" Diệt Vong - Thomas Bernhard & Hoàng Đăng Lãnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Diệt Vong - Thomas Bernhard & Hoàng Đăng Lãnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển] Ebooks Nhóm Zalo THOMAS BERNHARD Diệt vong Hoàng Đăng Lãnh dịch NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN [VCTVEGROUP] Ta cảm thấy cái Chết không ngừng rình mò, lôi lưng cấu cổ mình. Montaigne I BỨC ĐIỆN TÍN Hôm hăm chín, sau khi trở về từ Wolfsegg và có buổi trò chuyện trên đồi Pincio nhằm khớp lịch học tháng Năm với anh học trò Gambetti của tôi, một thanh niên mà trí thông minh tuyệt vời vẫn làm tôi phải kinh ngạc ấy - ông Franz-Josef Murau viết - lòng tôi trở nên khoan khoái và vui vui cùng ý nghĩ, mình quả thực đã sống từ lâu ở Rome rồi chứ không còn ở Áo nữa, niềm vui làm tôi phấn chấn đến mức trái thói quen thường ngày, tôi không đi ngay qua phố Condotti để về nơi tôi ở tại Piazza Minerva nữa, mà vòng qua ngả Flaminia và Piazza del Popolo, đi dọc cho hết cả dãy đại lộ Corso mới về tới căn hộ tôi ở, là nơi khoảng hai giờ trưa tôi nhận được bức điện tín báo tin về cái chết của bố mẹ và ông anh trai Johannes. Bố mẹ và anh Johannes bị tai nạn chết. Caecilia, Amalia, cầm bức điện trên tay, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, tôi bình thản bước đến bên cửa sổ phòng làm việc nhìn xuống Piazza Minerva vắng tanh không một bóng người. Tôi đã đưa Gambetti năm quyển sách mà tôi tín chắc là trong mấy tuần tới sẽ có ích và cần thiết cho anh ta, đồng thời yêu cầu anh ta đọc hết sức cẩn thận, cũng có nghĩa là thật thong thả, cả năm quyển sách đó: Luật sư Siebenkäs của Jean Paul, Vụ án của Franz Kafka, Amras của Thomas Bernhard, Người đàn bà Bồ Đào Nha của Musil, Gã Esch hay chủ nghĩa vô chính phủ của Broch, và bây giờ, sau khi mở toang cửa sổ cho dễ thở, tôi nghĩ tôi đã quyết định đúng khi đưa đúng năm quyển ấy, chứ không phải quyển nào khác cho Gambetti, bởi năm quyển ấy sẽ mỗi lúc một quan trọng hơn trong quá trình học, rằng tôi đã rất kín đáo mách khéo, lần tới tôi sẽ cùng anh ta phân tích mổ xẻ cuốn Tình đầu ý hợp chứ không bàn đến cuốn Thế giới như là ý chí và biểu tượng. Chuyện trò với Gambetti đối với tôi cũng lại là một hứng thú lớn, sau bấy nhiêu cuộc trò chuyện nặng nề, khó nhọc, loanh quanh độc những nhu cầu thường nhật, hết sức riêng tư và tầm thường với gia đình tôi ở Wolfsegg. Từ ngữ tiếng Đức như những quả cân bằng chì treo vào ngôn ngữ Đức, tôi đã bảo Gambetti vậy, và chắc chắn sẽ đè tư duy xuống một bình diện vốn rất có hại cho chính tư duy ấy. Cả tư duy Đức lẫn tiếng nói Đức đều bị tê liệt rất nhanh dưới sức nặng phi nhân của ngôn ngữ Đức, một gánh nặng đè bẹp mọi ý nghĩ ngay trước khi chúng được phát ngôn thành lời, như lịch sử hàng trăm năm lao tâm khổ tứ của dân Đức đã cho thấy. Do bị nằm đè dưới ngôn ngữ ấy, nền tư tưởng Đức dường như đã rất khó phát triển và không bao giờ có thể bột phát toàn diện, ngược hẳn nền tư tưởng Roman dưới ngôn ngữ Roman. Mặc dù tôi đánh giá tiếng Tây Ban Nha cao hơn, có lẽ chỉ vì tôi thạo nó hơn chăng, nhưng buổi sáng hôm đó Gambetti đã lại cho tôi một bài học quý giá về tính nhẹ nhàng, thanh thoát lẫn sự linh hoạt vô cùng tận của tiếng Ý. Đem thứ tiếng này so với tiếng Đức cũng giống như đem so một đứa trẻ hoàn toàn tự do lớn lên trong một gia đình khá giả và hạnh phúc với một đứa trẻ xuất thân từ gia đình nghèo khó, bần cùng, bị đè nén, bị đánh đập mà đâm ra lươn lẹo. Bởi thế, càng phải đánh giá cao công sức của các triết gia và văn sĩ của chúng tôi, tôi bảo Gambetti vậy. Mỗi một từ tức khắc sẽ níu suy nghĩ của họ xuống, câu nào cũng đè ý nghĩ của họ xuống đất, bất kể họ dám nghĩ điều gì, và như thế bao giờ cũng có nghĩa là đè tất tật xuống đất. Chính vì thế mà triết lý của họ, cũng như những gì họ sáng tác ra, đều như thể bằng chì hết cả. Tự dưng tôi xướng to để Gambetti nghe một câu của Schopenhauer trích từ Thế giới như là ý chí và biểu tượng, bằng tiếng Đức trước, tiếng Ý sau, nhằm thử minh họa cho anh ta, Gambetti, thấy bên tay trái tôi, tượng trưng cho đĩa cân đặt tiếng Đức bị vít thấp xuống đến mức nào, trong khi tay phải tượng trưng cho đĩa cân bên đặt tiếng Ý được hất cao bổng lên ra sao. Trong sự khoái chí của tôi lẫn của Gambetti, tôi nói vài câu của Schopenhauer bằng tiếng Đức trước, rồi bằng tiếng Ý do chính tôi dịch ứng khẩu, đoạn đặt chúng lên hai đĩa cân ở hai bên tay tôi ấy cho toàn thể thiên hạ, nhưng trước hết là cho Gambetti, nhìn rõ điều đó; rồi dần dần nó biến thành một trò chơi mà tôi đẩy lên đến tột đỉnh, một trò chơi rốt cuộc kết thúc bằng các câu nói của Hegel và cách ngôn của Kant Thật đáng tiếc, tôi bảo Gambetti, không phải những từ ngữ nặng nề bao giờ cũng thuyết phục nhất đâu, y hệt các câu nặng nề không phải bao giờ cũng thuyết phục nhất. Trò chơi này chẳng mấy chốc làm tôi kiệt sức. Đứng dừng lại trước khách sạn Hassler, tôi kể Gambetti nghe ngắn gọn về chuyến đi Wolfsegg, nhưng càng về cuối, tôi lại càng thấy câu chuyện đâm ra chi li đầy đủ quá, vâng, thậm chí ba hoa quá. Tôi định dọn chỗ, đặt anh ta trước một buổi cân đong, so sánh giữa hai gia đình, đặt yếu tố Đức của gia đình tôi ở bên này, đối diện với yếu tố Ý trong gia đình anh ta ở bên kia; song, rốt cuộc tôi lại để gia đình tôi đối đầu với gia đình anh, khiến câu chuyện tôi kể bị méo mó, và làm Gambetti, thay vì được dạy dỗ, được khai minh chỗ này điều nọ, chắc lại bị quấy rầy khó chịu lắm. Gambetti là người rất biết lắng nghe và có đôi tai thật thính, lại được tôi dạy thêm thủ thuật nghe sàng lọc về nội dung sự thật cũng như về tính nhất quán của bất cứ một cuộc thuyết trình nào. Gambetti là học trò của tôi, nhưng ngược lại, tự tôi cũng là học trò của Gambetti. Ít ra tôi cũng học được ở Gambetti bấy nhiêu bài học, ngang đúng số bài Gambetti học được ở tôi. Quan hệ giữa hai chúng tôi là quan hệ lý tưởng, bởi lần này tôi là thầy của Gambetti và anh ta là trò của tôi, lần sau Gambetti là thầy, tôi là trò, và một tình huống rất hay xảy ra là cả hai chúng tôi đều không biết lúc ấy Gambetti là trò, tôi là thầy, hay ngược lại. Đó chính là lúc tình huống lý tưởng nảy sinh. Nhưng đằng thẳng ra thì bao giờ tôi cũng là thầy học của Gambetti vì tôi được Gambetti, hay nói đúng hơn là được ông bố giàu có của Gambetti trả công dạy học. Hai ngày sau khi trở về từ đám cưới của Caecilia em gái tôi với tay chủ xưởng sản xuất nút chai vang ở Freiburg, tức là chồng nó, bây giờ thành em rể tôi, tôi lại phải xếp lại chỗ quần áo tôi vừa bỏ ra, mới hôm qua chứ đâu, chưa kịp dọn, còn nằm ngổn ngang trên chiếc ghế bành kê cạnh bàn làm việc của tôi vào túi xách du lịch và quay lại Wolfsegg - cái chốn từ mấy năm trở lại đây tất tật mọi thứ thật sự trở nên ít nhiều đáng ghê tởm đối với tôi, tôi nghĩ bụng, lúc vẫn đang đứng bên cánh cửa sổ mở toang nhìn xuống Piazza Minerva không một bóng người - vì một duyên cớ lúc này không còn nực cười và lố bịch nữa, mà là một duyên cớ thật kinh khủng. Thay vì được ngồi chuyện trò với Gambetti về Luật sư Siebenkäs và Người đàn bà Bồ Đào Nha, tôi sẽ phải nộp mình cho hai con em gái đang đợi tôi ở Wolfsegg, tôi tự nhủ, thay vì được trao đổi với Gambetti về Tình đầu ý hợp, tôi sẽ phải bàn chuyện với hai đứa chúng nó về chuyện chôn cất bố mẹ và ông anh, cũng như về tài sản họ để lại. Thay vì được cùng Gambetti đi qua đi lại trên đồi Pindn, tôi sẽ phải lui tới văn phòng Thị trưởng, ra vào nghĩa địa hay nhà thờ rồi cãi nhau với hai con em gái về việc thu xếp đám tang. Trong lúc xếp số quần áo hôm qua tôi vừa lôi ra vào túi, tôi cố hình dung xem các hậu quả sinh ra từ cái chết của bố mẹ tôi cùng cái chết của anh trai tôi sẽ như thế nào, nhưng chẳng hình dung được gì. Song, tất nhiên tôi rất hiểu cái chết của ba người, mà chí ít xét trên giấy tờ, cũng là gần gũi nhất với tôi ấy, sẽ đòi hỏi những gì ở tôi: tức là toàn bộ sức lực, toàn bộ sức mạnh ý chí của tôi. Sự bình thản trong tôi lúc tôi lần lượt nhồi nhét các thứ cần thiết cho chuyến đi vào túi xách, cũng như sự bình thản trong lòng tôi lúc suy tính đến tương lai bị rung chuyển ngay sau tai nạn chắc chắn là kinh khủng đó, mãi một lúc lâu, sau khi đã đóng túi lại, tôi mới thấy là kỳ quái. Cái câu hỏi, liệu tôi có thương yêu bố mẹ và anh trai không, tuy bị ngay cái từ dĩ nhiên gạt đi - không những chỉ là chung chung, mà nói cho đúng - vẫn chưa được trả lời. Đã từ lâu rồi, cả đối với bố mẹ lẫn đối với ông anh trai, tôi không còn có mối liên hệ nào gọi là tốt đẹp nữa cả, mà phải gọi là căng thẳng thì đúng hơn, và dần dần, cho đến những năm gần đây, trở nên hờ hững. Tôi chẳng thiết gì đến Wolfsegg, như thế cũng có nghĩa là không thiết gì đến bố mẹ và ông anh tôi nữa, thì ngược lại, bố mẹ và ông anh cũng chẳng thèm quan tâm gì đến tôi nữa; đó là sự thật. Xuất phát từ một nhận thức như thế, các mối liên hệ của chúng tôi chỉ còn được đặt trên một nền tảng ít nhiều đủ để gọi là có nữa mà thôi. Tôi nghĩ, hai chục năm trước ông bà già mày không những để mày tuột khỏi Wolfsegg, là nơi ông bà định buộc xích vào chân mày suốt đời, mà ông bà mày còn để mày tuột hẳn khỏi lòng dạ ông bà nữa kia. Ông anh tôi ghen tị khôn nguôi với tôi suốt hai chục năm trời ấy, vì tôi đã bỏ đi, vì tính tự lập đầy hoang tưởng của tôi, như gã có lần đã đốp thẳng mặt tôi như thế, vì các đòi hỏi được tự do đến độ tàn nhẫn của tôi; tóm lại, gã căm ghét tôi. Còn hai con em gái tôi chỉ dành cho tôi mối nghi ngờ bao giờ cũng lớn hơn mối nghi ngờ thường có giữa anh chị em, chúng nó dõi theo tôi với những cặp mắt hằn học, ngay từ thời điểm tôi quay lưng lại với Wolfsegg để ra đi, cũng là lúc quay lưng lại với chúng nó. Đó là sự thật. Tôi nhấc cái túi xách lên, như mọi khi, nó nặng trình trịch, quá nặng, tôi nghĩ bụng, mà thật ra thì nó cũng chẳng để làm gì, vì ở Wolfsegg tôi có đủ mọi thứ kia mà. Tha nó theo làm quái gì chứ? Tôi quyết định không mang túi về Wolfsegg nữa và lôi các thứ trong túi ra xếp lại vào ngăn kéo. Chúng ta vẫn thường thương yêu bố mẹ một cách tự nhiên, và vẫn thường thương yêu các anh chị em chúng ta, cũng một cách tự nhiên như thế - tôi tự nhủ, lúc tôi lại đến đứng bên cửa sổ nhìn xuống Piazza Minerva vẫn không một bóng người ở dưới kia - mà không nhận thấy rằng, đến một thời điểm nhất định nào đó, ta bắt đầu căm ghét họ, hoàn toàn trái với ý muốn của chính ta, nhưng cũng hoàn toàn tự nhiên y như lúc trước đó ta yêu thương họ vậy, xuất phát từ tất cả những nguyên do mà phải nhiều năm sau, thường là hàng chục năm sau, ta mới vỡ nhẽ. Ta không thể xác định được chính xác cái thời điểm từ đó trở đi ta không còn yêu thương bố mẹ và anh chị em ta nữa mà xoay ra căm ghét họ là lúc nào, và chúng ta cũng không còn cất công tìm cho ra cái thời điểm ấy nữa làm gì, vì xét cho cùng, ta rất sợ tìm ra nó. Những ai đã trái ý nguyện người thân để từ bỏ họ ra đi, thêm vào đó, lại ra đi theo một cách hết sức ác độc như tôi đã ra đi, thì tất phải tính đến lòng căm ghét của họ, và tình thương yêu trước đó dành cho ta lớn lao bao nhiêu thì bây giờ, khi ta đã hoàn thành những gì ta đã định, sự căm ghét của họ càng sâu sắc bấy nhiêu. Hàng chục năm trời tôi từng đau khổ vì bị người nhà căm ghét, giờ đây tôi tự nhủ, song những năm gần đây, chẳng còn chút đau đớn nào nữa cả, tôi quen bị căm bị ghét rồi và không còn vì thế mà bị tổn thương nữa. Lòng căm ghét mà cả nhà đổ lên đầu tôi ấy, không thể tránh khỏi, đã đương nhiên khơi dậy trong tôi sự căm ghét dành cho cả nhà. Và, từ mấy năm gần đây, cũng chẳng ai còn đau khổ vì bị tôi căm ghét nữa. Cả nhà khinh bỉ cái thằng thành Rome, cũng như tôi coi thường bọn Wolfsegg vậy, và nói cho cùng, chẳng ai nhớ đến tôi, cũng như tôi không mấy khi nhớ đến ai trong nhà. Cả nhà chỉ toàn gọi tôi là thằng bịp bợm hay thằng ba hoa, một kẻ ăn bám cả gia đình lẫn thiên hạ. Còn tôi, tôi chỉ còn mỗi một từ lũ đần độn để gọi mọi người trong nhà. Cái chết của cả ba người, chắc chỉ có thể là do tai nạn xe hơi mà thôi ấy, tôi tự nhủ, chẳng mảy may làm thay đổi sự thật đó. Tôi chẳng hề lo ngại tôi sẽ vì thế mà sinh ra đa sầu đa cảm. Đôi tay tôi thậm chí còn chẳng run rẩy chút nào khi cầm đọc bức điện tín, thân thể tôi chẳng mảy may rung động, dù chỉ một phút giây ngắn ngủi. Tôi sẽ báo tin để Gambetti biết, bố mẹ và anh trai tôi đã chết, nên tôi phải bỏ qua vài buổi dạy, tôi nghĩ thầm, chỉ vài ngày thôi, bởi tôi sẽ chẳng lưu lại Wolfsegg lâu hơn vài ba ngày; cùng lắm chỉ một tuần là đủ, ngay cả khi có bao nhiêu thủ tục rắc rối không lường trước được cũng vậy thôi. Tôi đã thoáng có ý nghĩ, hay là đưa Gambetti đi theo, bởi tôi cảm thấy e ngại trước số đông vượt trội của đám người ở Wolfsegg và muốn có lấy ít nhất một người về phe mình, một người có thể giúp tôi đủ sức chống đỡ cuộc tấn công ồ ạt của đám người Wolfsegg, một con người, một đồng đội tương ứng với tôi trong tình thế có thể sẽ là vô vọng ấy, nhưng tôi lại gạt ngay ý nghĩ đó đi, vì tôi muốn tránh cho Gambetti cuộc đối mặt với Wolfsegg. Bởi có thể anh ta sẽ thấy tất cả những gì suốt mấy năm qua tôi nói với anh ấy về Wolfsegg thật là vô hại so với sự thật và thực tế mà anh ta sẽ được chứng kiến, tôi nghĩ bụng. Lúc nãy tôi vừa định kéo Gambetti đi cùng, lúc sau lại thôi, không đưa anh ta theo nữa. Rốt cuộc tôi nhất quyết không đem anh ta theo. Mang Gambetti theo, tôi tự nhủ, thể nào tôi cũng gây nhiều ồn ào ở Wolfsegg và nhất là gây một vố náo động giật gân mà đối với tôi, nói chung, chắc chắn sẽ rất đáng ghê tởm. Một người như Gambetti, đám Wolfsegg sẽ không bao giờ hiểu nổi. Ngay cả với những người lạ hết sức hiền lành, bọn họ ở Wolfsegg bao giờ cũng đón tiếp một cách ghê tởm và hằn học, tất tật những ai lạ mặt đều bị họ khước từ, họ không bao giờ hành động như tôi, vốn vẫn quen trong chớp mắt đã có thể sà ngay vào tìm hiểu một cái gì đó lạ lẫm hay làm quen với một người lạ mặt nào đấy. Đưa Gambetti về Wolfsegg sẽ có nghĩa là cố tình đối xử bất nhã với anh, và nói cho cùng, là xúc phạm anh ta một cách nặng nề. Đến chính tôi còn chưa đủ sức thanh toán xong mọi sự với Wolfsegg, huống hồ một con người đầy cá tính như Gambetti. Sự đối đầu giữa Gambetti với Wolfsegg biết đâu sẽ dẫn tới một tai họa thật sự, tôi nghĩ bụng, và nạn nhân không chừng sẽ chẳng là ai khác ngoài Gambetti. Lẽ ra tôi đã có thể đưa Gambetti về thăm Wolfsegg một lần rồi đấy, tôi thầm nghĩ, nhưng rồi tôi lại thôi, mặc dù tôi vẫn thường tự bảo, sẽ đưa Gambetti về Wolfsegg chơi, may ra, không những sẽ chỉ có lợi cho tôi, mà còn có lợi cho cả Gambetti nữa. Các câu chuyện tôi thuật về Wolfsegg lẽ ra sẽ nhờ đó, nhờ thông qua con mắt tinh tường của chính Gambetti, mang một tính xác thực không thể đạt tới bằng bất cứ cách nào khác. Tôi quen Gambetti, tính đến giờ đã mười lăm năm, nhưng tôi chưa đưa anh về thăm Wolfsegg lấy một lần, tôi nghĩ bụng. Rất có thể Gambetti suy nghĩ về việc đó khác tôi, giờ đây tôi tự nhủ, bắt nguồn từ sự bất thường cũng rất chi là tự nhiên ấy rằng, tôi, trong suốt mười lăm năm trời ấy, không mời và không đưa theo, dù chỉ một lần, con người mà mười lăm năm ròng rã tôi đã ít nhiều trở nên thân thiết ấy, về một nơi vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Tại sao suốt mười lăm năm ấy tôi đã không để Gambetti ngó vào lá bài quê hương của tôi nhỉ? - tôi tự hỏi. Bởi vì tôi đã luôn luôn e sợ, và cho đến tận bây giờ vẫn còn e sợ điều đó. Một mặt, vì tôi muốn tự bảo vệ mình chống lại những hiểu biết của anh ta về Wolfsegg và như thế cũng là chống lại hiểu biết của anh ấy về gốc gác của tôi, nhưng mặt khác, tôi cũng muốn bảo vệ chính anh ấy trước những hiểu biết như thế, thứ hiểu biết rất có thể chỉ gây các tác động thảm hại cho anh ấy mà thôi. Suốt mười lăm năm quen biết nhau, tôi chưa từng một lần nộp trắng Gambetti cho Wolfsegg. Mặc dù đi cùng Gambetti chứ không phải một thân một mình về Wolfsegg, và cùng anh ta lưu lại ở đó, lẽ ra, sẽ hết sức dễ chịu với tôi, song tôi luôn luôn cưỡng lại việc đem Gambetti đi theo. Dĩ nhiên Gambetti sẽ sẵn lòng đi với tôi về Wolfsegg bất kỳ lúc nào. Anh ấy chờ tôi mời suốt bấy lâu nay rồi. Nhưng tôi không mời. Đám ma không những là một dịp buồn thương mà còn là một dịp hết sức ghê tởm nữa là khác, giờ đây tôi tự nhủ, nên tôi sẽ không mời Gambetti nhân đúng một dịp như thế theo tôi về Wolfsegg. Tôi sẽ báo tin cho anh ấy, rằng bố mẹ tôi chết, và không cần chờ ai khẳng định, tôi sẽ bảo bố mẹ tôi bị tai nạn ô tô chết cùng anh trai tôi, nhưng tôi sẽ không nói lấy một lời mòi anh ấy đi cùng tôi. Vừa mới được hai tuần chứ đâu, trước khi lên đường về Wolfsegg dự đám cưới con em gái tôi, tôi đã chẳng ngần ngại nói trước mặt Gambetti những lời hết sức thô lỗ về bố mẹ tôi và gọi ông anh tôi là người mang tính cách ít nhiều đê tiện, đồng thời cũng còn là kẻ ngu đần hết đường dạy dỗ nữa kia. Tôi đã mô tả Wolfsegg là nơi chứa chấp tất cả những gì ngu si đần độn nhất đời. Tôi đã kể về thứ khí hậu khủng khiếp luôn luôn ngự trị và tàn bạo hủy hoại mọi thứ, kể cả mọi sinh linh phải sống, hay nói đúng hơn, bị ép phải tồn tại ở đó, và khiến họ, cũng giống như khí hậu ở đấy, trở nên tàn nhẫn khôn cùng. Tuy nhiên, khi đó tôi cũng nhắc đến những lợi thế tuyệt đối của Wolfsegg, đến những ngày trời thu tuyệt đẹp, đến cái lạnh lẽo của mùa đông và sự tĩnh mịch của những cánh rừng và thung lũng bao quanh mà ngoài tôi chẳng ai ưa. Tôi cũng kể, rằng thiên nhiên ở đó tuy tàn nhẫn nhưng cũng thật sự trong sáng và tuyệt vời. Rằng thiên nhiên thật sự trong sáng và tuyệt vời đó, tuy vậy, vẫn không hề được những con người sinh sống ở đó trân trọng, bởi họ, do ngu si và đần độn, không còn khả năng ấy nữa. Giá không có những người thân của tôi ở đó mà chỉ có những ngôi nhà che chở họ thôi, hồi đó tôi đã nói vậy với Gambetti, thì lẽ ra tôi phải nhận Wolfsegg là một nơi hoàn hảo cho tôi mới đúng, bởi chính nơi đây chứ không còn nơi nào khác, là nơi tương hợp với tinh thần tôi hơn cả. Song tôi không thể, chỉ vì do tôi muốn vậy, mà loại bỏ người thân của tôi được, tôi đã từng nói vậy. Tôi nghe rõ ràng tiếng tôi nói câu ấy và bây giờ, do cái chết thật sự ập đến với bố mẹ lẫn anh trai tôi mà nó bỗng trở nên kinh khủng và dữ dội, đến mức khiến tôi, khi vẫn đứng bên cửa sổ nhìn xuống Piazza Minerva như lúc này, phải cất tiếng nhắc to câu nói ấy lần nữa. Câu nói Song tôi không thể, chỉ vì do tôi muốn vậy, mà loại bỏ người thân của tôi được, dạo xưa tôi từng thốt lên trước mặt Gambetti, cùng mối ác cảm lớn dành cho ba người thân bị nạn, bây giờ được tôi nhắc lại khá to, thậm chí với một vẻ rất kịch tính, to và kịch tính, như thể tôi là diễn viên đang phải học thuộc lòng câu nói để biểu diễn trước đám đông công chúng, cho nên, trong chốc lát, tôi đã làm câu nói mất hết vẻ gay gắt vốn có của nó. Câu nói bỗng dưng không còn sức tàn phá nữa. Nhưng chẳng mấy chốc câu nói Song tôi không thể, chỉ vì do tôi muốn vậy, mà loại bỏ người thân của tôi được ấy lại ngoi lên trước và nắm toàn quyền sai khiến tôi. Tôi gắng hết sức đè cho nó lịm đi, nhưng nó không chịu để bị bóp nghẹt. Tôi không những chỉ cất tiếng nói một lần thành câu, tôi còn lảm nhảm nhiều lần trong miệng, cố làm sao biến nó thành lố bịch, nhưng câu nói ấy, sau tất cả mọi nỗ lực hòng bóp chết nó, hay biến nó thành lố bịch, lại càng trở nên nguy hiểm hơn. Tự dưng nó mang một sức nặng hơn hết thảy mọi câu chữ tôi từng thốt ra. Ta không thể nhấn dìm chết câu nói ấy, tôi tự nhủ, ta sẽ phải sống cùng với nó. Hiểu ra được như thế, tức khắc tôi bình tâm ngay. Tôi nhắc lại câu nói Song tôi không thể, chỉ vì do tôi muốn vậy, mà loại bỏ người thân của tôi được, nhắc lại lần nữa, như tôi đã nói lúc đối diện Gambetti. Bây giờ nó lại mang ý nghĩa như hồi đó, trước mặt Gambetti rồi. Trên Piazza Minerva không có gì sống động, ngoài mấy con chim bồ câu. Tôi ngồi xuống bên bàn làm việc. Trên bàn vẫn còn một lô thư từ, một lá của Eisenberg, lá thư khác của lão Spadolini, vị Tổng Giám mục và cũng là nhân tình của mẹ tôi, cùng một mảnh giấy của Maria nữa. Các giấy mời của dăm Viện Văn hóa ở Rome lẫn vài ba bức thư mời riêng tư khác, tôi vứt ngay vào sọt rác, cũng như một vài lá thư nữa mà thoáng nhìn qua bên ngoài tôi đã biết ngay là thư hăm dọa hay xin xỏ, của những kẻ hoặc muốn vòi tiền tôi, hoặc muốn biết tôi đang cố đạt được cái gì qua lối suy nghĩ và cách sống của tôi, của những kẻ vin vào đôi bài báo tôi đăng gần đây vốn không làm vừa lòng họ, bởi dĩ nhiên đấy là các bài báo được suy ngẫm và viết ra chống lại tất cả những kẻ như họ, và các bức thư ấy của họ, tất nhiên, đều gửi từ Áo sang, do những kẻ vốn lâu nay vẫn mang bao nhiêu nỗi thù hận trong lòng dõi theo tôi cho đến tận thành Rome này, thảo ra. Bao nhiêu năm nay rồi, tôi vẫn nhận được những bức thư như thế, những bức thư hoàn toàn không phải do mấy đứa điên rồ viết như tôi nghĩ lúc ban đầu, mà hóa ra lại là của những nhân vật có uy tín, tức là những nhân vật không thể bắt bẻ vào đâu được về tư cách pháp lý, những người đe dọa truy nã và đập chết tôi vì các bài báo tôi đăng trên nhiều nhật báo hay tạp chí khác nhau, phát hành không những ở Frankfurt hay Hamburg, mà cả ở Milano lẫn thành Rome. Tôi không ngừng bôi nhọ nước Áo, bọn họ quả quyết vậy, tôi hạ nhục quê hương tôi theo một lối trắng trợn hơn bao giờ hết, bằng mọi cách, ở mọi nơi, mọi lúc, tôi gắn cho người Áo cái tính cách Thiên chúa giáo quốc gia xã hội chủ nghĩa kiểu Áo hèn hạ và đê tiện, trong khi thực ra, như bọn người kia quả quyết, tính cách Thiên chúa giáo quốc gia xã hội chủ nghĩa hèn hạ và đê tiện không hề phổ biến ở Áo. Nước Áo không hèn hạ và cũng không đê tiện, nước Áo chỉ luôn luôn đẹp đẽ mà thôi, và dân tộc Áo là dân tộc đáng kính, họ viết thế. Những bức thư như thế, cả sáng nay cũng vậy, bao giờ tôi cũng đều vứt bỏ ngay lập tức. Tôi chỉ giữ lại thư của Eisenberg, anh bạn thời sinh viên của tôi, giờ là giáo sĩ Do Thái ở thành Wien, hẹn tôi gặp ở Venice, nơi anh ấy sẽ đến có việc vào cuối tháng Năm, như anh ấy viết đây, rồi dự định cùng tôi đến Teatro La Fenice, không phải đến xem cái thứ như Câu chuyện lính của Strawinski như năm ngoái, mà là xem Tancredo của Monteverdis. Đương nhiên tôi sẽ nhận lời anh Eisenberg mời, tôi sẽ trả lời anh ấy ngay lập tức, tôi nghĩ bụng, song ngay lập tức có nghĩa là sau khi tôi đi Wolfsegg về đã. Đi chơi khắp Venice cùng Eisenberg vốn luôn luôn là niềm thích thú của tôi, tôi nghĩ bụng, hay đúng hơn, gặp Eisenberg thôi, đã là đủ thú vị rồi. Nếu có đặt chân đến Ý, dù chỉ là đến Venice vài ngày thôi, bao giờ anh ấy cũng báo trước, rủ tôi tham dự một cuộc vui mang tính nghệ thuật cao, như anh ấy vẫn nói, và tôi nghĩ Tancredo ở La Fenice chắc chắn là một cuộc vui như thế. Họ gửi cho tôi tờ Corriere della Sera trong đó có in bài viết của tôi về Leos Janacek. Tôi mở rộng tờ báo, lòng đầy hy vọng, song chỉ thấy bài viết của tôi, một là không được xếp in vào chỗ nổi bật, làm tôi tiu nghỉu ngay, hai là, chỉ mới đọc lướt qua lần đầu tôi cũng đã phát hiện ngay ra một loạt các lỗi in ấn không thể tha thứ, tức là những lỗi in kinh khủng nhất có thể xảy ra. Tôi quẳng tờ Corriere sang bên và đọc lại những dòng chữ trên mảnh giấy Maria viết và bỏ vào thùng thư cho tôi. Nữ thi sĩ lớn của tôi viết rằng tối thứ Bảy nàng muốn đi ăn tối cùng với tôi, với một mình anh thôi, vả lại nàng mới viết vài bài thơ cho anh, như nàng viết đây. Nữ thi sĩ lớn của tôi dạo này viết lách có vẻ được đây, tôi tự nhủ, rồi kéo ngăn kéo tôi để mấy tấm ảnh gia đình ra. Tôi chăm chú nhìn tấm ảnh chụp bố mẹ tôi trên sân ga Victoria ở London, đúng lúc cả hai đang lên tàu đi Dover. Ảnh tôi chụp lúc hai vị không chút để ý. Ông bà đến thăm tôi, vì vào năm một ngàn chín trăm sáu mươi tôi đang học đại học ở London, và sau hai tuần lưu lại Anh, sau khi đã đi từ Glasgow đến Bristol, các vị sang Paris, là nơi hai con em gái tôi đang chờ sẵn; chúng nó đi từ Cannes - ghé thăm chú Georg ở đấy - rồi đến Paris gặp bố mẹ. Dạo năm một ngàn chín trăm sáu mươi, tôi nghĩ bụng, tôi vẫn còn giữ một mối liên hệ nói chung là chịu đựng được với bố mẹ tôi. Tôi ước ao sang Anh học đại học và bố mẹ không hề gây chút khó dễ nào, vì ông bà hẳn đã chắc mẩm, sau khi học ở Anh xong, tôi sẽ quay về Wien và rốt cuộc cũng sẽ về Wolfsegg thôi, để thỏa ước nguyện của ông bà, là tôi sẽ cùng ông anh quản lý và vận hành, rồi hoàn thiện Wolfsegg của hai vị. Song ngay từ hồi đó tôi đã không hề có ý định quay về Wolfsegg, mà chỉ mang một ý nghĩ duy nhất là rời bỏ Wolfsegg sang Anh, đến London, chứ không bao giờ quay lại Wolfsegg nữa. Tôi căm ghét nghề nông, vốn là niềm ham mê của bố và anh trai tôi. Tôi căm ghét tất cả những thứ liên quan đến Wolfsegg, bởi chỉ có những gì sinh lợi cho gia đình mới đáng kể, không thì thôi. Ở Wolfsegg, ngay từ lúc khai trương và lọt gọn vào tay gia đình tôi, họ chẳng quan tâm đến thứ gì khác ngoài năng suất và làm sao để lợi nhuận thu được từ các ngành sản suất mỗi ngày một lớn, tức là từ nghề nông, một nghề mà dẫu gì đến tận giờ cũng còn ôm đến mười hai ngàn hecta, và từ nghề khai thác các hầm mộ. Họ chẳng còn gì khác trong đầu, ngoài việc nghĩ cách moi được thật nhiều từ những gì họ sở hữu. Mặc dù họ luôn mồm giả bộ quan tâm đến nhiều thứ khác chứ không phải chỉ say sưa cơn nghiện kiếm lời, rằng họ cũng quan tâm đến văn hóa, thậm chí đến cả nghệ thuật, nhưng thật ra thì đó chỉ là một thứ quan tâm đáng buồn và đáng hổ thẹn mà thôi. Mặc dù họ tàng trữ hàng ngàn đầu sách trong các thư viện của Wolfsegg, ít gì cũng đến năm cái, và số sách này, hàng năm ba hay bốn lần, đều đặn một cách quái đản, được lau chùi bụi bặm sạch bong, nhưng chính họ thì chẳng bao giờ đọc đến số sách đó. Họ luôn giữ gìn các thư viện ấy sạch sẽ như lau như ly, để họ có thể, không chút ngượng ngùng, phô trương, hãnh diện khoe khoang cái kho báu chữ in với khách khứa đến thăm, nhưng bản thân họ chẳng bao giờ đụng đến kho báu gồm hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn cuốn sách ấy. Năm thư viện ở Wolfsegg, bốn nằm trong tòa nhà chính, một trong khu nhà phụ, vốn được các cụ kị tôi dựng nên, chứ bố mẹ tôi chẳng mua thêm lấy mệt quyển nào xếp thêm vào đó. Người ta bảo toàn bộ các thư viện nhà tôi cũng quý giá ngang thư viện nhà thờ Lambach, vốn là thư viện nổi danh toàn thế giới. Bố tôi không đọc sách bao giờ, mẹ tôi thỉnh thoảng lắm, cốt cho vui, mới lật lật mấy quyển sách cũ về khoa học tự nhiên, ngắm nghía tranh ảnh màu sặc sỡ vốn in nhằm mục đích trang trí. Hai con em gái tôi không vào thư viện bao giờ, trừ những lúc chúng phải dẫn khách khứa vào thăm thú theo lời thỉnh cầu của họ mà thôi. Bố mẹ tôi, trên tấm ảnh tôi chụp ở ga Victoria, đang ở độ tuổi còn đủ sức rong ruổi đó đây chứ chưa bị bệnh tật hành hạ. Cả hai vị khoác áo mưa vừa mua ở hiệu Burberry và trên tay khoác mỗi vị một chiếc ô mới, cũng vừa mua ở hiệu Burberry đó. Y hệt như lũ dân lục địa tiêu biểu, hai vị muốn tỏ vẻ Anh quốc hơn cả người Anh và do đó, gây một ấn tượng lố bịch và kỳ khôi, chẳng còn chút tính tế và sang trọng nào cả, khiến tôi trước đây, mỗi khi nhìn bức ảnh này đều phải bật cười. Song, bây giờ không còn cười được nữa. Cổ mẹ tôi hơi dài, vốn không thể cho là đẹp được, và đúng giây khắc tôi nháy chụp - vì đúng lúc bà đang bước lên tàu - bà lại ngỏng cổ lên vài centimét dài hơn so với mọi ngày, khiến mức độ lố bịch của bức ảnh phải tăng lên gấp đôi. Tư thế của bố tôi lại luôn luôn là tư thế một người không thể che đậy sự xấu hổ lương tâm của mình trước thiên hạ và vì thế mà trở nên bất hạnh. Hồi ấy, lúc tôi chụp bức ảnh này, bố tôi đội chiếc mũ kéo sụp xuống trán, sâu hơn so với mọi khi, khiến trông ông trong ảnh có vẻ vụng về lúng túng hơn ngoài đời thực. Tôi không biết vì sao tôi giữ lại đúng bức ảnh này của bố mẹ tôi. Tôi nghĩ bụng, rồi lúc nào đó sẽ tìm hiểu xem nguyên cớ là gì. Tôi đặt bức ảnh lên bàn giấy rồi lục tìm bức ảnh khoảng hai năm về trước, chụp gã anh tôi bên hồ Wolfgangsee, trên chiếc thuyền buồm mà suốt năm gã vẫn để nằm yên tại Sankt Wolfgang trong túp lều thuê của Furstenberg. Người đàn ông trong ảnh là một người mang đầy vẻ cay đắng, bị cuộc sống đơn độc bên bố mẹ hủy hoại. Bộ quần áo thể thao khó nhọc lắm mới che đậy được các thứ bệnh tật đang hoành hành trong người gã. Nụ cười, như thiên hạ thường vẫn nói, méo mó, khổ sở và bức ảnh chỉ có thể do em trai gã, tức là tôi vậy, chụp mà thôi. Lúc tôi đưa một tấm cho gã, gã đã chẳng nói chẳng rằng xé vụn nó ra ngay. Tôi đặt bức ảnh chụp gã anh trai bên cạnh tấm chụp bố mẹ tôi lên tàu hỏa ở London đi Dover, rồi ngắm nghía hai tấm ảnh khá lâu. Anh đã yêu thương những con người này lâu như họ từng yêu thương anh vậy, rồi chính từ giây phút họ căm ghét anh trở đi, anh cũng bắt đầu căm ghét họ. Dĩ nhiên, tôi chưa bao giờ nghĩ, tôi sẽ sống lâu hơn họ mà ngược lại, tôi đã luôn luôn nghĩ, một ngày nào đó, tôi sẽ là kẻ ra đi đầu tiên về cõi bên kia. Tình huống đang xảy ra đây là tình huống tôi không bao giờ tính đến; mọi tình huống có khả năng xảy ra khác tôi đều đã suy đi tính lại mãi, duy tình huống này lại không. Tôi đã thường hình dung và cũng thường nằm mơ mình sẽ chết, sẽ để họ lại một mình trên đời, không có tôi, thông qua cái chết của tôi để giải phóng cho họ, chứ chẳng bao giờ tôi hình dung hay mơ tưởng bị họ bỏ lại thế này. Sự thật là giờ họ đã chết, chứ không phải tôi chết, bỗng nhiên, trong chớp mắt, không những đã trở thành một sự kiện không thể tiên liệu trước, dù chỉ là trong trí tưởng tượng, mà còn trở thành sự thật gây xúc động mạnh mẽ. Sự thật gây ra nỗi xúc động ấy, vâng, cơ sở gốc gác của nỗi xúc động ấy, mới chính là nguyên nhân làm tôi bị sốc, chứ nói của đáng tội, không phải là cái sự thật rằng nay họ đã chết, một cái chết không thể nào lật ngược lại nữa ấy. Bố mẹ tôi, đôi vợ chồng cho dù bao giờ cũng thảm bại trong mọi chuyện, nhưng đối với tôi là một cặp vợ chồng ma quỷ độc ác ấy, giờ đây, sau có mỗi một đêm, bỗng chốc teo tóp lại, nằm gọn lỏn, trong tấm ảnh kỳ khôi lố bịch tôi đang bày trên bàn làm việc rồi chăm chú xem xét, soi mói một cách trơ trẽn đây. Tấm ảnh gã anh trai tôi cũng vậy. Suốt đời anh từng run sợ trước những con người này hơn trước bất kỳ ai khác, tôi nghĩ bụng, và anh đã biến nỗi sợ hãi ấy thành điều quái dị lớn nhất trong đời, tôi tự nhủ. Mặc dù đã luôn luôn tìm mọi cách, nhưng suốt đời anh, anh đã không làm sao lánh mặt nổi những con người này, mọi nỗ lực nhằm lẩn tránh của anh trước sau đều thất bại, chuồn sang Wien, trốn sang London, rồi sang Paris, sang Ankara, sang Konstantinopel, và rốt cuộc đến thành Rome, đến đâu cũng đều vô ích cả. Họ phải chết bất đắc kỳ tử, vì bị tai nạn, và teo co lại trên mẩu giấy được gọi khác đi là tấm ảnh này, họ mới hết đường hãm hại anh. Nỗi ám ảnh bị truy lùng thế là tiêu tan, tôi thầm nghĩ. Họ chết cả rồi. Anh được tự do. Lần đầu tiên tôi cảm thấy thương hại ông anh tôi, khi liếc nhìn tấm ảnh gã ở Sankt Wolfgang trên chiếc thuyền buồm nọ. Lúc này trông gã trong ảnh còn nực cười hơn nhiều so với lần tôi giở ảnh ra xem trước đây. Sự tàn nhẫn, không chút động lòng, khi xem xét bức ảnh, khiến tôi thấy hoảng sợ. Cả bố mẹ tôi, trong bức ảnh chụp ở ga Victoria, trông cũng thật nực cười. Lúc này, nằm trước mặt tôi trên mặt bàn giấy đây, cả ba đều chỉ cao chừng mười centimét, quần áo đều tân thời, tư thế người ngợm đều kỳ cục, cho thấy một trạng thái tình thần cũng kỳ cục không kém, và trông đều lố bịch hơn những lần tôi nhìn thấy trước đây. Ảnh chụp bao giờ cũng chỉ ghi lại cái khoảnh khắc buồn cười và lố bịch mà thôi, tôi nghĩ bụng, chứ không ghi xem con người ấy suốt cả quãng đời đã ra sao, ảnh chụp là một thứ giả mạo tai ác, quỷ quyệt, bức ảnh nào cũng vậy, bất kể do ai chụp, bất kể chụp ai, đều là sự xúc phạm nhân phẩm con người ở mức tuyệt đỉnh, một sự giả mạo, bóp méo thiên nhiên cực kỳ tàn ác, một sự vô nhân đạo đểu cáng. Mặt khác, tôi lại thấy hai bức ảnh đặc trưng một cách tàn nhẫn cho cả ba người được chụp trong đó, cả cho bố mẹ tôi lẫn gã anh tôi. Đây chính là họ, tôi nghĩ bụng, đúng thực sự như họ ở đời, đây vốn là họ, đúng như họ đã từng thực sự ra sao ở đời. Lẽ ra tôi cũng có thể lấy vài bức ảnh khác chụp bố mẹ và ông anh trai tôi ở Wolfsegg đem theo, nhưng tôi lại mang theo và gìn giữ đúng hai bức này, bởi vì xét ở thời khắc tôi chụp, hai bức ảnh này đã ghi lại hình ảnh bố mẹ và ông anh tôi đúng không sai một tẹo nào, cho thấy bố mẹ vốn thực sự thế nào, ông anh tôi từng thực sự ra sao. Tôi không hề ngượng ngùng chút nào khi nhận ra điều đó. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tôi đã không hủy, ngược lại còn mang đúng hai bức ảnh này về Rome, cất kĩ vào ngăn kéo. Ở đây tôi không có hình ảnh bố mẹ được lý tưởng hóa, tôi tự nhủ, ở đây bố mẹ tôi đúng như là bố mẹ tôi thật, à, tôi xin chữa lại, từng đúng như là bố mẹ tôi hôm xưa thật. Ở đây tôi có ông anh đúng như ông anh tôi hồi xưa. Cả ba vốn đều rụt rè, đều độc địa, đều lố bịch như nhau. Nói của đáng tội, dĩ nhiên tôi đã chẳng chịu gìn giữ bức tranh giả tạo nào về bố mẹ và ông anh tôi trong ngăn kéo. Chỉ những bức ảnh nào thật nhất, trung thực nhất. Chỉ bức nào tuyệt đối xác thực, và càng kỳ cục, thậm chí càng đáng ghê tởm thì càng xác thực. Có lần, khoảng một năm về trước, tôi còn nhớ ở đâu nữa kia, tức là trong quán cà phê ở Piazza del Popolo, tôi cho Gambetti xem chính những bức ảnh chụp bố mẹ và ông anh tôi này. Anh ta ngắm nghía mấy bức ảnh nhưng không bình luận lấy một lời. Tôi chỉ nhớ, xem xong mấy bức ảnh, anh ta hỏi tôi: Bố mẹ anh chắc rất giàu có, phải không? Tôi đáp: phải. Tôi còn nhớ, sau đó tôi rất ngượng vì đã cho anh ta xem ảnh. Lẽ ra mình không nên cho anh ta xem đúng những bức này, tôi đã nghĩ thế. Rõ ngu xuẩn. Đã có và vẫn còn có vô số ảnh chụp bố mẹ tôi, thấy bảo vậy, thật sự nghiêm túc, nhưng đó là những bức ảnh không đúng với hình ảnh tôi mang trong tôi suốt đời tôi về ông bà. Ảnh chụp gã anh tôi cũng nhiều bức nghiêm túc giống vậy, nhưng hễ nghiêm túc thì giả tạo. Lẽ ra, tôi đã chẳng bao giờ cho Gambetti xem một bức ảnh giả tạo nào như thế. Cũng cần nói thêm, trên đời này có lẽ tôi không căm ghét gì hơn trò khoe ảnh. Tôi chẳng khoe, mà cũng chẳng xem ảnh ai khoe bao giờ. Việc tôi cho Gambetti xem bức ảnh chụp bố mẹ tôi trên sân ga Victoria là một ngoại lệ. Tôi làm vậy nhằm mục đích gì nhỉ? Về phần Gambetti, anh ta chưa bao giờ cho tôi xem ảnh. Dĩ nhiên, tôi quen bố mẹ và anh chị em anh ta, cho nên nếu đưa tôi ẳ xem ảnh họ thì đúng là không có ý nghĩa gì cả và anh ta chắc cũng chẳng bao giờ có ý định như thế. Nói cho cùng, thì tôi ghét các loại ảnh iếc và tự tôi chẳng bao giờ tôi có ý định chụp chiếu gì, trừ mấy tấm chụp ở London, ở Sankt Wolfgang, ở Cannes ấy. Cả đời tôi, tôi chưa từng có máy ảnh bao giờ. Tôi khinh bỉ những ai chụp ảnh liên hồi và lúc nào cũng quàng máy ảnh qua cổ chạy lăng xăng. Lúc nào họ cũng ngó quanh ngó quất tìm cảnh này vật nọ hay người đứng chỗ này, người ngồi chỗ kia để chụp, để ghi hình, ghi chụp thậm chí cả những thứ vô nghĩa lý nhất. Trong đầu họ, họ không nghĩ đến việc gì khác ngoài việc tìm cách lấy dáng cho chính họ, theo những kiểu đáng ghét nhất, nhưng tự họ, họ lại chẳng thấy làm sao. Họ ghi lại một thế giới bị méo mó đến mức quái đản trên các bức ảnh của họ, một thế giới không còn gì là chung với thế giới thật ngoài sự méo mó đến quái dị mà họ phải chịu tội. Chụp ảnh là một thứ nghiện ngập chung mà dần dần toàn nhân loại đã nhiễm phải, bởi vì nhân loại không những đã phải lòng cả sự méo mó lẫn sự quái dị đó, mà còn bị mê muội vì nó và theo thời gian, do không ngừng chụp ảnh, nhầm tưởng thế giới méo mó và quái dị trong ảnh là thế giới duy nhất thực. Như thế, những kẻ nhiếp ảnh đã phạm một trong những tội ác độc địa nhất mà con người có thể phạm phải, vì họ thông qua các bức ảnh, đã biến thiên nhiên thành thứ gì lố bịch kỳ quái nhất. Trong các bức ảnh của họ, con người biến thành mấy con búp bê lố bịch, xa lạ, méo mó đến mức không còn nhận ra nữa, những con búp bê sững sờ trố mắt nhìn thẳng vào ống kính máy chụp nhẫn tâm, câm lặng, đáng tởm. Nhiếp ảnh là niềm ham mê hèn hạ cuốn hút con người ta ở mọi châu lục, mọi tầng lớp xã hội, là một thứ bệnh tật lan tràn khắp thiên hạ và nhân loại sẽ không bao giờ thoát khỏi căn bệnh ấy nữa. Kẻ phát minh ra nghệ thuật nhiếp ảnh chính là kẻ phát minh ra thứ nghệ thuật phản nhân sinh nhất. Chính tại hắn mà hôm nay chúng ta có sự biến dạng hoàn toàn của thiên nhiên cũng như của con người sống trong đó, khiến cả thiên nhiên lẫn con người đều mang vẻ mặt cau có đến quái dị. Tôi chưa từng thấy trên ảnh một người thật tự nhiên, cũng có nghĩa là một con người đúng là người, cũng như tôi chưa bao giờ thấy một phong cảnh thiên nhiên thật sự thiên nhiên trong ảnh. Nhiếp ảnh là tai họa lớn nhất của thế kỷ hai mươi. Tôi luôn cảm thấy tởm lợm khi nhìn các bức ảnh hơn khi nhìn bất cứ thứ gì khác. Song, giờ đây tôi tự nhủ, dù hình ảnh bố mẹ tôi và ông anh tôi trên các bức ảnh duy nhất do tôi chụp bằng chiếc máy ảnh của anh tôi có bị méo mó đến thế nào đi nữa thì, càng nhìn lâu tôi càng nhận rõ sự thật và tính chất xác thực đằng sau sự quái dị và méo mó của những người trong ảnh, bởi vì tôi không quan tâm đến mấy bức ảnh và tôi không nhìn người trong ảnh đúng như lăng kính méo mó đã ghi lại họ ở trạng thái méo mó độc địa và quái đản đó ra sao, mà đúng như là tôi nhìn thấy họ ra sao. Bố mẹ trên sân ga Victoria ở London, tôi đã viết như thế ở mặt sau tấm ảnh. Còn ở mặt sau của tấm thứ hai chụp ông anh tôi ở Sankt Wolfgang, tôi ghi Ông anh đi thuyền buồm tại Sankt Wolfgang. Tôi mở ngăn kéo và lôi một tấm ảnh nữa ra, chụp hai con em gái tôi, Amalia và Caecilia, đứng tạo dáng trước căn biệt thự của chú Georg ở Cannes, em trai bố tôi, căn nhà chú mua bằng tiền ông anh chú, sau khi ông bà tôi qua đời, đã trả trọn cho chú thành một gói và chú đã khôn khéo rải ra, góp mua cổ phần làm ăn tại nhiều nơi trên khắp nước Pháp, khiến chú không những có thể luôn tận hưởng một cuộc sống sung túc thoải mái mà còn dư dả để sống xa hoa theo ý thích. Lúc này, nhìn tấm ảnh chụp các em gái tôi với hai bộ mặt ít nhiều mang vẻ nhạo báng giễu cợt kia, tôi nghĩ bụng, chú đã chọn được lá số may mắn hơn nhiều so với ông anh chú ấy, tức là bố tôi. Cách đây bốn năm chú Georg cũng qua đời đột ngột như ông anh chú, tức là bố tôi, chỉ có điều chú ấy mất do một cơn đau tim bất ngờ ập đến, đúng lúc chú đang chăm sóc chỗ hoa hồng trồng trong khu vườn của biệt thự, một thú đam mê vốn đã trở thành duy nhất vào những năm cuối đời của chú. Mới ba mươi lăm tuổi chú đã rời bỏ Wolfsegg rút về Riviera, mang theo một đống bộn tiền bạc và sách vở. Chú mê cả văn học Pháp lẫn biển cả và hoàn toàn chìm đắm trong hai niềm say mê đó. Tôi thường vẫn nghĩ, tôi thừa hưởng khá nhiều thứ của chú Georg, hay nói gì thì nói, cũng nhiều hơn các thứ tôi thừa hưởng của bố tôi. Suốt đời tôi, tôi cũng mê văn học, cũng ham sách ham vở, cũng say sưa biển cả. Tôi cũng rời bỏ Wolfsegg, thậm chí từ lúc còn trẻ hơn cả chú ấy. Tôi ghi dòng chữ các em gái tôi Amalia và Caecilia trước biệt thự chú Georg lên mặt sau tấm ảnh. Tôi đến Cannes lần cuối năm một ngàn chín trăm bảy tám. Tôi đến thăm chú Georg ít nhất mỗi năm một lần. Ở với chú vài ngày trong biệt thự của chú bao giờ cũng làm tôi sảng khoái. Trước sự căm tức tột độ của gia đình tôi, chú đã chỉ định ông quản gia của chú, một người luôn trung thành phụng sự chú, người lúc nào chú cũng gọi là Jean tốt bụng của tôi một cách thân thương ấy, làm người thừa kế duy nhất. Chú Georg tôi từng nhiều lần ở Rome, một thành phố mà chú ấy, giống hệt tôi, yêu nhất, quý nhất, trong tất cả các thành phố trên đời này. Gambetti và chú Georg thân thiện với nhau ngay, nhiều buổi tối họ từng ngồi chuyện trò ngoài trời ở Piazza del Popolo, hoặc giả nếu trời có mưa, thì trong quán cà phê Greco, về mọi thứ chuyện trên đời, song nhiều nhất vẫn là chuyện về nghệ thuật, về hội họa. Chú Georg tôi là người đam mê sưu tầm nghệ thuật và như tôi biết, phần lớn lợi tức từ đống tài sản của chú, chú bỏ cả ra mua tranh tượng của các nghệ nhân đương thời. Bởi chú có khiếu thẩm mỹ và đặc biệt bén nhạy khi đánh hơi giá trị các tác phẩm chú ưa chuộng, cho nên, nhờ cái thú sưu tầm say sưa ấy mà không bao lâu chú đã gom vào khối tài sản sẵn có thêm một khoản đáng kể, tính phải đến bạc triệu chứ chẳng ít. Các nghệ sĩ vô danh được chú bảo trợ đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng, sau khi ít nhiều có thể xem là được chú phát hiện và khiến công chúng chú ý bằng cách mua rồi giới thiệu rộng rãi các tác phẩm của họ. Chú Georg tôi không ưa lối làm ăn nguyên thủy của gia đình tôi chút nào, hay nói cho cùng, chú căm ghét việc thiên nhiên bị bóc lột năm này qua năm khác ở nông thôn và chú cũng khinh bỉ cái truyền thống hàng trăm năm của Wolfsegg, dù đấy là truyền thống sản xuất nào thịt với mỡ, nào da với bì, nào gỗ với than, hay truyền thống săn bắn, là thứ chú căm ghét thậm tệ, nhưng lại là thứ làm ông anh chú, tức là bố tôi, và thằng cháu chú, ấy là ông anh tôi, say đắm nhất trong số những niềm đam mê có thể có. Săn bắn là thứ đam mê chú căm ghét thậm tệ nhất trong số các niềm đam mê đáng ghét nhất. Trong khi cả bố mẹ chú, tức ông bà tôi, lẫn bố tôi, tức ông anh chú, đều mê mẩn với săn với bắn thì chú Georg tôi bao giờ cũng khước từ việc nhập cuộc với họ. Chú cũng như tôi, không ăn thịt thú rừng và trong khi cả nhà kéo nhau đi săn, lại chui vào một thư viện nào đó, vùi đầu đọc sách để quên cơn điên đi săn của cả nhà, trong khi bọn họ giương súng hạ một hươu nào đó thì ta lại ngồi thư viện, sau mấy tấm cửa sổ đóng kín, để khỏi phải nghe tiếng súng, chú vẫn bảo thế, và đọc Dostoyevsky. Cũng như tôi, chú Georg yêu văn học Nga, mà trước hết là Dostoyevsky và Lermontov; chú cũng thường nói nhiều điều thật thông thái về hai văn sĩ Nga này, đồng thời chú cũng tìm hiểu cặn kẽ và đọc đi đọc lại hai nhà cách mạng Kropotkin và Bakunin, là hai người xét theo cái gọi là văn chương hồi ký, được chú đánh giá là hay nhất trong thể loại đó, và chú chính là người, với tư cách một chuyên gia dày dạn về văn học Nga, một người thông thạo tiếng Nga như thông thạo tiếng Pháp, đã dẫn dắt tôi đến với nền văn học đó, và cũng chính chú là người tôi mang ơn vì chú đã trao cho tôi tình yêu đối với văn học Nga và về sau, với văn học Pháp. Cũng như, phải nhờ ơn chú tôi mà tôi mới có được một mảng lớn trong vốn liếng tinh thần. Chính chú Georg, từ rất sớm, đã mở mắt cho tôi nhìn ra thế giới, cho tôi thấy ngoài Wolfsegg, ngoài nước Áo ra, còn cái gì đó khác nữa, cái gì đó tuyệt vời hơn nhiều, cái gì đó dữ dội hơn nhiều, và thế giới, không như người ta vẫn tưởng, không chỉ do một gia đình duy nhất, mà do hàng triệu gia đình tạo nên, không phải chỉ bao gồm một chốn duy nhất, mà bao gồm triệu triệu nơi chốn như thế, và cũng không chỉ do một dân tộc duy nhất, mà do hàng trăm, hàng ngàn dân tộc hợp thành, không phải từ một nước duy nhất, mà từ hàng trăm, có khi hàng ngàn nước hợp lại mà nên, trong đó nước nào cũng đẹp nhất, cũng quan trọng nhất. Toàn thể nhân loại là một tập hợp vô cùng tận của tất tật những cái đẹp và các tiềm năng, chú Georg vẫn bảo thế. Chỉ kẻ nào ngu si đần độn nhất mới tưởng thế giới sẽ phải tận cùng ở nơi hắn tận số. Song, chú Georg không những đã dẫn dắt tôi vào thế giới văn chương và mở nó ra trước mắt tôi như một thiên đường bất tận, chú còn dẫn tôi vào thế giới của âm nhạc, cũng như mở mắt cho tôi chiêm ngưỡng mọi môn nghệ thuật khác. Khi nào ta có được một quan niệm nghiêm túc về nghệ thuật, thì lúc ấy ta mới có một quan niệm nghiêm túc về thiên nhiên. Chỉ khi nào ta có thể vận dụng và thưởng thức nghệ thuật, ta mới có thể vận dụng và thưởng thức thiên nhiên đúng đắn được. Đa phần con người ta không bao giờ có được một quan niệm về nghệ thuật, dù chỉ là sơ đẳng nhất mà thôi, và do đó không bao giờ có thể nhận thức được thiên nhiên. Một nhãn quan lý tưởng về thiên nhiên đòi hỏi một quan niệm lý tưởng về nghệ thuật làm điều kiện tiên quyết, chú Georg vẫn nói vậy. Những ai khoe khoang họ hiểu rõ thiên nhiên, nhưng lại không hề có một khái niệm nào về nghệ thuật, thì họ sẽ chỉ hiểu thiên nhiên một cách hời hợt, chứ không bao giờ hiểu theo mệt cách đầy đủ lý tưởng, cũng có nghĩa là họ không thể hiểu được sự cao quý vô tận của thiên nhiên. Một kẻ có đầu óc bao giờ cũng có thể, trước hết, dựa vào thiên nhiên để có được quan niệm hoàn hảo về nghệ thuật, rồi từ khái niệm nghệ thuật ấy, trở lại có nhãn quan hoàn thiện lý tưởng về tự nhiên. Trong các chuyến đi thăm Ý với nhau, chú Georg chẳng bao giờ lôi tôi hùng hục chạy, như bố tôi, từ cột trụ cổ này đến cột trụ cổ nọ, từ tượng đài này đến tượng đài kia, từ nhà thờ này đến nhà thờ khác, từ công trình Michelangelo ở chỗ này để công trình Michelangelo ở chỗ khác. Chú chẳng đưa tôi đến thăm bất kỳ công trình nghệ thuật nào. Chính vì thế mà các hiểu biết của tôi về nghệ thuật đều nhờ chú mà có, bởi chú không lôi kéo tôi phải thăm tác phẩm nổi tiếng này, phải ngắm kiệt tác kia; chú cứ để tôi yên, chỉ lưu ý tôi nên thưởng thức những công trình, tác phẩm nào, chúng được trưng bày ở đâu, chứ không như bố mẹ tôi, lúc nào cũng nhăm nhăm dúi đầu tôi về phía một cột trụ, hay một bức tường La Mã, hoặc Hy Lạp nào đấy. Chính cái trò người nhà tôi, trừ chú Georg ra, ngay từ thời tôi còn rất bé, lúc nào cũng dúi đầu tôi theo một lối hết sức cẩu thả và võ đoán về phía các công trình thời cổ đại như thế, đã làm đầu óc tôi chẳng mấy chốc thành ra hoàn toàn vô cảm với mọi thứ nghệ thuật ở đời; cái lối ấy không những không đưa tôi đến gần với nghệ thuật, mà lại làm tôi ghê tởm nó. Tôi phải mất nhiều năm tháng để sắp xếp lại hàng trăm hàng nghìn công trình nghệ thuật họ đã nhét theo một lối dốt nát như thế vào đầu tôi. Giá như tôi, ngay từ hồi còn bé, tức là từ dạo bố mẹ tôi không chút nương tay, không chút chọn lựa, nhồi nhét ứ ự vào đầu tôi trăm thứ bà giằn ấy, đã sớm được chịu ảnh hưởng của chú Georg thì, tôi nghĩ bụng, chắc chắn đó sẽ là mối lợi thật lớn cho đời tôi rồi. Song, nói cho gọn, tôi phải bị bố mẹ hủy hoại gần như hoàn toàn đi đã, đợi mãi đến khi quá hai mươi tuổi, khi dường như đã tiệt đường cứu chữa rồi, tôi mới được chú Georg ra tay chữa chạy. Một cách có suy nghĩ, có cân nhắc, và hết sức thận trọng. Khi tôi rốt cuộc hiểu được ra, chú Georg tôi đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với tôi, với quá trình lớn lên và sự trưởng thành của tôi sau này, thì hầu như đã quá muộn để bắt đầu điều tộ. Tuy nhiên, nói cho cùng, chính nhờ vào ý chí mạnh mẽ của tôi muốn thoát bằng được khỏi tai họa Wolfsegg, tức là mối tai họa bố mẹ tôi đã gieo vào người tôi ấy, cũng như may có thêm sự sáng suốt của chú Georg nữa, nên tôi mới được cứu vớt. Để khi trưởng thành, thay vì bị buộc phải sống như mọi người trong gia tộc, trừ chú Georg, tôi lại sống - giống như chú Georg tôi - theo một lối hoàn toàn đối nghịch với bọn họ. Cả đời họ, họ căm ghét chú Georg tôi, và, vào ẳ những thập niên cuối đời, cũng chẳng buồn che đậy lòng căm ghét ấy nữa; dần dần họ đối xử với chú y hệt như đối xử với tôi, nghĩ về chú y hệt như nghĩ về tôi, lừa dối chú y hệt như lừa dối tôi. Song, họ nghĩ gì về chú, đối xử với chú thế nào, chú cũng mặc kệ. Để đến một hôm, sau khi thu xếp xong xuôi chuyện tiền nong, chú lên tàu làm một mạch đến Nice. Đến đấy, chú lăn ra ngủ một trận mấy tuần liền, rồi, như chú vẫn nói, hoàn toàn tươi tỉnh, chú mới bắt đầu đi loanh quanh tìm chỗ cắm dùi. Chỗ nào sát biển, có vườn rộng, không khí trong lành tươi mát, nhưng phải thuận đường đi lại. Ở Wolfsegg, bọn họ đã phải cay đắng biết chừng nào khi nhận được các bưu ảnh đầu tiên chú gửi về. Dưới mắt họ, chắc chú giờ đang nằm ườn sưởi nắng hay đang đóng bộ âu phục bằng vải lanh, tất nhiên, được may đo, cắt thửa đúng dáng đúng kiểu từ các tay thợ Paris, nhởn nhơ đi dạo bờ biển. Và, trong các giấc mơ, mà thực ra chỉ là các cơn ác mộng, bọn họ sẽ chỉ thấy chú - một người mà suốt đời bọn họ vẫn gọi là thằng ranh vô dụng ấy - ra ra vào vào các nhà băng lộng lẫy tại khu Riviera sang trọng để nhận khoản tiền lời thu được từ đống tài sản mỗi ngày một tự phình ra của chú. Bọn họ đần độn, ngu si đến mức không thể hình dung nổi rằng, ngoài lối sống của họ, còn một đời sống tinh thần trí thức nữa. Chú Georg đã sống cuộc sống tình thần ấy; hàng trăm cuốn sổ ghi chép đầy kín chú để lại đã cho thấy rõ điều đó. Ngay từ hồi chú còn rất trẻ, sự ngu xuẩn tăm tối của dân chúng vùng Trung Âu, những kẻ, như thiên hạ vẫn nói, sống để làm lụng, thay vì làm lụng để sống ấy, mặc dù họ hoàn toàn dửng dưng, chẳng thèm để tâm xem cái việc họ làm có nghĩa lý gì, đã làm chú Georg không chịu được, buộc chú phải tìm cách thoát đi chỗ khác. Chú không thể sống yên một chỗ. Chú vẫn nói, con người ta phải để gió mới thốc vào đầu, có nghĩa là, hằng ngày phải luôn luôn tiếp nhận thế giới vào đầu mình. Ở Wolfsegg, bọn họ không bao giờ đón nhận luồng gió mới nào vào đầu, thì cũng chẳng bao giờ đón nhận được thế giới. Sinh ra đã cứng nhắc và vô hồn, bọn họ ngồi cứng nhắc và vô hồn trên đống tài sản được thừa kế, và trong đời họ, họ không còn mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu làm sao ôm thật chặt đống tài sản thừa kế kếch sù ấy, khiến nó mỗi ngày một kiên cố, chứ không rã ra. Dần dần, tất cả bọn họ, ai cũng nhiễm cái cứng nhắc, cái bất di bất dịch lẫn cái rắn chắc tuyệt đối của đống tài sản ấy mà không biết. Bọn họ hòa tan mãi mãi cùng đống tài sản đó thành một khối hữu cơ đáng sợ và kinh tởm, mà bọn họ không hay. Nhưng chú Georg tôi thì đã sớm nhận ra điều đó. Chú không muốn dính dáng gì tới đống tài sản ấy. Chú chỉ chờ một thời cơ, có lẽ là một khoảnh khắc thích hợp nào đấy, để dứt mình ra khỏi đống tài sản ở Wolfsegg. Bọn họ, theo tôi biết, khuyên chú đừng tách khoản chú được thừa kế ra khỏi Wolfsegg, thay vào đó chú chỉ nên bằng lòng nhận một khoản lương hưu đảm bảo đến cuối đời. Đầu óc tỉnh táo của chú đã giúp chú không mắc vào sai lầm ngu ngốc ấy. Đối với người thân trong gia đình, những kẻ như trong gia đình tôi, nếu cần, chính lại là những kẻ nhẫn tâm bậc nhất. Họ không chùn tay trước bất kỳ thủ đoạn đê tiện nào. Khoác bên ngoài tấm áo choàng của Cơ đốc giáo, của lòng cao thượng và tương thân tương ái xã hội, nhưng bên trong, bọn họ chỉ là một lũ tham lam không hơn không kém, và, như người ta vẫn bảo, sẵn sàng đạp lên xác chết mà đi. Chú Georg, ngay từ đầu, đã không khớp với các mưu toan của họ. Đúng ra thì bọn họ sợ chú, vì chú nhìn thấu ruột thấu gan họ từ rất sớm. Hồi còn bé chú đã bắt quả tang bọn họ trong nhiều trò bẩn thỉu và, chẳng hề sợ hãi, chỉ rõ cho bọn họ thấy cái đáng ghê tởm của những trò như thế và bao giờ cũng mạnh dạn lên án những trò bẩn thỉu đó. Người ta vẫn bảo, có lẽ, vì thế mà chú từng là đứa trẻ đáng sợ nhất ở đất Wolfsegg, vốn sáng suốt ngay từ đầu, chú đã sớm bị đồn thổi là thích làm người nhà bẽ mặt. Khi mới chỉ là đứa bé con, chú đã rình để bắt quả tang bọn họ làm những trò hạ đẳng nhất. Tôi nghe người ta bảo, ở Wolfsegg chẳng có đứa trẻ nào hỏi vặn hỏi vẹo nhiều như chú, không đứa nào nằng nặc đòi trả lời cho bằng được như chú. Người trong nhà rất hay đe tôi, rằng về sau tôi sẽ như chú Georg. Cứ như thể họ đang nhắc đến một người đáng sợ nhất trên đời, lúc nào họ cũng có thể dằn mặt tôi bằng câu: rồi mày sẽ như chú Georg mày cho mà xem. Nhưng nào có ích gì khi họ lấy chú Georg ra dọa tôi; bởi ngay từ đầu, ở Wolfsegg tôi chẳng yêu quý ai bằng chú Georg. Chú Georg mày là con quái vật! - bọn họ hay nói vậy! Chú Georg mày là thằng ăn bám! Chú Georg mày là mối nhục của chúng tao! Chú Georg mày là thằng tội phạm! Bọn họ luôn luôn có sẵn một lô một lốc những danh hiệu kinh khủng như thế để úp lên đầu chú Georg, nhưng chúng chẳng tác động được đến tôi như họ mong muốn. Cứ vài năm chú lại ở Cannes về thăm chúng tôi vài ngày, đôi khi cũng được vài tuần. Đó là những lúc tôi hạnh phúc nhất đời. Những lúc chú Georg về Wolfsegg là những lúc sung sướng nhất của tôi. Bỗng dưng, ở Wolfsegg có gì đó trở nên khác với mọi ngày. Như có thêm không khí đô thị vậy. Mấy cái thư viện bỗng dưng được thông thoáng, sách vở được chuyển đi chuyển lại, còn các phòng ốc, trước đó vốn chỉ như những hang động tối tăm, lạnh lẽo và im lặng như tờ, bỗng chan hòa tiếng nhạc. Những căn phòng vẫn thường thấy ghê ghê bỗng trở nên thoải mái, ấm cúng lạ thường. Những giọng nói ở Wolfsegg, thường ngày nghe vẫn thấy hoặc thô lỗ, sỗ sàng hoặc bị kìm nén, giờ tự dưng nghe thấy tự nhiên làm sao. Mọi người được phép cười, được phép nói với tông giọng bình thường, chứ không như mọi ngày, chỉ khi nào sai bảo người làm mới được lên giọng. Chú Georg vẫn mắng bố mẹ tôi, tại sao khi có mặt người làm, anh chị cứ phải nói tiếng Pháp với nhau? Thật lố bịch. Nghe chú nói như thế, tôi sướng lắm. Sao trời đẹp thế này mà anh chị không mở cửa sổ ra? Mọi khi, nhất là vào những năm về sau, lúc nào bên bàn ăn vốn chỉ độc chuyện lợn, chuyện bò, chuyện giá thuê xe chở gỗ hoặc mướn nhà kho rẻ hay đắt, bây giờ bỗng dưng nghe thấy những chuyện về Tolstoy, Paris hay New York, chuyện Napoleon, chuyện Alfons Thứ Mười ba hay chuyện Meneghini, Callas, Voltaire, Rousseau, Pascal, Diderot. Chị xem thế nào chứ tôi chẳng nhìn rõ mình đang ăn cái gì nữa, chú nói chẳng chút ngượng ngùng, khiến mẹ tôi phải bật dậy mở mấy cánh cửa chớp ra. Chị mở toang ra đi thì tôi mới thấy món xúp tôi ăn là xúp gì, chú Georg lại bảo mẹ tôi thế. Chú lại hỏi, làm sao anh chị cứ chui nhủi mãi trong cảnh tranh tối tranh sáng thế này chứ? Anh chị cứ như sống trong viện bảo tàng vậy! Mọi thứ trông cứ như cả năm chẳng ai đụng đến. Bộ đồ sứ đẹp thế kia để làm gì nếu anh chị không dùng đến? Còn bộ dao nĩa bạc kia nữa? Tôi một lòng khâm phục chú Georg. Có mặt chú một cái, là nỗi buồn chán cố hữu sẽ tan biến ngay. Bên bàn ăn, chú không bao giờ ngồi thuồn thuỗn cứng đơ như mọi người, chú thường xuyên quay từ người này sang người khác, hỏi han, giảng giải hay khen ngợi chuyện gì đó. Chị nên mặc đồ màu xanh dương, chú nói với mẹ tôi thế, màu xám không hợp với chị. Trông cứ như chị đang để tang, trong khi ông cụ đã mất mười lăm năm rồi còn gì. Anh này, chú nói với bố tôi, sao trông anh cứ như người làm thuê ấy. Nghe vậy tôi phải bật cười. Nếu có món ăn nào được bưng ra - mọi khi quy trình này vẫn diễn ra trong im lặng gần như tuyệt đối - thì nay chú lại nói đùa vui với mấy chị hầu bàn, thường là cảnh tượng mẹ tôi không chịu được. Không để ý đến sự có mặt của mấy chị hầu bàn, chú bảo, chẳng bao lâu nữa đâu, sẽ chẳng còn ai đến làm hầu bàn cho anh chị. Thì anh chị mới hoạt bát lên được. Đang có hơi hướng cách mạng đấy, chú bảo vậy. Tôi đánh hơi thấy sẽ sắp có chuyện gì đó xảy ra, để mọi thứ lại có thêm chút sức sống. Nghe những câu như thế, bố tôi chỉ lắc đầu. Còn mẹ tôi thì cứ nhìn trân trân vào mặt chú, như thể bà chẳng muốn giấu giếm rằng bà không ưa chú đến mức nào. Tại các nước vùng Địa Trung Hải, mọi thứ đều khác hẳn, chú bảo vậy, chứ không giải thích gì thêm. Tôi, hồi bấy giờ khoảng mười bảy, mười tám tuổi gì đó, muốn biết xem cái gì ở những nước vùng Địa Trung Hải kia khác với ở vùng Trung Âu của ta, thì chú bảo, sau này, bao giờ tôi tự mò đến thăm những nơi đó, chú sẽ chỉ cho biết. Chú bảo, cuộc sống vùng Địa Trung Hải đáng sống gấp trăm lần cuộc sống ở đây. Tất nhiên tôi rất khao khát muốn biết xem tại sao. Dân Trung Âu nhà mình không phải người, cứ như búp bê cả một lượt, mọi thứ đều căng thẳng, cứng nhắc, lố lăng đến cực độ, chú Georg bảo vậy, đến đi lại cũng chẳng tự nhiên, ai nấy đều lên gân lên guốc, thành ra lố lăng. Và chịu không nổi. Y hệt tiếng nói của họ, là thứ đáng khó chịu nhất. Chú bảo, tiếng Đức chính là thứ tiếng không thể chịu được nhất. Lúc chú ấy nói đến các nước vùng Địa Trung Hải, tôi rất khoái. Quay lại đây, chú nói, chú bị choáng. Bảo rằng những điều chú nói ra đấy làm người nghe ăn mất hết cả ngon, chú cũng chẳng mảy may lấy làm ngượng nghịu. Ối giời, chú kêu lên, lại còn các món ăn tởm lợm nữa chứ! Ăn uống ở Đức, ở Áo, và ở cả cái vùng gọi là Thụy Sĩ nói tiếng Đức kia nữa, không phải là ăn mà là đớp, là ngốn thì đúng hơn! Khen các món ăn Áo ngon thì thực trắng trợn không hơn không kém. Một vụ cưỡng bức dạ dày và toàn bộ cơ thể con nhà người ta thì đúng hơn. Về đến Cannes, bao giờ tôi cũng phải mất hàng tuần mới gột rửa hết các món ăn Áo khỏi ruột gan, bao tử. Hơn nữa, đất nước gì lại không có lấy chút bờ biển ấy! Chú chỉ thốt lên vậy, không nói gì thêm. Mỗi khi phải uống một ngụm rượu vang, tôi lại thấy chú nhăn nhăn mũi. Nếu tôi để ý không sai, thì đến nước khoáng ở Áo, vốn vẫn được xem là rất tốt, chú cũng chê, nhưng không bình phẩm. Hồi ấy, tôi đã nghĩ, phải về thăm Wolfsegg, chắc chú chán đến cùng cực, bởi vì, ở đấy chẳng bao giờ chú khơi được một buổi chuyện trò hào hứng - là thứ mà chú thích thú nhất. Thỉnh thoảng, nhất là vào những ngày mới ẳ về, chú cũng thử, làm như vô tình, tung ra một cái tên như Goethe chẳng hạn, ra giữa bàn ăn; nhưng bọn họ không có lấy một chút hiểu biết nào để góp chuyện. Ấy là chưa nói đến Voltaire, Pascal, Sartre. Và, bởi không góp được chuyện với chú, họ sinh ra tấm tức, hậm hực; tấm tức, hậm hực dồn tích ngày này qua ngày khác, để đến những ngày trước khi chú về, bao giờ cũng biến thành nỗi căm ghét ra mặt. Họ thường nói gần nói xa là họ phải làm việc nặng nhọc, trong khi chú chỉ ngồi chơi xơi nước, chẳng làm gì, và biến cái sự ngồi chơi xơi nước ấy thành nếp sống hàng ngày, và có vẻ, thành lẽ sống cả đời. Cháu biết không, có lần chú bảo tôi, chú về thăm Wolfsegg, đâu phải để thăm gia đình, mà cốt chỉ thăm lại căn nhà và cảnh vật thời niên thiếu. Rồi ngừng một lát, chú nói tiếp, và cũng là để thăm cháu nữa. Trong di chúc của chú, chú dặn - trái với mong đợi của đám họ hàng - không chôn chú ở Wolfsegg, mà ở Cannes. Chú ước mong được chôn bên bờ biển. Đóng bộ lộng lẫy, song hết sức quê kệch, đám họ hàng hớt hải kéo nhau đến Cannes dự tang lễ chú, lòng chắc mẩm sẽ nhận đống tài sản kếch sù chú để lại. Nào ngờ, như tôi hé lộ lúc đầu, họ phải chứng kiến và mang về nhà - như mẹ tôi cứ đay đi đay lại mãi - nỗi thất vọng lớn nhất trong đời họ. Ông Jean tốt bụng, con của cặp vợ chồng dân chài nghèo khổ ở Marseille, đã nhận thừa kế của chú hơn hai mươi hai triệu Schilling ở dạng cổ phần chứng khoán, cộng thêm các bất động sản khác đáng giá còn gấp đôi như thế. Bộ sưu tập tranh, chú Georg tôi để lại cho các bảo tàng ở Cannes và Nice. Trên tấm mộ chí ông Jean tốt bụng sau này thuê đặt lên mộ chú, phía dưới họ tên, chỉ khắc thêm độc một dòng: người đàn ông đã ra đi đúng lúc, bỏ lại sau mình một bầy man di mọi rợ. Ông Jean đã làm đúng y lời chú Georg dặn. Khoảng một năm trước đây, thấy bảo lúc bố mẹ tôi trên đường sang Tầy Ban Nha tạt vào ghé thăm mộ chú, ông bà đã nổi xung nổi đóa đến mức, bà mẹ tôi sau đó buông lời thề độc, suốt đời không bao giờ ghé thăm mộ chú Georg nữa; bà mẹ tôi cho dòng văn bia kia là nỗi ô nhục kinh khủng nhất đời, và trở lại Wolfsegg lần ấy, thấy bảo bà cứ nhai đi nhai lại mãi những lời độc địa nguyền rủa cái tội tày đình ấy của thằng em chồng, tức là chú Georg của tôi. Tôi đã cùng với chú Georg đi những chuyến dạo chơi xa và thú vị quanh vùng Wolfsegg; tôi với chú đi tới tận Ried ở Innkreis, lần khác lại ngược hướng về Gmunden. Bao giờ chú cũng dành thời gian cho tôi. Chính nhờ chú mà tôi được biết trên đời còn nhiều thứ khác hơn là bò, là bê, là người hầu, cùng những ngày lễ buộc phải nghỉ làm theo luật định. Cũng chính nhờ chú, tôi không những học được cách viết, cách đọc, mà còn thật sự học được cách phải biết suy nghĩ và tưởng tượng ra sao. Cũng nhờ công của chú, cho nên tôi, mặc dù coi trọng tiền bạc, nhưng cũng không hề coi tiền bạc là tối cao, và nhờ chú mà tôi, khác với bố mẹ tôi, không những chỉ biết coi đám nhân quần sống ngoài Wolfsegg là một thứ đối thủ tồi tệ cần phải có ở đời, mà còn biết coi họ như một thách thức, một thách thức mà suốt đời tôi, tôi sẽ phải đối chọi như đối chọi với một con quái vật dữ dội nhất, nhưng cũng làm tôi đắm say. Chú Georg đã đưa tôi vào thế giới bí mật của âm nhạc và văn học, cho tôi làm quen với những nhạc sĩ, nhà thơ bằng da bằng thịt, chứ không phải ở dạng những bức tượng to nhỏ bằng thạch cao, hàng năm phải lau chùi bụi bặm đôi ba lần. Nhờ ơn chú mà tôi biết đọc những cuốn sách dường như đã bị đóng gập lại mãi mãi trong các thư viện gia đình tôi và, từ đó cho đến tận ngày nay, tôi vẫn không ngừng đọc, để rốt cuộc, học được cả cách triết lý ở đời; nhờ ơn chú Georg, tôi không bị cuốn vào guồng cối xay sinh tiền đẻ của ở Wolfsegg, để thật sự trở thành một kẻ có thể xem là tự do. Tôi không chỉ đi những chuyến đi vớ vẩn, gọi là để mở mang đầu óc, mà bố mẹ tôi vẫn đi, và lúc đầu cũng thường kéo tôi theo, chẳng hạn, sang Ý, sang Đức, Hà Lan hay lầy Ban Nha, mà nhờ ơn chú Georg, tôi còn vỡ nhẽ ra nghệ thuật đi du lịch là thứ thú vui tuyệt nhất ở đời mà tôi vẫn gắng hưởng cho đến tận ngày nay. Nhờ chú Georg, tôi được thăm những thành phố không phải các thành phố chết, mà là thành phố sống động, được làm quen không phải các dân tộc chết, mà là các dân tộc sống động, được đọc không phải các nhà văn, nhà thơ chết, mà là những nhà văn, nhà thơ sống, được nghe không phải thứ âm nhạc chết, mà là âm nhạc sống, được ngắm nhìn không phải những bức họa chết, mà là những bức họa sống. Chú, chứ chẳng ai khác, không găm tên tuổi các nhân lịch sử vĩ đại vào mặt phía trong của vỏ não tôi, như găm vài bức tranh nhạt nhẽo ghi lại đôi câu chuyện lịch sử cũng nhạt nhẽo không kém lên tường, mà chú đã biến những nhân vật ấy thành những diễn viên sinh động trên sân khấu sinh động của chính họ. Trong khi ngày này qua ngày khác bố mẹ tôi chỉ vẽ cho tôi độc một thế giới buồn chán, một thế giới trước sau sẽ làm tê liệt đầu óc, và xét cho cùng, chẳng đáng để sống chút nào, thì ngược lại, chú Georg lại mở chính thế giới ấy ra trước mắt tôi thành một thế giới thú vị, và sẽ thú vị mãi mãi. Thành ra, từ khi còn rất bé, bao giờ tôi cũng có hai thế giới để lựa chọn, một thế giới của bố mẹ tôi mà lúc nào tôi cũng thấy buồn tẻ, nặng nề chứ chả có gì hơn, và một thế giới của chú Georg, trong đó dường như chỉ độc các cuộc phiêu lưu phi thường mà thôi, trong đó cuộc sống không bao giờ buồn chán và con người ta sẽ thật sự luôn luôn ham muốn sống mãi, và cũng là lẽ tự nhiên, để mong rằng trong thế giới đó, lòng ham sống đó sẽ chẳng bao giờ nguôi, một điều tự khắc dẫn đến hệ quả là: tôi muốn được sống mãi mãi ở trong thế giới đó, cũng có nghĩa là sống vĩnh viễn. Bố mẹ tôi, nói cho đơn giản, ở đời mọi sự ra sao, đều chấp nhận và cam chịu như thế, còn chú Georg tôi lại chẳng bao giờ chấp nhận hay cam chịu chuyện gì. Bố mẹ tôi từ lúc sinh ra đã chỉ biết cung cúc sống theo các luật lệ do các bậc tiền bối đã vạch sẵn cho hai vị và trong đầu hai vị không bao giờ dám nảy ra ý định tự lập ra các luật lệ mới và sống theo các luật lệ tự mình lập ra ấy; còn chú Georg tôi, chú lại chỉ sống theo các luật lệ riêng, do chính chú lập ra cho mình. Và các luật lệ do chính mình lập ra ấy, lúc nào chú cũng có thể đạp đổ ngay. Hai cụ nhà tôi bao giờ cũng chỉ dám bước trên lối đi được vạch sẵn và không bao giờ, dù chỉ trong một giây khắc ngắn ngủi, dám rời khỏi lối đi đó; còn chú Georg, chú chỉ riêng đường chú, chú đi. Có thể kể thêm ở đây một chuyện, để cho thấy rõ bố mẹ tôi trái ngược với chú Georg đến mức nào: hai ông bà ghét cay ghét đắng cái gọi là sự ngồi không, không làm gì, bởi hai vị không bao giờ có thể hình dung được rằng, một con người có đầu óc tinh thần không hề biết sự ngồi không là gì, cũng như hai vị không đủ trí khôn để hiểu rằng, lúc một người trí tuệ chìm đắm say sưa trong cái sự gọi là ngồi không ấy, chính là lúc đầu óc anh ta đang ở trạng thái căng thẳng và phấn khích cực độ, bởi vì, thật ra, hai vị chẳng biết làm gì khi thật sự ngồi không, bởi vì lúc họ ngồi không, trong đầu họ chẳng hề nảy ra bất kỳ một ý nghĩ nào hết, bởi vì thật ra, nào họ có bao giờ nghĩ ngợi, nói gì đến khả năng ngồi yên cho trí óc vận động. Với một người có đầu óc để tư duy, không thể xảy ra cái gọi là sự ngồi không đó. Nhưng với bố mẹ tôi, sự ngồi không lại chính là ngồi không thật sự, không làm gì thật sự, bởi khi không làm gì cả như thế, trong đầu họ hoàn toàn trống rỗng. Người có đầu óc tư duy thì hoàn toàn ngược lại, khi anh ta tưởng như ngồi không, không làm gì cả, lại là lúc anh ta hoạt động tích cực nhất. Thế nhưng, cả bố mẹ tôi, lẫn đống bà con họ hàng nhà tôi, đều là hạng ngồi không là ngồi không thật sự, thì họ làm sao hiểu nổi điều đó. Song, khổ một nỗi, họ vẫn có một ý niệm mơ hồ về kiểu cách ngồi không của chú Georg, và bởi vì họ mơ hồ như thế, nên họ căm ghét chú. Họ căm ghét chú, bởi họ có linh tính rằng cái sự ngồi không của chú, nó khác họ, thậm chí trái ngược lối ngồi không của bọn họ, nên không những có thể sẽ nguy hiểm, mà sẽ còn mỗi lúc một nguy hiểm hơn cho họ nữa. Đối với những kẻ chỉ hiểu sự ngồi không đúng thực là ngồi không, và thật sự không làm gì cả, vì khi ngồi không, chúng hoàn toàn không nghĩ ngợi gì cả, thì người ngồi không có đầu óc tư duy chính là mối đe dọa và cũng là những người nguy hiểm nhất. Bọn họ căm ghét chú, bởi dĩ nhiên họ không thể coi thường chú được. Thiên hạ vẫn kháo nhau chuyện, dạo mới lên bốn, chú từng một mình cuốc bộ, vượt những chín cây số đường dài đến tận làng Haag, rồi thản nhiên bảo với đám dân làng lạ hoắc ở đấy, rằng chú từ Wolfsegg đến và không có ý định quay lại Wolfsegg nữa. Dân Haag, tất nhiên, đã vô cùng lãnh ngạc, và không biết xử trí ra sao, bèn đưa thằng bé Georg bướng bỉnh quá sức tưởng tượng đó trả về cho bố mẹ ở Wolfsegg. Từ đấy, cả bố mẹ thằng nhỏ lẫn đám gia nhân được cắt cử canh chừng nó, hầu như lúc nào cũng phải xích nó lại, chả khác xích chó con là mấy, để nó khỏi chuồn mất. Ngay từ thuở ấu thơ, chú đã khăng khăng một mực, chú sẽ lưu lại Wolfsegg đủ mức cần thiết rồi thôi, về sau này ở Cannes, có lần chú bảo tôi, hồi ấy, đương nhiên chú chỉ chờ đến lúc thuận tiện để thoát khỏi Wolfsegg mà không hề hấn gì, có nghĩa là lúc nào chú thấy đã thu lượm đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc đời hoàn toàn tự do là được. Wolfsegg thật ra rất tuyệt, chú bảo tôi, nhưng nhà mình đã biến nó thành nơi chú không sao chịu nổi nữa. Ông anh chú, tức là bố cháu đấy, có lần chú bảo tôi, là người yếu đuối. Thật ra, ông ấy cũng là người đáng mến thôi, nhưng chú chịu không nổi. Còn mẹ cháu, chị dâu chú, lại là con mẹ hết sức tham lam; lấy bố cháu chỉ do tính toán cầu lợi mà lấy thôi. Bà ấy xuất thân đúng ra là từ tay trắng. Thấy bảo hồi xưa bà ấy có nhan sắc lắm, nhưng bây giờ còn thấy gì nữa đâu. Bố của cháu, đúng ra, không phải phường hám tiền, ham của. Phải vào tay mẹ cháu, bà ấy mới khơi lòng tham đê tiện của ông ấy lên. Nhưng, từ trước khi bố mẹ cháu quen nhau, chú đã chẳng chơi thân được với bố cháu rồi. Hai anh em đối nghịch nhau trong mọi chuyện. Bố cháu tốt tính, thì rõ rồi, đến giờ vẫn tốt tính thế, nhưng chú nói cháu đừng giận, bố cháu đần độn lắm. Mẹ cháu nắm chắc ông ấy trong lòng bàn tay. Thế mà, hồi đi học bao giờ bố cháu cũng giỏi hơn chú đấy. Mọi thứ ông ấy làm đều tuyệt vời. Bài làm bố cháu nộp bao giờ cũng nhất. Mọi người quý bố cháu, chẳng ai quý chú. Điểm của bố cháu bao giờ cũng cao hơn chú. Thế nhưng, mặc dù bố cháu với chú quần áo giống nhau, chú trông bao giờ cũng sang trọng hơn. Chả hiểu tại sao. Nhưng chú chỉ nói vậy với cháu, vì nói thật, lúc nào chú cũng thương bố cháu, là ông anh chú đấy. Chú Georg bảo tôi thế. Mà đúng thật, lúc chú lần cuối cùng đến Rome, chú chỉ nói mỗi một chuyện là chú đã yêu quý ông anh chú hơn bất kỳ ai trên đời này, vâng, có lẽ sẽ vẫn còn yêu quý mãi như thế, nếu con mụ đàn bà kia, tức là mẹ cháu, chú nói, không tự dưng xuất hiện. Một mụ đàn bà xuất hiện, tìm cách lấy bằng được một thằng đàn ông làm chồng - dù gã có đồng ý hay không đồng ý cũng mặc - rồi làm mai một dần các đức tính tốt của hắn, rốt cuộc hủy hoại đời hắn, hoặc biến hắn thành con rối cho mụ giật dây. Mẹ cháu đã biến bố cháu thành con rối như thế. Lạy Chúa, chú Georg đã thốt lên như vậy, giá bố cháu gặp người đàn bà nào khác, thì có phải bây giờ bố cháu đã thành người khác thế này rồi không! Chú bảo, chú không biết còn ai trên đời mù văn hóa như mẹ tôi. Bà ấy đi nghe nhạc kịch, nhưng nào có tí hiểu biết gì về âm nhạc đâu. Bà ta ngắm một bức tranh mà không hiểu tí gì về hội họa. Bà ta bịa, bảo rằng đã đọc sách này sách nọ, nhưng thật ra chưa đọc quyển nào. Ấy thế, nhưng cứ ngồi vào bàn ăn là ba hoa, chú tôi bảo, bắt mọi người ngồi quanh phải nghe những chuyện hết sức vớ vẩn. Lẽ ra thì bà ấy phải biết làm cách nào để tiền tự nó sinh sôi mới đúng, chứ không phải bằng cái cách ngu si và bệnh hoạn bà ấy làm, cái cách sau này cả bố cháu cũng nhắm mắt làm theo ấy. Nói như thế là chú Georg muốn nhắc đến nghệ thuật làm ra tiền và không ngừng bắt tiền sinh sôi nảy nở của chú. Thật khó mà tin được là cả hai anh em, bố cháu với chú, đều cùng một lò mà ra cả. Đầu óc chú lúc nào cũng đầy các ý tưởng, bố cháu chẳng bao giờ có gì trong đầu. Chú đi đây đi đó, bởi chú ham đi đây đi đó, bố cháu lại không hề có chút nhu cầu đi đâu bao giờ; nếu có đi, thì cũng chỉ vì thiên hạ đi thì mình cũng đi, theo những chương trình đần độn do kẻ khác, những kẻ tởm lợm lúc nào cũng tự xưng là người am hiểu nghệ thuật lập ra ấy. Họ bảo bố cháu, anh phải đến Rome thăm nhà nguyện Sistine, thế là bố cháu lên tàu đến Rome, chui vào thăm nhà nguyện Sistine cho bằng được. Bọn họ bảo bố cháu, ông phải xem bức họa của Giorgione, trưng bày ở Accademia, gọi là bức La Tempesta, thì bố cháu nhảy tàu đi Venezia xem bức La Tempesta của Giorgione. Chúng nó bảo bố cháu, ông phải đến Verona thăm mộ Romeo và Juliet thì bố cháu đến đấy thăm mộ hai người. Bọn nó bảo ông phải thăm Acropolis thì bố cháu đến Athens thăm Acropolis. Bọn nó bảo, ông phải xem Rembrandt, phải xem Vermeer, ông phải thăm nhà thờ Strafiburg, phải thăm nhà thờ chính tòa Metz. Thì bố cháu đi, bố cháu xem, đi xem hết những gì cái bọn gọi là sành sỏi nghệ thuật kia của bố cháu mách bảo. Mà cái bọn mách bố cháu đi xem những thứ đó là bọn đáng kinh tởm làm sao chứ, chú Georg rên lên - cái bọn mang đầu óc tiểu tư sản đáng sợ, đeo danh hiệu giáo sư ấy, bọn người lân la làm quen với bố cháu chỉ cốt một mục đích duy nhất là được trọ không dăm ba bữa ở Wolfsegg tuyệt vời của nhà mình mà thôi. Cái đám toàn những hình hài đáng ghê tởm bố cháu vẫn mời ở Wien về ấy, những là giáo sư đại học với chuyên gia lịch sử nghệ thuật vân vân... ấy! Bởi bố cháu cứ tưởng bọn chúng là những người am tường văn hóa thật. Cái bọn đê tiên, cái bọn cứ cuối tuần lại từ Salzburg với Linz kéo nhau mang theo cái mùi hôi ghê tởm của chúng về đầu độc Wolfsegg ấy, cái bọn gọi là triết gia, học giả hay luật gia ấy, tất cả bọn chúng đều chỉ lăm le lợi dụng bố cháu mà thôi. Chúng kéo nhau cả lô cả lốc những vợ chồng con cái lên nhà mình, đánh chén ứ ự suốt hai ngày cuối tuần, để rồi bên bàn ăn, chỉ phun toàn những thứ khoa học giả hiệu vớ vẩn nhất đời ra nữa thôi. Lại còn đám thầy thuốc tởm lợm bố cháu cứ lôi từ Vöcklabruck hay Weis về nhà nữa chứ. Bọn chúng chỉ làm bố cháu ngu muội thêm. Nghe chúng nó tán, bố cháu cứ tưởng chức danh hàn lâm cao thì khả năng tư duy cũng chắc chắn cao. Bố cháu hoàn toàn nhầm. Phần chú, suốt đời chú căm ghét tất cả các chức danh lẫn những ai mang các chức danh kiểu đó. Bởi đối với chú, chúng đáng ghét hơn bất kỳ thứ gì khác. Hừ, chỉ cần nghe đến cái danh: Giáo sư đại học! là chú đã thấy ghê hết cả người rồi. Bởi một chức danh như thế, gần như bao giờ cũng là bằng chứng hiển nhiên cho một kẻ đần độn ở tầm hết sức đặc biệt. Chức danh kiểu đó, nghe càng oai bao nhiêu thì kẻ mang chức danh càng đần độn bấy nhiêu. Lại thêm bà vợ ông ấy, tức mẹ cháu đấy, nữa chứ! Bà ta vốn đã xuất thân từ một xứ sở trí tuệ luôn luôn bị chà đạp rồi. Qua mấy chục năm bà ta bắt được bố cháu làm chồng, bà ta còn hoàn thiện nghệ thuật chà đạp trí tuệ đó thêm nhiều lần. Song, nói của đáng tội, bố cháu chưa bao giờ biết suy nghĩ độc lập cả, hay nói cho đúng hơn, bố cháu cũng không đủ sức để suy nghĩ độc lập nữa kia. Bố cháu chỉ biết ngưỡng mộ kẻ khác, những kẻ bố cháu tưởng họ biết nghĩ và để những kẻ đó nghĩ thay cho mình. Do đó bố cháu, tất nhiên, mỗi ngày một thêm ỷ lại. Song, một cuộc sống ỷ lại kiểu như thế không lẳng lặng trôi qua mà chẳng để lại dấu vết gì. Đầu óc bố cháu, vì ỷ lại, nên không mở mang thêm chút nào. Chú Georg bảo tôi, đáng tiếc là chú phải nói thẳng rằng bố cháu là kẻ hết sức ngu si đần độn. Và, một người đàn bà bao giờ cũng tinh quái như mẹ cháu, lại rất cần một kẻ hết sức ngu si đần độn như bố cháu. Cho nên, rốt cuộc, bố mẹ cháu rất đẹp đôi. Tôi vẫn còn nghe rất rõ những lời chú nói; trong một kỳ nghỉ, lúc hai chú cháu ngồi ở Piazza del Popolo; chiều tối hôm ấy, chú Georg đâm lắm nhời hơn mọi khi, vì hoàn toàn trái với lệ thường, ngay từ chiều chú đã uống khá nhiều vang trắng. Chính vì chú bao giờ cũng rất thương bố cháu, ông anh chú đấy, cho đến giờ vẫn thương, cháu phải biết vậy, cho nên chú mới dám nói như thế về bố cháu. Chú bao giờ cũng cầu mong cho bố cháu kiếm được một mụ đàn bà khác với mẹ cháu, nhưng nói gì thì nói - chú bỗng ngừng, nhìn tôi kinh hãi trong giây lát, rồi mới tiếp - bà ấy cũng là mẹ cháu. Đoạn, chú trầm ngâm, biết đâu cháu không nên than với chú thế này. Ai biết được, có khi không có chú, cháu lại sướng hơn cũng nên. Đáp lại, tôi chỉ làu bàu, không phải đâu. Chú thường ở Hotel de la Ville, khách sạn chú ưa nhất, nằm ngay kề Bậc thang Tây Ban Nha; từ đó chỉ vài bước là đến quán café Greco. Năm nào chú cũng đến Rome ít nhất một lần; lần nào đến chú cũng bảo, Cannes làm chú điên đầu nên chú bỏ đi. Thì ra mỗi năm Cannes làm chú điên đầu một lần. Chú thường nói, chú không thích Paris, Rome thì bao giờ chú cũng thích. Cũng bởi vì chú biết cháu ở Rome. Chú bảo, thành phố nào mình yêu thích, thì bao giờ mình cũng có một người mình yêu quý ở đấy. Chỉ tiếc Rome bây giờ ồn quá. Thế nhưng, bây giờ thành phố nào chả ồn. Mặc dù không hề thấy chú đâu trên tấm ảnh chụp Amalia và Caecilia hai đứa em gái tôi trước biệt thự của chú, nhưng lúc nhìn tấm ảnh, tôi ít nhiều lại chỉ nghĩ đến chú ấy. Chỉ để tâm đến chú. Chỉ để tâm đến chú, hòng nhờ thế mà không phải nghĩ đến bức điện tín từ Wolfsegg kia, bức điện tín mà mức độ kinh khủng của nó tôi vẫn chưa thể hình dung hết được ấy. Bố mẹ tôi chết, chết chắc chắn; ông anh Johannes tôi, cũng chết. Tôi chưa đủ sức đối đầu với sự thật đó, cũng như với các hậu quả của nó. Bởi vậy, tôi tìm cách trì hoãn. Trong những giờ phút như thế này, lẽ ra chú Georg sẽ là chỗ dựa chắc chắn nhất cho tôi. Nhưng không, tôi không còn chỗ dựa nào nữa cả. Tôi không được nghĩ gì hết, về những gì đang chờ đón tôi. Trên mặt bàn giấy, tôi xếp chồng ba tấm ảnh lên nhau, để sao cho chú Georg - mặc dù không có mặt trên tấm ảnh chụp hai con em gái tôi Ở Cannes - lên trên cùng, tức là, lên trên ảnh bố mẹ tôi, và dưới ảnh ông bà là ảnh ông anh Johannes tôi. Chỉ một nhát, bọn họ bây giờ đều chết cả rồi. Tôi tự hỏi, không biết cái gì, đã móc nối họ với nhau, và móc nối họ với tôi? Ở khách sạn Hotel de la Ville đó, trong một căn phòng đương nhiên là tốt nhất, đẹp nhất mà chú vẫn thuê của khách sạn, có lần chú bảo tôi, mặc dù buộc phải căm ghét bà con họ hàng trong gia đình, nhưng lẽ ra, chú phải yêu quý họ mới đúng. Chú dùng đúng những từ ngữ đó để nói về quan hệ giữa chú với họ hàng. Ông anh chú, tức ông bố tôi, chú vừa thương, vừa khinh thường. Bà chị dâu chú, tức bà mẹ tôi, chú ghét bà trong vai chị dâu, song, lại tôn trọng bà trên cương vị mẹ của tôi và anh Johannes. Bọn họ sẽ sống rất dai, có lần chú bảo thế, kiểu người như vậy sống rất dai, bởi vì qua năm tháng, sự đần độn của họ sẽ biến dần thành một thứ vỏ bọc, giống như áo giáp kim khí, bao lấy họ, che chắn cho họ. Họ sẽ chẳng lăn đùng ra chết như ta đâu. Chú đã nhầm. Các căn bệnh mạn tính kinh niên bọn họ ủ trong người, thay vì rút ngắn đời bọn chúng, lại kéo dài nó ra, chú bảo vậy. Kiểu bệnh tật như thế, tuy có thể làm khó chịu thật, nhưng không hiểm nghèo, không bùng phát rồi đánh gục anh ngay đâu. Bọn người ấy không bị các hứng thú ở đời làm mòn mỏi, chúng không bao giờ hóa điên hóa cuồng bởi các mối đam mê, bởi chúng chẳng có mối đam mê nào hết. Sự bàng quan, hay rốt cuộc là sự thờ ơ, lãnh đạm đã điều tiết bộ máy tiêu hóa của chúng hàng ngày, bởi vậy bọn chúng cứ thế yên thân sống thật dai, cho đến khi lú lẫn. Nói cho cùng, chẳng có gì ở đời hấp dẫn họ, cũng chẳng có gì trên đời khiến họ phải chê bai. Bọn chẳng say mê thứ gì đến mức làm chúng tàn hơi mất sức. Khi bọn họ chợt nhận ra, trong bọn họ, chú chính là kẻ gây rắc rối, chú Georg tôi bảo vậy, thì bọn họ gạt chú ra khỏi giới của họ, mới đầu còn kín đáo, về sau thì chẳng buồn giấu giếm nữa. Đúng ra, giá có thể thuê được kẻ nào, thậm chí với giá thật cao, để trừ khử chú thì bọn họ có lẽ cũng chẳng ngại ngần gì đâu. Tự chú, ở Wolfsegg chú đã chiếm một vai mà bọn họ không chấp nhận được; chú chính là kẻ luôn luôn chỉ ra cho họ thấy mọi sai trái của họ, chính là kẻ không bỏ sót bất cứ biểu hiện kém cỏi nào của họ, là kẻ bắt quả tang họ trong mọi chuyện thấp hèn. Cháu có biết bọn họ đã trố mắt ra như thế nào không, chú Georg kể, khi mà một hôm, chú bảo, cả nửa năm nay rồi họ không mở cửa các thư viện nhà mình, và chú đòi họ để chú vào các thư viện ấy. Cứ bao giờ chú nói đến các thư viện nhà chúng tôi, dân tình thường ai cũng ngạc nhiên, bởi hầu hết người ta, giỏi lắm, chỉ nói thư viện nhà chúng tôi, là cùng, bởi vì người ta chỉ có một thư viện, trong khi nhà mình có cả những năm cái; thế nhưng, với năm cái thư viện ấy - chú Georg bảo tôi - nhà ta lại tụt hậu một cách nhục nhã về tình thần so với nhiều nhà chỉ có một thư viện duy nhất mà thôi. Một trong những bậc cụ cụ kị kị gì đấy của nhà mình đã lập ra năm cái thư viện, mà suốt đời chú, bao giờ chú cũng lấy làm hãnh diện. Cụ chắc chắn không phải điên, không phải cuồng sĩ, như bọn ở Wolfsegg vẫn cằn nhằn, để có đủ khả năng tiền bạc lẫn sự am hiểu tuyệt vời về văn học, cộng thêm ý chí, dám dành hẳn bấy nhiêu phòng ốc trong các dinh thự nhà ta làm thư viện, chứ không để làm phòng giải trí vốn chỉ dùng vào việc gieo cấy rồi nuôi dưỡng sự ngu si đần độn mà thôi. Cho đến một hôm, chú Georg bảo tôi, chú phá cửa vào các thư viện ngủ yên im ỉm ấy. Suốt đời họ, họ chẳng bao giờ tha thứ cho chú vì cái tội lần đó. Thế nhưng, chờ chú đi khỏi Wolfsegg, bọn họ lại cho bịt chặt cửa các thư viện suốt mấy năm liền; mãi đến khi thiên hạ kháo nhau ầm lên về các thư viện này, thì cho khỏi bẽ mặt, họ mới lại mở cho những ai hiếu kỳ đến xem. Nếu không có chú lôi ra dùng, thì ở Wolfsegg, chẳng có thứ đồ đạc nào được đem ra dùng cả, chú Georg kể với tôi. Chú điềm nhiên ngồi lên những chiếc ghế bành cả chục năm nay không ai đặt đít ngồi lên, chú mở toang các cánh tủ hàng chục năm nay không ai mở, chú uống nước, uống rượu bằng các loại ly cốc cả chục năm nay không ai dám đụng đến. Chú đi dọc các hành lang hàng chục năm nay không ai dám đặt chân lên. Ngay từ đầu chú đã là đứa tò mò, khiến bọn họ phải lo ngại. Chú lục lọi, lần mở đống tài liệu ghi chép, lưu trữ từ cả trăm năm nay và xếp đầy trong những chiếc hộp to tướng trên gác xép. Bọn họ biết có những chiếc thùng như thế ẳ nằm ở đó, nhưng chẳng bao giờ để mắt tới. Bọn họ e ngại phát hiện ra những điều không hay ho trong đó. Chú Georg nói, chú bao giờ cũng quan tâm đến mọi thứ, và cũng là chuyện tự nhiên thôi, chú quan tâm trước hết đến các mối quan hệ gia đình, đến lai lịch các mối quan hệ đó. Nhưng, không phải theo kiểu họ quan tâm, tức là chỉ làm sao xếp hàng trăm hàng ngàn trang ghi vinh quang lên trên là được; chú quan tâm đến cái tổng thể. Chú dám liều lĩnh làm cái việc họ không bao giờ dám, là bới tận đáy, soi tận gốc, cái lai lịch kinh khủng của nhà mình. Điều đó khiến họ chống lại chú. Rốt cuộc, thằng Georg biến thành một tiếng gọi làm tất cả bọn họ kinh hãi, chú tôi bảo. Bọn họ sợ thằng nhỏ, tức là chú đấy, sẽ làm chủ bọn họ chứ không phải ngược lại. Bố mẹ chú, tức ông bà nội cháu đấy, trói chú, bịt mồm bịt miệng chú ở Wolfsegg. Lẽ ra, ông bà ấy không bao giờ được phép làm như thế với chú. Rồi đến bố mẹ cháu, hai vị đã chẳng học bài học thất bại của bố mẹ chú, tức của ông bà cháu thì chớ, đằng này hai vị lại đối xử với cháu còn thậm tệ hơn nhiều lần nữa chứ. Nhưng nói thật, chú nói, không biết cháu sẽ lớn lên thành hạng người nào, nếu họ không cư xử với cháu, theo cái lối họ đã cư xử với cháu nhỉ? À, mà đấy là câu hỏi không cần câu trả lời, tự nó đã trả lời rồi. Nhìn cháu, nói thật tình, lúc nào chú cũng như thấy hình bóng chú hồi xưa vậy, chú Georg bảo tôi. Cháu đã chọn con đường y hệt như chú. Cháu tách khỏi bọn họ, cháu tránh con đường của bọn họ, cháu quay lưng lại với họ, cháu chọn đúng thời cơ để rời xa họ. Bọn họ đã không tha thứ cho chú thế nào, thì cũng không tha thứ cho cháu y như thế. Lạy Chúa, Cannes đối với chú thế nào, thì Rome đối với cháu như thế. Nhờ vậy, đứng từ xa, chú cháu mình có thể đối chọi với Wolfsegg. Cứ nhớ đến những buổi tối trò chuyện cứng đơ đơ của người nhà mình là chú lại thấy ớn; bất cứ đề tài nào, dù hay ho tuyệt vời đến đâu cũng vậy, vừa nêu ra đã tịt ngóm. Anh nói gì thì nói, chẳng ai hiểu. Anh muốn gợi chuyện gì thì gợi, chẳng một ai để ý. Bố cháu, ông ấy có đọc báo, thì cũng chỉ tờ Nông nghiệp vùng Thượng Áo mà thôi, ông ấy có đọc sách, thì cũng chỉ cuốn sổ kế toán là hết. Rồi cũng chỉ là khỏi phí vé nghe nhạc đã trót mua bao hàng tháng, họ đánh xe đến Linz vào nhà hát, chẳng chút ngượng ngùng, xem một vở hài kịch đáng tởm, rồi ghé nghe buổi giao hưởng lố bịch trong cái nhạc viện gọi là Brocknerhaus, nơi mà chỉ các âm thanh lạc điệu với âm lượng hết cỡ là nghe rõ ấy. Bọn người đó, tức là bố mẹ cháu, chú bảo vậy, không những chỉ mua bao vé tháng nhà hát và nhạc giao hưởng mà thôi, họ sống cuộc đời họ cũng theo kiểu mua bao vé tháng như thế, hàng ngày họ bước vào đời họ như bước vào nhà hát, trong đó đang diễn vở hài kịch tởm lợm, và họ không hề thấy ngượng ngùng khi bước vào đời như đi nghe một bản giao hưởng kinh khủng, trong đó chỉ toàn các âm thanh lạc điệu, và họ sống, vì họ phải sống, chứ không phải vì họ muốn sống, không phải vì cuộc sống ấy là niềm đam mê của họ đâu, không đâu, mà vì cuộc sống ấy đã được đặt trước, được bố mẹ họ thuê bao từ trước cho họ rồi mà thôi. Và, cũng như trong rạp hát, họ vỗ tay không đúng lúc, thì trong cuộc đời, họ vỗ tay không bao giờ đúng chỗ, họ hoan hô tán thưởng trong nhà hát giao hưởng hệt như trong cuộc đời, đúng vào lúc không có gì đáng hoan hô tán thưởng cả, lại còn lên mặt vênh vang ngạo mạn một cách đáng ghét, trong khi lẽ ra phải thả sức cười mới phải. Và, nếu như các vở kịch bọn họ chọn để xem hay bản nhạc chọn để nghe, theo vé tháng thuê bao ấy, là các vở kịch, bản nhạc tồi tệ và tầm thường bậc nhất, thì cuộc đời họ cũng tồi tệ, tầm thường thậm tệ y như vậy. Song, chú bảo tôi, có lẽ đã đến lúc chú cháu mình phải mặc kệ họ làm gì thì làm, sống ra sao thì sống. Chả can hệ gì đến chú cháu ta! Vả lại, ai dám bảo đảm đường chú cháu mình đi là đúng? Chính chúng ta đây cũng đâu phải là những kẻ sung sướng, hạnh phúc nhất đâu - những kẻ lúc nào cũng lông nhông trên đường tìm chân lý, mà có tìm thấy đâu. Sự thật là, tất cả chúng mình, ai nấy cũng đều tìm một con đường để xích đến gần nhau, nhưng càng tìm, lại càng xa nhau ra. Các nỗ lực tìm lại gần nhau càng lớn bao nhiêu, ta lại càng xa nhau ra bấy nhiêu. Các cố gắng của ta theo hướng đó, chú nói, bao giờ cũng kết thúc cay đắng. Và bao giờ mình cũng bỏ dở cuộc tìm kiếm, vì nếu không, chính những lời trách móc lẫn nhau sẽ làm ta chết ngạt, chú nói. Sai lầm của chú cháu ta là ở chỗ, ta không bao giờ chịu bằng lòng với sự thật là Wolfsegg chẳng dính dáng gì đến ta nữa, đấy là Wolfsegg của bọn họ, chú nói, không phải Wolfsegg của chúng ta. Thay vì để họ yên, ta lại luôn luôn muốn dúi bằng được vào tay họ, bắt họ phải nhận một Wolfsegg, một Wolfsegg của ta, chứ không phải Wolfsegg của họ. Ta đã luôn luôn tìm cách xía vào Wolfsegg của họ, trong khi lẽ ra, ta nên để họ đi đường họ, thì tốt hơn. Họ đã trả đứt khoản đền bù cho ta, nhẽ ra ta đã gật thì cũng phải cho xong mới đúng. Chú bảo tôi, ta chẳng có quyền gì ở Wolfsegg nữa. Tôi ngắm nghía lã tấm ảnh hai con em gái tôi, chụp lúc một đứa khoảng hăm hai và một đứa khoảng hăm ba gì đó. Hai gương mặt có vẻ giễu cợt của chúng mày, tôi nghĩ bụng, giờ quay lại giễu cợt chính bọn mày đây. Bọn chúng mày còn lại một thân một mình, chúng mày không đủ sức thoát khỏi Wolfsegg, vẻ mặt giễu cợt kia vốn là thứ vũ khí duy nhất của chúng dùng để chống lại mọi thứ xung quanh, chống lại bố mẹ mà chúng không thoát khỏi nanh vuốt, song, cũng chính vẻ mặt đó lại làm mấy gã đàn ông chúng nó muốn vơ làm chồng, rốt cuộc, đều đánh bài chuồn hết. Hai đứa em gái tôi không đẹp, tôi thầm nghĩ, chưa bao giờ có thể xem là đẹp. Đã xấu, chúng nó cũng lại không thú vị nữa. Đầu óc chúng chẳng được mở mang là mấy, vẫn là hai đứa con gái quê mùa ngốc nghếch thuở nào. Chỉ có điều, bây giờ đã già thêm hai chục tuổi, vẻ mặt giễu cợt không còn nét trẻ trung nữa, bị nhiều nếp nhăn cay đắng làm rúm ró. Nói trắng ra là chúng nó quá xấu. Rất có thể Caecilia tốt bụng hơn Amalia đấy. Nhưng, thêm vào thói tham lam kế thừa của bà mẹ chúng nó, cả hai đứa, đứa nào cũng nhiễm tật nhìn đời cay đắng. Thoạt đầu, hai đứa có vẻ có chút khiếu âm nhạc, và chú Georg tôi đã toan dạy hai đứa sau này thành nhạc công - một ý định đến là tội nghiệp và chẳng bao lâu đã tắt ngóm. Hai đứa nó không đủ kiên nhẫn học, mà cũng chẳng thích thú gì âm nhạc, thành ra năng khiếu ban đầu tiêu tan dần, chỉ còn vừa đủ để giữ được hai chân dự bị cho dàn đồng ca nhà thờ nữa mà thôi. Dạo chúng nó mới bốn hay năm tuổi gì đó, mẹ chúng nó ấn hai đứa, mỗi đứa vào một bộ áo váy Dirndl giống hệt nhau từ họa tiết đến đường may; mặc cái thứ áo váy ấy trên người, chả trách chúng cứ dần dà teo tóp. Sức khỏe cả hai đều èo ợt, vốn thừa hưởng từ bà mẹ chúng nó, nhưng lại là thứ èo ợt báo trước sự trường thọ. Cả hai đứa lúc nào cũng ho húng hắng. Tôi chưa bao giờ thấy chúng nó không ho. Ở Wolfsegg chúng nó ho từ trên gác đi xuống, từ dưới nhà đi lên. Song, thứ ho này không phải thứ ho đáng để tâm, không phải thứ ho chết người. Đó là thứ ho hắng, nghe cứ như một thứ đam mê, như một trò tiêu khiển tuyệt vời của chúng. Dường như, trong tiếng ho ấy chứa đựng năng khiếu âm nhạc dạo nào đã tiêu tan của chúng nó. Ngay cả khi khách khứa đông người, chúng nó cũng ho. Chúng nó chẳng có gì để góp chuyện, chỉ húng hắng ho suốt buổi. Mỗi đứa đeo trên cổ một sợi dây chuyền bằng bạc, kế thừa của bà nội, và mỗi khi có ai hỏi, là lại nhanh mồm đáp, chúng tôi theo đạo Thiên chúa. Một dạo, hai đứa chúng nó phải đến Bad Ischl học nấu ăn, bởi bố mẹ chúng nó ai cũng tưởng, ở đấy, chúng nó hẳn sẽ học kiểu cách nấu ăn theo lối ở cung đình. Song, ở Bad Ischl chẳng đứa nào học nấu ăn cho ra hồn, nấu thậm chí còn kém cả mẹ chúng tôi, là người mà, vào những ngày chị nấu bếp nghỉ phép về Aschau bên sông Danube, lại lòi đuôi ra là chẳng biết nấu nướng gì. Mẹ chúng tôi biết nấu mỗi món xúp khoai tây. Chỉ có điều, chả ai trong chúng tôi ưa món ấy. Còn mỗi bố tôi, ít ra thì cũng như ông luôn mồm thề thốt, là mê món xúp khoai tây. Hai em gái tôi, như thiên hạ vẫn nói, thuộc loại ngoan ngoãn, song điều đó hoàn toàn không che đậy được sự thật hai đứa chúng nó là những kẻ ranh ma tráo trở bậc nhất. Nếu đứa này có bao giờ cầm lấy một quyển sách, thì đứa kia đã lại hất đi ngay. Hai đứa chúng nó, chẳng bao giờ đứa nào một mình, lúc nào cũng cặp kè. Cách nhau một tuổi, nhưng chúng nó cứ y hệt như chị em sinh đôi. Nếu tôi có bảo, tôi từng luôn luôn yêu quý chúng nó, thì cũng không có nghĩa là tôi không bao giờ căm ghét chúng thậm tệ cả. Khi cả bốn anh em đã thành người lớn cả, thì đương nhiên, ghét nhiều hơn thương; tôi nghĩ bụng, hay đúng hơn là lòng yêu quý đã tiêu tan, chỉ còn mỗi mối căm nỗi ghét. Dường nhu tôi bao giờ cũng làm hai đứa chúng nó thất vọng. Theo tôi biết, bao giờ chúng nó cũng nói xấu tôi, thằng anh trai chúng, nhất là trước mặt bố mẹ hay khách khứa. Đó là những lúc chúng nó chắc mẩm, lời chúng nói sẽ có hại cho tôi hơn cả. Còn những chuyện gì mà chúng không bịa ra để hại tôi kia chứ! Xưa nay, tôi vẫn tin chắc một điều là, trong mọi hạng người, hạng người đần độn bao giờ cũng hại người khác ghê gớm hơn cả. Tôi đã từng yêu quý chúng, cũng không có nghĩa là tôi không bao giờ nguyền rủa chúng. Bà mẹ của chúng nó, ngay từ đầu, đã buộc chặt chúng nó vào chân bà, không bao giờ muốn thả ra nữa. Chúng không được đi đâu xa, không được dự vũ hội; ngay cả khi đã ngót nghét những hai chục tuổi đầu rồi, thế mà nếu có muốn đến Lambach xem chợ phiên thứ Năm, chúng vẫn còn phải xin phép mới được đi. Bố mẹ chỉ cho chúng nó vừa đủ một số tiền, để không thể nhảy đi đâu xa được, nếu tiền có dôi ra, thì giỏi lắm, cũng chỉ vừa để mua thêm cốc nước với miếng bánh mì nữa là hết. Giày chúng nó mang bao giờ cũng là thứ do thợ giày ở Schwanenstadt đo rồi đóng - những ông thợ xưa ơi là xưa, từng thửa giày cả cho ông bà chúng tôi đến giờ. Bởi thế, giày dép chúng nó mang bao giờ cũng cổ lỗ sĩ, không hợp thời trang, và dần dà, theo thời gian, khiến hai đứa em gái tôi có dáng đi đến là vụng về, dáng đi lố bịch mà chúng nó, cả về sau này, khi đã có dịp sắm giày ở Wien rồi, vẫn còn giữ nguyên. Tôi chẳng nói được xem trong hai đứa, đầu óc đứa nào sáng sủa hơn. Tôi không thể bảo con Caecilia có khiếu thẩm mỹ hơn con Amalia. Tôi không thể quả quyết con Amalia biết nhiều hơn con Caecilia. Giọng hai đứa giống nhau như đúc, đến mức, khó nhận được ra xem con nào trong hai con vừa ới gọi. Chính vì hai đứa chúng nó ở đâu cũng kè kè thành đôi như thế, lại có vẻ như đứa này chẳng bao giờ muốn tách khỏi đứa kia, cho nên cả hai đứa chúng nó mất bao nhiêu lâu vẫn chẳng đứa nào kiếm được cho mình thằng chồng xứng đôi. Thậm chí, tôi đã tưởng, chắc chúng nó không nuôi ý định lấy chồng là đằng khác. Mãi đến hồi năm ngoái, con Caecilia đi chơi hồ Titisee, thuộc vùng Schwarzwald, đến trọ nhà bà cô già của chúng tôi ở đó, rồi làm quen gã chủ xưởng sản xuất nút chai rượu vang, thì tôi mới biết tôi nhầm. Nó lấy chồng, và, dĩ nhiên, phải hứng tất cả mối căm tức em gái nó đổ lên đầu. Amalia chuyển ngay từ khu nhà chính đến ở trong khu nhà vốn dành cho thợ làm vườn. Ló mặt ra sau buổi lễ thành hôn ở nhà thờ và bữa tiệc tiếp theo được một lúc, nó biến đi đâu không rõ. Tôi biết tính nó, nên tôi cầm chắc rằng sau đấy nó không bước chân ra khỏi khu nhà thợ làm vườn ấy nữa. Cho đến khi có tin về vụ tai nạn. Bởi thói đóng kịch ở nó thường vẫn trội hơn ở con chị, tôi có thể mường tượng, nó đã kêu thất thanh, hốt hoảng chạy từ khu nhà làm vườn sang khu nhà chính như thế nào. Dĩ nhiên, tôi không thể biết được mọi sự thật sự đã diễn ra ra sao. Chắc vào lúc xảy ra tai nạn, tay chồng con Caecilia vẫn đang ở Wolfsegg, bởi như tôi biết, gã định hai tuần nữa mới quay lại Schwarzwald để về Freiburg. Nói cách khác, như người ta vẫn bảo, bà cô ở Titisee đã làm mối cho vợ chồng con Caecilia. Thì cũng rất đúng kiểu con Caecilia thôi, nó nghĩ sau đám cưới nó sẽ vẫn ở lại Wolfsegg được. Có biết mẹ tôi từng thầm nguyện từ lâu, rằng bà sẽ không bao giờ cho đứa con gái nào đi khỏi Wolfsegg ra ở riêng, thì mới biết mẹ tôi đã phải dằn lòng chịu đựng đến thế nào để khuyên con gái bà theo chồng về Freiburg! Lời nguyền đó bắt nguồn từ nỗi sợ bà từng canh cánh suốt đời, là nỗi sợ phải sống cô đơn. Cả hai đứa con gái đều phải ở lại Wolfsegg với bà, bởi theo tính toán của bà, nếu có mất một đứa, bà vẫn còn đứa kia, để khỏi phải sống một thân một mình. Mẹ tôi bao giờ cũng biết tính rộng nhìn xa, nhất là tính những việc sau này sẽ dính dáng đến tương lai của chính bà. Từ lâu, bà đã trù tính, lúc nào đó bà khắc mất chồng, tức bố tôi; nhưng, cho dù bọn con trai sau này không ở Wolfsegg nữa, ta vẫn còn hai đứa con gái. Lối trù tính như thế còn dẫn bà đi xa hơn: hai đứa con gái, nếu đứa này bỏ đi, ta vẫn còn đứa khác. Bà giận con Caecilia về tội lấy chồng lắm và trong mấy ngày đám cưới, bà cũng chẳng thèm giấu con gái bà điều đó, song, do bản tính bà ranh ma - à không, phải nói cho đúng hơn là, do bản tính bà từng rất ranh ma - bà không để lộ ra ngoài sự hằn học và cơn giận hừng hực bà những muốn trút ngay lên đầu đứa con gái phản phúc kia, mà ngược lại, mọi nơi mọi lúc, bà luôn mồm làm như thể bà vui mừng về mối tơ duyên hạnh phúc này lắm. Bà bảo, đến giờ bà mới thực sự là người mẹ hạnh phúc. Nghe mà thấy kinh, nếu biết bà thật sự nghĩ thế nào về đám cưới con gái mình. Bà, một người vốn không bao giờ cho người lạ chụp ảnh mình, lại lôi anh con rể đến mọi ngóc ngách ở Wolfsegg để anh này chụp ảnh cho bà, ở những tư thế mà dưới mắt tôi, đến thật lố bịch, thậm chí trơ trẽn; và, còn hơn thế, mọi nơi mọi lúc, bà bá vai bá cổ con rể bà, rối rít bắt người này người kia đang đứng gần chụp ảnh giúp bà ở tư thế bá vai bá cổ ấy. Nghệ thuật đóng kịch của bà trong đám cưới, chắc chắn, đã đạt đến cực đỉnh. Ôi, nó lại là người Schwarzwald nữa chứ! Bà mừng rỡ reo lên. Từ xưa đến giờ tôi vẫn yêu Freiburg! Mà cả hồ Titisee nữa! Sự khiếm nhã của bà thật vô bờ. Trong thâm tâm bà, bà không mong ước gì tha thiết hơn mong ước sớm đạp đổ cuộc hôn nhân giữa con Caecilia với thằng chồng ít nhiều hậu đậu kia, một anh chàng có lẽ cũng chẳng rõ đầu đuôi thế nào mà mọi sự lại thế này. Bà mẹ tôi, bà có bao giờ thèm kiêng nể hay giữ ý giữ tứ đâu. Chả biết đâu được, tôi nghĩ bụng, có khi bà cô chúng tôi ở Titisee xui con Caecilia lấy gã chủ xưởng sản xuất nút chai rượu vang là để cho mẹ tôi một vố cũng nên. Bởi, mọi sự rõ rành rành rằng, chính cô là người mối lái cho cuộc hôn nhân quái đản này. Cô tôi chưa bao giờ chịu nổi mẹ tôi, nên bây giờ là lúc cô hân hoan lắm đây. Tôi cầm chắc là, suốt mấy ngày đám cưới, trong lúc chọn dáng đứng, thế ngồi để chụp ảnh một cách trơ trẽn như thế, mẹ tôi đã tính toán rất lung trong đầu những cách bà có thể ra tay để phá hủy cuộc hôn nhân bà chẳng hề mong ước này càng sớm càng tốt. Trong đầu bà, bộ máy chuyên dùng cho việc hủy hoại đã bắt đầu chạy, nhưng trước mắt khách khứa hai họ dự đám cưới, bà vẫn chỉ phô ra hình ảnh một bà mẹ đang quá đỗi vui mừng với cuộc hôn nhân mà thôi. Ôi, bà thốt lên, thật thương chú Georg không còn sống để tận mắt chứng kiến cảnh này! Ông bố tôi suốt mấy ngày hôm đó tỏ ra khá dửng dưng. Ông cứ làm việc của ông, loay hoay đâu đó, lúc trong trại bò sữa, khi ngoài rừng cây. Kiểu hội hè như thế vẫn làm ông ngán ngẩm, nên ông tìm cách lảng, phần vì chiều vợ, phần vì vợ ông bắt ông phải lảng đi. Suốt ngày, như mọi người bảo, ông chẳng nói chẳng rằng gì. Tôi đã lấy làm lạ, không hiểu sao bố tôi bỗng già hẳn đi như thế, có vẻ thân tàn sức kiệt, chẳng còn ham hố gì thế kia. Song, cũng khó mà nói được rằng tôi thương hại ông. Tôi nghĩ bụng, mặc dù giữa tôi với các con em gái tôi từ thời nhỏ cũng chỉ thường thường, chẳng mặn mà gì cho lắm - thậm chí càng lớn càng tồi tệ đi, nhưng nói cho cùng, đó cũng là mối quan hệ anh em bình thường. Thế nhưng, bây giờ, sau cái chết của bố mẹ và ông anh Johannes, tôi lại e ngại phải đối đầu với hai đứa chúng nó. Tôi thầm nghĩ, chúng nó sẽ gây trở ngại nhiều nhất cho mà xem. Trước hết, tôi sẽ không chịu nổi vẻ mặt mới đầu có vẻ giễu cợt, như trong tấm ảnh, rồi chuyển sang vẻ cay đắng của hai đứa chúng nó, tôi sẽ không chịu nổi lối ăn lối nói, kiểu đi kiểu đứng, cách ăn cách mặc của hai đứa chúng nó, cũng như những lời chì chiết chúng vẫn đổ lên đầu tôi vì bao nhiêu lỗi lầm chẳng có chút căn cứ nào ấy. Chúng vẫn buộc tội tôi đã bỏ Wolfsegg mà đi, vì thế mà tôi đã xúc phạm, đã làm tổn thương bố mẹ, những lời buộc tội chúng vẫn thường đổ lên đầu tôi ấy, giờ đây, sau cái chết đột ngột của ông bà, càng vô liêm sỉ bội phần. Chúng nó, tôi cầm chắc, sẽ chẳng từ lời buộc tội nào đâu, cho dù có vô lý, có ác độc đến thế nào đi nữa. Sẽ chỉ là vô ích, nếu tôi nén lồng chịu đựng hay cố tránh mặt chúng nó; chúng nó sẽ luôn luôn có mặt, để đổ lỗi cho tôi. Đổ cho tôi, thậm chí, đổ cả cho chú Georg, dầu chú đã mất từ lâu. Chúng nó sẽ tìm mọi cách để bảo tôi đã làm bố mẹ điên đầu, đã làm bố mẹ tổn thương đến cùng cực. Dù tôi nào có dính dáng gì đến những chuyện đó đâu. Ngay từ lúc bố mẹ còn sống, tôi đã luôn luôn là kẻ gây tai họa cho ông bà rồi, cũng chẳng riêng gì cho bố mẹ, mà còn gây cả các tai họa cho hai đứa chúng nó nữa kia. Theo cách chúng nó nghĩ, bởi tôi bỏ đi khỏi Wolfsegg, bởi tôi quay lưng lại với Wolfsegg, cho nên chúng nó mới bị trói chân, buộc cẳng ở Wolfsegg, nên chúng bị héo hon ở Wolfsegg, nên chúng không được mở mang, không được lấy chồng, vân vân và vân vân. Chính lỗi tại tôi, nên bầu không khí ở Wolfsegg hai chục năm trở lại đây - đúng từ lúc tôi bỏ Wolfsegg ra đi, rồi chuyển về Rome - trở nên tăm tối kinh khủng. Lỗi tại tôi, nên cả bố lẫn anh Johannes lâm bệnh, nên mẹ vốn đã bị đau nửa đầu kinh niên, lại chuốc thêm bệnh dạ dày lẫn đau thận. Tại tôi, nên sức khỏe chúng nó tồi tệ hẳn đi. Tại tôi, nên ở Wolfsegg chẳng được sửa sang gì nữa cả. Ngay cả công việc sửa sang mái nhà hoàn toàn bị bỏ bễ suốt hai chục năm nay, cũng lỗi tại tôi. Cứ bao giờ mưa dột và chúng nó phải đem giẻ lau cùng xô chậu chạy lên gác xép lau nước mưa, là chúng nó lại đổ lỗi cho tôi. Hồi trước, dạo tôi còn ở Wolfsegg, bao giờ cũng vui vẻ là thế, từ ngày tôi biến về Rome, thì chẳng còn gì. Chẳng hạn như, đùng một cái, ở Wolfsegg không còn tiếng nhạc nữa. Wolfsegg câm hẳn, con Amalia đã có lần nói thế với tôi, chỉ tại anh, chỉ tại anh cứng đầu cứng cổ, đòi về Rome ở cho bằng được. Tại tôi, nó còn dám mở miệng nói thẳng vào mặt tôi như thế nữa chứ, tại tôi vô trách nhiệm, tại tôi không thương yêu bố mẹ, tại tôi bao giờ cũng căm ghét bố mẹ, bao giờ cũng căm ghét bố mẹ, trong khi hai đứa chúng nó lúc nào cũng yêu thương ông bà. Tiền bạc, trong đó dĩ nhiên có cả phần của riêng chúng nó, bố mẹ dốc hết cho tôi, rút bớt của chúng nó. Tại tôi, theo lời con Caecilia, tiêu pha hoang phí, nên chúng nó phải bóp hầu, bóp miệng, và, rốt cuộc, cũng lỗi tại tôi, nên món của hồi môn của chúng nó ngày càng mất giá ghê gớm, vân vân và vân vân. Trong lúc say sưa luận tội, chúng nó còn leo cao đến mức dám mở mồm quả quyết, tôi học đại học và chọn những trường giá tiền học cao bậc nhất châu Âu để học, chỉ nhằm mỗi một mục tiêu duy nhất là, làm sao tiền nong chúng nó bị cạn kiệt càng nhiều càng tốt. Chúng nó căn vặn đi căn vặn lại, sao cứ phải London, trường Oxford mới được, trong khi ở Innsbruck cũng có trường đấy thôi. Từ xưa đến giờ, nếu tôi nhớ không nhầm, chúng nó luôn mồm gọi tôi là thằng anh vĩ cuồng kiêu căng, một gã tiêu xài phung phí tiền bạc của chúng nó - mặc dù đấy là tiền của tôi, hay cùng lắm cũng chỉ có thể bảo là tiền bố mẹ tôi. Chúng luôn mồm than vãn, tôi bao giờ cũng đánh lên người những bộ cánh đắt tiền nhất để lăng xăng đây đó, trong khi chúng - chỉ vì cái thói muốn làm vĩ nhân của tôi - lúc nào cũng buộc phải ăn mặc thật thô thiển. Con em gái Amalia có lần bảo tôi, lỗi tại anh, nên quần áo bọn em mới rách rưới thế này. Lúc đầu, chúng nó còn đổ hết lỗi cho chú ẳ Georg, sau rồi đổ cho tôi. Ngay đến ông anh tôi cũng chẳng chút ngượng mồm khiển trách lối sống của tôi, gã còn bảo, nói đúng nguyên văn, ở Wolfsegg không lấy đâu mãi ra tiền cho tôi phung phí được. Mặc dù tôi chẳng dám tin ở hai lỗ tai mình, nhưng lời gã nói đúng là như thế thật. Đúng ra thì cả ông anh lẫn hai đứa em gái chỉ lặp lại những gì quanh năm suốt tháng chúng nghe từ miệng bố mẹ tôi mà thôi; cứ khi nào tôi về Wolfsegg, cả bọn lại chẳng cần giấu giếm để tuôn những lời trách móc ngu si, hiểm độc như thế ra. Lũ chúng nó lúc nào cũng bảo cuộc đời tôi vô tích sự, có sống cũng bằng thừa và bao giờ cũng cố xúi bẩy, thúc giục bố mẹ tôi đừng chuyển tiền hàng tháng cho tôi, hoặc nếu có chuyển, thì cũng cắt xén thật mạnh tay vào. Ngày này qua ngày khác, chúng rót vào tai ông bà, ông bà phải trừng trị tôi thẳng cánh, chứ đừng để tôi xỏ mũi mãi như thế - như có lần chính tôi, do đến sớm hơn so với giờ hẹn, vô tình nghe thấy con Caecilia rủ rỉ với mẹ giữa lúc mấy mẹ con ngồi uống trà buổi chiều mùa hè tại cái gọi là chòi vọng lâu trong vườn. Thường xuyên tôi cứ phải đối mặt với những ngón xấc xược kiểu như vậy của lũ chúng nó chĩa vào tôi. Và, nếu tôi còn nhớ hết, thì mối nghi ngờ thầm kín giày vò, dằn vặt chúng nhiều nhất là mối nghi ngờ cho rằng, tôi được hưởng lợi chẳng những nhiều hơn chúng, mà lại còn nhiều hơn cả những gì tôi đáng được hưởng; thêm vào đó, là mối nghi ngờ cho rằng, tôi được hưởng, như chúng suy đoán, một cuộc sống sung sướng hơn, nhàn hạ hơn, vốn không phải dành cho tôi. Anh ấy là ai mới được chứ? Anh ấy tưởng mình ghê lắm hay sao? Lúc nào chúng cũng đặt những câu hỏi như thế về tôi. Bên bàn ăn, tôi có lặng yên chúng cũng khó chịu, tôi có nói gì chúng cũng mất lòng. Chúng nó cằn nhằn, sao anh cứ làm thinh suốt thế, hoặc, sao anh cứ luôn mồm thế. Tôi ngồi lại trong nhà, chúng nó sẽ suốt ngày nhấm nhẳn, sao anh không đi đâu đi? Tôi có đi chơi, chúng lại suốt ngày lầu bầu, sao anh không chịu ngồi ở nhà lấy một lúc? Tôi mặc bộ đồ sáng màu, chúng nó xía vào cho bằng được, anh mặc bộ sẫm màu thì hơn; tôi đánh bộ sẫm lên người, chúng nó lại gắt, anh mặc bộ sáng màu cho chúng em nhờ. Tôi có chuyện trò với tay bác sĩ trong vùng, thể nào chúng cũng lại trách, suốt ngày anh ấy trò chuyện với lão thầy thuốc về chúng nó. Nếu tôi không nói năng gì với ông ta, thì chúng nó lại kêu, đến ông bác sĩ anh ấy cũng chẳng thèm bắt chuyện. Tôi có bảo tôi thích Rome hơn Paris, là thể nào chúng nó cũng chộp lấy ngay, tôi thích Rome chỉ vì chúng nó ghét. Tôi có bảo, tôi không thích ăn tráng miệng, chúng lại luận lời tôi nói về món tráng miệng vào mình, mặc dù lúc nói về món tráng miệng tôi không ám chỉ đến chúng. Bất kể tôi nói gì, vào tai chúng cũng thành lời đả kích. Riêng chuyện ấy thôi, dần dà, cũng đủ khiến tôi không sao ở Wolfsegg được nữa. Tôi có hứng lên, đánh xe ra hồ nghỉ, thì thế nào chúng cũng sồn sồn lên, tôi bao giờ cũng chỉ nhăm nhăm đánh xe ra hồ chơi; thật quái đản, bởi mỗi năm, cùng lắm tôi chỉ hứng lên một lần để ra hồ như thế, trong khi ông anh tôi, cứ hai, ba ngày lại ra hồ một lần thật; sang hè, gã còn ra đấy đều hơn. Nhưng chê trách ông anh tôi thì chúng nó chẳng bao giờ mở miệng. Tôi có vào rừng đi dạo, chúng nó xem là điên rồ; nhưng ông anh tôi mà vào rừng, chúng nó lại coi là chuyện hết sức bình thường. Độc mỗi một lần, tôi đặt mua Martini từ nhà khách mang về, thế mà chúng nó quang quác lên rằng bao giờ anh ấy cũng đặt toàn thứ Martini cực đắt. Tôi có gửi từ đâu đó về tấm bưu ảnh cho bọn chúng, chúng nó lập tức ngoạc mồm ra, anh ấy gửi bưu thiếp về chỉ cốt chọc tức mình. Vâng, anh được đến Cannes, đến Lisbon, đến Madrid, đến Dubovnik, chứ chúng em lấy đâu tiền mà đi. Thành ra, đã từ lâu, tôi thôi không gửi bưu thiếp về nữa. Ấy nhưng, từ ngày chúng không nhận được bưu thiếp tôi gửi về, chúng nó lại ngoa ngoắt bảo, anh ấy thật keo kiệt, đến bưu thiếp cũng tiếc không gửi. Bọn chúng nó giận tôi suốt năm, sáu ngày, chỉ vì tôi giữa mùa đông lạnh giá mở toang cửa sổ phòng để thông gió, nếu không sẽ vì bí mà ngạt thở; chúng nó mắng tôi, tôi mở cửa sổ cho gió vào như thế là vung tiền vãi bạc của chúng nó, đúng vào thời tiền hiếm, củi khan như thế này. Chúng không bao giờ tha thứ cho tôi cái tội mở cửa thông gió vào mùa đông, và không chịu hiểu rằng, tôi không thể sống, chứ đừng nói còn tỉnh táo đầu óc để làm việc, trong những căn phòng bí rì rì như thế. Còn chúng nó lại thà chết ngạt còn hơn, chứ không muốn hiểu, vì sao mỗi khi về Wolfsegg, tôi cứ phải thông gió căn phòng tôi bằng được, ở đâu không biết, chứ ở Wolfsegg này, chúng nó còn đủ củi để sưởi cả ngàn năm chưa chắc hết. Lần đầu tiên tôi từ Rome trở về Wolfsegg thăm nhà - trong bụng cứ tưởng sẽ được đón tiếp nồng nhiệt lắm - tôi vui vẻ kể, ở Rome, vào khoảng tháng Hai tuyệt vời thế nào, khi ai nấy chỉ cần mặc áo khoác mỏng là ngồi ở các quán ngoài trời uống café được rồi. Chúng nó lập tức điên ruột, bởi vào tháng Hai tôi đã được ngồi uống cà phê ngoài trời, và từ đấy, không ngừng trách móc tôi vì tội, lúc nào cũng ngồi ngoài trời uống cà phê, trong khi chúng nó, chả riêng gì tháng Hai, mà suốt cả năm, phải lăn lưng ra làm. Anh có biết chúng em ở Wolfsegg phải làm cực nhọc thế nào không?! Chúng nó luôn mồm hỏi xỏ tôi như thế. Chúng em đâu được hưởng thụ cái gì. Anh sống trong xa hoa như thế, chứ chúng em ở đây phải làm cật lực, thì mới giữ được Wolfsegg thế này! Trong khoảng thời gian hai chục năm, từ lúc tôi đi khỏi Wolfsegg đến giờ, hai con em gái tôi dần dần quen cái lối dùng giọng kẻ cả rất khó chịu ấy với tôi, làm tôi đương nhiên không thể chấp nhận được. Sao anh cứ phải bay máy bay, đi tàu hỏa chỉ mất một phần ba số tiền; mẹ vặn hỏi tôi như thế. Lập tức, bọn em gái tôi phụ họa lời trách cứ vớ vẩn ấy bằng những giọng điệu xỏ xiên, đểu cáng nhất của chúng nó. Hồi còn nhỏ, chúng nó dùng cái giọng the thé, eo éo để theo đuôi mẹ chửi bới tôi, thì bây giờ chúng nó lại trách cứ tôi, với giọng nói đáng ghét, khàn khàn, già nua, mà mỗi lần phải nghe, tôi lại thấy ghê đến tận chân răng. Mẹ tôi buông ra lời độc địa nào với tôi, thì các em tôi liền hớp lấy ngay, và, chẳng cần nghĩ ngợi lâu la gì, làm cho nó độc địa thêm lên gấp vài ba lần. Đúng là tôi chẳng bao giờ dám đưa Gambetti đến xứ Wolfsegg đáng ghét này và suốt bấy nhiêu năm tôi đã lảng tránh, không mời anh ta về đây thật. Những gì xưa nay tôi kể anh ấy nghe về Wolfsegg, tôi nghĩ bụng, thực ra chỉ là những chuyện quá ư vô hại so với những gì đang diễn ra ở đấy. Tôi sẽ chẳng bao giờ để Gambetti ghé mắt nhìn vào hang hốc điên rồ này. Tôi biết, ở Wolfsegg chẳng ai ưa hai đứa em gái tôi; nếu để ý nghe ngóng, tôi toàn nghe dân tình kháo nhau những chuyện xấu xa về chúng nó. Trong làng, cũng chẳng ai ưa mẹ tôi. Nhưng bố tôi, dân tình lại nể trọng và thầm thương hại ông phải chung sống với mụ đàn bà và hai đứa con gái như thế. Còn ông anh Johannes của tôi, dân trong vùng phải chung đụng làm ăn, trong điền trang, ngoài lâm trường hay dưới hầm mỏ than thì tôi không rõ, liệu họ có ưa gã không. Tuy nhiên, gã không phải người không cởi mở chút nào, và nói chung, cũng không đến nỗi kiêu ngạo, như thiên hạ vẫn bảo nhau. Duy có cách cư xử của gã làm người ta khó chịu thì đúng thật. Do nhút nhát, nên bên ngoài gã tỏ ra ngạo mạn như thế, chứ không phải do gã kênh kiệu. Khác với mẹ và hai đứa em gái, gã - cũng như bố và tôi - luôn có quan hệ tốt với dân trong vùng và biết cách lấy lòng và lôi kéo họ. Hai ẳ đứa em gái tôi thì chẳng ai ưa, tôi có thể nói trắng ra như thế. Chúng nó cũng chẳng bỏ công lấy lòng thiên hạ bao giờ. Rằng hai đứa chúng nó đến lúc về già vẫn suốt ngày suốt buổi kè kè bên nhau, thì không còn là chuyện nực cười nữa, mà đã thành chuyện đáng ghét lắm rồi, không còn chỉ là trò lố bịch, mà đã thành trò đáng tởm lắm rồi. Ấy là chưa kể đến lúc cả đống tuổi thế này mà chúng nó vẫn giữ cái lối ăn mặc y như nhau. Cho đến tận giờ, hai đứa chúng nó vẫn từ đầu đến chân, hoàn toàn chỉ là hai con rối của mẹ chúng nó, hai con rối nói giọng the thé đến đáng ghét mà thôi. Khi nào chúng nó chịu mạng giúp mấy đôi tất cho tôi, thì chúng nó mạng thô đến mức không thể mang tất vào chân được nữa, ấy là chưa kể chúng nó mạng bằng thứ sợi màu không còn hợp với chiếc tất tí nào. Chẳng hạn, chúng nó không chút ngần ngại lấy sợi len màu đỏ mạng vào tất len màu lục; ấy thế nhưng, lúc tôi - thay vì phải cảm ơn chúng nó đã giúp - có bực tức ném trả đôi tất gớm ghiếc vào mặt chúng, thì chúng lại đùng đùng nổi cơn tự ái. Tôi thấy cảnh tượng bọn em gái tôi vênh vang đóng bộ y phục địa phương vùng Thượng Áo xấu xí kỳ quái để rong chơi mới ngớ ngẩn làm sao; hay lúc nào tôi cũng thấy gớm bộ y phục gọi là áo liền váy Dirndl, mà mỗi năm hai lần, bà thợ may của mẹ tôi vẫn may đo cho chúng nó. Mỗi lần từ Rome về Wolfsegg, gặp chúng nó trong bộ Dirndl như thế, thì lần nào cũng như lần nào, tôi lại phải nén lòng lắm mới không buột ngay ra đôi lời chế nhạo. Hồi nhỏ chúng nó để tóc đuôi sam, về sau chúng nó búi tóc cao lên thành búi phía trên gáy. Hai búi tóc vàng hôm xưa giờ đây đã chuyển sang bạc. Tôi còn nhớ, ngay từ thời còn bé, chúng nó không chịu được cảnh tôi ngồi trong vườn đọc sách bao giờ. Chúng không để tôi yên, gọi tôi bằng danh hiệu tôi rất ghét là thiên tài yểu chúng nó hớp được từ miệng lưỡi của bà mẹ chúng tôi, và chúng nó lải nhải rót những lời vô duyên ấy vào tai tôi, cho đến khi tôi phải gập sách, nhảy dựng lên trốn biến về phòng mới thôi. Tôi cố tìm ở hai con em gái tôi những nét dễ thương mà nào có tìm được. Cố nhiên, có lẽ dần dần rồi tôi cũng sẽ kể được đôi chuyện sáng sủa hay ho về chúng nó, nhưng, đôi ba chuyện như thế thật quá ít ỏi, chẳng bõ đem so với những chuyện kinh tởm từng diễn ra với mấy anh em chúng tôi. Phải thú thật, rằng tôi chẳng ngại gì kê ra đây những điều tôi thật sự biết về chúng nó, những đứa chỉ biết hành hạ tôi suốt đời và không ngớt ghen tị ngay cả với từng hơi thở tôi thở ra ấy. Tôi sẽ mang tiếng gian dối, nếu bây giờ tôi im, không nhắc đến những trò đê tiện, các chiêu giày vò hành hạ chúng từng giáng vào tôi. Chúng nó chẳng đáng để tôi phải dối trá, mà chính tôi, tôi cũng không đáng chịu mang tiếng dối trá làm gì. Mỗi năm đôi lần, để cho vui, nhưng cũng là để cho mát, tôi lại sắm thứ mũ rơm kiểu Rome vẫn bán với giá chẳng đáng bao nhiêu ở Trastevere, là loại mũ - do nhẹ hơn hẳn các loại khác - rất tuyệt khi dùng để chống nắng nóng ở thành Rome, thứ nắng nóng mà, có những hôm, hầm hập đến mức khó ai chịu nổi ấy. Một lần tôi đội thứ mũ rẻ tiền đó về Wolfsegg, tức là về nhà mình, như dạo ấy tôi vẫn nhầm tưởng, thì mẹ tôi triệu tôi đến gặp bà ngay, để bắt bẻ - không phải về chuyện gì khác, ngoài chuyện chiếc mũ rơm tôi đang đội trên đầu. Liệu có thật sự là cần thiết để tôi phải sắm thứ mũ đắt tiền như thế kia không, trong khi khủng hoảng kinh tế tệ hại đang hoành hành khắp nơi và cả nhà phải khó nhọc lắm mới gìn giữ nổi Wolfsegg như thế này. Đây chỉ là một thí dụ rất đỗi bình thường về sự quái dị của người nhà tôi, những kẻ - tôi trộm nghĩ - hầu như không biết ngượng ngùng, tế nhị hay nể nang là thế nào. Và, đấy cũng là những kẻ chưa bao giờ có nhu cầu, dù chỉ một chút thôi, tự hoàn thiện mình, những kẻ hàng chục năm nay chỉ nằm yên tại chỗ và tự lấy thế làm thỏa mãn. Trong lúc tôi tìm mọi cách tự hoàn thiện mình, hấp thụ và lôi kéo về cho mình tất tật những gì có thể hấp thụ và lôi kéo được, thì bọn họ lại không thèm bỏ chút công sức nào cho những việc như thế. Giống như đa phần các nhà hàn lâm, hay cũng như phần lớn các bác sĩ y khoa tôi quen - những người vốn thường đinh ninh rằng, một khi họ đã nắm trong tay bằng tốt nghiệp cao học hay đại học, có nghĩa là họ đã làm đầy đủ những gì họ cần làm cho cuộc đời họ và, như thế, cũng có nghĩa là họ đã vươn tới đỉnh cao của họ ở đời, cho nên họ chẳng cần mất công học hỏi nhằm mở rộng thêm học vấn, để nâng tầm hiểu biết hay rèn luyện bản lĩnh làm gì nữa cả - thì người nhà tôi cũng y như vậy; sau khi học xong cái gọi là trung học khối nhân văn, họ chẳng buồn học hỏi thêm gì nữa và suốt đời họ, họ giữ mãi niềm tin đó. Song, thật đáng kinh hãi, khi bọn họ nghĩ rằng, mở rộng đầu óc là việc vô ích, nâng cao học vấn - bất kể trên lĩnh vực nào - là việc chẳng để làm gì, không ngừng tôi rèn bản lĩnh là việc rỗi hơi, vô bổ. Từ lúc kết thúc trung học, nghĩa là từ rất sớm, lúc chưa đầy đôi mươi, bọn họ đã thôi, không học hỏi, luyện rèn gì nữa và do tự đánh giá mình quá cao, họ lấy làm tự mãn với những gì họ đã đạt được. Trong khi chú Georg tôi chẳng hạn, suốt đời chú, chú không ngừng gắng sức mở rộng vốn hiểu biết, rèn luyện bản lĩnh, tận dụng, khai thác đến cùng các năng lực của chính mình, thì bọn họ - chỉ vừa mới tập tễnh với được mức học vấn tối thiểu thôi - đã chẳng buồn bỏ thêm chút công sức nào cho những việc như thế nữa. Tôi buộc lòng phải nói, ở độ tuổi mười chín đôi mươi, họ đã ngừng, không học hỏi gì thêm, họ đã thôi, chẳng thèm cố công, gắng sức mở mang thêm tầm hiểu biết cho mình nữa. Ấy thế mà, việc con người ta, chừng nào còn sống ở đời là còn phải mở rộng hiểu biết, còn phải rèn luyện bản lĩnh, là một việc tự nhiên tất yếu. Bởi vì, những ai ngừng mở rộng tầm hiểu biết và ngừng rèn luyện bản lĩnh, có nghĩa là ngừng lao động với chính mình, thì những kẻ đó cũng thôi, không còn sống ở đời nữa; cứ xét như thế, thì tất tật bọn họ, từ độ đôi mươi trở đi, đều không còn sống nữa, tôi buộc lòng phải nói như thế, họ chỉ ườn ra đấy, như những xác chết, vô hồn, vô tri, vô cảm rồi tự mình biến thành gánh nặng đè lên chính mình. Phải mất cả trăm năm, tôi nghĩ bụng, dòng họ này mới sinh ra được một người như chú tôi, một con người có bản lĩnh khác thường đến nhường ấy, song, chính con người bản lĩnh khác thường ấy còn sống ngày nào, thì họ lại khước từ, thù hận ông ngày ấy. Nhìn những tấm ảnh chụp người nhà, tôi thầm nghĩ, lẽ ra bọn họ đã có thể nên người và làm được nhiều chuyện rồi đấy, song, họ đã chẳng nên người chỉ vì quá lười, quá nhác. Bọn họ thỏa mãn với nhịp sống đều đặn, nhàm chán mỗi ngày, một nhịp sống chẳng đòi hỏi gì hơn ở họ ngoài tính khí lù khù thâm căn cố đế mà họ đã mang trong huyết quản ngay tự lúc chào đời. Bọn họ không dám mạo hiểm, không dám liều lĩnh trong bất cứ việc gì và, như thiên hạ vẫn nói, từ thời họ còn rất trẻ, đã chỉ thích khoanh tay ngồi không. Bọn họ không bao giờ tận dụng tiềm năng của mình, những tiềm năng bao giờ cũng bày sẵn ra đó cho chúng, giống như cho mọi người khác. Nếu có một ai trong bọn họ biết tận dụng các tiềm năng như thế cho mình, như chú Georg tôi chẳng hạn, chứ chưa nói đến tôi làm gì vội, thì họ xoay ra hành hạ người ấy bằng mọi cách, từ chỗ thiếu cảm thông, đến chê bai độc địa. Giờ khắc hai con em gái tôi bắt đầu chết gí chết gị một chỗ, chính là giờ khắc chúng rời khỏi trường trung học. Chúng rời khỏi trường, vênh vênh váo váo, cầm mảnh bằng tốt nghiệp trên tay, như thể đang cầm mảnh giấy chứng nhận có giá trị suốt đời cho một hành động phi thường nào đó lắm - trong khi mảnh giấy, thật ra, cùng lắm cũng chỉ là mảnh bằng làm chứng cho sự nông cạn đến cùng cực của chúng nó mà thôi. Rồi chúng dừng lại ở mức đó. Bây giờ, ở độ tứ tuần, đầu óc chúng nó vẫn chỉ ngang tầm đôi mươi, khiến mọi thứ ở chúng đều ít nhiều kệch cỡm, và cứ dựa vào tuổi tác mà xét, thì cố nhiên, không những chẳng đáng để thương hại, mà chỉ đáng để khinh miệt. Song le, cả ông bố chúng tôi cũng dừng lại rất sớm trong đời. Vừa học qua được cái gọi là trường dạy nghề mộc ở Wiener Neustadt, ông cầm chắc mình đã đạt tới đỉnh cao trí tuệ, và từ đó, ông chỉ còn đường suy thoái. Đời ông dừng lại ở tuổi hăm hai, từ đó trở đi, chỉ mỗi lúc một xơ cứng, teo tóp đi mà thôi. Ông anh Johannes cũng vậy, đúng vào cái ngày tốt nghiệp trường lâm nghiệp Gmunden là gã dừng lại, không phát triển mở mang gì thêm nữa trong đời. Cũng giống như chín mươi phần trăm nhân loại, anh tín chắc tấm bằng do ngôi trường cuối cùng anh theo học trong đời cấp cho, chính là tuyệt đỉnh của đời gã. Đó là niềm tin của đa số con người chúng ta, một sự thực đủ làm ta phát điên lên được. Vừa ra khỏi nhà trường, là họ dừng lại, thôi không bỏ công, gắng sức nữa. Và ta có thể yên tâm mà nói, họ bắt đầu suy đốn từ đấy. Một kẻ không còn thiết gắng công, cố sức làm gì nữa, chắc chắn là kẻ đáng khinh, là kẻ mỗi khi ta gặp, ta không thể không cảm thấy ghê tởm. Hắn làm ta ngao ngán, làm ta không những mỗi lúc một thêm bất hạnh, mà còn mỗi lúc một thêm điên tiết. Mọi việc ta làm để cưỡng lại hắn đều vô hiệu. Nhân loại chúng ta dường như chỉ gắng công, bỏ sức khi có cơ giành được mảnh bằng ngu xuẩn nào đó làm thứ khoe mẽ, phô trương với đời. Một khi đã nắm đủ trong tay số mảnh bằng dớ dẩn như thế, thì con người ta dừng lại, chỉ còn khoanh tay ngồi ườn ra đó nữa thôi. Con người ta, phần lớn cuộc đời, chỉ cốt sống để đạt bằng cấp hay học vị, chứ không vì bất kỳ lý do nào khác đâu, và một khi giống nhân sinh ấy nghĩ nó đã kiếm đủ số bằng cấp cùng học vị rồi, nó liền buông người, thả mình nằm ườn trên chiếc giường mà tấm nệm được nhồi êm bằng các loại văn bằng học vị đó. Con người ta, dường như thế, chẳng màng gì đến một cuộc đời riêng, đến sự sinh tồn độc lập, mà chỉ thiết kiếm bằng cấp và học vị, đống bằng cấp và học vị vốn chồng chất từ hàng trăm năm nay trở thành nguy cơ đè xuống nhân loại, làm nó trước sau cũng phải chết ngạt. Con người ta hết tranh đấu cho độc lập và tự chủ, hết đời được phát triển tự do, chỉ còn tranh đấu, đòi hỏi những bằng cấp, học vị như thế nữa mà thôi; các bằng cấp, học vị ấy, giá mà được trao tay hay cấp phát vô điều kiện, là họ sẵn sàng hiến dâng mạng sống họ ngay lập tức. Đó là sự thật trần trụi, sự thật trĩu nặng cõi lòng. Họ coi nhẹ mạng sống đến mức, họ chỉ thấy có bằng cấp và học vị mà thôi. Họ treo bằng cấp, học vị của họ lên tường nơi họ ở; căn hộ những tay đao phủ ở lò mổ hay căn hộ các triết gia, căn hộ anh phụ bếp, căn hộ các luật sư hay các vị quan tòa đều có treo các bằng cấp học vị như thế và suốt đời họ, họ dán mắt vào các bằng cấp, học vị đó bằng những cặp mắt hau háu, những cặp mắt do suốt ngày suốt buổi hau háu ngắm nghía bằng cấp với học vị mà trở nên bần tiện đê hèn đến thế ấy. Thông thường, họ không nói, không xưng về mình, rằng tôi là người thế này thế kia, mà bằng cấp tôi thế này, học vị tôi thế nọ. Và, họ đánh bè kết bạn không phải với người này, người kia mà là với học vị này, bằng cấp khác. Bởi vậy, có thể nói chẳng ngoa rằng, đám nhân quần kia không phải đám sinh linh, mà là đám các bằng cấp và học vị và, nói nôm na, con người trong chốn nhân sinh đây chẳng mang chút giá trị đáng kể nào, chỉ có học vị và bằng cấp mới đáng kể mà thôi. Từ hàng trăm năm nay rồi, người ta không nhìn vào con người mà chỉ soi vào học vị và bằng cấp. Người đàn ông ta vừa gặp ở quán cà phê không phải ông Huber, mà là học vị tiến sĩ của ông Huber, người ta ra quán dùng cơm, không phải với ông Maier, mà với ông kỹ sư đáng lánh trùng tên. Dường như con người ta chỉ đạt được tới đích, khi họ không còn là con người nữa, mà là ông kỹ sư mang bằng cấp, khi họ không còn đơn giản chỉ là bà Müller, mà là phu nhân ông cố vấn hội đồng toà án. Và, người họ nghênh tiếp tại phòng giấy, không phải là một tiểu thư nào đó, mà là một mảnh bằng tuyệt hảo. Mặc dù chứng nghiện bằng cấp và học vị kiểu này, trên đất châu Âu, đâu đâu cũng có, nhưng ở Đức, mà nhất là ở Áo, thì không còn nghi ngờ gì nữa, chứng tật ấy đã điên rồ, quái dị tới mức khiếp đảm. Mới đây thôi, tôi bảo Gambetti rằng, dân Áo, dân Đức không coi trọng con người, mà chỉ coi trọng bằng cấp và học vị thôi, vâng, đúng thế, họ còn mụ mị đến mức tin ngay rằng, mãi đến thời điểm thi xong một tấm bằng, hay giành được một học vị nào đó, con người mới thật sự hình thành, chứ trước đó, họ chưa phải người. Gambetti cho nhận định của tôi quá cực đoan, anh bảo tôi thổi phồng chuyện, song, trong các bài học sắp tới, rồi tôi sẽ còn chứng minh cho anh thấy, tôi không phóng đại, tôi không thổi phồng chút nào, và, như tôi đang nghĩ đây, căn bệnh đó không những chỉ phổ biến trên đất Áo mà thôi, mà còn rải rộng trên toàn cõi Âu châu, và chả mấy chốc sẽ tràn nhanh ra khắp thế gian với tốc độ khủng khiếp cho mà xem. Chứng nghiện bằng cấp và học vị đó, đương nhiên không phải riêng thế kỷ này mới có. Căn bệnh này, nhân loại đã mắc sẵn từ lâu. Bởi họ quá tự coi thường mình, cho nên, vào một ngày nào đó, trước đây cũng phải hàng trăm năm rồi, họ bắt đầu tự xưng theo bằng cấp này học vị nọ, những hòng qua đó sẽ nâng thêm lòng tự trọng. Chú Georg tôi thường vẫn kể, mỗi lần chú lên tàu về Áo, chú cứ nghĩ, ngồi cùng khoang tầu với chú chỉ độc các chức danh giáo sư với học vị tiến sĩ, chứ không phải người, ngoài đường phố chỉ thấy nhung nhúc một bầy các loại bằng cấp, học vị hay các quan chức bậc nọ, hàm kia, chứ không thấy bóng các trang thanh niên, hay đấng lão thành đâu cả. Y gương ông bố tôi - hồi xưa từng đóng khung bằng tốt nghiệp trường thợ mộc để treo lên tường trước bàn giấy - gã anh trai tôi, con trai ông ấy, cũng lồng mảnh bằng tốt nghiệp trường lâm nghiệp Gmunde của mình vào cái khung ảnh to tổ bố, rồi trịnh trọng treo nó lên tường, như thể đó là tấm ảnh thờ tổ tiên không bằng. Hai vị coi văn bằng tốt nghiệp của những trường chắc chắn là quan trọng, nhưng cũng hết sức kệch cỡm ấy, là đỉnh cao trong cuộc đời hai vị. Còn hai con em gái tôi thì chẳng chờ ai hỏi, cứ luôn mồm quang quác khoe trường trung học của chúng nó. Khắp nơi, bàn dân thiên hạ đều mắc căn bệnh sính bằng cấp và học vị, căn bệnh đã làm cuộc sống không sao còn tự nhiên được nữa ấy. Thế nhưng, chú Georg bảo tôi, bệnh tình ở các nước Latin, dù sao cũng chưa đến nỗi trầm trọng và cực kỳ ngao ngán như ở Áo và Đức. Phần tôi, tôi tin các nước Latin sẽ chẳng bao giờ lâm vào tình trạng bệnh hoạn như Đức - Áo. Dân các nước Latin, xưa nay, vốn không nông cạn đến vậy. Ở các dân tộc này, cuộc sống tự nhiên còn khá phổ biến, trong khi đó ở chỗ chúng tôi, đã hoàn toàn bị triệt hủy. Cuộc sống thật sự tự nhiên, từ cả trăm năm nay rồi, không thể diễn ra nữa ở Đức và Áo, vì nó đã bị căn bệnh nghiện bằng cấp, sính học vị nuốt chửng và hủy hoại từ lâu. Hồi nhỏ tôi với anh Johannes chơi với nhau cũng khá thân; chúng tôi chênh nhau có một tuổi, anh ấy lớn tuổi hơn, à, không, anh ấy vốn lớn tuổi hơn, hai anh em chúng tôi - từ bé, cho đến khi đi học và có thêm hai đứa em gái - vốn vẫn chơi với nhau như bạn với bè. Song, vừa bước chân vào đời đi học, là tôi với anh ấy đã mỗi đứa một ngả. Ngay từ lúc lên sáu, tôi chắc vậy, hai anh em đã đi về hai hướng ngược hẳn nhau, ngược ngay từ đầu, và suốt quãng đời về sau vẫn ngược. Trong khi Johannes hăm hở đi xa mãi ra các cánh đồng, chui sâu mãi vào các khu rừng rậm thì tôi, cũng hăm hở không kém, mỗi ngày một rời xa đồng ruộng lẫn rừng cây, tức là, trong khi tôi mỗi ngày một rời xa Wolfsegg, thì gã anh tôi lại lún ngày một sâu thêm vào đấy; rốt cuộc, gã không những bị Wolfsegg nuốt chửng, mà còn bị nó thao túng, hay nói cho đúng hơn, bị nó hút cạn máu, mút sạch tủy, còn tôi, thì ngược lại, bị thế giới bên ngoài Wolfsegg nuốt chửng và thao túng. Trong lúc vốn từ vựng gã khoái dùng không có gì khác hơn là ngũ cốc, lợn heo, tùng bách vân vân và vân vân, thì của tôi lại là Paris, London, Kaukasus, Tolstoi, Ibsen vân vân và vân vân, và, rốt cuộc, mọi nỗ lực của gã hòng làm tôi cũng hào hứng với những từ ngữ gã yêu thích đều tỏ ra vô ích thế nào, thì các mưu mẹo của tôi toan mê hoặc gã bằng đống từ ngữ tôi ưa chuộng cũng đều trở nên công cốc như thế. Trong lúc tôi, theo gương chú Georg, hầu như suốt ngày chui thư viện, thì ông anh tôi chỉ loanh quanh chuồng gia súc từ sáng đến tối; gã nôn nóng trong chuồng bò chờ con bò cái trở dạ sinh con, trong khi tôi loay hoay trong thư viện để giải mã một câu văn của Novalis, gã sốt ruột sốt gan lúc đứng trong chuồng bò chờ con bê con lọt lòng thế nào, thì tôi, y hệt như gã, cũng nóng lòng, sốt ruột mong chờ một ý văn cửa Novalis sẽ nảy sinh trong đầu tôi như thế. Vừa tốt nghiệp trung học, gã sắm ngay chiếc thuyền buồm, còn tôi, tôi dùng số tiền thưởng tốt nghiệp bỏ vào chuyến đi chơi với chú Georg đến Anatolie. Dạo chú Georg còn ở Wolfsegg, trong khi tôi tranh thủ từng phút rảnh rỗi để gần chú, thì gã lại chẳng màng gì đến chú; lúc nào gã cũng chỉ bám đuôi ông bố tôi, theo ông ra đồng, vào rừng, xuống mỏ hoặc đến chầu chực ban này, phòng nọ tại các thị trấn quanh đây. Ngay từ đầu, tôi đã xem chú Georg như thầy dạy của tôi, còn với gã, Johannes ấy, thầy dạy của gã chính là ông bố tôi. Tôi cũng không suốt ngày quanh quẩn bên mẹ như gã; thậm chí tôi còn rất ghét cái cảnh gã anh tôi, dạo còn bé, suốt ngày bám váy mẹ. Tôi không bao giờ bám váy mẹ và bao giờ cũng quay đầu, ngoảnh mặt tránh sang một bên, mỗi khi mẹ tôi chợt hứng lên, làm ra vẻ định hôn má tôi. Còn gã, gã cứ đòi mẹ hôn chùn chụt suốt ngày. Đêm đêm, trong lúc gã ngủ say, tôi rất hay chuồn khỏi phòng hai anh em ngủ đến phòng chú Georg, đòi chú kể chuyện cổ tích, loại chuyện chú nghĩ ra hàng trăm, chỉ cốt để chiều tôi. Anh trai tôi không dám luồn lách, trốn tránh các quy định, phép tắc ở Wolfsegg bao giờ, còn tôi, tôi tìm cách trốn suốt. Muốn lúc nào, tôi chuồn lúc ấy, xuống dưới làng, nhập với dân ở đó, xem họ sinh sống ra sao, còn gã, tuyệt nhiên không. Tôi tán gẫu với dân làng khi nào tôi muốn, còn gã, gã chẳng dám chuyện trò với họ nếu không được phép. Từ rất sớm, tôi đã sắp xếp, bài trí phòng riêng theo sở thích, còn gã chẳng bao giờ nghĩ tới việc đó cả. Sách giáo khoa gã giữ bao giờ cũng sạch bong, chữ gã viết bao giờ cũng đều đặn, ngay ngắn, còn sách giáo khoa tôi học đầy vết bẩn, chữ viết nguệch ngoạc, khó ai đọc nổi. Đến bữa ăn bao giờ anh tôi cũng đúng giờ, trong khi tôi lúc nào cũng trầy trật mà không làm sao đúng được giờ. Chỉ có tôi xui anh tôi mạo hiểm trò này trò khác, chứ anh tôi chẳng bao giờ rủ rê tôi làm gì. Các trò mạo hiểm tôi vẫn rủ gã chơi, thường kết thúc, nếu không với một vết thương, vệt xước trên người gã, thì cũng cùng tiếng gã khóc ré lên, bởi vì, trong hai đứa, bao giờ gã cũng vụng về hơn. Gã rất hay ngã xuống suối, lộn xuống ao, vấp thân cây chỗ này, đụng rễ cây chỗ khác, đầu đâm bụi rậm, cành cào rách mặt, gai quệt xước đùi, còn tôi, chả bao giờ bị làm sao. Nếu tôi có hỏi, anh thấy cái này ở đây, hay cái nọ ở đằng xa kia không thì gã đều chịu, chẳng thấy gì, bởi gã bị cận thị, ngược hẳn với tôi, mắt mũi lúc nào cũng tinh tường. Người ta bảo, vèo một cái đã tôi đã đạp được xe, còn gã phải mất khá là lâu mới ngồi thẳng được trên xe. Chạy đua, chẳng bao giờ gã đuổi kịp tôi. Nếu hai đứa có phải bơi vượt sông, thì gã thường bỏ cuộc, đành chịu thua. Cứ như thế, ngay từ khi còn ít tuổi, tuy chưa đến mức thù hận tôi ghê gớm, nhưng trong lòng gã đã sớm nảy sinh và trĩu nặng thứ mặc cảm tự ti tồi tệ, một thứ mặc cảm dai dẳng, ngày ngày, tháng tháng hành hạ gã, để rốt cuộc, lúc này lúc khác, lại bột phát thành thứ hằn học khá ư trắng trợn, công khai nhằm thẳng vào tôi. Chẳng hạn, tôi chỉ cần ba phút là vụt chạy từ nhà xuống làng, gã cần những năm phút. Ở trường, gã mang danh học trò chăm chú bậc nhất, hễ thầy gọi một tiếng là bật dậy ngay, còn tôi, thấy bảo vậy, là đứa chúa lơ đãng, nếu thầy giáo có gọi, cũng toàn không nghe thấy, và tất nhiên, thể nào cũng vì thế mà bị phạt. Vào những năm học đầu, cả hai anh em đều chẳng bạn bè với ai, bởi chúng tôi không được phép đón bạn về nhà. Hết buổi học là phải lên Wolfsegg ngay. Nhưng vào các năm học về sau, khi được phép mời bạn bè về Wolfsegg, thì tính khí hai anh em chúng tôi trái ngược nhau thế nào, tính khí bạn bè chúng tôi cũng trái ngược nhau như thế. Anh trai tôi bao giờ ngủ cũng say và đẫy giấc, còn tôi, từ lúc nhỏ đã mắc chứng mất ngủ. Tôi nằm mơ toàn những giấc mơ hồi hộp đến mê hồn, còn gã chả bao giờ mơ mộng quái gì. Nhìn bản đồ, gã phải loay hoay mãi mới tìm được nơi cần tìm, tôi chỉ nhìn một loáng là xong. Tôi thích bản đồ địa lý hơn bất kỳ thứ gì khác. Chỉ cần mở rộng một tấm bản đồ ra trước mắt là tôi đã có thể lên đường đi tới những nơi xa lắc xa lơ, ghé thăm những đô thành nổi tiếng nhất trần gian và dẫn lái những con tàu trong mơ dọc ngang biển cả. Anh tôi bị cuốn hút bởi những thứ hoàn toàn khác: gã vẫn quen lẻn vào ngồi một góc kín nào đó, say sưa ngắm không biết chán mấy con ngựa trong chuồng. Dạo chúng tôi vừa lên năm lên sáu gì đó, gánh xiếc rong Medrano đến dựng rạp dưới làng. Thế là tôi không để lỡ dịp nào để lân la xuống đấy xem các diễn viên xiếc luyện tập, nhất các diễn viên nhào lộn trên không. Tôi có thể ngồi hàng giờ ở một chỗ nào đó không ai thấy, há mồm xem họ luyện các động tác trong màn diễn hết sức hấp dẫn. Còn anh trai tôi, gã chẳng mảy may thích xiếc. Sang mùa đông, tôi rất khoái ngồi xem - thậm chí đến lúc lạnh cóng cả người - trò chơi bắn băng dưới làng và chỉ mong được chơi cùng. Mặc dù lúc đầu bị nghiêm cấm, nhưng tôi - thấy mọi người bảo vậy - phớt lờ lệnh cấm, cứ tự mình xuống làng, xin được của người ta cả chiếc bàn đẩy để chơi cùng. Có dịp, là tôi chuồn xuống làng. Từ lúc tôi chập chững biết đi, cái làng ấy đã cuốn hút tôi, đối với tôi, mọi người trong làng thật là mới, thật là lạ. Anh trai tôi không có cái thú đó; tôi cũng không sao rủ gã đi với tôi xuống làng choi được. Đi với tôi, sẽ là phá lệ, một việc gã chẳng bao giờ dám, bởi đối với gã, ngay từ lúc còn nhỏ, phạm luật, phá lệ là việc tối kị. Nhà nào dưới làng tôi cũng vào, chẳng chút ngần ngại ngượng ngập gì, tự giới thiệu tôi là ai, rồi cứ thế bắt chuyện với người ta. Tôi làm quen, đánh bạn với họ, ngó nghiêng xem xét, tìm hiểu cuộc sống hàng ngày, góp chân vào các cuộc vui, chung tay vào công việc làm ăn của họ, và mỗi lần xuyên làng du ngoạn như thế - đoạn đường dài cũng phải bốn cây chứ không ít - càng quen được nhiều người, tôi càng khoái. Tôi thích làm quen nhất với những người bình dân, xem họ sinh sống, làm lụng, vui chơi thế nào. Trước khi lên bốn lên năm, tôi không hề biết còn nhiều người khác với người ở Wolfsegg, thế nhưng rồi tôi cũng vỡ nhẽ ra nhanh là còn rất nhiều người khác nữa, phải hàng trăm, hàng nghìn, hàng trăm nghìn, hàng triệu chứ không vừa. Tôi cũng rất ham đến xem các bác thợ lúc họ hành nghề - ông thợ tiện, thợ giày, bác hàng thịt, bác thợ may. Tôi thường hay ghé vào nhiều nhà nghèo và rất ngạc nhiên thấy ai cũng niềm nở, thân thiện với tôi. Ngạc nhiên, vì trước đó tôi vẫn tưởng, theo như lời bố mẹ vẫn dạy, bọn nhà nghèo, đứa nào cũng nôn nóng, nông cạn, khó gần, trâng tráo, nham hiểm, lại hay thù vặt. Song, tôi lại phát hiện ra rằng, ở dưới này họ đáng mến hơn người nhà tôi trên Wolfsegg, rằng họ mới tử tế và thân mật, chứ không phải người nhà tôi, rằng chính họ mới là những người luôn vui vẻ, chứ không phải chúng tôi. Và, tôi chợt cảm thấy, hóa ra, ngược hẳn với dân làng, chính chúng tôi mới khó gần, mới trâng tráo, nham hiểm, hay thù vặt. Bố mẹ tôi không ngớt bảo tôi xuống dưới làng rất nguy hiểm, thế mà tôi lại thấy trong làng không có tí gì là nguy hiểm cho tôi cả. Tôi xông chẳng chút ngần ngại vào mọi nhà; không cửa sổ nào mở mà tôi không ngó vào; trí tò mò của tôi không hề có giới hạn. Anh trai tôi chả bao giờ lang thang thám hiểm cùng tôi như thế, mà ngược lại, gã đi mách với bố mẹ. Gã sẽ mách, nó lại vừa xuống dưới làng, rồi thản nhiên, không chút hổ thẹn nhìn tôi bị phạt. Mẹ tôi bao giờ cũng quật tôi bằng chiếc roi da bò đã để sẵn một chỗ, bố tôi thì bạt tai. Trong khi tôi bị phạt roi không biết bao lần, tôi lại chả nhớ gã anh tôi có bị mẹ quật roi, hay bố bạt tai như thế bao giờ không. Nhìn bức ảnh chụp gã trên chiếc thuyền buồm ở hồ Wolfgangsee, tôi lại nghĩ, mình bao giờ cũng thích thú, tò mò với những gì khác lạ, còn gã chả bao giờ. Có lần tôi bảo Gambetti, anh tôi bao giờ cũng ra vẻ hiền lành ngoan ngoãn, tôi chả bao giờ. Dĩ nhiên, tôi phải nói để Gambetti rõ, ở đây, ý tôi hiền lành ngoan ngoãn là thế nào. Vào các bữa ăn, anh tôi khi nào cũng ngoan ngoãn yên lặng ngồi bên bàn, không bao giờ dám hé răng hỏi lấy một câu, trong khi tôi, vào bữa ăn là hỏi, hết chuyện này đến chuyện khác - như bố mẹ tôi vẫn quở - hỏi những câu vô lý. Cái gì tôi cũng muốn biết, cũng hỏi cho bằng được. Anh tôi ăn uống chậm rãi, còn tôi bao giờ cũng ăn sao cho thật nhanh, đến tận giờ vẫn vậy. Tôi bước cũng vội vàng, càng sớm đến đích càng tốt, còn anh tôi - thong thả, nếu không bảo là cân nhắc, tính toán từng bước. Ngay cả viết lách, bao giờ tôi cũng ngoáy thật nhanh, đâm ra cẩu thả, và như người ta nói lại, chữ tôi viết gần như không ai đọc nổi; còn gã, bao giờ gã cũng viết từ từ, từng nét, từng chữ. Khi đi xưng tội, gã ngồi thật là lâu trên ghế xưng tội, còn tôi, vừa ngồi chưa ấm chỗ, đã vọt vội ra ngoài. Bấy nhiêu tội lỗi tôi mắc, thấy bảo là khá nhiều, tôi xưng rõ nhanh, còn gã, tội tình chắc phải ít hơn tôi, bao giờ cũng mất gấp đôi thời gian mới xưng được hết. Tôi còn nhớ, dạo hai anh em còn chung nhau một phòng - vâng, đến lúc tôi mười hai tuổi hai anh em vẫn còn chung phòng - thì vừa sáng ra, tôi đã mặc xong quần áo. Loáng một cái, tôi đã rửa ráy xong xuôi, quần áo đâu ra đấy, còn gã, phải lâu hơn ít nhất ba lần. Về mọi mặt, đúng là gã giống bố nhiều hơn giống mẹ, trong khi tôi, chỉ xét riêng về sự nhanh nhẹn, hiếu động, hiếu kỳ, nhanh trí, thì ngay từ nhỏ, đã giống mẹ nhiều hơn. Bảo rằng, các bài luận của tôi, ngay từ dạo tiểu học, bao giờ cũng hay hơn của gã, là chuyện đương nhiên. Song, điều đó không có nghĩa là tôi bao giờ cũng được điểm khá hơn đâu, thậm chí ngược lại, các bài luận rõ ràng hay hơn của tôi, bao giờ cũng được điểm kém hơn. Cứ xem các ông thầy dạy chúng tôi học dạo ấy thì chuyện đó chẳng có gì đáng lạ, vì các vị, thật ra, để ý đến vẻ ngoài nhiều hơn đến nội dung các bài luận. Các đề luận, khi nào được tự chọn, tôi chọn bao giờ cũng hấp dẫn, hoặc khác thường - như tôi vẫn tự nhủ - còn anh tôi, gã chỉ lựa đề tài nào dễ nhất, dễ trình bày, dễ mở rộng bằng những cách đơn giản nhất, nhưng cũng tẻ nhạt và lằng nhằng nhất. Trong khi đó, các đề tài tôi chọn, bao giờ tôi cũng xử lý phong phú và thú vị. Đó là sự thực; bấy nhiêu vở tập làm văn xếp đầy các thùng giấy lẫn hộp các tông để trên gác xép nhà chúng tôi ở Wolfsegg sẽ đủ làm chứng cho điều đó. Anh trai tôi không chú trọng học hỏi sao cho đầu óc mỗi ngày một thêm mở mang, gã chỉ lo học sao làm vừa lòng thầy giáo. Tôi chả bao giờ có ý định lấy lòng các thầy, ngược lại, thấy mọi người kể lại, chẳng thầy nào ưa tôi. Không ưa cũng phải, bởi các thầy không biết xử trí với tôi ra sao, trong khi thầy nào cũng quý, cũng yêu anh tôi, vì gã dễ bảo, bất kỳ ở đâu, lúc nào, đều một dạ hai vâng. Tôi thường ít chịu ngồi yên, hay cãi, mồm miệng lý sự không chịu ai; còn gã, thầy sai làm gì cung cúc làm ngay, cấm có cãi bao giờ, trong khi tôi gần như suốt ngày cãi bướng, chả trách các thầy, ai nấy đều ghét cay ghét đắng tôi. Ở nhà, tôi vặn vẹo bố mẹ nhiều thế nào, thì ở trường tôi cũng hay hỏi vặn hỏi vẹo các thầy đủ thứ như thế, khiến họ đôi lúc phát điên, vì - bây giờ thì tôi rõ tại sao - các thầy không đủ hiểu biết đặng trả lời hết các câu hỏi của tôi. Tôi không tin các thầy, họ ngờ vực tôi cũng chả kém. Anh tôi luôn phục tùng các thầy, còn tôi, tôi lại chẳng nể nang gì họ. Từ lâu, chú Georg đã chỉ cho tôi rõ, về thực chất, các thầy chỉ là một lũ nhát gan hèn hạ, chỉ vì ở nhà chẳng dám ho he gì trước mặt các bà vợ, đành đem bấy nhiêu bực bội ấm ức đổ lên đầu học trò cho hả. Trong hạng người gọi là có học, giáo viên là hạng hiểm độc và xấu xa nhất, chú Georg đã sớm gieo vào đầu tôi như vậy; và, xét về mức độ nham hiểm, họ đứng cùng hàng với các quan tòa, ở bậc thang rất thấp của xã hội loài người. Cháu nên nhớ, chú Georg từng dạy tôi, nhà giáo cùng quan tòa chính là bọn đầy tớ đê tiện nhất của chính quyền nhà nước. Chú ấy nói đúng. Tôi đã kiểm nghiệm điều đó không phải chỉ một vài lần, mà hàng trăm, hàng ngàn lần. Chớ bao giờ đặt lòng tin vào bất cứ một thầy giáo hay một quan tòa nào. Xuất phát từ tính khí đồng bóng đáng kinh tởm, cũng như từ khát khao muốn phục hận cuộc đời tan hoang, bất hạnh của chính mình, họ ra tay hủy hoại không đắn đo, không thương tiếc - lại còn được trả lương - biết bao nhiêu sinh mạng những kẻ bị xua vào tay họ. Cái gọi là tính khách quan của giáo giới, cũng như của quan tòa, là sự bịa đặt độc địa và giả nhân giả nghĩa, chú Georg vẫn bảo tôi vậy, và chú nói chẳng ngoa chút nào. Nếu có dịp chuyện trò với một vị giáo viên, hay với một vị quan tòa nào đó, người ta sẽ nhận ra rất nhanh, các vị này, do bất mãn với chính mình, nên dễ hại người, và, xét cho cùng, cũng dễ hại đời như chơi. Anh tôi hay tin người, nên cũng dễ điên đầu cáu giận, vì hầu như bao giờ gã cũng bị người ta lừa gạt. Tôi thì ngược lại, chẳng mấy khi nhắm mắt tin ai, cho nên cũng ít khi bị thất vọng. Chính vì hay bị lừa gạt như thế, cho nên anh trai tôi, từ khi còn nhỏ, thường mang tâm trạng cay đắng và chẳng bao lâu sau, gã đã sớm mang, hay đúng hơn là thừa hưởng - như thừa hưởng tài sản vậy - vẻ mặt chua chát, cay đắng của ông bố gã, một người bị thất vọng về mọi mặt ở đời ấy. Mà, nói chung, gã giống bố gã về mọi mặt rất nhanh. Không biết tôi đã bao nhiêu lần tự hỏi, sao thằng anh mày bước đi giống bố mày như đúc, ngồi, đứng, ăn uống đúng như bố mày, mở miệng nói những câu, những chữ chả khác gì bố mày, cũng loằng ngoằng, rắc rối mà chán phè như thế. Ba chục năm nữa, tôi tự nhủ, hẳn gã sẽ y hệt như bố mình. Gã nhập tâm tất tần tật các thói tật của ông bố gã, mà cũng là bố tôi ấy. Giống như ông bố gã, mà cũng là bố ẳ tôi, chẳng mấy chốc gã trở thành một kẻ biếng nhác, một kẻ luôn luôn làm ra vẻ bận rộn, nhưng thật ra, lại là hiện thân của sự lười biếng, gã trưng ra trước bàn dân thiên hạ một nhân vật suốt ngày làm lụng, luôn chân luôn tay, dù chỉ chốc lát cũng không dám ngừng, không dám nghỉ - chỉ nhằm hết lòng tận tụy vì lợi ích của gia đình dòng họ mà thôi. Và dòng tộc bao giờ cũng mong muốn thấy gã như trong vai gã đang diễn; chỉ có điều, cả dòng cả tộc, ai cũng cứ tưởng những gì gã đang diễn là thật, chứ không nhận ra, hay chẳng bao giờ muốn nhận ra rằng, đằng sau kẻ đang diễn vai, đóng trò kia, lại là kẻ, từ lúc lọt lòng, vốn đã hết sức lười biếng. Ông anh tôi, quả nhiên, làm lụng cũng ít như ông bố tôi; gã chỉ trưng diễn sự chăm chỉ cũng như sự ham hố, năng nổ làm ăn ra ngoài, khiến cả dòng họ trầm trồ khen ngợi và hài lòng, nhưng rồi, đến một lúc nào đó, chính gã cũng tự hài lòng về mình, bởi tự gã, gã chẳng còn đủ sức để thừa nhận, rằng gã chỉ diễn kịch thôi, chứ thực ra, nào có ham hố, năng nổ gì. Suốt đời ông, bố tôi đóng vai một chủ điền trang tham công tiếc việc, nếu không nói là nghiện công nghiện việc - một người, vì lợi ích gia đình và dòng tộc, không tự cho phép mình ngồi yên bao giờ, dù chỉ một giây khắc ngắn ngủi, cũng không dám. Ông anh tôi cũng đúng y như vậy, gã nhập vai vốn do bố tôi đóng một cách tài tình; cả hai bố con đều hiểu ra rất nhanh, họ chỉ cần đóng giả là đủ, chứ không cần phải bắt tay thật sự làm việc gì. Xét cho cùng, hai bố con thật ra chẳng phải làm gì khác, ngoài việc suốt đời không ngừng hoàn thiện vai họ diễn, và trên lĩnh vực này - nếu không nói là trong bộ môn nghệ thuật này - cả bố lẫn con, quả thực, đã vươn tới mức điêu luyện. Đa phần con người ta, nhất là ở vùng Trung Âu này, chỉ giả bộ làm việc thôi, họ chẳng bao giờ ngừng đóng màn kịch họ đang làm việc và, càng già, càng hoàn thiện cái công việc họ diễn đó, một thứ công việc chẳng dính dáng gì đến công việc ở đời thực, cũng như màn diễn trên sân khấu chẳng liên quan gì đến đời thực cả. Nhưng, bởi con người ta bao giờ cũng ưa xem cuộc đời như một tấn trò hơn, chứ không thích xem nó như cuộc đời thực - cuộc đời thực đối với họ, xét cho cùng, vốn khô khan, mệt mỏi, khác gì nhục hình đày đọa đâu - cho nên, họ thà đóng kịch, còn hơn sống thực, họ thà đóng kịch, chứ không lăn lưng làm lụng thật làm gì. Cứ như thế, ai khen ngợi trầm trồ các công việc của bố tôi thì cứ việc khen, riêng tôi chẳng bao giờ thấy chút giá trị to lớn nào trong các công việc ông làm, bởi vì đa phần đấy chỉ là các màn kịch ông đóng mà thôi, cũng như các công việc của ông anh tôi vậy, gã bắt chước hết sức khéo léo các màn diễn của bố gã rồi tự mình hoàn thiện và diễn lại ở mức còn ngoạn mục hơn nhiều trước sự ngưỡng mộ của bao người. Song, ngày nay không phải chỉ trong giới được gọi là thượng lưu đây, người ta mới đóng kịch là chính chứ không thật sự làm lụng như vậy đâu, mà ngay cả trong giới gọi là bình dân kia, cái trò diễn kịch ấy cũng lây lan chẳng kém, đâu đâu người ta cũng chỉ giả bộ làm lụng, lăng xăng phô diễn các hoạt động này nọ, nhưng sự thực, nào họ có làm gì, chỉ ngồi không và, đa phần, đã vô dụng thì chớ, lại còn gây tai gây họa. Số đông thợ thuyền thời nay đều tưởng họ chỉ cần khoác bộ quần áo lao động màu xanh lên người là đủ, chẳng cần làm bất cứ cái gì thêm, chứ đừng nói làm được cái gì hữu ích, họ giả vờ làm việc trong bộ quần áo lao động màu xanh nặng mùi ấy, không ngớt hớt hải ngược xuôi, chạy đi chạy lại và thậm chí cũng đổ cả mồ hôi trong bộ quần áo đó, song, đó là thứ mồ hôi giả - đổ ra do đóng kịch, chứ không phải do làm thật sự - cho nên, rốt cuộc thứ mồ hôi đó cũng đáng tởm nốt. Đến bọn bình dân cũng vỡ nhẽ từ lâu là giả bộ làm, cho dù còn chán mới khỏe mạnh bằng làm thật, nhưng vẫn hời hơn làm thực rất nhiều, thành ra ngày nay người ta chỉ còn giả bộ làm, thay vì làm thực sự, cho nên - như ta thấy - các quốc gia bỗng dưng đều đứng trước nguy cơ bị suy sụp là vì vậy. Sự thật là từ nay, trên đời không còn kẻ cần lao, chỉ có các diễn viên đóng vai cần lao mà thôi. Mọi thứ đều diễn, chẳng còn gì gọi là làm thực. Cứ nhìn ông bố tôi làm lụng gì đó, tôi thường vẫn nghĩ, ông ấy chỉ đóng kịch thế, chứ có làm gì đâu. Với ông anh tôi, tôi cũng y một ý nghĩ như thế. Đúng ra thì tôi có chê trách gì hai vị giả vờ giả vịt và khéo đánh lừa bà con xung quanh đâu, bởi hai vị cũng chỉ hành động như bàn dân thiên hạ chung quanh mà thôi. Có điều, tôi vẫn tự nhủ, hai vị đừng có lúc nào mở mồm cũng giở giọng than vãn, rằng hai vị phải cật lực làm đến chết. Mà chưa kể, hai vị còn quả quyết, họ làm như thế chỉ vì lợi ích của gia đình, dòng họ, và vào những dịp long trọng, lại còn vênh lên thành chỉ vì lợi ích của tổ quốc nữa chứ. Tôi thì cứ nói thẳng ra là, cả ông bố lẫn ông anh tôi, chẳng ai phải vất vả để điều hành mọi công việc ở Wolfsegg cả. Hai vị nào có phải gắng công tốn sức gì đâu. Trong tay hai vị, Wolfsegg chỉ càng suy sụp thêm mà thôi. Chú Georg có lý, khi có lần chú bảo tôi: ông bố với thằng anh cháu ranh lắm, trước mắt thiên hạ, hai bố cứ làm như hai bố là hai cỗ máy phụng sự gia đình họ hàng, nhưng thực ra, hai bố chỉ biến Wolfsegg thành cái sân khấu tiện lợi ở quê nhà đặng biến bọn ta thành lũ hề ở trên đó. Không phải ta lợi dụng họ, mà chính họ lợi dụng ta. Thế mà bọn ta, ai nấy đều bị mắc lừa. Để được tiếng trung thực và làm ăn chăm chỉ ở đời, một tay chủ trại thường chỉ cần mở he hé cổng trang trại, rồi chỉnh như chỉnh máy phát thanh, cho tiếng lợn khụt khịt, ủn ỉn vọng qua cổng trại ra ngoài thế giới của những lương tri đã hủ bại kia là đủ. Và, quả nhiên, thiên hạ đần độn đến mức ai nấy đều bị lừa. Sáng sáng, hàng triệu người chỉ cần khoác bộ quần áo lao động lên người là, lập tức, họ được xếp ngay vào hạng dân chúng cần lao, trong khi thực ra họ chỉ là một bầy những kẻ lười biếng hết sức xảo trá, chỉ độc nghĩ đến miếng ăn mà thôi, và không làm gì khác, ngoài ra tay phá hoại thế gian này. Song, chú Georg bảo tôi, dân trí thức, quả thực, lại ngu đến mức không nhận thấy điều đó. Thậm chí, chỉ cần một tay thợ biếng nhác nào đấy khoác quần áo lao động màu xanh, bước lên một sân khấu giả dối từ trong ra ngoài để diễn một vở làm lụng hết sức rẻ tiền nào đó, là đã đủ khiến lương tâm dân trí thức chúng ta bị cắn rứt rồi. Giới trí thức chỉ đóng những vai phụ, vô thưởng vô phạt, trên cái sân khấu tàn nhẫn, sinh bệnh gây hoạn ấy mà thôi - một sân khấu mà trên đó, đã hơn suốt nửa thế kỷ này, mọi công việc làm ăn lẫn mọi hoạt động sinh sống của con người ta lúc nào cũng được trình diễn, phô trương một cách điêu luyện đến mức, khiến ta phải lạnh cả sống lưng. Nhưng, như lời chú Georg, chú không phản đối việc người ta không muốn động chân động tay làm lụng, cũng chẳng chê bai việc thiên hạ không ưa bỏ công bỏ sức kiếm ăn, có điều, họ phải thú nhận sự lười nhác ấy, chứ đừng ngày ngày diễn đi diễn lại mãi màn lao lực đáng ghét đó. Cả ông bố lẫn thằng anh cháu đều là những diễn viên chính tuyệt vời trên sàn diễn. Còn bà mẹ cháu, ở Wolfsegg, chính là người đạo diễn tất tật những màn đấy. Hai con em gái tôi, tôi nghĩ bụng, từ nhỏ đã quen cái thói nhảy tưng tưng như điên, khiến về già, thành cái tật, chúng nó nhảy tưng tưng suốt ngày; chúng nó không đi lại bình thường, chúng nhảy tưng tưng từ bếp ra hành lang, vào phòng khách rồi quay lại, thật vậy, chúng nó không đi, chúng tưng tưng nhảy, tôi thấy chúng nó nhảy tưng tưng và vẫn trẻ con như thế y hệt như ba chục năm về trước, tất nhiên, đúng là chúng nó bước đi thật, nhưng tôi vẫn thấy chúng nó nhảy, tưng tưng, chồm chồm, chúng nó đi thật, song tôi không thấy chúng nó bước, vẫn chỉ thấy chúng nó - hai con nhóc tóc tết đuôi sam dài - như hồi còn bé, suốt ngày nhảy tưng tưng như điên ở Wolfsegg. Giờ chúng nó đều ngấp nghé bốn mươi cả, tóc đã điểm sương, thế mà tôi vẫn chỉ thấy chúng nó tưng tưng nhảy. Có những lúc, tôi đã tưởng thoát được chúng nó, ai dè chúng đã lại bất ngờ tưng tưng nhảy đến quấy rầy, lại còn cười rúc rích, thứ rúc rích cứa ruột cứa gan làm tôi lắm lúc muốn phát điên. Suốt ngày, chẳng những chúng nó nghêu ngao hát đúng những bài tôi ghét, bất kể chúng làm gì, cũng đều làm để chống lại tôi. Cứ như thể bố mẹ tôi cố tình sinh chúng nó ra cốt để chống lại tôi, chúng nó xoắn lấy tôi không rời, thậm chí các giấc mơ của tôi, chúng nó cũng xông vào. Giấc mơ thường làm tôi rùng mình choàng dậy ngay là giấc mơ chúng nó toan giết tôi. Ông anh tôi, chúng nó để yên, vì hành hạ gã không mấy thú vị, trong khi đối với tôi, chúng nó không còn niềm ham mê nào lớn hơn niềm ham mê đẩy tôi tới chỗ tuyệt vọng. lầm địa hai đứa chúng nó bao giờ cũng ác độc và với tôi chúng đã biến sự nham hiểm ác độc đó thành hành động. Suốt một dạo, tôi nằm gọn trong tay chúng nó, không đường nào thoát. Chúng rình rập, theo dõi tôi ở mọi nơi, mọi lúc, rồi đem những gì chúng dò la được thưa bố mách mẹ và hân hoan sung sướng ra mặt, một khi tôi vì thế mà bị phạt; chúng nó khoái trá hả hê lắm, đến mức không nén nổi tiếng cười rúc rích đểu cáng, mỗi khi được chứng kiến mẹ tôi nện roi da bò lên đầu tôi hay bố tôi bạt tai tôi bôm bốp. Tôi cũng chẳng biết đứa nào trong hai đứa yêu ma quỷ quái hơn, bởi lúc này con Caecilia xui con Amalia chơi đểu tôi chỗ này, lúc khác con Amalia lại xúi con Caecilia hại tôi chỗ khác. Ngay từ dạo ấy, do chúng nó ham giày vò hành hạ tôi bằng những trò không trắng trợn ít thì trắng trợn nhiều, cho nên tôi đã sớm vỡ nhẽ, phái gọi là phái yếu, thực ra, mạnh hơn và tàn nhẫn hơn tôi tưởng rất nhiều. Những trò bọn em gái tôi ra nhằm hành hạ tôi nhiều vô kể, mỗi ngày chúng nghĩ ra một trò hành hạ mới, tai quái, hiểm ác hơn, hèn hạ hơn. Ngay từ khi còn rất nhỏ, chúng nó đã giăng bẫy hại tôi. Mọi người tin chúng, chẳng tin tôi, lời chúng nói luôn có trọng lượng, lời tôi nói không nghĩa lý gì. Vì thế, tôi phải tự tìm cách trả miếng. Tôi cài cửa nhốt chúng nó trong gian nhà kho kín mít, tối om, tôi huých chúng nó xuống ao, tôi đẩy từ phía sau khi chúng nó đang diện bộ váy dài trắng ngày Chủ nhật, khiến hai đứa ngã sõng soài, từ đầu đến chân đều lấm bẩn, xây xước, chảy cả máu. Dù biết chắc mình sẽ bị trừng phạt nặng vì những tội ấy, tôi vẫn không chừa tìm cách thật độc, trả đũa những đòn nham hiểm của chúng nó cho bằng được. Có lần, tôi dẫn hai đứa vào rừng rồi bỏ đấy, chạy biến; chúng nó có sợ chết khiếp mà kêu khóc thảm thiết, tôi cũng mặc. Thế nhưng, bao giờ chúng nó cũng là những đứa giở trò trước và các trò của chúng nó bao giờ cũng kinh khủng hơn các đòn trả miếng của tôi nhiều. Trên tấm ảnh trước mặt tôi đây, cái ác độc hiện ra rõ mồn một; hai gương mặt phèn phẹt trong ảnh đây phơi trần bóc trụi cả cuộc đời lẫn bản tính của hai đứa chúng nó trước mắt tôi. Hai con bé độc ác dạo nào, nay lớn lên thành hai mụ đàn bà ác độc không kém. Lúc bé, chúng nó đã chẳng xinh đẹp gì, nay trưởng thành rồi, trông hai con mà kinh. Thật khó mà nói, trong hai con, con nào giống bố, con nào giống mẹ hơn. Cố nhiên, cả hai đều thừa hưởng mọi thứ, cả của bố lẫn của mẹ, có điều, ở dạng thô thiển nhất. Bên bàn ăn, chúng nó ngồi như hai hình nộm, mở mồm chỉ biết phát ra độc những chuyện vớ va vớ vẩn, vẫn lặp đi lặp lại từ mấy chục năm nay đến giờ. Chúng nó ngồi xuống hay nhảy dựng lên cùng một lúc; nếu một đứa đi cầu, đứa kia cũng phải cắp đít chạy theo cho bằng được. Lúc nhỏ đã vậy, lớn lên hai mụ đàn bà ấy vẫn thế, không rời được nhau, đến cả đi cầu. Sang đông, gần suốt cả mùa, thể nào chúng nó cũng chỉ ngồi chết gí trên chiếc ghế bành trong phòng, để đan áo len cho chúng tôi, những chiếc áo đã không ai mặc vừa, lại xấu tệ xấu hại, ở mức tôi chưa bao giờ thấy ở đâu xấu hơn. Tay áo bên dài bên ngắn, lưng áo quá rộng, còn eo lẫn cổ lại quá hẹp, rốt cuộc áo chẳng ra áo, mũi đan cẩu thả, xộc xà xộc xệch, bởi vì lúc đan chúng nó có bao giờ thật sự để tâm để ý đâu. Ấy là chưa kể màu len chúng nó chọn để đan áo, bao giờ cũng là thứ màu khiếm nhã nhất. Chúng nó nằng nặc đòi hai ông anh phải mặc thử những chiếc áo đan chưa ra đầu ra đũa ấy cho bằng được, rồi đứa xốc bên này, đứa kéo bên kia, miệng xuýt mồm xoa, ô, áo chúng em đan đẹp ghê, mặc dù ngay từ đầu, ai nấy đều rõ trò chúng nó làm là trò con trẻ, chẳng ra đâu vào đâu. Đến Lễ Giáng sinh, hai đứa đặt những món quà kinh tởm do tay chúng nó đan ra ấy xuống gốc cây thông Giáng sinh, rồi cả nhà, ai nấy đều phải khó nhọc so vai thụt cổ, vặn vẹo đủ kiểu để choàng được áo lên người, đã thế lại còn phải cất tiếng hết lời khen chúng nó nữa chứ. Suốt đêm Giáng sinh, ở Wolfsegg cả nhà cứ ngồi cả đống với nhau, chết gí trong những chiếc áo bọn em gái tôi đan hỏng ấy, hệt như những người bị tàn tật. Với trò đan áo lẩm cẩm này, hai đứa em tôi cứ như thể đã nuôi sẵn ý định, dùng những chiếc áo len đan thô lỗ nọ đặng biến chúng tôi thành một lũ người lố bịch. Cứ như thể chúng nó đã mờ ám thông đồng hàng tháng trời với chỗ len ấy. Trước Giáng sinh hàng tháng, ở Wolfsegg chỉ còn độc mỗi chuyện về len. Tối Giáng sinh, cả nhà bị hai đứa chúng nó quấn thứ len đáng tởm ấy lên người, thế mà ai nấy đều phải rối rít cảm tạ. Từ quần áo tự may, tự đan, đến thức ăn tự nấu, cũng như tất tật những món tự chế trong nhà, tôi đều ghét cay ghét đắng. Đối với tôi, mỗi một chai đựng mứt hay thức ăn tự làm, tự đóng chai như thế vốn đã là một ác mộng, thế mà ở Wolfsegg, có đến hàng trăm chai loại đó, chẳng những chất đầy kho, mà còn chứa chật ních trong các thùng gỗ xếp chồng nhau ở khắp các phòng. Riêng cái viễn ảnh, cả chục năm tới phải cố ăn sao cho hết số mứt mẹ tôi cùng hai đứa chúng nó đã đổ đầy đống chai đó - rồi ghi nhãn, đánh dấu cẩn thận - khiến tôi, ngay từ khi còn nhỏ, đã lúc nào cũng căm ghét mọi thứ thức ăn đóng hộp, nhất là mứt hoa quả, tự làm, tự đóng chai để dành kiểu đó rồi. Ngoài ra, trong kho dự trữ thức ăn nhà tôi, bao giờ cũng đầy ứ hàng trăm chai lọ lớn nhỏ như thế, đựng nào đùi gà, đùi chim trĩ đến đùi chim bồ câu, mà mỗi lần thoáng liếc thấy chúng, với cái màu vàng vàng đùng đục đó, là tôi lại buồn nôn. Mặc dù ở Wolfsegg, càng ngày càng ít người đụng đến các loại mứt hoa quả hay ăn đến thứ thức ăn gọi là tự nấu, tự đóng chai để dành đó, nhưng mẹ tôi và hai đứa em gái tôi vẫn tiếp tục tự nấu, tự đóng chai thật nhiều; từ lúc nào tôi không rõ, cả ba mẹ con đều bị mê bị cuồng bởi căn bệnh nấu nấu, nghiền nghiền, đóng chai, đóng lọ - một căn bệnh về sau không sao trị được nữa. Bánh mì cũ, tuần nào ba mẹ con cũng hì hục gom lại, bóp vụn ra, trữ vào một loạt những lọ thủy tinh to nhỏ, nhưng chẳng bao giờ lấy ra dùng, bởi vì ở Wolfsegg chẳng mấy khi rán thịt lợn tẩm vụn bánh mì nữa, hay nói cho đơn giản, là vì cả nhà không ai ăn kiểu thành Wien nữa. Ai nấy đều chuyển sang ăn theo kiểu Paris, hợp với khẩu vị bà mẹ chúng tôi hơn. Vả lại ở Wolfsegg, chả riêng khẩu vị, mà dần dần mọi sự đều diễn ra theo sở thích của mẹ tôi. Cứ quan sát kĩ mọi sự ở Wolfsegg là thấy ngay thị hiếu mẹ tôi chiếm ưu thế thế nào. Từ ngày về làm dâu Wolfsegg, bà đã gạt các sở thích của bố tôi sang một bên, áp đặt cho ông các sở thích của bà; bởi vậy, tôi phải nói ngay, nhà bố tôi chẳng mấy chốc thành nhà mẹ tôi. Song, không phải do đó mà bố tôi được nhờ đâu. Cứ nhìn vô số những đảo lộn lung tung xòe trong các phòng ốc ở Wolfsegg thì khắc rõ điều đó, mà nói cho cùng, chẳng riêng các phòng ốc, mà tất tật các thứ ở Wolfsegg, kể cả các khu vườn, đều bị mẹ tôi nhúng tay vào, và với thị hiếu lẫn sở thích của bà, đã từ lâu, bà làm chúng hư hại đi mất bao nhiêu. Cả trăm năm nay, khu vườn hoa, vườn cây cảnh ở Wolfsegg bao giờ cũng được chăm sóc theo những quy trình nghiêm ngặt, cho đến khi mẹ tôi ra tay, làm cả khu vườn cũng phải xáo trộn, lộn nhào hết cả lên, từ một khu vườn - như tôi vẫn biết qua các bản in khắc cũ - vốn thênh thang và tràn ngập thiên nhiên, nó bị biến thành một thứ vườn đến là tầm thường và chán ngắt, nếu không muốn nói thành loại vườn tẻ nhạt của cánh tiểu chủ mạt hạng. Mọi thứ, có thể nói thẳng ra vậy, đều mang dấu ấn mẹ tôi. Tôi cũng phải thưa ngay, chính cái thói chuộng to cao, ưa đồ sộ của bà đã làm mọi thứ dần dần teo tóp lại. Đối với một gia sản như Wolfsegg, chưa hẳn bất kỳ mụ đàn bà nào ngoi từ lớp dưới lên cũng sẽ là một tai họa không tránh khỏi; nhưng bà mẹ tôi, thì quả thật, đã là một tai họa như thế. Ông bố tôi, vốn yếu hèn, chẳng bao giờ đủ sức và bản lĩnh để ngăn chặn cái thói chơi ngông ngu ngốc của bà vợ ông ấy. Ngược lại, ông bao giờ cũng chấp thuận tất tật những gì mụ vợ, tức bà mẹ tôi, mong ước hay đòi hỏi, ông xuýt xoa, coi đấy là vốn hiểu biết thông thái của mụ, ông trầm trồ khen ngợi mọi việc làm méo mó, phá hại thẩm mỹ của vợ, xem đó như những thành công mỹ mãn, lớn lao, nếu không nói là tuyệt vời nhất, khiến mẹ tôi dần dần cũng tưởng mình là vị nữ cứu tinh của Wolfsegg thật, rồi cứ ngang nhiên đóng vai trò ấy mãi. Nhưng, đúng ra, bà mẹ tôi vốn bao giờ cũng chỉ là kẻ bòn rút, phá hại Wolfsegg mà thôi. Ngay từ dạo hai con em gái tôi còn nhỏ, mẹ tôi đã biến chúng thành hai trợ thủ trung thành vô điều kiện, nhắm mắt cổ xúy và thực hiện đến cùng các ý đồ phi thẩm mỹ của mẹ chúng ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào. Dần dần, chúng nó tự biến thành hai chiếc loa lợi hại của mẹ tôi. Những chiếc loa này luôn đứng, ngồi hay nằm ở tư thế rình mò, chờ đợi. Có lần tôi bảo Gambetti, loại em gái như chúng nó dễ làm một cảnh tượng vui tươi hạnh phúc nào đó lập tức tối sầm như chơi. Ở một trang trại như Wolfsegg đây, một bà mẹ như vậy cùng hai đứa em gái chỉ mẹ bảo sao làm nấy như thế, nếu muốn, họ sẽ dư sức biến bất cứ một ngày chói chang ánh nắng nào thành đêm đen như bỡn. Và, quả nhiên, cả ba đã chung tay làm biết bao nhiêu ngày, thậm chí năm hay thặng ở Wolfsegg này trở thành tăm tối. Chỉ vì họ muốn vậy, họ chẳng ngại tắt ánh sáng của chúng tôi đi. Một người đàn ông như bố tôi, tôi bảo với Gambetti, lấy một người đàn bà làm vợ, thì như thế, ông cũng tự tắt ánh sáng đi. Từ đấy, ông không còn sống như trước nữa, ông chỉ còn lần mò, loay hoay, lóng ngóng sờ soạng trong bóng tối, trước sự khoái trá của kẻ đã chủ mưu kéo màn đêm kia xuống. Loại đàn ông như bố tôi, tôi nói với Gambetti, thoạt đầu chỉ dính líu đàn bà đã ngại, chứ chưa nói kết duyên vợ chồng với ai, nên cứ lưỡng lự, chần chừ kéo dài mãi, cho đến lúc - vì sợ ế, sợ quá lứa sẽ biến thành trò cười cho thiên hạ - các bố bỗng cuống cuồng nhắm mắt đâm đầu vào chiếc bẫy do một mụ đàn bà ranh ma nào đấy giăng sẵn, một cái bẫy chết người, sẽ sập ngay xuống. Khác với chú Georg, tôi cũng bảo Gambetti vậy, bố tôi thuộc loại đàn ông sinh ra để sống có đôi, có lứa; nhưng lẽ ra, không đời nào nên thành đôi thành lứa với một người đàn bà như mẹ tôi. Ông đã lấy phải một người hủy diệt ông, một người phản bội ông. Dĩ nhiên, mấy đứa chúng tôi, ai cũng yêu thương mẹ, tôi nói với Gambetti, song chúng tôi đều chứng kiến và thấu rõ cả tâm địa độc ác lẫn niềm ham mê phá phách của bà. Một khi cái độc, cái ác đã ngóc đầu - tôi nói với Gambetti - thì đạo lý cũng thành lố bịch thôi. Tất nhiên, ở đời, cũng rất dễ có chuyện ngược lại: một người đàn bà xuất hiện và sẽ cứu vớt tất tật. Song le, người đàn bà này, bà mẹ chúng tôi đây, chỉ là một nữ quái chuyên phá phách mà thôi. Mặt khác, tôi nói thêm với Gambetti, cũng có thể tôi chỉ tưởng vậy, trong khi mọi sự đều khác, thậm chí ngược hẳn lại cũng nên. Rằng, nếu không có người đàn bà ấy, tức là mẹ tôi, thì nỗi bất hạnh đổ ập lên Wolfsegg ấy, biết đâu còn lớn hơn nhiều. Chú Georg chả vẫn thường nói, các tình huống do mẹ tôi mà hình thành ở Wolfsegg này quả quá ư may mắn cho chú là gì. Chú vẫn bảo, các toan tính của chú đều trúng cả đấy thôi. Và tự tôi, tôi cũng phải tự nhủ rằng các toan tính của riêng tôi đều nghiệm cả. Bởi, xét cho cùng, thì rất có thể chính tôi đây, lẽ ra, cũng đã thành người hoàn toàn khác rồi, nếu Wolfsegg đã phát triển theo một hướng hoàn toàn khác, tức là, nếu nó phát triển không phải dưới tay mẹ tôi, mà dưới tay một người vợ khác của bố tôi. Tôi sẽ không phải là người như tôi hiện nay, nếu Wolfsegg là một Wolfsegg khác với bây giờ. Bởi vì, nếu xét chung về mọi mặt, hay chỉ xem xét riêng cái cơ hội may mắn cho tôi được sống ở Rome thôi, thì tôi cũng có thể tự xem mình sung sướng lắm rồi - tôi nói vậy với Gambetti - và, như thế, thật ra, tôi chẳng có cớ gì để luôn mồm nói đến Wolfsegg như nói đến một thứ hiểm họa cả. Rất có thể, dạo ấy tôi bảo Gambetti, chỉ vì do tôi cảm thấy hối hận về việc tôi - chỉ cốt sao thoát khỏi Wolfsegg cho bằng được - đã rời bỏ chốn này theo một cách phải thừa nhận là khá nhẫn tâm, bất chấp lúc ấy nó đang ở tình trạng thế nào. Chúng ta, như ai nấy vẫn biết, thường căm ghét kẻ nuôi dưỡng mình, và tôi ghét Wolfsegg - dù tôi có quyền ghét, hay không có quyền ghét cũng vậy - ít nhiều cũng vì lý do như thế, tôi bảo Gambetti, vì Wolfsegg chả nuôi dưỡng tôi là gì. Ta thường nổi cơn căm hờn, chỉ vì ta sai trái, hoặc chỉ lúc nào ta sai trái mà thôi. Tôi đã thành thói quen luôn luôn nghĩ trong đầu (và nói ra miệng!) rằng mẹ tôi đáng ghét, hai đứa em tôi đã đáng ghét lại còn ngu, bố tôi yếu hèn, anh tôi nhố nhăng, vâng, rằng cả nhà rặt một lũ đần độn. Thói quen đó là một loại vũ khí, nói cho cùng là thứ vũ khí hèn hạ, chỉ đem ra dùng cốt để làm lương tâm đỡ bị cắn rứt mà thôi. Sau lưng tôi, tôi bảo Gambetti, cả nhà ai nấy đều có quyền luôn mồm kể tội, bêu xấu tôi, biến tôi thành kẻ xấu xa độc địa, y hệt như bao lâu nay tôi vẫn kể tội, bêu riếu mọi người trong nhà như vậy. Ta dễ quen và nhanh quen cái thói căm ghét, nguyền rủa người khác, nhưng không bao giờ tự hỏi xem sự căm ghét đó, những lời nguyền rủa đó có công bằng, chính đáng chút nào không. Nhìn chung, rốt cuộc đó đều là những con người tội nghiệp, mà lẽ ra, vì ta tự biết mình, ta phải cảm thông mới phải. Bởi vì, hệt như ta đang vật vờ khốn khổ, họ cũng đang lay lắt sống một cách đáng thương như thế trên đời này và, dù muốn hay không - tôi bảo Gambetti - họ vẫn phải sống, cho hết ngày, tận tháng. Tại sao ta cứ hay vồ ngay lấy rồi bấu chặt vào thói hư tật xấu của người khác, nhưng lại tảng lờ nết hay tính đẹp của họ như thế, tôi nói với Gambetti. Tuy nhiên, nhìn tấm ảnh chụp hai con em gái tôi, tôi lại quay ngay về cách nhìn cũ, bức ảnh làm hiện lên rõ mười mươi cái lố bịch của chúng ngoài đời. Bảo chúng nó lố bịch thì tôi không bàn thêm. Nhưng, tôi tự hỏi, liệu chúng nó có đáng bị mình gọi là đê tiện hay không? Lại đúng lúc này? Tôi thấy ngường ngượng thế nào, song, tôi lại tự chống chế ngay, đúng là trong đầu ta, đã nghĩ sẵn thế nào, thì khó mà sửa ngay được và tôi khăng khăng quả quyết, hai đứa em gái tôi quả là vừa lố bịch vừa đê tiện thật. Cái gọi là bi kịch gia đình, tôi tự nhủ, sẽ không bào chữa được cho việc ta giả mạo, vẽ lại toàn bộ bức tranh thật về gia đình này, cũng không thanh minh nổi cho việc, chỉ do ích kỷ mà thôi, ta đột nhiên trở nên mềm lòng và ít nhiều xao xuyến. Một tai nạn, dù thảm khốc đến đâu đi nữa, không thể biện minh cho ta, cho phép ta xuyên tạc các ý nghĩ trong đầu ta, giúp ta ngụy tạo thế giới quanh ta, để ta bóp méo tất tật, hay nói cách khác, để ta thông đồng với sự dối trá. Tôi thường chứng kiến tình huống, khi phải nói đôi lời về những kẻ quá cố nào đấy, những kẻ lúc đương thời vốn vẫn bị xem là đáng ghét, đáng ghê tởm, người ta bỗng dưng xoay ra nói về họ như thể họ chưa từng đáng ghét, không hề đáng tởm bao giờ cả. Cái lối trơ trẽn đó luôn luôn làm tôi khó chịu. Cái chết của một con người không làm hắn thành con người khác được, cái chết không hóa hắn thành người tốt hơn, không biến hắn thành thiên tài, nếu sinh thời hắn vốn đần độn, không nâng hắn lên thành bậc thánh hiền, nếu sinh thời hắn vốn là đồ quái vật. Ta buộc phải chịu đựng một tai họa kiểu như thế một cách hoàn toàn tự nhiên, phải cam chịu tất tật những gì khủng khiếp nhất của nó, kể cả sự thật hiển nhiên là, những người gặp nạn kia chết đi, nhưng bức tranh thật sự về họ không vì thế mà thay đổi. Người ta vẫn bảo, không nên nói điều gì xấu, chớ nên bàn chuyện gì gở về người đã khuất; song, như thế là dối trá, là giả tạo chứ còn gì. Một kẻ suốt đời vốn đáng ghê tởm, một kẻ tâm địa vốn hèn hạ, thì khi hắn chết đi, làm sao tôi lại đột nhiên quay ra quả quyết, hắn không đáng ghê tởm, không hèn hạ, mà ngược lại, còn rất tốt bụng được kia chứ! Tấn trò nhạt thếch ấy, ta chứng kiến hàng ngày, khi một ai đó qua đời. Một khi chúng ta đã không ngần ngại để nói rằng con người cao quý này vừa mất, thì ta cũng không nên ngại ngần để nói thẳng ra, kẻ độc ác và đê tiện kia vừa chết. Con người đó chết đi, mang theo tất cả các tật xấu, hoặc các đức tính tuyệt vời của mình, ta cần nói rõ như thế. Cái chết của một ai đó không được phép - bất kể bằng cách nào - bóp méo bức tranh về con người ấy theo ý ta. Người chết vốn ở đời thế nào, sẽ tồn lại trong ta thế ấy, ta cần biết vậy và để người đó yên nghỉ. Tôi đã bảo Gambetti còn lâu tôi mới về lại Wolfsegg, thế mà bây giờ tôi lại phải về đó ngay. Tôi đã bảo, tôi không muốn thấy Wolfsegg nữa, tôi không chịu nổi những bức tường lẫn người ngợm trong ngôi nhà ấy, cả đến thời tiết ở đó tôi cũng không chịu được nữa. Tôi không hề nghĩ vì sao mọi thứ ở đó, tôi bảo anh ấy vậy, nhanh làm tôi khó chịu đến thế. Tôi không chịu đựng nổi ông bà già tôi, anh em cũng thế, nhất là hai con em gái, tôi bảo vậy, làm tôi phát điên. Tôi sống đã quá lâu ở Rome, hay nói rộng ra là ở nước ngoài, ở đấy, tôi thành người ngoại quốc mất rồi; lưu lại Wolfsegg chỉ một tiếng đồng hồ thôi, tôi cũng chịu không nổi. Tôi không thể hình dung, có một lúc nào đó, rồi tôi sẽ dừng chân, lưu lại Wolfsegg mệt thời gian dài. Tôi chẳng còn mối liên hệ nào với Wolfsegg nữa. Tôi ghê tởm tất tật, những gì liên hệ tôi với chốn ấy. Lịch sử của Wolfsegg là một gánh nặng chết người mà tôi không muốn đưa lưng ra gánh vác nữa. Thế mà giờ tôi lại phải quay lại Wolfsegg ngay. Vào hoàn cảnh thế nào chứ! Vào hoàn cảnh đáng lảnh hoàng biết chừng nào chứ! Tôi tự nhủ. Mới chừng bốn tiếng đồng hồ thôi chứ đâu, tôi còn bảo Gambetti, tôi chỉ ước ao, sao không bao giờ phải quay lại Wolfsegg nữa. Ước ao ấy của tôi chẳng bao giờ thành nữa. Ở đấy, tất tật đều dối trá, Gambetti ạ, bao trùm mọi thứ ở đấy là một thứ giả tạo kinh khủng anh sẽ không thể hình dung nổi. Người nhà tôi ở đấy, ai nấy đều thờ ơ, với tất tật những gì tôi nâng niu, yêu quý, với thiên nhiên, với nghệ thuật, với mọi sự đáng quý ở đời. Họ không đọc sách, không nghe nhạc, suốt ngày chỉ nói với nhau những chuyện chả ra đâu ra đâu, tầm phào hết cỡ. Tôi không làm sao bắt nổi một câu chuyện nào gọi là thật bõ với họ, toàn chuyện chán phè phè. Tôi có nói gì, họ cũng chẳng hiểu. Tôi có giảng giải cái này cái kia, họ cũng chỉ trân trân nhìn tôi, hoàn toàn ghẻ lạnh mà thôi. Họ chẳng có lấy chút thị hiếu nào. Tôi có kể họ nghe về Rome - thì ít gì, đấy cũng là trung tâm thiên hạ cơ mà - họ ngáp dài, ngán ngẩm. Tôi có kể về Paris, về văn học hay hội họa, thì cũng thế thôi. Mỗi khi dẫn đến tên tuổi vĩ nhân nào quan trọng đối với tôi ra, tôi lại e ngại, không chừng ở nhà này, chưa ai nghe đến họ bao giờ cũng nên. Mọi thứ ở đó đều xơ cứng, và chẳng rõ vì lẽ gì mà mùa hè cũng vẫn lạnh lẽo, khiến tôi hầu như lúc nào cũng phải run lên vì lạnh. Anh không biết đấy thôi, trong đầu họ không còn gì khác ngoài những thứ hạ đẳng nhất. Tiền bạc, săn bắn, rau cỏ, lúa má, khoai sắn, than củi, Gambetti ạ, ngoài ra không còn gì nữa sất. Mẹ tôi chỉ luôn mồm về các cổ phần của bà, những cổ phần mà bà bao giờ cũng than phiền bà toàn gặp rủi ro. Bố tôi mở miệng là nói đến nhà kho. Với ông anh tôi, trung tâm thế giới nằm ở chiếc thuyền buồm và chiếc xe Jaguar của gã. Anh thử hình dung mà xem: ra vào lui tới chốn ấy chỉ rặt một lũ người đáng tởm, ngớ ngẩn, lố bịch, nhạt nhẽo mà thôi - đám dân tình lẻ đáng chán, không sao bắt chuyện nổi, không thể nào bàn bạc, tranh luận chuyện gì cho đến đầu đến đũa được ấy. Nếu được, thì ít nhất cũng phải mất một năm nữa tôi mới quay lại Wolfsegg, tôi bảo Gambetti vậy, thậm chí Lễ Giáng sinh cũng không về. Đến cả tục lệ ấy tôi cũng thấy đáng ghét, bởi Giáng sinh chính là dịp Wolfsegg trở nên nhố nhăng dối trá nhất. Ít nhất một năm, tôi sẽ không về Wolfsegg, cùng lắm chỉ về vào dịp sinh nhật bố tôi! tôi bảo vậy, lúc hai chúng tôi dừng lại trước khách sạn Hassler. Cả lần này tôi cũng chuồn rõ nhanh khỏi Wolfsegg, làm người nhà tôi giận dỗi, tôi bảo vậy, mặc dù, sức mấy họ đã giận dỗi cơ chứ, bởi vì ai trong số họ chả vô cảm, vâng, Gambetti ạ, khó mà tả cho hết được chứng vô cảm bao trùm lên mọi sự ở đấy. Nói đúng ra thì gần đây, những gì mang hơi hướng Áo, cũng như tất tật những gì nhuốm màu sắc Đức vậy, tôi đều không chịu được. Tôi bảo Gambetti, ở Rome, đầu óc tôi đâm ra hư đốn đối với Wolfsegg. Rome làm tôi không chịu được Wolfsegg nữa. Ngay London đã đủ làm đầu óc tôi không chịu nổi Wolfsegg rồi, sau đó đến Oxford, Paris và cuối cùng là Rome. Tôi không hiểu làm sao mà, có dạo, tôi từng băn khoăn, bứt rứt vì không về Wolfsegg như người nhà mong muốn được, bởi họ có đáng để tôi phải lặn lội về Wolfsegg đâu. Thì cứ bay về đấy, tôi nghĩ bụng, bay về cho họ riếc móc làm nhục ngươi. Chỉ riêng sự xuất hiện của tôi ở Wolfsegg thôi đã luôn luôn là mối nhục cho tôi rồi. Tôi vừa đến nơi là họ đã xỉ vả tôi. Vừa bước chân đến Wolfsegg là tôi đã bị làm nhục rồi. Ở đấy, tôi bảo vậy, nếu bỏ qua đôi khoảnh khắc hiếm hoi có thể gọi là dễ chịu đi, thì mọi thứ còn lại đều hèn hạ và hiểm ác. Đứng trước Gambetti, tôi vừa kể, vừa tự bị cuốn hút vào cơn phẫn nộ mỗi lúc một ngùn ngụt trút xuống Wolfsegg, mặc dù chính tôi, tôi cũng bỗng nhiên cảm thấy tràng chửi rủa tôi dành cho Wolfsegg quả là thối tha, khó chịu, song tôi không đừng được nữa, phải làm sao tuôn cho hết ra; bởi quả thực, tôi quá mừng được quay lại Rome, tôi chưa bao giờ mừng rỡ hân hoan đến mức không sao kìm lòng được nữa, và biến Gambetti thành một thứ nạn nhân phải bất lực đứng nghe những lời tôi nguyền rủa Wolfsegg, những lời nguyền rủa thật ra là dành cho mọi thứ mang chất Áo cũng như chất Đức, hay nói cho cùng, dành cho tất tật những gì ở vùng Trung Âu ấy. Đối với tôi, Gambetti ạ, đất bắc trở nên khó chịu tự bao giờ, càng lên phía bắc, tôi bảo vậy, càng khó chịu, mà Wolfsegg, trong mắt tôi, đã là nằm ở cực bắc rồi, đã tới tột đỉnh của sức chịu đựng rồi. Gambetti thân mến ạ, tôi không biết làm sao mô tả hết để anh thấy hết, những buổi tối chán chường, dài như vô tận, các món ăn vô vị cùng rượu vang nhạt nhẽo, lại thêm những câu chuyện trao qua đổi lại gượng gạo ấy đã hành hạ, dằn vặt tôi ghê gớm đến mức nào. Anh khó hình dung nổi tại sao, đối với tôi - được trở lại Rome, được lên đồi Pincio, được lượn qua lượn lại trong các khu vườn Borghese, được phóng tầm mắt từ đây xuống thành Rome yêu quý - lại có nhiều ý nghĩa như thế. Chao ôi, thành Rome tôi tôn kính! Thành Rome đẹp tuyệt vời! Ai từng sống ở Rome lâu như tôi, muốn hay không muốn, người ấy cũng tự xây tường, bịt lối dẫn về một nơi như Wolfsegg, anh ta không thể quay lại đấy nữa, tịt đường rồi. Tôi ra vào các dinh thự ở đấy suốt bao nhiêu ngày, chỉ nhằm sao tự trấn tĩnh, nhưng vô hiệu. Tôi mất bao nhiêu lâu để loanh quanh trong các căn phòng dành cho tôi, với hy vọng rồi sẽ quen dần, nhưng tất nhiên, vẫn không quen nổi; đã biết bao nhiêu lâu tôi uổng công tìm cách, làm sao lưu lại Wolfsegg mà không bị cảm giác sắp phát điên ám ảnh. Có cả năm cái thư viện một lúc, tôi bảo Gambetti, thế mà bầu không khí phản trí tuệ lại nặng nề đến thế! Ở các nước La-tinh, một người dù rất bình dân cũng đã ít nhiều có thị hiếu, có văn hóa rồi, tôi bảo vậy, còn ở Wolfsegg, một tí teo thị hiếu cũng chẳng ma nào có. Từ lâu lắm rồi, dân chúng Áo không còn chút thị hiếu nào nữa. Nhìn vào đâu cũng chỉ rặt những thứ cực kỳ vô vị và nhạt nhẽo. Mà thói thờ ơ, tật lãnh đạm mới lan tràn làm sao chứ. Tôi bảo với Gambetti, cứ như thể bây giờ người ta chỉ cần có dạ dày là đủ, đầu óc đâm ra thừa thãi. Một đám dân đần độn, tôi nói vậy, trong khi quê hương họ tuyệt vời là thế, đất nước họ đẹp có một không hai như thế. Thiên nhiên họ đẹp không nơi nào sánh nổi, vậy mà họ vô cảm, hờ hững với nó. Một nền văn hóa lâu đời, vốn đáng kính là thế, tôi nói, mà giờ đây, vô văn hóa dã man đến vậy, một sự phản văn hóa kinh hoàng nhất thì đúng hơn. Ấy là chưa nói đến nền chính trị tồi tệ ở đấy. Ôi, không biết loài súc sinh ghê tởm nào đang cai trị đất nước Áo ngày nay! Những kẻ hạ đẳng leo lên ngồi tít bên trên. Những kẻ đáng ghê tởm nhất, những tên hung ác nhất đang nắm mọi thứ trong tay và chúng đang manh tâm hủy hoại hết thảy. Đang ra tay chính là bè lũ phá hoại say sưa cuồng nhiệt, là tụi bóc lột người không nương tay, cái bọn choàng vỏ chủ nghĩa xã hội kiểu Áo ấy. Chính quyền này đang vận hành một bộ máy hủy diệt đồ sộ, ngày ngày hủy hoại tất tật những gì tôi quý mến. Phố phường thay hình đổi dạng, tôi bảo vậy, đến mức không còn nhận ra được nữa, làng quê trở nên xập xệ đến mức đáng thương. Bao nhiêu vùng thiên nhiên đẹp đẽ hôm xưa trở thành nạn nhân của thói tham tiền hám lọi, vừa khát khao chức trọng quyền cao của lũ dã man tân thời. Cây cối đẹp chỗ này, chúng cho đốn đi, ngôi nhà cổ tráng lệ nơi kia, chúng cho kéo đổ, chốn khác có dòng suối ngọt đổ xuống thung lũng, chúng cũng cho lấp đi bằng được. Mọi thứ đẹp đẽ đều bị giẫm đạp, chà nát. Và tất cả đều nhân danh chủ nghĩa xã hội kiểu Áo, theo một lối giả nhân giả nghĩa ngoài sức tưởng tượng. Tất tật những gì, dù chỉ tí ti, dính dáng đến văn hóa đều bị nghi vấn, cho đến khi tuyệt diệt mới thôi. Chính là bọn chuyên nghề hủy diệt, lũ sát thủ ấy, đang ra tay. Ta đang đối mặt với bọn chuyên hủy diệt và bè lũ sát thủ đó, chúng đang hành sự ở mọi nơi, mọi chỗ. Bọn chuyên nghề hủy diệt lẫn bọn giết thuê, chém mướn ấy phá phách rồi triệt hạ phố phường, giết hại, rồi hủy diệt đồng quê. Các cặp mông phì nộn của chúng bít chật hàng ngàn, hàng trăm ngàn văn phòng sở này, bộ nọ ở mọi vùng miền, mọi xó xỉnh quốc gia này, và trong đầu chúng không chứa bất cứ thứ gì khác, ngoài cơn say phá phách và hủy hoại, trong đầu chúng không toan tính bất cứ chuyện gì khác, ngoài chuyện làm sao tận diệt, làm sao xóa sạch sành sanh mọi thứ nằm giữa hồ Neusiedlersee và Bodensee. Thành Wien đang bị đẩy gần đến chỗ chết, Salzburg cùng bao nhiêu thành phố tuyệt vời khác cũng vậy, những thành phố, tôi nói với Gambetti, tuy anh chưa đến, nhưng thật sự là những thành phố nằm trong số thành phố đẹp nhất thế gian này. Phong cảnh ta thấy, mỗi khi từ Wien lên đường xuyên đất Áo ta vẫn qua, cũng bị hãm hại và gần như tuyệt diệt. Suốt quãng đường, hình ảnh ghê người này nối tiếp hình ảnh ghê người khác, các cảnh tượng quái dị chen nhau diễu qua trước mắt ta, và nếu vẫn khăng khăng bảo nước Áo hiện giờ rất đẹp, thì quả là quá ư dối trá. Đất nước này, sự thực, từ lâu đã trở thành nạn nhân của các dịch vụ làm ăn xảo trá, bị hủy hoại, bị phá phách, bị nhồi nặn hoàn toàn tùy tiện, một đất nước khó lòng còn xó xỉnh nào nguyên vẹn. Bảo đất nước này đẹp là dối trá, bởi sự thực, đất nước này đã bị giết hại mất rồi. Có cần phải thế không, tôi hỏi Gambetti, để ngay trong thế kỷ này, con người ta chiếm đoạt mảnh đất đẹp nhất trần đời ấy, rồi giết hại và tuyệt diệt nó? Sau nhiều năm xa cách, ta không còn nhận ra cả làng xóm lẫn dân quê nữa đâu, Gambetti ạ. Mới vài năm trước đây thôi, họ còn là những con người thế nào mà bây giờ, họ lại trở thành những kẻ như thế! Ai nấy dường như đều mắc thứ bệnh chết người - vô bản lĩnh, phi cá tính, tham lam, tàn nhẫn, hèn hạ, dối trá, giả nhân giả nghĩa, đê tiện. Ngày nay, để đạt được đôi mục tiêu thấp hèn, những kẻ như thế có thể làm tất cả, kể cả những trò tàn nhẫn đáng tởm nhất. Anh khấp khởi vào các thôn làng ấy, những tưởng sẽ hưởng niềm vui tái ngộ, ai ngờ gặp toàn chuyện độc địa, khiến anh chả mấy chốc phải quay lưng tháo chạy. Anh tìm thăm lại các thành phố hôm xưa từng tráng lệ là thế, để rồi gằm mặt thất vọng bỏ đi, nặng trĩu lòng trước cảnh tượng tan hoang của các thành phố ấy. Chúng đã bị bọn tà ma mới chà xát, triệt hạ mất rồi, anh chỉ còn tìm thấy chúng trong sách cổ, trên tranh khắc thời xưa nữa mà thôi. Thực tiễn hôm nay đã tuyệt diệt chúng từ lâu. Như những ngôi nhà tráng lệ ở Salzburg, vùng Thượng Áo chẳng hạn, hay ở Hạ Áo cũng vậy thôi, đã mất hết diện mạo vốn có của chúng, trong cơn sốt sính kiểu cách tân thời, người ta mù quáng cắt xén, băm vằm diện mạo tuyệt vời và cổ xưa trăm năm có lẻ đó, giật đổ tất cả những gì đẹp đẽ vốn có trên các tòa nhà ấy, để giờ đây, với vẻ ít nhiều giễu cợt, chúng trơ trẽn phô bộ mặt rách nát, bầm giập ra trước những cặp mắt xót xa của kẻ qua đường, người còn nhớ hôm xưa trông chúng thế nào. Tôi bảo Gambetti, nhìn đâu cũng rặt những mặt nhà sần sùi tan nát, kinh khủng như bệnh hủi. Chưa kể bọn chúng còn thẳng tay moi gan mổ ruột hẳn cả nhiều khu phố một lúc, tôi nói với Gambetti, khiến chúng mãi mãi què quặt, đổ nát. Bọn kiến trúc sư đã làm méo mó mặt đất chúng ta - tôi bảo vậy - chính cái bọn kiến trúc sư là bọn đã được tụi chính trị gia tàn nhẫn kích động và xúi giục gây nên sự méo mó dị dạng đó. Thoạt tiên, có thể tưởng chiến tranh đã tàn phá phố phường, làng mạc chúng tôi; song thực ra, trong mấy chục năm gần đây, phố phường, làng quê chúng tôi bị nền hòa bình quái đản tàn phá còn thậm tệ hơn nhiều, qua những vụ làm ăn bất lương của bọn cầm quyền, cái bọn đã dung túng cho tụi kiến trúc sư hung đồ thả sức hoành hành phá phách ấy. Và anh có biết chúng đã hoành hành ghê gớm đến thế nào trong mấy chục năm qua! So với sự tàn phá của chúng, mức độ tàn phá do chiến tranh gây ra thật không đáng là bao, tôi quả quyết với Gambetti như thế. Và không ở đâu như ở Áo, sự tàn phá lại xảy ra như thế. Không ở đâu trên đất châu Âu này, sự tàn phá lại ác nghiệt đến thế. Tôi bảo Gambetti, bọn chúng lừa bịp dân chúng, che mắt bịt tai con nhà người ta để rảnh tay đào bới, đục bỏ, rốt cuộc, không ít thì nhiều, hủy dập hoàn toàn cả làng quê lẫn phố phường của họ. Hàng chục năm nay, bọn chúng thuyết giáo, nhồi nhét vào đầu con người ta một thứ thị hiếu cực kỳ vô vị và rẻ tiền. Mấy chục năm trở lại đây, tôi bảo Gambetti, chúng tôi đội trên đầu biết bao nhiêu vị Bộ trưởng đầu cơ trục lợi, vừa độc ác vừa trắng trợn, những kẻ ngồi lì ở các ghế Bộ trưởng cho đến khi nào triệt hạ, tàn phá xong các cánh đồng quê, các đô thành, của chúng tôi mới thôi, lại phải cõng trên lưng thêm biết bao nhiêu bọn chuyên nghề hủy dập quốc gia, mà cũng là đất nước của chúng tôi ấy, tôi nói với Gambetti, cứ nghĩ mà phát khiếp. Nhưng, trên một đất nước mà hàng chục năm nay chỉ độc có sự thô lỗ và thị hiếu rẻ tiền hoành hành cai tri, thì cũng chẳng có gì là lạ, khi giờ đây kết cục mọi mặt lại thảm hại đến thế này. Bởi vì, lúc ra tay hủy hoại, tàn phá, hủy dập phố phường, làng mạc chúng tôi, thì bọn cầm quyền cũng tàn sát và hủy hoại luôn cả linh hồn lẫn chí khí nhân dân chúng tôi vậy, tôi nói với Gambetti. Linh hồn đồng bào tôi bị hủy hoại, bản lĩnh họ trở nên thấp hèn, tính khí họ đâm tàn nhẫn. Tôi bảo, hiện giờ, ở đâu cũng bị bầu không khí hằn học bao trùm, đặt chân đến bất kỳ đâu, anh đều phải đối mặt với tính khí hằn học, ác hiểm đó. Anh bắt chuyện với một người anh vẫn tưởng lương thiện như xưa, nhưng anh ngã ngửa ra ngay rằng đây là một kẻ nham hiểm và thấp hèn, bởi con người lương thiện hôm xưa ấy, theo trào lưu biến đổi tâm tính chung, đã biến thành kẻ nham hiểm và hèn hạ tự bao giờ rồi, và hắn cũng chẳng buồn che đậy hay giấu giếm sự sa đọa, thoái hóa đó, hắn còn ngang nhiên phơi bày nó ra trước mặt bàn dân thiên hạ. Anh bước chân vào một ngôi làng mà trong ký ức anh, vốn là nơi thân tình và cởi mở với anh, thì chẳng mấy chốc anh đã phải ngao ngán nhận ra, rằng nơi đây đã trở nên hằn học, không còn chút gì cởi mở nữa, rằng anh chỉ bắt gặp mối nghi hoặc hèn hạ mà thôi. Cả nước Áo biến thành cửa hàng bán buôn lèo lá, trong đó người ta chỉ còn cò kè mặc cả, bớt một thêm hai với nhau, tên này bịp kẻ nọ nữa mà thôi. Anh đinh ninh anh đang rong ruổi thăm thú một đất nước đẹp đẽ, nhưng hóa ra, anh đang loanh quanh trong một cửa hàng bách hóa thì thụt bất lương. Anh chắc mẩm đang đến thăm một đất nước văn hóa, thì đâu đâu anh cũng bị cái dã man và thô thiển làm tổn thương. Tôi bảo Gambetti, ngay từ đầu, bầu không khí ngu muội ở đấy sẽ làm anh ngạt thở. Các bức tượng, tôi nói thêm, từ thế kỷ trước từng được dựng đặt khắp nơi kia, dường như cũng đang chán ngán nhìn xuống đống hỗn mang khôn tả do bọn cầm quyền tạo ra. Gambetti ạ, tôi nói, anh không thể hình dung nổi, mọi thứ trở nên ghê tởm và lố bịch đến thế nào. Những thứ đáng ghê tởm ấy, những món lố bịch, vô vị và nhạt nhẽo ấy, hẳn sẽ không thể có ở nước Ý, tôi nói, ở lầy Ban Nha cũng không. Không ở đâu như ở nước Áo, bọn họ lại nhắm mắt nhắm mũi rập khuôn các khẩu hiệu ngớ ngẩn cổ xúy cho tiến bộ một cách nghiêm túc như thế, tôi nói, và do đó, hủy hoại hết thảy. Ở Áo, mọi thứ ngu xuẩn đều được rập khuôn nghiêm túc, đều được bắt chước nghiêm chỉnh, ở mức triệt để nhất, tôi nói với Gambetti, và tự anh, anh khắc biết, như thế có nghĩa là gì. Cho đến giờ tôi vẫn một mực đinh ninh cái gọi là chủ nghĩa xã hội kiểu Áo ấy, chỉ là như cơn nhức đầu vô hại, sớm muộn khắc qua thôi, tôi bảo Gambetti, ai dè, nó quả thực là thứ bệnh gây tử vong đáng sợ. Thứ chủ nghĩa xã hội tôi muốn nói đến ở đây, Gambetti ạ, là thứ chủ nghĩa xã hội đang thịnh hành, tức là thứ giả dối, quỷ quyệt, bị xuyên tạc một cách vô liêm sỉ nhất. Hiện nay, ta không có chủ nghĩa xã hội thực sự, nó không tồn tại ở bất kỳ đâu trên thế giới này cả, anh cần biết điều đó, đâu đâu cũng chỉ một thứ chủ nghĩa xã hội giả dối, trí trá, bị xuyên tạc ấy mà thôi. Cũng như những người xã hội chủ nghĩa hiện nay không phải là những người xã hội chủ nghĩa chân chính, mà về thực chất, chỉ là những kẻ giả dối, xảo quyệt, trí trá không hơn không kém. Thế kỷ này đã thành công biết bao trong việc bôi tro trát trấu vào thanh danh chủ nghĩa xã hội - vốn là thứ đáng tôn đáng kính - đến mức anh phải buồn nôn, tôi bảo Gambetti vậy. Giá các vị tiền bối hôm xưa từng mang nặng đẻ đau thứ chủ nghĩa xã hội chân chính và từng chắc mẩm đã xây được nền, đặt được móng cho nó trường tồn mãi mãi mà biết được bọn đệ tử xấu xa của các vị đã biến con đẻ các vị thành thứ gì, thì hẳn các vị phải đội mồ chồm dậy. Các vị sẽ phải đội mồ chồm dậy, nếu các vị mở mắt nhìn thấy được những thứ mà ngày nay người ta đem ra rao bán dưới danh hiệu Chủ nghĩa xã hội cao quý của các vị và dúi vào tay dân chúng khắp nơi. Các vị sẽ điên tiết đội mồ chồm dậy, nếu các vị thấy những trò bịp bợm bẩn thỉu nào đang đội danh Chủ nghĩa xã hội cao quý ấy của các vị để diễn ra ở châu Âu, cũng như trên thế giới này. Các vị sẽ phải bàng hoàng đội mồ nhổm dậy, nếu các vị được nghe nói tới chiêu trò bịp bợm chính trị gớm ghê chưa từng có này. Các vị sẽ đội mồ nhổm dậy, đội mồ ngồi dậy, tôi nói đi nói lại nhiều lần với Gambetti như thế. Tôi cũng bảo Gambetti, còn lâu, ít nhất một năm nữa tôi mới quay về chốn ấy, thế mà bây giờ tôi lại phải lập tức quay về đó. Trong ảnh, dáng ông anh tôi đứng có vẻ hơi co ro khúm núm, tôi tự nhủ, và mặc dù trông khá sang trọng, gã vẫn chỉ là gã nhà quê, trong khi tôi bao giờ cũng là dân thành thị, dân phố lớn, dù có ăn mặc theo kiểu thị thành đến đâu đi nữa, bản mặt nhà quê của gã vẫn lộ rành rành. Y hệt ông bố gã, tuy rất hay đóng bộ kiểu thị thành, như ông anh tôi, nhưng bao giờ ông cũng lộ rõ chất quê mùa. Thế rồi, bởi mẹ muốn thế, họ lên xe, hay đúng hơn là đã lên xe đến Wien nghe nhạc kịch - vào dịp Phục sinh thì nhất thiết phải là vở Parsifal - rồi vào khách sạn Sacher dùng bữa, ở Wien, họ không ăn tối, mà dùng bữa tối, họ không ăn trưa, mà dùng bữa trưa, họ dùng bữa điểm tâm, rồi đi dạo tay ba, hoặc - gặp lúc mềm lòng, rộng bụng - thì mời bà cô Elisabeth tôi sống ở Wien đi cùng, để thành tay tư kéo nhau qua khu Graben, lượn hết phố Kãmtnerstrasse đến tận khu Ring. Y phục thị thành, nhưng thoáng nhìn, ba vị lộ ngay tướng nhà quê. Cả bọn dắt díu nhau đến những cửa hàng danh tiếng nhất, ở đấy, mẹ tôi sẽ chọn mua bộ trang phục cắt theo kiểu mẫu Milano hay Paris - đắt tiền nhất, mà cũng vô duyên, khiếm nhã nhất, rồi đóng lên người, xúng xính đến Linz, vào nhà hát, hoặc đến Salzburg nghe buổi giao hưởng trong chương trình vé tháng, mà từ cả chục năm nay ông bà vẫn đặt mua. Trên ảnh, trông ông anh tôi có vẻ khỏe khoắn hơn ngoài đời. Nhưng thật ra, gã đã kịp nhiễm mọi thứ bệnh bố gã mang trong người rồi, chỉ chưa phát ra như ở bố thôi, mà vẫn còn ủ, ngấm ngầm, âm ỉ. Nhưng tôi, chỉ nhìn gương mặt gã, chỉ nhìn dáng người tội nghiệp từ trong ra ngoài của gã trong ảnh là tôi đủ thấy các căn bệnh gã mắc rồi. Có lần tôi bảo Gambetti, bọn họ ai cũng có dáng điệu tội nghiệp, bắt nguồn từ tính cách tội nghiệp của họ. Ở họ, cả trong lẫn ngoài, mọi thứ đều tội nghiệp, và tôi giảng giải cho Gambetti biết tội nghiệp là thế nào. Ở Ý, người ta không biết khái niệm này, trong tiếng Ý không có từ nào tương ứng, cũng không thể dịch nó cho đúng nghĩa được. Bọn họ dắt nhau vào nhà hát nhạc kịch hay nhà hát kịch nói, song của đáng tội, chỉ là để ngồi ngán ngẩm, ngáp lên ngáp xuống. Ấy nhưng cứ hết buổi diễn, bao giờ họ cũng vỗ tay, dậm chân hoan hô cuồng nhiệt, chẳng buồn để tâm giữ vẻ sang trọng, tinh tường tế nhị nữa chỉ vì họ đã mất rất nhiều tiền để mua vé, ẳ mua với giá gốc, là chuyện dân thành Wien chính hiệu chẳng bao giờ làm, dân Wien chính hiệu không bao giờ mua vé giá gốc, cùng lắm chỉ trả một nửa, họ dành vé giá gốc cho đám dân ngoại quốc hay cánh nhà quê thả sức mua, và đám này, vốn dĩ phải bỏ tiền mua vé gốc giá cao, nên cũng thường vỗ tay hoan hô nồng nhiệt hơn cả. Trước tủ kính trưng hàng của các cửa hàng danh tiếng, nhưng chưa hẳn đã là tốt nhất, bao giờ chúng tôi cũng phải cùng với mẹ dừng lại ngắm nghía. Bước vào các cửa hiệu này, bao giờ bà cũng ngẩng cao đầu, và tôi chưa bao giờ chứng kiến bà ra khỏi một cửa hiệu danh tiếng nào đấy mà không mua sắm gì. Cứ qua hai, ba cửa hiệu như thế, thì y như rằng, cả tôi lẫn những ai đi cùng đã phải tay xách nách mang một lô một lốc những túi với bị, bao giờ túi đeo túi xách quả thật nặng không tha được nữa, bà mới chịu thôi và để cho cả bọn, ai nấy mệt nhoài, lê lết kéo nhau về nghỉ ở khách sạn Sacher hay Bristol, là hai nơi chúng tôi thường dừng chân trọ. Nếu được, bà đã mua bằng hết đem về Wolfsegg cho hả. Bà làm gì với bao nhiêu thứ thế này - thể nào bố tôi cũng cằn nhằn - rồi bà có mặc đến đâu? Ở Wolfsegg, bà không mặc được, bởi trông buồn cười đến chết; ở Salzburg chả ma nào để ý xem mấy thứ này quý giá ra sao, ở Linz cũng vậy, chứ chưa nói ở Weis. Rồi mọi thứ cứ treo đấy trong tủ, cho đến khi hết thời, bà lại quẳng hoặc đem cho chứ gì. Song, nào mẹ tôi có chừa. Đi Wien về, số kiện hàng bà mang theo bao giờ cũng lên hàng tá, chưa kể chừng nửa tá nữa, do các cửa hiệu sẽ còn gửi vế sau. Ấy là số quần áo bà mua lúc vắng mặt chúng tôi. Mẹ tôi bao giờ cũng chi cả đống tiền bạc để sắm quần mua áo, mặc dù bà chẳng bao giờ mặc hết, và nếu có mặc, thì cũng hai, ba lần là cùng, rồi thì vứt bỏ hoặc cho đi. Ấy nhưng, thấy bảo vậy, nếu tụi em gái tôi hứng lên, muốn mua áo váy tân thời thì liệu hồn! Ở Wien, chúng chưa bao giờ được phép mua bất kỳ chiếc áo nào; thậm chí ngay cả khi bốn chục tuổi đầu rồi, cũng không được phép. Bốn chục tuổi đầu, tụi nó cũng chỉ mới đôi lần được mua thứ áo váy hạ giá ở Weis mà thôi, bởi vì cánh thợ may ở Lambach trước sau vẫn là những người may quần áo cho chúng nó, thứ quần áo Dirndl đáng ghét, mà bà mẹ chúng tôi - như tôi đã kể - mỗi năm hai lần, thuê thợ may đo. Đến vải may, chúng nó cũng chẳng được phép chọn, bởi bà mẹ - mặc dù chính bà, chưa bao giờ có thể coi là có khiếu thẩm mỹ - từ xưa đến giờ vẫn khăng khăng, hai đứa không đủ thị hiếu để tự chọn. Các phù điêu trên các bộ váy Dirndl này, nếu không quá to, thì sẽ quá nhỏ, hoặc màu sắc đá nhau, cổ áo không quá rộng thì quá hẹp, tay áo hoặc quá ngắn hoặc quá dài, váy bao giờ cũng dài quá cỡ ít nhất hai chục phân và yếm bên ngoài không khi nào hợp với váy bên trong. Mẹ tôi bao giờ cũng diện hai đứa con gái bà như diện hai con búp bê, bởi bà bao giờ cũng đối xử với chúng nó như đối xử với hai con búp bê vậy, và nói cho cùng, chưa bao giờ thấy chúng nó khác hai con búp bê thế nào cả. Cũng như nhiều bà mẹ khác, ngay từ lúc đẻ con ra, bà đã luôn luôn xem hai đứa con gái bà như hai con búp bê. Và có lẽ sẽ không phải là quá lời, để bảo rằng hình như bà cố tình sinh nở hai con búp bê, chứ không phải hai đứa con gái. Dù đã có tuổi, dường như bà vẫn muốn có một, hai con búp bê để chơi thì phải. Hai đứa con gái bà nào khác gì hai con búp bê cho thú chơi của bà, cho nên bà cũng chưa bao giờ buông chúng ra cả, và chúng phải nhất cử nhất động theo ý bà, hàng ngày bà mặc quần khoác áo cho chúng, bón thức ăn, rót nước uống, sáng dẫn đi chơi, tối bế lên giường, ru chúng nó ngủ, y như với mấy con búp bê. Bốn chục tuổi đầu rồi, mà hai con búp bê ấy - tức các em gái tôi - vẫn phải chiều thú chơi búp bê của mẹ chúng, tôi nghĩ bụng. Nhưng cả gã anh tôi, suốt đời cũng sống cuộc đời một con rối, nói cách khác, làm thằng hề cho mẹ tôi, ngay từ đầu, bà đã nuôi dạy gã thành một thứ con rối phụ, đặng thay thế con rối chính, tức chồng bà, mỗi khi ông đi vắng. Với mẹ tôi, một người nghiện chơi búp bê, bọn em gái tôi quả là hai con búp bê biết nói thật; bà có thể bắt chúng cười hay khóc tùy ý bà, đuổi ra xa hay triệu đến gần khi nào bà muốn, mặc hay cởi quần áo chúng nó, tùy ý và tùy lúc bà ưng, còn chồng bà, ông bố tôi, và con trai bà, gã anh tôi, đều là hai con rối nữa của bà, bà có thể giật dây tùy hứng. Mẹ tôi nghiện thú chơi con rối, một thú chơi khá ư tai ác. Bà đã biến Wolfsegg thành một thế giới vận hành hoàn hảo của các loại con rối và búp bê, trong đó mọi thứ đều chạy ro ro, răm rắp theo lệnh bà. Wolfsegg biến thành ngôi nhà búp bê và mọi thứ xung quanh nó - thành thế giới búp bê của bà. Vì tôi không muốn làm búp bê trong ngôi nhà và thế giới búp bê đó, cho nên tôi đã sớm tự tách mình khỏi ngôi nhà và thế giới ấy. Và, đứng từ bên ngoài nhìn vào, từ xa nhìn về, ngôi nhà búp bê ấy, thế giới búp bê ấy, trông còn nặng nề, ngột ngạt, còn đáng sợ hơn bội phần. Tôi bảo Gambetti, Wolfsegg là ngôi nhà búp bê, bao quanh nó chính là thế giới búp bê do mẹ tôi điều khiển một cách tàn nhẫn, phi nhân tính, vâng, đến rùng rợn. Gambetti phì cười, bảo tôi giỏi phóng đại, bi quan quá đáng, theo kiểu rất chi là Áo, tiêu cực đến mức vô lý. Đáp lại, tôi chỉ bảo, cái anh gọi là phóng đại hay cường điệu, thật ra, đã là rất kiềm chế, xà xẻo, bớt xén khá nhiều so với sự thật rồi đấy. Wolfsegg tôi mô tả cho anh so với Wolfsegg thật ở đời, vẫn còn thơ mộng chán. Gambetti ạ, tôi nói, anh không thể hình dung nổi Wolfsegg đâu, bởi anh chưa bao giờ có dịp đặt chân vào một ngôi nhà búp bê kinh khủng như thế, một cảnh quan ghê rợn chỉ dành riêng cho các loại búp bê và con rối như vậy quả là độc nhất vô nhị. Bố tôi, tôi nói anh nghe, là một con rối đã hơn bảy chục tuổi đầu, sở dĩ các khớp chân khớp tay ông khô cứng, sở dĩ đầu óc ông đờ đẫn cứng nhắc như thế, là vì suốt đời ông, ông toàn bị giậy dây, lên cót. Anh trai tôi, tôi bảo Gambetti, là con rối bốn chục tuổi đầu, gã cũng không cưỡng lại việc mình bị giật dây, gã đã đầu hàng, không dám chống lại bà mẹ ham mê các con rối đến mức quái đản ấy. Dân Đức, cũng như dân Áo, tôi bảo Gambetti, phần lớn đều bám mẹ, ở hai nước này, dân chúng xem uy tín người mẹ là bất khả xâm phạm, họ nâng các bà mẹ lên hàng thánh thần thiêng liêng, thế nhưng, trong đời thực, đa phần các bà chỉ là các bà mẹ chơi búp bê hay con rối đáng sợ mà thôi; các bà giật dây con cái, vặn cót gia đình các bà y như giật dây, vặn cót con rối vậy, đến khi cả con cái lẫn các đức ông chồng của họ lăn ra chết mới thôi. Ở Đức và ở Áo không có các bà mẹ như các bà mẹ các nước La-tinh; ở đó các bà mẹ tự nhiên, không phải mẹ búp bê. Còn ở Áo với Đức, tôi nói, chỉ toàn mẹ búp bê thôi và các bà mẹ này, cả đời họ, không làm gì khác ngoài việc giật kéo không nương tay các ông chồng, đứa con búp bê của họ, giật kéo cho đến khi các búp bê chồng, búp bê con lăn ra chết mới hả. Ở miền Trung Âu này, không còn các bà mẹ tự nhiên nữa, chỉ còn các bà mẹ giả tạo, tức là các bà mẹ nhân tạo, tôi bảo vậy, các bà mẹ búp bê, những bà mẹ, nói cho đúng, chỉ sinh ra thứ con cái nhân tạo, nghĩa là, thứ con cái ít nhiều giả tạo nữa mà thôi. Ngay cả trên các rẻo núi cao hẻo lánh, anh cũng không tìm thấy các bà mẹ tự nhiên nữa, độc các bà giả tạo. Và cố nhiên, các bà mẹ giả tạo này chỉ cho thứ con cái giả tạo ra đời; thứ con cái giả tạo này, đến lượt chúng, cũng chỉ đẻ ra con cái giả tạo. Cứ như thế, ngày nay ta chỉ còn thứ con người giả, con người nhân tạo, không phải con người tự nhiên nữa, thật là sai lầm, nếu ta bảo con người là tự nhiên, con người tự nhiên đó không còn nữa ở đời, con người ta gặp gỡ, giao lưu, chung đụng hiện giờ là những con người giả tạo, chúng ta sẽ hoảng sợ nếu chẳng may đụng phải con người tự nhiên, bởi ta bị bất ngờ, bởi đã từ lâu ta chỉ còn gặp thứ người giả, thứ người nhân tạo mà thôi, những người từ lâu đã thống trị thế giới này, một thế giới cũng đã từ lâu không còn tự nhiên nữa, mà trở nên hoàn toàn giả dối, một thế giới nhân tạo, Gambetti ạ. Thế giới nhân tạo đẻ ra con người nhân tạo và ngược lại, con người nhân tạo dựng nên thế giới nhân tạo; thế giới giả tạo đẻ ra thứ người giả tạo và ngược lại. Tuyệt không còn thứ gì tự nhiên nữa cả, tôi bảo Gambetti, tuyệt nhiên không, hoàn toàn không còn gì tự nhiên nữa. Song, ta vẫn luôn luôn tưởng, Gambetti ạ, mọi thứ là tự nhiên. Đó là ảo tưởng. Mọi thứ đều giả tạo, mọi thứ đều nhân tạo. Thiên nhiên không tồn tại nữa. Hiện giờ ta vẫn tưởng ta thưởng ngoạn thiên nhiên, trong khi đúng ra, ta phải hiểu ta đang ngắm nghía khung cảnh nhân tạo mới phải. Bởi vậy, tôi bảo Gambetti, mọi thứ lộn tùng phèo hết cả lên. Thật giả dối. Thật bất hạnh. Rối rắm đến mức tuyệt vọng. Ở đâu không còn thiên nhiên, thì đương nhiên, ở đó cũng không ai thưởng ngoạn thiên nhiên được nữa, Gambetti ạ, đó là điều hoàn toàn hợp lý, tôi bảo Gambetti thế. Bức ảnh ông anh tôi đúng vào khoảnh khắc leo lên chiếc thuyền buồm ở hồ Wolfgangsee đây, chụp gã đang ở dáng vẻ ra chiều sung sướng lắm, thế nhưng, thật ra, gã lại là kẻ bất hạnh nhất trên bức ảnh này. Gương mặt hai đứa em gái tôi, trên bức ảnh chụp trước biệt thự của chú Georg tôi ở Cannes, như đông cứng lại trong vẻ hân hoan sung sướng, song chính vì thế, trông còn khổ sở hơn nhiều so với ngoài đời. Bố mẹ tôi khốn khổ, bất hạnh ngoài đời thế nào thì trong bức ảnh chụp trên sân ga Victoria ở London, trông hai vị bất hạnh, khốn khổ y như thế, mặc dù ông bà gắng gượng hết sức, làm cho ra vẻ đang sung sướng lắm. Tôi cứ nghĩ, không biết cái gì khiến con người ta lúc phơi mặt ra cho người khác chụp, luôn luôn có ý muốn, làm sao để trong ảnh, trông mình sung sướng, mãn nguyện mới được, hay ít nhất, cũng đừng để lộ mình đau buồn? Ai ai cũng chỉ muốn được chụp tươi rói, hơn hớn hạnh phúc, chứ không bao giờ bất hạnh, buồn đau cả, không bao giờ muốn chụp mình là kẻ bất hạnh, bao giờ cũng chỉ muốn được chụp lúc mình hoàn toàn bị xuyên tạc, không bao giờ muốn chụp một tấm hình chân thực, tức là bức hình một kẻ bất hạnh nhất. Mọi người, ai cũng muốn được chụp hình sao cho thật đẹp đẽ và hạnh """