🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điểu Nhân Ebooks Nhóm Zalo Điểu Nhân Mo Hayder —★— Quỳnh Lê dịch Nhà xuất bản Hội nhà văn Nhã Nam phát hành —★— B 1. ắc Greenwich. Một ngày cuối tháng Năm. Ba tiếng trước khi mặt trời mọc, cả khúc sông quạnh quẽ. Những chiếc sà lan tối sẫm căng neo trên thượng nguồn và một đợt triều xuân nhẹ nhàng đẩy mấy chiếc thuyền buồm nhỏ ra khỏi đám bùn nơi chúng đang say ngủ. Một tầng sương mù bốc lên từ mặt nước, di chuyển vào đất liền, qua dãy cửa hàng cung ứng vật tư thuyền bè còn chưa lên đèn, tòa nhà Mái vòm Thiên niên kỷ không một bóng người, những khoảnh đất trống hoang vu và phong cảnh dị thường dưới ánh trăng, rồi sà xuống một bãi tập kết vật liệu gần như bị bỏ không, ngổn ngang những máy móc kỳ quái cách bờ gần năm trăm mét. Đèn pha đột nhiên quét tới - một chiếc xe cảnh sát xuất hiện, đèn xanh nhấp nháy lặng lẽ. Rồi chỉ trong giây lát, chiếc xe cảnh sát thứ hai, thứ ba lần lượt có mặt tại hiện trường. Hơn hai mươi phút sau, đã có tới tám xe cảnh sát tụ về khu đất cùng với hai chiếc Ford Sierra trơn màu và xe bán tải trắng của đội chụp ảnh pháp y. Rào chắn được dựng lên ở đầu đường, cảnh sát địa phương cũng đã cử người đi trấn giữ lối ra vào mạn bờ sông. Viên cảnh sát Phòng Điều tra Hình sự đầu tiên có mặt tại hiện trường đã yêu cầu tổng đài thị trấn Croydon cung cấp số máy nhắn tin của các thành viên Tổ Trọng án Khu vực. Và thế là cách đó tám cây số, thanh tra Jack Caffery thuộc đội B của Tổ Trọng án đã bị đánh thức khi đang ngủ trên giường. Nằm chớp mắt trong bóng tối, anh cố gắng tập trung chống lại thôi thúc quay ra ngủ tiếp. Hít một hơi dài, anh lấy hết sức lực lăn ra khỏi giường, chui vào buồng tắm, vỗ nước lên mặt - Jack, chớ có đụng vào một giọt rượu Glenmorangie nào nữa trong tuần trực chiến, thề ngay đi, thề ngay - rồi thong thả mặc quần áo, thà tới trễ nhưng hoàn toàn tỉnh táo và minh mẫn còn hơn . Anh thắt chiếc cà vạt giản dị - bên Phòng Điều tra Hình sự vốn không thích người khác bảnh chọe hơn họ - cầm lấy máy nhắn tin, nốc đẫy cà phê, loại hòa tan, có đường nhưng không sữa - nhưng nhất thiết không được ăn vì tiếp theo đó không biết sẽ phải chứng kiến cảnh tượng gì ở hiện trường. Sau khi đã hoàn toàn tỉnh táo nhờ caffeine từ hai ly cà phê, anh lục lấy chìa khóa trong túi quần jean rồi lái xe xuyên qua những con phố vắng lặng của Greenwich tới hiện trường vụ án, điếu thuốc lá tự cuốn phì phèo trên môi. Tại đây, cấp trên của anh, thanh tra chỉ huy Steve Maddox, một người nhỏ thó, tóc bạc sớm, như thường lệ chỉn chu trong bộ vét màu hạt dẻ, đứng chờ anh ở phía bên ngoài bãi tập kết vật liệu xây dựng. Ông bước tới bước lui dưới ánh sáng của một ngọn đèn đường cô độc, vừa cắn môi vừa xoay đi xoay lại chùm chìa khóa xe trong tay. Nhìn thấy xe của Jack tấp vào, ông liền bước tới, chống khuỷu tay lên nóc xe rồi cúi xuống nói chuyện với anh qua cửa kính đã được hạ xuống. “Hy vọng là cậu chưa ăn gì.” Jack kéo phanh tay, lôi túi thuốc lá sợi và giấy cuốn hiệu Rizla ra khỏi hộp đựng găng. “Tuyệt vời! Đó chính là điều mà tôi đang mong đợi.” “Nạn nhân chết từ lâu rồi.” Ông lùi lại cho Jack chui ra khỏi xe. “Nữ, nửa người bị chôn dưới đất. Ngay giữa một bãi đất hoang.” “Sếp đã vào bên trong rồi à?” “Chưa, chưa. Là nghe bên hình sự báo cáo. Mà này...” Ông liếc qua vai về phía các cảnh sát Phòng Điều tra Hình sự đang đứng túm tụm lại với nhau rồi mới hạ giọng nói tiếp, “Ai đó đã mổ phanh xác nạn nhân. Theo kiểu chữ Y truyền thống.” Tay đóng cửa xe của Jack bỗng khựng lại. “Mổ phanh?” “Chính thế!” “Vậy rất có thể chỉ là từ phòng xét nghiệm bệnh lý học nào đó lạc ra mà thôi.” “Tôi biết...” “Trò đùa của một gã sinh viên y nào đó...” “Tôi biết, tôi biết.” Maddox giơ hai tay lên ngăn Jack lại. “Thật ra đây không hẳn là địa phận của chúng ta, nhưng nghe này...” Ông lại liếc mắt qua vai trước khi nghiêng người tới gần Jack hơn. “Nhưng nói chung đám cảnh sát hình sự Greenwich vẫn luôn đối xử khá tử tế với chúng ta. Vậy chiều lòng họ một chút. Cứ ngó qua một tí cũng đâu mất gì, cậu thấy sao?” “Được thôi!” “Tốt! Giờ thì, tới lượt cậu.” Ông đứng thẳng lên. “Cậu thế nào? Đã cảm thấy sẵn sàng chưa?” “Ôi, chưa!” Jack sập mạnh cửa xe, rút thẻ cảnh sát trong túi ra rồi nhún vai. “Dĩ nhiên là chưa. Tôi thì có bao giờ sẵn sàng chứ?” Hai người đi dọc theo hàng rào bảo vệ hiện trường dẫn đến lối vào. Ánh sáng duy nhất phát ra là từ mấy ngọn đèn đường le lói, vàng vọt nằm rải rác. Thi thoảng, ánh chớp sáng từ máy ảnh của đội pháp y lại quét một quầng trắng qua bãi đất. Cách đó hơn một cây số rưỡi về phía Bắc, tòa nhà Mái vòm Thiên niên kỷ nằm sừng sững dưới chân trời với những ngọn đèn màu đỏ phát tín hiệu không lưu nhấp nháy giữa các vì sao. “Có vẻ như nạn nhân bị nhét vào trong một chiếc túi đựng rác,” Maddox lên tiếng. “Nhưng trời tối quá nên cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường lúc đó không dám chắc chắn, lại thêm đây là ca nghiêm trọng đầu tiên của cậu ta nên có phần luống cuống.” Ông hất cằm về phía đám xe cảnh sát. “Cái xe Mercedes ấy, cậu có nhìn thấy không?” “Có.” Jack không hề dừng bước. Trong xe, một người đàn ông có vẻ lực lưỡng, mặc áo khoác dạ màu nâu vàng đang chồm lên ghế trước chuyên chú nói chuyện với một điều tra viên. “Là chủ nhân của bãi đất. Nghe nói khu vực này đang có rất nhiều dự án cải tạo, kể từ khi có sự xuất hiện của tòa nhà Mái vòm Thiên niên kỷ. Ông ta bảo tuần trước vừa cử một đội tới đây quét dọn. Những người này có lẽ đã xáo tung nấm mồ của nạn nhân lên mà không biết vì họ toàn dùng các loại máy móc hạng nặng. Và rồi vào lúc một giờ đêm...” Ông dừng lại nửa chừng vì hai người đã đi tới cửa. Họ xuất trình thẻ công vụ, đăng nhập vào máy tính rồi chui qua dải băng phong tỏa hiện trường vào phía bên trong. “Và rồi vào lúc một giờ đêm nay, ba thanh niên mò ra đây với một hộp keo dán đa năng Evostik không biết định giở trò quỷ gì thì vấp phải nạn nhân, cả ba hiện đang bị giữ ở đồn cảnh sát. chuyên viên điều phối hiện trường sẽ cho chúng ta biết rõ hơn. Cô ấy đang ở trong đó rồi.” Hạ sĩ Fiona Quinn, chuyên viên điều phối hiện trường được cử tới từ Sở cảnh sát Thủ đô, đang đợi họ trên một khoảnh sân trống được rọi đèn pha cạnh một cabin di động trong bộ bảo hộ áo liền quần màu trắng quỷ dị hiệu Tyvek. Thấy họ tới, cô liền trịnh trọng kéo chiếc mũ trùm ra sau. Maddox giới thiệu hai người với nhau. “Jack, đây là hạ sĩ Quinn, còn Fiona, đây là thanh tra mới của tôi, Jack Caffery.” Jack Caffery tiến lại gần và chìa tay ra. “Rất vui được gặp cô.” “Tôi cũng vậy, thưa thanh tra.” Cô chuyên viên điều phối hiện trường tháo găng nhựa ra để bắt tay Jack. “Vụ đầu tiên của anh à?” “Với Tổ Trọng án thì đúng là vụ đầu tiên!” “Tôi thực tình hy vọng anh có thể bắt đầu với một vụ dễ chịu hơn. Tình hình trong kia thật không khả quan chút nào. Rất tệ là khác. Sọ của nạn nhân vỡ toác, có vẻ như do máy móc tác động. Nạn nhân nằm ngửa trên mặt đất.” Cô ngả đầu ra phía sau, dang hai tay và há miệng ra để minh họa. Trong ánh sáng tù mù, Jack có thể nhìn thấy những mảng trám răng trắng lấp lánh. “Phần từ thắt lưng trở xuống bị chôn trong bê tông đúc sẵn, giống như dạng bê tông trên vỉa hè hay đại loại thế.” “Lâu chưa?” “Chắc chưa lâu lắm, đoán chừng là” - cô xỏ lại găng tay rồi đưa cho Maddox một cái khẩu trang cotton - “chưa tới một tuần, nhưng cũng quá lâu để xếp vào dạng tình trạng khẩn cấp. Tôi nghĩ các anh nên đợi tới sáng hẵng lôi cổ bác sĩ bệnh lý học dậy. Ông ấy sẽ cung cấp cho các anh nhiều thông tin hơn khi thực hiện giải phẫu tử thi và xem xét hoạt động của côn trùng[1]. Nửa người nạn nhân bị chôn, nửa kia bị quấn trong túi rác nên sẽ có sự khác biệt.” “Bác sĩ bệnh lý học ư?” Caffery hỏi lại. “Cô có chắc là chúng ta cần tới bác sĩ bệnh lý học không? Chẳng phải bên hình sự cho rằng nạn nhân đã được giải phẫu tử thi rồi sao?” “Đúng vậy.” “Nhưng cô vẫn muốn chúng tôi tới xem nạn nhân?” “Chính xác.” Nét mặt Quinn không hề dao động. “Tôi vẫn nghĩ các anh nên tới xem nạn nhân. Vì đây không phải là một cuộc giải phẫu tử thi chuyên nghiệp.” Maddox và Jack nhìn nhau. Sau một lúc im lặng, Jack gật đầu. “Được rồi.” Anh hắng giọng, cầm khẩu trang và đôi găng tay Quinn đưa cho rồi nhét vội chiếc cà vạt vào bên trong áo sơ mi. “Xem thì xem. Đi thôi.” Dù đeo găng bảo hộ nhưng với thói quen của một cảnh sát hình sự lâu năm, Jack vừa đi vừa đút hai tay vào trong túi quần. Đôi khi anh không theo kịp ngọn đèn pháp y có gắn cờ của hạ sĩ Quinn, tâm trạng có chút bất an vì họ càng tiến sâu vào bãi đất thì đường đi càng tối. Đội chụp ảnh pháp y đã làm xong việc, giờ đang sao lại phim gốc trong chiếc xe tải trắng đóng kín cửa của họ. Nguồn sáng duy nhất còn lại là thứ ánh sáng hóa học leo lét phát ra từ những ống đèn huỳnh quang mà bên điều phối hiện trường sử dụng để đánh dấu và bảo vệ các vật chứng ở hai bên đường đi cho tới khi người của Tổ Trọng án tới thu thập và ghi chú cho tang vật. Chúng lơ lửng trong sương mù như những bóng ma hiếu kỳ, tạo thành những đường viền màu xanh lá mờ mờ quanh đống chai lọ, lon kim loại méo mó và một vật gì đó chẳng rõ hình thù, trông giống như áo phông hay khăn tắm cũ. Quanh đó là các băng tải và cần cẩu cao hai mươi mấy mét, vươn thẳng lên bầu trời đêm, xám xịt và bất động như tàu lượn siêu tốc mùa ế khách. Quinn giơ một tay lên ra hiệu cho họ dừng lại. “Ở kia,” cô nói với Jack. “Anh nhìn thấy nạn nhân không? Nằm ngửa ở đó.” “Ở đâu cơ?” “Anh nhìn thấy thùng dầu không?” Quinn lia đèn pin về phía trước. “Thấy rồi.” “Và hai dây thép bện thừng ở phía bên phải nó?” “Ừ.” “Tiếp tục lần theo dây nhìn xuống dưới.” Ôi Chúa ơi! “Thấy rồi chứ?” “Rồi.” Anh cố gắng trấn tĩnh lại. “Thấy rồi, tôi thấy rồi.” Thứ đó? Thứ đó là thi thể ư? Anh tưởng mình vừa nhìn thấy một đám bọt khí khổng lồ giống như được phun ra từ một bình cứu hỏa, trương phồng, vàng vọt, lấp lánh. Rồi anh nhận ra mái tóc, hàm răng và một cánh tay. cuối cùng, phải nghiêng hẳn đầu sang một bên anh mới xác định được thứ mình đang nhìn. “Ôi Chúa ơi,” Maddox nói, vẻ mệt mỏi. “Tiến hành đi. cho dựng bạt quanh nạn nhân.” T 2. ới khi mặt trời lên xua tan đám sương mù trên sông, bất kỳ ai nhìn thấy thi thể của nạn nhân giữa ánh sáng ban ngày cũng đều hiểu rằng đây không phải là trò đùa quỷ quái của một sinh viên trường y nào đó. Harsha Krishnamurthi, bác sĩ bệnh lý học trực ban bên Bộ Nội vụ, đã có mặt và biến mất cả tiếng đồng hồ trong chiếc lều bạt màu trắng. Đội tìm kiếm vân tay cũng được triệu tập để nghe chỉ dẫn, và tới mười hai giờ trưa, thi thể của nạn nhân đã được lấy ra khỏi khối bê tông. Jack tìm thấy Maddox ở ghế trước chiếc Sierra của đội B. “Sếp ổn chứ?” “Giờ chúng ta cũng chẳng còn việc gì ở đây nữa. Để Harsha Krishnamurthi tiếp quản thôi.” “Sếp về đi, tranh thủ chợp mắt một chút.” “Cậu cũng vậy.” “Không, tôi sẽ ở lại đây.” “Không, Jack. Cậu cũng về đi. Nếu muốn luyện chứng mất ngủ, mấy ngày nữa cậu sẽ được nếm mùi. Tin tôi đi.” Jack giơ hai tay lên. “Vâng, vâng, sếp nói sao thì làm vậy.” “Tôi nói sao thì làm vậy đi.” “Nhưng tôi sẽ không ngủ.” “Được rồi, được rồi. về đi.” Ông khoát tay về chiếc Jaguar đã qua nhiều năm chinh chiến của Jack. “Về đi rồi giả vờ ngủ cho tôi.” Hình ảnh thi thể vàng chói của nạn nhân dưới lớp lều bạt không hề rời khỏi suy nghĩ của Jack, ngay cả khi anh đã về đến nhà. Dưới ánh sáng trắng dịu đầu ngày, nạn nhân trông còn chân thật hơn đêm hôm qua. Móng tay của nạn nhân bị gặm nham nhở, sơn màu thiên thanh, cuộn ngược vào lòng bàn tay sưng vù. Anh tắm rửa rồi cạo râu. Trong gương, mặt anh rám nắng sau một buổi sáng ngoài bờ sông, quanh mắt xuất hiện vài nếp nhăn mới. Anh biết mình sẽ không tài nào ngủ lại được. Với việc nhanh chóng được bổ nhiệm vào chức vụ mới trong Tổ Trọng án, hơn nữa lại trẻ khỏe và cần mẫn hơn các đồng nghiệp, anh cảm nhận được sự đố kị của cấp dưới, cũng như thái độ ngấm ngầm hả hê của họ khi thấy vụ án đầu tiên của anh lại khéo trùng với thời điểm lịch phân công trực chiến kéo dài tám tuần vừa được xoay tua về lại đội B. Suốt bảy ngày, hai mươi tư trên hai mươi tư tiếng sẵn sàng bị điều động bất cứ lúc nào, đêm thì thức trắng, giờ lại phải lao vào vụ án ngay lập tức mà không hề có thời gian nghỉ ngơi hồi sức, anh chắc chắn không thể ở đỉnh cao phong độ. Mà vụ án này lại có vẻ phức tạp. Nó rối rắm không chỉ vì địa điểm gây án hay sự thiếu vắng nhân chứng mà còn vì những vết kim tiêm lở loét thâm đen được họ phát hiện dưới ánh sáng ban ngày. Lại thêm việc thủ phạm không biết đã giở trò gì trên ngực nạn nhân mà lúc này trong buồng tắm ốp gạch trắng của mình, Jack thật không muốn nghĩ tới. Anh dùng khăn lau khô tóc và lắc đầu cho nước ra khỏi tai. Đừng nghĩ tới vụ án nữa. Chớ để nó quanh quẩn trong đầu. Maddox nói đúng, anh cần phải nghỉ ngơi. Anh vào bếp, đang rót cho mình một ly Glenmorangie thì chuông cửa reo. “Em đây,” giọng Veronica vang qua khe đút thư ở cửa. “Em định gọi báo cho anh trước nhưng lại quên mất điện thoại ở nhà.” Anh ra mở cửa. Veronica mặc bộ vét vải thô màu kem, cặp kính Armani gài trên tóc. Dưới chân cô để đầy những túi đồ mua sắm từ các cửa hiệu ở Chelsea. Chiếc xe mui trần Tigra màu đỏ như màu thùng thư đậu trước cổng vườn dưới ánh chiều tà. Jack cũng nhìn ra Veronica đang cầm chìa khóa cửa trước nhà anh trong tay như chực mở cửa. “Xin chào, anh chàng quyến rũ!” Cô ghé người vào cho anh hôn. Anh hôn cô, cảm nhận vị son môi và xịt thơm miệng bạc hà. “Ưmmmm!” Cô túm lấy cổ tay anh rồi ngả người ra phía sau để chiêm ngưỡng người đàn ông mặc quần jean, chân trần, da rám nắng trước mặt. Trong tay anh là chai rượu whisky đung đưa qua lại. “Anh đang nghỉ ngơi à?” “Anh đang ở trong vườn.” “Để theo dõi Penderecki?” “Em cho là anh ra vườn chỉ để làm mỗi việc đó sao?” “Dĩ nhiên rồi!” Cô vừa phá ra cười thì nhìn thấy nét mặt anh. “Thôi nào, Jack. Em chỉ nói đùa thôi mà. Xem này!” Cô cầm chiếc túi mua đồ ở siêu thị Waitrose lên đưa cho anh. “Em có mua chút đồ - tôm, thì là, rau mùi còn rất tươi và cả một chai vang Muscatel hảo hạng, còn cái này...” Cô chìa ra một hộp màu xanh lá cây sẫm. “Là quà của em và bố.” Cô co một chân lên như một chú cò duyên dáng, đặt chiếc hộp lên đầu gối để mở nó ra. Một chiếc áo khoác da màu nâu nằm gọn ghẽ trong lớp vải mỏng in hoa văn. “Một trong những mặt hàng nhập khẩu của nhà em.” “Áo da anh cũng có một cái rồi.” “Ơ.” Nụ cười của cô biến mất. “Ừm. Ờ, vậy thì thôi.” Cô đóng chiếc hộp lại. cả hai người im lặng trong giây lát. “Em mang nó về vậy.” “Ồ không.” Jack chợt cảm thấy áy náy. “Không cần đâu.” “Không sao đâu mà. Em có thể đổi nó lấy thứ khác trong kho.” “Không cần đâu, thật đấy. Đưa đây, đưa nó cho anh.” Đây chính là chiến thuật của Veronica, anh vừa nghĩ vừa lấy đầu gối sập cửa lại và đi theo cô vào trong nhà. Cô luôn đưa ra những gợi ý làm xáo trộn cuộc sống của anh, nhưng hễ anh từ chối là cô lại trề môi trong khi vẫn nhún vai tỏ ra can đảm chấp nhận khiến anh lập tức cảm thấy áy náy, mất hết dũng khí và đầu hàng. Bởi vì quá khứ của cô. Đơn giản nhưng hiệu quả đấy, Veronica. Trong sáu tháng ngắn ngủi hai người quen biết nhau, ngôi nhà cũ kỹ nhưng ấm cúng của anh đã biến thành một chốn xa lạ chất đầy các loại cây tỏa hương và những thiết bị giúp tiết kiệm sức lao động. Trong tủ quần áo thì ngồn ngộn các loại trang phục mà anh sẽ không bao giờ đụng đến: các bộ lễ phục thiết kế riêng, áo khoác may thủ công, cà vạt bằng lụa, quần nhung, tất cả đều là quà từ công ty nhập khẩu trên phố Mortimer của bố cô. Trong lúc Veronica ở trong bếp, mở toang cửa sổ, tự nhiên hệt như ở nhà mình giữa tiếng o o của chiếc đèn hiệu Guzzini và tiếng dầu lạc xì xèo trong đám xoong nồi màu xanh xám, Jack mang chai whisky ra ngoài hiên. Khu vườn cũng chính là một minh chứng hoàn hảo cho mối quan hệ đã tới hồi rạn nứt giữa hai người, Jack vừa tháo nút chai Glenmorangie vừa nghĩ. Từ trước khi bố mẹ anh mua ngôi nhà này, trong vườn đã trồng đầy hoa dâm bụt, hoa đậu lupin và một cây hoa ông lão vặn vẹo, già cỗi. Mùa hè đến, anh thích thú nhìn chúng leo cao cho đến khi gần như che kín các cửa sổ bằng thứ màu xanh rờn của mình. Nhưng Veronica lại muốn cắt, tỉa, thậm chí là dẹp chúng đi để nhường chỗ cho các cây sả và nụ bạch hoa trồng trong những chiếc chậu sơn màu đặt trên bậu cửa, thiết kế lại khu vườn theo một sơ đồ cụ thể với những lối đi rải sỏi giữa hai hàng nguyệt quế. Và rồi cuối cùng, sau khi đã cải tạo anh cùng ngôi nhà, cô sẽ yêu cầu anh bán nó đi, rời khỏi cái ngôi nhà nhỏ theo kiểu Victoria ở phía Nam London nơi anh đã sinh ra và lớn lên với bức tường gạch đổ nát, những khung cửa sổ có chấn song, khu vườn rậm rạp, âm thanh văng vẳng của những chuyến tàu rậm rịch trên đoạn đường ray xuyên đồi. Cô muốn bỏ công việc mà cô chỉ làm cho có lệ ở công ty gia đình, rời khỏi nhà bố mẹ để tới xây cho anh một tổ ấm. Nhưng anh lại không thể. Cuộc đời anh đã bắt rễ quá sâu vào khoảnh đất sét nhiều mùn rộng hơn ngàn mét vuông nơi đây, đâu thể nói đi là đi được. Và sau sáu tháng tìm hiểu Veronica, anh hoàn toàn có thể chắc chắn một điều: anh không hề yêu cô. Anh quan sát cô qua cửa sổ, lúc này đang gọt khoai và nạo bơ thành hình sò. Cuối năm ngoái, sau bốn năm gia nhập Phòng Điều tra Hình sự, anh bắt đầu lâm vào tình trạng chán nản, giậm chân tại chỗ, tinh thần xuống dốc, mong đợi một chuyển biến mới. Cho đến một ngày, trong một bữa tiệc Halloween đầy hỗn loạn của Phòng Điều tra Hình sự, anh nhận ra mình quay đi đâu cũng không thoát khỏi ánh mắt của một cô gái mặc váy ngắn, đi xăng đan quai màu vàng, trên môi nở nụ cười ranh mãnh. Veronica đã khơi dậy trong anh một cơn hứng tình kéo dài suốt hai tháng trời. Hai người rất hòa hợp với nhau về mặt thể xác. Mỗi sáng, cô đánh thức anh dậy vào lúc sáu giờ để làm tình và suốt hai ngày cuối tuần chỉ loanh quanh trong nhà, không mặc gì, chỉ đi giày cao gót và tô son môi màu hồng kem. Cô mang tới cho anh một thứ năng lượng mới và một số khía cạnh khác trong cuộc sống của anh cũng bắt đầu thay đổi. Chẳng hạn như những vết giày cao gót Manolo trên tấm ván đầu giường anh hay quyết định thuyên chuyển vào đội điều tra án mạng của Tổ Trọng án hồi tháng Tư. Nhưng vào mùa xuân, khi những ham muốn của anh đối với cô bắt đầu nguội lạnh, Veronica đột ngột thay đổi kế hoạch. Cô trở nên rất nghiêm túc trong mối quan hệ với Jack và tiến hành một chiến dịch trói chặt đối phương. Một đêm, cô yêu cầu anh lắng nghe cô nói, và với giọng điệu vô cùng nghiêm trọng, cô kể lại với anh về nỗi bất hạnh lớn nhất của đời mình, vốn đã xảy ra rất lâu trước khi họ gặp nhau. Khi còn niên thiếu, cô đã phải đấu tranh chống lại bệnh ung thư trong suốt hai năm. Chiến lược này của cô vô cùng hữu hiệu. Anh đơ ra vì bất ngờ, đột nhiên không còn biết phải làm thế nào để cắt đứt mối quan hệ này nữa. Thật là một kẻ ngạo mạn, Jack tự nhủ, cứ làm như thể việc mày không ra đi chính là một sự ban ơn cho cô ấy vậy. Mày cũng có thể tự phụ tới mức ấy ư? Trong bếp, Veronica đang nhặt rau bạc hà, cái cằm thanh mảnh, bất cân xứng cúi gằm trước ngực, lưỡi đưa ra giữa hai hàm răng. Jack lại rót thêm một ly whisky và uống cạn. Tối nay, anh quyết định sẽ nói. Có lẽ là trong bữa tối… Một giờ sau, mọi thứ đã được chuẩn bị tươm tất. Veronica bật hết đèn trong nhà rồi đốt nến hương sả trong sân vườn. “Thịt ba chỉ hun khói, xa lát đậu tằm trộn với rau cải lông, tôm tẩm mật ong và nước tương, tiếp theo là kem quýt. Em đúng là một người phụ nữ hoàn hảo phải không?” Cô hất tóc và thoáng để lộ hàm răng được chăm sóc cẩn thận. “Em muốn làm cho anh ăn thử để xem có dùng cho bữa tiệc được không?” “Bữa tiệc.” Anh hoàn toàn quên bẵng mất bữa tiệc. Họ đã thống nhất rằng mười ngày sau khi thời hạn trực chiến của anh kết thúc là thời điểm lý tưởng và thư thả để tổ chức một bữa tiệc ăn mừng. “Cũng may là em đã không quên, phải không?” Cô bê chiếc nồi gang hiệu Le Creuset chất đầy khoai tây bi mới ra lò đi qua trước mặt anh. Cửa sổ kiểu Pháp trong phòng khách của ngôi nhà mở thông ra vườn. “Tối nay chúng ta sẽ ăn ở đây, không cần phải sang phòng ăn làm gì.” Cô dừng lại nhìn chiếc áo phông nhăn nhúm và mái tóc đen rối bời của anh. “Anh không nghĩ là mình nên thay quần áo để ăn tối ư?” “Em đang đùa đấy à?” “Em chỉ...” Cô mở chiếc khăn ăn, trải nó trên đùi. “Em chỉ nghĩ là như thế sẽ lịch sự hơn.” “Không.” Anh ngồi xuống bàn. “Anh cần phải dùng bộ vét của mình cho công việc. Khởi động vụ án mới rồi.” Tiếp tục đi Veronica, hỏi anh về vụ án đi, hãy tỏ ra quan tâm một chút tới những thứ khác ngoài tủ quần áo và khăn trải bàn của anh. Nhưng Veronica bắt đầu dồn khoai tây vào đĩa của anh. “Anh đâu chỉ có mỗi một bộ vét? Bố vừa gửi cho anh bộ màu xám đấy thôi.” “Đều ở cửa hàng giặt là hết rồi.” “Ôi Jack, thế mà anh không bảo em. Biết thế thì em đã đi lấy đồ cho anh rồi.” “Veronica...” “Thôi được rồi, được rồi.” Cô giơ tay lên. “Em xin lỗi. Em sẽ không nhắc tới chuyện này nữa...” Cô ngừng lời. Đúng lúc đó, điện thoại trong hành lang đổ chuông. “Đoán xem là ai nào.” Cô lấy dĩa chọc vào một miếng khoai tây. “Cứ làm như tôi không đoán ra ấy.” Jack đặt ly rượu xuống bàn, đẩy ghế đứng dậy. “Chúa ơi.” Veronica cáu kỉnh thở dài, dằn chiếc dĩa xuống bàn. “Họ đúng là có giác quan thứ sáu mà. Anh không thể bỏ mặc cho nó reo một lúc hay sao?” “Không được.” Đến hành lang, anh nhấc điện thoại lên. “Tôi nghe.” “Đừng nói với tôi là cậu đang ngủ đấy nhé!” “Tôi đã nói với sếp là tôi sẽ không ngủ mà!” “Xin lỗi vì phải gọi cậu vào giờ này.” “Không sao, đã xảy ra chuyện gì vậy?” “Tôi vừa quay lại hiện trường, cấp trên đã cho phép điều động các thiết bị trợ giúp. Một người trong tổ tìm kiếm đã có phát hiện mới.” “Thiết bị trợ giúp gì cơ?” “GPR.” “GPR á? Có phải là...” Jack dừng lại giữa chừng. Veronica đi ngang qua trước mặt anh, phăm phăm bước lên cầu thang và đóng sập cửa phòng ngủ lại. Anh đứng trong hành lang hẹp nhìn theo cô, một tay chống lên bờ tường. “Jack, cậu vẫn ở đó đấy chứ?” “À vâng, xin lỗi sếp. Sếp vừa nói gì ý nhỉ? GPR, có phải là máy thăm dò địa chất?” “Là máy quét ra đa thăm dò địa chất.” “Được rồi. Ý sếp là...” Móng tay cái đen sì của Jack cạy một lỗ nhỏ trên tường. “Ý sếp là lại có thêm các thi thể khác?” “Đúng vậy, thêm bốn thi thể nữa.” Giọng Maddox trở nên nghiêm trọng. “Tệ thật.” Jack xoa cổ. “Thật muốn dồn tôi vào đường cùng đây mà!” “Họ đang cho lấy các thi thể lên rồi.” “Được rồi. Vậy chúng ta gặp nhau ở đâu?” “Ở trụ sở chính nhé. Sau đó chúng ta có thể theo họ tới đường Devonshire luôn.” “Tới nhà xác á? Ở Greenwich?” “Đúng vậy. Krishnamurthi đã bắt đầu tiến hành giải phẫu thi thể đầu tiên rồi. Ông ấy đã đồng ý giúp chúng ta cả đêm luôn.” “Được rồi, tôi sẽ có mặt trong vòng ba mươi phút.” Trên gác, Veronica đóng chặt cửa, nhốt mình trong phòng ngủ. Jack thay quần áo trong phòng Ewan, nhìn một lần qua cửa sổ về phía đường ray tàu hỏa để kiểm tra động tĩnh bên nhà Penderecki nhưng không thấy gì khả nghi. Anh vừa thắt cà vạt vừa thò đầu qua cửa phòng ngủ. “Chúng ta nói chuyện sau nhé. Khi nào anh đi làm về...” Anh dừng lại nửa chừng. Veronica đang ngồi trên giường, chăn kéo tới tận cổ, trong tay nắm chặt một lọ thuốc. “Thuốc gì vậy?” Cô ngước mắt lên nhìn anh. Hai mắt sưng vù, đẫm lệ. “Thuốc giảm đau Ibuprofen. Sao?” “Em sao vậy?” “Em không sao.” “Em đang tính làm gì hả Veronica?” “Chỉ là cổ họng em lại đau.” “Cổ họng em lại đau?” Anh khựng lại, chiếc cà vạt buông thõng xuống bàn tay trái. “Đúng vậy.” “Từ khi nào vậy?” “Em không biết.” “Cổ họng em đau hay không thì em phải biết chứ.” Cô chỉ lầm bầm gì đó rồi mở chai thuốc, lắc ra tay hai viên và ngước nhìn anh. “Anh phải đi chỗ nào hay ho à?” “Sao em không nói cho anh biết là họng em lại đau? Em phải đi kiểm tra xem thế nào chứ?” “Đừng lo cho em. Anh có nhiều chuyện quan trọng hơn phải làm.” “Veronica...” “Chuyện gì nữa?” Anh im lặng một lúc. “Không có gì.” Anh siết chặt nút thắt cà vạt rồi quay ra cầu thang. “Đừng lo cho em,” cô hét với theo. “Em ngủ trước nhé, không đợi anh đâu.” H 3. ai giờ rưỡi sáng. Jack và Maddox đứng trầm ngâm trong phòng giải phẫu ốp gạch trắng toát. Trên năm chiếc bàn giải phẫu bằng nhôm là năm thi thể bị mổ phanh ra từ xương mu tới bả vai, da bị lột như một lớp vỏ để lộ xương sườn với những vân mỡ và cơ thịt, chất lỏng rỉ ra, chảy tong tỏng xuống các chậu hứng ở phía dưới. Jack không mấy xa lạ với khung cảnh này: mùi thuốc sát trùng lẫn với mùi hôi thối không lẫn vào đâu được của nội tạng người chết tràn ngập trong bầu không khí lạnh lẽo. Nhưng năm thi thể. Những năm thi thể được dán nhãn đề cùng một ngày. Ở cấp độ này thì anh thực sự chưa bao giờ trải qua. Các nhân viên nhà xác di chuyển lặng lẽ trong những bộ đồng phục giải phẫu và ủng cao su màu xanh bạc hà dường như không hề cảm thấy có gì bất thường. Một trong số họ thậm chí còn mỉm cười khi đưa cho anh chiếc khẩu trang y tế. “Xin quý vị chờ thêm một chút xíu nữa thôi.” Harsha Krishnamurthi lúc này đang đứng ở chiếc bàn giải phẫu trong cùng. Da đầu của thi thể này được lột xuống tới phần mũi đóng vảy bị rạch làm hai rồi lật ra khiến khuôn mặt và tóc lủng lẳng như một thứ mặt nạ cao su ướt lộn ngược, che mất cổ và miệng rồi rớt xuống trước xương đòn. Bác sĩ Krishnamurthi dỡ bộ ruột ra rồi thả chúng vào một cái chậu inox. “Ai đang xử lý ca này vậy?” “Là tôi.” Một nhân viên nhà xác nhỏ người, đeo kính tròn xuất hiện bên cạnh Krishnamurthi. “Rất tốt, Martin, cân chúng lên, kiểm tra rồi chuẩn bị lấy mẫu xét nghiệm. Paula, chỗ này xong rồi, cô có thể khâu lại. Nhớ đừng để các đường khâu trùm lên vết thương đấy nhé. Nào, giờ đến lượt quý vị cảnh sát.” Krishnamurthi đẩy chụp đèn halogen ra chỗ khác, nâng kính bảo hộ bằng nhựa lên rồi quay sang Maddox và Jack, hai tay đeo găng vấy đầy máu cứng nhắc chìa ra phía trước. Đó là một người đàn ông ưa nhìn, thân hình mảnh dẻ, tầm năm mươi tuổi, đôi mắt màu nâu sẫm đã hơi kèm nhèm vì tuổi tác, hàng ria hoa râm được cắt tỉa cẩn thận. “Mở mang tầm mắt rồi chứ?” Maddox gật đầu. “Đã tìm ra nguyên nhân tử vong chưa?” “Tôi nghĩ là rồi. Và nếu tôi đoán đúng thì đây sẽ là một ca rất thú vị đấy. Tôi sẽ bắt đầu từ đằng kia.” Ông chỉ tay về phía cuối phòng. “Bên côn trùng học sẽ cung cấp thêm chi tiết cho các anh nhưng tôi có thể đoán chừng thế này: thi thể đầu tiên các anh tìm thấy là người chết cuối cùng, cứ gọi cô ấy là số năm. Cô ấy bị sát hại chưa đầy một tuần, các nạn nhân tiếp theo lần lượt là gần một tháng, hai tháng và ba tháng rưỡi trước đó. Nạn nhân đầu tiên có lẽ bị giết hại vào khoảng tháng Mười hai, sau đó khoảng cách giữa các nạn nhân ngày càng thu hẹp lại. Cũng may là các thi thể đều được bảo quản khá tốt, không bị tác động nhiều bởi các yếu tố bên ngoài.” Krishnamurthi chỉ tay vào đám da thịt thâm đen lầy nhầy đến ảm đạm trên chiếc bàn phẫu thuật số hai. “Đây là người đầu tiên tử vong. Xương dài nên chắc còn chưa tới mười tám tuổi. Bên cánh tay trái có một vết giống như hình xăm. Có lẽ đó là dấu hiệu duy nhất giúp chúng ta nhận diện nạn nhân. Nếu không thì phải dựa vào kết quả nha khoa. Giờ nói tới” - ông giơ một ngón tay cong quèo lên - “vẻ bên ngoài của các nạn nhân khi được đưa đến đây. Không biết các anh đã nhìn thấy gì trên hiện trường nhưng tất cả bọn họ đều trang điểm. Trang điểm rất đậm. Đập ngay vào mắt. Ngay cả khi đã bị chôn rất lâu dưới đất. Màu mắt và son môi vẫn còn rất rõ. Bên chụp ảnh pháp y đã chụp hết lại.” “Trang điểm, hình xăm ...” “Đúng vậy, thanh tra Maddox. Và nếu suy luận theo hướng này thì còn có hai nạn nhân bị viêm vùng xương chậu, một nạn nhân bị vảy nến ở hậu môn, và một loạt các dấu hiệu sử dụng ma túy; ngoài ra còn có viêm nội tâm mạc tại van ba lá. Tôi cũng không muốn kết luận vội vàng nhưng..” “Đúng thế, đúng thế,” Maddox lẩm bẩm. “Vậy các nạn nhân đều là gái mại dâm. Chúng tôi cũng đã đoán vậy rồi. Thế còn các vết cắt xẻ trên người nạn nhân thì sao?” “À, đây là một điểm rất thú vị!” Krishnamurthi tới cạnh một thi thể và ra hiệu cho hai người họ lại gần. Đây không phải lần đầu tiên Jack có cảm giác một người khi bị lột da cũng chả khác gì tảng thịt treo ở lò mổ. “Các anh có thể thấy tôi đã phải rạch một đường mới theo kiểu truyền thống ở sát bên cạnh để không bị trùng với đường rạch của hung thủ, đồng thời tránh đụng vào ngực của nạn nhân để có thể làm sinh thiết và kiểm tra phía bên trong.” “Rồi sao?” “Một vài mô đã bị lấy ra.” Maddox và Jack nhìn nhau. “Đúng vậy, quy trình tương tự như một ca phẫu thuật thu nhỏ ngực tiêu chuẩn với vết rạch hình bê ta. Rồi khâu lại cẩn thận. Điều đó cũng có thể ám chỉ rằng thủ phạm không cần phải thực hiện việc chỉnh trang này với các nạn nhân có cỡ ngực nhỏ hơn.” “Như trường hợp nào?” “Như nạn nhân số hai và số ba. À, để tôi chỉ cho các anh xem một chi tiết rất thú vị nữa.” Krishnamurthi ra hiệu cho hai người tiến về phía nhân viên nhà xác đang khâu lại thi thể rúm ró mà lúc nãy ông vừa lấy ruột ra. “Móng tay trầy trụa rất thê thảm, nhưng lạ nhất là không hề có bất cứ dấu hiệu chống cự nào. Trừ trường hợp này. Nạn nhân số ba.” Ba người họ đứng vây quanh thi thể của nạn nhân số ba. Nhỏ xíu, y như một đứa trẻ, và Jack biết rằng Tổ Trọng án sẽ phải đặc biệt chú ý tới điểm tương đồng không biết là vô tình hay hữu ý này. “Nạn nhân nặng bốn mươi cân, đúng là rất nhẹ.” Krishnamurthi dường như đọc được suy nghĩ của Jack. “Nhưng không phải trẻ con. Chỉ là vóc người rất nhỏ mà thôi. Có lẽ vì vậy mà ngực của nạn nhân không bị cắt xẻo.” “Thế còn màu tóc thì sao...?” “Tóc nhuộm. Màu tóc phai rất chậm. Thứ màu tím sẫm này gần như không thay đổi mấy sau khi tử vong. Nhìn xem này!” Ông đưa một ngón tay đen sì còn ướt máu chỉ vào các dấu vết phân tán trên cổ tay của nạn nhân. “Rất khó phân biệt với các thương tổn thường thấy trong quá trình phân hủy nhưng đây rõ ràng là dấu vết dây trói để lại. Trước khi tử vong. Quanh miệng bị buộc giẻ. Cổ chân cũng vậy, có vết trầy và chảy máu. Các nạn nhân khác chết một cách nhẹ nhàng, giống như” - ông dùng tay vẽ minh họa một đỉnh núi - “giống như chỉ chực ngã nhào sang phía bên kia, dễ dàng như lá rời cành. Nhưng nạn nhân này - nạn nhân này lại khác.” “Khác?” Jack ngước lên. “Khác thế nào?” “Nạn nhân này đã chống cự quyết liệt, thưa hai vị. Để giành giật mạng sống của mình.” “Trong khi các nạn nhân khác thì không hề chống cự?” “Không hề.” Ông giơ hai tay lên trời. “Tôi sắp nói đến vấn đề đó đây. Xin các anh kiên nhẫn thêm một chút nữa. Được chứ?” Ông đẩy chiếc cân ba đòn sang một bên rồi di chuyển sang thi thể sung huyết và trương phồng của nạn nhân được phát hiện đầu tiên. Ông nhìn lên, chờ Maddox và Jack lại gần. “Giờ chúng ta sẽ gọi đây là nạn nhân số năm. Tình trạng vô cùng tồi tệ, vết thương trên đầu chắc chắn là do máy móc hạng nặng gây ra sau khi nạn nhân đã tử vong, giả thuyết của các anh về máy ủi có vẻ hợp lý. Điều này khiến chúng ta gặp rắc rối lớn trong việc nhận diện nạn nhân. Hy vọng duy nhất của chúng ta là dựa vào dấu vân tay, nhưng ở đây cũng xảy ra vấn đề.” Ông nhấc một tay nạn nhân lên và khẽ day day lớp da bên ngoài, chúng trồi lên tụt xuống, đông như thạch và dày chẳng khác gì vỏ bánh pudding. “Các anh thấy không? Trượt lên trượt xuống thế này thì làm sao lấy dấu cả bộ mười ngón tay được. Tôi sẽ phải tách lớp da ra để lấy dấu riêng.” Ông đặt tay nạn nhân xuống. “Cô ấy đúng là một người nghiện hút, nhưng đột tử không phải do quá liều vì không thấy có dấu hiệu tổn thương thực quản, khí quản hay phù phổi thông thường.” Ông khẽ lật thi thể nằm nghiêng sang một bên và chỉ vào một loạt những chấm màu hơi xanh trên mông nạn nhân. “Phần lớn là dấu hiệu của quá trình thối rữa. Nhưng nhìn kỹ ở dưới thì có thể thấy những vết kim tiêm tụ máu đen.” “Đúng vậy.” Ông lật thi thể nạn nhân lại. “Các vết ứ máu vùng thấp rải rác. Cô ấy đã bị di chuyển sau khi tử vong. Có thể tìm thấy các dấu hiệu này trên cánh tay, và bất thường ở chỗ là trên cả cổ chân cũng có.” “Điều đó có gì bất thường?” “Chúng ta thường chỉ tìm thấy dấu hiệu đó ở các nạn nhân treo cổ. Máu chảy ngược xuống dưới bàn chân và cổ chân.” “Mà xương móng ở cổ lại không hề bị tổn hại?” Jack cau mày. “Đúng thế. Và nhìn vào phần cổ sót lại, tôi có thể đảm bảo rằng đây không phải một vụ treo cổ.” “Vậy là sao?” “Nạn nhân bị giữ ở tư thế thẳng đứng khá lâu. Sau khi chết.” “Thẳng đứng ư?” Jack hỏi lại. Hình ảnh ấy khiến anh cảm thấy bất an. Anh quay sang Maddox, chờ đợi một lời giải thích, hay một hành động trấn an. Nhưng vô vọng. Maddox chỉ nheo mắt và lắc đầu như muốn nói, Tôi cũng chịu, đừng có lúc nào cũng nhăm nhăm tìm câu trả lời ở chỗ tôi. “Chắc bị hung thủ dựng đứng. Nhưng xác phân hủy quá nhanh, tôi không nhìn thấy khu vực nào trên thi thể còn giữ được màu trắng để xác nhận nạn nhân bị giữ ở vị trí đó bằng cách nào. Hoặc là có vật chống vào hai nách, hoặc là bị kẹp vào đâu đó để có thể giữ nguyên tư thế thẳng đứng. Ngay sau khi chết, lúc máu còn chưa kịp đông lại.” Bác sĩ Krishnamurthi chợt dừng lại. “Ái chà, tôi lại suýt để sót mất nó.” “Chuyện gì vậy?” Ông cúi xuống và nhẹ nhàng lôi thứ gì đó ra khỏi da đầu của nạn nhân. “Tốt rồi.” “Là cái gì vậy?” “Một sợi lông.” Jack cúi sát vào. “Một sợi lông mu?” “Rất có thể.” Krishnamurthi soi sợi lông dưới ánh đèn. “Ồ không. Là một sợi tóc. Hắc chủng. Sẽ không dùng để xét nghiệm ADN được, ngoài xét nghiệm ty thể, vì không có đủ tế bào nang trên đó.” Ông cẩn thận cho sợi tóc vào chiếc túi đựng rồi đưa nó cho một nhân viên nhà xác dán nhãn. “Tôi cũng tìm thấy mấy sợi tóc vàng trên thi thể của ba nạn nhân khác, chúng đã được chuyển đến Lambeth.” Ông đi sang bàn bên cạnh. “Đây là nạn nhân số hai. Tử vong khoảng mười bốn tới mười lăm tuần trước. Một mét bảy hai, tầm ba mươi tuổi, các ngón tay đã khô đét cả lại nhưng chúng tôi vẫn sẽ lấy được vân tay. Đó là nhờ một phụ gia có khả năng tái tạo mô qua quá trình hình thành các phức chất vòng càng cua vô cùng hữu hiệu có sẵn trên thị trường: gelatin. Khiến cho các đầu ngón tay phồng lên. Thường thì chúng tôi sẽ phải cắt tay nạn nhân ra và gửi tới Lambeth, nhưng” - ông ghé tai Maddox - “nhưng kể từ chuyện lùm xùm quanh vụ Marchioness[2], tôi không còn cắt tay gửi đi nữa. Dù có bất tiện nhưng tôi làm luôn ở đây cho xong.” Ông tiếp tục di chuyển sang bàn bên cạnh với một thi thể đồ sộ, trắng bệch, bị phanh xuống tới bụng. Một lớp màng mô liên kết màu trắng bạc tựa như mạng nhện lấp lánh trên những dải xương sườn bầm tím. Mái tóc tẩy màu vàng ướt nhẹp được vuốt ra phía sau, để lộ toàn bộ vầng trán. Họng của nạn nhân cũng bị phanh ra, có thể thấy thấp thoáng dây thanh quản màu trắng đục. “Nạn nhân thứ tư, thưa quý vị.” Jack khẽ chạm vào mắt cá chân nạn nhân. “Không tệ!” Một hình xăm, lạ lùng thay, vẫn còn rõ nét nằm cách xương cổ chân vài phân. Thỏ Bugs với cây cà rốt cuống xanh trứ danh của mình. “Ông nói rằng không hề có dấu hiệu sử dụng ma túy quá liều?” “Đúng vậy. Cũng không có chấn thương nào.” “Vậy vì sao nạn nhân tử vong?” Krishnamurthi giơ một ngón tay vấy máu của mình lên, chậm rãi nở nụ cười. “Thế nên tôi mới có ý này. Nhìn đây!” Ông khẽ thọc tay vào khoang cổ, cẩn thận nới rộng nó ra, đẩy khí quản và thực quản sang một bên để lộ ra cột sống cổ màu xám, trơn nhẫy. “Hung thủ rất thông minh, nhưng vẫn không bằng tôi. Nếu cho hút cạn dịch não tủy từ vị trí này” - ông thẳng người lên và vỗ nhẹ vào lưng dưới - “thì sẽ khiến nạn nhân tử vong tức thì mà không để lại bất kỳ dấu vết nào. Ngay cả khi thực hiện một ca phẫu thuật chọc dò tủy sống thông thường, bác sĩ cũng phải vô cùng thận trọng, nếu chẳng may lấy ra quá nhiều dịch não tủy thì bệnh nhân sẽ ra đi ngay trên bàn mổ. Nhưng vấn đề bây giờ là lượng dịch não tủy trong cột sống của các nạn nhân vẫn ở mức bình thường, cũng không có vết chọc dò dưới lưng. Thế nên tôi mới đang nghĩ hay là thủ phạm bỏ qua bước trung gian này, ra tay trực tiếp” - ông đưa dao mổ vào khoảng trống giữa các đốt sống và cẩn thận trích ra một số lượng nhỏ màng myelin màu trắng - “vào cuống não.” “Cuống não ư?” “Đúng thế!” Bác sĩ Krishnamurthi thực hiện vết rạch thứ hai rồi cúi xuống quan sát. “Ái chà...” Ông cẩn thận lách dao mổ rồi lẩm nhẩm một mình. “Không đúng, mình đã lầm.” Ông khẽ cau mày rồi ngẩng đầu lên bảo, “Không phải là do lấy đi dịch não tủy.” “Không phải?” “Không phải. Nhưng chắc chắn là có một sự can thiệp nào đó ở chỗ này. Ông biết đấy, thanh tra Maddox, cuống não có cấu trúc vô cùng tinh tế. Chỉ cần chọc một mũi kim vào hành tủy, động chạm một chút là tất cả các chức năng sinh lý đều tê liệt - như chúng ta nhìn thấy ở các nạn nhân này.” “Và gây tử vong tức thì.” “Chính xác . Tuy tôi vẫn chưa phát hiện ra những tổn hại có phạm vi rộng thường thấy ở loại can thiệp này nhưng chắc chắn có gì đó đã được tiêm vào đây. Cũng chẳng quan trọng là chất gì, vì ngay cả nước cũng gây ra hậu quả tương tự. Tim và phổi của nạn nhân đã dừng hoạt động ngay tức thì.” “Và ông cũng cho rằng ngoại trừ nạn nhân số ba thì các nạn nhân còn lại không ai có dấu hiệu chống cự?” “Chính thế.” “Vậy thì bằng cách nào?” Jack khẽ day thái dương. “Hắn giữ họ nằm im bằng cách nào?” “Tôi đoán là khi có kết quả phân tích độc tố từ các mẫu máu, dạ dày và mô liên kết thì sẽ tìm ra loại thuốc mê nào đã được sử dụng.” Ông ngửa đầu lên. “Cũng có thể cho rằng các nạn nhân đã ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê khi bị tiêm vào não.” “Chắc thế.” Jack khoanh hai tay trước ngực, ngửa người ra sau, đứng trụ trên gót chân. “Lambeth cần phải thực hiện các xét nghiệm về nồng độ cồn, thuốc ngủ, thuốc an thần và chất kích thích. Thế còn những thứ này...” Anh hất hàm về phía trán của một nạn nhân. Dưới đường chân tóc khoảng một phân có thể nhìn thấy những vạch ngang màu thổ hoàng nhàn nhạt. “Những vệt trên trán này thì sao?” “Đúng vậy, rất kỳ lạ phải không?” “Tất cả các nạn nhân đều có?” “Tất cả, trừ nạn nhân số bốn. Một đường quanh đầu. Gần như là một vòng tròn hoàn hảo. Theo một kiểu mẫu đặc biệt: vài dấu chấm rồi một dấu gạch chéo.” Jack cúi gần hơn. Chấm chấm gạch. Là trò đùa của ai đó chăng? “Chúng được tạo ra như thế nào?” “Không biết nữa - tôi sẽ nghiên cứu vấn đề này.” “Thế còn chất liệu chỉ khâu thì sao?” Bác sĩ Krishnamurthi im lặng một lúc. “Chuyên nghiệp đấy!” Jack đứng thẳng người lên. Maddox quay sang nhìn anh bằng đôi mắt màu ghi nhạt phía trên lớp khẩu trang của mình. Jack nhướng mày. “Sự việc bắt đầu trở nên thú vị phải không?” “Tôi không nói là chuyên nghiệp về mặt kỹ thuật, thưa quý ông.” Krishnamurthi lột găng tay ném vào thùng rác sinh học màu vàng rồi đi tới bồn rửa. “Chỉ là chất liệu của chỉ khâu mà thôi. Lụa đấy. Nhưng vết rạch vẫn chưa chạm tới được mỏm mũi kiếm ở xương ức. Khá vụng, còn vết rạch hình beta ở ngực thì đúng là kỹ thuật phẫu thuật vẫn được dạy ở trường y.” Ông lấy bánh xà phòng tiệt trùng màu vàng và bắt đầu chà xát cánh tay. “Hắn ta đã lấy mỡ ra ở vị trí khá chính xác, vết rạch rất gọn gàng, bằng dao mổ chuyên nghiệp. Nhưng mũi khâu lại thiếu chuyên nghiệp. Không hề chuyên nghiệp chút nào.” “Có thể đoán là thủ phạm có một số kiến thức phẫu thuật cơ bản?” “Anh đoán đúng đấy. Đúng là thế. Hắn có thể tìm thấy cuống não, thật không đơn giản.” Ông rửa tay, tháo kính bảo hộ ra. “Các anh có muốn xem hắn đã làm gì trước khi khâu họ lại không?” “Có chứ !” “Vậy thì lối này!” Ông lau khô hai tay rồi dẫn họ sang một phòng nhỏ hơn ở bên cạnh, một nhân viên nhà xác nhỏ con vừa nhai kẹo cao su vừa rửa ruột tử thi trong chiếc bồn chà bằng men trắng bằng cách xối chúng dưới vòi nước rồi chuyển những thứ trong ruột sang chậu khác. Anh ta cẩn thận xem xét bên trong và bên ngoài thành ruột, kiểm tra xem có chỗ nào bị ăn mòn không. Khi nhìn thấy bác sĩ Krishnamurthi, anh ta liền đặt đám ruột sang một bên rồi rửa sạch tay. “Martin, chỉ cho họ xem chúng ta đã tìm thấy gì trong lồng ngực của các nạn nhân.” “Vâng, sếp.” Anh ta đẩy chiếc kẹo qua một bên má và cầm chiếc chậu inox lớn được đậy bằng một miếng bìa vuông màu nâu. Sau đó, anh ta lật tấm bìa lên rồi chìa ra trước mặt họ. Maddox cúi xuống nhìn rồi lập tức quay phắt đi như thể vừa bị táng lệch mặt. “Ôi Chúa ơi!” Ông xoay người đi chỗ khác, rút từ trong túi áo ra một chiếc khăn tay sạch sẽ, thêu chữ lồng. “Cho tôi xem với!” “Dĩ nhiên rồi.” Nhân viên nhà xác lại chìa chiếc chậu ra và Jack thận trọng nhìn vào trong. Nằm ở dưới đáy chậu loang lổ vết máu, giữa mùi hôi thối nồng nặc, năm thi thể nhỏ xíu nằm rúc chặt vào nhau như thể đang cố giữ ấm. Jack ngước nhìn cậu nhân viên nhà xác. “Không phải là tôi hoa mắt đấy chứ?” Anh ta lắc đầu. “Không, chúng đúng là thứ mà anh đang nghĩ đấy!” J 4. ack lên giường vào lúc bốn giờ sáng. Bên cạnh anh, Veronica ngủ say sưa, không hề động đậy, ngáy nhè nhẹ. Họng cô đau có nghĩa là hạch lại sưng. Mà sưng hạch chính là triệu chứng tái phát của bệnh Hodgkin, một loại ung thư hệ bạch huyết ác tính. Thật đúng lúc, Veronica, thời điểm vô cùng hoàn hảo, cứ như thể em đã đoán trước tất cả. Khoảng bốn giờ rưỡi, anh rốt cuộc cũng chợp mắt được một lúc, nhưng giấc ngủ không sâu, đầy xáo trộn. Đến năm rưỡi, anh lại tỉnh dậy. Anh nằm im nhìn chằm chằm lên trần nhà và suy nghĩ về năm thi thể ở đường Devonshire. Điểm nào đó trong các vết thương của nạn nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với kẻ sát nhân: các dấu vết ở trên trán chẳng hạn - Hắn đeo gì lên đầu họ? Dây trói chăng? -mà lại không thấy ở nạn nhân số bốn. Không nạn nhân nào bị cưỡng hiếp hay có dấu hiệu xâm nhập cưỡng bức ở hậu môn, âm đạo và cả miệng. Nhưng bác sĩ Krishnamurthi đã chỉ ra những vết tinh dịch trên bụng khi sử dụng đèn chiếu ánh sáng xanh Omniprint. Cùng với những vết mổ trên ngực của ba nạn nhân, tình trạng thiếu quần áo của họ khiến Jack biết rằng mình đang tìm kiếm cơn ác mộng của lực lượng cảnh sát, một tội phạm tình dục và giết người hàng loạt đã bệnh hoạn tới mức khó cứu vãn. Nhưng thứ bám chặt trong đầu anh, nhất định không chịu rời khỏi, là năm hình hài sũng máu nằm dưới đáy chiếc chậu inox kia. Dù anh có quay đi đâu, chúng cũng theo anh bằng được. Biết là mình không tài nào ngủ lại được, anh liền dậy đi tắm. Cố không đánh thức Veronica, anh lặng lẽ mặc quần áo rồi lái xe qua những con đường buổi sớm ở London tới trụ sở của đội B. Đội B đôi khi còn được gọi là đội Shrivemoor vì trụ sở của họ nằm trên con phố cùng tên, chung với đội trật tự an ninh công cộng khu 4 trong một tòa nhà công vụ bằng gạch đỏ. Tòa nhà thoạt nhìn không có gì đặc biệt nhưng những số liệu thống kê tử vong vì tai nạn giao thông trên chiếc bảng không đèn ở ngoài cổng vẫn luôn khiến mọi người có ấn tượng rằng đây là một đồn cảnh sát bình thường. Cuối cùng, người ta phải cho đặt một tấm bảng chỉ dẫn bên ngoài cổng vào bãi đỗ xe để cảnh báo người dân không được xông vào trình báo những chuyện vụn vặt hằng ngày. Tấm biển chỉ rõ: Hãy tới đồn cảnh sát ở phía cuối đường. Jack tới nơi thì mặt trời cũng đã lên quá dãy nhà liền kề được xây dựng vào thập niên 1930, trẻ con bị hối hả dồn lên những chiếc Volvo để kịp giờ tới trường. Anh đỗ chiếc Jaguar của mình vào bãi xe. Veronica vẫn luôn nằng nặc muốn anh đổi sang một chiếc đời mới và sang trọng hơn. “Anh nên bán nó đi mà mua cái nào hoành tráng vào.” “Nhưng anh không muốn hoành tráng. Anh chỉ muốn chiếc xe của mình.” “Vậy thì chí ít cũng để em lau rửa nó một chút.” Anh quẹt thẻ ra vào rồi leo lên cầu thang, đi qua mười lăm chiếc Ford Sherpa chống đạn của bên trật tự an ninh công cộng, tất cả đều đang đậu trong chính vũng nhớt tràn của mình, tới dãy phòng làm việc của Tổ Trọng án lúc này đã sáng ánh đèn huỳnh quang. Bốn người phụ nữ nhập dữ liệu, hết thảy đều là nhân viên dân sự, đều đã có mặt tại bàn làm việc và đang gõ tới tấp. Anh tìm thấy Maddox trong phòng làm việc, vừa dùng bữa sáng với chánh thanh tra về. Trong lúc thưởng thức bữa sáng tại câu lạc bộ đánh gôn Chislehurst với trà Earl Grey và bánh muffin mì cám, ngài chánh thanh tra cũng đã kịp vạch ra một kế hoạch tác chiến. “Ông ấy muốn trì hoãn một thời gian với bên báo giới.” Maddox có vẻ mệt mỏi; Jack có thể thấy ông đã không hề chớp mắt. “Nữ giới, dù là cảnh sát hay nhân viên dân sự, ai thấy vụ này quá áp lực đều có thể xin thuyên chuyển và...” Ông chỉnh lại chiếc bút chì cho thẳng hàng với các đồ vật khác trên mặt bàn, hai môi tái nhợt. “Và ông ấy cũng tăng viện cho chúng ta - cả đội F từ Eltham sẽ được điều động tới đây.” “Hai đội cùng điều tra một vụ?” “Chính thế. Chánh thanh tra tỏ ra khá lo lắng về vụ này. Phải nói là cực kỳ lo ngại mới đúng. Nhất là sau kết luận của Krishnamurthi về việc khoảng cách giữa các vụ án ngày càng rút ngắn lại. Lại thêm...” “Thêm gì nữa?” Maddox thở dài. “Thêm cái sợi tóc mà Krishnamurthi tìm thấy ở thi thể nạn nhân. Sợi tóc thuộc hắc chủng ấy.” “Ông ấy cũng tìm thấy tóc vàng đấy thôi. Với các cô gái hành nghề mại dâm thì những bằng chứng kiểu này đâu thể tin cậy được.” “Đúng, đúng, cậu nói đúng. Nhưng mà chánh thanh tra đang trong cơn sốt hiệu ứng Stephen Lawrence[3], tất cả những gì mà ông ấy nhìn thấy là các nhóm nhân quyền rình rập trong bóng tối với những lưỡi dao lam gửi kèm trong đám thư từ mà ông ấy nhận được.” Ai đó gõ cửa và Maddox đeo bộ mặt u ám ra mở cửa. “Nên ông ấy rõ ràng không muốn đối tượng bị tình nghi là một người da đen.” “Sếp.” Hạ sĩ Paul Essex với dáng vẻ nhếch nhác chân chất thường thấy của mình: cà vạt không thèm thắt, tay áo xắn tít lên cao để lộ hai cánh tay lực lưỡng ứng đỏ, đang đứng trước ngưỡng cửa với một tập hồ sơ màu da cam. “Từ Phòng Nhận dạng Quốc gia.” “Báo cáo vân tay à?” “Vâng.” Essex đưa tay gạt mớ tóc mỏng màu vàng nhạt đang rủ trên vầng trán rộng, đỏ ửng của mình sang một bên. “Nạn nhân số năm đã có lòng giúp chúng ta một tay. Cô ta có ghi danh đăng ký hoạt động mại dâm. Dưới tên Shellene Craw.” Jack mở tập hồ sơ ra xem. “Họ đều đăng ký dữ liệu với bên quản lý mại dâm.” Jack nhìn sang Maddox. “Nên cũng hơi lạ khi chẳng thấy ai đi báo có người mất tích.” “Nghĩa là mấy người lui tới chỗ Shellene Craw sẽ có khối chuyện phải giải thích đây.” “Người này chẳng hạn, Harrison.” Jack trả lại tập hồ sơ cho Maddox. “Barry Harrison trú ở Stepney Green.” “Hôm nay, cậu tiến hành thẩm tra hắn đầu tiên luôn chứ?” Maddox hỏi. “Vâng.” “Còn Essex, nếu tôi không lầm thì cậu phụ trách liên lạc với gia đình nạn nhân trong vụ này đúng không?” “Vâng, thưa sếp. Tôi đặc biệt được lựa chọn cho vị trí này vì tính khí mềm mỏng và nhã nhặn của mình.” “Vậy cậu nên đi cùng với Caffery. Có người cần tựa vào bờ vai mềm mại của cậu mà khóc cũng nên.” “Được ạ. À, còn cái này nữa, thưa sếp.” Anh chìa ra cho Jack một tờ giấy vừa được in ra từ máy tính. “Từ trụ sở chính. Tên của chiến dịch lần này là chiến dịch Alcatraz.” Jack cầm lấy tờ giấy, cau mày. “Đây không phải là một trò đùa đấy chứ?” “Không hề.” “Thôi được. Bảo họ đổi tên đi. Tên này không phù hợp.” “Vì sao?” “Điểu Nhân. Đổi thành Điểu Nhân Alcatraz. Anh chưa đọc báo cáo khám nghiệm tử thi sơ bộ à?” “Tôi vừa mới tới mà.” Maddox thở dài. “Thủ phạm để lại cho chúng ta một món quà nhỏ trên thi thể các nạn nhân.” “Bên trong thi thể nạn nhân,” Jack chữa lại, hai tay khoanh trước ngực. “Trong lồng ngực, đính cạnh trái tim.” Nét mặt Essex chợt thay đổi. “Gớm quá!” Anh hết nhìn Maddox lại nhìn Jack chờ đợi thông tin tiếp theo. Maddox hắng giọng, nhìn sang Jack. Nhưng không ai nói gì. “Rồi sao nữa?” Essex sốt ruột giơ hai tay lên. “Là thứ gì vậy? Chúng ta đang nói tới vật gì? Hắn ta đã để lại vật gì?” “Một con chim,” Jack cuối cùng cũng lên tiếng. “Một loại chim nhỏ, nuôi trong lồng, có lẽ là thuộc họ chim sẻ. Nhưng chi tiết này chỉ trong đội chúng ta biết thôi. Rõ rồi chứ?” T 5. ới mười giờ sáng, bên Phòng Nhận dạng Quốc gia đã xác định được thêm vân tay một nạn nhân nữa. Nạn nhân thứ hai là Michelle Wilcox, một gái điếm ở Deptford. Hồ sơ của cô đã được chuyển từ Bermondsey tới Shrivemoor ngay sáng hôm đó trong lúc Jack và Essex lái xe qua đường hầm Rotherhithe tới thẩm vấn bạn trai của Shellene Craw. Đó là một buổi sáng trong trẻo, lung linh nắng. Ngay cả khu East End nhìn qua kính ô tô cũng trở nên sống động và những hàng cây vốn thưa thớt, ủ rũ của London bỗng có vẻ xanh tươi lạ thường. “Cái tay Harrison này...” Paul Essex nhìn xuyên những hàng sồi trên đường Stepney Green, phóng mắt qua dãy biệt thự gạch vàng theo kiểu thời George - tường vôi còn mới, rõ ràng là niềm tự hào của các vị chủ nhân xuất thân từ thị trường chứng khoán - đến khu nhà cho thuê của Harrison với tường gạch đỏ theo kiến trúc Victoria giờ đã trở nên đen sạm cùng thời gian và khói bụi ô nhiễm, đã lâu không được ai tu sửa, trang hoàng. “Tôi biết cậu cũng không xem hắn là nghi phạm.” Jack dừng xe, kéo phanh tay. “Dĩ nhiên là không.” “Vậy cậu nghĩ sao về hắn?” “Không biết nữa.” Anh xoay cửa kính, xuống xe, toan đóng sập cửa nhưng lại do dự thò đầu vào trong. “Nghi phạm của chúng ta có xe riêng, đó là một điểm chắc chắn.” “Hắn có xe riêng, chỉ có thế?” Essex chui ra khỏi chiếc Jaguar, đóng sập cửa lại. “Cậu không có giả thuyết nào tốt hơn ngoài việc hắn có xe riêng à?” “Không.” Anh xoay chìa khóa xe trên mấy ngón tay rồi bỏ vào trong túi quần. “Nhưng rồi sẽ có.” Thang máy trong tòa nhà của Harrison bị hỏng nên họ đành leo bốn tầng thang bộ. Jack thỉnh thoảng dừng lại một chút để chờ Essex. Maddox đã nói qua về Paul Essex với Jack. “Mỗi đội đều phải có một nhân vật hài hước, thích pha trò. Ở đội B chúng ta có Essex. Thích hâm nóng không khí, khiến đồng đội thư giãn. Cậu ta thề thốt rằng cứ tối về là mặc đầm ngủ của phụ nữ để hút bụi. Dĩ nhiên là nói xạo nhưng cứ kệ cậu ta. Đừng có coi thường cậu ta. Sự thực thì đó là một người vững vàng, một hòn đá tảng...” Dần dà, Jack cũng bắt đầu tin tưởng vào lòng tốt bẩm sinh của anh chàng ngựa thồ này. Anh nhận ra điều đó khi quan sát cách phụ nữ đối xử với Essex: giống như với một con gấu già bị thương. Họ tán tỉnh, trêu đùa, ngồi trong lòng Essex, thi thoảng còn tát yêu lên má anh vì những chuyện đùa mà anh kể. Nhưng có lẽ họ thầm hiểu rằng cảm xúc của anh vận hành trên một cơ chế sâu sắc hơn nhiều so với khả năng cảm thụ của họ nên hạ sĩ Essex giờ đã ba bảy tuổi mà vẫn phòng không. Nhận thức được điều này, Jack đôi khi cảm thấy hổ thẹn vì cuộc sống quá dễ dàng và thư thái của mình so với Essex. Ngay cả sự chênh lệch về thể chất giữa hai người lúc này cũng là một bằng chứng về những khác biệt của họ. Trong khi Jack lên tới căn hộ của Harrison một cách nhẹ nhàng, thoải mái thì Essex phải rất chật vật mới leo lên được mấy bậc thang cuối cùng, mồ hôi vã ra như tắm, mặt đỏ phừng phừng, vừa đứng ở đầu cầu thang thở hổn hển vừa nói cổ áo, chỉnh lại chiếc quần tây đang dính chặt vào đùi. Phải mất vài phút Essex mới trở lại bình thường. “Sẵn sàng chưa?” “Được rồi.” Anh gật đầu, lấy tay lau mồ hôi trán. “Tiến hành thôi.” Jack gõ cửa. “Chuyện gì vậy?” Một giọng nói ngái ngủ vang lên từ bên trong căn hộ. Jack cúi xuống gần khe đút thư. “Cậu Harrison? Barry Harrison?” “Ai tới vậy?” “Thanh tra Caffery.” Anh nhìn sang Essex. Hai người đều có thể ngửi thấy mùi cần sa. “Chúng tôi muốn hỏi cậu vài câu.” Một tiếng rít gầm gừ, tiếng người lăn ra khỏi giường, tiếng nước chảy, tiếng giật bồn cầu, và rồi cánh cửa hé mở. Chiếc xích khóa an toàn vừa khéo chia khuôn mặt với đôi mắt xanh sưng vù và bộ râu lởm chởm phía sau nó ra làm hai phần. “Cậu Harrison?” Caffery giơ thẻ cảnh sát ra. “Có chuyện gì vậy?” “Tôi và hạ sĩ Essex có thể vào trong nhà một lát không?” “Nếu các anh có lý do chính đáng.” Nửa thân trên Harrison để trần, gầy gò, mặt đầy tàn nhang. “Chúng tôi muốn hỏi cậu về Shellene Craw.” “Cô ta không có ở đây. Từ nhiều ngày rồi.” Anh ta toan đóng cửa thì Jack thò một vai vào. “Tôi muốn hỏi cậu về cô ấy chứ không phải muốn gặp cô ấy.” Harrison hết nhìn Caffery rồi lại nhìn Essex như thể đang cân nhắc nếu sinh sự thì bên nào sẽ giành lợi thế. “Nghe này, tôi với cô ta đã chấm dứt. Nếu cô ta gặp rắc rối thì tôi rất lấy làm tiếc, nhưng chúng tôi không kết hôn, trên danh nghĩa cũng chẳng là gì của nhau nên tôi hoàn toàn không có trách nhiệm gì đối với cô ta.” “Chúng tôi sẽ không bắt giam cậu đâu.” “Các anh sẽ không chịu bỏ cuộc đúng không?” “Không, chúng tôi sẽ không bỏ cuộc.” “Mẹ kiếp.” cánh cửa sập lại rồi tiếng khóa mở lách cách vang lên. “Vậy thì nói một lần cho xong chuyện. Vào đi, vào đi.” Phòng khách của Harrison nhỏ và nhếch nhác, một bên mở ra ban công, một bên thông sang phòng bếp với vài cây cỏ lan chi vàng vọt và đống hộp KFC. Trên sàn nhà, giấy cuốn và thuốc lá vung vãi khắp nơi. Jack tự động ngồi xuống chiếc ghế nhựa màu xanh cạnh cửa sổ, hai tay khoanh trước ngực. “Lần cuối cùng cậu nhìn thấy Shellene là khi nào, cậu Harrison?” “Cũng không biết nữa. Khoảng một vài tuần trước.” “Cậu có thể nói rõ hơn được không?” “Cô ta lại dính vào chuyện gì rồi?” “Vài tuần là một tuần hay là một tháng trước?” “Tôi cũng chẳng nhớ nữa.” Harrison tròng chiếc áo phông vào người rồi rút từ túi quần jean ra một bao thuốc lá. Anh ta nhét một điếu Silk Cut vào giữa hàm răng đang nghiến chặt rồi cúi xuống nhặt chiếc bật lửa vứt bừa bãi trên sàn nhà. “Ngay sau sinh nhật của tôi.” “Sinh nhật cậu là ngày nào?” “Mồng mười tháng Năm.” “Lúc đó cô ấy vẫn đang sống ở đây đúng không?” “Mẹ nó chứ, đoán giỏi ghê nhỉ?” “Chuyện gì đã xảy ra?” “Tôi làm thế quái nào mà biết được? Cô ta chạy mất. Đêm ấy cô ta đi ra ngoài và không bao giờ trở lại nữa.” Anh ta căng tay ra, xoa hai bàn tay vào nhau, các ngón tay hướng về phía cửa sổ. “Nhưng đó chính là phong cách điển hình của Shellene. Đi mà chẳng thèm mang theo hết đám đồ rách nát của cô ta trong phòng ngủ.” “Cậu vẫn còn giữ chúng chứ?” “Không, anh biết đấy, tôi bực quá nên quẳng hết đi rồi, đại loại là mấy thứ đồ thoát y của cô ta.” “Cô ấy từng là vũ nữ thoát y?” “Khi cô ta vẫn chưa đến nỗi nào. Nhưng nói chung Shellene đứng đường là chính, chẳng phải các anh có lần đã bắt cô ta trong lúc hành sự với lũ Ả Rập ở Portland Place đấy thôi?” “Cậu có đi báo cảnh sát về việc cô ấy mất tích không?” Harrison tặc lưỡi vẻ châm chọc. “Mất tích á? Cô ta thì mất cái gì? Mất lương tâm à?” “Cô ấy vẫn để hết đồ đạc lại đây mà cậu không nghi ngờ gì sao?” “Có gì mà nghi ngờ? Khi cô ta chuyển tới đây cũng chỉ có độc bộ đồ hóa trang, một chiếc cassette và vài cái kim tiêm để chích choác.” “Cậu thật không nghĩ tới việc có thể xảy ra chuyện rủi ro gì ư?” “Không.” Anh ta lắc đầu. “Chúng tôi gần như đã chấm hết rồi. Nên tôi cũng chẳng ngạc nhiên khi cô ta không hề quay trở lại sau cái đêm đó nữa...” Giọng anh ta đuối dần. Anh ta quay sang nhìn Essex và Jack rồi trở lại tư thế cũ. “Này,” anh ta lên tiếng, đột nhiên tỏ ra lo lắng. “Mà các anh đang ám chỉ chuyện gì?” Không thấy ai trong số họ trả lời, ánh mắt Harrison lóe lên một điều gì đó, dường như đã vỡ lẽ. Anh ta vội vàng châm điếu thuốc, rít một hơi thật dài. “Là chuyện tôi không muốn nghe đúng không? Các anh nói đi. Nói luôn cho xong. Cô ta làm sao? Chết rồi hay sao?” “Đúng vậy!” “Đúng vậy là sao?” “Cô ấy đã chết.” “Ôi Chúa ơi!” Mặt anh ta trở nên nhợt nhạt, tái mét. Anh ta nặng nề gieo mình xuống xô pha. “Tôi phải đoán ra chuyện đó từ trước rồi mới phải. Nhìn thấy các anh là phải đoán ra ngay. Lại do dùng ma túy quá liều chứ gì?” “Có khả năng không phải là do dùng ma túy quá liều, chúng tôi đang xem xét tới khả năng cô ấy bị sát hại.” Harrison nhìn Jack không chớp mắt. Rồi anh ta lấy hai tay bịt tai lại như thể muốn bảo vệ chính mình khỏi những lời vừa nghe. Những vết kim tiêm màu hồng tái hiện rõ trên cánh tay nhợt nhạt của anh ta. “Ôi Chúa ơi,” anh ta rốt cuộc cũng thốt lên. “Chúa ơi, tôi không tài nào...” Anh ta rít chặt điếu thuốc Silk Gut, hai mắt nhòa lệ. “Xin đợi chút...” Anh ta đột ngột đứng dậy và biến mất vào trong hành lang. Jack và Essex nhìn nhau một lúc. Hai người có thể nghe thấy tiếng Harrison đi đi lại lại trong phòng ngủ, mở ngăn kéo lịch kịch. Essex lên tiếng trước. “Cậu ta không biết gì đúng không?” “Ừ.” Hai người lại im lặng một lúc nữa. Ai đó ở tầng dưới vừa thức giấc và mở nhạc ầm ĩ. Nhạc Trance, một thể loại mà Caffery đã nghe không biết bao nhiêu lần mỗi khi tới điều tra tại các quán bar lúc còn là cảnh sát hình sự. Anh bắt đầu ngọ nguậy trên ghế. “Hắn ta làm cái quái gì ở trong đó nhỉ?” “Không biết nữa...” Giọng Essex nhỏ dần. “Ôi Chúa ơi, cậu không nghĩ là hắn sẽ...” “Chết tiệt,” Jack bật dậy tới hành lang và đập ầm ầm lên cửa phòng ngủ. “Mẹ kiếp, Barry, cậu dám chích thuốc trước mặt tôi?” anh hét lên. “Cậu có nghe thấy tôi nói gì không? Đừng có ngu mà làm thế. Tôi sẽ xử cậu đấy.” Cửa phòng ngủ mở ra, Harrison xuất hiện với gương mặt đờ đẫn. “Các anh không thể bắt tôi vì tội sử dụng thuốc an thần temazepam. Nó là thuốc kê đơn. Hồi chưa bị cấm.” Tay phải giữ chặt lấy phần lõm khuỷu tay trái, anh ta đi qua hai người họ để trở lại phòng khách. Jack theo sau, lầm bầm chửi thề. “Chúng tôi cần nói chuyện với cậu. Nếu cậu phê thuốc thì làm sao mà nói được.” “Tôi sẽ trở nên hữu dụng hơn khi có ma túy. Đầu óc thanh tĩnh hơn hẳn.” “Thanh tĩnh hơn cơ đấy,” Essex vừa nhại lại vừa lắc đầu. Harrison gieo mình xuống xô pha, co hai đầu gối lên, vòng hai tay ôm lấy chân giống như một đứa bé gái. “Hầu như lúc nào tôi ở cùng Shellene, bọn tôi cũng phê thuốc.” Anh ta ngửa đầu ra sau. Jack cứ tưởng anh ta khóc. Nhưng anh ta cắn môi nói tiếp, “Được rồi, nói cho tôi biết, cô ấy bị sát hại ở đâu?” “Ở khu Đông Nam.” “Greenwich?” “Đúng vậy? Làm sao cậu biết?” Jack nhìn Harrison. Harrison thả hai tay xuống và lắc đầu. “Cô ấy luôn lảng vảng ở đó. Phần lớn giao dịch của cô ấy đều được thực hiện ở Greenwich, chuyện xảy ra khi nào vậy?” “Chúng tôi tìm thấy cô ấy sáng hôm qua.” “Biết rồi, nhưng ý tôi là...” Anh ta ho khẽ. “Thời điểm mà cô ấy bị...” “Vào khoảng lần cuối cùng cậu nhìn thấy cô ấy.” “Chó thật.” Harrison thở dài. Anh ta châm một điếu thuốc nữa, hít một hơi dài, ngửa đầu ra sau, nhả khói lên trần nhà. “Vậy thì làm cho xong chuyện đi. Các anh muốn hỏi gì?” Jack ngồi mớm lên thành ghế, lục trong túi áo vét ra một quyển sổ ghi chép. “Đây sẽ là lời khai chính thức, nếu cậu đang phê quá thì phải nói ngay.” Khi thấy Harrison im lặng chẳng nói năng gì, Jack gật đầu. “Thôi được, thế có nghĩa là cậu đồng ý đấy nhé. Hạ sĩ Essex là người phụ trách liên lạc với gia đình nạn nhân của chúng tôi, là người sẽ trực tiếp liên hệ với cậu mỗi khi có vấn đề gì. Hạ sĩ Essex sẽ ở lại đây với cậu sau khi tôi đi, rà soát lại lời khai một lần nữa và nhờ cậu giúp chúng tôi liên hệ với gia đình của Shellene. Chúng tôi cần thật nhiều chi tiết, từ quần áo, đồ lót, đồ trang điểm, tới bộ phim truyền hình ưa thích của cô ấy, Dân East End hay Street.” Anh ngừng lời. “Và chắc là khỏi cần hạ sĩ Essex lãng phí thời gian mang cậu đi gặp tư vấn viên của Đội Hỗ trợ Người nghiện để được khuyên giải chấm dứt việc chích choác tới nát cả ven ra đúng không?” Harrison giơ hai tay ôm lấy đầu. “Ôi Chúa ơi.” “Cứ cho là thế đi.” Jack thở dài ngao ngán. “Vậy cậu có biết đêm ấy Shellene đi đâu không?” “Tới một trong những quán rượu quen thuộc của cô ấy. Cô ấy có hợp đồng biểu diễn ở đó.” “Tên của quán rượu?” “Không biết, các anh đi mà hỏi trung tâm môi giới của cô ấy.” “Trung tâm môi giới nào?” “Little Darlings.” “Little Darlings[4]?” “Đúng là tên nghe rất sến. Kiểu ấy đang thịnh hành ở khu Earts Court.” “Được rồi, còn cái tên nào khác không? Những người cô ấy thường giao du chẳng hạn.” “Có.” Harrison đưa điếu Silk Cut lên miệng. “Julie Darling, môi giới của cô ấy.” Anh ta bắt đầu giơ tay ra đếm. “Và mấy đứa con gái, Bướm này, hài thật đấy, lúc nào cũng có người tự gọi mình là Bướm. Rồi Pinky, Tracy hay Lacey gì đó, cuối cùng là Petra và Betty...” Anh ta dằn mạnh hai tay lên gối, đột nhiên trở nên cáu kỉnh. “Tổng cộng là sáu người, đó là tất cả những gì tôi biết về cuộc đời của Shellene, vậy mà các anh nói với tôi rằng các anh rất ngạc nhiên khi không thấy tôi báo cáo gì về việc cô ấy mất tích, cứ như tôi nhất định phải biết chuyện gì đó không bằng, cái lũ thủ dâm tinh thần khốn kiếp...” “Được rồi, được rồi, bình tĩnh nào.” “Vâng, vâng, vâng.” Anh ta vẫn có vẻ cáu kỉnh. “Tôi đang cố bình tĩnh đây. Bình tĩnh bỏ mẹ ra ấy chứ.” Anh ta quay ra nhìn chằm chằm phía bên ngoài cửa sổ. Không ai nói gì một lúc lâu sau đó. Harrison nhìn những mái nhà trên đường Mile End và trung tâm thương mại Spiegelhalter cao chọc trời với những mái vòm màu xanh nhọt. Một chú chim bồ câu đậu xuống ban công, Harrison nhún vai, thở dài rồi quay sang Jack. “Được rồi đấy!” “Được gì cơ?” “Đã tới lúc các anh nên nói cho tôi biết.” “Cho cậu biết cái gì cơ?” “Các anh biết đấy, tên khốn đó có cưỡng hiếp cô ấy không?” o0o Ánh mặt trời đã cải thiện tâm trạng của Jack khi anh tìm đến khu phố Mackelson ở khu Earl's Court. Anh cũng dễ dàng phát hiện ra trung tâm môi giới: mấy chữ cái LITTLE DARLINGS làm bằng giấy dán màu vàng đã bắt đầu bong tróc trên cửa. Julie Darling là một phụ nữ ngoài bốn mươi, mái tóc nhuộm màu đen bóng, cắt gọn gàng, cái mũi nhỏ đến không tưởng trên khuôn mặt đầy vẻ căng thẳng. Cô ta mặc bộ đồ thể thao bằng nhung mịn màu hồng sẫm, cùng màu với đôi giày cao gót nhọn. Julie dẫn Jack qua hành lang lót gỗ bần, đầu lúc nào cũng ngẩng cao và ngả ra sau như đang giữ thăng bằng một chiếc ly thủy tinh vô hình. Một con mèo Nam Tư màu trắng bị quấy rầy bởi sự xuất hiện của Jack, liền thoăn thoắt chạy qua mặt họ về phía một cánh cửa để ngỏ. Jack nghe từ sâu trong phòng vọng ra giọng một người đàn ông trò chuyện với nó. “Là chồng tôi.” Giọng Julie không chút cảm xúc. “Tôi gặp ông ấy ở Nhật hai mươi năm trước.” Cô ta đóng cửa phòng lại. Jack thoáng nhìn thấy một người đàn ông ngoại cỡ mặc áo ghi lê ngồi bên mép giường đang chán chường gãi bụng như một chú hải cẩu ủ dột. Căn phòng chỉ được chiếu sáng bởi những tia nắng nhợt nhạt xuyên qua khe hở giữa rèm cửa. “Không quân Hoa Kỳ,” cô ta thì thầm như thể giải thích lý do tại sao ông ta sẽ không tham dự vào câu chuyện của họ. Jack đi theo cô ta vào trong phòng làm việc: một căn phòng trần thấp, tràn đầy ánh sáng từ hai cửa sổ kính màu nhỏ. Một con ong mật vo ve trên những chậu hoa đặt ở bậu cửa và phía bên dưới là chiếc Jaguar E-Type màu đỏ đang nằm phơi nắng. Ai đó trong khu phố đang tập đánh rải âm trên piano. “Caffery. Tên rất đặc biệt. Gốc Ai Len?” Julie ngồi xuống bên bàn làm việc, bắt tréo chân và nhìn anh, vẻ nghiền ngẫm. Caffery cười. “Có lẽ vậy, từ nhiều đời trước. Hạt Tyrone phía Liverpool.” “Tóc đen, mắt xanh sẫm. Một người Ai Len điển hình. Mẹ tôi vẫn luôn cảnh cáo tôi tránh xa các anh chàng người Ai Len. Julie, những người này nếu không ngu thì cũng rất nguy hiểm.” “Hy vọng chị đã nghe theo lời bà ấy, chị, gì nhỉ, Darling.” “Darling là họ thật của tôi.” “Ra thế!” Caffery đút hai tay vào trong túi quần, ngó lên trần nhà dán đầy những bức ảnh quảng cáo bóng lộn, đối diện với vô số khuôn mặt đang nhìn anh trừng trừng. “Xin nói cho tôi tất cả những gì chị biết về...” Anh đột ngột dừng lại. Bên dưới gương mặt tươi cười của một cô gái tóc vàng có in một cái tên. Shellene Craw. Thì ra cô ta vốn trông như vậy. “Chị quản lý cả Shellene Craw chứ?” “À, thì ra là anh muốn hỏi về Shellene. cũng không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm, ngài thanh tra. Cô ấy còn đang nợ tôi hai tháng tiền hoa hồng. Hai trăm bảng. Và giờ lại còn tặng anh tới tận cửa để điều tra về cái gì không biết nữa, chắc lại liên quan tới ma túy chứ gì?” “Tôi e là chị sẽ không đòi được tiền hoa hồng nữa đâu.” Anh ngồi xuống, đặt hai tay lên mặt bàn. “Cô ấy chết rồi.” Julie không hề tỏ ra ngạc nhiên. “Tôi biết trước là chuyện này thể nào cũng xảy ra mà, cô ấy sớm muộn gì cũng sẽ gặp họa do sử dụng ma túy quá liều. Khách hàng cũng than phiền về chuyện đó. Họ bảo ngay cả đùi trong của cô ấy cũng đầy vết kim châm. Khiến ai cũng hãi. Ái chà, thế là đi tong hai trăm bảng. Tôi đoán là cô ấy cũng không để tiền lại cho tôi trong di chúc.” “Lần cuối cùng chị liên lạc với cô ấy là khi nào?” “Hai tuần trước. Rồi cô ấy không xuất hiện để biểu diễn vào thứ Tư tuần trước, cũng chẳng thèm gọi điện thông báo.” Julie dừng lại, gõ nhẹ đầu móng tay lên mặt bàn. “Thế là tôi cũng mất luôn mối làm ăn ở chỗ đó.” “Chỗ đó là ở đâu?” “Nag's Head ở Archway.” “Thế lần cuối cùng cô ấy xuất hiện là ở tụ điểm nào?” “Ừm...” Julie tì vào bàn, nhấp nước bọt lên một ngón tay rồi bắt đầu lật các trang giấy ghim trong một tập tài liệu to tướng. Jack có thể nhìn thấy chân tóc bạc hiện ra dọc đường rẽ ngôi và lớp da đầu hồng hào của cô ta. “Đây rồi.” Julie đập tay lên một trang giấy. “Cô ấy hẳn đã xuất hiện ở Dog & Bell vì tôi không thấy họ kêu ca gì. Đó là một sô diễn vào giữa trưa ngày thứ Hai tuần trước.” “Dog & Bell?” “Trên đường Trafalgar, ở...” “Tôi biết, tôi biết. Ở phía Đông Greenwich.” Jack cảm thấy da mặt mình khẽ giật giật. Bãi tập kết vật liệu nằm cách đó chưa đầy một cây số rưỡi. Anh giở một trang mới trong sổ ghi chép của mình. “Hôm ấy chỉ có một mình Shellene biểu diễn thôi sao?” “Không.” Julie ngẩng đầu lên nhìn Caffery, vẻ thận trọng. “Anh có định nói cho tôi biết hay không vậy? Đây có đúng là một vụ sử dụng ma túy quá liều không?” “Còn có cô gái khác biểu diễn cùng à?” Julie nhìn anh một lúc, miệng hơi mím lại. “Còn có Bướm Willow. Cô ấy chỉ tham gia vào các sô diễn ở Greenwich.” “Cô ấy có tên thật không?” “Tất cả chúng tôi đều có tên thật, thưa anh Caffery. Chỉ những kẻ thảm hại mới tin rằng bố mẹ chúng tôi thực sự đặt những cái tên kiểu Frooty Tootie hay Beverly Hills cho con mình. Tên thật của cô ấy là Joni Marsh. Cô ấy đã làm việc với tôi từ nhiều năm nay.” “Chị có địa chỉ của cô ấy không?” “Cô ấy không thích tôi cho người khác địa chỉ. Nhất là cho bọn c...” Julie kịp thời dừng lại rồi chậm rãi mỉm cười. “Nhất là cho một thanh tra cảnh sát.” “Cô ấy sẽ không biết đâu.” Julie nheo mắt nhìn Jack rồi hí hoáy viết địa chỉ lên mặt sau một tấm danh thiếp. “Cô ấy ở chung nhà với Pinky. Trước đây cũng từng làm việc với tôi. Giờ cô ấy được gọi là Becky, vì cô ấy không còn làm công việc này nữa.” “Cảm ơn chị.” Jack cầm lấy tấm danh thiếp. Từ phòng ngủ vang lên những tiếng khạc đờm của ông chồng không quân. “Ở trung tâm của chị có cô gái nào tên là Lacey hay không?” “Không!” “Betty thì sao?” Julie lắc đầu. “Vậy còn...” Anh nhìn vào sổ tay của mình. “Tên Tracy nghe có quen không?” “Cũng không.” “Thế còn Petra?” “Petra thì có.” “Có ư?” Jack ngẩng đầu lên. “Có. Tôi có quản lý cô ấy. Một đứa nhỏ đáng yêu.” “Đứa nhỏ?” Jack nhướng mày. “Là vì dáng người nhỏ bé của cô ấy.” Cô ta ném cho Jack cái nhìn giận dữ. “Chúng tôi không phục vụ lũ ấu dâm, anh Caffery ạ. Tôi đang nói về một trong các vũ công thoát y của mình. Cô ấy cũng chơi tôi một vố bất ngờ. Tôi vẫn tưởng mình vốn nhìn người không lầm cơ đấy!” “Cô ấy cũng biến mất à?” “Mất tăm luôn, cứ như là đã biến khỏi hành tinh này. Tôi đã viết thư gửi đến nhà trọ của cô ấy. Chả bao giờ thấy hồi âm, hẳn rồi.” Julie nhún vai. “Nhưng cô ấy cũng chẳng nợ nần gì mấy nên tôi cũng cho qua. Những chuyện thế này coi như là để rút kinh nghiệm vậy, anh nghĩ có đúng không?” “Chuyện đó xảy ra khi nào vậy?” “Vào Giáng sinh. À không, vào đầu tháng Hai, vì chúng tôi vừa đi Majorca về.” “Cô ấy có nghiện hút không?” “Cô ấy à? Không. Cô ấy sẽ không bao giờ sờ tới ma túy. Những người khác thì có, nhưng Petra thì không.” “Chị nói cô ấy nhỏ bé nghĩa là sao?” “Xương nhỏ. Y như một chú chim con. Lại rất gầy nữa.” Jack bắt đầu cựa mình một cách khó chịu trên chiếc ghế hẹp. “Chị có nhớ sô diễn cuối cùng của cô ấy không?” Julie nhìn Jack một hồi lâu với vẻ dò xét rồi gượng gạo chậm chạp quay lại với tập hồ sơ của mình. “Đây.” Cô ta rờ tay lên một trang giấy. “Ngày hai mươi lăm tháng Một. Tại King's Head ở Wembley.” “Cô ấy có bao giờ biểu diễn ở Dog & Bell không?” “Cô ấy chuyên chạy sô ở đó. Nhà trọ của cô ấy nằm ngay khu Elephant & Castle. Joni cũng biết cô ấy.” Julie nhấp đầu ngón tay để lật sang một trang khác. “Lạ thật,” cô ta thì thào. “Cô ấy biểu diễn ở Dog & Bell đúng một hôm trước khi có sô diễn ở King's Head. Tức là một hôm trước khi mất tích.” “Được rồi. Tôi cần địa chỉ của cô ấy.” “Nghe này.” Julie ngả người ra tựa vào lưng ghế, hai tay đặt lên bàn. “Cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.” “Tôi cũng cần một bức ảnh của Petra.” “Tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra cơ mà?” Jack hất cằm lên trần nhà. “Và cả bức ảnh này của Shellene nữa.” Julie gầm gừ khịt mũi nhưng vẫn rút từ dưới bàn ra một tập hồ sơ. Cô ta lật từng trang, tìm thấy hai bức ảnh chân dung của Shellene và một bức ảnh màu toàn thân hơi thiếu ánh sáng của một cô gái tóc nâu trong bộ đồ nịt một mảnh dạng lưới, sau đó đưa cho Jack mà chẳng thèm nhìn anh. Petra không phải là một cô gái xinh đẹp. Mặt nhỏ xíu, mắt đen, cằm nhọn với cái vẻ ngổ ngáo của một đứa trẻ đường phố. Một đường viền môi bằng chì đen là thứ trang điểm duy nhất trên khuôn mặt cô. Caffery giơ bức ảnh lên dưới ánh sáng mặt trời và nhìn một lúc lâu. “Có chuyện gì sao?” Jack ngẩng lên. “Cô ấy có nhuộm tóc không?” “Tất cả bọn họ đều nhuộm tóc.” “Trông giống như là màu...” “Màu tím. Trông rất gớm đúng không? Tôi đã bảo cô ấy đừng có mà nhuộm màu đó.” Jack cất bức ảnh vào cặp táp hiệu Samsonite, nghĩ tới thi thể như của một đứa trẻ đang nằm trong nhà xác ở Greenwich, nạn nhân duy nhất đã cố cưỡng lại cái chết, cũng là người duy nhất bị trói lại. Anh đóng cặp táp, có chút lúng túng vì trong lòng đột nhiên tràn ngập cảm giác thương xót đối với cô gái gầy guộc khốn khổ, bị trói, bị bịt miệng nhưng vẫn đấu tranh cho sinh mệnh của mình. “Cảm ơn chị đã giúp đỡ, chị Darling.” “Anh sẽ nói cho tôi biết Petra thì có liên quan gì tới Shellene chứ?” “Chúng tôi cũng chưa rõ.” “Cô ấy cũng chết rồi phải không? Petra bé bỏng ấy!” Julie đột nhiên kết luận. Hai người trao đổi ánh nhìn một hồi lâu từ hai bên đầu bàn. Cuối cùng, Jack hắng giọng và đứng dậy. “Chị Darling, xin đừng tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai. Chúng tôi mới đang ở giai đoạn đầu của việc điều tra. Rất cảm ơn chị đã giúp đỡ.” Anh chìa tay ra nhưng Julie từ chối bắt tay. “Anh sẽ cho tôi biết thêm thông tin khi có thể chứ?” Khuôn mặt của Julie trở nên vô cùng nhợt nhạt dưới mái tóc ngắn màu xanh đen. “Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Petra tội nghiệp.” “Ngay khi xác minh được chuyện gì đã xảy ra,” Jack hứa. “Chúng tôi sẽ báo cho chị ngay.” T 6. ổ Trọng án phụ thuộc khá nhiều vào hệ thống lưu trữ dữ liệu điều tra trọng án thuộc Bộ Nội vụ, gọi tắt là HOLMES[5], dùng để kiểm tra chéo các cơ sở dữ liệu. Và nhân vật chủ chốt trong tất cả các đội chính là “chuyên viên tiếp nhận” HOLMES -người phụ trách đối chiếu, sàng lọc và phân tích dữ liệu. Ở Shrivemoor, nhân vật đó chính là Marilyn Kryotos. Jack tức thì có cảm tình với Marilyn: một phụ nữ đầy đặn, nặng nề, cả ngày lãng đãng như trên mây, luôn miệng kể chuyện con cái ở nhà, từ bệnh tật, vật nuôi, tới các chiến công nho nhỏ và những vết xước trên đầu gối của chúng với một thứ giọng trầm thấp kỳ quặc. Là một bà mẹ điển hình, Marilyn có vẻ xử trí một vụ giết người với thái độ nhẫn nại y như khi xử lý một chiếc tã bẩn: coi nó như một thực tế của cuộc sống, tuy là chẳng dễ chịu gì nhưng hoàn toàn có thể cải tạo được. Jack cũng hài lòng vì người bạn đầu tiên của Marilyn trong đội là Paul Essex: tình bạn giữa hai người này như đã chứng minh cho những gì anh nghĩ về họ. Tối hôm đó, khi trở về Shrivemoor với các ghi chép của mình, anh nhìn thấy Marilyn. Cô đang ôm một đống hồ sơ điều tra từ phòng chỉ huy sang phòng phá án và anh lập tức nhận ra vẻ phật ý trên gương mặt cô. “Marilyn.” Anh rướn tới gần cô. “Có chuyện gì xảy ra vậy? Bọn trẻ làm sao à?” “Không,” cô rít lên. “Là cái đội F khốn kiếp đó. Họ vừa chuyển tới, khiến tôi sắp phát rồ rồi đây này. Hết yêu cầu này tới yêu cầu kia. Mới nhất là muốn có hẳn một phòng riêng cứ như thể họ siêu đẳng hơn chúng ta ấy.” Cô đưa tay gạt mớ tóc sẫm màu đang rủ xuống mắt. “Chánh thanh tra bị thúc tới đít rồi nên muốn chúng ta ra chịu trận đấy mà. Anh cứ nhìn cái chỗ này mà xem, cho một đội điều tra là đã chật rồi, nói gì tới hai.” Jack lập tức được chứng thực những gì Marilyn vừa nói. Khi giao các ghi chép của mình cho nhân viên nhập liệu, anh đã nhìn thấy rất nhiều khuôn mặt mới trong phòng phá án. Các thành viên đội F đều mặc áo sơ mi hồ cứng và đeo cà vạt, nhiều cái còn có những nếp nhăn mới tinh như vừa bóc tem. Nhưng anh biết, sự hãnh diện của họ đối với thứ trang phục này sẽ chẳng cầm cự được lâu sau một tuần làm việc mười lăm tiếng mỗi ca. “Xin lỗi, đồng nghiệp.” Ai đó túm lấy cánh tay anh. Một người đàn ông thấp hơn Jack, mặt nhọn, nước da rám nắng, mắt xanh nhạt, sống mũi hơi gãy nhưng thanh mảnh. Mái tóc màu vàng của anh ta được chuốt thành một cái khiên bóng loáng ở trên đầu. Anh ta vận com lê mới cứng màu xanh sẫm, hai bộ com lê khác khoác trên vai vẫn còn nằm nguyên trong túi bóng của tiệm giặt là. “Tôi treo chúng vào đâu được nhỉ?” Jack tìm thấy Maddox đang ký mấy đơn xác nhận làm việc ngoài giờ trong phòng chỉ huy. Anh ném chùm chìa khóa xe lên mặt bàn. “Dog & Bell.” “Cái gì cơ?” “Dog & Bell. Đó là một quán rượu ở phía Đông Greenwich.” Maddox ngả người ra sau ghế nhìn Jack, vẻ dò xét. “Thế nào?” Ông duỗi hai bàn tay ra. “Cậu định làm gì?” “Tôi cần hỏi họ vài câu. Tôi muốn xem có khách hàng thường xuyên nào liên quan tới ngành y không.” “Báo chí nghe được chi tiết này hẳn sẽ nhảy cẫng lên cho mà xem. Nếu thông tin này lộ ra thì họ sẽ phớt lờ lệnh tạm thời cấm đưa tin mất. Tôi sẽ trình chuyện này lên với chánh thanh tra, à mà thôi.” Ông chậm rãi lắc đầu. “Tôi nghĩ là ông ấy sẽ phản đối. Vẫn chưa tới lúc. Cậu còn manh mối nào khác không?” “Có vài cái tên. Cũng có thể đã xác định được danh tính của nạn nhân số ba.” “Tốt rồi, để mấy cái tên đó cho Marilyn xử lý đi. Thế manh mối hứa hẹn nhất là gì?” “Joni Marsh đã chạy sô ở Dog & Bell vào cái ngày Craw mất tích.” “Được rồi, ngày mai cậu xử lý vụ này đi. Nhưng vì Chúa, hãy dẫn một đồng nghiệp đi cùng, cậu cũng biết mấy người phụ nữ đó ghê gớm thế nào rồi đấy!” Có tiếng ai đó gõ cửa khiến Maddow thở dài. “Có chuyện gì?” “Mel Diamond đây. Thanh tra Diamond, thưa sếp.” “Vào đi thanh tra Diamond, vào đi.” Viên cảnh sát tóc vàng xuất hiện, tay áo vét đã được kéo xuống trùm kín cổ tay áo sơ mi. “Sếp.” Anh ta phớt lờ Jack, chỉ chìa bàn tay rám nắng ra cho Maddox, hơi để lộ chiếc đồng hồ đeo tay siêu mỏng. “Sếp không biết tôi nhưng tôi đã nghe danh tiếng của sếp từ lâu. Nhờ câu lạc bộ đua thuyền của thành phố, thưa sếp.” Maddox chững lại một lúc, không có phản ứng gì. “Từ câu lạc bộ Chipstead ấy,” Diamond bổ sung. “Ôi Chúa ơi.” Maddox liền đi vòng qua bàn để bắt tay anh ta. “Hẳn rồi, hẳn rồi. Tôi cũng thấy cậu quen mặt. Vậy...” ông tựa vào bàn, hai tay khoanh trước ngực, nhìn Diamond từ trên xuống dưới, “vậy cậu chính là viên thanh tra may mắn được cử tới hỗ trợ chúng tôi đấy hả? Hoan nghênh cậu tới Shrivemoor.” “Cảm ơn sếp. Đúng là tôi đã từ tận Eltham yên bình tới đây.” Giọng nói của anh ta vang dội trong căn phòng nhỏ, như thể anh ta đã quen với việc ra lệnh cho người khác. “Chúng tôi sẽ để các cậu nhập cuộc luôn: ngày mai các cậu gõ cửa từng nhà trong bán kính hai cây số rưỡi. Như vậy được chứ?” “Không được cũng phải được thôi, chánh thanh tra vốn muốn chúng tôi làm mấy việc điều tra thông thường để hỗ trợ cho đội điều tra chính.” Maddox ngập ngừng. “Đúng vậy, chỉ có bấy nhiêu thôi,” ông thận trọng trả lời. “Chúng tôi cũng chẳng làm gì khác được, thanh tra Diamond. Tôi chắc chắn là cậu cũng hiểu.” “Vâng, dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên là tôi hiểu. Và tôi hoàn toàn không có vấn đề gì với sự phân công đó. Không có chút vấn đề nào. Nếu chỉ huy thấy ổn thì tôi cũng vậy, không cần phải bàn cãi.” Anh ta gật gù. Rồi như để chấm dứt đề tài này, anh ta mỉm cười chỉ tay lên những bức ảnh trên tường và nói, “cái tàu kia đẹp thật đấy. Của sếp ạ?” “Đúng vậy,” Maddox do dự. “Hiệu Valiant.” “Chính thế, đúng là hiệu Valiant.” “Một nhãn hiệu chất lượng, có người cho rằng chúng trông hơi cồng kềnh, nhưng tôi lại rất khoái. Tàu tuần dương hiệu Valiant cũng rất tuyệt vời.” “Đúng vậy.” Maddox bắt đầu hào hứng. “Nhưng dù không muốn thì vẫn phải thừa nhận người Mỹ mới hay tạo ra kỳ tích với các tàu tuần dương. Hãng Mammoth chẳng hạn, rất thỏa mãn.” “Về nhất cuộc đua thuyền Frostbite của thành phố năm nay là một chiếc thuyền buồm đơn.” Diamond uốn lưỡi, “Không hiểu là trùng hợp hay...?” “Đúng vậy.” Maddox khiêm tốn gật đầu. “chính là chiếc thuyền này.” Đứng tựa lưng vào tường, hai tay khoanh chặt trước ngực, Jack ngạc nhiên nhận ra cuộc đối thoại giữa hai người kia khiến anh cảm thấy khó chịu. Như thể sự niềm nở và ủng hộ của Maddox vốn là độc quyền của riêng anh, không phải là thứ có thể bỗng dưng chuyển sang cho một thanh tra khác. Thật là một suy nghĩ vớ vẩn, ông ấy vốn không phải là bố mày, Jack, mày chẳng có quyền đòi hỏi ở ông ấy bất cứ thứ gì. Thế nhưng anh vẫn bực bội khi phải chứng kiến Maddox dễ dàng bị khuất phục bởi những lời nịnh hót, và khi thanh tra Diamond cười toét miệng, vui mừng bảo, “Ôi Chúa ơi, thật không biết phản ứng của các bạn tôi thế nào khi biết tôi đang được làm việc với ai...” Nghe tới đây, Jack quay người, lặng lẽ rời khỏi phòng. T 7. ối đó, Jack ngồi trước bàn làm việc của mình trong phòng Ewan, ngắm nhìn những đám mây trên màn hình nền của Windows 98. Những cành dẻ gai già trên ngọn cây cuối vườn hắt lên bức tường phía sau lưng anh những hình bóng dập dờn, lấp lánh ánh đồng. Anh chẳng cần quay người nhìn ra vườn cũng biết những lớp lá mới đã mọc trùm lên gần hết các vết đinh gỉ cũ khoét sâu vào thân cây và những tấm ván gỗ phủ đầy rêu: vốn là hết thảy những gì còn sót lại của ngôi nhà trên cây mà hồi còn nhỏ, anh và Ewan vẫn thường ẩn nấp và hò reo mỗi khi có một chuyến tàu rùng rùng chạy qua đoạn đường ray xuyên đồi bên dưới. Thi thoảng khi chỉ có một mình, anh thường cố nhớ lại quãng thời gian đó, cố hình dung ra chính anh của ngày ấy. Jack của trước đây. Một đứa trẻ vô lo, phiêu diêu, tự tại, chẳng có gì ngăn cản nó bay bổng trên những mái nhà và lên đến tận bầu trời xanh. Cho tới cái ngày ấy. Một loạt những hình ảnh lộn xộn, hơi nhiễu được gom lại với nhau một cách cẩu thả, như thể anh đã đánh lừa bản thân, không lấy những mẩu ký ức đó từ đời thực mà là từ một cuốn phim 8mm giấu tít trên gác mái của bố mẹ anh. Đó là một ngày giữa tháng Chín, trời đầy nắng và gió. Những tấm ván khô trong ngôi nhà cây lại kêu kẽo kẹt mỗi khi cây dẻ gai vẫn còn mềm mại và xanh tươi sau một mùa hè đầy nhựa sống khẽ oằn mình trước gió. Jack và Ewan vừa gây gổ với nhau. Hai đứa tìm được bốn mảnh ván gỗ trong một thùng đựng xà bần. Ewan muốn dựng một đài quan sát ở chạc cây xa nhất về phía Nam để có thể ngắm nhìn các chuyến tàu lắc lư trên đường ray từ ga Brockley tới. Nhưng Jack lại muốn dựng đài ở phía Bắc để ngắm đoạn đường ray trên những cây cầu mù sương ở New Cross và gương mặt những người dân thành thị lúc tan ca với tờ Nhật báo London buổi tối của họ. Jack, một đứa bé tám tuổi nóng nảy, trong cơn giận dữ đã xô mạnh anh trai mình vào thân cây. Phản ứng của Ewan cũng bất ngờ và dữ dội chẳng kém. Sau khi lấy lại thăng bằng, cậu lao vào Jack với hai cánh tay rắn chắc và gào lên, “Tao sẽ mách bố, tao sẽ mách bố.” Nước bọt từ miệng cậu phun ra tứ tung. “Tao sẽ mách bố.” Mất thăng bằng, Jack ngã lăn quay đến tận mép ngôi nhà cây, khi dừng lại được thì một nửa người nằm trên sàn, một nửa rơi ra ngoài, hai chân đung đưa lủng lẳng, quần soóc bị đinh móc rách toạc, ngón cái bên tay trái bị kẹp giữa hai miếng ván. Đau đớn khiến cậu nổi điên lên. “Đi mà mách, đồ khốn! Đi mà mách.” “Tao sẽ mách.” Ewan vừa thấy tội lỗi lại vừa thấy giận. Đôi mày cậu cau lại, môi dưới trề ra. “Tao ghét mày, đồ vô lại. Một thằng nhóc khốn kiếp, vô lại.” Ewan xoay lưng trèo xuống cầu thang làm bằng bện thừng, mặt hằm hằm, đùng đùng giận dữ. Cậu nhảy xuống đoạn đường tàu xuyên đồi. Jack rút ngón tay cái ra, chửi thề ầm ĩ rồi lăn lại vào bên trong ngôi nhà cây, nằm nguyên ở đó, thở chậm rãi, bàn tay đau nhói kẹp giữa hai đầu gối để trần, cực kỳ cáu tiết. Ở phía dưới căn nhà cây, nơi bờ đất hai bên đoạn đường tàu xuyên đồi dần dần mất hút giữa những trảng cây bụi mênh mông, hai anh em đã tạo ra một mạng lưới cung đường cho các trò chơi của mình. Mỗi lộ trình đều được chúng tỉ mỉ khám phá, lập bản đồ, đặt tên: tất cả tạo thành một hệ thống mạng nhện chằng chịt theo hình xoắn ốc dưới những dây leo bìm bìm. Từ căn nhà gỗ trên cây, Jack nhìn thấy Ewan lựa chọn lộ trình phía Nam mà hai anh em đặt biệt danh là “đường mòn tử thần” vì nó chạy dọc theo một bộ gia nhiệt chìm đã han gỉ - “Anh thấy không Ewan? Đây chính là một trái bom chưa nổ. Tên lửa V2 chưa biết chừng.” Mái tóc húi cua sẫm màu của Ewan lúc ẩn lúc hiện giữa đám cây bụi, chiếc áo phông màu vàng mù tạt sáng lấp lóa. Cậu đi tới bãi đất trống mà hai anh em gọi là Trại 1, cách đó xa xa là khu phi quân sự DMZ, quả bom tử thần V2 và tô giới của dân Á châu. Jack cảm thấy mất hứng. Ewan rất hay giận dỗi. Cậu phát chán chuyện ấy rồi. Vừa đau vừa tức, cậu tụt xuống khỏi cây, đi vào trong nhà để than phiền về vết bầm hình lưỡi liềm nửa đen nửa vàng trên móng tay cái. Sau này, chính ngôi nhà cây là thứ khiến mẹ họ đau lòng nhất. Jack vẫn nhớ như in những lần mẹ mình đang ở trong bếp rửa bát hay dọn lò, đột nhiên bỏ ngang chạy bổ ra vườn như chợt nhớ ra chuyện gì. Bà đứng đó như trời trồng, nhìn chằm chằm vào cây dẻ gai, nước xà phòng từ đôi găng tay cao su màu hồng chảy tong tỏng xuống cỏ. Đó là nơi cuối cùng bà nhìn thấy con trai mình. Rồi gần như điên dại, bà kêu gào tuyệt vọng với chồng mình. “Giải thích cho tôi về cái nhà cây kia xem nào, Frank; tại sao nó vẫn ở đó mà thằng bé lại không còn nữa? GIẢI THÍCH CHO TÔI, Frank. Tại làm sao?” Còn bố Jack sẽ bịt chặt tai lại, ngồi lún sâu vào trong chiếc ghế bành, vo những trang báo thể thao thành bó trên đùi, không tài nào làm dịu đi được nỗi thống khổ của vợ. Cho tới một ngày, ông giật lấy chiếc búa đầu tròn, xông ra vườn trong cơn mưa, giữa đám bùn lầy, chân vẫn đi đôi dép kẻ ô trong nhà. Lúc đó, Jack đã lẻn vào chính căn phòng này, đứng run rẩy trên giường để có thể nhìn qua cửa sổ, chứng kiến từng thớ gỗ nứt toác, mấy thanh gỗ rơi xuống mặt đất, bùn bắn tung tóe lên quần ống của mẹ cậu, lúc này đang đứng khóc nức nở trên bãi cỏ lầy lội. Và rồi, qua những tán cây trơ trụi, cậu nhìn thấy ai đó ở phía bên kia đường tàu. Là Ivan Penderecki, nhợt nhạt, cánh tay mập ú tì lên đám hàng rào mục nát sau nhà giữa cơn mưa mịt mù với một nụ cười mập mờ. Penderecki đứng đó phải hơn hai mươi phút, ngôi nhà phía sau lưng hắn sừng sững giữa những đám mây âm u màu xám. Và rồi như thể đã chứng kiến thỏa mãn, hắn xoay lung, lặng lẽ bỏ đi. Đối với cậu bé chín tuổi đang dán cái mũi nhỏ tí của mình vào lớp cửa kính mờ hơi nước, đây chính là thứ bằng chứng không thể bỏ qua, không thể chối cãi. Nhưng cảnh sát lại cho rằng đó là chuyện không hề có khả năng xảy ra bởi vì “Chúng tôi đã lục soát mọi ngôi nhà trong khu vực, thưa bà Caffery; chúng tôi sẽ mở rộng phạm vi tìm kiếm dọc theo đường ray, lên tận phía cầu New Cross...” Nhưng với bản năng tự nhiên của một đứa trẻ trước những gì người lớn muốn giấu, Jack biết rằng Penderecki là người có thể nói cho cảnh sát biết chính xác nơi tìm thấy Ewan. Gia đình Caffery đã bỏ cuộc vào năm Jack hai mươi mốt tuổi. Bố mẹ anh quay lại Liverpool, để lại cho anh ngôi nhà với giá cực rẻ và khiến anh hiểu rằng họ không bao giờ muốn gặp lại đứa con này nữa. Jack, đứa trẻ ngỗ ngược, khó dạy bảo, đứa con không bao giờ chịu nghe lời, yên lặng hay ngồi im một chỗ. Họ thà mất đứa con này còn hơn mất Ewan. Tuy họ không bao giờ nói ra những lời này nhưng anh có thể đọc được chúng trên nét mặt mẹ mỗi khi bà nhìn chằm chằm vào ngón tay cái của anh. Đối với bà, vết bầm màu đỏ sẫm kia không chịu biến mất chính là vì đứa con trai thứ cố tình muốn nhắc bà nhớ về cái ngày ấy mãi mãi. Sự biến mất của Ewan không chỉ làm sụt giảm vị trí của Jack ở trong lòng mẹ mà cho tới tận bây giờ, ở đâu đó trong những khu ngoại ô trải dài ở Liverpool, anh biết bà vẫn đang chờ đợi... không biết là chờ anh tìm thấy Ewan, hay chờ mong anh cũng chết quách đi. Jack không biết bà cần gì ở anh, bà muốn anh phải bồi thường cho bà như thế nào vì đã lỡ sống sót. Thỉnh thoảng, cho dù bên cạnh anh là Veronica hay những người phụ nữ đến trước cô, anh vẫn luôn có cảm giác như vụn vỡ bởi cô đơn và mất mát. Vì vậy, anh dồn hết sức lực vào cuộc chạy đua nước rút trên con đường thăng tiến trong lực lượng cảnh sát thành phố. cái tên đầu tiên anh gõ vào PNC[6] là Penderecki. Và anh đã tìm thấy sự thật. John (Ivan) Penderecki từng bị kết án ấu dâm, đã chịu hai án tù vào thập niên 1960 trước khi chuyển tới sống trên cùng con phố ở nội thành London với Jack và Ewan caffery. Trên mấy giá sách trong phòng làm việc - giờ vẫn được gọi là “phòng của Ewan” - mười hai thùng tài liệu được xếp thẳng hàng, phân loại bằng màu sắc. Bên trong chất đầy các loại giấy má, các bao thuốc John Player quấn trong màng bọc thực phẩm hay những hộp diêm Swan Vesta đã phai màu giờ đựng ghim giấy, một chiếc đinh gỉ sắt, một tờ hóa đơn tiền ga cháy sém, hết thảy đều là những chứng cứ nhỏ nhặt về cuộc sống của Penderecki mà Caffery, một cậu nhóc thám tử bị mắc chứng ám ảnh, đã thu thập suốt hơn hai mươi sáu năm qua. Lúc này đây, anh đang chuyển những dữ liệu đó vào bộ nhớ kỹ thuật số. Anh đeo kính và mở cơ sở dữ liệu ra. “Vẫn chuyện đó à?” Anh giật mình. Veronica đang đứng nghiêng đầu ở ngưỡng cửa, hai tay khoanh trước ngực. Cô mỉm cười. “Em ngắm anh được một lúc rồi đấy.” “Anh biết rồi.” Anh tháo kính xuống. “Em tự mở cửa vào à?” “Em muốn anh ngạc nhiên mà.” “Em đã đi xét nghiệm chưa?” “Vẫn chưa.” “Hôm nay là thứ Hai rồi. Sao vẫn chưa đi?” “Cả ngày em ở công ty.” “Bố em không cho em ra ngoài sao?” Cô cau mày, xoa xoa cổ họng, chiếc áo khoác màu vàng nghệ khoét khá sâu, để lộ vết sẹo nhỏ trên xương ức, dấu vết của những đợt xạ trị thời niên thiếu. “Anh không cần phải cáu kỉnh như thế.” “Anh không cáu kỉnh, chỉ là lo lắng thôi. Sao không tới khoa cấp cứu xem thế nào? Ngay bây giờ.” “Anh bình tĩnh đi. Ngày mai em sẽ gọi cho bác sĩ Cavendish, được chưa?” Anh cắn môi, quay lại với màn hình vi tính, vừa cố tập trung vào công việc, vừa thầm ước lần thứ một trăm rằng anh chưa bao giờ đưa chìa khóa nhà cho Veronica. Cô vẫn quan sát anh từ ngưỡng cửa, vừa khe khẽ thở dài vừa vuốt tóc ra sau tai, rồi lướt móng tay dọc khung cửa, những chiếc nhẫn và vòng tay trông giản dị nhưng rất đắt tiền - cách hay nhất để một người cha thể hiện tình yêu với con gái của mình -kêu leng keng nhè nhẹ. Jack biết Veronica muốn anh nhìn cô. Nhưng anh giả vờ như không biết. “Jack này,” cuối cùng Veronica thở dài, lại gần ghế Jack, lùa tay vào mái tóc màu sẫm của anh, miết ngón cái vào phần da vừa lộ ra. “Em muốn bàn chuyện bữa tiệc, chỉ còn vài ngày nữa thôi.” Cô chui vào trong lòng anh, cuộn người vào sát anh, má kề môi, tay cô luồn trong tóc anh, chân trái tựa trên tay ghế, tóc cô dụi vào cổ anh nhột nhạt. “Jackie, ú u, anh có nghe thấy em nói gì không vậy?” Cô ấn tay lên mặt anh, những ngón tay lúc nào cũng thơm mùi bạc hà và nước hoa đắt tiền, cả người lại dụi dụi vào háng anh. “Veronica...” Anh bắt đầu có phản ứng cương cứng ngoài mong muốn. “Chuyện gì nữa?” Anh đẩy cô ra. “Anh muốn ở đây trong một tiếng.” “Ôi Chúa ơi,” cô càu nhàu rồi trèo xuống. “Anh bệnh nặng rồi đấy anh có biết không?” “Có lẽ thế.” “Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Anh mà không cẩn thận là có ngày chết ở đây cho xem.” “Chúng ta đã nói rõ về chuyện này rồi mà.” “Đây là thế kỷ hai mốt rồi, Jack. Anh biết đấy, những khởi đầu mới, hướng về phía trước, vươn cao hơn.” Cô đứng bên cửa sổ, nhìn ra vườn. “Trong gia đình em, bọn em đều được dạy dỗ phải rời bỏ gốc rễ của mình, phải cải thiện bản thân.” “Gia đình em có nhiều tham vọng hơn anh.” “Tham vọng hơn so với anh,” cô chữa lại. “Ờ. Và quan tâm nhiều hơn anh.” “Nhiều hơn so với anh.” “Ôi Chúa ơi.” “Sao?” Anh đặt kính xuống, dụi dụi mắt. Một con cá nhiệt đới màu sắc sặc sỡ lướt qua màn hình. Ba mươi tư tuổi đầu rồi mà anh vẫn không tài nào có can đảm nói với người phụ nữ này rằng anh không yêu cô. Hết chờ sau khi xét nghiệm lại chờ tới sau bữa tiệc - đúng là thằng hèn, Jack, mày hèn lắm. Nếu kết quả xét nghiệm ổn thì sẽ dễ dàng hơn. Lúc đó, anh sẽ có thể nói với cô rằng mọi chuyện đã kết thúc, rằng cô cần trả lại cho anh chìa khóa nhà. “Có chuyện gì?” cô hỏi. “Em nói gì sai à?” “Không có gì,” anh nói rồi quay trở lại làm việc. M 8. ặt trời xiên thẳng từ trên cao xuống khiến người ta đau đầu và bóng râm co lại thành những đường viền sẫm quanh các đồ vật. Jack để mở cửa sổ trong lúc lái xe nhưng Essex vẫn không ngớt than nóng, lại cố tình hết luồn ngón tay vào cổ áo tới kéo kéo vạt áo sơ mi khiến anh rốt cuộc cũng phải nhượng bộ; đến chỗ đỗ xe, hai người cùng để lại áo vét trong cốp chiếc Jaguar và đi bộ trên phố South Greenwich với tay áo sơ mi xắn cao. Nhà số tám là một căn nhà kiểu George hai tầng, phía dưới là một cửa hàng bán đồ cũ. “Harrison đã nhớ ra hôm đó Graw mặc gì,” Essex nói trong lúc hai người rẽ nhanh vào lối đi nhỏ phía bên tay trái. “Xăng đan nhựa trong, gót đính kim tuyến hồng, quần tất màu đen, váy ngắn và hình như mặc áo thun.” Essex dựa người vào hộp thoại nội bộ. “Đúng mẫu phụ nữ tôi thích.” “Phản ứng của cha mẹ cô ấy thế nào?” “Đếch quan tâm! Họ cũng sẽ không tới London do không tìm được vé tàu. 'Nó đúng là một con điếm mạt hạng, hạ sĩ ạ, nếu như điều đó có thể giúp được gì cho anh,' chính là suy nghĩ của bà mẹ về việc giúp đỡ cảnh sát.” Chiếc hộp thoại nội bộ bằng kim loại đột nhiên phát ra tiếng động khiến cả hai người giật bắn mình. “Ai thế?” Jack bỏ kính râm xuống, ghé vào hộp thoại. “Thanh tra Jack Caffery. Tới tìm Joni Marsh.” Vài giây sau, cánh cửa mở ra và một cô gái mảnh mai tóc màu hạt dẻ ló ra nhìn họ. Anh đoán cô gái này chắc gần ba mươi, nhưng mái tóc dài, đôi chân rám nắng đi giày bệt bằng da mềm cùng chiếc váy yếm nhung ngắn màu xanh da trời khiến cô trông tươi trẻ như một nữ sinh viên. Anh giơ thẻ cảnh sát ra. “Cô là Joni?” “Không.” Mấy chiếc cọ thò ra khỏi hai túi váy yếm khiến cô trông như thể vừa bị cắt ngang trong giờ học vẽ. Trong tiết mỹ thuật tại một trường nữ sinh đắt đỏ. “Joni ở trên gác. Tôi có thể giúp gì được?” “Cô là?” Cô khẽ mỉm cười và chìa tay ra. “Becky. Ý tôi là Rebecca. Tôi ở chung với Joni.” Jack bắt tay cô. “Chúng tôi có thể vào trong được không?” “Tôi, thật ra chúng tôi...” Trông cô có vẻ bối rối. “Có lẽ... không được tiện lắm. Tôi xin lỗi.” “Chúng tôi muốn hỏi vài câu về một người mà cô Marsh quen biết.” Rebecca gạt tóc mái lòa xòa rủ xuống đôi mắt màu xanh lá cây và nhìn chằm chằm ra đường như thể sợ họ mang theo cả một đội bắn tỉa chĩa súng vào cửa nhà cô. “Thật ra là có... hơi bất tiện.” Cô có chất giọng rất nhẹ nhàng, lịch thiệp, dễ nghe, một giọng nói có khả năng chấm dứt mọi cuộc tranh luận khác chỉ bằng một lời thì thầm, “Chúng ta không thể nói chuyện ở ngoài này sao?” “Chúng tôi không quan tâm tới cần sa,” Jack nói. “Gì cơ?” “Tôi có thể ngửi thấy mùi của nó.” “Ôi.” Cô nhìn xuống chân, vẻ ngượng ngùng. “Chúng tôi không tới vì chuyện đó. Tôi hứa với cô.” “Ừm.” Cô cắn môi dưới để lộ hàm răng trắng lóa. “Được rồi, được rồi.” Cô quay người. “Các anh vào đi.” Hai người họ đi theo cô vào sâu trong ngôi nhà mát mẻ, băng qua một chiếc xe đạp leo núi dựng tựa vào lan can cầu thang. Essex liếc nhìn mái tóc đong đưa và đôi chân dài rám nắng đang đi lên cầu thang trước mặt anh. Bên trong căn hộ, cô dẫn họ qua một hành lang nhỏ. Jack vừa thoáng thấy một chiếc quần lót cotton vứt bừa bãi dưới sàn nhà