"
Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa - Nhị Hồ full prc pdf epub azw3 [Phản Gián]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa - Nhị Hồ full prc pdf epub azw3 [Phản Gián]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
Chương 1:
Chương 2:
Chương 3:
Chương 4:
Chương 5:
Chương 6:
Chương 7:
Chương 8:
Chương 9:
Chương 10:
Chương 11:
Chương 12:
Chương 13:
Chương 14:
Chương 15:
Chương 16:
Chương 17:
Chương 18:
Chương 19:
Chương 20:
Chương 21:
Chương 22:
Chương 23:
Chương 24:
Chương 25:
Phụ Lục Ảnh -
ĐIỆP VIÊN GIỮA SA MẠC LỬA
Nhị Hồ
dtv-ebook.com
Chương 1:
1.
Sài Gòn 1954.
Giữa tháng Sáu, trời vần vũ, mây thấp sạm đen. Mùa mưa đến muộn, bù lại, những trận mưa lớn trút nước xuống thành phố - Bên cạnh những cảnh sôi động như các sòng bạc vẫn mở trong "Đại thế giới", những thú vui "nhất dạ đế vương" vẫn diễn ra ràng các khách sạn lớn, các khu "Bình khang".. - Sài Gòn - Chợ Lớn có những đường phố ngập nước, xe hơi qua lại như xuồng máy chạy trên sông. Các miệng cống hai bên bờ những con đường lớn, nước xoáy tuôn vào như nghẹt thở...
Khu trung tâm thành phố, quanh dinh Norodom nhà thờ Đức Bà, khô ráo, yên ắng hơn. Nhất là về đêm, màn mưa thu hẹp ánh sáng những ngọn đèn đường, các con đường càng có vẻ trống vắng, những ngôi biệt thự bên đường như sớm đi vào giấc nghỉ ban đêm. Đường Garcier sau lưng nhà thờ đức Bà là một con đường như vậy. Bên đường, nhà số 8 là một ngôi biệt thự trệt như đang nấp vào bóng tối của màn mưa và các thứ bóng cây quanh nhà, mặc dầu trước cổng, trong sân, trong hành lang phía trước và ở góc nhà điện vẫn sáng. Ánh đèn phía trước cho thấy một hàng rào sắt và hai cánh cửa sơn xanh khép kín. Trong sân rải sỏi. Hành lang mặt trước biệt thự tưởng chừng trống vắng, nhưng nếu vào gần, ngoặt sang tay mặt, sẽ thấy khuất vào bóng tối có một người ngồi, vừa chăm chú
nhìn xéo ra sân và mặt đường phía trước, vừa có thể trông chừng vào căn phòng bên trong đang có một người ngồi bên chiếc bàn lớn. Đó là một người Mỹ cao lớn, bộ mặt khá hấp dẫn; đôi mắt xanh nâu sắc sảo, nụ cười nửa miệng châm biếm, hàng ria mép tỉa công phu: đại tá Edward G. Lansdale.
Người trước hành lang là một tên người Việt thân hình rắn chắc, tóc cắt cao, mắt sắc, hàm râu quai nón cạo sạch vẫn để lại dấu vết màu xanh trên da mặt, làm rộng thêm khuôn cằm khỏe mạnh. Hai cánh tay hắn trần trụi cuồn cuộn bắp thịt, cổ lớn như cột trụ. Tuy tuổi đã bốn mươi, hắn vẫn giữ được phong thái một võ sĩ từng lên đài. Mười năm trước, Tý là một võ sĩ chuyên nghiệp, từng hạ nhiều đối thủ trên các vũ đài ba nước Đông Dương. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, thiếu tá Lucien Conein được Mỹ cử qua giúp Bộ tư lệnh viễn chinh Pháp ở Việt Nam đã phát hiện ra tên võ sĩ này và tổ chức hắn làm điệp viên.
Suốt bốn năm cộng tác, Tý đã tỏ ra rất mực trung thành và được việc. Vì vậy, Edward G. Lansdale sang, ở riêng trong ngôi biệt thự kín đáo này, Conein đã bố trí Tý sát bên viên sĩ quan cao cấp đó của CIA, vừa làm quản gia, hầu cận, vừa cận vệ.
Edward G. Lansdale đang dùng bữa ăn đêm thường lệ với một đĩa thức ăn nguội và một cốc vang do Tý mang vào, vừa đọc báo trong ánh đèn bàn dịu mát dưới bóng chao xanh. Tý lui trở ra, ngồi lẫn trong bóng tối trước hành lang.
Ngôi nhà tưởng chừng như ngủ yên, bỗng có tiếng còi xe hơi nhấn nhẹ, nhưng nghe rất rõ trước cổng. Tý vội vàng đứng lên đi ra. Lát sau, một tên Mỹ khoảng ba mươi tuổi, mở cửa bước vào, Lansdale ngẩng mặt nhìn lên:
- Philipps hả. Có việc gì đấy?
Viên trung úy cận vệ trưa mới vào tiến lại bê n bàn: - Thưa đại tá, có điện của Trung tâm.
Mở chiếc cặp bìa đen, Lansdale nhẩm đọc:
"Ad gửi Brod
Đã nhận được báo cáo. Đồng ý những đề nghị của anh. STOP.
Cần nhanh chóng chặn đứng mọi ý đồ của Pháp tại Việt Nam. STOP.
Diệm sẽ về Sài Gòn ngày 25/6/54. STOP FINAL".
Lansdale chậm rãi gập cặp bìa để sang bên cạnh, ra hiệu cho Philipps ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Tý mang lên hai ly cà-phê còn bốc khói. Lansdale vừa nhấp từng ngụm cà-phê vừa hỏi:
- Bên đó công việc tiến đến đâu rồi?
Philipps vẫn cầm chiếc ly trên tay:
- Thưa, trung tá Chuck Hash ở Hà Nội chưa có tin gì thêm ngoài báo cáo hôm qua đã trình đại tá. Trung tá Sam Karich còn làm việc với linh mục Nguyễn Văn Thuận tại Huế. Trung tá Ed Quereau đi Vĩnh Long gặp giám mục Ngô Đình Thục đã về hồi tám giờ tối, sẽ sang báo cáo đại tá vào sáng sớm mai.
- Nhà cửa xong chưa?
- Thưa đại tá xong cả rồi. Ba căn nhà hướng ra hai mặt đường khác nhau, phía sau thông thương qua lại kín đáo. Phòng điện đài đặt dưới hầm rượu, ngay bên trên là phòng làm việc của đại tá. Phòng họp chung ở căn nhà trong cùng. Trên lầu, cả hai căn ngoài kê hàng tủ đứng trong chửa bao cát, bố trí không thua gì một lô-cốt chiến đấu. Vũ khí đã nhận bên phái bộ MAAG chuyển về rồi.
Lansdale đã từng chung sống và hoạt động với mười hai tên sĩ quan cấp dưới suốt bốn năm ở Philippine. Hắn tin cậy vào khả năng của từng tên, đặc biệt ba viên trung tá trợ lý đã gần hai mươi năm hoạt động tình báo ở nước ngoài có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ, về chống du kích khi chúng hoạt động ở Nam Tiều Tiên và Thượng Hải. Thế giới chiến tranh lần thứ hai, cơ quan CIA tung chúng vào các binh chủng, đào tạo thành chuyên viên hàng hải, cơ khí, hóa học... Chúng vừa thông thạo chiến đấu như bất cứ tên lính nào ngoài mặt trận, vừa có thủ đoạn ám sát, bắt cóc, gây đoạn, lật đổ chính quyền. Lansdale ít khi phải phàn nàn mỗi khi giao nhiệm vụ cho chúng.
Đặt chán đến Sài Gòn, Lansdale lại được thuộc viên Lucien Conein, một điệp viên đã từng có mặt gần mười năm ở Việt Nam đích thân đưa đi thăm các thành phố lớn từ Hà Nội vào Nam, và báo cáo chi tiết tình hình về mọi mặt.
Lansdale đã nhận thấy những khó khăn mà Ngô Đình Diệm sẽ phải đương đầu, cũng chính là những khó khăn của bản thân hắn. Hắn cho rằng Pháp đã sai lầm nghiêm trọng trong việc buông thả, chưa nói đến khuyến khích cho các phe phái vũ trang cát cứ từng vùng, đẩy hàng triệu dân bản xứ đến chỗ căm thù vì đã để cho các
"lực lượng bổ sung" tự do cướp bóc, tàn sát. Nào tập đoàn Trần Văn Soái ở miền Tây, nào Le Roy ở Bến Tre, Nguyễn Thành Phương ở
Tây Ninh. Ngay tại Sài Gòn - Chợ Lớn đây, Bảy Viễn tách khỏi các lực lượng Binh Xuyên khác, về đầu hàng Pháp, được giao nắm trọn quyền công an, cảnh sát. Năm ngàn lính của hắn tự do lộng hành, không còn kể một thứ luật pháp nào...
Lansdale cúi xuống cho Philipps bật lửa châm điếu thuốc hắn vừa gắn lên môi, thở nhẹ từng vòng khói:
- Chúng ta đang ở trong thành phố hầu như sống theo luật rừng này, nguy hiểm đấy.
Hỏi coi Joe Redich về chưa, kêu điện thoại bảo đến gặp tôi gấp!
Chỉ một lúc sau lại có tiếng xe hơi trước cổng. Một tên Mỹ khác vào. Đó là Joe Redich, cũng như R. Philipps, là hai cận vệ tin cậy của Lansdale. Chúng nói thạo tiếng Pháp, được huấn luyện Thái cực đạo đến hạng đai đen, biết bắn súng bằng cả hai tay rất trúng mục tiêu di động. Trong bốn năm theo Lansdale hoạt động tại Philippine, chúng đã từng bắt cóc, ám sát nhiều người Phi yêu nước và cứu thoát được Lansdale bốn lần bị phe đối lập của Mngsaysay, tổng thống Philippine, mưu sát.
- Thế nào? Gặp thiếu tá Conein chưa?
Redich đưa cho Lansdale một phong bì dán kín.
- Tôi phải chờ, lâu lắm thiếu tá mới từ tòa đại sứ trở về. Thiếu tá dặn tôi chuyển thư này về gấp, trình đại tá.
Lansdale cắt bì thư chăm chú đọc:
"Z7 gửi TT
1. Một nhóm các chủ đồn điền, các công ty tàu, mỏ, cao su... có tài sản ở Việt Nam, đến gặp tướng Paul Ely. Họ báo cho Ely rằng họ biết chính phủ Pháp đã ký hiệp định đình chiến trong một ngày gần đây. Họ yêu cầu Bộ tư lệnh Pháp ở đây hãy tuyên bố chống việc nhượng bộ Mỹ, họ tình nguyện đóng góp tiền bạc ủng hộ quân đội viễn chinh ở lại bảo vệ tài sản của họ, của cả nước Pháp tại miền Nam. Tướng Ely trả lời chưa được tin chính thức; nếu là tin đúng, sẽ bàn tính lại.
2. Trung tướng Nguyễn Văn Hinh và Nguyễn Văn Vỹ vừa đến gặp Ely trình một bức điện mật của Bảo Đại. Nội dung bức điện chưa biết, nhưng sau đó tướng Ely ra lệnh cho phòng quân khí giao cho trung tướng Vỹ 2000 súng lớn nhỏ, loại mới, và 10 tấn đạn. Được biết Vỹ chỉ có một ngàn rưỡi quân Bảo Hoàng, vũ khí quá xưa, hiện đã tập trung hết lên Đà Lạt".
Lansdale đứng lên, rít từng hơi thuốc dài. Hắn suy nghĩ về nội dung bản báo cáo của tên điệp viên Pháp. Bọn Pháp ở đây khá nhậy bén. Chúng biết tin mau và chính xác: chính phủ Pháp sắp ký hiệp định Geneve. Bao nhiêu quyền lợi sống còn của chúng, hàng tỷ đô-la, nào cao su, cà-phê, nào than mô, xăng dầu... bao nhiêu mồ hôi và máu? ... Chúng có thể xúi giục quân đội viễn chinh Pháp bạo loạn, chống lại quyết định của chính phủ Pháp ký hiệp định, bỏ rơi quyền lợi của chúng ở Việt Nam và Đông Dương. Trong tình hình hiện nay, chính phủ Pháp có đủ sức dẹp một lực lượng 300 ngàn quân bạo loạn ở nước ngoài không? Thêm vào, còn trên 50 ngàn quân bản xứ của các phe phái còn trung thành với Pháp và ủng hộ Bảo Đại? Nếu việc trên xảy ra, ý đồ của Nhà Trắng khó mà thành tựu. Ngô Đình Diệm về nước sẽ bị cô lập, rơi vào thế kẹt! ... Nhưng Bộ tư lệnh Pháp có thể chủ quan cho rằng họ còn có thể làm chủ được tình thế. Họ vẫn còn có Bảo Đại làm quốc trưởng, với tướng
Hinh nắm quyền chỉ huy quân đội, tướng Vỹ có gần 2000 quân đã được trang bị lại, đại tá Le Roy với 5000 quân "Lực lượng bảo vệ Thiên Chúa giáo" ở Bến Tre, các giáo phái Cao đài, Hòa Hảo, 10000 lính Bình Xuyên của Bảy Viễn. Tất cả đủ sức mạnh lật Diệm, cần thì diệt! Họ không cần dấn thân vào con đường nguy hiểm, chống lệnh chính phủ Pháp trong lúc này...
Suy nghĩ đến đây, Lansdale vớ vội mớ hồ sơ, đi vào phòng ngủ, cũng là phòng làm việc riêng của hắn. Hắn nôn nóng thảo ngay một bức điện gửi về Trung tâm:
"Brod gửi Ad.
1. Có hiện tượng Paul Ely bị bọn chủ đồn điền, công ty xăng dầu, tàu biển... ở đây xúi giục chống thỏa hiệp Pháp-Mỹ, duy trì quân đội viễn chinh làm bạo loạn, bảo vệ tài sản cho chúng.
2. Pháp sử dụng các lực lượng vũ trang bản xứ chống Diệm, chắc chắn sẽ diễn ra, dù Diệm nhượng bộ thành lập chính phủ liên hiệp như đã tính, cũng khó tránh khỏi.
Đề nghị:
- Cảnh cáo chính phủ Pháp và ý đồ bạo loạn của tập đoàn Paul Ely càng sớm càng tốt.
- Pháp phải trao trả quyền chỉ huy quân đội bản xứ cho Diệm ngay khi Diệm về nước chấp chính.
- Ngân sách viện trợ phần dành cho Việt Nam, không qua tay Pháp, giao trực tiếp cho chính phủ Diệm và phải bàn giao ngay tổng ngân khố, các ngân hàng lệ thuộc, dù dự trù ngân sách viện trợ qua tay Pháp trong năm 1954 còn hiệu lực.
Chúng tôi đã tiến hành các công việc sau đây:
1. Giao cho Ngô Đình Nhu một triệu đô, chi phí tổ chức đảng Cần lao Nhân vị. Đã tập hợp ba trăm ngàn đảng viên ở Trung Việt và trên hai trăm ngàn ở Sài Gòn. Số đảng viên đang phát triển mạnh. Đã thành lập các ban lãnh đạo từ trung ương, thành phố, thị xã và các tỉnh, sẽ tiến hành tới quận, huyện.
2. Ba trung tâm huấn luyện tâm lý chính tri: Sài Gòn, Phú Cam (Huế), và Vĩnh Long (Giáo khu giám mục Ngô Đình Thục), tuần tới sẽ bế mạc khóa đâu với ba trăm học viên, trong đó có 50 linh mục sẽ là tuyên úy quân đội trong tương lai.
3. Dành một triệu đô bước đầu cho chiến dịch vận động di cư vào Nam. Đã tập trung và tuyển mộ toàn lực lượng bảo an miền Bắc, đa số là giáo dân thuộc các tỉnh trung du, và quy tụ được 3 trung đoàn lính Nùng. Từ đây, xây dựng cho Diệm lực lượng vũ trang nòng cốt, trung thành, tiến tới một quân đội mạnh trong tương lai.
4. Kế hoạch phân hóa các lực lượng vũ trang giáo phái đạt hiệu quả cao có thể chuyển một phần ba lực lượng tay sai của Pháp thành của Diệm.
5. Các phương án đã được Trung tâm duyệt y, đang thực hiện. Brod".
2.
Sáu giở sáng, đường Catinat còn vắng người đi lại, chiếc xe Jeep nhà binh Pháp vẫn để đèn cốt, chầm chậm từ phía nhà hát thành phố chạy tới trước khách sạn Catinat thì dừng lại. Trong
khách sạn còn sáng đèn, quầy quản lý đã có ba nhân viên ngồi làm việc. Phòng ăn bên cạnh, ba bốn bồi phòng lăng xăng dọn dẹp.
Từ trên xe, viên sĩ quan Pháp đeo lon thiếu tá, khoan thai bước xuống đi vào khách sạn trong khi tên thượng sĩ người Việt, tài xế, vẫn ngồi bên tay lái. Viên quản lý kéo xệ cặp kính lão để nhìn rõ mặt khách mới vào. Hắn đứng dậy cúi đầu kính cẩn:
- Ngài thiếu tá cần gì chúng tôi?
- Ông khách phòng 22 hẹn gặp tôi 6 giờ. Tôi đến chậm rồi nhỉ?
Viên quản lý rời khỏi quầy, bước ra hơi vội nên thân hình vẫn cong cong như còn giữ tư thế đang ngồi bàn tính toán, hắn đưa cả hai bàn tay ra nắm lấy bàn tay to lớn của tên thiếu
tá Pháp:
- Cụ Hiến vừa dạy đấy, xin mời thiếu tá lên lầu.
- Cám ơn.
Tên sĩ quan Pháp tiến lên cầu thang. Hành lang im lặng. Các cửa phòng hai bên còn đóng kín. ánh sáng từ căn phòng số 10 hất ra một vạch sáng chéo, chiếu ngang qua cửa phòng ghi số 22. Hấn đi tới trước cửa phòng số 10 đã hé mở, nhìn thấy hai tên công an Bình Xuyên đang ngồi uống cà-phê. Cả hai nghe tiếng chân người quay đầu nhìn ra, bỗng có tiếng một vật gì đó rơi xuống sà l, một bụm hơi bốc Lên, cánh cửa phòng đóng lại. Tên sĩ quan Pháp tin chắc hai tên công an đã ngủ say vì làn hơi mê cực mạnh hắn vừa ném vào phòng, hắn rút chìa khóa riêng khóa cửa lại. Quay qua phòng 22, hắn gõ nhè nhẹ. Không phải chờ lâu, cửa mở, ánh đèn từ trong
phòng ùa ra soi rõ chiếc cầu vai có bốn vạch vàng óng ánh, chiếc mũ kê-pi sừng sững.
Chủ căn phòng hơi nghiêng đâu chào lại khi viên thiếu tá Pháp vừa giơ tay lên mũ chào theo kiểu nhà binh.
Nhường chỗ cho khách đi vào phòng, người chủ khép cửa và quay lại bắt tay:
- Xin lỗi thiếu tá.
- Tôi, Jean DuPont, kính chào ngài Thủ hiến.
- Xin chào ngài thiếu tá DuPont, mời ngồi. Tôi vừa dạy chưa kịp thay đồ... - Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí hơi băn khoăn nhìn xuống bộ quần áo ngủ của mình.
- Không sao, tôi chỉ xin yết kiến ngài vài phút, có chút việc khẩn cấp.
Hắn vừa nói vừa ấn mạnh Trí ngồi xuống chiếc ghế salon đặt trong góc phòng. Trí chưa kịp ngạc nhiên về thái độ sỗ sàng của khách, hắn đã rút ra từ ngực áo khẩu súng lục nòng dài:
- Ngài Thủ hiến chắc biết đây là súng có bộ phận hãm thanh, bên ngoài không nghe tiếng nổ, ngài đừng nói to tiếng, cũng không nên chống cự, tôi chỉ hỏi ngài vài câu. Xong tôi để ngài bình yên. Đừng ngại!
Hắn lùi lại sát cửa phòng, khóa cửa, rồi ung dung trở về ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Trí. Tên Thủ hiến thường ngày oai vệ, giờ này co rúm người lại, run rẩy lắp bắp:
- Vâng, thiếu tá... cần hỏi tôi điều gì?...
Đưa mũi súng hướng vào đầu người đối thoại, tên thiếu tá Pháp cười cười:
- Chẳng có gì quan trọng. Chỉ xin ngài trả lời tôi vài câu, viên đạn này sẽ không chịu ai nói dối nó.
Hắn thôi cười, trợn mắt nhìn Trí, giọng nghiêm nghị:
- Nào nghe đây. Ai cho ông biết tin Pháp sẽ bỏ miền Bắc rút vào Nam?
- Ngài Quốc trưởng Bảo Đại viết thư tin cho tôi biết.
- Trong khi quân Pháp chưa rút khỏi Bắc Việt, ai ra lệnh cho ông tự từ chức Thủ hiến?
- Cũng Quốc trưởng ra lệnh vì hiệp định đình chiến sẽ ký, quân đội Pháp phải bỏ miền Bắc. Pháp đã thua Việt Minh cộng sản, lại nhượng nửa nước còn lại cho Hoa Kỳ. Đứng trước khó khăn Pháp đành hòa hoãn, nhưng phải tính cách giành lại khi có cơ hội. Quốc trưởng lệnh tôi từ chức sớm, vào Nam lo sắp xếp lực lượng để cầm cự với ông Diệm, chờ Pháp can thiệp.
- Ông đang làm gì và sẽ làm gì gọi là sắp xếp lực lượng?
- Tôi đã bàn với ông Phan Văn Giáo, Thủ hiến ở Huế, giúp cho lực lượng vũ trang của đảng Đại Việt người Bắc vào chiếm cứ khu Ba Lòng khi Việt Minh rút đi. Tôi đã gặp Thủ hiến Nam Việt và ông trung tướng Vỹ, quy tụ lực lượng chiếm ngay những vùng chiến lược, có khả năng tự túc, tự bảo vệ khi bị tấn công như Đà Lạt, vùng Cao Nguyên, Đồng Tháp miền Tây, vùng cao su miền Đông Nam
Việt. Toàn đảng Đại Việt, mà tôi là Tổng bí thư, cử tôi liên lạc với các đảng phái thân Pháp, các giáo phái, để tính việc lật ông Diệm ngay từ buổi đầu ông ta về nước. Đó là tất cả những gì tôi đang làm và sẽ làm. Nhưng có làm gì đi nữa, thì tôi cũng chỉ để phục vụ quyền lợi của nước Pháp các ngài, chúng tôi đã từ lâu trung thành với Pháp.
- Rất cám ơn ngài Thủ hiến.
Tên thiếu tá tỏ ra vui vẻ, Trí bớt phần khiếp sợ nhưng vẫn lấm lét nhìn họng súng luôn luôn hướng thẳng vào đầu mình. Cầm tập giấy viết thư ở trên bàn ngủ, đặt xuống trước mặt Trí, viên thiếu tá ra lệnh:
- Ông sẽ viết theo những lời tôi đọc đây.
Trí ngơ ngác giây lát, nl ưng vẫn cầm viết để chở.
- "Sài Gòn, ngày... tháng... năm. Kính gửi quí Anh". Xuống dòng. Viết tiếp: "Số tiền quỹ của Đảng hiện tôi còn giữ là... " bao nhiêu nào?
- Dạ, còn bốn trăm ngàn quan Pháp và ba triệu tiền Đông Dương. Nhưng vào đây tôi đã mua vàng, kim cương, hiện tôi có hóa đơn đây.
- Được ông viết đúng như lời ông vừa nói đi. Rồi chưa? Viết tiếp: "Bất cứ lúc nào có lệnh của các anh, tôi xin hoàn trao lại đủ . Chấm câu. Tiếp: "Những lời đồn đại vô căn cứ, xin các anh chớ tin, tôi thề không bao giờ trốn chạy, cũng không có ý xấu chiếm đoạt tiền chung
của Đảng". Chấm hết. Ông ký tên đi.
Viết xong, Trí ngước mắt nhìn viên thiếu tá định hỏi, có lẽ có ý thắc mắc về những điều vừa viết. Nhưng một tiếng nổ nhẹ phát ra,
không âm vang, bên ngoài có nghe cũng chỉ như tiếng một vật gì đó rơi mạnh xuống sàn. Tên thiếu tá đặt tập giấy vào chỗ cũ, ngắm nạn nhân nằm ngửa đầu ra thành ghế, trên thái dương một vệt máu đang rỉ ra. Hắn rút khăn tay lau hết dấu vết ở những chỗ hắn nhớ đã chạm vào: trên bàn, cây viết, nắm cửa. Hắn tắt đèn, ra khỏi phòng, khóa cửa lại. Xuống hết cầu thang, hắn giơ bàn tay vẫy chào viên quản lý rồi ung dung ra đường. Hắn vừa ngồi vào xe, chiếc xe Jeep rồ ga phóng thẳng về phía bờ sông, lẩn vào hai dòng xe xuôi ngược.
Việc Thủ hiến Bắc Việt bị ám sát được nhà đương cục bịt kín, chỉ gây xôn xao trong giới các đảng phái tại Sài Gòn và trong nhóm chỉ huy quân đội Pháp. Sáng hôm sau, tướng Paul Ely mới nhận được bân báo cáo chi tiết, tỉ mỉ của Phòng Nhì. Thiếu tá Salvani trưởng Phòng nhì quân đội Pháp xác nhận rằng, việc bảo vệ Nguyễn Hữu Trí đã giao cho tên giám đốc công an Sài Gòn Lại Văn Sang ngay từ ngày Trí đến và trong suốt thời gian ở khách sạn Catinat. Nơi đây là trung tâm khu vực có an ninh tối đa. Trí đi lại trong thành phố đều có xe và tài xế riêng của công an đưa đón. Trước phòng Trí ở có hai cận vệ của giám đốc Sang ngày đêm canh gác, kiểm tra khách ra vào. Viên quản lý khách sạn là cơ sở tin cậy của Phòng nhì Pháp.
Sự kiện đáng tiếc xảy ra, theo báo cáo của Salvani, chỉ trong khoảng nửa giờ. Bọn sát nhân gồm hai tên, một đóng vai thiếu tá Pháp. Quản lý khách sạn xác nhận đúng là người Pháp, nói tiếng Pháp rõ ràng, đúng giọng. Tên này đã tung chất nổ có chữa thuốc mê cực nhanh, làm vô hiệu hóa hai tên gác, và hạ sát Trí bằng súng có bộ phận hãm thanh. Tên lái xe không rõ là Pháp hay Việt, lúc đó không ai lưu ý nhưng xác nhận tên này mặc binh phục. Chúng đi xe Jeep của quân đội Pháp. Hai giờ sau mới phát hiện ra vụ án, không còn dấu vết gì, rất khó tìm ra tung tích hung thủ, trong gần ba trăm ngàn lính Pháp tại đây. Chỉ có bức thư Trí viết gởi các đảng viên Đại
Việt là có thể làm căn cứ để nhận định. Thư không ghi rõ tên ai, phân trần là Trí không trốn chạy, không có ý định lấy tiền quĩ của đảng. Thư mới viết xong, chưa kịp gửi đi. Kết luận: đây là thanh toán lẫn nhau trong nội bộ về vấn đề tiền bạc.
3.
Lansdale vừa ăn sáng, vừa đọc các báo cáo, theo thói quen hàng ngày. Trong góc phòng, tên quản gia trung thành kiên nhẫn ngồi chờ chủ. Bỗng Lansdale bật cười thành tiếng, ngước mắt nhìn Tý:
- Khá đấy! Kế hoạch "Bốc hơi 22" hoàn toàn giữ được bí mật. Bọn chúng kết luận là.
thanh toán lẫn nhau vì tiền bạc. Chúng không đánh hơi thấy các chú mày.
Bỗng chuông cổng réo hai hồi, Tý vội vàng đứng lên bước ra. Chiếc taxi hai màu xanh trắng, loại bốn ngựa đang thông dụng, chạy thẳng vào sân và dừng lại trước thềm. Người tài xế bước xuống mở
cửa sau. Một người đàn ông trung niên đeo kính trắng, bận đồ! ớn màu xanh nhạt, tay xách cặp, rời xe, khoan thai bước lên thềm. Lansdale đã từ phòng khách đi ra. Ông khách sang trọng tránh qua một bên, nhường cho người tài xế bước tới trật nón nỉ, bắt tay viên đại tá CIA:
- Kính chào đại tá.
- Thiếu tướng mạnh giỏi?
Họ kéo nhau vào phòng khách. Người tài xế taxi chính là viên tướng Cao Đài ly khai Trình Minh Thế. Cùng đi với hắn và đóng vai người khách là Lê Khắc Hoài, bí thư của Thế, dịch tiếng Pháp.
- Đại tá không quản vất vả lặn lội lên rừng núi Bà Đen thăm Thế này, không lý Thế tôi lại sợ chết không dám về thăm trả lễ?
- Rất hân hạnh. Nhưng tôi đến với thiếu tướng chỉ khó nhọc chút ít. Thiếu tướng tới với tôi rất là nguy hiểm. Bọn Pháp đang treo giải một triệu động giá cái đầu mưu lược của thiếu tướng đấy.
Họ cất tiếng cười ha hả, trót rượu cụng ly, chúc nhau sức khỏe.
Cách đây hơn một năm, sau những cuộc đối đầu vì quyền lợi trong nội bộ tướng tá Cao Đài Trình Minh Thế đá thày, bỏ bạn, kéo theo hơn hai ngàn quân vào rừng già cạnh núi Bà Đen, lập "Mặt trận quốc gia liên minh", tuyên bố chống Pháp, chống Việt Minh, chống cả chính phủ Bảo Đại. Nhưng để rồi theo ai? Ủng hộ ai? Che giấu làm sao được những hành động cướp của, giết người? Nó cáo rao sẽ phò hàng cha chú của Bảo Đại kia! Đó là hoàng thân Cường Để. Thực ra, Thế chưa biết mặt mũi cái ông hoàng này đã phiêu bạt sang Nhật từ thuở Thế còn ở lỗ chăn trâu. Hắn chỉ nghe hơi là Cường Để xuất ngoại để cầu cứu Nhật đánh đuổi dùm bọn Pháp. Nhưng Pháp đầu hàng, chẳng thấy Nhật cho Cường Để về. Tuy vậy, Thế vẫn rêu rao tôn thờ ông hoàng đó cốt để che lấp đi cái xấu xa đã làm tay sai cho Pháp, từng được chính tay một thiếu tá trưởng Phòng nhì Pháp gắn cho cái lon thiếu tướng giả hiệu. Thế còn tính toán thiệt hơn, thấy tiền bạc mình cướp của dân còn nhiều gấp trăm nghìn lần tiền lương Pháp trả. Mặt khác, làm cận tướng cho Đức hộ pháp Phạm Công Tắc vừa bị ràng buộc, vừa chẳng bằng ai! Vậy là Thế ly khai để tung hoành một cõi. Nhưng mới ra rừng vài tháng, hắn đã bị bao vây bốn phía. Việt Minh chẳng dung, Pháp cũng chẳng tha, Phạm Công Tắc ra lệnh diệt tên phản đồ, Bảo Đại tuyên bố đặt Thế ra ngoài vòng pháp luật. Trong bước đường cùng, Thế đang khoanh tay chờ chết, bỗng một ân nhân xuất hiện: thiếu tá
Lucien Conein của CIA đang nằm ẩn phục trong Bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp. Conein lập kế mớ vòng vây về phía Pháp cho Thế rút chạy rồi bí mật cấp thêm súng đạn và tiền. Quả là "Con mắt thần" đã chỉ đường cho hắn được gặp Conein. Hắn nguyện trung thành với chủ mới. Cách đây hơn mười ngày, đại tá Lansdale thay mặt Trung tâm CIA tới tận mật khu thăm hắn, công nhận cấp thiếu tướng của hắn, cấp thêm vũ khí, trả lương liên tục cho hơn hai ngàn lính. Tất cả bằng hai, ba lần Pháp cấp trước đây. Thế tập trung toàn thể đàn em, quỳ hôn lá cờ Mỹ đầy sao, tuyên thệ trung thành phục vụ chủ mới. Thế hết mực xúc động khi Lansdale trao cho hắn quà tặng của Tổng thống Hoa Kỳ: một khẩu súng ngắn có khắc tên, một va-li đầy ắp tiền Đông Dương, và cặp quân hàm thiếu tướng. Khi ra về, Lansdale căn dặn hắn:
- Tránh đụng độ, ém binh ẩn kín, luyện quân, dường quân, không cướp bóc của dân khi đã có tiền Mỹ trả để giải tỏa lòng căm phẫn lâu nay của dân, gây ảnh hưởng chính trị sau này.
Giờ đây để chứng minh vâng lời của mình, Thế báo cáo: .
- Chấp hành lệnh của đại tá, tôi đã phân tán từng đại đội vào sâu trong rừng, ngày đêm luyện tập. Nhờ ăn no, mặc đủ, tinh thần quân lính phấn chấn. Chỉ trông chờ đại tá dùng đến, anh em sẵn sàng lao vào lửa đỏ, biểu lộ lòng trung thành với đại tá.
Trước nhiệt tình của Thế bày tỏ, Lansdale vốn là con người lạnh lùng, cố làm ra vẻ cảm động, nắm chặt cánh tay Thế, thân mật:
- Tôi được chính phủ Mỹ giao nhiệm vụ giúp ông Diệm về chấp chánh, giữ lấy nước Việt Nam này khỏi vào tay cộng sản. Nhưng hiện nay, ông Diệm phải đối đầu với nhiều khó khăn. Được thiếu tướng thật tâm cộng tác với ông ta lúc này tôi coi như phục vụ cho
chính quyền lợi của nước Mỹ vậy. Riêng đối với tôi, thiếu tướng phải là cố vấn của tôi đấy.
Thái độ cởi mở của tên đại tá CIA khiến Thế hởi lòng, hởi dạ. Hắn cười thật tươi, lộ vẻ vui mừng trên khuôn mặt rám nắng:
- Không dám. Thế tôi chỉ nhận làm một thuộc viên dưới quyền sai bảo của đại tá. Sẵn sàng nhận lệnh và được đại tá tin dùng đã là một vinh hạnh cho tôi rồi!
Lansdale cười lịch sự, nói:
- Những khi cần hiểu kỹ nội tình ở đây, cần biết rõ những con người quanh tôi, rồi phong tục tập quán và nhiều thứ khác nứa, có phải tôi cần đến thiếu tướng đúng không nào?
Hắn trót rượu đầy ba ly:
- Nào! Mời thiếu tướng, mời ông Hoài, chúng ta nâng ly chúc sự hợp tác tốt đẹp?
Mạnh dạn tung tiền mua chuộc Thế với hai ngàn năm trăm lính, có thể Lansdale đã thật tình khi gắn cho Thế chức danh "cố vấn", vì hiểu rõ nội bộ Cao Đài không ai bằng Thế.
Đã có được một lực lượng trung thành ém cạnh giáo phái Cao Đài, một đối thủ mạnh chiếm cứ vùng chiên lược có núi, có rừng ở sát nách Sài Gòn, trong khi Diệm chưa có lực lượng trong tay, Lansdale coi đó là một thắng lợi. Nhưng không chỉ dừng ở đấy. Như hắn đã báo cáo về trung tâm: "Phân hóa các lực lượng vỡ trang giáo phái đạt hiệu quả cao có thể chuyển một phần ba lực lượng của Pháp thành của Diệm"... Hắn đang nhắm vào Cao Đài ở Tây Ninh, và không ai hơn, Thế sẽ giúp hắn thực hiện âm mưu này.
Sau Thế, hắn đang tính đến Nguyễn Thành Phương, trung tướng Tư lệnh quân đội Cao Đài, nắm quyền chỉ huy hai mươi ngàn quân án ngữ phía Bắc và Đông Bắc Sài Gòn. Hắn đã hỏi Thế về Phương. Được biết vợ cả của Phương nguyên là nữ đồng trinh được Phạm Công Tắc tuyển vào cung "thờ phụng thần thánh". Hồi đó Phương mới là sĩ quan cận vệ. Tắc đem cô gái ấy gả cho Phương. Sau nhờ lập được nhiều công, Phương được phong cấp tướng, vợ trở thành nữ phối sư trong số 36 phối sư của Tòa thánh. Từ đó, vợ chồng Phương có nhiều quyền thế cả trong việc quân lẫn việc đạo trong giáo phái Cao Đài Tây Ninh.
Mới đây, khoảng một năm, Phương đã lén lút mua một cô gái trẻ làm vợ bé. Cô này sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mẹ bị Pháp giết hại trong một trận càn, được bà con đem về nuôi dưỡng, rồi gả bán cho Phương. Phương giấu cô vợ bé trong một biệt thự ở Sài Gòn, hết lòng thương yêu, săn sóc. Lansdale đã bàn mưu với Thế, báo cho vợ Phương biết, xúi bắt cóc cô vợ bé về trị tội. Vợ Phương quá ghen, ra tay ngay. Nhưng trên đường đưa cô ta về, Thế lại bố trí giải thoát. Lansdale cho tên tay sai có tài giao dịch, có tướng đạo mạo, lại giàu tiền bạc, đóng vai hiệp sĩ, dọc đường gặp chuyện bất bằng can thiệp. Đó là Ngô Trọng Hiếu. Hiếu không những đem trả cô vợ bé nguyên vẹn lại cho Phương mà còn tặng một biệt thự riêng tại Thủ Đức, kín đáo, để Phương yên tâm cất giấu cây hạnh phúc của mình. Ngô Trọng Hiếu trở thành bạn tâm giao của viên tư lệnh Cao Đài.
Sau vụ này, thêm vào một vài tin tức do Hiếu cho biết, Phương nghi Đức hộ pháp cố ý hạ uy tín mình, đã tước binh quyền giao lại cho tướng Nguyễn Văn Thành. Mầm phản trắc manh nha. Hiếu đang âm thầm nuôi dưỡng tiếp. Hơn ai hết, Thế biết Lansdale đang
lo về lực lượng phe phái đối lập với Diệm. Hắn ra sức lập công với chủ:
- Vừa rồi tôi cùng ông Hoài bàn với nhau, định giúp đại tá một tay giải quyết vấn đề Bảy Viễn. Tuy bọn này chẳng đáng gì, nhưng cũng là con muỗi vo ve làm cho đại tá khó ngủ.
Trước đây tôi có quen với Thái Hoàng Minh, hiện là trung tá, tham mưu phó của Bảy Viễn. Tên này có khả năng và can trường. Đã từ lâu, tôi biết hắn không ưa Tư Hiếu, vừa là tham mưu trưởng
vừa là em rể của Bảy Viễn. Hai đứa đã hục hặc nhau. Đấy là một sơ hở nguy hiểm cho Viễn nhưng có thể vì chủ quan, Viễn không thấy. Với chúng ta, đó là một thuận lợi để lôi kéo Thái Hoàng Minh. Được hắn, đại tá không còn lo gì Viễn nữa.
Lansdale rất mừng, vì chính vấn đề Bình Xuyên đang hoàng hành ngay tại Sài Gòn này làm cho hắn rất quan tâm:
- Như vậy là thiếu tướng đã có diệu kế kéo được Minh về với chúng ta? - Những ngày còn hàn vi, Minh đi làm công cho Triệu Vĩnh Kỳ, một thương gia Hoa Kiều hiện nay là bang trưởng Triều Châu ở Chợ Lớn. Kỳ thương Minh đã đem đứa cháu gái gả cho làm vợ. Hồi Viễn ở bưng về đầu Pháp, Kỳ dựa vào thế của Viễn làm ăn, và qua giao dịch thân thiện Viễn đã tuyển lựa Minh vào làm cận vệ, cất nhắc lên đến sĩ quan tham mưu. Bản chất của Kỳ là tham tiền, cần dựa thế, đại tá thỏa mãn hai điều đó, tôi tin là hắn sẽ dâng Minh cho đại tá.
Lansdale gật đầu tán thưởng:
- Nhưng Kỳ làm ăn gì với Viễn?
- Đa số tư sản Hoa kiều ở Chợ Lớn, ngoài việc buôn bán công khai, chúng vẫn lén lút buôn lậu thuốc phiện, vàng bạc, kim cương, ngoại tệ. Nhờ đó chúng rất mau trớ thành tỷ phú. Nếu đại tá cho Kỳ nắm độc quyền phân phối thuốc phiện, tôi cam đoan sẽ đem Minh về với đại tá và phân nửa số quân của Viễn sẽ theo Minh.
- OK. Tôi sẽ ra lệnh cho thiếu tá Conien cùng giải quyết vụ này với thiếu tướng.
Thế đứng lên:
- Chúng tôi đến để bàn với đại tá có việc đó thôi. Xin tạm biệt để tránh làm mất thì giờ của đại tá?
Hắn chụp chiếc nón nỉ lên đầu và cười:
- Xin thứ lỗi cho kẻ sống ngoài vòng pháp luật, buộc phải cải trang.
Lansdale cũng cười vui vẻ đích thân tiễn khách ra xe. Chiếc xe lại lăn trên sân sỏi, chạy thẳng ra cổng.
4.
Ba căn biệt thự lâu chiếm một khu vuông góc hai con đường giao tiếp - đường Pasteur và Chasseloup trung tâm thành phố Sài Gòn. Từ chiều, những chiếc xe hơi đủ kiểu loại, đủ màu sắc, lần lượt lướt vào ngõ tối, rồi mất hút sau dãy hàng rào kín đáo. Bên ngoài trông như khu biệt thự đã yên ngủ hiền hòa, nhưng vào bên trong, thấy những họng súng cực nhanh, những thùng lựu đạn luôn luôn thức tỉnh, bảo vệ cho bộ phận chỉ huy CIA đang ráo riết thực hiện "Chiến dịch mở đường" đưa Ngô Đình Diệm về chấp chánh.
Trong phòng khách căn nhà hướng ra đường Pasteur đang có cuộc họp khá đông người, ba tên trung tá CIA trợ lý của Lansdale chủ trì. Tất cả đang chăm chú nghe báo cáo công việc của từng điệp viên mật. (Những tên này đã được phép sẽ ra công khai để nắm các chức quyền trong chính phủ mới sẽ hình thành khi Diệm về Sài Gòn). Điểm mặt từ trái qua phải hai dãy bàn dài, có những tên chẳng xa lạ gì ở Sài Gòn này: Ngô Trọng Hiếu, Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Ngọc Chấn, Nguyễn Bảo Toàn, Phan Huy Quát, Trần Quốc Bửu, Kiều Công Cung, Nguyễn Gia Hiếu, Hoàng Văn Chí, Trần Văn Đỗ, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành, Huỳnh Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Châu, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Nguyễn Trân, Lương Duy Ủy. Có những tu sĩ áo dài đen, áo nâu. Có những Hoa kiều mang họ Triệu, họ Tào, (các bang chủ Triều Châu, Phước Kiến...) Tất cả đang gấp rút chuẩn bị cho kịp ngày 25 tháng sáu tới - chỉ còn một tuần lễ - đón "nhà chí sĩ" Ngô Đình Diệm.
Cũng trong thời gian đó, Lansdale, trong biệt thự kề bên đang tiếp chuyện với hai nhân vật quan trọng nhất là giám mục Ngô Đình Thục và bào đệ Ngô Đình Nhu, một công chức của thực dân Pháp tòng sự tại nhà Bác cổ Hà Nội, nay khoác danh vị tổng bí thư đảng Cần Lao Nhân vị vừa mới chào đời. Cả ba đang bàn tính chọn người dưa vào nội các của chính quyền liên hiệp Pháp - Mỹ. Lansdale nói lại cho Thục và Nhu biết ý đồ của phía Pháp:
- Hôm họp hai bên, phía chúng tôi có đại sứ Lawfon Collins, tướng O’ Daniel, và đại tá Randy Kidder. Pháp cũng có bốn đại diện do tướng Paul Ely cầm đầu. Tuy đã có sự thỏa thuận giữa Hoa Thinh Đốn và Ba Lê rồi, tướng Ely vẫn tỏ ra gay gắt. Ngược lại, đại sứ Collins thì hòa nhã và khiêm nhường. Vì vậy cuối cùng hai bên đã vui vẻ thỏa thuận về thành phần nội các mới. Khi trở về, đại tướng O’ Daniel đã giải thích rằng, thành phần nội các của Chính
phủ liên hiệp chẳng phải là vấn đề quyết định sự thành bại, mà cái chính là bên nào nắm được ưu thế chính trị nghĩa là được đông người ủng hộ. Ưu thế này ở phía ta đang có chiều hướng phát triển thuận lợi. Tôi cũng đồng ý là lúc này chúng ta càng nhân nhượng, cứ tỏ ra còn yếu thế hoặc có ý "chịu thua" không để cho đối phương thấy được tiềm lực của chúng ta đang mạnh dần, càng tạo cho Pháp chủ quan mà không phòng bị.
Giám mục Thục vẫn trầm tư lắng nghe, trong khi Nhu nôn nóng: - Đại tá cho chúng tôi biết rõ về điều kiện của Pháp.
Vẫn với bộ mặt thản nhiên, Lansdale chậm rãi nói:
- Họ đòi để tướng Hinh nắm quyền Tổng tham mưu trưởng, Lê Văn Viễn giữ Bộ Quốc vụ khanh, nắm lực lượng công an thành phố. Hòa Hảo có bốn bộ: Nội vụ, Kinh tế, Canh nông và Bộ Quốc vụ khanh dành cho Trần Văn Soái. Cao Đài có năm bộ: Thông tin, Lao động, Xã hội, thứ trưởng Nội vụ và Bộ Quốc vụ khanh cho Nguyễn Thành Phương.
Nhu hốt hoảng, tái mặt:
- Các vị thỏa thuận như vậy sao?
Lansdale mỉm cười. Hắn coi thường Nhu, hay cố ý để Nhu nhận thấy sự châm biếm trong nét cười của hắn:
- Đại sứ Collins và cả đại tướng O’ Daniel đã mạnh dạn chấp nhận ngay.
Giám mục Thục như mất vẻ bình tĩnh. Ông ta ngước cặp kính gọng vàng lên chăm chú nhìn thẳng vào mặt viên sĩ quan CIA,
nhưng Lansdale vẫn không rời nụ cười mai mỉa:
- Thưa hai ngài, nếu tôi là đại diện phái đoàn, tôi cũng vui vẻ chấp thuận.
Hai anh em Thục, Nhu ngơ ngác. Lansdale ngừng lại giây lát, thấy cả hai còn chưa biết phản ứng ra sao, hắn tiếp:
- Nếu ta chỉ chăm chăm ngó vào thành phần nội các mới này, Bảo Đại vẫn là Quốc trưởng nhé, trên nửa số ghế là của phe đối lập, quân đội, công an vẫn là của Pháp, thì phía chúng ta, Hoa Kỳ và ông Diệm có gì? Có thế bất cứ ai, nhưng không phải là tôi đâu nhé - hắn hoa tay, lắc đầu rồi tiếp - cũng cho chính phủ mới này của Pháp chứ gì? Không phải vậy đâu! Đó chỉ là căn nhà chắp vá, lại không có nền, chủ căn nhà không có quyền quản lý. Người chủ là ông Diệm của các ngài, đô-la nằm trong tay. Trên danh nghĩa, họ nắm chức quyền, quân đội nhưng ai là người trả lương cho chính họ và cái quân đội đó? ông Diệm đấy. Tuy nhiên chưa đủ, chính phủ còn phải được dân chúng ủng hộ, và làm thế nào để được dân chúng ủng hộ, đó là phần việc đang đòi hỏi ở chính các ngài.
Hai anh em Thục, Nhu càng nghe, càng tỏ ra khâm phục. Lansdale đưa thuốc lá mời Nhu rồi hỏi:
- Phiền ông bí thư cho biết nội tình hiện nay của giáo phái Hòa Hảo?
Nhu tỏ ra quan trọng:
- Tỏi đã cho người xuống tiếp xúc với ông Huỳnh Công Bộ, thân sinh ra Huỳnh Phú Sổ.
Ông ta tuyên bố chỉ lo việc đạo cho tín đồ, còn đối với chính phủ, ông ta sẵn sàng ủng hộ nếu có chính sách đúng đắn về vấn đê tự do tín ngưỡng. Ngoài ra chúng tôi cũng có vài ba lần tiếp xúc thẳng với hai viên tướng Nguyễn Giác Ngộ và Lâm Thành Nguyên. Cả hai chịu hợp tác, có điều chúng ta có thỏa thuận hay không với nhưng điều kiện của họ?
- Điều kiện gì? Tiền ư? Địa vị ư?
- Thưa cả hai. Đã từ lâu Ngộ và Nguyên không chịu đứng dưới quyền Trần Văn Soái, tuy Soái được Pháp cho giữ chức Tổng tư lệnh lực lượng. Thỉnh thoảng chống lại ra mặt chống nhau, bắn nhau thực sự. Pháp phải can thiệp, đành cho hai tên này tách riêng ra kiểm soát hai vùng và tạm phong lên cấp thiếu tướng nhưng chưa chính thức. Nay chúng đòi được chính thức phong tướng, cấp bậc của quân lính chúng phải giữ nguyên và trả lương theo lính chính qui. Nhất là vẫn giữ nguyên vùng đóng quân trước đây của chúng, chúng được thu thuế của dân trong vùng chúng đang kiểm soát. Tôi thấy chúng tồi tệ quá, nên còn đắn đo!
Lansdale cười lắc đầu:
- Có gì mà đắn đo? Các ngài thử tính nếu phải dùng sức mạnh để đánh dẹp hai mươi ngàn tên vũ trang sẽ hao tốn bao nhiêu tiền? Đó là chưa nói đến tác hại về chính trị. Nay chúng ta chỉ cần bỏ ra một số tiền, chắc chắn là ít hơn nhiều so với tốn phí chiến tranh, và một lời hứa hẹn trong khi thế và lực lượng của ta còn yếu, để phân hóa chúng, dùng làm tay sai. Vấn đề về sau này sẽ là lý lẽ của kẻ mạnh. Chấp nhận ngay đi! Trước mắt chúng ta cần vô hiệu hóa âm mưu của Pháp, còn về tương lai không có chướng ngại gì đủ sức cản đường chúng ta đi. Như vậy là phía Cao Đài chúng ta đã kéo được mười ngàn lính của hai tướng Phương và Thế, đủ sức chống
lại phân nửa số quân của Phạm Công Tắc. Nhóm Bình Xuyên, Thái Hoàng Minh chịu về đầu hàng. Hắn ta hứa sẽ cắt đầu Bảy Viễn dâng nộp. Bây giờ nếu chúng ta kéo được Ngộ và Nguyên với phần ba quân số của lực lượng Trần Văn Soái, hắn sẽ bị cô lập và trước sau gì cũng phải hàng phục. Có thể chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta sẽ dẹp yên được tình trạng sứ quân, cát cứ, tình trạng hỗn loạn đã làm cho dân chúng ớn lạnh, mất lòng tin. Họ sẽ biết ơn ai là người có công đem lại cuộc sống ổn định cho họ. Tôi xin nhấn mạnh, tòa Bạch ốc không cho phép gây thành nội chiến ở miền Nam lúc này. Vì như vậy chỉ có lợi cho cộng sản mà thôi.
Giám mục Thục từ đầu chỉ ngồi nghe, suy gẫm. Tuy Lansdale đã giải đáp được các điều mà ông ta thắc mắc, băn khoăn, đến lo lắng, nhưng vốn là con người thận trọng, ông ta còn nhỏ nhẹ nhắc thêm:
- Tôi xin phép lưu ý đại tá, tướng Nguyễn Văn Hinh còn nắm quyền tư lệnh quân đội, còn ảnh hưởng trong binh lính quốc gia, vốn là của Pháp. Theo thiển ý của tôi, đó vẫn là mối lọ trước mắt.
Lansdale trịnh trọng giải đáp:
- Xin ngài giám mục yên tâm. Tôi đã thấy trước vấn đề này từ ngày đầu đặt chân đến Sài Gòn. Tất cả lực lượng tay chân và ngay quân viễn chinh Pháp ở đây chưa phải là vấn đề khiến chúng ta phải quan tâm nhất. Với đà này, sau một thời gian ngắn tình hình chắc chắn sẽ ổn định. Miền Nam sẽ là một nước cộng hòa. Ông Diệm sẽ là tổng thống? Còn ngài, vâng chính ngài giám mục sẽ là Hồng Y Giáo Chủ của Giáo hội Việt Nam độc lập. Cạnh ngài sẽ có khâm mạng tòa thánh Vatican, có Hồng y Giáo chủ Hoa Kỳ Spel1mann làm cố vấn. Không chỉ hai ba triệu giáo dân ở đây, mà cả nhiều triệu con chiên của hai vị cố vấn sẽ đứng sau ngài. Hoa Kỳ có đủ sức mạnh bảo trợ cho nước cộng hòa miền Nam này đứng vững lâu dài.
Thế giới tự do công nhận quốc gia này là một thành viên. Nhưng, ngay từ bây giờ ta phải tập trung sức lực khẩn trương hoạt động. Tòa Bạch ốc đã dự trù nhiều triệu đô, nhiều phương tiện chiến tranh, để kịp thời đối phó với đối phương đáng quan tâm nhất là cộng sản Bắc Việt?
Những lý lẽ sắc bén và đầy sức thuyết phục đó hình như đã giải tỏa được hết bao nhiêu mắc mớ của Thục và Nhu. Cả hai đều vui vẻ, tưởng chừng con đường đầy chông gai phút chốc đã được dọn sạch để đón Ngô Đình Diệm về.
ĐIỆP VIÊN GIỮA SA MẠC LỬA
Nhị Hồ
dtv-ebook.com
Chương 2:
1.
Lê Nguyên Vũ nhìn tấm lịch treo tường: ngày 2 tháng 10 năm 1954. Hai chữ chủ nhật màu đỏ nổi bật trên bìa xanh đậm nhạt in cảnh Chùa Một Cột. Nhìn qua kính cửa sổ, bên ngoài trời vẫn còn mưa, màn mưa xiên xiên, gió lay nhẹ cành liễu rủ chòm lá xanh mượt, đong đưa bộ tóc dài sũng nước.
Phía trên cửa ra vào, chiếc đồng hồ cổ, hộp bằng gỗ mun vẫn bóng lọng. Mỗi lần ngồi đây Vũ có thói quen ngắm quả lắc hình mặt trời óng ánh chuyển động không mệt mỏi, đã mấy năm rồi anh vẫn thấy nó cần cù, kiên nhẫn ghi dấu thời gian. Chiếc kim dài bỗng rung nhẹ, tám tiếng chuông cách quãng đều đều ngân cao và trong, giây thiều xổ nhè nhẹ từng mục điểm giờ nghe khá rõ.
Chú nhỏ cao gầy, nét mặt lạnh lùng thiếu hẳn vẻ sinh động tuổi thơ, bước đi nhẹ nhàng, đôi dép như không chạm nền, kiểu di chuyển khi phụ lễ trước bàn thờ chúa. Chú đến cạnh Vũ khoanh tay lễ phép:
- Thưa thầy, cha vừa đi làm lễ về đang dở ăn sáng. Cha mời thầy ngồi chơi chốc lát.
- Cảm ơn em. Tôi chờ.
Vũ nhìn theo chú nhỏ đi vào phía hành lang âm u tối giữa hai dãy phòng có hai hàng cửa đối diện nhau đóng kín. Chủ nhỏ hầu linh mục Bửu Dưỡng đã quen biết Vũ mấy năm rồi. Chú cúng theo cách xưng hô của cha Dưỡng với Vũ bằng "thầy" do anh vừa theo học đại học vừa đi dạy tư tại trường trung học Nam Đồng của Dòng Chúa Cứu Thế ở Ô Chợ Dừa Hà Nội.
Trong những năm ở trung học Alexandre de Rhodes của Nhà Chung Thanh Hóa, có các linh mục nước ngoài giảng dạy, giáo sư linh mục Poncé rất mến Vú, thường cho phép anh ở lại trong khuôn viên Nhà Chung kề cận cha. Nhờ đó Vũ quen biết linh mục Dưỡng mỗi lần từ Hà Nội vào thăm cha Poncé. Hồi đó cha Dưỡng tưởng rằng Vũ là tập sinh của Nhà Chung nên mấy năm học cha ở Đại học này cha dành cho Vũ tình cảm khá đặc biệt.
Cửa chính hướng ra khoảng sân rộng, bên kia là góc trái giảng đường đại học Văn Khoa.
Bốn năm qua Vũ đã gắn bó với nơi này. Giờ đây tất cả đều vắng lặng, trường không còn mở lại từ sau hè. Bức tường rêu ẩm ướt trước đây Vũ không chú ý, bây giờ nhìn lại như xa lạ, mấy bụi cỏ mỏng manh vươn lên từ sát chân tường sống bám vào các lỗ xói mòn trên mặt đá. Thế mà thấm thoát đá hơn bốn năm kể từ tháng 6 năm 1950, Vũ nhận lệnh vào Hà Nội, không phải để công tác mà để học thêm.
Đã một lần từ giã bút nghiên khoác thanh mã tấu lên đường, đang hăng say quần thảo với quân thù, trong tình thương của đồng bào, đồng chí, bỗng anh phải dứt áo ra đi, vào vùng địch chiếm. Lúc đầu Vũ không khỏi băn khoăn, nhưng thủ trưởng cơ quan Trung tâm đã giải thích: "Học cũng là nhiệm vụ. Cứ học đi, giật được mảnh bằng cử nhân coi như đồng chí đã cướp được súng giặc để đánh
giặc". Cách đây bốn tháng, ngày đi nhận bằng, Vũ cảm thấy mảnh giấy ấy như có sức mạnh trên tay. Súng đã cướp được rồi - anh nghĩ - nhưng bao giờ mới khai hỏa? Và khai hỏa như thế nào? ...
Đó cũng là những ngày sôi động giữa Hà Nội. Chiến thắng Điện Biên Phủ, tin về hiệp định đình chiến sắp ký kết, Pháp rút quân khỏi miền Bắc, Chính phủ ta về thủ đô... Người hoan hỉ, náo nức; kẻ nhớn nhác lo sợ. Vũ được bí mật đưa ra ngoài học tập, khóa đặc biệt. Anh chị em, đồng chí khác được tập trung đông vui, thảo luận đường lối chính sách chuẩn bị cho ngày tiếp quản thủ đô... Anh thui thủi một thầy, một trò trong một trang trại vắng vẻ ở khu căn cứ vùng trung du. Cách biệt với tất cả, tuy vậy khỏng khí hồ hởi những ngày hòa bình lập lại, miền Bắc giải phóng, vẫn lan tràn vào tận trang trại này.
Học hết khóa, được lệnh trở lại Hà Nội để vào Nam, Vũ rất sung sướng được thủ trưởng Trung tâm gọi anh đến gặp. Cuộc gặp gỡ thật xúc động! Vẫn đồng chí quen thuộc ấy, mấy năm trước tóc còn xanh, nay đã lốm đốm bạc, nhưng người vẫn nhanh nhẹn, thoải mái. ông nhìn Vũ, cười nói ngay:
- Mới bốn năm mà coi ra đã lớn lên nhiều!
Ông ngắm Vũ, gật gù:
- Xem nào? Khỏe là yếu tố của tinh thần minh mẫn. Đẹp, yếu tố chinh phục. Hà, hà!
Ông cười thành tiếng:
- Thư sinh, chất phác là yếu tố bất ngờ đấy. Kẻ thù rất dễ mất cảnh giác trước dáng vẻ "học trò" này!
Ông hỏi luôn:
- Sao, đã được tập huấn kỹ càng về nhiệm vụ rồi, bây giờ nhận quyết định vào Nam công tác lâu dài, còn băn khoăn gì nữa không?
Hỏi nhưng không chờ Vũ trả lời, ông thấp giọng thiết tha:
- Gần năm năm bà cụ vắng im đứa con trai một của mình, nhớ lắm. Tôi đã suy nghĩ, tính toán, định bố trí cho đồng chí về thăm mẹ trước khi đi, nhưng cuối cùng thấy cách nào cũng bất lợi. Hiện nay, ở đâu cũng có kẻ xấu dựa thời cơ trốn chạy vào Nam. Đồng chí đã có công xóa dấu vết cũ trong bốn năm nằm yên trong Hà Nội, đã mở được quan hệ với các đầu mối thù, chúng ta để sơ hở lúc này thật đáng tiếc. Đành chấp nhận hy sinh tình cảm vậy thôi.
Vũ xúc động trước những lời nói và thái độ thiết tha đó. Thật vậy, Vũ không có điều mong muốn nào hơn là gặp lại mẹ lúc này. Bố mất sớm, nhà chỉ còn mẹ và bốn chị em gái. Mẹ thương Vũ nhất vì chỉ một mình Vũ là trai. Mấy năm qua, các chị tìm cách nhắn Vũ, mẹ trông, khóc hoài, nhưng làm sao được? Vũ đã cắt đứt mọi liên hệ, xóa bỏ hết các dấu vết về quê hương, làng xóm, gia đình đối với người khác ở Hà Nội, làm sao có thể về gặp lại mẹ? Vũ đã nghĩ trước đến điều này, chân thành trả lời thủ trưởng:
- Thưa đồng chí, tôi hiểu. Xin sắn sàng nhận nhiệm vụ.
Thủ trưởng gật đầu nhè nhẹ. Vẫn với giọng đang hạ thấp xuống đó, ông nói tiếp, rành rọt:
- Đồng chí trở vào Hà Nội, còn phải làm việc ít ngày nữa với đồng chí trợ lý Thành Minh. Cần nghiên cứu thật kỹ địa bàn hoạt động, nắm vững tình hình miên Nam, đặc biệt là tình hình ở Sài Gòn,
trước khi lên đường. Đồng chí Thành Minh đã vào Hà Nội mấy hôm nay rồi, đành phải gặp nhau ngay trong đó, để tranh thủ giải quyết cùng lúc nhiều công việc khẩn cấp khác. Lúc này, kẻ thù của chúng ta đang bay chứ không phải chạy. Chúng vượt hàng ngàn cây số nhào vào miền Nam như bướm ma thấy lửa, không cho phép ta đi bộ ngắm trăng đâu?
Ông ngừng giây lát, nhắc thêm về nhiệm vụ công tác của Vũ rồi bắt tay, kéo ôm Vũ.
Cuộc chia tay ngắn ngủi, nhưng lúc này nhớ lại, Vũ cảm thấy xốn xang.
2.
Tiếng giày da từ phía hành lang vẳng vào khi nặng khi nhẹ, cắt đứt dòng suy tư của Vũ. Anh nhận rõ bước đi quen thuộc của giáo sư triết học Đông phương: linh mục Bửu Dưỡng. Ông ta đã đứng ngay trước cửa, người tầm thước nhưng to ngang, dáng hơi lệch vì chân thấp chân cao, vẫn với chiếc áo dài rộng trắng có dây buộc bên hông, vẫn cặp kính cận dầy làm bóng thêm vừng trán hói. Tỏ ra mừng rỡ, ông vội tiến lên trước Vũ:
- Thầy Vũ! Tưởng bỏ tôi đi trước rồi? Nghỉ hè đi những đâu mà biền biệt, có gì vui không?
Vũ siết nhẹ bàn tay mập mạp. Anh không trả lời vào cáu hỏi của linh mục, tỏ ra mình cũng mừng rỡ và nôn nóng được gặp ông ta:
- Cha mạnh giỏi? Trên đường về đây, tôi cứ băn khoăn không biết còn gặp Cha nữa không, giờ được gặp quả là may mắn. Trở về thấy thiên hạ bỏ đi gần hết, tôi đến xin ý kiến Cha, đi Nam hay ở lại?
Cha Dưỡng kéo Vũ cùng ngồi cặp mắt trợn trừng sau làn kính trắng nhìn thẳng vào mắt anh. Ông ta hỏi lại:
- Ở với Việt Minh cộng sản à? Có điên không đấy?
- Thế ra Cha đã quyết định đi Nam?
- Nếu ngày mai thầy mới tới, sẽ không còn gặp tôi rồi. Vũ thở dài nhè nhẹ:
- Kể cũng lạ thật, chúng ta cùng hoạt động chung trong Chi hội hòa bình thế giới. Cha đã từng giơ tay đòi hai bên chấm dứt chiến tranh để thôi chém giết, nay đã có ký kết đình chiến, Cha lại bỏ đi vào Nam!
- Chính tôi cũng đã băn khoăn như vậy, nhưng bất ngờ các Cha đồng Dòng ở Sài Gòn ra tìm, buộc tôi vào tiếp tục dạy đại học và giao cho sáng gớm mai đi. Tôi cũng đã suy nghĩ, chúng ta ai chẳng mong muốn có hòa bình, nhưng phải là... phải là... - linh mục ngừng lại xoa trán, vò đầu, cố tìm một tiếng gì diễn đạt cho đúng ý, cuối cùng chậc lưỡi - Phải là loại hòa bình không cộng sản kia?
Ông ta đưa thân mình về phía trước hai bàn tay đặt xuống bàn, như muốn ghé gần lại người đối thoại:
- Các cha Dòng cho tôi biết miền Nam sẽ thành một quốc gia độc lập, như Đài Loan của.
Trung Hoa, dưới sự bảo trợ toàn diện của Mỹ. Như vậy thì loại hòa bình ở miền Nam không phải là hòa bình trong tay quân đội Pháp, cũng không phải là cộng sản Việt Minh, mà thực sự là của chính phủ Ngô Đình Diệm, một con chiên trung thành của Chúa Cứu
Thế. Ông Diệm sẽ cương quyết xây dựng một nền hòa bình đúng theo ý Chúa.
Trong nhưng năm gần gũi, Vũ đã hiểu cha giáo sư triết học cổ điển này. Xuất thân từ một gia đình quan lại ở triều đình Huế, bản chất phong kiến, tôn sùng đạo Khổng. ông ta từng thiết tha với một xã hội trong đó là tôn ti trật tự theo kiểu Quân - Sư - Phụ - Dân thứ cho rõ ràng. Mỗi khi giảng bài, ông ta vừa làm bổn phận tông đò của một cha cố, vừa không quên để thêm vào từ chương của Tứ thư, Ngũ kinh, những lời của Chúa Giê-su Ki-tô, nào Bình đằng, Bác ái, nào thương yêu nhau như anh em. Ông tin rằng trong một xã hội mà tất cả đều là con chiên của Chúa, mọi người đều theo lời Khổng Mạnh, chịu an phận thủ thường, thì hòa bình sẽ vĩnh cửu. Vậy mà bây giờ, ông ta thốt ra những lời mang tính chính trị thời cuộc. Rõ ràng ông đã quan tâm nhiều đến những gì các cha cố đồng Dòng từ Sài Gòn ra tâm sự.
Hai má của linh mục chảy xuống quá xương cằm, rung nhè nhẹ. Vũ thường thấy biểu hiện cảm xúc đột ngột đó những khi cha đứng nguyện cầu trước bàn thờ Chúa. Anh ngồi im lặng, quan sát, tin rằng ông ta sẽ nói rõ ra với anh niềm cảm xúc đang trào lên trong lòng ông. Anh là một sinh viên tin yêu của ông. Anh sinh ra trong một gia đình nho giáo, từ nhỏ đã học chữ Hán, đọc thông được Tứ thư, Ngũ kinh, vì vậy anh vào Hà Nội học, vị linh mục giáo sư triết học Đông phương này rất ngạc nhiên về sự hiểu biết của anh, đem lòng quý mến anh đặc biệt.
Hơn nữa linh mục Dương Bảo vẫn tưởng anh là tu sĩ và cha Pông-xê (đã qua đời) là cha linh hồn của anh. Ngoài ra, còn các hoạt động trong "Chi hội hòa bình Việt Nam", nằm trong "Hội hòa bình thế giới" bịp bợm hồi bấy giờ, do bọn đế quốc chi phối. "Chi hội
hòa bình Việt Nam" được thành lập, kết nạp bọn Đại Việt, quan lại và một số giáo sư, bác sĩ. Chúng mời anh mục Dương Bảo làm chủ tịch danh dự và đề nghị mở rộng tổ chức ra trong sinh viên. Vũ được chọn mới đi vận động, được bàu vào Ban chấp hành, làm ủy viên tổ chức...
Bám vào Thiên Chúa giáo, bám vào Dương Bảo làm chỗ tựa có lợi cho hoạt động của Vũ sau này. Được trên chấp thuận, anh càng tới lui, gần gũi Dương Bảo, chiếm được cảm tình và lòng tin của linh mục. Cha thường không dè dặt tâm sự với anh. Cha đang thấp giọng tỏ bày:
- Những băn khoăn của tôi đã được các cha Dòng giải đáp. Chúa đã nhận lời cầu xin của chúng ta, ban cho chúng ta hai điều ước nguyện: một quốc gia độc lập, một giáo hội độc lập?
Ông ta ngừng lại làm dấu thánh giá để lấy bình tĩnh sau cơn xúc động, giọng càng thân mật:
- Nếu một tháng trước đây, thầy về gặp tôi hỏi đi hay ở, thì như đối với khá đông eác con chiên đã đến hỏi, tôi đã trả lời: đi, ở là tùy hoàn cảnh và ý riêng của mỗi người. Nhưng lúc này, tôi mạnh dạn khuyên thày di cư vào Nam. Với tính ham học, với sự thông minh, thày vào đó, luận án tiến sĩ thày đoạt được không khó, tương lai sẽ nhiều hứa hẹn. Những người bạn của chúng ta hiện nay đã qui tụ xung quanh ông Diệm tháng trước họ đã tới nhắn tôi tìm thày, thúc thày vào sớm.
Vũ thoáng nghĩ rất nhanh những người bạn đó là ai? Hoàng Văn, Trần Kim Tuyến, Trần Đình... Họ đang làm gì ở Sài Gòn lúc này? ... Cha Bảo lưu luyến đưa chân Vũ ra tận cổng ngoài:
- Thày định bao giờ đi?
Vũ tính thầm giây lát:
- Thưa, kịp thì vào chủ nhật tới.
- Tôi vào trước sẽ tin cho các bạn thày biết.
Cả hai đứng nắm tay nhau thật lâu, trên vai áo đã đầy những giọt nước li ti. Vũ thả bàn tay mập ấm của linh mục, chúc ông ta bình an trong chuyến đi xa này.
3.
Cơ quan dành cho đồng chí trợ lý đón Vũ đến làm việc trong một căn phòng kín đáo, ấm cúng, trên tầng ba, căn nhà ở phố Thuốc Bắc. Đã ba ngày, Vũ quên hết cảnh bên ngoài, quên cả thời gian, say mê nghiên cứu tài liệu. Những bản chụp văn kiện của cơ quan tình báo Pháp, một số công văn tuyệt mật cấp này gửi cấp khác trong nội bộ quân địch. Vũ thích thú trước những khám phá mới, cảm thấy như đang sống trong thế giới bí ẩn của kẻ thù, ngay giữa Sài Gòn, trong lòng miền Nam, nơi mà anh chưa hề đặt chân tới. Mỗi lúc Vũ mỗi thêm thầm phục lớp đàn anh đi trước, những chiến sĩ tình báo của ta, đã thu thập được những tài liệu quý giá này. Anh không khỏi bồn chồn nghĩ tới nhiệm vụ ngày mai liệu mình có theo kịp được bước đi trước của lớp đàn anh?
Đồng chí Thành Minh đẩy cửa bước vào, với tiếng cười ngất ngất:
- Ăn đã chứ? Quên đói rồi sao?
Vũ ngước mắt, tay vẫn còn giữ chỗ đánh dấu tài liệu đang đọc dở:
- Xin để tôi tiếp tục. Tài liệu còn nhiều, nếu có thể anh cho tôi một miếng bánh mì...
- Được thôi, mình đưa cơm vào cùng ăn với nhau nhé!
Thành Minh chỉ hơn Vũ vài ba tuổi nhưng già dặn trông tưởng hơn cả mười năm. Vừa có kinh nghiệm nghiệp vụ, vừa có khả năng huấn luyện, tính tình rất cởi mở, trong mấy tháng gần gũi Vũ cảm thấy anh như muốn trao tát cả những hiểu biết của anh cho Vũ như một võ sư cố truyền cho môn đệ đến thế võ cuối cùng, quyết giúp học trò chiến thắng địch thủ. Xong bứa cơm đơn giản, vừa uống nước, Thành Minh vừa hỏi Vũ:
- Đến lúc này đã nắm được tình hình chung địa bàn hoạt động của mình chưa?
- Vâng, đã hình dung được khái quát. Có lẽ anh tập trung phần lớn tài liệu vào hướng mục tiêu công tác trước mắt của tôi, nên có rất nhiều về những tổ chức vũ trang đội lốt giáo phái, lý lịch những tên cầm đầu có những biệt danh rất anh chị: Bảy Viễn, Năm Lửa, Ba
Cụt, Hai Ngoan... rồi đảng phái phản động lúc nhúc hàng chục danh xưng: Liên Minh, Cấp Tiến, Việt Cách, Lực Việt...
Thành Minh châm thuốc hút, chậm rãi giải thích:
- Lúc này những tên tướng rừng xanh, những phần tử lưu manh chính trị đang bu quanh bọn CIA để cầu xin những chiếc ghế trong tổ chức ngụy quyền Ngô Đình Diệm. Có nhiều tên đã nghiễm nhiên là bộ trưởng của ngụy quyền liên hiệp giữa hai tập đoàn tay sai
Pháp, Mỹ vừa hình thành ở Sài Gòn. Ý đồ của Mỹ khá rõ khi đưa Ngô Đình Diệm về. Trước sau gì Diệm cũng sẽ thay thế Bảo Đại, tức là Mỹ ra mặt hất cẳng Pháp, trực tiếp xâm nhập miền Nam. Vậy thì mâu thuẫn Pháp, Mỹ sẽ diễn biến ra sao? Gay gắt hơn, hay Pháp cúi đầu chịu thuần phục?
Anh ngừng lại giây lát, mắt hướng về phía trước như cố tưởng tượng ra con đường có nhiều chướng ngại mà Vũ sẽ phải vượt qua:
- Hai năm, từ đây đến cuối 1956, giai đoạn chuyển biến rất mới, rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi hoạt động nội địch của ta phải hết sức tỉnh táo, dũng cảm và sáng tạo. Mục tiêu chính của chúng ta lúc này là âm mưu của Mỹ, trong khi chúng ta chưa có kinh nghiệm đương đầu với chúng...
Hai người trao đổi tiếp với nhau một lúc nữa, rồi Thành Minh coi giờ, đứng lên:
- Thôi, tôi phải đi. Anh nghiên cứu kỹ các đối tượng mà trong tương lai có thể sẽ phải tìm đến với chúng. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một phương án hành động. Lại còn bao nhiêu việc phải làm nữa, như qui ước mật mã, liên lạc, tiếp xúc sau này... Thời gian không chờ chúng ta?
Vũ lại vùi đầu vào đồng hồ sơ, tài liệu, do Thành Minh giao cho. Anh hầu như tách biệt với không khí sôi động bên ngoài của thủ đô đang gấp rút chuẩn bị đón ngày quân đội ta về. Từng trang tài liệu như hút hết tám trí anh.
́*
"Hồ sơ tuyệt mật.
Số... phòng nhì quân đội viễn chinh Pháp tổng hợp:
Ngày... tháng... năm 1953
"Đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông như biển, nổi lên bảy ngọn núi không cao, chiếm hẳn một khoảnh đất rừng âm u trong quận Tịnh Biên, tên Châu Đốc. Không xa, bên kia là biên giới Cao Miên. Tại đây dân gian có rất nhiều câu chuyện truyền thuyết ma quái. Cũng là nơi thuận lợi cho các tổ chức buôn lậu, trộm cướp làm sào huyệt ẩn náu. Cạnh sông Vàm Nao, con sông nối liền sông Hậu và đoạn cuối sông Cửu Long, một cù lao do đất bồi tạo thành, ruộng đất phì nhiêu, lúa tốt, cây trái quanh năm trĩu cành, đó là làng Hòa Hảo.
"Ông Huỳnh Công Bộ, một chủ đất giàu có, làm hương cả làng này. Ông sinh một người con trai vào năm Kỷ Mùi (theo dân bản xứ gọi là năm con Dê), tức là năm 1919. Ông ta đặt tên cho người con trai đó là Huỳnh Phú Sổ. Cậu Sổ lớn lên không bình thường như các trẻ đồng lứa. Cậu ốm yếu, xanh xao, còi xương, thiếu máu, hàng năm thuốc thang liên tục. Năm cậu ta lên mười, có người mách bảo trong hòn núi Cấm, một trong bảy hòn núi nói trên, có ông thày Miên chuyên làm bùa phép, châm cứu trị bệnh rất giỏi, đó là ông đạo Xom ở chùa Trà Sơn. Ông Bộ gởi con trai cho ông đạo này chữa trị. Cậu Sổ ở tại chùa năm năm, vừa trị bệnh vừa học bùa phép. Ông đạo Xom còn dạy cho cậu ta học thuộc bộ sách giáo lý của nhà sư Nguyễn Văn Quyên, một nhà sư đã được vua Minh Mạng phong là "Phật thày Tây An", chính là người sáng lập ngôi chùa Trà Sơn này. Sau khi truyền dạy cho người học trò duy nhất về bùa ngãi, thuốc nam, châm cứu, cậu Sổ thành nghề thì ông đạo Xom chết. Cậu ta trưởng thành nhưng vẫn gầy ốm xanh xao, đề tóc dài ngang vai, đặc biệt có bộ mặt sáng sủa, có cặp mắt mơ màng trông xa xăm, huyền
bí. Người thanh niên đó đã trở thành chủ chùa Trà Sơn, thay đạo Xom tiếp tục hành nghề bùa phép, chữa bệnh. Nhưng chỉ vài năm sau ông hương Bộ bắt buộc con trai phải trở về nhà.
"Ngày 19 âm lịch, nhằm tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), giữa đêm mưa gió, chàng thanh niên đạo sĩ ấy không rõ do sự kích thích nào, bốc đồng đứng trước bàn thờ, tuyên cáo là phật thày Tây An giáng nhập xác thân, truyền cho ông hương Cả phải gọi tất cả dân làng đến cho Phật thầy truyền giảng. ông Bộ vốn đương là chủ làng, nên việc họp dân không mấy khó khăn cho dù đêm hôm mưa gió.
"Những người có mặt đêm đó chứng kiến chàng thanh niên sắc mặt hồng hào, mắt long lanh huyền bí, đang đứng trước bàn thờ đèn nhang sáng rực, tuyên bố sẽ lập nền đạo mới do lệnh truyền của Phật thày Tây An, để eứu nhân độ thế, cấp thuốc chữa bệnh, cho bùa..
tránh nạn, răn sống ngay lành, thờ phật Trời giáng phúc. Đạo Phật giáo Hòa Hảo ra đời kể từ đêm hôm đó. Về sau này ông Huỳnh Phú Sổ được tôn xưng là "đức thày" tức là Phật thày Tây An giáng phàm thông qua thân xác người thanh niên đạo sĩ ấy.
"Giáo lý của đạo Phật giáo Hòa Hảo, do chính ông Sổ tự soạn, rất đơn giản. Cơ bản rút ra từ nền Phật học cổ truyền, dạy tín đồ ăn ở nhân đức làm đầu, gồm bốn điều răn: Không si mê rượu chè, cờ bạc, hút sách. Không ăn thịt trâu bò, không tham lam cướp bóc, lấy vợ người, không giết chóc lẫn nhau. Và tám điều khuyên làm điều thiện. Về nghi lễ thờ phụng cũng đơn sơ, không cần có đền chùa, mỗi gia đình lập một bàn thờ đặt ở phía ngoài sân trước nhà, chỉ một tấm ván nhỏ đóng trên chiếc cột cao bằng đầu người, phía trên treo một lá bùa bằng vải nâu, sau này trở thành eờ đạo. Chính nhờ sự đơn sơ đó, đạo rất thích hợp với cuộc sống cũng đơn giản của
nhân dân miền Nam. Người ta chỉ nghĩ rằng, cúng thờ Phật Trời là điều nên làm, không tốn kém, chẳng phiền phức, mà lại được phúc. Điều suy nghĩ đó đã đưa đến sự phát triển tín đồ mau lẹ và rộng khắp một vùng.
"Tiếng tăm lan truyền Đức thày Hòa Hảo chữa bệnh không lấy tiền đã là sự thu hút, rồi bệnh gì thày chữa cũng lành, càng thêm hấp dẫn. Dân chúng khắp nơi kéo đến xin thuốc, xin bùa đông nghẹt bến đò Bình Thủy, con đò không kịp chở khách qua sông, khách phải ngủ lại ban đêm chờ đến lượt mình. Danh tiếng Đức thày lớn lên, một số người nảy sinh ý đồ lợi dụng. Trong số đó có ông điền chủ Lê Công Bộ, đem xe nhà tự đưa đón thày đi giảng đạo, chữa bệnh ở các tỉnh Cần Thơ, Sa đức, Long Xuyên và Mỹ Tho. Đến đâu thày cũng lo giảng đạo chữa lành một số bệnh ngặt nghèo. Thày không nhận tiền, nhưng số người lợi dụng, sần sàng nhận riêng, nói là để chi phí đi lại, nhưng thực ra bỏ túi. Trong mấy năm đi giảng đạo, dân chúng các nơi đua nhau làm bàn thiên thờ cúng coi như theo đạo, theo Thày. Tín đồ phát triển khắp nơi. Trong khi đó, số người lợi dụng không dừng lại, chúng chuyển qua lợi dụng chính trị. Bọn Nhật không bỏ lỡ cơ hội, cho tay sai theo Thày xin làm đệ tử, tuyên truyền cho thuyết Đại Đông Á. Nhà đương cục Pháp lúc đó thấy nguy cơ, liền bắt Thày giữ trong nhà thương điên Chợ Quán mười tháng, kết tội phá rối an ninh, trật tự. Tháng 5 năm 1941 giải Thày về thị xã Bạc Liêu, bắt quản chế tại đó ý định tách rời ra khỏi vùng ảnh hưởng của Thày. Nhưng đến tháng 10 năm 1942, hiến binh Nhật tự động rước Thày về Sài Gòn cùng với ý định lợi dụng vào mục đích riêng của chúng.
"Từ đó quân Nhật đã cung cấp vũ khí cho số tay sai đội lốt tín đô, lấy danh nghĩa bảo vệ Đức thày và nền đạo công khai lấn chiếm một số vùng, nắm quyền hương chức trong các làng xã, tiến tới lớn
mạnh dần cả thế và lực. Năm 1944, Nhật lập các đại đội bảo an, công khai chống nhà đương cục Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng vũ trang mệnh danh "linh đạo Hòa Hảo", dưới sự che chở của quân Nhật chiếm thị trấn tỉnh Cần Thơ, thành lập thủ phu "Phật giáo liên hiệp hội". Dụng ý của Nhật là cho mở rộng phạm vi hoạt động không chỉ dành riêng cho tổ chức Hòa Hảo phát triển. Tuy nhiên Lê Công Bộ, một tên tay sai của hiến binh Nhật không được Nhật cử làm chủ tịch, mà đưa ông Huỳnh Phú Sổ ra nắm chức vụ này. Bộ chỉ làm cố vấn, nhưng mọi việc đều do Bộ chủ trương, theo sự chỉ dẫn của bọn hiến binh Nhật. Người Nhật đã chuyển hướng một tổ chức truyền đạo lúc đầu trở thành một hiệp hội hoạt động chính trị có vũ trang, ủng hộ cuộc xâm nhập của Nhật vào Việt Nam, bằng thuyết Đại Đông Á, người Á đông tự làm chủ châu Á.
"Tài liệu này được tổng hợp xong ngày 10 tháng 9 năm 1953, do Phòng nhì quân đội Pháp tại Đông Dương đúc kết.
"Ký tên: A.M. Salvani"
"Hô sơ tuyệt mật. Số... SR/VN
Bạc Liêu, ngày 12 tháng 3 năm 1942:
Chánh ty Liêm phóng Bạc Liêu.
Kính gửi ngài Chánh Sở Liêm phóng Nam Kỳ tại Sài Gòn. Đồng kính gửi ngài Trưởng phòng đặc vụ Tòa Thống Đốc.
Kính thưa ngài.
"Thi hành mật điện số... ngày 2 tháng hai năm 1942, bản Ty đã bố trí người của ta bên cạnh Huỳnh Phú Sổ làm đô đệ và đã được ông ta tin cậy. Người này có tên là Trần Văn Soái, 46 tuổi, quê quán
Kiến An, tỉnh Long Xuyên. Nguyên y là chủ một xe đò, bị phá sản vì xe y cán chết người cách đây hai năm. Soái tình nguyện làm nhân viên mật cho Ty tôi đã được ba năm, có năng lực, can đảm và trung thành. Ty tôi bảo đảm Soái sẽ hoàn thành công việc được Ngài giao.
"Hiện nay Soái đã qui tụ được một số đàn em, cũng lấy danh nghĩa bảo vệ "Đức Thày", thành lập trung đội vũ trang, lực lượng có thể lên tới đại đội, nếu như số vũ khí người Nhật chịu cấp đủ. Các tổ chức đội lốt tín đồ của hiến binh Nhật cũng đang lợi dụng danh nghĩa Hòa Hảo, trong ba tỉnh Châu Đốc, Cân Thơ và Long Xuyên. Theo sự tiết lộ của Lê Công Bộ, tên này được Nhật tin dùng: Quân Nhật sẽ cấp vũ khí cho tất cả số đó để đẩy mạnh phong trào chống Pháp, ủng hộ Nhật.
"Đề nghị Ngài chánh Sở ra lệnh cho các Ty kịp thời phối. "Trân trọng kính chào Ngài.
"Thuộc cấp tận tụy trung thành của Ngài.
Ký tên và đóng dấu .
"Hồ sơ tuyệt mật.
Số. SR/VN.
Sài Gòn ngày 16 tháng 9 năm 1942.
Chánh Sở Liêm phóng Nam kỳ.
Kính gởi Ngài Trưởng phòng đặc vụ Tòa Thống đọc.
Đồng kính gửi Ngài Chánh Sở Liêm phóng Liên bang Đông Dương "kính tường".
"Kính thưa Ngài, Cơ quan hiến binh Nhật có ý định đưa ông Huỳnh phú Sổ, lãnh tụ Phật Giáo Hòa Hảo về Sài Gòn, nhằm đạt hai điều có lợi cho họ:
1) Trên danh nghĩa "cứư" ông ta ra khỏi sự quản chế của nhà đương cục Pháp, Nhật sẽ tạo được uy tín với cả trăm ngàn tín đồ Hòa Hảo trong các tỉnh miền Tây..
2) Người Nhật giữ ông Sổ bên cạnh họ ở ngay Sài Gòn, cốt để cho bọn tay chân lợi dụng danh nghĩa ông ta tổ chức vũ trang, lấy cớ bảo vệ đạo, đánh chiếm từng vùng. Hiện Nhật đang dùng các lực lượng vũ trang này chống lại các cơ quan địa phương, và chiếm một số xã biên giới Miên - Việt.
"Để đối phó với những hành động trên chúng tôi đã làm một số việc sau đây:
- Tuyên bố bãi bỏ lệnh quản chế ông Số tại Bạc Liêu. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu người Nhật đưa ông ta lên Sài Gòn, chúng ta ngăn trở, tự nhiên chúng ta đã tạo sự chống đối của hàng ngàn tín đồ, và quân Nhật dựa cớ vẫn can thiệp được. Bãi bỏ lệnh quản chế trước, ông Sổ tự ý đi khỏi Bạc Liêu, hay hiến binh Nhật đón đi, chúng ta đã không mất uy tín, lại không mất lòng tín đồ đạo Hòa Hảo.
- Chúng tôi đã gài người vào hàng ngũ thân cận của ông Sổ, cũng vận động được cấp vũ khí do Nhật chủ trương, tương kế tựu kế, cũng cướp bóc, lấn chiếm, lợi dụng giả danh tranh giành quyền lợi lẫn nhau, gây xáo trộn, chúng ta có cớ can thiệp mà không mất lòng người Nhật.
Với những việc làm nêu trên, chúng tôi vẫn luôn luôn tuân lệnh của ngài Thống đốc Nam Kỳ, không khiêu khích, không gây hấn với
quân đội Nhật trong giai đoạn này.
Trân trọng kính chào Ngài. Thuộc cấp tận tụy và trung thành của Ngài. Ký tên và đóng dấư .
"Hô sơ tuyệt mật.
Số... SR/VN
(Phòng Tình báo quân đội viễn chinh Pháp tổng hợp gửi lên Phòng đặc vụ Cao ủy pháp ngày 2/6/1953).
"Ngày 15 tháng 7 năm ất Sửu (1925), tại tư dinh ông đốc phủ sứ Ngô Quang Chiêu, nguyên quận trưởng quận Phú Quốc, trong một buổi cầu cơ linh ứng, vị thần giáng cơ tự xưng là Đức Cao Đài tuyên phán cho ông Chiêu lập nền đạo mới, họp các tôn giáo cổ truyền thành quốc giáo để nắm lấy vận mệnh nước Việt Nam.
"Ông Chiêu đem việc này bàn với số bạn thân, trong số đó, có Lê Văn Trung cựu thông phán, đương kim nghị viên Hội đồng thuộc địa, Phạm Công Tắc cựu nhân viên quan thuế. Sau đó được sự hỗ trợ của lớp người có chức phận, giàu có trong xã hội lúc bấy giờ, ông Chiêu tuyên bố thành lập đạo Cao Đài.
Ông ta soạn thảo ra giáo lý. Nội dung giáo lý mang tính chất tổng hợp các hệ tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Tu tiên và ít nhiều có bị ảnh hưởng về Thiên chúa giáo. Chủ yếu tuyên truyền một lòng tin vào thượng đế duy nhất, nhìn nhận có linh hồn và linh hồn đầu thai liên kiếp. Con người sinh tồn trong luật luân hồi, kiếp sau phải chịu hậu quả của người thuộc kiếp trước. Cũng như các tôn giáo khác, Cao Đài dạy tín đồ thờ cúng phật thần, linh hồn người chết, hiếu lễ trong gia đình, nhân đức ngoài xã hội. Luân lý cơ bản
xếp gọn trong năm điều cấm, bốn điều giữ, tám điều dưỡng, dẫn tới hạnh phúc lâu bền. Khuyến khích ăn chay trường (không ăn các loại thịt cá trọn đời) ăn chay có thời kỳ lễ cúng hoặc thời hạn kiêng cữ, theo âm hạch. Truyền bá cho tín đồ học thuộc những kinh kệ thông thường đọc mỗi ngày, trau dồi đức tin và cầu phúc, giảm bớt trầm luân giữa cuộc đời được chấp nhận là bể khổ. Tối tối tín đồ cúng lạy trước bàn thờ, trên bàn bày hoa quả, trà rượu và đốt hương, đọc bốn lần bản kinh cầu nguyện hàng ngày.
"Ngày 15 tháng Chạp năm Bính Dần (tháng 11 năm 1926), một buổi lễ cầu cơ được tổ chức, có đông người tham dự, gồm số sáng lập viên và các đại tông đồ. Đức Cao Đài giáng cơ phán dạy: "Thay mặt Thượng đế, đấng chí tôn là ta, Thích-ca Màu-ni là ta, Giê-su Ki tô là ta. Hãy chọn vùng đất dưới chân núi Bà Đen ở Tây Ninh làm Tòa Thánh phụng thờ ta."
"Không bao lâu dưới chân núi Bà Đen, gần tỉnh Tây Ninh, cách Sài Gòn 100 cây số về hướng tây bắc, một ngôi đền to lớn, màu sắc sặc sỡ nổi bật trên nền huyền của quả núi. Đó là Tòa Thánh Cao Đài. Đền kiến trúc nửa giống chùa Phật, nửa giống nhà thờ Thiên chúa giáo. Thị trấn Tây Ninh với đền thờ nguy nga ấy, từng làm cho khách nước ngoài đến viếng không khỏi ngạc nhiên khi đứng trước một bức họa tại cửa ra vào đền, vẽ hình Tôn Dật Tiên nhà cách mạng tư sản dân tộc Trung Hoa). Trạng Trình (Việt Nam) và Victor Hugo (văn hào người Pháp). Cả ba mặc phẩm phục Hàn Lâm Viện sĩ kiểu Pháp, có vòng hào quang trên đầu giống các tượng thánh ở những nhà thờ đạo Thiên chúa. Dưới bức hình lớn đó có khắc mấy chữ: "Nhân ái và Công lý". Bên trong đền thờ tượng Phật Thích ca, Khổng Tử, Lão Tử và cả chúa Giê-su. Cột đền lớn hơn vòng tay người ôm, mỗi cột đắp một con rồng lượn khúc, màu sắc sặc sỡ. Khắp nơi trong đền tô đắp các hình long, lân, qui, phụng, đủ màu
chói chang, rườm rà, như những phức tạp, rắc rối huyền bí của giáo lý, có thể hợp với vẻ thâm trầm của phương Đông, nhưng xa lạ với người Tây phương vốn ưa chuộng điều rõ ràng, chính xác.
"Chỉ vì năm sau đạo Cao Đài phát triển khá mạnh, ảnh hưởng rộng khắp vùng Tây Ninh và một số tỉnh miền Đông. Lê Văn Trung liên tổ chức một buổi cầu cơ, trong buổi cầu này, Đức Cao Đài giáng cơ, tuyên phán giao cho Trung làm giáo chủ, ông Chiêu là người khởi xướng, sáng lập bị gạt ra ngoài. Nắm được quyền, Trung liền tổ chức ngay một bộ máy hành chánh giống như một nhà nước tôn giáo của Đức giáo hoàng La mã. Trung làm giáo chủ có quyền tối cao, dưới là hàng giáo phẩm, lấy số 3 theo giáo lý hợp ba tôn giáo làm bội số phân cấp: ba vi Đại đầu sư, 36 tổng phối sư, 72 phối sư, 3000 mục sư tương đương với chức linh mục cửa Thiên Chúa giáo, cuối cùng là chức Phó tế, cấp này không có con số giới hạn. Phụ nữ cũng có hàng giáo phẩm riêng. Từ đó bắt đầu xây các đền thờ cho từng địa phương, do sự đóng góp của tín đồ, gọi là: "Thánh thất Cao đài Tam kỳ phổ độ". Những người có địa vị xã hội, lớp giàu có, được đưa ra trông coi các thánh thất đó, giữ cấp chức sắc, kể cả hàng ngũ giáo phẩm trung ương trở xuống cũng vậy. Đến năm 1932 đã có nhiều thánh thất mọc lên ở các tỉnh Mỹ Tho, Chợ Lớn, Gia Định, Thủ Dầu Một, Bến Tre, tín đồ đã có trên trăm ngàn..
"Đúng vào thời kỳ này trong nội bộ xảy ra tranh chấp quyết liệt. Dựa vào thời cơ thuận.
lợi ông Phạm Công Tắc, một trong số sáng lập viên, liền tổ chức cầu cơ. Đức Cao Đài phán dạy, giao cho ông Tắc thay Trung làm giáo chủ. Nắm quyền rồi, ông Tắc tự đổi tên xưng mình là "Đức Hộ Pháp", thay vì giáo chủ. Từ lâu ông Tắc đã bí mật lập một tổ chức kín có tên là "Phạn môn", qui tụ được khoảng ngàn tín đồ tin cậy, cắt
máu ăn thề thần phục ông Tắc, sống chết tuân theo lời và bảo vệ ông ta. Chính nhờ tổ chức này ông Tắc dễ dàng ổn định được nội bộ. Ngay sau khi nắm quyền tối cao, ông Tắc thành lập Hội đồng
Tòa thánh, chánh hội đồng này đưa Trung ra xử tội tham ô công quĩ, và đã dẫn dắt đạo sai đường lối của Đức Cao Đài. Trung bị gạt ra khỏi hàng giáo phẩm, không đầy một năm sau, Trung chết đột ngột (1934).
"Năm 1934, ông Tắc tổ chức lại nội bộ. Tại Tòa Thánh lập thành 9 Bộ, giống như một nội các chính phủ. Toàn miền Nam chia thành năm vùng, dưới nữa là quận, xã. Đó là hệ thống hành pháp. Về lập pháp có Hội đồng tối cao và Đại cộng đồng. Tư pháp có hai tòa án, tòa án tôn giáo và tòa án tín đồ. Ngoài ra để có tiền hoạt động, ông Tắc đã tổ chức hệ thống kinh tài mệnh danh là cơ quan từ thiện, xây
dựng từ cấp trung ương đến cơ sở địa phương, qui mô chặt ché, tìm mọi cách phát triển tài chính. Có tiền rồi, ông ta cho sửa lại Tòa thánh, lập thành ba phần riêng biệt gọi là tam vị: Thánh thần, Thể xác và Linh hồn. Bàn thờ ở chính giữa, gọi là bát quái đài, thờ đức Cao Đài, phía dưới có cửu trùng đài, tượng trưng cho 9 đẳng cấp của hàng giáo phẩm. Phía trên bát quái đài thờ Thượng đế, nơi có đắp một con mắt tượng trưng gọi là "THIÊN NHÃN". Phía dưới trước bàn thờ Đức Cao Đài, gọi là Hiệp Thiên đài, nơi các vi lãnh đạo đạo pháp hợp thông với đấng tối cao bằng hình thức cầu cơ.
"Sau khi đã củng cố xong tổ chức nội bộ và sửa lại đền thánh, ông Tắc đã tạo được một thời cực thịnh của đạo Cao Đài, với trên ba trăm ngàn tín đồ? Từ tham vọng đưa đạo Cao Đài lên hàng quốc giáo đến tham vọng chính trị, mưu đồ vận mệnh quốc gia, ông Tắc ra mặt chống lại nhà đương cục Pháp. Kết quả ngày 21/8/1941, Phủ Toàn quyền Pháp ra lệnh bắt ông ta, sau đó đày đi Madagascar và quân đội Pháp đóng chiếm Tòa Thánh Tây Ninh.
"Năm 1943, dưới sự bảo trợ của người Nhật, Trần Quang Vinh, cựu thư ký sở Mỹ thuật của Pháp, một trong số chức sắc của Cao Đài được cử qua Nam Vang làm đại diện khi ông Tắc còn tại vị, trở về nắm quyền giáo chủ, được hiến binh Nhật khuyến khích và cấp vũ khí. Vinh thành lập lực lượng vũ trang được ba ngàn người, giúp Nhật làm đảo chính Pháp.
"Sau tháng 8 năm 1945, số đông tín đồ Cao Đài tham gia Việt Minh. Riêng hệ phái Bến Tre, ông Cao Triều Phát cầm đầu từ lâu tách ra khỏi hệ phái Tây Ninh, đã đưa toàn bộ tín đồ theo Việt Minh chống Pháp cho đến cùng.
"Khi quân đội Pháp chiếm lại Sài Gòn, Vinh đã kéo theo một số vũ trang còn lại ra hàng. Nhà đương cục Pháp công nhận đạo Cao Đài Tây Ninh, dùng lực lượng của Vinh làm lính bổ sung, trả lương và cấp thêm vũ khí. Ngày 12 tháng tám năm 1946, theo lệnh của chính phủ Pháp và sau khi ông Tắc chấp thuận những điều kiện, ông được đưa về Tây Ninh, nhận làm Hộ pháp như cũ. Tại Tòa Thánh Tây Ninh, ông ta đã tuyên bố trước nhà đương cục Pháp và báo chí: "Sự hiện diện của Pháp ở Đông Dương là cần thiết. Cao Đài hoàn toàn tín nhiệm nước Pháp về việc vãn hồi an ninh cho xứ sở này. Đạo Cao Đài Tây Ninh, lực lượng vũ trang do ông lãnh đạo, hợp tác với quân viễn chinh Pháp chống lại hiểm họa cộng sản, ủng hộ một chính phủ trong liên hiệp Pháp".
"Lực lượng vũ trang của ông Tắc lớn mạnh dần, ông ta chính thức phong cấp thiếu tướng cho Tư lệnh trưởng Nguyễn Văn Thành, thiếu tướng cho chỉ huy trưởng Cơ thánh vệ Nguyễn Thành Phương, cấp đại tá cho Trình Minh Thế, Dương Văn Đang, Lê Văn Tất, cùng nâng cấp cho các sĩ quan khác.
"Bộ tư lệnh Pháp xác nhận: việc cấp vũ khí trả lương rộng rãi cho lực lượng Cao Đài Tây Ninh là chính đáng. Theo bản tổng kết của phái bộ Cao Đài Tây Ninh làm việc bên cạnh quân đội Pháp, chỉ từ tháng 1 năm 1947 đến tháng 12 năm 1948, quân của ông Tắc đã có 400 chết và trên 500 bị thương, đủ đánh giá công lao của ông Tắc và các sĩ quan cấp dưới đối với nền an ninh của xứ sở này.
"Tuy nhiên trong nội bộ Cao Đài Tây Ninh, các tướng tá thường tranh giành địa vi, quyền lợi có lúc rất quyết liệt như vụ Trình Minh Thế không chịu Nguyễn Văn Thành đã kéo hơn hai ngàn quân ra rừng, tuyên bố ly khai, tự ý thành lập "Mặt trận quốc gia liên minh", dù ông Tắc đã phong cho Thế lên thiếu tướng, giữ chức tham mưu trưởng. Sau vụ này, ông Tắc phong cho Nguyễn Thành Phương lên trung tướng làm tư lệnh, thay Nguyễn Văn Thành.
"Ông Tắc vốn có tham vọng khá lớn, mà lại táo bạo. Chính nhờ vậy mà ông ta đã ổn định được phần nào sự rối loạn trong nội bộ quân đội, phát triển được cả hai mặt: đạo và vũ trang. Ông ta còn cử các chức sắc qua Cao Miên, Pháp, thu thập tổ chức tín đồ sau khi đã tổ chức được tín đồ ở Bắc Việt và Trung Việt. Nuôi ý đồ làm chủ các tôn giáo, ông ta tự phong mình là "Đức Thượng tôn quán thế", hy vọng đem lại thời hoàng kim vua chúa xa xưa cho đất nước. Với ảo tưởng đó, ông ta đã tự sáng chế ra các loại phẩm phục cho các loại chức sắc, và cả chính ông ta, loại áo mão như phường hát Trung Hoa: áo dài thụng màu vàng, áo xẻ giữa từ cổ xuống đến gối với hai hàng khuy cỡ lớn, ngang hông buộc dây lụa đỏ, ngoài choàng áo màu xanh tươi, loại áo hiệp sĩ đạo. Đầu đội nón chóp dứa, trang trí nhiều màu sắc, có dây thao rủ xuống dưới cằm. Ông ta xây riêng một biệt cung đặt tên là "Trí huệ cung" theo kiểu vua chúa, tuyển các nữ đồng trinh gọi là thờ phượng thánh thần, túc trực
ngày đêm. Ba chữ "Trí-huệ-cung" được giải thích là nơi tạo ra sự minh mẫn, thông giao với đức Cao Đài và Thượng đế.
"Cái ảo tưởng lỗi thời của ông Phạm Công Tắc đã làm cho các cấp chỉ huy quân sự cũng như hành chánh nhà đương cục Pháp sau này, không còn phải lo ngại, trái lại còn dành cho ông ta nhiều ưu đãi. Chúng ta hãy tự phê phán nhà cảm quyền trước đây, không đi sâu nghiên cứu rõ thực chất của ông Tắc, để phải bắt ông ta đưa đi đày, vừa là một ngộ nhận đáng tiếc, vừa bỏ lỡ một cơ hội hợp tác như sau này, tạo cơ hội cho người Nhật lợi dụng chống phá ta từ cuối năm 1944, và trong cả cuộc đảo chính của Nhật 1945..
"Ký tên: A.M. Salvani".
"Phụ lục bổ sung: Cách cầu cơ của đạo Cao Đài.
"Trong một cuốn sách xuất bản tại Pháp năm 1931, nhan đề "Bịp đời - ảo thuật huyền bí" giải thích về cầu cơ như sau:
Cơ, phiên âm tiếng Pháp Coeur, có nghĩa là trái tim. Người ta lấy một miếng ván thôi (áo quan chôn người chết khi bốc mộ vứt bỏ), gọt đẽo thành hình trái tim mỏng nhỏ bằng chiếc đĩa trà, không được sơn lại, chỉ để mộc sau khi đã mài nhẵn. Thêm một vài vật dùng khác, ba viên bi, một tờ bìa kẻ hai hàng chữ cái từ A, B, C đến X, Y một hàng chữ số từ 0 đến 9. Bên dưới hàng chữ và con số có hai chữ "Có" và "Không".
Người ta chọn một căn phòng yên tĩnh, ba hay bốn người ngồi cơ quanh một bàn tròn, trên bàn đặt tấm bìa có kê chữ, trên bìa đặt miếng ván hình trái tim lên ba viên bi. Những người ngồi cơ đặt nhẹ một ngón tay trỏ lên miếng cơ, số người tham gia ngồi vây quanh, hát một bài gì đó bằng một giọng êm dịu, có vẻ ma quái.
Không bao lâu, bằng một sự bí ẩn nào đó, miếng cơ lăn trên các viên bi chạy quanh các hàng chữ để giải thích sự phán bảo của Đức Cao Đài. Đó chính là lời phán truyền mà không một tín đồ nào được làm trái...
Ngày... tháng... năm 1953.
Phòng.. tình báo quân đội viễn chinh: Pháp tổng hợp". 4.
Từ trong phòng tiếp đón dân di cư, nơi dành cho những người đến ghi tên vào Nam, tại tòa thị sảnh Hà Nội, Vũ đi qua khoảng sân rộng đông nghẹt người, nằm ngồi la liệt rất khó len chân. Ra đến bờ đường, anh nghe tiếng chào:
- Thưa thầy!
Vũ quay lại nhìn cô.. gái học trò cũ của mình:
- Ghi tên di cư hả?
- Thưa vâng. Hôm nay thầy mới ghi tên, chắc phải ít ngày nữa mới đi được. Gia đình em đi chuyến máy bay năm giờ chiều.
- Vậy hả? Còn ở lại được thêm ngày nào hay ngày ấy. Đi rồi, biết bao giờ trở về với cảnh cũ người xưa, bao nhiêu là kỷ niệm.
Cô gái thở dài, vẻ buồn thoáng hiện trên khuôn mặt còn vương nét thơ ngây, cặp mắt thật đen ngước lên nhìn Vũ:
- Chúng em chưa đi mà đã thấy nhớ trước rồi. Lúc đâu mẹ em không chịu đi, định về quê ngoại, nhưng bố em cứ bắt đi. Bố em có đi lính Pháp mấy năm, ở lại sợ Việt Minh bắt tội, vừa rồi lại chót
nhận tiền ký tên tình nguyện, không từ chối được nữa, cả nhà đành phải đi theo.
Vũ tò mò:
- Ký tên tình nguyện làm gì?
Cô gái tỏ ra ngạc nhiên:
- Thế thày chưa biết có nhiều người đã ký tên tình nguyện đi lính cho ông Diệm sao? Mỗi người ký tên đi Nam được lãnh ba tháng lương trước, gia đình vào trong đó được họ lo chỗ ăn ở ngay, không sợ bơ vơ. Ở giáo xứ em có đông người tình nguyện, sau khi Cha xứ khuyên mọi gia đình theo Cha vào Nam. Cha hứa, vào đó sẽ xây nhà thờ to đẹp hơn. Cha con lại quy tụ lập xứ.
Cô gái quay nhìn vào phía Tòa thị sảnh, chỉ cho Vũ thấy:
- Đấy là Cha của xứ họ em đấy. Hôm nay Cha đi với đoàn cuối cùng, trong đó có gia đình em.
Vũ nhìn theo bóng chiếc áo dài đen tu sĩ thấp thoáng chuyển động trong đám đông người.
Anh hỏi lại:
- Bố em đã lớn tuổi cũng còn đăng lính được sao? .
- Thưa, mới bốn mươi. Những người trước kia có đi lính Pháp rồi, dù có lớn tuổi nhưng từ cấp đội, quản trở lên vẫn được tuyển lại phong thêm một cấp. Vào trong Sài Gòn, bố em sẽ là thiếu úy. Mẹ em nghe bố em nói là đi lính bây giờ không phải đánh nhau vì đình chiến rồi mà, nên cũng bớt lo.
Vũ từ giã cô học trò nhỏ, vượt qua đường sang bờ hồ Hoàn Kiếm. Chiếc tàu điện ầm chạy qua chầm chậm, trông qua cửa, khách không đông như dạo nào. Mưa bụi không ngừng phủ xuống, bầu trời vẩn đục, rặng liễu cúi đầu, mặt hồ lặng xanh như tấm thảm. Hai bên đường Hàng Rong, Duy Tân, những cửa hàng đóng cửa im lìm, bọn giàu có đã xa chạy cao bay từ bao giờ. Đó là số người không chút băn khoăn, vướng víu, khi trốn bỏ quê hương, tìm đến nơi mà họ tin là vùng đất Hứa. Vũ lầm lùi bước đi trên vỉa hè, thẳng xuống phố Huế, dưới rặng sấu già quen thuộc. Anh nghĩ đến âm mưu của đế quốc Mỹ đang kéo dân, mộ lính. Phải chăng địch đang tích cực xây dựng lực lượng cho tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, chuẩn bị tiếp tục chiến tranh, chống phá hiệp định đình chiến hay chúng chỉ mua chuộc cử tri cho cuộc tổng tuyển cử hai năm sắp tới?
Vũ dừng lại trước cửa quán cà phê còn mở bán. Người chủ quán này cố vét thêm tiền cho đến lúc rời đi, hay sẽ ở lại? Trong quán rất đông khách; khách những nơi khác không còn
mở cửa cũng gom lại ở đây. Bên kia đường, rạp Đại Nam như ngủ say trong hai tấm cửa sắt kéo kín tự bao giờ. Tấm bảng quảng cáo còn treo trên tường, vẽ cô gái Pháp đứng bên cửa sổ ngó vào khoảng không đầy tuyết phủ. Hàng chữ kẻ xéo nét rất đẹp "Feuiles d’Automne". Vũ chợt nhớ nội dung cuốn phim "Lá mùa thu" này, tả lại cảnh quằn quại của những người vợ lính Pháp trong tay quân phát-xít Đức, khi chúng đang làm chủ thành phố Ba Lê? Chẳng lẽ khi coi đoạn phim này, những tên lính thực dân ở đây không nhớ đến cảnh nhục nhã của vợ con chúng trước đây sao? Trước cửa quán cà-phê cũng còn tấm bảng dựng nghiêng, cả hai mặt đều kẻ chữ "Paradis" trên nền xanh có rải rác những vì sao óng ánh.
Vũ bước vào. Hai dãy bàn ghế bằng mây khá sang, không còn chỗ trống. Khách ngồi im lặng, họ đang thả hồn theo bản nhạc buồn, giọng ca Khánh Ngọc, trầm trầm nức nở, day dứt người nghe. Quán
không mấy rộng, nhưng rất sâu, Vũ chầm chậm bước mãi vào bên trong, le lói vài bóng đèn màu, không làm giảm cảnh âm u khiến Vũ có cảm tưởng đang đi trên con đường vào sâu lòng đất, vào sâu địa ngục, không hợp với tên quán "Thiên đường". Anh tìm được chỗ trống trong góc cùng, ngồi ngả lưng vào thành ghế, có thể nhìn suốt ra tận ngoài.
Một nhóm mươi tên lính Pháp còn ở lại chúng cũng im lặng, không ầm ĩ như trước đây, ngây ngô ngắm những ly rượu đã vơi. Có lẽ hơi men làm cho chúng thấm nỗi buồn thân phận. Còn lại hầu hết là những thanh niên đang tập vào đời với hàng ria mép thời trang với vẻ ngông nghênh thách thức. Chưa hiểu đời, chúng đã vội chán đời, gục đâu trong khói thuốc, hơi men, mặt còn non nhưng miệng phát ngôn toàn những lời chai sạn. Chắc là chúng đang chờ đến lượt đi, và trong tương lai con đường dễ đi nhất đối với chúng là làm lính đánh thuê cho giặc.
- Ông uống cà phê?
- Vâng, một phin.
Người hàu bàn đến gần hỏi, Vũ trả lời. Ly cà phê mang đến, Vũ vừa chậm rãi nhấm nháp, vừa ngắm những bộ mặt thẫn thờ, ngây ngất theo giọng hát, lời ca đang cuốn hút họ, xô đẩy những tâm hồn non dại vào bùn đầy sa đọa, tội lỗi?
Mùa đông trời thật mau tối. Khi Vũ ra khỏi quán, đèn đường đã bật sáng. Vẫn ánh sáng quen thuộc đó trên đường phố Hà Nội, nhưng đêm nay Vũ thấy có gì khác. Anh được biết là trong nhiều
ngày nay, anh em công nhân đã bám xưởng, đấu tranh không cho địch gỡ máy đem đi. Địch phải rút chạy, nhưng Hà Nội điện vẫn sáng?
Vũ kéo vành mũ thấp ngang tầm mắt. Mưa phùn tung bụi nước xuống mặt đường ướt sũng, gió thổi mạnh Vũ muốn đi thật lâu trong đêm Hà Nội giá lạnh này, nhưng lại thấy nôn nóng muốn bay ngay vào địa bàn hoạt động trong kia, bắt tay vào công việc để được hòa nhịp vào những hoạt động âm thầm nhưng sôi sục của Hà Nội. Sài Gòn và miền Nam không còn xa lạ đáng lo ngại như lúc đầu anh mới nhận được lệnh đi, mà qua nghiên cứu tài liệu, qua dặn dò của thủ trưởng, thảo luận với anh Thành Minh, Vũ thấy trong đó trở nên quen thuộc và giục giã anh. Tấm giấy hẹn ngày đi đã nằm trong túi, anh sẽ lên đường mấy ngày trước khi quân Pháp rút khỏi thủ đô. Vũ ngửa mặt nhìn lên hai rặng cây bên đường, hai dãy đèn, những mái nhà yên lặng trong mưa, lẩm bẩm: "Tạm biệt Hà Nội thân yêu!"
ĐIỆP VIÊN GIỮA SA MẠC LỬA
Nhị Hồ
dtv-ebook.com
Chương 3:
Phù Ninh Đa vừa mở cửa đã ôm chầm lấy khách. Khách là thiếu tá Lucien Conein. Hắn mặc chiếc áo sơ mi chi chít những hình vẽ lộn xộn chim cò và chữ Anh kiểu áo Hồng Lông mới du nhập vào Sài Gòn. Người hắn cao to, khá trẻ so với tuổi bốn mươi ngoài. Hắn bế bổng cô gái lên bước vào phòng, đặt cô ta ngồi tựa trên mép bàn kê cạnh cửa sổ, trong lúc vòng tay mềm mại của cô gái vẫn không rời cổ hắn.
Nhìn sói vào cặp mắt đen xanh lấp lánh của cô gái hắn hỏi: - Rob đâu?
- Ninh Đa vẫn tươi đẹp như ngày nào!
Ninh Đa mỉm cười duyên dáng, hơi ưỡn người ra ngắm lại hắn:
- Dẹp bộ đồ lính, cạo sạch hàm râu, anh đẹp mà trẻ ra nhiều đấy. Rob đang tắm, ảnh nhắc anh hoài, sao cả năm không thấy mặt?
- Phải đi xa, nhớ quá, cố bay về.
Cô gái cười rúc rích, ghé mặt vào sát má Conein. Roger Trinquier từ trong phòng bước ra, nụ cười làm căng hàng ria mép trên eặp môi xam xám của hắn:
- Hello! Conein hả? Mạnh khỏe chứ?
Tên sĩ quan CIA Mỹ rời cô gái, quay lại bất tay tên trung tá Phòng nhì Pháp:
- Rob, mình về gấp mừng bạn vừa được vinh thăng đấy. - Và thăm vết đạn của Voòng Pao nữa chứ?
Trinquier cười ha hả và kéo Conein vào phòng khách. Năm 1946, Lucien Conein được Trung tâm CIA cử qua công tác trong Phòng nhì Bộ tư lệnh Pháp tại Đông Dương. Hắn đã sống và cùng hoạt động với Trinquier gần mười năm, trở thành thân thiết với nhau. Cả hai đã từng xây dựng lực lượng vũ trang đánh thuê tại Thượng Lào, miền núi Bắc Việt, cao nguyên Trung Việt, với các phong trào "Dân tộc thiểu số tự trị" lừa bịp. Trong thời gian đi tuyển mộ lính bổ xung, lập các đơn vị người Nùng tại Móng Cái, Lucien Conein tình cờ cứu được cô gái họ Phù thoát khỏi tay bọn phỉ buôn người, sau khi chúng đã sát hại cha mẹ cô ta. Không còn nơi nương tựa, Ninh Đa đành đi theo Conein làm kẻ hầu hạ. Vì có nhiệm vụ phải đi xa, tên sĩ quan CIA giao Ninh Đa lại cho Trinquier nuôi giúp. Từ đó cả hai coi cô gái như của chung, nửa tình nhân nửa tôi tớ. Tuy nhiên, vì Ninh Đa có sắc, lại khôn khéo, nên cả hai đều đối xử với cô thân thiết không còn ranh giới chủ tớ.
Câu nói của Trinquier vừa nhắc về chuyện "vết đạn của Voòng Pao" là gợi lại cuộc tranh chấp ở vùng chuyên sản xuất thuốc phiện nằm giữa ba biên giới Miến Điện, Thái Lan, Lào, thường gọi là khu Tam giác vàng. Khu này trước do quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm đóng và khai thác. Sau theo kế hoạch của Trinquier, Pháp đã chiếm lấy, tổ chức thành một "vùng tự trị" của dân tộc Mèo, với những tên tay sai lợi hại như Voòng Pao. Hàng năm Pháp độc quyền thu mua tại khu này trên ngàn tấn thuốc phiện, đưa về Sài Gòn tiêu thụ tại nội
đia, và chở qua Hồng Lông, Marseille, bán khắp châu Á, châu Âu, mỗi vụ thu lợi hàng trăm triệu đô.
CIA đánh hơi được nguồn lợi này. Năm 1954, tên trùm CIA Allen Dulles phái thiếu tá CIA Spellmeir cùng hai trung úy cận vệ đột nhập khu Tam giác vàng. Nhằm thời điểm Pháp đang bị thất bại nặng nề tại Điện Biên Phủ, tên Voòng Pao phản lại chủ Pháp, quay sang hợp tác với CIA. Trong vụ thu hoạch thuốc phiện đầu năm 1954 Spellmeir chặn chiếm trên ngàn tấn chở về Thái Lan và cho Voòng Pao ám sát tên sĩ quan Phòng Nhì Pháp. Nhờ có số lính Mèo tin cậy cứu, Trinquier thoát chết, quay lại giết cả ba tên CIA đế trả thù...
Trinquier nhắc lại việc trên giọng nửa đùa nửa thật. Tuy vậy rất hiểu rõ tên sĩ quan Phòng Nhì Pháp này, vốn được mệnh danh là con người máu lạnh, tàn nhẫn, không nương tay với cả bạn, khi đã hết tin nhau. Conein phân trần:
- Từ tháng 6 năm 1954, sau khi chuyến thuốc phiện đầu tiên chuyển xong về Thái Lan, tôi mới được gọi về nhận nhiệm vụ. Như vậy cả hai vụ: Spellmier bị giết và Vòng Pao ám sát hụt anh, không liên can gì đến tôi cả.
Tên sĩ quan Phòng Nhì Pháp chỉ hơn Conein ít tuổi, nhưng từng trải, già dặn hơn nhiều. Nụ cười trên môi chưa tắt từ lúc gặp Conein vẫn không che được hết. nét sắc lạnh trong đáy mắt xanh lơ của hắn. Hắn đáp lời Conein:
- Nếu là cậu cũng chẳng sao, vì bấy giờ ai phục tùng chủ người ấy, phải không nào? Nhưng riêng tôi, có lẽ mãi mãi tôi không quên tình bạn giữa chúng ta, đã có nhiều kỷ niệm đẹp với nhau.
Hắn quay lại vỗ nhẹ vai Ninh Đa:
- Nào cưng, cho các anh uống rượu mừng đi chứ!
Cô gái uyển chuyển trong bộ đồ trắng mỏng, lộ rõ đường nét sống động của lứa tuổi hai mươi, tuổi của yêu đương, của hưởng thụ. Từ miền biên giới quê mùa, lớn lên trong bộ đồ chàm dân tộc,
giờ đây cô gái không còn giữ lại chút gì về gốc gác, tiếng nói lẫn giọng cười mất hẳn vẻ ngây thơ, chất phác. Hình dáng cô gái như làm địu đi những cảnh chém giết, đổ máu, còn sâu đậm trong lòng hai tên sĩ quan tình báo, những mưu mô thủ đoạn đậm đặc trong đầu óc chúng... Cả ba chạm ly chúc mừng nhau. Conein uống cạn trước, đặt ly xuống bàn:
- Thực ra thì ông Allen Dulles giao cho đại tá Edward Lansdale toàn quyền phụ trách vụ thuốc phiện ở khu Tam giác vàng, tôi chỉ làm dưới quyền của ông ta. Anh biết đấy, công việc đâu có dễ dàng, nhiều khó khăn lại phức tạp. Chính Lansdale bảo tôi đến thương lượng với anh, mời anh cộng tác. Lansdale trọng tài anh. Phần tôi, nếu hai chúng mình lại được ở chung với nhau thì hạnh phúc biết bao!
Trinquier hơi sửng sốt:
- Hợp tác trên danh nghĩa gì? Tôi vẫn còn là lính tại ngũ!
- Thì hiện giờ hai chính phủ Pháp, Mỹ chẳng đang hợp tác với nhau đấy sao? Bản thân tôi cũng là lính Mỹ đã phục vụ trong đơn vị anh gần mười năm còn gì?
Trinquier nhìn Conein với ánh mắt thiết tha. Hắn uống một hơi cạn ly rượu:
- Rất tiếc, tôi đá có lệnh trở về Pháp. Trước khi rời Việt Nam, tôi đã định tìm anh. Tôi rất mừng thấy anh đến thật đúng lúc. Tôi cần nhờ anh giúp cho cô bạn gái của tôi, Linh Phương, em tướng Bảy Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên...
- Về chuyện gì vậy, Rob?
- Chuyện vặt thôi. Anh hãy dành cho Linh Phương ba mươi tấn thuốc phiện mỗi năm, để cô ta giữ mối phân phối ở miền Nam này. Anh biết đấy trước tôi lo việc cung cấp này, chính Linh Phương đại diện cho tướng Viễn phân phối cả cho Hongkong, cho tổ chức mafia
tại Marseilles, hàng năm gần nghìn tản. Nay thì tôi chỉ yêu cầu anh nhượng cho Linh Phương phần phân phối tại Sài Gòn thôi. Đó là điều cô ta yêu cầu. Phần tôi muốn lưu lại cho Linh Phương cái gì được coi là kỷ niệm.
Conein tỏ ra sốt sắng:
- Việc này không có gì khó khăn. Anh dặn Linh Phương lại gặp tôi để sắp xếp. Số thuốc phiện đưa về đây nếu không là cô ta phân phối thì tôi cũng phải giao cho một người khác thôi.
Trinquier quay lại phía Ninh Đa:
- Còn việc thứ hai: Tôi trả Ninh Đa lại cho anh. Về Pháp tôi không thể cho Ninh Đa đi theo được. Anh biết đấy, vợ tôi có tật ghen tuông đã thành quán tính.
- Được thôi, tôi sẽ lo kiếm cho Ninh Đa một người chồng. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ lo cho Ninh Đa tất cả.
Hắn cườ i và kéo đầu cô gái vào ngực hắn:
- Chịu chứ cưng?
Cô gái Nùng khẽ gật đầu, Trinquier nắm chặt cánh tay Conein, rồi vui vẻ giục Ninh Đa:
- Vào thay áo đi người đẹp. Bây giờ chúng ta sẽ cùng đi ăn với nhau một bữa ăn gửi gắm và tiễn biệt!
2.
"Ngày 20 tháng 12 năm 1954, tại tổng hành dinh của tướng Paul Ely, Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, diễn ra một cuộc họp quan trọng. Bên ngoài, Sài Gòn nắng hừng hực, trong phòng không khí càng thêm ngột ngạt, đè nặng trong lòng gần ba mươi viên tướng tá hiện diện. Trong khuôn viên cạnh đại lộ Norodom có tường cao bao bọc kín đáo, trên khoảng sân rộng phía trước những dãy nhà hai tầng hứng chục xe hơi đủ loại rải rác né mình dưới những tầng cây, tránh ánh nắng gay gắt đầu mùa. Từng toán lính Lê dương đứng nghiêm canh gác, lưỡi lê lấp lánh trên những nòng súng. Đại tướng Navarre, phái viên của chính phủ Pháp vừa đến Sài Gòn đã cấp tốc triệu tập các tướng lãnh, các cấp trưởng phòng ở đây đến dự họp.
Việc gì quan trọng xảy ra?
Trước khi Navarre lên máy bay sang Sài Gòn, thủ tướng Pháp Pierre Mendès France đã gặp và căn dặn: "Muốn cứu nước Pháp khỏi bị suy sụp, không còn cách nào khác phải nhượng bộ Hoa Kỳ. Kẻ nào chống lệnh thỏa hiệp này coi như phản bội Tổ quốc! Như ông đă biết, tội phản quốc sẽ xử như thế nào rồi, dù người đó là đại tướng Paul Ely?" Sau đó đến lượt đại tướng De Gaule, người được Thủ tướng Pháp kính trọng coi như cố vấn tối cao, cũng nhắc nhở Navarre: "Ông hãy chuyển lời của cá nhân tôi cho đại tướng Ély là
phải nghiêm khắc chấp hành lệnh của chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh. Thẳng tay trừng trị những kẻ có ý đồ bạo loạn, là có công lớn với Tể quốc lúc này."
Hơn ai hết, Navarre đã ý thức được sự khó khăn nghiêm trọng của chính phủ Pháp, nhất là sau ba ngày đích thân Allen Dulles, đại diện Tổng thống Mỹ bay qua họp khẩn cấp với chính phủ Pháp. Trước khi trở về Washington, Dulles đã đến gặp riêng Navarre. Chỉ trong một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, Navarre đã nhận thấy hết sự gay cấn mà những người nắm vận mệnh của nước Pháp đang phải gánh chịu. Ngay từ đêm qua, Navarre đã tâm sự với Ely, vừa là bạn thân từ thuở đi học, vừa là tình chiến hữu. Lão chuyển lại những lời căn dặn của De Gaule và Thủ tướng Pháp. Navarre rất yên tâm khi thấy Ely xúc động và có thái độ phục tùng, hứa sẽ cùng với Navarre lo bàn giao dần dần lại cho Diệm, không để Mỹ thúc hối thêm. Trước mặt, Ely chấp thuận giao một sư đoàn cho tướng Salan kéo qua Bắc Phi chi viện cho nhà đương cục Pháp ở đấy đang cầu cứu. Nhiệm vụ trước đây đã làm cho Navarre mất ăn mất ngủ, nay coi như đã hoàn thành?
Sự diễn biến đột ngột đến với cuộc họp khẩn cấp và quan trọng này làm cho các tướng tá trong Bộ tư lệnh viễn chinh Pháp thất vọng? Từ lúc bước vào phòng họp, họ chỉ trông chờ ở Ely một lời phản đối, tất cả sẽ sẵn sàng đứng lên sau lưng ông ta. Đã từ lâu, họ rất tin vào thái độ cứng rắn cố hữu của viên đại tướng này, biểu hiện rõ nhất là sau khi Diệm về, ông ta đã chấp thuận cho hai tướng Hinh-Vỹ làm đảo chính, vào tháng 9 vừa qua, và sau khi đảo chính thất bại, đã sắp xếp đưa Hinh tránh sang Pháp. Thế nhưng nay Ely tuyên bố:
- Các ông phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu cá nhân hay một đơn vị thuộc quyền có hành động chống lại mệnh lệnh của chính phủ. Tôi sẽ truy tố tức khắc những kẻ vi phạm trước tòa án binh.
Thế là hết? Cuộc họp kéo dài sáu tiếng đồng hồ, không khí trĩu nặng phẫn nộ và buồn đau. Tất cả những bộ mặt đưa ma bước ra khỏi phòng, họ cúi đầu lầm lúi đi, không chào hỏi, bắt tay nhau. Họ vừa chôn xong một thời vàng son hay vừa vùi sâu cái chế độ thực dần kiểu cũ trên mảnh đất Đông Dương này.
Trong khi đó, Charles Ely, người có nhà máy sản xuất vỏ xe lớn nhất nhì tại Pháp, có hàng vạn mẫu cây cao su tại miền Nam và Cao Miên, cùng với cô tình nhân ngồi chờ tin trong phòng khách riêng của anh hắn. Charles đã trên năm mươi tuổi nhưng vẫn còn trẻ khỏe cao lớn và nhanh nhẹn. Hấn vốn là si quan phi công, đã hưu trí. Trước đây hắn từng tham gia chiến đấu trong hàng ngũ quân đội đồng minh chống Đức - Nhật trong đại chiến thế giới.
Charles đã có mặt trong phòng này hơn một giờ, uống hết cả chục hộp bia để chờ đợi. Hắn rất bồn chồn chờ tin cuộc họp, nhưng không biểu lộ chút bực bội nào, vì bên cạnh đã có cô nhân tình trẻ đẹp đang gục đầu vào ngực hắn, mất lim dim. Cô gái Pháp một trăm phần trăm này đã chào đời ở Việt Nam. Cha là kế toán trưởng của đồn điền, mẹ theo chồng qua Việt Nam chỉ ăn chơi và hưởng thụ. Cô gái độc nhất lên sáu tuổi thì cha bị bệnh chết, người mẹ không về nước, ở lại làm ngay trong đồn điền, nuôi con. Ba năm sau, Charles sang Việt Nam thay quyền đại diện công ty. Hắn đưa cả hai mẹ con cô gái về Sài Gòn nuôi dưỡng. Lúc đầu, người mẹ là tình nhân công khai của hắn, về sau cô bé gái lớn lên và thế là có một mối tình tay ba khá êm thấm. Charles chỉ cần phong cho cô gái chức thư ký riêng để che bớt mắt thiên hạ.
Từ chiều hôm qua, Charles đã được tin có cuộc họp quan trọng do chính Navarre từ Pháp sang triệu tập. Hắn nóng lòng săn tin, hy vọng chính phủ Pháp sẽ có phương sách hợp lý giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam, bảo vệ quyền lợi chung của nước Pháp và cả tài sản của Pháp kiều. Đã mấy tháng nay, sau ngày hiệp định đình chiến ký kết, các chủ công ty xăng dầu, điện mỏ, đồn điền, hỏa xa, tàu biển... đã kéo đến thôi thúc Paul Ely đòi đề đạt nguyện vọng của họ lên chính phủ Pháp, đồng thời cũng đòi Eõ ly phải có thái độ đối với thỏa hiệp Pháp - Mỹ.
Viên tướng già đẩy cửa bước vào phòng, không ngạc nhiên khi thấy Charles. Lão uể oải buông người xuống ghế, vẻ mệt mỏi hiện rõ trên mặt.
- Paulette!
Charles gọi nhỏ và lay đầu cô gái. Paulette đã thấy Ely đi vào nhưng vờ như đang ngủ. Mở cặp mắt thật lớn, hai hàng mi dài cong vút như cánh bướm, đôi môi hồng mở ra, cô gái duyên dáng cúi đầu
chào Ely và sửa lại dáng ngồi ngay ngắn. Nhận thấy sự thất vọng trên nét mặt của người anh, Charles chưa dám mở lời gạn hỏi. Ely cũng hiểu được tâm trạng của em mình, nhưng biết nói gì đây? Lão cũng im lặng. Cả hai cúi đầu không nhìn nhau. Trong lúc đó, cô gái liếc qua hai người, khẽ nhún vai. Cô ta chẳng quan tâm đến thời cuộc, không thể hiểu thái độ của hai anh em Ely lúc này vì sao lại câm lặng...
Như không thi gan được nữa, Charles đành phải lên tiếng:
- Thế nào anh? Tướng Navarre qua chắc để truyền đạt lệnh mới của chính phủ?
Vẫn không ngước mắt lên, Ely chậm rãi nói:
- Ông qua để chứng kiến những cuộc bàn giao. Đúng ngày 1 tháng 1 năm 1955 tới đây, chúng ta phải bàn giao các căn cứ quân sự, các kho vũ khí, luôn cả chuyện chỉ huy quân đội cho Diệm.
Charles thấy nhói ở tim, hoảng hốt:
- Còn quân Pháp, rút à?
- Chưa, nhưng phải tập trung về đóng xung quanh Sài Gòn, trong số căn cứ được qui định. Từ đây, toàn bộ lãnh thổ miền Nam sẽ do quân đội Diệm kiểm soát và giữ lấy an ninh, quốc phòng. Quân Pháp không còn nhiệm vụ gì khác ngoài việc yểm trợ.
Như không muốn kéo dài câu chuyện buồn nản, Ely nói nhanh cho hết những điều cần nói:
- Đến 20 tháng giêng sẽ bàn giao tổng ngân khố, các ngân hàng lệ thuộc. Cơ quan viện trợ Hoa Kỳ sẽ trực tiếp làm việc với chính phủ Diệm, không thông qua chính phủ Pháp. Phái bộ TRIM chỉ có nhiệm vụ liên lạc yểm trợ. Mọi công việc, ba bên luận bàn với nhau. Trên thực tế, vì chúng ta còn có trách nhiệm về hiệp định Genève, nên buộc họ phải để tôi có mặt trong phái bộ, chứ quen tối hậu quyết định là do tướng O’Daniel trưởng phái đoàn Mỹ. Đến nay thì mọi việc đã quá rõ ràng!
Hai ba lần Charles sửa lại thế ngồi. Hắn nóng nảy, ấm ức, cố gắng lắng nghe, nhưng rồi không chịu đựng được hơn nữa, hắn đột ngột cắt lời Ely:
- Chúng ta có trách nhiệm với hiệp định Genève. Quyền lợi của nước Pháp gắn liền với hiệp định này. Chính phủ Việt Minh đã công
bố thay đổi chính sách đối với chúng ta vì chúng ta đã ký hòa ước, đã chịu rút quân, theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Như vậy, chúng ta vẫn giữ được quyền lợi kinh tế và văn hóa lâu đời ở đây nếu chúng ta nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản đã ký kết.
Ely nhếch môi cười, ngụ ý mỉa mai, cắt lời Charles:
- Chú hãy nhìn lại các sự diễn biến trước đây ắt hiểu thôi. Nào đại diện Mỹ không chịu ký hiệp địa, nào Diệm theo đuôi quan thầy huênh hoang chống đối, chứng tỏ ý đồ của Mỹ đã chống phá hiệp định ngay từ khi được ký kết. Bây giờ Mỹ chỉ cần một yếu tố là ta rút
quân về nước trước kỳ hạn hai năm thì hiệp định coi như không còn. Charles chăm chăm nhìn Ely:
- Còn ý anh? Ý riêng của cá nhân anh?
Viên tướng già lắc đầu chán chường:
- Không làm thế nào khác được? Mỹ không cần đổ quân can thiệp, mà chỉ cần ngừng đổ đô-la vào cho chúng ta thì gần năm mươi triệu dân Pháp chúng ta sẽ chết còn nói gì đến ổn định đất nước? Chú bảo tôi coi thường sự sống còn của Tổ quốc, để lo bảo vệ tài sản của chú thôi sao? Ai cho phép? Không phải chờ đợi bị đưa đến tòa án binh đâu, mà chỉ cần hé ra cho người ta thấy cái ý đồ bạo loạn của mình, tức khắc mạng sống của tôi không còn rồi.
Charles gần phát điên lên. Hắn đã cố gắng để nghe hết đến câu cuối cùng của người anh.
Hắn đứng bật lên không cần ngó lại viên tướng già lúc này đã cúi đầu im lặng. Hắn kéo vội cánh tay cô gái, cả hai lao ra khỏi phòng. Bên ngoài màn đêm đã hạ xuống...
3.
Khách sạn Majestic đồ sộ, cao lớn, chiếm nhẳn một góc vuông nối ráp hai con đường trung tâm thành phố. Cạnh đó sông Sài Gòn mênh mông chuyển gió biển Đông đưa hơi mát làm lạnh các căn lầu của khách sạn. Khách Âu, Mỹ đã sống ở đây hay chỉ ghé qua du lịch, thường đến tìm lại không khí của Paris. Từ lối trang trí, trưng bày, đến những món ăn, bồi bàn phục dịch khách sạn, tất cả mang phong thái sinh hoạt của giới quí tộc Pháp. Chính vậy mà khách tới đây đa số là dân Pháp, hay những kẻ chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, hoặc là loại có quyền thế liên quan đến chế độ đương thời, có thừa tiền, sắn sàng tung ra để xã giao mua chuộc, hy vọng kiếm tiền nhiều thêm hay chiếm vị trí cao thêm. Các phòng ăn đều có nhạc nhẹ thính phòng, nựng lầu trên cùng thường xuyên có những dàn nhạc danh tiếng, luân phiên được mời từ Pháp đến phục vụ cho sàn nhảy rộng thênh thang, đủ sức chứa vài trăm cặp dìu nhau dưới ánh đèn trăng, dật dờ trong giấc mơ cung Quảng. Khách vào đây như đi vào thế giới của nhàn nhã, phong lưu, ngăn cách với không gian và thời gian bên ngoài đang trở thành vũng xoáy của sự yêu vội, sống cuồng lối Mỹ mới bất đầu du nhập.
Ăn xong, vợ chồng Trần Đình đứng lên trước, dắt cô Tư Bình Xuyên ra phía cầu thang đi lên lầu. Trần Đình đi chậm phía sau, kéo Vũ dừng lại, ghé vào tai anh thì thầm:
- Mấy tháng nay cô Tư như một xác chết, hôm nay khác hẳn. Đúng là vẻ thư sinh của cậu đã vựng lại sinh khí của người thiếu phụ đa tình này. Cậu biết không, bọn mình rất biết ơn cậu đấy!
Vũ có phần sửng sốt, quay lại nhìn đôi mắt đỏ gay của người bạn khá nhiệt tình, anh cho là Đình đã quá chén, say chăng?
- Cái gì mà vựng dậy với biết ơn?
Đình kéo Vũ ra phía ban-công, hắn dựa lưng vào vòng sắt chắn, rút thuốc đưa cho Vũ, rồi giải thích:
- Lúc đầu hai vợ chồng mình chỉ định giới thiệu cậu với cô Tư Bình Xuyên, thiếu phụ nhiều tiền, mạnh thế, có thể giúp cậu có chỗ đứng cao, vững ở cái đất Sài Gòn mật ít, ruồi nhiều này. Cô ta vừa
là em Bảy Viễn, vừa là vợ Tư Hiếu, tham mưu trưởng quân đội Bình Xuyên. Quen biết, giao dịch rất rộng với các nhân vật lớn quyền, cả Pháp lẫn Việt. Cách đây mấy tháng, có hai việc xảy ra cùng lúc đã làm cho cô ta gần như tuyệt vọng. Trước đây quân đội Pháp giao cho Bảy Viễn, mà Linh Phương là đại diện, hàng ngàn tấn thuốc phiện mỗi năm để phân phối cho thị trường thế giới. Chính mình phụ trách hai chiếc tàu đi Hông Hông để làm việc đó cho cô ta. Gần đây CIA đã cướp đoạt khu Tam giác vàng của Pháp, tất nhiên Pháp mất hết quyền lợi, mà Bảy Viễn cũng chịu trắng tay. Thứ nữa, Linh Phương hình như yêu tên trung tá Phòng Nhì Pháp tên là Roger Trinquier, chính tên này lo việc thuốc phiện đã nhiều năm nay. Sau vụ CIA chiếm trọn vùng sản xuất thuốc phiện, Trinquier nhận lệnh trở về nước, Linh Phương đúng lúc mất cả tiền lẫn tình, đâm ra chán đời, bỏ hết công việc làm ăn. Tôi cũng phải để tàu nằm ụ, gần chết đói cả ba bốn tháng nay. Hôm nay cô ta gặp cậu, mình thấy có sự khác lạ trong người thiếu phụ đa tình này. Phải chăng đây là tiếng sét đã làm cao cô ta tươi tỉnh lại? Đúng là cơ hội để cậu lấp chỗ trống trong lòng cô ta, phần cậu sẽ tạo được thế đứng trong Bình Xuyên, lại còn giúp được cả mình tiếp tục làm ăn, khi cô ta đã lấy lại thăng bằng. Cậu đã hiểu chưa nào, thôi, đi lên, họ chờ lâu rồi đấy!
Vũ suy nghĩ về câu chuyện Trần Đình vừa kể, im lặng theo bạn lên lầu. Đình người trong này, tốt nghiệp đại học hàng hải ở Pháp, về đến Hà Nội thì gặp Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Anh ta ở lại đi kháng chiến, chẳng bao lâu bỏ kháng chiến trở về thành. Trong kháng chiến, anh ta gặp Vũ, được Vũ giúp đỡ như bạn bè. Gặp lại Vũ ở Hà Nội, anh ta tỏ ra "thông cảm" với hoàn cảnh của Vũ, mà chẳng nghi ngờ gì. Anh ta có bằng cấp, được Pháp tin dùng, quay lại giúp đỡ Vũ, về sau lại chịu thêm Vũ một cái ơn nữa là Vũ đã "làm mai" anh ta với Bạch Hường, người bạn nữ sinh văn khoa của Vũ. Hai người đã làm lễ cưới hồi đầu năm nay, cả hai đều tỏ ra nhiệt tình và chân thật với anh. Chính vì mối chân tình đó mà Đình đã nói huỵch toẹt, xúi Vũ "lấp chỗ trống" trong lòng người thiếu phụ lãng mạn kia. Vũ không phiền gì bạn. Anh chỉ lo nghĩ về nhiệm vụ tin là mình đủ nghị lực giữ cho lòng trong sáng..
Bạch Hường thấy hai người lên, vẫy gọi. Họ đã chiếm một bàn gần bên dàn nhạc, ngồi chờ. Sàn nhảy lót ván bóng lộng, trong góc phòng vẫn còn dựng cáy thông với dầy đèn màu nhấp nháy, lất phất những chùm bông giả tuyết. Noel đã qua rồi, nhưng không khí Giáng Sỉnh vẫn còn đó. Bản nhạc êm dịu như ru hồn mấy chục cặp nam nữ chuyển động nhẹ nhàng trong ánh đèn màu tim tím. Hai vợ chồng Đình cố ý dành chỗ cho Vũ ngồi sát cạnh Linh Phương. Trong bóng tối lờ mờ, cặp mắt của người thiếu phụ như lớn hơn và sâu thăm thẳm. Linh Phương không hề tránh cái nhìn của Vũ, cô mỉm cười hỏi anh:
- Hà Nội có nhiều sàn nhảy không anh? Chắc hồi còn ngoài đó anh thường đi nhảy chứ?
- Hà Nội có ba nhà khiêu vũ nho nhỏ, không có chỗ nào lớn bằng ở đây. Phần tôi vừa đi dạy, vừa học, rất ít thì giờ để la cà, cô Tư ạ.
Ngay từ đầu cô Tư Bình Xuyên đã tỏ ra tự nhiên, xưng hô anh em với Vũ như với vợ chồng Trần Đình. Cô vừa nhấp ly sâm-banh vừa tiếp tục hỏi:
- Anh thấy phụ nữ Sài Gòn có khác phụ nữ Hà Nội nhiều không? Riêng em, thấy chị Bạch Hường nếu là mẫu phụ nữ Bắc, thì đàn bà ngoài đó dễ thương thật?
- Đất nước mình kéo dài từ Bắc vào Nam, chia ra hai ba vùng khí hậu, phong thổ khác nhau nên sinh hoạt, tập quán rồi tính tình cũng khác. Ví dụ Hà Nội đang lạnh, phải mặc ấm ăn nóng, ngược lại trong này phải có máy điều hòa nhiệt độ, phải uống đá lạnh. Phần tôi mới chân ướt chân ráo vào đây, phụ nữ Sài Gòn mà tôi được tiếp xúc đầu tiên lại là cô Tư. Nếu cô Tư tiêu biểu cho phụ nữ Sài Gòn, thì đúng là có khác. Các bà ở đây mạnh khỏe, tính tình cởi mở, không mềm yếu e lệ, cô Tư cứ trông Bạch Hường thì rõ ngay thôi.
Vợ Trần Đình chợt nghe Vũ nhắc tên mình vờ thắc mắc: - Chuyện gì mà có tên em trong đó? Nói xấu người ta hả? Linh Phương vui vẻ đập nhẹ vai bạn:
- Nói đẹp cho bồ đấy. Anh Vũ khen phụ nữ Hà Nội yểu điệu, thục nữ, chê Phương giống hạng cầm gươm múa kiếm, phải vậy không anh?
Vũ cười:
- Vào đây tôi mang theo một ấn tượng rất đẹp về "cô gái Bình Xuyên" của nhà văn Hồ Dzếnh. Vậy mà không ngờ tôi đang được ngồi bên cạnh cô Tư Bình Xuyên bằng xương
lịch sự đưa tay bằng thịt ấy, đang được hầu chuyện, quả là vinh hạnh! Linh Phương tỏ ra rất bằng lòng về câu nói của Vũ. Cô ta cười thật tươi và ngó anh bằng ánh mắt chan chứa cảm tình:
- Có lẽ anh chưa biết đấy, trong này người ta gán cho anh Viễn là tướng cướp, eòn em là
em của tướng cướp?
Vũ tự nhiên:
- Hồi còn đi học, mấy cậu hỏng thi chê tôi học gạo kiếm cơm. Khi tôi vào đời lại thấy những kẻ thất thời chê bai những người thành đạt. Dư luân thiên hạ chẳng có gì khó hiểu.
Đèn đã đổi màu, bản nhạc mới bắt đầu. Đình đưa vợ ra sàn nhảy, Vũ cũng đứng dậy, lịch sự đưa tay cô Tư dựa, ra theo. Đôi giày da gót nhọn bảy phân, nâng thân hình người thiếu phụ cao hơn mức bình thường. Đi phía sau, Vũ ngắm khuôn hình cân đối, uyển chuyển trong chiếc áo dài màu xanh đọt chuối, có hàng bông thêu chạy dọc một bên tà. Linh Phương không những có bộ mặt đẹp mà toàn thân là một bức tượng thấm mỹ. Vũ dìu người thiếu phụ bước đi trong dòng nhạc, nhẹ nhàng mà chắc chắn. Anh cố giữ cự lỵ lịch thiệp, nhưng không một chút cầu kỳ.
Vợ chồng Bạch Hường đã giới thiệu trước với Vũ: Linh Phương từ nhỏ được theo học trường Pháp, mười bảy tuổi thôi học. Hy sinh cho quyền lợi của người anh họ có công nuôi dưỡng, cô nhận làm vợ bé một tay anh chị gấp hai tuổi mình. Còn Bảy Viễn, gả Linh Phương cho Tư Hiểu, y muốn gắn chặt sinh mạng của đàn em vào sinh mạng của hắn. Để trả thù cuộc hôn nhân gán ghép, cô nữ sinh có học, nhiều mơ mộng, giàu ảo tưởng, đã chán chường, thả nổi
cuộc đời mình cho số phận. Từ đó, xài nhiều tiền, tìm khoái lạc, trở thành thói quen của người thiếu phụ trẻ đẹp, vốn mang sẵn một tâm hồn lãng mạn. Cọ xát với cuộc đời, trong một xã hội cuồng loạn máu và tiền, cô mất dần lòng tin, thản nhiên trước cảnh cờ bạc, buôn người, giết chóc, và chính bản thân cô cũng trở thành một món đồ chơi trong những bàn tay tàn bạo. Tư Hiểu, chồng cô, hiện là Tham mưu trưởng "lực lượng bổ sung" của quân đội Pháp đội danh nghĩa Bình Xuyên, một tổ chức đã chuyển biến với thời cuộc. Hắn là người thứ hai, sau Bảy Viễn, mà dân Sài Gòn ghê sợ, đã lấy thuốc phiện, tiền bạc lành lý tưởng, giết chóc để giải buồn, con gái để mua vui. Hắn cần hưởng thụ và cửng để mặc cho Linh Phương hưởng thụ. Về phần Linh Phương không thể tìm thấy tình yêu ở người chồng như thế!
Khách mỗi lúc một đông, sàn nhảy như không còn kẽ hở. Vũ mải suy nghĩ nên không rõ từ lúc nào thân thể người thiếu phụ gắn sát vào người anh. Cô Tư thì thầm, hơi thở ấm.
vành tai anh:
- Anh Vũ nhảy hay ghê, bước đi đẹp như người phương Tây. - Học mót bạn bè đấy.
- Gia đình anh cũng di cư vào đây cả chứ?
Vũ nhẹ xoay người dìu thiếu phụ ra chỗ trống:
- Cha mẹ tôi mất cả rồi. Anh chì em đều có gia đình riêng. Tỏi côi cút vào đây, may nhờ anh chị Đình giúp đỡ.
- Thế anh chưa lập gia đình?
Vũ hiểu Linh Phương chỉ cần hỏi rồ điều này, anh cười: - Nuôi thân còn vất vả, chưa dám nghĩ đến lấy vợ, sợ kẹt.
- Anh Đình nói anh học giỏi, bằng cấp cao, lo chi không tạo được sự nghiệp?
- Tôi vốn thích nghề dạy học, vào đây có mấy anh bạn rủ cộng tác mở trường.
Thiếu phụ ngước mắt nhìn Vũ, tỏ vẻ quan tâm:
- Nghề dạy học vừa cực vừa nghèo, đi làm gì đó hơn anh ạ.
- Vâng, vợ chồng Bạch Hường cũng nói vậy. Tôi còn suy nghĩ, nên làm gì đây?
- Anh Bảy em tuy ít học, nhưng rất trọng người trí thức, để em giới thiệu anh với ảnh nghe, được hôn? - Cô ta cười rúc rích - Chỉ sợ anh chê. Má anh có ngán ảnh là tướng cướp không?
Vũ cười giả lả:
- Anh Đình chưa được coi là tùy tướng của ông Bảy, mới chỉ là trợ thủ của cô, vậy mà tôi đã trọng ảnh, huống chi đối với ông Bảy.
Ánh mắt Linh Phương long lanh ngó Vũ, biểu lộ hài lòng. Chính Vũ cũng lấy làm bằng lòng về câu trả lời của mình. Anh đã không lúng túng trước câu hỏi khá bất ngờ...
Đèn bật sáng, bản nhạc ngừng. Anh đưa thiếu phụ về chỗ. Một người ngoại quốc cao lớn đi đến bên bàn, hắn bắt tay Đình, gật đầu chào Bạch Hường và Vũ, rồi nói với Linh Phương:
- Tôi định sáng sớm mai đến Linh Phương, không ngờ lại gặp đây. Để tôi giới thiệu bạn tôi với cô, anh ta sẽ lo giúp cô việc đó.
Cô Tư giới thiệu với Vũ:
- Anh Trinquier bạn tôi. Đây là anh Vũ bạn của anh Đình, mới từ Hà Nội vào.
Vũ bắt tay Trinquier. Hắn xin lỗi và đưa Linh Phương đi qua bàn phía bên kia sàn nhảy, nơi có một tên Mỹ và cô gái Việt Nam trẻ đẹp. Trần Đình thì thầm với Vú:
- Hắn là Roger Trinquier, trung tá trưởng Phòng Nhì Bộ tư lệnh Pháp ở Đông Dương, mà mình vừa nói với cậu đấy. Hắn lo việc khai thác thuốc phiện ở khu Tam giác vàng, phụ trách quân trường bí mật ở Vũng Tàu, chuyên đào tạo lính Mèo, Dao, Miên và Lào, lập các đội quân dân tộc thiểu số xây dựng thành các khu tự trị miền núi và Cao
nguyên Trung Việt. Mình đã nhận nhiều lần hàng trăm tấn thuốc phiện tại quân trường của hắn để chở đi Hông Hông, Ma Cao, nên quen hắn.
- Còn tên Mỹ ngồi với Trinquier?
Đình quay lại ngó kỹ một lần nữa lắc đầu:
- Trông màu da, cách ăn mặc đúng là Mỹ, cậu tinh đấy. Tên này mình chưa gặp lần nào.
Từ ngày Diệm về chấp chính người Mỹ lũ lượt kéo qua, Sài Gòn bộn lắm rồi. Theo lời ông Viễn, bọn này đều là nhân viên CIA, đội lốt thành viên phái bộ TRIM, quyền hạn nhiều. Người Pháp đã trở thành thứ yếu. Mình thấy vụ CIA chiếm khu Tam giác vàng trên tay Bộ tư lệnh Pháp, mối lợi quá lớn bị mất như thế mà Pháp phải êm
ré. Gần đây thấy quân Pháp lục tục kéo về đóng quanh Sài Gòn, giao hết quyền kiểm soát an ninh cho lính Việt Nam, mình mới tin dư luận thật đúng.
Trần Đình ngửa người ra ghế, thở ra:
- Phải chăng đó là điều may mắn cho chúng ta? Pháp đã thua Việt Minh quá rõ rồi, tiếp tục nữa càng thua đau nữa. Chỉ có Mỹ, vừa giàu vừa mạnh, đủ cân lượng giữ dùm chúng ta nửa nước còn lại khỏi rơi vào tay cộng sản, tuy với Pháp hay với Mỹ, chúng ta vẫn là dân nhược tiểu bị trị.
Bạch Hường nguýt chồng:
- Hừ? Tán dương nhiều đi, không thấy Mỹ vừa nhảy vào chúng mình đã gần chết đói rồi sao? Cướp quyền lợi trên tay người ta mà còn khoe giàu với mạnh.
Đình vỗ vai vợ cười ha hả:
- Mình cho là Mỹ cướp quyền lợi, nhưng có thể chính Pháp đã ngầm bán cái mỏ thuốc phiện đó cho Mỹ, và ngay cả miền Nam này. Chúng mình làm sao biết được?
Câu chuyện ngừng lại. Linh Phương đã trở lại bàn. Trông vẻ mặt cô vui vui, Vũ đoán có điều gì đó đã làm cho người thiếu phụ vừa lòng. Đình có vẻ nôn nóng:
- Công việc đó thế nào cô Tư?
Linh Phương không giấu giếm:
- Trinquier đưa em lại giới thiệu với thiếu tá Lucien Conein, nói là nhân viên tòa đại sứ Mỹ. Nhưng em biết rất rõ hắn ta là dân CIA chính cống. Vừa rồi anh Bảy đã cho em biết hắn hiện được giao nhiệm vụ khai thác thuốc phiện tại vùng Tam giác vàng. Qua lời điều đình của Trinquier, hắn bằng lòng dành cho em số ba mươi tấn mỗi năm để phân phối tại Sài Gòn. Nhiều hơn hắn không có quyền, vì tất cả số thuốc còn lại phải tập trung chuyển về nhà máy chế biến tại Thái Lan. Nhà máy này do Mỹ vừa xáy lắp, thuốc thô sẽ lọc ra ba loại morphine, heroin, loại ba và bốn, nhằm tung ra thị trường thế giới, thu lợi nhiều hơn. Với Pháp thì chỉ làm theo lối thủ công, để thô tiêu thụ, kiếm lời không bằng Mỹ bây giờ.
Trần Đình thở dài, không vui:
- Vậy là tôi vẫn thất nghiệp dài dài, hàng đâu chở đi Hồng Hông? Linh Phương đập nhẹ vào vai Bạch Hường, cười:
- Bồ coi kìa, ảnh làm như em để ảnh chết đói. Em chỉ cần đủ số thuốc tiêu thụ ở Chợ Lớn để anh Bảy nắm bọn Ba Tàu, các nơi khác không có cũng đã sao? Buôn bán kiếm lời thiếu gì cách. Anh yên tâm, chúng ta sẽ chở hàng khác qua Hông Hông, giá trị thua gì thuốc phiện!
Đèn lại đổi màu, bản nhạc mới trỗi lên. Lần này cô Tư chủ động mời Vũ ra sàn. Như để bộc lộ niềm vui đưa tới bất ngờ, Linh Phương dựa sát vào ngực Vũ, quay người trong nhịp ba như lưới bay trên sàn gỗ. Thiếu phụ say sưa ru hồn vào sóng nhạc, áp sát mặt vào má Vũ, làm anh chợt nhớ tới câu nói của Đình, có lẽ Linh Phương đã lấy lại được thăng bằng, cùng lúc thỏa mãn được cả hai điều tưởng như đã mất đi!
- Anh đang nghĩ gì vậy?
Tiếng nói thì thầm vuốt ve da mặt Vũ. Anh tìm cách trả lời cốt cho nguồn vui đến với thiếu phụ tăng lên:
- Tôi đang dồn hết tâm trí để theo kịp đôi chân tuyệt vời của cô Tư đấy.
- Xạo! Qua bản tango em đã phục anh, bầy giờ quay valse, em bắt đầu thương đôi "giày vàng" của anh...
Vũ thở dài:
- Chà? Anh thợ giày được ghe cô Tư khen chắc phải run lên vì quá xúc động.
Linh Phương cười khúc khích, cấu nhẹ vào vai Vũ:
- Khen cặp chân anh, chứ ai khen gì đôi giày!
Cả hai cùng cười. Đình dìu vợ quay lại gần Vũ:
- Có chuyện chi vui mà cười lớn tiếng vậy?
Bạch Hường tiếp theo:
- Nghe giày giày gì đó, chắc anh Vũ đạp chân cô Tư phải không?
Bản nhạc dứt. Thiếu phụ như chưa muốn rời Vũ. Nhưng rồi cả bốn cùng trở về bàn. Chiếc nút chai sâm banh thứ hai nổ như tiếng pháo.
*
Tư dinh cũng là tổng hành dinh của tướng Lê Văn Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên, hiện đang là Quốc vụ khanh trong chính phủ Diệm, chiếm một khu đất rộng bên kia sông, cạnh cầu chữ Y có sẵn số lực lượng vũ trang đóng rải rác khắp vùng Khánh Hội để bảo vệ nhiều cơ sở kinh tế của hắn. Cạnh tư dinh có một sở thú "bỏ túi" cũng nuôi cọp, cá sấu, khỉ, vượn, cáo, chồn... Năm mươi tuổi với bốn mươi năm lang bạt, Viễn đã ngán cảnh máu xương tìm thú an nhàn, hay noi gương thú dữ, luyện chí mãnh hổ rừng xanh nựng một cõi?
Ngồi trên ghế bành phủ da cọp, cô đào Nhật Bản quỳ gối dưới chân, tay dâng tách trà bốc khói, Viễn say sưa ngắm làn môi người đẹp chúm chím cười. Hắn khẽ nhấp trà, tận hưởng vị hương, đang tự coi mình như võ sĩ Phù Tang. Từ mấy tháng nay, hắn say sưa thú vui bên cô gái Nhật này do công ty tàu đánh cá của Nhật đem tặng. Hắn quên hẳn hai cô gái Ma Cao chủ sòng bạc đã dành riêng cho hắn ở khu Đại Thế Giới, trong căn phòng lộng kính..
Đèn đỏ chợp lên ở cửa phòng. Viễn vốn không chịu nghe tiếng gõ cửa mỗi khi có người xin vào gặp, hắn cho gắn bóng đèn đó thay thế.
- Vào!
Ba Búa - đại úy cận vệ bước vào, thân hình cao lớn trong bộ đồ sĩ quan Pháp, bao súng côn - 12 kéo xệ xuống bên đùi. Hắn rập gót, đứng nghiêm:
- Cô Tư xin gặp ông Bảy.
- Cho vào.
"""