🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điệp Viên 007 - Rực Lửa Miền Băng Tuyết
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Tên truyện : Điệp Viên 007 - Rực Lửa Miền Băng Tuyết Tác giả : John Gardner
Thể loại : Trinh thám
Nhà xuất bản : Văn Học
Số quyển / 1 bộ : 1
Hình thức bìa : Bìa mềm
-----------------------------------
Nguồn : TaiXiu
Chuyển sang ebook (TVE) : santseiya
Ngày hoàn thành : 11/11/2007
Nơi hoàn thành : Hà Nội
http://www.thuvien-ebook.com
Mục Lục
Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10
Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21
Chương 1
THẢM SÁT Ở TRIPOLI
Nép mình giữa rừng tùng, bách vươn cao, nằm sát bờ biển là khu phức hợp chuyển giao khí tài, chiến lược của nước Cộng hòa nhân dân Libya cách thành phố Tripoli mười lăm cây số về phía Đông Nam. Vòng lấy ba mặt là hàng rào thép chống lốc xoáy cao gần sáu thước. Ấy, lại thêm một thước kẽm gai mắc điện bao lấy trên cùng. Khi màn đêmbuông xuống, đội tuần tra lái mấy chiếc xe bọc thép Cascavel rảo liên tục vòng ngoài. Còn bên trong, lũ chó nghiệp vụ hếch mũi lên, lùng sục khắp nơi. Thấp thoáng gần đấy là doanh trại làm bằng gỗ dành cho lực lượng cảnh vệ.
Xuôi về một phía là hai khu nhà nghỉ: một dành cho lực lượng quân sự Libya, khu còn lại dùng để tiếp các đoàn đại biểu quân sự nước ngoài. Ngay khoảng giữa là căn nhà gạch, mặt tiền hình vòm, tường dày non thước, quét lớp vôi hồng. Bước qua bậc thềm vào cửa chính, xuôi theo hành lang, về hai phía trái phải, người ta gặp chuỗi văn phòng của các sĩ quan, phòng liên lạc vô tuyến. Đoạn cuối hành lang là một phòng họp kín như bưng, không một cánh cửa sổ với những chiếc bàn to, hàng ghế lưng cao. Bên dưới hệ thống máy điều hòa nhiệt độ hiện đại là các thiết bị xemphim, đèn chiếu. Xa vào phía trong là cửa sắt nhỏ dành cho đám an ninh và đội quét dọn.
Thường một năm người ta chỉ mở cửa chính của căn phòng này năm, sáu lần gì đó. Với số nhân viên trên dưới trăm bốn mươi người vào ban ngày, khu phức hợp quân sự trở thành điểm nóng theo dõi của cả thế giới phương Tây, nhất là khi tình hình Trung Đông đang hồi quyết liệt.
Dù chính quyền chưa công bố điều gì nhưng báo chí cứ một mực đưa tin Libya vừa tiếp nhận một số lượng lớn tên lửa, máy bay, khí tài hạng nặng.
Vâng, đúng 9 giờ 15 sáng hôm ấy, hai đoàn đại biểu quân sự cao cấp của Libya và Nga tiến hành buổi họp cuối cùng của quá trình chuyển giao
vũ khí tại ngôi nhà quét lớp vôi hồng ngay trong khu phức hợp. Tay bắt mặt mừng theo đúng nghi thức ngoại giao, mỗi bên gồm hai mươi viên sĩ quan bước lên thềm, qua hành lang dài tới trước cửa phòng họp có hai người lính gác sẵn bên ngoài. Khi cánh cửa mở ra, từng người một tiến vào, đầu ngẩng cao, nét mặt trang nghiêm, dáng đi bệ vệ. Ồ, không thể tin được! Hơn hai mươi sĩ quan bước hẳn vào trong cứ trố mắt ra nhìn, mồm há hốc …
Phía cuối phòng, mười tên đeo mặt nạ kín mít, trong bộ đồ rằn ri, quần jean xám, chân mang ủng da, tay thủ súng máy, đứng thành hình vòng cung. Lủng lẳng trước ngực bọn chúng là những tấm thẻ bạc với mấy chữ NSAA
rồi bật trên chiếc sọ người với vạch sấm sét viền lấy vòng ngoài. Hệt như đám thuộc hạ của gã Tử thần đến từ địa ngục, dáng vẻ đầy sát khí, người bọn chúng căng ra theo tư thế chuẩn bị tấn công. Chân phải bước tới, đầu gối khuỵu xuống, báng súng kẹp chặt vào hông, mười họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào đám sĩ quan cao cấp.
Quái, cách đây chưa đầy mười phút, khi các đại biểu còn giơ tay chào nhau ngoài sân, đội quét dọn vừa rời khỏi cánh cửa sắt nhỏ, cả căn phòng vẫn còn trống trơn kia mà?
Vâng, không tới năm giây, sau tiếng lên cò rôm rốp, mười họng súng bắt đầu khạc lửa.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng ... Quá bất ngờ, bốn mươi viên sĩ quan không kịp phản ứng. Đạn bắn tới đâu, thây người gục ngã tới đó. Máu văng vào tường loang lổ, đọng thành vũng trên nhà. Tiếng nổ xé tan khoảng không tĩnh mịch, vang vọng khắp nơi.
Một phút sau đó, sáu viên sĩ quan của Nga và Libya phơi thây tại chỗ. Rồi tiếng còi báo động cho toàn khu vực hụ lên inh ỏi. Từ phía ngoài, nhóm cảnh vệ chạy xộc vào, nổ súng chống trả. Hai bên quần nhau chí tử đúng mười lăm phút.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng ... Đạn bay vèo vèo như mưa rào xoáy thành những vết to tướng trên bức tường vôi. Chà, bọn sát thủ không hề nao núng, tay kéo cò phản công quyết
liệt. Sau khi ba tên gục xuống bên cạnh vũng máu càng lúc càng nhiều, bảy tên mở đường máu tháo lui.
Rồi trận chiến lan nhanh ra toàn khu phức hợp.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng đùng ... Nấp vào dãy nhà kế bên, bảy tên còn lại chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Và thêm mười tay súng của Libya tiếp tục ngã xuống cùng đámđồng đội xấu số trước đó.
Sáng hôm sau, đúng 9 giờ, giờ quốc tế, toà soạn của tờ báo Reuter nhận được bức thông điệp qua diện thoại. Chưa đầy mười phút sau, toàn bộ giới truyền thông đại chúng đồng loạt đưa tin THẢM HOẠ Ở TRIPOLI. Bức thông điệp nêu rõ:
Rạng sáng ngày hôm qua, ba chiếc phản lực cơ hạng nhẹ bay dưới tầmkiểm soát của ra đa, lượn đảo quanh khu phức hợp chuyển giao khí tài và chiến lược quân sự gần thủ đô Tripoli của nước Cộng hoà nhân dân Libya, thả xuống một biệt đội đặc nhiệm. Ấy thế mà chẳng ai phát hiện dù khu vực này được canh phòng nghiêm ngặt.
Chẳng bao lâu sau, nhân danh chủ nghĩa PHÁT XÍT QUỐC TẾ, đơn vị nàđã giáng một đòn chí tử vào đám sĩ quan cao cấp xô Viết. Bọn chúng phơi thây như rạ, cuống cuồng tháo chạy.
Trong niềm thương tiếc vô hạn và đầy lòng tự hào, chúng ta tổ chức tang lễ của toàn đội đặc nhiệm thuộc PHẢN ĐOÀN TUYỂN CHỌN số I hy sivì chính nghĩa, vì hòa bình của nhân loại.
Hơn bao giờ hết, trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa bá truyền hoang tưởng, chúng tôi, những người theo chủ nghĩa phát xít, phải gấp rút hành động để tránh lây lan đến phần thế giới tự do còn lại. Một lần nữa, chúng tôi xin cảnh báo với toàn thế giới: bất kỳ hành động nào có liên hệ với Nga dù với lý do gì đều sẽ gánh lấy những hậu quả thảmkhốc.
THÔNG CÁO CHUNG SỐ I CỦA BỘ TƯ LỆNH TỐI CAO NSAA. Tờ báo còn cho biết thêm toàn bộ vũ khí của đám sát thủ đều có xuất xứ từ Nga: sáu khẩu Kaladhnikov RPK và bốn khẩu AKM cải tiến. Ậy, trong thời đại khủng bố cứ diễn ra ngày một như cơm bữa, thiên hạ chỉ
bàn tán xôn xao có vài hôm rồi quên lãng. Theo nhiều người, bất quá bọn NSAA là một nhóm phiến quân ly khai của chủ nghĩa phát xít cuồng tínnào đó.
•
• •
Một tháng sau sự kiện Tripoli, tại một ngôi nhà gần Quảng trường Trafalgar diễn ra bữa tiệc chiêu đãi của năm thành viên Đảng Cộng sản Anh. Họ đang tiếp ba uỷ viên Trung Ương Đảng của chính quyền Xô Viết vừa đặt chân tới Luân Đôn trong chuyến viếng thăm thân hữu.
Chà, cái đám người Nga thật khách sáo, ì à, ì ạch mang theo mấy thùng vốtka thượng hạng. Cà phê mới vừa dọn lên, người ta lại bắt đầu khui rượu lốp bốp. Chén tạc chén thù, tám người nâng ly chúc tụng nhau. bữa tiệc đang râm vang rôm rả bỗng tiếng chuông cửa vang lên inh ỏi.
Hình như ai đó muốn gặp riêng vị chủ nhà. mặt mày đỏ kè như mấy con gà chọi, khó chịu, tay đảng viên sừng sỏ, to họng nhất của Đảng Cộng sản Anh bước tới mở cửa.
Thật không ngờ, ngay trước bậc thềm, bốn tên trong bộ quần áo rằn ri hệt như đám sát thủ ở Tripoli, nổ súng ngay lập tức.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ... Tay chủ nhà gục ngay tại chỗ.
Đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ... đùng đùng đùng ... Chưa đầy một phút, mưa đạn khạc ra giết sạch bảy người còn lại. Rồi như đám ma trơi, bọn chúng biến mất trong đêm, không để lại dấu vết. Chỉ còn mớ vỏ đạn có lẽ từ những khẩu súng tự động Makarov, Stechkin của Nga, vương vãi trên sàn.
Vâng, sang hôm sau, đúng 9 giờ, giờ quốc tế, đội đặc nhiệm mang tên Adolf Hitler của NSAA thừa nhận trách nhiệm với BẢN THÔNG CÁCHUNG THỨ II.
Rồi trong vòng mười hai tháng sau đó, có hơn ba mươi vụ khủng bố liên tiếp xảy ra trên toàn thế giới. Từ Tây Berlin, Bonn, Paris, Washington,
Rome, New York, Luân Đôn, Madrid, Milan tới các thành phố lớn ởTrung Đông, nhiều đảng viên Đảng Cộng sản bị giết chết cùng với nhữngngười có liên quan.
Trong số này, phải kể đến ba phát ngôn viên của các tổ chức Công đoàn Anh và Hoa Kỳ bị thủ tiêu rất thảm khốc. Thế mà người ta chẳng tóm đượcmột tên sát thủ nào thuộc nhóm NSAA. Trong bốn vụ khủng bố, khi cùngđường bọn chúng tự sát để khỏi bị bắt.
Dĩ nhiên sau từng vụ, các bản Thông cáo chung của Bộ Tư Lệnh Tối Caolần lượt phát ra với lời lẽ thật khoa trương, rỗng tuếch. Những cái tên từng một thời khét tiếng trong lịch sử nhân loại nay được nhắc tới: sư đoàn SS của Heinrich Himmler, tiểu đoàn Heydrich, sư đoàn kỵ binh HermannGoering, biệt đội đặc nhiệm số I của Eichmann.
Còn đám cớm và phản gián quốc tế, cứ ngẩn tò te, vò đầu bứt tóc mãi nhưng chẳng tìm ra manh mối. Lần theo mấy xác chết của bọn NSAA bỏ lại ở hiện trường, họ gặp phải con số không to tướng. Chẳng lẽ bọn chúng đến từ địa ngục.
Trong cơn sốc khủng bố cứ rung lên từng hồi như luồng địa chấn, chẳng biết tay nha báo nào hăng máu viết một bài “lá cải” hệt như đánh trống, thổi kèn cho mấy bộ phim vào thập kỷ 40.
Như đám ma trơi, từ hư không, bọn chúng xuất hiện, giết người như ngoé, rồi tan biến trong hư không. Có phải là hồn ma của Chủ nghĩa phát xít đang đội mồ sống dậy đưa nhân loại vào thảm hoạ diệt chủng? Bọn PHÁT XÍT MỚI muốn tắm máu loài người một lần nữa? Cả hành tin
không một đêm yên giấc, ngày cứ nơm nớp lo sợ.
Bọn NSAA giết người hiệu quả quá, khủng khiếp quá! Các giáo đường cứvang lên tiếng cầu kinh. Chẳng lẽ ngày tận thế đang đến gần như lời sấmtruyền cách đây mấy ngàn năm?
•
• •
Mặc cho thiên hạ bàn tán xôn xao, vẽ rồng, vẽ rắn, các cơ quan tình
báo quốc tế đang vào cuộc. Từng chút rối từng chút một họ xích lại gần nhau, chia sẻ quan điểm, thông tin, báo cáo. Và việc gì đến, ắt phải đến, hợp thành khối liên minh, họ cố truy tìm bóng ma trơi NSAA lơ lửng trênđầu của cả nhân loại.
Chương 2
HỢP GU VỚI MẤY CÔ GÁI TÓC VÀNG
Nói chẳng phải khoe mẽ, chứ riêng khoản trí nhớ, khó ai bì kịp với James Bond nhà ta. Anh chàng có một phương pháp hữu hiệu ghi lại hàng ngàn số phôn trong đầu, ngay từ thời còn chưa gia nhập vào lực lượng Phản gián Hoàng Gia.
Rồi bao năm trôi qua, chúng càng lúc càng nhiều, cứ hằn sâu trong vỏ não. Mỗi số phôn gắn liền một loại công việc nào đó. Nhắc tới việc gì, anh chàng nhớ ngay con số ấy.
Giờ anh chàng đang lục tung tiềm thức tim kiếm số máy của Paula Vacker. Còn cô ta ấy à, chỉ là một cô nàng xinh đẹp, tính tình phóng khoáng, chẳng thèm biết tình báo, phản gián là cái quái quỷ gì. Đứng nghiêng người trong căn phòng của khách sạn Inter-Continental, nằm về phía Bắc cuối đường Helsinki của hệ thống xa lộ cao tốc Mannerheimintie, anh chàng nhấc phôn lên, bấm số liên lạc. Sau hai hồi chuông reo, giọng một cô gái vang lên ở đầu dây bên kia. - Xin cho gặp Paula Vacker.
- Xin lỗi, ai gọi đấy?
- Tôi là James Bond.
- Xin chờ cho một chút.
Sau tiếng chuyển máy, chất giọng dưới dương của cô gái Bắc Âu văng vẳng, vẻ hớn hở:
- Ồ, anh James đấy à? Anh đang ở đâu vậy?
- Khách sạn Inter-Continental.
Không giấu nổi vui mừng, cô ta hỏi nhanh:
- Ngay ở đây sao? Ở Helsinki à?
- Ờ, anh thường nói xạo lắm à?
- Thật bất ngờ đấy, anh James. Anh tới đây làm gì?
Làm gì dám tiết lộ công vụ, anh chàng đành úp úp, mở mở: - Chính anh cũng không ngờ. Lộ trình có thay đổi. Sẵn dịp tạt
ngang Helsinki. Chỉ là chút đột xuất.
- Thật ư?
- Chớ còn gì nữa. Lẽ nào đến Helsinki, lại không nhớ tới cô em xinhđẹp Paula?
Bỗng cô nàng cười thích thú.
Trước mắt anh chàng hiện ra hình ảnh của Paula, đầu hơi ngửa ra, đôi môi đỏ mọng hé mở để lộ hàm răng trắng tinh, đều đặn như hạt bắp. Cái tên Thuỵ Điển Paula Vacker nếu hiểu theo tiếng Anh chẳng phải là Paula xinhđẹp chứ là gì?
- Tối nay, em có rảnh không?
Đột nhiên cô nàng phá lên cười, vẻ hớn hở thoáng qua giọng nói: - Với anh, lúc nào em chẳng rảnh. Nhưng có chút khó khăn đấy nhé.
•
• •
Chợt nghe cô nàng nhắc lại chuyện cũ, James nhớ lại buổi đầu gặp mặt ở Luân Đôn, cách đây năm năm. Dạo ấy nàng xuân đang mỉm cười với thành Luân Đôn. Sắc vàng tươi của thảm hoa thuỷ tiên cứ phủ lấy côngviên. Còn các cô em xinh đẹp, tung tăng trong bộ váy mới, khắp cả phố phường, công sở. Ngày trở nên dài bất tận khi Bộ Ngoại Giao mở tiệcchiêu đãi bọn tài phiệt quốc tế.
Ấy, thời buổi kinh tế thị trường là thế đó! Người ta tận dụng mọi cách để lên dây cót mấy tay đầu tư. Hôm ấy, anh chàng cũng có mặt. Thật tình mà nói, đám MI 5 đã phái người tới đấy làm nhiệm vụ an ninh. Cục Phản gián cần gì phải nhúng tay vào. Nhưng mấy chiến hữu bên BộNgoại Giao cứ nằng nặc gọi anh chàng đến cho xôm tụ. Có 007 vẫn chắc ăn hơn chứ sao! Đám quan khách toàn mấy tay tai to, mặt bự, lỡ có chuyện gì sơ suất e mất cả chì, lẫn chài.
Miễn cưỡng, anh chàng hứa:
- Ừ, thì đúng 5 giờ được chưa?
Kể ra, nhìn mãi các tay tài phiệt bụng bia, anh chàng đâm ra chán nản.
Cũng còn may! Chúa đã nhỏ chút thương xót cho gã gián điệp ngoại hạng có máu đa tình.
Bóng hồng của Paula Vacker như nàng mẫu đơn kiêu sa hiện giữa đồi trọc, khô cằn sỏi đá. Trong bộ váy trắng muốt, làn da sạm nắng, sáng bóng của cô nàng thừa sức làm mấy công ty mỹ phẩm dẹp tiệm. Mái tóc vàng óng ả, mượt mà phủ dài ngang lưng, eo co thon thả, đôi mắt xám to tròn, đôi môi gợi dục, trông Paula thật sexy.
Đột nhiên, anh chàng đâm ra thắc mắc. Cô nàng tính chài mồi lão làm sao? Mấy em xinh đẹp ở Phần Lan vốn nổi tiếng hớp hồn mấy lão già hám gái. Mà hình như cô nàng tới bữa tiệc có một mình.
Nhẹ nhàng bước tới, mỉm cười thật duyên dáng, anh chàng tự giới thiệu. James còn bịa ra lý do Ngài Bộ trưởng nhờ anh ta trông chừng cô nàng. Ôi, đôi môi đỏ mọng sao mà quyến rũ nở nụ cười thật tươi. Vâng, hai năm sau, tai Rome, Paula kể cho anh chàng nghe Ngài Bộtrưởng trong bữa tiệc hôm ấy cố tình đến sớm hơn một tí, tò vè cô ta khi quý phu nhân còn õng a, õng ẹo chưa kịp đến dự.
Dạo ấy cô ta lưu lại Luân Đôn non một tuần. Sau dăm ba lời đưa đẩy, anh chàng mời Paula dùng bữa khuya ở Ritz. Thấy cái gì cô ta cũng luônmiệng thốt lên “ trông là lạ”.
Khi trở về khách sạn, Paula dẫn anh chàng vào phòng ngủ bài trí diêmdúa, xa hoa. Ngả lưng xuống giường, James có cảm tưởng mình hệt như là tay lãnh chúa ở thế kỷ 15.
Vâng, một tuần thật lãng mạng, nhiều kỷ niệm trong đời chàng gián điệp đa tình 007. Chẳng bao lâu sau đó, họ như hình với bóng, chìm đắm trong men say ái tình. Cùng thích nhạc jazz, bơi thuyền, họ cùng nhau tới bờ hồ tìm chiếc thuyền độc mộc trong buổi tối thứ tư. Kỹ thuật chèo thuyền của anh chàng quả là tuyệt vời nhưng Paula đâu có kém gì. Như lạc vào mộng ảo, họ cùng nhau mơ màng trong giây phút thần tiên.
Rồi mối tình lãng mạn kéo dài mãi tới những năm sau đó. Tình cờ gặp nhau ở New York, cảng Dieppe tại Pháp mới mùa thu trước, họ cùng nhau ngắm cảnh hoàng hôn. Còn giờ đây là Helsinki, quê hương của cô ta, lần đầu tiên anh chàng đặt chân đến. Chẳng biết có êm đềm, mộng ảo như
những ngày tháng trước kia?
Chút ký ức xa xưa thoáng hiện về làm tâm trạng cứ bồi hồi, xao xuyến. Cất lẫn cái giọng mượt mà như hơi thở, anh chàng hỏi tiếp: - Anh mời em ăn tối, được không?
- Để em chọn nhà hàng nhé?
- Nếu em thích.
- Anh tới đón em chứ?
- Ừ.
- Ở nhà em. Lúc 6 giờ 30. Anh còn nhớ địa chỉ không?
- Dĩ nhiên rồi cô em xinh đẹp, anh chôn sâu tận đáy lòng đấy. - Anh nói như thế với bao nhiêu cô gái rồi?
- Nhiều lắm, không thể nào nhờ hết. Nhưng thành thật mà nói, anh luôn thích các cô gái tóc vàng.
- Anh là kẻ phản bội. Sao anh không ở khách sạn Hesperia của Phần Lan? - Sao ở đó được? Mấy cái nút thang máy cứ làm người ta bị điện giật. - Khách sạn Inter-Continental cũng thế thôi. Hãy cẩn thận đấy, anhJames. Phòng tắm và mấy cửa sắt bên trong. Mùa này nơi nào cũng thế. - Không sao đâu. Anh có mang dép.
- Thôi nhé, hẹn gặp lại anh lúc 6 giờ 30.
Nói xong, cô nàng cúp máy ngay. Chẳng để anh chàng có vài lời tình tứ. Ngay bên ngoài, trời rét buốt da, nhiệt độ dám đến âm 25 độ. Thả lỏng người, anh chàng với tay lấy chiếc hộp sắt nằm trên bàn đặt cạnh giường, mồi một điếu thuốc. Ấy, thứ thuốc lá hợp gu này, anh chàng thường đặt mua ở công ty H. Simmons tại Burlington Arcadé. Căn phòngthật ấm cúng, dễ chịu. Rít một hơi thật sâu, anh chàng nhả từng ngụm khói về phía trần nhà.
Mới hồi sáng này, từ vùng Bắc Cực với nhiệt độ xuống dưới âm 40 độ C, anh chàng đáp máy bay đến Helsinki. Đây chẳng phải là chuyến đi thú vị, phải không nào? Đành chịu thôi!
Công vụ là thế đấy. Đợt tập huấn những kỹ thuật hiện đại của Cục PhảnGián diễn ra trong điều kiện khắc nghiệt của mùa đông ở vùng cực Bắc ít nhất là một năm. Gia nhập cùng với Trung Đoàn Bay 22 ở gần Hereford,
James nhà ta còn phải thỉnh thoảng có mặt trên đội tàu chiến đặc biệt của Hoàng Gia ở Poole, Dorset nữa chứ.
Quái, khi chiến tranh kết thúc, Cục đã giãi thể phân đội mang bí số 00 với quyền được triệt hạ đối phương lúc thi hành công vụ. Thế nhưng ba con số 007 vẫn đeo bám anh chàng suốt đời.
Cứ mỗi lần hỏi tới chuyện này, ông Mười làm bộ tỉnh bơ. Giọng từ tốn, ông ta giải thích dông dài:
- Này 007, bác giữ cháu lại là có lý do đấy. Bác hoàn toàn chịu trách nhiệm mọi hành động của cháu. Cháu chẳng thể nào từ chối được. Nhân dân, đất nước vẫn còn cần đến cháu. Cuộc đời cháu đã gắn liền với mệnh lệnh của bác rồi. Nói theo từ ngữ chuyên môn, đấy là loại nhân viên chuyên giải quyết những vấn đề nhạy cảm trong thế giới tình báo quốc tế.
Giống như cuộc xung đột ở đảo Falkland vào năm 1982, với mưu trí và lòng can đảm, 007 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Rồi sau đó, đám báo chí, phóng viên truyền hình cứ đưa tin loạn xạ, bát nháo lên. Nhưng có ma nào tìm ra được người hùng của chiến dịch đâu mà phỏng vấn.
Để giữ 007 luôn trong tình trạng tuyệt hảo về mọi mặt như thuở mới vào nghề, ông Mười cứ buộc anh chàng một năm tập huấn ít nhất một lần. Quỷ tha ma bắt mấy chuyến tập trận chết tiệt! điều động, anh chàng lại phải lên đường trong khí trời rét tận xương tuỷ. Chẳng có chút thời gian chuẩn bị cho đợt thử thách gian khổ. Trong suốt mùa đông, các thành viên của đội đặc nhiệm SAS phải lao mình giữa mưa tuyết bão bùng ở Na Uy. Trước khi lên đường, ông Mười đã căn dặn anh chàng thật kỹ: Một nămtập huấn trên vùng cực Bắc, không được héo lánh tới Phần Lan, nơi điệp vụ sắp diễn ra.
Thật tình mà nói, đợt tập huấn này cũng không đến nỗi nào. Chỉ là một tuần lễ gồng mình giữa thiên nhiên khắc nghiệt với hai gã SAS và hai taynhân viên của SBS. Kể ra đám sĩ quan hải quân còn xui hơn anh chàng rất nhiều. Bí mật vượt qua biên giới của Na Uy và Thuỵ Điển, họ lén tới Phầ
Lan, họp mặt với anh chàng ở Lapland.
Trong suốt bảy ngày ấy, họ phải thắt lưng, buộc bụng, theo đúng nghĩa đen của cụm từ đó. Chỉ dùng những gì chứa sẵn trong loại thắt lưng đặc
biệt họ đeo trên người. Bằng mọi giá, phải sinh tồn trong điều kiện băng giá khắc nghiệt với bao nguy hiểm không thể nào lường trước được. Rồi bốn ngày sau, dưới sự dẫn dắt của James, vừa chạy họ vừa thu thập hình ảnh, âm thanh suốt dọc biên giới Phần Lan cùng với một nhóm sĩ quan Nga. Chia làm hai nhóm, họ đi theo hai hướng khác nhau. Trực thăng sẽ đón mấy tay SAS và SBS tới một vùng xa hơn.
Còn anh chàng ấy à, nhận nhiệm vụ mới. Kể ra, công việc tại Phần Lancũng chẳng có gì nhiều. Lái “Con Thú Bạc”, anh chàng thường gọi chiếcSaab Turbo, vòng vòng mỗi năm quanh vùng cực Bắc, gần khu trượt tuyết Rovaniemi ở Phần Lan.
Trước giờ, anh chàng vẫn chưa tập chạy nó lần nào. Muốn đặt xe, cũng chẳng có gì khó. Sau vài cú phôn đăng ký, trong vòng hai mươi bốn giờ anh chàng có được chiếc xe với đầy đủ các thiết bị. Rồi bay từ Helsinki tới Rovaniemi, anh chàng sẽ gặp mấy chuyên gia lái xe, chẳng hạn như gã bạn cũ Eril Carlsson và cái tay luôn chưng diện bảnh bao Simo Lampinen. Chà, muốn lái hết đường chạy theo quy định, ít nhất cũng mất vài ngày.
Sau khi có vài lời trao đổi với anh chàng to lớn, dềnh dàng Eril Carlsson, giám sát viên suốt chuyến hành trình với "Con Thú Bạc", ngay từ sáng tinhmơ James phải rời khách sạn gần Rovaniemi.
Trong bộ đổ mùa dông ba bốn lớp với mấy thứ đồ lót Damart cách nhiệt xem chừng khó vận động. Mặc tiếp bộ đồ thể thao, áo lạnh cổ tròn dày, đồ vét động bông trượt tuyết, chân mang đôi ủng cao Mukluk, tay xỏ cặp găng Damart, lưng đeo chiếc nịt da được thiết kế đặc biệt dành cho nhóm SASvà SBS, anh chàng quẩy túi xách nhỏ chứa mấy đồ dùng cần thiết. Bướclệch bệch trong đám tuyết cao quá gối, anh chàng cố giữ đúng hướng đi trên lối mòn nhỏ hẹp đã từng làm dấu sẵn vào ban ngày.
Ậy, chỉ sai một bước chân về bên trái, phải, kể như đời của 007 đành chịu ướp xác trong đống tuyết cao quá đầu. Xa xa ở đằng kia là chiếc xe trượt tuyết kềnh càng. Ôi lạy Chúa, một khi nó đã tắt máy, thật khó xoay qua, trở lại.
Mất đúng mười phút, James mới kéo nó ra khỏi chỗ cất giấu giữa mấy
cành cây cứng còn hơn thép nguội. Lôi nó ra đoạn dốc dài khoảng chừng cả cây số, vừa đẩy vừa nhảy ào lên chỗ ngồi, anh chàng gấp rút bỏ hai chân vào cái gạt bảo vệ.
Thật bình thản, chiếc xe trượt lăn dài với tốc độ kinh hoàng rồi dừng lại khi đã hết đà. Tới chỗ này đã khá xa với khách sạn, anh chàng bèn cho nổ máy, sau khi dùng chiếc đèn pin nhỏ và Compa định vị trí trên bản đồ. Tăng ga, gạt cần số, James bắt đầu chuyến hành trình suốt hai mươi bốn tiếng để gặp đám đồng nghiệp đang chờ.
Rovaniemi quả là một địa điểm lý tưởng cho đợt tập lái. Từ thị trấn, ngược theo phía Bắc, bạn có thể đến những vùng đất hoang dã. Hoặc chỉ cần vài giờ trên chiếc xe trượt tuyết, bạn dư sức tới được vùng biên giới Nga-Phần Lan như Salla, điểm nóng của cuộc giao tranh khốc liệt vàonhững năm 39-40 giữa đám người Nga và Phần Lan.
Xa nữa về hướng Bắc, vùng biên giới không dễ gì vượt qua. Cả một địa ngục trắng đang chờ đón những người gan dạ nhất. Vào mùa hè, vùng Bắc Cực chẳng có gì thú vị. Còn vào mùa đông, khi bão tuyết nổi lên, thiên nhiên dường như muốn thử thách con người, đâu đâu cũng là cạm bẫy. Hai đợt tập huấn hắc ám với mấy gã SAS và SBS cuối cùng đã kết thúc.
Gân cốt như rã rời, James nhà ta chừng thấm mệt. Trong đầu anh chàng chỉ vang lên mấy chữ: NGỦ, NGHỈ, THƯ GIÃN.
Ước gì mình trở về được Luân Đôn, lăn mình trên chiếc giường ấm áp của căn hộ ở Chelsea. Nói là nói vậy, chứ hai tuần sau đó, trên đường tới Rovaniemi, anh chàng đột nhiên cảm thấy sung mãn. 007 muốn làm một việc gì đó cho vơi đi dòng nhiệt huyết đang cuồn cuộn chảy trong người. Mới vài giờ trước đây, James chân thấp, chân cao bước vào khách sạn Ounasvaara, văn phòng chính của ban chủ nhiệm mấy chiếc Saab, để lại lời nhắn cho Eril Carlsson, quá giang một chuyến xe đến phi trường, mua ngay một vé tới Helsinki. Rồi từ đó, anh chàng có thể liên lạc trực tiếp với Luân Đôn.
Khi chiếc ĐC-50 đáp xuống sân bay Vantaa ở Helsinki, đâu đó khoảng 12 giờ 30 khuya, chợt anh chàng lại nhớ tới Paula Vacker.
Bước chân xuống cầu thang, anh chàng đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch.
Đâu thiết cần phải quay trở về Luân Đôn vào lúc này. Mình vẫn còn đangnghỉ phép kia mà! Ông M chỉ bảo trở về càng sớm càng tốt, chứ đâu có hạn định thời gian. Ừ, trong vài ngày nữa, chắc chẳng ma nào thèm nhắc tới tên mình đâu.
Ra khỏi sân bay, đón chiếc tắc xi, anh chàng tới thẳng khách sạn Inter Continental đặt phòng. Ngay khi gã phục vụ mang hành lý vào phòng, ễnh người ra trên chiếc giường ấm cúng, James phôn liền cho cô nàng xinh đẹp Paula Vacker. Mỉm cười, anh chàng lẩm bẩm:
- Ừ, 6 giờ 30 tại nhà của cô ta.
Ậy, James có ngờ đâu. Một cú phôn tới người tình cũ mời đi ăn tối đã làmcuộc đời của gã điệp viên siêu hạng bước sang ngã rẽ gay go, khốc liệt nhất trong vài tuần sau đó.
Chương 3
TRẬN ĐẤU DAO
Sau màn tắm rửa, cạo râu, tỉa tóc cẩn thận, anh chàng lên đồ thật kẻng. Khoác bên ngoài chiếc áo sơ mi màu xanh hiệu Coles bộ vest ga bar-din xám may rất khéo, anh chàng thắt cái cà vạt len của nhà tạo mẫu Jacques Fath. Còn khẩu Heckler & Koch P7 đang lủng lẳng thoải mái trong
cái bao da bên nách trái.
Bước ra tiền sảnh của khách sạn, anh chàng đội lên cái mũ lưỡi trai dày bằng lông thú Crombie British Warm. Trông anh chàng lúc này có khác nào chuẩn bị xung trận. Đành chịu thôi, khí hậu ở bán đảo Scăngđinavi quá ư khắc nghiệt. Dân Luân Đôn chính hiệu còn chịu không thấu nữa là.
Rồi chiếc tắc xi lao về phía Nam, xuôi theo con đường Mannerheimintie. Tuyết chất thành đống dọc theo vỉa hè, phủ đầy lên ngọn cây, hệt như đêm Giáng Sinh.
Từng bông tuyết trắng xóa vương vãi trên cành khô, lấp lánh trong ánh đèn. Gần Viện Bảo Tàng Quốc Gia với ngọn tháp cao sừng sững, có mộtcây oằn xuống chẳng khác nào một gã tu sĩ đội mũ trắng bám chặt vào lưỡi dao sáng chói.
Thấp thoáng trong sương mù, anh chàng thấy mái vòm rực rỡ sắc màu của nhà thờ Uspensky. Nhìn Helsinki, anh chàng mới hiểu tại sao mấy bộ phim thường mượn nơi này khi muốn quay cảnh Moscow. Paula sống trong toà nhà nhìn ra công viên Esplanade, về phía Nam cuối con đường Mannerheimintie. Trước tới giờ anh chàng chưa từng đặt chân tới vùng đất này. Mở to mắt, James nhìn quang cảnh bên đường trong vẻ ngạc nhiên pha lẫn niềm thích thú.
Công viên là một dãy đất dài nằm giữa các khu nhà. Kìa, thấp thoáng trong hoàng hôn, các nghệ nhân từ khắp nơi lũ lượt kéo về đây, ngồi la liệt, miệt mài nắn tượng tuyết. Lẫn trong thảm tuyết còn mỏng manh, với đôi tay
khéo léo, họ đang cắt lá, tỉa cành cho cả vườn hoa trắng xóa. Rồi chiếc tắc xi tấp vào cạnh bức tượng bằng cỡ người thật của đôi trai
gái cứ quấn quýt nhau, một bước không chịu rời xa. Còn những dinh thự chung quanh công viên dường như quá cổ kính. Chỉ rải rác đây đó vài toà nhà hiện đại nép mình xen lẫn vào. Có lẽ Paula chẳng mấy thích ngôi nhà cao tầng, đèn đuốc sáng trưng. Chừng tìm đến địa chỉ, anh chàng mới té ngửa ra.
Ấy là ngôi nhà bốn tầng, màu sơn xanh còn mới nguyên, từng mảng tuyết đọng quanh bồn hoa ngoài bao lơn. Hai thanh chống bằng gỗ, uốn cong tạo thành một lối ra vào hai bên cánh cửa kiếng mở toang. Vào bên trong một chút là một hòm thư khá to, có từng ngăn riêng biệt.
Còn sàn nhà và cầu thang gỗ được đánh vẹc-ni bóng ngời, không trải thảm. Gỡ mũ ra, bấm vào cái chuông ở số 3A, anh chàng bước lên cầu thang. Vừa bước lên tầng ba, anh chàng thấy ngay căn hộ của Paula. Tò mò một chút, James nhìn qua căn 3B với tấm bảng đồng mang tên đại tá A Nyblin. Anh chàng mường tượng ra một viên sĩ quan về hưu đang treo mấy bức tranh về đề tài chiến tranh. Bên cạnh ông ta là một kệ sách cao chất đầy mấy quyển nghiên cứu về chiến thuật, chiến lược, chồng tiểu thuyết kể lại
ba cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của người Phần Lan. Nhấn mạnh vào cái chuông, anh chàng đứng ngang với lỗ nhỏ trên cánh cửa, chờ đợi. Sau tiếng xích khoá kêu lẻng kẻng, cánh cửa mở ra. Ô kìa, vẫn là Paula xinh đẹp quyến rũ như thuở nào! Trong chiếc đầm lụa dài quá gối, càng nhìn càng hấp dẫn. Quái, đôi môi mấp máy nhưng cô ta không thốt nên lời nào? Chẳng lẽ cô nàng gặp chuyện gì chăng? Gò má trắng bệch, bàn tay đặt trên cửa cứ run rẩy. Sâu thẳm trong cặp mắt xám, sáng lóng lánh hiện rõ nét sợ hãi. Hay đó chỉ là chút bệnh nghề nghiệp vốn có của những người thường vào sinh, ra tử? “Cẩn tắc vô ưu”, người ta vẫn thường nói thế!
Giả vờ bình thản, anh chàng to tiếng chào:
- Anh mới ở vùng biển về đấy.
Vừa nói, James vừa đặt chân vào ngạch cửa.
- Anh vào được chứ?
Miệng thốt ra, tay trái của anh chàng chộp nhanh vào vai Paula, quay cô nàng một vòng rồi kéo ra phía cầu thang. Tay phải móc lẹ khẩu súng tự
động.
Vâng, chưa đầy ba giây, lưng của Paula tựa ngay vào bức tường gần cửa ngôi nhà 3B. Còn anh chàng bước hẳn vào trong.
Họng súng đen ngòm của khẩu Heckler & Koch chĩa thẳng về phía trước. Hoàn toàn chính xác, có hai tên lạ mặt núp sẵn trong đó.
Một tên còi cọc, gương mặt rỗ hoa mè nấp sát vào mé tường bên trái của James. Trên tay nó hình như là khẩu Charter Arms Undercover 38 ly. Xa hơn về phía chiếc ghế bành da là một tên to lớn với đôi tay quá khổ, vẻ mặt y như mấy võ sĩ quyền Anh bị đánh nốc ao. Cái mũi của thằng này trông rất quái dị: to phù, đỏ bầm lên chẳng khác nào cái mụn nhọt sắp bể miệng. Nhìn sơ chẳng thấy nó mang thứ vũ khí nào.
Ngay lập tức, tên ròm bước về phía trái của anh chàng. Còn thằng to béo cũng bắt đầu chuyển động.
BÙNG BÙNG BUNG …
Một loạt đạn từ khẩu Heckler & Koch lao thẳng tới cổ tay tên còi cọc. AAAAAH …
Nó la hét inh ỏi khi phần xương cổ tay gãy lìa. Khẩu 38 ly rớt ngay xuống sàn.
Không chần chừ một giây, hướng họng súng thẳng vào tên to con, anh chàng chộp nhanh thằng còi cọc, quay một vòng, dùng nó làm lá chắn. Hai chân của James bắt đầu xuống tấn, thủ thế.
Còn tên còi cọc bẹp dí, hai tay thòng xuống che lấy hạ bộ. Người nó cứ run rẩy như con heo bị chọc tiết.
Quái, dường như tên to béo không nao núng, Chẳng lẽ nó bị điên? Trước họng súng đen ngòm, nó cứ tỉnh bơ.
Dùng gót chân phải đá vào xác tên còi cọc đang nằm bệch dưới đất, anh chàng bước tới trước, giơ cao khẩu H & Không, tay duỗi thẳng, anh chàng hét lên:
- Đứng lại ngay. Nếu không mày chết không kịp ngáp đấy. Mấy ngón tay của anh chàng đang xiết chặt cò súng. Bỗng miệng của tên to béo lẩm bẩm chửi tục bằng tiếng Nga.
Thật không ngờ, hệt như một tia chớp, thằng to béo quay người đi rất
nhanh. Lạng người né, chợt James cảm thấy buốt ngay bờ vai phải. Vâng, chưa đầy một giây, anh chàng dường như mất thăng bằng. Cánh tay của James hơi xụi xuống khi chân tên to béo vung cao. Dày dạn kinh nghiệm cỡ 007 thế mà coi thường địch thủ quá. Nhìn sơ bộ dãng của tên to béo, anh chàng cứ tưởng ngon ăn. Ai dè, tên này quả là một sát thủ chuyên nghiệp. Trúng cú đá, khẩu H & Không trong tay anh chàng rơi trúng vào bức tường phía sau. Còn vết đau ngay vai phải của anh chàng bắt đầu hoành hành, nhức buốt khủng khiếp.
Lúc này, tên còi cọc đang tháo chạy xuống cầu thang, miệng cứ rên la như bị thiến. Không bỏ lỡ cơ hội, thằng to béo tiến đến gần hơn. Lùi nhanh về phía tường, anh chàng liếc ngang chỗ đau ở vai. Thật không ngờ, gắn chặt vào thanh ngang của cánh cửa là một con dao móng như lá lúa, cán bằng sừng, dài cỡ hai tấc. Ấy, bọn người ở Lapps vẫn thường dùng nó để xẻ thịt mấy con tuần lộc.
Chẳng thèm suy nghĩ nhiều, anh chàng chộp ngay cán dao, lăm lăm về phía trước. Gối hơi khuỵu xuống, lưng khòm đôi chút, James đang thủ thế với con dao trên tay.
Đáp lại bằng tiếng Nga, anh chàng thách thức tên to béo.
- Nào, có ngon cứ nhào vô.
Toét miệng cười lộ hàm răng vàng khè, thằng kia trả đũa: - Nghe đồn đã lâu, ai dè Jame Bond dở tệ.
Rồi hai gã đàn ông cứ quần nhau vòng vòng. Người này bước qua một bên, kẻ kia bước tới một bước. James dùng chân đá chiếc ghế ra tạo khoảng cách với đối thủ được thông thoáng hơn.
Rút nhanh con dao khác từ gót chân, thằng to béo chuyển nó sang tay kia, chân xiết nhỏ vòng tròn. Tới lúc này, chỉ còn cách tiến sát lại, thừa thế ra đòn, không thể nào né tránh.
Thằng to béo vừa bước tới, vừa chuyển con lao liên tục. Đôi mắt anh chàng cứ căng ra theo dõi. Vâng, từng tấc, từng tấc một, tên to béo nhích lại gần hơn.
Đột nhiên, anh chàng dạng chân phải ra, làm một động tác giả. Con dao từ tay trái của James dường như chuyển sang tay phải. Kìa, ánh mắt của thằng
to béo đang dõi theo bàn tay phải của anh chàng. Ồ, không, James rút con dao ngược lại, chĩa thẳng về phía nó.
XẸT … XẸT …
Hai con dao chạm nhau toé lửa. Quá bất ngờ thằng to béo lùi bước. Khi con dao trong tay nó chưa kịp giơ lên, James tiếp tục thọc sâu thêm một đường.
Như tia chớp, con dao lướt ngang qua mặt nó để lại một rãnh khá sâu khoảng giữa cằm và lỗ tai. Máu tươm ra thành dòng ướt đẫm chiếc áo khoác của nó.
Gầm lên trong đau đớn, giận dữ, nó lùi dần. Thật tình mà nói, anh chàng chẳng muốn giết người trên mãnh đất này. Đôi co với bọn cớm sẽ gay nhiều phiền nhiễu. Nhưng giờ còn có cách nào chứ? mặc kệ, phóng lao đành phải theo lao.
Bước tới trước rất nhanh, anh chàng vung tiếp mũi dao. Hai lằn sáng cứ quyện lấy nhau tạo ra ảo ảnh, tiếng xoèn xoẹt vang lên liên hồi. Lại trúng nữa! má còn lại của thằng to béo bị hằn một rãnh sâu chạy từ trái tai xuống cằm. Hoảng sợ, đôi mắt nó mở to, trắng dã. Thở hổn hển, chân nó lùi dần ra cửa.
Đột nhiên vết đau trên vai của anh chàng bột phát. Hai mắt cứ hoa lên, chân hơi khuỵu xuống. Thừa cơ hội, lao nhanh ra khỏi nhà, thằng to béo “cong đuôi” chạy một mạch xuống cầu thang. Máu từ mấy vết thương tuôn xối xả ra chiếc áo khoác của nó.
Rồi sau đó, Paula bước nhanh vào phòng, vẻ mặt hốt hoảng: - Em làm gì bây giờ? Hay để em gọi cảnh sát … ?
- Ồ không, Paula. Đừng dính líu tới bọn cớm. Chúng chẳng giúp được gì đâu.
Ngồi phệch xuống chiếc ghế bành, anh chàng nói tiếp:
- Đóng cửa lại. Nhớ khoá cẩn thận. Thử nhìn ra cửa sổ xem có gì lạ không?
Anh chàng cứ suy nghĩ mông lung, chẳng đoán được chuyện gì. Còn Paula riu ríu, làm theo những lời anh chàng dặn.
Rồi giọng của James vang lên, vẻ xa xăm kỳ lạ:
- Có thấy gì không?
- Một chiếc xe vừa lăn bánh. Em trông không rõ lắm.
Quay sang anh chàng, Paula hỏi nhanh:
- Này James, còn vết thương trên vai …
- Kể cho anh nghe đã xảy ra chuyện gì. Việc hệ trọng đấy. Làm sao bọn chúng vào trong nhà được? Bọn chúng muốn gì?
- Lo vết thương trước đã, anh James.
Cũng may, nhờ chiếc áo khoác lông thú dày, nếu không vai anh chàng hẳn lủng một lỗ to. Vết dao rạch một đường khá sâu trên cầu vai. Máu cứ rỉ ra, thấy ướt cả áo.
- Nào, kể cho anh nghe xe chuyện gì.
- Không, băng vết thương trước đã.
Khi anh chàng cởi áo ra, ồ, vết thương xén vào da thịt cũng khoảng một phân. Vừa sát trùng, băng bó, Paula từ từ kể lại câu chuyện. Dù nét mặt làm ra vẻ bình thản nhưng mấy ngón tay của cô ta cứ run run. Vâng, hai tên sát thủ xuất hiện trước khi anh chàng bấm chuông có vài phút. - Lúc đó, em đang bận thay đồ. Đảng trí quá, em lại không móc sợi dây xích. Thậm chí, không nhìn qua lỗ nhỏ trên cánh cửa. Em cứ tưởng là anh. Cửa vừa mở ra, hai tên lạ mặt bước xộc vào, ép em vào phòng, rồi cất tiếng hăm doạ. Nếu em không làm theo lệnh, chúng bắn em tức thì. Anh chàng cứ suy nghĩ miên man. Thay vì trở về Luân Đôn, Jamesđổi hướng đi, quyết định lưu lại Phần Lan vài ngày. Làm sao bọn này biết được? Dứt khoát chúng là nhân viên của một tổ chức tình báo nào đó. Lạ thật, chỉ vào phòng của Paula trước khi anh chàng đến đó có mấy phút? Thế ra chúng chờ sẵn dưới nhà ngay lúc chiếc tắc xi chở anh chàng tấp vào công viên Esplanade.
Vừa mặc áo vào, anh chàng nói tiếp:
- Cũng may em ra hiệu cho anh.
Cong cớn làn môi đỏ mọng, Paula đáp lại:
- Không hẳn thế. Chỉ là em quá sợ hãi.
Mỉm cười, anh chàng trêu chọc:
- Thế ư?
Cúi người xuống, Paula hôn anh chàng rồi cau mày:
- Thật đấy. Tim em còn đập thình thịch đây này. Mà anh James, tại sao anh có súng? Nhiệm vụ của anh là gì? Em cứ tưởng anh là một công chức cao cấp…
- Ờ, anh là một công chức cao cấp.
Khi anh chàng định hỏi một câu khá quan trọng, Paula bước tới chỗ khẩu súng, nhặt nó lên. Trao khẩu H & K cho James, tay cô ta vẫn còn runrẩy.
- Không biết bọn chúng có trở lại nữa hay không? Em chẳng biết phải đối phó như thế nào.
- Này Paula, có một số thằng bất lương đang theo dõi anh. Chính anhcũng chẳng hiểu tai sao. Công việc của anh đôi khi có chút nguy hiểm. Nhưng chuyện lại xảy ra ở Helsinki quả là không ngờ đấy. Nhẩm tính trong lòng, anh chàng quyết định trở về Luân Đôn. Khi mìnhrời khỏi đây, Paula sẽ an toàn hơn. Nhưng giờ này đã quá trễ. Chuyến bay của Hãng Hàng Không Hoàng gia Anh cất cánh từ lâu. Thôi đành chờ tới sáng mai, mua đại vé của hàng không Phần Lan.
Mỉm cười, anh chàng cố tạo bầu không khí thư giãn:
- Chúng ta kiếm thứ gì dằn bụng cái đã. Anh đói lắm rồi.
Giọng cô nàng vẫn chưa hết run:
- Nhà em có sẵn thức ăn. Hay chúng mình đừng có ra đường vào lúc này. Mấy câu hỏi chưa giải đáp được cứ luẩn quẩn trong tâm trí của anh chàng. Tại sao chúng biết mình có mặt ở Helsinki? Thật lạ, kể cả chuyếnviếng thăm Paula, chúng cũng đoán được?
- Em đậu chiếc xe gần đây chứ?
- Vâng.
- Anh có thể mượn xe của em đi chút xíu được không?
Mỉm cười, cô nàng đáp ngay:
- Làm gì khách sáo quá vậy?
- Trước khi xuống dưới nhà, anh muốn hỏi em vài điều.
Rồi James hỏi thật nhanh. Không kịp để cô nàng tìm cách tránh né. - Em có từng kể cho bạn bè, đồng nghiệp ở Phần Lan về mối quan hệ
của chúng ta?
- Có.
- Còn ở mấy nước khác?
- Cũng thế.
- Em có nhớ là bao nhiêu người không?
Paula kể ra một số tên tuổi gì đó.
- Thái độ của họ lúc ấy ra sao?
- Em cũng không để ý.
- Khi anh phôn từ khách sạn Inter-Continental, có ai ở bên cạnh em không? - Không có một ai, anh James à.
- Đường dây này có thường bị nghe trộm hay không?
- Hình như là có đấy. Đường dây phải bắt qua tổng đài.
- Mà này Paula, em có kể cho ai nghe cuộc hẹn của chúng ta vào lúc 6 giờ 30?
- Chỉ có một người. Em đã hẹn trước với một cô bạn cùng cơ quan. Chúng em định vừa ăn tối, vừa bàn công việc. Cô ta tên Anni Tudeer. Thế là anh chàng hỏi từng chi tiết về cô ả Anni.
Nghe xong, không nói tiếng nào, nhổm người dậy, James bước tới cửa sổ, vén màn, nhìn ra ngoài. Con đường dưới phố vẫn im lìm. Một vài chiếc xe đang đậu sát lề.
Thế là rõ rồi. Bọn chúng đang cho người bám sát cả anh chàng và Paula. Vâng, xoay xở chút xíu, anh chàng có thể lần ra tung tích của bọn sát thủ. Nhưng vào lúc này, chưa cần thiết làm căng lên.
Khi anh chàng quay trở lại chiếc ghế, Paula ngước đôi mắt lên nhìn: - Anh hỏi cung xong chưa?
Với tay lấy hộp thuốc, anh chàng rút cho Paula một điếu.
- Không phải là hỏi cung. Anh chỉ muốn tìm hiểu chút thôi. Mà này, anh ở lại đây cho tới 4 giờ sáng, mượn xe của em đến khách sạn, thanh toán tiền phòng, lấy hành lý rồi ra phi trường. Em có thể tới đó lấy xe về được không?
Đột nhiên giọng của cô nàng trở nên nghiêm trọng.
- Anh không nên lái xe nhong nhong ngoài đường . Vết thương ở vai
còn sưng vù đấy. Anh cần có thời gian nghỉ dưỡng. Thôi thế này, anh cứ ở lại đây cho tới 4 giờ sáng mai rồi em sẽ chở anh tới khách sạn và phi trường. Ủa, sao anh đi sớm vậy? 9 giờ mới có chuyến bay kia mà. Anh dùng phôn đặt vá trước cũng được.
- Anh đi càng sớm bao nhiêu, em càng an toàn bấy nhiêu. Bọn chúng chỉ nhắm vào anh. Ngay phòng chờ ở sân bay, chúng nó có thể ra tay uy hiếp em. Anh không muốn dùng điện thoại ở đây là vậy.
Dù nghe có lý nhưng cô nàng vẫn nằng nặc đòi chở James đi. Paula bao giờ cũng thế, thật là ngang ngạnh. Đến 007 cũng đành chào thua. Hôn vội lên má anh chàng một cái, Paula đứng lên.
- Anh có muốn dùng chút rượu không?
- Em quả là hiểu ý, Paula.
Bước nhanh xuống nhà bếp, cô nàng pha vội một bình rượu Martini. Cách đây ba năm, khi còn ở Luân Đôn, anh chàng từng dạy cho cô ta cáchpha chế món ruột của mình. Sau hớp đầu tiên, chà thật đã. James cảm thấy vết thương trên vai dường như chịu nằm yên, bớt hẳn đau nhức. Làm thêmngụm nữa, tâm hồn trở nên sảng khoái.
Mỉm cười duyên dáng, anh chàng buột miệng khen:
- Cái đầm của em trông thật đẹp.
- Thật tình mà nói, em đã chuẩn bị xong bữa tối tai nhà. Ra ngoài đường trong thời tiết như thế này thật chẳng nên, phải không? Đột nhiên hai tên sát thủ xuất hiện. Vai anh thế nào rồi?
Choàng qua người James, Paula đưa bàn tay vuốt ve gương mặt bảnhtrai còn hơn các siêu sao màn bạc. Bốn mắt cứ nhìn nhau không thốt nên lời. Thời gian như thoáng ngừng trôi trong thế giới chỉ có hai người … Khi họ ngồi vào bàn lúc đó cũng quá nữa đêm. Vâng, một bữa ăn lãng mạn theo kiểu Pháp: ánh sáng từ ngọn nến cứ mờ mờ, tỏ tỏ … Đến 4 giờ sáng, trùm kín người trong hàng đống quần áo, Paula cùng anh chàng bước xuống cầu thang. Thủ sẵn khẩu sung trong tay, anh chàng nương theo bóng tối trên đường phủ đầy băng giá.
Rồi họ vượt qua một chiếc Volvo bên trong có gã ngửa đầu ra, mồm há to, ngủ say như chết. Còn chiếc Audi cạnh đó lại trống trơn. Bước nhanh
tới chiếc xe đang đậu, Paula mở cửa, rồ máy. Từng bụm khói to nhả vào màn đêm lạnh buốt.
Sau khi chở anh chàng tới khách sạn làm xong thủ tục trả phòng, Paula lái theo hướng Bắc, về phía Vantaa. Tới 7 giờ sáng cổng phi trường Vantaa mới mở nhưng người ta tụ tập ở đó sáng đêm. Chưa đầy 5 giờ, khắp nơi đầy mùi thuốc lá, cà phê của đám khách nửa đứng, nửa ngồi, mệt mỏi chờ chuyến tàu đêm.
Sợ cô nàng rề rà sẽ gặp chuyện chẳng lành, James hôn vội tạm biệt. - Về tới Luân Đôn, anh sẽ gọi cho em.
Rồi lẫn vào dòng người từ từ bước qua cổng ra vào, anh chàng cảm thấy vết thương trên vai hơi nhức nhối. Dọc theo hành lang, từng đám đông, kẻ đứng, người ngồi la liệt. Vài tên cớm đi thành cặp, rảo vòng vòng dòmngó.
Đúng 7 giờ sáng, cả phi trường nhốn nháo hẳn lên. Ngay bàn vé của hãng Hàng không Phần Lan, anh chàng mua ngay một vé trên chuyến 831, cất cánh vào lúc 9 giờ 10. Tuyết rơi ào ạt, càng lúc càng nhiều vào khoảng 8 giờ.
Khi chiếc máy bay DC9-50 từ từ lăn bánh trên đường băng, cả thành phố Helsinki dường như biến mất dưới trận bão tuyết. Xa xa, ở đường chân trời, vài tia nắng bắt đầu xuất hiện.
Lúc 10 giờ sáng tại đường băng 28 bên trái của phi trường Heathrow, Luân Đôn, chiếc DC9-50 giảm dần tốc độ rồi ngừng hẳn. Một giờ sau đó, James bước vào toà nhà cao nhìn ra công viên Regent. Bất chợt cơn đau ngay bả vai lại hoành hành. mồ hôi cứ tươm ra đầy trán, mắt hoa lên, đôi chân của anh chàng như muốn khuỵu xuống.
Chương 4
KHÁCH SẠN MADEIRA
Ông M cứ hỏi đi hỏi lại nhiều lần:
- Bọn chúng là sát thủ chuyên nghiệp à?
Hệt như mấy lần trước, anh chàng đáp không cần suy nghĩ: - Vâng, thưa bác. Bọn chúng nhắm vào cháu.
Lầm bầm trong miệng điều gì chẳng rõ, gương mặt ông ta cứ quạu đeo.
•
• •
Khi bước vào toà nhà, dùng thang máy, anh chàng lên vội lầu 9. Vừa tới nơi, đầu óc như quay cuồng, người nặng chịch, đôi chân của anh chàng bắt đầu lảo đảo.
Ngồi tại bàn làm việc, cô nàng Moneypenny, thư ký riêng của ông M, ngẩng đầu lên, mỉm cười.
- Chào anh James …
Chưa dứt lời, bỗng thấy James khuỵu hẳn xuống, nhổm người lên, cô ta bước tới đỡ.
Thoáng trong cơn chóng mặt, mệt mỏi, anh chàng vẫn còn đùa: - Ồ Penny, em thật tuyệt. Mùi hương gì mà quyến rũ thế?
- Thì vẫn là Chanel. Trông người anh kìa, đầy mồ hôi, thuốc sát trùng. Hình như có cả mùi thuốc Patou …
Ông M đã đi ra ngoài. Hình như tới họp ở Uỷ Ban Tình Báo Phối HợpMười phút sau đó, Moneypenny dìu anh chàng xuống phòng y tế cho tay bác sĩ cùng hai điều dưỡng chăm sóc.
Paula nói vậy mà đúng. Vết thương đang làm độc. Cần phải chích vài liều kháng sinh và khâu lại mấy mũi.
•
• •
Đến 3 giờ chiều, anh chàng cảm thấy khoẻ hẳn. Ngồi trước mặt ông Mvà Bill Tanner, James kể lại từng chi tiết một. Ông M lúc nào cũng tỏ ra trầm tĩnh nhưng hôm nay khác lạ, mặt nhăn nhăn, nhó nhó. - Kể cho bác nghe về cô ấy đi. Paula Vacker , phải không nào? Nghiêng người về phía trước, ông ta nhồi thuốc vào tẩu. Vẻ nghi ngờ hiện rõ trên ánh mắt. Chẳng lẽ ông ta nghĩ mình nói xạo?
Hệt như đứa học trò lười thức sáng đêm học bài, anh chàng đọc ê a mối quan hệ của mình với Paula.
- Còn bạn của cô ấy? Người cô ta từng nhắc đến?
- Đó là Anni Tudeer. Làm chung công ty nhưng khác phòng ban. Lúc này họ đan tham gia vào một dự án nghiên cứu hoá học tại phòng thí nghiệm ở Kemi, nằm ở phía Bắc.
Đột nhiên giọng của ông ta quạu quọ.
- Bác đâu có lạ gì Kemi. Trên đường tới Rovanniemi và các vùng ở BắcCực, người ta đều phải ghé ngang đó.
Quay sang Bill Tanner, ông ta ra lệnh.
- Cậu kiểm tra trên máy vi tính giùm tôi mấy cái tên xem. Liệu chúng ta có chút thông tin gì không? Báo cho tôi vào lúc 5 giờ!
Cúi đầu chào, Bill bước nhanh ra ngoài. Khi cánh cửa khép lại, tựa lưngvào ghế, ông ta hỏi tiếp:
- Còn chuyện tập huấn của cháu như thế nào rồi?
Ấy, trong đôi mắt xám sắc sảo đó, James thấy cả một thế giới bí ẩn với hàng ngàn điều không thể thốt cùng ai. Dè dặt, anh chàng đáp lại: - Thưa bác, mọi việc cũng ổn thôi. Thấy còn dư thời gian, cháu định lưu lại Helsinki vài hôm trước khi về Luân Đôn. Cũng chỉ là chút ngẫu hứngthôi. Có thể bọn chúng câu trộm đường dây ở khách sạn. Mà không chừng ở chỗ Paula. Rồi thừa dịp cháu không phòng bị, chúng ra tay đánh lén. Lấy cái tẩu ra khỏi miệng, ông ra dứ dứ nó trước mặt anh chàng: - Bọn chúng là ai?
Nhún vai, anh chàng khẽ lắc đầu. Ôi, vết thương bị động làm anh chàng
nhăn nhó.
- Bọn chúng nói với Paula bằng tiếng Phần Lan sành sỏi lắm. Nhưngvới cháu, chúng dùng tiếng Nga ba rọi. Theo lời cô nàng, có lẽ bọn chúng là dân Bắc Âu nhưng không phải Phần Lan.
- Bác không hỏi chuyện này. Bọn trùm đứng sau lưng kìa. Chúng muốn gì? - Có lẽ đó là tàn dư của SPECTRE. Không chừng chỉ là một nhóm gănxtơ gà mờ, khoái chơi nổi.
- Theo cháu, BINH ĐOÀN HÀNH ĐỘNG QUỐC XÃ là bọn gà mờ à? - Thưa bác, không giống hành vi của bọn này. Theo mấy bản tuyên bố, chúng không nhắm vào chúng ta.
Khẽ nhếch mép, ông M mỉa mai:
- Này 007, bọn chúng có thể nhắm vào một cơ quan, chẳng hạn như chỗ Paula đang làm việc.
Anh chàng cố cãi lại:
- Thưa bác …
Quái, đột nhiên ông ta như bị kích động.
- Vâng, có thể không phải là hành vi của bọn này. Nhưng biết đâu chúng không muốn có bất kỳ ai chõ mũi vào chuyện riêng tư. - Nhưng …
- Đúng lý ra, sau khi kết thúc đợt tập huấn, cháu phải trở về Luân Đôn. Đằng này lại thơ thẩn ở Helsinki, lo tán gái.
- Cháu định …
- Này 007, cháu còn nhớ điều lệ của Cục Phản gián?
- Cháu …
Rồi giọng của ông ta dịu lại:
- Bác những mong sau đợt tập huấn, cháu làm quen với điều kiện khí hậu ở đấy. Trước khi đi, bác đã chẳng giải thích cụ thể hay sao? - Cụ thể?
Im lặng một lúc rồi ông ta nói tiếp:
- Chúng ta sắp bước vào một chiến dịch khá gian khổ ở vùng Bắc Cực. Đợt tập huấn chỉ là phương pháp làm nóng sơ bộ cho riêng cháu. Nói ngắn gọn, cháu phải tham gia vào chiến dịch này.
Lời lẽ ông ta quá mơ hồ, anh chàng đành hỏi tiếp:
- Chống lại ai?
- Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã.
- Ở Phần Lan à?
- Khu vực gần biên giới Nga.
Chồm hẳn người về phía trước, giọng ông ta căng thẳng. Hệt như sắp tiết lộ điều gì đó cơ mật.
- Chúng ta có một đối tượng ở đấy. Nhưng thời điểm này chưa thích hợp đi sâu vào chi tiết. Giữa các nước đồng minh có sự bất đồng. Sắp tới đây sẽ có một đội đặc nhiệm tới cùng làm việc với cháu. Dĩ nhiên, chúng ta phải họp trước để đề ra phương án tác chiến.
- Cả một đội?
- Đúng thế, các chiến hữu trong Liên Minh. Nhưng bác lại sợ là vụ mèo mảgà đồng của cháu ở Helsinki có ảnh hưởng đến yếu tố bất ngờ của chiến thuật. Tham gia vào một đội nhưng không để bọn Phát Xít Mới nắm được. Anh chàng cứ thắc mắc:
- Một đội ư?
Khẽ tằng hắng, ông M thủng thẳng đáp lại:
- Phải, một chiến dịch liên quân rất kỳ lạ theo đề nghị của phía Xô Viết. Cau mày, anh chàng hỏi tiếp:
- Chúng ta sẽ làm việc với đám tình báo ở Moscow?
Gật đầu, giọng ông ta dứt khoát:
- Không chỉ với đám người ở Moscow, liên minh còn có Langley và Tel Aviv.
Ngạc nhiên, anh chàng thốt lên:
- Ồ …
Vẫn cau mày, môi ông ta mím chặt:
- Như bác đã nói, một liên minh rất kỳ lạ.
Hoàn toàn bất ngờ, anh chàng cứ lẩm bẩm:
- Chúng ta, KGB, CIA và cả Mossad của Israel.
Chẳng cần phải giấu giếm, ông M nói thẳng thừng:
- Chính xác là như thế. Người Mỹ đặt tên cho chiến dịch này là Icebreaker.
Người Nga cũng đồng ý. Họ sẽ tài trợ …
Có vẻ hoài nghi, anh chàng hỏi thêm:
- Đám KGB yêu cầu hợp tác?
- Đúng, liên minh tình báo. Khi được thong báo, một số người cũng đâmra hồ nghi. Rồi người ta mời bác đến dự một cuộc họp ở toà đại sứ Mỹ tãi Quảng trường Grosvenor.
- Thưa bác, họ yêu cẩu chúng ta à?
- Đúng, đám Mossad cũng có mặt. Trong vòng một ngày, chúng ta tiến hành đàm phán ba bên.
Quá bất ngờ, anh chàng không thốt nên lời. Còn ông M vẫn tiếp tục kể, thỉnh thoảng ngừng lại mồi lửa vào tẩu.
- Trong cuộc họp, người ta phân tích, đánh giá tình hình, đề ra phương án tác chiến, chọn người vào các vị trí. Đội hình cần ít nhất ba người. Riêng đám người Nga đã có ba người. Nhiều người quá rất khó hành động. Cuối cùng, chúng ta đã gặp người đại diện của KGB, Anatoli Pavlovich Grinev…
Đột nhiên anh chàng xen vào:
- Ồ, đại tá khu vực I của phân cục III với chức danh là tuỳ viên thươngmại thứ I ở KPG.
Khẽ gật đầu, ông M đáp lại:
- Chính ông ta.
Ấy, KPG có nghĩa là toà đại sứ Nga nằm ở số 13 công viên KensingtonPalace. Còn phân cục thứ III của KGB là cơ quan có liên quan đến tất ccác hoạt động tình báo với Anh, Úc, New Zealand và các nước Bắc Âu. Rồi ông M nhắc lại.
- Chính hắn.
Cái gã thấp người, lỗ tai ba góc. Tay đại tá Grinev lắm mưu, nhiều kế này, anh chàng đâu có lạ gì. Trước đây họ từng biết nhau qua vài lần. - Hắn ta giải thích như thế nào? Tại sao hắn cần chúng ta, CIA và cảMossad tham gia vào chiến dịch hoạt động trên đất Phần Lan? Thật tình mànói, KGB có mối quan hệ khá tốt với cục tình báo SUPO của Phần Lan. - Không hẳn thế. Cháu đã đọc hết tư liệu về bọn NSAA chưa?
Khẽ gật đầu, anh chàng đáp lại:
- Ba mươi vụ ám sát thật hoàn hảo. Nhưng bọn chúng không dừng lại ở đấy …
- Liên Minh Các Cơ Quan Tình Báo cũng đánh giá như thế. Cháu đã đọhết năm mươi trang?
- Họ có vẻ lăng xê Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã quá. Theo cháubọn chúng chỉ là một tổ chức khủng bố cuồng tín cỏn con. Cháu không chắc về phần kết luận của bản báo cáo.
Khịt khịt mũi, ông M đáp lại:
- Bác lại nghĩ khác đấy, 007. Bọn NSAA cuồng tín, điều này rõ rồi. Không cần bàn cãi. Chúng được nuôi dưỡng bằng giáo điều hoang tưởng của Phát xít Đức trước đây. Mỗi ngày, chúng đang lôi thêm nhiều nạn nhân vào cái bẫy. Bọn cầm đầu NSAA tự cho mình là các nhà hoạch định cho chế độ Quốc Xã Đệ Tứ. Mục tiêu chính của bọn chúng trong thời điểmhiện nay là Xô Viết. nhưng càng lúc, chúng càng bộc lộ rõ dã tâm.
- Chẳng hạn như cái gì, thưa bác?
- Những cơn bạo động chống lại tư tưởng Xê-mít ở châu Âu và Hoa Kỳtrong khoảng thời gian gần đây.
- Theo cháu, điều này không có bằng chứng …
Giơ một tay lên như bảo anh chàng cứ bình tĩnh, ông M nói tiếp: - Còn một việc nữa, chúng ta nắm chắc được một tên.
- Một thành viên của bọn NSAA? Không ai …
- Dĩ nhiên, điều này vẫn còn là bí mật. Chưa thể nào tiết lộ ra ngoài. Tênấy trong tay chúng ta hệt như con kiến bò quanh miệng chén. - Thưa bác, “chúng ta” có phải là Cục Phản gián Hoàng Gia? - Đúng thế. Hắn có mặt ở đây. Ngay trong toà nhà này. Ở khu vực tiếp khách.
Chỉ tay xuống đất, ý ông M muốn nói đến phòng thẩm vấn ở dưới tầng hầm. Rồi ông ta lại tiếp tục:
- Đúng, sau cái vụ thảm sát ba viên chức giữa ban ngày, ban mặt tai Luân Đôn. Cách đây sáu tháng, lúc bàn xong vài hợp đồng thương mại, vừa rời khỏi đại sứ quán Nga, họ bị một nhóm khủng bố tấn công. Khi nhóm
đặc nhiệm SPG xiết chặt vòng vây, tên sát thủ còn lại định tự tử nhưng không thành công. Từ tay thần chết, chúng ta kéo hắn trở về. Hắn tiết lộ cho chúng ta biết vài điều về NSAA.
- Hắn khai ra à?
Nhún vai, ông M lộ vẻ thất vọng:
- Rất ít. Nhưng từ những điều hắn nói, chúng ta lần ra sự thật. Vâng, rất ít người biết về chuyện này. Chúng ta có bằng chứng cụ thể. Bác dám cá đến 80%, hoạt động của bọn NSAA mang tính toán và không ngừng lớnmạnh. Dứt khoát bọn chúng chẳng chịu dừng tay. Rồi đây chúng sẽ hoạt động công khai, khuynh đảo chính trị tại các quốc gia dân chủ. Dĩ nhiên, nước Nga sẽ là nạn nhân đầu tiên.
- Tại sao chúng ta phải hợp tác với họ?
- Không có cơ quan tình báo nào nắm được chút manh mối ngoài đámKGB.
Im lặng, anh chàng đang suy nghĩ miên man.
- Tất nhiên, họ chẳng thể nào biết được bí mật của chúng ta. Nhưng họ có vài tư liệu khá quan trọng về bọn cung cấp vũ khí cho NSAA. Nghiêng đầu một chút, anh chàng xen vào:
- Vũ khí bọn chúng dùng toàn bộ của người Nga. Cháu đoán rằng … - Không đoán già, đoán non gì cả, 007. Đám KGB có bằng chứngthuyết phục. Toàn bộ vũ khí của bọn NSAA là hàng ăn cắp từ Nga, vậnchuyển qua biên giới Phần Lan, tập kết tại nhiều điểm. Đó là lý do tại sao họ muốn giữ kín bí mật với chính quyền Phần Lan.
- Nhưng còn chúng ta?
- Họ cần có nhiều quốc gia hỗ trợ. Israel dứt khoát là mục tiêu tiếp theo của bọn chúng. Chúng ta và Hoa Kỳ không thể nào đứng ngoài cuộc. - Bác tin tưởng bọn họ à?
Giọng từ tốn, ông M đáp lại:
- Dĩ nhiên là không. Nhưng trước tình thế này, chúng ta phải hợp sức lại trước kẻ thù chung.
- Chiến dịch Icebreaker dự kiến sẽ diễn ra trong bao lâu? - Khoảng sáu tuần. Họ muốn cháu tham gia ngay vào giai đoạn đầu
của chiến dịch. Nhưng bác còn đang đắn đo.
- Liệu chiến dịch còn chắc chắn không, thưa bác?
- Còn tuỳ thuộc vào năng lực của cháu. Nhưng sau chuyện xảy ra ở Helsinki, xem chừng có điều bất tiện.
Chợt bầu không khí im lặng bao trùm lấy căn phòng. Ngột ngạt, khó thở. Xa xa đằng kia, sau cánh cửa văng vẳng tiếng điện thoại.
Rồi anh chàng mở lời trước.
- Gã điệp viên chúng ta đang cài vào …
- Clifford Arthur Dudley đang làm nhiệm vụ ở đấy. Hắn ta từng sống ở Stockholm một thời gian.
Anh chàng châm thêm một điếu thuốc rồi đáp lại:
- Một tay khá bản lãnh. Cháu từng cộng tác với hắn ta. Cách đây vài năm, Clifford đã theo dõi và tóm được tên ám sát nhà ngoại giao Rumani ở Pháp. Sao bác nói giữa Liên minh có sự bất đổng …
Bỗng ông ta đứng dậy bước tới cửa sổ, hai tay chống ngang hông, nhìn xuống công viên Regent.
- Vâng, đến cả đám người Mỹ còn không biết hành tung của hắn ta. - Cliff Dudley ấy à?
Quay đầu lại, ánh mắt của ông ta có vẻ kín đáo.
- Hắn làm theo lệnh của bác. Đại loại như một cách thăm dò đợi cho đến khi cháu thích hợp với điều kiện khí hậu ở đó.
Sau một lúc im lặng, anh chàng bèn thốt ra:
- Thế là cháu phải tham gia vào biệt đội đặc nhiệm?
- Ừ, cháu nên gặp họ càng sớm càng tốt. Bác đã chọn sẵn một điểmhẹn. Khách sạn Reid ở Funchal, Madeira, cháu thấy thế nào? - Chính thế, tốt hơn nhiều cái nhà trọ của Lapp ở cùng Bắc Cực, thưa bác. - Ồ. Chúng ta sẽ bàn bạc phương án tại đây trước. Tối mai, cháu phải lên đường. Bắc Cực sẽ là điểm dừng kế tiếp sau Madeira đấy. Nào, còn khá nhiều
việc đang chờ chúng ta. Cháu nên nhớ cho một điều: Chẳng phải là một miếng bánh dễ nuốt như người ta từng nói trong thế chiến thứ II đâu. Mỉm cười. anh chàng tán thêm:
- Vâng, thậm chí Madeira cũng không phải là một mẩu bánh. Nhìn James, ông ta cười xòa.
Chương 5
CUỘC HẸN Ở REID
Tính thì tính vậy,chứ làm sao mà anh chàng có thể rời khỏi Luân Đôn sớm như thế? Còn biết bao nhiêu việc ngổn ngang chưa giải quyết xong. Mấy tay bác sĩ cứ bảo vết thương chưa lành, cần phải có thời gian nghỉ dưỡng. Bill Tanner đang truy tìm mớ hồ sơ về Paula Vacker và Anni Tudeer. Chà, xem chừng nhân thân, lý lịch của hai cô ả có chút vấn đề đây. Hoá ra Paula tuy quốc tịch Phần Lan nhưng là người Thụy Điển. Còn bốcô ấy từng làm việc cho ngoại giao đoàn Thụy Điển. Theo hồ sơ, ông ta thuộc nhóm quân sự hữu khuynh.
Ông M cứ luôn miệng lầm bầm:
- Có thể hắn là một thành viên phát xít.
Anh chàng hơi chột dạ. Lẽ nào mình lại giao trứng cho ác? Chưa hết, Bill Tanner còn thêm dầu vào lửa.
- Có thể lắm. Nhưng bố của cô ả Anni Tudeer đúng là một tên phát xít. Ruột gan của anh chàng đang sôi sục. Ước gì có thể bay tới đó hỏi Paula cho ra lẽ. Còn cô ả Anni Tudeer nữa. Chẳng lẽ mình bị xỏ mũi mà không hay?
Tư liệu về Anni chẳng có bao nhiêu nhưng bố của ả, ôi thôi, đủ thứ. Bố ả từng là sĩ quan cao cấp trong quân đội Phần Lan. Đại tá Aarne Tudeer là một thành viên trong Bộ tham mưu của tướng Mannerheim vào năm 1943. Vào năm ấy, Phần Lan kề vai sát cánh vơi Đức Quốc xã chống lại Liên Xô. Hắn từng là một sĩ quan quân đội SS. Dù là người Phần Lan, nhưng Tudeerlại rất khoái Đức Quốc xã, đặc biệt là Adolf Hitler.
Cuối năm 1943, hắn còn ngoi lên được tới chức sĩ quan tình báo cao cấp của SS rồi đến làm việc tại Đức. khi chiến tranh kết thúc, đột nhiên hắnbiến mất. Theo một nguồn tin chính xác, hắn vẫn còn sống. Danh sách truy nã của đồng minh có tên Aarne Tudeer với tội danh diệt chủng.
Vào tháng Ba năm 1944, hắn đích thân hành hình năm mươi tù nhân chiến tranh đào thoát thất bại ở nhà tù Stalag Luft II ở Sagan. Sự kiện đẫ
máu này trở thành vết son ô nhục trong lịch sử tội ác của Đức Quốc Xã. Sau đó, hắn chiến đấu trong phân đoàn số II Pandex của SS từMontauban cho tới Normandy. Càng lúc hắn càng bộc lộ thú tính, gặp ai cũng giết. Chỉ riêng ngôi làng Oradout-sur-Glaane với sáu trăm bốn mươi hai người toàn đàn bà và trẻ con, hắn ra lệnh đốt sạch trong hơn mười ngày vào tháng Sáu năm 1944.
Rồi giọng của Bill Taner tiếp tục vang lên:
- Một tên tội phạm chiến tranh điển hình. Dù tuổi hắn dã xế chiều nhưng Đồng Minh vẫn không buông tha cho hắn. Vào những năm 50, người ta thấy
hắn xuất hiện ở Nam Phi rồi mất dạng. Có thể sau khi giải phẫu nhân dạng, hắn quay trở lại chau Âu vào thập kỷ 60.
Chà, liệu chừng không ổn. Hoàn toàn không ổn rồi. Cái tật lăng nhănglàm anh chàng không còn tỉnh táo. James yêu cầu cho xem qua chút tư liệu và hình ảnh của tên Tudeer. Nhìn ông M, anh chàng bẽn lẽn: - Thế là cháu chẳng có cơ hội trở lại Helsinki tìm Paula và cô ả Anni Tudeer rồi.
Khẽ lắc đầu, ông ta đáp lại:
- Này 007, không còn nhiều thời gian nữa đâu. Đội đặc nhiệm đang rời khỏi khu vực tác chiến với hai lý do. Tới gặp cháu, hai bên cùng phân tích, đánh giá tình hình. Rồi lên kế hoạch cho bước cuối cùng của chiến dịch. Địa điểm, cách thức vận chuyển số vũ khí đến cho bọn NSAA, kẻ nào lãnhđạo các cuộc khủng bố và sào huyệt của bọn chúng đang ở đâu, họ đã nắmrất rõ. Giờ chỉ còn việc phá án.
Xoay xoay người trên chiếc ghế, nhồi cái tẩu rồi ông M nói tiếp. Lắngnghe, chàng điệp viên ngoại hạng càng lúc càng nổi da gà. Ậy cuộc họp kéo dài cho tới khuya.
Trở lại căn hộ Chelsea, James như vừa rời khỏi trại tập trung. Gân cốt rã rời, mặt mày bí xị. Nhìn anh chàng bà quản gia May phát rầu. Vẫn với giọng ôn tồn, dịu dàng, bà ta bảo:
- Sao ông phờ phạc quá? Vào giường nằm nghỉ rồi tôi sẽ làm bữa tối mang lên. Đừng phí sức như thế. Có hại cho sức khoẻ đấy, ông James ạ.
Vài phút sau, bà May mang lên một mâm cá hồi nướng và món trứng chiên nghi ngút khói. Vừa ngồi ăn, anh chàng vừa tranh thủ đọc chồng thư để bên cạnh.
Ái chà, chẳng biết từ đâu, cơn buồn ngủ kéo tới, hai mắt muốn sụp mí. Ráng nuốt mấy miếng cho hết bữa, anh chàng ngả lăn ra, đánh một giấc cho tới sáng.
Chừng khi tỉnh dậy, anh chàng thấy trưa trờ, trưa trật. Kim đồng hồ đã chỉ 10 giờ. Ngồi dậy ngay, James gọi bà May đem bữa điểm tâm. Chưa đầyvài phút, chuông điện thoại cứ reo inh ỏi. Bên kia đầu dây, ông M cứ la toáng lên.
Chút thời gian còn lại ở Luân Đôn phải cắt xẻ manh mún cho nhiềuviệc. Cùng đám cộng sự mổ xẻ, phân tích, đánh giá tình hình xong, James lại phải gặp riêng Cliff Dudley nhận chuyển giao công việc. Chà nhắc tới Cliff mới nói, một tay thấp người, cơ bắp săn chắc, tính tình nóng nảy của người Scốtlen. Vừa tôn trọng năng lực của hắn, anh chàng vừa khoái cái khoản bộc trực, dám nói dám làm.
- Nói thật nghe James, nếu mình có thời gian, mình sẽ theo đuổi chiến dịch tới cùng. Nhưng lãnh đạo cứ bảo cậu thích hợp hơn. Ngay từ khi giao nhiệm vụ cho mình, ông M đã nói rõ chuyện này. Ráng tự chăm sóc đấy. không ai có thể giúp được cậu đâu. Cái đám Moscow, cậu thừa biết rồi đó. Hẳn không cần mình nhắc nhở, đúng không? Có thể mình quá đa nghi nhưng cái gã ấy bụng dạ khó lường.
Chà, ý Cliff muốn nói tới Nicolai Mosolov nổi tiếng trong thế giới tìnhbáo. Mấy tay ở KGB thường gọi hắn là Kolya, Mosolov thành thạo tiếngAnh, tiếng Mỹ, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan. Gầbốn mươi tuổi, hắn là ngôi sao sáng trong trường đào tạo tình báo ở gần Movosibirsk, từng làm việc cho nhóm Hỗ Trợ Kỹ Thuật cho các chuyêngia, thuộc phân cục thứ II của KGB.
Còn mấy tay Cục Phản Gián Hoàng Gia ấy à, họ biết Mosolov dướihàng chục tên giả. Ở Hoa Kỳ, hắn mang tên là Nicholas S. Mosterlane, ởThụy Điển và các nước Bắc Âu là Sven Flanders, ở Luân Đôn với cái têNicholas Mortin- Smith. Ấy, biết là biết vậy, nhưng chưa bao giờ tóm
được hắn.
Bỗng ông M xen vào:
- Hệt như con tắc kè bông biết thay hình, đổi dạng. Chưa ai có thể lần ra tung tích của hắn. Ậy, bị sập bẫy rồi hắn còn cao bay xa chay. Còn cái tay cộng sự người Mỹ nữa, anh chàng cũng chẳng khoái gì cho lắm. Hắn tên là Brad Tirpitz nhưng trong làng tình báo người ta cứ gọi đùa là Bad. Từng là cựu sinh viên của trường đào tạo CIA, hắn thoát được baocuộc tình giản biên chế ngay tai tổng hành dinh Langley, bang Virginie. Thuộc típ người hùng theo quan niệm “sống hay là chết”, tính tình khá ngổ ngáo. Một sồ người cứ coi hắn như một huyền thoại sống. Số còn lại lại coi thường ra mặt.
Tạm gọi Brad có một phương pháp thẩm tra rất độc đáo. Hắn thường to nhỏ với bạn bè: “Kết Quả Mới Đánh Giá Được Năng Lực”. Năng lực hắmuốn nói ở đây là tính bạo tàn của lũ sói và trái tim sắc đá của đám bò cạp.
Chà, lần này 007 gặp toàn đồng sự trời ơi, đất hỡi rồi: một gã người Moscow bụng dạ dẹp hòi, một tay CIA có máu lạnh, giết trước, hỏi sau. Ngồi nghe ông M cùng với Bill Tanner triển khai nhiệm vụ cho tới khuya, rồi sáng hôm sau, anh chàng phải gặp mấy tay bác sĩ kiểm tra vết thương lại lần cuối.
Mãi cho tới 2 giờ trưa, anh chàng mới lên được chuyến bay TAP đi Lisbon, đón tiếp chiếc Boeing 727 tới Funchal.
Mặt trời đang xuống thật thấp. Dường như muốn chạm phải mặt nước. Những vừng sáng đỏ rực hắt vào bờ đá khi chiếc 727 chỉ còn cách mặt đất ở độ cao gần hai trăm thước. Vượt qua mũi đất Ponta de Sao Lourenco, đảo một vòng nhẹ, con chim sắt khổng lồ đáp tà tà lên đường băng đang nâng cấp.
Một giờ sau, chiếc tắc xi đưa anh chàng tới khách sạn Reid. Nghỉ qua đêm, sáng hôm sau anh chàng phải tìm gặp Mosolov, Brad và thành viên cuối cùng trong chiến dịch Icebreaker, một nhân viên tình báo của Mossad.
•
• •
Nghe lời mô tả của Clifford về cô nàng, James cứ mở to mắt, miệng cứ xuýt xoa, lộ vẻ kinh ngạc. Một cô gái tóc vàng có thân hình tuyệt mỹ, cao non thước bảy, gương mặt xinh đẹp như thần Vệ Nữ, nói năng sắc sảo, đầu óc …
Sốt ruột, anh chàng hỏi ngay:
- Đầu óc thì sao nào?
- Hết xẩy. Cô nàng tuổi gần ba mươi. Nói thật nghe, mình ghét làmviệc chung với cô ta …
Khẽ mỉm cười, anh chàng thốt lời mỉa mai:
- Ganh tị chứ gì?
- Theo ông M, ngoài cái tên Rivke Ingber, hồ sơ không ghi nhận lại chút xíu nào hành tung của cô ta. Lại gặp một nhân vật thần bí nữa. Giờ đây, anh chàng đang dõi mắt về phía hồ bơi nằm bên hông khách sạn. Xuyên qua cặp kính mát, James tìm kiếm từng gương mặt, hình dáng.
Một lúc sau, từ mặt nước nhấp nhô, thần Vệ Nữ với mái tóc vàng óng ả, trau chuốt, xuôi người ngụp lặn. Ồ, không bút mực nào có thể mô tả từng chi tiết một dáng vẻ tuyệt mỹ trong bộ Bikini Cardin.
Khẽ xoay người trên chiếc ghế, dù vết thương ở vai đang lành chợt đau nhói, anh chàng vẫn dán mắt vào cặp đùi dài thon thả, cách đưa tay chậmchạp nhưng đầy vẻ gợi tình.
Quả là ông M có con mắt tinh đời, khéo chọn điểm hẹn ở chỗ này. Dọc theo hàng trăm khách sạn chứa khách du lịch chật như nêm từ Gran Canaria đến Corfu, Reid là một trong số ít còn mang hơi hướng của những năm 30: khung cảnh thơ mộng, trữ tình, đám nhân viên phục vụ đúng khuôn phép, nhà hàng hợp khẩu vị.
Đưa tay dụi dụi mắt, anh chàng cố tìm kiếm Mosolov và Tripitz. Quái, trong đám đông bát nháo, chẳng thấy bóng dáng của hai gã này. Chỉ có Rivke Ingber là không có tấm hình nào trong hồ sơ.
Nhớ lại buổi bàn giao công việc, nheo nheo mắt Clifford nói úp úp, mở mở:
- Ậy, cô ấy rất dễ tìm. Trước sau gì, cậu cũng nhận ra thôi. Giờ mọi người đang từ từ bước về phía nhà hàng lộ thiên nằm dọc hai bên hồ bơi. Trên những chiếc bàn dài, bữa tiệc bup-phê bày la liệt. nào là các món rau trộn, thịt nguội, súp, xốt cà phô-mát, bánh nhân thịt … Hàng trămthứ, chẳng thể nào nhớ nổi.
Nhổm người dậy, trong chiếc áo choàng bằng vải bông xù, James bước thong thả về phía dãy bàn. Vừa gắp mấy lát thịt nguội, mớ xà lách, bông anh chàng nghe một chất giọng thánh thót vang lên:
Có muốn dùng chút rượu không, anh James? Cho lòng bớt giá băng? Không quay mặt lại, anh chàng lên tiếng:
- Có phải là cô Ingber không nào?
- Vâng, thoáng qua chút xíu tôi biết ngay là anh. Chúng ta dùng bữa chung với nhau nhé. Mấy người nữa cũng sắp tói rồi đấy. Khẽ nhìn sang, anh chàng thấy đúng là cô gái tóc vàng xinh đẹp, làn da ngả sang màu đồng trông rất ấn tượng. Dáng vẻ trẻ trung, căng đấy nhựa sống của Ingber làm người ta chợt nhớ đến các vận động viên ở các kỳ Thế Vận. Gương mặt mang dáng dấp của những người Bắc Âu, cặp mắt đen sậm, đôi môi gợi tình trên chiếc cằm cương nghị, trong cô nàng thật hấp dẫn. - Xin chào cô Ingber. Chưa gì cô tấn công từ mạn sườn của tôi rồi. Mỉm cười, chiếc miệng xinh xắn đáp lại:
- Xin chào, anh James.
Trên tay cô nàng là một cái dĩa với mấy miệng ức gà, cà chua xếp lát, vài thứ rau trộn. Vẫy ta về chiếc bàn gần đấy, anh chàng nhường cho Ingber đi trước. Chà, trông cái dáng nhún nhảy của cô nàng mới gợi tình làm sao! Mải nhìn ngắm Ingber, James chẳng còn biết trời đất chung quanh. Giờ ngồi đối diện với anh chàng bảnh trai hơn cả mấy siêu sao màn bạc, Ingber cứ dùng lưỡi miết miết làn môi phía trên.
- Anh có biết không …
Ngừng một chút, cô nàng thì thầm:
- … Tôi từng nói với các đồng nghiệp: tôi rất mong được cùng làmviệc chung với anh.
Cố gắng dò xét ánh mắt nâu đậm của cô gái, tay James cầm cái nĩa quơ
quơ trước mặt:
- Thế ư?
Tiếng cười của Ingber vang lên giòn giã.
- Clifford chưa kể cho anh nghe à?
Tròn xoe đôi mắt, anh chàng tỏ vẻ chưng hửng:
- Không hề. Thời gian quá ngắn ngủi, tôi chỉ nghe báo cáo tình hình rồi thu xếp công việc tới đây. Chỉ biết một điều đội hành động gồm các thành viên rất kỳ lạ. Trước giờ, tôi chưa từng làm việc theo kiểu này. Lẫn trong tiếng cười, Ingber đáp lại:
- Tạm gọi là tình cách có phần trái ngược nhau. Brad Tirpitz có vẻ hơi thô lỗ. Còn Clifford cứ xung khắc với hắn ta. Tôi cảm thấy hơi phiền nhiễu. Giữa tôi và Brad lại không có chuyện gì.
Vừa ăn, anh chàng vừa hỏi về chiến dịch. Rồi làn môi dưới của Ingber trề ra, thoáng vẻ khêu gợi.
- Chúng tôi sẽ báo cáo cụ thể với anh trong cuộc họp. Nói thật nghe, dường như họ có vẻ coi thường tôi.
- Thế là mấy tay đồng nghiệp hẳn quá ngu xuẩn rồi.
Khẽ than thở, cô nàng đáp lại:
- Không hề. Chỉ phải cái tội “trọng nam, khinh nữ”. Họ không nghĩ sẽ làmviệc chung với phụ nữ.
Gương mặt của anh chàng vẫn bình thản:
- Với tôi, đồng nghiệp nam hay nữ không thành vấn đề. Miễn sao làmtốt nhiệm vụ. Sao cô không nói gì đến chiến dịch?
Khẽ lắc đầu, cô nàng đáp lại:
- Đừng có vội, anh James. Cứ gặp họ rồi bàn cũng được mà. Nhìn ánh mắt của Ingber, anh chàng thấy có vẻ kỳ lạ. Khi thì dường như mơ màng, thân thiện, lúc lại lạnh lung băng giá. Chẳng biết trong đầu cô ta nghĩ gì.
Suốt bữa ăn nhẹ, anh chàng không hỏi tới công vụ. Thậm chí chẳng có nửa lời thắc mắc về cuộc sống riêng tư của cô ta.
James xoay quanh mấy câu chuyện về đất nước Israel với bao khó khăn còn tồn đọng.
Lấy khăn chậm chậm vào môi, ánh mắt cô nàng hướng về phía khách sạn. - Này anh James, đã tới lúc chúng ta gặp mấy chiến hữu rồi đó. Theo lời của Ingber, có lẽ Mosolov và Brad nãy giờ đứng ở ban côngnhìn xuống. Cả ba đều ở các phòng liền nhau trên lầu bốn, mặt hướng ra khu vườn và toàn cảnh hồ bơi.
Bước vào dãy phòng thay đồ một lúc rồi hai người bước ra. Rivke trong chiếc váy xếp li sẫm màu, áo sơ mi trắng. Còn anh chàng thay chiếc sơ mi mùa hè, quần chùng màu xanh nước biển.
Sánh bước vào khách sạn, họ theo thang máy lên tới lầu bốn. - Ồ, xin chào ông James.
Đúng như lời của các chuyên gia, tay Mosolov thuộc típ người khó tả. Thoáng nhìn dáng vẻ của hắn, người ta không thể đoán là bao nhiêu tuổi. Chỉ phỏng chừng từ hai mươi mấy cho tới bốn mươi. Gương mặt hắn luôn thay đổi cảm xúc, hệt như đám kịch sĩ chuyên nghiệp. Còn tiếng Anh của Mosolov khá
thành thạo, mang chút hơi hướng của đám người ở vùng ngoại ô Luân Đôn, tuy thỉnh thoảng chêm vào mấy từ thông tục.
Bắt tay anh chàng, hắn tự giới thiệu:
- Cứ gọi tôi là Kolya Mosolov.
Ánh mắt xám sậm màu tẻ nhạt, cái bắt tay hời hợt, Mosolov nhìn anh chàng hờ hững.
- Rất vui được biết ông bạn.
Cố tạo vẻ thân thiện, anh chàng mỉm cười với gã đàn ông có mái tóc vàng hớt cao. Từ tướng mạo cho tới dáng dấp của hắn chẳng có gì nổi bật. Áo sơ mi ngắn tay sọc carô nâu cùng chiếc quần chùng may quá tệ. Hệt như tiếc tiền, hắn giao đồ cho mấy tên thợ may mới học việc.
Chỉ một chiếc ghế ý mời anh chàng ngồi, cử động của Mosolov khá nhanh nhẹn.
- Ông bạn có biết qua Brad Tirpitz chưa?
Ễnh người trên ghế là một gã bự con, tóc húi cua, bàn tay to bè. Còn gương mặt góc cạnh hệt như đá tảng. Chợt anh chàng thấy mép trái miệng của gã có vài vết bầm mờ mờ.
Uể oải đưa bàn tay lên chào, Brad cất cái giọng khàn khàn, hệt như mấy tay anh chị trong phim hành động.
- Chúc mừng anh bạn tham gia vào đội.
Chẳng thấy chút hoan hỉ trong giọng nói của gã.
Nhấn mạnh vào từ ÔNG, anh chàng đáp lại:
- Thật là hân hạnh, thưa ÔNG …
- Brad.
Giọng khá cộc cằn nhưng hình như thoáng có nụ cười trên gương mặt quạu đeo.
Rồi Mosolov xen vào:
- Ông bạn có nắm được tình hình?
- Chỉ chút tí …
Bước vào trong, mỉm cười Rivke lên tiếng:
- Anh James bảo với tôi thời gian gấp rút quá. Anh ta chưa nắm được vấn đề.
Nhún vai, Mosolov ngồi xuống, đưa tay chỉ một chiếc ghế. Còn Rivke sàvào chiếc giường, rút hai chân qua một bên.
Kéo chiếc ghế vào sát tường, anh chàng chọn vị trí có thể quan sát cả ba người, hướng tầm mắt qua cửa sổ và ban công.
Hít một hơi thật sâu, Mosolov lên tiếng trước:
- Chúng ta không có nhiều thời gian. Trong vòng bốn mươi tám tiếng, chúng ta phải rời khỏi đây đến khu vực hành động.
Vẫy tay ra hiệu, anh chàng xen vào:
- Ở đây nói chuyện liệu có an toàn không?
Cười khục khặc, Brad đáp ngay:
- Đừng có lo, ông bạn à! Phòng của tôi ở sát vách. Hơn nữa, chỗ nàyngay góc của toà nhà, tôi rà đi, soát lại khá nhiều lần rồi. Trong lúc ấy, Mosolov cứ kiên nhẫn chờ. Vài giây sau đó, hắn mới tiếp tục.
- Anh bạn nghĩ sao về biệt đội hành động kỳ quái này? CIA, Mossad, KGB và Cục Phản gián Hoàng Gia Anh Quốc?
Ông M từng cảnh báo với anh chàng điều này. Cái tay Mosolov có thể
muốn giữ riêng bí mật cho KGB. Phải giữ kẽ từng ly, từng tí mới được. Bụng dạ hắn thật khó lường.
- Vâng, tôi có nghĩ đến chuyện này. Tạm gọi chúng ta cùng ngồi chung một chiếc thuyền. Dù có khác quan điểm, ý thức hệ nhưng chúng ta hoàn toàn có thể chia sẻ mối quan tâm với nhau. Vì hoà bình thế giới, an ninh khu vực. Đại loại là như thế.
Mosolov đáp lại ngắn gọn:
- Chính xác. Thôi nào, tôi sẽ kể lại vài nét chính của chiến dịch. Ngừng lại, hắn đảo mắt quanh căn phòng.
- Nào Rivke, Brad, nếu có điểm nào thiếu sót, xin hai người bổ xungvào nhé.
Rivke khẽ gật đầu, còn Brad cười to.
- Vâng, thế chúng ta đi váo vấn đề.
Tay Mosolov hệt như một kịch sĩ tài năng. Từ ánh mắt của ông giáo già nghiêm khắc, hắn chuyển sang vẻ sắc sảo của mấy tay quản lý cứng rắn, quả quyết.
Nhìn hắn, anh chàng cảm thấy hứng thú. Chẳng biết hắn học diễn xuất ở đâu?
- Chắc ông bạn thừa biết cái gọi là Binh Đoàn hành Động Quốc Xã? Mộtổ chức khủng bố chuyên nghiệp đang nhắm vào đất nước của tôi và đe doạ đến an ninh của khu vực. Dĩ nhiên, không loại trừ đất nước của quý vị. Chủ nghĩa Phát xít theo kiểu cũ, tạm gọi là như thế.
Phá lên cười, Brad chêm vào:
- Chủ nghĩa Phát xít cũ được cãi tiến.
Phớt lờ, Mosolov nói tiếp. Hình như đấy là cách duy nhất đáp lại thái độ châm chọc, lém kỉnh của Brad.
- Chính quyền của các nước có nơi bị bọn NSAA tấn công đều thừanhận không tìm thấy chút manh mối.
Ngừng lại một chút, hắn đảo mắt quanh các “khán giả”, ánh mắt lộ vẻ nghiêm trọng.
- Nhưng thật ra có nhiều đầu mối đấy. Chúng tôi có những bằng chứng cụ thể về cái bọn dựng nên NSAA. Chính quyền của chúng ta cùng chia sẻ
nguồn thông tin này. Tại Anh, Thụy Điển, Đức, Nam Phi, chúng đều cónguồn hỗ trợ, căn cứ địa cho thứ cặn bã của cái gọi là Đệ Tam Quốc xã sau khi cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại …
Ủa, mà quên. Phải nói là sau chiến tranh thế giới thứ II mới đúng. Mỉm cười trong bụng, anh chàng thừa biết hắn cố tình dùng mấy chữ đặc Nga để nói về thế chiến thứ II. Chẳng phải là lỡ lời như hắn đính chínhđâu.
Ra vẻ bẽn lẽn, Mosolov nói chữa:
- Ậy, tôi không theo chủ nghĩa cuồng tín. Tôi cũng không bị bọn NSAAám ảnh. Mà này, giống như nhận định từ phía chính quyền của quý vị, tổ chức này ngày càng lớn mạnh. Đó là một mối hiểm hoạ … - Không hẳn là như vậy.
Lấy một điếu thuốc từ gói thuốc Camel, dọng dọng cái đầu lọc lên ngón tay cái, châm lửa hút, Brad xen vào.
- Thông qua chuyện đó đi Mosolov. Binh Đoàn Hành Động Quốc Xlàm cho đất nước của ông bạn nổi da gà, dựng tóc gáy cả lên. Cố tình phớt lờ lần nữa, Mosolov nhắc lại:
- Vâng, đó là mối hiểm họa cho toàn thế giới. Chẳng riêng gì Xô Viết và khối Động Âu.
Ấy, Brad đâu phải tay vừa. Hắn càu nhàu:
- Nhưng Xô Viết là mục tiêu chính của bọn chúng.
- Này Brad, anh bạn thừa biết mà, hiểm hoạ không chỉ dành cho riêng ai. Vì thế, chúng ta phai đoàn kết lại. Hoa Kỳ, Israel và cả nước Anh nữa. Quay về phía anh chàng, hắn nói tiếp:
- Chắc ông bạn cũng rõ, toàn bộ số vũ khí của bọn NSAA đều do Ngasản xuất. Sau hơn năm mươi vụ thảm sát, Uỷ Ban Trung Ương đã chínhthức công bố. Một số chính quyền và các cơ quan tình báo lại cáo buộc chúng tôi cung cấp vũ khí cho bọn này thông qua các nước Trung Đông. Nhưng tất cả đã lầm. Ai lại đi nối giáo cho giặc chứ? Chúng tôi có bằng chứng về chuyện này.
Brad lại xen vào:
- Thế là có kẻ chôm chỉa số vũ khí ấy à?
Mosolov đáp lại ngay:
- Hoàn toàn chính xác. Mùa xuân năm ngoái, trong cuộc kiểm tra đột xuất các kho vũ khí, một sĩ quan cao cấp của Hồng Quân đã phát hiện giữa con số thống kê về quân trang quân dụng thực tế chênh lệch rất lớn. Không ai có thể giải thích được số mất mát.
Nhổm người dậy, hắn đi tới một cái cặp táp, lấy ra tấm bản đồ to rồi trải trên tấm thảm ngay trước mặt của anh chàng. Đưa tay chỉ vào một điểm, giọng hắn có vẻ căng thẳng:
- Chính chỗ này. Gần Alakurtti, chúng tôi có một kho quân nhu rất lớn … Alakutti là vùng đất nằm cách biên giới Phần Lan khoảng sáu mươi cây số về hướng Đông, sát với Bắc Cực. nếu tính từ chỗ anh chàng tập huấn, nó cách Đông Bắc của Rovaniemie độ hai trăm cây số. Vâng, một vùng đất khô cằn sỏi đá, loe hoe vài cây thông. Vào mùa này trong năm, băng giá bao phủ từng mảng dày.
Rồi Mosolov tiếp tục:
- Mùa đông năm ngoái, nơi này lại bị tấn công. Dò theo mã số trên vũ khí của bọn NSAA, chúng tôi biết chúng đều có nguồn gốc từ Alakutti. Thế là anh chàng thắc mắc ngay:
- Thực tế mất những gì?
Thộn cái mặt ra, Mosolov đọc vanh vách:
- Kalashnikuv, RPK, AK, AKM, súng lục Makarov và Stechkin, lựu đạnRDG-5 và RG-42 … cùng một số lượng lớn đạn dược.
- Có thứ nào hoả lực mạnh hơn không?
Lắc đầu, Mosolov đáp lại:
- Không. Nhưng đã mất rất nhiều.
Hỏi là hỏi cho vui thế thôi, chớ ông M đã báo cho anh chàng biết rõ về vụ này. Tay Mosolov cố tình bỏ sót một số vũ khí quan trọng: loại RPG-7Vchống tăng cùng với rất nhiều đầu đạn hạt nhân chiến lược, vũ khí hoá học, tên lửa quy ước. Những thứ này thừa sức huỷ diệt cả một thị trấn với bán kính hơn năm mươi dặm.
- Toàn bộ số vũ khí này mất vào khoảng mùa đông năm ngoái. Tại căn cứ Blue Hare, chúng tôi chỉ có một trạm canh nhỏ. Viên đại tá được phái đi
điều tra ngay lập tức mật báo về cho GRU.
Khẽ gật đầu ra vẻ hiểu biết, James mỉm cười. GRU có nghĩa là CụcQuân báo Xô Viết, một cơ quan có mối quan hệ dây mơ rễ má với KGB. Dĩ nhiên, GRU phải đứng mũi chịu sào ba cái vụ này chứ sao. - Thế là GRU phái hai điều tra viên đi dò la tin tức.
- Họ hoàn thành nhiệm vụ?
- Vâng, họ tìm ra được bọn chủ chốt đường dây trộm cắp vũ khí đem ra chợ trời bán.
- Ông bạn biết chúng vận chuyển như thế nào?
Mỉm cười ra vẻ đắc chí, Mosolov đáp lại ngay:
- Không những thế, chúng tôi còn nắm được số hàng ấy được chuyển tới đâu. Vùng biên giới giữa Phần Lan và Nga. Vâng, một nơi thật khó kiểmsoát. Thiên hạ cứ qua lại nườm nượp mỗi ngày. Để thông thoáng, chúng tôi phải chặt bỏ cánh rừng dài mấy dặm.
Anh chàng bèn ướm lời, hỏi tiếp:
- Ông bạn không biết chính xác địa điểm tập kết?
Giọng của Mosolov có vẻ ngần ngại:
- Vâng, chỉ là chút phỏng đoán. Không chính xác lắm. Nhưng khôngsao, mấy cái vệ tinh của chúng tôi cứ quay vòng vòng ngoài kia cố dò theo dấu vết. Còn nhân viên của KGB và GRU đang mở to mắt lần theo mấ
điểm khả nghi. Thật ra, chúng tôi cũng chẳng rõ chúng cất giấu ở đâu. Quay sang hai người kia, anh chàng lặp lại câu hỏi:
- Chắc hai vị cũng không rõ?
Trầm tĩnh, Rivke đáp lại:
- Ông Mosolov nói thế nào, chúng tôi tôi biết thế đó. Đây là một chiếndịch dựa trên niềm tin, đúng không nào?
Còn Brad lững lờ nước đôi:
- Langley có báo cho tôi một cái tên nhưng không thấy ai nhắc tới. Anh chàng bèn hỏi Mosolov cái tên gì. Quái, hắn đột nhiên làm thinh. Hình như hắn muốn giấu nhẹm chuyện gì.
- Cũng không chắc chắn …
Cảm thấy bực, anh chàng định nói, Mosolov lập tức xía vô:
- Tuần rồi … vâng, trong tuần qua, chúng tôi đã moi ra được chút manh mối. Hai điều tra viên của GRU báo cáo thêm một chuyến hàng nữa bị đánh cắp và chuyển đi. Vì thế, chúng tôi không đủ thời gian để kiểm tra lại nguồn tin. Chúng ta phải cùng nhau tìm vật chứng, đường dây vận chuyển, theo dõi đến tận nơi cất giấu. Hẳn là mớ hàng này đã tới một khu vực mới của bọn NSAA.
Cười thật tươi, anh chàng nói huỵch toẹt:
- Tên ăn hàng có phải là bá tước Konrad Von Gloda?
Rivke làm thinh, không chút cảm xúc. Còn Brad cứ cười khúc khích: - Chà, Luân Đôn cũng khá quá chứ. Nắm tin chẳng khác gì Langley. Khẽ giựt mình, Rivke lên tiếng:
- Bá tước Von Gloda là ai? Kỳ vậy, sao chưa ai nói cho tôi nghe chuyện này?
Lấy hộp thuốc từ trong túi quần ra, rút một điếu, châm lửa rồi anh chàng rít một hơi.
- Cả Luân Đôn và CIA đều biết rõ tên chủ chốt của NSAA ở Phần Lachính là bá tước Konrad von Gloda. Đúng không nào, ông bạn người nga? Ánh mắt của Mosolov cứ mờ nhạt.
- Đó là một mật mã. Một biệt danh, đại loại là như thế. Cho tới bâygiờ, thông tin ấy không có căn cứ.
- Tại sao không? Ông bạn còn điều gì chưa tiện nói ra?
- Phải chi tôi có thể dẫn ông bạn tới sào huyệt của Konrad von Gloda ở Phần Lan. Cả nơi chúng tôi tiến hành kiểm tra tuần rồi ở căn cứ Blue Hare. Có tới Nga, ông bạn mới hiểu tại sao.
Thật tức cười! Một gã KGB muốn mới anh chàng bước vào mạng lưới chằng chịt với lý do mục kích hiện trường của vụ chôm chỉa. Phải thông qua chuyện này mới hoàn thành được chiến dịch Icebreaker? Hay Icebreaker chỉ là cái cớ dụ anh chàng ngay trên đất Nga?
Trước khi anh chàng rời khỏi Luân Đôn tới Madeira, chẳng phải ông Mđã từng nhắc nhở điều này?
Chương 6
CHIẾN ĐẤU VỚI ĐÁM XE ỦI TUYẾT
Sau một hồi bàn tới, tính lui, công việc chẳng có chút tiến triển. Bộ tứ của chiến dịch Icebreaker cùng hẹn gặp vào bữa ăn tối.
Riêng James cảm thấy khó xử. Đứng chung trận tuyến sao chẳng ai hợp rơ với ai. Ấy, cứ mãi như vầy chỉ e khó lòng phá án.
Hệt như lời nhận định của ông M trước lúc anh chàng lên đường: vấn đề có tính hai mặt khá nguy hiểm. Bốn tay tình báo nhà nghề chung vai, sát cánh nhưng hoàn toàn đối lập nhau.
Nếu như Brad chẳng lôi cái tên bá tước Konrad Von Gloda ra, liệu gã Mosolov có nhắc tới hay không? Konrad Von Gloda đúng là nhân vật nổi cộm của vụ án này. Còn nữa, hàng loạt vũ khí huỷ diệt bị chôm chỉa ở căn cứ Blue Hare, sao Mosolov chẳng thêm đá động tới? hay hắn sợ bẽ mặt? Một cường quốc vũ khí lại bị chính mớ vũ khí của mình làm cho điêu đứng. Chẳng khác nào cái chiêu “gậy ông đập lưng ông”.
Lạ thật, cô nàng Rivke không biết một chút gì. Mặt cứ đực ra khi bộ tứ xúm vào bàn phương án hành động. Một phần quan trọng của chiến dịch Icebreaker là phải lần cho ra manh mối của vụ chôm chỉa thứ hai vận chuyển qua biên giới của Nga.
Ậy, không một tín hiệu lạc quan ngay từ phút đầu tiên. Đầu chẳng xuôi, đuôi làm sao mà lọt đây? Còn Mosolov cứ nằng nặc trong vòng bốn mươi tám tiếng, phải rời khỏi đảo, thẳng hướng đến biên giới Phần Lan. Suy nghĩ mãi, cuối cùng anh chàng quyết định. Không được, trước khi họp mặt cùng với nhóm trong khí hậu khắc nghiệt ở vùng cực Bắc, mình phải thu xếp vài chuyện. Dĩ nhiên, họ đâu có muốn 007 phỗng tay trên, hớt hết công lao. Thế nào trong bữa ăn tối, Mosolov cũng đề nghị mọi người chia ra di chuyển riêng lẻ.
Vâng, sáng chủ nhật có vài chuyến bay rời khỏi Madeira. Anh chàng cần gì phải đợi lệnh của Mosolov chứ!
Trên đường trở về phòng, James đành phải từ chối lời mời của Rivke đi
làm vài “ve” ở quầy bar.
Mười lăm phút sau, anh chàng đã có mặt trên chiếc tắc xi lao nhanh về phía sân bay Funchal. Hôm ấy thứ Bảy, anh chàng lỡ mất chuyến bay lúc 3 giờ. Đành chịu vậy! Phải đợi đến chuyến cuối cùng trong ngày vào lúc 10 giờ đêm. Thứ Tư, thứ Sáu, thứ Bảy trong tuần, Funchal mới có lịch bay.
•
• •
Ễnh người trên chiếc ghế trong máy bay. Anh chàng chuẩn bị cho bước hành động kế tiếp.
Ba tay còn lại chắc sẽ tới Lisbon trong chuyến bay đầu tiên của ngày mai. Toàn mấy tay già đời, đầu chứa đầy sạn, cần gì phải lo chứ! Đi một mình thật thú vị, chẳng có ai phiền nhiễu. Thế là anh chàng đang trên đường tới Helsinki, bỏ xa cái bộ ba nằm chèo queo ở Madiera.
Ậy, vận may của James xem chừng mỏng manh. Thường thì không còn chuyến nào rời Lisbon sau chuyến bay cuối cùng từ Funchal. Nhưngngay từ chiều, dịch vụ KLM tới Amsterdam bị hoãn lại do Hoà Lan gặpthời tiết xấu. Cuối cùng James cũng tới được phi trường Schiphol ở Amsterdam vào lúc 4 giờ sáng.
Đón chiếc tắc xi, anh chàng tới ngay sân bay quốc tế Hilton, đặt mua một vé trên chuyến bay Finnair 846 đi Helsinki vào 5 giờ 30 tối.
•
• •
Chẳng bao lâu sau, trong phòng khách sạn, James kiểm tra lại hành lý. Ngay trong chiếc cặp táp được chế tạo đặc biệt có một ngăn bí mật chứa hai con dao găm Sykes Fairbain dành cho đám đặc nhiệm và khẩu súng tự động Hecler & Koch P7. Chính cô nàng Anne Reilly với biệt danh Q dễ thương, phụ tá đắc lực của tay trưởng phòng Q đã thiết kế ra ngăn kéo này. Chấp tất cả hệ thống dò tìm X quang tại các cửa khẩu sân bay, cái
màng che thừa sức cho tín hiệu âm tính.
Trước khi vào nhà tắm dội sơ mình mẩy, anh chàng gửi bức điện tín khẩn cho Erick Carlsson ở Rovaniemi đặt trước chiếc Saab. Nhấc phôn lên, anh chàng dặn nhà hàng đem bữa ăn vào lúc 11 giờ 15.
Ngả lưng trên chiếc giường, anh chàng đánh một giấc. Trong giấc mơ hình ảnh của Mosolov, Brad và Rivke cứ nhảy múa giễu cợt. Nhất là cái gã người Nga nheo nheo mắt chọc quê.
•
• •
Dùng xong bữa ăn, anh chàng bắt liên lạc với Luân Đôn. Với số phônnày, James có thể gặp trực tiếp ông M dù là sáng Chủ Nhật. Khi máy vừatiếp sóng, anh chàng báo cáo ngay:
- Thưa bác, cháu đã trao đổi với ba khách hàng. Vụ làm ăn xem chừng lý thú đấy. Nhưng cháu không tin thứ hàng hoá của họ.
- Họ bàn bạc cụ thể với cháu?
Chà, sao giọng ông M qua cái phôn lại trẻ trung quá vậy? - Không hề, thưa bác. Cái tên phương Đông cứ lượn lờ nước đôi. Hắnchẳng thèm đề cập tới vấn đề chính yếu chúng ta đã bàn. Còn tên ở Virginie biết tương tự như chúng ta. Sao cô nàng ở Abraham cứ mù tịt, mặt trơ ra như ngỗng đực.
- Thế à?
- Gã phương Đông định mời cháu tới xem nguồn hàng của chuyến cuối cùng. Nhưng hắn lại giấu giếm những chi tiết quan trong. - Thì bác đã báo trước rồi còn gì?
Thoáng trong giọng nói, vẻ hớn hở vang lên rõ mồn một.
- Tối nay, cháu đi lên mạn Bắc.
- Cháu có nắm được số liệu không?
Ngay sau đó, ông M báo cho anh chàng địa điểm tập kết.
- Mà này, cháu đi bằng máy bay?
- Cả đường bộ nữa. Cháu đã đặt trước một chiếc xe. Còn một việc nữa,
thưa bác.
- Chuyện gì?
- Bác có nhớ cô nàng gây chút phiền phức cho chúng ta?
- Có.
- Cả cô bạn gái có tên Anni Tudeer nữa?
Giọng ông M càu nhàu:
- Rồi sao?
- Cháu cần một tấm hình của ả để nhận dạng. Phòng khi cần dùng đến. - Bác chẳng hiểu. Có thể rắc rối đấy.
- Vâng, cháu biết. Nhưng chuyện khá hệ trọng.
Hình như ông ta không hài lòng:
- Để bác tính lại rồi báo sau.
- Nhớ gửi cho cháu nhé!
- Ừ … bác sẽ liên lạc sau.
Gác máy ngay lập tức, rồi anh chàng ngồi thừ ra.
Ông M có vẻ lưỡng lự. Hệt như trong cuộc họp ở Luân Đôn, khi nhắctới Rivke Ingber.
•
• •
Chuyến bay 846 trên chiếc Finnair DC-50 đi từ Amsterdam đềnHelsinki đang đáp xuống phi trường vào lúc 9 giờ 45. Nhìn xuống bên dưới phủ đầy tuyết trắng, anh chàng cứ băn khoăn.
Chẳng biết ba tay còn lại đã tới Phần Lan hay chưa? So với lần trước, tuyết rơi nhiều hơn. Hai bên lề của đường băng, chồng tuyết cao quá nóc chiếc Finnair DC-50.
Khi bước nhanh về phía toà nhà của sân ga, chợt anh chàng nhớ đến lần đụng độ trước đây.
Đón chiếc tắc xi tới khách sạn Hesperia đã chọn sẵn, anh chàng khoái thầm trong bụng. Bộ ba có tới đây chắc họ sẽ kiếm anh chàng ở khách sạn Inter- Continental.
Rời khỏi tắc xi, anh chàng cứ nhìn trước, ngó sau mãi một lúc rồi mới bước vào khách sạn. Thậm chí khi đứng trước mặt cô nàng tiếp tân hỏi về chiếc Saab Turbo, James cũng xoay về hướng dễ quan sát nhất. - Hẳn cô đã nhận được một chiếc xe hiệu Saab Turbo 900? Gửi tới theo tên James Bond?
Cau mày, mặt ả quạu đeo. Chừng như ả còn khối việc phải làm, hơi sức đâu mà đi kiểm tra xe cho mấy tay khách ngoại quốc kia chứ? Rồi anh chàng lấy một phòng, đưa tiền trước một đêm. Nếu chiếc Saab tới kịp lúc, anh chàng lên đường ngay lập tức. Từ Helsinki tới Rovaniemi, mất ít nhất cũng hai mươi bốn tiếng. Đường sá cũng không đến nỗi nào. Erick Carlsson đã báo cụ thể rồi còn gì.
Cố chờ cô ả mặt nhăn như khỉ ăn ớt, anh chàng dõi mắt ra phía ngoài. Vài phút sau, không thèm thốt ra một lời, ả tiếp tân vẫy vẫy chùm chìa khoá.
Ngả lưng xuống giường, anh chàng nằm nghỉ trưa. Một tiếng sau, nhổm người dậy, James chuẩn bị đồ đạc.
Mặc bộ đồ thể thao bên ngoài, tròng chiếc áo lạnh cổ cao, quần trượt tuyết bằng nỉ, mang đôi giày Muklul, anh chàng đeo túi da đựng khẩu Hecker &Koch P7 rồi khoác thêm bộ vest dày.
Sửa lại túi da cho nó nằm ngay ngực xong, anh chàng lấy khẩu H&K ra tháo ổ đạn, xoay nhiều lần rồi nạp đạn trở lại. Xem chừng mọi thứ đã ổn, anh chàng bắt máy phôn cho Paula Vacker.
Chuông đổ liên hồi nhưng không có ai trả lời. Buồn năm phút! Sắp lên đường rồi lại không có dị từ giã cô nàng, xem có ấm ức không chứ? Đội chiếc mũ len Damart, đeo cặp găng cách nhiệt, bỏ vào túi cặp kính, anh chàng quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Ăn mặc kiểu này mới chống chọi được cái lạnh dưới 0 độ suốt hai mươi bốn giờ trên chiếc Saab. Cuối cùng, nhấc phôn lên báo trả phòng, anh chàng đi một nước ra bãi đậu xe. Bước tới chiếc Saab Turbo 900, James kiểm tra các thiết bị. Vừaý, anh chàng mở cửa, ngồi xuống sau vô lăng. Chồm người qua mở cái ngăn bí mật, anh chàng thấy cả chồng bản đồ, mấy cặp ruột, một khẩu Ruger Super Redhwk 44 ly. Với khẩu này, James thừa sức quật ngả một
chiếc xe cố tính chặn đường. Còn thằng ma nào nhào ra xin tiền mãi lộ ấy à? Đồ bỏ!
Chưa hết, nhấn mạnh vào một cái nút trông bình thường trên bảng điều khiển, một ngăn kéo lồi ra để lộ sáu quả “lựu đạn đa năng” có hình quả trứng. Ngay phần duôi của mỗi quả “lựu đạn” là bốn quả bom nhỏ L2A2, có tầm sát thương rộng. Thứ vũ khí này là trang bị quy ước dànhcho Không Lực Hoàng Gia, bắt nguồn từ loại M26 của Hoa Kỳ.
Mở tiếp cái ngăn đựng găng tay, anh chàng thấy mấy cây compa cùng với bức thư của Erick.
Chúc cậu may mắn. Nhớ cái chiêu mình từng dạy cậu “nhấn chân trái” nhé! Erick.
Mỉm cười, chợt James mường tượng ra mấy giờ tập luyện với cái chiêu “nhấn chân trái” để đảo vòng, kiểm soát chiếc Saab trên lớp băng dày.
Bước vòng quanh, anh chàng đưa tay sờ thử mấy bánh xe. Khoảng một ngàn cây số đường trường mới tới được Salla giữa mùa đông chẳng phải là chuyến đi thú vị.
Vâng, trước khi khởi hành, anh chàng còn chút chuyện riêng tư phải làm. Nổ máy, cho chiếc Saab hướng ra đường cái, James quẹo xuống Mannerheimintie, xuôi về phía công viên Esplanade. Vẫn còn đó những bức tượng tuyết nằm ngổn ngang. Cặp “trai gái ôm nhau” cứ sừng sững ra đó.
Khóa chiếc xe lại, anh chàng nghe văng vẳng trong màn sương, từ phía xa của thành phố, tiếng rên rỉ của con thú bị thương.
Cánh cửa của Paula vẫn khép chặt nhưng James linh cảm có một điều gì đó. Vâng, cái giác quan thứ sáu được trui rèn qua lửa đạn chưa bao giờ nhầm lẫn. Tháo hai nút của chiếc áo ngực, anh chàng rút khẩu H&K rồi dùng mũi giày Mukluk đạp mạnh cửa.
Chỉ trong tích tắc, cánh cửa bung ra, đong đưa quanh bản lề. Quái, cả cái khoá và sợi dây xích cũng bị rời ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, một cuộc đột nhập bạo lực từng xảy ra ở chỗ này.
Nép sang một bên, nín thở, anh chàng nghe ngóng.
Không chút động tĩnh trong căn hộ của Paula. Mấy dãy phòng gần đấycũng thế.
Từng bước rồi từng bước, anh chàng nhẹ nhàng nhích người vào trong. Ái chà, cả một đống hỗn độn. Đồ đạc liệng khắp nơi.
Chĩa thẳng khẩu P7, anh chàng nhón từng bước chân vào phòng ngủ. Hệt như ngoài kia, tất cả bị xóc tung lên. mấy ngăn kéo bị nạy bằng dao, nằm lăn lóc trên sàn.
Từ trước tới sau, từ trong ra ngoài lại không thấy bóng dáng của Paula. Chẳng lẽ cô nàng bị bắt cóc? Hay chỉ là một vụ trộm? Nhà cô ta cógì quý giá kia chứ?
Kiểm tra các căn phòng lần nữa, James thấy có vài điểm nghi vấn. Ngay từ lúc bước vào, đèn đuốc vẫn còn để sáng trưng.
Rồi trên bàn trang điểm trống trải khi số kem trang điểm bị gạt sạch xuống sàn, hình như có một vật gì. Cẩn thận, anh chàng nhặt nó lên, quan sát, để lên tay ướm thử nặng nhẹ.
Ồ, không ngờ. Một chiếc mề đay hình chữ thập của giới quý tộc Đức với hai màu trắng đen và chiếc nơ đỏ trên nền mấy chiếc lá sồi cùng với hai thanh gươm bắt chéo nhau.
Vâng, đây là một huy hiệu cao quý của chế độ hoang tưởng, ngu xuẩn từng làm mưa, làm gió trên vũ đái chính trị thế giới. Ở mặt sau, hiện lên một hàng chữ được chạm khắc tinh vi: SĨ QUAN TÌNH BÁO CAO CẤP SAARNE TUDEER 1944.
Bỏ chiếc mề đay vào túi, anh chàng định bước ra ngoài. Hình như chân của James đá phải vật gì đó bằng kim loại.
Cúi sát người xuống, đưa tay mò mẫm một lúc, anh chàng nhìn thấy chút ánh sáng mờ nhạt nằm sát chân bàn. Lại một tấm huy hiệu khác cũng của Đức, bằng đồng sẫm màu với hình con đại bàng và tấm bản đồ của vùng đất Cực Bắc giữa Nga-Phần Lan. Dòng chữ LAPPLAND 1943 hiện ra
rìa ngoài cùng.
Cho vào túi, anh chàng rảo bước về phía của cái. Dù đồ đạc ngổn ngang nhưng James không thấy một vết máu vương vãi.
Cứ lo thầm trong bụng, chẳng biết Paula giờ ra sao nữa?
Mở cửa xe, bật công tắc, James nổ máy rời khỏi công viên Esplanade, hướng ngược lên Manneerheimintie, rẽ vào xa lộ cao tốc số 5. Lao nhanh qua các thành phố Lahti, Mikkeli, Varkaus, tiến sâu vào vùng đất Lappand, Bắc Cực, Kuusamo, Salla rồi dừng lại ở khách sạn Revontuli, nơi hẹn gặpvới bộ ba trong chiến dịch Icebreaker.
Lúc rời khỏi căn hộ 3A, trời trở lạnh. Cả Helsinki như chìm trong cơnmưa tuyết. Ra tới đường trường, anh chàng chỉ tập trung vào hướng đi trước mặt. Sau hai lần ngừng lại đổ xăng và dùng chút lót dạ, khoảng 4 giờ chiều, anh chàng chỉ còn cách Suomussalmi bốn mươi cây số. Vài giờ nữa là tới vùng biên giới của Phần Lan và Nga, ở vùng cực Bắc.
Thỉnh thoảng, chiếc Saab vượt qua những khoảng đường trải thẳng phủ đầy băng. Dọc đường, hiện ra những cộng đồng dân cư nhỏ với cuộc sống hàng ngày, đèn đuốc sáng trưng ở các cửa hiệu. Rồi những dáng người lóng ngóng, vụng về bước đi trên vỉa hè, đám phụ nữ kéo theo mấy chiếc xe trượt tuyết nhỏ bằng nhựa chở hàng tạp phẩm mua ở các siêu thị nhỏ trong vùng.
Ra vùng ngoại ô, dường như chẳng còn gì khác ngoài hàng cây phủ đầy tuyết nối tiếp nhau chừng như vô tận. Lắm lúc, vài chiếc xe tải chở đầy gỗ, dăm ba chiếc ô tô lái theo hướng ngược lại.
Cơn mệt mỏi cứ chập chờn như ẩn, như hiện khắp người anh chàng. Thỉnh thoảng, James tấp xe vào lề, mở cửa cho không khí lạnh ùa vào, ngồi nghỉ vài phút. Đôi khi, anh chàng phải bóc mấy viên kẹo ngậm cho đỡ buồn ngủ.
Cũng may, chiếc ghế trên chiếc Saab thật dễ chịu có thể xoay trợ dễ dàng, làm giảm bớt căng thẳng khi tập trung lái.
Sau mười bảy giờ chạy, James thấy mình còn cách khoảng ba chục cây số với giao lộ giữa xa lộ số 5 và ngã rẽ dân tới vùng cực Đông, con đường chạy trực tiếp về theo trục Đông-Tây giữa Rovaniemi và vùng biên giới của Salla. Ngã rẽ chỉ cách một trăm năm mươi cây số về hướng Đông của Rovaniemi và bốn mươi cây về hướng Tây của Salla.
Thấp thoáng trong ánh đèn pha, cảnh vật trông thật buồn chán. Từng đụn tuyết to hai bên lề cho khuất đường chân trời. Rời những cánh rừng
dày rặt một màu trắng xoá, đột nhiên chuyển thành nâu, lốm đốm vài ba chỗ xanh xanh.
Thỉnh thoảng, hiện ra vài túp lều làm bằng cột gỗ và da thú gọi là kota của người Lapp. Hệt như mấy chiếc lều của dân da đỏ Bắc Mỹ. Đây đó vài căn nhà bằng gỗ xiêu vẹo, đổ nát.
Cố thả lỏng người, anh chàng điều chỉnh vô lăng cho đúng hướng, tinh thần vẫn tập trung cao độ.
Giờ đây, anh ta đang lái chiếc xe bon bon trên một khoảng đường trải rộng. Chung quanh chẳng có gì ngoài ngã rẽ cách chừng mười cây số trước mặt. Hình như có vật gì phía trước?
Bật nút đèn pha xuống rồi bật lên trở lại, anh chàng muốn nhìn thấy rõ phía trước.
Trong vùng sáng lấp lánh, bóng dáng của một chiếc xe ủi tuyết màu vàng xuất hiện. Đèn trước của nó đang bật sáng. Còn cái càng xúc to như tàu chiến.
Không phải là chiếc xe thổi tuyết hiện đại nhưng nó lá một con quái vật khổng lồ. Thoáng trông, anh chàng cảm thấy chột dạ. Loại xe ủi tuyết người ta dùng chủ yếu ở vùng đất này thường thân xe cao với một cái cabin nhỏ bằng kính dày nằm trên cùng. Thân xe di chuyển trên sợi xích to giống như mấy chiếc xe tăng tự vận hành trong khi cái càng xúc nằm ngay phía trước được vận hành nhờ vào chuỗi pit tông thuỷ lực có thể thay đổi góc độ và chiều cao trong vòng vài giây. Còn mấy cái lưỡi cày nữa, chúng hình vòng cung, bằng thép, cao khoảng bốn thước rưỡi, cuộn tròn từ phía mép cắt để cho tuyết và băng có thể đẩy về mỗi phía. Dù có hơi cồng kềnh, nhưng mấy cái xe này hoạt động chẳng khác nào những chiếc xe tăng. Mùa đông có khắc nghiệt tới đâu, chúng vẫn có thể chạy ào ào trên tuyết.
Ấy, trong cuộc chiến với băng giá, từ lâu người Phần Lan đã chiếm lĩnh ưu thế trên trục lộ giao thông. Lúc nào cũng vậy, đằng sau chúng thường là mấy xe thổi tuyết để làm sạch con đường vừa mới nạo vét. Với lại chúng có mặt ở đâu, bão tuyết hẳn đã quét qua nơi ấy, chặn hết lối đi.
Nhìn vào kính chiếu hậu, anh chàng thấy đằng sau lưng sáng trưng. Vâng, một chiếc xe xúc khác hiện ra, Hình như ngay cua quẹo anh chàng
vừa mới vượt qua ban nãy.
Đột nhiên, chiếc trước mặt đang từ từ lấn chiếm phần chính giữa con đường. Chiếc đằng sau cũng vậy. Bọn chúng muốn gì đây? Định ép mình ư?
Ngay lập tức, quay hết vô lăng về phải, anh chàng đạp mạnh chân trái lên cái thắng.
Chiếc Saab soay một vòng điệu nghệ. Chiếc xe đằng sau dường như sát hơn. Liệu mình có vượt qua trước khi bọn này tiến gần?
Không được rồi! Hai chiếc trước sau đều tăng tốc dần. Nếu không tới ngã rẽ kịp lúc, nghĩa là chẳng còn con đường nào thoát. Không đụng phải chúng, anh chàng sẽ cùng chiếc Saab bị chôn sâu vào tuyết, hết đường cục cựa. Cũng dám bọn chúng kẹp sát hai đầu, rồi dùng mấy cái càng to tướng đè bẹp mình ra.
Chẳng chút chần chừ, thả lỏng một tay ra khỏi vô lăng, anh chàng bấmvào hai nút trên bảng điều khiển.
Xè xè xè xè …
Một tiếng động nho nhỏ vang lên khi hệ thống thuỷ lực để lộ hai khoang bí mật. Giờ đây những quả lựu đạn và khẩu Ruger Super Redhawk hiện ratrong tầm với.
Chỉ còn chút líu nữa là tới ngã rẽ phía trước. Màu vàng của chiếc xe xúc đằng trước cứ như trêu, như ghẹo anh chàng. Vâng chỉ còn khoảng hai mươi thước. Già vờ quẹo phải, anh chàng thấy chiếc xe xúc chạy rầm rầmtới định cắt
chiếc Saab. Quay tiếp vô lăng về phía phải, anh chàng đạp mạnh lên cái thắng, tăng tốc độ vòng quay, giậm chân ga.
Hệt như diễn viên múa ba lê, chiếc Saab xoay tròn.
Bỏ thắng và chân ga cùng một lúc ngay khi chiếc xe đang quay, James trả vô lăng và tăng tốc từ từ. Chiếc Saab giờ nằm dọc theo hướng đối diện với con đường.
Điều chỉnh … Trượt.
Điều chỉnh … Chân ga đạp mạnh …
Ngay lúc này lưỡi cày của một chiếc đang ở bên phải của anh chàng.
Chộp lấy quả lựu đạn, dùng răng rút chốt quả L2A2, đẩy nhanh cửa hông, anh chàng ném về phía sau.
Ồ, đuôi chiếc Saab xước phải cái lưỡi thép bén ngót của chiếc xe xúc. Cũng còn may, không giữ chặt vô lăng, cú va chạm có thể ném anh chàng ra khỏi đường chạy, lăn nhào trong đống tuyết cao bên đường. Rồi chiếc Saab lấy lại thăng bằng.
BÙUUUUUNG …
Quả L2A2 nổ giòn giã.
Quá đã! Một bông hoa đỏ bốc cao hất tung một chiếc xe xúc. Vâng, một chiếc bị loại khỏi vòng chiến nhưng nguy hiểm vẫn còn theo sát. Giờ chẳng còn chỗ nào để núp. Không nơi nào để chạy. Đành phải liều mạng với bọn chết bầm này thôi!
Một chiếc khác tiếp tục đuổi theo ngay khi con đường thông thoáng. Rồi ngay phía trước, chiếc thứ ba xuất hiện. Tuyết tràn ra đầy càng xúc của nó. Chẳng lẽ cả một đoàn xe xúc tính chơi lén mình?
Không còn thì giờ suy nghĩ, chộp lấy khẩu Redhawk, bỏ đại vào túi hai quả L2A2, tông cửa, anh chàng phóng ra ngoài. Rút chốt một quả lựu đạn, James quăng về chiếc xe xúc đang tiến lại gần.
Dồn sức vào đôi chân, anh chàng phóng người vào đụn tuyết cao bên trái. Tuyết mềm mịn như bột làm anh chàng chìm ngang thắt lưng. BÙUUUUUNG …
Cú nổ quật ngã tiếp một con quái thú màu vàng bằng sắt. Thật tuyệt! Một chiếc khác tiến lại gần hơn với hai tên đang ngồi trên cabin. Lưỡi cày của nó quơ quơ định cắt “Con Thú Bạc” làm đôi.
Tay trái vẫn nắm chặt lấy quả lựu đạn, tay phải nâng cao, James nã dạn. Cắc cắc bùng Cắc cắc bung Cắc cắc bùng …
Loạt thứ hai làm vỡ toang phần kính cabin của chiếc xe xúc. James lại nhắm cao hơn. Anh chàng nào muốn giết người nhưng tới đường cùng, biết làm thế nào bây giờ?
Cửa xe mở ra, một tên bắt đầu leo xuống. Chuyển khẩu Redhawk sangtay trái, tay phải của anh chàng với quả lựu đạn. Rút chốt, nhón chân, James rót quả L2A2 theo hình cầu vồng về phía cửa kính bị vỡ. Lao vút
trong không trung, quả lựu đạn rơi thẳng vào cabin.
BÙUUUUUNG …
Ánh lửa loé sáng cùng với tiếng rống khủng khiếp vang lên. AAAAAAHH …
Một phút sau đó, giơ cây súng cao lên, James cuộn người lăn khỏi đụn tuyết rối lao nhanh về chiếc xe xúc.
Tên cố nhảy ra ngoài ban nãy giờ nằm bất tĩnh. Trên ghế tài xế, một tên khác đưa hai tay che lấy mặt, lắc người như điên dại. Nhấc người lên cabin, dùng cái báng súng, anh chàng đập mạnh vào gáy của hắn. Bụp …
Quặt người đi, gã té úp xuống sàn. Kéo cái xác xuống, anh chàng lôi về một phía. Máy của chiếc xe xúc đang chạy không tải.
Trở lại cabin, James gạt cần số, rồ ga, đưa chiếc xe ra khỏi đường. Tắt máy, giật lấy chìa khoá rồi ném qua đụn tuyết gần đó, trở lại chiếc Saab, anh chàng mở máy sấy khô, trả khẩu Redhawk và mấy quả lựu đạn vào ngăn, nhấn ga, vọt lẹ về hướng Salla.
Vâng, mất đúng ba tiếng chạy ngoằn ngoèo, vòng tới vòng lui trước, lúc 12 giờ 10, James cuối cùng cũng nhìn thấy ánh đèn chói loà của khách sạn Revontuli. Sau cua quẹo phải, James đậu xe lại.
Mở hệ thống định vị, vặn thiết bị khoá, bỏ cặp kính vào đúng chỗ, choàng khăn quàng cổ qua mặt, lấy cái cặp táp, túi xách đựng quần áo, anh chàng đẩy cửa bước ra ngoài. Ngay phòng chờ to với quầy bar, người ta cười cười, nói nói rôm rã.
Lững thững về phía quầy tiếp tân, bỗng anh chàng nghe một giọng quen thuộc chào:
- Chào James. Cậu tới đây bằng gì vậy? Trượt tuyết à?
Tưởng ai, hoá ra cái gã CIA, Brad Tirpitz.
Gật đầu, gỡ mắt kính, tháo cái khăn quàng cổ ra, anh chàng đáp lại thản nhiên:
- Hình như thế đấy!
Bước tới quầy tiếp tân làm thủ tục nhận phòng, anh chàng đảo mắt nhìn quanh. Còn hai người nữa trong bộ tứ đầu thừa, đuôi thẹo đâu, chẳng
thấy? Mệt quá, anh chàng cần nghỉ ngơi. Chuyện gì cứ để sang mai hãy tính.
Vừa hướng về phía thang máy, James nghe cô gái trực ở bàn tiếp tân báo có một bưu phẩm khẩn cấp gửi qua đường máy bay.
Khi gã hầu phòng mang hành lý bước khỏi cửa, anh chàng mở phong bì ra. Bên trong là một tấm giấy nhỏ chính tay ông M viết với một bức hình. Một bức duy nhất về đối tượng. Xem xong huỷ nó ngay.
Ngồi xuống giường và cầm tấm ảnh lên, bất chợt đôi mắt của anh chàng hoa lên. Cơ bắp như săn cứng lại. Không thể ngờ nổi!
Anni Tudeer, bạn của Paula, con gái của tay sĩ quan SS người Phần Lannằm trong danh sách truy nã vì tội phạm chiến tranh lại chính là Rivke Ingber, đồng sự của anh chàng.
Sau vài phút ngẩn người ra, anh chàng lẳng lặng thò tay lấy cái hộp quẹt to trên bàn, rút một diêm, quẹt rồi đốt ngay cả tờ giấy và bức hình.
Chương 7
CÔ NÀNG RIVKE
Đã nhiều năm qua, dù có căng thẳng tới đâu, James vẫn có thói quen chợp mắt là ngủ ngay. Nhét tất cả mấy thứ hóc búa vào trong đầu rồi cứ mặc cho tiềm thức làm việc. Chừng thức dậy, lắm lúc còn nghĩ ra được vài độc chiêu nữa là.
Sau “chuyến đi dài quá cỡ thợ mộc” từ Helsinki tới đây, cơ bắp mệt mỏi, đầu nhức như búa bổ, người chẳng còn chút sinh lực. Chuyện gì ấy à, thôi để sáng mai rồi tính.
Chợt căn hộ 3A bừa bãi còn hơn đống rác thoáng hiện trước mặt James. Quái, không tìm thấy dấu vết của Paula? Cô nàng giờ thế nào rồi?Còn cái vụ tấn công trên đường nữa. Thật là khó nghĩ! Mình im lìm rời khỏi Madeira ngay trong đêm, bước thấp, bước cao mua một vé từ Amsterdam tới Helsinki. Sao bọn chúng biết được? Không lẽ chúng canhme mình ngay ở sân bay? Rồi âm thầm bám cho tới tận Salla?
Một sự thật hiển nhiên thoáng nhìn cũng biết. Một đám núp trong bóng tối cố tình loại 007 ra khỏi cuộc chơi, hệt như trận đấu dao lén lút lần trước.
Clifford cứ một mực nghi ngờ Mosolov. Nhưng James không nghĩ thế. Chính cô ả Rivke Ingber, con gái của tên trùm SS Aarne Tudder mới là kẻ đáng nghi.
Tắm rửa xong, bước sang phòng ngủ, anh chàng đặt lưng xuống giường. Hơi xót ruột nhưng mặc kệ. Nhịn chút xíu sáng mai ăn bù cũng không sao. Ấy, vừa mới thiếp đi chưa đầy năm phút, anh chàng nghe có tiếng động nhỏ. Mở to đôi mắt, tai của James lắng nghe tiếng cào nhẹ trên cánh cửa. Nhẹ nhàng, rút ngay khẩu P7 đặt dưới gối, anh chàng bước nhanh qua căn phòng.
Nép người về phía trái, lưng tựa sát vào tường, James lên tiếng: - Ai đấy?
- Anh James, Rivke đây nè. Em muốn nói chuyện với anh. Cho em vào với.
Thế là rõ rồi. Nếu Rivke là con gái của Aarne Tudeer, hẳn cô ả là thành viên của cái gọi là Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã. Có lẽ trọn quãng đờitrưởng thành của cô ả gắn liền với cuộc đào tẩu của lão ta. Ba mươi nămtrốn chui, trốn nhủi, tận cùng trời cuối đất. Giấu kín thân phận, ả trà trộn vào hàng ngủ tình báo của Mossad, làm gián điệp nhị trùng. Gớm, một con ả theo chủ nghĩa Phát Xít Mới đang quậy tưng đất nước Xô Viết lên. Hìnhnhư đánh hơi biết Luân Đôn tìm ra chân tướng, ả định giở trò thương lượng.
Còn hai gã CIA và KGB cứ như ngỗng đực. Sống sát bên kẻ địch mà ctưởng là chiến hữu. Nghe tiếng đồn đã lâu, giờ đụng chuyện mới biết. Phát chán! Sao cái bộ ba của chiến dịch Icebreaker toàn thứ đầu thừa, đuôi thẹo. Kiểu này đếm đầu người cho đông để báo thành tích, chứ phá án gì nổi.
Liếc nhanh vào chiếc Rolex trên tay, anh chàng thấy đã 4 giờ 30 sáng. Ả Rivke mặt mày kháu quá sao lại chọn nhầm thời điểm. Vào giờ này, sức đâu mà ngồi tâm với sự?
- Chờ chút.
Vừa nói xong, anh chàng bước vào bên trong khoác chiếc áo ngủ vào rồi đặt khẩu H&K xuống dưới gối.
Chừng cánh cửa mở ra, Rivke bước vào bên trong với thân hình kiều diễm cứ lồ lộ sau lớp áo ngủ mỏng tang. Ăn mặc kiểu này chắc cô ả không thể giấu súng.
Chà, cô ả định chơi cái màn mỹ nhân kế hay sao ấy? Từng đường cong tuyệt mỹ trên nước da sạm nắng như ẩn, như hiện. mái tóc vàng óng ả phủ dài qua bờ vai tròn lẳng. Nhưng thoáng trong ánh mắt, có đôi chút sợ sệt. Chờ cho cô nàng bước hẳn vào bên trong, James đưa tay khoá trái cửa. Với giọng trầm tĩnh, anh chàng hỏi nhỏ:
- Cô tới đây hồi nào thế? Tôi chẳng biết gì.
- Em có thể ngồi xuống? Em rất tiếc ..
Chỉ ngay một cái ghế, anh chàng tỉnh bơ:
- Cứ tự nhiên đi. Cô muốn uống gì không?
Khẽ lắc đầu, cô ả nhìn khắp phòng, ánh mắt lạc hẳn đi:
- Thật là ngu xuẩn …
- Cô định kể chuyện gì?
Gật đầu, cô nàng tiếp tục:
- Này anh James, đối với đàn ông em lúc nào cũng tế nhị. Nhưng mà cái tay Brad …
Im lặng vài phút rồi cô ả như gào lên:
- Hình như em đã lầm. Lẽ ra em phải thật bình tĩnh mới phải. Nhưng … - Cô không thể chiều chuộng Brad a?
Mỉm cười chua chát trước câu nói mỉa mai của anh chàng, cô nàng nói tiếp:
- Hắn chẳng biết chút gì về phụ nữ.
Rồi gương mặt đanh lại, nụ cười tắt nửa chừng:
- Hắn làm em quá thất vọng. Hắn định dùng bạo lực đột nhập vào phòng của em. Người đầy mùi rượu.
- Sao cô không đá hắn một cái?
- Hắn khiếp lắm, anh James à.
Bước tới cái bàn sát bên giường, anh chàng lấy hộp thuốc lá, mời Rivke một điếu.
Rít một hơi thật sâu, cô ả phà ra làn khói nghi ngút. Ngồi xuống mép giường đối diện, anh chàng nhìn thẳng vào gương mặt Rivke cố tìm chút sự thật.
- Chà, Brad vậy mà mất nết gớm?
Đột nhiên, giọng của Rivke căng thẳng.
- Em biết chớ … nhưng em không thể ở trong phòng một mình … Chắc anh cũng chẳng ngờ phải không James?
- Này Rivke cô là một điệp viên chuyên nghiệp mà. Nào phải típ mấy ả tiểu thư khoái đàn ông chiều chuộng đâu chứ?
Rivke đứng dậy. Trong giây phút, cơn giận dữ trên gương mặt cô ả bỗng hoá thành vẻ bối rối.
- Xin lỗi đã làm phiền anh … Em chỉ muốn tìm người tâm sự. Còn hai cái gã kia, đồng đội quái gì kia chứ?
Đặt một tay lên vai Rivke, anh chàng khẽ đẫy cô ả ngồi xuống.
- Bình tĩnh nào, cô em. Đừng tưởng tôi là một tên khùng chẳng biết gì. Cô thừa sức xử lý Brad mà, đúng không? Dù hắn có tỉnh hay say cũng vậy. Chỉ cần liếc mắt một cái …
Chớp chớp mắt, Rivke đáp lại, giọng thì thầm:
- Không hẳn thế đâu, anh James.
Ôi, cái mánh khoé cũ rích nơi vườn địa đàng, mấy ngàn năm trước Eva từng dụ dỗ Adam. Giờ cô ả định diễn lại hay sao ấy?
Ngay giữa đêm khuya, một cô nàng xinh đẹp hớt ha, hớt hải gõ cửa phòng bạn, nhờ ra tay cứu giúp, dù cô ta thừa sức tự bảo vệ mình. Chuyện cứ y như đùa. Mới nghe qua ai cũng cười ồ. Không biết cô ả nghĩ sao về 007 chứ? Một tên háo sắc ư? Thấy gái là quên hết mọi chuyện?
Rít một hơi thật sâu rồi anh chàng phà ra. Lẫn trong làn khói bốc cao, nét mặt của anh chàng lộ vẻ đăm chiêu. Chưa tìm, tự dưng cô ả dẫn xác tới đây. Nếu thế, mình cũng nên giở lá bài tẩy.
- Này Rivke, cách đây hai tuần gì đó, cô đã làm gì khi Paula báo cho cô biết tôi ở Helsinki?
Ánh mắt bối rối, giọng cô ả như lạc hẳn:
- Paula? Em không hiểu, anh James.
Chồm người qua, anh chàng nắm lấy tay cô ả:
- Này Rivke, đừng tưởng tôi không rõ chuyện của cô đấy nhé. Đối dịchvới nhau, thật tình tôi chẳng muốn.
Khẽ cau mày, cô ả đáp lại ngay:
- Dĩ nhiên, em là Rivke Ingber, một công dân của Israel, nhân viêncủa Mossad.
- Cô không biết Paula Vacker?
Không chút ngập ngừng, cô ả đáp lại:
- Vâng, em từng gặp cô ta. Em biết cô ta khá lâu. Nhưng cũng ba bốn nămgì đó, bọn em chưa gặp lại …
Giọng của anh chàng chợt thoáng vẻ khinh khỉnh:
- Dạo gần đây hai người không liên lạc với nhau? Không cùng làm việc với cô ta ở Helsinki? Chẳng có hẹn ăn tối trước khi cô tới Madeira nhưngPaula bận việc chẳng đến được?
- Không hề.
- Thậm chí cái tên Anni Tudeer cũng không?
Hít một hơi thật sâu, Rivke im lặng. Gương mặt bẽn lẽn, cô ả đáp lại: - Em đã muốn quên cái tên ấy từ lâu …
- Thế ư?
Rồi cô ả chìa tay về phía anh chàng.
- Này anh James, cho em xin điếu thuốc. Rít thật sâu, Rivke nhả khói từ từqua khoé miệng. Giọng lạnh lùng nhưng không thiếu vẻ thân thiện, gợi cảm. - Hình như chuyện gì anh cũng biết. Tới nước này, em đành khai thiệt vậy. Nhún vai, anh chàng cứ nói ỡm ờ:
- Khi đến căn hộ của Paula ở Helsinki, tôi đụng phải hai thằng sát thủchơi dao đang uy hiếp cô ấy.
- Đã lâu rồi bọn em chưa nói chuyện với nhau. Ngoài cái tên Anni Tudeer, con gái của một cựu sĩ quan SS, anh còn biết gì nữa? - Không nhiều lắm.
Khẽ gật đầu, gương mặt ả căng thẳng.
- Vâng, thế em sẽ kể cho anh nghe câu chuyện của đời em. Sau đó, chúng ta cùng tình xem việc gì đã xảy đến cho Paula. Chính em cũng muốn biết tại sao Paula lại dính vào vụ này.
- Căn hộ của Paula đã bị xóc tung lên. Trước khi rời khỏi Helsinki vào ngày hôm qua, tôi có đến đó. Mà còn một chuyện nữa, trên đường tới đây, tôi lại chạm trán với ba, bốn chiếc xe xúc tuyết. Bọn chúng tính cắt chiếc Saab và tôi thành từng lát mỏng. Có thằng ma nào đó chẳng thích tôi có mặt ở đây. Thế tôi gọi cô là gì nào? Anni Tudeer hay là Rivke Ingber?
Cau mày, cô ả đáp lại:
- Bố tôi là Aarne Tudeer. Anh biết ông ta chứ?
- Vâng, lão ấy là nhân viên của Manneerheimintie rồi trở thành sĩ quan SS. Độc ác, hung tợn, mất nhân tính, tên tội phạm chiến tranh đang bị truynã.
Gật đầu, giọng cô ả thì thầm:
- Những chuyện trước đó, em không hề biết, mãi cho đến năm mười hai tuổi … Như anh biết đó, vào lúc ấy vẫn còn nhiều người trung thành với
Đức Quốc xã. Khi rời khỏi Phần Lan cùng với một số chiến hữu, bố emmang theo một thiếu phụ goá bụa, chủ nhân của khu đất rộng bao gồm nhiều cánh rừng ở Lappland. Đấy là mẹ em. Bà ta tin tưởng, tôn thờ bố em. Bà tacòn cảm thấy rất vinh dự nữa là …
Rivke lắc lắc đầu như thể không lý giải nổi hành động cuồng tín của mẹ cô. - Rồi hai người kết hôn. Bà ta luôn bên cạnh ông ấy cho tới khi Đệ Tam Quốc xã bị sụp đổ. Rồi họ cùng nhau tẩu thoát đến Paraguay. Dĩ nhiên, em chẳng rõ điều gì cho tới khi em có thể nói được bốn thứ tiếng: Phần Lan, Tây Ban Nha, Anh và Đức. Gia đình em sống ở một khu đấtrong rừng. Nơi ấy hoàn toàn thoải mái nhưng bố em cứ luôn nhớ về quá khứ.
Từng chút, rồi từng chút một, hình ảnh một lão già chuyên quyền, độc đoán, nghiện rượu, hung dữ, tàn bạo hiện trước mắt của anh chàng. - Lúc em lên mười, mẹ em cùng em bỏ trốn khỏi nơi ấy. Giả dạng thành những thổ dân da đỏ, hai mẹ con em bơi xuồng vượt qua cánh rừng đến Asunción. Khi đó, mẹ em rất đau buồn. Không biết bằng cách nào, mẹ em cũng xoay xở được hộ chiếu Thụy Điển. Mua vé máy bay, hai mẹ con em tới ở Stockholm sáu tháng. Rồi mỗi ngày, mẹ em cứ đến đại sứ quán Phần Lan cố xin cho được hộ chiếu Phần Lan. Cuối cùng hai mẹ con emcũng đến Helsinki. Sống bằng tiền bồi hoàn gia sản ở Lappland, mẹ emlàm thủ tục ly dị.
Còn em bắt đầu tới trường học. Ở đấy em quen được Paula. Chẳng bao lâu sau, chúng em trở thành bạn thân. Chỉ có thế.
Khẽ cau mày, anh chàng nhắc lại:
- Chỉ có thế?
- Phần còn lại cũng chẳng có gì. Ấy, vào năm mười bốn tuổi, em mới rõ mọi chuyện về bố em. Thật đáng ghê tởm. Bán rẻ tổ quốc rồi biến thành tay sai cho Phát xít Đức. Vâng, nỗi ám ảnh ấy cứ xâm chiếm tâm hồn em. Nămmười lăm tuổi, em biết nên làm điều gì.
Có thể câu chuyện của cô ả có đôi chút sự thật. Nhưng chi tiết lại không nhiều, có phần mơ hồ. Cái nghề tình báo chuyên nghiệp khiến cô ả biết lựa lời mà nói.
- Rồi cô định trả thù?
- Đại loại là như thế. Nhưng không thể nói như vậy. Thật ra, bố em chẳng có dính dáng gì với quyết định cuối cùng của Himmler về vần đề người Do Thái, dù ông ta bị liệt vào sáu tội diệt chủng. Em muốn tìm hiểu dân tộc từng mất sáu triệu người trong phòng hơi độc và trại tập trung. Mọi người cứ bảo em quá khích. Không hề, em muốn tìm ra sự thật.
- Rồi cô trở thành dân Do Thái.
- Vừa tròn hai mươi, em có mặt ở Israel. Hai năm sau đó, mẹ em qua đời. Hôm rời khỏi Helsinki cũng là lần cuối cùng hai mẹ con gặp nhau. Trong vòng sáu tháng, em bắt đầu chuyển hướng. Giờ đây em đúng là một người Do Thái rặt từ tư tưởng cho tới phong cách. Khi em muốn tham gia vào quân đội, người ta cứ lần lữa từ chối. Nhưng cuối cùng, họ đành chấp nhận.
Nở nụ cười đầy vẻ tự hào, Rivke nói tiếp:
- Đích thân Zamir phỏng vấn em. Em không ngờ đấy. Em lại được tiếp xúc với đại tá Zwicka Zamir, Cục trưởng Cục tình báo Mossad. Rồi ông ta sắpxếp cho em tham gia vào đợt tập huấn đặc biệt vì quốc gia Israel. Em có một cái tên mới…
- Còn cái vụ trả thù, Rivke?
Đôi mắt cô ta tròn xoe, gương mặt nhăn nhó:
- Vụ trả thù nào? Anh không tin em?
Anh chàng đang đối mặt với câu hỏi hóc búa. Rivke trung thực? Cònnếu không, cô ta quả là một kịch sĩ tuyệt vời nhất từ trước tới giờ 007 từng gặp.
Lại thêm một vấn đề nan giải. Còn mối quan hệ của anh chàng và Paula thì sao? Từ trước tới giờ, James chưa từng nghi ngờ Paula điều gì. Vâng, một cô nàng siêng năng làm việc, thông minh, lại hấp dẫn. Còn bây giờ, nếu những lời của Rivke là thật, hoá ra Paula lại là kẻ nói dối. Khôngchừng cũng dám đồng loã với bọn sát thủ chơi dao?
Nhưng làm sao lý giải tất cả hành động của Paula? Hết sức quan tâm rồi chở anh chàng tới phi trường. Rõ ràng có bọn nào đó theo dõi anh chàng dọc theo con đường tới Salla. Chúng canh me từ lúc mình rời khỏi
Helsinki. Thế còn Paula?
Khó nghĩ, James hỏi ngay cô ả mối quan hệ với Paula.
- Có điều làm sao tin cô được, Rivke. Tôi biết Paula đã lâu. Cô ấy đãtừng nói chuyện của cô – Anni Tudeer. Lời lẽ của Paula rất rành mạch. Cô ấy tin cô, cùng làm việc chung với cô ở Helsinki.
Khẽ lắc đầu, giọng của Rivke nhỏ nhẹ:
- Trừ khi có ai đó muốn mượn cái tên của em …
- Cô không làm việc chung với Paula sao? Nghề quảng cáo ấy? - Anh nói giỡn à? Em đã nói là không mà. Em nào có giấu giếm anh chuyện gì, kể cả cuộc đời ba chìm, bảy nổi của em. Em biết Paula ở trường.
- Paula biết rõ thân phận của cô? Bố cô?
Nhẹ nhàng đáp lại:
- Vâng. Anh có thể kiểm chứng mà James. Phôn tới văn phòng của cô ấylà biết ngay, đúng không? Hỏi thử có ai tên Anni Tudeer làm việc ở đấy. Nếu có, vậy là có hai Anni Tudeer. Còn không, quả là Paula nói dối. Chồm người sát hơn, giọng cô ả mượt mà:
- Theo em, không hề có hai Anni Tudeer. Em dám cá với anh đấy. Paula nói dối. Chính em cũng muốn biết tại sao.
James gật đầu:
- Ờ, tôi cũng vậy.
- Anh tin em chứ?
- Tôi cũng không rõ. Thời gian quá ngắn làm sao kiểm chứng được. Có điều mối quan hệ giữa tôi và Paula khá tốt nhưng bây giờ … Vâng, xét về khía cạnh trực giác mà nói, tôi tạm tin cô. Rồi chúng ta có thể tìm ra sự thật. Nhưng theo Luân Đôn, cô là Anni Tudeer.
Chà, gần gủi với một thiếu phụ đáng yêu như thế này, ai mà nỡ nghi ngờ kia chứ? Mùi hương từ thân thể của Rivke toả ra làm anh chàng choáng váng.
Mỉm cười, anh chàng đáp lại:
- Rivke Ingber, tôi tin cô, một nhân viên Mossad trung thực. Chỉ có một vấn đề tôi chưa rõ: báo thù.
Chẳng lẽ cô muốn chuộc lại lỗi lầm của bố cô? Muốn bắt lão hay ám sát lão ư? Có thật thế không?
Nhún vai, dáng vẻ của Rivke hơi khiêu khích.
- Chuyện ấy không thành vấn đề. Dù thế nào đi nữa, lão Aarne Tudeer sẽ phải chết.
Chất giọng du dương thay đổi thật nhanh. Chưa đầy một giây, nó trở nên cuồng nộ, căm phẫn. Giờ thì cô ả mỉm cười, giọng khá mềm mại. - Em xin lỗi, anh James. Lẽ ra em không nên chơi trò cút bắt với anh. Bradtối nay quả là tên càn quấy. Vâng, em không làm gì được. Có thể em chưa phải là một điệp viên chuyên nghiệp. Có phải em quá ngây thơ không? Phải chi hắn được như anh: bảnh trai, hấp dẫn. Ước gì em có thể quyến rũ anh …
- Quyến rũ? Về phe nào?
Dù sao anh chàng vẫn còn chút cảnh giác về cô ả tưng tửng này. Khi thì là Rivke Ingber, nhân viên của Mossad. Lúc lại là Anni Tudeer, con gái của lão tội phạm chiến tranh.
- Không hề có cạm bẫy. Chính xác là như thế.
Xoè ngón tay ra, ả lướt nhanh trên bàn tay rắn rỏi của anh chàng. - Thật tình mà nói, em cảm thấy không an toàn khi đi chung với Brad và Mosolov. Hai cái tên hắc ám, chẳng chút hấp dẫn. Chúng mình đứng chung một phe, nghe anh.
Kéo tay ra khỏi cô ả, James nhẹ nhàng nói:
- Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau, đúng không Rivke? Có những chuyệntôi còn đang thắc mắc. Bố cô có dính líu tới bọn NSAA? Không thêm suy nghĩ, cô ả đáp ngay:
- Hoàn toàn chính xác.
- Cô dám quả quyết?
- Đó là lý do em tham gia vào chiến dịch này. Từ những vụ thảm sát của cái gọi là Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã, đám người Mossad phân tích,đánh giá tình hình. Thông qua tư liệu trên máy vi tính, người ta tìm kiếmbọn thủ lĩnh còn sót lại của Đức Quốc xã. Bố em ở hàng đầu danh sách. Anh phải tin em.
Mossad có bằng chứng chống lại ông ta đấy. Chẳng phải là ngẫu nhiên khi số vũ khí rời khỏi nước Nga qua biên giới Phần Lan. Ông ta đang ở đây, anh James à. Với một cái tên mới, một nhân dạng mới. Cũng như có một ả nhân tình mới. Quá sung mãn, hung bạo so với lứa tuổi của ông ấy. Em biết ông ta ở đây.
James cười chế giễu:
- Một con chim đang chui vào bẫy.
- Bố em là một kẻ hoang tưởng nhưng quá xảo quyệt. Biết tranh thủ mọi thứ. Theo lời của mẹ em, ông ta từng xem mình như là Fuhrer, một Mô-sê của Phát xít Đức. Ông ta tới đây để dẫn những đứa con của mình vào miềnđất hứa.
Vâng, những đứa trẻ con to xác nhưng đầu óc trống rỗng. Thế giới sẽ trở nên hỗn loạn khi bọn trẻ ranh với mớ ý thức hệ hoang tưởng. Hãy nhìn vào đất nước của anh đi …
James vênh mặt lên:
- Ở đất nước chúng tôi ấy à, chưa có một thằng khùng nào được phép ứng cử hoặc bầu chọn vào chính quyền. Tuy có bảo thủ thật đấy, nhưng qua bao nhiêu thế kỷ ngai vàng của nữ hoàng vẫn còn vững chắc. Không có thứ ý thức hệ tưng tưng, nửa mùa nào có thể khuynh đảo được, đúng không?
Hơi trề môi, giọng cô ả chẳng kém phần thân thiện.
- Vâng, em xin lỗi.
Đột nhiên ánh mắt ả lạc đi. Hình như ả đang suy nghĩ điều gì. - Này anh James, em có một tin thật bất ngờ đấy. Em cần anh về phe với em.
Cô ả muốn giở trò gì đây? vẫn cảnh giác, anh chàng hỏi lại: - Vâng. Nhưng còn Brad và Mosolov thì sao?
- Brad và Mosolov cùng đuổi theo cái trò giành giật vinh quang từ chết chóc. Chắc gì họ ăn rơ với nhau hay âm thầm chơi lén. Tay nào cũng cáo già, đầu đầy sỏi đá. Điều này có quá không? Một nghịch lý? Nhưng đó lại là sự thật. Cứ chú ý một chút, anh thừa sức thấy được nếu quan sát họ.
Nhìn thẳng vào mắt của James, đôi mắt cô ả như thể thôi miên anh chàng. Giọng mượt mà, Rivke cố thuyết phục:
- Vâng, em có một cảm giác … Có thể đó chỉ là chút trực giác. Nhưnghình như là CIA hoặc KGB muốn che giấu điều gì. Làm thế nào để đốiphó với bọn NSAA, họ không nói rõ ra.
Anh chàng đáp lại úp úp mở mở:
- Theo tôi có thể là Mosolov. Chính KGB yêu cầu chúng ta vào cuộc. Ngoài số vũ khí bị chôm chỉa, một điều gì đó quan trọng hơn. Có cái gì đó ghê tởm hơn chăng?
Từ từ ả nhích chiếc ghế tới chỗ James đang ngồi:
- Anh cho rằng họ có thể tìm thấy số vũ khí bị mất cắp ư? Một chuyện trông buồn cười thế mà xem chừng rất nghiêm trọng? Làm sao họ có thể chặn vụ chôm chỉa lại?
- Tôi chẳng rõ.
Càng lúc ả càng xích lại gần. Hương thơm của nước hoa quyện cùng mùi thân thể hấp dẫn cứ xộc vào mũi của anh chàng, như mời, như gọi. Anh chàng nhắc lại:
- Chỉ là một giả thuyết, đúng không? Điều này hoàn toàn trái ngược với tính cách của họ. Trước tới giờ, họ vẫn thường bưng bít. Chẳng hiểu sao họ lại nhờ giúp đỡ. Kéo chúng ta vào cuộc với mục đích gì khác chăng? Nếu như thất bại, đám tình báo Anh, Mỹ, Israel nhận lời chỉ trích. Còn họngồi không, hưởng lợi.
Rivke thì thầm:
- Mấy thằng láu cá chó.
Nghe thế, James trố mắt nhìn Rivke. Nghĩ lại cũng đúng, chỉ có nhữngcụm từ ấy mới diễn tả hết được tính cách của bọn này. Đối phó với kẻ thù chung chưa xong, nội bộ lại xào xáo, nghi kỵ lẫn nhau. Mạnh ai nấy thủ lợi cho riêng mình. Thế còn tiến hành điệp vụ cái quái gì được.
Thay vì đáp lại, anh chàng mỉm cười quyến rũ với cô ả. Ôi, cái nụ cười từng hớp hốn biết bao nhiêu cô gái. Chồm người sát hơn, môi của anh chàng chỉ cách miệng cô ả có vài tấc. Ánh mắt trên gương mặt điển trai, đa tình như có hấp lực.
- Chúng ta cùng hợp sức lại, đúng không. Đoàn kết là sống. Chia rẽ là chết. Đôi môi khao khát của cô ả cứ mấp máy.
-Vâng, anh nói đúng đấy.
Rồi đột nhiên dường như không thể kiềm chế được cơn hưng phấn, Rivke quàng tay qua cổ anh chàng, hôn thật lâu trên gương mặt điển trai. Quá bất ngờ, James đành thúc thủ. Chẳng lẽ mình từ chối tấm lòng của cô ta. Ấy, đành chịu vậy thôi.
Thời gian thoáng ngừng trôi trong căn phòng chỉ có hai người. Chẳng biết bao lâu sau đó, đôi tay Rivke sờ soạng cởi từng nút áo của anh chàng … Miết dọc ngón tay theo từng nhóm cơ căng phồng trên thân hình nở nang, cường tráng, đôi mắt cô ả như ngây dại…
Chỉ còn tiếng thở hổn hển, gấp rút…
Chừng thấm mệt, cô ả cuộn tròn trên cánh tay cuồn cuộn trên cơ bắp của James. Hệt như đứa trẻ, hơi thở cô ả cứ đều đều, nhỏ nhỏ. Lúc anh chàng tỉnh giấc đã hơn 8 giờ sáng.
Một ngày mới lại bắt đầu với bao nhiêu trăn trở. Một cuộc chiến gian khổ đang diễn ra thầm lặng trong thế giới tình báo. Những chiến sĩ vô danh luôn chiến đấu vì công lý, tự do. Khoảng cách giữa cái chết và sự sống mỏng manh như sợi chỉ. Ai biết được điều gì sẽ xảy ra?
Khẽ gọi cô nàng, James cảm thấy đắng miệng.
- Này Rivke!
Vươn vai, cô ả đưa tay dụi mắt.
- Ồ, anh yêu.
Gương mặt đỏ bừng thoả mãn nở một nụ cười thật tươi.
- Hoàng tử của lòng em, em chẳng muốn rời xa anh chút nào. Tiếng cười hầu như tắt hẳn khi anh chàng với tay lấy chiếc điện thoại: - Đã tới lúc chúng ta cần làm rõ về Paula.
Anh chàng bắt đầu bấm số của Helsinki trong khi cô ả khoác vội lên mình chiếc áo ngủ mỏng tang. Tiếng chuông cứ vang lên nhưng chẳng ai bắt máy. - Này Rivke, Paula không có ở đó.
Khẽ lắc đầu, cô ả đáp lại:
- Anh nên gọi tới văn phòng của cô ta. Trước đây, em từng biết Paula, nhưng sau này em chẳng rõ. Tại sao cô ta lại đặt chuyện về em kia chứ? Theo anh, cô ta là một người bạn tốt à?
- Ừ, có thể nói như vậy trong một khoảng thời gian khá lâu. Đứng lên, anh chàng đi về phía tủ áo treo chiếc quần len bên trong. Lấy hai cái mề đay trong túi quần ra, anh chàng ném chúng xuống giường. Thử xem cô ả nói sao về mấy thứ này?
- Này Rivke, em thấy qua mấy vật này chưa?
Đưa tay nhặt chúng, ngắm nghía một lúc rồi cô ả kêu lên: - Anh tìm thấy chúng ở đâu vậy?
- Trong phòng của Paula. Trên bàn trang điểm.
- Hồi còn bé xíu, em đã từng thấy chúng.
Sờ sờ vào mặt sau của chiếc mề đay chữ thập, giọng cô ả bâng quơ: - Anh thấy đó, tên của bố em có khắc phía sau lưng. Mề đay của bố em lại ở trong phòng của Paula?
Vẻ mặt cô ả cứ ngơ ngác, hoàn toàn ngạc nhiên.
- Đúng vậy.
Bỏ cái mề đay xuống giường, cô ả bước về phía James rồi vòng tay ômlấy cổ anh chàng.
- Em không hiểu gì cả. Tại sao Paula dính líu vào mấy vụ này? Tại sao côta phải nói dối? Tại sao mề đay của bố em lại ở trong phòng của cô ta? Ông ta quý chúng lắm kia mà.
Mỉm cười, James đáp lại, giọng cứ mượt mà, quyến rũ:
- Đừng lo lắng. Trước sau gì, chúng ta cũng tìm ra sự thật. Một phút sau, cô ả bước lui ra:
- Mà này, anh có muốn trượt tuyết với em không?
- Anh phải gặp Brad và Mosolov.
- Em ra ngoài đó một chút. Em sẽ trở lại lúc dùng điểm tâm. Có thể trễ đôi chút đấy.
- Hãy thận trọng!
Khẽ gật đầu, cô nàng hơi bẽn lẽn:
- Vâng, anh yêu.
- Mong mọi việc xuôi chèo, mát mái.
Kéo cô nàng lại gần, James hôn nhẹ lên mái tóc. Khi cô ả bước ra, anhchàng trở lại giường, nhặt lấy hai chiếc mề đay. Mùi hương của cô ta vẫn
còn ở quanh đây. Rất gần gũi, thân thiết.
Chương 8
GÃ BRAD TIRPITZ
Dường như anh chàng hơi bị sốc. Trực giác báo cho anh chàng biết những lời của Rivke Ingber là sự thật. Dù sâu trong tiềm thức, anh chàng vẫn cảmthấy có chút nghi ngờ. Con gái của lão Aarne Tudeer đã biết đâu là công lý, chính nghĩa. Chính Luân Đôn cũng xác nhận cô ả là nhân viên của CụcTình báo Mossad.
Nhưng còn Paula Vacker thì sao? Nhiều năm qua với mối quan hệ hơn mức bình thường, anh chàng chưa nghi ngờ Paula điều gì. Một cô gái siêng năng làm việc, thích vui đùa, có cá tính.
Rồi những lời của Rivke sáng nay cứ như gáo nước lạnh dội lên đầu anh chàng. Thật tình mà nói, anh chàng không biết tin ai, bỏ ai. Bước vào phòng tắm với tâm tư nặng trĩu, anh chàng làm vệ sinh lâu hơn thường ngày. Xỏ chiếc quần thụng vải chéo dày, áo thun cổ tròn và áo khoác da ngắn, anh chàng lấy khẩu P7 kiểm tra lại ổ đạn, bỏ thêm vài băng sơ cua vào túi quần sau, chân mang chiếc giày da mềm Moccasin rồi rời khỏi phòng.
Tới hành lang, dừng lại nhìn chiếc Rolex, anh chàng thấy đã gần 9 giờ 30. Hẳn văn phòng của Paula giờ đã làm việc.
Trở lại phòng, James bắt liên lạc với số phôn văn phòng của cô nàng. Đầu dây bên kia vang lên lời đáp bằng tiếng Phần Lan.
- Xin lỗi, tôi muốn gặp Paula Vacker.
- Rất tiếc,thưa ông. Cô Paula Vacker đã xin nghỉ phép.
Anh chàng giả vờ thất vọng:
- Ồ! Tôi có hẹn với cô ấy. Cô ta đi đâu thế?
- Xin chờ trong giây lát.
Non phút sau, đầu bên kia đáp lại:
- Chúng tôi không chắc. Hình như đi trượt tuyết ở phía Bắc. - Thế ư. Cô ấy đi hôm nào?
- Thứ năm. Ông có muốn gởi lại lời nhắn gì không?
- Ồ, không. Để tôi gọi lại sau.
Vừa mới tính gác mày, James hỏi tiếp:
- Mà này, Anni Tudeer vẫn còn làm việc ở đó chứ?
- Thưa ông, Anni nào?
- Anni Tudeer, một người bạn của Paula Vacker.
- Xin lỗi, tôi nghĩ ông đã lầm. Ở đây không có ai tên đó.
- Cám ơn cô.
Hạ cái phôn xuống, gượng mặt anh chàng đăm chiêu. Thế là rõ rồi, Paula đã đi về phía Bắc. Cũng giống như bộ tứ của chiến dịch Icebreaker. Qua cửa sổ, James nhìn khung cảnh trước mặt. Cơn lạnh ở vùng đất nàyhiện hữu quá, người ta có thể cắt nó bằng dao, dù bầu trời trong xanh, ánh nắng cứ chói chang. Rồi ánh nắng chiếu vào các tảng băng lấp la, lấp lánh. Khoảng một giờ nữa, mặt trời sẽ lặn đi, nhường chỗ cho băng giá thống trị cả phần đất này của địa cầu. Lúc ấy, mưa tuyết có thể rơi thành từng mảng, từng mảng.
Xa xa ngoài kia là hàng ghế nâng treo lơ lửng trên dây cáp, sườn dốc thoai thoải. Những bóng dáng nhỏ xíu cứ tiếp tục lên xuống mấy chiếc ghế không ngừng chuyển động. Một nhóm khác đang buông mình theo đường rơi với thân mình chồm về phía trước, đầu gối cong lại. Rivke có thể là một trong những cái chấm nhỏ đang di động trên khung cảnh toàn một màu trắng, sáng lấp lánh.
Rời khỏi phòng, anh chàng đi xuống phòng ăn.
Ngồi một mình, tại cái bàn ở trong góc gần cửa sổ, Brad nhìn ra ngoài sân. Thấy James, hắn miễn cưỡng giơ một tay lên.
- Xin chào.
Gương mặt hắn cứ bất động, chỉ có đôi môi mấp máy:
- Mosolov gởi lời xin lỗi. Sắp xếp mấy cái mô tô nên tới trễ. Chồm gần hơn, giọng hắn thì thầm:
- Có thể là tối nay hay sáng sớm ngày mai.
- Tối nay cái gì?
- Này anh bạn, Mosolov bảo tối nay bọn chúng chôm vũ khí từ căn cứ Blue Hare. Có nhớ Blue Hare không? Gần Alakurtti ấy mà.
- Thế ư?
Cầm lấy thực đơn lên, anh chàng chẳng biết gọi gì. Khi gã hầu bàn xuất hiện, anh chàng chỉ gọi những thức ăn thường dùng.
Nhích chiếc ghế lại gần hơn, Brad to nhỏ vào lỗ tai của anh chàng: - Này James,mình có đôi điều muốn nói riêng với cậu.
- Chuyện gì?
- Felix Leiter gởi lời thăm cậu đấy. Cả Cedar nữa.
Cảm thấy ngạc nhiên nhưng anh chàng làm bộ tỉnh bơ. Felix Leiter, một nhân viên CIA cao cấp, vốn là người bạn thân của James ở Mỹ. Cedar, con gái của hắn, cũng nối nghiệp bố. Trong một vài điệp vụ cộng tác với anh chàng, cô ta tỏ ra rất dũng cảm.
Rồi Brad lại tiếp tục:
- Mình biết cậu có ý nghi ngờ. Nhưng suy nghĩ lại đi. Mình là người cậu đáng tin cậy nhất ở đây, đúng không?
Khẽ gật đầu, anh chàng đáp cho có lệ:
- Có thể.
- Sếp của cậu nắm thông tin cũng khá tốt đấy. Langley đã chỉ dẫn mình kỹ lưỡng. Có thể chúng ta cùng chia sẽ một số tin tức giống nhau. Còn tên Mosolov ấy à, cứ giấu nhẹm mọi chuyện. Chúng ta phải hợp sức với nhau. Rồi hắn sẽ ngạc nhiên cho mà coi.
Đáp lại ôn tồn, James nói úp úp, mở mở:
- Thế chúng ta không làm việc chung với nhau sao?
- Đừng tin những người khác. Ngoại trừ mình, James nhé! Khi gã hầu bàn mang lên cho anh chàng món trứng chiên, thịt nguội, bánh mì, mứt cam và cà phê, đột nhiên Brad im lặng. Chừng gã kia quay đi, giọng của Brad tiếp tục:
- Nếu ở Madeira, mình không nhắc tới lão bá tước dỏm đời, thử hỏi hắn có hé môi không? Mosolov không hề muốn chúng ta biết. Cậu có hiểu tại sao không?
- Không.
- Bởi vì Mosolov ăn ở hai lòng. Có một vài chi tiết cho thấy KGB dínvào vụ chôm chỉa vũ khí.