuổi, Dylan 9 tuổi và Shasta 8 tuổi). Viên cảnh sát tuần tra đi tới hiện trường lúc đó rất thân quen với gia đình Brenda, hầu như ngày nào anh ấy cũng đi qua nhà họ. Cảnh sát tuần tra tới hiện trường bằng tốc độ nhanh nhất. Sauk hi đến gần căn nhà, anh đã lập tức phát giác ra điểm khác thường. Bên trong căn nhà vô cùng yên tĩnh, kiểu yên tĩnh này nghĩa là đã có chuyện chẳng lành. Sau khi nhìn thấy vết máu đỏ thắm trên cánh cửa, cảnh sát tuần tra lập tức rút súng ra, kiểm tra kĩ càng xung quanh căn nhà. Cửa chính của căn nhà khóa chặt, trên cánh cửa và mặt đất phía trước cửa có vết máu lớn đã khô, cửa sổ xung quanh căn nhà vẫn còn nguyên vẹn, không có dấu vết bị lực mạnh tác động. Đến khi cảnh sát vòng ra phía sau căn nhà, anh ấy phát hiện cửa sau của căn nhà không hề đóng. Viên cảnh sát tuần tra chú ý thấy, phần tay nắm bên ngoài và xung quanh tay nắm của cửa sau căn nhà cũng có vết máu. Qua cánh cửa sau khép hờ này, cảnh sát tuần tra có thể thấy được thấp thoáng tình huống bên trong căn nhà. Giây phút này, tâm trạng bất an trong lòng viên cảnh sát tuần tra lại càng tăng vọt, để chắc chắn, anh lập tức báo cáo lên cấp trên về tình huống tại hiện trường và xin chi viện, thế là sở cảnh sát lại phái thêm một đội nữa đến chi viện. Khi đội chi viện tới nơi, điều tra viên mới cẩn trọng từng bước đi vào trong căn nhà từ cửa sau. Vừa mới đi qua góc nhà, điều tra viên đã trông thấy một người đàn ông nằm sấp, úp mặt trên nền nhà. Chỉ nhìn từ xa thôi, điều tra viên đã khẳng định người đàn ông này đã thiệt mạng. Phần đầu của anh ta bị dập nát, máu chảy lênh láng trên sàn nhà. Điều kì lạ hơn là hai tay người đàn ông còn bắt chéo sau lưng, nơi cổ tay bắt chéo vào nhau có dán băng dính. Đi qua thi thể của nạn nhân nam giới này, điều tra viên lại nhìn thấy một nạn nhân là nữ giới, đầu của cô ấy đặt dưới chân trái của nạn nhân nam, thi thể được nằm ở lối đi vào gian phòng tiếp theo, tạo thành một góc vuông 900 với thi thể trước. Nạn nhân nữ này cũng nằm sấp trên nền nhà, phần đầu của cô ấy cũng bị đập nát. Phía sau thi thể của nạn nhân nữ là thi thể của một nạn nhân nam khác. Đầu của thi thể này kề bên chân phải của nạn nhân nữ, thi thể ở trong gian phòng thứ hai, cũng tạo thành một góc vuông 900 với thi thể của nạn nhân nữ, đồng thời song song với thi thể của nạn nhân nam ở trong gian phòng đầu tiên. Sau khi xác nhận có người tử vong, cảnh sát ngay lập tức dùng dây cảnh báo màu vàng phong tỏa căn nhà lại, bảo vệ nghiêm ngặt hiện trường vụ án. Sau khi kiểm tra sơ bộ hiện trường gây án, điều tra viên phán đoán ra thân phận của ba nạn nhân, họ chính là Mark McKenzie, Brenda Groene cùng con trai lớn của cô ấy - Slade Groene. Trong căn nhà khắp nơi đều là vết máu, hầu như phòng nào, mặt tường nào cũng có vết máu bắng tung tóe. Những vết máu đặc trưng này thông thường chỉ xuất hiện ở những hiện trường phạm tội bạo lực cực đoan, điều này cũng có nghĩa là trước khi chết, nạn nhân đã phải chịu đựng sự tra tấn tàn bạo. Điều tra viên đã kiểm tra kĩ lưỡng từng gian phòng trong căn nhà xảy ra án mạng, họ không tìm thấy thi thể của Dylan và Shasta. Mặc dù trong phòng của Dylan và Shasta cũng có rất nhiều vết máu, trên gối của hai đứa trẻ cũng có đầy vết máu loang lỗ, song, cảnh sát vẫn không muốn tin rằng hai đứa bé chưa đầy 10 tuổi này đã mất mạng. Họ hi vọng rằng hai đứa bé có thể trốn thoát khỏi kiếp nạn này, mong sao hai đứa nhỏ có thể trốn được tên sát thủ để chạy thoát ra khỏi căn nhà, nấp trong rặng cây phía sau căn nhà. Trước mắt, cảnh sát vừa phải tìm ra tên hung thủ thực sự đã sát hại ba nạn nhân, vừa phải nhanh chóng kiếm được tung tích của Dylan và Shasta. Phía cảnh sát lập tức điều một bộ phận cảnh sát tuần tra triển khai tìm kiếm, nhưng lần hành động này không hề phát hiện được dấu vết của hai đứa trẻ bị mất tích. Sắc trời dần tối, bọn họ vẫn chưa có bấy cứ manh mối nào, trong tình thế như vậy, cảnh sát quyết định tìm kiếm sự trợ giúp từ Cục Điều tra Liên bang (FBI). Sau khi nắm được thông tin vụ án, FBI đã lập tức phái chuyên gia tâm lí tội phạm Donald Robinson đến hỗ trợ cảnh sát điều tra phá án. Thời điểm Donald tham gia vào công cuộc điều tra đã ngay lập tức đưa ra một khả năng: Liệu hai đứa trẻ bị mất tích có ở với bố đẻ của chúng hay không? Cảnh sát nhanh chóng liên hệ được với bố đẻ của hai đứa trẻ bị mất tích là Steven Growney, Steven vô cùng đau đớn, nhưng đồng thời cũng nói rằng mình không biết gì về tung tích của hai đứa trẻ, thế là họ đành chuyển hướng sang hỏi thăm bạn bè thân thiết của nạn nhân, hi vọng có thể tìm được manh mối từ mấy người này. Cảnh sát đã điều tra tất cả những nơi có thể, song, hai đứa trẻ vẫn bặt vô âm tín. Bây giờ bọn họ đã có lí do để tin rằng, hai đứa trẻ có thể đã bị bắt cóc hoặc bị sát hại. Cảnh sát ngay lập tức ra thông báo, dán giấy tìm người, huy động người dân giúp đỡ tìm kiếm hai đứa trẻ bị mất tích. Tất cả người dân quận Kootenai đều tham gia tìm khắp hang cùng ngõ hẻm, dốc sức kiếm hai đứa trẻ, nhưng công cuộc tìm kiếm trên diện rộng này vẫn không có được bất cứ thu hoạch nào. Cùng lúc đó, các nhân viên khám nghiệm hiện trường vẫn đang kiểm tra sát sao hiện trường vụ án, họ phải tìm ra manh mối giúp cảnh sát phá án từ hiện trường, cùng những bằng chứng thép để cáo buộc nghi phạm. Mặc dù hiện trường vụ án vô cùng đẫm máu, nhưng hung thủ lại vô cùng cẩn thận, xóa sạch hết mọi manh mối quan trọng. Tới tận lúc quy trình khám nghiệm hiện trường kết thúc, cảnh sát vẫn chưa có được bất cứ manh mối nào. Trong tình hình đó, kể cả những cảnh sát và chuyên gia tâm lí tội phạm lão luyện với kinh nghiệm dày dạn cũng không còn cách nào. Tội phạm vẫn đang chạy trốn, hai đứa trẻ mất tích vẫn chưa tìm thấy, điều này khiến cho người dân nơi đây vô cùng hoang mang, sợ hãi. Không thứ gì có thể xua tan được cảm xúc này, trừ phi cảnh sát có thể tìm ra được tên hung thủ gây ra tất cả mọi chuyện. Thực tế, trong đa số các vụ án mạng, hung thủ rất có khả năng sẽ để lại chứng cứ then chốt ở hiện trường gây án. Thí dụ, có thể hung thủ sẽ lưu lại dấu vân tay trên cửa sổ hoặc trên vật dụng nào đó ở hiện trường, cũng có thể sẽ để lại chứng cứ có vết máu hoặc dấu giày, dấu chân hoặc DNA ở hiện trường gây án. Ngoài ra, đa số án mạng đều có người chứng kiến, họ cũng là nhân chứng quan trọng để giúp cảnh sát phá án. Song, trong vụ án này, cho đến nay cảnh sát vẫn không có được bất cứ manh mối nào, đây cũng là nguyên do khiến vụ án không có tiến triển. Trong tình huống không có bất cứ một manh mối nào như vậy, Donald kiến nghị rằng có thể bắt đầu điều tra từ chính nạn nhân. Có điều công cuộc điều tra này khá mất thời gian, mà việc điều tra vụ án nghiêm trọng lại cần càng nhanh càng tốt. Phải biết rằng, càng để lâu thì xác suất trốn thoát khỏi lưới pháp luật của hung thủ càng lớn. Để có thể bắt được hung thủ về chịu án, cảnh sát đã huy động một lực lượng hùng hậu để tham gia vào công tác điều tra, hi vọng có thể tìm ra manh mối để phá án. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện, Brenda và Mark đã sống chung được gần bảy năm, theo như hàng xóm xung quanh và những người bạn thân thiết phản ánh, hai người chung sống với nhau rất hòa thuận, mặc dù chưa kết hôn nhưng họ rất hạnh phúc. Mark là công nhân chế tạo của một công xưởng, hằng ngày đi làm ở Spock. Từ sau khi chung sống với Mark, Brenda đã xin nghỉ việc để ở nhà làm nội trợ. Mark là người có tính cách đôn hậu, anh rất yêu thương ba đứa trẻ, mặc dù chúng không phải là con đẻ nhưng anh vẫn chăm sóc chu đáo cho cả ba. Nói chung, một gia đình giống như nhà của Mark sẽ không gây thù kết oán với ai, huống hồ Mark còn là một người đàn ông cường tráng, sức dài vai rộng, nhưng các nhân viên điều tra cho rằng, mức độ đẫm máu của hiện trường vụ án cho thấy giữa hung thủ và nạn nhân chắc chắn phải tồn tại mối thù hận sâu sắc nào đó. Donald cũng đồng ý với nhận định này, ông cho rằng, ngoại trừ việc có mối thù sâu sắc với nạn nhân ra, hung thủ còn rất quen thuộc với gia đình nạn nhân, nếu không hắn không thể gây ra một vụ án động trời, tàn bạo, ác liệt, đẫm máu đến như thế trong thầm lặng, không ai hay biết gì. Donald còn đưa ra một giả thiết khác, nếu mục đích của hung thủ là bắt cóc hai đứa trẻ, vậy thì tại sao hắn không tiến hành bắt cóc ngay trên đường bọn trẻ đi học, hoặc nơi nào có thể tránh tiếp xúc với cha mẹ chúng? Hung thủ không làm như vậy vì rất có khả năng hắn đã giết mẹ, bố dượng và anh trai của bọn trẻ ngay trước mặt chúng. Động cơ khiến hung thủ làm như vậy có thể là để trả thù cả gia đình nạn nhân, mà điều này cho thấy mối quan hệ giữa hung thủ và nạn nhân không hề hời hợt. Giả thiết của Donald rất thuyết phục, cảnh sát địa phương đã nhanh chóng hành động, bắt đầu tiến hành điều tra khai thác thông tin trên diện rộng. Lần này, trọng điểm điều tra của cảnh sát nhắm vào mối quan hệ giữa nạn nhân Brenda và chồng trước. Thực tế, khi không có được bằng chứng xác thực, đúng là cảnh sát chỉ có thể thông qua việc điều tra khai thác thông tin từ người có liên quan để tìm ra bước đột phá. Trước mắt, cảnh sát hoài nghi chồng cũ của nạn nhân Brenda có thể là nghi phạm, mà kết quả điều tra thu được sau bước đầu lấy lời khai của mọi người cũng cho thấy suy đoán của cảnh sát là đúng. Hầu như mọi người trong khu này đều nói rằng mối quan hệ giữa nạn nhân Brenda và chồng trước Steven vô cùng tệ. Mặc dù cảnh sát không thể chứng minh Steven chính là hung thủ giết người, nhưng họ có lí do để giám sát Steven. Theo diễn biến của cuộc điều tra, Steven cũng thừa nhận với cảnh sát rằng vài ngày trước khi xảy ra vụ án, anh ta từng tranh cãi kịch liệt với nạn nhân Brenda về chuyện con cái, nhưng anh ta kiên quyế cho rằng vụ án này không hề có liên quan đến mình. Tiếp đó, Steven lại tìm đến sự trợ giúp của cánh truyền thông, anh ta muốn thông qua truyền thông để nhắn tới hung thủ, cầu xin đối phương hãy tha cho hai đứa con tội nghiệp của anh ta. Rất nhiều người đã thấy Steven khóc lóc cầu xin trên truyền hình, nhưng mọi người đều cảm thấy vô cùng mờ mịt, bởi vì Steven đã nói một câu như thế này: “Chúng không liên quan gì tới chuyện này, xin hãy tha cho chúng”. Mọi người đều thấy mịt mờ, hoang mang, không biết “chuyện này” mà Steven nói đến rốt cuộc là gì. Với áp lực từ nhiều phía, Steven đã đồng ý tiếp nhận việc điều tra phát hiện nói dối, nhưng anh ta không vượt qua được cuộc điều tra này. Ngoài ra, canh sát còn phát hiện, khi nhân viên kiểm tra nói dối hỏi anh ta có biết tung tích của bọn trẻ hay không, mạch đập của Steven tăng lên vùn vụt. Sự thay đổi này nghĩa là rất có thể Steven biết tung tích của bọn trẻ, nhưng anh ta vẫn luôn nói dối. Hơn nữa, Steven cũng không thể cung cấp cho cảnh sát bằng chứng ngoại phạm rõ ràng, mặc dù anh ta vẫn luôn nhấn mạnh rằng khi vụ án xảy ra, anh ta đang ở trong nhà một mình, không đi đâu hết, nhưng anh ta không có nhân chứng hoặc vật chứng nào, vì thế cảnh sát không thể tin vào mấy câu nói qua loa lấy lệ ấy được. Để có thể thoát khỏi mối hiềm nghi, Steven lại một lần nữa công khai trên truyền thông rằng, cảnh sát có thể điều tra CCTV và nhật kí cuộc gọi để xác định ngày xảy ra vụ án anh ta vẫn luôn ở trong nhà. Ngoài ra, trong cuộc trò chuyện này, Steven còn nhắc đến hai đứa con đã thành niên khác của mình và Brenda là Jess và Vince. Trong chương trình phỏng vấn đó, Steven không ngừng kể khổ. Anh ta cho biết suốt bao nhiêu năm qua, hai đứa con này vẫn luôn phải chịu sự đối xử bất công, không những không được hưởng tình yêu thương của người mẹ như những đứa trẻ khác, còn thường xuyên bị tố là tàng trữ ma túy. Sau khi chương trình được phát sóng, cảnh sát đã ngay lập tức ý thức được một vấn đề quan trọng, liệu Jess và Vince có tham gia vào vụ án này không. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện Jess có bằng chứng ngoại phạm xác thực, bởi vì lúc xảy ra vụ án, Jess đang ở trong tù. Còn về Vince, cảnh sát phát hiện một tuần trước khi xảy ra vụ án, cậu ta đã chuyển đi, nhưng điều này không thể chứng minh rằng cậu ta không tham gia vào vụ án. Trong quá trình điều tra phá án, cảnh sát cũng nhận được hai cuộc điện thoại tố cáo nặc danh, người tố cáo chỉ đích danh Vince, nói rằng cậu ta có liên quan đến vụ án này. Hiện nay, cảnh sát cần phải làm rõ động cơ giết người của hung thủ, chỉ khi nào có thể xác định chắc chắn động cơ giết người của hung thủ thì mới có thể suy ra được quá trình gây án một cách hợp lí, đồng thời xác định được kẻ tình nghi. Cùng lúc với việc tìm ra động cơ gây án của hung thủ, cảnh sát lại tỉ mỉ điều tra những người có mối quan hệ qua lại về kinh tế với nạn nhân, và những người ra vào ngôi nhà của nạn nhân vài tuần trước khi xảy ra vụ án. Trọng điểm của lần điều tra này rơi vào vài người hàng xóm được mời đến nhà nạn nhân tham gia party trước khi vụ án xảy ra một ngày. Song song với việc tiến hành điều tra, cuối cùng thì cảnh sát cũng tìm thấy được một dấu vân tay ở hiện trường vụ án, qua giám định cho thấy, dấu vân tay thuộc về một nam thanh niên tên là Gerry Youngwood, anh ta cũng tham gia bữa tiệc. Theo đó, cảnh sát lại phát hiện ra người này có tiền án. Theo lời Jess - con trai của Brenda, người này còn nợ mẹ cậu ta và Mark 2000 USD. Trước mắt, cảnh sát mong rằng có thể tìm ra manh mối từ Gerry, cho dù không thể phá được vụ thảm án thì họ cũng hi vọng có thể tìm được tung tích của hai đứa trẻ từ người đàn ông này. Song, khi cảnh sát tìm kiếm hành tung của Gerry, điều tra viên lại phát hiện người này đã mất tích một cách bí ẩn. Để nhanh chóng phá án, cảnh sát quyết định truy tìm theo số điện thoại của Gerry, lại phát hiện thêm lúc đi nghỉ dưỡng ở Boise, Gerry đã từng gọi điện cho gia đình nạn nhân. Bây giờ, điều duy nhất cảnh sát có thể xác định là cho dù chân tướng sự việc ra sao, chắc chắn Gerry biết về vụ án này, mà anh ta đang cố lẩn tránh để không phải tiếp xúc với cảnh sát. Chính vào lúc cảnh sát đang cố gắng truy tìm, đột nhiên Gerry lại xuất hiện ở sở cảnh sát. Cảnh sát đã ngay lập tức thẩm vấn Gerry, nhưng từ đầu đến cuối anh ta vẫn không thừa nhận mình có liên quan đến vụ án. Gerry nói mình không biết tung tích của hai đứa trẻ, để tự chứng minh, Gerry còn sẵn sàng tiếp nhận kiểm tra phát hiện nói dối. Anh ta đã thông qua. Sau cuộc kiểm tra, Gerry tạm thời được cảnh sát gạt tên ra khỏi danh sách kẻ tình nghi. 48 tiếng sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát có thêm một manh mối từ đường dây nóng. Người cung cấp manh mối cho biết, có thể hung thủ là một nhóm người lái xe máy. Báo cáo khám nghiệm tử thi ra lò, lại càng thêm một bước xác nhận cho manh mối này, nhân viên khám nghiệm tử thi cho rằng: thứ mà hung thủ sử dụng khi gây án có thể là một loại búa nhổ đinh có một đầu xẻ đôi, nhưng loại hung khí này lớn hơn so với búa nhổ đinh thông dụng trong gia đình. Cộng thêm việc nạn nhân Brenda vô cùng đam mê về xe máy, vì vậy khi đó một số điều tra viên tin rằng người gây án có liên quan đến những người đi xe máy này. Song, rất nhanh sau đó, khả năng này đã bị loại bỏ. Khi đó, cảnh sát lại nắm được chứng cứ mới. Qua giám định vết máu, họ có thể khẳng định hiện trường vụ án không hề có vết máu nào của hai đứa trẻ bị mất tích, điều này chứng tỏ hai đứa trẻ vẫn còn sống. Đồng thời, giám định vết máu đã chứng thực rằng, hầu hết vết máu trong phòng đều là của Slade. Kết quả này làm cho cảnh sát vô cùng kinh hãi, thật khó để tưởng tượng ra cảnh tượng Slade chảy đầy máu đi tìm mẹ khắp căn phòng, cuối cùng gục ngã luôn xuống thi thể của mẹ. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để đau buồn, sau khi xác định hai đứa trẻ không bị giết tại hiện trường gây án, cảnh sát quyết định tìm kiếm hai đứa trẻ mất tích trên phạm vi toàn quốc. Một chủ nhà hàng ở Bonners đã cung cấp manh mối cho cảnh sát. Chủ nhà hàng này cho biết, cô ấy từng thấy một người đàn ông cao lớn mang theo hai đứa trẻ lên một chiếc Jeep với những hành động kì lạ. Cảnh sát đã lập tức phong tỏa mọi con đường xung quanh Bonners, điều tra lần lượt từng chiếc xe đã đi qua khu vực này. Nhưng lần hành động này vô ích, chủ nhà hàng kia đã nhìn nhầm người. Bốn ngày sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát lại có được kết quả xét nghiệm mới. Qua xét nghiệm độc tố phát hiện, nạn nhân Brenda và Mark trước khi chết đã hít một lượng lớn cần sa. Kết quả xét nghiệm này một lần nữa cung cấp cho cảnh sát một khả năng, liệu có phải là một nhóm tội phạm gây ra hay không? Bởi vì “con nghiện” không thanh toán đúng hạn nên mới giết người diệt khẩu? Phải biết rằng, trong các hồ sơ vụ án, có nhiều vụ do một nhóm đầu trọc cầm súng xông vào nhà dân để hăm dọa, cướp bóc, cảnh sát bắt buộc phải suy xét đến khả năng này. Phía cảnh sát lập tức tìm vài người cung cấp thông tin, hi vọng có thể tìm hiểu được một số thông tin nội bộ. Nhưng công cuộc điều tra này vô cùng tốn thời gian, thậm chí đến tận vài tuần sau khi xảy ra vụ việc, vụ án này vẫn chưa có bất cứ tiến triển gì. Cảnh sát có rất nhiều câu hỏi vẫn chưa có lời giải: Tại sao hung thủ không giết hết tất cả mọi người, tại sao lại bắt có hai đứa trẻ đi, mục đích của chúng khi làm như vậy là gì, để đòi tiền chuộc hay là đem bán chúng? Cảnh sát hiểu rõ hai đứa trẻ bị mất tích chính là mấu chốt để phá được vụ án này. Nếu có thể tìm được chúng thì vụ án sẽ được sáng tỏ. Mặc dù cảnh sát vô cùng cố gắng muốn phá được án, họ vẫn không có được bất cứ manh mối nào. Sau đó, có một nhân chứng đến báo án với cảnh sát. Nhân chứng là một nhân viên phục vụ, cô ấy nói với cảnh sát rằng sau giờ ăn tối không lâu, cô ấy để ý có hai người vào nhà hàng, trong đó có một bé gái mặc áo màu đỏ vẫn luôn cúi đầu ngồi trên ghế, hai tay cô bé đặt chéo ở trên đùi, không dám cựa quậy. Nhân viên phục vụ liền cảm thấy có gì đó bất ổn, sau khi quan sát cẩn thận kĩ lưỡng, cô ấy nhận ra cô bé kia trông rất giống đứa trẻ bị mất tích mà cảnh sát đang tìm kiếm. Để xác nhận xem cô bé đó có phải là Shasta không, nhân viên phục vụ còn cố tình đi tới, hỏi người đàn ông ngồi đối diện cô bé kia xem có cần gọi món hay không. Người đàn ông gọi món xong, nhân viên phục vụ liền lẻn đi ra từ cửa sau rồi gọi điện báo cảnh sát. Cảnh sát ập đến một cách nhanh nhất có thể và bắt giữ nghi phạm, Shasta Groene đã được giải cứu. Sau khi nghi phạm bị đưa đến sở cảnh sát, cảnh sát đã nhanh chóng xác định được danh tính của người này, hắn tên là Joseph Edward Duncan, năm nay 42 tuổi, đến từ Fargo, Bắc Dakota. Tên này đã phạm tội nhiều lần, từng phạm tội xâm hại tình dục cấp độ 3 có nghĩa là rất có thể người này từng nhiều lần xâm hại người khác. Thực tế, lần đầu tiên Joseph bị kết án quấy rối tình dục là vào năm 1978, khi đó hắn mới 15 tuổi. Hai năm sau, khi đang bị giam giữ ở nhà tù Kansas, Joseph lại quấy rối một thanh niên, đồng thời được chẩn đoán là một người bị lệch lạc tình dục. Sau một năm làm các bài trắc nghiệm đánh giá tâm lí và công tác chữa trị có liên quan, Joseph gần như đã khỏi hẳn, chí ít là nhìn biểu hiện bên ngoài thì hắn ta đã hoàn toàn thay đổi. Mãi đến năm 2004, Joseph vẫn chứng nào tật nấy, quấy rối tình dục một bé trai 6 tuổi ở quảng trường bên hồ Detroit, Minnesota. Sau khi nộp phạt, Joseph liền trốn đi nơi khác sinh sống. Cảnh sát còn phát hiện, nội dung bài đăng cuối cùng trên blog của Joseph cho thấy đặc điểm của chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội một cách rõ rệt. Trong bài đăng đó, Joseph kêu gào rằng hắn ta phải tấn công lại xã hội. Từ tất cả những điều trên, rất có thể Joseph chính là tên hung thủ giết người mà cảnh sát vất vả tìm kiếm suốt thời gian qua. Bây giờ, cảnh sát hi vọng có được tung tích của Dylan Groene, nhưng Joseph từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào. Để có thể nhanh chóng tìm ra Dylan, cảnh sát quyết định lục soát nhà và xe của Joseph. Trong xe của Joseph, cảnh sát tìm thấy một khẩu súng bắn đạn ghém (shotgun) , một máy tính xách tay và một thiết bị định vị GPS. Trong máy tính xách tay có một ổ cứng dung lượng 4GB. Trong ổ cứng có chứa rất nhiều ảnh và video clip của hắn khi ở trong tù, nhưng những thứ này đều không có liên quan gì đến Dylan. Cảnh sát không tìm thấy hung khí giết người, cũng không tìm thấy bất cứ manh mối nào để tìm ra Dylan. Sau khi loại trừ tất cả các manh mối, cảnh sát đành phải đặt niềm hi vọng cuối cùng vào em gái của Dylan là Shasta. Cảnh sát sắp xếp cho chuyên gia tâm lí học trò chuyện với Shasta, họ mong rằng Shasta có thể kể lại toàn bộ câu chuyện. Trong phòng bệnh của bệnh viện, Shasta kể lại từ đầu đến cuối sự việc. Buổi tối ngày xảy ra vụ án, Shasta vốn đã ngủ say bỗng dưng bị tiếng gào thét đánh thức, sau đó cô bé trông thấy Brenda, Slade và Mark nằm dưới đất, còn Joseph đứng giữa phòng khách, trong tay hắn cầm một khẩu súng. Joseph trói Shasta và Dylan lại, dùng băng dính dán chặt miệng của hai đứa bé, sau đó lôi chúng ra bãi cỏ sau nhà. Shasta nằm trên bãi cỏ tận mắt chứng kiến Joseph lấy một cái búa từ trong bao tải ra rồi đi vào trong nhà. Sau khi giết chết cả nhà Shasta, Joseph ném hai đứa trẻ vào trong xe rồi lái đến St. Regis ở Montana. Trong một rừng cây cách St. Regis khoảng 40mh, Joseph tìm thấy một khu lều trại vắng vẻ. Hắn ta dựng lều ở đây rồi bắt đầu xâm hại hai đứa trẻ. Sau khi bắt nhốt Shasta và Dylan được sáu tuần, Joseph đưa chúng đến một căn nhà hoang bằng gỗ và tra tấn Dylan một cách dã man. Vài tiếng sau, Joseph nã đạn vào Dylan ngay trước mặt Shasta rồi chôn xác Dylan. Xong xuôi, Joseph còn ra vẻ chân thành nói với Shasta rằng hắn ta sẽ cùng cô bé tận hưởng cuộc đời này, bởi vì cô bé đã khiến hắn biết làm sao để yêu một người. Ngày hôm sau, cảnh sát sử dụng thiết bị định vị của Joseph để tìm đến nơi Dylan bị sát hại và tìm thấy thi thể đã mục nát của Dylan. Thế rồi, trước tất cả mọi chứng cứ, Joseph đã nhận tội. Sau khi nhận tội, Joseph bắt đầu thuật lại kế hoạch chi tiết mà hắn đã sắp xếp để gây ra vụ án mạng tàn ác này. Joseph nói với cảnh sát rằng, trước khi rời khỏi Bắc Dakota, hắn đã bắt đầu chuẩn bị sẵn hung khú và các trang thiết bị rồi. Đồng thời, vừa chuẩn bị hung khí và trang thiết bị, Joseph cũng vừa đi về hướng Tây dọc theo đường cái để tìm mục tiêu. Sau khi Joseph đến Idaho, hắn đã chú ý đến nhà Groene. Lúc đó Shasta và Dylan đang chơi đùa ở khoảng đất trống trước cửa nhà, Dylan hồng hào đáng yêu đã kích thích ham muốn tình dục của hắn, hắn quyết định sẽ ra tay với gia đình này. Quyết định xong, Joseph đã mất nguyên một ngày quan sát môi trường, hoàn cảnh xung quanh nhà Groene bằng ống nhòm. Sau đó, Joseph thấy thời cơ đã đến, hắn bịt mặt, đội mũ trùm đầu và đeo găng tay, cầm súng shotgun lẻn vào từ cánh cửa sau không khóa. Lúc đó Brenda đang ngủ ở sofa trong phòng khách. Joseph đánh thức Brenda dậy rồi dùng súng uy hiếp cô ấy, bắt cô ấy gọi Mark vào phòng khách rồi trói Mark lại. Trong suốt cả quá trình hăm dọa, Joseph vô cùng tinh quái, hắn khiến Mark và Brenda tưởng rằng đây chỉ là một vụ trộm, như vậy Mark và Brenda sẽ không có suy nghĩ quyết phải liều mạng với hắn. Sau khi không chế được tất cả mọi người trong nhà, Joseph đưa Dylan và Shasta ra khỏi nhà, để chắc chắn rằng hai đứa trẻ sẽ không nhìn thấy cảnh người thân bị giết hại, như vậy hai đứa trẻ mới có thể yên lặng để hắn đe dọa và bắt đi. Chuyện xảy ra sau đó đúng như những gì Shasta kể lại với cảnh sát. Cuối cùng, Joseph bị cáo buộc tội bắt cóc trẻ em và ba tội giết người cấp độ 1 (giết chết Brenda Groene, Mark McKenzi, Slade Groene). Sau đó, chính quyền địa phương lại một lần nữa cáo buộc Joseph tội xâm hại tình dục trẻ em và một tội danh giết người cấp độ 1 khác (giết chết Dylan Groene). Sau khi xét xử, tòa án và bồi thẩm đoàn thống nhất phán Joseph Edward Duncan mức án tử hình, Joseph sẽ bị giam trong tù đợi thi hành án phạt. Phân tích tâm lí bất thường của tội phạm Đây là một vụ án giết người có âm mưu từ trước vô cùng tàn nhẫn và đẫm máu. Hung thủ giết người Joseph Edwars Duncan là một kẻ tâm lí bất thường điển hình, mặc dù trong quá trình tác giả miêu tả lại vụ án cũng như trong quy trình phá án của cảnh sát không hề miêu tả quá nhiều về tình trạng thê thảm ở hiện trường, nhưng từ cách thức mà hung thủ dùng để giết người và những hành vi sau khi giết người của hắn cũng có thể tưởng tượng ra gia đình kia đã gặp phải kiếp nạn thê thảm, phải chịu hành hạ đến mức độ nào, mà tất cả những điều đó cũng phản ảnh được mức độ tàn nhẫn và biến thái của hung thủ. Trước khi phân tích tâm lí phạm tội bất thường của hung thủ, đầu tiên chúng ta phải hiểu thế nào là tâm lí bất thường. Thực ra, tâm lí bất thường chính là cách gọi tắt của hiện tượng chủ thể của hành vi có tâm lí và hành vi không được bình thường. Có rất nhiều dạng tâm lí bất thường, nói tóm lại, tâm lí bất thường đôi khi chỉ ở mức nhẹ nhàng, cũng có lúc vô cùng nghiêm trọng. Hãy nói về Joseph, hung thủ của vụ án giết người này, hắn là một người có tâm lí bất thường ở mức độ vô cùng nghiêm trọng, chúng ta cũng có thể coi Joseph là người mắc chứng ái nhi với tâm lí biến thái một cách cực đoan. Trong phạm trù của tâm lí bất thường, ái nhi là một chứng bệnh tâm lí ở mức độ nghiêm trọng đi ngược lại với quy tắc xã hội, nếu người bệnh mắc chứng bệnh tâm lí này mà không được điều trị đàng hoàng hoặc không chịu tiếp nhận điều trị, dạng tâm lí bất thường này chắc chắn sẽ dẫn lối cho người bệnh bước vào con đường phạm tội. Hầu hết các trường hợp mắc chứng ái nhi ở mức độ nghiêm trọng sẽ thường xuyên sinh ra ảo tưởng. Trong thế giới ảo tưởng, tâm lí bất thường của người bệnh sẽ được thỏa mãn ở mức cao nhất, mà chính bản thân người bệnh cũng sẽ dần mất phương hướng, rối rắm, hoang mang. Thực tế, những nội dung trong ảo tưởng của người bệnh không thể diễn ra ở thế giới thực, một khi người mắc chứng ái nhi chìm đắm trong thế giới ảo tưởng sẽ dần nảy sinh ra ý nghĩ muốn thực hiện những hành vi trong thế giới ảo tưởng ở ngoài thế giới thực, từ đó dẫn đến bi kịch xảy ra. Trên thực tế, Joseph đã từng bước trầm luân vào con đường phạm tội như thế. Ban đầu, hắn chỉ phạm những tội quấy rối tình dục ở mức độ nhẹ. Càng ngày, mức độ bất thường trong tâm lí hắn càng sâu sắc hơn, quan niệm về tình dục của Joseph đã có bước ngoặc, khi hắn lần đầu tiên ngang nhiên quấy rối thanh thiếu niên ở nơi công cộng, hắn đã hoàn toàn trở thành một kẻ lệch lạc tình dục cộng thêm cả chứng ái nhi. Sau đó, mặc dù Joseph đã đón nhận trị liệu tâm lí suốt một năm, nhưng thực ra hắn không hề muốn bản thân được chữa khỏi. Để được ra tù, Joseph giả vờ như mình đã khỏi. Thực tế là việc tiếp nhận trị liệu suốt thời gian dài cũng mang lại hiệu quả nhất định, vì thế sau khi ra tù, Joseph không hề tái phạm ngay lập tức, song, tình trạng này không duy trì được bao lâu. Thời gian dần trôi, tâm lí của Joseph càng biến thái hơn so với trước kia, thế giới ảo tưởng lại hiện ra một lần nữa, hắn càng say đắm với cảnh tượng có trong thế giới ảo tưởng của mình. Khi tâm lí lại biến thái ở một cấp độ mới, tự khắc Joseph cũng sẽ có những hành vi không phù hợp với nhận thức của con người, thí dụ như những hành vi quấy rối tình dục ở mức nghiêm trọng và dâm loạn trẻ em… Hành vi của Joseph chắc chắn sẽ thu về những cái nhìn đầy căm ghét, đầy địch ý từ người dân có tâm lí bình thường, mà bởi vì bị người ta căm ghét nên hắn sinh ra nhân cách chống đối xã hội. Đến khi tâm lí biến thái của Joseph lệch lạc đến cực điểm, trong lòng hắn sẽ chỉ có một suy nghĩ, đó chính là hắn muốn cho cả xã hội biết mình tàn ác đến mức nào, hơn nữa còn phải chắc chắn rằng tất cả những gì hắn làm nhất định có thể gây hại đến xã hội này. Lúc ấy, Joseph mới nảy sinh ra suy nghĩ đáng sợ là gây ra vụ án vào nhà dân bắt cóc, cưỡng gian và giết người. Bây giờ, Joseph chỉ có hai mục đích, một là làm cho ảo tưởng của mình trở thành hiện thực, hai là trả thù. Trong nhận thức của Joseph, công chúng vẫn luôn nhìn hắn bằng con mắt thù hận, bởi vì hắn là một người bị lệch lạc tình dục. Thực tế, hành vi của hắn quả thực khiến người ta phản cảm và bài xích, vì vậy Joseph muốn bắt công chúng phải trả giá, mà hành vi tàn sát cả gia đình nạn nhân chính là cách để hắn trả thù xã hội. TÊN SÁT NHÂN Ở FIRENZE CHƯƠNG 2 Firenze nằm bên sông Arno ở miền Trung nước Ý, là một trong những thành phố nổi tiếng bậc nhất của Ý. Ngoài vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên và con người, thành phố này còn là cái nôi của phong trào văn hóa Phục Hưng, được gọi là “Athens mới”. Kế thừa nét văn hóa đặc sắc của nước Ý, Firenze là một thành phố vô cùng lãng mạn. Cho đến nay, thành phố này luôn là điểm đến lãng mạn đối với những người trẻ tuổi, nhưng thực ra từ xa xưa, nước Ý là một đất nước vô cùng sùng đạo. Người Ý khi ấy rất bảo thủ, họ nghiêm khắc tuân thủ theo các quy định của tôn giáo, tiêu diệt hết tất cả những sự vật, sự việc không phù hợp với quy định. Giữa người với người, nhất là thanh niên nam nữ phải giữ khoảng cách, không cho phép có những hành vi, cử chỉ quá mức thân mật, nếu không sẽ bị người khác phỉ nhổ, khinh bỉ. Song, các quy định của tôn giáo không thể trói buộc được các thanh niên trẻ tuổi, những đôi tình naahn đang say trong lưới tình lúc nào cũng có thể tìm ra cách để tránh khỏi tầm nhìn của người khác, hưởng thụ khoảng thời gian hiếm hoi dành riêng cho lứa đôi. Chỉ có điều, những đôi tình nhân trẻ tuổi này không hề biết rằng, nguy hiểm cũng đang lặng lẽ tiến gần đến họ. Một ngày nọ, có đôi tình nhân trốn khỏi sự giám sát của cha mẹ, lái xe tới một bãi đất hoang vu vắng vẻ để hẹn hò. Hai người đã cất công lựa chọn tỉ mỉ nơi hẹn hò bí mật này, họ tin chắc chắn đây sẽ là một đêm tuyệt vời. Đúng lúc đôi tình nhân trẻ đang ôm hôn nhau thắm thiết trong xe, một ánh mắt sắc bén từ bên ngoài phóng vào trong xe qua khung cửa, một sự việc vô cùng đáng sợ đã xảy ra. Sáng sớm hôm sau, một viên cảnh sát tuần tra trong lúc đi tuần đã trông thấy một chiếc xe ô tô đậu ở khoảng đất trống cách đường cái không xa, cửa xe ở chỗ ngồi bên cạnh ghế lái đang mở, nhưng xung quanh xe không có một ai. Mặc dù chỉ nhìn từ xa, song viên cảnh sát tuần tra đã cảm thấy hơi bất an, ông quyết định đi tới để xem xét. Mặc dù vị cảnh sát tuần tra này đã chuẩn bị tâm lí từ trước, nhưng vẫn bị cảnh tượng thê thảm trước mắt dọa cho sợ hết hồn. Một thi thể của nạn nhân nam đang ngồi dựa và ghế lái, đầu tựa vào khung cửa bên cạnh ghế lái. Qua khung cửa, cảnh sát tuần tra có thể nhìn thấy chiếc áo sơ mi trên người nạn nhân nam đang mở rộng, dáng vẻ anh ta trông chỉ như ngủ, có điều mặt mũi trắng nhợt, góc trái trên trán còn có một vết máu nhỏ. Ở cách đó không xa, bên ngoài xe ô tô có một thi thể của nạn nhân nữ đang nằm nghiêng trên bãi cỏ, đầu nạn nhân nghiêng sang một bên, mũi miệng cũng có vết máu đã khô màu nâu thẫm. Trên thân thể nạn nhân nữ phủ đầy giấy báo, chỉ có tay, chân và đầu lộ ra ngoài. Sau khi nhìn rõ tình trạng hiện trường vụ án, cảnh sát tuần tra liền báo lên trên đồng thời miêu tả lại hiện trường vụ án. Nhưng khi đó cảnh sát vẫn chưa có được một quy trình phá án hoàn hảo, các nhân viên hỗ trợ cũng không biết làm thế nào để bảo vệ hiện trường vụ án. Mặc dù cảnh sát địa phương đã ngay lập tức phái lực lượng cảnh sát đến hiện trường để bắt tay vào điều tra, song rất nhiều chứng cứ ở hiện trường đều không thể dùng được. Bất đắc dĩ, cảnh sát đành phải chuyển thi thể nạn nhân đến phòng khám nghiệm tử thi để khám nghiệm. Pháp ý đã kiểm tra kĩ thi thể nạn nhân, và có được kết quả khám nghiệm sơ bộ. Nạn nhân lần lượt là Carmela De Nuccio 21 tuổi và người bạn trai 30 tuổi của cô ấy, Giovanni Foggi. Ngoài thân phận của nạn nhân, pháp y còn phát hiện thấy bên ngoài thi thể của nạn nhân có rất nhiều vết thương do súng và dao gây ra, hai nạn nhân đều chết bởi một phát súng chí mạng. Ngoại trừ vết đạn bắn, phần bụng dưới của nạn nhân nữ Carmela còn có rất nhiều vết thương, và hung thủ đã xâm hại cô ấy. Điều làm cho người ta thấy kinh hãi hơn cả là hung thủ còn cắt đi bộ phận sinh dục của nạn nhân. Pháp y không hiểu tại sao hung thủ lại tàn độc đến như vậy, cũng không hiểu mục đích của hung thủ khi làm như vậy là gì, anh ta chỉ có thể giao nộp báo cáo kết quả thu được cho cảnh sát, để cảnh sát đi tìm câu trả lời. Sau khi có được báo cáo khám nghiệm tử thi, sĩ quan cảnh sát Ruglo Pelogini lại bắt đầu kiểm tra các manh mối khác. Ông hiểu rõ rằng từng chi tiết và từng yếu tố có ở hiện trường vụ án đều vô cùng quan trọng, phải làm rõ xem hiện trường vụ án thiếu thứ gì và có những gì thì cảnh sát mới có thể từ từ vạch ra quá trình gây án, từ đó từng bước ghép các tình tiết mà nạn nhân gặp phải trước khi bị giết hại được. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện buổi tối hôm trước khi bị sát hại, nạn nhân đã tới sàn nhảy Disco chơi, đến khi buổi tiếc kết thúc mới lái xe rời khỏi. Cảnh sát cho rằng có lẽ sau khi rời khỏi sàn nhảy, nạn nhân đã đi thẳng tới địa điểm xảy ra vụ án, họ muốn hẹn hò ở nơi hoang vu vắng vẻ đó. Theo những bằng chứng từ báo cáo khám nghiệm tử thì cùng các manh mối khác ở hiện trường vụ án, cảnh sát đã sàng lọc và sắp xếp quá trình xảy ra vụ án. Buổi tối hôm xảy ra án mạng, vào lúc hai nạn nhân đang thân mật trong xe, hung thủ đã cầm súng trong tay và lặng lẽ tiếp cận họ. Hắn ta tiến sát về phía chiếc xe từ bên phải ghế lái, sau đó dùng đèn pin soi vào bên trong từ cửa sổ xe. Ánh sáng đột ngột đã khiến hai nạn nhân trong xe bất ngờ. Giovanni quay đầu lại để xem xét tình hình, nhưng do ngược sáng nên anh không nhìn rõ được tình hình bên ngoài, thế là tránh không kịp. Sau khi thấy Giovanni quay đầu lại, hung thủ đã nổ súng ngay lập tức, Giovanni trúng đạn và tử vong. Thấy Giovanni bị giết hại, Carmela sợ hãi hét lên, cô ấy mở cửa xe để chạy trốn theo phản xạ, nhưng tốc độ của cô ấy không thể nhanh hơn viên đạn bay được. Mới chạy được có vài mét, hung thủ đã nổ súng giết chết cô ấy. Mặc dù đã sắp xếp được quá trình xảy ra vụ án, nhưng cảnh sát không hiểu rõ được động cơ gây án của hung thủ là gì. Lại bởi vì chuyện xảy ra ở nơi hoang vu vắng vẻ nên cảnh sát tạm thời không tìm được nhân chứng. Có điều, vụ án này lại có nhiều điểm tương tự với một vụ án giết người bị bỏ ngõ cách đây nhiều năm, nó cũng xảy ra ở một bãi đất hoang vắng vùng ngoại ô phía Bắc của Firenze, nạn nhân cũng là một đôi tình nhân trẻ tuổi (Pasquale Gentilcore và Stefania Pettini) , họ cũng bị sát hại khi đang hẹn hò trong xe. Trong vụ án giết người chưa được phá từ nhiều năm trước này, cảnh sát cũng không tìm ra được động cơ gây án của hung thủ, hơn nữa, những gì nạn nhân nữ Stefania gặp phải hoàn toàn giống với những gì Carmela gặp phải. Nhưng trong vụ án đó, mặc dù hung thủ đã cắt nhiều nhát vào bộ phận sinh dục của nạn nhân nữ, còn nhét cả dị vật vào bên trong, nhưng hắn không hề cắt bỏ nó. Mặc dù hơi khác một chút, nhưng cảnh sát vẫn quyết định xử lí đồng thời hai vụ án này. Đúng vào lúc người dân nơi đây đang tò mò suy đoán liệu hai vụ án này có liên quan gì đến nhau hay không, thì tình tiết vụ án đã có bước ngoặt. Cảnh sát địa phương bắt được một kẻ thường xuyên rình mò các cặp tình nhân, cũng là người dân vùng này, kẻ này tên là Anzo Spalletti. Ngay lập tức, cảnh sát đưa Anzo ra tòa với tội danh đã gây ra hai vụ án giết người. Người dân nơi đây đều biết Anzo là một kẻ cuồng nhìn trộm, nếu khi rình mò bị bắt được, rất có khả năng Anzo sẽ chó cùng dứt giậu, giết chết người bị mình rình trộm, vì thế, khi hắn ta bị cảnh sát bắt đi, mọi người đều cho rằng vụ án đến đây là kết thúc, có lẽ Anzo chính là hung thủ gây ra hai vụ án mạng đó. Song, một vụ án giết người tàn nhẫn nữa đã xảy ra. Một ngày nọ vào hai tháng sau, Stefano Baldi 26 tuổi và vợ chưa cưới Susanna Cambi 24 tuổi sau khi xem phim ở rạp chiếu phim xong liền quyết định đi hẹn hò ở vùng ngoại ô Firenze. Cũng giống với hai vụ án trước, đúng vào lúc đôi tình nhân đang nồng nhiệt trong xe, hung thủ đột nhiên xuất hiện. Hung thủ dùng đèn pin soi làm cho nạn nhân bị chói mắt, sau đó nhanh chóng nổ súng, hai nạn nhân lần lượt bị giết hại. Sauk hi gây án, hung thủ lại lôi thi thể nạn nhân nữ ra khỏi xe và xâm hại. Cuối cùng, hắn cắt bộ phận sinh dục của nạn nhân nữ. Vụ án giết người mới xảy ra khiến cho cảnh sát không thể không thừa nhận rằng họ đã bắt nhầm người, Anzo vô tội được thả ra, đối với cảnh sát, không còn nghi ngờ gì nữa, đây chắc chắn là một sự cố đáng hổ thẹn. Nhưng sau khi vụ án này xảy ra, cảnh sát đã tìm được một số chứng cứ quan trọng từ hiện trường vụ án. Trong đó, chứng cứ quan trọng nhất chính là vỏ đạn hung thủ để lại hiện trường. Các chuyên gia ngay lập tức tiến hành kiểm tra đường bay của viên đạn, xác định những vỏ đạn này đều từ khẩu súng ngắn 22 li. Sau đó, các chuyên gia bắt đầu so sánh vỏ đạn của vụ án này với vỏ đạn trong hai vụ án trước. Kết thúc cho thấy, vỏ đạn trong hai vụ án trước là từ cùng một khẩu súng bắn ra. Bây giờ, cảnh sát có để xác định chắc chắn rằng hai vụ án trước là do cùng một hung thủ gây ra. Cho đến khi một vụ án giết người nữa xảy ra, cảnh sát mới tin chắc rằng họ đang phải đối mặt với một tên tội phạm giết người hàng loạt, ngoại trừ lối hành sự hung ác, tàn ác, cảnh sát còn tìm ra được đặc điểm gây án của hung thủ: trong hai vụ án này, hung thủ đều có những hành vi phạm tội biến thái, lệch lạc đến cùng cực, đó là hắn sẽ cắt đi bộ phận sinh dục của nạn nhân nữ. Ngoài ra, hung thủ đã ngay lập tức gây án sau khi cảnh sát bắt giữ Anzo, có nghĩa là hắn ta muốn dùng vụ án giết người mới này để thể hiện một cách rõ ràng rằng hung thủ là mình chứ không phải người khác. Nỗi u ám kinh hoàng lại bao trùm lên Firenze, người người đều lo lắng, sợ tên sát thủ giết người hàng loạt máu lạnh điên cuồng khủng bố kia sẽ tìm đến mình. Các tờ báo ở địa phương liên tục đăng bài, tiêu đề “Tên quái nhân vùng Florence1” đã lan truyền khắp nơi trên thế giới. Lúc này, để nhanh chóng phá được án, cảnh sát địa phương đã thiệt lập đường dây riêng, hi vọng những người biết chuyện có thể báo lại với cảnh sát. Sau khi lập đường dây riêng, cảnh sát nhận được rất nhiều cuộc gọi, song, những đối tượng bị tố cáo này đều không phải là tên hung thủ mà cảnh sát đang truy tìm. Thời gian dần trôi đi, cảnh sát vẫn không thể nắm được chứng cứ quan trọng, công tác điều tra liên quan bắt đầu từng bước bị đóng băng. 1. Florence là tên gọi phổ biến của Firenze trong tiếng Anh và tiếng Pháp. Một ngày nọ vào một năm sau, Firenze lại xảy ra một vụ án mạng. Một người lái xe máy đã phát hiện thấy một chiếc ô tô gặp sự cố đậu ở ven đường trên con đường ngoại ô Firenze về vùng nông thôn. Bam đầu, người báo án tưởng đây là một chiếc xe bị tai nạn, mãi đến khi nhân viên cứu hộ đến hiện trường, người báo án mới biết đây vốn không phải một vụ tai nạn. Nạn nhân Paolo Mainardi cùng bạn gái Antonella Migliorini bị bắn chết. Antonella đã chết ngay tại chỗ, nhưng Paolo lại may mắn thoát được một kiếp. Paolo được đưa vào bệnh viện cấp cứu, sau đó, các điều tra viên khẳng định vụ án giết người bằng súng này có liên quan đến “Tên quái nhân vùng Florence” Nhìn từ hiện trường gây án, có lẽ nạn nhân đã thấy được hành tung của hung thủ, lúc hung thủ đến gần, Paolo đã ngay lập tức lái xe, định quay đầu bỏ chạy, nhưng trong lúc hoảng loạn, bánh sau của xe bị kẹt ở rãnh ven đường không thể thoát ra được. Lúc này, hung thủ vô cùng bình tĩnh, trước tiên hắn bắn vỡ đèn phía trước của xe, sau đó bắt đầu nổ súng vào hai người trong xe. Chỉ có điều cuộc tấn công này không được tiến hành theo đúng như kế hoạch của hắn, nơi xảy ra vụ án lại ở ngay gần thôn làng, để tránh không bị người ta trông thấy, hung thủ không tra tấn thi thể của nạn nhân, sau khi nổ súng hắn liền vội vàng bỏ chạy. Bởi vì hung thủ vội vàng bỏ trốn nên hắn không biết rằng Paolp vẫn còn sống, đây là lần đầu tiên hung thủ phạm sai lầm. Lúc này, các nhân viên điều tra vô cùng hi vọng Paolo đang thương tích trầm trọng có thể sống sót, hi vọng anh ấy trông thấy được đặc điểm diện mạo của hung thủ để giúp cảnh sát phá án. Thật không may là, Paolo đã tử vong vào sáng sớm hôm sau. Paolo tử vong khiến cảnh sát mất đi cơ hội để bắt tên hung thủ về quy án, vì vậy, cảnh sát tạm thời giấu thông tin Paolo đã chết, lợi dụng điểm nay để lừa gạt hung thủ, ép hắn phải lộ ra dấu vết. Cảnh sát huy động truyền thông hỗ trợ tuyên bố công khai rằng nạn nhân đã nhìn thấy được một số manh mối, đồng thời đã báo lại sự việc với cảnh sát. Cảnh sát hi vọng sau khi đọc được tin này hung thủ sẽ mắc sai lầm, nhưng hung thủ vô cùng xảo quyệt. Vài ngày sau khi an táng Paolo, nửa đêm, hung thủ đã gọi vào điện thoại của nhân viên cứu hộ đã cấp cứu cho Paolo. Sau khi nhân viên cứu hộ này nhận điện, hung thủ đột ngột hỏi tình trạng của Paolo, vì vừa tỉnh giấc nên anh ấy trả lời theo phản xạ: “Paolo? Anh ta chết rồi.” Sauk hi xác định Paolo đã chết, hung thủ liền lớn tiếng tuyên bố sẽ làm một vụ đồ sát lớn, hắn sẽ cho tất cả mọi người cảm thấy “hài lòng”. Nhân viên cứu hộ Ale Grandi vội vàng báo cảnh sát, để đề phòng tên hung thủ, cảnh sát quyết định bảo vệ Ale. Trong một khoảng thời gian sau đó, “Tên quái nhân vùng Florence” bắt đầu liên tục quấy rối Ale bằng điện thoại công cộng. Trong điện thoại, “Tên quái nhân vùng Florence” đe dọa Ale, bảo anh ấy phản cẩn thận người thân của mình. Do “Tên quái nhân vùng Florence” sử dụng điện thoại công cộng, không thể truy rõ hành tung, vì vậy cảnh sát vẫn không biết được thân phận của hắn. Đúng vào lúc cảnh sát đang cố gắng tìm trăm phương ngàn kế, một manh mối bỗng dưng xuất hiện đã thay đổi phương hướng điều tra của vụ án giết người hàng loạt này. “Tên quái nhân vùng Florence” gửi cho cảnh sát một bức thư, trong bức thư nặc danh này, hắn nói bằng giọng điệu trào phúng, chế giễu: “Tại sao các người không thử tra lại vụ án mạng mười năm trước?” Sau khi nhận được bức thư khiêu khích này, cảnh sát ngay lập tức kiểm tra lại hồ sơ các vụ án chưa được phá của mười năm về trước. Sauk hi kiểm tra tỉ mỉ, cảnh sát tìm ra được một vụ án giết người vô cùng man rợ giống với vụ án “Tên quái nhân vùng Florence” gây ra. Hóa ra, từ mười năm về trước, ở một nơi hoang vu hẻo lánh vùng ngoại ô của Firenze đã có một đôi tình nhân trẻ bị bắn chết trong xe ô tô. Khi đó, nạn nhân Barbara Locci và người tình của cô ấy là Antonio Lo Bianco đang nồng cháy trong xe, hung thủ sử dụng khẩu súng ngắn 22 li bắn liên tục 8 phát vào ghế lái, hai nạn nhân chết ngay tại chỗ. Sau khi điều tra, viên cảnh sát hình sự phụ trách vụ án này cho rằng hung thủ giết người có lẽ là chồng của Barbara, hắn giết người vì ghen tuông. Cảnh sát vội vàng kết án, chồng của Barbara bị phán án chung thân. Cho đến nay, chồng của Barbara vẫn đang ở trong tù chịu án. Trong vụ án mạng bằng súng mười năm trước, cảnh sát tìm thấy 8 mảnh vỏ đạn ở hiện trường, những vỏ đạn này đã trở thành điểm mấu chốt để phá án. Để xác minh những mảnh vỏ đạn này có phải từ cùng một khẩu súng hay không, chuyên gia giám định quyết định dùng kính hiển vi so sánh để kiểm tra những vỏ đạn này. Sau khi so sánh những dấu vết li ti trên vỏ đạn, chuyên gia giám định xác định 8 mảnh vỏ đạn này và những vỏ đạn trong các vụ án mới xảy ra gần đây đều từ cùng một khẩu súng. Như vậy, những vụ án giết người hàng loạt này đều có chung một hung khí. Cảnh sát bắt đầu truy vết khẩu súng ngắn 22 li đã giết chết Barbara và người tình của cô ấy. Cảnh sát kiểm tra kĩ lại hồ sơ, khẳng định người có khẩu súng ngắn này có lẽ có mối quan hệ với Barbara, rất có thể hắn là bạn của Barbara. Nhờ có manh mối này, cảnh sát đã truy lùng ra được một tên tội phạm vô cùng nổi tiếng, người này tên là Francesco Vinci, hắn cũng từng là người tình của nạn nhân Barbara. Francesco là một người đàn ông có thân hình vạm vỡ, hắn rất thích khoe khoang khí thế nam nhi của mình trước phái nữ. Qua điều tra thu thập thông tin, cảnh sát phát hiện từ trước đến nay người này luôn có tiếng là bạo lực, cảnh sát cuối cùng cũng tin chắc rằng họ đã tìm được một nghi phạm đầu tiên. Không lâu sau, cảnh sát lại nhận được tin tình báo, có người phát hiện thấy một chiếc xe ô tô cũ nát ở nơi vắng vẻ hoang vu. Chiếc xe này bị cành cây phủ lấp, trông vô cùng bí hiểm. Qua kiểm tra xác thực, cảnh sát phát hiện chủ của chiếc xe này chính là Francesco, manh mối này lại càng tăng thêm mối hiềm nghi cho Francesco. Để không đánh mất thời cơ bắt giữ Francesco, cảnh sát quyết định hành động ngay, nhưng ngay sau khi cảnh sát bắt được Francesco, tình tiết vụ án lại có thêm bước ngoặt nữa khiến người ta kinh ngạc. Mấy tháng sau, một khách nước ngoài người Đức bị hại. Cảnh sát kiểm tra kĩ vỏ đạn hung thủ để lại hiện trường, xác định hung thủ gây án chính là “Tên quái nhân vùng Firenze” , họ đành phải phóng thích Francesco. Trong vụ án này, “Tên quái nhân vùng Firenze” đã mắc phải một sai lầm. Qua kiểm chứng, nạn nhân Friedrich Horst Meyer và Jens Uwe Rusch đều là nam giới, cả hai người vẫn còn đang đi học. Bởi vì một trong hai nạn nhân có thân hình mảnh mai, lại để tóc dài màu vàng, vì vậy đôi du học sinh người Đức này mới bị “Tên quái nhân vùng Firenze” chọn làm đối tượng. Sau khi ra tay rồi, “Tên quái nhân vùng Firenze” mới phát hiện cả hai nạn nhân đều là nam giới, vì vậy hắn không có hứng thú để tiếp tục hoàn thành “nghi thức”. Sau khi vụ án xảy ra, “Tên quái nhân vùng Firenze” lại gửi cho cảnh sát một bức thư khiêu khích nặc danh. Trong thư, “Tên quái nhân vùng Firenze” tiết lộ tại sao hắn lại rat ay với người nước ngoài. Hóa ra, khi ra tay với người nước ngoài thì sẽ không để lại hồ sơ mất tích, như vậy việc phá án của cảnh sát sẽ trở nên khó khăn hơn. Rõ ràng, “Tên quái nhân vùng Firenze” muốn chơi đùa đuổi bắt với cảnh sát. Mức độ chịu đựng của người dân Firenze đã lên đến cực hạn, mọi người đã hoàn toàn mất đi lòng tin với cảnh sát, báo chí truyền thông đã bắt đầu “ném đá” công kích hệ thống cảnh sát và chính quyền, ban ngành có liên quan của Firenze. Trước áp lực từ nhiều phía, vụ án giết người hàng loạt này đã được giao cho Cơ quan Cảnh sát Quốc gia của Ý, do tổ trưởng tổ trọng án - thanh tra Kosti Banal toàn quyền điều tra. Kosti quyết định tìm đến sự trợ giúp của chuyên gia tâm lí tội phạm, và triển khai điều tra lại từ đâu. Trong cuộc điều tra lần này, chuyên gia tâm lí tội phạm khuyên Kosti nên tận dụng kho hồ sơ dữ liệu các vụ án của tổng cục, lựa chọn ra những người có tiền án, đồng thời có thể tự do hành động trong khoảng thời gian “Tên quái vật vùng Firenze” gây án, xác định thời gian, địa điểm và tất cả hướng hành động có thể tra được trong tiền án. Qua so sánh, cảnh sát phát hiện một cái tên liên tục mang nhiều tiền án tiền sự - Pietro Pacciani sống tại khu vực nội thành Firenze nơi liên tục xảy ra án mạng, hắn còn từng phạm tội bạo hành và nghi ngờ giết người. Pietro là một người đàn ông trung niên đã kết hôn, hắn là công nhân làm việc ở nông trường, có 3 người con. Năm 1950, Pietro đính hôn với cô gái xinh đẹp nhất trong thông làng, nhưng chưa kịp kết hôn thì một lần tình cờ, hắn đã phát hiện người vợ chưa cưới của mình vụng trộm với anh chàng nhân viên tiếp thị trong một chiếc xe. Sự phản bội của cô vợ chưa cưới khiến Pietro vô cùng tức giận, hắn xông vào trong xe giết chết nhân viên tiếp thị kia. Sauk hi giết người, Pietro đã chủ động đầu thú. Năm 1951, Pietro bị xét xử. Trong phần tự biện hộ, Pietro nói rằng bởi vì trông thấy bạn gái đang vụng trộm với người đàn ông khác nên hắn mới mất đi lí trí, ra tay giết người. Cuối cùng, tòa phán quyết, Pietro bị kết án 13 năm tù có thời hạn. Sau khi chuyên gia tâm lí tội phạm xem xét kĩ lưỡng toàn bộ hồ sơ vụ án liền cảm thấy Pietro có nhiều điểm chung với “Tên quái vật vùng Firenze” , rất có thể vì bị vợ chưa cưới phản bội nên hắn mới căm hận phụ nữ, bởi vậy mới điên cuồng trả thù. Sauk hi khoanh vùng được kẻ tình nghi, cảnh sát lập tức hành động, nhưng vì chưa đủ chứng cứ nên không thể trực tiếp bắt Pietro được, đành phải đưa hắn đến sở cảnh sát để thẩm vấn. Trong lần thẩm vấn đầu tiên, Pietro tỏ ra vô cùng gian xảo, thậm chí hắn còn có khả năng kiểm soát, thao túng thanh tra thẩm vấn. Những biểu hiện của Pietro đều phù hợp với bức phác họa chân dung tội phạm của chuyên gia tâm lí tội phạm và cảnh sát, điều này cũng làm cho Kosti càng tin rằng hắn chính là “Tên quái nhân vùng Firenze”. Cơ quan cảnh sát quốc gia quyết định điều tra nghi phạm này. Khi đó, Pietro đã 60 tuổi, mặc dù hắn có vấn đề về sức khỏe, nhưng điều tra viên tin rằng hắn vẫn còn đủ khả năng để gây ra một loạt các vụ án mạng khác nữa. Trong lúc giám sát Pietro, cảnh sát còn chú ý rằng mặc dù đã 60 tuổi nhưng hắn rất khỏe, có thể vác cả hòn đá leo núi. Nhưng họ vẫn cần phải xác thực chứng cứ chứng minh rằng Pietro chính là “Tên quái nhân vùng Firenze” , chỉ có như vậy, cảnh sát mới có thể đưa hắn ra tòa. Để có đủ chứng cứ, cảnh sát quyết định tiến hành lục soát nghiêm ngặt căn nhà của Pietro suốt 11 ngày. Sau khi lục soát, cuối cùng cảnh sát cũng tìm thấy một cuốn sổ vẽ trong phòng của Pietro, đây là vật phẩm không thể mua được ở Ý, cảnh sát bắt đầu nghĩ mọi biện pháp để truy tìm nơi bán cuốn sổ vẽ này. Cuối cùng, họ phát hiện cuốn sổ vẽ này có bán tại một cửa hàng ở Osburg, Đức, mà người mua cuốn sổ này chính là hai học sinh người Đức. Đây là chứng cứ vô cùng chính xác, cảnh sát hoàn toàn có thể sử dụng cuốn sổ vẽ này để liên hệ Pietro với vụ án mạng. Nhưng muốn chứng minh tội trạng của Pietro, họ còn phải chứng minh được Pietro có liên quan đến khẩu súng ngắn 22 li kia. Sau cùng, khi lục soát vườn hoa nhà Pietro, họ đã tìm thấy một băng đạn trong góc vườn. Cảnh sát ngay lập tức mang đạn về trung tâm giám định để làm các phân tích có liên quan. Sau khi các chuyên gia giám định kiểm tra đối chiếu tỉ mỉ, chứng thực băng đạn tìm thấy ở vườn hoa nhà Pietro giống với loại đạn được dùng ở hiện trường vụ án. Cuối cùng, công tố viên đã nắm đủ chứng cứ để khởi tố Pietro Pacciani ra tòa xét xử. Mặc dù Pietro vẫn một mực nói rằng mình vô tội, nhưng tòa vẫn phán Pietro án tù chung thân. Không lâu sau, người ta lại bắt đầu nghi ngờ phán đoán của cảnh sát. Trong mắt nhiều người, Pietro hình như hoàn toàn không phù hợp với hình tượng “Tên quái nhân vùng Firenze” , lão già vừa lùn vừa béo này thực sự có thể gây ra vụ án giết người hàng loạt ư? Băng đạn tìm thấy ở vườn hoa nhà Pietro liệu có phải là do cảnh sát cố ý sắp đặt? Trong vụ án này vẫn còn rất nhiều điểm đáng nghi ngờ chưa có câu trả lời, vì vậy tòa cho phép Pietro kháng án. Mặc dù vẫn còn nghi ngờ, nhưng cơ quan cảnh sát quốc gia vẫn luôn khẳng định rằng Pietro chính là “Tên quái nhân vùng Pirenze”. Để tránh bị người ta dị nghị, cảnh sát quyết định kiểm tra lại chứng cứ thu được từ nhà Pietro một lần nữa. Họ phát hiện một số chứng cứ có thể chứng minh rằng Pietro không gây án một mình. Hai người bạn của Pietro là bưu tá đã về hưu Mario Vanni và gã lang thang Giancarlo Lotti từng thẳng thắn thừa nhận với cảnh sát rằng, họ từng trợ giúp Pietro thực hiện những vụ án mạng đó. Bởi vì lời khai mà hai người cung cấp hoàn toàn phù hợp với những thông tin mà cảnh sát nắm được, những chi tiết được miêu tả trong lời khai hoàn toàn thống nhất với các chi tiết ở hiện trường, vì vậy cảnh sát đã tin vào lời khai của họ. Qua điều tra xác minh, cảnh sát xác nhận hai người này cùng tham gia vào bốn vụ án mạng. Cuối cùng Mario Vanni bị phán án tù chung thân, còn Giancarlo Lotti vì đã phối hợp với cảnh sát nên được giảm án, bị phán 26 năm tù có thời hạn. Cảnh sát Ý nhận định Mario Vanni và Giancarlo Lotti đã tham gia vào vụ án giết người dưới sự khích lệ của Pietro, họ có thể tự tin khẳng định trước tòa rằng Pietro chính là kẻ cầm đầu của nhóm sát thủ máu lạnh này. Cảnh sát đã nắm được chứng cứ xác thực, cùng với sự chỉ điểm của Mario và Giancarlo, Pietro khó mà thoát khỏi lưới pháp luật, song, trước khi hầu tòa, Pietro lại tử vong tại nhà. Thi thể của hắn được đưa tới trung tâm khám nghiệm tử thi để khám nghiệm, nhân viên khám nghiệm cho rằng hắn ta chết vì suy tim. Đối với rất nhiều người, cái chết của Pietro khiến họ khó mà làm rõ được thân phận thực sự của “Tên quái nhân vùng Firenze” , nhưng đối với cảnh sát thì Pietro chính là “Tên quái nhân vùng Firenze”. Phân tích tâm lí bất thường của tội phạm Đây là một vụ án giết người hàng loạt vô cùng biến thái. Trong vụ án mạng liên hoàn này, đặc điểm gây án của hung thủ vô cùng rõ ràng. Thí dụ như nạn nhân đều bị giết hại khi đang ở trong xe, tất cả hiện trường các vụ án đều ở nơi xa xôi vắng vẻ, quá trình gây án và thủ đoạn gây án của hung thủ hầu như đều giống nhau, nạn nhân chết vì bị súng bắn, hung khí là một khẩu súng ngắn 22 li. Mặc dù vụ án “Tên quái nhân vùng Firenze” vẫn còn để lại nhiều điểm mơ hồ, nhưng tác giả cho rằng, việc Pietro chính là “Tên quái nhân vùng Firenze” là điều không cần phải nghi ngờ. Trước tiên, hai tên đồng phạm với Pietro đã nhận tội, họ cung cấp lời khai rất chi tiết cho cảnh sát, những chi tiết trong lời khai đủ để chứng minh Pietro chính là kẻ chủ mưu gây ra một loạt các vụ án mạng tàn nhẫn đó. Tiếp đến, Pietro có đầy đủ động cơ gây án. Vợ chưa cưới của hắn đã phản bội hắn ngay trước khi làm đám cưới, hơn nữa hắn đã từng đích thân ra tay giết chết tình địch. Bởi vì Pietro đã tận mắt chứng kiến cảnh vợ chưa cưới của mình vụng trộm với người khác, vì vậy cảnh tượng ấy đã gây ra thương tổn khó mà cứu vãn được trong tâm lí của hắn, cũng tức là, khoảnh khắc ấy, tâm lí hắn bắt đầu lệch lạc. Trong trường hợp thông thường, kể cả khi con người ta tận mắt chứng kiến vợ sắp cưới phản bội lại mình cũng khó mà có hành động giết người được, nhưng Pietro đã làm như vậy, điều này đủ để cho thấy hắn là một kẻ máu lạnh và coi thường mạng người. Ngoài ra, trong lúc kích động, Pietro đã giết chết tình địch ngay trong xe, cảm giác trả được mối thù hận lớn lao ấy khiến hắn lần đầu tiên được nếm trải sự sung sướng khác thường. Quan trọng hơn là, cảnh tượng và khung cảnh giết người ấy đã hằn sâu vào trong tâm trí hắn. Bởi vậy, các vụ án mà Pietro gây ra có liên quan đến xe và các đôi tình nhân trẻ đang thân mật trong xe, điều này không chỉ vì hắn muốn gây án theo một hình thức cố định, mà chủ yếu còn có liên quan đến việc hắn muốn tái hiện lại y hệt cảnh tượng nào đó trong thế giới ảo tưởng của mình. Ngoài ra, cùng với việc số lần gây án ngày một tăng, động cơ gây án chính của Pietro cũng từ giết chết nạn nhân trở thành xâm hại và tra tấn thi thể của nạn nhân nữ, qua đó càng thêm một bước thể hiện sự căm ghét thù hận của Pietro với phụ nữ. Pietro còn có một đặc điểm trong nhân cách, cũng chính nhờ đặc điểm này hắn ta mới có thể dễ dàng thao túng một số người bên cạnh mình. Mario Vanni và Giancarlo Lotti chính là công cụ mà Pietro lựa chọn, khi gặp những nạn nhân mà hắn không thể một mình ra tay được, Pietro sẽ mang theo chúng để giúp hắn hoàn thành án mạng. Bởi hai đồng phạm này hoàn toàn bị Pietro kiểm soát, vì vậy chúng không có động cơ gây án rõ ràng, nhưng điều này cũng có nghĩa chúng giống như Pietro, cũng là những kẻ máu lạnh cực đoan, tàn ác và mất hết nhân tính. HUNG THỦ MÁU LẠNH CHƯƠNG 3 Cuối những năm 80 của thế kỉ 20, John Sweeney, một thợ mộc dạo sinh ra ở vùng Tây Bắc nước Anh đến sinh sống ở London. Đối với John thì bốn bể là nhà, hắn chưa bao giờ ở lại một thành phố nào đó quá lâu, nhưng lần này, hắn quyết định ở lại London. Tiếp đó, mọi chuyện đều diễn ra vô cùng suôn sẻ thuận lợi, hắn tìm được một công việc làm mộc trong một studio chụp ảnh thời trang ở West End tại London, không lâu sau, hắn gặp được một cô gái xinh đẹp đến từ Ohio, Melissa Halstead. Melissa là một người mẫu, cô ấy cũng làm việc ở West End, Melissa lần đầu đến London, còn chưa quen thuộc với mọi thứ, cũng không có bạn bè. Nhưng John lại vô cùng quen thuộc London, sau khi quen biết Melissa, John thường xuyên đưa cô ấy đi thăm thú khắp nơi. Chẳng mấy chốc hai người đã nảy sinh tình cảm và xác nhận quan hệ yêu đương với nhau. Sau đó, Melissa và John thuê một căn hộ chung cư ở khu nhà cao cấp ven hồ tấc đất tấc vàng gần quảng trường Sloane, London, họ chính thức sống chung với nhau. Ngoại trừ công việc chính, John còn là một họa sĩ vẽ tranh phác họa, hắn thường vẽ vào những khi rảnh rỗi, theo hắn thì vì bản thân có được năng khiếu nghệ thuật này nên mới có thể thu hút được Melissa, một người cũng yêu nghệ thuật. Nhưng trong hồ sơ của cảnh sát vẫn còn ghi chép tỉ mỉ về mặt tối trong đời sống riêng của John. Đúng là John biết vẽ tranh phác thảo, nhưng đời sống riêng tư của hắn vô cùng phóng túng. Cảnh sát cho rằng, sở dĩ Melissa ở bên John hoàn toàn là bởi bản chất của hai người họ giống nhau. Thực tế, tình cảm giữa Melissa và John không duy trì được bao lâu, sau khi cảm giác mới mẻ ban đầu phai đi, bản chất thật của John bắt đầu có xu hướng lộ ra. John vốn là một kẻ ngang tàng thô bạo, cứ có mâu thuẫn xảy ra là hắn sẽ vung tay vung chân với Melissa. Melissa không thể chịu đựng nổi nữa bèn tìm kiếm sự trợ giúp của cảnh sát. Khi em gái của Melissa đến London chơi từng ở nhờ trong căn hộ chung cư mà Melissa cùng John. Trong khoảng thời gian đó, cô nàng đã tận mắt chứng kiến cảnh John bạo hành Melissa, vì vậy đã gọi điện báo cảnh sát. Trong hồ sơ ghi chép của cảnh sát, John từng hai lần bị tố cáo đã đánh đập Melissa dã man và tội danh đã thành lập. Nhưng chuyện đáng sợ hơn nữa còn chưa xảy ra, bởi vì cô người mẫu thời trang này bất giác đã từng bước rơi vào vòng xoáy bạo lực của một tên giết người hàng loạt. Cuối năm 1987, hợp đồng của Melissa hết hạn, cô ấy sắp bị trục xuất khỏi Anh. Melissa vô cùng vui sướng, bởi vì cô biết rằng đây chính là cơ hội để rời khỏi John. Nhân cơ hội này, Melissa chuyển đến sống ở Vienna, nhưng cô ấy vẫn chưa thể thực sự thoát khỏi John. Đối với John, Melissa chính là người bạn đời mà hắn yêu chân thành, vì vậy hắn không muốn Melissa rời bỏ mình. Sau khi Melissa rời đi, John cũng tìm đến, họ gặp nhau, Melissa đành phải thỏa hiệp, nhưng những trận bạo hành không có hồi kết đã định trước kết quả cuối cùng từ lâu. Trong một lần cãi vã vô cùng dữ dội, John dùng một cây búa nhổ đinh bằng sắt đập vỡ đầu Melissa. Melissa phải mổ cấp cứu, còn John bị giam trong nhà tù. Lần này, John bị tố cáo tội đánh đập dã man Melissa. Cảnh sát Vienna đã bắt giữ John và tạm giam hắn lại. Melissa may mắn thoát được một kiếp, sau khi ra viện, cô ấy gọi điện cho em gái. Trong điện thoại, Melissa đã liên tục nhấn mạnh, rằng mối tình này sẽ không có kết quả, và nói với em gái rằng: “Nếu một ngày nào đó em không tìm được chị, thế thì chắn chắn là chị đã bị anh ta giết chết rồi, có thể anh ta còn vứt xác chị đi nữa.” Mặc dù Melissa đã có dự cảm chẳng lành, nhưng cô ấy vẫn chưa thể nhân cơ hội này để thoát khỏi John. Thực tế, Melissa không hiểu được rằng cô ấy đã quen với việc bị John khống chế, mà John cũng đã hoàn toàn kiểm soát được tình cảm của cô ấy, sự kiểm soát này là thứ mà Melissa đã biết trước, nhưng vẫn trở tay không kịp. Dù đã bị lừa đến mức toàn thân đều là những vết thương, nhưng John vẫn dùng những lời đường mật và tình cảm dối trá giả tạo để thuyết phục Melisa. Cuối cùng, Melissa lại một lần nữa bị John làm cho lay động, cô ấy chủ động đưa đơn lên chính quyền Vienna để xin thả John ra. Khi đó, Melissa không hề hay biết rằng, nếu cô ấy không thể thoát khỏi John thì chỉ còn nước mất mạng. Sau khi John được thả ra, Melissa và hắn cùng chuyển đến sống ở Amsterdam. Một khoảng thời gian sau đó, đôi tình nhân này dường như đã trải qua những tháng ngày yên ổn. Trong con mắt người chủ cho thuê nhà, John và Melissa có thể coi là khách hàng đúng tiêu chuẩn, họ đóng tiền nhà đúng hạn, chưa từng gây ra rắc rối, phiền phức nào. Tháng 11 năm 1989, Melissa 33 tuổi gọi điện thoại cho người thân ở Mỹ. Đây là thói quen của Melissa, hầu như năm nào cô ấy cũng gọi điện cho người thân vào tháng Mười một để nói với mẹ một câu “Chúc mừng sinh nhật.” Song, đáng tiếc là lần này người thân không có ở nhà, vì vậy họ không nhận được cuộc gọi đó. Cho dù thế nào, người thân của Melissa cũng không ngờ được, thực ra cuộc gọi này chính là cơ hội cuối cùng để họ và Melissa liên lạc qua điện thoại. Vì không ai nghe máy, Melissa đã để lại lời nhắn cho gia đình. Đầu tiên cô ấy chúc mừng sinh nhật mẹ, hi vọng bà luôn vui vẻ, sau đó lại nói rằng mình định mua một cái máy fax, lần sau gọi điện cô ấy sẽ nói số fax của mình cho mọi người, như vậy thì họ có thể liên lạc với nhau. Từ đó trở đi, người thân của Melissa ở nước Mỹ xa xôi không còn nhận được tin tức gì của cô ấy nữa. Melissa đã mất tích. Tháng 4 năm 1990, chủ nhà của John và Melissa kinh ngạc vô cùng khi phát hiện ra cặp đôi khách thuê nhà kiểu mẫu bỗng dung biến mất. Mặc dù chủ nhà cảm thấy tình huống này hơi kì lạ, nhưng bởi vì những vật dụng riêng bên trong căn nhà đều đã được đóng gói mang đi, vì thế anh ta cho rằng hai vị khách chỉ định trả nhà, nên không hề coi chuyện này có gì to tát. Qua vài tuần, một du khách đi ngang qua con kênh nào đó ở Rotterdam đã trông thấy một chiếc vali nổi trên mặt nước. Dù còn cách rất xa, nhưng du khách kia vẫn có thể ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc. Sau khi cảm thấy có gì đó bất thường, du khách đã quyết định báo cảnh sát. Ngay lúc có mặt, cảnh sát lập tức trục vớt chiếc vali bốc mùi hôi thối lên bờ. Trong quá trình trục vớt, một thanh tra dày dạn kinh nghiệm đã nhận thức được rằng, bên trong chiếc vali kia rất có thể là thi thể. Quả nhiên nạn nhân là nữ, nhưng bởi hung thủ đã phá hỏng tất cả những đặc điểm để có thể nhận diện được thân phận của nạn nhân, vì thế cảnh sát không thể nào xác định được thân phận nạn nhân qua dấu răng và vân tay. Rotterdam là một trong những bến cảng nhộn nhịp nhất châu Âu, lượng người qua lại nơi đây rất đông, cảnh sát khó mà tìm ra được nhân chứng. Không thể dùng các phương pháp khoa học để xác định thân phận của nạn nhân, cũng không có cách nào để tìm ra nhân chứng cung cấp các manh mối, điều này làm cho công cuộc điều tra của cảnh sát Rotterdam đi vào bế tắc. Một tháng sau, cảnh sát Hà Lan nhận được điện thoại của mẹ Melissa gọi đến báo án. Từ một năm trước, sau khi Melissa để lại lời nhắn trong điện thoại cho người thân thì không còn liên lạc nào nữa, điều này khiến mẹ cô ấy vô cùng lo lắng, bà sợ cô gặp nguy hiểm. Bởi vì em gái của Melissa từng tận mắt chứng kiến John đánh đập chị mình nên mẹ cô ấy lo rằng con gái đã gặp phải bất trắc. Sau khi nhận được điện thoại báo án, cảnh sát địa phương ngay lập tức bắt tay vào điều tra, lục soát kĩ càng căn hộ mà Melissa từng thuê xong, họ không phát hiện được bất cứ chứng cứ nào cho thấy từng có dấu hiệu gây án. Sau đó, quá khứ của John Sweeney đã bị phơi bày, hóa ra John sinh ra ở Liverpool, hắn lớn lên ở thành phố này và trở thành một thợ mộc. Sau đó, John Sweeney từng kết hôn với một người phụ nữ địa phương tên là Anne Bramley, nhưng cuộc hôn nhân này cũng tan vỡ. Trong quá trình điều tra, cảnh sát phát hiện John đã nghiện rượu từ lâu, tính cách của hắn ngang ngược, nay đây mai đó, còn thường xuyên làm những điều mà người bình thường không thể lí giải nổi. Mỗi lần sau khi uống say, John sẽ bạo hành Anne, Anne không thể chịu đựng thêm được nữa bèn li thân với John, chuyển đến ở tạm nhà của bạn. Sau khi tạm thời li thân, Anne từng quay trở về lấy vài bộ quần áo, khi cô ấy về đến nhà vừa hay có hai viên cảnh sát đang xử lí sự vụ bên nhà hàng xóm. Anne vừa mở cửa, John bỗng dung nhảy từ trong tủ ra, tay trái hắn cầm một cây búa có cán dài, tay phải cũng cầm một cái búa, gào thét xông về phía Anne. Anne hét lên, cảnh sát bên nhà hàng xóm kịp thời chạy đến, nhưng John lại nói với cảnh sát rằng hắn chỉ đang hù dọa vợ mình mà thôi, không hề có ý gì khác. Anne vì quá sợ hãi, hơn nữa tình hình lúc đó quá mức căng thẳng nên cảnh sát đã đưa John đi với tội danh làm mất an toàn trật tự xã hội. Không ai có thể nghĩ được ý đồ thực sự của John là gì, nếu kết hợp với những hành vi sau này của hắn, có lẽ lúc ấy nếu như cảnh sát không ở ngay bên ngoài cửa thì Anne đã chết chắc rồi. Sau đó, Anne quyết định phải hoàn toàn dứt bỏ với John. Quyết xong, cô ấy liền chuyển đến sống ở một thị trấn nhỏ xa xôi cùng người thân. Sau khi ra tù, John không tìm được tung tích của Anne, bèn một mình tới London và gặp gỡ Melissa ở đây. Trong ba năm tiếp theo đó, Melissa từng bị bạo hành nhiều lần, tình trạng này cũng là lời dự báo trước cho kết cục bi thảm của cô ấy. Bởi vì không có chứng cứ có thể chứng minh Melissa đã bị sát hại, cảnh sát lại không có cách nào để liên lạc với Melissa và John, vì vậy tất nhiên là bọn họ sẽ không tin Melissa đã chết, các điều tra có liên quan dừng lại tại đây. Quan trọng hơn là, sau khi cảnh sát địa phương kết thúc điều tra cũng không cho Melissa vào danh sách những người mất tích, mà việc làm này đã vô tình giúp cho hung thủ không bị truy bắt. Thực tế, chính quyền địa phương cũng không biết rằng, từ tháng 4 năm 1990, John Sweeney đã một mình rời khỏi Amsterdam rồi. Hai năm sau, John lại quay trở lại London, hắn gặp cô y tá Delia Balmer trong một quán rượu. Bắt đầu từ lúc bước vào quán rượu, John vẫn luôn nhìn chằm chằm cô ấy. Một lát sau, John đứng dậy đi về phía cô ấy, mời cô ấy cùng uống một li với mình, cô nàng đã đồng ý. Tiếp xúc qua lại rồi, Delia thích đi du lịch phát hiện ra John đã từng đến rất nhiều nơi, kiến thức của hắn vô cùng uyên bác, phong cách nói chuyện lại tao nhã lịch sự, chẳng mấy chốc, Delia đã bị người đàn ông để râu quai nón nhưng trông rất thư sinh nhã nhặn này quyến rũ. Cứ thế, mối quan hệ của hai người phát triển nhanh chóng, chỉ vài ngày thôi, Delia đã sống chung với hắn. Đối với Delia, John là một người đàn ông hoàn hảo, thậm chí họ còn cùng nhau đi Mexico và có một khoảng thời gian tươi đẹp ở đó. Có điều, khi qua lại được một thời gian, Delia nhận ra một số vấn đề, cô ấy phát hiện John có những thú vui khiến người ta thấy bất an. Sau khi sống chung, John dùng một cái bể bằng thủy tinh rất lớn để nuôi một đôi nhện sói, hầu như ngày nào hắn cũng phải tốn hàng giờ để quan sát đôi “thú cưng” này. Không chỉ quan sát nhện sói, John còn xem một số tạp chí kinh di, hắn ta không bao giờ trò chuyện lâu với Delia, điều này không giống với việc sống chung bình thường, hoàn toàn khác với cuộc sống cùng nhau mà Delia hằng tưởng tượng. Tiếp đó, Delia lại cảm nhận được ham muốn muốn kiểm soát mọi thứ của hắn vô cùng mạnh mẽ. Thậm chí John còn ra lệnh cho Delia rằng cô không được phép ra khỏi nhà một mình. Nếu Delia muốn ra ngoài, chắc chắn John sẽ đi theo bên cạnh cô ấy, kể cả lúc Delia đi vệ sinh John cũng phải đi theo. Sau hai năm ở bên nhau, John càng thể hiện ham muốn kiểm soát của mình một cách dữ dội, thực tình Delia không thể chịu đựng được những yêu cầu biến thái của John nữa, cô ấy quyết định đuổi John đi. Bị đuổi ra khỏi nhà khiến John cảm thấy vô cùng tức giận, hắn định ra tay với Delia lúc cô ấy về nhà. Tối hôm đó, lúc Delia trở về đã bị John khống chế, hắn dùng dây thừng trói tay Delia lại, sau đó trói cô ấy ở trên giường trong phòng ngủ. Xong xuôi, John chửi bới quá tháo Delia, đồng thời cho cô ấy thấy dao và súng mà mình mang đến. Delia từng kể lại cho cảnh sát về tình cảnh khi mình bị John khống chế, cô ấy cảm thấy như mình đang bị nhốt vào trong trại tâm thần, còn John chính là bệnh nhân tâm thần đang phát bệnh. Ngày hôm sau, John lo rằng nếu Delia không đi làm thì đồng nghiệp của cô ấy sẽ thấy nghi ngờ, vì thế hắn quyết định để cho Delia tiếp tục đi làm. Trước khi thả Delia đi, John lại bắt đầu “diễn” , hắn khóc lóc cúi mình cầu xin sự tha thứ của Delia, muốn dùng thái độ “thực lòng” ăn năn hối cải này để lừa gạt Delia, làm cho cô ấy tin rằng mình đã thay đổi, đã thực sự hối lỗi. Thực tế, John chỉ muốn Delia không kể lại những gì đã xảy ra tối hôm qua cho ai. Delia biết rõ, hiện giờ mình vẫn đang ở tình thế vô cùng nguy hiểm, để gạt được John, Delia giả vờ mình rất sợ hãi, đồng thời sẵn lòng giữ bí maajtcho John. Vài tuần sau đó, Delia cũng từng nghĩ đến chuyện bỏ trốn, nhưng cô ấy vẫn kiềm chế, bởi vì cô ấy biết rằng nếu mình trốn đi, chắc chắn sẽ kích động John, cô ấy cần phải chờ đợi thời cơ thích hợp. Không lâu sau, thời cơ đã đến. Bởi vì một số nguyên do nên John bắt buộc phải sang Đức làm việc một thời gian, sau khi Delia biết được tin này liền đổi luôn khóa cửa, muốn nhân cơ hội này thoát khỏi John, nhưng cô ấy vẫn thất bại. John lại xông vào phòng Delia, hắn trói cô ấy trên giường, sau đó nhét ngón tay vào trong cổ họng của Delia, hét lên một cách biến thái: “Rốt cuộc cô muốn làm gì?” Thực tế, Delia đương bị bịt miệng khó mà lên tiếng được, mà cô ấy cũng không dám lên tiếng, bởi vì tay kia của John đang cầm dao. Lần này, trong lòng Delia biết là chuyện chẳng lành, cô ấy cảm thấy mình sẽ có thể mất mạng, song, may mắn là đồng nghiệp của Delia lấy lo lắng cho an nguy của cô ấy nên tối hôm đó đã liên lạc với cảnh sát. Sau khi cảnh sát nhân được báo án đã điều cảnh sát tuần tra ở gần khu nhà của Delia đến đó xem xét tình hình. Nghe tiếng gõ cửa, John không dám lên tiếng đáp lại, cũng không dám ra mở cửa. Cuối cùng, không còn cách nào khác, hắn đành phải để Delia ra mặt, nhưng trước khi thả Delia, John đã hăm dọa cô, bắt cô ấy phải nhanh chóng đuổi cảnh sát đi, chỉ cần Delia chịu làm theo đúng yêu cầu của hắn, hắn sẽ rời đi, nếu không, hắn chắc chắn sẽ làm cho cô ấy phải hối hận. Sau khi thả Delia ra, John vẫn chưa yên tâm, hắn lén đi theo phía sau Delia để đề phòng cô ấy giở trò. Nhưng Delia đã có sự chuẩn bị từ trước, vừa mở cửa, cô ấy đã ngay lập tức xông ra ngoài, đến khi John phản ứng kịp thì cảnh sát đã bước vào, cảnh sát đã bắt giữ hắn. Trong lúc chuyển hết đồ đạc của John ra khỏi căn hộ của Delia, khi sắp xếp vật dụng cá nhân của hắn, cảnh sát phát hiện vài thứ đáng kinh ngạc. Bên dưới bồn tắm, họ tìm thấy một chiếc túi vải bọc vải chống thấm ở bên ngoài, bên trong có một sợi dây thừng dài, một đôi găng tay phẫu thuật và rất nhiều cuộn băng dính. Ngoài ra, cảnh sát còn tìm thấy một số khăn bông nghi ngờ là dùng để xóa dấu vết ở hiện trường gây án. Những thứ này liệu có phải là công cụ gây án của John? Phải chăng hắn còn gây ra các vụ án khác nữa? Tạm thời cảnh sát chưa tìm ra câu trả lời, nhưng họ quyết định trước tiên đưa John ra tòa với lí do đã tấn công Delia. John bị đưa vào tù. Cuối năm 1994, thời điểm lễ Giáng sinh sắp đến, trại giam quyết định ân xá một số tội phạm với tội danh nhẹ, để những phạm nhân này có thể ở nhà đón Giáng sinh với người thân, mà John cũng nằm trong những đối tượng này. Buổi tối hôm được thả ra, John đã ôm đầy ác ý lao thẳng đến nhà Delia. Mặc dù Delia đã nói với cảnh sát về các hành vi tàn ác của John, cô ấy biết rõ sau khi được thả ra chắc chắn John sẽ tìm mình trả thù, song, cảnh sát vẫn không hề bảo vệ cô ấy. Tối hôm đó, Delia đạp xe về nhà sau giờ tan làm. Lúc cô ấy về đến trước cửa, John cầm dao và búa đột nhiên lao ra. Trước khi Delia kịp lên tiếng, John đã ấn cô ấy lên cửa, sau đó dùng cán gỗ của cây búa đánh vào đầu Delia. Delia giơ cánh tay lên che đầu, cô ấy cố gắng đạp vào John, nhưng hắn đã đạp cô ấy ngã xuống đất, chiếc xe đạp đè lên người Delia chắn một phần lực đánh cho Delia. Đúng vào lúc này, John chợt rút dao ra đâm vào ngực Delia. Delia hét lên, bên tai cô chỉ nghe thấy tiếng John nện búa lên xe đạp và người cô ấy, cô ấy trông thấy John giơ búa lên cao, cảm nhận được thần chết đang từng bước tiến về phía mình. Vào khoảnh khắc cuối cùng, Delia giơ hai tay lên che mặt, cô ấy nhắm mắt lại chờ chết. Đúng lúc này, người hàng xóm với cây gậy bóng chày trong tay bỗng nhiên xuất hiện. Hàng xóm trông thấy John đang điên cuồng tấn công Delia liền lao ngay đến, dùng gậy bóng chày đánh mạnh vào lưng John. Sau khi bị đánh, John quay người bỏ chạy. Lúc đó, mạng sống của Delia đã vô cùng mong manh. Người hàng xóm vội vàng gọi điện báo cảnh sát, đưa Delia đi cấp cứu. May mắn là mặc dù bị đâm nhiều nhát dao, thương thế vô cùng nghiêm trọng nhưng Delia vẫn kiên trì sống sót. Cảnh sát bắt đầu truy nã John khắp mọi nơi, nhưng John đã trốn biệt tăm từ lâu. Sau khi tiến hành điều tra, tất cả các manh mối đều bị đứt đoạn, các điều tra liên quan đành phải tạm thời dừng lại. Lúc này, không ai hay biết tung tích của John, cảnh sát cũng chỉ đành nhắc nhở người dân phải đề cao cảnh giác, một gã đàn ông vô cùng nguy hiểm, lại có vũ khí trong tay đang lẩn trốn trong phạm vi nước Anh, nếu ai đó phát hiện ra mục tiêu, bắt buộc phải báo cho cảnh sát ngay lập tức. Không lâu sau, khi qua cơn nguy kịch, Delia đã cung cấp cho cảnh sát một manh mối vô cùng quan trọng. Cô ấy nói với cảnh sát rằng mình đã từng trông thấy bức ảnh của một cô gái trẻ trong vali hành lí của John, John từng khoe khoang với Delia rằng đây là cô bạn gái quốc tịch Mỹ của hắn - Melissa. John còn kể, hôm ấy hắn về nhà, trông thấy Melissa cùng hai người đàn ông Đức đang nằm trên giường, hắn liền nổ súng giết chết tất cả bọn họ. John còn nói vì hắn không biết nên xử lí thi thể như thế nào, nên hắn đã ở bên cạnh ba thi thể ấy suốt ba ngày liền. Cuối cùng, John chặt ba thi thể ấy, chia ra rồi vứt xuống kênh đào, xóa sạch dấu vết. Sau khi có được manh mối này, cảnh sát London lập tức liên lạc với cảnh sát Hà Lan, hai bên cùng chia sẻ thông tin cho nhau, xác định manh mối này có liên quan đến nghi án ở Rotterdam năm 1990. Cảnh sát cần phải chứng minh nạn nhân bị giết hại năm 1990 ấy chính là Melissa, như vậy mới có thể phá được án, mới có thể tiếp tục điều tra vụ án không hề có manh mối này. Để chứng thực được thân phận của nạn nhân, cảnh sát Hà Lan cấp tốc liên lạc với người thân của Melissa và lấy được mẫu DNA của bố mẹ cô ấy. Qua đối chiếu, cảnh sát Hà Lan phát hiện DNA của nạn nhân không hề tương thích với mẫu DNA của bố mẹ Melissa. Bởi vì trong tay cảnh sát Amsterdam không có chứng cứ cho thấy Melissa từng đến thành phố này, vì thế họ quyết định kết thúc cuộc điều tra. Vài năm sau, ba người đàn ông câu cá bên một con sông nọ ở London câu được một chiếc túi du lịch, bởi chiếc túi du lịch này bốc mùi hôi thối nồng nặc nên bọn họ quyết định báo cảnh sát. Sau khi cảnh sát đến, họ phát hiện bên trong chiếc túi là những mảnh thi thể vụn nát đã thối rữa. Cảnh sát lập tức lục soát toàn bộ vùng nước này, kết quả lại tìm thấy năm chiếc túi du lịch khác dưới nước. Trong sáu chiếc túi du lịch này là mười mảnh thi thể người đã bị chặt ra. Kẻ vức xác còn lót mấy miếng gạch men và mảnh gốm sứ bên dưới đáy túi hòng gia tăng trọng lượng, khiến cho túi không thể nổi lên mặt nước được. Qua khám nghiệm sơ bộ, cảnh sát xác nhận những mảnh thi thể ấy là của một cô gái trẻ. Vụ án này rất giống với vụ án xảy ra tại Hà Lan, rõ ràng hung thủ muốn dùng cách chặt xác nạn nhân, phá hủy dấu vân tay và dấu răng của nạn nhân để cản trở việc phá án của cảnh sát. Nếu cảnh sát mãi vẫn không xác định được thân phận của nạn nhân, vậy thì những điều tra có liên quan cũng sẽ dần dần phải khép lại, và thế là hung thủ sẽ có cơ hội để thoát tội. Sau khi xảy ra vụ án, quả thật rất khó để cảnh sát xác định được thân phận của nạn nhân, cuối cùng họ quyết định thu thập mẫu DNA của nạn nhân, nhập mẫu DNA vào kho dữ liệu để đối chiếu, kết quả đối chiếu cho thấy, nạn nhân là Paula Fields, 31 tuổi. Paula là người Liverpool, sau khi trưởng thành đã tới sống ở London, nhưng không may bị rơi vào mạng lưới nghiện hút và bán dâm. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện trước khi Paula mất tích từng có liên lạc với một người tên là Joe. Joe cùng Paula là đồng hương, nên hai người nhanh chóng trở thành bạn bè thân thiết. Bởi vì đời sống của Paula rất lộn xộn, vì thế việc cô ấy biến mất một thời gian là chuyện rất bình thường, người thân cũng chẳng thấy lo lắng gì. Nhưng gần đến Giáng sinh mà bọn họ vẫn không thể liên lạc được với Paula nên bắt đầu thấy lo lắng, họ bèn báo cảnh sát rằng cô ấy đã mất tích. Khi cảnh sát điều tra vụ án mất tích này, đã điều tra đến Joe, bọn họ chỉ biết Joe sống ở gần một công viên, nhưng không biết cụ thể là tòa chung cư nào. Trong lúc đi điều tra khai thác thông tin, cảnh sát mới biết được địa chỉ của Joe từ một chủ hộ khác, đồng thời biết được Joe còn có một cái tên khác là Anthony Sweeney. Sau khi nắm được tình hình về Anthony, cảnh sát quyết định bí mật theo dõi hắn. Khi theo dõi Anthony, cảnh sát phát hiện Anthony thường xuyên gặp gỡ một người đàn ông, họ ngay lập tức điều tra thân phận của người đàn ông này, phát hiện ra người đàn ông này chính là em trai của Anthony - John. Để có được thông tin đa chiều hơn, cảnh sát đã đối chiếu thông tin về Anthony và John với kho hồ sơ dữ liệu tội phạm, kết quả đối chiếu khiến cho cảnh sát phải kinh ngạc. Hóa ra đây chính là John Sweeney - kẻ đã đánh đập tàn nhẫn Delia năm 1994, hắn đã trốn được năm năm rồi. Để chắc chắn không xảy ra sơ sót, cảnh sát lặng lẽ bám theo John, sau đó bắt giữ hắn nhân lúc hắn vào tiệm cắt tóc để đặt lịch. Sau khi bắt John về quy án, cảnh sát lại tra ra nơi ở của hắn. Tại đây, cảnh sát tìm thấy rất nhiều súng và đạn. Ngoài ra, John còn có một cây mã tấu, một sợi dây thép, một bộ tóc giả và một sợi dây thừng. Bởi vì các loại vũ khí và súng đạn của hắn đều là sở hữu phi pháp, vì thế cảnh sát quyết định gán cho hắn tội danh cố ý giết người cộng thêm tội vi phạm cơ chế quản lí súng. Ngoài hai tội này ra, cảnh sát còn cho rằng John có liên quan đến vụ án sát hại Paula Fields. Trong quá trình thẩm vấn sau đó, John thừa nhận đúng là mình có quen biết Paula, cũng thừa nhận từng bạo hành Paula, nhưng hắn kiên quyết phủ nhận cái chết của Paula có liên quan đến mình. Bởi vì John quyết không nhận tội, mà trong tay cảnh sát lại không có đủ chứng cứ chứng minh hắn có tội, vì thế Cơ quan truy tố Hoàng gia Anh yêu cầu cảnh sát không thể khởi tố John Sweeney tội giết Paula Fields, song, cảnh sát có thể truy tố hai tội danh khác. John Sweeney bị đưa đến tòa án hình sự trung ương để thẩm vấn. Quá trình xử án vô cùng suôn sẻ, tòa phán John Sweeney có tội, lãnh án chín năm tù có thời hạn. Cũng tức là, John Sweeney rất có thể sẽ lại được tự do. Tuy nhiên, cảnh sát vẫn luôn tin rằng chắc chắn John vẫn còn những tội trạng khác, vì vậy kể cả khi John đã bị giam trong tù, các cuộc điều tra có liên quan vẫn tiếp tục diễn ra. Trong quá trình điều tra tiếp theo, cảnh sát tìm thấy rất nhiều bức tranh và bài thơ với nội dung tàn ác, đen tối đến cùng cực từ trong vali của John, trong đó có một bức chân dung tự họa tên là “Tên săn da đầu”. Trong bức tranh ấy, John hóa thành ác ma, trong tay cầm cây rìu đẫm máu, đứng trên một nơi đầy máu. Bởi vì nội dung các bức tranh quá bất bình thường, quá tăm tối, vì vậy cảnh sát đã kiểm tra kĩ những bức tranh này, việc này đã giúp họ tìm ra được chứng cứ quan trọng có thể kết nối John với nhiều vụ án mạng. Trong một bức tranh phác họa cảnh John đi chơi cùng bạn gái Melissa, hắn đã phủ bút xóa lên một khoảng, sau khi cạo bỏ lớp bút xóa đi, cảnh sát đã nhìn thấy dòng chữ: “Melissa, sinh năm 1965, chết năm (trống)”. Làm sao John lại biết được Melissa đã chết? Vấn đề này chỉ có hung thủ mới biết được. Cảnh sát bắt đầu nghi ngờ John có liên quan đến việc Melissa mất tích. Bởi vì Melissa là người Mỹ nên cảnh sát Anh quyết định mời FBI cùng tham gia vào công cuộc tra án. FBI lập tức cử hai đặc vụ xuất sắc đến trước để hỗ trợ cảnh sát Anh điều tra vụ án, sau khi hai đặc vụ này bắt tay vào điều tra cũng vô cùng coi trọng những bức tranh kinh dị mà John đã vẽ. John luôn dùng phong cách trừu tượng để vẽ mình và bạn gái trong những bức tranh, mà những người phụ nữ trong tranh hầu như đều bị sát hại một cách tàn nhẫn. Ngoại trừ các bức tranh, John còn nhắc đến Melissa trong một vài câu thơ. Văn phong của John không được hay cho lắm, nhưng hắn sẽ nhắc đến thành phố hoặc địa điểm cụ thể nào đó trong các câu thơ. Thí dụ, trong một bài thơ, thường sẽ có các câu đại loại như “Mang Melissa đem cho cá ăn” , “Amsterdam thật tệ”. Theo cách nhìn nhận của đặc vụ FBI, những câu thơ đầy ác ý và trắng trợn này chính là lời độc thoại trong nội tâm của John. Ngoài ra, hai đặc vụ còn cho rằng, những gì được thể hiện trong các bức tranh và câu thơ của John rất có thể đã xảy ra ở ngoài đời thực. Để phá án nhanh chóng, đặc vụ FBI vội vàng đi tới Hà Lan, hi vọng có thể thuyết phục cảnh sát Hà Lan lật lại vụ án. Cuối cùng, cảnh sát Hà Lan cũng đồng ý thành lập tổ điều tra phá án. Trong cuộc điều tra mới này, cảnh sát Hà Lan tiến hành so sánh đối chiếu dữ liệu DNA mới nhất có được từ dữ liệu của thi thể tìm thấy ở Rotterdam trong vụ án xảy ra từ nhiều năm trước. Kết quả đối chiếu đã chứng thực, mảnh thi thể nạn nhân nữ tìm thấy ở Rotterdam năm 1990 chính là Melissa. Đặc vụ FBI có thể khẳng định chắc chắn John Sweeney có liên quan đến cái chết của Melissa, hơn nữa, rất có khả năng hắn chính là hung thủ giết chết Paula Fields. Theo lời đề nghị của đặc vụ FBI, cảnh sát quyết định dùng mảnh xác bị chặt của cả hai vụ án xảy ra ở Anh và ở Hà Lan làm bằng chứng hỗ trợ cho nhau, chứng minh John Sweeney chính là hung thủ giết hại hai cô gái vô tội. Cuối cùng, vào buổi tối trước ngày John được thả ra, cảnh sát lại một lần nữa đưa John Sweeney ra tòa với li do là nghi phạm gây ra hai vụ án mạng. Phiên tòa xét xử diễn ra ở Tòa án hình sự Trung tâm tại London, trong quá trình thẩm tra, phía kiểm sát đã đem những bức tranh của John làm chứng cứ trình lên tòa và bồi thẩm đoàn, bởi vì những bức tranh này đã thể hiện hết từng chi tiết gây án và chặt xác, vì vậy bồi thẩm đoàn và thẩm phán bắt đầu thiên về hướng bất lợi cho John. Đến khi bên phía kiểm sát dùng hai vụ án chặt xác làm chứng cứ hỗ trợ bổ sung cho nhau, bồi thẩm đoàn và thẩm phán gần như đã cùng đi đến thống nhất. Cho dù John kiên trì cho rằng mình không có tội, còn tự đứng vào vị trí của nhân chứng để biện hộ cho mình, song, tòa và bồi thẩm đoàn vẫn đưa ra phán quyết có tội. John Sweeney bị phán mức án chung thân, hắn sẽ phải sống hết phần đời còn lại trong tù để chịu tội cho những gì mà hắn đã gây ra. Phân tích tâm lí bất thường của tội phạm Trong vụ án này, hung thủ John thể hiện tính cách vô cùng máu lạnh tàn bạo. Chỉ nhìn từ hai điểm này, mức độ bất thường trong tâm lí của John Sweeney đã vượt xa so với các tội phạm thông thường, hơn nữa John còn có ham muốn kiểm soát một cách biến thái, một khi đối tượng mà hắn lựa chọn muốn thoát khỏi sự kiểm soát của hắn, hắn sẽ hóa thân thành một kẻ điên cuồng bạo dâm biến thái, số lần hắn tra tấn, ngược đãi người khác càng tăng lên, John sẽ càng có xu hướng bạo hành hơn. Nếu truy tìm căn nguyên nguồn gốc, chúng ta không khó để nhận ra bản thân John có những thói quen vô cùng kì quặc, hắn có khuynh hướng bạo lực lại nghiện rượu. Sau khi trưởng thành, John bắt đầu hút cần sa. Rượu và cần sa dần dần ăn mòn lí trí của John, làm cho hắn trở nên tàn nhẫn hơn, bạo lực hơn. Ngoại trừ hai sở thích không lành mạnh này, John còn ham đọc sách kinh dị, nuôi dưỡng các loài động vật đáng sợ, những hành vi này vô hình chung cũng làm cho tâm lí của hắn trở nên vặn vẹo, khiến hắn trở thành một người càng khác người, lập dị hơn, cũng càng dễ kiểm soát hơn. Nhìn bề ngoài, những xung đột bạo hành có vẻ là nguyên nhân chính khiến cho tình cảm à à lại thiếu hụt khả năng tự kiềm chế một cách nghiêm trọng. Phải biết rằng trước khi quen biết Melissa, John đã có một cuộc hôn nhân tồi tệ, mà hắn chính là nguyên nhân làm cho cuộc hôn nhân ấy phải đi vào hồi kết. Kể cả trước khi sống chung với bạn gái, John tỏ ra vô cùng nho nhã, lịch sự, nhưng đây chỉ là thủ đoạn của hắn, một khi thành công có được, hắn sẽ để lộ bản chất. Mỗi bức tranh mà John vẽ ra đều chứa đầy những yếu tố bạo lực, mà những yếu tố này lại thể hiện rõ ràng mối quan hệ thực giữa hắn và bạn gái, có thể nói, mục đích John liên tục làm quen với bạn gái mới thực ra chính là để thỏa mãn dục vọng biến thái từ sâu trong nội tâm. Bắt đầu từ việc hắn thường xuyên bạo hành người vợ cũ, thế giới nội tâm của John đã bị lệch lạc. Cộng thêm tác dụng của rượu và cần sa, John càng dễ sinh ra ảo giác. Trong thế giới ảo tưởng của John, hắn chính là kẻ thống trị duy nhất, điều này càng làm cho ham muốn kiểm soát mọi thứ của hắn ngày càng mãnh liệt hoen, hắn bắt đầu không thể chịu đựng được việc người khác phản bội lại mình, nếu có người nào làm như vậy, hắn sẽ dùng thủ đoạn tàn ác nhất để dạy dỗ đối phương. Thực tế, người tàn ác, hung bạo, dễ nổi nóng và thiếu khả năng tự kiểm soát là người dễ có những hành động gây tổn thương cho người khác nhất, cũng rất dễ gây ra các vụ án mạng. Rõ ràng John chính là người như vậy, sau khi gây ra vụ án mạng đầu tiên, ham muốn kiểm soát ở mức biến thái của John đã được thỏa mãn. Để tiếp tục thỏa mãn ham muốn này của mình, John tìm đủ mọi cách để xóa sạch chứng cứ gây án, chỉ có như vậy, cảnh sát mới không thể phá án nhanh chóng được, hắn mới có cơ hội tìm kiếm “con mồi” mới, mới có thể tiếp tục có những hành vi tàn sát. Đối với John, mục đích lớn nhất của việc giết người chính là để thỏa mãn ham muốn kiểm soát đang ngày một mãnh liệt hơn từ sâu thẳm trong thâm tâm hắn, đây cũng là nguyên nhân chính khiến hắn liên tục gây án. Nhưng điều thực sự làm cho John bước chân vào con đường phạm tội chính là bản tính tàn bạo ẩn sâu trong nội tâm hắn. Dưới sự dẫn dắt của đủ loại nguyên nhân từ bên ngoài, John từng bước mất đi khả năng kiểm soát bản tính tàn bạo này, hay nói cách khác, hắn đã say mê cảm giác hành hạ người khác, mà đây chính là điểm mấu chốt khiến hắn đắm chìm trong thể giới ảo tưởng. Mức độ chìm đắm càng gia tăng thì thế giới nội tâm của John càng trở nên bất thường, biến thái hơn, cuối cùng hắn trở thành một tên tội phạm giết người. SÁT THỦ ẨN NẤP CHƯƠNG 4 Ở Canada, người ta thường xây nhà ở vùng ngoại ô hoặc các khu vệ tinh, như vậy, nhà sẽ trở thành bến cảng tránh mưa tránh gió, rời xa khỏi những ồn ào bon chen của thành phố. Hằng ngày sau khi kết thúc công việc, mọi người có thể ở trong căn nhà yên tĩnh tận hưởng khoảng thời gian dành riêng cho mình. Song, sinh sống ở nơi hoang vắng cũng không phải là chuyện an toàn, mỗi khi có kẻ rắp tâm gây rối, chủ nhà có thể sẽ gặp nguy hiểm. Ở vùng ngoại ô thành phố Montreal, bang Quebec có một tên hung thủ giết người hàng loạt vô cùng điên cuồng, tàn bạo. Bởi tên sát thủ này luôn ngụy trang thành một công nhân tạp vụ phục vụ tận nhà, vì vậy nhiều người gọi hắn là “sát thủ tạp vụ”. Tháng 10 năm 1999, cư dân ở một trấn nhỏ nọ trong thành phố Montreal bang Quebec vẫn đang sinh sống an bình. Trấn này được xây dựng trên một hòn đảo nhỏ ở phía Tây Bắc thành phố Montreal, vị trí địa lí như ậy nên cả thị trấn chỉ có khoảng 1500 người dân sinh sống. Bởi môi trường hoàn cảnh nơi đây khá khép kín, người dân sống trong vùng này đa số đều quen thuộc lẫn nhau, nên trong trấn hầu nhau chẳng bao giờ có chuyện gì rắc rối xảy ra. Trong nhận thức của cảnh sát địa phương, nơi này chắc chắn có thể coi là khu vực an ninh được bảo đảm nhất. Anna Yano 59 tuổi ở đây, mặc dù bà sống một mình, nhưng tình cảm giữa bà và người chồng Robert cùng cô con gái Elsa vô cùng tốt, chẳng qua vì lí do công việc nên cả gia đình mới phải tạm thời sống xa nhau. Trong kí ức của Elsa, mẹ Anna là một người phụ nữ có sở thích phong phú đa dạng và tính cách hoàn hảo, bà đam mê hội họa, là một người phụ nữ rất có năng khiếu nghệ thuật. Anna rất yêu thích những loại động vật bé nhỏ, bà có nuôi một chú chó con. Khi mọi người trong nhà đều đi vắng, chỉ có con chó nhỏ này bầu bạn với bà. Anna vô cùng yêu thích chú chó, còn đặt cho nó một cái tên rất hay, Chubo. Nhà Anna khá hẻo lánh, nằm ở cách xa đường lớn, phía sau nhà là một rừng cây lớn, trước nhà chỉ có một con đường nhỏ, vì vậy hoàn cảnh nơi này vô cùng tĩnh mịch, bí hiểm, người không thạo đường chắc chắn không thể phát hiện ra nơi đây còn có một căn nhà. 3 giờ chiều ngày 14 tháng 10, Anna đưa Chubo đang ốm đi khám bác sĩ thú y. Bác sĩ thú y phát hiện bên trong cơ thể Chubo có một khối u, muốn chữa trị cho Chubo thì bắt buộc phải cắt bỏ khối u này đi. Vì không thể xác định được đây có phải là u lành hay không, Anna vô cùng lo lắng chó Chubo. Khám xong, Anna đưa Chubo về nhà. Chồng của Anna đang ở văn phòng làm việc liền gọi điện cho bà hỏi thăm tình hình của Chubo. Sau đó không lâu, Elsa cũng gọi điện cho Anna. Trong điện thoại, giọng Anna đã nghẹn ngào. Elsa biết rằng chắc chắn mẹ mình vừa mới khóc xong. Để giúp mẹ bình tĩnh lại, Elsa nói với Anna rằng phẫu thuật xong chắc chắn bệnh tình của Chubo sẽ đỡ ngay, bảo bà không cần lo lắng. Sau khi thấy Anna đã bình tĩnh lại, Elsa liền cúp điện thoại. Sắc trời tối dần, mặt trời xuống núi, nhà Anna cũng đã bật đèn. Một lát sau, một chiếc ô tô lặng lẽ lái đến trước cửa nhà Anna. Kế đó, một người đàn ông xa lạ từ trên xe bước xuống, hắn đội mũ lưỡi trai, viền mũ kéo dài che khuất gần nửa khuôn mặt. Sau khi xuống xe, người đàn ông lạ mặt này không nói một lời nào đi thẳng về phía nhà Anna. Sau đó, một chuyện kinh khủng đã xảy ra. Sáng ngày 15 tháng 10, vì lo lắng cho tâm trạng của Anna, Elsa và Robert thay phiên nhau gọi vài cuộc điện thoại nhưng đều không có ai bắt máy. Mãi không liên lạc được với Anna nên Elsa lại gọi điện cho bố Robert. Robert nói rằng ông cũng không thể liên lạc được với Anna. Điều này khiến cả ông và Elsa đều thấy rất sốt ruột. Để biết rõ tình hình, Robert quyết định về nhà thăm Anna. Buổi tối hôm đó, Robert lái xe về nhà. Sau khi đậu xe, Robert đã ngay lập tức trông thấy chiếc ô tô đang đậu ở lối đi bên ngoài nhà, đây là xe mà Anna vẫn lái. Vì trong nhà vẫn bật đèn sáng nên Robert tưởng Anna ở trong nhà. Robert vừa đi vào nhà vừa gọi tên Anna, nhưng mãi không có ai đáp lời. Sau khi vào trong nhà, Robert không nhìn thấy bóng dáng Anna ở dưới nhà, ngay cả chú chó nhỏ Chubo cũng không biết đã đi đâu rồi. Robert đi lên gác, sau khi mở cửa phòng ngủ ra đã trông thấy Chubo, nó bị nhốt trong phòng ngủ. Robert giơ tay xoa đầu Chubo, sau đó ngẩng đầu lên quan sát đánh giá tình hình bên trong phòng ngủ. Robert để ý thấy túi xách của Anna bị ném bên giường, ví, thẻ và một ít tiền lẻ rơi vãi ra bên ngoài. Tình hình trong phòng làm cho Robert càng lúc càng lo lắng, ông quyết định ra ngoài sân để xem xét. Robert ra vườn hoa trước, vừa bước xuống cầu thang đã thấy được bóng dáng của Anna, bà đang nhoài ra trước một chậu hoa trong vườn, bất động. Robert vội vàng chạy đến, nhưng Anna đã tắt thở từ lâu. Robert đau đớn tuyệt vọng, vội vàng gọi điện báo cảnh sát, cảnh sát liền đến hiện trường vụ án. Ngay sau đó, chuyên gia tâm lí tội phạm cũng đến, trước tiên, anh ấy phân công một tổ giám định dùng máy ảnh chụp lại tình trạng của hiện trường vụ án, sau đó bắt đầu tìm chứng cứ. Trong lúc chụp lại chứng cứ, thành viên tổ thu thập bằng chứng phát hiện phần đầu và hai má của Anna có rất nhiều vết thương rõ rệt, từ hình dáng của miệng vết thương, có lẽ hung khí là một vật không sắc nhọn nhưng rất nặng. Kế đó, nhân viên thu thập chứng cứ đã kiểm tra kĩ cả vườn hoa, và tìm thấy một chậu hoa dính đầy máu ở trong góc vườn. Sau khi thu thập tất cả chứng cứ, cảnh sát đã căn cứ theo hiện trường vụ án để suy luận diễn biến có khả năng cao nhất của vụ án. Bởi vì kính của Anna rơi trong chậu rửa mặt ở nhà tắm, vì vậy cảnh sát cho rằng khi xảy ra vụ án, có lẽ Anna đang rửa mặt. Lúc nghe thấy có tiếng động ngoài cửa, Anna liền đeo kính lên định ra xem xét tình hình, nhưng hung thủ đã tiến vào nhà tắm ngay lúc bà quay đầu lại, rồi ngay lập tức tấn công bà. Anna bị tấn công đã giãy giụa phản kháng kịch liệt, bà giằng co với hung thủ, quay người bỏ chạy. Rõ ràng hung thủ đâu chịu từ bỏ, hắn đuổi theo phía sau Anna. Anna trốn ra bên ngoài nhà, nhưng không thoát được khỏi tên hung thủ. Nhân lúc Anna đang cố hết sức để chạy về phía trước, hung thủ liền xông lên, ấn Anna ngã xuống đất. Trước tiên, hung thủ bóp chặt cổ Anna, sau đó cầm chậu hoa đang đặt ở bên cạnh lên đập mạnh vào đầu bà. Sau khi giết chết Anna, hung thủ điềm nhiên thong thả quay trở vào trong nhà, hắn lục túi da của Anna, lấy trộm thẻ ngân hàng của bà. Từ quá trình xảy ra vụ án mà cảnh sát suy đoán, có lẽ đây là một vụ giết người cướp của, nhưng so với các vụ án cùng loại, vụ án này rõ ràng là quá tàn bạo. Phải biết rằng, việc hung thủ cầm chậu hoa đập chết nạn nhân so với dùng súng giết người là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Bởi vì tạm thời vẫn chưa có manh mối nào để phá án nên cảnh sát quyết định điều tra từ người thân của nạn nhân trước. Thông thường, trong hầu hết các vụ án mà nạn nhân là phụ nữ đã kết hôn, chồng nạn nhân luôn là đối tượng điều tra chủ yếu của cảnh sát, vụ án này cũng không ngoại lệ. Cảnh sát đưa Robert về sở cảnh sát để lấy lời khai, trước khi hỏi chuyện, cảnh sát để Robert thông báo cho Elsa biết, đồng thời phải làm cho Elsa nhanh chóng đến sở cảnh sát phối hợp điều tra mà không để lộ ra tình hình vụ án. Robert làm theo đúng yêu cầu của cảnh sát. Sau khi Elsa đến, cảnh sát đưa cô ấy đến một gian phòng khác để thẩm vấn. Trong lúc thẩm vấn, cảnh sát nhiều lần lặp lại câu hỏi liệu giữa Robert và Anna có vấn đề gì về mặt tình cảm hay không. Sau khi Elsa đưa ra câu trả lời chi tiết, cảnh sát mới nói với cô ấy chuyện mẹ mình đã bị giết hại. Sau khi có được lời khai từ Elsa, cảnh sát đã có thể phán đoán sơ bộ rằng Robert không có liên quan gì đến vụ án này, nhưng với thân phận là chồng của nạn nhân, cảnh sát vẫn cần phải tiếp tục thẩm vấn, họ hi vọng có thể nắm được manh mối giúp thúc đẩy tiến trình vụ án từ những thông tin Robert cung cấp. Mặc dù cuộc thẩm vấn này kéo dài suốt gần 4 tiếng đồng hồ, nhưng cảnh sát vẫn không có thu hoạch gì. Ngoài ra, nhân viên thu thập chứng cứ cũng không lấy được bất cứ dấu vân tay nào từ hiện trường vụ án, tuy có thể xác định hung khí chính là chậu hoa bị ném trong góc vườn, song, bởi vì chất liệu của chậu hoa này nên rất khó để lấy được dấu vân tay trên đó. Nhân viên thu thập chứng cứ còng kiểm tra kĩ túi xách của nạn nhân, nhưng hung thủ không để lại bất kì chứng cứ nào. Vì thế, công tác điều tra rơi vào khó khăn. Ngày hôm sau, vụ thảm án này đã khiến cả vùng kinh hãi, mọi người đều lo lắng cho sự an toàn của mình. Bởi vì nạn nhân là phụ nữ sống một mình, hung thủ có thể thừa cơ rat ay giết hại, hơn nữa không có động cơ gây án rõ ràng, điều này khiến người dân vô cùng sợ hãi. Ở nơi đây, hầu hết đàn ông đều đi làm xa nhà, về cơ bản khu vực này toàn phụ nữ sống một mình. Nếu hung thủ còn tiếp tục gây án, vậy thì hắn có thể dễ dàng tìm thấy mục tiêu giết hại tiếp theo. Thực tế từ ba tháng trước, ở một vùng lân cận khác cũng nằm trên hòn đảo nhỏ này đã xảy ra vụ án tương tự. Khi xảy ra vụ án, nạn nhân Janet Kuchinsky đang đi tản bộ trên lối đi dành cho xe đạp, hung thủ đột ngột xông ra từ bụi cây ven đường, đẩy ngã Janet rồi giết hại. Cảnh sát hiểu rõ, nếu có thể chứng minh được mối liên hệ giữa hai vụ án này, như vậy có nghĩa là trên hòn đảo này đang có một kẻ giết người hàng loạt. Để ngăn chặn việc lại tiếp tục xảy ra vụ án mới, cảnh sát vừa phải tăng cường điều tra, vừa phải hô hào dân chúng, kêu gọi mọi người cẩn thận cửa nẻo, không được mở cửa cho người lạ. Vài tuần sau, trên đảo không xảy ra thêm vụ án mới, nhưng gần hòn đảo này lại liên tiếp xảy ra hai vụ án kinh hoàng, hai vụ án này đã làm kinh động đến hệ thống cảnh sát trên toàn bang Quebec. Trong một khu dân cư yên tĩnh cách thành phố Montreal một giờ đi xe lại xảy ra một vụ án mạng rùng rợn. Moni Gojo 45 tuổi là một nữ y tá, giống như Anna, Moni cũng là một người yêu chó. Ngày 29 tháng 10, hai tuần sau khi vụ án trên đảo xảy ra, Moni không đến bệnh viện làm việc đúng giờ. Vì lo lắng cho sự an toàn của Moni, các đồng nghiệp ở bệnh viện đã liên lạc với chị gái của cô ấy. Buổi tối hôm đó, chị gái Moni liền lái xe đến nhà Moni để xem xét tình hình. Sau khi vào nhà, cô ấy đã trông thấy một cảnh tượng kinh hoàng. Moni đã tử vong, thủ đoạn gây án của hung thủ vô cùng tàn bạo, cho dù là một thanh tra cảnh sát kinh nghiệm lão luyện cũng chưa từng thấy thủ đoạn giết người tàn bạo, độc ác đến như vậy. Từ hình dạng vết máu bắn lên tường cho thấy, hung thủ đã liên tục đâm hơn năm mươi nhát dao vào nạn nhân trong khoảng thời gian cực kì ngắn ngủi với sức lực khủng khiếp. Hiện trường vụ án nhuốm đầy máu tựa như địa ngục A Tu La. Trong quá trình phá án, cảnh sát bắt đầu suy xét, rốt cuộc nguyên nhân gì khiến hung thủ lại căm thù nạn nhân đến như vậy, mục đích khi hắn làm vậy là gì, chỉ vì giết người thôi sao? Sau khi kiểm tra tỉ mỉ hiện trường gây án, mối nghi hoặc của cảnh sát càng sâu hơn. Mặc dù hiện trường vụ án vô cùng đẫm máu nhưng không hề có dấu vết bị đột nhập, nhân viên thu thập chứng cứ cũng không lấy được bất cứ dấu vân tay nào từ bên ngoài, không tìm thấy hung khí của hung thủ. Trong vụ án mạng này, không có dấu vết bị lục lọi ở nhà của nạn nhân, không tài sản nào bị mất. Cuối cùng, cảnh sát tìm thấy một dấu giày ở lối đi trước cửa bên ngoài nhà nạn nhân, bởi vì trên dấu giày này có vết máu của nạn nhân nên cảnh sát cho rằng người để lại dấu giày chính là hung thủ của vụ án. Lần theo dấu giày dính máu này đi tiếp về phía trước, cảnh sát lại phát hiện vài giọt máu nhỏ thành một đường. Hình thái vết máu như vậy xuất hiện ở vị trí này, có nghĩa đây có thể là máu của hung thủ. Khi hung thủ điên cuồng đâm nạn nhân, hai tay của hắn cũng rất dễ bị dao cứa vào. Khi hắn trốn khỏi hiện trường, việc chạy và đi lại sẽ làm cho máu ở vết thương nhỏ xuống đất, vì thế những giọt máu này rất có khả năng là của hung thủ. Không lâu sau, nhân viên thu thập chứng cứ đã thu thập xong mẫu vật để đưa đến phòng thí nghiệm tội phạm kiểm tra. Qua xét nghiệm, họ xác định được giọt máu này thuộc về một người đàn ông không rõ thân phận, bị hạn chế bởi đủ các nguyên do nên cảnh sát không thể dựa vào vài giọt máu đó để phán đoán ra thân phận thực sự của hung thủ. Hơn nữa, giữa vụ án của Moni Gojo và vụ án của Anna Yano không có mối liên hệ rõ ràng, vì vậy không thể gộp hai vụ án này vào để cùng điều tra được. Ba tuần sau, cũng tức là ngày 19 tháng 11, ở một thị trấn nhỏ khác vùng ngoại ô Montreal lại xảy ra một vụ án mạng tàn bạo. Hôm đó, Terry Salisa - một kế toán 55 tuổi bỗng vắng mặt không lí do, công ty đã gọi điện cho Terry rất nhiều lần, nhưng mãi vẫn không có ai nhận máy. Bởi vì thời gian gần đây liên tục xảy ra các vụ án mạng nên công ty quyết định báo cảnh sát. Sau đó, công ty cử một đồng nghiệp đi theo cảnh sát đến nhà của Terry để xem xét. Tới trước nhà Terry, cảnh sát phát hiện có đến 3,4 tờ báo bị nhét ở cửa, họ ngay lập tức tìm ban quản lí chung cư để mở cửa. Tiếp đó, viên thanh tra chịu trách nhiệm đến trước để xem xét tình hình liền lớn tiếng gọi tên Terry, nhưng không có ai trả lời, nhóm người đành phải vào phòng ngủ để kiểm tra. Đẩy cửa phòng ngủ ra, cảnh sát đã thấy ngay thi thể của Terry. Thi thể nằm nghiêng trên giường, vết máu trên drap giường đã khô. Cảnh sát liền gọi điện báo cáo lên cấp trên, thanh tra chịu trách nhiệm điều tra vụ án nhanh chóng đến hiện trường, tổ pháp y cũng đi theo. Qua khám nghiệm sơ bộ, pháp y nhận thấy trước khi chết, nạn nhân đã bị xâm hại tàn bạo, hung thủ đã dùng một vật cùn đập nạn nhân, sau khí phát tiết thú tính của mình, hung thủ lại điên cuồng đâm nạn nhân ba mươi nhát dao cho đến khi nạn nhân tử vong mới thôi. Khi điều tra, cảnh sát phát hiện vụ án này giống với vụ án Moni Gojo bị sát hại ba tuần trước, cách thức gây án của hung thủ và tình trạng hiện trường tương tự như nhau, điểm khác biệt duy nhất là phòng của Terry có dấu vết bị lục lọi rất rõ. Sau khi xác nhận kĩ, cảnh sát phát hiện thẻ ngân hàng và một số trang sức quý giá của Terry đã bị hung thủ mang đi. Trong công tác điều tra sau đó, cảnh sát lại phát hiện sau khi Terry gặp nạn, đã có người sử dụng chiếc thẻ ngân hàng đã bị mất đó. Thẻ của Terry là thẻ ATM, số tiền khoảng 1000 USD, kẻ lấy được thẻ có thể rút hết toàn bộ số tiền của thẻ trong hai lần. Cảnh sát đã lấy được hình ảnh ghi lại từ camera giám sát của ngân hàng lúc hung thủ rút tiền, nhưng bởi vì người này đội mũ trùm đầu nên camera chị chụp lại được góc mặt nghiêng rất mờ. Nếu chỉ dựa vào hình ảnh này, tạm thời cảnh sát chưa thể tìm ra được thân phận thực sự của kẻ đó. Sau đó, cô con gái Elsa của nạn nhân Anna Yano phát hiện tài khoàn ngân hàng của mẹ mình cũng bị rút tiền, mà thời gian rút tiền chính là vào ngày mẹ cô bị sát hại. Elsa vội vàng báo lại thông tin này cho cảnh sát, thanh tra chịu trách nhiệm điều tra vụ án của Anna Yano cũng lấy được hình ảnh từ camera giám sát của ngân hàng. Lần này, camera đã chụp lại được mặt chính diện của người rút tiền, nhưng hắn ta trùm kín đầu, khi rút tiền còn cúi gằm đầu xuống, vì vậy cảnh sát vẫn không thể dựa vào hình ảnh từ camera để tìm ra thân phận người rút tiền. Mặc dù không thể suy đoán ra thân phận thực sự của nghi phạm từ hình ảnh mờ của camera giám sát, nhưng cảnh sát vẫn có thể căn cứ theo các manh mối hiện có để phán đoán nghi phạm cao khoảng 1m77, là người da trắng, vào lần đầu tiên rút tiền, người này có để râu. Cảnh sát có thể chắc chắn rằng cả ba nạn nhân đều gặp nạn khi đang ở nhà một mình, hơn nữa hung thủ còn ăn cắp tài sản của hai trong ba nạn nhân. Rõ ràng, ba vụ án xảy ra gần đây có liên quan đến nhau. Lại bởi vì trong ba vụ án mạng này, hung thủ sử dụng cách thức gây án tương tự nên cảnh sát khẳng định hung thủ là cùng một người. Ngoài ra, cảnh sát còn tìm ra nguyên nhân khiến hung thủ làm nhục và đánh đập nạn nhân. Họ cho rằng hung thủ thông qua việc ngược đãi, hành hạ nạn nhân để ép họ nói ra mật khẩu của thẻ ngân hàng, đến khi nạn nhân chịu nói ra mật khẩu, hung thủ liền ra tay tàn độc, dùng thủ đoạn điên cuồng để giết chết nạn nhân. Bởi bên trong nhà của nạn nhân không có dấu hiệu bị xâm nhập một cách bạo lực, tên hung thủ này lại rất giỏi che giấu mặt mũi, vì vậy cảnh sát đoán rằng hung thủ có thể đã lợi dụng một thân phận đặc thù nào đó để đường hoàng đi vào nhà của nạn nhân. Ví dụ, có thể hung thủ sẽ cải trang thành nhân viên tiếp thị tận nhà hoặc lao công tạp vụ, cũng có thể ngụy trang thành cảnh sát hoặc thợ điện nước, hắn có thể tìm vài cái cớ để lừa gạt lòng tin của nạn nhân, sau khi vào trong nhà sẽ giết chết nạn nhân theo kế hoạch. Ngày 14 tháng 12, tám tuần sau khi Anna Yano bị giết hại, một người đàn ông xa lạ đã đến khu dân cư nọ ở thành phố Montreal, hắn chọn một căn nhà ở khu vực hẻo lánh, bước lên gõ cửa căn hộ này. Chủ căn hộ có lẽ là một người phụ nữ, người đàn ông nói rằng hắn là một người thợ cắt tỉa cây cỏ, hiện tại đang làm việc ở gần đây, vì vậy hắn muốn hỏi xem quý cô này có cần giúp đơc gì hay không. Người phụ nữ suy nghĩ giấy lát rồi quay đầu vào bàn bạc với ông chồng đang ở trong nhà, cuối cùng họ đã từ chối người đàn ông xa lạ. Sau khi bị từ chối, người đàn ông xa lạ rất lịch sự rời đi. Thế là hắn lại đến trước cửa nhà Mary Elisabeth Glenn. Năm nay Mary đã 50 tuổi, bà là một họa sĩ, thường ở trong nhà vẽ vời một mình. Tính cách Mary hướng ngoại, cũng khá có tên tuổi trong khu vực này. Mary không hề nghi ngờ thân phận của người đàn ông xa lạ, bà liền mở cửa cho đối phương vào nhà. Đến lúc Mary quay đầu đi vào trong phòng, người đàn ông vừa rồi còn rất lịch sự nhã nhặn đột nhiên xông lên phía trước đẩy Mary ngã xuống đất. Sáng hôm sau, người giúp việc nhà Mary đến làm việc. Nữ giúp việc bấm chuông mãi mà không ai trả lời, bèn dùng chùm chìa khóa phụ mà Mary đưa cho để mở cửa. Người giúp việc mang dụng cụ làm việc đi qua hành lang, ngay lập tức đã trông thấy xác chết nằm ở phòng khách. Mary Elisabeth Glenn đã bị giết hại. Khi cảnh sát đến đã lập tức kiểm tra hiện trường và thi thể nạn nhân theo đúng quy trình. Thi thể của Mary được di dời vào trong phòng khách, nạn nhân đã bị cưỡng bức, bị vật cùn nặng đập vào đầu, nhiều nhát dao đâm vào cơ thể dẫn đến tử vong. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện thủ pháp gây án của vụ án này giống hệt với những vụ án mới xảy ra gần đây, nạn nhân đều là phụ nữ, bị giết hại lúc đang ở nhà một mình, hiện trường vụ án không có dấu hiệu cho thấy sự thâm nhập bằng hình thức bạo lực, rõ ràng là nạn nhân bị đánh đập tàn bạo, bị cưỡng bức rồi bị đâm chết một cách tàn nhẫn. Căn cứ theo hình dạng các vết máu bắn lên ở hiện trường, có lẽ hung thủ đã bắt đầu ra tay từ lối đi hành lang. Sau khi bị tấn công, Mary liều mạng giãy giụa, vài lần bà đã thoát được ra khỏi tay hung thủ, nhưng chưa chạy được vài bước đã lại bị hung thủ khống chế. Cuối cùng, Mary chạy vào phòng khách và bị giết ở đây. Sau khi giết chết nạn nhân, hung thủ đi vào bếp, hắn vặn vòi nước ra rửa sạch hết vết máu trên tay, sau đó lên gác lấy thẻ ngân hàng của nạn nhân. Cảnh sát kiểm tra kĩ hiện trường vụ án và tìm thấy một số dấu giày mờ tại hiện trường, sau khi so sánh đối chiếu, cảnh sát phát hiện những dấu giày này giống với dầu giày trong vụ án mạng của Moni Gojo. Bởi vì tên sát nhân đã từng rửa tay trong nhà của nạn nhân, đây là tình huống chưa từng xảy ra trước đó, vì vậy cảnh sát phán đoán hiện tại hung thủ đã bắt đầu mất cảnh giác, rất có khả năng hắn sẽ để lại càng nhiều manh mối hơn. Sau khi kiểm tra tỉ mỉ, quả nhiên cảnh sát tìm thấy một dấu vân tay trên tấm ván gỗ mặt ngoài gian bếp, dấu vân tay này không phải là của người nhà nạn nhân, cũng không phải của người giúp việc, vì thế cảnh sát phán đoán người để lại dấu vân tay rất có thể chính là hung thủ của vụ án. Sau khi tìm thấy dấu vân tay này, cảnh sát đã hành động ngay lập tức, họ mời chuyên gia lấy mẫu vân tay ra rồi nhập vào kho thông tin dữ liệu có liên quan để đối chiếu. Cuối cùng, cảnh sát cũng tìm được vân tay phù hợp, dấu vân tay xuất hiện tại nhà nạn nhân thuộc về William Fifo 44 tuổi. Có điều, do trên dấu vân tay này không có vết máu, vì vậy cảnh sát không thể nhận định William chính là hung thủ nếu chỉ dựa vào nó. Mặc dù dấu vân tay tạm thời chưa thể chứng minh William chính là tên hung thủ giết người, nhưng có thể cho thấy hắn đã từng đến nhà của nạn nhân. Phải biết rằng, William không hề có mối quan hệ quen biết gì với người bị hại, tại sao hắn lại đến nhà nạn nhân? Cảnh sát chỉ muốn có câu trả lời ngay lập tức. Ngày 16 tháng 12, cảnh sát thành lập tổ chuyên án phụ trách điều tra William Fifo. Trong lúc sắp xếp, xem xét hồ sơ, cảnh sát phát hiện William đã từng đi tù vào những năm 70 của thế kỉ 20, khi đó, hắn phạm tội đột nhập phi pháp và cướp của. Sauk hi ra tù, William bắt đầu làm các công ty tạp vụ. Không lâu sau, hắn đã trở thành thợ sơn thành thạo, còn có cả kĩ năng trang trí nội thất cho nhà ở. Bởi vì biểu hiện suất sắc trong công việc nên William có thể tìm ra cách để dễ dàng vào nhà người khác khi đang làm các công việc tạp vụ, rất có khả năng hắn đã lợi dụng lợi thế về công việc này để thực hiện kế hoạch giết người đã vạch sẵn. William đã kết hôn và có một người con. Qua điều tra cho thấy, trong cuộc sống thường ngày, William là một người dễ gần thân thiện. Bởi vì ngoại hình của hắn rất trông hiền lành nên trước khi kết hôn đã từng có rất nhiều bạn gái. Sau khi điều tra kĩ càng hành tung của William, cảnh sát phát hiện thời gian gần đây William luôn sống ở một thị trấn nhỏ phía Bắc thành phố Montreal, nhưng đã mấy ngày rồi hắn chưa xuất hiện. Lúc này, cảnh sát đang phải đối mặt với một vấn đề, đó chính là, liệu họ có cần phải bắt William ngay hay không. Cảnh sát cần phải bảo đảm an toàn cho người dân, nếu họ không thể công bố tin tức này kịp thời, để người dân đề cao cảnh giác, thì phải chăng hung thủ sẽ lại tiếp tục gây án? Cuối cùng, công tố viên đã đặt ra một kì hạn cho cảnh sát, yêu cầu cảnh sát phải đưa được William về sở cảnh sát trong thời gian này, nếu cảnh sát không bắt được William thì phải công bố tất cả thông tin có liên quan lên mặt báo. Tiếp đó, cảnh sát có được một manh mối từ bạn gái cũ của William. Cô ta nói rằng có thể William đang ở nhà mẹ ở ven bang Ontario, nơi đó cách thành phố Montreal khoảng 650km. Ngoài ra, cảnh sát còn tra ra được William có một chiếc xe hơi Ford Ranger màu xanh da trời. Cảnh sát địa phương nhanh chóng thông báo tin này cho cảnh sát Ontario, để họ tiếp tục điều tra theo manh mối này. Thanh tra cảnh sát bang Ontario là Jim Miller được lệnh tiếp nhận vụ án, bạn của Jim là Kerr Handa - một chuyên gia tâm lí tội phạm, sau khi biết tin Jim đang điều tra một vụ án giết người hàng loạt gần đây, Kerr cũng đi cùng. Qua điều tra, Jim phát hiện mẹ của William đang sống trong một nông trang đã cũ. Sau khi tìm được địa chỉ cụ thể, Jim và Kerr cùng đến điều tra. Để tránh đánh rắn động cỏ, Jim và Kerr quyết định trước tiên cứ theo dõi nông trang này một thời gian đã. Trong khi đợi William xuất hiện, Jim đã kiểm tra kĩ căn nhà cũ nát này bằng ống nhòm, anh ấy để ý thấy trước nhà có hai chiếc ô tô đang đỗ, một trong số đó chính là xe Ford Ranger màu xanh da trời. Không lâu sau, Jim đã trông thấy William. William đi ra từ sau nhà, đứng trước sân một lúc rồi lại trở vào trong. Sau khi tìm thấy William, Jim đã lập tức cắt cử cảnh sát liên tục giám sát căn nhà này suốt 24 giờ. Mặc dù lúc này cảnh sát vẫn chưa thể chứng minh được William chính là hung thủ giết người, nhưng họ có thể chắc chắn rằng hắn sẽ không còn cơ hội để tiếp tục giết người nữa. Chỉ cần có được bằng chứng xác thực là cảnh sát có thể bắt William ngay lập tức. Sau khi tìm thấy William, cảnh sát mới từ từ công bố các thông tin có liên quan của vụ án, đồng thời hi vọng có thể tìm được nhân chứng ra nhận diện William, cho dù không có ai nhận diện được William thì những tin tức đã được công khai này chắc chắn để lộ ra sơ hở. Sau khi báo chí đưa tin rầm rộ, William đã nhanh chóng trở thành nghi phạm của bốn vụ án mạng. Ngày 21 tháng 12, ba ngày sau khi tin tức về William lan tràn trên các mặt báo, hắn đã có một hành động vô cùng khả nghi. William lái xe đi loanh quanh khắp mọi nơi trong thị trấn, sau khi vòng đi vòng lại mấy vòng, hắn dừng xe trước một nhà thời rồi lấy một số thứ từ trong xe và lặng lẽ bỏ lại những thứ đồ ấy ở khoảng đất trống đằng sau nhà thờ. Do hành động của William rất đang nghi nên cảnh sát vẫn luôn quay chụp lại mọi hành động của hắn, ghi lại hết cả quá trình William vứt những đồ vật này đi. Cảnh sát phát hiện, hắn vứt ba đôi giày chạy ở thùng gom quần áo cũ để quyên góp từ thiện của nhà thờ. Ngay sau đó, ba đôi giày này đã được đưa đến trung tâm giám định để kiểm tra. Lúc này, Kerr đã biết rõ chi tiết toàn bộ vụ án. Sau khi nghiên cứu và phán đoán, Kerr cho rằng rất có khả năng William chính là hung thủ giết người. Cộng thêm việc William lén vứt mấy đôi giày đi, rõ ràng hắn đang muốn dùng cách này để tiêu hủy chứng cứ, điều này càng chứng minh rằng hắn chính là hung thủ giết người. Khi đã nắm chắc tình hình, Kerr đề xuất với Jim phải nhanh chóng bắt William, bởi vì rất có thể hắn sẽ tìm cơ hội để tháo chạy. Jim quyết định nghe theo lời đề nghị của Kerr, lập tức xin lệnh bắt William. Ngày 22 tháng 12, cảnh sát quyết định thực thi lệnh bắt. Hôm đó, nhóm theo dõi cùng nhiều cảnh sát khác đã bám theo William đến cây xăng, đợi đến lúc William đi ra khỏi xe, cảnh sát liền xuất hiện và bắt hắn một cách suôn sẻ. Trong quá trình bị bắt giữ, William không hề có bất cứ sự phản kháng nào, thậm chí hắn còn rất bình tĩnh hỏi lại Jim tại sao không giết hắn luôn cho rồi. William bị đưa về sở cảnh sát, hắn phải tiếp nhận thẩm vấn của tổ trọng án Montreal tại đây. Trong quá trình thẩm vấn, William tỏ ra vô cùng tức giận, hắn đã giật ống kính máy quay ra vài lần, không cho cảnh sát quay lại quá trình thẩm vấn. Giọng điệu của William vô cùng ngang ngược, hắn bảo cảnh sát thích làm gì thì làm, hắn sẽ không nhận bất cứ chuyện gì, nhưng hắn muốn gặp luật sư. Để làm cho William mất cảnh giác, cảnh sát cho phép hắn hút thuốc. William vừa hút thuốc vừa chất vấn cảnh sát bằng giọng điệu đầy kiêu ngạo: “Tôi biết các anh không có bằng chứng, không có bằng chứng mà các anh cũng dám bắt tôi?” Do thái độ của William quá cứng rắn nên cảnh sát không có được manh mối nào khả dụng qua cuộc thẩm vấn này. Nhưng cảnh sát đã mang đầu mẩu thuốc lá William vừa hút xong và lấy được mẫu DNA của William từ đó. Đồng thời, cảnh sát cũng tìm thấy một chiếc áo có dính máu ở nhà mẹ của William. Những chứng cứ này đều được gửi tới trung tâm giám định tội phạm để kiểm tra. Trong trung tâm giám định tội phạm, các chuyên gia giám định đã kiểm tra kĩ lưỡng những bằng chứng mà cảnh sát đưa đến. Trước tiên, chuyên gia giám định đã tìm thấy vài giọt máu của nạn nhân trên ba đôi giày mà cảnh sát đưa tới. Trong đó, dấu giày của một đôi giày chạy phù hợp với dấu giày để lại tại nhà người bị hại, máu dính trên chiếc áo của William là của nạn nhân Anna. Ngoài ra, vết máu mà kẻ giết người để lại hiện trường phù hợp với mẫu DNA của William, cảnh sát còn tìm thấy nhẫn của nạn nhân Terry trong nhà của William. Cuối cùng, cảnh sát tìm thấy một chiếc áo dính máu trong xe của William, máu trên chiếc áo phù hợp với vết máu của nạn nhân Mary. Lúc này, bằng chứng đã xác thực. William Fifo chính là hung thủ giết người mà cảnh sát vẫn luôn truy bắt. Sau khi có được bằng chứng, cảnh sát bắt đầu điều tra lại các vụ án chưa được phá xảy ra ở Montreal suốt hai mươi lăm năm qua. Cảnh sát tin rằng William không chỉ gây ra vài vụ án mạng này. Khi tiến hành điều tra, cảnh sát nhận được một cuộc điện thoại báo án, người báo án tên là Skar Long, anh ta nói rằng mình quen biết William, 20 mươi năm trước anh ta còn từng cùng William chơi khúc côn cầu. Sau đó không lâu, mẹ của Skar đã bị giết hại. Skar nói với cảnh sát rằng trước khi mẹ mình bị sát hại, William đã từng tới nhà giúp anh ta sơn tường. Skar muốn biết cái chết của mẹ mình liệu có liên qua đến William hay không. Sauk hi nhận được điện thoại báo án, cảnh sát lập tức triển khai điều tra. Cảnh sát phát hiện mẹ của Skar là Haibeier Long đã bị sát hại từ hai mươi năm trước, khi đó, thanh tra cảnh sát điều tra vụ án này đã tìm thấy mẫu DNA của hung thủ tại hiện trường vụ án, nhưng vì không có đối tượng để so sánh đối chiếu nên vẫn chưa phá được án. Cảnh sát đã đối chiếu luôn DNA của hung thủ và DNA của William, kết quả so sánh cho thấy hung thủ chính là William. Trước bằng chứng đanh thép như vậy, William Fifo buộc phải nhận tội, hắn thừa nhận rằng mình đã gây ra năm vụ án giết người. Bởi William nhận tội nên tòa đã nhanh chóng ra phán quyết, William bị phán tù chung thân, và trong vòng hai mươi lăm năm không được tạm tha. Mặc dù đã nhận cáo buộc cho năm vụ án giết người, nhưng hắn phủ nhận việc có liên quan đến vụ án Janet Kuchinsky. Có điều, sau đó, William đã thừa nhận cáo buộc cho bốn vụ án giết người khác. Năm 1979, William đã cưỡng hiếp và giết chết Susan Bernier 55 tuổi. Chỉ sau đó một tháng, William lại giết hại Nicole Raymond 26 tuổi. Năm 1987, William lại tiếp tục gây án, hắn giết chết Louise Bramble, Louise bị đâm mười bảy nhát dao, chết thảm tại nhà. Năm 1989, William lại cưỡng bức và giết hại Pauline Lapland. Ngoài các vụ án trên, cảnh sát cho rằng William còn phạm phải rất nhiều vụ án cưỡng hiếp đánh đập khác vào những năm 80 thế kỉ 20. Trước khi gây án, William sẽ cải trang thành thợ sửa ống nước, sau đó lấy cớ chủ nhà bảo hắn đến kiểm tra đường ống dẫn nước để nạn nhân mở cửa cho hắn, sau khi vào nhà liền cưỡng bức nạn nhân. Nhưng cảnh sát không thể xác định được trong khoảng thời gian đó, phải chăng William chỉ phạm tội cưỡng bức chứ không giết người? Khi thẳng thắn nhận tội, William đã thuật lại cho tiết quá trình giết người của mình, nhưng hắn không hề đề cập đến động cơ gây án. Phân tích tâm lí bất thường của tội phạm Đây là một vụ án giết người hàng loạt có tính chất vô cùng dã man, quá trình gây án cực kì tàn nhẫn, bạo lực, biến thái. Từ một loạt các vụ án vô cùng tàn bạo mà William Fifo gây ra, có thể thấy rằng mức độ bất thường trong tâm lí của hắn vô cùng nghiêm trọng. Khi gây án hắn vô cùng cẩn trọng, tỉ mỉ, trước khi hành sự đã lên kế hoạch chi tiết, cụ thể, vì vậy xác suất thành công vô cùng cao, nạn nhân bị hắn nhắm trúng gần như không thể thoát nổi. Từ điểm này có thể thấy, ngoại trừ sự lạnh lùng và tàn bạo một cách dị thường, hung thủ còn là một người rất bình tĩnh, tỉ mỉ. Chính bởi vì khi gây án hung thủ vô cùng cẩn thận nên hắn mới có thể liên tục giết người suốt hơn hai mươi năm, đồng thời nhiều lần thoát khỏi tay cảnh sát. Đối với một tên hung thủ giết người hàng loạt, việc liên tục hành hung giết người chính là nguồn động lực để hắn tiếp tục sống sót trên thế gian này, nhưng quá trình gây án của kẻ giết người hàng loạt không hề có quy luật rõ ràng. Thông thường, sát nhân giết người hàng loạt sẽ cách một khoảng thời gian, hoặc trong một kì hạn nào đó, hắn sẽ không giết người, nhưng khoảng cách thời gian giữa các vụ án của mỗi kẻ giết người hàng loạt lại khác nhau, điều này chủ yếu là bởi thể giới ảo tưởng của mỗi tên hung thủ giết người hàng loạt đều khác nhau, khi nào thế giới nội tâm của hắn nảy sinh ra ham muốn giết người một lần nữa thì hắn mới lại tiếp tục gây án. Điều này cũng giải thích tại sao sau khi William giết hai người vào năm 1979 xong lại bỗng dung biến mất, đến năm 1987 mới tiếp tục giết người. Cần phải lưu ý rằng, vụ án giết người năm 1987 là lần đầu tiên William đối xử với nạn nhân bằng hình thức cực đoan và điên cuồng như vậy. Cũng tức là vào năm 1987, William thể hiện tình trạng mất kiểm soát, nhưng, vụ án giết người này đã tạm thời thỏa mãn được ham muốn biến thái từ sâu trong nội tâm hắn, vì vậy hắn mới không tiếp tục gây án nữa. Tiếp đó, William lại lặn mất tăm, mãi đến hai năm sau, cũng tức là năm 1989, hắn mới lại gây án tiếp. Cuối cùng, năm 1999, William bắt đầu gây án thường xuyên hơn, lúc này hắn đã không thể nào kiểm soát nổi ham muốn biến thái trong tâm hồn mình, vì thế mà hoàn toàn mất kiểm soát, bởi vậy hắn mới có hành vi điên cuồng đâm dao vào nạn nhân trong quá trình gây án. Ngoài ra, từ năm 1984 đến năm 1987, William còn gây ra nhiều vụ án cưỡng hiếp. Mặc dù trong quá trình đó, William không giết người, mục đích gây án của hắn rất rõ ràng, chính là muốn có được sự thỏa mãn về nhu cầu tình dục từ nạn nhân. Nhưng xét từ một phương diện khác, bạo lực tình dục và giết người đều mang lại cho hắn một khoái cảm biến thái, mặc dù mức độ khác nhau, song hiệu quả lại tương tự. Cũng tức là khi gây ra các vụ án cưỡng bức tình dục, ham muốn biến thái từ trong nội tâm của William đã được giải tỏa ở một mức độ nhất định, rất có thể đây chính là nguyên nhân khiến hắn không gây ra các vụ giết người trong khoảng thời gian này. Chỉ có điều, khi ham muốn biến thái trong nội tâm của William càng ngày càng trở nên mạnh mẽ, khi hắn hoàn toàn bị ham muốn biến thái này thao túng, bạo lực tình dục đã không thể nào làm cho hắn thấy thỏa mãn được nữa, hắn phải dùng thủ pháp giết người điên cuồng tàn bạo hơn thì mới thỏa mãn được. “GÓA PHỤ ĐEN” TÀN ÁC CHƯƠNG 5 Pensacola là một thành phố biển ở vùng Tây Bác của Florida, đến với thành phố này, bạn sẽ thấy say đắm với làn gió biển thanh mát, những lúc rãnh rỗi, bạn còn có thể tản bộ trên bãi cát vàng lóng lánh dưới ánh hoàng hôn. Ai đã từng tới nơi đây đều sẽ mãi mãi không thể nào quên được vẻ đẹp của phong cảnh của nó. Cũng chính vì vẻ đẹp thiên nhiên của nơi đây nên thành phố này mới trở thành thánh địa du lịch cho các du khách lui tới. Song, không ai ngờ được rằng, chính tại thành phố tươi đẹp xinh xắn này, một cô gái trẻ trung dung mạo tuyệt trần đang săn lùng “con mồi” vừa ý cô ta, cô gái trẻ Judy Bueno Anil đang chuẩn bị có những hành vi biến thái vô cùng điên cuồng, tàn nhẫn. Năm 1981, Judy đang ở vào độ tuổi thanh xuân mơn mởn với khuôn mặt xinh đẹp tuyệt trần cùng vóc dáng bốc lửa. Nếu chỉ nhìn vẻ bề ngoài , chắc chắn cô ta chính là người phụ nữ hoàn hảo trong mắt cánh mày râu. Không chỉ xinh đẹp, Judy còn mở một tiệm làm nail, sự nghiệp của cô ta thành công rực rỡ, sở hữu một chiếc Sedan Chevrolet màu trắng. Một cô gái vừa trẻ trung lại giàu có như vậy, chắc chắn sẽ có rất nhiều chàng trai muốn theo đuổi, nhưng những anh chàng đang ra sức thể hiện mình kia không hề biết được bản tính ác độc xấu xa của Judy, một khi họ bị Judy nhìn trúng, chắc chắn điều chờ đọi họ chỉ là cái chết mà thôi. Một buổi tối nọ của tháng 2 năm 1981, Judy đến quán bar uống rượu như mọi khi, cô ta chính là khách quen của quán bar này, hễ có thời gian rảnh là cô ta sẽ đến đây uống một ly. Judy mặc bộ vest màu đen, bàn tay trắng nõn ngọc ngà với móng tay sơn màu đỏ chót cầm li rượu ngồi uống một mình bên quầy bar. Với tư thái thanh tao nhã nhặn, cô ta ngay lập tức trở thành tiêu điểm của đám đàn ông, nhưng cô ta không thèm để ý đến những người đàn ông đang cố bắt chuyện với mình, cho đến khi có một anh chàng cao ráo đẹp trai xuất hiện. Người đàn ông này tên là John Gingrich, dựa vào gương mặt điển trai và dáng người rắn rỏi, John dễ dàng thu hút được các cô gái trẻ, một tay lão luyện làm sao có thể buông tha cho cô gái xinh đẹp thế kia chứ? Sau khi nhìn thấy Judy, John bèn kiếm cớ bắt chuyện, có lẽ Judy cũng thấy hài lòng với anh ta, hai người trò chuyện rất vui vẻ. Tối đó, Judy còn cùng John nhảy một điệu, hai người đều thấy vui. Sau khi John về đến nhà còn kể cho bạn bè nghe về Judy, rằng mình đã gặp được một cô gái khiến người ta say đắm, cô gái này chính là mẫu người anh ta thích, lâu lắm rồi anh ta chưa từng rung động trước một cô gái như vậy, nếu lần này ông trời đã ban cho mình một cô gái vừa ý, vậy anh ta sẽ bỏ ra chút mánh khóe để có được cô nàng. John nói với bạn bè rằng trong khoảng thời gian tiếp theo đó, anh ta sẽ thường xuyên hẹn hò với Judy, vì vậy nên có thể anh ta sẽ không có thời giant ham gia những bữa tiệc bạn bè tổ chức nữa. Không một người đàn ông nào có thể từ chối được việc hẹn hò qua lại với một cô gái như Judy, John cũng vậy. Mới chỉ vài tháng, hai người đã xác nhận quan hệ yêu đương và sống chung với nhau. Trong quãng thời gian hẹn hò với Judy, John như đang sống trong giấc mộng, Judy sẽ đưa anh ta đi tham dự các buổi tiệc sang trọng, đưa anh ta ra biển chơi bằng du thuyền, mỗi khi cần trả tiền, Judy luôn là người thanh toán trước. John không thể nào từ chối được lòng tốt của Judy, anh ta cảm thấy mình và Judy ở bên nhau rất vui vẻ, đồng thời John cũng rất hưởng thụ những lợi ích mà Judy mang lại. Song, có lẽ John không hề lưu ý một điều, vô hình chung Judy đã hoàn toàn kiểm soát anh ta. Mỗi khi hai người ở bên nhau, Judy luôn là người ra lệnh, người quyết định, còn John mãi là kẻ phục tùng theo. Có thể khi mới yêu nhau, John cũng chưa thích nghi được, nhưng người chi tiền là Judy nên John cũng dần dần quen với cục diện đó. Lâu dần, John quen với cuộc sống như vậy, anh ta cảm thấy việc mình phải nghe theo mệnh lệnh của Judy là chuyện đương nhiên, điều này chẳng có gì to tát cả. Thực tế, trong mắt John, đúng là Judy đã xây dựng một hình tượng vô cùng hoàn hảo, anh ta yêu Judy thật lòng, mặc dù Judy thích ra lệnh cho anh ta, nhưng anh ta không hề thấy phản cảm với điều đó. Cũng chính vì lẽ đó nên mối quan hệ của hai người mới có thể thân mật khăng khít như vậy, ít nhất thì trong mắt John là thế, tất cả mọi thứ đều suôn sẻ, vui vẻ, một cuộc sống không hề có gì bất bình thường. Tháng 6 năm 1983, Judy báo cho John nghe một tin mừng, cô ta đã mang thai. Khi vừa biết tin này, John kích động đến không nói nên lời, anh ta đứng dậy đi đến bên cạnh Judy rồi ôm hôn Judy một cách nồng nhiệt, anh ta muốn dùng cách này để thể hiện nỗi kích động và niềm vui sướng từ trong thâm tâm mình. John đã muốn được làm bố từ lâu, chỉ có điều anh ta không ngờ rằng hạnh phúc lại đến đột ngột như vậy. Chờ đến khi cảm xúc của John dần ổn định lại, Judy đề nghị tối nay họ sẽ cùng ăn bữa cơm với bạn bè, đồng thời nhân cơ hội này để chia sẻ tin vui đáng chúc mừng này với họ. Đối với lời đề nghị này của Judy, đương nhiên John rất ủng hộ, Judy chọn một nhà hàng sang trọng và giao nhiệm vụ cho John, yêu cầu anh ta đậu xe trong bãi để xa cách nhà hàng hẳn một con phố, John không dị nghị gì với yêu cầu này. Tối hôm đó, John làm theo đúng yêu cầu của Judy, đậu xe trong bãi để xe mà cô ta bảo rồi đi bộ đến nơi tổ chức tiệc. John và Judy mời những người bạn thân thiết nhất của mình tới, Judy là người hài hước vui tính, rất biết cách tạo bầu không khí sôi nổi, cộng thêm tin vui mà John vừa công bố, cả bữa tiệc liên hoan đều diễn ra trong không khí vui vẻ, phấn khỏi, ai nấy đều thấy vui mừng. Trong bữa tiệc, Judy còn chuẩn bị một món quà, theo phong tục tập quán khi đó, món quà này được tặng cho một người bạn là nữ của cô ta. Trước khi bữa tiệc kết thúc, Judy đi tìm John, cô ta muốn John đi mua một chai champagne, còn cô ta ở lại nhà hàng để tiếp bạn bè, đến lúc kết thúc bữa tiệc, mọi người có thể cùng khui champagne chúc mừng. Nói xong, Judy liền lấy ví ra đưa tiền cho John, bảo anh ta mau đi mua. Yêu cầu của Judy rất hợp tình hợp lí, John vui vẻ chấp nhận, anh ta cầm tiền rồi chào tạm biệt bạn bè để chuẩn bị ra ngoài mua champagne. John đi bộ ra bãi để xe lúc trước, anh ta mở cửa xe và ngồi vào như mọi khi, sau khi nổ máy liền bật đèn xe lên. Đúng lúc này, “bùm” một tiếng, ngọn lửa nóng hầm hập cùng sóng xung kích bốc lên ngùn ngụt từ cốp sau xe, chiếc xe bị bật lên rồi rơi xuống. Sau đó, cả bãi để xe chỉ còn lại tiếng lửa nổ lách tách, ngọn lửa thiêu rụi tất cả. Chiếc ô ta phát ra tiếng nổ vang rền, cửa sổ cách mấy con phố đều phải rung lên. Nhưng may mắn là John không bị sóng xung kích làm cho ngất xỉu ngay, anh ta giãy giụa và thoát được ra khỏi xe rồi mới nằm ngất lịm đi trên mặt đất. Sau khi nghe tiếng nổ, Judy cùng những người bạn tham gia bừa tiệc liền lao ra. Lúc họ đến bãi để xe, John mới vừa bất tỉnh không lâu. Judy vừa gào tên John, vừa cầu cứu mọi người xung quanh, cô ta sà xuống người John, muốn kiểm tra xem John có còn sống hay không, nhưng hình như cô ta bị kích động quá mức nên đã ngất xỉu. Sau đó, hai người được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện. Hai tiếng sau, Judy gọi điện cho người thân, bạn bè của John. Anh trai John không biết rốt cuộc John bị thương nặng đến mức nào, cho tới khi đến phòng ICU của bệnh viện, mới biết rằng có thể John sẽ không thoát khỏi kiếp nạn này. Bác sĩ cũng không đánh giá cao trạng thái của John, ngoại trừ các vết bỏng nặng bên ngoài, nội tạng cũng bị sóng xung kích đả thương, nhiều mảnh kim loại vỡ văng ra còn găm vào phần thịt sau lưng John, thậm chí có mảnh còn xuyên qua xương sọ, suýt chút nữa đã đâm vào trong não anh ta. John vật vã trong phòng ICU, đến ba ngày sau, tình trạng cơ thể mới ổn định trở lại, tạm thời thoát khỏi bàn tay thần chết. Người nhà của John thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy may mắn thay cho John, mọi người đều cho rằng John có thể sống sót sau tai nạn này quả thực là một chuyện quá may mắn. Song, cảnh sát lại không quá lạc quan, sau khi xảy ra vụ nổ, cảnh sát đã đến hiện trường, kiểm tra chiếc xe bị phát nổ xong, cảnh sát đã phát hiện hai ngòi thuốc nổ đã châm. Dây dẫn của hai ngòi nổ này được nối với đèn sau xe, chỉ cần bật đèn xe lên là sẽ bị kích nổ. Cũng may đây là loại xe có thể mở nóc ra, vì vậy sóng xung kích của vụ nổ có thể được bộc phát ra ngoài nóc xe, nguồn sóng xung kích mà John phải chịu sẽ được giảm đi khá nhiều. Đương nhiên, nếu không nhờ có cái gối đầu trên ghế xa nhanh chóng giúp John chắn được rất nhiều vết thường trong khoảnh khắc thì có lẽ John đã mất mạng rồi. Nếu không phải John may mắn sống sót được thì sẽ chẳng có ai ngờ tới rằng Judy chính là hung thủ giết hại John, mà mọi người cũng phát hiện ra một điều, còn có rất nhiều người đàn ông khác từng bị Judy giết hại. Thanh tra cảnh sát Ted Chambran phụ trách điều tra vụ án này, lúc bắt đầu xử lí vụ án này, Ted vừa sắp xếp chỉnh lí lại hồ sơ tài liệu có trong tay vừa đợi John khôi phục lại ý thức. Sauk hi John tỉnh lại và có thể giao tiếp với mọi người. Ted đã đến bệnh viện ngay lập tức và hỏi John một cách ngắn gọn. Trong cuộc trò chuyện này, Ted hỏi John có mua bảo hiểm nhân thọ hay không, lại hỏi thêm về một số chi tiết. Ted cố gắng tìm ra kẻ tình nghi qua cuộc trò chuyện với John, nếu John từng mua bảo hiểm nhân thọ ở mức cao, vậy thì động cơ gây án của hung thủ đã quá rõ ràng rồi. John nói với Ted rằng anh từng cùng Judy mua một gói bảo hiểm nhân thọ trị giá 50.000 USD, nhưng sau đó cả hai đã hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Ted lập tức tiến hành các điều tra có liên quan, anh phát hiện sau khi hủy hợp đồng bảo hiểm này, Judy đã lén mua cho John một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trị giá 500.000 USD, và dường như John không hay biết gì về chuyện đó. Ted đã hỏi kĩ công ty bảo hiểm, bên phía công ty bảo hiểm nói với anh ấy rằng, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này đúng là do Judy kí, cô ta vẫn luôn nộp phí bảo hiểm, cũng có nghĩa là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này vẫn có hiệu lực trong khoảng thời gian John bị thương do vụ nổ. Bởi vì John không hay biết gì nên Ted có một suy đoán táo bạo, anh ấy nghi ngờ Judy có thể là kể đã gây ra vụ nổ này, cô ta muốn giết chết John để lấy tiền bảo hiểm. Để chứng thực cho suy đoán của mình, Ted lại hỏi thêm John vài điều, anh ấy muốn biết trong thời gian gần đây, John có từng nằm viện hay không. John nói với Ted rằng vài tháng trước, anh ta từng nằm viện vì bị đau dạ dày, khi đó bác sĩ nói rằng anh ta bị co thắt dạ dày, nhưng lại không tìm ra được nguyên nhân dẫn đến chứng bệnh này. Vài ngày sau, John đã đỡ hơn nhiều nên cũng không để tâm lắm. Trong lúc nói chuyện, bỗng nhiên John nhớ ra một việc, anh ta nói với Ted rằng Judy thường cho anh ta uống vitamin, vốn dĩ anh ta không bao giờ uống loại thuốc này nhưng Judy nói rằng nó tốt cho sức khỏe, nhất định đòi John phải thử uống. Từ sau khi uống loại thuốc này, John phát hiện có thể mình bỗng thay đổi, anh hay thấy buồn nôn, nhưng đi bệnh viện kiểm tra sức khỏe thì các bác sĩ lại không tra ra được nguyên nhân gì. Sau đó, bởi vì cơ thể rất khó chịu nên John mới từ chối uống loại thuốc mà Judy đưa, từ đó tình trạng cơ thể anh ta mới dần dần khá hơn. Song, bởi vì tình cảm giữa John và Judy vô cùng sâu sắc nên John chưa bao giờ nghi ngờ gì Judy. Ted cho rằng, loại thuốc mà Judy đưa cho John uống có thể chính là mấu chốt dẫn đến viếc sức khỏe John có vấn đề, nếu John cứ tiếp tục dùng loại thuốc này, rất có khả năng anh ta sẽ chết một cách khó hiểu. Nhưng John đã dừng uống loại thuốc đó, vì vậy Judy mới bắt đầu lên kế hoạch giết người kiểu khác, làm cho chiếc xe ô tô của John nổ tung. Nhưng Ted cần phải chứng minh được mối nghi ngờ của mình. Ted hỏi John có còn giữ loại vitamin C mà Judy đưa cho hay không, John nói với Ted rằng, anh ta để hộp thuốc chưa dùng hết vào trong một vali hành lí. Ted nhanh chóng tìm ra vali hành lí đó và lấy được loại vitamin C đặc thù kia. Ted dự định đưa những viên thuốc này đến trung tâm giám định tội phạm để tiến hành phân tích, vừa ra khỏi bệnh viện, anh ấy đã gặp Judy đang tới để thăm dò. Judy mặc chiếc áo sơmi voan, trang điểm nhẹ nhàng, đi một đôi giày cao gót, trông vô cùng trẻ trung xinh đẹp. Ted và Judy trao đổi ngắn gọn, anh ấy hỏi vài câu, nhưng dường như Judy vô cùng bài xích việc trò chuyện với cảnh sát, cô ta hỏi ngược lại Ted bằng giọng điệu mỉa mai, nói rằng thu nhập mỗi năm của mình cũng phải lên tới hơn 500.000 USD, việc gì phải vì số tiền nhỏ nhoi đó mà giết John. Ted không để tâm đến giọng điệu của Judy, anh ấy chỉ ghi rõ ràng chi tiết con số 500.000 USD mà Judy nhắc đến, mặc dù không có chứng cứ gì, câu nói của Judy cũng có thể chỉ là thuận miệng nói vui, nhưng Ted cho rằng điều này quá trùng hợp, như thể nó đang trùng khớp với những thứ có sẵn trong tiềm thức của Judy. Ted tốn kha khá thời gian với Judy, bởi vì anh ấy biết Judy sẽ không để lộ bất cứ manh mối nào có giá trị. Lúc này việc Ted cần phải làm là nhanh chóng mang số thuộc trong tay mình đến trung tâm giám định tội phạm để làm xét nghiệm. Qua giám định tỉ mỉ, kết quả kiểm tra cuối cùng cũng ra lò, những viên thuốc John uống quả thực khác thường, bên trong viên con nhộng là thuốc độc. Nếu John sử dụng thuốc này trong một thời gian dài, chức năng gan và thận sẽ dần dần suy kiệt dẫn đến tử vong. Sau khi có được chứng cứ, cảnh sát cũng có lí do để xin lệnh khám xét. Cảnh sát tìm thấy một cuộn dây điện giống hệt với sợi dây buộc thuốc nổ trong xe của John bên trong một ngăn kéo tại nhà Judy, còn tìm được một lọ thuốc viên con nhộng bên trong có chứa thuốc độc ở trong tiệm làm nail của cô ta. Hai vật chứng này đủ để cảnh sát xin lệnh bắt giữ, sau đó, cảnh sát đã bắt giữ Judy với lí do có liên quan đến vụ nổ xe ô tô. Trong cả quá trình bị bắt, Judy vô cùng phẫn nộ, cô ta lên tiếng chỉ trích cảnh sát đang lạm dụng hình phạt. Cảnh sát mặc kệ sự chỉ trích của Judy, họ điều tra vụ án theo đúng quy trình, nhưng cảnh sát còn chưa kịp triển khai công tác thẩm vấn thì Judy đã được một người bạn nộp tiền bảo lãnh. Mặc dù Ted vô cùng buồn bực nhưng anh ấy cũng không có được biện pháp tốt hơn, đành trơ mắt nhìn Judy nghênh ngang rời khỏi sở cảnh sát. Sau đó, Judy tiếp tục tận hưởng cuộc sống như thể mọi chuyện chưa hề xảy ra. Các cáo buộc có liên quan về Judy có lẽ sẽ kết thúc tại đây, song, Ted không từ bỏ một cách dễ dàng như vậy, anh ấy bắt đầu tìm kiếm manh mối trong khu quản hạt của mình, anh ấy phát hiện một đồng nghiệp tên là Nancy có mối quan hệ cá nhân với Judy. Nancy từng được một người bạn giới thiệu làm quen với Judy, sau khi quen biết nhau, Nancy thấy Judy là một người phụ nữ rất thích thể hiện mình, cô ta thường xuyên khoe khoang những trang sức quý giá và đồ hiệu của mình với Nancy. Judy còn thích mời mọi người uống Champagne trong các buổi tụ tập, theo như điều kiện của cô ta, tiệm làm nail hình như không đủ để chi trả cho những chi tiêu đắt đỏ đến vậy. Trong một lần tán gẫu, Judy bảo rằng cô ta từng là một nhân viên pháp y. Lời nói của Judy làm cho Nancy thấy nghi ngờ, vì vậy Nancy đã ngay lập tức hỏi một vài câu hỏi có liên quan, đồng thời cho biết mình cũng theo ngành cảnh sát, hơn nữa còn là cảnh sát chịu trách nhiệm xử lí hiện trường vụ án. Sau khi Nancy vừa dứt lời, Judy liền tránh né vấn đề này. Cô ta bắt đầu gợi ra các chủ đề khác để tán gẫu, xua tan bầu không khí gượng gạo lúc lời nói dối bị vạch trần. Sau khi có được vài manh mối từ Nancy, Ted tiếp tục đào sâu khai thác những thông tin có liên quan, anh ấy tin rằng Judy chắc chắn đang cất giấu bí mật nào đó. Trong lúc điều tra, Ted có chú ý đến một điều, có lẽ Judy Bueno Anil theo họ của chồng trước, Bueno Anil là tiếng Tây Ban Nha, dịch sang tiếng Anh là Goodyear. Ted đã điều tra ngay tất cả những người có Goodyear trong tên, cuối cùng anh ấy khoanh vùng được một người tên là James Goodyear. James Goodyear là chồng cũ của Judy, mà người này đã chết một cách kì lạ từ lâu rồi. Phải chăng Judy đã giết chết James, trong đó ẩn chứa bí mật gì, Ted dự định sẽ điều tra đến cùng. Hóa ra, tháng 5 năm 1961, Judy đã quen biết với James, James là một sĩ quan quân đội ưu tú, điều này khiến Ted thấy nghi ngờ, không hiểu tại sao Judy lại nhắm vào một sĩ quan quân đội đã trải qua huấn luyện đặc biệt, lẽ nào cô ta không sợ mọi chuyện bị bại lộ ư? Ted phát hiện, Judy và James kết hôn dù chỉ quen biết nhau trong thời gian ngắn, không lâu sau, James đã phải ra nước ngoài thực hiện nhiệm vụ, chuyến đi này kéo dài hai năm. Trong hai năm đó, Judy sống một mình trong căn nhà trống trải, song, một người phụ nữ như cô ta rõ ràng không thể cô đơn quá lâu được. Trong khi James đang thi hành nhiệm vụ, Judy đã ngoại tình, cô ta cặp kè với một người đàn ông tên là Bobby Loe Morris. Xét về một mặt nào đó Bobby cũng là người tốt, ít nhất thì tình cảm anh ta dành cho Judy là chân thành, song, đối với Judy, Bobby chẳng qua là món đồ chơi mua vui cho cô ta. Lâu dần, Judy cũng không còn muốn giả tình giả nghĩa với James nữa, cô ta định trừ khử James để chào đón một cuộc sống mới. Lúc James hoàn thành nhiệm vụ và về đến nhà, Judy dang rộng vòng tay chào đón anh ấy, điều này làm cho James vô cùng vui vẻ. James rất thích uống cà phê, vì vậy vào hôm James về nhà, Judy đã hạ độc vào cà phê. Sau khi uống cà phê, James đã trúng độc, còn Judy đứng ngoài phòng khách lặng lẽ lắng nghe tiếng rên rỉ đau khổ của James lúc chất độc phát tác. Cuối cùng khi James sắp chết, Judy mới gọi cấp cứu, mặc dù nhân viên cứu hộ đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng James vẫn tử vong. Bởi vì Judy lên kế hoạch rất tinh vi nên thanh tra cảnh sát phụ trách vụ án khi đó đã cho rằng James tự tử bằng thuốc độc, nhờ thế Judy mới thoát được. Sau khi James chết, Judy lấy được 620.000 USD tiền bảo hiểm nhân thọ và tiền trợ cấp quân nhân, từ đó cô ta một bước lên mây, trở thành người phụ nữ giàu có. Sau khi người chồng đầu tiên qua đời, Judy đã nhắm được nạn nhân thứ hai, người này chính là Bobby. Judy luôn có khả năng làm cho những người đàn ông thân cận với cô ta hoàn toàn tin tưởng. Bởi vì quá tin tưởng Judy nên Bobby đã mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trị giá 80.000 USD theo sự sắp xếp của Judy, hơn nữa, người thụ hưởng là Judy. Bobby rất thích uống cocktail, Judy liền bỏ thuốc độc vào loại rượu mà anh ta hay uống. Sau khi uống, chất độc ngay lập tức phát tác, Judy đứng bên cạnh động viên anh ta, trong lúc đó, cô ta lại đút thêm cho Bobby một chút rượu độc. Đến khi Bobby bắt đầu xuất hiện ảo giác, Judy mới gọi cấp cứu. Trong bệnh viện, tạm thời Bobby đã thoát khỏi nguy hiểm, mà Judy vẫn tiếp tục chăm nom cho anh ta với thân phận là bạn gái. Trong khi chăm sóc Bobby, Judy lại lén cho thuốc độc vào đồ uống của anh ta, sau đó đích thân dìu Bobby dậy để cho anh ta uống nước có độc. Cuối cùng, Bobby chết trong bệnh viện vì các cơ quan bên trong cơ thể bị suy kiệt. Bởi vì điều kiện y tế khi đó còn hạn chế nên các bác sĩ không thể giải thích được nguyên nhân cái chết của Bobby, Judy một mực nói rằng Bobby chết vì nghiện rượu. Vì nạn nhân chết trong bệnh viện nên cảnh sát không điều tra gì thêm. Cứ như vậy, kẻ giết người hàng loạt tâm lí lệch lạc này một lần nữa thoát khỏi lưới pháp luật. Lần này, Judy lại lấy được 80.000 USD, nhưng số tiền này chưa thể thỏa mãn được cô ta. Lòng tham vô đáy trong sâu thẳm tâm hồn Judy càng ngày càng lớn mạnh. Điều tra tới đây, Ted đã nhận thức được tính nghiêm trọng của chuyện này, anh ấy biết mình đang phải đối mặt với một kẻ giết người hàng loạt, để có thể điều tra rõ ràng đầu đuôi mọi chuyện mà không làm kinh động đến kẻ sát nhân biến thái, Ted quyết định nhờ sự trợ giúp từ FBI. FBI lập tức cử chuyên gia tâm lí tội phạm đến hỗ trợ Ted điều tra vụ án giết người hàng loạt này, đồng thời bắt tay vào điều tra quá khứ của Judy. Qua điều tra phát hiện thấy, tên thật của Judy là Shijudas Anna Watty, sinh ngày 4 tháng 4 năm 1943 tại một thị trấn nhỏ ở Texas. Khi Judy hai tuổi, mẹ cô ta chết vì bệnh lao. Sao đó Judy được đưa đến ở với ông bà, năm 12 tuổi mới trở về sống chung với cha và mẹ kế. Tuổi thơ của Judy không mấy tốt đẹp, cô ta từng bị người thân ngược đãi, nếu không nghe lời thì sẽ không được ăn cơm. Không chỉ vậy, cha của Judy còn dùng đầu thuốc lá gí vào Judy, điều này đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn của cô ta về cuộc sống. Cũng tức là bắt đầu từ khi đó, trong mắt Judy, thế giới này rất không an toàn, bởi vì từ bé đã thiếu tình thương của mẹ nên Judy chưa bao giờ biết yêu thương người khác. Trong một bữa tối nọ, Judy 14 tuổi đã hoàn toàn mất kiểm soát, cô ta lao vào bếp lấy một chiếc đĩa đang đựng đầy dầu sôi hắt vào em trai. Sau khi bị cha và mẹ kế ngăn cản, Judy lại cầm gậy đánh cả cha và mẹ kế, cảnh tượng ấy vô cùng kinh hoàng. Bởi vì hành vi của Judy quá tàn bạo nên cô ta bị đưa vào trung tâm giam giữ trẻ vị thành niên. Judy ở đó hai năm, đến khi rời đi cô ta đã 16 tuổi. Sau khi ra khỏi trung tâm giam giữ trẻ vị thành niên, Judy không chịu về nhà. Cô ta mang thai năm 17 tuổi, mặc dù vẫn chưa muốn làm mẹ nhưng cô ta vẫn sinh đứa trẻ ra và đặt tên nó là Michael. Về việc cha của Michael là ai, có lẽ chính Judy cũng không rõ nữa, vì vậy cô ta rất căm hận sự ra đời của Michael. Chỉ số thông minh của Michael không cao lắm, hành vi cử chỉ cũng chậm chạp, nhưng cậu bé rất hài hước. Ưu điểm này của Michael trong mắt Judy chẳng là gì cả, cô ta thường xuyên quát tháo nạt nộ Michael, tuy Judy không đánh đập gì Michael nhưng mỗi khi muốn tiếp đón bạn bè, cô ta sẽ đưa Michael đến nơi khác để khỏi bị mất mặt. Michael không có một chút địa vị nào trong nhà, chỉ được ngủ ở nhà dưới, ngay cả ăn cơm cũng không được ngồi ăn chung với mọi người. Song, Michael vẫn kiên cường trụ được trong hoàn cảnh sống ấy. Năm Michael 18 tuổi, Judy động viên cậu bé đi nhập ngũ, thực ra, nguyên nhân Judy làm như vậy là bởi vì cô ta không muốn nhìn thấy Michael. Đối với Michael, việc nhập ngũ là một lựa chọn khá tốt, bởi vì cậu cũng không cần phải tiếp tục kiếm tìm sự sống trong một gia đình áp lực như vậy nữa. Cuối cùng cậu cũng thoát được khỏi Judy, điều này dường như đã thay đổi hoàn toàn vận mệnh của cậu bé. Trong thời gian nhập ngũ, Michael sẽ về nhà nghỉ vài ngày, nhưng mỗi lần về nhà, sức khỏe của cậu lại có vấn đề, chỉ qua vài tuần, sức khỏe của Michael đã không ổn nữa, cậu được đưa đến bệnh viện để điều trị. Khi điều tra tình tiết này, chuyên gia tâm lí tội phạm của FBI đã kiểm tra bệnh án của Michael, họ phát hiện, những biểu hiện của Michael rất giống với biểu hiện của các nạn nhân sau đó trước khi chết. Tình huống này làm cho chuyên gia tâm lí tội phạm thấy vô cùng kinh hãi, dù thế nào họ cũng không ngờ được rằng, Judy còn hạ độc cả với chính con đẻ của mình. Michael được điều trị tại một trung tâm y tế, nhưng tình trạng của cậu rất xấu. Nằm viện được vài ngày, chân Michael đã mất hết cảm giác, cuối cùng bệnh viện liền ghép chân giả kim loại cho cậu, nhờ có chân giả Michael mới đi lại được. Tại sao Judy lại rat ay với con đẻ của mình? Chuyên gia tâm lí tội phạm cảm thấy rất hứng thú về điểm này, Ted cho rằng có thể Judy làm như vậy là vì tiền. Sau khi kiểm tra các khoản bảo hiểm nhân thọ của Michael, cuối cùng họ cũng xác định được động cơ gây án của Judy đối với Michael. Hóa ra Judy đã mua cho Michael một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ từ lâu, hơn nữa, trị giá hợp đồng này lên tới 100.000 USD. Lần đầu tiên Judy giết người không thành, Michael may mắn thoát chết, nhưng cậu không hề biết rằng người hạ độc mình chính là mẹ đẻ của mình. Về sau, vì nguyên nhân sức khỏe nên Michael bắt buộc phải xuất ngũ về nhà an dường, song, cậu vẫn cần Judy chăm sóc, giúp đỡ. Judy có thể chịu đựng việc giết người không thành, nhưng thất bại rồi còn phải tiếp tục chăm sóc chuyện ăn uống sinh hoạt của Michael, điều này đã quá sức chịu đựng của Judy. Cô ta định tiếp tục rat ay với con để của mình một lần nữa. Ngày hôm sau, khi Michael về nhà, Judy bèn đưa Michael không thể tự do đi lại ra ngoài chơi. Judy đưa Michael đến bên hồ, nói rằng muốn cùng Michael chèo thuyền, vừa ngắm cảnh vừa câu cá. Bởi vì Michael gắn chân giản nên cậu không thể ngồi trong chiếc thuyền độc mộc, Judy liền “chu đáo” đặt một chiếc ghế khá cao bên trong, rồi đích thân dìu Michael ngồi xuống ghế. Judy ngồi phía sau Michael, xong xuôi, Judy lại để cho Michael chèo thuyền, phải biết rằng, cho dù ngồi bên trong thuyền nhưng người không thành thạo cũng sẽ làm cho thuyền bị lật, huống hồ Michael còn phải ngồi trên một chiếc ghế cao. Judy cẩn thận chèo thuyền, cô ta cùng Michael ra giữa hồ, sau đó chiếc thuyền độc mộc bị lật, một mình Judy bơi thoát lên bờ rồi gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát đến, Judy đã dùng lời lẽ khéo léo trôi chảy để làm cho cảnh sát tưởng lầm đây là một tai nạn. Cuối cùng, cảnh sát tìm thấy thi thể của Michael ở dưới hồ, khi đó, thanh tra cảnh sát phụ trách điều tra vụ án đã tin lời nói của Judy, thế là vụ án này cứ thế kết thúc. Lúc này, chuyên gia tâm lí tội phạm của FBI và thanh tra Ted dự định điều tra lại vụ án đó, họ sử dụng công nghệ mới để tái hiện lại cảnh tượng chết đuối của Michael. Bởi vì hồ xảy ra vụ việc là hồ nước thông, Judy nói rằng nơi mà thuyền độc mộc bị lật chính là chỗ dòng nước chảy vào, nếu thực sự bị lật thuyền ở đó, dòng nước sẽ đẩy vật dạt ra hai bên bờ, nhưng chuyên gia tâm lí tội phạm phát hiện trong các bức ảnh hiện trường mà cảnh sát chụp lại khi đó, tất cả đồ vật đều nằm ở bên cạnh con thuyền lật, điều này rõ ràng khác hẳn với tình huống mà Judy kể lại. Chuyên gia tâm lí tội phạm cho rằng có thể Michael đã bị Judy đẩy xuống nước, còn Judy đợi đến khi Michael chìm rồi mới cố tình ngụy tạo lại hiện trường phạm tội, cố dùng cách này để đánh lạc hướng cảnh sát. Sau khi Michael chết, Judy lấy được 100.000 USD, trong vài năm tiếp theo, Judy dựa vào số tiền này để tiếp tục sống cuộc sống mà cô ta mong muốn. Hiện tại, chuyên gia tâm lí tội phạm và thanh tra Ted đã có được một số bằng chứng, cong, những bằng chứng này không thể chứng minh rằng Judy còn gây ra các vụ án mạng khác. Cuối cùng, chuyên gia tâm lí tội phạm và Ted quyết định mở quan tài để khám nghiệm tử thi, trước tiên, cảnh sát đào thi thể của James lên trước, sau đó lấy tóc và móng tay đưa đến trung tâm giám định tội phạm để tiến hành hóa nghiệm. Kết quả hóa nghiệm cho thấy, trong cơ thể James đúng là có chứa chất kịch độc. Tiếp đó, thi thể của Bobby cũng được tiến hành kiểm tra, cảnh sát cũng phát hiện được lượng độc tố lớn trong tóc trong tóc và móng tay anh ta. Lúc này, cảnh sát đã có chứng cứ xác thực, dựa vào những bằng chứng này cùng ghi chép hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cảnh sát đã bắt Judy về quy án. Phía công tố cáo buộc cô ta giết hại con trai ruột Michael, giết hại chồng chưa cưới John Gingrich, giết hại người chồng đầu tiên James Goodyear, bởi vì đã có đầy đủ chứng cứ nên tòa phán Judy Bueno Anil có tội, mức án tử hình. Bởi vì Judy bị kết án tử hình nên cô ta không bị phía công tố đưa ra tòa xét xử vì tội giết hại Bobby Joe Morris. Phân tích tâm lí bất thường của tội phạm Rất hiếm khi thấy kẻ giết người hàng loạt là phụ nữ, nguyên nhân chính khiến Judy liên tục gây án là bởi vì cô ta muốn lợi dụng tính mạng của người bị hại để có được số tiền bồi thường ngất ngưởng của bảo hiểm nhân thọ, và dùng số tiền đó để duy trì cuộc sống xa hoa cho mình. Sau khi đọc kĩ toàn bộ chương này, bạn sẽ nhận ra thế giới nội tâm của Judy vô cùng độc ác, trong nhận thức của cô ta hoàn toàn không có tình yêu thương, dĩ nhiên điều này rất có thể liên quan đến việc từ nhỏ cô ta đã thiếu thốn tình thương. Đời sống thuở ấu thơ của Judy luôn phải đối mặt với nguy cơ phải nhịn đói. Bỏ đói trẻ sẽ khiến chúng sinh ra cảm giấc bị đe dọa vô cùng lớn, có lẽ điều này chính là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới Judy. Nhiều năm sau, Judy bỏ thuốc độc vào thức ăn để giết người, điều này rất có thể bắt nguồn từ những trải nghiệm thuở ấu thơ, Judy muốn dùng cách đầu độc người khác bằng thức ăn để cướp lại quyền lợi ngày bé đã bị người lớn giẫm đạp. Ngoài ra, hành vi châm thuốc lá lên người Judy cũng là nguyên do chính khiến cho tâm hồn Judy dần lệch lạc. Năm Judy 14 tuổi, cô ta từng có hành vi phản nghịch nghiêm trọng một lần, điều này có nghĩa là trong những năm tuổi thơ, Judy vẫn luôn kìm nén nỗi căm giận và thất vọng từ sâu thẳm tâm hồn. Hồi bé cô ta không thể nào bộc phát ra được, nhưng sau khi lớn lên sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, cô ta quyết định không tiếp tục nhẫn nhịn nữa, và thế là cô ta bắt đầu trả thù người thân. Đối với một người ở lứa tuổi vị thành niên, thiếu hụt tình thương của mẹ hoặc những người phụ nữ là trưởng bối xung quanh là chuyện vô cùng nghiêm trọng, đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh như vậy thường sẽ không có tình cảm sâu sắc với người khác. Cũng tức là trong lòng Judy, những người khác không có quyền được cô ta yêu, hoặc là trong nội tâm của Judy vốn không hề có tình yêu, những người khác chẳng qua chỉ là công cụ để cô ta đạt được mục đích của mình. Một Judy không hiểu về tình yêu đương nhiên sẽ không sống chung với một người đàn ông nào đó vì niềm yêu thích, cô ta ở chung với đàn ông hoàn toàn chỉ là để tận hưởng cảm giác kiểm soát, thao túng cuộc sống của bọn họ. Song, ham muốn kiểm soát của cô ta cũng không quá mãnh liệt, bởi vì cô ta còn mục đích khác, chẳng qua cô ta chỉ đang nhân tiện hưởng thụ cảm giác kiểm soát, thao túng người khác trong quá trình đạt được mục đích của mình mà thôi, kể cả khi ham muốn kiểm soát đầy lệch lạc ấy rất không bình thường, nhưng đối với một người cực kì máu lạnh thì nguồn năng lượng tiêu cực ở mặt này chẳng đáng là gì. Thực tế, một người phụ nữ tuyệt vời vừa có tiền lại vừa trẻ trung xinh đẹp như Judy, chắc chắn sẽ thu hút được dục vọng muốn chinh phục của đa số đấng mày râu. Chỉ cần cô ta để lộ mong muốn được tiếp xúc qua lại với đàn ông, đối phương sẽ không bao giờ từ chối, hơn nữa còn say mê cô ta đến điên đảo thần hồn, mặc cho cô ta điều khiển. Ngoài ham muốn kiểm soát đầy biến thái, lệch lạc, Judy còn có một tính cách đặc trưng của kẻ giết người hàng loạt là nữ giới: bình tĩnh. Hung thủ giết người hàng loạt nếu là phụ nữ thường sẽ không có quá nhiều phản ứng trong các tình huống căng thẳng. Hung thủ giết người hàng loạt là nữ giới hầu hết thường tỏ ra rất bình tĩnh, họ có thể ứng phó tốt với các tình huống đột xuất xảy ra, đồng thời có thể dựa vào sự ngụy trang trời sinh vốn có để khiến người khác đưa ra các phán đoán sai lầm. Judy chính là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, Judy còn là một kẻ nói dối bệnh lí, những lòi nói ra từ miệng cô ta thường khó mà phân biệt thật giả, cộng thêm việc Judy có chỉ số thông minh cao, kể cả khi đang nói dối có để lộ ra vài sơ hở về logic thì cô ta cũng có thể khéo léo che đậy, thế nên, thực ra Judy còn là một kẻ lừa gạt rất cao tay. Sau khi hiểu rõ được bản chất con người Judy, chúng ta có thể lí giải được Judy sẽ lựa chọn con mồi theo logic nào. Sở dĩ Judy lựa chọn James làm người chồng đầu tiên, thực ra có mối liên quan trực tiếp với việc James sở hữu nhiều tài sản. James có một công việc ổng định, thu nhập cao, hơn nữa còn tốt tính, trẻ trung, anh tuấn. Đây chính là tiêu chuẩn để Judy lựa chọn con mồi. Ngoài ra, việc Judy ngoại tình cũng là điều dễ hiểu, bởi vì cô ta chưa từng động lòng với bất cứ người đàn ông nào, cô ta cưới James chủ yếu là bởi vì tạm thời James có thể thỏa mãn được nhu cầu của cô ta. Sau khi James rời đi, nhu cầu của Judy không được thỏa mãn nữa, vì thế cô ta bắt buộc phải tìm một người khác để thỏa mãn mình. Trong nhận thức của Judy, việc James ra nước ngoài làm nhiệm vụ không khác gì bỏ rơi cô ta, cho nên cô ta sẽ nghĩ rằng việc ngoại tình không phải do lỗi của cô ta. Đây cũng chính là nguyên nhân chính cho việc Judy hạ độc vào cà phê của James để giết chết anh ấy. Sau khi giết hại James, Judy đã có được một khoản tiền lớn, lòng tham với tiền bạc đã khiến Judy tiếp tục gây án bằng hình thức này. Còn về Michael, sự ra đời của cậu bé đã quyết định cuộc đời cậu chính là một tấn bi kịch. Judy chưa bao giờ sẵn sàng để làm mẹ, hơn nữa, cô ta còn phóng chiếu lại những trải nghiệm bị ngược đãi thời thơ ấu của mình lên Michael. Bản thân Michael vốn là một đứa trẻ không được thông minh cho lắm, Judy vẫn đầu độc cậu bé, vì thế có thể nhìn ra được thế giới nội tâm của Judy ác độc, tàn nhẫn đến nhường nào. Có thể nói rằng, từ “bệnh hoạn” đã không còn đủ để hình dung về bản chất con người của Judy nữa rồi, mức độ độc ác trong thâm tâm cô ta đã đạt đến cấp độ tàn ác. Trong các vụ án mạng do Judy gây ra, cô ta vào vai trò thợ săn, còn những nạn nhân bị cô ta giết hại là con mồi mà cô ta đã tỉ mỉ lựa chọn. ÁN MẠNG BẰNG SÚNG CỦA GIA TỘC QUYỀN ANH CHƯƠNG 6 Cuối những năm 80 của thế kỉ 20, ở Sydney xảy ra một vụ án mạng vô cùng tàn nhẫn, cảnh sát đã nỗ lực để phá án. Trong quá trình điều tra vụ án mạng, cảnh sát phát hiện vụ án này có liên quan đến một gia đình quyền anh đã suy tàn. Người đóng vai trò trụ cột trong gia đình này tên là Seth Worst, ông ta có ba người con, nhờ sự huấn luyện của ông, cả ba người con này đều trở thành bậc quán quân môn quyền anh. Song, phương pháp huấn luyện của Seth vô cùng khắc nghiệt, thậm chí còn kinh khủng hơn cả huấn luyện quyền anh chuyên nghiệp, còn ông ta cũng dựa vào cách huấn luyện này để thao túng ba người con của mình, đến khi họ hoàn toàn đánh mất đi cái tôi và trở thành công cụ để ông ta tùy ý điều khiển. Trong trí nhớ của con trai ông ta, những tháng ngày sống trong sự huấn luyện của Seth là khoảng thời gian tăm tối nhất của cuộc đời. Khi đó, chỉ cần bước vào sàn đấu ở sân sau nhà Seth, bạn sẽ có thể nghe thấy tiếng Seth đang gào thét điên cuồng, ông ta ra lệnh cho những người con đang đấm nhau trên sàn đấu phải liều mạng để tấn công đối phương, nếu người con nào không làm theo lời ông ta, ông ta sẽ trừng phạt nặng, để đứa trẻ đó phải chịu sự tấn công về cả lời nói và thể xác. Trong gia đình này, Seth chính là người có quyền lực tuyệt đối, không ai có thể lay động được địa vị của ông ta, mọi mệnh lệnh của ông ta buộc phải được thực hiện, nếu không mọi người trong gia đình sẽ phải chịu đựng cơn thịnh nộ của Seth. Con trai lớn của Seth là Dean Worst bị Seth thao túng gây ra một vụ án mạng tàn bạo. Sau khi bị cảnh sát bắt, Dean từng miêu tả về cha mình như thế này: “Cha của chúng tôi thường xuyên gào thét mắng mỏ chúng tôi, có những lúc gân xanh trên cổ ông ta đã nổi lên cả lên, bởi vì tức giận quá độ, gương mặt ông ấy tím ngắt lại, thậm chí miệng còn nổ cả bong bóng. Tóm lại, hình ảnh đó của ông ấy vô cùng đáng sợ, giống như ma quỷ dưới địa ngục xông ra vậy, xin hãy tin tôi, cách hình dung này không hề cường điệu chút nào, ông ta chính là một người như thế”. Sống dưới sự bức ép của Seth, Dean đã bước vào con đường phạm tội, nửa đời sau anh ta cũng không yên lòng được vì tội danh này. Năm 1988, tại một bờ biển ở New South Wales (NSW) , cảnh sát nhận được điện thoại báo án, người báo án nói rằng có một huấn luyện viên bị hại ở trường đua ngựa. Theo nhân chứng cho biết, khi vụ án xảy ra, có hai tay súng chĩa súng về phía nạn nhân bắn mấy phát liền, nạn nhân bị trúng đạn và gục xuống trên vũng máu. Cảnh sát nhanh chóng lập án, trước tiên bắt đầu điều tra thân phận của người bị hại, bởi vì nạn nhân bị giết ngay tại chính trường đua ngựa của mình nên rất nhanh đã có thể xác định được thân phận của anh ta. Người bị hại tên là Alan Hall, một tên côn đồ thô lỗ bỉ ổi. Tiếng xấu của Alan đã lan rộng khắp cả vùng này. Sau khi kiểm tra các hồ sơ có liên quan, cảnh sát phát hiện Alan từng bị buộc tội đánh đập hành hung người tình đồng giới và buôn bán ma túy trái phép. Ngoài ra, qua khai thác thông tin từ khu nhà nơi Alan sinh sống, cảnh sát biết được rằng Alan từng quyến rũ, dụ dỗ một phụ nữ đã có chồng khiến gia đình người này tan vỡ. Vài tháng trước khi Alan bị giết hại, cảnh sát nhận được một bức thư nặc danh, trong thư có người tố cáo Alan thường xuyên sử dụng súng trường trái phép bên ngoài. Người như Alan thường sẽ không có bạn bè thân thiết, hơn nữa, bởi vì có liên quan đến đường dây buôn bán ma túy nên anh ta cũng trở thành đối tượng gây gổ đánh nhau của những con nghiện khác. Sau khi Alan gặp nạn, có người cho biết, khi còn sống, nhà của Alan từng bị cướp, tên cướp còn nổ vài phát súng trong nhà của Alan. Tháng 2 năm 1988, Alan lại bị tấn công một lần nữa, lần này, kẻ tấn công đã châm lửa đốt cháy nhà anh ta. Bốn tháng sau, Alan và bạn gái Christine Worst đang ngồi trong nhà xem tivi thì thấy con chó ở ngoài sân bỗng dung sủa lên ầm ĩ, Alan đứng dậy đi ra ngoài xem xét tình hình, song, bên ngoài nhà chẳng có gì bất thường cả, Alan vung chiếc roi trong tay lên, quát vài câu, con chó liền ngừng sủa. Ngỡ rằng mọi chuyện đã kết thúc, Alan toan quay đầu đi vào nhà, đúng lúc anh ta quay người lại, ba phát súng liên tiếp đã phá tan màn đêm yên tĩnh. Trúng ba phát đạn, Alan ngã xuống khoảng đất trống ở gần hàng rào bên ngoài căn nhà, chết ngay tại chỗ. Bốn tiếng sau khi vụ án xảy ra, cảnh sát đến trang viên Carolla do Seth đứng tên. Sau khi điều tra một lượt tại nhà Seth, cảnh sát phát hiện thấy mối quan hệ giữa Seth, vợ của Seth là Christine Worst và người tình của Christine là Alan Hall vô cùng phức tạp, mà sự phức tạp này cho thấy cái chết của Alan rất có thể có liên quan đến những người này. Qua điều tra, cảnh sát phát hiện, mặc dù Christine là người vợ hợp pháp của Seth, nhưng mối quan hệ giữa hai người họ rất hời hợt xa cách, hơn nữa, Christine từng nhiều lần cầu cứu cảnh sát, cho rằng Seth cùng các thành viên khác trong gia đình thường xuyên hành hạ cô ta. Song, những việc riêng trong nội bộ gia đình này thường khó giải quyết, mà Christine lại không thể, hoặc không dám đưa ra bằng chứng, vì thế cảnh sát cũng không thể điều tra sâu thêm được. Sau khi Alan bị hại, Christine nói với cảnh sát rằng chính Seth đã động viên cô ấy phát triển mối quan hệ ngoài luồng với Alan, nhưng khi Christine làm đúng theo yêu cầu của Seth thì ông ta lại tức giận, đình tìm cơ hội để trả thù Alan. Con trai lớn của Seth là Dean cũng có cái nhìn của riêng mình về mối quan hệ tay ba kì lạ đó. Theo Dean thấy, sở dĩ Seth một tay tạo dựng nên màn này, hoàn toàn là bởi vì ông ta muốn đứng một bên xem trò hay. Ông ta cố tình để Christine và Alan yêu nhau, nhưng tiền đề là tất cả mọi chuyện phải làm theo đúng như mong muốn của ông ta, thí dụ, chỉ khi nào ông ta cho phép thì Christine mới được hẹn gặp Alan, nếu ông ta không cho phép, hai người sẽ không thể gặp được nhau. Nhưng tình huống trong thực tế vốn không thể do một tay Seth kiểm soát được, khi ông ta phát hiện mình không thể kiểm soát được Alan và Christine, lửa giận đã dần dần nhấn chìm lí trí của ông ta. Theo Dean thấy, điều khiến Seth không thể chịu đựng được là Christine đã phải lòng Alan, điểm này đã chạm vào giới hạn của Seth. Dĩ nhiên, đây là cách nhìn của cá nhân Dean. Theo cảnh sát nhận định, mối quan hệ giữa Seth, Christine và Alan vô cùng mâu thuẫn. Seth có một nông trường nuôi rất nhiều chó và ngựa chưa được thuần phục, Alan là huấn luyện viên của Seth, ông ta mong muốn mình có thể thuần phục được những con ngựa đó. Alan nhận công việc này nhưng Seth không có tiền để trả lương, vì muốn để Alan tiếp tục làm việc cho mình nên Seth quyết định gán vợ của mình, coi như thù lao trả cho Alan. Sau khi làm rõ mối quan hệ này, viên thanh tra cảnh sát chịu trách nhiệm điều tra vụ án hoàn toàn ngơ ngác, họ không ngờ được lại có chuyện kì quặc như vậy xảy ra, cũng không nghĩ rằng chuyện kì quặc này lại còn do một tay Seth tạo ra. Ai có thể tin được một người đàn ông lại coi vợ mình thành thù lao để trả công cho tên đàn ông khác chứ? Có lẽ điều mà Dean nói là thật, song, cảnh sát vẫn còn do dự. Sau đó, giữa Christine và Alan nảy sinh tình cảm, có lẽ vì cảm nhận được tình yêu từ phía Alan, cũng có thể vì những yếu tố khác, Christine đã cùng Alan bỏ trốn khỏi trường ngựa. Tình huống xảy đến bất ngờ này làm cho Seth vô cùng tức giận, đó là kết quả mà ông ta không lường trước được, vì vậy ông ta định trả thù Alan. Khi cảnh sát xử lí vụ án này, trùng hợp có một chuyên gia tâm lí tội phạm của FBI đang tham gia giao lưu trao đổi kinh nghiệm với cảnh sát địa phương ở Sydney, bởi vì thấy tình tiết của vụ án này quá lạ lẫm, mới mẻ nên chuyên gia tâm lí tội phạm của FBI cũng tham gia vào công tác điều tra.. Sau khi tìm hiểu kĩ quá trình xảy ra vụ án, chuyên gia tâm lí tội phạm đã đưa ra phán đoán ngay, anh ấy nói với viên thanh tra cảnh sát phụ trách điều tra vụ án rằng cần phải chú ý quan sát cả nhà Seth, rất có khả năng kẻ giết người chính là một thành viên trong gia đình đó. Mặc dù xét theo tình hình hiện tại, Seth là người khả nghi nhất, nhưng chuyên gia tâm lí tội phạm lại nghĩ, có thể ông ta không tự tay gây án. Đương nhiên, nếu muốn đưa ra được phán đoán toàn diện hơn, chuyên gia tâm lí tội phạm còn cần cảnh sát địa phương thu thập nhiều tài liệu cụ thể hơn nữa để tham khảo. Thu thập tài liệu về mọi mặt vốn là quy trình không thể thiếu mỗi khi cảnh sát xử lí các vụ án, vì vậy cảnh sát địa phương bắt đầu thu thập những thông tin có liên quan đến gia đình Seth. Cảnh sát phát hiện Seth và các con trai của ông (Dean, Chloe, Galen) được truyền thông tôn là vua quyền anh ở Australia, trong mắt nhiều người, Seth là một người Anh có hành vi lập dị. Những năm 70 thế kỉ 20, Seth rời khỏi nước Anh, rời xa khỏi thế giới đầy sắt thép bê tông của ông ta, đến Australia và nuôi mấy đứa con khôn lớn tại một khu rừng ở đây. Theo Seth nhìn nhận, sở dĩ người ngoài thấy ông ta là một kẻ lập dị chủ yếu là bởi vì ông ta không bao giờ hút thuốc, cũng không uống rượu. Song, thực tế, người ngoài có cảm nhận như vậy là có liên quan đến hành vi cử chỉ của ông ta. Ví dụ, đứng trước một sự việc hết sức phổ biến thường thấy, cách xử lí của người bình thương đã phần sẽ giống nhau, cũng dễ được mọi người thấu hiểu và đón nhận, nhưng cách làm của Seth lại khác hẳn mọi người, vì vậy người ta mới cảm thấy ông ta là một kẻ lập dị. Sau khi điều tra tỉ mỉ tài liệu về Seth, cảnh sát phát hiện Seth từng ngồi tù tại một nhà tù dã man nhất nước Anh, có thể những trải nghiệm đó khiến ông ta cố chấp cho rằng con cái mình cũng giống như sư tử, cần phải dùng đến vũ lực và kĩ năng để thuần phục. Mỗi khi “chém gió” với hàng xóm, Seth luôn nói ra quan điểm này của mình, hơn nữa, Seth còn cho thấy rằng, chỉ cần ông ra sử dụng đúng phương pháp để thuần phục, các con của ông ta thậm chí còn có thể ngoan ngoãn giết người cho ông ta. Hàng xóm láng giềng ai cũng nghĩ Seth đang khoác lác nên chẳng bao giờ coi lời ông ta nói là thật. Bây giờ xem ra những lời Seth nói khi đó có khi chính là lời nói tự đáy lòng. Ngoài ra, cảnh sát còn phát hiện trong cuộc sống thường ngà, Seth thường bộc phát cơn thịnh nộ mọi lúc mọi nơi, và người thân trong gia đình chính là chỗ để cho ông ta trút cơn giận. Một vài người hàng xóm sống gần nhà Seth cho biết, thủ đoạn mà Seht dùng để trừng phạt người thân trong gia đình rất vô nhân đạo, kể cả đối với vợ và con gái, ông ta cũng không bao giờ nương tay. Điều gì làm cho Seth trở nên tàn bạo như vậy? Trong quá trình điều tra sau đó, cảnh sát tìm ra được một vài đầu mối. Hóa ra tuổi thơ của Seth vô cùng thê thảm, ông ta lớn lên trong một khu ổ chuột ở nước Anh, cha ông ta là một kẻ nát rượu thường xuyên đánh đập vợ, ông ta cũng suốt ngày bị cha mình đánh đập. Lúc ở trong tù, Seth đã có một mối tình đồng tính với một tù nhân khác, mặc dù mối quan hệ này đã kết thúc sau khi ông ta ra tù, hơn nữa Seth trông có vẻ như đã trở lại bình thường, nhưng ông ta lại hăm dọa con mình, không cho phép chúng được yêu người đồng giới, càng không được trở thành người đồng tính, nếu không ông ta sẽ giết chết chúng. Ngoài những vết nhơ đó ra, Seth còn dựa vào thân phận là một vận động viên quyền anh để tham gia diễn xuất các bộ phim về đề tài tội phạm, ông ta còn bắt các con phải tham gia trại huấn luyện cùng với ông ta, đồng thời bị tình nghi là giết hại người vợ thứ ba của mình. Để có thể bồi dưỡng các con mình trở thành quán quân môn quyền anh, Seth không làm ra tiền còn bắt ép người vợ thứ năm của mình phải đi làm gái điếm, sau đó dùng tiền mà vợ kiếm được về để dùng cho gia đình. Những lúc tán gẫu với hàng xóm hay người nào đó, Seth còn ba hoa rằng ông ta có quen biết với tên giết người hàng loạt khét tiếng của nước Anh, mặc dù không ai coi lời ông ta nói là thật, nhưng ông ta nói những lời này bằng thái độ vô cùng nghiêm túc, trông cứ như thật vậy. Trong cuộc sống, Seth không cho phép các con ra ngoài đi vệ sinh vào buổi tối, ông ta yêu cầu các con phải đi tiểu vào thùng nước ở giữa nhà. Trong kí ức của Dean, hành vi của cha cực kì khiến người ta căm ghét, nhưng anh ta không thể phản kháng lại được, đành phải lặng lẽ chấp nhận và mong mỏi cho cơn ác mộng này mau chóng qua đi. Tóm lại, trong gia đình quái dị ấy, Seth chính là vị thần, ông ta sẽ dùng các thủ đoạn mất hết nhân tính để thống trị tất cả mọi người. Ngoài ra, Seth không bao giờ để lộ mặt thật với người ngoài, kể cả khi đứng trước truyền thông, Seth cũng sẽ sắp xếp ổn thỏa từ trước, để các con trả lời những câu hỏi của cánh truyền thông bằng lời lẽ mà ông ta đã chuẩn bị đâu vào đấy. Seth còn cố tình làm những động tác hài hước hoặc hát những ca khúc gây cười để che chắn cho bản thân. Thực tế, trước khi Alan bị giết hại, đúng là chưa từng có ai nghi ngờ Seth, cho dù ông ta từng bị cáo buộc tội giết người, chuyện này cũng bị ông ta khéo léo che đậy. Sau khi các con khôn lớn, Seth nuối một đàn chó và mèo ở nông trường, ngày ngày ông ấy lấy việc chơi đùa với những con thú cưng này làm niềm vui, nhưng người nhà ông ta lại không thể chịu đựng nổi. Đám chó mèo này sẽ kêu sủa ầm ĩ cả ngày, còn đuổi mấy con ngựa ở nồng trường chạy tán loạn. Từ sau khi những con vật ấy đến, bên ngoài nông trường chỗ nào cũng thấy phân, môi trường xung quanh khu vực này lúc nào cũng bốc mùi hôi thối. Cảnh sát còn phát hiện một vấn đề, đó chính là sau khi những người con của Seth trưởng thành, họ vẫn bị Seth kiểm soát, kể cả Dean đã 25 tuổi nhưng nếu không được Seth cho phép thì cũng không dám dọn ra ở riêng để bắt đầu cuộc sống mới. Dean hồi tưởng lại, khi anh 25 tuổi, Seth vẫn có thể đánh đập anh mọi lúc mọi nơi. Ngay cả khi anh đã trở thành vận động viên quyền anh nổi tiếng ở Australia, nhưng anh ta vẫn bị Seth chỉ cao đến ngực mình đánh đập, bởi vì Dean không dám có bất cứ sự phản kháng nào, từ điểm này có thể thấy mức độ kiểm soát của Seth đối với mọi người trong gia đình lớn đến nhường nào. Sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát từng hỏi Dean rất kĩ, họ phát hiện khi kiểm soát thao túng các con trai của mình, Seth đã dùng một vài thủ đoạn nhỏ, ví dụ ông ta sẽ chú trọng bồi dưỡng Dean, thường xuyên khen ngợi Dean trước mặt hai người con trai còn lại, tìm mọi cách để Dean biết rằng anh ta chính là người được yêu chiều nhất trong số ba người con trai. Đối với Dean, mặc dù Seth sẽ khống chế kiểm soát mọi thứ của anh ta, nhưng hình như Seth cũng chính là chỗ dựa duy nhất của anh ta trên thế giới này. Hoặc nói cách khác, Seth chính là tất cả của Dean. Để có thể làm cho Seth thấy hài lòng, Dean cũng dốc hết sức để làm theo những gì mà Seth đã sắp xếp, cố gắng trở thành đứa con ngoan ngoãn nhất trong mắt Seth. Song, Dean không hề biết rằng, những biểu hiện hàng ngày không thể làm cho Seth thấy hài lòng được, nếu anh ta muốn trở thành đứa con tốt nhất trong mắt Seth, anh ta phải giết chết mẹ mình cùng người tình của mẹ theo sự sắp xếp của Seth. Theo Dean hồi tưởng lại, chỉ khi nào chiến thắng ở sàn đấu quyền anh thì ba an hem họ mới nhận được lời khen từ cha, vì vậy họ thường không màng tất cả, liều mạng trên sàn đấu để Seth thấy hài lòng, nhưng sau khi Alan Hall đến nông trường thì gia đình trông có vẻ như hoàn hảo này đã bắt đầu trở nên tồi tệ. Tuy là do Seth chủ động yêu cầu người vợ Christine sống chung với Alan, nhưng sau khi điều này xảy ra, Seth lại cảm thấy hành vi này của Christine làm mất thể diện của gia đình, nếu việc Christine và Alan bỏ trốn bị đồn ra ngoài, vật thì giá trị của gia đình quyền anh này trên thị trường sẽ bị giảm sút, đây là điều Seth không mong muốn nhìn thấy nhất. Trong vài tháng sau đó, Seth vẫn luôn suy nghĩ xem phải dùng cách gì để khiến cho Christine quay trở về nhà. Theo Dean nhớ lại, trong mấy tháng này, Seth thường xuyên nổi giận, ông ta sẽ đột nhiên xông lên trong lúc anh ta đang luyện tập quyền anh với các em trai, lao tới đánh cho Dean hoặc các em một trận. Sau khi cảm xúc ổn định trở lại, Seth lại bắt đầu tự lầm nhẩm xem có cách nào để đe dọa Alan hay không. Tiếp đó, Dean đã trở thành công cụ trong tay Seth, anh ta làm theo lời Seth, nhiều lần liên tiếp đe dọa Alan, nhưng dường như Alan không hề trúng chiêu này. Sau khi không thực hiện được ý đồ dọa nạt, Seth lại bảo Dean đào hai cái hố ở khu rừng cây phía sau nhà, Seth nói rằng hai cái hố này chính là mồ chôn Alan và Christine. Phải đến lúc này, Dean mới cảm nhận được suy nghĩ thực sự của Seth, anh ta thử ngăn Seth lại, cố gắng thuyết phục Seth dùng một phương thức khác để giải quyết vấn đề. Song, Dean mới chỉ vừa lên tiếng thôi, Seth sẽ lại điên cuồng đánh đập anh ta, trách mắng anh ta là thằng hèn nhát, là kẻ nhát gan, là đứa vô dụng nhất trong ba đứa con. Để kế hoạch không xảy ra điều gì ngoài ý muốn, Seth còn tìm bạn thân của Dean, Damon Cooper, một thợ kĩ thuật 25 tuổi để giúp ông ta thực hiện kế hoạch giết người. Seth vừa đấm vừa xoa xúi giục, cuối cùng Damon cũng nhận lời cùng Dean phóng hỏa đốt nhà Alan. Một buổi tối tháng 6 năm 1988, Damon và Dean bắt đầu hành động theo kế hoạch và Seth đã vạch ra từ trước, tối hôm đó, hai người mang theo súng ống đến hàng rào nhà Alan, trốn trong một bụi cỏ khuất bên đường. Hai người nằm bò trên bụi cỏ không bao lâu thì tiếng chó sủa đã làm kinh động đến Alan đang ở trong nhà, anh ta đi ra ngoài xem xét tình hình. Vì trời quá tối nên Alan không nhìn thấy Dean và Damon nấp trong bụi cỏ, sau khi đứng ở bên ngoài một lát, Alan liền quay người đi vào nhà. Ngay sau khi Alan quay người định rời đi, Damon chợt đứng dậy, xoay người đi ra ngoài, Dean vội đứng lên cản Damon lại, anh ta hỏi Damon tại sao lại làm như vậy, Damon nói với Dean rằng mình không muốn phạm tội giết người. Nhưng Dean cho rằng đây là mệnh lệnh của cha nên anh ta không thể rời khỏi được, Damon là bạn thân của anh ta thì phải ở bên cạnh anh ta lúc này. Damon không còn cách nào, đành quay trở lại bụi cỏ cùng Dean. Lần này, Dean cầm hòn đá ném ra trước nhà Alan, con chó Alan nuôi lại sủa loạn lên lần nữa. Sau đó, Alan đi ra ngoài xem tình hình, lần này, anh ta không còn may mắn như lần trước nữa. Theo như Dean nhớ lại, khi đó ánh sáng vô cùng mờ tối, vì khoảng cách xa nên Dean chỉ có thể nhìn thấy hình dáng của Alan, không thể nhìn rõ được mặt Alan khi đó. Khi Alan quay người định đi vào trong nhà, Dean liền chĩa thẳng súng về phía người Alan, nhắm mắt bóp cò. Viên đạn bay thẳng vào người Alan, anh ta ngã xuống ngay chỗ đó. Lúc này, Dean cũng đứng dậy khỏi mặt đất. Sau khi thấy Alan ngã xuống liền nhắm vào chỗ Alan đang nằm bắn liền hai phát nữa rồi mới quay người bỏ chạy. Khi Dean đang định tháo chạy, anh ta nghe thấy Damon cũng nổ một phát súng, sau khi buông súng xuống, hai người cùng bỏ chạy. Trước khi bỏ chạy, Dean và Damon còn rắc bùn đất ở nơi khác lên tấm thảm bên trong xe, muốn dùng cách này để che giấu hành tung của mình. Vài tiếng đồng hồ sau, cảnh sát đến nông trường của Seth nhưng không phát hiện được chỗ nào khả nghi, bèn đến nhà mới của Dean. Mấy ngày trước khi xảy ra vụ án, Dean đã được cho phép dọn ra khỏi nông trường để ở riêng. Sau khi vụ án mạng xảy ra, một mình Dean nằm trong phòng trằn trọc mất ngủ, anh điều, cảnh sát không hề vào trong nhà kiểm tra, họ chỉ yêu cầu Dena đi cùng họ đến sở cảnh sát để viết lời khai, Dean làm theo lời họ. Sau khi vụ án xảy ra, Damon không hề bị cảnh sát sờ tới. Anh ta giấu hung khí gây án trong một góc khuất ở sân sau nhà bố mẹ, sau đó lại tìm thời cơ vứt nó xuống một con sông nào đó. Ghi lời khai xong, Dean cũng quay trở về nhà vứt đôi giày và quần áo mặc lúc gây án đi. Thực ra tối hôm đó, lúc cảnh sát lục soát nhà của Seth, Seth cũng suýt nữa để lộ ra sơ hở, khi ông ta cho phép cảnh sát vào nhà lục soát, ông ta bỗng phát hiện thấy một mảnh vỏ đạn bị vứt trên sàn nhà, nhân lúc cảnh sát đang bận lục tìm ở bên trong, Seth nhanh chóng nhặt vỏ đạn lên nhét vào miệng, ngậm dưới lưỡi. Lúc nói chuyện với cảnh sát, trong miệng Seth vẫn luôn ngậm mảnh vỏ đạn kia, động tác của Seth quá nhanh gọn nên cảnh sát không phát hiện được gì. Ngày hôm sau, sau khi gặp nhau, Seth đã điên cuồng nạt nộ quát tháo Dean một trận. Seth trách mắng Dean, chửi anh ta là tên phế nhân không được tích sự gì, Dean không biết phải phản bác lại Seth như thế nào, anh ta cảm thấy linh hồn mình như trống rỗng. Cuối cùng, Seth nhấn mạnh rằng Dean bắt buộc phải giết chết Christine và trừ khử Damon. May mà cảnh sát đã làm theo đề nghị của chuyên gia tâm lí tội phạm, bắt Seth và Dean về chịu tội, mặc dù sau đó cảnh sát bắt buộc phải thả Seth và Dean ra vì không có đủ bằng chứng, song, ít nhất việc này cũng ngăn cản các vụ án mạng tiếp theo xảy ra. Dean lại được thả tự do, nhưng cứ mỗi khi đêm về, anh ta lại gặp ác mộng, lương tâm của anh ta vô cùng cắn rứt. Sau đó, Dean thực sự không thể chịu đựng nổi nữa, để giải tỏa nỗi buồn bực trong lòng, Dean đã tâm sự hết mọi áp lực trong lòng mình với một mục sư. Đứng trước mục sư, Dean mở ra cõi lòng mình, kể hết nguyên vẹn cả quá trình giết người. Mục sư khuyên giải một hồi, Dean đã có ý định ra đầu thú, nhưng anh ta không dám làm điều đó. Mặc dù anh ta hiểu rõ, nếu mình không làm như vậy thì những tháng ngày sau này của anh ta sẽ không sống được yên, song anh ta vẫn còn ngập ngừng do dự. Để được yên lòng, Dean chuyển đến Melbourne, ở đây anh ta đã có một cô bạn gái, nhưng anh ta lại bị cuốn vào đường dây buôn bán ma túy. Thực ra khi thẩm vấn Dean và Seth, chuyên gia tâm lí tội phạm đã đề nghị cảnh sát địa phương thử tìm điểm đột phá từ Dean, nhưng cảnh sát cho rằng Seth mới là chủ mưu của tất cả việc này, còn tỉ lệ xác suất cho việc Dean có tham gia vào vụ án khá nhỏ, vì vậy họ không chú trọng vào việc thẩm vấn Dean. Cũng chính vì điểm này, Dean và Seth mới có thể thoát khỏi lưới pháp luật. Mãi đến năm năm sau, thanh tra phụ trách vụ án mới ý thức được rằng cảm giác tội lỗi chôn giấu trong nội tâm của Dean có khi chính là mấu chốt để phá được vụ án mạng này, khi đó, Dean đã quay trở về cố hương, anh ta đã lên chức bố. Có thể vì trách nhiệm làm cha nên Dean trở nên chín chắn, thành thục hơn, cũng có thể những trải nghiệm trong mấy năm vừa qua khiến anh ta ngộ ra được nhiều điều, Dean quyết định nói thật mọi chuyện với cảnh sát. Nhờ sự giúp đỡ của mục sư, Dean làm quen được với luật sư Man Condisis, sau một loạt quy trình tư pháp, cuối cùng Man cũng được cho phép gặp mặt trò chuyện với thanh tra cảnh sát chịu trách nhiệm điều tra vụ án mạng này. Hôm sau, Dean đã ngồi trong văn phòng của Man kể lại hết đầu đuôi sự việc. Sauk hi Dean nhận tội, bạn của anh ta là Damon cũng tự thú với cảnh sát. Tiếp đó, Seth bị cảnh sát bắt về quy án. Nhưng khi bị cảnh sát bắt, thái độ của Seth vô cùng ngạo mạn, ông ta không chịu hợp tác với cảnh sát và không thừa nhận bất cứ tội danh nào. Người đầu tiên bị thẩm vấn là Damon, bởi vì anh ta chủ động nhận tội nên có thể sẽ được khoan hồng với tội danh giết người không có chủ đích, song, kể cả như vậy, Damon cũng bị kết án 12 năm tù. Sau khi Seth bị cảnh sát bắt, không lâu sau ông ta đã chết vì phát bệnh tim. Lúc Dean bị thẩm vấn, ba chuyên gia tâm lí tội phạm đã ra tòa làm chứng, họ cho rằng sau khi Dean giết chết Alan, nội tâm anh ta luôn bị giày vò, giằng xé, vì vậy trạng thái tinh thần của anh ta rất không ổn, có khả năng đã bị mắc các chứng bệnh về tâm thần. Man đã xin tòa cho phép được biện hộ cho anh ta tội ngộ sát, bởi vì Dean không hề tự nguyện gây án. Nhưng phía công tô kiên trì cáo buộc Dean tội cố ý giết người, cuối cùng, Dean đã trình bày trước tòa về những trải nghiệm vô cùng đau khổ, thê thảm của tuổi thơ. Sau khi bồi thẩm đoàn biết được đầu đuôi sự việc, họ đều tỏ ra đồng cảm với Dean. Cuối cùng, tòa tuyên án vô tôi, thẩm phán cho rằng Dean giết người không có chủ ý, Dean được phán vô tội và được phóng thích. Sau khi phán quyết được đưa ra, phiên tòa liền trở nên xôn xao, mọi người đều không hiểu nổi tại sao Dean được phán vô tội và được thả ra, còn Damon thì lại phải ngồi tù. Thực ra, sở dĩ bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết như vậy là bởi có liên quan trực tiếp đến lời kể về những trải nghiệm thời ấu thơ của Dean, cộng thêm việc các chuyên gia tâm lí học đã chứng minh được rằng mấy năm nay Dean luôn bị giày vò, và anh ta cũng đang hối hận, vì vậy họ nhận định rằng anh ta ngộ sát. Thực tế, kể cả khi Dean không bị giam trong tù, nhưng anh ta vẫn thoát khỏi được sự áy náy, tự trách về mặt lương tâm. Dean từng nghĩ đến việc tự sát, song, con anh ta vẫn cần anh ta nuôi nấng, cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của giáo hội, Dean đã trở thành thợ kĩ thuật, trở lại với cuộc sống bình thường. Phân thích tâm lí bất thường của tội phạm Đây là một vụ giết người bằng súng, mặc dù nhìn bề ngoài vụ án này khá bình thường, nhưng thực ra lại vô cùng khác thường. Tại sao phải dùng từ “khác thường” để miêu tả về vụ án này? Nó có liên quan đến mối quan hệ phức tạp giữa kẻ gây án, người bị hại và kẻ chủ mưu. Sau khi đọc xong toàn bộ vụ án, không khó để nhìn ra nguyên nhân thực sự dẫn đến vụ giết người bằng súng này là tâm lí biến thái của Seth. Nếu đánh giá Seth từ phương diện tâm lí có được lành mạnh bình thường hay không, thì mức độ bất thường trong tâm lí Seth là khá cao, ông ta đã sai con trai mình giúp ông ta trừ khử nạn nhân, người mà ông ta muốn giết hại. Bây giờ, chúng ta cùng phân tích về tình trạng bất thường trong tâm lí của Seth. Một mặt, Seth là một người rất tàn bạo, mặc dù mức độ tàn bạo của ông ta không phải cực điểm, nhưng cũng vượt xa khỏi sức tưởng tượng của người bình thường, điều này có thể nhìn thấy được qua việc ông ta điên cuồng ngược đãi con trai ruột của mình. Không chỉ bạo hành, Seth còn là một kẻ máu lạnh vô tình, thậm chí ông ta không có một chút xíu lòng từ bi nào. Từ điểm này có thể thấy, Seth vốn không có những tình cảm mà con người bình thường đều có, đây cũng là nguyên nhân chính khiến ông ta ra lệnh cho Dean giết chết Christine. Mặt khác, những hành vi tàn bạo, chuyên chế mà Seth biểu hiện ra đã phản ánh lên nội tâm vô cùng yếu đuối của ông ta. Sự yếu đuối của ông ta làm cho ông ta không dám tự tay giết người, bởi vì không đủ can đảm để giết người nên Seth mới ra sức huấn luyện ba người con trai, cố gắng biến ba đứa con thành thanh đao phủ trong tay mình. Còn về việc tại sao Seth lại trở nên như vậy, điều này thực sự có liên quan đến cuộc sống thời thơ ấu của Seth. Từ nhỏ Seth đã bị cha ngược đãi, vì vậy ông ta mới dùng thủ đoạn tương tự để đối xử với con trai mình, hơn nữa, mối quan hệ không được bình thường sản sinh ra giữa ông ta và người bạn trong tù lại càng khiến cho thế giới nội tâm của ông ta bị lệch lạc hơn. Mối quan hệ bất thường này còn ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của Seth về phụ nữ, trong mắt ông ta, địa vị của phụ nữ rất thấp kém, bởi vậy ông ta mới không hề tôn trọng phụ nữ, mới ép Christine phải bán mình. Đương nhiên, cũng chính vì hành vi đó của Seth mới làm cho các cuộc hôn nhân của ông ta liên tục thất bại, mà sự thất bại trong hôn nhân, ngược lại, càng khiến cho nhận thức của ông ta trở nên sai lầm hơn, cuối cùng khiến ông ta có hành vi đẩy Christine cho người đàn ông khác. Có khi Seth lại thấy khinh thường những người có tình cảm phong phú, song, thực tế, chính vì ông ta không thể có những tình cảm mà người bình thường đều có, nên ông ta cũng không muốn người khác có được nó, các con của ông ta chính là mục tiêu đầu tiên để ông ta quán triệt suy nghĩ đó của mình. Từ hành vi thao túng người trong gia đình và bức ép các con phải luyện tập của Seth cho thấy, ông ta có ham muốn kiểm soát một cách mãnh liệt. Chúng ta biết rằng, đối với một kẻ tâm lí biến thái, ham muốn kiểm soát mọi thứ quá mạnh mẽ sẽ trở thành nguyên nhân chính dẫn đến việc người đó bước vào con đường phạm tội. Bởi vì có rất nhiều chuyện trong cuộc sống con người khổng thể nắm bắt được, một khi xảy ra đều vượt ngoài tầm kiểm soát của Seth, ông ta nhất định sẽ sinh ra càng nhiều tâm lí độc ác tàn nhẫn lệch lạc nặng nề hơn, thí dụ như giết người dẫn đến tình huống đó. Đối với Dean và Damon, những người trực tiếp gây ra vụ giết người bằng súng này, thực ra họ chỉ là công cụ trong tay Seth. Từ khi ra đời, Dean đã được huấn luyện thành một “chiến binh trung thành” , vì vậy anh ta sẽ không màng tất cả để hoàn thành mệnh lệnh do Seth đưa ra, còn Damon là bởi vì ý chí quá mong manh yếu đuối, lại không biết cách từ chối nên mới bị Seth chọn trúng, trở thành công cụ để giết người. Tóm lại, vụ án mạng bằng súng này do một tay Seth tạo nên, ông ta mới là bàn tay hắc ám phía sau điều khiển tất cả mọi chuyện, vì vậy tất cả mọi hình phạt của tội cố ý giết người đúng ra đều phải do ông ta gánh vác. Tất nhiên, cho dù thế nào, hễ phạm tội thì con người ta bắt buộc phải trả giá cho tội lỗi của mình. Tuy không bị giam vào tù, Dean cũng phải chịu áp lực từ thế giới nội tâm, sám hối vì những chuyện mình đã gây ra. VỤ ÁN GIẾT VỢ CÓ ÂM MƯU TỪ TRƯỚC CHƯƠNG 7 Tháng 11 năm 1997, Joey Dale Drow lẻn vào nhà Sheila Belrush ở Florida. Khi đó Sheila 35 tuổi, là mẹ của sáu đứa con. Sauk hi Joey lẻn vào trong liền xông thẳng đến trước mặt Sheila rồi dùng súng bắn Sheila. Sheila trúng đạn ngã xuống đất. Joey vẫn chưa chịu thôi, anh ta lại dùng con dao găm sắc nhọn cứa rách cổ họng của Sheila, tận mắt chứng kiến Sheila chết. Sau khi Joey bị cảnh sát bắt giữ đã nói ra suy nghĩ của mình lúc gây án. Joey nói với cảnh sát rằng anh ta cũng không ý thức được mình đang làm gì, mặc dù anh ta biết rõ mình đang làm chuyện trái với pháp luật, nhưng nội tâm bên trong anh ta đã hoàn toàn tê liệt, vì vậy khi gây án, anh ta không có một chút lòng trắc ẩn nào cả. Về sau, khi trả lời phỏng vấn từ cánh truyền thông, Joey cho biết trước khi gây án trong lòng anh ta cũng từng đắn đo, giằng xé, anh ta từng cầu xin Thượng Đế, xin Thượng đế hẫy giết chết anh ta trước khi anh ta gây án, song, Thượng đế đã không làm như vậy. Joey thừa nhận rằng mình đã phạm tội, không hề chối cãi, tòa phán anh ta án tù vô thời hạn. Tuy hung thủ giết người đã bị kết án, song, khi cảnh sát xử lí vụ án giết người này đã nhận thức được rằng, có khả năng Joey không phải là kẻ chủ mưu của vụ án này. Bởi Joey là người Texas, anh ta mới chỉ 21 tuổi, trước khi gây án không hề có quen biết gì với người bị hại, mặc dù Joey đã dùng phương pháp vô cùng tàn nhẫn để giết chết nạn nhân, song, tại sao anh ta lại phải đi xa xôi ngàn dặm tới tận Florida để giết người? Càng điều tra sâu vào vụ án, cảnh sát phát hiện Joey chẳng qua chỉ là một mắt xích nho nhỏ trong cả một kế hoạch trả thù tàn ác, tuy mắt xích Joey này khá quan trọng, nhưng anh ta không phải là kẻ đứng phía sau chỉ đạo cả vụ án mạng này. Để phá được án, cảnh sát đã hợp tác cùng FBI, hai bên phải mất đến ba năm mới có thể làm rõ được đầu đuôi vụ án này. Thắng 9 năm 1997, Sheila Belrush cùng gia đình chuyển đến Florida, chuẩn bị bắt đầu một cuộc sống mới. Sheila là một người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, cô ấy nuôi cả thảy sáu đứa con, nhìn từ mọi mặt, ngoài trừ việc có hơi hỗn loạn thì gia đình Sheila cũng chì là một gia đình bình thường. Tuy trước kia Sheila từng có một cuộc hôn nhân thất bại, nhưng chồng cô ấy là Jamie Belrush không hề để tâm đến những điều này. Sauk hi hao người kết hôn, Sheila đã sinh bốn, cộng thêm hai cô con gái mà cô ấy đã sinh trước đó, gia đình tám người cũng có thể coi là hạnh phúc êm ấm. Khi bốn đứa trẻ sinh bốn được 23 tháng tuổi, Sheila và Jamie đã chuyển nhà, họ lặng lẽ chuyển đến một thị trấn vắng vẻ ở Florida. Lần chuyển nhà này tiến hành trong thầm lặng, thậm chí Sheila và Jamie còn không nói cho người thân biết, sở dĩ phải làm như vậy là bởi Sheila và người chồng cũ giàu có ở San Antonio tên là Alan vẫn luôn tranh chấp kịch liệt quyền nuôi dưỡng hai cô con gái. Bởi vì không muốn bị chồng cũ quấy rầy, Sheila và chồng quyết định chuyển đi. Tháng 11 năm 1997, gia đình Sheila đã có cuộc sống ổn định ở thị trấn này, đây chính là cuộc sống hạnh phúc mà Sheila luôn mong muốn. Một ngày nọ, bầu trời trong xanh nhưng hơi lạnh, buổi chiều sau khi tan học về, Styvi 3 tuổi chạy tung tăng về nhà, cô bé muốn chia sẻ thời khắc vui vẻ với mẹ Sheila. Đến khi Styvi vừa chạy vừa nhảy chân sáo vào trong nhà, bỗng nhiên cô bé cảm thấy có gì đó khác thường, bởi vì bốn em trai, em gái đang ngồi khóc toáng trong phòng khách, nhưng lại không thấy bóng dáng Sheila đâu. Styvi gọi mãi mà không thấy Sheila trả lời. Styvi không để ý được tới bốn đứa em đang gào khóc nữa, cô bé muốn tìm Sheila trước. Vừa đi tới trước cửa phòng bếp, Styvi chợt dừng bước lại, bởi vì cô bé để ý thấy sàn nhà trước cửa bếp có vài vết máu, xung quanh các vết máu là quần áo rơi vãi, Styvi cố đè nén dự cảm chẳng lành trong lòng lại, đi vào trong bếp, vòng qua tủ bếp chắn tầm nhìn, Styvi đã trông thấy thi thể của mẹ Sheila. Sheila nằm bất động trên sàn bếp, xung quanh có rất nhiều vết máu đã khô. Styvi không biết nên làm thế nào nữa, cô bé khom người xuống muốn kiểm tra Sheila. Cô bé chạm vào mặt mẹmặc dù da của Sheila đã lạnh toát, nhưng Styvi vẫn muốn ôm mẹ vào lòng, có điều, cơ thể nhỏ bé yếu ớt của cô bé không thể lay chuyển được thi thể đã cứng ngắc của mẹ mình, sau khi cố gắng thử vài lần, Styvi mới nghĩ đến việc gọi cầu cứu cảnh sát. Cô bé hoảng hốt gọi điện thoại báo cảnh sát. Trong điện thoại, Styvi khóc lóc kể lại mọi chuyện, cảnh sát lập tức cử người đến xem xét tình hình. Viên cảnh sát tuần tra đến trước sau khi xác nhận hung thủ đã rời khỏi hiện trường bèn báo cáo lên cấp trên, cảnh sát liền cử lực lượng đến nhà Sheila, vừa tìm kiếm chứng cứ, vừa phong tỏa hiện trường. Qua điều tra sơ bộ, cảnh sát nhận thấy nhà Styvi không có dấu hiệu bị xâm nhập bằng bạo lực, không có dấu vết bị lục lọi, kẻ gây án cũng không ăn trộm tài sản có giá trị nào. Có nghĩa rằng đây không phải là một vụ án mạng vì trộm cướp tài sản. Từ hình dạng vết máu trên sàn nhà cũng như vết máu bắn lên tường, khi xảy ra vụ án, giữa hung thủ và nạn nhân đã có sự giằng co, ẩu đả, nhiều nơi còn để lại dấu tay máu. Nhân viên thu thập các chứng cứ có liên quan, những dấu tay máu này chính là chứng cứ quan trọng. Chris Lolio chính là thanh tra cảnh sát chịu trách nhiệm đến hiện trường để điều tra vụ án mạng này, theo như Chris nhớ lại, tại hiện trường vụ án có rất nhiều vết máu, từ đường đi của vết máu có thể thấy, vụ án mạng này xảy ra ở trong phòng giặt đồ, nạn nhân và hung thủ đã giằng co, ẩu đả với nhau từ phòng giặt đồ ra đến phòng bếp, tại phòng bếp, nạn nhân đã bị hung thủ giết hại. Điều khiến cảnh sát căm phẫn nhất là, bốn đứa con còn chưa biết đi, mới chỉ biết bò của Sheila đã phải tận mắt chứng kiến cả quá trình mẹ mình bị giết hại, đồng thời còn ở cùng Sheila suốt sáu tiếng đồng hồ trong bếp. Sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát lập tức thông báo cho chồng của Sheila là Jamie Belrush. Sau khi trả lời vài câu hỏi điều tra sơ bộ, Jamie liền thông báo tin Sheila gặp nạn cho em gái của Sheila. Bởi vì Styvi là người đầu tiên phát hiện ra hiện trường vụ án nên cảnh sát cũng hỏi cô bé vài câu, trong quá trình hỏi chuyện, Styvi đã nói một thông tin quan trọng. Styvi nói với cảnh sát rằng, kẻ giết chết mẹ cô bé chắc chắn là bố của cô. Sau khi hỏi kĩ hơn, cảnh sát mới biết người bố trong lời kể của Styvi chính là chồng cũ của Sheila - Alan. Bởi vì Alan ở tận San Antonio xa xôi, vì vậy ban đầu cảnh sát không hề nghi ngờ hung thủ là Alan, song, cảnh sát vẫn ghi chép lại manh mối này. """