"
Điểm Đến Của Cuộc Đời - Đặng Hoàng Giang full prc pdf epub azw3 [Self Help]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điểm Đến Của Cuộc Đời - Đặng Hoàng Giang full prc pdf epub azw3 [Self Help]
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐIỂM ĐẾN CỦA CUỘC ĐỜI
ĐẶNG HOÀNG GIANG
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN 2018
ebook này được thực hiện bởi:
Text: Hà Du
Soát lỗi: Totochan1412 | uzilo | Anh Thao | phuong.berry93 | xuan_an_221 |
Đóng gói: en.proceso
4/2020
GIỚI THIỆU
Điểm đến của cuộc đời kể lại một hành trình không thể nào quên cùng những người cận tử. Dấn thân vào “một thế giới của những bi kịch và tổn thất khổng lồ, của phẩm giá và lòng tự trọng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, của sự phản bội và sợ hãi, của tình yêu mãnh liệt và hy vọng khôn nguôi, tóm lại, của tất cả những gì thuộc về con người, ở mức độ dữ dội nhất”,tác giả muốn đitìm câu trả lời cho thôithúc nộitâm:ta nên ứng xử thế nào trước cái chết, và sự chết có thể dạy ta điều gì cho cuộc sống?
Kỳ lạ thay, những số phận được kể trong cuốn sách, dù đang ở tầng bậc tột cùng của nỗi đau đớn, lại cho thấy những điều đẹp đẽ đến mức khiến ta nghẹn ngào: bản lĩnh để đi qua bi kịch khó diễn đạt bằng lời, thái độ bình tĩnh của con người tự do trước cái chết, khao khát làm việc có ích, trỗi dậy vào những ngày tháng cuối cùng. Đồng hành với họ, ta thấy biết ơn, hạnh phúc và giàu có. Gấp lại cuốn sách, ta có thể được rất nhiều: một nhận thức thấm thía về sự hữu hạn của con người, một thái độ điềm tĩnh trước điểm kết, lòng trân trọng cuộc sống, để từ đó bắt đầu rời xa những phù phiếm ồn ào, sắp xếp lại các ưu tiên, tập trung vào những điều cốt lõi khiến cuộc sống có ý nghĩa.
Một hành trình dũng cảm. Một cuốn sách tràn đầy tính nhân văn và và sức lay động tâm hồn.
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang là chuyên gia phát triển, nhà hoạt động xã hội và tác giả chính luận. Các hoạt động nghiên cứu và vận động chính sách của anh nhằm nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, minh bạch và tiếng nói của người dân. Anh nỗ lực mở rộng không gian xã hội dân sự, truyền bá tri thức, phá bỏ định kiến và kỳ thị, và xây dựng một xã hội khoan dung và trắc ẩn.
Đặng Hoàng Giang tốt nghiệp kỹ sư tin học tại Đại học Công nghệ Ilmenau, Đức, và có bằng tiến sĩ kinh tế phát triền của Đại học Công nghệ Vienna, Áo. Anh hiện sống và làm việc tại Việt Nam.
Anh cũng là tác giả của các cuốn sách Bức xúc không làm ta vô can và Thiện, Ác và Smartphone cùng nhiều bài viết có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội.
https://www.facebook.com/giangdang.9469
“Nhưng tuyệt vời thay, bệnh Vân càng nặng thì tình cảm của hai người lại càng gắn bó. Những ngày cuối, cô liên tục dặn mẹ, ‘Bố mẹ thương lấy chồng con nha. Anh ấy có thế nào bố mẹ cũng đừng giận nha. Đừng ghét anh ấy nha? Tình yêu của hai người đã được nuôi dưỡng bởi sự kiên cường của Vân và lòng kiên nhẫn khổng lồ của Hoàng. Trong chín tháng, Hoàng đã lau chùi cho Vân hàng trăm lần, tiêm thuốc cho cô hàng ngàn lần, xoa bóp cho cô hàng ngàn giờ. Cậu đã trải qua phép thử khổng lồ của cuộc đời với tất cà lòng tự trọng và phẩm giá.”
Tặng Chi Mai An
LỜI TÁC GIẢ
Người ta không có tự do để khước từ bất hạnh hay chạy trốn khỏi bi kịch, nhưng có tự do chọn lựa thái độ của mình trước những gì xảy ra. Viktor Frankl, nhà tâm lý học người Áo, đúc kết từ trải nghiệm sống của ông qua những năm tháng khủng khiếp trong trại tập trung của phát xít Đức. Tôi có thể chuẩn bị cho mình dể đối diện với bi kịch khi nó xảy ra như thế nào, tôi làm gì để có thể vượt qua nỗi sợ bệnh tật và chia ly, khi nó xảy ra với người thân, và khi nó xảy ra với chính mình, đó là những câu hỏi tôi dặt cho bản thân.
Nhiều người không muốn nói tới cái chết, dường như hy vọng rằng không nhắc tới nó thì nó sẽ quên ta đi. Tôi muốn chọn một cách tiếp cận ngược lại. Tôi muốn lấy khỏi cái chết sự lạ lẩm của nó, muốn nhìn thẳng vào nó, để làm quen, và
cuối cùng, chấp nhận nó, sống với nó một cách bình thản. Đó là lý do tôi tìm tới những người cận tử, và xin phép họ cho tôi đi cùng trong những ngày tháng cuối cùng của đời họ.
Ý thức về cái chết trước mặt khiến tôi ý thức rõ ràng hơn về thời gian tôi còn có trong tay, về những may mắn mà tôi đang được hưởng, về vẻ đẹp của vũ trụ. Tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đối mặt và suy ngẫm vổ cái chết khiến tôi trân trọng cuộc sống hơn, sống có chánh niệm hơn, loại bỏ dễ dàng hơn những điều phù phiếm, tầm phào, và tập trung vào những điều quan trọng với tôi.
“Khi cuối cùng chúng ta biết là chúng ta sẽ chết, và mọi sinh linh khác cũng sẽ chết cùng ta, ta bắt đầu có một cảm giác cháy bỏng, gần như khiến trái tim thổn thức, rằng mọi khoảnh khắc mới mong manh và quý báu làm sao,” thiền sư Sogyal Rinpoche viết trong cuốn Tạng thư sóng chết. “Và từ cảm giác đó, trỗi dậy một lòng trắc ấn sâu sắc, sáng tỏ và vô hạn, hướng tới vạn vật.” Sau khi tôi gần gũi với những người gần đất xa trời và người thân của họ, những dòng trên không hiện ra như những câu lý thuyết trừu tượng hay khô khan nữa. Những người cận tử mà tôi đã gặp, nhiều người ở thời điểm này đã qua đời, đã xác nhận bằng cách giản dị mà sâu sác nhất điều mà Rinpoche viết. Tôi hy vọng những trải nghiêm của họ sẽ phần nào giúp cho độc giả sống một cuộc sống có ý nghĩa và an lạc, như là họ đã giúp tôi.
MỞ ĐẦU
1
KHI BĂNG QUA khoảng sân rộng, tâm trí tôi quay lại những hình ảnh của Vinh lúc chúng tôi mười tám tuổi. Một tay Vinh cầm chai bia, tay kia bá vai bạn, sơ mi phanh hai cúc, miệng trề xuống giễu cợt, điếu thuốc ở khoé môi. Vinh trên xe máy, tóc lờm xờm quá tai, mắt mở to, vừa háo hức vừa bất cần, vừa khao khát sống, vừa liều lĩnh với cuộc đời. Hồi đó, chúng tôi tin rằng mình bất tử.
Càng đi sâu vào trong khuôn viên bệnh viện, tôi càng cảm thấy một áp lực vô hình đè lên người. Hơi thở của bệnh tật treo lơ lửng trên không. Trời tháng Giêng u ám, giờ thăm viếng mới bắt đấu, nhưng trong sân đã nhiều người qua lại.
Khác với những đám đông nơi hội chợ hay công viên, ở đây phần lớn người ta đi một mình và trong yên lặng, với dáng vẻ tập trung và hơi tư lự, như là họ đang tận dụng những bước chân này để trở về với bản thân và nghỉ ngơi trước gánh nặng của cuộc đời.
Tôi bấm thang máy lên tầng mười, rẽ phải, và nhớ lại những câu văn của William Hazlitt. “Không chàng trai trẻ nào lại nghĩ rằng mình sẽ chết.” Hazlitt, triết gia, nhà thơ và nhà phê bình kịch, viết như vậy vào năm 1827 tại London. “Là người trẻ,
chúng ta luôn sống trong cảm giác vĩnh cửu, điều có thể giúp đền bù lại mọi thứ. Cái chết, tuổi già, chúng là những từ không có ý nghĩa, một giấc mơ, một điều hư cấu, không liên quan gì tới ta.” Tôi đi dọc hành lang vẫn còn vương vất mùi nước lau sàn, đếm số phòng, “Ở khởi đầu của cuộc đời, những khao khát của chúng ta là vô tận, và những cơ hội để thỏa mãn chúng cũng vậy. Chúng ta vẫn chưa gặp trở ngại nào, chưa thấy sự an bài nào, và dường như chúng ta có thể tiếp tục mãi mãi. Chúng ta nhìn quanh trong một thế giới mới mẻ, ngập tràn cuộc sống và chuyển động, tiến tới không ngừng, và cảm nhận trong ta tất cả sự cường tráng và tinh thần để giữ nhịp với nó, và không thấy trước bất cứ dấu hiệu nào rằng chúng ta sẽ bị tụt hậu trong cuộc đua, tàn tạ trong tuổi già, và ngã gục xuống mổ.”
Dừng lại bên giường Vinh, tôi kinh ngạc. Cậu hốc hác và tiều tụy. Vẫn cái miệng trề ấy, nhưng giờ nó há ra một cách mất kiểm soát. Mắt phải Vinh tím bầm và sưng húp, mắt kia hé mở một nửa. Cánh tay không còn tí cơ bắp nào, nước da trắng và trong suốt như da của loài nhái nơi ít ánh sáng. Mu bàn tay có một mảng tím bầm, dấu hiệu bị vỡ ven khi tiêm.
Mắt trái của Vinh đảo qua đảo lại rất nhanh như được điều khiển bằng máy, nhưng không nhìn cụ thể vào đâu. Người phụ nữ được thuê để chăm sóc Vinh ghé vào tai cậu nói, “Anh Vinh ơi, có bạn tới thăm này, anh có nhận ra ai không? Anh Vinh ơi?” Vinh không có phản ứng gì. Tôi đưa hai ngón tay vào bàn tay đang nắm hờ của Vinh và cảm nhận một cái bóp yếu, không rõ đó là Vinh ra hiệu cho tôi, hay do các cơ tự co giật. “Anh ấy yếu lắm rổi,” người phụ nữ thì thào. Người ta nói là ở người sắp chết, nghe là giác quan cuối cùng suy thoái. Chị thọc
một ngón tay vào miệng Vinh, bằng những động tác thuần thục vén môi trên môi dưới để xem xét răng và lợi. Vinh nhắm mắt, chìm vào trong giấc ngủ, hoặc hôn mê, tôi cũng không biết nữa. Tiếng thở khó nhọc của Vinh vang cả căn phòng. nhiều tháng sau này tôi mới tìm hiểu ra rằng tiếng thở khò khè là một trong những dấu hiệu chắc chắc của cái chết đang tới gần. Khả năng nuốt của người cận tử suy yếu, khiến nước bọt và những chất bài tiết của phế quản đọng lại ở cổ họng và ngực trên, tạo ra tiếng kéo bễ. Trong ba mươi phút tôi ở dó, Vinh chìm vào hôn mê rồi lại mở mắt ra vài lần. Có lần Vinh bất ngờ mở miệng ra ngáp rất dài. Có lúc tay trái của Vinh đột ngột dưa lên muốn chạm vào cánh mũi, dường như định gãi, nhưng tới tích tắc cuối cùng thì ngón tay dừng lại, ngọ nguậy, rồi đóng băng. Vinh lại thiếp đi.
Trong những ngày sau, hình ảnh Vinh trên giường bệnh không buông tha tôi. Rồi tôi cũng sẽ như vậy, sẽ giống Vinh, không thể tránh được. Tôi nghĩ tới những giây phút mình ở trên sân khấu trong các cuộc tọa đàm. Mọi người lắng nghe, họ cười, họ tranh luận. Tôi nghĩ tới cuộc leo núi gần đây nhất, tôi đứng trên triển núi nhìn xuống biển mây, tay đặt lên vách đá nóng rực dưới ánh mặt trời, người ướt đẫm mổ hôi. Sao mà nó khác xa hình ảnh Vinh, tức là tôi một lúc nào đó, nằm teo tóp trên giường trong bộ quần áo bệnh viện đã cũ, một cái khăn mặt quấn cổ, đầu đội mũ len mặc dù trong phòng nóng, và bất thình lình mở miệng ngáp như một con chó đang ngủ mê, bên trong miệng đầy những thứ gì trăng trắng nhưng không phải là thức ăn thừa.
Vài ngày sau, trước bữa tối, tôi nhận được tin nhắn Vinh đã qua đời.
Người bần thần, tôi bước ra cửa sổ, điện thoại trong tay. Bên ngoài, những bụi tre xào xạc trong chút ánh sáng cuối cùng của ngày. Trong phòng tắm, Mai An, đứa con gái nhỏ của tôi, đang hát nghêu ngao. Một cuộc sống vừa tàn lụi. Một con người vừa biến mất. Dấu vết của anh ta là gì? Theo thói quen, tôi vào Facebook. Những cơn bão cãi vã vẫn nổi, những con sóng ảnh, live stream, những phàn nàn, càu nhàu, đắc chí, giễu cợt, vẫn trào lên, hết đợt này tới đợt khác.
Tôi xóa mục “Thăm lại Vinh trong bệnh viện” mà tôi đã đặt trong điện thoại máy ngày trước. Vinh đã chết, và điếu đó giải phóng một tiếng trong lịch thứ Sáu của tôi. Đơn giản vậy đó.
Những tuần tiếp theo, tôi vừa muốn lẩn tránh những hình ảnh cuối cùng của Vinh, vừa muốn nhìn sâu vào nó, như một đứa trẻ sợ một cái gì hung dữ và bí hiểm nhưng vãn hé mắt nhìn qua kẽ ngón tay. Tôi bất an và gặp khó khăn để tập trung. Tôi sốt ruột và bực dọc khi mọi người xung quanh, nhất là người già, cười đùa vô tư. Tôi thấy mình giống Vitashoka, em trai của Ashoka, vị hoàng đế Ấn Độ hùng mạnh ở thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.
Do mắc tội phạm thượng, Vitashoka bị anh trai kết án tử hình. Trước khi chết, cậu được trao cho bảy ngày để sống trong xa hoa, nhung lụa. Hết ngày thứ bảy, Ashoka gọi người em tới. “Em đã thưởng thức những món ăn ngon nhất chứ? Những cô gái đẹp nhất? Và những bản nhạc du dương nhất?” Người em buồn bã, “Sao em có thể thưởng thức được chúng cơ
chứ? Em còn không thể ngủ yên được lấy một đêm. Sao em có thể thưởng thức cái gì đó khi em biết rằng cuộc đời mình sắp kết thúc?”
Theo sử thi Ấn Độ Ashokavadana thì bản án dành cho Vitashoka thực chất chỉ là một phép thử của vị hoàng đế để thức tỉnh cậu, nhưng tới giờ, con người không ngừng bị hành hạ giống như cậu. Có gì khác nhau giữa bảy ngày và bảy năm? Mạng xã hội Quora, nơi người ta tìm tới sự thông thái của cộng đồng mạng cho mọi vấn để của cuộc sống, tràn đấy những thắc mắc, “Làm sao để tôi có thể chấp nhận thực tại là tôi sẽ chết?” “Sống để làm gì nếu tất cả chúng ta rồi sẽ chết?”
Thủy Tiên, một người bạn của tôi, đã có giai đoạn suy sụp khi biết mình mang trong người một đoạn đột biến gen khiến xác suất tám mươi phần trăm là cô sẽ bị ung thư vú trong tương lai. Y học xếp những người như cô vào giai đoạn không. Một lúc nào đó, ung thư sẽ được kích hoạt, cố sẽ bước vào giai đoạn một. Chị gái của cô cũng có đột biến gen đó, và đã qua đời khi ngoài 30 tuổi.
Nhưng chẳng phải là mỗi chúng ta đều đang mang trong người một căn bênh giai đoạn cuối hay sao? Chẳng phải tới lúc nào đó thì không có thuốc gì, không bác sĩ nào có thể chữa chạy được ta hay sao? Chẳng phải tất cả chúng ta đểu là những tử tù không được thông báo ngày hành quyết hay sao? Có gì đảm bảo tôi sẽ sống lâu hơn Thủy Tiên?
Tôi tìm đọc lại William Hazlitt. Trong tiểu luận “Về cảm nhận bất tử của tuổi trẻ”, ông lý giải vì sao cái chết lại khiến chúng ta choáng váng. Vừa mới đó thôi, ống viết, chúng ta còn nhìn thấy ánh nắng vàng, bầu trời xanh, đại dương trải rộng,
chúng ta còn bước trên đồng cỏ, còn thống trị trăm ngàn loài vật, còn nhìn xuống vực thẳm hay những thung lũng xa xa đầy ánh nắng, còn kéo các vì sao lại gần, ngắm những con bọ li ti qua kính hiển vi, còn đọc lịch sử, cồn chiêm nghiệm về những cuộc cách mạng và sự nối nhau của các thế hệ; còn là nhân chứng của bốn mùa, còn cảm thấy nóng và lạnh, khoái cảm và đau đớn, cái đẹp và sự méo mó, sai và đúng, còn mẫn cảm trước những tai nạn của thiên nhiên, còn chiêm ngưỡng thế giới vĩ đại qua con mắt và đôi tai, còn lắng nghe tiếng chim trong rừng thẳm, còn bước đi trên đất hoang và những triển núi, còn nghe đội hợp ca trong đêm, còn thăm những khán phòng đầy ánh sáng, hay những thánh đường âm u, còn ngồi trong nhà hát chật người và xem bản thân sự đời bị lấy ra chế giễu, còn nghiền ngẫm những công trình nghệ thuật và mài giũa cảm quan về cái đẹp và sự đau khổ, còn thờ phụng danh tiếng và ước mơ bất tử, còn thu lượm sự thông thái cổ xưa và soi nhìn vào tương lai, còn lắng nghe tiếng kèn xung trận, tiếng hô của chiến thắng, còn tra vấn lịch sử như là những chuyên dịch của con tim, còn đi tìm sự thật, còn biện hộ cho mục tiêu của con người, còn bao quát thế giới cứ như là được thời gian và thiên nhiên đặt những kho báu của chúng dưới chân chúng ta - vừa mới đó thôi, ta còn có tất cả.
Vậy mà chỉ tích tắc sau, chúng đã biến mất, như một hoang tưởng, như một chiêu trò của ảo thuật gia.
Sự chuyển dịch trong chớp mắt, từ tất cả tới hư không, khiến ta không tài nào chịu đựng được.[1]
Ba năm sau khi viết những dòng trên, William Hazlitt chết trong nghèo khổ, đau đớn triền miên và mê sảng. Lúc đó ông
năm mươi hai tuổi, đúng bằng tuổi tôi bây giờ. Cái ngày tôi tròn năm mươi đã đến và đi mà không để lại sự tàn phá tâm lý đáng kể, nhưng ở bên dưới bề mặt, tôi nhận thấy trong mình một sự bất an ngấm ngầm. Mùa hè năm trước, khi nhìn thấy thông tin giảm giá vé vào cửa cho người trên năm nhăm tuổi, ghi ở cổng một vườn quốc gia ở Borneo, tôi không biết mình nên phản ứng thế nào. Tôi sắp thuộc vào độ tuổi mà các cuộc khảo sát và nghiên cứu thị trường không buồn chia nhỏ phân khúc ra nữa.
Từ nhỏ, mỗi lần cắt móng tay, tôi lại dừng lại một giây, giơ mẩu móng tay bị cắt ra ánh sáng, xoay đi xoay lại ngắm nghĩa. Một phần cơ thể của mình đây, tôi tự nhủ, nó đã từng thuộc về mình, và giờ đây nó rời xa mình. Trong rất nhiêu năm, cái vật thể cong cong nằm giữa hai ngón tay của tôi kia mềm mại, dai và trong suốt. Thế rồi, vụt một cái, vào lúc nào đó mà tôi sao nhãng, bỗng nhiên nó trở nên cứng và đục và giòn.
Tôi hiểu rằng sự bối rối khiến tôi cáu kỉnh và bất an. Tôi đang bấu víu, tôi sợ mất đầu óc minh mẫn hiện nay của mình, mất cơ thể vẫn còn leo núi được của mình, tôi tham những cái tôi đang có, tôi sợ biến mất mà không để lại dấu vết gì. Tôi khước từ cái chết, mặc dù về mặt lý trí tôi hiểu rằng điều đó thật là trẻ con. Càng không chấp nhận, tôi lại càng tắc, giống một kẻ ngập trong cát lún mà cố giãy.
Tôi cần phải ngưng giãy giụa và vượt qua sợ hãi. Có những cách nào có thê’ giúp tôi đương đầu được với ý thức rằng tôi sẽ chết, sẽ biến mất?
Linh tính mách bảo rằng chạy trốn vào các lạc thú, tìm tới các sao nhãng tâm trí không phải là giải pháp. Không, tôi cần
phải làm bạn với cái chết, ở bên cạnh nó, phải ngắm nghĩa, sờ nắn nó, thân thiện với nó. Tôi phải học về nó.
Theo quán tính, tôi lên mạng, tìm hiểu về sự chết và cái chết. Tôi đọc về những nghi thức mai táng trong cấu trúc xã hội cổ đại, về quan điểm về cái chết ở thời La Mã, những lý luận của Aristoteles, các luận cứ của Heidegger, về việc sự hiện diện vật lý của cái chết đã biến mất khỏi xã hội đương đại như thế nào, trong khi nó lại có mặt hàng ngày hàng giờ trên truyền thông và phim ảnh ra sao. Tôi tìm tới những cuốn sách với những cái tên như Một lịch sử ngắn ngủi của cái chết, Sự chết và tổn thất ở thế kỷ 21, hay Cái chết bắt chước cuộc sống như thế nào: Những ảnh hưởng văn hóa lên nhận thức về cái chết và sự chết. Trong một khoảnh khắc dài, tôi mê man với chúng. Những cái tít uyên bác, những phân tích xã hội học, nhân học, lịch sử, triết học khiến tôi có cảm giác rằng cái chết chỉ là một đối tượng để nghiên cứu, như một chủng loại thực vật; một lĩnh vực thú vị để tìm hiểu, như lịch sử hôn nhản hay những nguyên lý xây dựng nhà nước hiện đại.
Tôi có cảm giác mình chế ngự được cái chết, tôi đứng bên trên nó, làm chủ nó. Chừng nào tôi vẫn xem xét và đánh giá nó như một điều tra viên hay một nhà nghiên cứu thì nó không làm gì được tôi. Nó không thể quay lại tấn công bộ não của tôi. Có lúc tôi quên rằng Sự chết và tổn thất ở thế kỷ 21 sẽ bao gôm cả bố mẹ tôi, vợ tôi, các con tôi, và tất nhiên, cả tôi nữa.
Rồi tôi nhớ ra rằng tới một lúc nào đó, tôi sẽ đánh mất khả năng cập nhật vê “những ảnh hưởng văn hóa lên nhận thức về cái chết”. Và tôi sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được khả năng này.
Mãi mãi là bao lâu?
“Mãi mãi là một quãng thời gian rất dài,” danh hài và đạo diễn Woody Allen đã nói, “đặc biệt là vào giai đoạn cuối.” Vào lúc này, tôi không cười được.
2
“DÙ TA KHÔNG BIẾT cái chết đợi ta nơi nào, hãy tìm nó ở tất cả mọi nơi.” Michel de Montaigne, một triết gia Phục hưng của Pháp, đề xuất chiến lược này cách đây gần bốn trăm bốn mươi năm. Ông viết những dòng này trong một cái tháp tròn trông như một pháo đài nhỏ, ở miền Nam nước Pháp, khi ông gần bốn mươi tuổi. Cái chết của một người bạn thân trước đó bảy năm khiến ông sầu muộn, và niềm khao khát được chuyện trò với bạn mình đã thôi thúc ông trở thành cha đẻ của thể loại tiểu luận, trong đó ông đặt bạn đọc vào chỗ của người bạn hiền để trò chuyện. Với ông, suy ngẫm về cái chết là suy ngẫm về tự do. Người đã từng học để chết là người đã giải phóng mình ra khỏi các ràng buộc và kiểm soát.
“Hãy tước khỏi cái chết cái mới mẻ và sự xa lạ, hãy chuyện trò và làm quen với nó, và để không gì xuất hiện thường xuyên trong các suy nghĩ của ta như cái chết." Montaigne kêu gọi trong bài luận Học triết học nghĩa là học chết[2]. Điều này lấy đi lợi thế bất ngờ của cái chết, nó không thế đánh úp ta. Ông kể lại một tập quán được cho là của người Ai Cập. Khi cuộc vui hội hè lên tới đỉnh điểm, họ cho đem vào phòng tiệc một bộ xương khô. Đó là một lời cảnh báo cho khách khứa về sự rình rập của cái chết, về thân phận mong manh của mỗi người.
Không chỉ ở người Ai Cập, thường xuyên nhắc nhở bản thân vê cái chết, về sự hữu hạn của mình, là cách các nền văn minh
vẫn làm, cho tới gần đây. Chỉ có xã hội hiện đại mới đẩy cái chết ra ngoài rìa, giấu nó ở nhà xác của bệnh viện hay trong những căn phòng sáng đèn neon của nhà tang lễ. Ngày nay, chúng ta chỉ nhìn thấy người đã qua đời khi họ đã được đánh phấn, chải gôm, ăn mặc chỉnh tể và nằm trong quan tài. Được cải trang thành giấc ngủ, cái chết đã trở nên xa lạ, như một vị khách đường đột, một sự kiện khó chịu của cuộc sống. Từ khi no đủ, người già không còn để sẵn một cái quan tài trong nhà nữa.
Hãy nhớ, mi sẽ chết[3] nhắc nhở này xuyên suốt trong đạo Cơ Đốc. Nó được khắc trên các nha mồ, nó hiện diện trong các bức tĩnh vật Phục hưng qua chiếc đầu lâu và đồng hồ cát, biếu tượng của thời gian trôi. Gần như cùng lúc Montaigne viết tuyển tập tiểu luận của mình, vào nửa sau của thế kỷ 16, danh họa Phục hưng người Hà Lan Pieter Brueghel mô tả quyền uy tuyệt đối của cái chết trong bức Chiến thắng của Thần Chết của ông. Trong một phong cảnh khô cằn và đầy khói lửa, trùng trùng điệp điệp những bộ xương, đội quân của Thần Chết, tràn tới. Vua, giáo chủ, quý tộc, nông dân, tất cả chạy trốn trong hoảng loạn, bị kéo lê, đâm thủng, nghiến nát dưới bánh xe ngựa, bị lùa vào chiếc hòm gỗ khổng lổ mang hình quan tài. Họ kêu khóc như ri. Một vài người rút kiếm, tuyệt vọng chống cự. Bên rìa trận thảm sát, nơi cái nhìn của người xem lưu lại cuối cùng, là một bàn tiệc bị bỏ dở. Vương vãi khắp nơi là những quân bài, bàn cờ, dấu vết của những trò tiêu khiển giết thời gian. Một đôi thanh niên vẫn mải mê đàn sáo, không hay biết là ngay trên đầu mình, một bộ xương đang đắc thắng xáp lại gần.
Tháng Hai gần qua. Tôi di dạo ở cánh đồng ngô gần nhà, nơi tôi có thể nhìn thấy những chiếc xà lan lặng lẽ trôi trên sông Đuống. Các luống ngô đã bắt đầu xoắn nõn. Lác đác vài người nông dân đang làm cỏ và đánh luống. Ven ruộng có một nấm
mổ nhỏ, vô danh. Tôi dừng lại và ngắm nó hồi lâu. Ai nằm ở dưới nó, một cậu bé, một người mẹ trẻ? Lúc lâm chung con người này đã nghĩ gì? Họ đã đau đớn và sợ hãi đến nhường nào?
Gần đây tôi quay lại đọc Satipatthana Sutta, kinh Tứ Niệm Xứ. Là một trong những bài kinh trụ cột của triết lý Phật giáo, nó dạy chúng ta đối diện với cái chết bằng cách nhìn kỹ vào thân thế của ta, giống một bác đổ tể ngồi giữa ngã tư xẻ con bò ra thành nhiều phần.
Cơ thể ta ư, nó là cái gì? Nó chỉ là một cái bao tải bằng da đựng một đống bùng nhùng mà thôi. Này đây là tóc, này đây là lông, móng, răng, da., thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương, nước tiểu.
Còn khẩn thiết hơn Montaigne, còn trực diện hơn hình ảnh điệu nhảy của Thần Chết trong những cuốn sách Trung có phương Tây, kinh Tứ Niệm Xứ bắt ta quan sát tính vật lý của cái chết.
“Lại ví như khi thấy một xác chết bị liệng vào bãi tha ma đã được một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, sình lên, xanh lại, thối nát ra, vị khất sĩ quản chiếu sự thật ấy vào chính thân thể
mình: ‘Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát’.”[4]
Phải rồi, tôi rồi cũng sẽ như vậy thôi. Bốn phút sau khi con tim tôi ngừng đập, quá trình phân hủy của tôi sẽ bắt đầu. Giống như nước ở một đài phun nước bị mất điện, máu của tôi sẽ theo lực hấp dẫn mà trôi xuổng những điếm thấp nhất của cơ thể, đọng lại thành vũng khiến làn da tôi ở chỗ đó trở nên xanh lơ. Nồng độ thán khí trong máu sẽ tăng, các tế bào của tôi sẽ bị đói ô xy, chúng sẽ bắt đầu bị đầu độc vì cơ chế lọc chất thải đã ngừng hoạt động. Người tôi sẽ lạnh dần, tôi sẽ mất hai độ trong giờ đồng hồ đầu tiên, và một độ trong mỗi giờ tiếp theo, cho tới khi nhiệt độ của người tôi bằng nhiệt độ của môi trường. Mức glycogen của tôi sẽ suy giảm, khiến các cơ không giữ được trạng thái thả lỏng, mềm mại nữa. Người tôi sẽ dần cứng lại, bắt dầu từ mi mắt, cổ và hàm.
Các tế bào của tôi sẽ bắt đầu bị phá hủy, từ trong ra ngoài. Khi sụp đổ, chúng sẽ giải phóng ra những chất lỏng sền sệt giàu dinh dưỡng. Không còn bị ngăn chặn, triệu triệu siêu vi trùng sẽ bắt đầu tấn công các mô mềm của tôi. Chúng sẽ sinh sôi nảy nở, tràn tới những miền xa xôi nhất, chúng ngấu nghiến tinh bột, mỡ, chất đạm và thải ra khí. Khí hydrogen sulfide có mùi trứng thổi, thán khí, khí mêtan, khí ammonia có mùi hăng, khí lưu huỳnh ôxit, khí hydrogen. Những khí này sẽ khiến người tôi trương phình lên, chúng sẽ tập trung đặc biệt ở bụng, nhưng cũng ở háng, mặt và môi tôi. Ruồi và nhặng sẽ bay tới đẻ trứng vào những kẽ hở mà chúng tìm thấy: miệng tôi, lỗ mũi tôi, khóe mắt tôi, hậu môn và bộ phận sinh dục của tôi.
Nhìn đi, nhìn cho rõ đi! Không có những phân tích ở mức tế bào như ngành pháp y thế kỷ 21, nhưng kinh Tứ Niệm Xứ nắm gáy chúng ta, không cho phép ta ngoảnh đầu đi chỗ khác, bắt ta giương mắt ra nhìn cho tới khi cái xác chết chỉ còn là một mớ xương mục.
Montaigne, tranh Trung cổ, và kinh Tứ Niệm Xứ có tác động. Tôi nhìn thấy cái chết ở mọi nơi. Nhưng điều đó không làm cho tôi ổn hơn, thậm chí ngược lại. Buổi trưa, tôi ngồi trong quán, quan sát chung quanh. Một cô gái ngồi một mình, vừa ăn vừa nói chuyện với cái điện thoại để trên bàn, lúc thì cô nghiêng đầu, lúc thì cô vén tóc, lúc thì cô dừng nhai, rồi cô ngả người ra sau cười, bàn tay duyên dáng che miệng. Tôi liên tưởng tới con gà lang thang mổ cơm trong sân, con chó gãi bụng khi ngủ trưa, con tắc kè xoay người săn muỗi, những sinh vật vô thức tận hưởng sự tồn tại của mình trước khi bạo lực chết chóc giáng xuống.
Lúc gặp bạn bè, tôi ngạc nhiên về sự vô tư vui vẻ của họ. “Các cậu không biết gì ư?” tôi muốn lay cho họ tỉnh. Tôi nhìn họ từ đầu tới chân và tự hỏi sắp tới bộ phận nào trong cơ thể họ sẽ gục ngã đầu tiên. Tôi thấy mình giống một đứa trẻ được báo trước rằng sau bữa tiệc rất vui vẻ này nó sẽ cùng bạn bè bị đập một búa vào đầu, bị kéo lê trên mặt đất và vứt xuống rãnh. Còn bây giờ, cuộc vui vẫn tiếp tục, bạn bè nó vẫn đang hân hoan.
Buổi tối, tôi nhìn những tay thanh niên say sưa chơi nhạc trong quán bar, chân đánh nhịp, điếu thuốc cắm khóe miệng. Tôi đang chứng kiến tuổi trẻ ăn mừng chính mình. Tôi cá là lúc này họ đang có cảm giác quỹ thời gian của họ là vô hạn. Tôi
mường tượng khuôn mặt cậu chơi trống bị giòi ăn mất nửa dưới, lộ hết hàm răng ra, và chúng đang tấn công hai con mắt của cậu. Tôi hình dung là mỗi người được cấp một cái phiếu để xuất hiện trên trái đất này. Cái phiếu có hạn, nhưng không ai biết thời điểm nó hết hạn. Người ta chạy loăng quăng trên thế giới, ngó nghiêng, làm cái này, làm cái kia. Rồi “Bùm!” phiếu hết hạn. Chỉ còn lại một đống xương rời rạc đó đây, chỗ này là xương tay, chỗ nọ là xương ổng chân, chỗ kia là xương bắp về, chỗ kìa nữa là xương mông, xương sống và đầu lâu.[5]
Về nhà, tôi nhìn Mai An đang ngủ và hình dung ra cái chết của nó. Tôi tưởng tượng ra nó trên giường bệnh, da bọc xương, cái đầu to quá khổ. Nó không cử động, chỉ còn đôi mắt dõi theo người trong nhà. Tôi biết rằng dù có đọc kinh Tứ Niệm Xứ đến bao nhiêu lần thì tôi cũng không chuẩn bị được cho mình để dối diện với giờ phút đó.
Cuối tuần, chúng tôi ngồi trong phòng khách của bố mẹ tôi. Mặt mẹ tôi vẫn đầy vẻ kinh hãi. Ông bà vừa thăm một bà cô trong nhà dưỡng lão. Từ lâu, bà đã không nhận ra con gái mình, không biết mình là ai, mình đang ở đâu, và hay gào thét tới khản cả giọng mà không ai biết vì sao. Cả ngày, bà ngồi đờ đẫn trong phòng sinh hoạt chung, xung quanh là những cơ thể xám xịt, gầy gò, bơi trong những bộ quần áo bạc màu. Một cơn bão âm thanh tuôn ra từ màn hình TV lớn treo trên tường, bao trùm lầy những thân thể bất động. Dường như người ta hy vọng rằng sự ầm ĩ sẽ đem lại sinh khí cho nơi đây.
“Sợ quá!” Mẹ tôi kêu lên. “Sống như thế thì sợ quá!" Không ai nói gì. Rồi bố tôi gợi chuyên khác, chuyện thực phẩm bẩn, chuyện biển đảo, chuyện tham nhũng. Những bức xúc xã hội
giúp người ta tạm quên sự hữu hạn của bản thân. Từ vài năm nay, mỗi khi trở về từ một đám tang đồng nghiệp cũ hay bạn bè, nếu người đó dưới bảy mươi lăm tuổi, bố tôi sẽ tặc lưỡi, “Còn trẻ quá, tay đó còn rất trẻ, thế mà..." cứ như ông trách móc người chết đã không biết giữ gìn sức khỏe. Cứ như cái chết ở tuổi đó là điều gì bất thường.
Khi đi cùng bố mẹ, tôi hay quan sát hai người bước xuống bậc thang. Chân phải, chân trái. Nghỉ. Ước lượng khoảng cách. Chân phải, chân trái. Ống quán bố tôi rộng thùng thình. Quá trình teo cơ ở ông đã tiến khá xa.
Năm nay bố tôi tròn tám mươi tuổi. Mẹ tôi kém ông hai tuổi. Tuổi thọ trung bình của người Việt là bảy mươi lăm năm và sáu tháng. Hai người đang sống bằng borrowed time, thời gian đi mượn. Cụm từ tiếng Anh này được từ điển Merriam
Webster định nghĩa là sự trì hoãn của điếu gì đó không thế tránh được.
Một sự trì hoãn ngoài tầm kiểm soát và có thể kết thúc bất cứ lúc nào, cuốn từ điển bổ sung.
Thời gian đi mượn. Thời gian được mượn của ai? Của Thần Chết.
Đêm hôm đó, trong giấc mơ tôi thấy mình bị lịm dần vào cái chết. Tôi vùng vẫy, cố gắng thoát ra. Tỉnh dậy, tôi thấy mình đang cỗ gắng chui ra khỏi màn, đầu đã ở bên ngoài, người vẫn ở bên trong, thở gấp.
Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy sách vở và kiến thức không giúp tôi đi tiếp để thoát khỏi sự bối rối và bất an này. Tôi
cần một cách khác, một con đường khác. Nhưng cách nào, con đường nào?
Tôi tìm lại một bài báo tiếng Đức tôi đã đọc cách đây mấy năm. Hồi đó, có cảm giác lờ mờ là nó quan trọng với tôi, tôi đã lưu nó lại.
Trong bài, tác giả, nữ nhà báo Ilka Piepgras nói về bản thân mà cứ như nói hộ tôi. “Tôi muốn tới gần cái chết tới mức nó không còn làm tôi sợ hãi. Tôi muốn đối mặt với nó bằng kinh nghiệm và kiến thức.” Bà có thôi thúc này sau khi chứng kiến cái chết đột ngột của một người hàng xóm gần gủi. Cũng như tôi, bà đã tìm tới sách vở, và chúng cũng không giúp gì bà. “Những cuốn sách làm tôi buồn chán. Chúng chẳng liên quan gì tới tôi. Cái chết vẫn chỉ là một đống chữ cái lùng bùng, đầy đe dọa, nhưng trừu tượng.” Bà muốn tìm tới người già để nói chuyện, nhưng thấy khó khăn để hỏi họ rằng, “Cuộc đời bác sắp kết thúc rồi, bác thầy thế nào?” Cũng như tôi, bà không nói chuyện được về cái chết ngay cả với bố mẹ mình - đặc biệt là với họ - mặc dù họ đang già yếu dần. Cũng như tôi, bà muốn chuẩn bị cho bản thân, và chuẩn bị tinh thần cho bó mẹ khi thời điểm đó tới.
Cuối cùng, Ilka Piepgras quyết định đăng ký để thành một tình nguyện viên đồng hành với những người gần đất xa trời. Bà trở thành một sterbebegleiter - trong tiếng Đức, sterben là chết, begleiter là người đồng hành - một người đi cùng người cận tử trong những ngày tháng cuối cùng của họ, cùng họ đón cái chết. Người đồng hành đến với người bệnh nặng, trò chuyện với họ, giúp đỡ chuyện này chuyện kia, ghi nhận tâm trạng, lắng nghe những tâm sự của một cuộc đời sắp kết thúc.
Ilka Piepgras làm công việc này trong một năm, và năm này trở thành “một trong những năm đẹp đẽ nhất” của đời bà. Dường như bà đã học được những điều mà sách vở không dạy bà. Bà đã gặp được cái bà tìm. Trong lòng tôi nhen nhóm một ý định. Tôi sẽ làm theo cách của bà.
Tôi đợi thêm nhiều tuần nữa, chao đảo giữa quyết tâm và do dự, giữa sự hồi hộp trước cái mới và cảm giác mình chưa đủ mạnh mẽ đế tìm tới người sắp chết.
Từ từ, tôi cảm thấy mong muốn của mình lớn dần lên. Cuối cùng, để chặn đường lùi của mình, tôi kể về dự định của mình trong một bữa tối với gia đình. Mai Chi, con gái lớn của tôi, lắng nghe chăm chú, và nhắc tới cuốn Chối từ cải chết của Ernest Becker. Becker, một nhà nhân học người Mỹ-Do Thái, cho rằng con người ta trở thành anh hùng, xung trận hay dựng nên những đế chế vì họ khước từ chấp nhận cái chết. Họ làm tất cả những điều đó để chống lại điều mà họ biết sẽ xảy ra: họ sẽ biến mất và sẽ bị lãng quên. Cuốn sách được giải Pulitzer năm 1973, hai tháng sau khi Becker qua đời, vì ung thư, ở tuổi 49.
Mai An nói là nếu chết thì rất tiếc, vì nó không có cơ hội để chơi với các bạn và với Cream, con chuột bạch màu kem của nó nữa. Nó đề xuất tên cuốn sách của tôi là “CÁI CHẾT”.
Một tuần sau, Mai, vợ tôi, giới thiệu tôi với một người bạn. Người bạn này giới thiệu tôi với một bác sĩ chuyên về ung thư tại Khoa Nhi, Bệnh viện K3 Hà Đông, bác sĩ Việt Hương.
Và thế là, qua Việt Hương, tôi bước vào một thế giới mới. Một thế giới của những bi kịch và tổn thất khổng lồ, của phẩm
giá và lòng tự trọng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, của sự phản bội và sợ hãi, của tình yêu mãnh liệt và hy vọng khôn nguôi. Tóm lại, của tất cả những gì thuộc về con người, ở mức độ dữ dội nhất.
HÀ VÀ NAM
3
HÀ[6] CÓ TRÍ NHỚ như một cái máy tính. Chị nhớ đã cho Nam, con trai đầu của chị, ăn gì vào hôm nào, hôm đó Nam mặc gì, cậu nói gì và chị trả lời ra sao. Có lẽ điều này liên quan tới công việc của chị ở một phòng thí nghiệm hóa sinh. Có lẽ vì quãng thời gian mà chúng tôi nói tới là quãng thời gian đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời chị. Tôi gặp Hà lần đầu trong một café cách Bệnh viện K của bác sĩ Việt Hương chỉ vài cây số. Hà mặc đồ đặc trưng văn phòng, váy cổ tròn, vai bổng. Hai tay chị đặt lên trên cái túi nhỏ để trong lòng. Tuần trước, trên điện thoại, khi biết tôi được bác sĩ Hương giới thiệu, Hà đồng ý gặp ngay. Cái tên Việt Hương, tôi nhận ra, gần như có thể mở mọi cánh cửa cho tôi.
“Thế em có nhớ cái ngày em nhận được tin xấu không?” Tôi hỏi Hà.
“Có chứ anh,” không để tôi nói xong, chị trả lời ngay. “Mùng bảy tháng Mười Hai năm 2014. Hồi đó thằng Nam nhà em học lớp Ba, tám tuổi. Cháu ăn uống dễ lắm, rất là mập mạp. Bốn mươi ki lô gam, cao một mét tư.”
Ba tháng trước đó, đúng vào khoảng sinh nhật thứ ba mươi tám của Hà, Nam bắt đầu kêu đau chân. Liệu Nam đã va đập
khi đá bóng? Hay đây là chứng nhức xương của tụi trẻ đang lớn? Hà mua calcium và magnesium B6 cho con uống. Cơn đau chập chờn, đến rồi đi.
Bẵng đi một thời gian, tới một buổi chiều thứ Sáu đầu tháng Mười Hai, Hà còn nhớ, lúc đó Nam sắp thi học kỳ I, trong lúc cậu giội nước tự tắm rửa thì bà ngoại cậu nhìn thấy đầu gối Nam hơi bị sưng. Tối hôm đó, sau khi cho Thắng, cậu em trai hai tuổi của Nam, đi ngủ xong, Hà sờ nắn nhẹ chỗ sưng ở chân Nam. “Thôi chết rồi, mẹ sợ là viêm khớp,” chị nói với con, “để mẹ đưa con đi khám.”
Hôm sau, hai mẹ con có mặt ở bệnh viện gần nhà từ sớm. Trong đầu Hà luẩn quẩn mấy câu hỏi. Liệu Nam có cần giảm cân không? (Chị nghe nói béo là một trong những lý do chính gây viêm khớp). Nên uống vitamin với thuốc gì để giúp sụn khớp nhanh phục hồi?
Tới gần trưa thì có kết quả X quang và siêu âm, một thứ chị hoàn toàn không tính đến: u xương chày, chưa rõ lành hay ác tính. Hoang mang, Hà rút điện thoại ra gọi cho một người bạn bác sĩ. Anh này khuyên chị đưa Nam vào Bệnh viện K hoặc Việt Đức. Nghe tới chữ K, Hà ớn lạnh. Chị chọn Việt Đức.
Cả cuối tuần, Hà lùng sục thông tin trên mạng. Ngày thứ Hai ở Việt Đức dường như dài vô tận. Tới chiều, Hà cầm kết quả trong tay. “Tình hình rất xấu”, người ta nói với chị như vậy. Muốn tránh mà không được, thứ Ba, chị đưa Nam tới Khoa Nhi của Bệnh viện K. Lúc này chị không thể biết là nơi đây về sau sẽ trở nên thân thuộc như ngôi nhà thứ hai của chị.
Hai vợ chồng Hà vốn đã trục trặc từ mấy năm nay. Hầu như chị không nhận được sự trợ giúp gì từ chồng trong cuộc sống hàng ngày. Vấn để lớn nhất của chồng Hà, theo lời chị, là “anh ấy như trẻ con”, và cuộc sống gia đình, với anh ấy, “như một trò đùa”. Hai người là bạn học của nhau, nhưng tới giờ Hà phải đúc kết về chồng mình bằng một nhận xét khá trừu tượng: “Nhận thức sai, tư duy suy nghĩ sai, nên dẫn tới hành động sai.” Gặng hỏi, tôi biết được là rượu đóng một vai trò.
Hôm đó thì chồng Hà đi cùng. Bác sĩ nhận phim, vào phòng riêng, một lúc sau quay ra và gọi hai vợ chồng vào. Nam đợi ở bên ngoài. Tim Hà đập thình thịch. Sự hồi hộp khiến mọi thứ hơi bị nhòe nơi khóe mắt chị. Không ai nói gì trong vài giây. Thế rồi, ông bác sĩ mào đầu:
“Anh chị cần xác định tư tưởng.”
“Xương đùi, xương mắt cá...,” ông trình bày tiếp, “tất cả đã bị tổn thương.”
“Chín mươi chín phần trăm là ung thư rồi,” ông kết luận, theo cái cách người ta vẫn làm để gạt bỏ mọi hoài nghi và các thể loại “Nhưng mà...?” và “Liệu còn...?”
“Sẽ phải làm sinh thiết,” ông chốt lại cuộc nói chuyện. “Những ca khác thì còn 50-50, nhưng ca này thì đã quá rõ ràng rồi, làm sinh thiết chỉ để có ý nghĩa pháp lý và hoàn thiện hồ sơ thôi.”
Tất cả chỉ kéo dài có vài phút. Hai vợ chồng Hà líu ríu ra khỏi phòng. Chị tránh nhìn Nam khi nó chạy tới ôm chị. Hà không nhớ được là chị đã về nhà như thế nào.
Hà im lặng, rồi quay ra nhìn tôi. “Thực ra lúc đó thì em cũng đã hiểu rồi,” chị nói. “Nhưng nó tới quá nhanh, mình không nghĩ là nó lại khốc liệt thế.”
Đằng sau Hà, bên ngoài cửa sổ, trời tháng Ba mù mịt và ướt át. Sáng nay, trên đường tới đây, tôi bỗng có cảm giác là khi kết thúc cuốn sách này tôi sẽ xong việc với cái chết, tôi có thế gạt nó sang một bên, không phải nghĩ tới nó nữa. Cái chết chỉ là một dự án, còn tôi thì vĩnh cửu, tôi sẽ cứ như thế này suốt, mãi mãi.
Noel 2014, Nam bắt đầu truyền hóa chất. Trong bức ảnh Hà chụp cho cậu cùng “ông già Noel” (do một cậu sinh viên tình nguyện viên mặt còn non choẹt đóng), Nam vẫn còn tóc.
Với sự chuyên nghiệp của một thí nghiệm viên, Hà xắn tay áo lên tối ưu hóa mọi thứ, và chị kể lại với niềm tự hào rõ rệt. Hơn hai năm sau, chị vẫn thuộc lòng quy trình do chị thiết kế, thử nghiệm và hoàn thiện trong chín tháng.
“Buổi chiều truyền hóa chất xong, qua đêm giải độc, sáng hôm sau em cho nó cấp tốc ăn. Tới ngoài chín giờ sáng, y tá cắm kim truyền hóa chất lần tiếp theo thì cháu đã có ít thức ăn trong dạ dày.”
Với phần lớn các bệnh nhân khác, truyền hóa chất là một cực hình. nhiều đứa trẻ không ăn được gì, sức khỏe đi xuống, tinh thần đi xuống, chỉ số bạch cầu và hồng cầu đi xuống, chưa phục hồi thì đã đối mặt với đợt truyền tiếp theo. Nhưng trong những ngày truyền, Nam chỉ hơi cảm thấy nôn nao. Cậu vẫn vui vẻ và sau hai ngày giải độc đã có thể ăn bình thường. Trên giường bệnh, Nam lướt web nhoay nhoáy bằng cái iPad, xem
Doremon và phim siêu nhân. Từ khi bị bệnh, cậu được mẹ thả lỏng việc dùng iPad, khiến Thắng nhiều lúc ghen tị. “Mẹ ơi, con may mẹ nhỉ,” thỉnh thoảng cậu lại nói với mẹ, “con may vì con không làm sao cả, con không cảm thấy mệt.” Nam bắt đầu quan tâm tới bệnh tật của mình.
Một buổi chiều, Hà kể lại, khi hai mẹ con nằm trên giường bệnh, Nam hỏi:
“Bệnh gì là nặng nhất hả mẹ?”
“Bệnh con đang mắc là bệnh nặng nhất.”
“Thế bà không phải là bị nặng nhất hả mẹ?”
Mẹ Hà bị suy tim, tiểu đường, huyết áp thấp và mỡ máu. Nam thấy mỗi ngày bà ngoại uống một vốc thuốc. “Bà có nhiều bệnh nhưng vẫn có thuốc để chữa trị, còn bệnh của con hiện tại vẫn đang là nặng nhất.”
Một hôm khác, đang chơi thì Nam bỏ cái iPad xuống. “Mẹ ơi,” Nam nói, “mẹ ơi, con xin lỗi mẹ.”
“Sao vậy con?”
“Con bị bệnh nặng như thế này, mẹ và những người trong gia đình phải chăm sóc con, nên là con xin lỗi mẹ.” “Con không cần nói như thế, vì con bị bệnh là nặng nhất rồi. Và đây là bệnh con không mong muốn. Do vậy, con là người đang chịu khổ, bất hạnh nhất chứ không phải là mẹ.” Hà khóc thành tiếng. Chị vớ tờ giấy ăn đưa lên má mà không kịp chặn dòng nước mắt. Trước mặt chị là một đống giấy đã bị vo nhàu và đẫm nước. Lúng túng, tôi vô ý ngồi yên, khiến Hà vừa gạt nước mắt vừa phải nói cậu chạy bàn đem
thêm giấy ăn tới. Ở bàn đằng sau, mấy người trung niên huyên náo với nhau. Một bà béo tóc xoăn tít nói nhiều và to. Nam bắt đầu quan tâm tới cái chết.
Một hôm, bỗng nhiên cậu nói với mẹ, “Mẹ ơi, có phải sau này ngày nào mẹ cũng cho con ăn hoa quả không?” “Cái thằng cu nhà em học văn rất là kém, chỉ có kiến thức xã hội là cao thôi, còn văn vẻ dùng trong các ngữ cảnh rất là tệ.” Hà vừa lau nước mắt vừa hơi mỉm cười nhớ lại. “Ví dụ như cốc nước này, em lấy ít thì nó sẽ hỏi là ‘Mẹ ơi, sao mẹ lấy thấp thế’. Có sửa cho bao nhiêu lần thì vẫn nói thế. Hoặc nó sẽ bảo ‘Mẹ ơi mẹ mở cho con quả bưởi’. Mở chứ không phải là bóc.” “Con nói thế nghĩa là thế nào?” Hà hỏi lại.
“Tức là sau này ngày nào mẹ cũng thắp hương cho con ấy, cúng hoa quả trên bàn thờ ấy.”
Dưới sáu tuổi, trẻ em cho rằng cái chết chỉ mang tính tạm thời, và trạng thái chết có thể được thay đổi. Chúng không hiểu được tính vĩnh cửu và tính không thể đảo ngược của cái chết. Giống đồ vật hỏng có thể gắn lại được, chúng cho rằng con người hay con vật chết là đi vào giấc ngủ, họ sẽ thức dậy; hay họ đi xa và sẽ quay về.
Từ sáu tới chín tuổi, lứa tuổi của Nam, trẻ em đã hiểu rằng cái chết là vĩnh cửu, chứ không phải là một trạng thái tạm thời. Nhưng phần lớn vẫn không nắm được tính phổ quát của nó. Chúng cho rằng cái chết không xảy ra với tất cả mọi người, nhất là không xảy ra với thầy cô giáo chúng, với bố mẹ chúng, hay với bản thân chúng.
Nam đang ở ranh giới mơ hồ của ý thức về cái chết. Cậu kết nối được hoa quả, hương và bàn thờ với khái niệm chết, nhưng nó vẫn là một cái gì trừu tượng không liên quan gì tới cậu hiện nay.
“Sao con lại nói thế?” Hà hỏi lại.
“Ờ, thì con vào Google tra thì họ bảo ‘Mấy ca này đi hết ấy mà’ mẹ.”
“Ừ thôi, cái gì đến thì nó sẽ đến con ạ.”
“Ơ, thế thì con sẽ chết hả mẹ?” Nam hỏi lại.
“Mẹ không biết, mọi việc bây giờ mẹ cũng chịu rồi. Mẹ đã giải thích cho con là bệnh của con là bệnh nặng...” Sự mơ hồ khiến cậu không quá buồn.
Ngẫm nghĩ một chút, Nam thốt lên:
“À mẹ ơi, con biết rồi, chết vẫn gặp được nhau.” “Con nói cái gì vậy?”
“Ra mộ ấy, gặp nhau ở ngoài mộ ấy,” Nam cười, hài lòng về sự thông thái của mình.
Tháng Năm tới, cùng những cơn nóng đầu tiên của năm. Hồi đó Khoa chưa có điều hòa. Phòng của Nam thường xuyên đông đúc, có khi có tới ba bệnh nhân trên một giường. Trẻ nhỏ không hiểu sao chúng phải ở đó; chúng kêu khóc và đòi về nhà. Ngày nào, trong phòng thủ thuật, nơi lấy máu xét nghiệm, tiêm tủy và lấy ven truyền, cũng vọng ra những tiếng thét của trẻ em. Lũ trẻ được bế ra với nét mặt kinh hoàng, những cánh tay gầy guộc bám chặt lấy cổ bố mẹ, ven ở tay đã bị xơ cứng. Những đứa phải chọc tủy thì cần tới ba người lớn để giữ. Cái
kim chọc tủy dài gần bằng gang tay. Khi chọc xong, chúng rũ ra, nằm im mười lăm phút. Mỗi lần chứng kiến, Hà thấy bủn rủn và không thể chịu đựng nổi.
Tình hình của Nam tiến triển không tốt. Vài ngày sau sinh nhật tròn chín tuổi của cậu, các bác sĩ đề xuất với Hà là Nam cần phải được cắt bỏ chân.
Ngày đầu vào Khoa Nhi, Nam nép sát vào mẹ, kinh hãi nhìn mấy bạn chống nạng qua lại. Có bạn không có cẳng chân, có bạn mất cả đùi. “Mẹ ơi, sợ nhờ!” cậu lấy tay bịt mắt, nhưng vẫn nhìn qua kẽ ngón tay. Đó đều là những ca ung thư xương, Hà giải thích cho tôi. Ưng thư loang tới đâu, phải tháo bỏ phần đó. Chân, đùi, tay. Thậm chí hàm dưới, hay con mắt.
“Mẹ ơi, thế sau này con cũng phải cắt chân như thế kia à?” “Mẹ cũng không biết, bây giờ mình xác định bệnh con là nặng rồi, bác sĩ bảo sao thì mình nghe vậy.” Quan điểm của Hà là không bao giờ nói dối. Chị cố lấy giọng cứng cỏi và bình thản. “Bác sĩ bảo cắt thì mình cắt thôi con. Cái chân của con như cái cành cây mục ấy. Cái gì đã bị tổn thương rồi thì con nên bỏ nó đi rồi mình đi nạng.”
Thỉnh thoảng, chị lại giải thích lại cho con, mà cũng như để trấn an bản thân. “Con bỏ cái chân đi là để con không đau đớn, con ạ. Con để lại chân, nó ăn lên phần mềm thì con đau lắm.” Hy sinh cái chân để con không bị đau, chị nhiều lần tự nhủ.
Chị có không nghĩ tới những trường hợp chị chứng kiến, đứa trẻ bị tháo đầu gối, rồi tháo khớp háng, rồi bị di căn vào phần mềm. “Ông Trời cho thế nào thì được như thế,” chị thầm nghĩ. Lần đầu tiên trong đời chị cảm thấy sâu sắc tới như vậy
rằng số phận của mình được đặt vào tay của một thế lực siêu nhiên bên ngoài.
“Thực ra thì mình khuyến khích động viên con vậy, nhưng trong lòng em thì đã đến mức tận cùng của nỗi đau,” chị nói với tôi.
Tuy đã tự trấn an như vậy, nhưng khi bác sĩ lần đầu đề xuất bỏ chân Nam, chị vẫn không thể gật đầu.
Khác với tiêm thuốc hay lấy máu, mất chân, mất tay tấn công vào bản thể của người bệnh, khiến người bệnh cảm thấy mình không còn là mình nữa. Hơn cả những cơn đau thế xác, sự mất mát này nằm ngoài khả năng chịu đựng của nhiều đứa trẻ, tới mức chúng cương quyết cự tuyệt. Mọi lời khuyên bảo từ bác sĩ đều vô ích, có những đứa đến chết cũng không để bị cắt tay, cắt chân. Có đứa lớn hơn dọa sẽ nhảy lầu tự tử. Trong nửa năm ở bệnh viện, chị đã nhìn thấy những cái chân to như cột đình, những cái tay phình ra như gốc cây, gắn vào những thân thể trẻ em.
Trong một khoảnh khắc, chị đánh mất tư duy khoa học của một thí nghiệm viên, và tìm tới một ông bác sĩ tư nhân mà chị nghe người ta đồn là “rất giỏi” và “tu học ở Mỹ về”. Khi Hà tới, phòng khám của ông này đông nghẹt người. “Việc gì mà phải cắt chân!” Ông bác sĩ mắng chị, rồi kể một loạt thực phẩm chức năng, và nói rằng chỉ sau vài tháng là Nam sẽ “chạy nhảy, đá bóng bình thường”. Nghe những chữ này, Hà bán tín bán nghi, nhưng chị thấy như có những giọt nước mát chạm vào cổ họng khát khô của mình. Sau một tháng, Nam uống hết bảy triệu tiền thuốc thì chị bừng tỉnh. “Vớ vẩn, anh ạ,” chị nhớ lại.
Tới tháng Bảy, cái chân của Nam đã sưng to lên gấp đôi. Giữa tháng, chị đưa Nam sang Việt Đức làm phẫu thuật bỏ chân. Hôm đó, cũng như mọi hôm khác chỉ có hai mẹ con đi với nhau. Từ đầu năm, Hà hoàn toàn một mình trong việc chăm sóc Nam và chăm lo cho Thắng ở nhà. Ở Khoa, ai cũng thầm thắc mắc về hai mẹ con người Hà Nội mà chả có ai giúp cùng. Đó là giai đoạn mà Hà mô tả là “bố nó thì say rượu, con thì đầu trọc lốc, ông bà thì bỏ đó.” Cũng giống như nhiều phụ nữ bị ung thư hoặc có con bị ung thư khác, đặc biệt là ở nông thôn, Hà bị gia đình nhà chồng cho là có “nghiệp chướng”, đem tai ương về nhà họ.
Tối hôm trước, Hà viết trên Facebook của mình, “Vẫn biết phải cố gắng, nghị lực để cùng con đi tiếp, nhưng thực sự là rất rất đau: đau trong tâm, đau trong tim và nỗi đau này ngày càng nhân lên.”
Mấy tiếng sau, chị viết thêm, “Chính thức đầu hàng số phận.”
Nam bị cắt chân sau đợt truyền hóa chất thứ sáu. Thông thường, cứ sau ba đợt, bác sĩ sẽ kiểm tra xét nghiệm tổng thể, nếu kết quả tốt thì sẽ cho dừng điều trị ba, sáu hay mười hai tháng, cho tới lần xét nghiệm sau. Nhưng ở Nam, những chỉ số ung thư không bao giờ lùi.
Sau khi bỏ chân, Nam được truyền thêm ba đợt hóa chất nữa, tổng cộng là chín đợt, mỗi đợt cách nhau hai mươi mốt ngày. Phác đồ điều trị nặng, nhưng tốc độ di căn vẫn rất nhanh. Tới tháng Mười thì bác sĩ trả Nam về nhà. Hóa chất sẽ chỉ ảnh hưởng tới các cơ quan nội tạng của Nam, họ nói, chứ
không thay đổi được gì. Lúc này, ung thư đã tấn công vào phổi. Phổi cậu sẽ dần trở thành một căn phòng bị đóng kín, không có ô xy nữa. Đó là hình ảnh ông bác sĩ dùng để giải thích cho Hà.
Vậy là cánh cửa hy vọng cuối cùng đã khép lại. Y học chính thức đầu hàng. Với nhiều gia đình, những lời này từ miệng bác sĩ như một tiếng sét, khiến họ sụp đổ. Họ khóc lóc, van xin được điều trị tiếp. Họ bán nhà bán cửa để chi trả một trăm năm mươi triệu đồng cho một mũi tiêm. Họ xin thử phác đồ này, phác đồ kia, đày ải người bệnh bởi các hiệu ứng phụ như ở địa ngục trần gian, cho tới phút chót. Họ tìm tới các loại thuốc Bắc, thuốc Nam, lá này, cao kia, quay cuồng với lời hứa hẹn của các ông thầy lang, trong khi thời gian vùn vụt trôi.
Hà muốn tôi hiểu rằng chị là người cứng cỏi và hiểu biết. “Với em, em là người hiểu biết nên em không bao giờ xin bác sĩ điều trị thêm,” chị nói. “Với em, khi bác sĩ bảo dừng thì em ok. Cái bệnh của cháu đến cả thế giới còn chưa có biện pháp. Lúc bác sĩ nói thì em hiểu là số trời đã định rồi.” Dường như việc coi bản thân là “con người hiểu biết” giúp chị chấp nhận sự thật trần trụi dễ hơn.
Cuối tháng Mười năm ấy, trời vẫn nóng. Hà cho Nam, Thắng, cùng hai đứa con của người anh trai Hà, cũng trạc tuổi Thắng, đi chơi công viên. Tuy vết thương đã lành, nhưng Nam vẫn khước từ dùng nạng. Hà đẩy Nam trên xe lăn, chiếc dép đơn nhựa tổ ong của cậu cắm ở một bên. Ba đứa “tiểu yêu”, theo cách gọi của Hà, lít nhít đi bên cạnh. Tới chỗ chơi, Nam, béo tốt, áo phông đỏ, quần soóc tím than, hò hét chỉ huy. Tuy chỉ còn một chân nhưng cậu vẫn leo trèo, lăn lộn trên cái nhà
phao dập dềnh, mồ hôi chảy từ má xuống ngực. Cái ống quần rộng bên phải của cậu cuộn lại nhăn nhúm.
Hà cho tụi nhỏ lên đu quay rồi ngồi trên ghế đá dõi theo. Hình ảnh Nam thoăn thoắt trên đôi chân của mình ở công viên Linh Đàm năm trước thoáng qua đầu chị. Nam và Thắng trôi ngang qua, quay lại vẫy gọi, khiến chị gắng gượng mỉm cười. Khi nào thì chị có thể quen được với sự mất mát này? Chị cảm thấy sức mình đã cạn kiệt. Sự rạng rỡ vô tư của Nam khiến chị vừa được an ủi vừa đau đớn. Chị chọn những từ ngữ nghiêm
túc để gửi lên trời. “Xin tạ ơn Trời Phật đã phù hộ độ trì cho cháu Nam hiện nay vẫn giữ được thể trạng tốt và tinh thần lạc quan, mặc dù bệnh của cháu vẫn rất nặng.”
Chiều xuống, Hà lái xe chầm chậm về nhà, trôi theo dòng người trên phố. Ở ghế bên, Nam lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Đằng sau, ba đứa trẻ ngủ lăn lóc. Ngoài kia, những cửa hiệu và quán ăn bắt đầu sáng đèn. Một ngày nữa lại qua đi. Hà hiểu rằng những giây phút hạnh phúc như hôm nay sẽ không còn nhiều. Nhưng chị không biết rằng Nam sẽ chỉ còn sống mười tuần nữa.
Sang tháng Mười Một, Nam yếu đi. Cậu không ăn được, cứ sau một vài thìa cháo cậu lại nôn. Hai mẹ con lại quay vào viện. Bác sĩ phỏng đoán ung thư di căn vào não gây cảm giác buồn nôn, nhưng không phải. Vào lại viện, được truyền dịch một chai, cậu lại ăn được bình thường. Hà cho rằng đó là do Nam khao khát được chữa bệnh. Không gian bệnh viện khiến cậu yên tâm hơn. Mặc dù các bác sĩ đã ngừng mọi can thiệp, nhưng chỉ một chai truyền dịch cũng khiến cậu nghĩ rằng mình đang được chữa chạy.
Lại một Noel nữa qua đi. Hai mẹ con quanh quẩn trong bệnh viện, không có xét nghiệm, không trị liệu gì nữa. Hồ sơ của Nam đã được khép lại. Cậu vẫn thích xem phim trên iPad, và pha trò với mọi người.
Nam bắt đầu ho nhiều, thể lực cậu đi xuống, tuy cậu không bị đau. Về sau này, Hà vẫn luôn miệng cảm ơn Trời Phật đã cho Nam một cái chết nhẹ nhàng mà không quằn quại đau đớn như nhiều bệnh nhân khác. Lúc Nam mệt, không xem được phim nữa, cậu bám chặt lấy mẹ. “Con chỉ cần mẹ thôi, con chẳng sợ chết. Đi đâu có mẹ là được.” Cậu hình dung là mẹ sẽ đi theo cậu cả cuộc đời, cả cuộc đời cậu nằm trong vòng tay mẹ, do vậy cậu không hề sợ.
“May mắn quá, may mắn quá,” Hà nhắc đi nhắc lại. “Con không hiểu đến tận cùng của bệnh là sự chia ly, nó nghĩ là khi chết cũng có mẹ đi theo.”
Tới đầu tháng Một, mười ba tháng sau khi Nam nhập viện lần đầu, bỗng nhiên Nam muốn về nhà, mặc dù trước đó cậu vẫn nằng nặc đòi ở tiếp trong viện. Nam nói, “Con về chơi với em, con nhớ em lắm”. Điều này xảy ra với nhiều bệnh nhân ở giai đoạn cuối, Hà kể. nhiều khi, bỗng nhiên người bệnh đòi về. Mọi người cho rằng đó là một “cái điềm”. Do vậy, kể cả khi đang truyền hóa chất mà bệnh nhân đòi về thì bác sĩ cũng phải giải quyết cho về.
Vài ngày sau khi trở về nhà, Nam bắt đầu thở nặng nhọc. Ung thư xâm chiếm phổi cậu, khiến nó xẹp xuống. Không chịu được tư thế nằm nữa, cậu ngồi trên xe lăn, cả ngày lẫn đêm, đầu gục xuống ngực. Nửa đêm, Hà ngồi nhìn con thở, chập
chờn, mê sảng ú ớ. Bình ô xy Hà đặt lúc tối khiến cậu dễ thở hơn một chút. Bên ngoài, trăng sáng, trời khá lạnh. Hà biết là cái kết đang đến gần. Còn ba tuần nữa là Tết Nguyên Đán.
Chiều hôm sau, bình ô xy hết đột ngột. Do không có kinh nghiệm, Hà đã mở van to hơn cần thiết, ô xy thoát hết ra ngoài mà cũng chẳng vào phổi Nam được nhiều hơn. Nam ngoi ngóp, giãy giụa như một con cá trên thớt, thải hết phân và nước tiểu ra nhà. Hà điên cuồng gọi bình ô xy mới, nhưng nó tắc ở trên đường. Hà gọi xe cấp cứu, đưa Nam ngược vào khoa hồi sức cấp cứu của bệnh viện.
Nam khao khát được sống. Cậu nghe như nuốt lời của bác sĩ. Thấy bác sĩ đi ngang qua, cậu nói với theo “Bác sĩ ơi, bác sĩ cứu cháu.” Từ khi bác sĩ dặn Hà rằng chỉ số trên cái màn hình cạnh giường mà dưới 90 là nguy hiểm, cậu cứ nhìn chằm chằm vào nó, không rời mắt. Khi con số tụt xuống 85, cậu cuống quýt, “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ gọi cô y tá đi”.
Giữa Hà và chồng nổ ra một cuộc tranh cãi. Hà muốn đưa con vé nhà để còn “trợ niệm”, tức là gọi người tới tụng kinh niệm Phật, giúp Nam được siêu thoát. Từ khi Nam bị bệnh, chị tìm đến đạo Phật và càng ngày nó càng quan trọng với chị hơn. Chồng Hà không đồng ý. Đến lúc này, anh vẫn không tin rằng con mình sẽ chết, bởi trông cậu vẫn phốp pháp. “Nói chung là chồng em yếu đuối,” Hà nhận xét.
Tới sáng ngày 15 tháng Một, Nam lên cơn. Cậu giằng dây truyền dịch ra, máu bắn ra lỗ chỗ những đốm đỏ sẫm trên vải. Hà nói là đó hiện tượng “buồn chết”. Những người sắp chết mà lên cơn buồn chết thì cáu gắt, chửi tục, kể cả những đứa trẻ hai, ba tuổi. “Họ bồn chồn, họ sắp được đón đi.”
Giờ nghỉ trưa đã qua, quán café trở lại vắng vẻ, chỉ còn lại tôi và Hà và vài nữ sinh viên ngồi xa xa. Mái tóc dày và mượt của họ chảy dài xuống trước mặt. Họ gõ khe khẽ trên những chiếc laptop, tạo ra những tiếng động lách tách yên bình. Hà đã dùng hết cả tệp giấy ăn người chạy bàn đem tới lúc nãy. Chị dùng mu bàn tay lau má ướt. “Lúc nó lên cơn như thế, em đã tưởng nó đi rồi. Lúc ấy là lúc nó nằm giữa cái sống và cái chết rồi. Nhưng nó bình tâm trở lại. Em bảo nó ‘Nam ngoan của mẹ’. Nó đòi đi vệ sinh, nhưng mà không đi được. Nó mệt, không nói hay trả lời gì nữa.”
Bỗng nhiên Hà nhoài người ra phía trước. “Anh ơi, có một chuyện này nữa.”
Chị nhớ lại, buổi chiều hôm đó, tự nhiên Nam nói: “Mẹ ơi, con nhìn thấy thiên đường.”
“Lại mê sảng à con?” Hà hỏi lại, mặc dù lúc đó chị thấy Nam tỉnh, nó chỉ mệt và thở khó nhọc.
“Mẹ đừng nói nhiều, con mệt lắm, con nói thật.” Chị giật mình, “Thôi chết rồi, chắc có điều gì đấy.” Tôi không ngắt lời chị để hỏi vì sao chị lại giật mình và vì sao lại “Thôi chết rồi.”
“Con nhìn thấy gì?”
“Con nhìn thấy mây.”
“Con còn nhìn thấy gì nữa?”
“Con nhìn thấy đàn, thấy chim, thấy cá. Thôi mẹ đừng hỏi nữa để con nghỉ.”
“Con có nhìn thấy cô tiên không?” Hà gặng hỏi
“Không. Mẹ đừng nói gì nữa. Con mệt lắm rồi.” Rồi Nam lại chìm vào giấc ngủ.
Tôi và Hà trầm ngâm, để cho câu chuyện lắng vào bên trong. Sau này, khi tôi đọc nhiều tài liệu về giờ phút lâm chung, tôi biết là người sắp chết hay “nhìn” thấy trong phòng những người thân đã qua đời và có gắng chuyện trò với họ. Họ cũng hay nói về việc đi xa, họ hỏi vé tàu của họ đâu, vali đâu được chuẩn bị chưa. Nhưng chưa có sách nào nói tới cảnh trí mây, chim và cá. Liệu có sự khác nhau giữa phương Tây và phương Đông?
Hay mọi thứ chỉ diễn ra trong đầu Hà?
“Tức là nó thấy mây, thấy thiên đường, chim, cá,” Hà nhắc lại. “Mình buồn lắm chứ, nhưng lại nghĩ là có một cái điều gì đó mà em chưa hiểu.”
Tối hôm đó, bác sĩ khuyên Hà và chồng cho Nam về nhà, nếu không sẽ có khả năng cậu chết ở viện. Chồng Hà vẫn không chịu. Cả đêm hôm đó Nam không nói thêm gì. Sáng sớm hôm sau Hà vẫn đi phát từ thiện ở tầng trên. Đến tám giờ sáng thì chồng Hà đồng ý. “Tuỳ mẹ mày, muốn về thì cho về.”
Tới lúc đó, Nam vẫn không muốn về nhà. Cậu vẫn muốn ở lại để được các bác sĩ cứu sống. Hà nhờ bác sĩ tiêm một mũi an thần cho cậu, để cậu “vẫn hiểu hết mọi cái nhưng không vùng ra được”. Hà đẩy xe lăn dọc hành lang. “Như trong phim Hàn Quốc”, mọi người đứng hai bên tiễn cậu, một trong những bệnh nhân dễ tính, “hợp tác”, hòa đồng, bắng nhắng, vui vẻ, thân thiện nhất của khoa. Hơn mười giờ sáng thì Nam về tới nhà. Lúc dó, Hà đã nhờ bạn bè bày ảnh Đức Phật A Di Đà trong
nhà để “đón Nam và dẫn dường chỉ lối”. Điều này vô cùng quan trọng đối với chị. Nam mất lúc mười hai giờ hai mươi phút trưa.
“Những phút giây cuối cùng của cháu như thế nào?” Tôi hỏi. “Cháu mở mắt nhưng không nói được gì nữa. Lúc đó em biết thuốc an thần đã tác động rồi.”
“Mắt mở nhưng có nhìn được mình không?” Tôi nhớ lại hình ảnh của Vinh cách đó mấy tháng.
“Vẫn nhìn được, anh ạ, mãi cháu mới giãn đồng tử. Con nhìn một lượt rồi con đi. Người nó cứ lạnh dần, lạnh dần. Chân lạnh đầu tiên...”
Tôi nhìn những chuyển động li ti trên khuôn mặt Hà, chị nhìn vào khoảng không trước mặt. Vài giây sau, khi hình ảnh lâm chung của Nam đã trôi qua trong đầu, chị nói thêm, “Mà em may mắn anh ạ.”
Sáng hôm đó, ở bệnh viện, khi chưa tiêm thuốc an thần, Hà nói với con:
“Nam ngồi đây nhá, để mẹ phát đồ từ thiện cho các em ăn rồi mẹ xuống ngay với con.”
Nam gật đầu.
“Nam của mẹ cố gắng nhé.”
Cậu lại gật đầu.
Khi Hà chuẩn bị xoay người bước đi, bỗng nhiên Nam nói với mẹ, “Mẹ ơi, con tạm biệt mẹ.”
Hà đóng băng, người chị vừa bị phá hủy vừa tràn ngập cảm giác biết ơn.
“Mẹ cũng tạm biệt con, Nam của mẹ. Mẹ mong con thanh thản...”
“Vâng, vâng...” Nam trả lời, rồi bỗng cậu hốt hoảng, “Mẹ ơi, thế con sắp chết hả mẹ?”
Hà không bao giờ nói dối, cả lần này cũng vậy. Chị chỉ nói, “Thôi, con nghỉ đi.”
“Thế em mới bảo là em may mắn hơn các mẹ khác, anh ạ.’ Hà nhắc lại một lần nữa. Tôi hiểu rằng đây là một nguồn an ủi vô biên với người mẹ này, rằng chị nhìn thấy những điều may mắn trong thảm họa. “Em may mắn vì con nó nói được những cái gì cần nói với mình, anh ạ.”
Buổi chiều, vừa về tới nhà, Thắng nằng nặc đòi lên phòng anh chơi. Hà nhờ người quen mang Thắng sang nhà khác. Từ phòng của Nam, tiếng tụng kinh và tiếng mõ âm vang vọng xuống. Vừa bị kéo đi Thắng vừa khóc rất to, cậu cứ ngoái đầu lại và đòi quay lại chơi với anh.
Chiều hôm sau, Hà gọi điện cho Thắng. Cậu hỏi liên tục: “Mẹ ơi, anh Nam đâu?”
“Anh lên trên trời rồi.”
“Bay cao hả mẹ, là như thế nào cơ?”
“Anh bay như chim í.”
“Anh Nam đâu rồi? Anh Nam đâu rồi?” Thắng lại gào lên trước khi bị lấy điện thoại ra khỏi tay.
Buổi chiều hôm đó, tôi có một cuộc họp, một cuộc hẹn, một cuộc phỏng vấn trong trường quay truyền hình. Tôi rời trường quay lúc bốn rưỡi, thành phố chuẩn bị bước vào giờ tan tầm,
cuộc sống vẫn tiếp tục quay cuồng. Câu chuyện của Hà vọng lại trong tôi, xa xôi như một giấc mơ. Tôi kinh hoàng nhân ra rằng với tôi, những điều tôi nghe được lúc trưa chỉ như là một bộ phim, tôi có thể rời khỏi rạp để quay lại với “đời sống bình thường”. Nhưng với Hà, nó là thực tại không gì thay đổi được. Nó bám dính như một làn da thứ hai, đi theo Hà cả đời.
Bữa tối, Mai An vừa sắp xếp bát đũa vừa bắt đầu hát theo bài Shape of you của Ed Sheeran, phát ra từ cái điện thoại để trên bàn. Mai An sinh trước Nam đúng mười chín ngày. Nó mặc áo may ô, quần đùi. Người nó uốn éo điêu luyện theo nhạc, hai cánh tay chuyển động liên tục, lúc thì ngón tay trỏ chạm vào má, lúc thì hai bàn tay chụm vào nhau trước ngực, tạo hình trái tim. Lúc thì đầu lắc lư sang hai bên, lúc thì rướn cổ lên phía trước. Mắt nó long lanh, say sưa. Miệng nó hơi hé mở, để lộ hai cái răng cửa rất to. Bên cạnh tôi, Mai Chi lấm nhẩm hát theo. Đây là bài ưa thích của cả hai chị em. Tôi và vợ nhìn nhau, rồi lại nhìn An. Tôi không muốn giây phút này kết thúc, tôi muốn nó kéo dài mãi mãi.
4
TRƯỚC KHI QUEN HÀ, tôi nghĩ rằng trải nghiệm nào của con người cũng có thể mô tả được bằng sức mạnh của ngôn từ. Khi mới quen Hà, tôi cho rằng đồng hành với chị, tôi sẽ có thể hình dung ra được mất một đứa con thì như thế nào. Nhưng tôi đã sai.
“Không lời nào có thể mô tả nỗi đau này.” Mấy tháng sau khi gặp Hà lần đầu, tôi đọc được một bài viết của nhà tâm lý học Ann G. Smolen về nỗi đau mất con. Smolen mất đứa con trai đầu lòng khi nó bốn tuổi. Vốn là một diễn viên ballet chuyên nghiệp, trong những ngày cuối cùng của con trai chị, chị chỉ biết mở nhạc Mozart và Bach lên, và múa. Đó là điều duy nhất chị biết làm trong thời khắc đó. Ngoài ra, chị không còn có thể làm gì được nữa. Thằng bé nằm trên giường, mắt dõi theo. Lúc này nó không còn chơi ô tô được, nụ cười đã tắt trên môi nó. Dõi theo, cho tới khi nó hét lên, “Dừng lại”. Rồi chị nằm cạnh con trai, sát tới mức có thể, nhưng không được chạm vào nó. Động chạm sẽ làm nó đau. “Làm sao mà một người mẹ có thể an ủi con mình mà không được dùng cái vuốt ve của người mẹ?” Chị đau đớn.[7]
Nghĩa vụ của cha mẹ là bảo vệ đứa con, giữ cho nó an toàn. Đó là lý do vì sao cái chết của một đứa con lại có tác động khủng khiếp như vậy tới cha mẹ. Nó là một cú đánh chí tử vào bản thể của họ, khiến họ cảm thấy bất lực và bơ vơ. Cảm nhận
về giá trị bản thân và sự tự tin của họ bị phá hủy, cái tôi của họ bị vỡ vụn. Họ cảm thấy thất bại ở mức độ sâu sắc nhất. “Phải buông tay con và không giữ được con bên mẹ là điều quá sức chịu đựng với mẹ.” Hà vẫn thầm nói với Nam. “Nỗi đau này thực sự không thể và không bao giờ nguôi ngoai.” “Khi vợ hay chồng bạn chết, bạn là người góa. Khi bố mẹ bạn chết, bạn trở thành mồ côi. Nhưng không có từ nào cho bạn khi con bạn chết.” Ann G. Smolen quan sát. “Nó không tồn tại trong từ vựng của chúng ta. Nó quá khủng khiếp để có thể gọi tên.”
Smolen viết bằng tiếng Anh, nhưng tôi nhận ra rằng ở điểm này không có sự khác biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Sau khi Nam mất nửa năm, Hà làm đơn ly dị chồng. Có một thời gian chị ngấm ngầm nuôi ý định cưới giả để sang Canada sống. Chị có cảm giác rằng chị phải tới một nơi mới để bắt đầu lại từ đầu. “Em đã tính là mình bỏ ra chừng một tỉ đồng,” chị nhớ lại. “Em sẽ sang trước, ổn định rồi thì sẽ đón Thắng và mẹ em sang.”
Nhưng cuối cùng, chị không dám dấn thân vào cuộc phiêu lưu. Chị tiếp tục ở Hà Nội, vật lộn với sự đau buồn của mình và cưỡng lại mong muốn đi theo Nam.
“Đau buồn không có khoảng cách. Đau buồn tới như những con sóng, từng cơn, như những nỗi sợ đột ngột khiến đầu gối chùng xuống và con mắt mờ đi, và phá hủy cuộc sống thường nhật.” Nữ tác giả Joan Didion nhớ về trải nghiệm của mình. Chồng bà đột quỵ và qua đời trong lúc bà đang chuẩn bị bữa tối. Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết tiếp:
“Gắn như ai đã từng trải qua đau buồn đều nhắc tới hiện tượng ‘con sóng’ này. Trong một nghiên cứu nổi tiếng năm 1944, Eric Lindemann, trưởng khoa tâm lý của Bệnh viện Massachusetts General vào thập kỷ 1940, và là người đã phỏng vấn nhiều thân nhân của những nạn nhân trong đợt hỏa hoạn Cocoanut Grove năm 1942, định nghĩa hiện tượng này với một sự cụ thể tuyệt đối: ‘Cảm giác khốn khó về mặt cơ thể (somatic distress) xảy ra theo những đợt sóng, kéo dài mỗi lần từ hai mươi phút tới chừng một tiếng; người ta cảm tưởng như bị nghẹt thở, hụt hơi, muốn thở dài, và có một cảm giác trống rỗng nơi vùng bụng, rã rời, và một sự khó chịu dữ dội, được mô tả là căng thẳng hay là đau đớn tinh thần.”[8]
Nghẹt thở. Trống rỗng. Rã rời. Hà biết rõ những cảm giác này. Chị gọi hiện tượng con sóng mà Eric Lindemann mô tả bằng một chữ hơi khác, chu kỳ.
“Thi thoảng mình cứng rắn được, nhưng có những chu kỳ lặp lại, tự dưng tinh thần mình xuống lắm.” Với kinh nghiệm của người đi trước, chị nói với Ánh[9], một người bạn mới. Ánh trạc tuổi Hà, và cũng mất con trai, như Hà.
Với Ánh, các con sóng đau buồn đến theo nhịp độ tuần. “Không hiểu sao cứ gần tới ngày thứ Tư em lại nhớ nó mất mấy ngày,” Ánh tâm sự với Hà, hai người thường nói chuyện với nhau vào đêm khuya, khi họ không ngủ được. Hà và Ánh tìm tới nhau bởi những trải nghiệm của họ đặc biệt tới mức người khác khó mà hiểu được, giống những cựu chiến binh cô đơn ôm trong lòng những kỷ niệm mà chỉ những người kinh qua chiến trận mới thấu hiểu.
Với Hà, chúng bất định. Có những ngày cảnh vật đánh mất màu sắc. Có những buổi sáng, mọi thứ như được phủ một lớp tro. Có những buổi chiều, khi Hà vặn tay cầm mở cửa nhà, chị lại nghe thấy giọng Nam lanh lảnh từ bên trong, “Con chào mẹ ạ!”
Nếu hôm trước, chị còn “xí xớn”, theo chữ của chính chị, chụp ảnh cùng đồng nghiệp tại Bangkok Riverside Hotel trong một chuyến công tác, thì hôm sau, chị lại chìm trong nỗi đau. “Nam của mẹ đến kiếp này là để đòi nợ mẹ... Nợ đã đòi xong, con bèn ra đi. Mẹ đã phải trả nợ cho con, một món nợ đời mà mẹ chưa từng được biết.”
Chị ao ước, nếu có cách nào đó để trốn được món nợ đau lòng này thì bằng giá nào chị cũng làm. Hình ảnh Nam trong những ngày tháng cuối cùng trở đi trở lại. Những nhịp thở nặng nề làm rung cả lồng ngực cậu. Những cơn ho khiến Nam không thể nói được, chỉ ra hiệu. Cái buổi tối cậu thắc mắc, “Độ này mẹ không đánh con nữa nhỉ? Chắc là do con bị bệnh?”
Đôi khi đầu óc chị lang thang quay về ngày chị sinh Nam. Một đêm tháng Năm rất nóng, phòng đỡ đẻ chỉ có một cái điều hòa cũ. Ba mươi sáu tiếng đau đẻ kinh hoàng. Nam bị tràng hoa quấn cổ và một tay mắc vào nhau thai. Chị nhớ là cậu có tóc xoăn, mắt sắc và trông rát già. Rồi chị nhớ lại sáu năm sau, trên bàn mổ để đẻ Thắng, chị tự nghĩ và cười một mình, “Thế là làm xong nhiệm vụ, có hai con rồi, từ nay không phải nằm trên cái bàn mổ đẻ nữa.”
Dường như Thắng cũng có chu kỳ của cậu. Mùa đông năm ngoái, không hiểu sao Thắng rất hay nhắc tới anh. Lúc này cậu
hơn bốn tuổi. Một buổi tối, lúc chuẩn bị đi ngủ, cậu vừa hí hoáy chơi ô tô vừa hỏi mẹ câu quen thuộc, “Anh Nam đâu hả mẹ?”
Không đợi mẹ đáp lại, cậu trả lời luôn, “Anh Nam bay lên trời rồi, không xuống được đâu, vì anh ấy bị cắt chân rồi.” Thắng rất yêu anh. Năm trước, khi nhìn thấy ảnh Nam bị cắt cụt tới đùi, cậu òa lên nức nở. Mỗi lần Hà về nhà để lấy đồ vào bệnh viện, Thắng chạy ra ôm chầm lấy mẹ, nhưng sau đó lại khựng lại. “Mẹ ơi, anh Nam ở trong viện với ai?” “Anh ở trong viện một mình con ạ.” Thắng buông mẹ ra, mắt ngân ngấn nước, “Thôi, mẹ vào viện chăm anh Nam đi.” Một ngày đầu năm nay, khi Hà đang cho Thắng ăn sáng để chuẩn bị tới lớp thì cậu lại nhắc, khiến trái tim chị tan nát: “Mai mẹ đi máy bay mẹ cứu anh Nam về nhà nhé.” Cuối tháng Mười Một năm 2016, mười tháng sau khi Nam mất, Hà tới trường Tiểu học Nam Thành Công, nơi cậu đã theo học gần ba năm, để hoàn tất một số thủ tục bảo hiểm học sinh của cậu. Chị đã trì hoãn việc này cho tới lúc không thế trì hoãn được nữa. Trong cả năm qua, Hà vẫn thường xuyên ra vào Khoa Nhi, nó đã trở thành ngôi nhà thứ hai của chị, nhưng chị sợ vô cùng ngày phải quay lại ngôi trường này.
Hôm đó, cả miền Bắc chìm trong không khí lạnh tăng cường. Lúc Hà chia tay cô giáo chủ nhiệm cũ của Nam thì cũng là giờ ra chơi. Lũ trẻ ào ra sân nô đùa ầm ĩ, nhiều đứa mặc bộ đồng phục thể thao màu da cam để chuẩn bị cho tiết thể dục, làm sáng rực cả không gian mùa đông màu xám. Hà ráo riết nhìn quanh. Tất cả vẫn nguyên vẹn, khung cảnh nơi đây chẳng
có gì thay đổi. Tim chị co thắt lại. Chị đi ngang qua sân trường, những lớp sóng trẻ em tách ra nhường lối. Nếu ngẩng đầu lên, chị biết chị sẽ nhìn thấy Nam đang hò hét, lưng và đầu ướt đẫm mồ hôi.
Đóng cửa xe, Hà để cho nước mắt tuôn trào. Những ký ức tràn về. Chị nhớ vẫn phải thường xuyên dặn Nam không vứt lăn lóc cái cặp sách to dùng, mà phải để ngay ngắn trên bục chào cờ. Chị nhớ là Nam vẫn đứng đợi bên gốc cây ở cổng trường để chị không phải tìm lâu khi đón con. Chị lái xe từ từ, qua hàng xôi của bác Hà mà hầu như ngày nào Nam cũng đòi ăn một gói với rất nhiều món ngon: ruốc, thịt kho, trứng kho và patê. Qua cửa hàng đồ dùng học tập, nơi chị đã phải mua không biết bao nhiêu lần ‘bút mực cho Nam vì không hiểu sao cậu rất hay làm hỏng bút’. Qua cửa hàng bánh kẹo nơi Nam hay đòi mua gói bim bim màu cam. Qua hàng bánh giò, trứng ngải cứu, trứng vịt lộn nơi hai mẹ con hay ăn khi chị đưa Nam đi học thêm các buổi chiều thứ Bảy trước khi vào lớp Một. Chị đánh tay lái, để lại đằng sau góc đường nơi chị vẫn ngồi đợi hai tiếng khi Nam học thêm. Trong một tích tắc, chị ngửi thấy mùi xôi xéo trong xe. Ở ghế bên, Nam ngọ nguậy; cậu phàn nàn “Mẹ ơi, con đói” trước khi huyên thuyên kể chuyện.
Tối hôm đó, chị trò chuyên với Nam và gần như xin lỗi cậu. “Mẹ đã tự nhủ với con và với bản thân là mẹ sẽ cố gắng kiềm chế, để con ở nơi xa đó không buồn khi thấy tinh thần mẹ lại down như vậy. Nhưng hôm nay mẹ không thể làm được. Ở sân trường, tìm mãi, tìm mãi, nhìn xung quanh mà mẹ chẳng thể thấy con.”
Chị vẫn mong muốn mình phải mạnh mẽ. Chị tin rằng nếu chị đau buồn, con chị sẽ lấn cấn ở nơi mà nó đang ở. Giỗ đầu của Nam rơi vào một ngày thứ Tư của mùa đông, hai tháng trước ngày tôi gặp Hà lần đầu. Hôm đó lạnh, trời đổ mưa nhỏ cả đêm. Khi thức giấc, Hà gấp cái chăn dạ màu nâu mỏng, thận trọng như đang giữ một báu vật. Nam đã thường xuyên đắp cái chăn này trong những tuần mùa đông lạnh lẽo và ngắn ngủi còn lại cuối cùng của cậu. Cậu đã được mẹ đắp cái chăn này trong hai tư giờ trợ niệm, sau khi cậu trút hơi thở cuối cùng. Đêm nào Hà cũng đắp cái chăn này. Chị kéo nó sát lên cằm như để cảm nhận hơi ấm của con, được chạm vào con, và hòng đẩy ra xa nổi nhớ dai dẳng, thường trực hàng ngày, hàng giờ, gặm nhấm sâu bên trong tim gan, bên trong tâm can, rất khó chịu.
Thắp hương trên bàn thờ của Nam xong, chị để lại lon Coca Cola cho ngay ngắn. Nam mê Coca uống với đá. Trước kia cậu bị hạn chế uống, nhưng từ khi cậu đổ bệnh thì Hà cho con niềm vui này. Với Nam cái gì cũng phải để lạnh. Kể cả những ngày lạnh trong bệnh viện, bác sĩ Hương mặc áo cổ lọ thì cậu vẫn quần đùi, áo cộc tay. Mỗi buổi sáng, Hà mua cho Nam một lon Cola, cậu nhấm nháp rả rích cả ngày.
Hà cảm thấy hài lòng với bản thân vì trong năm qua chị đã giữ đúng lời hứa với Nam. Tháng nào chị cũng đều đặn về quê thăm con, mặc dù nhiều người khuyên can không nên về thăm quá nhiều, không nên ở bên mộ quá lâu. Hà giải thích với Nam trong đầu, “Mẹ chẳng cần kiêng cữ bất cứ điều gì cả, mẹ chẳng sợ hãi những gì sẽ đến với mẹ, và mẹ sẵn sàng đánh đổi bản thân mẹ để dành những tình cảm, tình mẫu tử sâu sắc nhất
của một người mẹ cho con trai mình.” Chị cảm thấy cay ở sống mũi. “Những ngày này vô vàn ký ức lại ùa về nhưng giờ đây mẹ đã hiểu hơn là mẹ cần làm gì để hỗ trợ con từ nơi xa, mẹ đã cố gắng để kiềm chế những cảm xúc của mình, mẹ không bật khóc vì sẽ làm tổn hại đến con, tổn hại đến những gì một năm qua mẹ cố gắng làm để hỗ trợ cho con, với mong muốn con được siêu thoát.”
Khí lạnh luồn qua khe cửa, lẩn quất dưới sàn. Hà nói tiếp với Nam, “Con trai yêu của mẹ, mẹ sẽ cố gắng giữ cân bằng trong cuộc sống, cân bằng trong tâm và cân bằng trong các công việc hàng ngày. Mẹ luôn có niềm tin nếu mình làm tốt mọi việc, tích đủ phước, giải được duyên nghiệp khổ thì mẹ con mình sẽ lại được gặp nhau ở nơi con đã được về. Ở nơi đây mẹ sẽ có gắng giữ gìn sức khỏe, nuôi dạy em Thắng và chị Linh nên người. Mẹ sẽ cố gắng làm thật tốt công việc thiện nguyện của Nhóm Trăng Rằm vì con chính là cơ duyên để đưa mẹ gắn bó với các bệnh nhi ung thư tại Khoa Nhi, K3 Tân Triều. Ở nơi xa đó, con nhớ làm theo những lời dặn dò của mẹ hàng ngày với con nhé. Buông bỏ, thanh thản, vui cười vô tư như những gì con đã có.”
“Buông bỏ”, “thanh thản”, đã bao nhiêu lần chị nói những điều này với Nam, và với cả bản thân.
“Và luôn bên mẹ, đồng hành cùng mẹ con trai yêu nhé. Mẹ và em mãi mãi yêu con. Hãy luôn mỉm cười con trai nhé.” Hà đọc được rằng một kiếp ở cõi trần chỉ bằng một ngày đêm ở cõi Cực Lạc. Như vậy thì với Nam, thời gian chờ đợi để hai mẹ con sum họp sẽ chỉ là một thoáng thôi, cậu sẽ không
quá khổ sở. Còn chị, chị sẵn sàng một mình chịu nỗi nhớ da diết kéo dài vô tận.
Trời lạnh khiến khói nhang lơ lửng, không thoát được lên cao. Đằng sau chị, Thắng trở mình ngủ mê. Chị thầm thì với cái ảnh của Nam, “Missing u”.
Hà gặp Ánh trong Khoa Nhi vào giữa năm 2015, khoảng thời điểm Nam bị cắt chân. Ánh thua Hà một tuổi. Vinh[10], con trai thứ của Ánh, hơn Nam một tuổi. Gia đình Ánh cũng ở Hà Nội. Khác với nhà Hà, vợ chồng Ánh hòa thuận.
Vinh nhập viện muộn hơn Nam nửa năm, và cũng mất sau Nam nửa năm.
Sau khi Vinh chết, gia đình Ánh đóng cửa cửa hàng ở phố cổ, và đưa Ánh đi chơi cho khuây khỏa. Mũi Né, Nha Trang, Phú Quốc. Trong ảnh, cô luôn là người cầm gậy selfie.
Nhìn ảnh sẽ khó để đoán được những điều cô vừa trải qua. Tóc cô vén sau tai gọn gàng, mắt không bị thâm quầng, da vẫn trắng, môi đánh son sắc nét, áo lụa đen hở vai lượt là, chuỗi ngọc trai đeo trước ngực, kính râm cài trên trán.
Nhưng mặt cô lạnh băng. Trông cô như Nữ hoàng Băng giá. Mấy năm trước, cô hay đăng ảnh và video của con, và giờ đây, chức năng Ngày này cách đây x năm của Facebook làm ruột gan cô tan nát. Hàng đêm, cô ôm thằng người nhện nhồi bông của Vinh để ngủ, nó to gần bằng một đứa trẻ, cho tới khi chồng cô phải giật nó ra khỏi tay cô. Nhà Ánh ở ngay cạnh trường học, hàng ngày lũ trẻ ồn ào kéo qua. Cô hình dung Vinh chỉ đang đi chơi ở đâu đó. “Thôi chơi thế đủ rồi, hãy về với mẹ đi con.” Ánh kêu lên. “Mẹ nhớ con lắm, về với mẹ đi con.”
Hà kể với tôi là Vinh hóm hỉnh, tinh tế, tài hoa, “chứ không tồ như Nam”. Khi mặc áo, cậu so cho hai vạt áo đều nhau. Khi xắn tay áo, cậu chỉnh cho hai bên cánh tay bằng nhau. Tôi đã xem mấy clip của cậu, các bộ quần áo bệnh nhân của cậu luôn có họa tiết và phối màu rất đẹp. Cậu có giọng hát dịu dàng, và vẫn nhún nhảy nhẹ nhàng theo nhạc, kể cả khi đã gầy tong teo vì bệnh. Hà chép miệng khi kể với tôi, “Những người như thế là ở cõi âm người ta cũng thích lắm.”
Trước khi chết mấy tuần, Vinh còn đòi ra biển. Nhà Ánh mang theo một bình ô xy nhỏ trong xe. Ở Hà Nội, Hà hồi hộp theo dõi chuyến đi.
Cuối tháng Bảy năm nay, Ánh đăng ảnh mình cùng chồng và cậu con trai lớn đi chơi đêm ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Chị viết, “Tôi yêu gia đình nhỏ này.” Ánh đã bắt đầu gượng dậy được, Hà thầm hy vọng.
Hai tuần sau, một con sóng mới tràn tới. Ánh viết trên Facebook, “Ngày mai là tròn một năm mẹ con mình xa nhau. Mẹ nhớ con trai mẹ nhiều lắm. Nếu phải làm gì để con trai quay về bên mẹ thì mẹ cũng làm. Nhớ con cồn cào. nhiều khi không muốn tin đó là sự thật.”
Câu cuối của chị là, “Giá như mẹ bị mất trí nhớ, giá như mẹ bị điên……”
“Hóa ra đau buồn là một nơi chốn mà không ai trong chúng ta biết được, cho tới khi chúng ta tới đó. Trong phiên bản về đau buồn mà chúng ta hình dung, mô hình có tên là ‘chữa lành’. Những ngày tệ nhất sẽ là những ngày đầu tiên. Khoảnh khắc thử thách nhất với chúng ta sẽ là đám tang, sau đó, quá
trình hàn gắn sẽ bắt đầu.” Tôi trở đi trở lại với cuốn hồi ký của Joan Didion, mong muốn đi sâu vào những vận hành tâm lý đằng sau nỗi đau buồn. “Chúng ta không thể biết trước là mọi thứ sẽ không như vậy. Chúng ta không thể nhìn ra (và đây chính là điểm khác biệt giữa nỗi đau buồn như chúng ta hình dung và nỗi đau buồn trên thực tế) sự thiếu vắng không có hồi kết, sự trống rỗng, sự đối nghịch hoàn toàn của trạng thái có ý nghĩa, sự nối tiếp không ngừng nghỉ của những khoảnh khắc mà chúng ta phải đối mặt với trải nghiệm của chính sự vô nghĩa.”
Hai ngày sau, Ánh tước đi cuộc đời của chính mình. Con sóng cuối cùng đã nhấn chìm chị. Chị đã đầu hàng trước sự thiếu vắng không có hồi kết và những khoảnh khắc không ngừng nghỉ của sự vô nghĩa.
Hà hẹn tôi ở buổi lễ hỏa táng của Ánh. Buổi sáng tháng Tám hôm đó, Đài hóa thân Hoàn Vũ như một công trường xây dựng lớn. Người ta bận rộn chọn hòm tiểu sứ, ký tá các loại giấy tờ, tất bật tìm đám tang của mình, rồi đứng sát nhau, hút thuốc lá chờ đợi, ai cũng sũng mồ hôi trong những chiếc áo sơ mi đen giống hệt nhau, vì đều là áo đi thuê. Không khí đặc quánh và đầy khói, nhưng không phải từ lò hỏa thiêu mà là từ cái am đốt vàng mã lớn đặt ở sân.
Xe tang chở gia đình Ánh tới. Chị gái Ánh loạng choạng bước xuống, quần bò bó sát người, sơ mi đen thuê, mặt nhợt nhạt. Một cô gái đỡ chị ngồi bệt xuống bậc thềm, tay kia quạt liên tục vào mặt chị. Một phụ nữ khác chải và búi lại mái tóc rất dày và rất đẹp của chị, rồi quấn lại khăn tang cho chị. Chị để mọi người muốn làm gì thì làm, chỉ cố giữ thẳng cái đầu
ngật ngưỡng. Chồng và con trai lớn của Ánh vẫn ngồi cạnh quan tài trên xe, mặt ráo hoảnh, ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn mà không thấy gì. Hà kể là tối hôm trước hai bố con đem bát cơm tới bên quan tài của Ánh ở nhà để “ăn bữa cuối cùng với cô”.
Buổi lễ chỉ kéo dài vài phút. Theo tục lệ, bố mẹ Ánh không được phép có mặt. Một người trong họ nói lời cảm ơn. Khi ông kết thúc, giai điệu Hồn tử sĩ vang lên bi tráng chừng mươi giây. Tôi đã nghe nó trong một tang lễ từ thập kỷ 1990. Trong hai chục năm qua, nó đã được cử lên cho bao nhiêu triệu người?
Khách tang đi vòng quanh quan tài một lần cuối. Tiếng khóc của người nhà to dần lên. Họ bám vào nhau ở phía bên phải căn phòng, cách quan tài chừng hai mét.
Nhân viên tang lễ tuyên bố quan tài sẽ được đẩy vào bên trong.
Tiếng khóc than tăng lên một cung bậc.
Bức vách đằng sau quan tài tách ra làm đôi. Hai nhân viên bắt đầu đẩy quan tài vào.
Khung cảnh trở nên hỗn loạn. nhiều giọng nữ thất thanh, “Chị ơi...! Chị ơi...!” Những cánh tay vươn ra, những bước chân ngập ngừng, như thể đằng trước là một dòng sông chảy xiết, người ta muốn bước lên để níu giữ một vật quý giá mà không thể.
Khi bức vách vừa khép lại, ngay lập tức ảnh của Ánh trên bàn thờ được lấy xuống. Chân dung người tiếp theo, cùng bát nhang và bát trứng khác, được đưa lên. Màn hình điện tử đổi tên người qua đời. Mọi người xô vào quạt cho mấy chị em của Ánh vừa quỵ xuống sàn. Không khí vẫn oi bức khủng khiếp.
Ngoài sân, nhiều xe tang khác đã trực sẵn, cửa sau mở toang, để lộ các quan tài đang đợi tới lượt. Đây là nơi cái chết được xử lý đại trà, theo băng chuyền. Chết không phải là sự kiện riêng lẻ, người ta được nhắc nhở như vậy. Nó hằng hà sa số.
Trước khi về, tôi thấy chồng và con trai Ánh đứng cạnh nhau, trông như hai anh em. Thằng bé mười bảy tuổi đi chân đất. Họ không chạm vào nhau, mặt ngơ ngác như đang bị lạc.
“Sự khác nhau giữa Hà và Ánh là gì? Cùng đối mặt với thảm họa, vì sao Hà đi tiếp được, mà Ánh lại đầu hàng?” Tối hổm đó, khi những ấn tượng thị giác của đám tang đã lắng xuống, tôi tự hỏi, “Với tất cả những đau đớn, điều gì khiến Hà có thế bắt đầu phục hổi?”
5
VÀI TUẦN sau tang lễ của Ánh, tôi hỏi Hà những điều mà tôi vẫn thắc mắc. Điểm khác nhau giữa Hà và Ánh là gì? Vì sao Hà gượng dậy được mà Ánh lại đầu hàng?
Chúng tôi ngồi trong quán café nơi lần đầu tôi gặp Hà. Giờ đây, nó đã trở nên quen thuộc.
Không trả lời trực tiếp, Hà nói, “Đến giờ em vẫn tin có một phép mầu xảy ra với mẹ con em, anh ạ.”
Tôi nhớ lại, ngay trong buổi gặp đầu tiên, chữ “may mắn” đã được Hà nhắc đi nhắc lại. Như đọc được suy nghĩ của tôi, chị nói, “nhiều người vẫn bảo em là mất con rồi mà sao cứ mở mồm ra là kêu là may mắn.”
Quả thật, chị tìm được cơ hội đi bày tỏ lòng biết ơn ở mỗi khúc ngoặt của số phận.
Hà thấy may mắn là Nam đã ở độ tuổi đù lớn để hiểu được mình ốm, để biết động viên mẹ, “hợp tác” với bác sĩ, nhưng lại chưa hiểu tận cùng về cái chết và sự chia ly.
Chị thấy may mắn là sau khi phẫu thuật cắt chân, Nam không bị đau buốt ở cái chân ảo, không thỉnh thoảng bị co rút thần kinh làm giật nẩy người lên như ở nhiều đứa trẻ khác. Chị thấy may mắn là Nam vẫn vui vẻ và có “tinh thần lạc quan”, mặc dù cậu khước từ đi nạng, chỉ ngói xe lăn.
Chị thấy may mắn vô cùng là Nam không bị đau đớn. Chị bị ám ảnh bởi điều này tới mức có lúc Nam phải gắt lên, “Con không đau, sao mẹ hỏi lắm thế, mẹ để con nghỉ.”
Chị thấy may mắn là giờ phút cuối, chị nhận được lời chào từ Nam, “Mẹ ơi, con tạm biệt mẹ.” Cậu đã nói được cái gì cần nói với mẹ.
Và rồi chị nói một câu khiến tôi dừng lại kinh ngạc. “Em nghĩ là em được nhiều rồi, anh ạ. Như thế là quá đủ cho mình rồi. Mười năm hai mẹ con rất vui vẻ, chưa bao giờ nó làm phật lòng mẹ cái gì, thế là mãn nguyện rồi.” Với chị, được gặp Nam, được yêu thương nhau trong suốt mười năm là một ân huệ. Chị không dám trách ông Trời đã cướp Nam khỏi tay mình, mà chị lại luôn cảm ơn Trời Phật đã để chị có Nam trong cuộc đời.
Hà hoàn toàn có thể chọn cách ứng xử ngược lại. Chị hoàn toàn có thể chìm đắm trong những trách móc bản thân rằng mình đã không cho Nam đi khám sớm hơn, có thể ca thán không dứt về cái nóng bức, cái chật chội, cái tiêu cực mà hai mẹ con phải chịu đựng trong bệnh viện, có thể tiếp tục oán trách người chồng rượu chè và nhà nội thờ ơ, có thể luẩn quẩn với ao ước giá chị có đủ tiền để đưa Nam sang Singapore chữa bệnh.
Người ta không có tự do để khước từ bất hạnh hay chạy trốn khỏi bi kịch, nhưng có tự do chọn lựa thái độ của mình trước những gì xảy ra. Viktor Frankl, nhà tâm lý học người Áo, đúc kết từ trải nghiệm sống của ông qua những năm tháng khủng khiếp trong trại tập trung của phát xít Đức.
Trước những cú đánh của số phận, Hà đã lựa chọn tâm thế đón nhận chứ không phải tâm thế đòi hỏi. Điều này khiến chị gượng dậy được. Và dần dần tôi hiểu ra rằng còn có những câu trả lời khác nữa cho câu hỏi của tôi.
Hồi còn chăm Nam, mỗi lần vào bệnh viện Hà hay mang theo một cái bếp nhỏ trong ba lô. Chị nấu trộm, “rang ít tôm, rán ít trứng”, hoạt động như một du kích. Hoặc chị trả mười nghìn cho người bán bánh mì đối diện cổng bệnh viện, mượn họ cái bếp dể nấu.
Đồ ăn của nhà hàng trong bệnh viện hay ở ngoài cổng vừa đắt đỏ, vừa thiếu chất, vừa chán, khiến bữa nào tụi trẻ cũng để thừa mứa, mặc dù gia đình chúng thiếu thốn. Nôn mửa do truyền hóa chất, thường xuyên bị lấy máu để xét nghiệm, lại không ăn uống được, chúng suy kiệt. Bạch cầu hạ, dẫn tới sốt cao, nhiễm bệnh, khiến nhiều đứa ra vào phòng cấp cứu liên tục. Ở viện triền miên, chúng nhớ nhà và đẩy gia đình vào cảnh túng quẫn. Có đứa nhập viện khi mới vài tháng tuổi, người mẹ khủng hoảng tinh thần, lại không có đồ ăn tốt để tạo sữa, khiến đứa con còi cọc. Mỗi đợt truyền họ phải di chuyển từ miền núi xa xôi về Hà Nội, làm đứa trẻ càng kiệt sức.
Riêng với Nam, cậu vẫn có điều kiện ăn uống tốt nhất. “Em hấp hai con ghẹ, xong rán ít trứng, làm ít thịt cho cháu nó.” Hà kể. “Hoặc nếu nó muốn ăn ngao thì mình đi chợ mua một cân ngao để tối hấp lên.”
Nhìn mắt chị long lanh, tôi hiểu những điều này quan trọng như thế nào với chị. Có tình yêu của người mẹ nào mà không đi qua con đường ăn uống. Đứa trẻ có thể không còn sống được
bao lâu, nhưng sự ngon miệng của nó vẫn là một nguồn an ủi vô bờ bến, xoa dịu bản năng làm mẹ đang bị bầm giập. Một số lần, chị chia sẻ thức ăn của Nam cho mấy trẻ cùng phòng. Trứng chim cút nhỏ, bánh bao chay, bánh cuốn nóng nhân thịt, bún bò, bún ốc, xôi xéo. Chúng ăn hết bay, mặc dù trước đó chúng bỏ thừa thức ăn mua ở ngoài.
Thấy vậy, một bà mẹ trẻ nói với Hà, “Trộm vía cháu Nam ăn tốt quá, nhưng thực sự cháu nhà em mà ăn được như vậy thì chúng em cũng chả có điều kiện. Hai vợ chồng em làm nông, đưa con đi chữa bệnh phải vay mượn, được ngày nào biết ngày đó.”
Câu nói này ám ảnh Hà trong nhiều tháng.
Tới cuối tháng Chín năm 2015, chị đã có hình dung rõ trong đầu về điều chị muốn làm. Hà ngồi xuống và viết một bức thư ngỏ dài hơn năm nghìn chữ. Chị kể về hoàn cảnh của hai mẹ con, thuyết phục người đọc là mình có kinh nghiệm trong việc chăm sóc bệnh nhi ung thư. Chị liệt kê những quan sát của mình. Rồi chị kêu gọi mọi người góp sức để cải thiện chất lượng bữa ăn. Nếu mỗi suất ăn mười nghìn thì chị cần một triệu mỗi bữa cho gần một trăm bệnh nhân trong Khoa. Qua những gì chị “thử nghiệm” ở Nam, Hà tự tin là mình có thể làm lũ trẻ ăn được.
“Thực sự là đến giờ, sau những gì đã trải nghiêm trong viện K, tuy vẫn rất đau đớn và không ngày nào mình không rơi nước mắt khi nghĩ đến bệnh tình của con trai, nhưng mình thấy mình và cháu Nam vẫn còn may mắn hơn, vẫn có điều kiện hơn các gia đình khác trong viện. Do vậy, đến giờ suy nghĩ
của mình cũng có nhiều thay đổi hơn.” Cuối thư, chị viết. “Những tháng ngày chăm sóc con ở trong bệnh viện khiến mình học được cách chia sẻ yêu thương, học được cách sống vì người khác hơn và biết trân quý hơn những gì đang có.”
Chị đăng bức thư trên Facebook vào gần nửa đêm. Hôm đó là Rằm Trung Thu. Nam đang ở đợt truyền hóa chất cuối cùng. Nhóm thiện nguyện của Hà bắt đầu bằng mỗi tuần một nồi cháo, một tháng hết bốn triệu đồng. Tới giờ, các hoạt động dày đặc. Chị nắm toàn bộ lịch trong đầu và sẵn sàng xả lũ thông tin với tôi với sự say mê có thể sờ mó được.
Trưa nay em thuê xe ôm mang thùng sữa đậu nành đến cho các cháu. Các cháu đang không ăn được nhưng mà uống được thì cực kỳ bổ. Sáng thứ Tư thì mang gần một trăm suất ăn, cháo bò, xôi ruốc, sữa chua hoặc dưa hấu. Tất nhiên là các cháu thì không thể ăn hết được nhưng đây là em hỗ trợ cho cả người nhà luôn. Thứ Bảy này, từ 7 giờ 30 là bọn em hỗ trợ một thùng cháo lòng to đùng cho người nhà bệnh nhân. Mai bọn em sẽ làm chả xương sông lá lốt, mai là lần đầu tiên có món đấy đấy. Cho các cháu ăn với cơm hoặc kẹp bánh mì ăn cũng được. Làm từ chiều hôm trước, hôm sau chỉ rán lại thôi. Hôm sau thì lại có cháo lòng, cháo thịt cho các cháu nhỏ, em mang thêm cả bánh mì nóng giòn từ chợ nhà em mới ra lò. Làm cho các cháu thì phải bột thơm hơn, vừng viếc thơm hơn, làm hẳn mẻ riêng, các cháu kẹp ăn cũng dược mà để đến chiều ăn cũng được. Bệnh nhân là phải ăn nhiều suất trong ngày. Chủ nhật thì có thêm bữa ăn cải thiện, câu lạc bộ nào có tiền đưa em hai triệu là em sẽ cải thiện cho các cháu bún riêu cua giò bò. Em tăng thịt bò vì nó tăng lượng bạch cầu rất là tốt, nhưng em không làm cái bò như mình ăn ngoài chợ dâu, em lấy cái gân thăn của bò, cháu nào cũng
thích ăn, cho cà chua ngọt nước, rồi giò, các cháu ăn được nhiều lắm. Đó là chưa kể hoa quả. Quả bao giờ cũng là quýt ngọt, các cháu truyền hóa chất nhiều rộp hết cả cổ và đường ruột. Tương lai thì em phải đưa Thắng đi học, em phát trước 6 giờ 30 thì vẫn kịp về đưa con đi học.
Chia sẻ. Học được cách sống vì người khác. Hà đã thay đổi nhiều. Theo lời của chính chị thì, “So với trước khi con em bị bệnh, thì sự thay đổi của em quá lớn luôn. Căn bệnh và cái chết của con em khiến em thấm thía nhiều hơn, và cho em căn duyên để em làm nhiều việc khác.”
Đây là điểm tựa thứ hai giúp chị đi qua bi kịch. Thay vì đắm chìm trong đau khổ của bản thân, chị tìm cách xoa dịu nỗi đau của người khác. An ủi người khác cũng là để chữa lành cho chính mình. “Không có công việc của nhóm thiện nguyện thì em phát điên rồi anh ạ,” nhiều lần chị nói với tôi như vậy.
Hà không chỉ cải thiện các bữa ăn của bệnh nhân nhi. Chị trở thành người an ủi. Hà không nhớ người ta bắt đầu tìm tới chị từ lúc nào. Ban đầu là một số người mẹ ở Khoa, phần lớn còn rất trẻ, những người hoặc đang tuột dần đứa con ra khỏi tay mình hoặc đã mất con. Rồi đến những ông bố. Có người gọi cho chị và khóc trong điện thoại, “Cô Hà ơi, tôi nhớ cháu nó quá.” Đứa con trai duy nhất của ông, cháu đích tôn của cả họ, chết khi nó hai mươi tư tuổi. “Tôi không biết làm gì, nên tôi gọi cho cô.” Trong guồng máy bệnh viện, tư vấn tâm lý là một điều xa xỉ. Rời bệnh viện, bệnh nhân và người nhà trơ trọi. Xấu hổ và bất hạnh khiến họ tự xa lánh người khác, những người đằng nào cũng chẳng hiểu nổi cái gì đang xảy ra bên trong họ, và cũng chẳng biết cách nào giúp họ, ngoài buông ra
những câu “Cố gắng lên” mà họ đã nghe tới hàng nghìn lần. Nhưng với Hà, họ biết là chị đã đi qua con đường mà họ đang phải đi. Họ nhìn chị như người đứng trước đầm lầy nhìn một người đã lội sang được bờ bên kia. Sau gần hai năm, chị đã dày dạn kinh nghiêm hỗ trợ tinh thần cho bệnh nhân và người nhà mà không qua một khóa đào tạo chính quy nào.
Trong hành trình năm qua của mình, tôi đã gặp nhiều người như Hà. Những người đi qua được thảm kịch, lượm lặt những mảnh vỡ của cuộc đời mình, và phục hồi, là những người thay vì đặt mình vào vai trò nạn nhân thì đặt năng lượng và ý nghĩa sống vào việc làm điều có ích. Kỳ lạ thay, ý tưởng làm việc thiện, mong muốn trở thành người có ích, có thể ùa đến vào lúc người ta đau đớn nhất. Một người mẹ trẻ kể với tôi, chị vừa lau thi thể đứa con ba tuổi mới qua đời, vừa nói trong nước mắt, “Mẹ hứa với con, mẹ sẽ sống cho cả cuộc đời của con. Mẹ sẽ cố gắng gấp hai lần để sống có ích cho xã hội.” Một bà mẹ khác nói, “Mình cứ phải sống tốt thôi, anh Giang ơi.” Chị mất hai trong số ba đứa con nhỏ, và chị nói theo cách để tôi hiểu là phương châm sống đó là cứu cánh cuối cùng và bền vững nhất của chị, sau khi tất cả những thứ khác sụp đổ.
“Ngày xưa một việc nhỏ mình cũng kêu khổ, nhưng đọc Phật pháp nhiều thì em biết được rằng đừng có phóng đại nỗi khổ của mình, và cũng đừng phóng đại hạnh phúc của người khác, không so sánh hạnh phúc của mình với hạnh phúc của người khác.” Một lần khác, Hà bày tỏ. “Mình phải biết mình được cái gì, mình được như bây giờ là hạnh phúc rồi, mình phải tìm thấy hạnh phúc trong những điều bé nhỏ. Ngày xưa
hơi một tí là mình nổi đóa lên, mình kêu ca phàn nàn rất nhiều.”
Khi đi đâu xa, Hà hay rủ Nam đi cùng. Hôm cùng tôi về Bắc Giang, chị nói, “Mẹ về Bắc Giang thăm anh Hùng, con rảnh thì đi cùng mẹ nhé, còn nếu con bận gì thì thôi.”
Nếu con bận gì thì thôi. Tôi thầm nhắc lại câu cuối của chị và không khỏi mỉm cười. Trong hình dung của Hà, Nam đang sống một đời sống độc lập. Cậu có lịch riêng của cậu. Hai người sống trong hai thế giới, sự xa cách ở cõi trần này là không thể đảo ngược.
“Tôi biết rằng vì sao chúng ta giữ người chết sống: chúng ta giữ họ sống để giữ họ bên ta.” Joan Didion viết, một năm sau khi chồng bà qua đời. “Nhưng tôi cũng biết rằng để có thể tiếp tục sống, một lúc nào đó, chúng ta cần buông họ ra, cần phải để họ chết.”
Tôi nhận thấy Hà đã đạt tới nhận thức này một cách sâu sắc. “Buông bỏ,” tôi hay nghe chị khuyên nhủ những cha mẹ khác, “buông bỏ nhưng không buông xuôi.”
Hà hiểu là có những thứ thuộc về số phận, mình không chống lại được, có những việc mình không thể kiểm soát. Hãy buông đứa con ra, chấp nhận rằng nó đã chết. Hãy làm bạn với tình thế này, không coi nó là kẻ thù, không kháng cự, căm thù nó. Điều những cha mẹ mất con cần làm không phải là quên đứa con đi, làm sao mà họ có thể quên được. Điều họ cần làm là học sống với sự xa cách. Với Hà, không những chị không quên, những kỷ niệm về Nam đã trở thành nguồn vui và niềm an ủi cho chị.
Hà hy vọng vào sự sum họp ở một thế giới khác, sau khi chị đã chứng minh được với ai đó đang cai quản vũ trụ này rằng chị đã gắng hết sức để làm tròn bổn phận làm người của mình. Chị tin rằng những nỗ lực làm việc thiện sẽ khiến chị được tới miền Tây phương cực lạc để gặp lại Nam. Ở đó chỉ có yên bình và hoa cỏ thơm ngát, không có bệnh tật và bất hạnh, không có khổ đau và sinh ly tử biệt. Một nơi hoàn hảo và tuyệt vời hơn bất kỳ nơi nào.
Còn trong lúc này, Hà phải bình an để Nam không vướng bận.
Trong những tháng cuối của Nam, Hà hay khuyến khích cậu nghe kinh và niệm Phật trong đầu. “Con ơi, con chỉ cần nghĩ trong đầu tới bốn chữ A Di Đà Phật thôi thì Đức Phật sẽ phù hộ cho con.” Nhưng lúc đó Nam thường trả lời, “Con biết là tốt cho con nhưng mà con chưa thích, con thích xem Doremon thôi.”
Trước khi mất mấy hôm, bỗng nhiên Nam bảo, “Mẹ bật cho con cái đài con nghe”. Hà lấy cái đài từ trong tủ cạnh giường bệnh. Tiếng kinh nho nhỏ, văng vẳng bên tai Nam cả ngày. Với Hà, đó lại là một điều may mắn nữa.
Trong sâu thẳm, chị đã không đánh mất niềm tin là thế giới này công bằng và vũ trụ này có ý nghĩa. Chị tin rằng ở nơi xa xôi, Nam còn có thể hiểu hơn được chính bản thân chị vì sao cậu phải rời xa mẹ và em.
“Người có lý do để sống thì có thể tồn tại trong mọi nghịch cảnh.” Viktor Frankl nhớ lại những bạn tù của mình trong trại tập trung. Hơn cả vật chất, con người khao khát ý nghĩa; ý
nghĩa của cuộc sống chính là ngọn đuốc dẫn người ta vượt qua những quãng đường đen tối nhất. Hà đã xây dựng cho mình một thế giới quan: chị phải trải qua những điều chị đã trải qua để trả nợ cho những kiếp trước. Lời giải thích này đem lại ý nghĩa cho sự đau khổ của Hà, trong khi Ánh chỉ tìm thấy trong nó sự vô nghĩa. Ánh và gia đình cô đã nhầm khi họ đi tìm sự khuây khỏa, điều cô cần tìm là ý nghĩa cho sự tồn tại tiếp theo của mình.
Năm 2017 đã gần trôi qua. Nỗi nhớ Nam vẫn không nguôi, tiếp nối, đan xen, len lỏi vào các ngõ ngách trong tâm trí Hà. Nhưng Hà cảm nhận mình dần vững chãi hơn. Nước mắt vẫn chực rơi mỗi khi chi thấy những đứa trẻ trạc tuổi Nam ở ngoài đường, trước cổng trường hay trong siêu thị, nhưng cảm giác rã rời, kiệt sức mà những con sóng đau buồn đem tới đã bớt đi sự dữ dội, và chị không sợ hãi ngày mai nữa. Trong những cuộc trò chuyện với Nam chị vẫn xin cậu tiếp sức lực cho chị, cho chị thêm nghị lực.
Sau tất cả những gì đã xảy ra giữa Hà với chồng và gia đình chồng, chị không căm ghét. Tôi đã phải đánh vật gần một buổi để thảo luận với Hà tôi có thể viết gì về chồng chị. Chị sợ cuốn sách sẽ làm chồng chị và nhà nội bị ảnh hưởng, “mặc dù thực tế xảy ra đúng như vậy”. Chị bắt tôi gửi những câu liên quan tới họ, dù đó chỉ là mấy chục chữ trong tổng số mười lăm nghìn chữ, rồi đắn đo, vật vã, yêu cầu đổi chữ này, thay chữ kia. Cuối cùng, chúng tôi thống nhất sẽ không dùng tên thật của chị.
Còn một lý do nữa khiến chị không muốn nhắc tới những rạn nứt quá khứ. “Em đang muốn giúp bố nó sống tử tế hơn.
Em vẫn khuyên anh ấy bỏ rượu đi, lấy vợ lại và làm lại cuộc đời. Nếu không làm phiền em thì em vẫn coi anh ấy như người bạn, dù biết sẽ không bao giờ quay lại với nhau.”
Hà không oán hận. Chị muốn tích nhiều duyên lành để “chuyển được những nghiệp xấu của kiếp trước và kiếp này.” Và trước hết, để tâm chị thanh thản.
Hà biết là chị còn một phép thử trước mắt.
Năm tới, Thắng sẽ vào lớp Một. Chị muốn cho Thắng học ở trường Nam Thành Công, trường mà Nam đã theo học. Liệu tới lúc đó chị đã có thể ngày ngày đưa đón Thắng?
Đầu hè năm nay, để trở về cơ quan, chị có hai lựa chọn, hoặc lấy tuyến đường ngắn hơn, nhưng đi ngang qua trường của Nam, hoặc chị đi đường vòng. Hà đắn đo hồi lâu. Cuối cùng, để thử bản thân, chị chọn cung đường ngắn. Chị đã không thành công, chị kể với tôi. Lúc chị nhìn thấy ngôi trường cũng là lúc nước mắt chị tuôn chảy.
Ở cơ quan Hà để một cái ảnh Nam ở trong ngăn kéo. “Đôi khi, các cô chú cùng phòng mở ra, vứt toẹt cuốn sổ hay một cọc tiền vào mặt cháu,” chị kể vui với tôi. Mỗi buổi sáng, khi bắt đầu ngày làm việc, và mỗi cuối ngày, trước khi về, Hà mở ngăn kéo, lấy ảnh Nam ra, hôn chụt nó một cái.
Ở nhà, Thắng hay trèo lên cửa sổ để nhìn lên bàn thờ Nam xem có đổ chơi hay hoa quả gì không. Cậu phàn nàn, “Anh Nam chơi đó chơi lâu thế, cho con chơi với,” hoặc thắc mắc “Anh Nam ăn vải cả vỏ hả mẹ?”
Buổi tối, trước khi đi ngủ, Hà và Thắng hay nghe mấy bài hát mà Nam yêu thích. Thắng đã biết tự bật máy tính lên.
Cậu nói, “Con bật bài hát của anh Nam cho anh nghe mẹ nhé.” Nằm bên cạnh Thắng, Hà mơ màng hình dung ra khuôn mặt Nam, những biểu cảm của cậu khi cậu nghe nhạc. Chị thấy Nam bên cạnh mình.
Có ba bài mà Nam rất ưa thích. Nhật ký của mẹ, do Hiền Thục hát. Tìm lại bầu trời, do Tuấn Hưng hát. Hồi còn sống, Nam nghe chúng say sưa, và lần nào cũng lẩm nhẩm hát theo.
Bài thứ ba là Gặp mẹ trong mơ. Giọng ca Việt nhí Trần Ngọc Duy hát bài này năm 2013, khi cậu mười hai tuổi. Khi đó Nam mới bảy tuổi. Có lần cậu khóc và nói với mẹ, “Mẹ ơi, tại sao bạn ở trong bài hát phải xa mẹ, con xúc động quá.”
Lúc đó cậu không biết rằng một năm sau, cậu sẽ nhập viện, và một năm sau nữa, cậu sẽ xa mẹ.
Trong thời gian viết cuốn sách này, tôi đã dành thời gian nghe bài hát này nhiều lần. Lần nào, tôi cũng dừng tay để nghe nó trọn vẹn. Trước khi gặp Hà, tôi không biết tới nó. Còn bây giờ, lần nào nghe nó tôi cũng nghĩ tới Nam, một cậu bé tôi chưa bao giờ gặp.
Này bầu trời rộng lớn ơi, có nghe chăng tiếng em gọi. Mẹ giờ này ờ chốn nao, con đang mong nhớ về mẹ.
Mẹ ở phương trời xa xôi, hay sao sáng trên bầu trời. Mẹ dịu hiền về với con nhé, con nhớ mẹ.
…
Mẹ nguyện cầu và ước mong, con sống trong yên lành. Mẹ hiền nào biết không, con chỉ mong có mẹ.
Và từ bầu trời rất cao, mong nhớ con mỗi ngày. Mẹ đừng buồn nhiều nữa nhé, con đang đến, mẹ ơi.
LIÊN
6
MỘT BUỔI SÁNG cuối thu 2017, tôi ngồi bên bàn làm việc, trước mặt là câu chuyện của chị Hà và Nam. Cách đây mấy tuần, nó đã lên mặt báo Tuổi trẻ Cuối tuần và nhận được sự chia sẻ của nhiều bạn đọc.
“Hôm nay là ngày...” Tôi bắt đầu nói vào chiếc máy ghi âm. “Anh Giang đọc cho em Liên nghe câu chuyên của hai mẹ con chị Hà. Nam, con trai chị Hà, đã mất vì ung thư xương khi em chín tuổi...”
Tôi phải ghi âm cho Liên nghe bài viết vì từ một tháng nay, mắt của Liên đã mờ. Cô chỉ còn ba mươi hai ki lô gam, “rớt thê thảm so với giá vàng 36”, như cô tự so sánh. Liên không dùng Facebook được nữa, các tin nhắn của cố ngày càng thưa và càng ngắn. Nghe là cách duy nhất để cô còn có thể đọc.
Tôi đã nghĩ rất lâu xem mình nên bắt đầu câu chuyện của chính Liên bang mốc thời gian nào. Có những cuộc đời rẽ ngang trong một tích tắc: một cố gắng bất thành vượt chiếc xe tải đằng trước, một cú trượt chân khi leo núi, một bàn tay trẻ em với lên cái chảo nóng. Nhưng cũng có những thay đổi dần dần, từng bước một, chậm nhưng không thể đảo ngược, mỗi bước lại kéo chúng ta ra xa hơn khỏi những gi quen thuộc, đẩy
chúng ta tới một hoàn cảnh mới, biến chúng ta thành con người mới.
Với Liên, có thể bắt đấu từ đâu để hiểu được hành trình của cô?
Có lẽ móng Một Tết năm 2013 là một thời điểm thích hợp. Đó là ngày mà, một cách mơ hồ, Liên cảm nhận được những đảm mây giông đang kéo tới chân trời.
Buổi sáng hôm đó, trời ấm áp và khô ráo. Với sự tự tín của đứa con cả được học hành hơn ba má, Liên chỉ đạo cả nhà ra sân chụp ảnh. Vẩn chưa có tiền sửa nhà, nhưng ít nhất ba Liên đã sơn xanh cái cổng sắt để đón Tết. Liên mặc một cái váy xanh da trời có đốm trắng nhỏ, cô vẫn xứng danh với danh hiệu “con mèo mập ú”. Từ nhiều năm nay Liên vẫn ao ước một ngày nào đó mình đủ thon thả để mặc được áo dài.
Hai tuần trước, Liên tròn hai mươi ba tuổi. Hôm đó, M đích thần mua bánh kem cho cô, khiến cô vô cùng hạnh phúc. Cậu chưa từng tỏ ra quan tâm tới cô như vậy. Sau khi
thổi nến, Liên tuyên bó với tụi bạn là mình sẽ sống đến năm 2074. Đó là năm mà ngày sinh theo dương lịch của cô sẽ lại trùng với mổng Một Tết, như đã xảy ra vào năm 1990, năm cô chào đời.
Đây cũng là sinh nhật cuối cùng của thời sinh viên của Liên. Tới mùa hè, cô sẽ tót nghiệp kỹ sư công nghệ thông tin ở Đại học Bách Khoa Đà Nẵng. Liên nôn nóng để bước vào đời. Cô nói với tôi rằng cô đã nếm trải ngọt ngào và cay đắng, những đổ vỡ của tình bạn, những cảm xúc yêu đương. Có thanh niên ngoài hai mươi nào mà không cho rằng mình đã già dặn? Đã có
lúc cô oán trách số phận cho mình một đôi chân ngắn và cọc cạch, nhưng tới giờ thì cô hài lòng và thấy biết ơn cuộc đời. Dù còn hơi e ngại, đôi lúc cô thú nhận mình đã thèm được gọi ai đó là “người yêu”, và bắt gặp bản thân mơ màng về gia đình và con cái. Ở tuổi Liên, má cô đã đẻ Thiện, em trai kém cô một tuổi, được hai năm. Nhưng cô còn nhiều dự định ở phía trước, học tiếng Pháp, đi du học thạc sĩ.
Và cô vẫn chưa dám thổ lộ tình cảm của mình với M. Buổi chiểu, Liên ngồi ngoài hiên và nhìn lại nửa năm cuối của đời mình qua các dòng trạng thái Facebook.
Phiền muộn lớn nhất là về mấy cái mụn trên má cô. Nỗi bực mình lớn nhất là vê' việc nhà trọ tăng giá ngay trước Tết. Có những câu tiếu lâm cô nhặt dược ở đâu đấy. Giới trẻ bây giờ, củng giông như cha ông họ ngày trước, cũng bỏ nhà ra đi, củng hút thuốc lả và củng lẩy vợ sinh con, chỉ cố điều họ làm tất cả theo thứ tự ngược lại.
Những triết lý mà cô thấy hay hay. Có lẽ khi chạm đến một nỗi đau giới hạn nào đấy, con người ta sẽ thanh thản đến mức lạ kỳ.
Liên thấy thật tiếc là mãi gần đây cô mới biết tới Một lít nước mắt, bộ phim Nhật khiến cô xúc động và khóc nhiều. Một cân bệnh thoái hóa gen khiến Aya, nhân vật chính mười lăm tuổi trong phim, dần mất đi khả năng kiểm soát các cử động của tay, của chân, của mắt, mất khả năng nói và khả năng ăn, trong khi đầu óc cô vẫn hoàn toàn minh mẫn. Aya chết sau mười năm vật lộn kiên cường để sống một cuộc đời đáng sống. Liên có cảm giác gắn kết đặc biệt với Aya. “Có quá kiêu ngạo
khi nghĩ rằng bộ phim dành cho mình?” Cô viết trong nhật ký. “Có quá tự tin khi cho rằng cảm xúc của mình khi xem phim là thật nhất?”
Mấy tháng trước, cô cần thận chép lại trọn vẹn bài thơ tám khổ Nhạc sầu của Huy Cận. Đọc lại một đoạn, cô vẫn thấy lòng mình chùng xuống:
Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy,
Xe tang đi về tận thế giới nào?
Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.
Vì sao cô lại thấy gắn bó như vậy với Aya? Vì sao cô lại nắn nót “Người đã chết - Một vài ba đầu cúi / Dăm bảy lòng thương xót đến bên mồ” vào một ngày nhàn tản? Có phải đó là những tín hiệu li ti được gửi tới cô? Những báo hiệu, những lời chào xa xôi từ xứ sở của cái chết? Những cái điềm, như người Việt vẫn nói?
Bỗng nhiên, Liên thấy mệt rũ ra. Tựa vào cột nhà, cô cảm thấy nôn nao, dường như thời gian bắt đầu tăng tốc, khiến cô bổn chồn. Linh tính mách bảo Liên điều chẳng lành. Tâm trí cô vụt quay trở lại một ngày cách đây một năm rưỡi.
Hôm đó, sau khi tan học, một đứa bạn gái chỉ tay vào ngực Liên, “Ê, mày sao vậy?” Máu từ nhũ hoa của cô đã thấm ra ngoài áo thành một vết nhỏ. Liên và má hốt hoảng tới bệnh viện. Chỗ hai mẹ con và ông bác sĩ đa khoa ngồi chỉ cách Khoa Ung bướu vài dãy ghế, nhưng hồ sơ của cô không được đưa sang bên đó.
Sau này, Liên nhắc lại vài lần với tôi cái khoảnh khắc này, cái khoảng cách mười mét đầy định mệnh đó. Có lúc giọng cô thoáng sự chua chát, có lúc tôi đọc được trong đó sự nuối tiếc. Giá như...
Người ta kết luận vú Liên tiết dịch do bị viêm và kê thuốc. Ngực cô không ra máu nữa, câu chuyện qua đi.
Sau Tết, Liên giấu cả nhà tới bệnh viện một mình. Cả buổi sáng cô loanh quanh trong đó. Tới gần trưa, trời nắng gắt, ông bác sĩ đi thẳng vào chuyên:
“Khối u đã to bằng quả cam rồi, cần nhập viện để mổ xét nghiệm.”
“Cam sành hay cam Nam Quốc hả bác?” Liên choáng. “Mày mổ đi chứ còn cam gì mà cam,” ông bác sĩ lắc đầu. Liên không chấp nhận. Bác sĩ cho cô thời gian suy nghĩ. Buổi
trưa, Liên ngồi ở hành lang, đầu óc rối tung. Chỉ còn bốn tháng nữa ngăn cách cô và tấm bằng cử nhân, cửa ải cuối cùng để cô bước vào đời. Không lẽ cô gục ngã trước cửa ải này? Vừa khóc, Liên vừa viết như điên vào nhật ký:
Hay là học xong minh sẽ tính tiếp? Ung thư thì có là gì phải không? Bệnh thì đã có rồi, nhưng nếu giờ minh không làm đồ án, mình sẽ dở dang 17 năm đi học, 5 năm Bách Khoa, giấc mơ du học, gia đình, sự nghiệp, con cái, nuôi thật nhiều chó, có thật nhiều gấu bông. Ôi, ước mơ nhiều lâm mà... Không lẽ để bệnh tật cản dường sao?
Viết xong, Liên nằm trên ghế khóc tiếp rồi ngủ thiếp đi. Đầu giờ chiểu, cô nói với bác sĩ rằng cô còn rất nhiều thứ phải làm và hẹn bốn tháng nữa quay lại. “Có được không hả bác?”
Ông bác sĩ ghi vào hồ sơ, “Bệnh nhân không chịu mổ sinh thiết dù được chỉ định.”
Các nhà tâm lý học hay nói tới sự chối bỏ, thường là giai đoạn tâm lý đầu tiên khi con người ta phải đối mặt với bất hạnh. Người ta từ chối nhìn vào nó, coi như nó không tổn tại, hay tổn tại nhưng không quan trọng, khước từ để nó chen vào cuộc sống đang yên ổn của minh. Bị nó đánh cho càng mạnh, người ta càng có xu hướng đi tiếp, như theo quán tính, như người mộng du. Hàng tháng ười sau cái chết của chồng minh, Joan Didion - tôi đã thuộc lòng nhiều đoạn trong cuốn hồi ký của bà - vẫn không chịu cất giày của ông đi, bởi “có thể ông sẽ dùng tới chúng khi ông quay về”.
Lúc này, Liên là con đà điều rúc đầu xuống cát. Cô khước từ thay đổi những kế hoạch tương lai của mình. Cô không chấp nhận rằng cuộc sổng bình thường của mình, như cô vẫn đang sống tới sáng hôm đó, bắt đầu tan chảy như cây đá dí dưới nắng.
Liên về phòng trọ, ăn một gói cháo ăn liền, tắm rửa và nằm suy nghĩ. Xế chiều, M ghé qua. Trước tình hình mới, hai đứa quên hẳn việc Liên mới tỏ tình với M mấy hôm trước. Hôm đó, không hiểu sao Liên lại đủ liều để làm chuyện đó. Hay là cô có linh tính về thời gian đang trôi như cát trượt qua kẽ ngón tay? Trời bắt đầu mưa, hai đứa ngồi trong phòng nhìn ra ngoài, chẳng nói gì cả. Liên thầy mọi thứ đẹp một cách đau đớn và dữ dội.
M giữ đúng lời hứa, cậu không nói với ai. Buổi tối cuối tuần ở quê, Liên leo lên giường nằm cạnh má và thấy thế giới xung
quanh đang lặng lẽ sụp đổ như trong một bộ phim câm. Trong làng, gia đình của cô được coi là mẫu mực, cô và Thiện là những thanh niên học đại học đầu tiên của làng. Cô đang chuẩn bị đạp đổ tan tành sự bình yên này, và điều đó khiến cô cảm thấy mình như một phế phẩm. “Con xót lắm. Quặn lòng con lắm!” Liên tự giày vò. “Không biết sự tồn tại của con trên đời này, trong gia đình mình là để làm gì?”
Căng thẳng thần kinh khiến Liên bắt đầu kém ăn. Lo lắng là mọi người có thể đặt dấu hỏi nếu mình giảm cân, Liên tìm cách đánh lạc hướng. Cô viết trên Facebook:
“Bạn bè bảo ngày làm cô dâu là ngày đẹp nhất.
Mình sẽ giảm cân đê ngày mình đẹp nhất là ngày bảo vệ tốt nghiệp.”
Mấy đứa bạn nhảy vào bình luận: “Tớ cũng thế!” Nổi bí mật làm Liên khổ sở trong lòng. Cô giật mình khi ai đó quan tâm, hỏi han. Cô tiết lộ cho một người bạn rồi lại hói hận. Đống suy nghĩ rối ren dàng lên trong đầu như một làn sương mù làm Liên mất cảm giác về thời gian. Mới có mấy tuần mà cái buổi cô thổi nến sinh nhật nay đã xa như kiếp trước. Buổi tối, Liên phóng lang thang trong thành phố trên chiếc Honda ba bánh, tóc rối đầy trong miệng. Khi đi qua cửa hàng áo cưới, cô vừa muốn bỏ di thật nhanh vừa muốn dừng lại ngắm. Liên sợ giấc ngủ, sợ cả lúc tỉnh dậy. Cô nói với M rằng cô là Aya, rằng cô muốn trốn đi nơi khác, cho tới khi cậu dọa sẽ mách ba má cô nếu cô còn tiếp tục “ăn nói lung tung”. Hai tuần sau, Liên đầu hàng. Cô giao cho Thiện nhiệm vụ thông báo cho ba má. Thứ Bảy, Thiện về nhà, Liên lấy cớ ở lại
Đà Nẵng. Sau chương trình thời sự buổi tối, với phong cách của cậu con trai út quen được người khác làm theo ý mình, Thiện khoát tay và cao giọng, “Thôi, tắt TV đi. Mình nói chuyên.” Má Thiện nhìn ba Thiện, ông với tay lẫy cái điều khiển. Thiện hắng giọng, “Chị Hai bị bệnh.” Cậu nghỉ một tích tắc, cố gắng giữ giọng rõ ràng và tốc độ nói không quá nhanh. “Bác sĩ nghi chị Hai bị ung thư”. Cả nhà im phăng phắc, rồi mặt má Thiện bắt đầu méo xệch.
Liên không xa lạ gì với bệnh viện. Khi cô được sáu tháng tuổi thì ba má Liên hiểu rằng chân cô có vấn để. Hai bàn chân cô bị vặn ngửa và cứ hướng sang hai bên chứ không trỏ được ra phía trước. Lúc Liên được mười sáu tháng, ba Liên bồng cô vào Sài Gòn phẫu thuật lần đầu. Rồi sau đó, lớp Một, lớp Sáu, lớp Bảy, cứ khi nào có đoàn bác sĩ phẫu thuật tới Đà Nẵng, ba má Liên lại đem cô ra thành phố. Tới cấp Ba, Liên đã đi dép được bình thường, tuy một chân cô ngắn hơn chân kia gần hai mươi phân, khiến dáng đi của cô tập tễnh trông thấy.
Năm lớp Tám, Liên mổ chân lần cuối. Hổi đó, sự ương bướng của cô đã lộ rõ. Cô thể với ông bác sĩ đây lần cuối cô lên bàn mổ.
Nhưng cô đã thua. “Sao sổ mình nó nhọ thế,” Liên chua chát. “Sao mình cứ phải đưa thân cho người ta hoài.” Hôm có kết quả sinh thiết, Liên chờ đợi cả ngày, mệt mỏi trộn lẫn với khắc khoải của hy vọng. Không khí ngột ngạt, mặc dù đêm hôm trước trời mưa to. Đến chiểu, Liên được thông báo nộp thêm tiền để bắt đầu truyền hóa chất. Má Liên lặng lẽ đi nộp. Liên hỏi một chị điều dưỡng:
"""