"
Địch Gia Bát Án - Robert van Gulik full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địch Gia Bát Án - Robert van Gulik full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN SERIES #13 ĐỊCH GIA BÁT ÁN
Tác giả: Robert van Gulik Người dịch: Tùng Vũ
Phát hành: Phúc Minh Books Nhà xuất bản Văn Học 04/2019 —★—
ebook©vctvegroup
23/02/2020
Địch Gia Bát Án
“Tống trào có Hắc Bao Công
Đường triều Võ Hậu, Địch Công anh hùng.” Đ
ịch Gia Bát Án là tuyển tập những vụ án riêng lẻ nhưng cũng được coi là đáng nhớ nhất trong sự nghiệp quan án xuất chúng của Địch Nhân Kiệt - vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường. Chỉ vỏn vẹn tám truyện ngắn nhưng đã khắc họa rõ nét, chân thực hình ảnh của ông cùng các trợ thủ tâm phúc là Hồng Lượng, Mã Vinh và Kiều Thái trong suốt một thập kỷ làm quan án tại bốn huyện Bồng Lai, Hán Nguyên, Phổ Dương và Lan Phường.
Bằng khả năng phán đoán nhanh nhạy và suy luận tài tình, Địch Công không chỉ giúp thường dân hèn mọn giải oan, vạch trần tội lỗi của ác nhân hung tàn, mà còn tương trợ những vị tướng đang đối diện với sinh tử nơi sa trường, góp phần mang lại thắng lợi cho ba quân và đưa Đại Đường vào một thời kỳ thái bình thịnh thế.
Lời giới thiệu
Robert van Gulik (1910 - 1967) là một viên chức ngoại giao người Hà Lan. Mối quan tâm đến ngôn ngữ và văn hóa châu Á đã
thúc đẩy ông trở thành một nhà Đông phương học uyên thâm và là tác giả của hàng loạt cuốn sách về văn hóa phương Đông. Trong thời gian công tác tại Trung Quốc và Nhật Bản, van Gulik tìm hiểu nền văn học dân gian ở đây và bị ấn tượng bởi nhân vật lịch sử Địch Nhân Kiệt - một vị thần thám thời nhà Đường. Những câu chuyện cổ trong biên niên sử Trung Hoa về vị quan án nổi tiếng này là nguồn cảm hứng để ông sáng tác nên bộ truyện Địch Công kỳ án trứ danh.
Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng.
Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vân giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án.
Tám truyện ngắn trong Địch Gia Bát Án là những vụ án đáng nhớ
nhất trong sự nghiệp xuất chúng kéo dài qua hai triều đại Đường - Chu của Địch Công. Ông cùng những trợ thủ tâm phúc của mình đã phá giải bao vụ án ly kỳ, từ nghi án phản quốc của một tướng quân khi đối diện sinh tử nơi sa trường cho tới vụ sát hại một thi sĩ cô đơn trong lương đình ở Hán Nguyên, trong suốt một thập kỷ làm quan án tại bốn huyện Bồng Lai, Hán Nguyên, Phổ Dương và Lan Phường.
Năm đóa tường vân
Tình ơi đau đớn làm chỉ
Để cho nhi nữ chia ly với chàng
Trời cao số kiếp bẽ bàng
Gieo chi ác bệnh, hai hàng lệ rơi
Thuyền quyên giấc mộng chơi vơi
Xuân sang em bước, người ơi đi cùng...
-Tùng Vũ
Vụ án này xảy ra vào năm 663 sau Công nguyên, khi Địch Công chỉ vừa mới chính thức nhậm chức tại địa phương đầu tiên trong sự nghiệp làm quan án là Huyện lệnh huyện Bồng Lai được một tuần, đây là chức vị một mình một cõi cai quản vùng đất xa xôi hẻo lánh ờ bờ biển Đông Bắc của vương triều Đại Đường, Trung Quốc. Ngay sau khi chân ướt chân ráo đến nhận nhiệm sở mới, ông đã phải đối mặt với ba tội ác bí ẩn được đề cập ở tập “Hoàng kim án” trong cùng bộ tiểu thuyết “Địch Công kỳ án”. Câu chuyện đó diễn ra trong bối cảnh ngành công nghiệp đóng thuyền đang phát triển thịnh vượng tại Bồng Lai, dưới sự chi phối của Diệp Thủ Bôn, một chủ thuyền giàu có. Còn câu chuyện này khai màn tại nha sảnh của Địch Công trong nha phủ, nơi ông đang họp bàn với Diệp Thủ Bôn và hai nam nhân khác. Họ vừa kết thúc cuộc thảo luận dài hơi xoay quanh đề xuất của Địch Công về việc chuyển ngành đóng thuyền về dưới sự kiểm soát của triều đình.
“À,
thưa chư vị,” Địch Công mỉm cười hài lòng nói với ba vị khách, “ta nghĩ đã đủ thông tin để đưa ra quyết định rồi.”
Cuộc hội bàn ở nha sảnh của Địch Công đã bắt đầu từ giữa giờ Mùi, hiện đã quá giờ Thân. Nhưng ông nghĩ ngần ấy thời gian đã được sử dụng hữu ích.
“Các quy tắc chúng ta dự thảo dường như đã chu toàn cho mọi sự kiện ngẫu nhiên có thể xảy ra,” họ Hồ bình phẩm bằng một giọng điệu chắc nịch. Y là một nam nhân trung niên, ăn vận nhã nhặn, vốn là Lục sự của Thượng thư Bộ Hình, nay đã hồi hưu. Nhìn sang Hạ Minh, gã chủ thuyền giàu có ngồi bên phải mình, y nói thêm:
“Hạ tiên sinh, chắc ông sẽ đồng ý rằng nghị ước của chúng ta đã giải quyết hợp tình hợp lý sự bất đồng giữa ông với Diệp tiên sinh đây.” Hạ Minh nhăn nhó mặt mày. “Công bằng là một từ hay,” hắn lãnh đạm nói, “nhưng là một thương nhân, ta thích từ lợi tức hơn nhiều! Nếu ta được trao quyền tự do cạnh tranh với bằng hữu Diệp đây, kết quả có thể không hoàn toàn công bằng đâu... nhưng sẽ mang lại nhiều lợi tức... cho ta!”
“Ngành nghề đóng thuyền ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh.” Địch Công nhận xét vẻ kiên quyết. “Triều đình không cho phép độc quyền tư nhân. Chúng ta đã dành cả buổi trưa cho vấn đề này, và nhờ vào lời tư vấn kỹ thuật tuyệt vời của Hồ tiên sinh, mà giờ đây chúng ta đã soạn được nghị ước này rất rõ ràng và chi tiết nhằm nêu bật những quy tắc mà các chủ thuyền phải phục tùng. Ta mong cả hai ông nhất nhất tuân theo chúng.”
Diệp Thủ Bôn chậm rãi gật đầu. Địch Công thích thương nhân ma mãnh nhưng thành thật này. Ông đánh giá Hạ Minh thấp hơn, ông biết hắn không hề phản đối các giao dịch mờ ám, lại còn phóng đãng, ham mê tửu sắc. Địch Công ra hiệu cho nha dịch châm đầy các chén trà, rồi ông tựa lưng vào ghế. Ngày hôm nay đã rất nóng nực, nhưng giờ thì một cơn gió nhẹ mát lành thổi qua, thoảng đưa hương mộc lan thơm ngát bên ngoài cửa sổ lan tỏa khắp nha sảnh.
Họ Diệp đặt chén trà xuống, liếc mắt ra hiệu cho hai nam nhân kia. Đã
đến lúc họ nên cáo từ rồi.
Đột nhiên cánh cửa mở ra và Hồng Sư gia, lão quân sư tin cẩn của Địch Công bước vào. Lão tiến lại gần án thư và nói:
“Bẩm đại nhân, có người muốn cầu kiến ngài, nói là có chuyện khẩn cấp.”
Địch Công nhận ra ánh nhìn đầy ngụ ý của Sư gia, “Xin cáo lỗi, ta có việc một chút,” ông nói với ba vị khách rồi đứng lên và theo lão Hồng ra ngoài.
Khi họ đã ra đến hành lang, Hồng Sư gia hạ giọng nói với Địch Công: “Đó là quản gia của Hồ tiên sinh, thưa ngài. Y đến để bẩm báo rằng Hồ phu nhân đã tự tử.”
“Trời đất ơi!” Địch Công thốt lên. “Bảo y đợi ta. Tốt hơn là ta nên tự mình báo lại hung tin này cho Hồ tiên sinh. Hồ phu nhân tự tử như thế nào?”
“Hồ phu nhân treo cổ quyên sinh, thưa đại nhân, ở tiểu đình trong hậu hoa viên vào giờ nghỉ trưa. Quản gia vừa phát hiện liền lập tức chạy tới đây báo tin.”
“Thật là bi thảm cho Hồ tiên sinh khi gặp tai kiếp này. Ta quý mến y, vốn là một kiểu người hơi khô khan nhưng rất tận tâm, chu đáo, và cũng là một luật gia khôn ngoan.”
Địch Công buồn bã lắc đầu, đoạn ông quay trở lại nha sảnh. Sau khi ngồi xuống sau án thư, ông nói với họ Hồ, vẻ nghiêm trọng: “Đó là quản gia của ông, Hồ tiên sinh à. Y đến đây với một tin dữ. Về tôn phu nhân.”
Họ Hồ nắm lấy tay vịn của ghế:
“Về phu nhân của ta ư?”
“Có lẽ phu nhân đã tự sát, Hồ tiên sinh à.”
Họ Hồ nhấp nhổm đứng dậy, sau đó lại buông mình thẫn thờ xuống ghế. Y nói với giọng yếu ớt đượm buồn:
“Vậy là điều đó đã xảy ra, đúng như ta lo sợ. Mấy tuần gần đây nàng... nàng đã rất sầu não và tuyệt vọng.” Y dụi mắt, đoạn hỏi:
“Nàng làm sao... làm thế nào mà tự kết liễu đời mình?”
“Quản gia của ông trình báo rằng tôn phu nhân đã treo cổ. Bây giờ y đang chờ để hộ tống ông về gia trang. Ta sẽ phái Ngỗ tác đến hỗ trợ ngay để soạn giấy chứng tử. Dĩ nhiên là ông muốn các nghi thức thủ tục được hoàn tất càng nhanh càng tốt để bản thân không còn phải vướng bận tâm tư thêm nữa.”
Họ Hồ dường như không nghe thấy Địch Công nói gì. Y lẩm bẩm: “Chết! Chỉ vài canh giờ sau khi ta rời đi sao? Ta biết làm gì đây?” Hạ Minh nói vẻ an ủi:
“Chúng ta nhất định sẽ giúp đỡ ông!” Hắn tiếp thêm vài lời vỗ về nữa. Diệp Thủ Bôn cũng góp lời động viên. Nhưng dường họ Hồ không nghe thấy. Y đang nhìn đăm đăm vào không gian bất tận, khuôn mặt co rúm lại. Bất chợt họ Hồ ngước lên nhìn vào Địch Công và cất lời sau một thoáng ngần ngừ:
“Địch lão gia, ta cần thời gian, một chút thời gian để... Ta không muốn lợi dụng sự tử tế của lão gia, nhưng... ngài có thể cử ai đó lo liệu các nghi thức và thủ tục ấy thay cho ta được không? Rồi ta có thể sẽ về Hồ gia sau... sau khi thi thể đã được khám nghiệm, và đã...” Giọng y yếu ớt dần, đôi mắt van lơn tha thiết nhìn Địch Công.
“Dĩ nhiên rồi, Hồ tiên sinh!” Địch Công mạnh mẽ đáp nhanh. “Ông cứ ở đây và dùng thêm một chén trà. Đích thân ta cùng Ngỗ tác sẽ đi đến Hồ gia trang, và sẽ chuẩn bị một cỗ quan tài tạm thời. Ít nhất ta có thể làm chuyện đó cho ông. Ông chưa bao giờ miễn cưỡng trao cho ta những lời khuyên giá trị, và hôm nay, ông dành cả buổi trưa cho công vụ của huyện nha. Không, bản quan đã quyết rồi, Hồ tiên sinh à! Diệp tiên sinh, Hạ tiên sinh, hai vị hãy chăm sóc bằng hữu của chúng ta nhé. Ta đi thu xếp một chút, khoảng hai khắc nữa sẽ trở lại.”
Hồng Sư gia đang chờ ngoài sân nhỏ cùng với một nam nhân béo lùn có chòm râu dê đen nhánh.
Lão Hồng bầm với quan án rằng đây là quản gia của họ Hồ. Địch Công nói với kẻ ấy:
“Ta đã thông báo với Hồ tiên sinh rồi, giờ ngươi có thể trở về gia trang. Bản quan sẽ theo sau ngay.” Rồi Địch Công nói thêm với Hồng Sư gia: “Tốt hơn là lão hãy về công đường, lão Hồng à, để sắp xếp lại các giấy tờ công vụ vừa được chuyển tới. Chúng ta sẽ cùng xem xét sau khi bản quan về nha phủ. Hai thuộc hạ của ta đâu rồi?”
“Bẩm đại nhân, Mã Vinh và Kiều Thái đang ở trong sân chính, điều khiển binh sĩ tiến hành thao luyện.”
“Tốt lắm. Bản quan chỉ cần Bộ đầu và hai thuộc hạ cùng tới Hồ gia trang. Họ sẽ đặt thi thể vào quan tài. Tối nay ta cũng không cần đến Mã Vinh và Kiều Thái sau khi họ đã thao luyện đám binh lính xong xuôi. Cho gọi Ngỗ tác và truyền kiệu của ta ra đây.”
Trong cái sân nhỏ tẹo phía trong tư gia khiêm tốn của họ Hồ, gã quản gia béo lùn đang đứng chờ Địch Công. Hai nữ tì mắt đỏ hoe quẩn quanh đứng gần cổng gia trang. Bộ đầu giúp Địch Công bước xuống kiệu. Ông lệnh cho y đứng chờ cùng với hai Bộ khoái trong sân nhỏ, rồi bảo quản gia dẫn đường cho mình và Ngỗ tác đến gian tiểu đình nơi Hồ phu nhân đã tự sát.
Quản gia dẫn họ đi dọc theo một hành lang lộ thiên bao quanh gia trang, tới một khu vườn rộng lớn nằm giữa những bức tường cao chót vót. Y dẫn họ bước xuống một lối mòn đã được dọn dẹp quang đãng, nằm quanh co uốn khúc giữa những bụi hoa, tới góc xa nhất. Ở đó, dưới bóng râm của hai cây hòe lớn, một gian tiểu đình hình bát giác đứng sừng sững, tọa lạc trên nền gạch tròn. Mái đình nhọn lợp ngói lưu ly, trên chóp đặt một quả cầu dát vàng. Các cột trụ và cửa sổ lưới mắt cáo tinh xảo được sơn son. Địch Công bước lên bốn bậc thềm lát đá hoa cương rồi đẩy cánh cửa mở tung ra.
Gian tiểu đình cao nhưng nhỏ hẹp này thật oi bức, mùi hăng hắc của một loại hương trầm kỳ lạ đang lan tỏa nồng nặc trong không khí. Ánh mắt của Địch Công ngay lập tức hướng về phía chiếc trường kỷ bằng trúc kê sát tường bên phải. Thi thể bất động của một nữ nhân đang nằm trên đó, quay mặt về phía tường. Ông chỉ thấy mái tóc dày óng ả xõa tung xuống bờ vai nàng. Nàng mặc xiêm y bằng lụa trắng, bàn chân nhỏ nhắn vừa vặn trong đôi bạch hài bằng gấm thêu. Quay sang phía Ngỗ tác, Địch Công nói:
“Ngươi hãy nghiệm thi cho Hồ phu nhân trong khi ta chuẩn bị giấy chứng tử. Quản gia, mở các cửa sổ ra, trong này ngột ngạt quá.” Địch Công lấy từ trong ống tay áo ra mẫu giấy công vụ và đặt nó sẵn trên cái bàn kê sát tường, cạnh cửa ra vào. Rồi ông thong thả nhìn kĩ gian phòng. Trên chiếc bàn chạm khắc gỗ tử đàn đặt giữa phòng có một khay trà đựng hai cái chén. Ấm trà vuông vức đã đổ nhào, nó đang nằm lay lắt với một nửa bên vòi vất vưởng trên một chiếc hộp bằng đồng trơn nhẵn. Một dải lụa đỏ dài loằng ngoằng nằm kế bên cạnh. Hai chiếc ghế lưng tựa cao đứng chơ vơ cạnh bàn. Ngoại trừ hai kệ tương phi trúc nằm giữa những cửa sổ đang chứa sách và vài món đồ cổ nhỏ bé, không còn đồ đạc nào khác. Nửa trên của các bức tường được lát ván gỗ, trên đó chạm khắc những bài thơ nổi tiếng. Không khí thật yên tĩnh, phảng phất phong vị thanh tao.
Quản gia đẩy cánh cửa sổ cuối cùng mở tung ra. Bấy giờ y tiến tới gần Địch Công và chỉ tay vào những thanh xà sơn son lớn chạy ngang qua trần nhà hình vòm. Từ thanh xà chính giữa trần treo đu đưa một dải lụa đỏ, một đầu đã sờn.
“Bẩm đại nhân, chúng tiểu nhân tìm thấy phu nhân treo cổ ở đó. Nữ tì hầu phòng và tiểu nhân...”
Địch Công gật đầu. “Sáng nay Hồ phu nhân trông có chán nản, ủ ê không?”
“Ồ không, thưa đại nhân, lúc ăn cơm trưa, tinh thần phu nhân vẫn rất
tốt. Nhưng khi Hạ tiên sinh đến thăm lão gia, thì phu nhân..” “Ngươi nói ai? Hạ Minh? Hắn đến đây làm gì? Hắn sắp sửa gặp Hồ tiên sinh ở thư phòng của ta vào giờ Mùi mà!”
Quản gia trông có vẻ ngại ngùng. Sau một thoáng do dự, y đáp lời: “Lúc đó, do phải phục vụ trà tại sảnh đường, nên tiểu nhân đã nghe được vài câu họ nói chuyện. Hình như Hạ tiên sinh muốn lão gia góp lời tư vấn có lợi cho hắn trong cuộc thương nghị buổi chiều. Thậm chí hắn còn tặng cho lão gia một... à, khoản đền ơn... kha khá. Tất nhiên là lão gia đã từ chối, vẻ rất phẫn nộ...”
Ngỗ tác tiến tới gần Địch Công, thì thầm nói, “Thuộc hạ phát hiện ra vài điều hết sức kỳ lạ!”
Nhận thấy vẻ mặt lo lắng của Ngỗ tác, Địch Công xẵng giọng ra lệnh cho quản gia:
“Hãy đi tìm nữ tì của Hồ phu nhân về đây cho ta!” Rồi ông tiến về phía chiếc trường kỷ để kiểm tra. Ngỗ tác đã quay đầu của nữ nhân xấu số lại. Khuôn mặt bị méo mó nặng nề, nhưng người ta vẫn có thể nhìn ra nàng là một nữ nhân có nhan sắc. Địch Công áng chừng nàng khoảng hai mươi lăm tuổi. Ngỗ tác vén mái tóc nàng sang một bên và cho Địch Công thấy một vết bầm tím nghiêm trọng phía trên thái dương bên trái.
“Đây là điều khiến cho thuộc hạ lo lắng,” y chậm rãi nói. “Còn điều thứ hai, tuy nguyên nhân tử vong là do bị thắt cổ, nhưng không một đốt sống cổ nào bị trật khớp cả. Bây giờ, thuộc hạ đo chiều dài của dải lụa treo lòng thòng từ xà nhà trên cao đằng kia với dải lụa nằm trên bàn và chiều cao của Hồ phu nhân. Thật dễ dàng trông ra được cách nàng ấy tự sát. Nàng ta bước lên chiếc ghế đó, rồi lên bàn. Nàng quăng dải lụa qua thanh xà, thắt một đầu thành nút trượt và rút chặt vòng dây quanh đó. Rồi nàng quấn đầu kia thành chiếc thòng lọng, tròng nó quanh cổ mình và nhảy khỏi bàn, khiến ấm trà đổ tung tóe. Khi đang treo lơ lửng ở đó, chân nàng chắc chắn chỉ cách sàn nhà vài phân. Cái thòng lọng chầm chậm siết cổ nàng, nhưng không khiến nó bị gãy. Thuộc hạ không thể không băn
khoăn tại sao nàng ấy không đặt cái ghế kia lên bàn, rồi từ đó hãy nhảy xuống. Một cú rơi như thế sẽ làm gãy cổ nàng, gây tử vong nhanh chóng. Nếu chúng ta kết hợp điều này với vết bầm trên thái dương...” Y đột ngột bỏ lửng câu nói và trao cho Địch Công một cái nhìn đầy ẩn ý.
“Ngươi nói đúng,” Địch Công nói. Ông thu lại mẫu giấy công vụ và bỏ vào trong tay áo. Chỉ có trời mới biết khi nào ông mới có thể cấp giấy chứng tử! Địch Công thở dài và hỏi:
“Thế còn thời gian tử vong?”
“Điều đó thật khó nói, thưa đại nhân. Cơ thể vẫn còn ấm, tứ chi vẫn chưa bắt đầu cứng lại. Tuy nhiên, với thời tiết nóng nực và trong gian phòng kín này thì...”
Địch Công gật gù vẻ lơ đãng, không chú tâm. Ông đang nhìn chằm chằm vào chiếc hộp bằng đồng. Nó có hình hoa mai năm cánh với các góc được bo tròn, đường kính ước khoảng một thước, cao chừng một thốn. Trên nắp đậy bằng đồng là năm rãnh xoắn ốc nối liền nhau. Qua đó, có thể thấy một chất bột nâu đầy tới miệng hộp.
Ngỗ tác dõi theo ánh nhìn của Địch Công, y bình phẩm:
“Đó là một chiếc lư hương tính xảo.”
“Quả là vậy. Hoa văn trên nắp là biểu tượng của năm đám mây cát tường, mỗi đám mây đều được khắc thành rãnh hình xoắn ốc. Nếu đốt huân hương ở một đầu rãnh, nó sẽ cháy chầm chậm dọc theo các xoắn ốc của hoa văn, vận hành như một đoạn dây dẫn vậy. Hãy nhìn xem, nước trà tràn ra từ vòi ấm làm ướt phần giữa của xoắn ốc thứ ba, dập tắt đoạn hương đang cháy dở dang. Nếu có thể tìm ra chính xác chiếc lư hương được nhen lên khi nào và bao lâu sau thì nó cháy đến phần chính giữa của vòng xoắn ốc thứ ba, thì chúng ta sẽ có thể xác minh được gần như là chính xác thời điểm của vụ tự sát. Hay đúng hơn là...”
Địch Công ngừng lại, vì quản gia đã bước vào. Y đi cùng với một nữ nhân béo tốt đẫy đà, khoảng năm mươi tuổi, trong xiêm y màu nâu gọn
gàng. Gương mặt tròn trĩnh vẫn còn vương dấu vết của những giọt lệ rơi. Ngay khi nhìn thấy thi thể bất động trên trường kỷ, nữ nhân này bật khóc nức nở.
“Nữ nhân này đã theo hầu Hồ phu nhân bao lâu rồi?” Địch Công hỏi quản gia.
“Hơn hai mươi năm, thưa đại nhân. Bà ta vốn ở nhà mẹ đẻ Hồ phu nhân, ba năm trước đã theo phu nhân xuất giá về đây. Bà ta không sáng dạ lắm nhưng trung hậu và cần kiệm. Phu nhân rất coi trọng bà ta.”
“Bình tĩnh!” Địch Công nói với nữ tì. “Đây hẳn là một tin choáng váng khủng khiếp đối với ngươi, nhưng nếu ngươi mau chóng trả lời các câu hỏi của bản quan, chúng ta sẽ có thể sớm an táng Hồ phu nhân. Nói cho ta nghe, ngươi có quen dùng chiếc lư hương này không?”
Nữ nhân lau mặt bằng tay áo và trả lời, dáng vẻ bơ phờ, “Dĩ nhiên là có, thưa đại nhân. Nó cháy hết chính xác hai canh rưỡi, mỗi xoắn ốc mất nửa canh giờ. Ngay trước khi nô tì rời đi, phu nhân đã phàn nàn về không khí ẩm mốc ở đây, nên nô tì mới thắp hương.”
“Khi đó là giờ nào?”
“Bẩm ngài, lúc đó là khoảng giờ Mùi.”
“Đó là lần cuối ngươi trông thấy phu nhân còn sống, đúng không?” “Vâng, thưa ngài. Khi Hạ tiên sinh đang đàm đạo với lão gia trong sảnh đường, nô tì đã đưa phu nhân đến đây. Liền sau đó, lão gia đi vào để xem phu nhân có được an giấc trưa hay không. Phu nhân kêu nô tì rót ra hai chén trà, nói thêm rằng không cần nô tì phục dịch cho đến giờ Dậu, và kẻ hèn này cũng nên chợp mắt trong chốc lát đi. Phu nhân luôn rất chu đáo! Nô tì trở lại sảnh đường và bảo quản gia xếp bộ lễ phục màu xám mới may trong phòng ngủ cho lão gia để ngài ấy chuẩn bị đến nha phủ nghị sự. Rồi lão gia cũng đến. Sau khi quản gia giúp ngài ấy thay đổi y phục, lão gia liền kêu nô tì đi nghênh đón Hạ tiên sinh quay lại. Sau đó, họ cùng nhau rời đi.”
“Hạ tiên sinh khi ấy ở đâu?”
“Nô tì thấy ngài ấy đang thưởng hoa trong vườn, thưa đại nhân.” “Đúng thế,” quản gia nói, “sau cuộc trò chuyện trong sảnh đường mà tiểu nhân vừa kể, lão gia đã xin Hạ tiên sinh thứ lỗi vì ngài ấy phải ra gian tiểu đình trong vườn nói lời từ biệt phu nhân rồi đi thay đổi y phục. Có vẻ như Hạ tiên sinh, do bị bỏ lại một mình trong sảnh đường, thấy buồn nên đã đi ra ngoài để thưởng ngoạn hoa viên.”
“Bản quan hiểu. Như vậy thì ai đã phát hiện ra thi thể đầu tiên, ngươi hay nữ tì này?”
“Là nô tì, thưa đại nhân.” Nữ tì đáp lời. “Nô tì đến đây trước giờ Dậu một chút, và nô tì... nô tì thấy phu nhân treo cổ ở đây, trên cái xà nhà đó. Nô tì vội chạy ra ngoài và gọi quản gia.”
“Tiểu nhân ngay lập tức đứng lên ghế,” quản gia nói, “và cắt dây, còn bà ta thì vòng tay quanh người phu nhân. Tiểu nhân nới lỏng vòng dây, và sau đó cả hai khiêng phu nhân qua chiếc trường kỷ. Hơi thở của phu nhân đã ngừng lại, và tim cũng ngưng đập. Chúng tiểu nhân cố gắng làm phu nhân hồi tỉnh bằng cách xoa bóp mạnh, nhưng đã quá trễ. Tiểu nhân vội vã chạy đến nha phủ để bẩm báo cho lão gia. Giá mà tiểu nhân phát hiện ra phu nhân sớm hơn..
“Ngươi đã làm những gì mình có thể, quản gia. Giờ để ta xem nào. Ngươi đã kể với bản quan rằng trong suốt bữa ăn trưa, tinh thần Hồ phu nhân rất tốt, cho đến khi Hạ tiên sinh xuất hiện, đúng không?”
“Vâng, thưa đại nhân. Khi Hồ phu nhân nghe thảo dân thông báo Hạ tiên sinh đến gặp lão gia, thần sắc phu nhân trở nên nhợt nhạt, phu nhân vội thoái lui về gian phòng bên cạnh. Tiếu nhân thấy...”
“Ông chắc hẳn lầm rồi!” Nữ tì gắt gỏng cắt ngang. “Ta tháp tùng cùng phu nhân khi phu nhân đi từ phòng bên đến tiểu đình trong vườn, và ta không hề nhận thấy phu nhân có gì phiền não.”
Quản gia giận dữ định bắt bẻ lại thì Địch Công đã giơ tay lên phản đối
và xẵng giọng nói với y:
“Hãy đi hỏi lão bộc gác cổng xem hắn đã cho những ai vào sau khi lão gia nhà ngươi và Hạ tiên sinh rời đi, tại sao họ đến và ở lại bao lâu. Nhanh lên!”
Khi quản gia nháo nhào rời khỏi, Địch Công ngồi xuống bàn. Chậm rãi vuốt hàng tóc mai dài, ông lặng lẽ quan sát nữ nhân đang cụp mắt đứng trước mặt mình. Rồi ông nói:
“Phu nhân của ngươi, đã qua đời. Nhiệm vụ của ngươi là kể cho ta nghe mọi sự việc có thể để giúp bản quan tìm ra kẻ thủ ác đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên cái chết của phu nhân. Nói đi, tại sao việc Hạ tiên sinh đến lại khiến nàng ấy căng thẳng?”
Nữ tì nhìn Địch Công đầy sợ hãi. Bà ta dè dặt trả lời:
“Nô tì thực sự không biết, thưa đại nhân! Nô tì chỉ biết là trong hai tuần qua, phu nhân đã hai lần đến thăm Hạ tiên sinh mà lão gia không hề hay biết. Nô tì muốn đi với phu nhân, nhưng Phùng tiên sinh nói...” Nữ tì đột nhiên bỏ lửng câu nói. Gương mặt chợt đỏ như gấc, bà ta giận dữ cắn môi mình.
“Phùng tiên sinh là ai?” Địch Công hỏi gắt.
Cân nhắc, đắn đo một lúc, bà ta cau mày, trán nhăn lại, đoạn nhún vai trả lời:
“Ôi, chân tướng sự việc có thể rồi cũng phải công khai thôi, dù sao thì họ không hề làm điều gì sai trái cả! Thưa đại nhân, Phùng tiên sinh là một họa sĩ, gia cảnh bần hàn, thân mang nhiều bệnh. Y từng sống trong một gian nhà nhỏ gần nhà mẹ đẻ của phu nhân. Sáu năm trước, phụ thân của phu nhân đã mời Phùng tiên sinh tới dạy phu nhân họa bút vẽ hoa. Khi ấy phu nhân chỉ mới ngoài hai mươi tuổi, còn Phùng tiên sinh là một thiếu niên anh tuấn, dáng dấp phong lưu... Chẳng có gì lạ khi họ nảy sinh tình cảm. Họ Phùng là một nam nhân tốt, thưa đại nhân, và phụ thân của y cũng là một học giả nổi tiếng, nhưng về sau gia nghiệp tiêu tan, và...”
“Không cần phải kể lể nhà y như thế nào! Giữa họ Phùng kia và Hồ phu nhân có gian tình hay không?”
Nữ tì lắc đầu dứt khoát và nhanh chóng đáp lời, “Không bao giờ, thưa ngài! Phùng tiên sinh đã dự tính nhờ người đến nhà lão thái gia để đề cập chuyện cưới xin. Đúng là y thuộc dạng nghèo đói bần cùng, nhưng do họ Phùng cũng thuộc một dòng dõi nức tiếng gần xa nên y vẫn hy vọng lão thái gia sẽ chấp thuận. Tuy nhiên, ngay vào thời điểm ấy, họ Phùng ho ra máu, đại phu nói y mắc chứng lao, sẽ không sống được bao lâu nữa... Họ Phùng nói với phu nhân rằng họ không bao giờ có thể nên duyên, đôi uyên ương từng có tất cả nhưng giờ chỉ còn là một đoản mộng xuân sang. Họ Phùng sẽ bỏ đi đến một nơi xa xôi. Nhưng phu nhân đã van nài y ở lại; nói rằng họ vẫn có thể là bằng hữu, và nàng muốn được kề cận tình lang vạn nhất khi bệnh tình hung hiểm..”
“Họ vẫn tiếp tục gặp gỡ sau khi phu nhân xuất giá sao?” “Bẩm đại nhân, có! Họ gặp nhau ở đây, tại gian tiểu đình này, nhưng chỉ ban ngày và luôn có mặt nô tì. Nô tì thề rằng họ Phùng chưa bao giờ đụng chạm gì tới phu nhân, ngay cả ngón tay cũng không, thưa ngài!” “Hồ tiên sinh có biết các cuộc thăm viếng đó không?”
“Không, dĩ nhiên là không! Ban ngày, khi lão gia ra ngoài làm công vụ, nô tì liền nhận một bức thư ngắn từ phu nhân để chuyển đến cho Phùng tiên sinh. Y sẽ lẻn vào trong qua lối cửa nhỏ ở hậu hoa viên và tới thưởng trà với phu nhân tại gian tiểu đình này. Nô tì biết những cuộc ghé thăm thỉnh thoảng đó là liều thuốc nhiệm màu duy nhất giúp cho họ Phùng có đủ nghị lực để nhen nhóm đốm lửa tàn của sự sống trong suốt ba năm khó khăn qua, sau khi phu nhân trở thành vợ của kẻ khác. Phu nhân rất yêu thích những cuộc trò chuyện ấy, và nô tì luôn ở đó với họ, luôn luôn..
“Ngươi đã nhắm mắt làm ngơ, đồng lõa với các cuộc gặp gỡ bí mật, vốn được trù tính lên kế hoạch từ trước.” Địch Công gay gắt nói. “Và có lẽ là tiếp tay cho cả vụ án mạng. Vì Hồ phu nhân không hề tự sát mà nàng ta đã bị sát hại. Chính xác là vào cuối giờ Thân.”
“Nhưng làm thế nào mà Phùng tiên sinh liên quan đến điều đó, thưa đại nhân?” Nữ tì than khóc rền rĩ.;
“Đó là những gì ta sắp sửa tìm ra,” Địch Công nói vẻ dứt khoát. Rồi ông quay sang Ngỗ tác, “Chúng ta hãy ra cổng thôi!”
Bộ đầu và hai Bộ khoái đang ngồi trên chiếc trường kỷ bằng đá trong sân. Bọn họ vội vội vàng vàng xếp đội hình lại ngay hàng thẳng lối khi nhìn thấy Địch Công, Bộ đầu cúi chào thi lễ và hỏi:
“Thuộc hạ cho người mang quan tài tới được chưa, thưa đại nhân?” “Không, chưa đâu,” Địch Công khàn giọng nói, và tiếp tục bước đi về hướng đã định. Trong gian phòng của nô bộc gác cổng, gã quản gia béo lùn đang nguyền rủa một lão già khô đét, nhăn nheo, mặc bộ trường y màu lam. Hai phu khiêng kiệu, miệng cười toe toét, đang nhìn qua lối cửa sổ vào bên trong, hào hứng lắng nghe.
“Bẩm đại nhân, kẻ này khăng khăng rằng không có ai đến gia trang cả. Nhưng lão già hồ đồ cũng thú nhận là mình đã chợp mắt trong khoảng giờ Thân. Thật đáng hổ thẹn!”
Không để ý đến lời bình phẩm này, Địch Công đột ngột hỏi: “Ngươi có biết một họa sĩ họ Phùng?”
Quản gia kinh ngạc lắc đầu, nhưng gã phu khiêng kiệu lớn tuổi hơn thì hô to:
“Tiểu nhân biết họ Phùng, thưa đại nhân! Y thường ăn mì ở quầy hàng của phụ thân tiểu nhân ngay góc phố. Y thuê một căn gác phía trên một tiệm tạp hóa, đằng sau gia trang này. Tiểu nhân thấy họ Phùng loanh quanh gần cửa sau vườn khoảng nửa canh giờ trước.”
Địch Công quay sang Ngỗ tác và nói, “Hãy để gã phu này đưa ngươi đến chỗ của họ Phùng, và dẫn y về đây. Trong bất cứ tình huống nào cũng đừng để y biết về cái chết của Hồ phu nhân!” Rồi ông lệnh cho quản gia, “Hãy dẫn ta đến sảnh đường. Bản quan sẽ gặp họ Phùng ở đó.”
Sảnh đường trông khá nhỏ bé nhưng đồ nội thất, dù đơn giản, lại có
chất lượng tốt. Quản gia mời Địch Công an tọa trên chiếc ghế bành êm ái bên cái bàn đặt giữa phòng, rồi châm cho ông một chén trà. Sau đó, y lặng lẽ thoái lui.
Từ từ nhấm nháp từng ngụm trà, Địch Công hài lòng ngẫm nghĩ rằng giờ đã truy ra được dấu vết của tên sát nhân. Ông hy vọng Ngỗ tác sẽ tìm ra họa sĩ Phùng để ông có thể thẩm vấn y ngay lập tức.
Nhanh hơn ông dự tính, Ngỗ tác tiến vào cùng một nam nhân dáng cao, vóc người mảnh khảnh, tuổi chừng ba mươi, mặc một lam trường bào xác xơ, tơi tả nhưng sạch sẽ, thắt đai lưng vải bông đen. Y có gương mặt khá thanh tú, nho nhã với hàng ria mép đen ngắn ngủn. Vài lọn tóc lộ ra từ bên dưới chiếc mũ đen đã bạc màu mà y đang đội. Địch Công thấy y có đôi mắt to, sáng lấp lánh cùng những đốm đỏ trên đôi má hõm sâu. Ông ra hiệu cho y ngồi xuống chiếc ghế ở phía bên kia bàn. Ngỗ tác rót một chén trà cho vị khách, rồi lui lại đứng đằng sau ghế.
“Bản quan nghe nói Phùng tiên sinh là họa sĩ nổi danh,” Địch Công niềm nở bắt đầu. “Hôm nay mới có hân hạnh được gặp mặt.” Họa sĩ Phùng vuốt thẳng chiếc trường bào của mình với những ngón tay dài linh hoạt. Rồi y cất lời với giọng nho nhã:
“Bẩm đại nhân, tiểu sinh không dám. Tuy nhiên, tiểu sinh cảm thấy thật khó tin rằng đại nhân cần kíp triệu tập mình đến đây chỉ để cùng ngài nhàn nhã đàm đạo về các vấn đề nghệ thuật.”
“Đó không phải là lý do chính, không đâu. Có một tai nạn đã xảy ra trong khu vườn này, Phùng tiên sinh à, và ta đang tìm kiếm các nhân chứng.”
Họ Phùng đứng bật dậy khỏi ghế. Y lo lắng hỏi:
“Một tai nạn ư? Không liên quan đến Hồ phu nhân chứ?” “Quả thật có liên quan đến nàng ấy, Phùng tiên sinh. Chuyện xảy ra vào khoảng nửa sau giờ Thân, trong gian tiểu đình. Và ngươi đã đến gặp nàng vào thời điểm đố.”
“Chuyện gì đã xảy ra với nàng ấy?” Họ Phùng kêu lên thất thanh. “Chính ngươi phải tự biết câu trả lời.” Địch Công lạnh lùng nói. “Vì ngươi đã sát hại nàng!”
“Nàng đã chết!” Họ Phùng kêu lên, vùi mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gầy của y rung bần bật. Sau một hồi lâu, y ngẩng nhìn lên, tự trấn tĩnh lại. Họ Phùng hỏi bằng một giọng điệu cân nhắc, có chừng mực:
“Xin đại nhân vui lòng cho tiểu sinh được biết, làm sao mà kẻ hèn này có thể đang tâm xuống tay hạ sát nữ nhân mà mình yêu thương hơn tất thảy mọi thứ trên thế gian này?”
“Động cơ của ngươi là lo sợ bị bại lộ. Sau khi nàng kết hôn, ngươi vẫn tiếp tục bám lấy nàng không buông. Hồ phu nhân dần cảm thấy chán nản chuyện đó và bảo rằng nếu ngươi không chấm dứt chuyện này thì nàng sẽ thông báo với phu quân mình. Hôm nay, hai người đã xảy ra xô xát, và ngươi đã sát hại nàng.”
Họ Phùng chậm rãi gật đầu. “Vâng,” y nói với giọng cam chịu, buông bỏ, “đó là một luận giải hợp lý, tiểu sinh cho là thế. Thật ra tiểu sinh đang ở ngoài cửa sau vườn vào thời điểm mà đại nhân đề cập.” “Nàng có biết ngươi đến không?”
“Thưa có. Sáng nay có một tiểu tử bụi đời mang đến cho Phùng mỗ một bức thư ngắn của nàng. Nội dung nói rằng nàng phải gặp tiểu sinh có việc gấp. Nếu vào khoảng cuối giờ Thân, tiểu sinh đến sau vườn và gõ cửa bốn lần như thường lệ thì nữ tì sẽ cho vào.”
“Chuyện gì đã xảy ra sau khi ngươi đi vào bên trong?”
“Tiểu sinh không vào trong. Tiểu sinh đã gõ cửa nhiều lần, nhưng nó vẫn đóng im ỉm. Tiểu sinh đi qua đi lại ở đó một lúc, thử thêm một lần vô ích nữa, rồi về nhà.”
“Cho bản quan xem bức thư ngắn của nàng ta!”
“Tiểu sinh không thể vì đã tiêu hủy nó rồi. Nàng bảo tiểu sinh làm vậy.” “Vậy ngươi phủ nhận việc đã sát hại Hồ phu nhân?”
Họ Phùng nhún vai. “Nếu ngài chắc chắn mình không thể tìm ra được hung thủ thật sự, thưa đại nhân, thì tiểu sinh hoàn toàn sẵn lòng nói rằng mình đã sát hại ý trung nhân, chỉ để giúp ngài khép lại vụ án này. Dù sao thì kẻ hèn này giờ đã như băng mùa xuân, như đèn trước gió, những ngày còn lại không nhiều, chết trên giường bệnh hay ở pháp trường cũng một cỗ quan tài, một nắm đất nông. Cái chết của nàng đã cướp đi lý do cuối cùng để Phùng mỗ kéo dài cuộc đời bi ai của mình. Vì nghệ thuật đã rời bỏ tiểu sinh từ lâu, căn bệnh trầm kha dường như đã hủy hoại nỗi đam mê sáng tạo. Mặt khác, nếu ngài có bản lĩnh truy ra dấu vết của tên ác ma hung bạo đã tàn nhẫn sát hại một nữ nhân vô tội, thì chẳng có lý do gì để tiểu sinh phải làm sự vụ rối lên bằng cách thú nhận một tội ác mình không hề phạm phải.”
Địch Công trao cho y một cái nhìn thật lâu, giật mạnh bộ ria mép. “Hồ phu nhân thường cử một tiểu tử lang thang truyền tin cho ngươi ư?” “Không, thưa đại nhân. Thư của nàng luôn do nữ tì chuyển đến, và đây là lần đầu tiên nội dung bao gồm cả yêu cầu hủy thư. Nhưng chắc chắn đó là thư của nàng, tiểu sinh đã quen thuộc với chữ viết và văn phong của nàng.” Một trận ho khan kịch liệt đã cắt ngang lời họ Phùng nói. Y lau miệng bằng một chiếc khăn, thờ ơ nhìn nhìn những đốm máu vương vãi, đoạn nói tiếp, “Tiểu sinh không biết lần này nàng muốn thảo luận vấn đề khẩn cấp gì. Và kẻ nào lại có thể đang tâm đoạt mạng nàng? Tiểu sinh đã quen biết nàng và gia đình hơn mười năm, và có thể đảm bảo với đại nhân rằng họ không hề có một cừu nhân nào!” Y sờ hàng ria mép, đoạn nói thêm. “Hôn nhân của nàng cũng mỹ mãn, phu thê bọn họ tương kính như tân. Hồ tiên sinh hơi tẻ nhạt, vô vị nhưng hắn thực lòng yêu thương nàng, luôn tử tế và chu đáo, không bao giờ nói chuyện nạp thiếp, dù nàng chưa hề sinh hạ được một hài tử nào. Và nàng cũng yêu quý và tôn trọng hắn.”
“Điều đó không ngăn được nàng ta tiếp tục hành vi lén lút gặp gỡ ngươi sau lưng họ Hồ!” Địch Công lạnh nhạt bình phẩm. “Hành vi đáng
trách nhất đối với một nữ nhân đã thành gia lập thất. Ta chưa xét đến lỗi của ngươi!”
Họ Phùng trao cho Địch Công một cái nhìn ngạo nghễ.
“Ngài sẽ không bao giờ hiểu,” y nói, giọng lạnh như băng. “Ngài bị ràng buộc trong một mạng lưới những luân thường đạo lý rỗng tuếch và những quy ước vô nghĩa. Tình bằng hữu tâm giao của chúng ta không có gì đáng trách, về điểm này ta hoàn toàn không thẹn với lương tâm. Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ bí mật những cuộc gặp gỡ là bởi họ Hồ khá cổ hủ, hắn có thể sẽ diễn giải mối quan hệ của chúng ta theo cách nghĩ sai trái, mà dường như ngài cũng đang vướng bận suy nghĩ ấy trong tâm trí mình. Chúng ta không muốn làm tổn thương hắn.”
“Ngươi thật chu toàn! Ngươi đã biết rõ Hồ phu nhân như vậy, nên chắc ngươi có thể kể cho ta nghe tại sao gần đây nàng thường hay phiền muộn?”
“Ồ vâng. Sự thật là phụ thân của nàng, do không giỏi quản lý tài chính, nên đã ngập sâu vào nợ nần với gã chủ thuyền giàu có Hạ Minh. Từ khoảng một tháng trước, gã cho vay nặng lãi nhẫn tâm đó đã thúc ép lão thái gia chuyển nhượng điền sản cho hắn để trừ nợ, nhưng lão thái gia vẫn muốn giữ lại mảnh đất ấy, vì là hương hỏa của tổ tiên. Nó đã thuộc về gia đình ngài từ bao đời nay, trải qua bao nhiêu thế hệ thì chỉ có Hoàng thiên mới biết. Hơn nữa, lão thái gia cảm thấy có trách nhiệm với phúc lợi của các tá điền thuê đất. Hạ Minh sẽ bòn rút đến đồng xu cuối cùng của những kẻ nghèo đói đáng thương kia! Lão thái gia cầu xin hắn chờ đến sau mùa thu hoạch, ít nhất đến lúc đó, ngài mới có thể chi trả phần tiền lãi đáo hạn. Nhưng họ Hạ cứ khăng khăng xiết nợ, hòng đoạt lấy miếng đất vào tay mình với giá rẻ mạt. Hồ phu nhân lo lắng về sự vụ này, nàng đã nhờ ta đưa đi gặp họ Hạ hai lần. Nàng đã cố hết sức để thuyết phục hắn đừng đòi thanh toán nợ ngay, nhưng con chuột bẩn thỉu kia lại bảo hắn sẽ chỉ cân nhắc nếu nàng chịu giao hoan với hắn!”
“Hồ tiên sinh có biết về những cuộc gặp gỡ đó không?”
“Hắn không biết. Chúng ta biết hắn sẽ rất khổ tâm khi nghe tin nhạc phụ gặp vấn đề về tài chính mà hắn lại không thể trợ giúp gì. Họ Hồ không có gia sản riêng. Hắn chỉ sống nhờ một khoản lương trí sĩ khiêm tốn.”
“Hai người thật sự rất tử tế với Hồ tiên sinh!”
“Hắn xứng đáng được như vậy; đó là một kẻ đường hoàng. Thứ duy nhất hắn không thể trao cho vợ mình là mối quan hệ tâm giao, tri âm tri kỷ, và đó là điều nàng tìm thấy ở tiểu sinh.”
“Ta chưa bao giờ thấy kẻ nào vô đạo đức như ngươi!” Địch Công thốt lên kinh tởm. Ông đứng dậy và ra lệnh cho Ngỗ tác:
“Giao nghi phạm sát nhân này cho Bộ đầu, tạm giam vào đại lao. Sau đó, ngươi và hai Bộ khoái hãy chuyển thi thể Hồ phu nhân về nha phủ, và tiến hành nghiệm thi kỹ càng. Báo cáo cho bản quan ngay khi ngươi hoàn tất công vụ. Ngươi hãy đến gặp ta ở nha sảnh.”
Địch Công rời bước, giận dữ giũ ống tay áo.
Họ Hồ và hai chủ thuyền kia vẫn chờ Địch Công tại nha sảnh, một Lục sự cũng đang ở đó. Họ toan đứng dậy khi Địch Công tiến vào, nhưng ông đã ra dấu tất cả cứ yên vị. Ông ngồi xuống chiếc ghế bành phía sau án thư và bảo Lục sự rót đầy chén trà.
“Thưa đại nhân, mọi chuyện đã được giải quyết rồi chứ ạ?” Họ Hồ buồn bã hỏi.
Địch Công uống cạn chén trà, rồi chống tay lên bàn và chậm rãi đáp, “Không hoàn toàn, Hồ tiên sinh à. Ta có tin xấu cho ông. Ta phát hiện ra tôn phu nhân không phải tự sát. Mà là bị mưu sát!”
Họ Hồ bật kêu lên một tiếng thất thanh, nhưng cố kìm nén lại, Hạ Minh và Diệp Thủ Bôn trao đổi với nhau một cái nhìn kinh ngạc. Rồi họ Hồ bất chợt thốt lên:
“Mưu sát? Là kẻ nào? Và tại sao, nhân danh Hoàng thiên chứng giám?”
“Bằng chứng chỉ dấu đến một họa sĩ họ Phùng.”
“Họ Phùng? Một họa sĩ? Ta chưa bao giờ nghe nói về hắn.” “Ta cảnh báo ông một tin xấu, Hồ tiên sinh à. Rất xấu. Trước khi thành thân với ông, tôn phu nhân từng có mối quan hệ thân thiết với họa sĩ này. Sau khi kết hôn, cả hai vẫn tiếp tục lén lút gặp nhau tại tiểu đình trong hoa viên. Có thể nàng đã cảm thấy chán ngán y và muốn kết thúc mối quan hệ bất chính ấy. Biết là ông sẽ ở đây cả buổi trưa, nên có thể nàng đã gửi cho họ Phùng một bức thư ngắn yêu cầu hắn đến gặp nàng. Và có lẽ do Hồ phu nhân đoạn tuyệt với hắn, nên họ Phùng đã xuống tay hạ sát nàng.”
Họ Hồ ngồi đó, trừng trừng nhìn về phía trước, đôi môi mỏng mím chặt. Diệp Thủ Bôn và Hạ Minh trông có vẻ bối rối; họ đã toan đứng dậy và rời đi để Địch Công ở lại bàn chuyện riêng với họ Hồ. Nhưng Địch Công ra hiệu quả quyết giữ họ lại. Cuối cùng, họ Hồ nhìn lên và hỏi:
“Tên ác ma kia đã giết nàng như thế nào?”
“Hồ phu nhân bất tình do bị đánh vào thái dương, sau đó bị treo lên xà nhà và thắt cổ. Kẻ sát nhân làm đổ ấm trà, và nước trà trong ấm chảy ra làm tắt lửa của chiếc lư hương, tố cáo thời gian hắn thực hiện hành vi tội lỗi là khoảng cuối giờ Thân. Có một nhân chứng nhìn thấy họ Phùng lảng vảng gần cửa sau hoa viên của Hồ gia trang vào thời điểm đó.”
Có tiếng gõ cửa. Ngỗ tác bước vào và trao một tập giấy tờ cho Địch Công. Nhanh chóng lướt qua báo cáo nghiệm thi, ông thấy nguyên nhân tử vong quả thật là do bị thắt cổ từ từ. Ngoài vết bầm ở thái dương, thi thể không có dấu hiệu bạo hành nào khác. Nàng đã mang thai được ba tháng.
Địch Công chậm rãi gấp tờ giấy lại và bỏ vào tay áo. Sau đó ông nói với Ngỗ tác:
“Hãy bảo Bộ đầu thả nam nhân mà y đã tống vào đại lao. Dù vậy, kẻ ấy sẽ phải chờ một lúc tại trạm gác. Lát sau, bản quan muốn thẩm vấn hắn
lần nữa.”
Khi Ngỗ tác rời đi, họ Hồ đứng dậy. Y khàn giọng nói:
“Nếu đại nhân cho phép, giờ ta xin được lui. Ta phải...”
“Chưa đâu, Hồ tiên sinh,” Địch Công ngắt lời. “Trước hết, bản quan muốn hỏi ông một câu, tại đây, ngay trước mặt Hạ tiên sinh và Diệp tiên sinh.”
Họ Hồ lại ngồi xuống, có vẻ lúng túng.
“Ông đã để phu nhân của mình ở trong gian tiểu đình vào khoảng giờ Mùi.” Địch Công nói tiếp. “Và ông ở trong nha sảnh này cho đến giờ Dậu, khi quản gia đến báo tin chẳng lành. Tất cả những gì chúng ta biết là Hồ phu nhân có thể đã chết trong khoảng từ giờ Mùi đến giờ Dậu. Tuy nhiên khi ta nói với ông rằng nàng ấy đã tự sát, ông lại thốt lên ‘Chỉ vài canh giờ sau khi ta rời đi sao...’, như Hạ tiên sinh và Diệp tiên sinh đây sẽ chứng thực. Làm sao ông biết nàng ta chết vào khoảng cuối giờ Thân?”
Họ Hồ không trả lời. Đôi mắt mở to, đầy hoài nghi như không dám tin vào những gì vừa mới nghe. Địch Công tiếp tục nói, giọng ông chợt gay gắt:
“Để ta nói cho ông nghe! Bởi vì lúc ông giết phu nhân của mình vào giờ Mùi, ngay sau khi nữ tì rời khỏi gian tiểu đình, ông đã cố tình làm đổ vấy trà lên chiếc lư hương. Ta rất cảm kích vì ông đã xem ta là một quan án có năng lực. Ông biết rằng nếu ta đến hiện trường, ta sẽ biết phu nhân ông đã bị sát hại, rồi dựa vào chiếc lư hương để suy ra thời gian gây án là khoảng cuối giờ Thân. Ông cũng cho rằng ta sớm muộn gì cũng phát hiện ra họ Phùng lảng vảng ở cửa sau hoa viên vào khoảng thời gian đó, do y bị bức thư giả mạo của ông dụ đến. Đó là một kế hoạch khôn ngoan, Hồ tiên sinh à, xứng tầm một kẻ am hiểu pháp luật. Nhưng yếu tố thời gian ngụy tạo được sắp bày cẩn thận đó hóa ra lại tố cáo tội ác của kẻ sát nhân. Ông vẫn tự nhủ rằng mình sẽ không bao giờ bị nghi ngờ, vì thời điểm của vụ án mạng rõ ràng đã được ấn định là cuối giờ Thân. Vì thế, ông đã vô tình vẽ rắn thêm chân, nói một câu khinh suất, ‘Chỉ vài canh giờ
sau khi ta rời đi sao...’ Vào thời điểm đó, lời bình phẩm ấy không khiến bản quan có chút nghi ngờ nào. Nhưng ngay khi ta nhận ra nếu họ Phùng không phải là kẻ sát nhân thì đó phải là ông, ta sực nhớ đến những lời đó, và chúng đã cung cấp bằng chứng cuối cùng về tội lỗi của ông. Năm đám
mây cát tường lại chẳng may mắn chút nào cho ông cả, Hồ tiên sinh à!” Họ Hồ xoay người lại. Y lạnh lùng hỏi:
“Tại sao ta phải sát hại phu nhân của mình?”
“Ta sẽ nói cho ông biết. Ông đã phát hiện ra những cuộc gặp gỡ bí mật của nàng với họa sĩ Phùng. Và khi nàng nói với ông là mình đang mang thai, ông liền quyết định hủy diệt cả hai người bọn họ, chỉ với một và chỉ một đòn duy nhất, nhất tiễn hạ song điêu. Ông cho rằng họ Phùng là phụ thân của hài tử chưa ra đời đó và...”
“Không phải hắn!” Họ Hồ bất thình lình thét lên. “Ngài nghĩ cái gã khốn khổ nghèo hèn ấy có thể...? Không, đó là hài tử của ta, ngài nghe rõ không? Điều duy nhất mà bọn chúng có khả năng tạo ra là thứ tình cảm ủy mị, đáng ghê tởm. Và tất cả những lời hay ý đẹp về ta mà ta đã loáng thoáng nghe được! Một đức phu quân tử tế nhưng khá tối dạ, xin lỗi vì để ngài phải nghe điều này, là người được quyền chiếm hữu thân thể nàng nhưng không bao giờ có thể thấu hiểu tâm hồn cao cả của nàng. Ta có thể, ta có thể mà...” Y bắt đầu lắp bắp trong cơn thịnh nộ vỡ òa đến bất lực. Rồi y tự trấn tĩnh lại và tiếp tục nói với giọng bình tĩnh hơn, “Ta không cần hài tử của một nữ nhân mang tâm hồn của một kỹ nữ ti tiện, một nữ nhân....”
“Đủ lắm rồi!” Địch Công nói cộc lốc. Ông vỗ tay. Khi Bộ đầu tiến vào, Địch Công nói, “Trói tên sát nhân này lại và tống hắn vào đại lao. Bản quan sẽ nghe lời cung khai thú nhận tội ác đầy đủ của hắn vào sáng mai, trên công đường.”
Sau khi Bộ đầu dẫn giải họ Hồ đi, Địch Công tiếp tục nói với Diệp Thủ Bôn, “Lục sự sẽ tiễn ông ra ngoài, Diệp tiên sinh.” Quay sang vị chủ thuyền còn lại, ông nói thêm:
“Còn Hạ tiên sinh, xin dừng bước, bản quan có mấy lời muốn nói với ông.”
Khi chỉ còn lại hai người, Hạ Minh nói ngon ngọt, vẻ nịnh bợ: “Đại nhân, ngài đã xử lý vụ án này trong một thời gian cực kỳ ngắn! Nghĩ đến việc họ Hồ...” Hắn buồn bã lắc đầu.
Địch Công chua chát nhìn y. “Ta không hài lòng khi kết quả điều tra cho thấy họ Phùng là một nghi phạm,” ông lãnh đạm bình phẩm. “Các bằng chứng chống lại y ăn khớp với nhau quá chặt chẽ, trong khi cách thức gây án lại hoàn toàn không phù hợp với tính cách của y. Bản quan đã sai phu khiêng kiệu đi đường vòng về đây để có thêm chút ít thời gian suy nghĩ. Ta suy luận rằng do chứng cứ chỉ có thể do người trong cuộc làm giả, nên đó chính là họ Hồ - có động cơ rõ ràng của một phu quân bị lừa dối, muốn trả thù đôi gian phu dâm phụ kia cùng một lúc. Nhưng tại sao họ Hồ lại phải chờ đợi quá lâu như vậy? Hắn đã biết tất thảy việc Hồ phu nhân gửi thư cho họ Phùng; hẳn là hắn đã phát hiện ra những cuộc gặp bí mật từ lâu rồi. Khi ta trông thấy báo cáo kết quả nghiệm thi rằng Hồ phu nhân đang mang thai, ta nhận ra tin tức ấy đã khiến phu quân của nàng ta quyết tâm hành động. Và bản quan đã đúng, mặc dù bây giờ thì chúng ta biết phản ứng cảm xúc của họ Hồ khác hẳn những gì ta từng giả định.” Đôi mắt ảm đạm của Địch Công dán chặt vào gã chủ thuyền, ông tiếp tục, “Bằng chứng giả chỉ có thể do người trong cuộc ngụy tạo, một kẻ đã quen với chiếc lư hương và chữ viết tay của Hồ phu nhân. Hạ tiên sinh, điều đó đã cứu ông khỏi bị buộc tội trong vụ án mạng này!”
“Chính ta ư, thưa ngài?” Họ Hạ thốt lên kinh ngạc.
“Tất nhiên. Ta biết về các chuyến viếng thăm của Hồ phu nhân đến gặp ông, và cả việc nàng đã từ chối lời đề nghị bẩn thỉu của ông. Phu quân của nàng không biết chuyện này, nhưng họ Phùng biết. Điều này là động cơ để ông muốn trừ khử cả hai người bọn họ. Ông cũng có cơ hội, do ông đã trong hoa viên đến giờ Mùi, trong khi Hồ phu nhân lẻ loi ở tại gian tiểu đình một mình. Ông vô tội trong vụ án mạng, nhưng phạm tội quyến
rũ bất thành một thiếu phụ, điều này sẽ được họ Phùng xác thực; và cả tội đưa hối lộ, quản gia của Hồ gia trang sẽ chứng minh vì hắn từng nghe lén được cuộc nói chuyện khi ông ghé thăm Hồ gia trang vào ban trưa. Ngày mai, ta sẽ kết tội ông trên công đường, và phạt tù có thời hạn. Điều đó sẽ đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của ông tại Bồng Lai, Hạ tiên sinh ạ.”
Họ Hạ đứng bật dậy và sắp sửa quỳ xuống để cầu xin sự khoan hồng, nhưng Địch Công đã nhanh chóng tiếp tục:
“Bản quan sẽ không cáo buộc ông hai tội trạng đó, nếu ông đồng ý chi trả hai khoản phạt. Thứ nhất, vào ngay đêm nay, ông phải viết một lá thư chính thức gửi đến phụ thân của Hồ phu nhân, điểm chỉ và đóng dấu triện đúng thể thức, thông báo rằng ông ta có thể trả lại ngân lượng bất cứ lúc nào thuận tiện cho mình, và ông không lấy lãi nữa. Thứ hai, ông sẽ phải đặt họa sĩ Phùng vẽ lên các thuyền của ông tại xưởng đóng thuyền, mỗi thuyền một bức trị giá một lượng bạc.” Địch Công giơ tay ngăn Hạ Minh bày tỏ lòng cảm kích. “Hình phạt này tất nhiên chỉ là một sự hoãn thi hành án. Nếu bản quan còn nghe thấy chuyện ông lại quấy nhiễu nữ nhân nhà lành, ông sẽ chính thức bị kết tội theo những cáo buộc đã đề cập. Giờ hãy đi đến trạm gác. Ông sẽ thấy họ Phùng ở đó, và hãy đặt hàng y. Hãy trả cho y ngay lập tức năm cắc bạc như một khoản tạm ứng. Cáo từ.”
Khi gã chủ thuyền đang thất hồn lạc phách nhanh chóng rời đi, Địch Công đứng dậy và đến bên cánh cửa sổ mở rộng. Ông thưởng thức hương hoa mộc lan thơm thoang thoảng một hồi lâu, rồi lẩm bẩm với chính mình:
“Phản đối những chuẩn mực đạo đức của một nam nhân không phải là lý do để ta có thể bỏ mặc y chết trong khốn cùng!”
Ông chợt quay lại và đi tới công đường.
Quan liêu án
Lòng tham che mắt người đời
Gây nên oan án đổi dời trắng đen.
Quan trường vốn dĩ đua chen
Mưu thâm kế độc bao phen hại người...
-Tùng Vũ
Huyện lị ven biển Bồng Lai, nơi Địch Công bắt đâu sự nghiệp quan án lẫy lừng nhưng cũng lắm chông gai của mình, do Huyện lệnh với tư cách là quan viên địa phương cầm quyền cao nhất, cùng Đô úy thống lãnh phủ binh đóng ở đó đồng cai quản. Phạm vi thẩm quyền tương ứng của mỗi bên được ban bố công bằng và minh bạch; các công vụ dân sự và quân sự hiếm khi chồng chéo lên nhau. Thế nhưng, khi Địch Công phụng sự ở Bồng Lai mới chỉ hơn một tháng, ông đã vô tình bị cuốn vào một vụ án quân sự thuần túy. Tập “Hoàng kim ấn” đã đề cập đến một chiết xung phủ lớn, nằm cách ba dặm xuôi theo dòng nước chảy từ trấn Bồng Lai, được dựng lên ở khu vực cửa sông nhằm ngăn chặn các cuộc đồ bộ của thủy quân Cao Câu Ly. Vụ án quân sự được mô tả trong câu chuyện này xảy ra bên trong những bức tường của quân trại oai hùng ấy: vụ án của các bậc trượng phu, không xuất hiện bóng dáng một nữ nhi nào - mà dính líu đến hàng đống giấy tờ thủ tục của tệ quan liêu!
ịch Công đang lật nhanh và đọc lướt qua một đống giấy tờ, chợt
ngẩng đầu lên rồi gắt gỏng nói với hai nam nhân đang ngồi ở phía Đ
đối diện án thư:
“Hai người các ngươi không thể ngồi yên được à? Đừng có nhúc nhích nữa, được chứ?”
Khi Địch Công quay lại với đống giấy tờ của mình, thì hai trợ thủ lực lưỡng của ông, Mã Vinh và Kiều Thái, cố hết sức để yên vị trên chiếc ghế đẩu của họ. Thế nhưng, chẳng mấy chốc, Mã Vinh lại rón rén gật đầu vẻ khích lệ với Kiều Thái. Họ Kiều đặt đôi tay to bản lên đầu gối của mình và mở miệng định lên tiếng. Nhưng ngay lúc ấy, Địch Công bỗng đẩy tài liệu sang một bên và kêu lên đầy phẫn nộ:
“Đây là việc đáng giận nhất, tài liệu Nhân - Tứ linh tứ quả thật bị thất lạc rồi! Trong một thoáng, ta cứ nghĩ Hồng Sư gia chắc hẳn đã xếp nó vào nhầm thư mục, do hôm qua lão khá vội vàng trước khi rời khỏi đây để tới châu nha. Nhưng Nhân - Tứ linh tứ hoàn toàn không có ở đó!”
“Nó không nằm trong tập hồ sơ kia ạ, thưa đại nhân?” Mã Vinh thắc mắc. “Thư mục đó cũng được ký hiệu bằng chữ nhân.” “Vớ vẩn!” Địch Công ngắt lời. “Không phải ta đã giảng giải cho các ngươi biết là trong văn khố của quân trại, bọn họ có hai hồ sơ được ký hiệu chữ nhân, nhân cho nhân sự và nhân cho thương nhân hay sao? Ở hồ sơ thứ hai, tài liệu Nhân - Tứ linh ngũ liên quan đến việc mua sắm dây đai đã viện dẫn rõ ràng: ‘Tham khảo Nhân - Tứ linh tứ!’ Điều đó chứng tỏ Nhân - Tứ linh tứ chắc chắn thuộc về thương nhân, chứ không phải là nhân sự.”
“Thưa đại nhân, cái công vụ thủ tục giấy tờ quan liêu này hơi làm khó thuộc hạ! Hơn nữa, hai tập hồ sơ ký hiệu bởi chữ nhân đó chỉ chứa đựng những bản sao thông tin mà quân trại chuyển đến cho chúng ta. Còn bây giờ, về phần cái quân trại ấy, thưa ngài, chúng
ta...”
“Đó không chỉ là thói quan liêu,” Địch Công ngắt lời y, tỏ vẻ không hài lòng. “Nó liên quan đến việc giám sát chặt chẽ các công vụ thường nhật được triều đình dày công thiết lập, không có nó thì cả bộ máy cai trị của vương triều chúng ta sẽ bị gián đoạn.” Nhận thấy ánh nhìn không vui vẻ gì trên gương mặt sạm nắng của hai trợ thủ, Địch Công gượng cười rồi nói tiếp với giọng điệu thân thiện hơn, “Trong bốn tuần mà hai ngươi làm việc cho ta tại Bồng Lai này, hai ngươi đã chứng tỏ được bản thân có năng lực giải quyết những sự vụ nan giải một cách hiệu quả. Thế nhưng, nhiệm vụ của một quan viên nha phủ còn bao gồm nhiều việc khác chứ không chỉ là bắt giữ những tên tội phạm nguy hiểm. Họ buộc phải nắm rõ như lòng bàn tay tất cả các công vụ thường nhật của huyện nha, cảm nhận thấu suốt đến cả những chi tiết nhỏ của nó, và nhận ra được tầm quan trọng của việc tôn trọng chúng - một lề thói mà thi thoảng bị những kẻ ngoài cuộc ngu dốt quy kết thành tệ quan liêu. Bây giờ, tài liệu Nhân - Tứ linh tứ này có thể không quá quan trọng. Thế nhưng, bản chất việc thất lạc mới khiến nó trở nên tối quan trọng.”
Thu tay vào trong ống tay áo rộng thùng thình, ông nói tiếp, “Mã Vinh đã nhận ra đúng là hai hồ sơ được ký hiệu chữ nhân ấy chẳng có giá trị gì vì chỉ toàn là những bản sao chép, cụ thể là thư từ trao đổi qua lại giữa quân trại với Bộ Binh ở kinh thành. Những văn thư ấy giải quyết các quân vụ thuần túy mà không dính dáng trực tiếp đến chúng ta. Tuy nhiên, điều chúng ta thật sự cần bận tâm chính là mỗi một tài liệu trong nha phủ này, cho dù có quan trọng hay không, thì cũng phải được lưu trữ có trật tự, và trên hết là bắt buộc phải đầy đủ!”
Giơ ngón trỏ lên nhấn mạnh, Địch Công nói tiếp, “Bây giờ hãy
nhớ, lần này là lần cuối, các ngươi phải có khả năng trông cậy hoàn toàn vào các hồ sơ giấy tờ của mình, và các ngươi chỉ có thể làm vậy chừng nào các ngươi tuyệt đối chắc chắn rằng chúng đầy đủ. Một tài liệu thiếu sót không có chỗ trong một nha phủ được cai quản tốt. Một tài liệu không hoàn chỉnh chỉ là thứ vô dụng!”
“Vậy thì, chúng ta hãy ném cái hồ sơ chữ nhân đó ra ngoài cửa sổ thôi!” Mã Vinh thốt lên. Đoạn y gấp gáp bổ sung:
“Bẩm đại nhân, xin ngài lượng thứ, thật ra là thuộc hạ và cả Kiều huynh đây đều đang có chút chuyện đau lòng. Sáng nay, chúng thuộc hạ vừa nghe tin hảo bằng hữu của mình, Hiệu úy Mạnh Quốc Thái, đêm qua đã bị buộc tội sát hại Quả nghị Đô úy Tô Văn Hổ.”
Địch Công ngồi thẳng dậy. “Vậy là hai ngươi có quen biết với họ Mạnh à? Ta đã nghe tin về vụ án mạng đó vào hôm kia. Do quá bận viết báo cáo để lão Hồng gửi về kinh thành nên ta chưa thực hiện điều tra. Dù sao đi nữa, nó cũng là một vụ án quân sự nằm trong thẩm quyền của Đô úy. Nhưng hai ngươi quen biết họ Mạnh kia như thế nào?”
“Ôi,” Mã Vinh đáp, “vài tuần trước, chúng thuộc hạ tình cờ chạm mặt y tại một tửu điếm lúc y vào trong thành hưởng thụ ngày nghỉ phép. Y thành thạo cưỡi ngựa phóng thương, lại có tài bắn tên bách phát bách trúng. Bọn thuộc hạ trở thành hảo bằng hữu, y thường dành những buổi chiều được nghỉ phép để bù khú với bọn thuộc hạ. Và bây giờ thì thiên hạ đang kháo nhau rằng y đã bắn chết họ Tô! Thật là chuyện phi lý, lố bịch...”
“Đừng lo,” Kiều Thái an ủi y. “Đại nhân của chúng ta sẽ giải quyết được chuyện đó!”
“Chuyện là như thế này, thưa đại nhân,” Mã Vinh hăm hở bắt đầu. “Ngày hôm kia, gã họ Tô...”
Địch Công phẩy tay ngăn y lại. “Thứ nhất,” ông lãnh đạm lên tiếng, “bản quan không thể can thiệp vào chuyện của quân trại. Thứ hai, cho dù có thể, thì ta sẽ không quan tâm lời đồn đại về vụ án mạng. Tuy nhiên, do các ngươi có quen biết với bị cáo, nên Mã - Kiều hai ngươi cũng có thể kể cho ta nghe thêm vài điều, để tiện cho ta có được định hướng về vụ án.”
“Họ Mạnh là một kẻ bộc trực, ngay thẳng!” Mã Vinh bật thốt nên lời. “Bọn thuộc hạ đã cùng nhau tỉ thí võ công, rượu chè say sưa rồi đi chơi kỹ viện. Thật tình mà nói, đại nhân à, đó chính là cách để thấu hiểu một nam nhân từ trong ra ngoài! Còn họ Tô kia lại là một kẻ chuyên quyền, thích áp đặt quân lệnh để phục chúng, là một kẻ ác ôn. Họ Mạnh cũng đã từng bị hắn chửi bới thậm tệ. Thuộc hạ có thể mường tượng ra một ngày nào đó, Mạnh Quốc Thái có lẽ sẽ nổi cơn thịnh nộ và động đến nắm đấm hay gươm đao. Thế nhưng, sau đó y sẽ lập tức xuôi tay chịu trói, sẵn sàng chịu mọi hình phạt. Là một nam nhân đầu đội trời chân đạp đất, y dám làm dám chịu, sẵn sàng đối mặt với hậu quả do mình gây ra. Còn dùng ám tiễn bắn chết một kẻ đang say giấc, rồi chối bỏ điều đó... Không, thưa đại nhân, y sẽ không làm vậy. Không đời nào!”
“Thế ngươi có tình cờ biết được Phương Đô úy nghĩ sao về việc đó không?” Địch Công hỏi. “Ngài ấy đã chủ trì đại cuộc tại quân sự pháp đình nhỉ.”
“Đúng là ngài ấy,” Kiều Thái đáp lời. “Và ngài ấy đã chuẩn y phán quyết về vụ cố sát. Phương Đô úy là một nam nhân lầm lì và kiêu ngạo. Thế nhưng, dư luận lại đồn rằng ngài ấy không vui vẻ gì với phán quyết đó, dù thực tế là mọi bằng chứng đều chĩa thẳng mũi dùi vào họ Mạnh. Điều đó cũng đủ chứng minh y được lòng người đến thế nào, ngay cả đối với Đô úy, chỉ huy quân trại!”
“Lần cuối hai ngươi gặp họ Mạnh là khi nào?” Địch Công hỏi. “Ngay đêm trước khi họ Tô bị hạ sát,” Mã Vinh đáp. “Chúng thuộc hạ cùng nhau ăn nhẹ bữa khuya tại tửu quán bán cua trên bến tàu. Lúc sau, khi trời đã về khuya, hai thương nhân Cao Câu Ly nhập hội với chúng thuộc hạ, rồi cả năm người đã có một chầu say bí tỉ thật thống khoái. Phải quá nửa đêm một hồi lâu thì Kiều huynh mới đưa Mạnh Quốc Thái lên chiếc xuồng lớn của chiến thuyền để chở y về quân trại.”
Địch Công ngồi trở lại trên ghế và chầm chậm giật giật hàng tóc mai dài của mình. Mã Vinh vội đứng dậy và châm cho ông một chén trà. Địch Công nhấp vài ngụm, đoạn đặt chén xuống rồi mạnh mẽ cất lời:
“Ta vẫn chưa đáp lễ cuộc viếng thăm xã giao của Phương Đô úy. Giờ hẵng còn là sáng sớm; nếu chúng ta rời đi lập tức thì sẽ có mặt ở quân trại ngay trước bữa cơm trưa. Hãy bảo Bộ đầu chuẩn bị sẵn kiệu để đưa chúng ta đến bến tàu. Trong khi chờ đợi, bản quan sẽ đi thay lễ phục.” Ông đứng dậy khỏi ghế. Trông thấy vẻ mặt đắc ý của hai thuộc hạ, ông nói thêm, “Ta phải cảnh báo trước với các ngươi là ta, thân là mệnh quan triều đình phải tuân thủ kỷ cương phép nước, lề lối pháp trị của Đại Đường, nên không thể áp đặt sự tương trợ của mình lên Đô úy. Nếu ngài ấy không yêu cầu lời tư vấn của ta, thì mọi sự sẽ kết thúc tại đây. Trong bất cứ trường hợp nào, ta cũng sẽ tranh thủ cơ hội để yêu cầu Đô úy cho thêm một bản sao của tài liệu bị thất lạc đó.”
Phu chèo thuyền tráng kiện lèo lái chiếc xuồng chiến nặng trịch xuôi về phía Bắc dòng sông trong vòng chưa tới nửa canh giờ. Trên mé bờ sông thấp bên trái nổi lên những bức tường gớm ghiếc của quân trại; phía trước là vùng nước đục ngầu ở khu vực cửa sông,
trải dài ra vùng mặt biển rộng lớn tràn ngập ánh nắng phía xa xa. Mã Vinh và Kiều Thái phi thân lên bến tàu nằm bên dưới cổng sắt cao ngất. Lúc đội trưởng đội lính gác nhận ra Địch Công, y lập tức đưa ông băng qua sân trong lát đá để đi đến tòa nhà chính. Mã Vinh và Kiều Thái ở lại phía sau, tại cổng gác, vì Địch Công đã chỉ thị bọn họ thu thập bất cứ mẩu chuyện tầm phào nào liên quan đến vụ án mạng đang làm xôn xao dư luận bách tính kia.
Trước khi bước vào trong, Địch Công ngưỡng mộ nhìn lướt qua những bức tường dày dạn vững chãi. Quân trại này chỉ mới được dựng lên vài năm trước, khi Cao Câu Ly khởi nghĩa chống lại vương triều Đại Đường, và hạm đội chiến thuyền của họ đang chuẩn bị xâm lược bờ biển Đông Bắc Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa đã bị lực lượng quân viễn chinh Trung Hoa bóp nát trong hai chiến dịch đầy cam go. Vậy nhưng người Cao Câu Ly vẫn còn mang nỗi căm hờn nhức nhối với thất bại. Thế nên vẫn có khả năng cho một cuộc tấn công bất ngờ, một đòn đánh chớp nhoáng được trù tính sẽ xảy ra. Cửa sông nơi quân trại đang trấn thủ, đã được triều đình ban bố là một khu vực giới nghiêm, nên cho dù nó tọa lạc trong địa phận Bồng Lai, Địch Công cũng không có quyền hành can dự vào địa phận đặc thù này.
Đô úy Phương Minh Liêm bước đến tiếp kiến Địch Công ở chân cầu thang, rồi đưa ông đi lên chính sảnh. Phương Đô úy mời Địch Công ngồi xuống bên cạnh mình trên một bộ trường kỷ rộng rãi kê sát bức tường chắn.
Họ Phương cũng vẫn lịch sự và kiệm lời như lúc y tới diện kiến Địch Công tại nha phủ Bồng Lai. Y ngồi thẳng tắp với vẻ cứng nhắc, toàn thân bọc kín trong bộ giáp trụ nặng trịch, với phần đệm ngực và hai cầu vai làm bằng sắt. Vừa ngó nhìn Địch Công từ bên dưới hàng
lông mày sâu róm xám xịt với vẻ u ám, họ Phương vừa ngập ngừng bày tỏ vài lời cảm tạ chuyến viếng thăm.
Địch Công nói những lời thăm hỏi lịch sự thông thường. Đô úy cộc cằn đáp rằng y vẫn nghĩ chức vị hiện tại của mình không thích hợp với một chiến binh lão luyện từng xông pha trận mạc bao năm. Y không cho là quân Cao Câu Ly sẽ gây hấn lần nữa; họ cần nhiều năm để bù đắp những tổn thất của mình. Còn trong lúc đó thì một Đô úy, phải duy trì trật tự trị an giữa hơn một ngàn quân sĩ và binh lính ăn không ngồi rồi bị giam cầm tù túng trong quân trại này.
Địch Công tỏ vẻ cảm thông, rồi nói tiếp, “Ta nghe nói trong quân trại mới xảy ra một vụ án mạng. Hung thủ đã bị bắt giữ và kết tội, dù vậy ta vẫn mong được biết tường tận cặn kẽ hơn về vụ án. Như ngài cũng biết, Huyện lệnh Bồng Lai là cương vị quan án đầu tiên của Địch mỗ, và ta rất mong có cơ hội được mở rộng kinh nghiệm cho bản thân.”
Đô úy trao cho ông một cái nhìn sắc lẹm. Y sờ chòm ria mép xám xịt ngắn cũn một lát, đoạn y thình lình bật dậy và xẵng giọng nói: “Việc này hà tất phải khách khí? Địch Huyện lệnh nếu có hứng thú thì xin mời đi cùng ta, ta sẽ cho ngài xem hiện trường và cách thức vụ án xảy ra.”
Lúc bước ngang qua hai tên lính hầu đang đứng nghiêm chỉnh cạnh cửa, y quát họ:
“Gọi Mao Binh tào và Thi Thương tào cho ta!”
Đô úy dẫn đường băng qua sân trong đến một tòa nhà hai tầng rộng lớn. Khi họ bước lên một cầu thang gác rộng rãi, y lầm bầm, “Nói thật với ngài, vụ án khiến ta lo âu!” Ở phía đầu cầu thang, bốn binh sĩ đang ngồi trên một chiếc trường kỷ. Họ nhanh chóng đứng
ngay hàng thẳng lối. Đô úy dẫn đường cho Địch Công đi xuống một hành lang dài vắng vẻ hướng về phía bên trái. Cuối hành lang là một cánh cửa nặng nề; phía trên ổ khóa của nó bị niêm phong bằng một dải giấy có dấu triện của Đô úy. Phương Minh Liêm xé nát nó, rồi đá cửa mở ra và nói:
“Đây là phòng của Tô Văn Hổ. Ông ta bị sát hại ngay trên chiếc trường kỷ đằng kia.”
Trước lúc bước qua ngưỡng cửa, Địch Công nhanh chóng quan sát gian phòng rộng trống trải. Bên phải ông là một khung cửa sổ hình vòm mở toang, cao khoảng năm thước và rộng chừng bảy thước. Ở hốc tường bên dưới có đặt một bao đựng tên bằng da bóng loáng, bên trong chứa chừng một tá mũi tên đầu bịt sắt, cán màu đỏ. Thêm bốn mũi tên bị rơi ra ngoài bao đựng. Gian phòng không còn cửa sổ hay cửa ra vào nào khác. Một án thư đơn sơ bằng gỗ mộc được kê bên trái gian phòng, trên đó đặt một chiếc mũ sắt cùng một mũi tên khác. Tựa vào bức tường chắn là một chiếc trường kỷ lớn bằng trúc. Tấm chiếu cói trải phía trên nó bị vấy những đốm màu nâu quái gở. Sàn nhà lát ván thô; không trải thảm hay chiếu lót sàn.
Sau khi họ đi vào phòng, Phương Đô úy lên tiếng:
“Sau mỗi buổi thao luyện, trưa nào Tô Văn Hổ cũng đến đây vào khoảng cuối giờ Ngọ để chợp mắt một giấc trưa ngắn ngủi ước chừng nửa canh giờ, sau đó ông ta sẽ xuống phòng ăn tập thể để dùng cơm trưa. Vào hôm kia, Thi Thành Long, là Thương tào hỗ trợ họ Tô quản lý công vụ về sổ sách giấy tờ, đã bất ngờ đến đây vào khoảng giữa giờ Mùi. Y dự định cùng Tô Văn Hổ đi xuống phòng ăn, và có vài lời riêng với họ Tô về một vụ vi phạm quân lệnh liên quan đến Cao Hỏa trưởng. Thi Thành Long gõ cửa phòng. Thấy không ai
đáp lại, nên y ngỡ có lẽ họ Tô đã đi xuống rồi. Y bước vào trong để chắc chắn chuyện đó, và trông thấy họ Tô đang nằm trên chiếc trường kỷ đằng kia. Trên người ông ta mặc bộ giáp ngoài, nhưng mũi tên thì đang cắm vào phần bụng không được che chắn, còn chiếc quần dài bằng da thì bê bết máu. Tay của ông ta đang siết quanh cán tên - rõ là ông ta đã cố sức bình sinh một cách vô vọng để rút nó ra. Nhưng ngài cũng nhìn thấy đó, đầu mũi tên có ngạnh như móc câu. Vậy là họ Tô chết thẳng cẳng.”
Đô úy hắng giọng, rồi tiếp tục, “Ngài đã hiểu chuyện gì xảy ra rồi chứ? Tô Văn Hổ đi vào đây, quăng bao tên của mình vào trong cái hốc ở kia, vứt mũ sắt lên án thư, rồi nằm vật xuống chiếc trường kỷ, không màng cởi bỏ giáp trụ hay tháo ủng ra. Lúc ông ta bắt đầu say giấc ngủ thì...”
Hai nam nhân tiến vào và kính cẩn hành lễ. Đô úy ra hiệu cho gã cao lớn trong bộ quân phục da nâu tiến lên trước, rồi y làu bàu nói: “Đây là Thương tào Thi Thành Long, người đã phát hiện ra thi thể.”
Địch Công ngó nhìn gương mặt nặng nề in hằn những nếp nhăn của y, đôi vai rộng và hai cánh tay dài ngoằng như vượn. Y có hàng ria mép ngắn cùng một hàm râu quai nón. Đôi mắt lờ đờ của y nhìn chằm chằm vào Huyện lệnh với vẻ ủ rũ.
Chỉ tay vào gã nam nhân béo lùn mặc bộ giáp ngoài ngắn cũn, đội mũ chóp nhọn và mặc chiếc quần thụng dài của chấp pháp quan, Đô úy nói thêm, “Còn đây là Binh tào Mao Tấn Nguyên, người chịu trách nhiệm điều tra, từng là người đứng đầu đội do thám quân của ta trong suốt chiến dịch chống lại Cao Câu Ly. Là một nam nhân rất có năng lực.”
Địch Công gật đầu chào lấy lệ. Ông thầm nghĩ gương mặt gầy gò,
đầy vẻ bất cần và bất tín của họ Mao trông có vẻ hơi xảo quyệt. “Ta vừa mới trình bày các chi tiết về vụ án với Huyện lệnh đại nhân,” Phương Đô úy nói với hai nam nhân kia. “Bản tướng nghĩ rằng chúng ta cũng cần tham vấn ý kiến của ngài ấy.” Hai người vừa tới vẫn im lặng. Rồi Thi Thành Long phá vỡ khoảng trầm lặng lúng túng ấy. Y nói với giọng thâm trầm, hơi khàn khàn, “Ty chức hy vọng Huyện lệnh đại nhân sẽ tìm ra được một giải pháp khác. Theo ngu kiến của ty chức, Mạnh Quốc Thái không phải là một kẻ sát nhân, chứ đừng nói đến chuyện hắn nhẫn tâm bắn chết một người đang say giấc.”
“Ý kiến của ngươi không quan trọng,” Phương Đô úy lãnh đạm bình luận. “Chúng ta chỉ xử lý theo sự thật. Rồi trên cơ sở đó, chúng ta sẽ nhất trí đưa ra một lời kết án phán xử tội danh.”
Phương Đô úy kéo sợi đai đeo kiếm của mình lên. Y đưa Địch Công đến khung cửa sổ hình vòm bản lớn rồi trỏ vào tòa nhà ba tầng ở phía đối diện. “Tầng trệt và tầng hai ở bên kia sân là các nhà kho không có cửa sổ. Nhưng ngài có nhìn thấy khung cửa sổ lớn phía trên tầng thượng không? Đó chính là võ khố.”
Địch Công nhìn thấy khung cửa sổ kia có cùng kiểu dáng và kích cỡ với khung cửa sổ trong phòng này. Đô úy xoay người lại và nói tiếp, “Xem nào, Tô Văn Hổ đang nằm duỗi chân về phía cửa sổ này. Các cuộc thử nghiệm với một hình nộm bằng rơm chứng thực mũi tên chắc chắn đã được bắn ra từ khung cửa sổ trên cao của võ khố. Và vào thời điểm ấy, không có ai ở đó ngoại trừ Mạnh Quốc Thái.”
“Một khoảng cách khá xa đó,” Địch Công nhận xét. “Ta ước chừng khoảng sáu mươi thước.”
“Mạnh Hiệu úy là xạ thủ vô địch của quân trại, nổi tiếng bách phát
bách trúng,” họ Mao bình phẩm.
“Một xạ thủ mới tập tành cung nỏ thì không thể thực hiện được,” Phương Đô úy thừa nhận, “nhưng hoàn toàn trong khả năng của một tay thiện xạ.”
Huyện lệnh gật đầu. Sau một thoáng suy ngẫm, ông hỏi, “Mũi tên này có thể nào được bắn ngay bên trong gian phòng này không?” “Không thể,” Đô úy xẵng giọng đáp. “Bốn binh sĩ đứng gác bất kể ngày đêm ở đầu cầu thang và ở phía cuối dãy hành lang. Bọn họ khai rằng sau khi Tô Văn Hổ đi lên đây và trước khi Thi Thành Long đến thì không có ai đi ngang qua chỗ họ cả.”
“Thế tên sát nhân không thể trèo tường rồi đột nhập vào qua lối cửa sổ và dùng mũi tên đâm chết Quả nghị Đô úy đại nhân hay sao?” Địch Công hỏi. “Bản quan chỉ đang cố gắng bao quát hết mọi khả năng thôi,” ông mau lẹ nói thêm khi nhận thấy cái nhìn chế nhạo của những người kia.
“Bức tường rất nhẵn, không ai có thể leo lên được,” Phương Minh Liêm nói. “Ngay cả Thi Thành Long vốn là cao thủ leo trèo. Ngoài ra, luôn có lính tuần tra tới lui trong sân bên dưới, vì vậy không kẻ nào có thể diễn trò trên tường mà không bị phát giác.”
“Ta hiểu,” Địch Công nói. Ông vuốt chòm râu dài đen nhánh của mình, đoạn nói, “Vậy tại sao Mạnh Quốc Thái lại muốn sát hại Quả nghị Đô úy đại nhân chứ?”
“Tô đại nhân là một võ quan có năng lực, nhưng lại nóng nảy và hơi độc mồm độc miệng. Bốn ngày trước, ông ấy đã mắng chửi họ Mạnh trước mặt toàn quân, bởi y bênh vực Cao Hỏa trưởng.”
“Ty chức đã có mặt ở đó,” Mao Binh tào kể. “Họ Mạnh đã kiềm chế bản thân, nhưng gương mặt y thì tím tái lại. Y ấm ức vì sự nhục
mạ ấy, và rồi...” Họ Mao dừng lại vẻ ngụ ý.
“Dạo trước thì Mạnh Quốc Thái từng bị Tô đại nhân quát vào mặt rồi,” Thi Thương tào bình phẩm. “Y chẳng lạ gì với chuyện đó, nên cũng không quá để tâm xem là nghiêm trọng.”
Địch Công nói với Phương Đô úy, “Trước đây, ngài có đề cập đến việc vi phạm kỷ luật của Cao Hỏa trưởng. Thế y đã làm gì?” “Quả nghị Đô úy la rầy họ Cao vì chiếc dây đai của hắn bị nứt. Cao Hỏa trưởng cãi lại nên họ Tô định sẽ nghiêm trị hắn. Mạnh Hiệu úy đã lên tiếng nói đỡ cho họ Cao, thế là họ Tô chuyển sang đả kích y.”
“Ty chức cũng tính nói đỡ cho họ Cao,” Thi Thương tào lên tiếng. “Đó là lý do ty chức đến đây để nói đôi câu, ngay sau buổi thao luyện võ trường ban sáng. Ty chức cho là nếu mình nói chuyện riêng với Tô đại nhân, thì biết đâu mình có thể khiến ông ấy bỏ qua vụ án này. Thế mà định mệnh lại an bài cho họ Cao làm nhân chứng quan trọng chống lại Mạnh Hiệu úy, người đã bảo vệ cho y!”
“Thế là sao?” Địch Công hỏi.
Phương Đô úy thở dài. “Ai cũng biết Tô Văn Hổ luôn đến đây để chợp mắt sau buổi thao luyện ban sáng. Và Mạnh Quốc Thái thì có thói quen đi lên võ khố để luyện trường thương trước khi xuống phòng ăn. Y khỏe như vâm, chẳng biết mệt mỏi là gì. Vậy mà vào hôm kia, họ Mạnh lại nói với các đồng đội rằng y cảm thấy khó chịu do say rượu, nên sẽ không lên võ khố sau buổi thao luyện. Nhưng rồi họ Mạnh vẫn đi đến đó! Nhìn đi, ngài có nhìn thấy cái cửa sổ nhỏ hơn phía trên kia không, cao chừng hai mươi thước nằm ở bên trái cửa sổ của võ khố ấy? Đó là của gian phòng cất giữ đồ da. Chỉ có Chủ sự Võ khố mới đi lên trên đó, mà cũng chỉ độ nửa tháng một lần. Nhưng họ Cao lại đinh ninh đi tìm một chiếc dây đai mới bằng
da ở đó, bởi Quả nghị Đô úy đã quở trách dữ dội y về cái dây cũ. Tên Hỏa trưởng khó tính, hay kén cá chọn canh này, mất khá lâu mới chọn được một chiếc dây vừa ý mình. Lúc đi về phía cánh cửa thông giữa gian phòng đó với võ khố, chợt y ngó ra ngoài cửa sổ. Họ Cao trông thấy Thi Thương tào bước vào căn phòng này của Quả nghị Đô úy. Họ Thi bỗng đột ngột đứng lại ngay trước cánh cửa sổ hình vòm, y cúi xuống rồi bắt đầu vẫy tay và chạy ra khỏi phòng, hét toáng lên. Họ Cao mở cánh cửa võ khố để chạy xuống và phát hiện ra điều bất thường ở tòa nhà phía đối diện, suýt va vào Mạnh Hiệu úy, lúc đó đang đứng đó săm soi vớ vẩn một cây cung. Cả hai người cùng lao xuống và đến đây vừa lúc các binh sĩ của đội tuần tra được Thi Thương tào báo động chạy đến. Sau đó, họ Thi đi tìm ta và Mao Binh tào. Lúc chúng ta tới đây, thì biết ngay mũi tên ấy được bắn ra từ chỗ nào, rồi ta đã cho bắt giam Mạnh Quốc Thái, nghi can đáng ngờ nhất.”
“Thế còn Cao Hỏa trưởng?” Địch Công thắc mắc.
Họ Mao lẳng lặng đưa ông đến bên cửa sổ và chỉ ra bên ngoài. Địch Công ngước lên nhìn và nhận ra mặc dù từ cửa sổ của gian phòng chứa đồ có thể bao quát được cửa phòng của Tô Văn Hổ và không gian đằng trước cánh cửa sổ hình vòm, nhưng còn phía bên kia gian phòng, nơi đặt chiếc trường kỷ, thì lại ở ngoài tầm với.
“Mạnh Quốc Thái giải thích như thế nào về sự có mặt của mình trong võ khố?” Địch Công hỏi Đô úy. “Chẳng phải hôm ấy, rõ ràng y đã nói là mình sẽ không lên đó hay sao?”
Phương Minh Liêm gật đầu vẻ không hài lòng. “Tên ngốc đó nói rằng sau khi đi lên phòng mình để nằm nghỉ thì y tìm thấy một bức thư ngắn do Quả nghị Đô úy gửi đến, lệnh cho y đến gặp ông ta ở võ khố vào giữa giờ Mùi. Khi được yêu cầu trình ra bức thư đó thì y
lại bảo mình quẳng nó đi rồi! Chúng ta coi chuyện đó chính là bằng chứng đanh thép cho tội ác của Mạnh Quốc Thái.”
“Điều đó quả thật gây bất lợi cho y,” Địch Công tán thành. “Họ Mạnh không hề biết Cao Hỏa trưởng sẽ đi lên gian phòng chứa đồ da. Nếu họ Cao không bắt quả tang y, thì sau khi hành động xong xuôi, y sẽ lẻn về phòng mình, và thế là sẽ không ai nghi ngờ y cả.” Ông bước lại gần án thư và cầm mũi tên nằm cạnh chiếc mũ sắt lên. Nó dài chừng bốn thước, và nặng hơn nhiều so với ông tưởng. Đầu mũi tên bằng sắt dài và rất sắc nhọn với hai ngạnh, dính vài đốm nâu nhạt. “Bản quan cho rằng đây là mũi tên đã kết liễu Quả nghị Đô úy đại nhân, phải không?”
Đô úy gật đầu. “Chúng ta đã rất vất vả mới lôi được mũi tên ra,” y cảm thán, “chỉ tại mấy cái ngạnh đó.”
Địch Công xem xét kĩ lưỡng mũi tên. Mũi tên được sơn son, với những sợi lông vũ đen gắn ở phần đuôi. Ngay dưới đầu mũi bằng sắt, cán tên được gia cố bằng dải băng đỏ quấn chặt quanh nó.
“Chẳng có gì đặc biệt về mũi tên cả,” họ Mao nói vẻ mất kiên nhẫn. “Chỉ là loại binh khí quân dụng thông thường.” “Ta thấy dải băng đỏ ấy bị rách rồi,” Địch Công bình phẩm. “Có một vết rách lởm chởm chạy dọc theo thân tên.”
Những người khác không bình luận gì thêm. Những lời nhận xét của Địch Công dường như không được họ xem là quá xuất sắc. Bản thân Địch Công cũng chẳng đánh giá cao về bọn họ. Buông tiếng thở dài, ông đặt lại mũi tên lên án thư và nói:
“Bản quan phải thừa nhận rằng đây là một vụ án nghiêm trọng và rất bất lợi cho Mạnh Hiệu úy. Y có động cơ, thời cơ, cùng kĩ năng đặc thù cần thiết để tận dụng cơ hội ấy. Ta sẽ phải cẩn trọng cân
nhắc vấn đề này trước khi đưa ra quyết định. Dù vậy, trước khi rời khỏi quân trại, ta vẫn mong muốn được gặp Mạnh Hiệu úy. Cao Hỏa trưởng có thể đưa ta đến gặp y, rồi ta sẽ gặp tất cả những người có can hệ đến vụ án đang gây sóng gió này.”
Đô úy trao cho Địch Công một ánh nhìn dò xét. Y có vẻ lưỡng lự, rồi quát lên ra lệnh cho Mao Binh tào.
Trong lúc Cao Hỏa trưởng dẫn đường đưa Địch Công tới đại lao nằm ở phía sau quân trại, ông kín đáo quan sát kẻ đang đi cùng mình. Họ Cao là một nam nhân trẻ tuổi tuấn tú, vô cùng chỉnh tề trong bộ giáp trụ vừa vặn ôm sát người cùng với một chiếc mũ tròn. Địch Công cố gắng khơi gợi y kể về vụ án mạng, nhưng chỉ nhận được những câu đáp trả cụt ngủn. Nam nhân trẻ tuổi ấy trông có vẻ vừa kính sợ vừa cực kỳ lo ngại.
Bóng dáng hộ pháp của một nam nhân, hai tay chắp sau lưng, đang đi qua đi lại bên trong xà lim. Nhác thấy hai người đi đến trước song sắt lớn, mặt y sáng bừng lên và nói với chất giọng trầm:
“Thật tốt khi gặp ngươi, Cao huynh đệ! Có tin tức gì không?” “Thưa ngài, Huyện lệnh đại nhân đang ở đây,” họ Cao hơi rụt rè lên tiếng. “Đại nhân muốn hỏi ngài vài câu.”
Địch Công bảo họ Cao có thể rời đi. Rồi ông nói chuyện với gã phạm nhân:
“Phương Đô úy nói với ta rằng phiên quân sự pháp đình đã xử ngươi tội cố sát. Nếu ngươi có thể viện dẫn ra bất cứ điều gì để biện hộ nhằm có được sự khoan hồng, thì bản quan sẽ vui lòng giúp ngươi truyền đạt lại rõ ràng những lời bào chữa ấy. Hai thuộc hạ Mã - Kiều của ta đã nói những lời tốt đẹp về ngươi.”
“Thưa đại nhân, kẻ hèn này không hề giết hại Quả nghị Đô úy Tô
Văn Hổ,” gã hộ pháp cộc cằn cất lời. “Vậy mà bọn họ lại ghép tội cho ty chức, thế thì cứ để họ chặt đầu Mạnh mỗ đi. Đó là quân pháp, dù sao thì một nam nhân sớm muộn gì cũng phải bỏ mạng mà thôi. Không cần phải bào chữa gì cả.”
“Nếu ngươi bị oan uổng,” Địch Công nói tiếp, “thì nghĩa là kẻ thủ ác phải có một lý do bắt buộc nào đó khi muốn loại bỏ cả Tô đại nhân và ngươi. Chính vì điều đó mà hắn gửi cho ngươi một bức thư giả mạo, rồi biến ngươi thành một con dê tế thần, thành kẻ chịu tội thay. Vậy là việc này đã giúp thu hẹp số lượng nghi phạm. Liệu ngươi nghĩ ra được kẻ nào có lý do để căm ghét cả ngươi và Tô đại nhân hay không?”
“Có quá nhiều kẻ căm ghét Tô đại nhân. Ông ta là một người cầm quân có tài nhưng thực sự quá cứng nhắc, lúc nào cũng quân lệnh như sơn; ông ta có thể trừng phạt binh sĩ chỉ vì những lỗi nhỏ nhặt, tầm thường. À, còn về phần mình, ty chức luôn coi tất cả mọi người là bằng hữu. Nếu ty chức có lỡ làm phật lòng ai đó, thì đó chỉ là vô ý thôi. Do thế, chuyện ấy cũng chẳng nói lên được gì nhiều.”
Địch Công trầm ngâm đồng ý. Ông ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói tiếp, “Hãy kể chính xác cho ta nghe ngươi đã làm những gì sau khi trở về quân trại, vào đêm trước vụ án mạng.”
“Nói đúng ra là buổi sáng!” Mạnh Quốc Thái nói với một nụ cười gượng gạo. “Ngài biết đó, lúc ấy cũng quá khuya rồi! Chuyến du ngoạn trên thuyền trở về khiến cho ty chức hơi chút tỉnh rượu, nhưng Mạnh mỗ vẫn còn trong trạng thái lâng lâng. Đầu lĩnh đội lính gác là một gã tốt tính, y đã giúp ty chức tỉnh táo ra để về tư phòng. Chính ty chức quấy rầy y, không cho y rời đi, cứ khăng khăng kể tất tần tật với y về khoảng thời gian vui vẻ mà mình vừa trải qua, về sự dễ mến của hai gã người Cao Câu Ly đó, và về lòng hiếu khách
đáng trọng của bọn họ. Phác và Doãn, những cái tên của họ được phát âm thật buồn cười!” Y gãi gãi mái đầu rối bù như tổ quạ của mình, đoạn tiếp tục, “Đúng rồi, ty chức nhớ là mình chỉ để cho gã đầu lĩnh rời đi sau khi y đã nghiêm trang hứa rằng tuần tới y cũng sẽ lại đến đây cùng hàn huyên với Mạnh mỗ. Ty chức đã kể với y rằng họ Phác và họ Doãn khoe mình thậm chí sẽ còn kiếm được nhiều ngân lượng hơn nữa để tiêu xài, và rằng họ nhất định sẽ tổ chức một bữa tiệc thực sự đường hoàng để chiêu đãi Mạnh mỗ cùng toàn thể bằng hữu. Ty chức mặc nguyên y phục mà quăng mình xuống giường, cảm thấy cực kỳ hài lòng. Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang, đến sáng hôm sau, ty chức chẳng thể vui vẻ thêm nữa rồi! Đầu ty chức đau nhức đến mức kêu cha gọi mẹ. Không hiểu bằng cách nào mà bản thân mình có thể xoay xở vượt qua được buổi thao luyện ban sáng, nhưng ty chức đã rất mừng vui khi buổi tập chấm dứt và mình có thể đi lên tư phòng để chợp mắt nghỉ ngơi. Sau đó, ngay lúc ty chức sắp sửa lăn ra ngủ thì nhìn thấy một bức thư ngắn. Ty chức...”
“Ngươi không thể nhận ra nó là giả mạo à?” Địch Công xen vào. “Trời ơi không, ty chức không hứng thú lắm đối với nghệ thuật thư pháp! Vả lại, trong thư chỉ có vài chữ được viết nguệch ngoạc. Tuy nhiên, trên đó có dấu triện của Tô đại nhân và nó là thật - Mạnh mỗ đã nhìn thấy nó hàng trăm lần trên đủ mọi thể loại giấy tờ. Nếu không có dấu triện trên đó thì ty chức sẽ nghĩ đó là trò chơi khăm của một gã đồng đội, nên sẽ xác minh lại với Tô đại nhân. Nhưng dấu triện đã xác minh bức thư là thật, thế là ty chức lập tức đi lên võ khố. Tô đại nhân không ưa những kẻ dám chất vấn các mệnh lệnh của mình! Và thế là rắc rối của của ty chức bắt đầu diễn ra!” “Lúc ở võ khố, ngươi không ngó ra bên ngoài cửa sổ à?”
“Sao mà ty chức phải làm như vậy chứ? Ty chức chờ đợi Tô đại nhân sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào, nên đã ở đó nghiên cứu một cặp cung nỏ, chuyện chỉ có thế.”
Địch Công săm soi gương mặt to bản, đầy vẻ chất phác, thật thà của họ Mạnh. Thình lình, ông tiến đến gần song sắt và quát lên đây phẫn nộ.
“Mạnh Quốc Thái, ngươi đang bao che cho kẻ khác!” Gương mặt họ Mạnh thoáng chốc trở nên đỏ bừng. Nắm chặt song sắt bằng đôi bàn tay to lớn đầy sức mạnh của mình, y gầm gừ, “Ngài đang nói hươu nói vượn gì đó! Ngài không thuộc về giới quân nhân. Tốt hơn hết là ngài đừng có mà nhúng tay can thiệp vào sự vụ của quân trại!” Y quay người đi và tiếp tục lượn qua lượn lại. “Được thôi, ta sẽ để ngươi muốn ra sao thì ra!” Địch Công cất giọng lạnh lùng. Ông bước xuống dãy hành lang. Tên lính giữ chìa khóa đại lao mở cánh cửa sắt nặng nề ra, và họ Cao dẫn đường đưa Địch Công quay lại chính sảnh gặp Đô úy.
“À, ngài nghĩ gì về Mạnh Hiệu úy?” Phương Minh Liêm hỏi. “Ta phải công nhận rằng hắn không có vẻ là hạng tiểu nhân sát hại một người đang ngủ,” Địch Công đáp vẻ thận trọng. “Nhưng dĩ nhiên nhân sinh không ai lường hết được mọi sự. Tri nhân tri diện bất tri tâm. Tiện thể, ta lỡ để mất một trong những bản sao văn thư công vụ mà ngài vẫn luôn tử tế chuyển đến. Bản quan có thể xin thêm một bản sao khác không, chỉ để hoàn chỉnh hồ sơ của mình? Số hiệu của bản văn thư ấy là Nhân - Tứ linh tứ.”
Đô úy trông đầy vẻ ngỡ ngàng với lời yêu cầu bất ngờ ấy, dù vậy y vẫn lệnh cho phụ tá của mình đi đến văn khố để lấy bức văn thư. Lục sự nhanh chóng quay trở lại. Y trao tay cho Đô úy hai tờ văn
thư. Phương Minh Liêm liếc nhìn thoáng qua chúng, rồi trao cho Địch Công, đoạn nói, “Của ngài đây! Công vụ thường nhật thôi.” Trên tờ giấy thứ nhất, Địch Công nhìn thấy một lời đề bạt họ Cao và ba Hỏa trưởng khác thăng chức lên Đội chính, đi kèm là một danh sách gồm danh tính, tên tuổi và thời hạn quân ngũ của họ. Nó được đóng dấu triện của Quả nghị Đô úy. Tờ thứ hai chỉ có vài dòng, trong đó Đô úy bày tỏ niềm hy vọng rằng Bộ Binh sẽ mau chóng chuẩn y lời đề bạt của mình. Phía trên nó là dấu triện lớn của Phương Đô úy, ngày tháng và số hiệu Nhân - Tứ linh tứ. Địch Công lắc đầu. “Chắc chắn là có sai sót ở chỗ nào đó. Tờ văn thư bị thất lạc ắt phải liên quan đến xử lý việc mua sắm vật tư, vì số hiệu tiếp theo Nhân - Tứ linh ngũ, là một yêu cầu cung ứng các dây đai bằng da, có chỉ dẫn đến văn thư Nhân - Tứ linh tứ. Do đó, nhân trong Nhân - Tứ linh tứ phải đại diện cho thương nhân, chứ không phải là nhân sự.”
“Thánh thần thiên địa ơi!” Đô úy la lên. “Thỉnh thoảng các Lục sự cũng phải nhầm lẫn chứ, đúng không? Ôi, ta vô cùng đa tạ chuyến viếng thăm của Huyện lệnh đại nhân. Chừng nào ngài trình bày rõ ràng ý kiến của mình về vụ sát hại Quả nghị Đô úy Tô Văn Hổ thì hãy báo cho bản tướng biết nhé.”
Trong lúc Địch Công bước ra ngoài, ông loáng thoáng nghe được Đô úy lầm bầm vài điều với phụ tá của mình về “thói quan liêu ngớ ngẩn”.
Ánh nắng mặt trời thiêu đốt giữa ban ngày đã biến bến tàu đằng trước cổng thành một cái lò gạch, nhưng ngay khi con thuyền lớn lướt trôi êm ả ra sông, thì lại có một làn gió mát mẻ dễ chịu nổi lên. Phu chèo thuyền đã đảm bảo thu xếp cho Huyện lệnh cùng hai trợ thủ của ông có chỗ ngồi thoải mái trên cái bệ phía cuối thuyền, bên
dưới tấm vải bạt làm bằng vải màu lục.
Ngay khi tên lính hầu dâng trà xong và lui vào trong khoang, Mã Vinh và Kiều Thái chất vấn dồn dập Địch Công với hàng loạt câu hỏi.
“Bản quan quả thực không biết nên nghĩ gì,” Địch Công chậm rãi nói. “Mọi hiện trạng đều chống lại Mạnh Quốc Thái, nhưng ta lại có cảm giác mơ hồ ngờ vực rằng tên ngốc ấy đang che giấu, lấp liếm cho kẻ nào đó. Hai ngươi có tìm hiểu được gì không?”
Mã Vinh và Kiều Thái lắc đầu. Họ Kiều nói:
“Chúng thuộc hạ đã trò chuyện khá lâu với đầu lĩnh đội lính gác, là kẻ đang làm nhiệm vụ tuần tra lúc Mạnh Quốc Thái trở về quân trại sau cuộc vui chơi chè chén lu bù của y với chúng thuộc hạ. Y có hảo cảm với họ Mạnh, cũng giống như những người khác trong quân trại. Y hầu như không thấy phiền hà khi phải vác họ Mạnh lên phòng, dù đó không phải là việc dễ dàng gì!
Còn họ Mạnh lúc ấy cứ nghêu ngao hát mấy bài tục tĩu bằng tông giọng cao nhất của mình. Chắc hẳn y đã đánh thức toàn bộ đồng đội của mình ấy chứ, thuộc hạ sợ là thế! Gã đầu lĩnh ấy cũng bảo rằng Mạnh Quốc Thái không phải là bằng hữu đặc biệt gì của Tô Văn Hổ cả, ấy vậy mà họ Mạnh lại ngưỡng mộ họ Tô là một quan viên có năng lực, và y cũng không quá để tâm đến những cơn thịnh nộ thường xuyên của họ Tô.”
Địch Công không bình luận gì thêm. Ông trầm mặc hồi lâu. Nhấp một ngụm trà, ông ngắm nhìn khung cảnh yên bình đang trôi nổi qua trước mắt mình. Hai bên bờ sông xếp dọc những cánh đồng lúa xanh mướt, rải rác đó đây là những chiếc mũ rơm vàng của các nông phu đang làm đồng. Bất chợt ông nói, “Thi Thương tào cũng cho là họ Mạnh vô tội. Thế nhưng chấp pháp quan Mao Binh tào lại
tin là y có tội.”
“Mạnh Quốc Thái thường kể cho chúng thuộc hạ nghe về Thi Thành Long,” Mã Vinh nói. “Họ Mạnh là một xạ thủ vô địch, không đối thủ ở chốn đây, còn họ Thi lại là quán quân về trò leo tường. Hắn là một gã cơ bắp cuồn cuộn đó! Hắn đang trông coi việc thao luyện binh lính về kĩ năng ấy. Bọn họ cởi hết y phục trừ tiết khố, và vượt qua một bức tường cũ bằng đôi chân trần. Họ được học sử dụng ngón chân như thể là ngón tay. Khi tìm được điểm tựa, họ sẽ chuyển động những ngón chân của mình vào một khe nứt bên dưới, rồi rướn người lên để tìm điểm tựa ở chỗ cao hơn, lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi họ lên đến được đầu tường. Lúc nào đó thuộc hạ cũng muốn tự mình thử trò ấy! Còn về Mao Binh tào, hắn là hạng người vô cùng giả dối, đa nghi, ai cũng đồng ý với điều đó!”
Địch Công gật gù. “Theo như họ Mạnh nói, thì hai gã Cao Câu Ly kia đã chi trả toàn bộ ngân lượng cho bữa tiệc tùng của các ngươi.” “Ồ,” Kiều Thái nói với vẻ hơi ngượng ngùng, “ấy là vì trò tinh quái khá là ngớ ngẩn mà chúng thuộc hạ đã chơi khăm hai tên ấy! Chúng thuộc hạ đang cao hứng, và khi gã họ Phác hỏi về nghề nghiệp, thì chúng thuộc hạ bảo rằng cả ba người đều là thổ phỉ cả. Hai gã đó tin ngay; chúng còn bảo có thể sẽ làm việc cho bọn này vào một ngày nào đó! Lúc chúng thuộc hạ muốn chi trả cho phần của mình, thì mới biết hóa ra họ đã thanh toán hết toàn bộ rồi.”
“Dù vậy, chúng thuộc hạ sắp sửa tái ngộ họ vào tuần tới sau khi họ trở về từ kinh thành,” Mã Vinh nói. “Rồi chúng thuộc hạ sẽ khai thật với họ và dành cả buổi chiều với nhau. Mã - Kiều này không thiết tha gì việc ăn chực cả.”
“Chuyện ấy có thể khiến họ thất vọng,” Kiều Thái thêm vào, “bởi họ Phác và họ Doãn đang trông đợi khoản ngân lượng chi trả cho
ba chiếc thuyền buồm, và họ đã dự định thiết đãi một bữa tiệc ăn mừng lớn vào lúc đó. À mà Mã đệ này, đệ có nghe chuyện hài về ba chiếc thuyền ấy không? Sau khi họ Phác và họ Doãn kể cho chúng ta nghe thương vụ làm ăn đó, cả hai người bọn họ cười rộ lên đến độ gần như lăn xuống bàn!”
“Khi ấy, đệ cũng suýt nữa lăn xuống đó!” Mã Vinh rầu rĩ nói. Địch Công không nghe thấy lời bình phẩm sau cùng, ông đang chìm trong suy tư, chậm rãi vuốt chòm râu đen nhánh của mình. Chợt ông nói với Mã Vinh, “Kể cho ta nghe thêm về đêm hôm đó! Nhất là cách thức hành động của Mạnh Quốc Thái và những gì y đã nói.”
“Thế này,” Mã Vinh đáp, “Kiều huynh cùng thuộc hạ đến tửu quán bán cua gần bến tàu, nơi đó dễ chịu và mát mẻ. Độ chừng giờ cơm tối, chúng thuộc hạ trông thấy chiếc xuồng chiến cập bến, rồi Mạnh Quốc Thái cùng một gã khác bước ra ngoài. Bọn họ tạm biệt nhau, và họ Mạnh tản bộ về phía chúng thuộc hạ trên lầu thượng. Y nói mình đã có một ngày khá mệt nhọc ở quân trại, vì thế cả bọn nên dùng một chầu ăn thật ngon. Và đó là những gì chúng thuộc hạ đã làm. Sau đó...”
“Thế Mạnh Quốc Thái có nói bất cứ điều gì về họ Tô hoặc về họ Cao hay không?” Huyện lệnh cắt ngang lời y.
“Không hé nửa lời ạ!”
“Vậy y có vẻ như đang lo lắng, bất an về điều gì chăng?” “Không có gì ngoài ham muốn thuần túy về một nữ nhân xinh đẹp!” Mã Vinh đáp lời với một nụ cười nhăn nhở. “Vì thế, chúng thuộc hạ cùng nhau đi tới chỗ mấy chiếc thuyền hoa, và đến nơi thì Mạnh Quốc Thái vứt hết mọi suy nghĩ về vấn đề riêng tư của mình. Khi chúng thuộc hạ đã uống vài tuần rượu trên khoang, hai gã họ Phác và họ Doãn ấy đi thuyền đến, đã say khướt rồi. Mụ tú bà
không thể khiến họ hứng thú với công chuyện kinh doanh của thuyền hoa, dù mụ đã phô trương ra những ả kỹ nữ đẹp nhất của mình. Điều duy nhất mà họ Phác và họ Doãn muốn chính là nhiều rượu hơn nữa, và rất nhiều là đằng khác, cùng một cuộc hàn huyên thân mật. Thế nên năm người chúng thuộc hạ bắt đầu lao vào một cuộc đọ rượu kéo dài. Thuộc hạ không nhớ rõ phần còn lại, tốt nhất là hãy để Kiều huynh tiếp tục câu chuyện sau đó!”
“Đệ đã biến mất dạng khỏi tầm mắt của mọi người, mà thôi để chuyện đó lại,” Kiều Thái lạnh nhạt nói. “Còn thuộc hạ, một canh giờ sau lúc nửa đêm, thuộc hạ đã giúp Mạnh Quốc Thái kéo hai gã người Cao Câu Ly xuống một con thuyền có mái chèo, để đưa về khu phố Cao Câu Ly nằm bên kia dòng kênh. Tiếp đó, thuộc hạ cùng họ Mạnh huýt gió gọi một chiếc thuyền khác đưa mình đến bến tàu. Khi thuộc hạ tiễn họ Mạnh lên chiếc xuồng chiến đang đợi sẵn ở đó, thì thuộc hạ cảm thấy hơi mệt, và vì tửu quán bán cua rất gần đó, nên thuộc hạ bảo họ cho mình một chỗ để tá túc tạm qua đêm. Đó là tất cả mọi chuyện.”
“Ta hiểu rồi,” Địch Công nói.
Ông uống thêm vài chén trà, rồi ông chợt đặt chén xuống và hỏi, “Chúng ta đang ở chỗ nào thế?”
Mã Vinh quan sát bờ sông, rồi đáp, “Khoảng phân nửa đoạn đường về Bồng Lai, thuộc hạ đoán vậy.”
“Bảo phu chèo thuyền quay lại để đưa chúng ta về quân trại,” Địch Công ra lệnh.
Mã Vinh và Kiều Thái cố khơi gợi Địch Công nói ra nguyên nhân cho quyết định đột ngột này, thế nhưng ông chỉ bảo mình muốn kiểm chứng lại hai hay ba luận điểm đã bỏ sót.
Trở lại quân trại, một cận vệ thông báo với họ rằng Phương Đô úy đang tham dự một cuộc họp nội bộ tuyệt mật, thảo luận các báo cáo về những tin thám báo quan trọng vừa được chuyển đến.
“Đừng quấy rầy ngài ấy!” Địch Công nói với y. “Gọi Mao Binh tào cho ta!”
Ông giải thích với chấp pháp quan đang kinh ngạc rằng mình muốn xem xét lại hiện trường vụ án mạng, và ông hy vọng y sẽ có mặt với tư cách một nhân chứng.
Trông có vẻ hoài nghi hơn bao giờ hết, Mao Binh tào dẫn đầu ba nam nhân đi lên lầu. Y xé bỏ dải giấy đã được dán lại trên ổ khóa cửa phòng của Tô Văn Hổ, rồi mời Địch Công tiến vào.
Trước khi bước vào trong, Địch Công bảo Mã Vinh và Kiều Thái, “Ta đang tìm một vật nhỏ và sắc, chẳng hạn như mảnh sắt vụn, hoặc phần đầu của một cây đinh, phỏng chừng nằm bên trong khu vực này.” Ông chỉ vào một khoảng không gian vuông vắn của sàn nhà, bắt đầu từ cánh cửa ra vào và kết thúc ở giữa gian phòng phía trước cánh cửa sổ hình vòm. Đoạn Địch Công ngồi xổm xuống và bắt đầu từng bước xem xét các tấm ván sàn. Hai trợ thủ của ông cũng nhập cuộc.
“Nếu ngài đang tìm một cánh cửa sập bí mật hay bất cứ mấy mánh khóe nào kiểu đó,” Mao Binh tào nói với vẻ mỉa mai chua chát, “thì ty chức phải khiến ngài thất vọng rồi. Quân trại này được xây dựng cách đây chỉ một vài năm trước thôi, ngài biết đó!”
“Đây, thuộc hạ tìm thấy cái gì này!” Mã Vinh thốt lên. Y chỉ vào một vị trí ở trước khung cửa sổ, có một đầu đinh sắc nhọn nhô ra từ tấm ván sàn.
“Tốt lắm!” Địch Công thốt lên. Ông khuỵu gối quỳ xuống và cẩn
trọng quan sát đầu đinh ấy. Đoạn ông đứng lên và bảo họ Mao, “Phiền ngươi gỡ mảnh vải nhỏ màu đỏ dính ở đầu đinh ra được không? Đồng thời hãy nhìn kĩ những đốm nhỏ màu nâu nhạt ở trên tấm gỗ đằng kia!”
Họ Mao thẳng người dậy, hoài nghi quan sát dải băng nhỏ màu đỏ trên ngón tay cái của mình.
“Đúng lúc,” Địch Công nghiêm nghị nói, “bản quan cần ngươi làm chứng rằng dải băng đỏ ấy thực sự được phát hiện dính vào đầu đinh. Ngoài ra, những đốm nâu được tìm thấy gần đó rất có khả năng là vết máu người.” Phớt lờ những câu hỏi đầy kích động của Mao Binh tào, Địch Công nhặt lấy mũi tên từ trên án thư và cắm nó xuống sàn nhà bên cạnh đầu đinh. “Cái này sẽ đánh dấu vị trí chính xác!” Ông ngẫm nghĩ một lát, đoạn hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra với đồ đạc tư trang của người quá cố, và với những thứ nằm trong ngăn kéo của án thư thế?”
Bực bội trước giọng điệu dứt khoát của Địch Công, họ Mao lạnh lùng đáp lại:
“Những vật dụng đó được thu thập cất vào hai rương riêng biệt, ty chức đã yêu cầu Đô úy đại nhân niêm phong chúng lại. Tất thảy được cất giữ cẩn thận trong phòng công vụ của Mao mỗ. Ty chức là chấp pháp quan, tất nhiên là không tài giỏi và giàu kinh nghiệm bằng các quan viên của nha phủ, nhưng ty chức biết việc của mình, ty chức tin là như vậy!”
“Được rồi, được rồi!” Địch Công nói vẻ hết kiên nhẫn. “Đưa chúng ta đến phòng công vụ của ngươi!”
Mao Binh tào mời Địch Công an tọa tại chiếc án thư lớn bừa bộn giấy tờ của mình. Mã Vinh và Kiều Thái vẫn đứng cạnh cửa ra vào. Họ Mao mở khóa một chiếc rương sắt và lấy ra hai gói đồ được bọc
trong giấy dầu. Đặt một gói trước mặt Địch Công, y nói: “Đây là những gì ty chức tìm thấy trong chiếc túi da mà Quả nghị Đô úy đại nhân treo trên một sợi dây đeo quanh cổ, bên dưới bộ giáp ngoài của ngài ấy.”
Địch Công xé bỏ niêm phong và xếp đặt lên án thư một giấy thông hành của phủ binh được gấp lại, một biên nhận mua nhà đã thanh toán từ bảy năm trước, cùng cái tráp vuông nhỏ nhắn bằng gấm đựng dấu triện cá nhân. Ông mở tráp ra, và có vẻ vừa lòng khi nó trống rỗng. “Ta đoán chừng,” ông nói với họ Mao, “có phải dấu triện được tìm thấy trong ngăn kéo ở chiếc án thư của người quá cố?”
“Đúng vậy. Nó nằm trong gói đồ thứ hai, cùng với những giấy tờ mà ty chức tìm thấy trong ngăn kéo. Ty chức cứ nghĩ là Tô đại nhân hơi bất cẩn khi để dấu triện cá nhân nằm vất vưởng trong ngăn kéo mà không khóa lại. Theo lệ thường thì người ta luôn mang theo con dấu bên người mình.”
“Đúng vậy,” Địch Công nói. Ông đứng lên và nói thêm, “Ta không cần thiết phải tra xét gói đồ còn lại. Chúng ta hãy đi xem liệu Phương Đô úy đã nghị sự xong chưa nào.”
Hai tên lính gác, đang đứng canh bên ngoài cửa chính sảnh của hội đồng tham quân, thông báo rằng cuộc nghị sự mới vừa kết thúc và họ sẽ mau chóng dâng trà. Địch Công không nhiều lời, đi lướt qua họ.
Phương Đô úy đang an tọa tại chiếc bàn chính ở giữa gian phòng. Phía chiếc bàn kê sát tường bên trái y là Thi Thương tào ngồi cùng với một quan viên khác mà Địch Công không quen biết. Tại chiếc bàn bên phía còn lại có hai quan viên phẩm hàm cao đang ngồi, còn Cao Hỏa trưởng thì đang sắp xếp một đống giấy tờ trên
một chiếc bàn nhỏ tách biệt; rõ là y đã ghi chép lại quá trình nghị sự. Tất cả đều đứng dậy khỏi ghế khi họ trông thấy Huyện lệnh tiến vào. “Xin thứ lỗi cho sự mạo phạm này,” Địch Công điềm tĩnh nói khi ông sải bước tiến đến bàn của Đô úy. “Ta đến để trình báo những phát hiện của mình liên quan đến vụ án mạng Quả nghị Đô úy Tô Văn Hổ. Ta cho là các vị quan nhân đang tề tựu ở đây đủ tạo thành số đại diện cần thiết cho một phiên quân sự pháp đình, có đúng không?”
“Nếu ngài tính luôn cả Mao Binh tào ở đằng kia, thì đúng là vậy đó,” Phương Minh Liêm chậm rãi đáp.
“Tốt lắm! Xin hãy cho áp giải Mạnh Hiệu úy vào đây, như thế thì chúng ta sẽ có thể tổ chức một buổi thăng đường như thường lệ của phiên quân sự pháp đình.”
Đô úy truyền lệnh cho phụ tá, đoạn y kéo một cái ghế lại gần bàn của mình rồi mời Địch Công ngồi xuống bên cạnh. Mã Vinh và Kiều Thái đi đến đứng đằng sau ghế của chủ nhân mình.
Hai lính hầu bưng vài cái khay đi vào. Tất cả cùng dùng trà trong im lặng.
Rồi cánh cửa lại mở ra. Bốn chấp pháp vệ được vũ trang đầy đủ vây xung quanh Mạnh Hiệu úy tiến vào. Họ Mạnh bước đến gần chiếc bàn trung tâm và kính cẩn hành lễ.
Đô úy hắng giọng. “Hôm nay chúng ta được triệu tập để lắng nghe báo cáo của Địch Huyện lệnh, và để quyết định xem báo cáo được trình bày có đòi hỏi cần phải tra xét lại vụ án của Hiệu úy Mạnh Quốc Thái - kẻ đã bị phán tội cố sát Quả nghị Đô úy Tô Văn Hổ của quân trại này hay không. Bản tướng yêu cầu Địch Huyện lệnh bắt đầu báo cáo.”
“Động cơ của vụ sát nhân này,” Địch Công bắt đầu với một giọng điệu đều đều, “là để ngăn chặn Quả nghị Đô úy đại nhân khởi sự điều tra một vụ gian trá ma mãnh, trong đó tên tội phạm mong muốn biển thủ được một lượng kim ngân lớn.
Ta phải nhắc lại cho các ngài nghe về công vụ thường nhật liên quan đến những yêu cầu mua sắm quân nhu cần thiết cho quân trại này. Sau khi một đề xuất được Đô úy và hội đồng tham quân phê duyệt, một Lục sự sẽ soạn ra thành văn thư chính thức rồi chuyển đến Quả nghị Đô úy, là người sẽ kiểm tra nội dung và đóng dấu triện lên mỗi tờ giấy. Sau đó, ông ấy sẽ chuyển giao giấy tờ đó cho Đô úy để kiểm tra lại và đóng triện lên trang cuối cùng. Sau khi đã sao chép đủ số lượng theo quy định, thì bản chính sẽ được đặt vào trong một phong thư đề nơi đến là Bộ Binh ở kinh thành, được niêm phong lại và chuyển đi qua mã quân truyền thư.”
Địch Công nhấp một ngụm trà, đoạn nói tiếp, “Hệ thống này chỉ có một lỗ hổng pháp lý. Nếu văn thư có nhiều hơn một tờ, thì một kẻ gian trá có khả năng tiếp cận với thư từ công vụ sẽ có thể thủ tiêu mọi tờ giấy trừ tờ cuối cùng có in dấu triện của Đô úy, tráo đổi những tờ giả mạo rồi sau đó gửi văn thư về kinh thành, bao gồm cả trang giấy cuối đã được xác thực.”
“Không thể nào!” Phương Đô úy ngắt lời. “Những tờ khác buộc phải có dấu triện của Quả nghị Đô úy chứ!”
“Đó là nguyên do khiến ông ấy bị sát hại!” Địch Công nói. “Hung thủ đã trộm dấu triện của Quả nghị Đô úy, và bị ông ta phát hiện. Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào việc đó, đầu tiên bản quan sẽ diễn giải làm thế nào mà sự tận tâm đáng ca ngợi đối với công vụ thường nhật của một Lục sự ở nơi này đã giúp ta lần theo được dấu vết của hung thủ.
Ba ngày trước, một yêu cầu thăng chức cho bốn Hỏa trưởng đã tạo cơ hội cho hung thủ. Lời đề bạt được viết ra thành bản chính thức, gồm hai tờ giấy. Tờ thứ nhất bao gồm nội dung yêu cầu cùng với danh tính, tuổi tác... của bốn nhân vật liên quan. Tờ thứ hai chỉ có lời tiến cử của ngài Đô úy mong được mau chóng chuẩn y - nói theo ngôn ngữ đại khái thôi, phiền ngài! - ngày tháng và số hiệu hồ sơ, nhân cho nhân sự và con số tứ linh tứ. Tờ đầu tiên có dấu triện của Quả nghị Đô úy, còn tờ thứ hai có dấu triện của Đô úy.
Hung thủ đoạt được giấy tờ ấy khi nó đang trên đường đến bộ phận truyền thư. Hắn đã thủ tiêu tờ thứ nhất và tráo nó bằng một tờ giả mạo khác mà trên đó hắn đã viết một lời yêu cầu cần kíp về việc mua ba thuyền buồm từ hai thương nhân Cao Câu Ly họ Phác và họ Doãn, chúng kể rằng Bộ Binh sắp sửa chi trả ngân lượng theo đúng giá mua hàng - một gia tài kếch xù! Sau khi kẻ thủ ác đã đóng con dấu trộm được từ Quả nghị Đô úy lên tờ giấy giả mạo ấy, hắn tự mình đặt nó vào một phong thư và đề địa chỉ gửi thư: Bộ Binh, Bộ phận Cung ứng quân nhu. Cuối cùng, hắn đề ở góc phong thư số hiệu của văn thư, cụ thể là Nhân - Tứ linh tứ, theo như quy định. Hắn trao phong thư đã được dán kín cho viên Lục sự truyền thư, còn những bản sao thêm của bức thư gốc về yêu cầu thăng cấp cho bốn Hỏa trưởng thì hắn đã tự mình cất vào văn khố. Do không quen với những quy định mới trong việc phân phối thư tín, nên hắn đã bỏ sót để cho một trong số những bản sao được chuyển đến huyện nha.
Bây giờ chúng ta thấy thật ngẫu nhiên là viên Lục sự tùng gửi bức thư đã phong kín được đánh dấu Nhân - Tứ linh tứ, cũng đồng thời nhận được bức thư khác có số hiệu Nhân - Tứ linh ngũ bao gồm yêu cầu mua sắm đồ da ngay trong ngày hôm đó. Y nhớ ra hai
chữ nhân, ký hiệu cho thương nhân và nhân sự, đôi lúc làm nảy sinh sự nhầm lẫn trong văn khố. Do thế, là một quan viên hành chính tốt, y đã thêm vào số hiệu Nhân - Tứ linh ngữ ấy một dòng ghi chú rằng: ‘Tham khảo Nhân - Tứ linh tứ; vì mặc dù không xem công văn Nhân - Tứ linh tứ, nhưng y nhớ rằng Bộ phận Cung ứng đã được đề cập đến trên phong thư. Viên Lục sự đã phân phối chính xác những bản sao của Nhân - Tứ linh tứ, bao gồm cả một bản sao thêm gửi cho bản quan. Thế nhưng lúc kiểm tra hồ sơ Thương nhân của mình, thì ta lại phát hiện Nhân - Tứ linh tứ bị thất lạc. Điều đó khiến ta khó chịu, vì ta tin rằng mình đã lưu trữ các hồ sơ đầy đủ. Do vậy, ta đã yêu cầu Đô úy đại nhân cho ta thêm một bản sao khác. Ông ấy đã trao cho ta một lá thư liên quan đến việc thăng chức của bốn Hỏa trưởng thành ra lại thuộc về Nhân sự’.”
Đô úy, đang nôn nóng ngồi nhấp nhổm không yên trên ghế, giờ thốt lên, “Ông không thể lướt qua mọi chi tiết đó được à? Tất cả những chuyện vô nghĩa về ba chiến thuyền là gì vậy?”
“Hung thủ,” Địch Công điềm tĩnh đáp, “đã câu kết với hai thương nhân họ Phác và họ Doãn. Sau khi nhận được ngân lượng ở kinh thành cho vụ mua bán tưởng tượng này, bọn chúng dự định ăn chia với hung thủ. Do sẽ mất nhiều tuần trước khi các cuộc kiểm tra theo thông lệ của Bộ Binh lật tẩy sự thiếu nhất quán trong các báo cáo của Đô úy đại nhân về số lượng quân nhu nhận được, nên hung thủ có nhiều thời gian để chuẩn bị lẩn trốn sự trừng phạt của vương pháp, cao chạy xa bay với số ngân lượng ấy.
Thật là một mưu đồ lưỡng toàn, nhưng lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt. Vào đêm trước vụ án mạng, Mạnh Hiệu úy cùng hai vị thủ hạ của ta đã hội ngộ hai gã thương nhân Cao Câu Ly trong thành và họ chè chén say sưa với nhau. Hai gã thương nhân ấy cứ
ngỡ người là mấy tên thổ phỉ, nên đã kể vài chuyện về mấy chiếc thuyền buồm và số ngân lượng mà bọn chúng sắp sửa thu được ở kinh thành. Các trợ thủ của ta đã bẩm báo lại việc đó, thế là ta đã suy ra được cái kết luận vững như bàn thạch này. Tuy nhiên, khi Mạnh Quốc Thái trở về quân trại, y đã khoác lác với đội trưởng đội lính gác về sự hào phóng của hai gã họ Phác và họ Doãn, cùng nhiều điều khác nữa. Kẻ thủ ác nghe trộm được chuyện đó và tưởng lầm rằng họ Mạnh đã biết quá nhiều, điều đó đã khiến hắn kiên định hơn với kế hoạch biến họ Mạnh thành một con dê tế thần, một kẻ gánh tội thay. Vào sáng hôm sau, khi tên tội phạm biết được Mạnh Quốc Thái bị khó ở do say rượu và quyết định không đi lên võ khố, hắn đã gửi cho y một lời nhắn giả mạo, trên đó đóng dấu triện của Quả nghị Đô úy mà hắn vẫn đang giữ.”
“Ta không cần biết tất cả những chuyện đó!” Đô úy gắt gỏng quát lên. “Điều mà ta muốn biết chính là: ai đã bắn chết Quả nghị Đô úy Tô Văn Hổ, và bằng cách nào?”
“Được thôi!” Địch Công nói. “Chính Thương tào Thi Thành Long đã hạ sát Tô đại nhân.”
Không gian chìm trong im lặng. Rồi Đô úy giận dữ cất giọng: “Hoàn toàn không thể! Cao Hỏa trưởng đã trông thấy Thi Thương tào tiến vào rồi rời khỏi phòng của Quả nghị Đô úy Tô Văn Hổ, thậm chí y còn không đến gần trường kỷ của họ Tô nữa!”
Địch Công điềm đạm nói tiếp, “Thi Thương tào đi lên phòng của Quả nghị Đô úy đại nhân vào thời điểm trước giữa giờ Mùi một chút, ngay sau buổi thao luyện leo tường. Có nghĩa là hắn chỉ mặc độc một bộ tiết khố, và đi chân trần. Hắn không thể đem theo bất kỳ loại vũ khí nào, vả lại hắn cũng không cần phải mang theo. Bởi vì hắn biết Tô đại nhân có thói quen quẳng bao tên của mình vào trong hốc
cửa sổ, và kế hoạch của hắn là chộp lấy một mũi tên rồi đâm chết Tô đại nhân khi ông ta đang ngủ.”
“Thế nhưng, lúc Thi Thành Long bước vào thì lại trông thấy Tô đại nhân đã thức giấc. Ông ta mang ủng và đang đứng trước trường kỷ, lại mặc bộ giáp ngoài. Vì thế, Thi Thành Long không thể đâm chết Tô đại nhân theo kế hoạch đã trù tính. Nhưng rồi hung thủ nhìn thấy một mũi tên rơi ra khỏi bao đựng và nằm lay lắt trên sàn nhà chĩa về phía Tô đại nhân. Thi Thành Long giẫm lên nó, dùng ngón chân cái và ngón chân trỏ kẹp lấy mũi tên, và với một cú đá đầy mãnh lực đã phóng nó bay thẳng vào phần bụng không được bảo hộ của Tô đại nhân. Cùng lúc ấy, hắn diễn trò cho họ Mạnh xem, phòng khi y đang nhìn ra ngoài cửa sổ võ khố; hắn vẫy tay và bắt đầu hét toáng lên - nhằm át đi những tiếng kêu la của nạn nhân khi Tô đại nhân ngã ngửa xuống trường kỷ. Khi chắc chắn nạn nhân đã tử vong, hắn đi ra ngoài và gọi lính canh. Sau đó, lúc trở lại phòng cùng Phương Đô úy và Mao Binh tào, hắn nhét dấu triện của Quả nghị Đô úy vào trong ngăn kéo của án thư giữa lúc tình hình xung quanh đang hỗn loạn. Chuyện đã được xử lý gọn ghẽ; nhưng hắn đã coi nhẹ duy chỉ một việc, cụ thể là người chết sẽ bị phát hiện là vẫn còn mang ủng. Điều đó gợi ý cho ta rằng Tô Văn Hổ không bị sát hại trong khi ngủ. Việc ông ta mặc nguyên bộ giáp trên người trong khi chợp mắt cũng là chuyện dễ hiểu, vì việc cởi nó ra cũng khá mệt. Nhưng ông ta đã ném mũ sắt lên án thư, và hẳn là ông ta cũng phải cởi ủng ra trước khi nằm xuống.”
Địch Công ngừng lại. Bây giờ, mọi con mắt đều đổ dồn lên Thi Thương tào. Hắn trao cho Địch Công một ánh nhìn khinh khỉnh và hỏi với vẻ nhạo báng:
“Vậy ngài định chứng minh cho cái giả thuyết kỳ lạ ấy như thế
nào?”
“Ngay lúc này,” Địch Công bình thản đáp, “bằng sự thật là ngươi có một vết xước tệ hại ở đầu ngón cái của bàn chân phải. Do ở chỗ mũi tên nằm lúc ấy, có cạnh sắc của một đầu đinh nhô lên từ các tấm ván sàn. Đầu đinh làm rách dải băng đỏ quấn quanh cán tên lúc ngươi đá nó lên, và đồng thời cũng làm cho ngón chân ngươi bị trầy xước. Những vết máu nhỏ tạo thành đốm nâu. Bằng chứng cuối cùng lát sau sẽ có mặt ở đây, khi họ Phác và họ Doãn bị bắt giữ, và cả văn thư giả mạo bị phát hiện ra ở Bộ Binh.”
Gương mặt Thi Thành Long trở nên tím tái, môi hắn co rúm lại. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh và cất giọng bình thản, “Ngài không cần phải đợi đâu. Chính ta đã giết chết Tô Văn Hổ. Thi mỗ nợ nần chồng chất và rất cần ngân lượng. Trong vòng mười ngày tới, ta sẽ cáo ốm xin nghỉ, và không bao giờ quay trở lại nữa. Ta không có ý định giết họ Tô. Ta đã hy vọng vật có thể về cố chủ bằng cách để lại ấn triện trên án thư của hắn. Vậy mà hắn lại phát hiện việc ấn triện mất tích quá sớm, thế nên ta quyết định phải tiên hạ thủ vi cường, dùng mũi tên đâm chết họ Tô lúc hắn đang ngủ. Nhưng lúc đi vào thì ta lại thấy hắn đã thức dậy, rời giường và đang đi tới lui. Hắn quát vào mặt ta, ‘Bây giờ ta đã xác thực được nghi ngờ của mình, chính ngươi đã trộm ấn triện của ta!’ Ta nghĩ mình thất bại rồi, vì việc giải quyết họ Tô chỉ bằng một mũi tên là một vấn đề khó khăn, và nếu họ Mạnh ngó ra ngoài cửa sổ thì y sẽ nhìn thấy trận xung đột của bọn ta. Rồi ánh mắt của ta chạm phải mũi tên đang nằm lay lắt trên sàn nhà, và ta đã đá tung nó lên phóng vào bụng của họ Tô.”
Hắn lau mồ hôi trên trán và kết lại rằng, “Thi Thành Long này chết không hối tiếc, vì Tô Văn Hổ là một tên khốn ti tiện. Mạnh huynh đệ, ta hối hận đã khiến ngươi thành kẻ chịu tội thay, nhưng cũng chẳng
thể làm được gì khác. Đó là tất cả câu chuyện!”
Đô úy đứng dậy. “Hãy giao nộp kiếm của ngươi, Thi Thành Long!” Khi họ Thi tháo sợi đai đeo kiếm của mình, hắn nói với Huyện lệnh vẻ chua chát, “Ông là một tay cáo già! Làm thế nào ông lần ra vết tích của ta?”
Địch Công nghiêm nghị đáp lời, “Chủ yếu nhờ thói quan liêu đó!”
Vũ dạ án
Thanh quan rời chốn kinh thành
Xuôi về tiểu huyện vô danh ẩn mình.
Hoàng Kim phá án tài tình
Địch đem tài trí dựng hình nước non.
Ngày xưa chân cứng đá mòn
Giờ đây bó gối đâu còn chí trai?
Bỗng đâu Vũ Thánh tác oai
Oan khiên một kẻ, nặng vai một người...
-Tùng Vũ
Câu chuyện thứ ba cũng lấy bối cảnh ở huyện Bồng Lai khoảng nửa năm sau. Trong thời gian đó, hai phu nhân của Địch Công và nhi tử của họ đã đến Bồng Lai, an cư tại tư gia của Huyện lệnh tọa lạc ở phía sau nha phủ. Ngay sau đó, Tào thị đã tới sống cùng Địch gia. Hồi 15 của tập Hoàng kim án đã mô tả chi tiết chuyện Địch Công giải cứu Tào thị khỏi một tình huống khủng khiếp. Khi Đại phu nhân của Địch Công gặp Tào thị, bà nhanh chóng quý mến nàng và trở thành bằng hữu tâm giao. Sau đó, vào một ngày mưa giữa thời điểm oi bức nhất mùa hè, đã xảy ra một vụ án kỳ lạ liên quan đến câu chuyện dưới đây.
“C
ái rương này cũng chẳng được nốt!”
Đại phu nhân bình phẩm vẻ ghê tởm. “Nhìn mốc xám ăn dọc theo
đường may của chiếc váy màu xanh này!” Bà đóng sầm nắp rương quần áo bằng da màu đỏ, đoạn quay sang Nhị phu nhân. “Tỷ chưa bao giờ thấy một mùa hè nóng nực, oi bức như thế này. Cả trận mưa lớn như trút nước đêm qua nữa! Tưởng chừng mưa sẽ không bao giờ ngừng. Giúp tỷ một tay, được chứ?”
Địch Công đang ngồi ở bàn uống trà cạnh cửa sổ mở toang của gian phòng ngủ rộng lớn, không tham gia vào công việc nhưng vẫn ngắm nhìn hai phu nhân của mình đặt rương quần áo xuống sàn nhà, rồi nhìn sang người thứ ba đang đứng giữa đống quần áo đó. Tào tiểu thư, bằng hữu và là tri kỷ tâm giao của Đại phu nhân, đang hong khô những chiếc áo choàng trên lò than bằng đồng thau nằm trong góc, phủ chúng lên tấm vỉ đồng bên trên những cục than hồng sáng rực. Sức nóng của lò than cùng hơi nước bốc lên từ quần áo đang hong khô khiến bầu không khí trong phòng gần như ngột ngạt không thể chịu nổi, nhưng ba nữ nhân dường như không cảm nhận được gì cả.
Thở dài, ông quay lưng lại và nhìn ra bên ngoài. Từ phòng ngủ ở tầng hai của dinh thự, Địch Công luôn có được tầm nhìn đẹp để phóng tầm mắt ngắm ra những mái nhà cong cong trong thành, nhưng bây giờ mọi thứ đều bị bao phủ trong một màn sương mù dày đặc, xám xịt như chì làm che mờ hết tất cả những đường nét của cảnh vật. Sương mù dường như đã ăn vào máu thịt, nở ra co lại phập phù theo nhịp đập huyết quản của ông. Giờ đây, trong thâm tâm ông rất hối tiếc về cơn bốc đồng đã khiến ông muốn có tấm trường bào xám chuyên mặc vào mùa hè. Yêu cầu đó đã khiến Đại phu nhân kiểm tra bốn rương quần áo, và bà phát hiện ra vải đã bị mốc. Bà ngay lập tức triệu hồi Nhị phu nhân và Tào tiểu thư. Bây giờ cả ba đang mải mê lao vào công việc của mình, rõ là không thiết gì
đến trà sáng, và quên luôn cả bữa điểm tâm. Đây là lần đầu tiên họ trải qua tiết Đại thử ở Bồng Lai, do chỉ mới có bảy tháng kể từ ngày Địch Công bắt đầu nhậm chức Huyện lệnh ở chốn này. Ông duỗi thẳng chân, bởi đầu gối và bàn chân ông đã cảm thấy ê ẩm, sưng phồng lên. Tào tiểu thư ngừng lại và nhấc chiếc váy trắng khỏi lò than.
“Cái này đã khô hoàn toàn,” nàng thông báo. Khi Tào thị kiễng chân để treo nó lên giá, Địch Công nhận ra thân hình mảnh mai, cân đối của nàng. Đột nhiên ông hỏi Đại phu nhân, “Nàng không thể để tất cả việc này cho các nữ tì làm à?”
“Tất nhiên là được,” bà ngoảnh lại và trả lời. “Nhưng trước tiên thiếp muốn tự mình xem có bị hư hỏng gì không. Trời ơi, hãy nhìn cái áo choàng màu đỏ này đi, tiểu muội!” Bà quay sang phía Tào tiểu thư. “Mốc đã hoàn toàn ăn vào sợi vải! Mà muội luôn khen tỷ mặc chiếc váy này trông rất vừa vặn và xinh đẹp!”
Thình lình, Địch Công đứng bật dậy. Mùi huân hương và son phấn nhàn nhạt trộn lẫn với mùi quần áo ẩm ướt phảng phất đâu đây đã mang đến cho gian phòng nóng nực một bầu không khí ngập tràn hương vị nữ tính, đột nhiên gây khó chịu cho tâm trạng vốn dĩ đã căng thẳng của ông. “Ta đi ra ngoài tản bộ một chút nhé,” ông nói.
“Trước khi phu quân dùng trà buổi sớm sao?” Đại phu nhân hỏi. Nhưng đôi mắt của bà vẫn không rời khỏi những vết bạc màu trên chiếc váy đỏ trong tay mình.
“Ta sẽ quay lại dùng điểm tâm sau,” Địch Công lẩm bẩm. “Hãy đưa cho ta tấm trường bào màu lam đằng kia đi!” Tào tiểu thư giúp Nhị phu nhân khoác trường bào lên vai Địch Công và hỏi đầy vẻ quan tâm, “Y phục này chẳng phải là hơi quá dày trong thời tiết nóng
nực hay sao?”
“Ít nhất thì nó cũng khô ráo,” ông nói cộc lốc. Cùng lúc đó, Địch Công thất vọng nhận ra Tào thị đã hoàn toàn đúng, lớp vải dày bám chặt vào tấm lưng ẩm ướt của ông như một bộ giáp kim loại đan khít. Ông lẩm bẩm một câu từ biệt và đi xuống cầu thang.
Địch Công nhanh chóng bước qua hành lang lờ mờ tối dẫn đến cánh cửa sau nhỏ bé của nha phủ. Ông mừng vì lão bằng hữu lâu năm và cũng là vị quân sư tin cẩn của mình, Hồng Sư gia vẫn chưa xuất hiện. Sư gia tường tận tâm ý của ông tới mức lão sẽ ngay lập tức cảm nhận được tâm trạng tồi tệ lúc này của Địch Công, và lão sẽ thắc mắc về tất cả những gì đã xảy ra.
Địch Công mở cánh cửa sau bằng chìa khóa riêng của mình và bước ra con phố hoang vắng, ẩm ướt. Tất cả chuyện này là gì, thực sự là gì? Ông tự hỏi mình khi xuyên qua màn sương ướt đẫm tiến về phía trước. Ôi, bảy tháng đầu tiên ông rời triều đình về nhậm chức tại địa phương thật đáng thất vọng, dĩ nhiên rồi. Vài ngày đầu rất thú vị, rồi xảy ra vụ sát hại Hồ phu nhân, và vụ án mạng ở quân trại. Nhưng sau đó thì chẳng còn gì để làm ngoài mấy công vụ thường nhật chán ngắt, khiến Địch Công chẳng thể nào vui nổi: những mẫu đơn phải điền, tài liệu cần sắp xếp, giấy phép cấp cho bách tính... Ở kinh thành, Địch Công cũng từng phải làm nhiều công việc giấy tờ, nhưng tất thảy đều là những chuyện quan trọng. Hơn nữa, huyện này không thực sự đặt dưới quyền cai quản của ông. Toàn bộ khu vực tính từ phía Bắc sông là vùng chiến lược, thuộc quyền sinh quyền sát của quân đội. Và khu phố Cao Câu Ly bên ngoài cổng Đông thành cũng có quyền tự trị riêng. Ông giận dữ đá một hòn cuội, rồi bật ra một tiếng chửi thề. Cái thứ trông giống hòn cuội kia thực ra lại là phần chóp của một tảng đá lát đường, và ngón
chân ông cực kỳ đau đớn. Ông phải đưa ra quyết định về Tào tiểu thư. Đêm hôm trước, khi đang cùng nhau ái ân mặn nồng trên chiếc trường kỷ uyên ương, Đại phu nhân lại lần nữa thúc giục ông lập Tào thị làm Tam phu nhân. Bà và Nhị phu nhân đều cảm mến Tào thị, bà đã nói thế, còn chính bản thân Tào tiểu thư cũng chẳng mong mỏi gì hơn. “Bên cạnh đó,” với sự bộc trực thường thấy, Đại phu nhân nói thêm, “nhị muội là một nữ nhân tốt nhưng muội ấy không phải là con nhà gia giáo, và nếu có được một nữ nhân thông minh, học cao hiểu rộng như Tào tiểu thư ở đây sẽ khiến cuộc sống của mọi người đều trở nên tốt đẹp hơn.” Nhưng nếu như Tào thị chỉ muốn lấy thân báo đáp vì Địch Công đã cứu nàng thoát khỏi vũng bùn lầy của số phận? Một mặt, chuyện sẽ dễ dàng hơn nếu ông không thích nàng nhiều đến vậy. Mặt khác, có công bằng không khi kết hôn với một nữ nhân mà mình không thực sự yêu mến? Là một Huyện lệnh, ông được quyền có bốn thê thiếp, nhưng cá nhân ông giữ quan điểm rằng hai nữ nhân quán xuyến gia đình đã là đủ, trừ khi họ đều không thể sinh hạ hài tử để hương khói mai sau cho Địch gia. Thật khó nghĩ và khiến người ta bối rối. Ông kéo áo choàng sát thân mình hơn, vì trời đã bắt đầu mưa rả rích.
Ông thở phào khuây khỏa khi nhìn thấy những bậc thang rộng đưa lối lên đến miếu Khổng Tử. Tầng thứ ba của ngôi tháp phía Tây đã được chuyển đổi thành một trà lâu nhỏ. Địch Công sẽ dùng trà sáng ở đó, rồi quay trở lại nha phủ.
Trong gian phòng hình bát giác trần thấp, một tiểu nhị ăn mặc nhếch nhác đang dựa lưng vào quầy thu ngân, cời củi cho bếp trà bé tẹo cháy to hơn bằng cái kẹp sắt. Địch Công hài lòng nhận thấy tiểu tử kia không nhận ra mình, vì ông không có tâm trạng để đón nhận sự cung kính nhã nhặn của kẻ khác vào lúc này. Ông gọi một
ấm trà, một chiếc khăn khô và ngồi xuống chiếc bàn trúc đặt trước quầy.
Tiểu nhị trao cho ông một chiếc khăn lau không mấy sạch sẽ đặt trong cái giỏ trúc. “Vị khách quan này, xin chờ một chút. Nước sắp sôi rồi.” Sau khi Địch Công lau khô bộ râu dài bằng chiếc khăn, tiểu nhị tiếp tục, “Khách quan dậy sớm thế này, chắc là đã nghe nói về chuyện mới phát sinh ngoài kia chứ.” Y chỉ ngón tay cái vào cánh cửa sổ đang mở tung, và khi Địch Công lắc đầu, y hí hửng tiếp tục, “Đêm qua, một kẻ đã bị băm thành nhiều mảnh tại tòa tháp canh bỏ hoang ngoài đầm lầy.”
Địch Công mau chóng đặt chiếc khăn xuống.
“Một vụ án mạng ư? Làm sao ngươi biết?”
“Tiểu tử bán tạp hóa kể cho ta nghe, thưa ngài. Y đến đây để giao hàng lúc ta đang cọ sàn. Khi bình minh, nó đã đến tháp canh để thu mua trứng vịt của nha đầu ngốc sống trên đó, và y đã trông thấy đống hỗn độn ấy. Nha đầu kia thì đang ngồi thu lu một góc và khóc. Chạy vội trở lại thành, tiểu tử đó đã bẩm báo sự việc với chấp pháp vệ ở đồn gác, sau đó Đội chính liền đi tới tòa tháp cổ cùng với vài thuộc hạ. Nhìn kìa, họ ở kia!”
Địch Công đứng dậy và đến bên cửa sổ. Từ vị trí quan sát thuận lợi này, ông có thể nhìn thấy qua đầu tường thành lởm chởm lỗ châu mai là một khoảng không gian xanh mướt mênh mông của vùng đầm lầy um tùm lau sậy, và xa hơn về phía Bắc, trong vùng sương mù, là màu nước xám xịt của dòng sông chảy lượn lờ. Một con đường lát đá đi từ bến tàu ở phía Bắc thành hướng thẳng tới tòa tháp bằng gạch, vốn đã bị thời tiết hủy hoại, trơ trọi đứng giữa đầm lầy. Vài chấp pháp vệ đội mũ sắt chóp nhọn đang đi tuần trên con đường dẫn tới đồn gác đứng bơ vơ giữa tòa tháp và bến tàu.
“Có phải nam nhân bị sát hại là một binh sĩ không?” Địch Công hỏi nhanh. Mặc dù khu vực Bắc thành thuộc thẩm quyền của quân đội, nhưng bất kỳ tội ác nào liên quan đến thường dân đều phải được chuyển đến cho nha phủ.
“Có lẽ vậy. Nha đầu ngốc đó bị câm điếc, nhưng cũng có chút nhan sắc. Có thể là một tên lính đã đi lên tháp để tâm sự với ả, nếu khách quan hiểu ý ta. A, nước sôi rồi!”
Địch Công căng mắt ra nhìn. Bấy giờ hai chấp pháp vệ đang cưỡi ngựa đi từ đồn gác vào thành, những con ngựa của họ bắn nước tung tóe làm ngập hết một phần con đường vốn được đắp nổi lên.
“Trà của ngài đây, thưa khách quan! Cẩn thận, chén rất nóng. Ta sẽ để nó ở đây, trên bậu cửa cho ngài. Không, nghĩ lại thì kẻ bị giết không phải binh sĩ đâu. Tiểu tử bán tạp hóa nói rằng nạn nhân là một lão thương nhân đang sống gần cổng Bắc thành - y từng nhìn thấy lão nhưng không rõ danh tính. À, chấp pháp đội sẽ nhanh chóng tóm được kẻ sát nhân thôi. Họ rất cứng rắn và bền bỉ mà!” Y hào hứng thúc khuỷu tay vào Địch Công. “Ngài đây rồi! Ta vừa nói với ngài rằng họ rất bền bỉ phải không? Ngài có thấy kẻ đang bị xiềng xích mà họ đang kéo lê từ đồn gác về không? Hắn mặc y phục màu nâu của ngư dân. Ôi, bây giờ họ sẽ giải hắn đến quân trại, và.. .”
“Họ sẽ chẳng làm được như thế đâu!” Địch Công giận dữ cắt ngang. Ông vội vã nhấp một ngụm trà đến nỗi làm bỏng miệng mình. Ông chi trả ngân lượng và lao xuống tầng dưới. Một thường dân sát hại một thường dân khác, đó rõ ràng là một vụ án của huyện nha! Đây là dịp tốt để nói cho quân trại biết chính xác đâu là điểm dừng của họ! Một lần và mãi mãi.
Tất cả sự thờ ơ đã dần tiêu tan trong ông. Địch Công thuê một
con ngựa của gã thợ rèn ở góc phố, nhảy lên yên và giục vó buông cương thẳng tiến cổng Bắc thành. Các tuần đinh ném cái nhìn kinh ngạc về phía kỵ sĩ nhếch nhác với chiếc mũ đội xệ trên đầu. Nhưng rồi họ nhận ra Huyện lệnh của mình và nhanh chóng dàn đội hình xếp ngay hàng thẳng lối. Địch Công xuống ngựa và ra hiệu cho trương tuần đi theo ông vào đồn gác bên cạnh cổng thành. “Sự hỗn loạn xảy ra ở ngoài đầm lầy kia là chuyện gì vậy?,” ông hỏi.
“Một nam nhân được phát hiện đã bị sát hại trong tòa tháp canh bỏ hoang, thưa đại nhân. Chấp pháp quân đã bắt giữ hung thủ rồi; giờ họ đang thẩm vấn hắn trong đồn gác. Thuộc hạ đang chờ họ xuống bến tàu.”
Địch Công ngồi xuống chiếc trường kỷ bằng trúc và trao cho trương tuần vài đồng bạc. “Bảo người của ngươi đi mua cho ta hai chiếc bánh khô dầu!”
Những chiếc bánh khô dầu mới ra lò dậy mùi hành tỏi thơm phức, nhưng Địch Công không thấy ngon mấy, mặc dù ông đang đói. Trà nóng đã làm bỏng lưỡi ông, còn đầu óc của ông đang bận bịu vì sự lạm dụng quyền lực của bộ máy quân sự. Ông phiền muộn ngẫm nghĩ rằng ở chốn kinh thành, người ta không phải đối mặt với những vấn đề khó chịu như vậy. Nơi đó, các điều luật chi tiết ấn định chính xác phạm vi thẩm quyền của mỗi chức vụ, dù phẩm hàm là cao hay thấp. Khi ông vừa ăn xong bánh khô dầu thì trương tuần bước vào.
“Chấp pháp đội đang áp giải phạm nhân đến đồn gác của họ trên bến tàu, thưa đại nhân.”
Địch Công bật dậy. “Dẫn bốn nam nhân đi theo ta!”
Tại bến tàu trên sông, một làn gió nhẹ hiu hiu đang xua tan màn sương mù. Trường bào của Địch Công ẩm ướt bết chặt vào vai ông. “Đây đúng là loại thời tiết dễ khiến người ta bị phong hàn,” ông lẩm
bẩm. Một tên lính gác mặc nhung y võ phục gọn gàng dẫn ông vào gian tiền sảnh trống trải của đồn gác.
Ở phía sau, một nam nhân cao lớn, mặc giáp trụ đan kết bằng kim loại, đầu đội chiếc mũ chóp nhọn của chấp pháp vệ, đang ngồi đằng sau chiếc án thư bằng gỗ sần sùi. Gã miệt mài viết một mẫu đơn công vụ, cây bút lông đưa lên những nét chữ chậm chạp.
“Ta là Huyện lệnh Địch Nhân Kiệt,” ông bắt đầu lên tiếng. “Ta yêu cầu được biết...” Đột nhiên ông khựng lại. Đội chính đã ngước nhìn lên. Nổi bật trên khuôn mặt gã là một vết sẹo trắng khủng khiếp chạy dọc theo má trái, ngang qua miệng. Đôi môi méo mó của gã khuất dưới hàng ria mép lởm chởm. Trước khi Địch Công kịp trấn tĩnh lại sau cơn choáng váng này, Đội chính đã đứng dậy. Gã nhã nhặn hành lễ và nói nhanh gọn, dứt khoát:
“Địch Huyện lệnh đến rất đúng lúc. Ty chức vừa hoàn thành bản báo cáo của mình cho ngài.” Chỉ tay vào chiếc cáng được phủ một tấm chăn nằm lay lắt dưới sàn nhà ở góc phòng, gã nói thêm, “Đó là thi thể nạn nhân, còn hung thủ đang bị giam trong hậu thất bên đó. Hắn là một ngư dân, nên theo lệ hẳn là ngài muốn hắn được áp tải đến đại lao của nha phủ?”
“Đúng thế, dĩ nhiên rồi,” Địch Công đáp lời, vẻ không nhiệt thành cho lắm.
“Được lắm.” Đội chính gấp tờ giấy đã viết lại và trao cho Địch Công. “Xin mời đại nhân an tọa. Nếu ngài có một chút rảnh rỗi, ty chức muốn được trực tiếp kể cho ngài nghe về vụ án.”
Địch Công lấy một cái ghế để ngồi xuống cạnh án thư và ra hiệu cho Đội chính cùng an tọa. Vuốt bộ râu dài, ông tự nhủ với bản thân rằng tất cả những điều này hóa ra lại hoàn toàn khác so với những gì mình mong đợi.
“Là thế này,” Đội chính bắt đầu, “ty chức nắm rõ vùng đầm lầy như lòng bàn tay. Nữ nhân câm điếc sống ở tòa tháp này là một kẻ ngốc nghếch và vô hại, vì vậy khi ty chức được báo rằng một nam nhân đã bị sát hại trong phòng của ả, ty chức liền nghĩ ngay tới một vụ hành hung, cướp của và giết người. Ty chức liền cắt cử thuộc hạ của mình đi lục soát quanh vùng đầm lầy giữa tòa tháp và bờ sông.”
“Tại sao chỉ riêng khu vực đó?” Địch Công xen ngang. “Án mạng cũng có thể xảy ra trên đường, phải không? Sau đó, hung thủ mới giấu thi thể vào trong tòa tháp?”
“Không, thưa đại nhân. Đồn gác của ty chức nằm ở giữa đoạn đường từ bến tàu tới tòa tháp cũ. Từ đó, chấp pháp đội luôn được lệnh giám sát con đường suốt cả ngày để ngăn chặn các gian tế Cao Câu Ly ra vào thành. Và bọn họ cũng tuần tra trên đường cả ban đêm. Tiện đây, ty chức xin thưa, đó là con đường độc đạo băng qua đầm lầy. Vùng đất hiểm trở ấy, bất cứ ai cố gắng vượt qua đều có nguy cơ bị sa vào bùn lầy hay cát lún, để rồi sẽ chết đuối. Hiện giờ, chấp pháp đội phát hiện thấy thi thể vẫn còn ấm, nên kết luận nam nhân ấy mới bị sát hại chỉ vài canh giờ trước lúc bình minh. Do không ai băng qua đồn gác ngoài tiểu tử bán tạp hóa, nên theo đó có thể luận ra nạn nhân và hung thủ đều đến từ phía Bắc. Có một lối mòn xuyên qua đám lau sậy từ tòa tháp đến bờ sông, và kẻ quen thuộc địa hình có thể lẻn qua ngả đó mà không bị đám thuộc hạ của ty chức phát giác.” Đội chính vuốt râu, đoạn nói tiếp, “Nếu hắn qua mặt được các đội tuần tra bờ sông thì là vậy đó.”
“Và các thuộc hạ của ông đã bắt được hung thủ ở ven bờ sông?” “Đúng vậy, thưa đại nhân. Bọn họ phát hiện một ngư dân trẻ tuổi, tên là Vương Tam Lang, đang lẩn trốn trên chiếc thuyền nhỏ của mình giữa đám cỏ lau, ngay phía Bắc của tòa tháp. Y đang cố giặt
cái quần vấy máu của mình. Khi người của ty chức gọi y, y lập tức chống sào đẩy thuyền đi xa, cố gắng chèo lái ra giữa dòng sông. Các cung thủ đã bắn vài mũi tên dây cắm vào thuyền của y. Trước khi kịp nhận ra mình đang ở đâu thì y đã bị kéo ngược vào bờ, cả thuyền lẫn người. Kẻ này chối bỏ mọi liên quan với nam nhân đã tử nạn trong tòa tháp, khăng khăng mình đang trên đường mang cho thiếu nữ câm điếc một con cá chép lớn, và máu đã dính lên quần y khi y làm cá. Y đang chờ bình minh để tới thăm nha đầu ấy. Chấp pháp quân đã lục soát người y, và tìm thấy thứ này trong dây đai của y.”
Đội chính mở một gói giấy nhỏ ra trên án thư và cho Huyện lệnh thấy ba lượng bạc sáng loáng. “Chấp pháp đội đã nhận dạng thi thể bằng những tấm bái thiếp.” Gã lắc tay dốc một phong bì lớn ra bàn. Ngoài một xấp bái thiếp, còn có hai chìa khóa, ít bạc lẻ, và một thẻ cầm đồ. Chỉ tay vào tấm thẻ, Đội chính tiếp tục lên tiếng, “Mảnh giấy đó nằm trên sàn nhà, sát ngay nạn nhân. Chắc hẳn nó đã rơi ra từ áo của lão. Nạn nhân là Chung Mộ Kỳ, một chủ một tiệm cầm đồ lớn và khá nổi tiếng ngay bên trong cổng Bắc thành. Đó là một nam nhân giàu có. Sở thích của lão là câu cá. Giả thuyết của ty chức là Chung Mộ Kỳ đã gặp Vương Tam Lang ở đâu đó trên bến tàu vào tối qua, và thuê hắn chèo thuyền đưa mình đi câu cá qua đêm trên sông. Khi họ đến một khu vực hoang vắng ở phía Bắc tòa tháp, họ Vương đã lừa gạt lão già kia vào trong tháp rồi hạ sát lão ta. Y trù tính giấu thi thể ở đâu đó trong tòa tháp vốn đã đổ nát, do nữ nhân kia chỉ sử dụng tầng hai - nhưng ả đã tỉnh dậy và bắt quả tang y giữa chừng. Vì vậy, y chỉ lấy bạc và bỏ đi. Đây chỉ là một giả thuyết, bởi nha đầu đó là nhân chứng vô giá trị. Người của ty chức đã cố khai thác thông tin từ ả, nhưng nữ nhân ấy chỉ viết nguệch ngoạc ra
những từ vô nghĩa, rời rạc về thần mưa và bọn yêu tinh. Sau đó, ả lại nổi cơn điên loạn, bắt đầu vừa cười vừa khóc. Một nữ nhân ngốc nghếch đáng thương, chẳng thể làm hại gì được ai.” Gã đứng dậy, bước về phía chiếc cáng và nhấc tấm chăn lên. “Đây là thi thể nạn nhân.”
Địch Công cúi xuống một thi thể khô quắt gầy còm khoác tấm trường bào màu nâu đơn giản, ngực đọng từng tảng máu đông, ống tay áo phủ đầy bùn khô. Gương mặt trông thật bình an, nhưng vô cùng xấu xí: đầy nếp nhăn như đèn lồng, với cái mũi khoằm hơi lệch, và đôi môi mỏng dính nằm trên cái miệng quá lớn. Đầu lão để trần với mái tóc dài chớm hoa râm.
“Không phải là một bậc trượng phu khôi ngô tuấn tú,” Đội chính nhận xét. “Mặc dù ty chức nên là người cuối cùng đưa ra lời bình phẩm như vậy!” Một cơn co thắt khiến khuôn mặt vốn đã biến dạng của gã càng thêm méo mó. Đội chính nâng bờ vai của thi thể lên và cho Địch Công thấy vết đỏ lớn trên lưng. “Nguyên nhân tử vong là do bị một con dao đâm từ phía sau, chắc hẳn đã xuyên tim. Nạn nhân đang nằm ngửa trên sàn nhà, ngay bên trong cánh cửa phòng của nha đầu.” Đội chính buông phần thân trên của thi thể xuống. “Tên ngư dân đó cũng thật tàn độc. Sau khi hạ sát Chung Mộ Kỳ, y bắt đầu chém lên ngực và bụng của người xấu số thêm nhiều nhát. Ty chức nói là sau khi y sát hại họ Chung, vì như đại nhân đã thấy, những vết thương ở phía trước tuy chém sâu nhưng không chảy máu nhiều. À, còn vật chứng cuối cùng! Suýt chút nữa quên mất!” Gã kéo cái ngăn kéo trong án thư ra và mở một gói hình thuôn bọc giấy dầu. Trao cho Địch Công một con dao dài và mỏng, gã nói, “Thứ này được tìm thấy trong thuyền của Vương Tam Lang, thưa đại nhân. Y nói mình dùng nó để cạo vẩy cá. Không có vết máu trên
đó. Nhưng y đang ở giữa sông, nên hẳn là y đã rửa sạch máu rồi! Thế đó, ấy là chuyện đã xảy ra, thưa đại nhân. Ty chức hy vọng họ Vương sẽ phải tâm phục khẩu phục để cung khai nhận tội. Ty chức biết cái loại tiểu tử lưu manh đó. Ban đầu chúng sẽ ngoan cố phủ nhận tất cả, nhưng sau một hồi thẩm vấn gắt gao, chúng liền suy sụp, không thể kiểm soát được bản thân nữa rồi sẽ phun ra hết thảy. Đại nhân còn ra lệnh gì nữa không ạ?”
“Đầu tiên, ta phải thông báo cho thân bằng quyến thuộc của Chung Mộ Kỳ để họ chính thức nhận dạng thi thể. Vì thế, bản quan...”
“Ty chức đã giải quyết chuyện đó, thưa đại nhân. Chung Mộ Kỳ góa vợ và hai nhi tử của lão đều đang sống ở chốn kinh thành. Thi thể vừa được Lâm Tự Xương chính thức nhận dạng. Hắn là đồng sự của nạn nhân, và cũng sống cùng với lão.”
“Ông và các thủ hạ của mình đã thực hiện công việc rất tuyệt vời,” Địch Công nói. “Hãy nói thủ hạ của ông chuyển giao phạm nhân và thi thể cho các tuần đinh mà bản quan mang theo.” Đứng dậy, Địch Công nói thêm, “Ta thực sự vô cùng cảm kích hành động ứng biến mau lẹ và hiệu quả của ông, Đội chính à. Đây là một vụ án dân sự, ông chỉ cần trình báo án mạng cho huyện nha và ông có thể để nó ở đó. Ông đã vượt ngoài phạm vi chức trách của mình để hỗ trợ bản quan và...”
Đội chính giơ tay lên làm một cử chỉ phản đối và nói với giọng uể oải lạ lùng, “Đó là một niềm vinh hạnh, thưa ngài. Ty chức là một trong những thuộc cấp của Mạnh Hiệu úy. Bọn ta sẽ luôn làm tất cả những gì có thể để tương trợ ngài. Tất cả bọn ta, luôn luôn.”
Cơn co thắt làm biến dạng khuôn mặt méo mó của gã hóa ra là một nụ cười. Địch Công quay trở lại đồn gác ở cổng Bắc thành. Ông
đã quyết định sẽ ngay lập tức thẩm vấn phạm nhân ở đó, rồi tới hiện trường vụ án. Nếu ông chuyển giao cuộc điều tra cho huyện nha, manh mối có thể sẽ không còn mới nữa. Dường như đây là một vụ án khá đơn giản, rạch ròi, nhưng người ta không bao giờ biết được chắc chắn chuyện gì sẽ xảy ra.
Ông ngồi xuống chiếc bàn duy nhất trong tiền sảnh trống trải, nghiên cứu bản báo cáo của Đội chính. Nội dung của nó không khác biệt nhiều so với những gì mà gã vừa thuật với Địch Công. Danh tính đầy đủ của nạn nhân là Chung Mộ Kỳ, năm mươi sáu tuổi, thiếu nữ câm điếc có tên là Hoàng Oanh, tuổi vừa đôi mươi, còn tên ngư dân kia hai mươi hai tuổi. Địch Công lấy xấp bái thiếp và tấm thẻ cầm đồ từ ống tay áo mình ra. Bái thiếp ghi Chung Mộ Kỳ có nguyên quán Sơn Tây. Thẻ cầm đồ là một tờ giấy ghi nợ, được đóng dấu triện lớn màu đỏ của tiệm cầm đồ Chung ký; về bốn tấm trường bào gấm do Bùi thị cầm cố một ngày trước đó để đổi ba lượng bạc, sẽ được chuộc lại trong vòng ba tháng với lãi suất hàng tháng là năm phần trăm.
Trương tuần tiến vào, theo sau là hai lính gác khiêng cáng. “Hãy đặt nó xuống đằng kia, ở trong góc,” Địch Công ra lệnh. “Ngươi có biết nữ nhân câm điếc sống trong tháp canh không? Đội chính chỉ ghi tên của ả là Hoàng Oanh.”
“Vâng, thưa đại nhân, ả được gọi như vậy. Ả vốn là một cô nhi, được một bà lão bán trái cây gần cổng thành nuôi nấng, dạy ả ít chữ và một chút ngôn ngữ ký hiệu. Khi bà lão qua đời cách đây hai năm, nha đầu ấy chuyển đến sống hẳn trong tòa tháp bỏ hoang vì ả luôn bị đám tiểu tử bụi đời quấy rầy. Ả nuôi vịt ở đó và bán trứng. Mọi người gọi tên Hoàng Oanh để chế nhạo ả câm, và biệt danh ấy gắn chặt với ả từ đó.”
“Được rồi. Giải phạm nhân đến trước mặt ta.”
Các tuần đinh quay trở lại, áp giải một thanh niên thấp lùn, thân hình rắn rỏi. Mái tóc rối bù của y xõa xuống hàng lông mày nhăn nhó trên gương mặt ngăm đen giận dữ. Chiếc áo tơi và quần dài màu nâu được vá chằng vá đụp nhiều chỗ một cách vụng về. Hai tay y bị xích lại sau lưng, thêm một vòng dây xích mỏng quấn quanh cái cổ thô lậu trần trụi. Đám lính canh ấn y khuỵu gối quỳ xuống trước mặt Huyện lệnh.
Địch Công trầm ngâm quan sát y một lúc, băn khoăn chọn cách tốt nhất để bắt đầu cuộc thẩm vấn. Chỉ còn tiếng mưa tí tách rơi bên ngoài, và hơi thở nặng nề của phạm nhân. Địch Công lấy ra ba lượng bạc từ ống tay áo của mình.
“Ngươi lấy bạc này ở đâu?”
Tên ngư dân trẻ tuổi lẩm bẩm điều gì đó bằng thứ thổ ngữ nặng nề mà Địch Công hoàn toàn không hiểu gì. Một tuần đinh đá y một cú và gầm gừ, “Nói to hơn!”
“Đó là khoản tích trữ của ta, dành để mua một chiếc thuyền mới, không ngờ lại bị đám cướp đường này lục soát lấy mất.” “Lần đầu tiên ngươi gặp Chung Mộ Kỳ là khi nào?”
Vương Tam Lang bật ra một tràng dài những câu chửi rủa tục tĩu. Tuần đinh đứng bên cạnh phải ngăn kẻ ngông cuồng này lại bằng cách dùng bản kiếm đánh lên đầu hắn. Họ Vương lắc đầu, rồi nói một cách mơ hồ, “Chỉ biết mặt họ Chung vì lão thường quanh quẩn tới lui ở bến tàu.” Đột nhiên y hằn học nói tiếp, “Nếu từng gặp lão, chắc ta đã giết con lợn bẩn thỉu, tên lừa đảo khốn nạn ấy...”
“Họ Chung đã lừa gạt ngươi khi ngươi cầm đồ trong tiệm của lão phải không?” Địch Công hỏi nhanh.
“Ta có thứ gì đáng để cầm cố hay sao?”
“Vậy tại sao ngươi lại gọi lão là tên lừa đảo?”
Vương Tam Lang ngước lên nhìn Huyện lệnh. Địch Công nghĩ mình bắt gặp một tia sáng xảo quyệt lóe lên trong đôi mắt ti hí đỏ ngầu của y. Y lại cúi đầu và đáp với giọng rầu rĩ:
“Bởi vì tất cả những kẻ mở tiệm cầm đồ để hút máu người đều là bọn lừa đảo.”
“Ngươi đã làm gì đêm qua?”
“Ta đã khai với chấp pháp đội rồi. Ăn một bát mì tại quầy hàng trên bến tàu rồi đi ra sông. Sau khi bắt được một con cá lớn, ta neo thuyền trên bờ Bắc của tòa tháp và chợp mắt một giấc. Ta định khi trời sáng sẽ mang cá đến tháp cho Hoàng Oanh tiểu thư.”
Có điều gì đó trong cách y phát âm tên nữ nhân kia khiến Địch Công chú ý. Ông chậm rãi nói, “Ngươi phủ nhận việc đã sát hại lão chủ tiệm cầm đồ. Vậy thì, lúc đó chỉ có Hoàng Oanh ở trong tháp, nên chắc chắn chính ả đã hạ sát họ Chung.”
Bất thình lình, Vương Tam Lang nhảy dựng lên và lao về phía Huyện lệnh. Y di chuyển nhanh đến nỗi hai tuần đinh chỉ vừa kịp giữ y lại. Y đá họ, để rồi nhận lại một cú đánh vào đầu khiến y ngã ngửa về phía sau, dây xích đập loảng xoảng xuống sàn đá.
“Tên cẩu quan, đồ...”” y gào lên, cố gắng vùng vẫy chống chọi. Trương tuần phi một cước vào mặt khiến đầu y đập sầm xuống sàn đánh huỵch một tiếng. Y nằm ngay đơ, máu chảy ra từ khóe miệng bị rách.
Địch Công đứng dậy và cúi xuống xem xét thân hình bất động kia. Y đã bất tỉnh.
“Không được ngược đãi phạm nhân trừ khi các ngươi nhận được
mệnh lệnh,” Huyện lệnh nghiêm khắc nói với trương tuần. “Đem y đi, tống vào đại lao. Sau đó ta sẽ chính thức thẩm vấn y trong phiên thăng đường buổi chiều. Ngươi hãy đưa thi thể đến nha phủ. Trình báo cho Hồng Sư gia và trao cho lão quân sư bản báo cáo do Đội chính đã soạn thảo. Nói với Sư gia rằng ta sẽ về nha phủ ngay sau khi thẩm vấn vài nhân chứng ở đây.” Ông nhìn ra cửa sổ. Trời vẫn còn mưa. “Lấy cho ta một tấm vải dầu!”
Trước khi Địch Công đi ra ngoài, ông trùm tấm vải dầu qua đầu và vai, rồi nhảy lên yên con ngựa vừa mới thuê. Ông cưỡi ngựa phóng dọc theo bến tàu và tiến vào con đường hiểm trở dẫn tới khu đầm lầy.
Sương mù đã dần tan đi một chút khi Địch Công giục ngựa buông cương trên lối đi. Ông tò mò nhìn vào không gian xanh mướt, hoang sơ hai bên đường. Những con mương hẹp uốn lượn quanh co xuyên qua đám lau sậy vương vãi trải rộng đây đó đổ ra những hồ nước lớn, hắt lên thứ ánh sáng xám nhạt mờ ảo. Một đàn chim nước đột ngột bay vút lên, mang theo những tiếng kêu lanh lảnh vang dội, kỳ quái vọng khắp đầm lầy hoang tàn. Ông nhận thấy nước đang rút xuống sau trận mưa xối xả tối qua; con đường giờ đã khô ráo, chỉ còn sót lại những mảnh bèo tấm to lớn bám chằng chịt trên mặt đất. Khi Địch Công sắp sửa vượt qua đồn gác, chấp pháp vệ hối hả ngăn ông lại, nhưng rồi họ lại để ông đi qua ngay khi trông thấy lệnh bài mà Địch Công giắt dưới ủng.
Tháp canh cũ kĩ là một tòa nhà năm tầng vuông vức, xù xì nằm trên một bệ nổi tạo thành từ những khối đá lớn được đẽo gọt thô ráp. Những cánh cửa chớp hình vòm rơi rụng vung vãi, và mái của tầng trên cùng đã sập xuống. Hai con quạ đen lớn đang đậu trên một thanh xà bị gãy.
"""