"Địch Công Kỳ Án Tập 4: Đạo Quán Có Ma - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địch Công Kỳ Án Tập 4: Đạo Quán Có Ma - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám Ebooks Nhóm Zalo Sơ đồ đạo quán (1) Sơn môn, (2) Tiền điện, (3) Đại điện, (4) Tam Thanh thượng điện, (5) Trung điện, (6) Đạo trưởng hậu viện, (7) Biệt điện, (8) Dãy nhà phía Tây, (9) Dãy nhà phía Đông, (10) Nơi Địch Công ở, (11) Đông Nam lầu, (12) Tây Nam lầu, (13) Diêm La Thập điện, (14) Nơi chúng đạo nhân ở Giới thiệu Các nhân vật chính Địch Nhân Kiệt, huyện lệnh của Hán Nguyên, một huyện nhỏ miền núi nằm cách kinh thành sáu mươi dặm, nơi có đạo quán Triều Vân. Ông thường được gọi là ‘Địch Công’ hay ‘Huyện lệnh’. Đào Cam, quân sư và cũng là trợ thủ của Địch Nhân Kiệt. Các nhân vật khác Chân Trí, đạo trưởng của đạo quán Triều Vân. Ngọc Kính, cố đạo trưởng của đạo quán Triều Vân. Tôn Minh (Tôn Thiên sư) một vị hiền triết của Đạo giáo và là cựu thái phó*, hiện đã hồi hưu tại đạo quán Triều Vân. thái phó là chức vụ đại thần trong triều, đóng vai trò cố vấn cho Hoàng đế. Bao Phu nhân, một quả phụ đến từ kinh thành. Bạch Hồng, nhi nữ của Bao phu nhân. Tông Lê, một thi sĩ. Quan Lại, hí đầu* của đoàn kịch. hí đầu là trưởng đoàn kịch Đinh cô nương, một ả đào của đoàn kịch. Âu Dương cô nương, một ả đào của đoàn kịch. Mặc Đức, một kép hát của đoàn kịch. Các vụ án trong truyện Vụ án Pháp thể của đạo trưởng. Vụ án Thiếu nữ sùng đạo. Vụ án Đạo sĩ phiền muộn. HỒI 1 Cổ đạo quán, ác nhân ẩn náu Chốn linh thiêng hiện bóng tà gian Trên tầng lầu của đạo quán cổ, trong căn buồng trống trải, hai nam nhân ngồi sát nhau, lặng lẽ lắng nghe cơn bão gào thét giữa những dãy núi tối đen bên ngoài. Các cơn cuồng phong thi nhau quật mạnh vào tòa lầu, gió lạnh luồn qua những khe cửa chớp bằng gỗ cứng. Một trong hai người bất an nhìn quầng lửa lập lòe tỏa ra từ ngọn nến duy nhất, phản chiếu những hình thù kỳ quái lên bức vách trát vữa, giọng mệt mỏi hỏi, “Tại sao ông cứ khăng khăng làm việc đó vào tối nay?” “Ta đã quyết định thế!” Gã còn lại bình tĩnh trả lời, “Ngươi không nghĩ buổi lễ hôm nay là dịp thích hợp nhất sao?” “Khi tất cả những kẻ đó còn ở đây?” Hắn hồ nghi hỏi. “Thế mà ngươi đã sợ rồi à?” Gã cười khẩy. “Lần trước ngươi có biết sợ là gì đâu.” Hắn không trả lời. Ngoài dãy núi sấm nổ đì đùng, mưa trút xối xả, hạt nước đập vào cửa sổ lộp độp như mưa đá. “Không, ta không sợ gì hết. Chỉ là gương mặt phiền muộn đó nhìn rất quen, ta không thể nhớ nổi mình đã gặp phải ở đâu và khi nào…” “Ngươi phiền toái quá đấy!” Gã ngắt lời. Hắn chau mày rồi tiếp tục, “Giá mà lần này ông đừng giết ả. Ai đó sẽ nhớ ra và băn khoăn tại sao ba…” “Không phải tất cả đều phụ thuộc vào tiểu cô nương đó sao?” Đôi môi mỏng nhếch lên thành nụ cười độc ác, gã đột ngột đứng dậy, “Quay lại nào, kẻo mọi người dưới sảnh nhận ra sự vắng mặt của hai ta. Đừng bao giờ quên phần việc được giao, bằng hữu của ta!” Hắn miễn cưỡng theo sau, miệng lẩm bẩm gì đó, nhưng lời nói vừa thốt ra đã bị chìm nghỉm trong một tiếng sấm rền dường như rất gần. HỒI 2 Gặp bão lớn, tá túc Triều Vân Nơi đạo quán, Địch Công tường kỳ sự Xa xa dưới chân núi phía nam giáp ranh huyện Hán Nguyên, tiếng sấm rền cũng đánh động một người khác. Đứng dưới màn mưa nặng hạt, Địch huyện lệnh lo lắng ngẩng đầu nhìn lên bầu trời mây đen vần vũ. Ông nép mình dưới mui cỗ xe ngựa đang dừng dưới một vách núi. Ông vừa quệt nước mưa khỏi mắt, vừa nói với hai người xà ích đang co mình trong chiếc áo tơi, “Đêm nay chúng ta không kịp đến Hán Nguyên, tốt nhất nên nghỉ chân trong xe. Hai ngươi, đến mấy nông trang gần đây kiếm ít gạo tới rồi chuẩn bị bữa tối cho cả đoàn đi.” Lão xà ích siết chặt lại mảnh vải đội đầu, đuôi khăn bay phần phật trong gió mạnh rồi thưa, “Bẩm đại nhân, chỗ này thật không an toàn chút nào! Tiểu nhân chẳng lạ gì gió bão mùa thu ở vùng núi này, cơn giông chỉ vừa mới bắt đầu, trận cuồng phong thực sự sẽ tới nhanh thôi. Nó có thể quật cỗ xe của chúng ta xuống vực núi phía bên kia đường.” “Bẩm đại nhân, chúng ta đã lên được khá cao rồi,” gã xà ích còn lại nói thêm, “vài dặm quanh đây không có nhà cửa ruộng vườn nào, chỉ duy nhất một đạo quán cổ. Nhưng tất nhiên là đại nhân sẽ không…” Một tia chớp lóe lên, soi sáng cảnh núi non hoang vắng. Trong một khắc ngắn ngủi đó, Địch Nhân Kiệt nhìn thấy bốn bề là núi non hiểm trở, đạo quán cổ sơn đỏ nhô cao trên sườn núi phía trước. Rồi một tiếng sấm nổ đinh tai nhức óc, tất cả mọi thứ lại chìm vào màn đêm đen kịt. Địch Nhân Kiệt do dự. Nhét bộ râu dài vào trong lớp áo choàng ướt sũng, ông quyết định, “Hai ngươi đến đạo quán trước đánh tiếng với họ rằng bản quan đang ở đây và muốn nghỉ lại qua đêm tại đạo quán. Đồng thời bảo họ cử khoảng chục người tới cùng mấy cỗ kiệu kín, đưa các phu nhân và hành lý của ta đến đó.” Lão xà ích còn đang ngập ngừng muốn nói thêm thì Địch Nhân Kiệt đã hạ lệnh, “Còn không mau đi!” Lão khẽ nhún vai vẻ cam chịu. Hai xà ích thúc ngựa phi nước kiệu lên đường, những chiếc đèn bão bằng giấy dầu của họ nhanh chóng chỉ còn là hai đốm sáng nhảy múa trong màn đêm phía trước. Địch Nhân Kiệt lần theo mạn xe cho đến khi tìm thấy thang để bước lên. Ông leo vào bên trong rồi nhanh chóng kéo tấm vải bạt phía sau xuống. Ba vị thê tử của ông đang ngồi trên nệm, cuộn mình trong chiếc áo choàng lữ hành. Phía cuối xe, mấy tỳ nữ ngồi co ro giữa đống hành lý, khuôn mặt trắng bệch lại vì lo sợ, co rúm vào nhau mỗi khi có tiếng sấm nổ. Mọi thứ bên trong vẫn khô ráo, nhưng gió lạnh vẫn luồn vào qua lớp vải bạt dày phía mui xe. Thấy Địch Nhân Kiệt ngồi lên chiếc rương y phục, đại phu nhân lên tiếng, “Lão gia không nên ra ngoài mới phải, mình mẩy ướt hết cả rồi!” “Ta tính phụ Đào Cam và đám xà ích sửa lại trục xe bị hỏng,” ông mỉm cười đầy mệt mỏi, “nhưng chẳng ích gì, ta sẽ phải thay nó. Dù sao mấy con ngựa cũng đã kiệt sức trong khi cơn bão chỉ mới bắt đầu, chúng ta sẽ nghỉ tại đạo quán Triều Vân. Đó là nơi duy nhất có thể trú chân quanh đây.” “Ý lão gia là khu nhà lớn màu đỏ có mái ngói xanh lục trên sườn núi mà ta đã thấy vào hai tuần trước khi ngang qua đây?” Nhị phu nhân hỏi. Địch Nhân Kiệt gật đầu, “Nàng sẽ không phải chịu bất tiện khi lưu lại đó đâu. Đấy là đạo quán lớn nhất huyện, mỗi dịp lễ đều có rất nhiều giáo đồ đến viếng thăm. Ta chắc chắn họ có sẵn những buồng nghỉ tiện nghi.” Ông cầm lấy chiếc khăn tam phu nhân đưa cho và lau khô bộ râu. “Không sao đâu ạ!” Đại phu nhân tiếp lời, “Kỳ nghỉ vừa rồi ở dinh thự của bá phụ tại kinh đô, bọn thiếp đã được lão gia hết mực chiều chuộng, chút khó khăn này nào đáng kể gì! Biết đâu chúng ta còn quan sát được nhiều điều thú vị bên trong đạo quán cổ nữa!” “Biết đâu trong đạo quán có cả ma nữa!” Tam phu nhân mỉm cười, giả bộ rùng mình. Địch Nhân Kiệt chau đôi lông mày rậm, chậm rãi nói, “Chẳng có gì đáng để xem cả. Đây chỉ là một đạo quán cổ, chúng ta sẽ dùng bữa tối trong buồng rồi đi nghỉ sớm. Nếu khởi hành vào sáng sớm mai, ngay khi những giám mã của đạo quán thay xong trục xe, chúng ta có thể về đến Hán Nguyên trước bữa trưa.” “Không biết mấy tệ nhi ở nhà thế nào!” Nhị phu nhân lo lắng. “Lão Hồng và quản gia sẽ chăm lo cho chúng,” Địch Nhân Kiệt trấn an. Họ mải trao đổi gia sự cho đến khi có tiếng hô lớn bên ngoài, báo người của đạo quán đã tới. Đào Cam, một trong những trợ thủ của Địch Nhân Kiệt, ngó khuôn mặt rầu rĩ vào xe và thông báo có bốn cỗ kiệu đang chờ các vị phu nhân. Trong khi ba phu nhân và đám tỳ nữ dời bước lên kiệu, Địch Nhân Kiệt cùng Đào Cam giám sát các đạo đồng* vần những tảng đá ra chặn bánh xe. đạo đồng là người mới vào đạo, chưa được thọ giới. Xà ích tháo ngựa, cùng đoàn người di chuyển dọc theo đường núi quanh co, mưa vẫn tiếp tục quất mạnh trên nóc kiệu. Hai người Địch Nhân Kiệt lê bước phía sau, từ đầu đến chân ướt như chuột lột. Từng luồng gió mạnh quất tới tấp, họ chẳng buồn mở những chiếc ô giấy dầu. Lúc đi qua cây cầu tự nhiên bắc qua khe suối, Đào Cam cất tiếng hỏi, “Bẩm đại nhân, đó chẳng phải là đạo quán mà ngài đã định đến để điều tra về cái chết của ba cô nương họ Lưu, họ Hoàng và họ Cao hồi năm ngoái hay sao?” “Đúng vậy,” Địch Nhân Kiệt điềm đạm trả lời, “đó không phải là nơi ta muốn tới nghỉ chân cùng các phu nhân, nhưng biết làm sao bây giờ.” Phu kiệu sải bước vững chắc, thoăn thoắt băng qua các con dốc trơn trượt, luồn lách qua những tán cây rừng cao lớn. Địch Nhân Kiệt tuy theo sát phía sau nhưng vẫn cảm thấy khó lòng theo kịp tốc độ của họ. Cuối cùng, ông thấy nhẹ nhõm khi nghe được tiếng cửa mở cọt kẹt. Họ bước vào một khoảng sân rộng có tường bao quanh. Phu kiệu tiếp tục đi qua bậc tam cấp thứ hai, tiến vào sân tiền điện, đặt kiệu dưới một cổng vòm cao bằng gạch đã ngả đen. Có mấy đạo sĩ mặc pháp bào vàng cầm đèn đuốc đang chờ sẵn. Khi qua cổng chính, Địch Nhân Kiệt nghe hai cánh cửa đóng lại với một tiếng huỵch lớn. Bất giác rùng mình, ông nghĩ bản thân đã cảm mạo vì trận mưa. Một đạo sĩ béo lùn tiến lên trước, nhanh nhẹn cúi đầu thi lễ, “Bái kiến huyện lệnh đại nhân, bần đạo là giám viện của đạo quán Triều Vân. Xin cung nghênh đại nhân!” “Mong chuyến viếng thăm đột xuất này không quấy rầy chư vị đạo trưởng,” Địch Nhân Kiệt lễ độ đáp. “Đại nhân khách khí! Đây là vinh dự của Triều Vân quán!” Viên giám viện vừa nói vừa hấp háy đôi mắt ốc nhồi. “Cuộc viếng thăm của ngài làm cho điển lễ khánh thành đạo quán năm thứ 203 hôm nay càng thêm đặc biệt.” “Quả thật là bản quan không biết điều này,” Địch Nhân Kiệt nói, “vậy xin chúc cho đạo quán sẽ trường tồn mãi mãi.” Một cơn gió lạnh thổi qua cổng. Ông lo lắng nhìn mấy vị phu nhân đang được tỳ nữ đỡ xuống kiệu, bèn tiếp lời, “Phiền đạo trưởng dẫn đường về buồng nghỉ để chúng ta thay y phục.” “Nên thế, nên thế!” Viên giám viện thốt lên. “Xin chư vị đi theo bần đạo.” Ông ta dẫn họ đi qua một thông đạo hẹp và tối. “Bần đạo sẽ đưa đại nhân đến dãy nhà phía Đông theo đường vòng, hy vọng ngài không làm phiền. Tuy hơi nhiều bậc thang nhưng chúng ta sẽ không phải bước ra ngoài chịu thêm mưa gió!” Ông ta đi trước, hạ đèn lồng sát mặt đất để Địch Nhân Kiệt và Đào Cam có thể nhìn rõ những bậc thang. Kế đến là một tiểu đồng cầm đèn có cán dài soi đường cho ba phu nhân bước theo. Đi sau cùng là sáu đạo đồng đang khiêng hành lý trên những chiếc đòn tre. Họ đi qua đợt cầu thang đầu tiên rồi tiếp tục rẽ. Đoàn người đi trong yên lặng, không còn nghe tiếng sấm rền bên ngoài nữa. “Tường ở đây chắc hẳn phải rất dày!” Địch Nhân Kiệt nói với Đào Cam, “Thời đó mà đã xây dựng được như vậy, chứng tỏ họ không nề hà chi phí!” Bước lên một bậc dốc khác, Đào Cam tiếp lời, “Bẩm, nhưng họ xây hơi nhiều bậc thang rồi ạ!” Khi đoàn người leo qua hai đợt cầu thang nữa, giám viện đây mở cánh cửa nặng nề, họ bước vào một hành lang dài và lạnh lẽo, được thắp sáng nhờ dãy đèn lồng treo trên xà ngang to dày, đen bóng. Phía bên phải là vách tường thạch cao kín mít, phía bên trái có hàng cửa sổ hẹp và cao, họ lại nghe thấy cơn cuồng phong đang gào thét ngoài kia. “Bẩm, chúng ta đang ở lầu ba của dãy nhà phía Đông,” viên giám viện giải thích. “Cầu thang bên trái dẫn xuống đại sảnh ở lầu trệt. Nếu đại nhân chú ý, ngay bây giờ ngài có thể nghe thấy tiếng nhạc tế lễ vọng lên!” Địch Nhân Kiệt dừng lại, chăm chú lắng nghe, loáng thoáng cảm nhận được tiếng trống từ bên dưới, nhưng nó nhanh chóng chìm vào tiếng mưa đang đập lên cửa sổ. Gió vẫn thổi dữ dội. Ông cảm thấy yên tâm vì họ đã ở trong nhà. “Bẩm, rẽ qua khúc quành phía trước,” viên giám viện liến thoắng, “là nơi nghỉ ngơi của đại nhân, mong ngài sẽ không cảm thấy quá bất tiện. Giờ bần đạo sẽ đưa thuộc hạ của ngài xuống buồng nghỉ lầu dưới, ở đó đã có sẵn mấy vị khách đến từ trước.” Ông ta ra hiệu cho tiểu đồng cầm đèn dẫn đường. Địch Nhân Kiệt ngoái lại nhìn, ba vị phu nhân cùng các tỳ nữ bắt đầu xuất hiện ở đầu cầu thang phía cuối hành lang. Ông bước theo viên giám viện. Đột nhiên, một cơn gió mạnh thổi bung cánh cửa sổ bên trái, tạt nước mưa lạnh vào trong. Địch Nhân Kiệt hơi hoảng, vươn người ra ngoài nắm lấy cánh cửa sổ định đóng lại. Nhưng rồi ông sững sờ. Cách đó khoảng sáu thước, qua cánh cửa sổ đang mở của dãy nhà đối diện, trong căn phòng lờ mờ tối ông trông thấy tấm lưng rộng của một nam nhân đội mũ giáp sắt đang cố ôm một nữ nhân khỏa thân. Khuôn mặt nữ nhân bị cánh tay phải che mất, còn nơi đáng lẽ là cánh tay trái thì chỉ còn một mẩu vai cụt ngủn. Gã kia liệng nàng vào bức tường. Giữa lúc đó, một cơn gió khác giật tung móc cửa trên tay Địch Nhân Kiệt, đóng sầm cửa sổ trước mặt ông. Buông tiếng rủa xả, Địch Nhân Kiệt vội vã mở cửa sổ ra, nhưng chỉ thấy một màn mưa dày đặc tối om bên ngoài. Trong lúc Địch Nhân Kiệt cố khép cửa, Đào Cam và viên giám viện bước đến, giúp ông gài chiếc then gỉ sét. “Bẩm đại nhân, xin ngài cứ để việc này cho bần đạo!” viên giám viện áy náy nói. Địch Nhân Kiệt im lặng, đợi mấy vị phu nhân và các đạo đồng băng qua rồi mới hỏi, “Dãy nhà đối diện dùng làm việc gì vậy?” “Bẩm đại nhân, đó chỉ là nhà kho thôi ạ,” viên giám viện đáp. “Tốt hơn là chúng ta…” “Ta vừa mới nhìn thấy cửa sổ bên đó đang mở toang,” Địch Nhân Kiệt ngắt lời. “Nhưng ai đó đã đóng nó lại ngay lập tức.” “Cửa sổ ư?” Viên giám viện kinh ngạc hỏi lại. “Bẩm, chắc hẳn đại nhân nhìn nhầm rồi! Gian nhà kho không hề có cửa sổ hướng sang đây, đó chỉ là một bức tường trơn. Đại nhân, mời ngài đi theo hướng này.” HỒI 3 Trong mưa gió, thám thính nhà kho Cùng trợ thủ lắng nghe chuyện cũ Địch Nhân Kiệt lẳng lặng rẽ bước theo viên giám viện, cảm thấy cơn đau nhức nhối sau mặt, rõ ràng là ông đã nhiễm phong hàn. Trong một khắc ấy, xuyên qua màn mưa xám xịt, cảnh tượng ông nhìn thấy có thể chỉ là ảo giác do cơn sốt. Địch Nhân Kiệt liếc nhìn Đào Cam, dường như tay trợ thủ không trông thấy gì. Ông bảo y, “Ngươi đi thay y phục rồi trở lại đây ngay!” Viên giám viện cung kính cúi đầu cáo biệt trước khi bước xuống cầu thang cùng Đào Cam. Trong buồng ngoài, đại phu nhân đang sai mấy đứa tỳ nữ mở rương sắp xếp đồ đạc, hai vị phu nhân còn lại quan sát mấy phu kiệu đổ đầy than hồng vào chậu sưởi. Địch Nhân Kiệt ngó nghiêng một lúc rồi quay vào buồng ngủ phía sau. Đại phu nhân hướng dẫn tỳ nữ Đó là một căn buồng rộng rãi với vài món đồ nội thất cổ đơn điệu. Địch Nhân Kiệt vẫn nghe rõ âm thanh của cơn bão bên ngoài xuyên qua mấy tấm rèm dày che cửa sổ. Một chiếc giường lớn được kê sát vách tường, những tấm màn gấm thêu kim tuyến rủ xuống từ vòm gỗ mun chạm khắc cao sát trần nhà. Trong góc phòng, ông để ý thấy có một chiếc bàn trang điểm bằng gỗ mun, cạnh đó là bàn trà nhỏ với bốn cái ghế. Thêm một chiếc chậu sưởi bằng đồng nữa thì trong buồng không còn đồ đạc gì khác. Sàn nhà được trải thảm dày màu nâu xỉn. Căn buồng có vẻ tẻ nhạt, nhưng Địch Nhân Kiệt nghĩ, nếu đốt chậu đồng và thắp sáng những ngọn nến, trông nó cũng không quá tệ. Địch Nhân Kiệt kéo màn gấm sang một bên, nhận thấy chiếc giường này đủ rộng cho cả mình cùng ba vị phu nhân. Thường thì ông không thích họ ngủ cùng nhau. Khi còn ở tư gia, mỗi vị phu nhân đều có buồng riêng, Địch Nhân Kiệt sẽ qua đêm ở một trong những buồng riêng ấy, hoặc gọi một phu nhân vào buồng riêng của ông. Là một Nho sĩ tương đối bảo thủ, ông cho rằng đó là sự sắp xếp ổn thỏa nhất. Địch Nhân Kiệt biết có nhiều nam nhân nằm với tất cả thê tử trên cùng một giường, nhưng ông cho đó là thói xấu, hạ thấp phẩm hạnh nữ giới, khiến gia môn không được hòa thuận. Tuy nhiên, sắp xếp của ông thật khó có thể duy trì trong những chuyến đi. Địch Nhân Kiệt quay trở lại buồng ngoài, hắt hơi mấy cái liền. “Lão gia, mau mặc thêm chiếc áo bông vào!” Đại phu nhân ân cần nói, rồi nhỏ giọng hỏi, “Thiếp có nên đưa mấy đồng cho phu kiệu không nhỉ?” “Không cần đâu,” Địch Nhân Kiệt thì thầm, “ngày mai trước khi rời đi, chúng ta sẽ tặng một phần tạ lễ cho đạo quán.” Rồi ông nói lớn, “Áo choàng này được đấy!” Nhị phu nhân hong ấm đồ trên chậu sưởi rồi giúp Địch Nhân Kiệt thay một bộ y phục khô ráo. “Lấy cho ta cái mũ!” Ông nói với đại phu nhân, “Giờ ta phải xuống lầu bái kiến đạo trưởng của đạo quán.” “Lão gia sớm trở lại nhé,” nàng căn dặn. “Bọn thiếp sẽ pha sẵn trà nóng, rồi chúng ta dùng bữa tại đây luôn. Sau đó lão gia nên đi nghỉ sớm, trông sắc mặt ngài tái lắm. Thiếp sợ lão gia đã cảm mạo mất rồi!” “Ta sẽ về sớm thôi,” Địch Nhân Kiệt hứa hẹn. “Nàng nói đúng. Ta cảm thấy không được khỏe cho lắm, có lẽ cảm lạnh thật rồi.” Ông thắt lại đai lưng đen, sau đó được ba vị phu nhân tiễn ra tận cửa. Đào Cam cùng một tiểu đồng cầm đèn đã đợi sẵn ngoài hành lang. Tay trợ thủ của ông thay một chiếc áo lam bạc màu, đội chiếc mũ vuông nhỏ bằng nhung đen đã sờn. “Dạ bẩm, Chân trí đạo trưởng đang đợi đại nhân ở thượng điện,” tiểu đồng kính cẩn lên tiếng khi họ bước vào hành lang dẫn tới cầu thang. Huyện lệnh dừng bước, “Ta sẽ đến đó ngay bây giờ.” Địch Nhân Kiệt chăm chú lắng nghe, tiếng mưa dường như đã nhẹ hơn. Ông mở cánh cửa sổ mà lúc trước đã trông thấy cảnh tượng kỳ lạ, chỉ có mấy hạt mưa nhỏ từ bóng tối bên ngoài hắt vào. Ông đợi đến khi một tia sét lóe lên chiếu sáng dãy nhà đối diện, tận mắt thấy một bức tường gạch kín mít trước mặt, phía trên cao là hai cửa sổ của tòa lầu. Bên dưới, bức tường chạy dài tới tận một gian nhà ống muống chia tách hai dãy nhà. sấm lại đánh rền vang. Ông đóng cửa, quay sang nói với tiểu đồng, “Thời tiết thật quái quỷ! Ngươi đưa ta đến dãy nhà kho đối diện kia!” Tiểu đồng kinh ngạc nhìn ông, hoài nghi nói, “Bẩm đại nhân, chúng ta sẽ phải đi một quãng đường khá dài! Trước hết phải xuống hai tầng lầu để đến thông đạo giữa hai dãy nhà, sau đó đi lên hai…” “Mau dẫn đường!” Địch Nhân Kiệt ra lệnh dứt khoát. Đào Cam tò mò nhìn huyện lệnh. Thấy khuôn mặt bình thản của Địch Nhân Kiệt, y đành nuốt lại câu hỏi đang chực chờ trong miệng. Ba người lặng lẽ bước xuống cầu thang tối. Tiểu đồng dẫn họ băng qua một thông đạo hẹp rồi leo lên một cầu thang dốc đứng. Ở giữa chiếu nghỉ là một miệng giếng trời rộng, vuông vức. Thoang thoảng trong không khí, mùi hương trầm Thiên Trúc lan tỏa qua những mắt cáo được trổ trên các bức màn quây bốn phía miệng giếng. “Bẩm đại nhân, bên dưới chính là đại sảnh của thượng điện,” tiểu đồng giải thích. “Chúng ta đang ở cùng lầu với buồng nghỉ của đại nhân bên dãy nhà phía Đông.” Tới một hành lang hẹp và dài, tiểu đồng nói thêm, “Dạ bẩm, lối này sẽ dẫn đến gian nhà kho ạ.” Địch Nhân Kiệt đứng lặng như tờ. Vừa vuốt bộ râu đen dài, ông vừa liếc nhìn ba cánh cửa sổ trên bức tường thạch cao phía bên phải. Bậu cửa sổ cách sàn nhà chừng hai thước. Tiểu đồng đẩy mở một cánh cửa nặng nề, dẫn khách nhân vào một gian phòng hình chữ nhật trần thấp. Ánh sáng từ hai ngọn nến soi tỏ những rương hòm xếp thành chồng cao. “Sao lại để nến cháy ở đây?” huyện lệnh hỏi. “Thưa đại nhân, các đạo sĩ liên tục ra vào kho để lấy mặt nạ và pháp phục,” tiểu đồng vừa trả lời vừa chỉ vào những chiếc mặt nạ bằng gỗ lớn cùng với áo mão sặc sỡ treo gọn thành hàng phía bên trái. Một giá gỗ lớn chiếm trọn bức vách bên phải, cắm đầy thương kích, giáo mác, đinh ba, cờ phướn và các vật dụng khác dùng trong các nghi lễ diễn xướng. Địch Nhân Kiệt nhận thấy cả hai bên tường không có lấy một khung cửa sổ, căn buồng chỉ có hai ô cửa nhỏ trên bức vách đối diện họ. Ông ước chừng hai ô cửa ấy đều trổ ra bức tường ngoài đạo quán và nhìn về hướng đông. Ông quay sang tiểu đồng, “Ngươi chờ bọn ta bên ngoài.” Đào Cam đang quan sát gian phòng, tay vân vê mấy sợi râu mọc ra từ nốt ruồi bên má trái. Y khẽ hỏi, “Đại nhân, gian nhà kho này có vấn đề gì hay sao?” Địch Nhân Kiệt kể cho y về cảnh tượng kỳ lạ mà mình đã chứng kiến khi đang ở dãy nhà đối diện. “Viên giám viện cũng khẳng định nhà kho này chẳng có cửa sổ nào nhìn ra dãy nhà chúng ta đang ở. Rõ là ông ta nói thật. Ta cũng khó lòng tưởng tượng ra tất cả mọi chuyện! Nữ nhân kia đã mất cánh tay trái từ trước, không hề có vết máu nào trên thân thể nàng ta. Nếu thấy có thương tích, ta đã vội vàng chạy sang đây để điều tra ngay lúc đó rồi.” “Đại nhân,” Đào Cam nói, “thực không quá khó để tìm ra một nữ nhân cụt tay, không nhiều người như vậy ra vào đạo quán. Đại nhân có nhìn thấy vật dụng nào khác trong phòng không?” “Không, ta chỉ nhìn thấy trong một thoáng,” Địch Nhân Kiệt cáu kỉnh. “Bẩm, vậy chắc chắn chuyện phải xảy ra trong nhà kho này,” Đào Cam hào hứng nói. “Thuộc hạ sẽ kiểm tra bức vách, liệu có cửa sổ nào được giấu sau hàng giáo mác và cờ phướn chăng? Khả năng ta lại tìm ra một cửa sổ được ngụy trang.” Địch Nhân Kiệt cùng trợ thủ tháo dỡ vũ khí trên giá. Đào Cam kéo đám cờ phướn lụa phủ đầy bụi sang một bên, kiểm tra từng thanh giáo mũ gươm, thỉnh thoảng còn gõ khớp tay lên bức vách. Thao tác của y rất nhanh chóng và lành nghề, vốn dĩ Đào Cam là một tay lừa đảo lang thang nay đây mai đó. Một năm trước, không lâu sau khi trị nhậm Hán Nguyên, Địch huyện lệnh đã cứu Đào Cam thoát khỏi một phen nguy khốn. Từ đó, kẻ ranh mãnh này quyết định cải tà quy chính, nguyện phục tùng dưới trướng của Địch Nhân Kiệt. Là cao thủ về mật đạo và phá khóa, lại hiểu biết sâu rộng về các mánh lới giang hồ, Đào Cam tỏ ra vô cùng hữu ích trong việc vạch trần chân tướng phường tội nhân giấu mặt, giúp huyện lệnh phá giải nhiều vụ án phức tạp. Để Đào Cam tiếp tục lục soát, Địch Nhân Kiệt đi dọc theo bức vách bên trái, len vào giữa các chồng rương hòm. Ông khó chịu nhìn lướt qua những chiếc mặt nạ gớm ghiếc, những khuôn mặt gỗ trên tường cũng liếc nhìn lại ông. Địch Nhân Kiệt lẩm bẩm như thể cho Đào Cam cùng nghe, “Đạo giáo quả là một tín ngưỡng khó hiểu! Tại sao người ta lại cần nhiều lễ nghi khoa trương với mấy màn diễn xướng thần bí khó hiểu, trong khi đã sẵn có những lời dạy bảo sáng suốt và thông thái của đức Khổng Tử? Duy chỉ có một điều đáng để bàn đó là Đạo giáo chính là tôn giáo thuần túy của Đại Đường, chứ không đến từ phương Tây như Phật giáo!” “Bẩm, thuộc hạ cho rằng Đạo giáo buộc phải xây các đạo quán khắp mọi nơi và tổ chức đủ thứ lễ nghi để cạnh tranh với Phật giáo đang ngày càng đông đảo Phật tử,” Đào Cam bình luận. “Hừ!” Địch Nhân Kiệt bực bội, đầu đau như búa bổ. Bầu không khí lạnh lẽo và ẩm ướt trong gian phòng đã ngấm cả vào chiếc áo bông của ông. “Bẩm đại nhân, ngài hãy nhìn xem!” Đào Cam chợt kêu lên. Địch Nhân Kiệt vội trở lại chỗ Đào Cam. Y vén tấm phướn vải lụa lòe loẹt treo gần cái tủ cổ ở góc trong gian phòng. Dưới lớp vữa thạch cao đầy bụi bao bên ngoài vách tường gạch, có thể thấy rõ đường viền của một khung cửa sổ. Hai người im lặng, chăm chú nhìn vào bức vách. Đào Cam bối rối ngó khuôn mặt bình thản của Địch Nhân Kiệt, chậm rãi nói, “Bẩm, quả thật từng có một cửa sổ ở chỗ này, nhưng nó đã được bịt lại từ lâu.” Địch Nhân Kiệt giật mình ngẩng lên, giọng lãnh đạm, “Nó ở gần góc nhà, nghĩa là đối diện với cái cửa sổ mà ta nhìn thấy.” Đào Cam gõ gõ vào bức vách, nhận thấy lớp thạch cao rất rắn chắc. Y rút dao, dừng mũi dao khẽ nạy một mảng thạch cao nhỏ bịt cửa sổ, rồi lại lần theo những viên gạch dọc theo viền cửa. Đào Cam bối rối lắc đầu, lưỡng lự đôi chút rồi rụt rè thưa, “Bẩm đại nhân, đạo quán này đã tồn tại cả trăm năm. Thuộc hạ thường nghe nói những chỗ như thế này thường xảy ra nhiều điều kỳ bí khó lý giải. Những khung cảnh trước đây đôi khi hiện về và…” Giọng y yếu dần rồi im bặt. Huyện lệnh dụi mắt, trầm ngâm đáp, “Quả thật, nam nhân mà ta nhìn thấy đội chiếc mũ sắt cổ dùng trong quân đội cách đây hơn trăm năm… Đào Cam, chuyện này thực kỳ lạ, hết sức kỳ lạ là đằng khác.” Ông đăm chiêu suy ngẫm một lúc lâu, mắt dán vào bức tường gạch. Đột nhiên, Địch Nhân Kiệt quay sang nhìn Đào Cam chăm chăm, “Ta nghĩ mình đã thấy một bộ giáp cổ cùng loại trong số y phục treo trên tường. Kia, đích thị là nó!” Ông bước tới trước bộ giáp sắt treo dưới hàng mặt nạ quỷ, phần ngực phủ một lớp vảy giáp óng ánh như vảy rồng. Một đôi găng sắt với một bao trường kiếm rỗng treo ngay bên cạnh. “Mũ giáp không ở đây,” Địch Nhân Kiệt nhận xét. “Bẩm đại nhân, nơi này còn rất nhiều y phục rời rạc không đủ bộ.” Huyện lệnh không để ý đến lời Đào Cam mà tiếp tục nói, “Tuy không thấy rõ nam nhân đó mặc gì nhưng ta có cảm giác gã vận trang phục tối màu, sở hữu một tấm lưng rộng, tướng tá khá cao.” Bỗng ông trợn mắt nhìn trợ thủ của mình, “Trời đất thiên địa ơi! Đào Cam, hay ta đã gặp ma?” “Bẩm thuộc hạ sẽ đo chiều sâu của khung cửa này,” Đào Cam nói. Địch Nhân Kiệt kéo áo choàng vào sát người, rút chiếc khăn lụa trong tay áo ra chấm mắt. Toàn thân rét run, ông nghĩ có khi mình đã nhiễm lạnh thật. Họa chăng cảnh tượng Địch Nhân Kiệt chứng kiến chỉ là một ảo giác? Đào Cam đã quay lại, “Bẩm đại nhân, bức tường dày gần bốn thước, nhưng vẫn không đủ khoảng trống cho một căn buồng bí mật chứa được hai người!” “Đúng vậy!” Địch Nhân Kiệt cộc lốc xác nhận. Ông quay trở lại chỗ cái tủ cổ. Hai cánh cửa sơn đen được trang trí hình tượng lưỡng long triều nhật nguyệt. Ông mở cửa tủ xem xét nhưng chẳng thấy gì ngoài một chồng mũ vàng. Họa tiết trên cửa tủ được lặp lại tại mặt trong. “Quả là một món đồ cổ quý giá!” huyện lệnh bình phẩm rồi thở dài, “Chà, lúc này hẳn ta nên tạm gác lại những gì đã thấy, hoặc tưởng rằng mình đã thấy, phải giải quyết một vấn đề trước mắt đã. Có ba thiếu nữ đã chết ở đạo quán này, chuyện mới xảy ra năm ngoái chứ không phải một trăm năm trước! Lưu cô nương qua đời do bạo bệnh, Hoàng cô nương tự kết liễu đời mình, còn Cao cô nương chẳng may gặp tai nạn chết người. Ấy là họ kể như vậy. Nhân đây, trong lúc tiếp chuyện đạo trưởng, ta sẽ tranh thủ hỏi han thêm về ba cái chết này. Giờ chúng ta xuống thôi!” Địch Công và Đào Cam tại nhà kho Bước ra hành lang, họ nhìn thấy tiểu đồng đang đứng im như phỗng gần cửa, mắt nhìn thẳng về phía trước, dỏng tai nghe ngóng. Nhìn thấy gương mặt tái nhợt của cậu ta, huyện lệnh ngạc nhiên hỏi, “Ngươi đang làm gì vậy?” “Bẩm, thảo dân… thảo dân vừa nhìn thấy một người sục sạo ở góc kia,” tiểu đồng lắp bắp. “Hử?” Địch Nhân Kiệt bực bội, “Chẳng phải ngươi đã bảo các đạo sĩ liên tục ra vào nơi này hay sao?” “Thưa, đó là một tên lính!” Cậu ta thì thào. “Một tên lính?” Tiểu đồng gật đầu rồi tiếp tục lắng nghe, miệng khe khẽ kể, “Một trăm năm trước, từng có rất nhiều binh lính ở đây. Quân phiến loạn đã chiếm được đạo quán và cố thủ ở đây cùng gia quyến. Sau đó quan binh triều đình đã đánh chiếm lại nơi này thẳng tay chém giết tất cả nam phụ lão ấu.” Cậu ta nhìn huyện lệnh với đôi mắt trợn trừng đầy khiếp đảm, “Bẩm đại nhân, tương truyền rằng trong những đêm dông bão, vong hồn của họ sẽ quay lại đây để tái hiện lại cảnh tượng khủng khiếp xưa kia… Đại nhân không nghe thấy gì sao?” Địch Nhân Kiệt lắng nghe hồi lâu. “Chỉ có tiếng mưa rơi thôi!” Ông nôn nóng, “Ở đây nhiều gió may quá. Mau đưa ta xuống lầu!” HỒI 4 Nơi khách sảnh, đàm đạo cùng đạo trưởng Lưu, Hoàng, Cao, ba cái chết đáng ngờ Tiểu đồng dẫn họ xuyên qua một mê cung những cầu thang và thông đạo, xuống lầu trệt của dãy nhà phía Đông. Dưới lầu là một hành lang rộng với hai hàng cột cao vút, được chạm trổ họa tiết long ẩn vân rối mắt, sơn son thếp vàng. Qua bao năm tháng, vô số những bước chân qua lại khiến sàn gỗ lên nước đen bóng như mun sừng. Khi đến trước cửa khách sảnh, Địch Nhân Kiệt nói với Đào Cam, “Trong lúc ta đàm đạo với đạo trưởng, ngươi hãy đi tìm viên giám viện để hỏi về cái trục xe bị hỏng. May ra thì họ có thể sửa và thay nó ngay trong tối nay.” Rồi ông nhỏ giọng thầm thì, “Cố kiếm cho ta sơ đồ của đạo quán ảm đạm này, hỏi giám viện hay ai đó cũng được!” Khách sảnh nằm ngay lối vào đại sảnh. Khi tiểu đồng mời huyện lệnh vào, ông khoan khoái nhận thấy căn sảnh được sưởi ấm bằng một lò than lớn rực hồng. Những bức trướng bằng gấm thêu kim tuyến quý giá phủ kín bốn vách, lưu hơi nóng lại trong khách sảnh. Một lão đạo sĩ cao gầy đứng dậy khỏi chiếc trường kỷ mạ vàng nơi cuối sảnh, bước qua tấm thảm dày, tiến về phía huyện lệnh. Ông ta trông vô cùng oai nghiêm trong bộ trường bào gấm vàng thêu kim tuyến, tôn lên tướng vóc cao ráo; đầu đội chiếc mũ miện cao màu vàng, được trang trí bằng những nhúm tua đỏ tươi rủ xuống ngang lưng. Khi đạo trưởng nghênh đón quan khách, Địch Nhân Kiệt nhận thấy ông ta có đôi mắt xám kỳ lạ, hai con ngươi như bất động trên khuôn mặt dài khắc khổ, hàng ria mỏng và chòm râu lưa thưa. Họ cùng ngồi xuống ghế tựa bên cạnh trường kỷ trong lúc tiểu đồng pha trà trên chiếc bàn sơn son đặt ở góc buồng. “Đã làm phiền đạo trưởng rồi,” Địch Nhân Kiệt bắt đầu. “Cuộc viếng thăm của ta lại trùng với điển lễ trọng đại của đạo quán, hẳn Triều Vân quán phải đón tiếp nhiều quan khách lắm. Ta e việc mình qua đêm ở đây sẽ gây bất tiện cho đạo quán.” Dù đôi con ngươi bất động của đạo trưởng vẫn hướng thẳng về phía Địch Nhân Kiệt, nhưng ông vẫn có cảm giác kỳ lạ rằng ánh mắt ấy lại đang chìm vào nội tâm kín đáo. Đạo trưởng nhướng đôi mày cong dài, thấp giọng khô khốc thưa, “Bẩm đại nhân, chuyến viếng thăm của ngài không gây bất tiện cho đạo quán chút nào. Lầu hai và lầu ba của dãy nhà phía Đông có tận hơn bốn mươi buồng nghỉ cho quan khách, tuy nhiên lại chẳng có căn buồng nào đủ tốt cho khách quý như huyện lệnh ngài!” “Chốn nghỉ ngơi của bản quan vô cùng thoải mái,” Địch Nhân Kiệt vội trấn an, đón lấy chén trà nóng mà tiểu đồng đang cung kính dâng. Đầu đau như búa bổ, ông cảm thấy mình khó mà trò chuyện theo lễ như thường. Địch Nhân Kiệt quyết định đi thẳng vào vấn đề, “Ngay sau khi nhận lệnh trị nhậm Hán Nguyên, bản quan đã rất nóng lòng tìm dịp viếng thăm Triều Vân quán, những mong được thỉnh giáo đạo trưởng và chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc cổ kính danh tiếng này. Tuy nhiên, suốt cả mùa hè vừa rồi, công sự bận rộn nơi nha phủ không cho phép ta rời khỏi trấn nửa bước. Nhân đây, ta muốn hỏi ngài một số chuyện.” “Đại nhân, mời hỏi. Chẳng hay ngài muốn tìm hiểu chuyện gì?” “Bản quan muốn biết chi tiết hơn về ba cái chết ở đây hồi năm ngoái,” Địch Nhân Kiệt nói, “chỉ để hoàn thiện ký lục của nha môn mà thôi.” Đạo trưởng ra hiệu cho tiểu đồng lui ra. Khi cánh cửa khép lại, ông ta mỉm cười vẻ phật ý, “Đại nhân, nơi đây có hơn một trăm đạo sĩ, chưa kể đến đạo đồng, tiểu đồng và khách vãng lai từng lưu lại. Nhân sinh đã được định rõ trong sổ Thiên Tào, không ai thoát được vòng luân hồi sinh lão bệnh tử. Vậy chẳng hay đại nhân đang đề cập tới cái chết nào?” “À,” Địch Nhân Kiệt đáp, “trong lúc xem xét ký lục tại nha phủ, bản quan để ý thấy đạo quán đã gửi đến Hán Nguyên bản khai tử của ba thiếu nữ tới từ nơi khác. Hẳn họ đến đây thọ giới để trở thành các đạo cô.” Thấy đạo trưởng nhíu đôi mày mỏng, huyện lệnh cười giả lả, “Bản quan không rõ danh tính hay bối cảnh của ba cô nương ấy, đáng ra ta phải đọc hết văn thư ký lục trước khi viếng thăm đạo quán. Nhưng tình cờ làm sao, lại có chuyến viếng thăm đột xuất này…” Ông bỏ lửng câu, trông chờ phản ứng của đạo trưởng. Đối phương khẽ gật đầu, “Bần đạo có biết về những cái chết mà đại nhân nói đến. Phải, hồi năm ngoái có một thiếu nữ họ Lưu đến từ kinh thành rồi lâm bạo bệnh ở đây. Đích thân Tôn Thiên sư đã chữa trị cho vị cô nương đó, nhưng…” Bất chợt đạo trưởng ngưng bặt và nhìn thẳng ra cửa. Địch Nhân Kiệt xoay người lại, nhưng chỉ thấy hai cánh cửa vẫn đóng im lìm. “Phường đào kép thật bất kính!” đạo trưởng tức giận thốt lên, “Dám bước vào mà không thèm gõ cửa!” Nhận thấy vẻ mặt kinh ngạc của Địch Nhân Kiệt, ông ta mau mắn giải thích, “Theo thông lệ, một đoàn kịch nhỏ được thuê tói đây, cùng các đạo sĩ tham gia diễn xướng vào điển lễ của bản quán. Lúc giải lao giữa các màn diễn, họ sẽ mua vui cho quan khách bằng nhiều màn xiếc kỹ như tung hứng, nhào lộn. Họ cũng hữu ích đấy, nhưng lại chẳng biết quy củ và luật lệ của đạo quán là gì!” Đạo trưởng bực tức nện cây tích trượng xuống sàn, “Lần tới, nhất định bần đạo sẽ không mời họ nữa!” “À đúng,” Địch Nhân Kiệt nói, “bản quan đã nhớ ra thiếu nữ họ Lưu chết vì bệnh nan y. Vậy xin hỏi đạo trưởng, ai là người chẩn bệnh nghiệm thi? Ta chỉ muốn hoàn thiện ký lục mà thôi.” “Bẩm đại nhân, viên giám viện của đạo quán là người nghiệm thi. Ông ta là một đại phu lành nghề.” “Bản quan rõ rồi. Hình như một trong ba cô nương đã tự vẫn thì phải?” “Quả là một cái chết thương tâm!” đạo trưởng thở dài, “Một thiếu nữ thông minh nhưng quá nhạy cảm. Cao cô nương thường bị ảo cảnh quấy nhiễu. Đáng ra bần đạo không nên nhận nàng vào, nhưng vị cô nương ấy rất sốt sắng thọ giới, phụ mẫu nàng lại năn nỉ… Một đêm, Cao cô nương cảm thấy tâm thần bất an, lòng vô cùng hoảng sợ, bèn uống thuốc độc tự tử. Thi hài thiếu nữ đã được trả về cho gia quyến và an táng tại quê nhà.” “Bản quan nhớ thiếu nữ thứ ba cũng đã quyên sinh, không biết có đúng không?” “Bẩm không phải, đó là một tai nạn đáng tiếc. Hoàng cô nương cũng là một thiếu nữ có tài, dành nhiều quan tâm đến lịch sử của đạo quán, thường xuyên xuất môn tham quan thượng điện lẫn các dãy nhà lân cận. Chẳng may, lúc Hoàng cô nương ở trên Đông Nam lầu, hàng lan can bất chợt đổ sập khiến nàng rơi xuống hẻm núi rìa đông đạo quán,” “Không có nghiệm thi án quyển của Hoàng cô nương sao?” Địch Nhân Kiệt thắc mắc. Đạo trưởng buồn bã lắc đầu. “Bẩm đại nhân, tiếc là không có,” ông ta từ tốn đáp. “Chúng bần đạo đã không thể tìm thấy thi thể vị cô nương đáng thương đó. Hẻm núi ấy là một vực sâu hơn trăm thước, chưa từng ai xuống được đáy vực.” Có một khoảng lặng ngắn ngủi trước khi Địch Nhân Kiệt lên tiếng, “Vậy là thiếu nữ ngã xuống từ lầu thượng phía trên gian nhà kho, ngay đối diện với dãy nhà phía Đông nơi bản quan đang ở?” “Thưa, quả đúng là như vậy.” Đạo trưởng nhấp một ngụm trà, rõ ràng muốn kết thúc cuộc trò chuyện tại đây, nhưng Địch Nhân Kiệt chưa có ý định bái biệt. Ông trầm ngâm vuốt bộ râu dài rồi hỏi tiếp, “Đạo quán ta không lưu các đạo cô lại lâu dài phải không?” “Bẩm đại nhân, tuyệt đối không có chuyện đó,” đạo trưởng mỉm cười yếu ớt. “Chẳng có họ thì trách nhiệm của bần đạo cũng đủ nặng nề rồi! Bởi danh tiếng của Triều Vân quán trong huyện rất tốt, nên nhiều gia môn muốn cho nhi nữ sùng đạo thọ giới tại đây. Sau vài tuần lễ được truyền thụ lễ nghi kinh tạng, họ sẽ được ban cho đạo hiệu rồi cầm giới điệp* rời khỏi đây, đến các đạo quán dành riêng cho đạo cô trong huyện để tiếp tục tu luyện.” giới điệp là văn tự chứng nhận đã thọ giới. Địch Nhân Kiệt hắt hơi mấy cái. Sau khi dùng khăn lụa lau nhẹ bộ râu, huyện lệnh lễ độ nói, “Đa tạ đạo trưởng đã cất công giảng giải! Mong ngài cảm thông cho, chuyện hỏi han là bổn chức phận sự của bản quan, chứ ta chưa bao giờ nghĩ có điều chi khuất tất ở đây.” Đạo trưởng kính cẩn gật đầu. Huyện lệnh uống cạn chén trà rồi nói tiếp, “Vừa rồi đạo trưởng có nhắc đến một vị Tôn Thiên sư. Phải chăng đó chính là Tôn Minh, vị học giả và tác giả danh tiếng lẫy lừng, người từng là thái phó và đã hồi hưu vài năm về trước?” “Dạ bẩm, quả đúng như vậy! Sự hiện diện của Thiên sư là phúc phận của Triều Vân quán! Đại nhân cũng thấy đó, sự nghiệp của ngài ấy thật vẻ vang. Ngài ấy từng giữ chức Thứ sử ở kinh thành trong suốt nhiều năm, hồi hưu sau khi hai vị phu nhân từ trần. Sau đó, ngài ấy lại được triệu hồi vào hoàng cung và sắc phong làm thái phó. Ba vị công tử cũng nối gót lệnh phụ làm quan trong triều. Do vậy, ngài ấy yên tâm dành những năm tháng cuối đời để tu luyện và chọn Triều Vân quán làm nơi an cư. Đến nay, Thiên sư đã lưu lại đạo quán được hai năm rồi.” Đạo trưởng chậm rãi gật gù, hài lòng tiếp tục, “Sự hiện diện của Tôn Thiên sư cũng là niềm vinh dự lớn lao cho chúng bần đạo! Ngài không hề tỏ ra lánh đời. Trái lại, ngài ấy luôn quan tâm đến mọi việc thường nhật và có mặt ở mọi nghi lễ. Nhờ vậy mà Thiên sư thấu hiểu chuyện lớn chuyện bé trong đạo quán và không bao giờ tỏ ra miễn cưỡng khi cho chúng bần đạo những lời khuyên hữu ích.” Địch Nhân Kiệt trầm tư suy nghĩ, cảm thấy mình phải đi vấn an bậc cao nhân này, bèn lên tiếng hỏi, “Ngài có thể cho ta biết hiện Thiên sư đang ngụ ở đâu trong đạo quán?” “Bẩm, bần đạo đã bố trí Tây lầu làm nơi nghỉ ngơi cho Thiên sư. Đại nhân có thể diện kiến ngài ấy ở đại sảnh khi buổi diễn xướng diễn ra. Ngài cũng sẽ gặp Bao phu nhân, một quả phụ sùng đạo đến từ kinh thành. Vài ngày trước, phu nhân đã đến đây cùng lệnh ái tên Bạch Hồng, vị tiểu thư này ngỏ ý muốn được thọ giới tại đây. Ngoài ra còn có Tông Lê, một thi sĩ trẻ cũng có chút tiếng tăm vị công tử ấy đã lưu lại đạo quan vài tuần nay. Hiện chúng bần đạo chỉ có vài khách nhân thăm viếng, nhiều người đã phải tiếc nuối cáo lỗi do thời tiết quá khắc nghiệt. Tất nhiên còn có đoàn kịch của hí đầu Quan Lại, song đại nhân không cần bận tâm đến đám người vô luân ấy làm gì.” Địch Nhân Kiệt tức giận hỉ mũi, cảm thấy thật bất công khi người đời khinh rẻ nghiệp ca vũ và coi đào kép là những kẻ xướng ca vô loài. Ông đã tưởng đạo trưởng sẽ có cách nhìn nhân văn hơn. Huyện lệnh ôn tồn nói, “Theo bản quan, đào kép cũng có vai trò hữu ích. Thông qua những màn diễn mua vui bình dân, họ khuấy động cuộc sống buồn tẻ của quảng đại quần chúng. Hơn nữa, những vở kịch lịch sử sẽ giúp bách tính hiểu hơn về quá khứ hào hùng của chúng ta. Tiếc là các buổi diễn xướng của ngài lại thiếu vắng khía cạnh này.” Đạo trưởng trả lời cứng nhắc, “Thưa đại nhân, thay vì tập trung vào những danh nhân lịch sử các buổi diễn xướng của chúng bần đạo hàm chứa đầy dụ ngôn. Chúng truyền bá Chính đạo tại thượng mà mấy vở kịch thông thường không thể bì được.” Ông ta mỉm cười cầu hòa rồi nói thêm, “Bần đạo hy vọng đại nhân không vì thế mà cho rằng các buổi diễn xướng coi nhẹ lịch sử. Y phục và những chiếc mặt nạ được chế tác từ hơn một trăm năm trước tại chính bản quán, đó thực sự là những món đồ cổ trân quý. Kính mời đại nhân theo bần đạo đến đại sảnh. Buổi diễn xướng đã bắt đầu từ lúc chính ngọ, hẳn mọi người đang diễn đến những màn cuối cùng. Sau đó, bản quán sẽ dọn lên một bữa ăn đơn sơ đạm bạc mời khách, mong đại nhân có thể dùng cơm cùng chúng bần đạo.” Địch Nhân Kiệt không mấy thoải mái khi phải tham dự các buổi tiệc trang trọng, nhưng thân là huyện lệnh Hán Nguyên, ông không tiện từ chối. “Một vinh dự cho bản quan,” Địch Nhân Kiệt vui vẻ đáp. Sau khi đứng dậy, đạo trưởng dẫn lối cho huyện lệnh. Ra khỏi cửa, ông ta nhanh chóng nhìn khắp hành lang tờ mờ tối, nhẹ nhõm trước quang cảnh vắng lặng bên ngoài. Sau đó, đạo trưởng cung kính đưa huyện lệnh đến cánh cửa cao của đại sảnh. HỒI 5 Xem hát xướng, Địch Công kinh sợ Trên lầu cao, phát hiện nghi can Bước vào đại sảnh rộng lớn, họ được nghênh đón bằng những thanh âm inh ỏi của chiêng la, chũm chọe và mấy thứ đàn chói tai khác. Bên trái, các đạo sĩ ngồi trên một bục nhỏ, gân cổ chơi nhạc khí. Những cột trụ to và cao vút chống đỡ mái trần cổ kính đen bóng. Ánh sáng từ một tá đèn lồng lớn đánh bóng lớp áo choàng vàng tươi của hơn một trăm đạo sĩ ngồi trong đại sảnh. Các đạo sĩ kính cẩn đứng lên khi đạo trưởng dẫn huyện lệnh đi dọc theo lối giữa sảnh đường. Họ đến một bục cao ở tận cuối phòng, cạnh sân khấu. Đạo trưởng ngồi xuống chiếc ghế tựa lưng cao bằng gỗ mun chạm trổ tinh vi, mời Địch Nhân Kiệt ngồi bên phải mình. Chiếc ghế bên trái của đạo trưởng hãy còn trống. Viên giám viện béo lùn bước tới, báo rằng Tôn Thiên sư đã rời đi, nhưng ngài ấy sẽ sớm quay lại. Đạo trưởng gật đầu, bảo viên giám viện mang trà bánh lên mời khách. Địch Nhân Kiệt tò mò ngước nhìn hoạt cảnh tráng lệ đang diễn ra trên sân khấu, được soi tỏ bằng một hàng đèn lồng đỏ. Chính giữa, một mỹ nữ đang ngự trên ngai gỗ thếp vàng. Mình vận xiêm y xanh đỏ lấp lánh những họa tiết hoàng kim, tóc búi cao được tô điểm bởi vô vàn hoa giấy, tay cầm ngọc trượng, rõ ràng nàng đang vào vai Tây Vương Mẫu. Tám nhân vật khác, gồm bảy nam và một nữ, đều vận y phục lộng lẫy bằng lụa thêu, đang khoan thai múa trước mặt Vương Mẫu trên nền nhạc thiên thai. Họ là Bát Tiên đang làm lễ tôn kính Vương Mẫu Nương Nương. “Đó là hai đạo cô chăng?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Bẩm đại nhân, không phải,” đạo trưởng trả lời. “Vương Mẫu Nương Nương do một ả đào thuộc đoàn kịch của lão Quan đóng, hình như nàng ta họ Đinh. Giữa hai hồi kịch, cô nương ấy còn diễn một màn nhào lộn và tung hứng chén đĩa rất khéo. Còn người đóng vai Hà Tiên Cô chính là thê tử của lão Quan.” Xem được một lúc, Địch Nhân Kiệt cảm thấy khá nhàm chán, có lẽ ông không có tâm trạng để xem kịch lúc này. Đầu ông nhói đau, tay chân thì lạnh cóng. Phía bên kia sân khấu, một bức bình phong dựng kín ba mặt để hai nữ nhân bên trong có thể xem kịch một cách riêng tư, không bị người ngoài nhòm ngó. Một phu nhân đẫy đà dặm đầy phấn son, mặc y phục phú quý bằng vóc đen tuyền, ngồi cạnh một thiếu nữ cũng vận xiêm y đen. Khuôn mặt thanh tú của thiếu nữ không hề tô son điểm phấn, đôi mày ngọa tằm đen và rậm. Cả hai đều đang mải mê theo dõi màn diễn xướng phô trương. Để ý thấy Địch Nhân Kiệt đang quan sát hai nữ nhân, đạo trưởng cất tiếng, “Bẩm, đó là Bao phu nhân và lệnh ái Bạch Hồng.” Huyện lệnh nhìn qua Bát Tiên đang bước xuống sân khấu, Tây Vương Mẫu theo sau dưới sự dẫn lối của hai tiểu đồng trong vai tiên đồng ngọc nữ. Tiếng nhạc kết thúc bằng một tiếng cồng lớn vang vọng khắp sảnh. Các đạo sĩ trầm trồ không ngớt. Địch Nhân Kiệt hắt hơi thêm cái nữa, hẳn vừa có một cơn gió lạnh lùa qua. “Một màn diễn xướng tuyệt vời!” Ông bình phẩm với đạo trưởng. Đào Cam đến gần sau lưng Địch Nhân Kiệt, thì thầm, “Bẩm đại nhân, viên giám viện có chút việc bận nhưng thuộc hạ đã hỏi được đạo sĩ phát chẩn ở đây. Người này nói không đạo sĩ nào có sơ đồ của đạo quán.” Địch Nhân Kiệt gật đầu. Sảnh đường lại trở nên im lặng. Một nam nhân cao lớn với gương mặt khoáng đạt và linh hoạt, xuất hiện trên sân khấu. Đó chính là lão Quan, hí đầu của đoàn kịch. Lão cúi thấp mình với đạo trưởng, dõng dạc nói, “Được đạo trưởng cho phép, như thường lệ, bọn tiểu nhân xin diễn một màn ngắn đế kết thúc vở kịch, đây là con đường của một du hồn muốn tìm kiếm Cứu rỗi. Âu Dương cô nương sẽ đóng vai linh hồn lạc lối bị Vô Minh tấn công, vai diễn đặc biệt này do một chú gấu đảm nhận!” Tiếng rì rầm ngạc nhiên nhanh chóng chìm xuống giai điệu thê lương, xen kẽ với tiếng kèn đồng ai oán vang lên khắp sảnh đường. Một thiếu nữ mặc xiêm y trắng với đôi ống tay áo rộng dài thướt tha bước lên sân khấu. Nàng bắt đầu điệu vũ một cách chậm rãi, xoay tròn tấm thân mảnh dẻ, khiến đôi ống tay áo dài và hai dải dây lưng đỏ bay lượn theo. Địch Nhân Kiệt chăm chú nhìn khuôn mặt trang điểm đậm của thiếu nữ, rồi liếc về phía thiếu nữ ngồi sau tấm bình phong, nhưng vị phu nhân béo tốt kia lại nghiêng mình và che lấp cả nhi nữ. Nhất thời, Địch Nhân Kiệt kinh ngạc bảo Đào Cam, “Nữ nhân đang múa không phải một ả đào mà chính là Bao tiểu thư, thiếu nữ ngồi phía bên kia sân khấu!” Đào Cam kiễng chân ngó nghiêng, đáp, “Đại nhân, thiếu nữ vẫn đang ngồi chỗ cũ, cạnh vị phu nhân đẫy đà mà.” Địch Nhân Kiệt vươn cổ dòm qua lần nữa, “Ừ nhỉ,” ông chậm rãi nói, “nhưng trông nàng ta có vẻ hoảng sợ như vừa gặp quỷ. Mà sao ả đào kia lại giống Bao tiểu thư đến vậy? Có lẽ nào…” Đột nhiên, ông sững lại. Một nam nhân lực lưỡng vận trang phục chiến binh đầy uy phong xuất hiện trên sân khấu, bộ y phục đen bó sát làm nổi bật thân hình hộ pháp mà uyển chuyển của hắn. Ánh sáng đỏ lấp loáng trên chiếc mũ giáp tròn cùng thanh trường kiếm đang ngoáy tít. Mặt hắn bôi phấn đỏ với những vạch trắng chạy dài trên má. “Đó chính là nam nhân mà ta đã trông thấy cùng với nữ nhân cụt tay,” Địch Nhân Kiệt thì thầm với Đào Cam. “Mau gọi hí đầu lại đây!” Chiến binh tỏ rõ là một kiếm sĩ tài ba, hắn vừa nhảy múa quanh thiếu nữ vừa đi những đường ảo kiếm tuyệt hảo. Nữ nhân uốn mình đầy duyên dáng né tránh lưỡi kiếm. Chiến binh tiến lại từng bước, từng bước theo nhịp trống. Thanh kiếm múa sát trên đầu thiếu nữ rồi bất ngờ chém xuống, chỉ cách vai nàng chưa đầy sợi tóc. Một tiếng kêu nức nở vang lên từ chỗ hai nữ khán giả. Địch Nhân Kiệt thấy Bao tiểu thư đứng hẳn dậy, hoảng hốt nhìn chằm chằm vào hai nhân vật trên sân khấu, hai tay bấu chặt lấy chiếc khăn lụa. Bao phu nhân nói gì đó với nhi nữ, nhưng dường như nàng không hề để tâm. Địch Nhân Kiệt lại nhìn sân khấu. “Sơ sẩy chỉ một động tác là sẽ đổ máu!” Địch Nhân Kiệt lo lắng nói với đạo trưởng. “Mà đó là ai?” “Bẩm đại nhân, hắn là một kép hát tên Mặc Đức,” đạo trưởng đáp. “Đúng là hắn múa kiếm quá mạo hiểm, nhưng giờ có vẻ cẩn trọng hơn rồi.” Chiến binh đã thôi không xuất kiếm về phía thiếu nữ nữa. Lùi xa ra, hắn tiếp tục tung một loạt chiêu kiếm phức tạp, gương mặt hóa trang ánh lên một cách kỳ lạ dưới quầng sáng của đèn lồng. Đào Cam tiến về phía Địch Nhân Kiệt, giới thiệu lão hí đầu Quan Lại. “Sao ngươi không giới thiệu Mặc Đức sẽ tham gia vào màn diễn này?” Địch Nhân Kiệt gay gắt hỏi. Lão Quan mỉm cười đáp, “Bẩm đại nhân, khi biểu diễn bọn thảo dân thường hay phải ứng biến. Mặc Đức thích phô trương kiếm thuật, do đó hắn được phân vai Nghi tâm đi hành hạ linh hồn lạc lối.” “Ta còn tưởng hắn thực sự đang hành hạ thiếu nữ kia,” Địch Nhân Kiệt xẵng giọng. “Nhìn đi, hắn lại tiếp tục tấn công nàng!” Lúc này, thiếu nữ rõ ràng là đang gặp khó khăn trong việc tránh né những đường truy kiếm nhắm vào mình, khuôn ngực phập phồng gấp gáp, mồ hôi túa ra trên mặt. Huyện lệnh cảm thấy có gì đó bất thường ở cánh tay trái giấu trong ống tay áo rộng dài của nàng. Dường như từ đầu tới giờ, thiếu nữ không hề cử động cánh tay đó mà luôn ép sát nó vào người. Địch Nhân Kiệt bực bội với bản thân, cho rằng mình nhìn đâu cũng ra những nữ nhân cụt tay. Ông cần phải trấn tĩnh lại. Thời điểm Địch Nhân Kiệt nhấc mình, đúng lúc một nhát truy kiếm chém ngọt mất một manh ống tay áo đang múa lượn của thiếu nữ. Lại có tiếng kêu thất thanh phát ra từ sau tấm bình phong. Địch Nhân Kiệt đứng bật dậy, định kêu gã chiến binh dừng tay. Nhưng ngay lúc đó, thiếu nữ trên sân khấu liền huýt sáo, một con gấu đen lừng lững bước ra. Con vật quay cái đầu to lớn về phía chiến binh, hắn nhanh chóng phải rút vào một góc. Huyện lệnh lại ngồi xuống. Con gấu từ từ đi về phía thiếu nữ, vừa lắc lư cái đầu vừa gầm gừ. Nàng tỏ vẻ vô cùng hoảng sợ, lấy ống tay áo bên phải che mặt. Con thú tiếp tục tiến đến. Tiếng nhạc im bặt, một sự im lặng chết chóc bao trùm đại sảnh. “Con ác thú sẽ giết chết nàng!” huyện lệnh thảng thốt. “Thưa đại nhân, con vật đó được chính tay Âu Dương cô nương thuần hóa,” lão Quan trấn an. “Hơn nữa, nó đã bị xích vào một cột trụ phía sau sân khấu rồi.” Địch Nhân Kiệt im lặng. Những gì diễn ra làm ông mất hứng. Ông để ý thấy Bao tiểu thư đã ngồi lại xuống chỗ của mình, dường như không còn hào hứng với vở kịch trước mắt, khuôn mặt hãy còn tái nhợt. Chiến binh múa những đường kiếm cuối cùng rồi biến mất hẳn. Vũ điệu của thiếu nữ ngày một dồn dập, nàng uyển chuyển xoay mình trên những đầu ngón chân, thân hình nhẹ nhàng tựa chim yến. Con gấu tiếp tục vờn quanh nàng. “Tên kia biến đi đâu rồi?” Địch Nhân Kiệt hỏi lão Quan. “Bẩm đại nhân, Mặc Đức đã lui vào buồng thay y phục rồi ạ,” lão hí đầu đáp. “Hắn sốt ruột muốn được tẩy trang và cởi bỏ giáp mão.” “Hắn đã diễn mấy canh giờ rồi à?” huyện lệnh thắc mắc. “Bẩm, Mặc Đức bắt đầu diễn từ sau hồi nghỉ giữa hai vở,” lão Quan mỉm cười trả lời. “Trong suốt lúc diễn, hắn phải đeo một chiếc mặt nạ gỗ nặng nề để đóng vai Diêm Vương. Đại nhân thấy đấy, chỉ mình hắn vẫn tỏ ra sung sức kỳ lạ, trong khi những đào kép khác giờ đã mệt nhoài. Vừa nãy Mặc Đức tình nguyện ra biểu diễn tiếp, bởi vì hắn không thể cưỡng lại được khao khát thể hiện kiếm thuật tài ba của mình.” Địch Nhân Kiệt không nghe thêm những câu nói sau. Mắt ông còn mải dán chặt lấy sân khấu, lúc này con gấu đã đứng thẳng trên hai chân sau. Con thú gầm gừ giận dữ, vươn móng vuốt sắc nhọn về phía thiếu nữ. Nàng vừa lùi lại thì đột nhiên con gấu vồ về phía trước, khiến nàng ngã ra sàn. Con ác thú khom mình trên người thiếu nữ há to cái mõm khổng lồ và nhe những chiếc nanh vàng ởn. Địch Nhân Kiệt nén tiếng kêu lại. Bỗng thiếu nữ luồn mình ra từ phía dưới con vật to xác, nhẹ nhàng đứng thẳng dậy. Nàng vỗ nhẹ lên đầu con gấu, cầm lấy sợi dây xích của nó rồi cúi đầu chào. Thiếu nữ dắt con thú ra khỏi sân khấu trong tiếng vỗ tay giòn giã của khán giả. Địch Nhân Kiệt quệt mồ hôi trên trán. Sự phấn khích đã làm ông quên mất cơn cảm mạo, nhưng giờ ông lại cảm thấy đau đầu dữ dội, Địch Nhân Kiệt toan đứng lên, chợt đạo trưởng níu tay ông lại, “Giờ là lúc thi sĩ Tông Lê ngâm lời bạt!” Một nam nhân với gương mặt lanh lợi, mày râu nhẵn nhụi đứng giữa sân khấu. Y cúi đầu chào, sau đó lấy giọng trầm vang ngâm nga: “Tứ tọa mạc huyên hoa, Tấu nhã nghi khúc chung. Phát ngôn ký thiên lý, Khởi tất văn từ công, U minh bằng thùy thức, Tiên quỷ hà mông lông. Trường phong tán triều vân, Nhất luân tịnh bích không.”* Nghĩa bài thơ Tứ toạ chớ xôn xao Nghi thức tấu nhã ngừng Lời này gửi Thiên lý, Công văn, nhất định thưa. Chuyện Âm Dương ai biết, Tiên Quỷ thì mông lung. Gió thổi tan mây sớm, Trở lại trời xanh trong Y cúi đầu một lần nữa và lui ra khỏi sân khấu. Đội nhạc khí tấu lên giai điệu cuối cùng kết thúc buổi lễ. Địch Nhân Kiệt dò hỏi nhìn đạo trưởng. Một câu thơ như ‘trường phong tán triều vân’* mang đầy điềm gở và khiếm nhã với một đạo quán mang tên Triều Vân. trường phong tán triều vân còn có thể hiểu là ‘Gió thổi đổ quán Triều Vân’. Đạo trưởng quát lão hí đầu, “Gọi tên thi sĩ ấy ra đây!” Đoạn, ông ta quay sang Địch Nhân Kiệt, “Tên tiểu tử đó quả là láo xược!” Khi thanh niên đến trước mặt họ, đạo trưởng lập tức truy hỏi, “Điều gì khiến công tử đề câu thơ cuối như vậy? Nó đã phá hỏng bầu không khí tốt lành của nghi lễ trang nghiêm này!” Thanh niên có vẻ khá thoải mái, ngạo nghễ nhìn đạo trưởng rồi mỉm cười đáp, “Thưa ngài, câu thơ cuối sao? Tiểu sinh e phải là câu thơ gần cuối mới phải. Ngài biết đó, thường khó mà tìm được đúng nhịp điệu để gieo vần!” Đạo trưởng bực bội, chưa kịp lên tiếng thì Tông Lê đã bình thản nói tiếp, “Tất nhiên với những bài thơ ngắn thì dễ gieo vần hơn, giống như thế này: Chân nhân phiêu dật lên pháp đàn Đạp Cương giẫm Đẩu tuyên diệu đạo Ngọc lang lo lắng uống Hoàng tuyền Hối hận ăn kim đan hỏi thọ tang.” Đạo trưởng giận dữ nện mạnh tích trượng xuống sàn, cơ mặt giần giật. Địch Nhân Kiệt chờ đợi một cơn thịnh nộ sắp bùng nổ, nhưng cuối cùng đạo trưởng đã kiềm chế lại, chỉ lạnh lùng nói, “Tông Lê công tử, mời đi cho!” Thi sĩ chế nhạo đạo trưởng Đoạn, đạo trưởng đứng dậy, huyện lệnh nhận thấy tay đối phương vẫn còn run lên vì tức giận. Địch Nhân Kiệt bèn nói lời cáo từ. Ông vừa bước ra cửa, vừa nói với Đào Cam, “Bây giờ chúng ta hãy đến buồng thay y phục, ta có chuyện muốn hỏi gã Mặc Đức kia. Ngươi có biết căn buồng đó ở đâu không?” “Bẩm đại nhân, nó nằm cùng lầu với buồng của thuộc hạ, phía hành lang bên.” “Ta chưa từng thấy cái tổ kiến nào nhiều ngóc ngách như đạo quán này!” Địch Nhân Kiệt lẩm bẩm. “Sao lại không có lấy một sơ đồ? Bọn họ phải sở hữu một bản sơ đồ kiến trúc toàn diện theo luật pháp Đại Đường chứ?” “Bẩm đại nhân, vị đạo sĩ phát chẩn kia còn nói rằng khu biệt điện luôn luôn đóng kín, chỉ có đạo trưởng và các cao tầng đạo sĩ mới được phép vào đó. Cấm địa như vậy cũng không được đưa vào sơ đồ hay bản miêu tả. Đạo sĩ phát chẩn đó cũng đồng tình rằng thật bất tiện khi một nơi rộng lớn thế này lại không có sơ đồ. Ngay cả các đạo sĩ cũng thỉnh thoảng bị lạc đường.” “Thật lố lăng!” Địch Nhân Kiệt cáu kỉnh nói. “Chỉ vì Hoàng tộc chiếu cố đến Đạo giáo mà những đạo sĩ này tự cho mình ở trên cả vương pháp? Ta còn nghe nói ảnh hưởng của Phật giáo đang ngày một tăng trong triều. Thật không biết hai tôn giáo này, cái nào tệ hơn nữa!” Đoạn, Địch Nhân Kiệt rảo bước về phía căn buồng đối diện sảnh đường, nói với vị đạo trưởng ở đó rằng sau khi thay đồ, mình muốn một tiểu đồng dẫn đường đến tòa lầu của Tôn Thiên sư. Đào Cam mượn đạo trưởng chiếc đèn lồng, rồi họ đứng đợi ngoài cửa cho đến khi các đạo sĩ lần lượt ra khỏi sảnh đường và rời đi hết. “Nhìn tất cả những thanh niên trai tráng kia đi!” Địch Nhân Kiệt chua chát nói. “Đáng ra họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình, lập gia thất và giáo dưỡng nhi tử!” Ông lại hắt hơi. Đào Cam lo lắng nhìn huyện lệnh. Địch Nhân Kiệt vốn là một người vô cùng điềm tĩnh, tâm vững như bàn thạch, hiếm khi nào bộc lộ sự khó chịu của bản thân như vậy. Y dè dặt hỏi, “Đại nhân, đạo trưởng đã giải thích thỏa đáng về cái chết của ba cô nương xảy ra ở đây chưa ạ?” “Chưa đâu!” Địch Nhân Kiệt nhấn mạnh. “Đúng như ta nghĩ, chuyện này còn nhiều điểm rất đáng ngờ. Khi trở về Hán Nguyên, trước tiên ta sẽ cử người đi hỏi thăm gia quyến của các thiếu nữ để tìm hiểu thêm về họ. Sau đó, chúng ta sẽ trở lại đạo quán này cùng với lão Hồng, Mã Vinh, Kiều Thái, vài lục sự cùng một tá bộ khoái, rồi ta sẽ tiến hành tra xét tổng thể. Đương nhiên là còn lâu mới báo trước! Đó sẽ là bất ngờ nho nhỏ mà ta dành riêng cho đạo trưởng lão bằng hữu!” HỒI 6 Tới đoàn kịch, thi sĩ châm biếm Tiếng thầm thì dự báo tử vong Đào Cam gật đầu đồng tình, “Bẩm đại nhân, vị phát chẩn đạo sĩ cũng kể một câu chuyện y hệt về vong hồn những người đã bỏ mạng ở đây hàng trăm năm trước. Giờ thuộc hạ đã biết lý do tiểu đồng lại chăm chú nghe ngóng ngoài hành lang!” “Tại sao vậy?” Địch Nhân Kiệt vuốt ria hỏi. “Bẩm, thiên hạ đồn rằng thỉnh thoảng những hồn ma này sẽ thì thầm gọi tên ai đấy, người nào nghe thấy tên mình sẽ bỏ mạng ngay sau đó.” “Đúng là mê tín dị đoan! Mau lên buồng thay y phục thôi.” Khi họ đặt chân lên chiếu nghỉ thứ nhất, Địch Nhân Kiệt vô tình nhìn lướt qua hành lang nhỏ hẹp tranh tối tranh sáng bên phải. Ông chợt dừng bước. Một thiếu nữ mảnh mai vận xiêm y trăng đang vội vã chạy ra. “Đó là ả đào đã diễn kịch với con gấu!” Địch Nhân Kiệt vội nói với Đào Cam. “Ta muốn nói chuyện với cô nương ấy! Nàng ta tên gì ấy nhỉ?” “Dạ, đó là Âu Dương cô nương.” Huyện lệnh vội chạy theo tà áo trắng, lúc gần đuổi kịp nàng, ông gọi, “Chờ đã, Âu Dương cô nương!” Thiếu nữ quay lại và kêu lên thảng thốt, khuôn mặt nàng tái nhợt, còn đôi mắt thì mở to đầy sợ hãi. Biểu cảm này khiến ông thấy nàng giống Bao tiểu thư đến lạ. Địch Nhân Kiệt nhẹ nhàng lên tiếng, “Âu Dương cô nương không phải sợ hãi. Ta chỉ muốn khen ngợi màn diễn vừa rồi. Quả là…” “Đa tạ đại nhân chiếu cố!” Thiếu nữ nền nã cắt lời ông, “Tiếc là tiểu nữ phải đi ngay, tiểu nữ đang rất vội…” Thiếu nữ lo lắng nhìn Địch Nhân Kiệt rồi quay người dợm bước đi. “Khoan!” Địch Nhân Kiệt ra lệnh. “Bản quan là huyện lệnh Hán Nguyên, có chút chuyện muốn hỏi cô nương. Trông ngươi khá lo lắng, họa chăng gã đào kép Mặc Đức đang quấy rầy ngươi?” Thiếu nữ nôn nóng lắc đầu. “Bẩm, tiểu nữ phải đi cho gấu ăn,” nàng nói nhanh. Huyện lệnh ngó thấy cánh tay trái luôn nép sát bên hông của thiếu nữ, miệng hỏi lớn, “Cánh tay trái kia làm sao vậy? Họ Mặc đã chém trúng ngươi chăng?” “Dạ bẩm, không phải đâu, hồi trước tiểu nữ bị con gấu cào vào tay. Thực sự tiểu nữ cần phải…” “Đại nhân, tiểu sinh e bài thơ vừa rồi không làm ngài hứng thú?” một giọng nói hoan hỉ cất lên từ sau lưng họ. Địch Nhân Kiệt quay lại, nhìn thấy Tông Lê đang làm bộ làm tịch khom người thi lễ. “Quả thật như vậy,” huyện lệnh bực bội đáp. “Giả như bản quan là đạo trưởng, ta đã tống cổ ngươi ra khỏi đây!” Ông quay sang thiếu nữ nhưng nàng đã không còn ở đó. “Đại nhân, đạo trưởng sẽ phải suy nghĩ kỹ trước khi tống tiểu sinh đi,” thi sĩ trẻ tự mãn nói. “Gia phụ quá cố của tiểu sinh chính là Tông học sĩ, một đại thí chủ* của đạo quán này. Hiện Tông gia vẫn thường xuyên quyên góp công đức vào đây.” thí chủ ở đây hiểu theo nghĩa người bảo trợ cho đạo quán. Địch Nhân Kiệt nhìn thanh niên một lượt từ đầu đến chân. “Ra ngươi chính là lệnh lang của cố Tuần phủ Tông Pháp Mạnh,” ông nói, “Tuần phủ đại nhân là một học giả lớn, ta đã đọc cuốn cẩm nang trị nhậm của ngài. Đến lệnh phụ của ngươi cũng không ưa nổi mấy vần thơ con cóc đó!” “Bẩm, tiểu sinh chỉ muốn chọc tức lão đạo trưởng thôi,” Tông Lê ngượng ngùng thú nhận. “Ông ta lúc nào tự cho mình là đức cao vọng trọng hơn người! Gia phụ chưa bao giờ coi trọng ông ta.” Huyện lệnh nói, “Dù vậy, bài thơ đó vẫn rất khiếm nhã. Quỷ thần phương nào nhập, khiến ngươi đi gieo những vần thơ ngớ ngẩn về cố chân nhân vậy?” “Đại nhân không biết gì thật sao?” Tông Lê ngạc nhiên hỏi. “Hai năm trước, đạo trưởng tiền nhiệm của đạo quán này là Ngọc Kính chân nhân đã viên tịch, hay gọi là ‘vũ hóa’ theo cách nói văn hoa của mấy đạo sĩ. Ngài đã được ướp xác, hiện tại pháp thể được đặt tại địa cung, bên dưới tiểu điện thờ vị tổ sư sáng lập đạo quán trong khu biệt điện, cố đạo trưởng Ngọc Kính là một bậc cao nhân, cả khi còn sống lẫn lúc đã viên tịch.” Địch Nhân Kiệt không nói gì thêm. Ông đã có đủ mối lo nghĩ, chẳng buồn quan tâm đến thân thế và sự nghiệp các vị đạo trưởng trong suốt lịch sử Triều Vân quán. Huyện lệnh nói, “Tông công tử, bản quan đang trên đường đến buồng thay y phục của đoàn kịch, xin cáo từ.” “Tiểu sinh cũng đang định đến đó,” thanh niên cung kính nói. “Đại nhân, để tiểu sinh dẫn đường cho ngài.” Y dẫn hai người Địch Nhân Kiệt đi vòng vào một hành lang dài với hai dãy cửa hai bên. “Buồng của Âu Dương cô nương có gần đây không?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Bẩm, nó ở góc xa kia ạ,” Tông Lê đáp. “Tiểu sinh sẽ không liều lĩnh bước vào khi nàng ta vắng mặt đâu! Con gấu kia cực kỳ nguy hiểm.” “Hẳn nàng ta đang ở trong buồng,” Địch Nhân Kiệt nói. “Hồi nãy gặp chúng ta, chẳng phải ngươi cũng trông thấy Âu Dương cô nương sao?” “Đại nhân, làm sao có thể ạ?” Thi sĩ kinh ngạc. “Ngay trước khi gặp đại nhân, tiểu sinh đã trò chuyện với Âu Dương cô nương dưới sảnh đường. Nàng ta vẫn còn ở đó mà!” Huyện lệnh trợn mắt nhìn thanh niên, rồi liếc sang Đào Cam. Trợ thủ của ông lắc đầu bối rối. Tông Lê gõ cửa căn buồng gần cuối hành lang, rồi họ bước vào một căn buồng rộng rãi nhưng lộn xộn. Quan Lại và hai nữ nhân đang ngồi bên chiếc bàn tròn nhanh chóng đứng dậy, cúi thấp người thi lễ. Lão Quan giới thiệu thiếu nữ xinh đẹp họ Đinh, là ả đào đóng vai Tây Vương Mẫu, còn rất giỏi nhào lộn và tung hứng mà lão đã kể lúc trước. Về phần thiếu phụ trung tuổi có phần xuềnh xoàng kia, nàng là thê tử của hí đầu. Địch Nhân Kiệt khen vở kịch mấy câu, khiến lão choáng ngợp vì được quan trên chiếu cố. Quan Lại bối rối, không biết liệu mình có quá xấc xược khi mời huyện lệnh an tọa cùng họ hay không. Nhưng không cần ai mời, Địch Nhân Kiệt đã tự nhiên ngồi xuống, giải tỏa sự lúng túng cho lão, Đào Cam đứng ngay phía sau huyện lệnh. Tông Lê ngồi đối diện với ông, cạnh vò rượu đất nung cũ kỹ. Địch Nhân Kiệt lên tiếng, “Âu Dương cô nương và Mặc Đức đâu? Ta cũng có đôi lời khen ngợi họ. Kiếm thuật của họ Mặc thực tài ba, còn màn diễn của Âu Dương cô nương với con gấu đã làm ta dựng tóc gáy từ đầu đến cuối!” Lời tán thưởng này vẫn chưa làm cho Quan Lại hết bối rối. Lúc rót rượu cho huyện lệnh, tay lão run run làm rớt một chút ra bàn. Lão lúng túng ngồi xuống, “Bẩm đại nhân, hẳn Mặc Đức đã đến nhà kho để trả lại y phục mà hắn mượn diễn.” Chỉ vào đống giấy nhăn nhúm dính đầy phấn đỏ trên bàn trang điểm, lão Quan nói thêm, “Bẩm, hắn vừa mới ở đây để tẩy lớp phấn trên mặt. Còn Âu Dương cô nương, lúc ở lầu dưới nàng nói rằng sẽ đến đây ngay sau khi cho gấu ăn.” Địch Nhân Kiệt đứng dậy, tiến tới phía bàn trang điểm, vờ soi gương chỉnh lại mũ. Ông liếc đống giấy nhàu nhĩ, hộp đựng sáp và phấn màu, tự nhủ những vết đỏ kia cũng có thể là máu. Khi trở lại vị trí Địch Nhân Kiệt nhận thấy Quan phu nhân đang lo lắng nhìn mình. Ông nhâm nhi chén rượu và hỏi lão Quan về mấy ngón nghề biểu diễn trong những vở kịch lịch sử. Lão hí đầu giải thích tràng giang đại hải một hồi mà Địch Nhân Kiệt chỉ lơ đãng nghe, một tai dỏng lên nghe ngóng câu chuyện của những người khác trong buồng. “Sao Đinh cô nương không giúp Âu Dương cô nương cho gấu ăn?” Tông Lê hỏi. “Chắc chắn nàng ta sẽ hoan hỉ lắm!” “Việc ai người ấy lo!” Đinh cô nương trả lời cộc lốc. “Sao công tử không qua mà săn sóc bóng hồng của mình?” Tông Lê mỉm cười ranh mãnh, “Biết làm sao được, Bao tiểu thư là một thiếu nữ duyên dáng, sao ta lại không ngâm thơ tặng nàng ấy chứ? Ta còn làm cả một bài thơ cho cô nương nữa kìa: “Phù dung bách hợp nở rộ Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Âm dương xoắn quyện với nhau Dương trên âm dưới mới thời nên xuân. Âm mà kết hợp với âm Như hoa thiếu bướm, trái ngọt không đơm.” Địch Nhân Kiệt liếc thấy gương mặt Đinh cô nương đỏ bừng. Ông nghe Quan phu nhân nhắc nhở, “Tông công tử, mong công tử chú ý lời ăn tiếng nói!” “Ta chỉ muốn cảnh báo nàng ấy thôi,” Tông Lê bình thản nói. “Phu nhân có hay, hiện trên kinh thành đang lưu truyền một bài đồng dao?” Y giơ ngón tay đánh nhịp, ngân nga một giai điệu vui nhộn, cất giọng trầm ấm ngâm nga: “Đôi mươi em chưa lấy chồng, Hãy còn mong chàng nào tới rước. Hai nhăm xuân em vẫn nằm không, Cả đời gối chiếc chăn đơn lạnh lùng!” Đinh cô nương nổi giận toan lên tiếng, nhưng Địch Nhân Kiệt đã kịp thời can thiệp. Ông lạnh lùng nói với thi sĩ, “Tông công tử, ngươi đã làm gián đoạn cuộc trò chuyện của ta rồi đấy. Cho ngươi hay, ta không phải người thích bông đùa bỡn cợt đâu. Hãy dành mấy lời chòng ghẹo của ngươi cho người thích hợp đi.” Đoạn, ông quay sang lão Quan, “Bản quan phải về thay y phục cho buổi tiệc. Lần tới gặp ta, ngươi chớ có ngại!” Dứt lời, huyện lệnh cất bước ra ngoài, Đào Cam theo sau. Cửa đã đóng lại mà lão hí đầu vẫn chưa hết lúng túng. Địch Nhân Kiệt dặn trợ thủ, “Trước khi đi, ta phải tìm cho được Mặc Đức. Ngươi hãy ở lại đây uống thêm vài chén với mấy người này. Ta thấy có nhiều điều mờ ám, cần ngươi tìm hiểu xem có chuyện gì đang diễn ra ở đây. Nhân thể, mấy thứ ‘âm’, ‘dương’ mà tay thi sĩ nửa mùa kia nói có nghĩa là gì?” Đào Cam hơi ngượng ngùng, húng hắng đáp, “Bẩm đại nhân, đó là những từ thông tục, ‘dương’ ám chỉ nam nhân, còn ‘âm’ ám chỉ nữ nhân.” “Ra vậy. À, khi Âu Dương cô nương quay trở lại, nhớ hỏi rõ nàng ta đã ở lầu dưới bao lâu. Một người không thể cùng lúc xuất hiện ở cả hai nơi được!” “Đại nhân, hẳn tay thi sĩ kia đã nói dối về việc gặp Âu Dương cô nương! Hắn còn giả vờ không nhìn thấy thiếu nữ trò chuyện với chúng ta. Đúng là hành lang đó khá hẹp, chúng ta lại đứng chắn giữa, nhưng khó có chuyện hắn không nhìn thấy nàng ta!” “Nếu Tông Lê nói thật thì sao?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Biết đâu thiếu nữ chúng ta gặp trong hành lang chính là Bao tiểu thư đang đóng giả làm Âu Dương cô nương. Không, không thể thế được! Nữ nhân mà chúng ta gặp luôn ép sát cánh tay vào hông. Còn Bao tiểu thư đã dùng cả hai tay để nắm lấy chiếc khăn lụa lúc hoảng sợ trước đường kiếm của Mặc Đức. Ôi, thật không hiểu chuyện này ra làm sao nữa! Thôi ngươi hãy quay lại nghe ngóng thêm rồi lên buồng ta báo tin!” Ông đón lấy chiếc đèn lồng từ tay trợ thủ, bước lên cầu thang. Đào Cam một mình quay trở lại buồng thay y phục. Địch Nhân Kiệt nghĩ mình có thể nhớ được đường tới gian nhà kho. Trong lúc bước lên cầu thang của dãy nhà kế bên, ông cảm thấy lưng và chân mỏi rã rời. Địch Nhân Kiệt tự hỏi, phải chăng đó là do cơn phong hàn hay do lâu rồi mình không leo cầu thang. Ông thấy có cảm tình với lão Quan, còn Tông Lê chỉ là tên nhãi nhép chẳng mấy hữu dụng. Y hành xử suồng sã với các đào kép và rõ ràng là đang có tình ý với Bao tiểu thư. Đó quả là một mối tình vô vọng, Bao tiểu thư sắp thọ giới ngay tại Triều Vân quán. Trong bài thơ khiếm nhã dành cho Đinh cô nương, y đã ám chỉ một mối quan hệ thân mật giữa nàng ta và Âu Dương cô nương. Nhưng Địch Nhân Kiệt chẳng màng đến chuyện tình cảm của thiên hạ, hiện ông chỉ chú ý đến Mặc Đức. Huyện lệnh thở phào nhẹ nhõm khi lên đến khoảnh chiếu nghỉ có miệng giếng trời lộng gió. Ông nghe tiếng niệm khấn đơn điệu của các đạo sĩ vọng lên từ đại sảnh. Bước vào hành lang bên phải, Địch Nhân Kiệt ngạc nhiên khi thấy nơi này tối om. Giơ đèn lồng lên ông nhận ra mình đã đi nhầm đường. Hành lang này không có dãy cửa sổ bên phải và hẹp hơn so với đường dẫn đến nhà kho. Mạng nhện giăng đầy khắp lối. Ông toan quay bước về lối cũ thì đột nhiên nghe thấy tiếng thì thào. Địch Nhân Kiệt dừng bước lắng nghe, tự hỏi không biết tiếng động phát ra từ đâu. Hành lang hoàn toàn vắng vẻ; cuối đường chỉ có một tấm lưới sắt nặng nề. Ông bước hẳn vào hành lang, nhưng tiếng khấn của các đạo sĩ đã át hết những lời thì thầm mơ hồ kia. Khẽ nhăn mặt bối rối, ông lại trở ra. Đến giữa hành lang, tiếng thì thầm lại nổi lên nhưng Địch Nhân Kiệt không thể luận ra một từ nào. Đột nhiên ông nghe thấy: Địch Nhân Kiệt Rồi mọi thứ lại chìm vào im lặng. HỒI 7 Gặp đạo sĩ, Địch Công ngờ vực Nơi phòng kín, hỏi chuyện Đào Cam Địch Nhân Kiệt bực bội giật mạnh râu. Dù không muốn thừa nhận, nhưng giọng nói quái quỷ kia thực sự đã xáo động tâm trí ông. Huyện lệnh lấy lại bình tĩnh, tự nhủ có thể các đạo sĩ đang nói về mình trong một căn buồng hoặc thông đạo gần đó. Thường thì ở các tòa kiến trúc cổ, âm thanh vọng lại có thể trở nên kỳ quái khó lường. Ông đứng lắng nghe một lúc nhưng chẳng thấy gì nữa. Lời thì thào biến vào hư vô. Huyện lệnh nhún vai rồi quay trở lại chiếu nghỉ. Giờ ông mới nhìn ra mình đã rẽ sai lối, đường dẫn đến gian nhà kho nằm ở phía bên kia. Địch Nhân Kiệt nhanh chóng đi vòng qua miệng giếng trời và tìm được đúng đường. Ông nhận thấy có ba cửa sổ hẹp nằm phía tay phải. Cánh cửa nhà kho đang khép hờ, loáng thoáng có tiếng người nói vọng ra. Bước vào gian phòng, Địch Nhân Kiệt thất vọng khi trông thấy hai đạo sĩ đang bận khóa chiếc rương lớn bằng da phủ sơn mài đỏ. Mặc Đức không ở trong kho, nhưng ông liếc nhanh bức vách trái, thấy chiếc mũ giáp tròn được treo ngay ngắn trên bộ giáp trụ, thanh trường kiếm đã được tra vào bao. Ông cất tiếng hỏi lão nam nhân, “Xin hỏi vị đạo trưởng đây có thấy kép hát Mặc Đức đâu không?” “Bẩm đại nhân, bần đạo không thấy ai cả,” lão đạo sĩ trả lời. “Chúng ta chỉ vừa mới vào đây thôi.” Lão đạo sĩ này đối đáp lễ độ, nhưng Địch Nhân Kiệt không thích cái nhìn gắt gỏng của đạo sĩ còn lại, một thanh niên cao lớn với bờ vai rộng. Hắn rầu rĩ nhìn chằm chằm vào ông, “Ta muốn khen ngợi kiếm thuật của họ Mặc,” Địch Nhân Kiệt nói bâng quơ. Chắc là tay kép hát đó đã quay trở lại chỗ lão Quan, đã có Đào Cam theo dõi hắn ở đó. Ông bỏ công cuốc bộ một quãng đường dài để về buồng mình trên lầu ba của dãy nhà phía Đông. Địch Nhân Kiệt cảm thấy mệt mỏi khi gõ cửa. Một tỳ nữ chạy ra mở cửa, trong khi những tỳ nữ khác đứng nấu cơm tối trên chiếc bếp đặt ở góc buồng. Bước vào buồng ngủ, Địch Nhân Kiệt thấy ba vị phu nhân đang ngồi quây quần bên bàn trà, cùng nhau chơi mạt chược. Họ đứng dậy chào ông. Đại phu nhân hồ hởi, “Lão gia về đúng lúc quá, mời lão gia chơi cùng bọn thiếp một ván trước khi dùng bữa tối.” Địch Nhân Kiệt tiếc nuối nhìn các quân mạt chược trên bàn, đây là trò chơi ưa thích của ông. “Ta không dùng bữa tối cùng các nàng được rồi. Đạo trưởng tổ chức một bữa tiệc dưới lầu, ta phải tham dự. Cựu thái phó cũng có mặt nên ta không tiện từ chối.” “Ôi chao!” Đại phu nhân kêu lên, “Vậy có nghĩa là thiếp sẽ phải đến vấn an phu nhân của ngài ấy! “Nàng không cần làm gì cả, phu nhân của Tôn thái phó đã qua đời. Nhưng có lẽ ta phải vấn an ngài ấy trước buổi tiệc. Nàng mau lấy cho ta bộ lễ phục!” Ông hắt hơi mấy cái thật mạnh. “Thiếp mừng là mình không phải thay xiêm y!” Đại phu nhân nhẹ nhõm nói. “Nhưng thật bất tiện khi lão gia buộc phải đi lúc này. Chắc chắn lão gia đã nhiễm phong hàn. Trông lão gia giàn giụa nước mắt kìa!” Trong lúc đại phu nhân mở rương lấy chiếc trường bào gấm thêu màu lục bảo, tam phu nhân nói, “Thiếp sẽ làm cho lão gia một dải băng gạc có đắp thuốc vỏ cam. Nếu quấn nó quanh đầu, ngày mai lão gia sẽ hết bệnh ngay!” “Sao ta có thể tham gia bữa tiệc với một dải băng quấn quanh đầu?” Địch Nhân Kiệt thảng thốt. “Trông ta sẽ như một tên ngốc!” “Lão gia có thể kéo thấp mũ xuống để che đi mà.” Đại phu nhân vừa nói vừa giúp ông thay y phục. “Chẳng ai để ý đến nó đâu!” Địch huyện lệnh lẩm bẩm phản đối, nhưng tam phu nhân đã mau mắn lấy một nắm to vỏ cam khô từ hộp thuốc rồi nhúng vào bát nước nóng. Sau khi ngâm kỹ vỏ cam, nhị phu nhân bọc chúng vào một dải vải lanh và quấn chặt quanh đầu ông bại phu nhân kéo viền mũ nhung của ông xuống thấp, “Lão gia xem, có thấy gì nữa đâu!” Địch Nhân Kiệt cảm tạ các phu nhân và hứa sẽ trở về ngay khi bữa tiệc kết thúc. Ra đến ngoài cửa ông quay lại dặn dò, “Tối nay sẽ có đủ mọi thành phần khách nhân tụ tập ở đây. Các nàng hãy khóa cửa buồng ngoài cẩn thận, trước khi tỳ nữ thông báo khách nhân là ai thì đừng để người lạ bước vào.” Đoạn, huyện lệnh bước ra buồng ngoài, Đào Cam đã đợi sẵn ở đó. Ông sai bọn tỳ nữ vào buồng ngủ phục vụ trà cho các phu nhân, rồi mới cùng Đào Cam ngồi xuống bên bàn, “Mặc Đức có tới buồng lão Quan hay không? Ta mới mất dấu hắn.” “Bẩm đại nhân, không ạ,” Đào Cam đáp. “Chắc chắn hắn đã đi đâu đó. Nhưng ngài vừa rời khỏi thì Âu Dương cô nương tới. Sau khi tẩy trang, nàng ta không còn giống Bao tiểu thư mấy, mặc dù họ cùng có khuôn mặt trái xoan cân đối. Thuộc hạ nghĩ nữ nhân mà chúng ta gặp chính là Bao tiểu thư. Xin đại nhân hãy nhớ lại, giọng nói của Bao tiểu thư trong trẻo, trong khi giọng của Âu Dương cô nương hơi khàn. Mặc dù thuộc hạ không tự tin rằng mình am hiểu về nữ nhân, nhưng rõ ràng thiếu nữ ở hành lang có vóc dáng nở nang hơn Âu Dương cô nương.” “Nhưng nữ nhân mà chúng ta gặp có cánh tay trái bất động giống hệt Âu Dương cô nương. Vậy ả đào đó đã nói gì?” “Bẩm, nàng ta có vẻ ít nói và chỉ hoạt bát lên hơn khi nói chuyện với Đinh cô nương về ngón nghề nhào lộn. Thuộc hạ làm như vô tình, nhắc lại chuyện Tông Lê gặp nàng ta dưới sảnh đường. Âu Dương cô nương đã phũ phàng nói y là một thanh niên chán ngắt. Rồi thuộc hạ bảo ngài không hài lòng lắm khi nàng ta đột ngột biến mất khi đang nói chuyện với mình. Âu Dương cô nương sửng sốt nhìn thuộc hạ và lấp liếm sang chuyện khác, rằng con gấu cần được chăm sóc nhiều hơn.” “Có ai đó đang cố đánh lừa chúng ta!” Địch Nhân Kiệt kêu lên, giận dữ giật chòm râu, rồi hỏi tiếp, “Họ có nói gì về Mặc Đức không?” “Có vẻ họ Mặc là một nam nhân thất thường. Hắn theo đoàn kịch một vài tháng rồi lại biến mất. Hắn luôn đóng vai phản diện, lão Quan cho rằng vai diễn trên sân khấu cũng ảnh hưởng đôi chút tới đào kép. Theo thuộc hạ tìm hiểu thì Mặc Đức thích Đinh cô nương nhưng không được đáp lại. Do đó, hắn thầm ghen ghét với Âu Dương cô nương vì cho rằng hai nữ nhân này có tình ý với nhau, như Tông Lê đã ám chỉ trong bài thơ của mình. Lão Quan cũng đồng tình rằng họ Mặc đã đi quá xa khi dọa Âu Dương cô nương bằng đường kiếm của hắn. Nhưng lão cũng nói thêm rằng có con gấu dữ trong tay, Âu Dương cô nương chẳng cần phải sợ ai cả. Con vật đó nghe lời chủ nhân như một trung khuyển. Không ai dám đến gần con ác thú đó, nó vẫn giữ phần nhiều thú tính hoang dã.” “Quả là một mớ bòng bong!” Địch Nhân Kiệt lẩm bẩm. “Giả sử lúc ở hành lang, Âu Dương cô nương hay Bao tiểu thư đang trốn khỏi Mặc Đức, vì hắn là một kẻ điên rồ nguy hiểm, vậy thì câu chuyện sẽ khớp với cảnh tượng kỳ quái mà ta đã chứng kiến qua cửa sổ. Nam nhân mà ta trông thấy chính là Mặc Đức. Nhưng thiếu nữ bị tấn công là ai? Chúng ta sẽ phải tìm hiểu xem liệu còn nữ nhân nào ngụ ở đạo quán ngoài những người mà ta đã biết hay không.” “Dạ bẩm, thuộc hạ thật không dám hỏi thăm về nữ nhân cụt tay khi chưa có lệnh,” Đào Cam nói. “Nhưng thuộc hạ không nghĩ còn nữ nhân nào khác ở đây ngoài Quan phu nhân với hai ả đào, chưa kể đến Bao phu nhân cùng lệnh ái.” “Đừng quên chúng ta mới chỉ thấy một phần nhỏ đạo quán,” Địch Nhân Kiệt nói. “Trời đất chứng giám, ai mà biết được điều gì xảy ra tại cấm địa! Chúng ta còn chẳng có nổi sơ đồ của đạo quán! Mà ta phải đi vấn an Tôn Thiên sư ngay bây giờ. Ngươi hãy quay lại chỗ các đào kép. Nếu Mặc Đức xuất hiện, hãy bám như đỉa đói lấy hắn đến bữa tiệc. Ta sẽ chờ ngươi ở đó.” Ngoài hành lang, một tiểu đồng đã đứng chờ sẵn để dẫn đường cho Địch huyện lệnh. “Liệu chúng ta có phải ra ngoài sân để đến dãy nhà phía Tây không?” Địch Nhân Kiệt hỏi, nghe tiếng mưa đập rào rào vào cánh cửa sổ. Ông không muốn vận một bộ lễ phục ướt nhẹp. “Bẩm đại nhân, không cần đâu ạ!” tiểu đồng đáp. “Chúng ta sẽ đến dãy nhà phía Tây qua thông đạo trên thượng điện.” “Lại leo cầu thang!” Địch Nhân Kiệt chán nản lẩm bẩm. HỒI 8 Lên thang lầu, Địch Công bị theo dõi Bỏ hoài nghi, tri huyện gặp Thiên sư Họ đi theo lối cũ đến chiếu nghỉ phía trên thượng điện. Tiểu đồng băng qua lối đi đối diện với đường dẫn đến gian nhà kho. Đó là một hành lang dài thẳng tắp, chỉ được chiếu sáng bởi một ngọn đèn lồng rách. Đột nhiên Địch Nhân Kiệt cảm thấy bất an, như thể có người đang theo dõi phía sau. Ông dừng bước và ngoái đầu lại, thấy một bóng đen lướt ngang qua đầu hành lang. Có vẻ như đó là một nam nhân mặc y phục xám. Ông vừa đi tiếp vừa hỏi tiểu đồng, “Các đạo sĩ có thường qua lại lối này không?” “Bẩm đại nhân, không ạ! Tiểu nhân chỉ đi đường này để tránh mưa mà thôi. Tất cả đạo sĩ muốn đến dãy nhà phía Tây đều phải lên xuống cầu thang xoắn ốc, gần cánh cửa đối diện với nhà ăn.” Khi họ đến một sảnh đường nhỏ vuông vức, huyện lệnh dừng lại để định vị phương hướng. “Đường này dẫn tới đâu?” Ông trỏ vào cánh cửa hẹp bên tay phải. “Bẩm đại nhân, nó dẫn tới Diêm La Thập điện, nằm ở bên trái sau trung viện. Thân phận thấp kém như tiểu nhân không được phép vào đó.” “Một nơi tốt để răn đe phàm nhân chót phạm tội!” Địch Nhân Kiệt nhận xét. Ông biết, đạo quán lớn thường dựng một gian Diêm La Thập điện. Cảnh tượng tội nhân bị trừng phạt thảm khốc dưới mười tầng địa ngục được vẽ chi tiết trên tường, hoặc được khắc họa bằng những pho tượng đất sét, hay được khắc trên những bức phù điêu gỗ. Trong lúc họ bước về bên trái, tiểu đồng cảnh báo, “Đại nhân, xin hãy cẩn thận! Hàng lan can của chiếu nghỉ trước cửa buồng của Thiên sư đang được sửa lại. Ngài hãy bám sát lấy tiểu nhân ạ.” Đứng trước cánh cửa sơn son, Địch Nhân Kiệt nhận thấy đúng là có một đoạn lan can bị khuyết. Ông nhìn xuống cầu thang tối om và sâu hun hút ấy. “Bẩm, đây chính là cái cầu thang hồi nãy tiểu nhân nhắc đến. Nó thông với dãy nhà phía Tây ạ,” tiểu đồng giải thích. “Đi theo cầu thang này xuống ba lầu nữa là tới phòng ăn.” Tiểu đồng nhận một tấm bái thiếp* từ Địch Nhân Kiệt rồi gõ cửa. bái thiếp là tờ thiếp đưa trước cho gia chủ để thông báo danh tính và thời điểm khách nhân vãng lai. Một giọng nói sang sảng mời họ vào. Dưới quầng sáng chói lòa của bốn chân nến bạc, một nam nhân cao to đang ngồi đọc sách bên một án thư lớn chất đầy sách vở văn thư. Tiểu đồng cúi thật thấp, đặt tấm bái thiếp lên bàn. Tôn Thiên sư liếc nhìn tấm thiếp, nhanh nhẹn đứng dậy và bước về phía Địch Nhân Kiệt. “Vậy ra đại nhân chính là huyện lệnh của đạo nhân chúng ta!” Ngài cất giọng trầm ấm, “Hoan nghênh ngài tới ghé thăm đạo quán Triều Vân này.” Địch Nhân Kiệt cúi đầu, hai tay trịnh trọng khoanh lại, xếp gọn trong đôi ống tay áo rộng. “Bái kiến đại nhân, vãn bối thật không dám ngờ,” Địch Nhân Kiệt nói, “một sự cố nhỏ xảy ra trên đường lại chính là cơ duyên để vãn bối được diện kiến một bậc cao nhân như ngài.” “Chớ có khách sáo!” Tôn Thiên sư vui vẻ đáp. “Mời Địch huyện lệnh an tọa bên án thư, ta đang dở tay xếp gọn mớ văn thư.” Đoạn, ngài quay về chỗ ngồi sau án thư, nói với tiểu đồng đang châm hai chén trà, “Được rồi, giờ ngươi lui đi. Ta sẽ đích thân đón tiếp vị khách quý này.” Vừa nhâm nhi chén trà nhài thơm ngát, huyện lệnh vừa quan sát vị Thiên sư mau mắn sắp xếp lại chỗ văn thư trước mặt. Tôn Thiên sư cao ngang tầm Địch Nhân Kiệt, nhưng ngài phương phi hơn ông chút đỉnh. Bờ vai rộng vồng lên khiến chiếc cổ dày trông như bị rụt lại phân nửa. Thiên sư đã trạc lục tuần, nhưng gương mặt đầy đặn và hồng hào của ngài không có lấy một nếp nhăn. Bộ râu quai nón ngắn đã ngả muối tiêu, còn mái tóc hoa râm được búi cao để lộ vầng trán rộng. Hàng ria ngắn được tỉa gọn, nhưng đôi lông mày rễ tre lại để rất rậm. Do tu luyện tại đạo quán dưới danh nghĩa ẩn sĩ nên ngài chỉ để đầu trần. Cả người ngài toát lên phong thái của một bậc đạo nhân tư chất phi thường. Địch Công vấn an Tôn Thiên sư Địch Nhân Kiệt còn đọc lướt qua các cuộn tranh chữ về Đạo giáo được treo trên vách trong khi chờ đợi. Thu xếp xong chỗ văn thư, Tôn Thiên sư sắc sảo nhìn thẳng vào Địch Nhân Kiệt, “Hồi nãy ngươi có nhắc đến một sự cố trên đường, ta mong là chuyện không có gì nghiêm trọng.” “Bẩm đại nhân, không có gì! Vãn bối đã lưu lại kinh thành trong hai tuần, đến sáng nay mới ngồi xe ngựa trở về Hán Nguyên. Những tưởng xe có thể hồi gia trước bữa tối, nhưng ngay sau khi vào địa giới huyện, thời tiết trở nên tồi tệ, trục xe bị gãy trên đường lên núi. Vì vậy vãn bối cùng gia quyến mới phải tá túc tại đạo quán này, sáng mai mới khởi hành. Nghe chừng những cơn dông bão mùa thu sẽ không kéo dài quá lâu.” “Vận rủi của ngươi lại chính là vận may của ta!” Tôn Thiên sư mỉm cười. “Ta rất thích được đàm đạo với các quan viên tuổi trẻ tài cao, đáng nhẽ Địch huyện lệnh nên đến đây sớm hơn! Đạo quán này cũng thuộc huyện Hán Nguyên do ngươi trị nhậm mà.” “Vãn bối quả là sơ suất rồi ạ!” Địch Nhân Kiệt vội vàng nói. “Công vụ ở trấn Hán Nguyên chất cao như núi.” “Ta đã nghe chuyện!” Tôn Thiên sư ngắt lời, “Ngươi đã xuất sắc ngăn chặn được một cuộc tạo phản lớn.” Địch Nhân Kiệt cung kính khoanh tay nhận lời khen, “Chắc chắn vãn bối sẽ sớm quay lại lãnh giáo với đại nhân.” Thấy cựu thái phó có vẻ niềm nở, Địch Nhân Kiệt nghĩ mình nên tranh thủ cơ hội tìm lời giải đáp nan đề về nữ nhân cụt tay. Sau một thoáng do dự, ông lên tiếng, “Đại nhân, vãn bối đang gặp phải một khúc mắc nhỏ ở nơi này, không biết đại nhân có thể chỉ giáo luôn?” “Được chứ! Chuyện gì đã xảy ra?” “Chuyện là,” Địch Nhân Kiệt thuật lại, thoáng chút bối rối, “vãn bối cũng không rõ chính xác là chuyện gì. Lúc đi lên buồng nghỉ được các đạo sĩ bố trí cho, vãn bối thoáng thấy một cảnh tượng đã xảy ra cách đây hơn trăm năm, khi quan binh triều đình tàn sát quân phản loạn tại chính đạo quán. Liệu có chuyện như thế chăng?” Ngả lưng vào ghế, Tôn Thiên sư nghiêm nghị đáp, “Ta không dám nói chuyện đó là không thể, Địch huyện lệnh ạ. Đã khi nào ngươi bước vào một căn buồng trống và cảm giác như ai đó vừa ở bên trong không? Đó là một cảm giác khó lý giải. Có lẽ người vào căn buồng trước ngươi đã để lại một hơi hướm của mình, dù người ấy không làm gì đặc biệt, chỉ là đọc một cuốn sách hay viết mấy dòng thư. Giả sử, người ấy bị giết một cách dã man trong căn buồng, thế là cảm giác đau đớn kinh hoàng thấm sâu vào bầu không khí và ám ảnh căn buồng suốt nhiều năm trời. Nếu một người yếu bóng vía hay mẫn cảm do ốm đau bước vào, tức thì liền cảm nhận một bầu không khí như vậy. Những lời trên đây đã giải thích được cảnh tượng mà ngươi chứng kiến hay chưa?” Địch Nhân Kiệt gật gù. Tôn Thiên sư quả là đã dày công nghiên cứu những vấn đề thần bí như vậy. Lời giải thích tuy thiếu thuyết phục nhưng cũng là một khả năng cần lưu ý. Ông kính cẩn thưa, “Bẩm đại nhân, có lẽ ngài nói đúng, vãn bối thấy trong người không được khỏe, do mắc mưa bên ngoài mà cảm mạo. Với thể trạng như vậy…” “Cảm mạo ư? Đã ba mươi năm rồi ta chưa ho lấy một tiếng!” Tôn Thiên sư ngắt lời. “Ngươi thấy đó, ta luôn nghiêm ngặt tuân theo giới luật để bồi dưỡng nguyên thần.” “Vậy đại nhân có tin vào việc tu tiên để đạt tới cảnh giới trường sinh bất tử không ạ?” Địch Nhân Kiệt hỏi, lòng đôi chút thất vọng. “Tất nhiên là không!” Tôn Thiên sư khinh khỉnh trả lời. “Nam nhân chỉ bất tử khi để lại dòng giống của mình trên nhân thế. Hoàng thiên đã định đoạt cho phàm nhân một thọ nguyên hữu hạn, mọi nỗ lực học phép luyện đan nhằm thoát khỏi quy luật sinh tử đều tốn công vô ích. Chúng ta cần cố gắng giữ thân thể tráng kiện và tinh thần minh mẫn cho đến khi lìa trần bằng cách sống thuận theo tự nhiên. Thần khẩu hại xác phàm, Địch huyện lệnh hãy cẩn trọng trong ẩm thực!” “Vãn bối vốn là môn đồ của đức Khổng tử,” Địch Nhân Kiệt đáp, “nhưng phải thừa nhận rằng Đạo giáo sở hữu nhiều nội hàm uyên bác và thâm thuý.” “Đạo giáo tiếp bước từ nơi mà Khổng phu tử dừng chân,” Tôn Thiên sư bình phẩm. “Nho giáo giảng giải về cách đối nhân xử thế của bậc quân tử trong xã tắc tôn ti. Còn Đạo giáo giải thích mối tương quan giữa nhân sinh và vũ trụ, trong đó tôn ti xã tắc chỉ là một khía cạnh.” Ngay lúc này, Địch Nhân Kiệt không mấy hăng hái tham gia đàm đạo lắm, nhưng ông cảm thấy không nên rút lui trước khi làm rõ hai điểm. Chờ cho thích hợp, ông ướm hỏi, “Thưa đại nhân, liệu những phần tử tệ hại bên ngoài có trà trộn vào đây không? Vừa nãy, khi được tiểu đồng đưa đến, vãn bối cảm giác như mình bị theo dõi, ngay tại hành lang nối thượng điện với tòa lầu này.” Tôn Thiên sư nhìn ông dò xét, ngẫm nghĩ một hồi rồi đột nhiên hỏi, “Ngươi có thích ăn cá không?” “Dạ thưa, vãn bối khá thích ăn cá,” Địch Nhân Kiệt chưng hửng đáp. “Vấn đề chính là ở đó! Địch huyện lệnh à, cá làm kinh mạch tắc nghẽn, khí huyết trì trệ và thần trí thiếu minh mẫn, vì nó mà ngươi nhìn thấy những điều không thực đấy! Ta nghĩ đại hoàng là một vị thuốc quý dành cho ngươi. Nó giúp thanh lọc khí huyết và an vị ngũ tạng. Ta sẽ tra cứu trong bộ dược thư đồ sộ của mình. Sáng mai hãy nhớ nhắc ta kê cho ngươi một đơn thực dưỡng.” “Đa tạ đại nhân. Vãn bối quả thực không muốn làm phiền ngài, nhưng vẫn còn một điểm khúc mắc mà vãn bối chưa được tỏ tường. Thiên hạ đồn rằng một số đạo sĩ hạ lưu đang nhân danh Chính đạo để truy hoan trác táng, ép buộc các thiếu nữ tham gia những buổi hành lễ dâm ô. Xin hỏi những lời đồn đại này liệu có thật không?” “Tất nhiên là không!” Tôn Thiên sư thốt lên. “Hoàng thiên ơi, làm sao những đạo sĩ vốn luôn chay tịnh lại có thể tổ chức các cuộc truy hoan trác táng? Ngoài kia thiên hạ đồn thổi đủ chuyện điên rồ trên đời!” Thiên sư đứng lên, “Giờ nên xuống lầu rồi, buổi tiệc hẳn sắp bắt đầu và đạo trưởng đang chờ chúng ta ở đó. À, ta muốn dặn dò ngươi, tuy đạo trưởng không phải là một học giả thông thái, nhưng ông ta là một người thiện tâm và biết cách cai quản đạo quán.” “Đó là một trọng trách to lớn.” Địch Nhân Kiệt cũng đứng dậy theo. “Triều Vân quán giống như một tiểu trấn. Vãn bối muốn thăm quan thêm nhiều nơi, nhưng các đạo sĩ lại không sở hữu tấm sơ đồ nào, khách nhân lại không được đặt chân vào khu biệt điện.” “Ồ, đó chỉ là một mánh khóe diễu võ dương oai trước bách tính nhẹ dạ cả tin thôi! Có Hoàng thiên chứng giám, ta đã nói với đạo trưởng biết bao nhiêu lần rồi. Thức nhị thập bát trong vương pháp đã quy định rõ mọi nơi thờ tự đều phải có sơ đồ kiến trúc hoàn chỉnh. Địch huyện lệnh hãy qua đây, ta sẽ mô tả vắn gọn cho ngươi.” Tôn Thiên sư tiến về phía một cuộn tranh treo trên vách, “Đây là giản đồ ta đích thân vẽ. Kết cấu Triều Vân quán thực ra khá đơn giản. Hai trăm năm trước, khi xây dựng nơi này, tiền nhân muốn thiết kế một đạo quán vừa tượng trưng cho vũ trụ vừa tượng trưng cho con người, vốn là bản thể thu nhỏ của vũ trụ. Phác thảo tổng thể của toàn bộ khu nhà có hình trái xoan, biểu trưng cho khởi nguồn nguyên thủy. Triều Vân quán hướng mặt về phía nam dọc rìa phía đông có một khe vực sâu, còn phía tây là rừng rậm. Bốn khu tiền điện, đại điện, trung điện và biệt điện được xây thành bốn cấp dựa vào sườn núi. Giản đồ đạo quán “Giờ chúng ta sẽ bắt đầu từ khu tiền điện tam giác, xung quanh là nhà bếp, chuồng ngựa, nơi ở của các đạo đồng và tiểu đồng. Rồi chúng ta đến khu đại điện với sân thượng điện nằm giữa hai dãy nhà vuông vức, mỗi dãy có ba tầng lầu. Ở dãy nhà phía Tây, lầu trệt dựng nhà ăn; lầu hai đặt tàng thư các; lầu ba gồm buồng riêng của giám viện, đạo sĩ phát chẩn và tri khách. Ở dãy nhà phía Đông, lầu trệt đặt đại sảnh làm nơi diễn xướng, ngoài ra còn có các thư phòng; lầu hai và lầu ba dành cho khách lai vãng nghỉ chân. Chắc hẳn ngươi cùng gia quyến đang ở dãy nhà này.” “Đúng là vậy,” Địch Nhân Kiệt đáp, “hiện vãn bối cùng các phu nhân ở căn buồng đôi rộng rãi ở góc tây bắc lầu ba.” “Tốt, vậy chúng ta tiếp tục đến khu trung điện. Băng qua sân là thượng điện, ở đây trưng bày nhiều pho tượng cổ đáng để chiêm ngưỡng. Sau thượng điện là sân giữa, mỗi góc sân đều dựng một tòa lầu. Ngươi đang ở Tây Nam lầu do ta cai quản. Bên trái sân giữa là Diêm La Thập điện, một đức tin đã ăn sâu vào tâm trí phàm nhân! Phía bên phải là gian nhà dành cho chúng đạo nhân. Sau sân giữa, đi qua cánh cổng, là hậu viện của đạo trưởng. Cuối cùng là khu biệt điện hình viên nguyệt. Theo thứ tự, chúng ta có một hình tam giác, hai hình vuông, một hình vuông lớn và một hình tròn. Mỗi hình đêu có một ý nghĩa riêng nhưng chúng ta không cần bàn đến đó. Quan trọng là giờ ngươi có thể tự định hướng được rồi. Hàng trăm thông đạo, hành lang và cầu thang nối nhau tồn tại trong đạo quán này, nhưng nếu có tấm giản đồ, ngươi sẽ không bị lạc quá xa!” “Đa tạ đại nhân chỉ giáo,” Địch Nhân Kiệt đầy hàm ơn nói. “Mạn phép cho vãn bối được hỏi khu biệt điện gồm những kiến trúc gì?” “Chỉ có một tiểu điện đặt tro cốt của sư tổ mà thôi.” “Vậy có ai sống ở đó không ạ?” “Tất nhiên là không! Ta đã đích thân ghé thăm nơi ấy rồi, chỉ có một tiểu điện và tường vây mà thôi. Nhưng biệt điện là nơi linh thiêng nhất đạo quán nên ta không vẽ vào, tránh làm phật lòng đạo trưởng. Thay vào đó, ta vẽ một Thái cực đồ ở trên như ngươi đã thấy. Theo quan niệm của Đạo giáo, Thái cực đồ tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ. Nó đại diện cho tương tác của cặp phạm trù nguyên thủy, nhịp điệu vĩnh cửu của tự nhiên mà chúng ta gọi là Đạo. Ngươi có thể tùy ý coi chúng là Sáng và Tối, Dương và Âm, Nam và Nữ, Nhật và Nguyệt. Theo Thái cực đồ, khi Dương suy đến cực điểm sẽ trở thành Âm và ngược lại, khi Âm thịnh đến cực điểm sẽ chuyển hóa thành Dương. Địch huyện lệnh, ngươi thấy không, học thuyết tối cao của Đạo giáo được thể hiện bằng một biểu tượng hết sức đơn giản!” “Vậy thì, đại nhân, ý nghĩa của chấm tròn trên mỗi nửa của Thái cực đồ nghĩa là gì?” Địch Nhân Kiệt hỏi, làm vẻ quan tâm. “Chúng có nghĩa là trong Dương có Âm và ngược lại, trong Âm có Dương. Vạn vật trong tự nhiên, bao gồm cả Nam và Nữ đều như vậy. Trong mỗi nam nhân đều tồn tại tính nữ, trong mỗi nữ nhân đều có tính nam.” “Quả cũng đúng là thế!” huyện lệnh trầm ngâm suy ngẫm, đoạn hỏi thêm, “Vãn bối từng trông thấy Thái cực đồ này ở đâu đó, nhưng nó được đặt theo chiều ngang. Như vậy có ý nghĩa gì đặc biệt không, thưa đại nhân?” “Ta không rõ, Thái cực đồ phải chia theo chiều dọc như ta vẽ đây. Mà thôi, không nên để đạo trưởng đợi thêm nữa. Vị lão bằng hữu của ta rất chỉn chu và chuẩn chỉ!” Khi họ bước qua ngưỡng cửa, Tôn Thiên sư nói nhanh, “Cẩn thận, lan can ở đây bị hỏng. Các đạo đồng cứ đổ lỗi rằng việc chuẩn bị cho buổi lễ quá bận rộn nên họ không có thời gian sửa nó. Thật là một đám biếng nhác! Đây, để ta nắm tay và dẫn lối cho ngươi. Ta không ngại bất cứ độ cao nào!” HỒI 9 Cố đạo trưởng viên tịch bất tường Địch huyện quan gặp sự chẳng lành Họ cùng bước xuống cầu thang xoắn ốc lạnh ẩm. Bước vào nhà ăn ở lầu trệt, Địch Nhân Kiệt mừng rỡ khi thấy gian phòng thật ấm áp nhờ vô số chậu sưởi. Viên giám viện mập lùn chạy đến nghênh đón họ, mắt chớp chớp đầy lo lắng, lắp ba lắp bắp bái kiến Tôn Thiên sư lẫn Địch Nhân Kiệt. Ông ta dẫn họ đến bàn chính nằm ở cuối phòng ăn, đạo trưởng đang ngồi chờ ở đó. Địch Nhân Kiệt ngỏ ý mời Tôn Thiên sư an tọa phía bên phải đạo trưởng. Thiên sư liền phản đối, viện cớ mình không có quan phẩm mà chỉ là một học giả đã hồi hưu, chỗ ngồi danh dự phải thuộc về một lệnh quan triều đình như Địch huyện lệnh mới phải. Cuối cùng Địch Nhân Kiệt bất đắc dĩ phải đồng ý, cả ba người cùng ngồi xuống. Viên giám viện, đạo sĩ phát chẩn và Tông Lê an tọa tại chiếc bàn nhỏ hơn bên cạnh. Đạo trưởng nâng chén kính hai vị thượng khách cùng bàn. Đây là dấu hiệu để các đạo sĩ ngồi ở bốn chiếc bàn phía trước được phép cầm đũa và buổi tiệc bắt đầu. Địch Nhân Kiệt nhận ra Quan Lại cùng thê tử và hai ả đào đang ngồi tại một bàn riêng gần lối ra vào sảnh, Đào Cam cũng đang ngồi cùng họ nhưng không thấy Mặc Đức đâu cả. Địch Nhân Kiệt nghi ngại nhìn chằm chằm vào món cá rán nguội ngắt mà đạo trưởng gắp cho ông. Bát xôi kỷ tử trông chẳng có gì hấp dẫn. Ông không muốn động đũa cho lắm. Để che giấu cảm giác của mình, Địch Nhân Kiệt mở lời, “Bản quan cứ nghĩ đạo giáo cấm các món thịt cá?” “Bẩm đại nhân, chúng bần đạo luôn nghiêm khắc tuân theo giới luật của bổn giáo,” đạo trưởng mỉm cười. “Chúng bần đạo không nếm một giọt rượu nào cả, cái chén trên tay bần đạo chứa đầy trà. Tất nhiên chén của ngài là ngoại lệ! Khách nhân có thể dùng rượu, nhưng các món ăn ở đây thì phải tuyệt đối chay tịnh. Thực ra món cá rán này được làm bằng đậu phụ nhự, còn món gà quay đằng kia được nhào từ bột và dầu mè.” Địch Nhân Kiệt chưng hửng. Tuy không quá kén ăn nhưng ít nhất ông phải biết mình đang bỏ thứ gì vào miệng. Ông cố gắng nếm một miếng cá chao và suýt thì mắc nghẹn. Ngó thấy vẻ mặt háo hức của đạo trưởng, ông đành nói nhanh, “Quả là mỹ vị, đầu bếp nơi này thực có nghề!” Địch Nhân Kiệt uống một hơi cạn chén rượu, thứ rượu nếp hâm nóng này cũng không tệ. Con cá chay trong bát ngước đôi mắt mận khô thê lương nhìn ông. Không hiểu sao Địch Nhân Kiệt lại liên tưởng đến vị đạo trưởng quá cố đã được ướp xác, đoạn quay sang đạo trưởng đương nhiệm, “Sau buổi tiệc, bản quan muốn đi thăm thú cả thượng điện. Nhân tiện, ta cũng muốn xuống địa cung nơi biệt điện để tỏ chút lòng thành trước Ngọc Kính Chân nhân.” Đạo trưởng đặt bát xôi xuống và chậm rãi nói, “Bẩm, bần đạo rất sẵn lòng đưa đại nhân đi thăm viếng khu biệt điện. Nhưng thật không may, địa cung chỉ mở vài ngày nhất định vào mùa khô mà thôi. Không khí ẩm ướt ngày hôm nay có thể ùa vào và ảnh hưởng xấu đến pháp thể của cố đạo trưởng. Tất nhiên lục phủ đã được lấy ra khỏi nhục thân từ trước, nhưng ngũ tạng còn lại vẫn có thể bị thối rữa.” Nghe xong, chút hứng thú ăn uống Địch Nhân Kiệt đang cố khơi gợi lập tức tiêu tan. Ông vội vàng uống cạn một chén rượu nữa. Dải băng quấn thuốc giúp cơn nhức đầu thuyên giảm phần nào, nhưng mình mẩy vẫn còn đau nhức, Địch Nhân Kiệt cảm thấy bệnh tình chưa thuyên giảm lắm. Ông ghen tỵ nhìn Tôn Thiên sư đang ăn rất ngon miệng. Dùng bữa xong, Thiên sư lau miệng bằng một cái khăn nóng do tiểu đồng dâng lên, rồi nói, “Ngọc Kính chân nhân, cố đạo trưởng đáng kính của Triều Vân quán, là một con người tài hoa. Ngài thông hiểu tất cả những cuốn sách thâm thuý nhất, thư pháp của ngài như rồng bay phượng múa và ngài là một thượng phẩm họa sĩ chuyên về hoa cỏ muông thú.” “Vãn bối có lòng mong được chiêm ngưỡng những tuyệt phẩm đó,” Địch Nhân Kiệt lễ độ thưa. “Hẳn thư phòng vẫn còn lưu giữ các tác phẩm của ngài chăng?” “Bẩm đại nhân, tiếc là không,” đạo trưởng đáp, “trước khi quy tiên, ngài ấy có trăng trối lại rằng các bức thư pháp và họa phẩm phải được táng theo.” “Đức khiêm nhường thật đáng khâm phục!” Tôn Thiên sư tán thưởng. “Địch huyện lệnh, hiện giờ chúng ta còn giữ bức họa cuối cùng mà ngài vẽ con mèo của mình. Sau bữa tiệc, ta sẽ dẫn ngươi đến sảnh bên của thượng điện để chiêm ngưỡng nó!” Địch Nhân Kiệt không mấy mặn mà với con mèo của cố đạo trưởng hay bầu không khí lạnh lẽo nơi sảnh bên, nhưng ông vẫn lẩm bẩm đáp rằng đó là vinh hạnh của mình. Tôn Thiên sư và đạo trưởng bắt đầu thưởng thức món canh sền sệt màu nâu với vẻ khoái khẩu. Địch Nhân Kiệt nghi ngại dùng đũa gắp mấy miếng thức ăn mà ông không rõ là gì đang nổi trên bề mặt bát canh, không đủ dũng khí để nếm nước dùng. Sau một hồi cố gắng suy nghĩ để trò chuyện thêm về vài chủ đề khác, cuối cùng ông cũng nghĩ ra mấy câu hỏi khôn khéo về tôn ti phép tắc trong đạo quán. Nhưng có vẻ đạo trưởng không mấy thoải mái, ông ta đáp lại bằng những câu trả lời hết sức ngắn gọn. Địch Nhân Kiệt cảm thấy nhẹ nhõm khi viên giám viện, đạo sĩ phát chẩn và Tông Lê tới mời rượu. Địch Nhân Kiệt cũng đứng dậy và qua bàn họ đáp lễ. Ông ngồi đối diện với thi sĩ trẻ, có vẻ như y đã uống khá nhiều, mặt đỏ gay, trông ngà ngà say. Viên giám viện báo rằng hai đạo đồng đã thay xong trục xe, giám mã đã tắm rửa và chăm sóc cho lũ ngựa. Như vậy, những vị khách quý có thể rời khỏi đạo quán vào sáng hôm sau. Tất nhiên trừ khi Địch Nhân Kiệt quyết định kéo dài thời gian ở lại đây, đó quả thực cũng là niềm vinh dự của đạo quán. Địch Nhân Kiệt nhiệt thành đa tạ khiến viên giám viện lúng túng. Rồi ông ta đứng lên và cáo lỗi, xin phép được cùng đạo sĩ phát chẩn đi chuẩn bị cho giờ niệm tối. Khi chỉ còn một mình với thi sĩ, Địch Nhân Kiệt thắc mắc, “Sao ta không trông thấy Bao phu nhân và lệnh ái ở đây?” “Lệnh ái ư?” Tông Lê giọng líu lại vì uống nhiều. “Đại nhân thực sự tin rằng một thiếu nữ mảnh mai tao nhã thế kia lại là lệnh ái của một phu nhân phì nộn thô kệch như vậy?” “À,” Địch Nhân Kiệt hờ hững đáp, “đôi khi thời gian gây ra những thay đổi nghiệt ngã.” Thi sĩ trẻ bắt đầu nấc lên, “Xin đại nhân thứ lỗi! Họ đang chuốc độc tiểu sinh bằng mấy món ăn chết giẫm này. Nó khiến bụng tiểu sinh nôn nao. Đại nhân, để tiểu sinh nói cho ngài nghe, mẹ cú thì sao đẻ được con tiên?” Đung đưa ngón tay trỏ ra hiệu, y hỏi Địch Nhân Kiệt với vẻ bí mật, “Đại nhân có chắc thiếu nữ tội nghiệp đó không bị cưỡng ép thành đạo cô?” “Ta không chắc,” Địch Nhân Kiệt đáp, “nhưng ta sẽ hỏi nàng. Hiện giờ họ ở đâu?” “Có thể họ đang dùng bữa trong buồng riêng. Cũng cần phải thận trọng chứ, một thiếu nữ đoan trang như vậy không nên phơi mặt trước ánh mắt hau háu của lũ đạo sĩ nơi đây. Lần này quả thật Bao thị đã hành xử rất sáng suốt!” “Tiếc là phu nhân đã không che chắn được tiểu thư trước con mắt hau háu của ngươi!” Thi sĩ chật vật đứng thẳng dậy, khề khà tuyên bố, “Bẩm đại nhân, ý định của tiểu sinh vô cùng đường hoàng và nghiêm túc!” “Được vậy thì tốt!” Địch Nhân Kiệt khô khan nói. “Tiện thể, ta muốn đến địa cung bên dưới tiểu điện. Nhưng đạo trưởng lại nói đây không phải lúc thích hợp để thăm viếng.” Tông Lê hướng đôi mắt lờ đờ nhìn Địch Nhân Kiệt hồi lâu rồi hỏi, “Ông ta bảo ngài như vậy ư?” “Ngươi đã xuống dưới đó chưa?” Thi sĩ trẻ liếc nhanh đạo trưởng rồi hạ giọng thì thầm, “Bẩm đại nhân, tiểu sinh tuy chưa tới đó nhưng nhất định sẽ đi! Tiểu sinh cho rằng cố đạo trưởng đã bị đầu độc như cách mà họ đang chuốc độc chúng ta bây giờ. Đại nhân hãy lưu ý tới lời tiểu sinh!” “Ngươi say quá rồi!” Địch Nhân Kiệt khinh khỉnh nhận xét. “Tiểu sinh không phủ nhận điều đó!” thi sĩ điềm nhiên đáp. “Đó là cách duy nhất để giữ tỉnh táo giữa cái nhà mồ này. Nhưng tiểu sinh xin nói cho đại nhân hay, cố đạo trưởng không hề say rượu lúc viết cho thân phụ của tiểu sinh lá thư cuối cùng trước khi ngài viên tịch, à xin đại nhân thứ lỗi, trước khi ngài vũ hóa.” Địch Nhân Kiệt nhướng mày, “Cố đạo trưởng nói rằng mình đang gặp nguy hiểm đến tính mạng à?” Tông Lê gật đầu, ngửa cổ dốc cạn một chén rượu nữa. “Ngài có tiết lộ là kẻ nào đe dọa mình không?” Địch Nhân Kiệt tiếp tục hỏi. Thi sĩ dằn mạnh chén rượu xuống bàn và lắc đầu khinh khỉnh, “Đại nhân đừng cố dụ dỗ để tiểu sinh mắc tội vu khống, tiểu sinh nắm rõ vương pháp lắm!” Vươn người về phía Địch Nhân Kiệt, y thì thầm bí mật, “Mong đại nhân hãy chờ cho đến khi tiểu sinh thu thập đủ bằng chứng.” Địch Nhân Kiệt im lặng vuốt râu. Tay thanh niên lỗ mãng này lại là lệnh lang của một quý nhân được các quan viên và học giả kính trọng hết mực. Nếu quả thực trước khi viên tịch, cố đạo trưởng đã viết một lá thư như thế cho Tông học sĩ, vấn đề này cần phải được điều tra thêm. Huyện lệnh hỏi tiếp, “Vậy Chân Trí đạo trưởng nói gì?” Tông Lê cười ranh mãnh, ngước đôi mắt ướt nhìn Địch Nhân Kiệt. “Đại nhân hãy tự đi mà hỏi ông ta! Có thể ông ta sẽ không nói dối ngài đâu!” Địch Nhân Kiệt đứng dậy. Tay thanh niên say bí tỉ rồi. Lúc ông trở về bàn của mình, đạo trưởng chua xót nói, “Thưa, Tông Lê công tử lại say sưa nữa rồi, thật khác một trời một vực so với lệnh phụ quá cố của y!” “Bản quan được biết Tông học sĩ chính là đại thí chủ cho đạo quán,” Địch Nhân Kiệt vừa nói vừa nhấp chén trà đặc cuối bữa. “Dạ bẩm, đúng là vậy,” đạo trưởng đáp. “Tông gia rất đặc biệt! Tổ phụ y xuất thân là phu dịch trong một ngôi làng phía nam. Cụ thường núp dưới cửa sổ lớp học của thầy đồ, dùng que vạch chữ lên cát để học viết. Sau khi cụ vượt qua kỳ thi Hương, một vài vị chưởng quỹ hảo tâm cảm phục sự hiếu học của cụ mà quyên góp ngân lượng để cụ tiếp tục học. Nhờ thế mà cụ đỗ trạng nguyên và được bổ nhiệm làm huyện lệnh, rồi thành thân với một thiếu nữ xuất thân từ một danh gia vọng tộc đã sa sút. Tông học sĩ là trưởng nam của cụ, sau khi vượt qua tất cả các kỳ thi đã thành gia lập thất với lệnh ái của một thương gia buôn trà giàu có, rồi thăng tiến đến chức Tuần phủ. Ông dùng tiền của mình một cách hữu ích và tạo nên một danh môn đáng kính.” “Trọng dụng nhân tài không kể xuất thân bần hàn, Đại Đường sẽ phồn vinh mãi mãi,” Địch Nhân Kiệt hài lòng nói. “Quay trở lại với câu chuyện của cố đạo trưởng, ngài ấy đã viên tịch vì bệnh gì vậy?” Đạo trưởng đặt chén rượu xuống, chậm rãi đáp, “Bẩm đại nhân, Ngọc Kính Chân nhân không viên tịch vì bệnh tật. Tự cảm thấy khí số đã tận, ngài ấy quyết định rời khỏi cõi tạm này để thăng thiên vào cõi thượng tiên, trong khi thân thể vẫn cường tráng và tinh thần còn minh mẫn. Đó là một cảnh tượng diệu kỳ trước mắt những đệ tử may mắn ở bên Ngọc Kính Chân nhân trong thời khắc ngài ấy vũ hóa.” “Một trải nghiệm thực sự khó quên, Địch huyện lệnh ạ!” Tôn Minh Thiên sư nói thêm. “Ta cũng có mặt ở đó. Sau khi cho triệu tập tất cả các cao tầng đạo sĩ, cố đạo trưởng ngồi trên ghế cao và thuyết pháp liên tục trong gần một canh giờ. Rồi ngài ấy nhẹ nhàng khoanh tay, nhắm mắt và vũ hóa.” Địch Nhân Kiệt gật gù, trong lòng thầm nghĩ tay thanh niên ngông cuồng kia đã bị rượu làm cho điên đảo đầu óc, hoặc y chỉ đang nhắc lại những tin đồn thất thiệt, “Một kỳ cảnh như thế có thể kích động lòng đố kỵ của các giáo phái khác. Tưởng tượng mà xem, đám Phật tử hẳn sẽ bóp méo nó để truyền bá những tin đồn ác ý thế nào.” “Chắc chắn bần đạo sẽ không bỏ qua cho chúng!” đạo trưởng thốt lên. “Dù sao đi nữa,” Địch Nhân Kiệt nói tiếp, “nếu những kẻ ác tâm có đưa ra những lời cáo buộc vu khống, chỉ cần một cuộc nghiệm thi là mọi chuyện sẽ sáng tỏ. Ngỗ tác có thể phát hiện bất cứ dấu vết vũ lực nào, kể cả trên xác ướp.” “Mong rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra!” Tôn Thiên sư vui vẻ nói. “Ồ, đã đến lúc ta trở về thư phòng rồi!” Ngài đứng lên và nói thêm với Địch Nhân Kiệt, “Địch huyện lệnh, như đã hứa, ta sẽ đưa ngươi đi chiêm ngưỡng bức họa con mèo của cố đạo trưởng trước. Bức họa gần như là một thánh tích của thượng điện!” Địch Nhân Kiệt nén tiếng thở dài, cảm tạ Chân Trí đạo trưởng về bữa tiệc xa hoa, rồi theo Tôn Thiên sư trở ra. Lúc đi ngang qua bàn của các đào kép, ông nói nhanh với Đào Cam, “Đợi ta ở cửa này! Ta sớm sẽ quay lại.” Tôn Thiên sư dẫn huyện lệnh băng qua hành lang hông để đến sảnh đường phía tây thượng điện. Kê sát bức vách trong cùng là một án thờ đơn sơ với bốn ngọn nến đang cháy. Tôn Thiên sư nhấc một ngọn nến để soi lên một cuộn tranh cỡ trung lồng khung gấm thêu kiểu cổ treo trên tường. Quầng sáng đổ lên mình một con mèo xám lông dài đang nằm ườn bên mép bàn gỗ mun chạm trổ, cuộn len đặt bên cạnh, phía sau là một cái chậu đồng với hòn non bộ cùng vài cây trúc. Tranh con mèo của cố đạo trưởng “Đây chính là con mèo yêu của cố đạo trưởng!” Tôn Thiên sư nhỏ giọng giải thích. “Ngài đã vẽ nó rất nhiều lần. Đây quả là một bức họa tuyệt mỹ, phải không?” Địch Nhân Kiệt nghĩ bức tranh cũng chỉ thường thường bậc trung, nhưng ông hiểu giá trị của nó gắn liền với vị cố đạo trưởng cao quý kia. Sảnh đường này lạnh lẽo hệt như ông đã e ngại. Huyện lệnh kính cẩn đáp, “Quả là một bức họa tuyệt thế!” “Đó là họa phẩm cuối cùng của Ngọc Kính Chân nhân,” Tôn Thiên sư kể. “Ngài đã vẽ nó trong buồng vào buổi chiều, ngay trước khi vũ hóa. Con mèo cũng bỏ ăn và chết sau đó mấy ngày. Thế mà thiên hạ nói loài mèo ít gắn bó với chủ! Bây giờ thì ta khuyên ngươi nên ghé qua đại sảnh để chiêm ngưỡng pho tượng Tam Thánh cao hơn mười thước của một điêu khắc sư nổi danh. Giờ ta sẽ về thư phòng. Mong rằng hai ta sẽ gặp lại vào sáng ngày mai trước khi ngươi rời đi.” Địch Nhân Kiệt kính cẩn tiễn Tôn Thiên sư tới tận cửa tiền sảnh trước khi quay lại nhà ăn. Những pho tượng đã đứng lì ở sảnh chính suốt hai trăm năm, ông đoán chúng chưa vội bỏ đi đâu. Nếu có cơ hội quay lại đây, nhất định ông sẽ chiêm ngưỡng chúng sau. Huyện lệnh gặp Đào Cam đang đợi mình bên ngoài nhà ăn. Y khẽ thông báo, “Thưa đại nhân, thuộc hạ vẫn không thấy tăm hơi của Mặc Đức đâu ạ. Lão Quan có nói họ Mặc là kẻ thích gì làm nấy, chẳng ai có thể đoán được hắn sẽ xuất hiện khi nào và ở đâu. Lão hí đầu và các đào kép ba hoa đủ chuyện quanh bàn ăn, nhưng họ hầu như không biết về chuyện trong đạo quán và cũng không để tâm nhiều. Đây là một bữa ăn khá vừa miệng và dễ chịu, nếu không kể đến cuộc đấu khẩu đinh tai nhức óc bên bàn các đạo đồng. Đạo đồng phụ trách phòng ăn gắt rằng pháp phục đã không được xếp đủ trên bàn. Một đạo sĩ còn phàn nàn rằng mình không có cả bát đũa.” “Một bữa ăn khá vừa miệng ư?” Địch Nhân Kiệt cáu bẳn. “Ta chỉ uống nổi mấy chén rượu và dùng trà những món còn lại khiến bụng ta quặn lên!” “Bẩm, thuộc hạ thực lòng thấy đồ ăn rất ngon miệng,” Đào Cam hồ hởi nói. “Không tốn một đồng lại được ăn ngon!” Địch Nhân Kiệt mỉm cười, quá hiểu bản tính vốn chi li tằn tiện của thuộc hạ. Đào Cam tiếp tục thưa, “Bẩm, Quan Lại có mời thuộc hạ về buồng của lão để uống thêm vài chén, nhưng thuộc hạ nghĩ mình phải đi tìm tên kép hát bí ẩn trước đã.” “Mau làm đi!” huyện lệnh nói. “Giờ ta sẽ ghé thăm Bao phu nhân và lệnh ái. Mối liên hệ giữa họ và Âu Dương cô nương khiến ta thấy bối rối. Tông Lê ám chỉ rằng Bạch Hồng tiểu thư không phải là nhi nữ của Bao phu nhân và nàng bị cưỡng ép trở thành đạo cô. Nhưng tay thi sĩ đó có vẻ xỉn quá, y còn cho rằng cố đạo trưởng của Triều Vân quán đã bị mưu sát. Ta đã hỏi han Chân Trí đạo trưởng và Tôn Thiên sư, hoá ra đó chỉ là chuyện nhảm nhí. Ngươi có biết buồng của Bao phu nhân nằm ở đâu không?” “Dạ thưa, nó nằm ở lầu hai, buồng thứ năm của hành lang thứ hai ạ.” “Tốt. Khi nào xong việc ngươi cứ tới buồng lão Quan. Ta sẽ đến đó sau khi trò chuyện cùng Bao phu nhân. Hiện ta không nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài, vậy chúng ta có thể cuốc bộ thẳng qua qua sân để đến dãy nhà phía Đông.” Vừa lúc đó, một tiểu đồng ướt sũng chạy đến thông báo mặc dù cơn bão đã dịu đi nhưng trời vẫn còn lớt phớt mưa. Thế là Địch Nhân Kiệt và Đào Cam lại phải vòng qua phần tiền sảnh thượng điện đang đông nghẹt các đạo sĩ, từ biệt nhau trước đại sảnh ở lầu trệt của dãy nhà phía Đông. Lầu hai không có lấy một bóng người, những hành lang nhỏ hẹp và lạnh lẽo chỉ sáng lờ mờ nhờ vài ngọn đèn lồng leo lét. Mọi thứ lặng im như tờ, chỉ có tiếng trường bào gấm của Địch Nhân Kiệt sột soạt theo mỗi bước đi. Đúng lúc huyện lệnh bắt đầu đếm những cánh cửa thì nghe thấy tiếng thì thầm. Ông dừng lại để nghe ngóng. Rồi ông nghe thấy tiếng vải lụa vang lên khe khẽ ở phía sau, đồng thời còn ngửi thấy một mùi thơm nồng. Địch Nhân Kiệt định quay lại thì một cơn đau xuyên thấu đột nhiên ập đến, mọi thứ trở nên tối om. HỒI 10 Địch Nhân Kiệt hữu kinh vô hiểm Đinh cô nương bày tỏ nỗi lòng Thoạt tiên, Địch Nhân Kiệt tưởng là cơn phong hàn trở nặng đã đánh gục mình. Đầu ông đau như búa bổ còn bụng dạ trống rỗng lạ kỳ. Ngửi thấy một hương thơm thoang thoảng, ông mở choàng mắt ra. Địch Nhân Kiệt sửng sốt nhìn chằm chằm vào tấm màn lụa thiên thanh giăng trên đầu. Ông còn mặc nguyên bộ trường bào, nằm đắp chăn trên một chiếc giường lạ lẫm. Đưa tay sờ lên đầu, ông nhận ra cả chiếc mũ lẫn dải băng quấn thuốc đều đã không còn. Phía sau đầu nổi một cục u to tướng, Địch Nhân Kiệt vừa sờ thử đã nhăn mặt lại vì đau. “Đại nhân gắng uống chút nước đi!” Một giọng nói dịu dàng vang lên. Đinh cô nương cúi xuống bên giường, tay phải nâng chén trà, tay trái quàng qua vai huyện lệnh. Đột nhiên Địch Nhân Kiệt cảm thấy chóng mặt, nhưng đã có thiếu nữ đỡ ông ngồi dậy. Sau vài ngụm trà nóng, ông liền cảm thấy khá hơn, dần dà nhận thức được chuyện gì đã xảy ra. “Bản quan đã bị đánh lén từ phía sau,” Địch Nhân Kiệt nghi ngại nhìn thiếu nữ. “Ngươi có biết gì không?” Đinh cô nương ngồi xuống mép giường, điềm tĩnh trả lời, “Bẩm, lúc nghe thấy một tiếng động mạnh dội vào cửa, tiểu nữ bèn chạy ra thì thấy đại nhân đang nằm bất tỉnh trên sàn, đầu dựa vào khung cửa, chắc hẳn ngài định ghé thăm tiểu nữ. Thế là tiểu nữ kéo đại nhân vào buồng rồi đặt ngài lên giường. Cũng may tiểu nữ tương đối khỏe khoắn, thực sự ngài chẳng nhẹ chút nào. Tiểu nữ cũng lấy nước lạnh thoa lên hai thái dương cho đến khi ngài tỉnh dậy. Tiểu nữ chỉ biết có vậy.” Địch Nhân Kiệt chau mày rồi hỏi, “Ngươi có thấy kẻ nào ngoài hành lang không?” “Dạ bẩm, tiểu nữ không thấy ai cả!” “Ngươi có nghe thấy tiếng bước chân không?” “Thưa, tiểu nữ cũng không nghe thấy ạ!” “Hãy đưa cho ta túi hương của ngươi.” Đinh cô nương ngoan ngoãn tháo túi gấm nhỏ ở thắt lưng rồi đưa cho huyện lệnh. Ông đưa lên mũi, mùi hương thật ngọt ngào nhưng khác hẳn mùi thơm nồng ông đã ngửi thấy trước khi bị tấn công. Địch Nhân Kiệt hỏi tiếp, “Ta đã bất tỉnh bao lâu rồi?” “Bẩm, đại nhân nằm đây cũng được một lúc rồi, khoảng một canh giờ. Bây giờ là gần canh ba.” Rồi nàng bĩu môi, “Bẩm đại nhân, vậy tiểu nữ có tội hay không ạ?” Địch Nhân Kiệt mỉm cười mệt mỏi, “Thứ lỗi cho ta! Bản quan đang cảm thấy rối bời. Ngươi thực là tử tế, Đinh cô nương à. Nếu không có ngươi thì tên bất lương kia hẳn đã kết liễu ta ngay tại chỗ rồi.” “Bẩm, chính dải băng dưới mũ đã cứu mạng đại nhân đó,” Đinh cô nương đáp. “Đại nhân bị đập một cú chí mạng bằng một vật tày. Nếu đại nhân không quấn băng vải độn vỏ cam quanh đầu, hẳn cú đập đó đã làm vỡ sọ ngài rồi.” “Chắc ta phải về buồng cảm tạ mấy vị phu nhân!” Địch Nhân Kiệt lẩm bẩm. “Chính các nàng đã khăng khăng bắt ta phải quấn dải băng đắp thuốc quanh đầu. Nhưng trước hết ta cần phải điều tra vụ tấn công hiểm ác này!” Địch Nhân Kiệt định leo xuống giường thì thấy mặt mày xây xẩm, buộc ông phải nằm xuống. “Đại nhân chớ vội vàng!” Đinh cô nương khuyên nhủ. “Đó là cú đánh nặng tay. Tiểu nữ sẽ dìu ngài ngồi xuống chiếc ghế bành kia.” Khi huyện lệnh đã yên vị bên chiếc bàn ọp ẹp thiếu nữ vừa nhúng dải băng vào thau đồng đặt trên bàn trang điểm vừa nói, “Thưa, tiểu nữ sẽ quấn lại dải băng cho đại nhân, nó sẽ giúp cục u xẹp bớt.” Miệng nhấp từng ngụm trà, Địch Nhân Kiệt chăm chú ngắm nhìn khuôn mặt bộc trực và dịu dàng của Đinh cô nương. Nàng trạc hai mươi lăm xuân xanh, dung nhan không thật kiều diễm nhưng lại rất duyên dáng. Bộ xiêm y lụa đen cùng dải dây lưng rộng bản bằng gấm đỏ làm nổi bật vòng eo con kiến và bộ ngực nhỏ săn chắc. Thiếu nữ có thân hình mảnh dẻ và dẻo dai tựa cành liễu, nhờ nhiều năm tập luyện và biểu diễn cùng đoàn kịch. Sau khi Đinh cô nương đã quấn băng cũng như sửa sang lại mũ cho huyện lệnh ông nói, “Trong lúc bản quan nghỉ ngơi lại sức, ngươi ngồi xuống đây trò chuyện với ta một chút. Tại sao một thiếu nữ ưa nhìn và tài năng như ngươi lại đi theo một đoàn tạp kỹ? Ta không cho đó là chức nghiệp hèn kém, nhưng ngươi có thể dễ dàng lựa chọn một cuộc sống an nhàn hơn.” Thiếu nữ nhún vai, châm thêm một chén trà cho Địch Nhân Kiệt, “Bẩm đại nhân, tiểu nữ tự nhận bản thân khá bướng bỉnh và thích sống theo ý mình. Gia phụ tiểu nữ là chủ một dược phòng nhỏ ở kinh thành và có đến năm nhi nữ, quả là càng cố càng dở! Thân là trưởng nữ, khi gia phụ mắc nợ một tay buôn thuốc giàu có, ông muốn gán tiểu nữ làm thiếp cho lão già mất nết đấy. Nếu từ chối thì tiểu nữ sẽ bị bán vào thanh lâu, một lựa chọn chẳng khá khẩm hơn là bao. Thấy bản thân cũng có chút sức vóc, tiểu nữ liền xin phép gia phụ cho mình gia nhập đoàn kịch của lão Quan. Lão trả cho gia phụ tiểu nữ số ngân lượng mà ông cần. Tiểu nữ nhanh chóng thuần thục cách nhảy múa và nhào lộn. Sau một năm, lão Quan đã thu đủ cả vốn và lời. Lão Quan là một người tử tế, không bao giờ quấy rầy hoặc ép buộc tiểu nữ phải chiều chuộng những người bỏ tiền thuê biểu diễn. Vì vậy mà tiểu nữ quyết định ở lại đoàn kịch.” Thiếu nữ chun mũi rồi tiếp tục kể, “Thiên hạ vẫn đồn đào hát là những kẻ đồi bại còn ả đào rặt toàn đám lẳng lơ, nhưng tiểu nữ dám đảm bảo với đại nhân rằng lão Quan là một nam nhân vô cùng lương thiện. Dù bản thân chẳng phải đạo cô hay thánh nữ, nhưng tiểu nữ chưa từng bán thân và sẽ không bao giờ làm điều đó.” Địch Nhân Kiệt gật gù rồi tiếp tục hỏi, “Ngươi nói lão Quan không bao giờ quấy rối mình, nhưng còn Mặc Đức thì sao?” “Dạ bẩm, hồi đầu họ Mặc cũng gạ gẫm tiểu nữ xuất phát từ bản năng của một nam nhân hơn là lòng ái mộ thực sự. Tiểu nữ cảm nhận ngay được điều đó. Thế nhưng lời chối từ của tiểu nữ vẫn quất mạnh vào lòng kiêu hãnh ngu ngốc của hắn. Hắn không ưa tiểu nữ kể từ lúc đó. Thật đáng tiếc họ Mặc là một tay kiếm cự phách, tiểu nữ rất thích được diễn chung với hắn.” “Ta không ưa cái cách hắn đe dọa Âu Dương cô nương trên sân khấu,” huyện lệnh nhận xét. “Liệu Mặc Đức có phải loại nam nhân tìm kiếm lạc thú trong việc gây đau đớn cho nữ nhân không?” “Thưa đại nhân, không hề có chuyện đó! Tuy họ Mặc tính tình thô bạo, nhưng hắn không phải kẻ xấu xa hay biến thái. Ngài có thể tin tưởng tiểu nữ, tiểu nữ cũng có chút hiểu biết về nam nhân!” “Âu Dương cô nương cũng từng từ chối hắn?” Đinh cô nương do dự một khắc rồi chậm rãi đáp, “Bẩm, Âu Dương tỷ tỷ chỉ mới gia nhập đoàn kịch, như đại nhân đã thấy.” Thiếu nữ bỏ lửng câu nói, nhanh chóng vớ lấy chén trà và uống cạn. Sau đó nàng nhặt một chiếc đũa trên bàn, ném cái đĩa nhỏ lên không trung rồi đón bằng đầu đũa, xoay nó quay tít một cách thành thạo. “Bỏ xuống đi!” huyện lệnh bực bội. “Ta chóng mặt quá!” Thiếu nữ khéo léo đỡ lấy cái đĩa, đặt lại lên bàn. Địch Nhân Kiệt nhắc lại câu hỏi, “Hãy trả lời bản quan, Âu Dương cô nương từng từ chối Mặc Đức phải không?” “Thưa, đại nhân không cần phải lên giọng với tiểu nữ như vậy!” Đinh cô nương bướng bình đáp. “Tiểu nữ sẽ nói ngay đây. Âu Dương tỷ tỷ cảm mến tiểu nữ có chút thái quá. Tiểu nữ không thích điều đó lắm nên thường giữ khoảng cách với tỷ ấy. Nhưng họ Mặc lại tin rằng bọn tiểu nữ có tình ý với nhau, hắn đâm ra ghen tỵ và thù ghét tỷ ấy.” “Ta hiểu rồi, vậy Mặc Đức đã theo đoàn kịch bao lâu?” “Dạ bẩm, mới được khoảng một năm thôi ạ. Tiểu nữ không nghĩ hắn là một đào kép thực thụ mà chỉ là một tên du đãng nay đây mai đó khắp nơi, kiếm sống bằng đủ thứ nghề. Tiểu nữ còn chẳng tin Mặc Đức là tên thật của hắn. Tiểu nữ từng thấy một chiếc áo choàng thêu chữ Lưu của hắn, nhưng hắn chối rằng đó là cái áo cũ mình mua ở tiệm cầm đồ. Còn một điều nữa, chắc chắn hắn đã ghé thăm đạo quán này từ trước rồi.” “Sao ngươi lại biết điều đó?” Địch Nhân Kiệt sốt ruột hỏi. “Mới ngày đầu tiên đoàn kịch tới Triều Vân quán, hắn đã rành rẽ đường đi nước bước trong này. Bọn tiểu nữ thấy nơi đây thật đáng sợ và thường ngồi ru rú trong buồng riêng. Thế mà họ Mặc cứ thản nhiên lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm mà chẳng sợ bị lạc đường giữa chốn mê cung này.” “Ngươi nên đề phòng hắn,” huyện lệnh nghiêm túc nói. “Rất có thể hắn là một tội nhân đấy. Bản quan đang lấy làm lo cho Âu Dương cô nương nữa.” “Bẩm, đại nhân không nghĩ Âu Dương tỷ tỷ cũng là tội nhân đấy chứ?” Đinh cô nương hỏi vội. """