" Địch Công Kỳ Án Tập 2: Tứ Bình Phong - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địch Công Kỳ Án Tập 2: Tứ Bình Phong - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám Ebooks Nhóm Zalo GIỚI THIỆU Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, huyện lệnh Bồng Lai, tình cờ phá một vụ án mạng trong lúc đi du ngoạn ở Mậu Bình, một huyện khác thuộc Đăng Châu*Đăng Châu nay thuộc tỉnh Sơn Đông - Trung Quốc.. KIỀU THÁI, trợ thủ của Địch Nhân Kiệt trong chuyến du ngoạn và phá án tại Mậu Bình. Các nhân vật khác ĐẶNG CÂN, tri huyện Mậu Bình, nơi xảy ra án mạng. NGÔ NGÂN LIÊN, còn gọi là Đặng phu nhân, vợ của Đặng Cân. PHAN DU ĐỨC, sư gia của Đặng tri huyện. KHA HƯNG NGUYÊN, chưởng quỹ*Chưởng quỹ nghĩa là chủ hiệu buôn. một phường lụa giàu có. KHA PHU NHÂN, nương tử của Kha Hưng Nguyên. BIỆN HỒNG, thầy tử vi, tướng số. LƯƠNG CHIẾN, chưởng quỹ một phường bạc. LƯƠNG ĐỨC, họa sĩ, thân đệ của Lương Chiến. QUÂN SƠN, đạo chích. LƯU VŨ (BÀI QUÂN), thủ lĩnh hắc đạo tại huyện Mậu Bình. TIÊU LƯỢNG (TÚ TÀI), gã du côn. CẨM CHƯỚNG, kỹ nữ. Các vụ án trong truyện Vụ án TỨ BÌNH PHONG. Vụ án PHƯỜNG CHỦ CẢ TIN. Vụ án ĐỤC KHOÉT NGÂN QUỸ. HỒI 1 Tường sự lạ, Địch Công cảm thán Thăm Mậu Bình, quan án mượn tên Đặng tri huyện đứng im giữa cửa thư phòng, cảm thấy vô cùng bối rối, mắt mờ đi, không dám bước về phía án thư. Ông ta đứng dựa vào khung cửa, mắt nhắm nghiền, từ từ đưa hai tay lên bóp nhẹ huyệt thái dương. Cơn đau đầu giờ không còn dữ dội mà chuyển sang âm ỉ, thỉnh thoảng lại nhói lên một hồi. Tai không còn ong ong, Đặng tri huyện có thể nghe thấy tiếng gia nhân bắt đầu công việc thường nhật sau giờ nghỉ trưa nơi hậu viện. Chỉ một chốc nữa thôi, lão quản gia sẽ mang trà chiều tới cho ông ta. Đặng tri huyện gắng hết sức làm chủ bản thân, cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi hai mắt đã nhìn rõ hơn. Ông ta vội đưa hai tay lên quan sát thật kỹ nhưng không thấy vết máu nào cả. Ông ta nhìn sang cái bàn gỗ mun lớn, mặt bàn được đánh bóng loáng, phản chiếu hình ảnh của những bông hoa cắm trong chiếc lọ ngọc bích giữa bàn. Hoa đã héo úa hết cả, ông ta lờ mờ nghĩ rằng phu nhân đáng ra phải thay hoa mới rồi, mọi khi hiền thê vẫn thường tự mình lựa hoa từ hoa viên. Đột nhiên, Đặng tri huyện cảm thấy trống rỗng, ông ta lập cập bước vào phòng, tay vịn mép án thư, vừa thở nặng nhọc vừa đi một vòng quanh bàn rồi thả mình xuống ghế bành. Nắm chặt thành ghế khi cơn choáng váng lại ập đến, Đặng tri huyện cố giữ mình ngồi vững, chờ một lúc để nó qua đi rồi từ từ mở mắt. Bức tứ bình phong dựng ngay bức vách đối diện. Ông ta lập tức ngoảnh mặt đi, nhưng bức bình phong dường như cũng chuyển động theo ánh mắt. Một cơn rùng mình khiến thân hình cao lớn run rẩy. Theo bản năng, Đặng tri huyện kéo lại áo. Phải chăng thế là hết, ông ta sắp sửa hóa điên? Mồ hôi đọng từng giọt trên lông mày, ông ta nghĩ có lẽ mình bệnh thật rồi. Đặng tri huyện cúi xuống nhìn chăm chú vào công văn mà vị sư gia để trên bàn, cố gắng tập trung suy nghĩ. Đặng tri huyện liếc mắt thấy lão quản gia bước vào, mang theo một khay trà. Ông ta muốn đáp lại lời vấn an lễ phép của lão, nhưng miệng khô khốc, tê bì hết cả. Lão quản gia vận bộ đồ xám, đầu đội mũ tròn đen, cung kính mời trà. Hai tay run run, ông ta vội đón lấy và nhấp một ngụm, hi vọng uống rồi hẳn sẽ khá hơn. Mà sao lão quản gia vẫn chưa chịu lui, lão còn đợi gì nữa? Đặng tri huyện vén môi định trách, lại chợt nhìn thấy một phong thư đặt trên khay trà. Lão quản gia thưa, “Bẩm đại nhân, phong thư này được một khách nhân họ Thẩm mang tới sáng nay.” Đặng tri huyện nhìn xuống phong thư, tay vẫn còn run nên lưỡng lự chưa muốn cầm lên. Ngoài bì thư, tên người nhận được viết đậm bằng lối Khải* Lối Khải là phong cách viết chữ Hán ra đời muộn nhất, xuất hiện khoảng giữa thời Đông Hán và Tào Ngụy và phát triển thành phong cách riêng vào thế kỷ VII. Đây là kiểu chữ chính thức, phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay. , “Đặng Cần, tri huyện Mậu Bình. Tư tín.” Góc dưới bên trái có dấu niêm phong son của Đăng châu Tri phủ. “Bẩm, đây là thư riêng gửi ngài, tiểu nhân nghĩ nên tự mình mang tới trình,” lão quản gia nói. Đặng Cân chỉ là một trong hàng trăm tri huyện, phận con ong cái kiến dưới chân triều đình Đại Đường vinh quang. Dù có mang danh quan phụ mẫu trên đất Mậu Bình này, ông ta vẫn chỉ là một trong cả tá tri huyện dưới trướng Tri phủ đại nhân. Lão quản gia nói đúng, ông ta không nên để một thân tín mang thư tay của quan trên phải đợi lâu hơn. Tạ ơn trời Phật, đầu óc ông ta đã thông suốt trở lại. Đặng tri huyện nhận phong thư, với lấy con dao tre rọc giấy. Thư chỉ ghi vỏn vẹn vài dòng. Tin mật. Người mang thư tới danh xưng Địch Nhân Kiệt tri huyện Bồng Lai, đang trên đường trở về sau hội nghị tại Đăng châu phủ. Địch Nhân Kiệt sẽ cải trang và lưu lại Mậu Bình khoảng một tuần. Đề nghị tri huyện địa phương hỗ trợ tối đa. Đăng châu Tri phủ. Đặng tri huyện từ từ gấp phong thư lại. Đồng liêu của ông ta sao lại đến vào đúng lúc khó khăn này? Hơn nữa sao phải cải trang? Hay đã xảy ra sự chẳng lành? Tri phủ đại nhân vốn nổi tiếng với cách thức làm việc không theo lẽ thường, khéo Địch tri huyện này được cử đến Mậu Bình để điều tra việc cơ mật nào đó… liệu ông ta có nên cáo ốm? Không nên. Việc này sẽ khiến toàn bộ người trong phủ nghi ngờ, bởi sáng nay ông ta vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Đặng tri huyện nhanh chóng uống nốt chén trà. Ông ta cảm thấy khá hơn, giọng nói gần như trở lại bình thường khi ra lệnh, “Rót thêm một chén trà và chuẩn bị trang phục cho ta!” Lão quản gia giúp Đặng tri huyện thay bộ áo dài gấm nâu, đưa cho ông ta chiếc mũ vuông đen. Đặng tri huyện siết đai thắt quanh eo. “Ngươi hãy mời Thẩm tiên sinh vào,” ông ta nói. “Ta sẽ tiếp khách trong thư phòng này.” Ngay khi lão quản gia rời đi, Đặng tri huyện bước tới chỗ chiếc trường kỷ bằng gỗ mun vẫn dùng tiếp khách. Nó được kê sát vách, ngay dưới bức tranh thủy mặc lớn. Ông ta ngồi xuống bên góc trái trường kỷ, từ đây chỉ nhìn thấy một phần bức tứ bình phong. Đặng tri huyện quay trở lại án thư. Thật may lúc này bước chân ông ta đã trở lại vững vàng. Nhưng liệu tâm trí còn giữ được sáng suốt như bình thường? Ngay khi ông ta đứng đó với những luồng suy nghĩ mông lung, cửa thư phòng bật mở. Lão quản gia bước vào, trên tay cầm tấm danh thiếp màu đỏ đề rõ hai chữ tính danh ‘Thẩm Mặc’, còn góc dưới bên trái thì đề chức danh ‘Thương lái’. Theo sau là một nam nhân tướng cao, vai rộng, bộ râu ba chòm dài và đen nhánh. Người này cúi chào ông ta, hai tay thu trong ống áo xanh đã bạc màu. Chiếc mũ đen sờn cũ không tiết lộ thông tin gì về phẩm tước, cấp bậc của người đội. Đặng tri huyện cúi chào đáp lễ, nói mấy câu thăm hỏi khách sáo rồi mời khách ngồi xuống trường kỷ, bên trái bàn trà. Bản thân Đặng tri huyện ngồi xuống bên phải, ra hiệu cho lão quản gia lui ra để hai người họ bàn chuyện riêng. Khi cửa đã khép lại, khách nhân nhìn Đặng tri huyện với ánh mắt sắc bén và tinh anh, cất giọng trầm khoan khoái, “Từ lâu tại hạ đã mong có dịp được tiếp chuyện Đặng đại nhân. Ngay khi còn ở kinh thành, tại hạ đã nghe tiếng đại nhân là một thi nhân xuất chúng và một vị quan vô cùng anh minh.” Đặng tri huyện cúi đầu tỏ ý cảm tạ. “Địch đại nhân quá khen,” Đặng tri huyện nói. “Tại hạ cũng chỉ làm vài ba câu thơ cho vui nhân lúc nhàn rỗi mà thôi. Không dám mơ tưởng lại được một vị đồng liêu bận rộn, nổi tiếng am hiểu thơ văn, lại là một thần thám như Địch đại nhân để mắt đến.” Đặng tri huyện ngừng một lúc, cơn chóng mặt đang quay trở lại khiến ông ta cảm thấy khó mà trò chuyện theo lễ như thường. Đặng tri huyện lưỡng lự một chốc rồi nói tiếp, “Tri phủ đại nhân có viết rằng Địch đại nhân cải trang vi hành, phải chăng là đang điều tra một vụ án nào đó? Thứ lỗi cho tại hạ đường đột, nhưng…” “Ồ, không!” Địch Nhân Kiệt cười xòa. “Tại hạ không ngờ Tri phủ đại nhân chỉ viết vắn gọn như vậy, khiến đại nhân uổng công lo lắng. Thực tế là do bản thân còn non nớt thiếu kinh nghiệm, tại hạ cảm thấy công vụ ở Bồng Lai hơi căng thẳng. Đại nhân cũng biết, đây là lần đầu tiên tại hạ đảm nhiệm chức tri huyện tại Bồng Lai. Khi được triệu tập tới Đăng châu phủ để tham dự hội nghị hải phòng, tại hạ đã nghĩ đến việc xin phép quan trên cho nghỉ phép vài hôm. Huyện Bồng Lai cách Cao Câu Ly* Cao Câu Ly (37 TCN - 668) là một vương quốc ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên và Mãn Châu. một vùng biển, mà hiện giờ Cao Câu Ly lại là một nước chư hầu không an phận lắm. Tri phủ đại nhân đã khiến tại hạ bận bịu từ sáng tới đêm, lại thêm một vị đại quan từ triều đình tới tham dự… Hẳn đại nhân cũng hiểu việc phải ngoan ngoãn phục tùng mệnh lệnh là như thế nào rồi đấy! Hội nghị đã kéo dài bốn ngày, khi tại hạ quay trở lại Bồng Lai, chắc chắn sẽ có nhiều công sự bề bộn đang chờ. Vì vậy tại hạ mới xin nghỉ phép ít ngày, làm một khách nhân du ngoạn qua huyện Mậu Bình của đại nhân. Nơi này vốn nổi tiếng với nhiều danh thắng lịch sử, phong cảnh hữu tình như trong những vần thơ đại nhân từng mô tả. Đó chính là lý do tại hạ xin được cải trang, đóng giả làm một thương lái lấy tên Thẩm Mặc tới đây.” “Tại hạ hiểu rồi.” Đặng tri huyện gật đầu, cay đắng nghĩ thầm, ‘Nghỉ phép với chả du ngoạn. Nếu Tri phủ nói rõ như vậy trọng thư, ta đã hoãn gặp hắn vài ngày.’ Ông ta tiếp lời, nói lớn, “Có thể tạm thoát khỏi những lễ nghi rườm rà và công sự rắc rối để ngao du đây đó vài ngày như một bách tính thì thật thoải mái! Vậy, tùy tùng của Địch đại nhân đâu?” Địch Nhân Kiệt nói, “Tại hạ chỉ mang theo một trợ thủ tùy thân mà thôi, y tên Kiều Thái.” “Ồ, như thế liệu có khuyến khích y… vượt quá phẩm hàm lễ nghĩa chăng?” Đặng tri huyện do dự hỏi. “Thú thực tại hạ cũng không nghĩ nhiều như vậy,” Địch Nhân Kiệt cười đáp. “Đặng đại nhân có thể chỉ cho tại hạ một khách điếm nhỏ sạch sẽ tại trấn không? Cũng mong đại nhân giới thiệu một vài danh thắng nổi tiếng để thưởng ngoạn tại Mậu Bình?” Địch Công dùng trà cùng Đặng tri huyện Đặng tri huyện nhấp một ngụm trà rồi đáp, “Thật đáng tiếc, bản quan không có vinh hạnh được đón tiếp Địch đại nhân như thượng khách tại phủ này. Nhưng ý Địch đại nhân đã vậy, tại hạ thiết nghĩ đại nhân có thể nghỉ tại khách điếm Phi Hạc có tiếng tại Mậu Bình, hơn nữa nơi này lại cách nha phủ không xa. Còn về danh lam thắng cảnh, tại hạ xin giới thiệu cho ngài sư gia Phan Du Đức, lão sinh ra và lớn lên tại Mậu Bình, thông hiểu tường tận từng ngõ ngách nơi này. Để tại hạ dẫn Địch đại nhân đến gặp sư gia, thư phòng riêng của lão ở ngay sau công đường.” Đặng tri huyện đứng dậy. Địch Nhân Kiệt cũng đứng lên theo, thấy gia chủ đột nhiên lảo đảo. Ông ta cố đứng vững lại, hai tay bám chặt vào thành ghế. “Đặng đại nhân không được khỏe ư?” Địch Nhân Kiệt lo lắng hỏi. “Đa tạ ngài đã hỏi thăm, chỉ là một cơn chóng mặt mà thôi. Tại hạ gần đây hơi mệt mỏi.” Đặng tri huyện cười gượng đáp, đưa ánh mắt dò hỏi về phía lão quản gia mới bước vào. Lão quản gia cúi thấp đầu, hạ giọng thưa, “Bẩm, thứ cho tiểu nhân đã làm phiền. A hoàn chính phòng mới báo lại là không thấy phu nhân từ sau giờ nghỉ trưa, mà cửa buồng ngủ vẫn khóa chặt.” “À đúng rồi, ta quên nói với ngươi,” Đặng tri huyện đáp. “Sau bữa trưa, phu nhân nhận được thư gọi về nương gia của lệnh tỷ. Ngươi truyền lời lại cho đám gia nhân như vậy đi.” Thấy lão quản gia tỏ ý lưỡng lự, ông ta quát, “Còn lề mề gì nữa, không thấy ta đang bận việc hay sao?” “Bẩm, tiểu nhân vẫn còn việc bẩm báo,” lão quản gia lúng túng đáp khẽ, “ai đó đã làm vỡ chiếc bình gốm lớn ngay trước buồng ngủ. Tiểu nhân…” “Để sau!” Đặng tri huyện ngắt lời, đoạn dẫn Địch Nhân Kiệt ra cửa. Trong lúc băng qua hoa viên ngăn cách hậu viện với công đường, đột nhiên Đặng tri huyện nói, “Tại hạ thật tâm mong rằng trong thời gian nghỉ ngơi tại đây, Địch đại nhân đừng khách sáo. Bất cứ lúc nào ngài cũng có thể đến tìm tại hạ để trò chuyện. Tại hạ cũng còn mấy vấn đề nan giải muốn bàn bạc với ngài. Rẽ trái ở đây, mời!” Hai người tiếp tục băng qua khoảng sân rộng giữa công đường và gian nhà phía đối diện. Đặng tri huyện dẫn Địch Nhân Kiệt vào một thư phòng nhỏ được sắp xếp hết sức ngăn nắp. Trong buồng, một lão nam nhân gầy gò ngồi sau một án thư chất đống công văn. Thấy Đặng tri huyện vào, lão sư gia vội đứng bật dậy, ra hiệu cho đứa nô tỳ đứng nép trong góc lui ra, đoạn khập khiễng bước tới cúi chào Đặng tri huyện và khách nhân mới đến. Đặng tri huyện nói giọng đều đều, “Đây là Thẩm tiên sinh, một… thương lái do Đăng châu phủ giới thiệu. Tiên sinh muốn ở lại vài ngày để du ngoạn danh lam thắng cảnh trong huyện. Ngươi hãy theo tiên sinh, tất hỏi tất đáp.” Đoạn, Đặng tri huyện quay sang Địch Nhân Kiệt nói, “Thứ lỗi cho tại hạ phải lui về chuẩn bị cho phiên thăng đường chiều nay.” Đặng tri huyện cúi chào rồi rời đi. Viên sư gia họ Phan mời Địch Nhân Kiệt ngồi xuống chiếc ghế đối diện án thư và chào hỏi xã giao. Trông Phan Du Đức có vẻ lo lắng bồn chồn, thêm việc Đặng tri huyện vội vã rời đi, Địch Nhân Kiệt đoán nha phủ này đang mắc phải một vụ án khó. Nhưng khi Địch Nhân Kiệt hỏi chuyện, lão Phan đáp lời ngay, “Không phải đâu, thưa tiên sinh. Chỉ là những việc thường ngày trong phủ đường mà thôi. Mậu Bình vốn là một huyện lỵ yên bình!” Địch Nhân Kiệt nói, “Chẳng qua là ta nghe Đặng đại nhân đề cập đến một chuyện khiến ngài ấy bận lòng.” Phan Du Đức nhướng đôi mày đã bạc. “Tại hạ lại không biết chuyện này,” lão đáp. Đúng lúc ấy, một nô tỳ bước vào, sư gia liền lớn tiếng đuổi đứa nô tỳ ra rồi quay sang Địch Nhân Kiệt, bối rối giải thích, “Bọn nô tỳ ngu ngốc đó làm vỡ chiếc bình cổ lớn trong buồng ngủ phu nhân. Đặng đại nhân rất quý chiếc bình gia truyền đó. Không gia nhân nào chịu nhận đã làm vỡ bình, lão quản gia muốn tại hạ thẩm vấn từng đứa để tìm ra thủ phạm.” “Đặng đại nhân không có thuộc hạ nào khác ngoài ngươi sao?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Các tri huyện thường có ba đến bốn trợ thủ thân tín đi theo mình mỗi khi chuyển sang một địa bàn mới.” “Vâng, thường là như vậy. Nhưng Đặng đại nhân không làm theo lệ đó, ngài ấy có vẻ sống hơi khép kín. Bản thân tại hạ vốn là quan viên lâu năm tại phủ đường nơi đây.” Lão Phan ngừng lại rồi tiếp, “Đặng đại nhân chắc rất phật lòng về chuyện chiếc bình. Lúc mới vào, trông sắc mặt ngài ấy không được tốt cho lắm.” “Chẳng hay Đặng đại nhân đang mắc căn bệnh mãn tính nào đó?" Địch Nhân Kiệt hỏi. "Ta thấy sắc mặt ngài ấy quả thật hơi tái.” “Ồ, không,” Phan sư gia đáp. “Đại nhân chẳng bao giờ than phiền về sức khỏe của mình, mà dạo này ngài ấy còn đặc biệt cao hứng. Khoảng hơn tháng trước, đại nhân ngã trật cổ chân trong sân nhưng đã hoàn toàn bình phục rồi. Có thể cái nóng mùa hè làm ngài ấy hơi khó ở… Thôi, để tại hạ giới thiệu cho Thẩm tiên sinh vài địa danh tham quan tại Mậu Bình…” Lão Phan nói một tràng dài về những danh lam thắng cảnh của vùng đất này. Địch Nhân Kiệt nhận thấy viên sư gia này là một người có học thức, đọc rộng và đam mê lịch sử. Địch Nhân Kiệt có chút tiếc nuối khi phải cáo từ ra về, viện cớ người đồng hành của mình đang đợi trong quán trà phía sau nha phủ. “Để tại hạ tiễn tiên sinh ra theo lối hậu,” lão Phan nói. “Như vậy sẽ đỡ được đoạn đường vòng khá xa khi rời đi qua cửa trước nha phủ.” Lão Phan dẫn Địch Nhân Kiệt quay lại hậu viện. Mặc dù chân bị tật, viên sư gia vẫn bước đi thoăn thoắt qua dãy hành lang tối dài, không có cửa sổ, bao vòng quanh phủ. Cuối hành lang là một cánh cửa sắt nhỏ. Viên sư gia lấy chìa khóa mở cửa và vui vẻ nói, “Lối thoát hiểm này có thể được coi là một kỳ quan trong trấn, nó được xây dựng hơn bảy mươi năm trước như một mật đạo khi cuộc nội loạn xảy ra. Như tiên sinh đã biết, lúc đó…” Địch Nhân Kiệt vội ngắt lời viên sư gia để cảm ơn và chào từ biệt. Ông bước ra con phố yên ắng, đi bộ dọc theo hướng lão Phan đã chỉ trước đó. Địch Nhân Kiệt tìm thấy quán trà nơi Kiều Thái ngồi đợi ở ngay góc phố. Mặc dù mới sau giờ nghỉ trưa không lâu, quán đã khá đông đúc. Khách nhân ngồi kín hầu hết các bàn, đa phần đều diện y phục phú quý, thư thả vừa ngồi uống trà vừa cắn hạt dưa. Địch Nhân Kiệt đi thẳng đến bàn có một nam nhân lực lưỡng mặc áo dài nâu, đội mũ tròn đen, đang ngồi đó mê mải đọc sách. Ông kéo chiếc ghế đối diện, y liền đứng bật dậy. Địch Nhân Kiệt vốn là người cao lớn, nhưng Kiều Thái còn cao hơn ông một tấc, cổ dày vai rộng, eo chắc gọn, mang dáng dấp một võ sĩ, lại có khuôn mặt anh khí nhẵn nhụi. Kiều Thái nói, “Huyện lệnh đại nhân, ngài quay lại sớm.” “Bỏ ‘Huyện lệnh đại nhân’ đi,” Địch Nhân Kiệt cảnh báo, “nên nhớ chúng ta đang cải trang vi hành.” Ông đặt tay nải chứa y phục xuống sàn, gọi tiểu nhị mang thêm một ấm trà. Cách họ không xa, từ cái bàn ở góc buồng, một nam nhân gầy gò xương xẩu đang ngồi một mình đột nhiên ngước lên nhìn. Kẻ này mang khuôn mặt hốc hác, có phần xấu xí khả ố, một vết sẹo dài chạy từ cằm ngược lên hốc mắt phải, làm môi trên biến dạng, khiến miệng gã trông lúc nào cũng như đang cười khẩy. Gã đưa một bàn tay khẳng khiu lên ôm má, cố gắng ngăn nó không giật giật vì hồi hộp. Đoạn, gã chống hẳn hai cùi chỏ xương xẩu lên bàn, rướn về phía trước, cố gắng nghe xem hai người Địch Nhân Kiệt đang nói chuyện gì. Nhưng tiếng ồn ào từ mấy bàn bên đã át mất giọng nói của họ. Thất vọng, gã đành tiếp tục tập trung quan sát hai người bằng con mắt hằn học duy nhất còn lại. Kiều Thái nhìn quanh, bắt gặp cái nhìn lấm lét của gã trung niên xấu xa kia, bèn hạ giọng nói với Địch Nhân Kiệt, “Lão gia, ngài có thấy nam nhân đang ngồi một mình ở góc bàn phía sau tiểu nhân không? Trông gã như một con côn trùng gớm ghiếc mới từ dưới đất bò lên.” Địch Nhân Kiệt liếc qua rồi đáp, “Quả là diện mạo gã không được thiện cảm cho lắm. Mà ngươi đang đọc gì đó?” “Thưa, tiểu nhị đã cho tiểu nhân mượn cuốn Mậu Bình du ngoạn chí này. Lão gia thật sáng suốt khi chọn nơi đây nghỉ chân vài ngày!” Đẩy cuốn sách về phía Địch Nhân Kiệt, Kiều Thái tiếp, “Ngài xem, ở đây viết rằng bên trong Quan Đế miếu có đầy đủ mười hai pho tượng các vị danh tướng thời xưa, cao bằng người thật, được tạc bởi những thợ điêu khắc có tiếng. Chỗ này còn có ôn tuyền* Ôn tuyền là suối nước nóng. tuyệt diệu…” Địch Nhân Kiệt bật cười và ngắt lời, “Sư gia của Đặng tri huyện cũng vừa giới thiệu cho ta y như thế! Lịch trình vãn cảnh của chúng ta sẽ khá bận rộn đấy.” Địch Nhân Kiệt nhấp một ngụm trà. “Vị tri huyện ở đây có làm ta hơi thất vọng. Ta tưởng một thi nhân tiếng tăm như Đặng đại nhân hẳn phải là một học giả vui vẻ hoạt bát và quảng giao. Nhưng ông ấy lại có vẻ cổ hủ và cứng nhắc, thậm chí còn ốm yếu, nhiều lo âu.” “Lão gia đang trông đợi điều gì?” Kiều Thái hỏi. “Chẳng phải ngài đã bảo ông ấy chỉ có một chính thất thôi sao? Ở cương vị như Đặng đại nhân, điều đó quả thật lạ lùng!” “Ngươi không nên nhận xét như vậy,” Địch Nhân Kiệt quở trách. “Phu thê ân ái như Đặng đại nhân và phu nhân là một tấm gương sáng. Dù họ thành đôi đã tám năm mà chưa sinh được hài tử, Đặng đại nhân vẫn không cưới thê nạp thiếp. Giới văn sĩ kinh thành xưng tụng họ là ‘Vĩnh hằng tình nhân’, không phải có ý đố kỵ mà tán thưởng. Hiền thê ông ấy là Ngân Liên phu nhân cũng nổi tiếng với tài thơ phú. Phu thê cùng chung sở thích nên thật sự gắn bó keo sơn.” “Dù cho Đặng phu nhân là một nữ văn sĩ lỗi lạc,” Kiều Thái nhận xét, “tiểu nhân vẫn nghĩ Đặng đại nhân nên nạp thêm hai, ba thiếp thất trẻ trung xinh tươi, chỉ là để lấy thêm cảm hứng làm thơ thôi.” Lúc này, Địch Nhân Kiệt không để ý đến lời Kiều Thái nói. Ông còn mải chú ý đến cuộc trò chuyện bàn bên. Một nam nhân to béo với cái cằm ngấn mỡ đang bình luận, “Ta vẫn bảo lưu ý kiến là tri huyện đại nhân đã mắc sai lầm trong phiên xử sáng nay. Tại sao ngài ấy lại không xác nhận việc lão Kha tự sát?” Nam nhân gầy gò ngồi đối diện có một khuôn mặt làm người ta liên tưởng đến loài hồ ly, “À thì, người ta đã tìm thấy thi thể lão Kha đâu! Chưa thấy thi thể thì chẳng có vụ án mạng hay tự sát nào sất! Luật lệ là thế!” “Đương nhiên là người ta không thể tìm thấy thi thể! Chẳng phải lão Kha đã nhảy xuống sông tự sát? Đừng quên là địa hình vùng này khá nhấp nhô, một phần trấn lại nằm trên đồi, lòng sông nhiều dốc, nước chảy xiết vô cùng. Ta không có ý chê trách gì Đặng đại nhân, ngài là một trong những vị tri huyện tốt nhất của Mậu Bình. Ta chỉ nói rằng một quan viên nhận bổng lộc đều đặn hàng tháng như ngài ấy thì không hiểu được những lo lắng tiền bạc của bọn thương nhân chúng ta. Ngài ấy không biết rằng nếu việc lão Kha tự sát không được xác nhận thì những người góp vốn không thể tiếp tục sinh ý của người quá cố. Lão còn mấy mối bán buôn chưa xong, nếu cứ đình trệ thế này thì gia đình lão ấy sẽ tổn thất khối ngân lượng ấy.” Kẻ kia gật đầu tán đồng rồi hỏi, “Ngươi có biết tại sao lão Kha lại tự sát không? Không phải vì lý do tiền bạc chứ?” “Tất nhiên là không!” Gã béo nói. “Bàn về sinh ý, phường lụa của lão lại chẳng lớn nhất vùng. Hình như gần đây thân thể lão có vấn đề. Hẳn đó mới chính là nguyên nhân. Ngươi có nhớ vụ tự sát của lão Vương năm ngoái không? Gã buôn trà suốt ngày than đau đầu ấy?” Đến đây, Địch Nhân Kiệt đã hết hứng thú, bèn rót thêm một chén trà. Kiều Thái nãy giờ cũng lắng tai nghe, thì thầm, “Lão gia, ngài đừng quên mình đang nghỉ ngơi đấy nhé! Tất cả các tử thi quanh đây đều thuộc quyền hành của vị Đặng tri huyện kia!” “Ngươi nói đúng. Kiều Thái, cuốn du ngoạn chí ngươi đọc có đề cử tiệm kim hoàn nào gần nơi này không? Ta muốn mua ít nữ trang về làm quà cho các phu nhân.” “Dạ thưa, một danh sách dài cả chục thước.” Kiều Thái đáp, chỉ cho Địch Nhân Kiệt những tiệm kim hoàn được giới thiệu. Địch Nhân Kiệt gật đầu, “Tốt. Ta sẽ có nhiều tiệm để lựa chọn.” Đoạn ông đứng dậy gọi tiểu nhị tính tiền, “Đi thôi, ta biết một khách điếm rất tốt ở gần đây.” Đợi bọn Địch Nhân Kiệt bước xuống phố, gã xấu xí lúc trước mới nhanh chóng đứng dậy rồi lại gần cái bàn, đọc đúng hai trang sách còn để mở. Con mắt duy nhất của gã ánh lên tia gian xảo. Gã quẳng cuốn sách xuống, gấp gáp rời khỏi quán trà để bám theo hai người. Gã tìm thấy Địch Nhân Kiệt và Kiều Thái đứng ở phía xa, hẳn họ đang hỏi thăm đường. HỒI 2 Nơi khách điếm bỗng gặp kẻ gian Tại công đường, Địch, Kiều nghe án Khách điếm Phi Hạc nằm trên con phố đông đúc dẫn lên một trong những đỉnh đồi thuộc huyện Mậu Bình. Cổng vào khách điếm khá nhỏ, không phô trương, nằm ngay cạnh một đại tửu lâu hoa mỹ. Khác hẳn ấn tượng bên ngoài, bên trong khách điếm là một đại sảnh rộng rãi. Phía sau quầy, một chưởng quỹ to béo, dáng ngồi oai vệ đang nhìn hai khách nhân mới đến bằng ánh mắt dò xét. Ngắm nghía chán chê, y đẩy cuốn sổ đăng ký dày sụ về phía hai người, yêu cầu họ điền tên tuổi, nghề nghiệp, quê quán vào. “Ông sợ bị cướp?” Địch Nhân Kiệt ngạc nhiên hỏi, tay chấm mực chuẩn bị viết. Theo lệ thường, khách trọ chỉ cần điền tên và nghề nghiệp là đủ. “Không phải,” chưởng quỹ đáp, đoạn lại đẩy cuốn sổ về phía Kiều Thái. “Khách điếm này cũng có tiếng trong vùng, ta phải chọn lựa khách nhân.” “Tiếc là thân mẫu ngươi lại không được lựa chọn hài tử mình sinh ra,” Kiều Thái mỉa mai đáp, đặt tay nải xuống sàn, cầm bút lông lên. Địch Nhân Kiệt đã điền xong, “Thẩm Mặc, thương lái, 34 tuổi, đến từ Tịnh châu.” Kiều Thái nguệch ngoạc điền bên cạnh, “Châu Đại, phụ tá cho Thẩm tiên sinh, 30 tuổi, đến từ kinh thành.” Địch Nhân Kiệt trả trước tiền trọ ba ngày. Một tiểu nhị ăn mặc sạch sẽ gọn gàng dẫn khách đến một căn buồng sáng sủa, bài trí ngăn nắp ở đệ tam viện tử, cách xa những ồn ào của phố xá bên ngoài. Kiều Thái mở toang cửa viện, trông thẳng ra khoảng sân được lát đá cẩm thạch. Đoạn y quay sang, cau mày nhìn ấm trà tiểu nhị mới đặt xuống bàn, rồi nói với Địch Nhân Kiệt, “Thưa, trà thì chúng ta vừa mới dùng rồi. Khoảng sân rộng này được lát đá phẳng như vậy, hay là thuộc hạ với ngài luyện vài chiêu côn thuật cho giãn gân giãn cốt, sau đó tắm rửa và dùng cơm tối ở tửu lâu bên cạnh, cùng nhau thưởng thức những món đặc sản địa phương. Đại nhân thấy sao?” “Quả là hảo ý. Chặng đường dài từ Đăng châu phủ tới đây cũng làm ta thấy cuồng chân cuồng tay.” Hai người liền thay y phục rộng rãi. Địch Nhân Kiệt chia đôi chòm râu dài rậm, buộc túm lại sau gáy. Họ cởi phăng mũ bỏ trên bàn rồi bước thẳng ra sân. Kiều Thái gọi một mã phu gần đó đi tìm hai cây gậy. Địch Nhân Kiệt đã tinh nghệ mấy môn kiếm quyền, còn múa côn thì Kiều Thái mới chỉ điểm ông cách luyện tập cách đây không lâu. Côn thuật vốn không được giới võ thuật coi trọng mà thường phổ biến trong đám cướp giật đầu đường xó chợ. Nhưng ông thấy môn võ này lại là một cách rèn luyện thân thể rất tốt và dần dần ưa thích nó. Kiều Thái đặc biệt xuất sắc trong côn thuật, y vốn là một đạo tặc lang bạt khắp nơi trước khi đi theo Địch Nhân Kiệt. Dấu ấn cho quãng thời gian đó là vô số vết sẹo ngang dọc khắp vồng ngực rộng và đôi cánh tay cơ bắp của y. Năm ngoái, trên đường đến Bồng Lai nhậm chức huyện lệnh, Địch Nhân Kiệt bị Kiều Thái cùng vị huynh đệ cắt máu ăn thề với y là Mã Vinh chặn đường cướp ngựa. Nhưng nhân cách và uy phong của Địch Nhân Kiệt đã làm cả hai kính phục mà từ bỏ nghiệp đạo lục lâm thảo khấu, nguyện tận trung tận lực phò tá ông điều tra phá án. Trong suốt một năm qua, Địch Nhân Kiệt hài lòng khi thấy cặp hảo hán võ công cao cường này đã tróc nã được nhiều tội nhân nguy hiểm, cũng như hoàn thành các nhiệm vụ khó khăn khác mà ông giao phó. Địch Nhân Kiệt cũng ưa thích bản tính thẳng thắn cởi mở của cả hai, họ không hề khúm núm trước ông như nhiều trợ thủ thân tín của các huyện lệnh. “Ta nghĩ chưởng quỹ sẽ không phiền nếu chúng ta tập luyện một chút đâu,” Địch Nhân Kiệt vừa nói vừa thủ thế. “Gã mà dám hé nửa lời là thuộc hạ đập cho gã thành con rùa rụt cổ ngay tắp lự,” Kiều Thái đáp lúc ra đòn. “Khi đó gã chỉ có thể nhìn đời từ cái bụng tròn như cái trống của mình mà thôi. Cẩn thận đòn triệt này!” Kiều Thái vung gậy ngang đầu Địch Nhân Kiệt. Địch Nhân Kiệt cúi người né, quét một đường dài xuống mắt cá chân Kiều Thái. Thân hình hộ pháp của y nhanh nhẹn nhảy lên, tránh thoát một cách uyển chuyển đáng ngạc nhiên. Đoạn y huơ gậy đâm mạnh về phía ngực đối thủ. Một hồi lâu chỉ nghe thấy tiếng gậy đập vào nhau chan chát và tiếng thở hổn hển của hai côn thuật giả. Chẳng mấy chốc, một đám mã phu cùng tiểu nhị đã tụ tập quanh sân, mải mê xem hai khách nhân luyện côn, không để tâm đến việc cánh cửa phía sau lưng từ từ hé mở. Gã chột đang chăm chú quan sát hai người bằng ánh mắt đáng ngờ, bóng hình khẳng khiu chìm vào khoảng tối phía sau cánh cửa. Sau một lúc, gã lùi bước rồi nhẹ nhàng khép cửa lại, không gây ra dù chỉ một tiếng động nhỏ. Đến lúc ngừng tay, cả Địch Nhân Kiệt và Kiều Thái đều ướt đẫm mồ hôi. Kiều Thái ném hai cây gậy cho một mã phu, bảo y dẫn họ đến buồng tắm. Trong căn buồng rộng rãi thoáng đãng không có lấy một bóng khách. Hai bồn tắm lớn được viền những khúc gỗ thông rắn rỏi, màu gỗ tự nhiên soi lên nước sáng bóng. Bốn bức vách bao cũng được ốp gỗ thông, phả vào khoảng không mùi thơm dễ chịu như đang ở ngoài thiên nhiên. Mặt sàn lát từng phiến gạch đen rộng bản. Một người hầu quấn độc chiếc khố vải, lần lượt giúp khách cởi y phục và treo lên giá. Rồi y đưa cho mỗi người một chậu nước ấm cùng với một túi vải bông đựng trấu trộn đá kỳ. Sau khi hai người Địch Nhân Kiệt dùng túi đó kỳ cọ sạch sẽ thân thể, người hầu vừa dội từng gáo nước lên cả hai vừa niềm nở giới thiệu, “Thưa quý khách, các vị sẽ thích bồn tắm này cho mà xem. Nó được tạc từ chính khối đá lớn nằm dưới nền khách điếm. Mạch suối nước nóng chạy ngay bên dưới và được khai lộ ở đây ạ. Xin các vị cẩn thận dưới chân, mấy phiến đá bên góc trái nóng bỏng rẫy.” Địch Nhân Kiệt và Kiều Thái bước qua viền gỗ vào bồn nước nóng, người hầu nhanh nhẹn mở tấm cửa trượt thông ra khu vườn nhỏ xanh mướt màu lá chuối để khách thả mình ngắm cảnh thư giãn một hồi. Rồi cả hai bước ra khỏi bồn, ngồi lên ghế trúc cho người hầu bóp vai và lau khô thân thể. Họ khoác tấm áo lanh người hầu đưa cho rồi trở về buồng, cảm giác sảng khoái vô cùng. Địch Công và Kiều Thái trong buồng tắm Sau khi thay xong y phục, Địch Nhân Kiệt và Kiều Thái ngồi xuống thong thả uống trà. Đột nhiên, cửa buồng bật mở và gã chột bước vào. “Chính là gã du thủ du thực chúng ta gặp ở quán trà,” Kiều Thái thốt lên. Địch Nhân Kiệt nhìn kẻ mới đến với ánh mắt khó chịu, gắt gỏng, “Phàm trước khi vào phải gõ cửa. Nhà ngươi muốn gì?” “Chỉ vài lời thôi… Thẩm tiên sinh.” “Chuyện gì?” Địch Nhân Kiệt hỏi, cảm thấy không ưa cái gã kỳ quặc này chút nào. “Ông cũng cùng một giuộc với ta mà thôi! Nhưng ta là một đạo tặc có nghề.” “Để tiểu nhân tống cổ gã này ra ngoài!” Kiều Thái giận dữ kêu lên. “Đợi đã!” Địch Nhân Kiệt nói. Ông tò mò muốn biết gã nói vậy là có ý gì. “Huynh đệ, ngươi đã biết tên ta, hẳn cũng phải rõ ta là một thương lái chứ?” Gã cười ngặt, “Để ta nói cho mà biết các ngươi thực sự là ai.” “Mời!” Địch Nhân Kiệt lịch sự đáp. “Ngươi muốn nghe từ đầu chí cuối?” Gã chợt hỏi. “Tất nhiên rồi!” Địch Nhân Kiệt trả lời. Gã càng làm ông cảm thấy hiếu kỳ. “Đầu tiên là ngươi, kẻ nhiều râu tự mãn này, trên người ngươi sặc mùi công đường. Nhìn phong cách rắn rỏi, thái độ vênh váo thì ngươi hẳn là bộ đầu. Ngươi đã tra khảo một kẻ vô tội đến chết hoặc ăn trộm ngân quỹ hoặc cả hai, rồi bỏ trốn. Đồng bọn của ngươi rõ ràng là một gã cướp đường chuyên nghiệp. Mấy khách bộ hành khinh suất, các ngươi một kẻ uốn lưỡi lân la làm quen, kẻ kia thì đánh người cướp bóc. Giờ các ngươi tính đánh quả lớn hơn, định cướp tiệm kim hoàn trong trấn lân cận, đúng không? Nhưng ta nói cho mà biết, các ngươi chẳng thể hành sự được đâu. Ngay một đứa con nít cũng thấy hai người các ngươi là kẻ gian!” Kiều Thái đứng bật dậy nhưng Địch Nhân Kiệt đã giơ tay cản, “Huynh đệ, ngươi thật thú vị! Nào, hãy cho ta biết vì sao ngươi nghĩ bọn ta muốn ăn cướp trong trấn?” Gã chột thở dài, “Thôi được! Để ta cho hai ngươi một bài học miễn phí, không tính tiền! Chiều nay, khi tên bò mộng kia bước vào quán trà, ta đã nhận ra ngay y là một đạo tặc. Từ vóc dáng, cơ bắp đến cung cách đi đứng của y, dù chỉ một mắt ta cũng nhận ra. Thậm chí y còn là lính đào ngũ nữa, kiểu đi đứng hiên ngang ra dáng con nhà binh lắm. Sau đó ngươi đến, đầu tiên ta nghĩ ngươi là lục sự* Lục sự là quan viên giữ việc biên chép văn thư sổ sách ở các cơ quan. bị đuổi khỏi phủ nha. Nhưng sau đó, các ngươi luyện võ gậy với nhau, thật ngu ngốc khi tự vạch áo cho người xem lưng như thế! Ta thấy ngươi cũng khá lực lưỡng đấy, nhưng da dẻ nhẵn nhụi trắng nhởn, nên ta thay đổi suy đoán rằng ngươi hẳn phải là một bộ đầu ở huyện nha nào đấy trốn chạy đến đây. Dường như các ngươi vẫn thấy chưa đủ, còn sơ ý rêu rao mình là người lạ bằng cách đọc cuốn du ngoạn chí về Mậu Bình này, mắt hau háu nhìn danh sách các tiệm kim hoàn ở đây nữa. Giờ các ngươi đã thấy bản thân còn non và xanh chưa. Ta chỉ băn khoăn sao ngươi lại để râu xồm xoàm như vậy, chắc là học đòi tri huyện chỗ ngươi trước đây chứ gì?” “Vị huynh đệ này làm ta hết hứng thú rồi,” Địch Nhân Kiệt chợt nói. “Đuổi gã ra ngoài!” Kiều Thái bật dậy, nhưng vẫn chậm hơn gã chột một nhịp. Nhanh như chớp, gã xoay mình lẻn ra cửa rồi đóng sập lại, làm Kiều Thái đập sầm mặt vào cánh cửa. Bực mình, y giật mạnh cửa ra và gầm lên, “Rồi ta sẽ tóm được ngươi, tên súc sinh!” “Bỏ đi,” Địch Nhân Kiệt điềm đạm nói, “Ta không nên gây chuyện ở đây!” Khi Kiều Thái đã ngồi xuống và tức tối xoa vết sưng trên trán, Địch Nhân Kiệt mới cười, “Cuộc viếng thăm của gã du đãng vừa rồi cũng chẳng phải vô ích. Gã nhắc ta nhớ quy tắc quan trọng mà một người tra án luôn phải ghi nhớ, đó là không bao giờ để tình cảm chi phối, cũng như khiên cưỡng gắn các dữ kiện theo một giả thuyết có sẵn. Gã đó cũng thông minh và có mắt quan sát đấy. Suy luận của gã về thân phận của hai ta cũng gần chính xác. Nhưng một khi đã đặt ra giả thuyết, gã lại gò ép mọi dữ kiện mới thu thập được theo giả thuyết thay vì kiểm tra lại xem giả thuyết đó có đúng với những thông tin mới hay không. Đáng nhẽ gã phải nhận ra rằng chuyện hai ta công khai luyện côn sẽ khiến nhiều người chú ý, đồng nghĩa với việc thân phận của chúng ta ở đây rất đàng hoàng, cho nên mới hành động thoải mái mà không sợ nghi ngờ gì. Trước đây ta cũng từng mắc sai lầm y như gã khi điều tra Hoàng kim án tại Bồng Lai!” “Tên khốn đó bám theo chúng ta từ quán trà!” Kiều Thái nói. “Sao gã lại đến tận đây, định âm mưu tống tiền hay sao?” “Ta không nghĩ thế,” Địch Nhân Kiệt đáp. “Gã gây ấn tượng là một kẻ mưu mẹo, không muốn dính líu đến chuyện động chân động tay. Chắc chúng ta sẽ không bao giờ gặp gã nữa! À, nhắc đến quán trà, ta lại nhớ tới câu chuyện của mấy người bàn bên. Vụ nhảy sông tự vẫn kỳ quặc của lão Kha, một chủ xưởng lụa nào đó, ngươi nhớ không? Có khi chúng ta nên đến công đường nghe ngóng xem vụ này rốt cuộc là thế nào. Giờ cũng bắt đầu phiên thăng đường buổi chiều rồi.” “Bẩm đại nhân, chúng ta đang nghỉ phép mà!” Kiều Thái trách móc. “Thì đúng vậy!” Địch Nhân Kiệt đáp. “Nhưng phải thú thật rằng ta muốn tìm hiểu thêm về vị đồng liêu họ Đặng mà không để ông ấy biết. Hơn nữa, ta đã an tọa trên công đường quá nhiều rồi, giờ đứng ở dưới xem người khác xử án cũng là một điều thú vị. Đây cũng là trải nghiệm có ích đối với ngươi đấy! Nào, đi thôi!” Trong đại sảnh, vị chưởng quầy béo đang bận bịu cộng hóa đơn cho bốn khách nhân chuẩn bị rời đi. Đầu gã quấn một dải vải trắng, ngay phía trên đôi lông mày mướt mồ hôi, tay gảy bàn tính điêu luyện như gảy đàn. Tuy thế, gã vẫn có thể nói với Địch Nhân Kiệt lúc ông đi ngang qua, “Thẩm tiên sinh, phía sau Quan Đế miếu có một khoảng sân rất thích hợp cho việc tập luyện võ thuật đấy.” “Cảm ơn ông. Nhưng ta thích luyện võ ở khách điếm hiếu khách này hơn.” Hai người Địch Nhân Kiệt bước ra ngoài. Họ cuốc bộ chầm chậm, phần vì tiết trời cũng mát mẻ, đường phố trở nên đông đúc. Nhưng khoảng trống ngay trước nha phủ lại rất vắng vẻ, không ai qua lại trước cổng. Hiển nhiên là phiên thăng đường buổi chiều đã bắt đầu và mọi người đã vào cả bên trong để xem xử án. Hai người đi qua vòm cổng đá, bên dưới treo một chiếc cồng lớn bằng đồng dùng để báo hiệu mỗi khi bắt đầu phiên xử. Bốn viên lính gác đang ngồi ở băng ghế chỉ nhìn họ với ánh mắt lãnh đạm. Hai người nhanh chóng băng qua khoảng sân trống và tiến vào công đường. Từ xa đã văng vẳng tiếng người đọc đều đều một đoạn văn tự có vẻ dài. Bọn họ đứng sát cửa, quang cảnh dần trở nên rõ ràng hơn khi mắt quen dần với bóng râm trong công đường. Nhìn qua mái đầu của đám đông chen chúc, họ thấy chiếc bàn xử án phủ vải đỏ đứng sừng sững trên bục cao. Sau bàn xử án là Đặng tri huyện, đầu đội mũ cánh chuồn đen, mình mặc áo gấm xanh lục, thắt đai, trông rất uy phong. Ông ta đang chăm chú vào chồng công văn trước mặt, chầm chậm vuốt chòm râu mỏng. Phan sư gia đứng bên cạnh Đặng tri huyện, hai tay chắp trong tay áo. Bên hông bàn xử án kê hai bàn nhỏ thấp hơn dành cho lục sự ngồi ghi chép. Một nam nhân tóc muối tiêu đứng bên hữu, rõ ràng là chánh lục sự của công đường, đang đọc to pháp lệnh. Bức vách sau lưng Đặng tri huyện được phủ gấm tía, chính giữa thêu đại hình kỳ lân bằng chỉ tơ vàng. Địch Nhân Kiệt hòa vào đám đông, kiễng chân lên nhìn bốn bộ khoái đang lăm lăm cầm xích sắt, cùm tay cùm chân, cùng nhiều hình cụ ghê rợn khác. Viên bộ đầu dáng người thấp lùn, mặt mày dữ tợn với bộ râu mỏng, tay cầm một cây roi dài. Phàm đã ở công đường, tất cả đều uy nghiêm lẫm lẫm, nhằm thị uy bách tính về những hậu quả khiếp hãi dành cho kẻ nào cả gan vi phạm quốc pháp. Đã lên công đường, bất kể già trẻ lớn bé, giàu nghèo, nguyên cáo hay bị cáo, ai cũng phải quỳ xuống nền đá cứng, bị truy xét thẩm vấn, bị bộ khoái quát nạt, thậm chí bị đánh đập ngay tại chỗ theo lệnh của tri huyện. Lẽ thường, trừ khi chứng minh được mình vô tội, kẻ nào quỳ trước bàn xử án đều bị đối xử như tội nhân. “Chúng ta không bỏ lỡ nhiều lắm,” Địch Nhân Kiệt nói khẽ với Kiều Thái. “Lục sự đang đọc lệnh kiến lập một phường nghề hay thương hội mới, xem chừng sắp đến phần kết luận rồi.” Một lúc sau, chánh lục sự ngừng lời. Đặng tri huyện ngẩng lên hỏi, “Các ngươi đã nghe rõ lệnh kiến lập phường rèn chưa, có ai phản đối không?” Đặng tri huyện ngừng một lúc, mắt nhìn xuống dò xét đám đông. Địch Nhân Kiệt vội vàng cúi đầu. Không thấy ai lên tiếng, ông ta kết luận, “Bản quan tuyên bố phường rèn chính thức kiến lập.” Đặng tri huyện đập mạnh kinh đường mộc* Kinh đường mộc là dụng cụ các quan án dùng để đập xuống bàn trong lúc thăng đường. xuống bàn, miếng gỗ cứng hình chữ nhật đó được ví như ‘nỗi ám ảnh nơi công đường’. Một nam nhân phốp pháp bụng phệ, tuổi chừng trung niên, mình mặc tang phục quỳ xuống trước công đường. “Gần nữa vào!” Viên bộ đầu quát. Trong lúc nam nhân kia ngoan ngoãn bò lại gần bàn xử án, Địch Nhân Kiệt ghé hỏi người bên cạnh, “Ai thế?” “Ông không biết à? Đấy là Lương Chiến, chưởng quỹ ngân hàng, cũng là người hùn vốn với chưởng quỹ phường lụa Kha Hưng Nguyên mới tự tử tối qua.” “À, ra vậy. Mà ông ta để tang ai thế?” “Trời đất thiên địa ơi, ông đúng là chả biết gì! Ông ta đang để tang tiểu đệ mình là họa sư tài hoa mà bạc mệnh Lương Đức, người mới mất hai tuần trước vì bệnh viêm phổi mãn tính.” Địch Nhân Kiệt gật đầu rồi chăm chú lắng nghe những gì Lương Chiến thưa, “Bẩm đại nhân, theo mệnh lệnh sáng nay ngài đưa ra, bọn thảo dân đã tiếp tục lùng sục suốt nửa dặm* 1 dặm tương đương 1,61km. xuôi theo hạ nguồn dòng sông để tìm kiếm thi thể lão Kha, nhưng không thu được gì ngoài chiếc mũ nhung của kẻ xấu số. Thảo dân nóng lòng muốn tiếp tục xử lý sinh ý vốn đã bị ngừng trệ sau cái chết của lão Kha. Mong đại nhân phê chuẩn cho đề xuất mà thảo dân nêu ra trong phiên thăng đường buổi sáng, cho phép thảo dân tiếp quản việc buôn bán của phường lụa. Có rất nhiều thương vụ đang bị ngưng trệ, nếu không được xử lý ngay lập tức thì sẽ gây thiệt hại ngân lượng rất lớn!” Đặng tri huyện cau mày đáp, “Tất cả phải theo đúng thủ tục. Quốc pháp đã quy định rằng chưa thể kết luận đây là một vụ tự tử trừ khi thi thể được tìm thấy và giám định bởi một viên ngỗ tác* Ngỗ tác là một chức quan chuyên khám nghiệm tử thi. .” Đặng tri huyện dừng lại một lúc rồi tiếp, “Sáng nay, ngươi mới bẩm báo vắn tắt vụ việc. Giờ bản quan muốn ngươi kể lại chi tiết những chuyện đã xảy ra. Với những trường hợp ngoại lệ, công đường có thể đặc cách xem xét khả năng xúc đẩy nhanh vụ án. Bản quan biết rõ lão Kha mới mở rộng vốn liếng đầu tư. Ta cũng sẵn sàng đẩy nhanh tiến độ điều tra trong giới hạn pháp luật cho phép.” Đặng tri huyện nghe Lương Chiến trình bày “Tạ ơn đại nhân chiếu cố!” Lương Chiến cung kính nói. “Thảm kịch tại bữa tiệc tối qua là hoàn cảnh xô đẩy. Khoảng con trăng trước, lão Kha có nhờ thầy Biện Hồng tìm ngày tốt để động thổ xây dựng Kha phủ, dự kiến phủ đệ sẽ tọa lạc phía nam thành. Sau khi gieo quẻ dịch số, Biện bán tiên đã cảnh báo rằng ngày mười lăm tháng này, tức ngày hôm qua, là một ngày rất nguy hiểm, lão Kha sẽ gặp nạn. “Hoảng hốt vô cùng, lão Kha bèn nài nỉ Biện bán tiên tiết lộ thêm. Nhưng Biện bán tiên chỉ nói rằng tai họa này sẽ tới từ người thân xung quanh lão, nguy hiểm nhất là thời điểm chính ngọ. “Lão Kha bản tính hay lo lắng, vì sợ sệt trước lời dự báo của Biện bán tiên mà phát căn bệnh đau bụng cố hữu. Càng gần đến ngày định mệnh, lão càng ăn không ngon, ngủ không yên, ngày nào cũng phải uống thuốc giảm đau. Thảo dân thật sự rất lo cho lão, cả sáng hôm qua liên tục lại nhà hỏi thăm quản gia của lão. Y nói cả buổi sáng lão rất buồn bực, không muốn ra khỏi nhà, thậm chí đi dạo trong vườn cũng không. Tuy nhiên đến chiều, quản gia gửi tin báo cho thảo dân là tâm trạng lão Kha đã tốt hơn, thậm chí sau buổi trưa còn thấy rất phấn khởi. Giờ khắc nguy hiểm nhất đã qua mà không có chuyện gì xảy đến. Kha phu nhân thuyết phục phu quân mở dạ yến ăn mừng, mời một số bằng hữu đến làm lão vui, quên đi lời tiên đoán không may kia. Khách mời ngoài thảo dân còn có Phan sư gia và vài vị chưởng quỹ trong thương hội lụa nữa. “Bữa tiệc được chuẩn bị tại phương đình trong khuôn viên Kha phủ. Phương đình này vốn nằm trong góc xa của hoa viên, một bên nhìn xuống dòng sông. Lúc đầu lão Kha rất cao hứng, còn đùa rằng bán thần tiên như Biện Hồng tiên sinh cũng có lúc nhầm. Sau khi tiệc được quá nửa, đột nhiên sắc mặt lão Kha tái dần, lão kêu đau bụng dữ dội. Thảo dân còn trêu chắc lão lại thần hồn nát thần tính đấy thôi. Lão nổi trận lôi đình, quát thảo dân là kẻ vô lương tâm, rồi vội đứng dậy, lầm bầm gì đó trong lúc quay vào nhà chính tìm thuốc.” “Từ phương đình đến nhà chính cách bao xa?” Đặng tri huyện ngắt lời hỏi. “Bẩm đại nhân, hoa viên khá rộng nhưng hầu như chỉ trồng cây bụi nhỏ. Vì thế từ phương đình có thể nhìn rõ hàng hiên lát đá hoa của dinh cơ. Chỉ một thoáng sau, dưới ánh trăng, lão Kha xuất hiện trên hiên, trán chảy máu đầm đìa xuống khắp mặt, vừa kêu la khua khoắng vừa chạy vào hoa viên theo lối mòn dẫn đến phương đình. Ba người bọn thảo dân kinh hoàng không thốt nên lời, chân tay rụng rời ngồi đó nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt. Chạy được nửa đường, đột nhiên lão Kha đổi hướng, cắt ngang qua bãi cỏ về phía lan can cẩm thạch, nhảy qua đó rồi gieo mình xuống sông.” Lương Chiến ngừng lời vì quá xúc động với câu chuyện vừa kể. “Chuyện gì đã xảy ra trong lúc lão Kha vào nhà chính?” Đặng tri huyện hỏi. “Chính xác!” Địch Nhân Kiệt nói với Kiều Thái. “Đấy chính là điểm mấu chốt!” “Thưa đại nhân, Kha phu nhân kể rằng phu quân mình đã vọt vào buồng ngủ trong trạng thái kích động, kêu ca một tràng về cơn đau dữ dội của mình, rồi về đám bằng hữu vô lương tâm không biết thông cảm. Kha phu nhân tìm cách an ủi, giúp lão bình tâm rồi mới qua buồng riêng tìm thuốc. Khi phu nhân quay lại, lão Kha đã trở nên điên loạn, liên tục giậm chân, nhất mực không chịu uống thuốc, rồi đột nhiên xoay người lao về phía thông đạo hẹp thông thẳng từ buồng ngủ ra hiên. Đó là cảnh tượng cuối cùng Kha phu nhân nhìn thấy. Thảo dân cho rằng trong lúc lao ra, lão đã va đầu vào lối vào thông đạo khá thấp kia. Vốn dĩ thông đạo dài mười thước* 1 thước tương đương khoảng 0,33m ấy được xây sau cùng vì lão Kha nảy ra ý muốn có một lối đi thẳng từ buồng ngủ ra hiên. Trong tình trạng như vậy, cơn điên loạn bất ngờ đã khiến lão quyết định chấm dứt cuộc đời.” Đặng tri huyện đang lãnh đạm lắng nghe đầu đuôi câu chuyện, chợt đứng lên và quay sang hỏi Phan sư gia, “Lúc ấy ngươi cũng có mặt, đã tra xét kỹ thông đạo đó chưa?” “Bẩm đại nhân, thuộc hạ đã tra xét kỹ càng,” Phan sư gia kính cẩn đáp. “Không tìm thấy vết máu nào dọc theo thông đạo cũng như trên thanh ngang khung cửa.” “Lan can dọc bờ sông cao bao nhiêu?” Đặng tri huyện hỏi Lương Chiến. “Dạ bẩm, chỉ khoảng ba thước mà thôi,” Lương Chiến đáp. “Thảo dân thường khuyên lão Kha nâng lan can cao hơn, nhỡ đâu có khách nhân say rượu hổ phách bất cẩn bị ngã thì sao, bên kia lan can là một con dốc cao hơn mười bộ đổ thẳng xuống sông đấy. Nhưng lão lại bảo làm lan can thấp mới thưởng thức được khung cảnh từ hoa viên.” “Có bao nhiêu bậc bước lên phương đình, làm bằng chất liệu gì?” Đặng tri huyện lại hỏi. “Dạ bẩm, có ba bậc đá cẩm thạch ạ.” “Ngươi có nhìn thấy rõ lão Kha lúc lão nhảy xuống sông không?” Lương Chiến lưỡng lự một lúc rồi chậm rãi đáp, “Dạ bẩm, vì vướng mấy bụi cây, vả lại trước khi bọn thảo dân hiểu được chuyện gì đang xảy ra, lão Kha đã mất dạng…” Đặng tri huyện rướn người về phía trước, ngắt lời hỏi, “Điều gì khiến ngươi nghĩ lão Kha tự sát?” “Chính xác!” Địch Nhân Kiệt nói khẽ với Kiều Thái, “Đặng đại nhân đã gỡ đúng mấu chốt vấn đề.” “Thưa, rõ ràng lão Kha đã nhảy xuống sông rồi còn gì,” Kiều Thái thì thầm. “Chắc hẳn lão không định tập bơi.” “Suỵt! Nghe đi kìa!” Địch Nhân Kiệt xua tay. Chưởng quỹ ngân hàng có vẻ chột dạ trước câu hỏi đột ngột của Đặng tri huyện, lắp bắp đáp, “Bẩm đại nhân… thật ra mà nói… bọn thảo dân… mọi chuyện diễn ra ngay trước mắt…” Đặng tri huyện ngắt lời, “Ngươi chỉ tận mắt nhìn thấy lão Kha mặt đầy máu, đầu tiên chạy thẳng tới phương đình, sau đó lại đổi hướng lao ra lan can. Sao ngươi không nghĩ máu trên trán chảy xuống mắt làm lão Kha không thấy rõ, rồi tưởng nhầm lan can cẩm thạch là bậc lên phương đình? Rằng không phải lão nhảy qua lan can, mà là sảy chân ngã qua?” Lương Chiến lặng im không đáp. Đặng tri huyện nói tiếp, “Hiện giờ có thể kết luận rằng nguyên nhân gây ra cái chết của lão Kha chưa rõ ràng. Từ những tình tiết vụ án, bản quan cho rằng lão Kha chết do tai nạn nhiều hơn là tự sát. Bản quan cũng không đồng tình với giả thuyết vết thương trên trán lão Kha là do đập đầu như Lương Chiến đã nói. Do vậy, vẫn không thể xác nhận lão Kha đã chết thật hay chưa.” Đặng tri huyện đập kinh đường mộc kết thúc phiên thăng đường. Phan sư gia vén bức màn thêu hình kỳ lân sang bên cho Đặng tri huyện đứng lên đi vào thư phòng phía sau công đường. “Bãi đường!” Viên bộ đầu tuyên bố. Địch Nhân Kiệt và Kiều Thái hòa vào đám đông đang ùn ùn ra ngoài. Địch Nhân Kiệt nói, “Đặng đại nhân hoàn toàn đúng. Bằng chứng hiện tại cho thấy vụ án này có thể là tai nạn, mà cũng có thể là tự sát. Ta đang suy nghĩ tại sao chưởng quỹ ngân hàng kia lại kết luận lão Kha tự sát. Ta cũng băn khoăn không biết thực sự đã xảy ra chuyện gì với lão Kha khi lão vào trong nhà.” “Mấy chuyện này đại nhân hãy để Đặng đại nhân phiền não một mình thôi,” Kiều Thái vui vẻ nói. “Giờ chúng ta sẽ đi thưởng thức vài món đặc sản địa phương chứ ạ?” HỒI 3 Đôi khuyên tai lộ ra huyết án Phượng Hoàng điếm, Quan án giả lưu manh Trong khu chợ đông đúc ồn ào, hai người Địch Nhân Kiệt dừng bước trước một tửu quán nhỏ với hàng đèn lồng sặc sỡ treo ngay dưới mái hiên, biển quán khoa trương đề năm chữ Tứ hải mỹ vị cư* Tứ hải mỹ vị cư nghĩa là ‘món ngon của bốn bể’. . “Nơi này, không sai!” Địch Nhân Kiệt cười cười. Ông vừa vén tấm rèm vải lam bước vào, mùi hành phi thơm lừng đã tỏa ra. Hai người dùng một bữa cơm canh rượu thịt ngon miệng, thưởng thức rượu nặng địa phương, trò chuyện về chuyến công tác đến phủ, rồi lan man hồi tưởng công sự suốt năm qua ở Bồng Lai. Mọi phiền muộn đều được trút bỏ, hai người quay về khách điếm với tâm trạng cực kỳ sảng khoái. Qua con phố bán buôn vui tươi rộn rã, hai người Địch Nhân Kiệt dừng bước trước những sạp hàng, ngắm nghía các món đặc sản địa phương được rao bán lanh lảnh, hoặc lắng nghe tiếng người mua kẻ bán sôi nổi mặc cả qua lại. Đột nhiên, Địch Nhân Kiệt nhận thấy Kiều Thái có vẻ đăm chiêu hơn thường lệ, bèn hỏi, “Chuyện gì vậy? Ngươi thấy bữa tối không ngon miệng à?” “Có kẻ đang bám theo chúng ta,” Kiều Thái đáp khẽ. “Là ai?” Địch Nhân Kiệt ngờ vực hỏi, “Ngươi có thấy chúng không?” “Không ạ, nhưng thuộc hạ biết chắc chắn. Trực giác của thuộc hạ chưa bao giờ sai. Chúng ta cứ đi tiếp thôi, thuộc hạ có vài mẹo vặt để tìm ra chân tướng kẻ bám đuôi.” Kiều Thái rảo bước rồi rẽ vào một ngõ vắng. Ngay khi vừa khuất bóng, y dừng lại, kéo Địch Nhân Kiệt nấp sau một mái hiên khuất. Hai người quan sát kỹ từng khách bộ hành qua lại nhưng không nhận ra khuôn mặt quen thuộc nào, cũng không thấy ai có vẻ để tâm tới họ. Hai người Địch Nhân Kiệt quyết định tiếp tục quay về khách điếm, lần này họ chọn đi qua những con ngõ tối vắng vẻ. “Đại nhân, kẻ đang bám theo chúng ta cũng là dân có nghề. Mấy mẹo vặt của thuộc hạ không lừa được gã. Thuộc hạ sẽ trà trộn vào đám ăn mày phía trước, còn ngài nhanh chóng quẹo vào con ngách kia và trở về khách điếm trước. Thuộc hạ sẽ đem kẻ do thám chúng ta tới khách điếm nộp cho ngài!” Địch Nhân Kiệt gật đầu. Ngay khi ông rẽ quặt vào con ngách nhỏ phía sau một sạp hàng nơi góc đường, Kiều Thái cũng lặng lẽ biến mất khỏi tầm nhìn. Địch Nhân Kiệt băng qua vài ngõ ngách hút gió, bước ra khu phố sầm uất, rồi hỏi thăm đường về khách điếm không mấy khó khăn. Tiểu nhị bưng lên một bình trà với hai cây nến. Địch Nhân Kiệt ngồi bên chiếc bàn nhỏ, vừa nhấm nháp từng ngụm trà vừa tự hỏi tại sao lại có kẻ hứng thú với hành động của họ. Kiều Thái đúng là hiếm khi sai trong những trường hợp như vậy. Khi còn ở Bồng Lai, cũng có vài tên côn đồ chốn giang hồ không mấy hảo ý lắm theo dõi ông. Nhưng ngay cả khi chúng dám liều lĩnh nảy sinh ý đồ bất lương, thì sao chúng biết được ông sẽ dừng chân ở Mậu Bình? Ý định du ngoạn mới chỉ nảy sinh vào ngày cuối cùng ông ở Đăng châu phủ. Hay phường tội nhân nào đó ở Bồng Lai cũng có tay chân tại đây? Địch Nhân Kiệt trầm ngâm vuốt râu. Tiếng gõ cửa vang lên, Kiều Thái bước vào, vừa quệt mồ hôi tiên trán vừa chán nản nói, “Bẩm, lần này gã lại thoát khỏi tay thuộc hạ! Ngài có biết kẻ bám theo chúng ta là ai không? Chính là gã khốn chột mắt hồi chiều! Thuộc hạ thấy gã lén lén lút lút, nhìn ngang liếc dọc như đang tìm kiếm ai. Lúc đó thuộc hạ đang đứng uống chén trà cặn ở ngay hàng đầu trong đám ăn mày. Thuộc hạ chui ra định tóm gọn gã, có điều gã cũng nhìn thấy thuộc hạ. Sau đó gã lẩn nhanh như chạch, thuộc hạ đuổi theo nhưng gã đã mất hút!” “Thật là một kẻ giảo hoạt,” Địch Nhân Kiệt nhận xét. “Ta chỉ băn khoăn không biết gã có ý đồ gì? Ngươi từng trông thấy gã bao giờ chưa? Ở Bồng Lai hoặc ở Đăng châu phủ?” Ông ra hiệu cho y ngồi xuống. Kiều Thái lắc đầu, “Bẩm, nếu từng nhìn qua bản mặt ma chê quỷ hờn ấy thì chắc chắn thuộc hạ không thể quên được gã! Nhưng ngài đừng lo, giờ thuộc hạ đã biết kẻ bám đuôi là ai. Nhất định gã sẽ tiếp tục bám theo chúng ta ngoài phố, đến lúc đó thuộc hạ sẽ tóm cổ gã. À, còn chuyện này nữa. Đồng liêu của ngài, vị Đặng tri huyện kia sắp phải đau đầu một phen rồi đây. Có một nữ nhân mới bị sát hại!” “Ngươi nói gì?” Địch Nhân Kiệt kinh ngạc hỏi. “Ngươi có chứng kiến chuyện xảy ra không?” “Dạ bẩm, không ạ. Nhưng chắc chắn đó là một vụ án mạng! Hiện thời mới chỉ có thuộc hạ và một lão ăn mày biết chuyện thôi.” “Chuyện là như thế nào?” Địch Nhân Kiệt hỏi gấp. “Chúng ta phải báo với Đặng đại nhân ngay!” “Đúng vậy, chúng ta có thể giúp vị đại nhân ấy một tay,” Kiều Thái đồng tình. Y tự rót trà uống rồi tiếp tục, “Chuyện là thế này. Sau khi đuổi bắt gã còm nhom ấy không thành, thuộc hạ quay lại phố trả tiền trà. Lúc chuẩn bị quay đi, một lão ăn mày bẩn thỉu tiến đến hỏi thuộc hạ có phải là người mới đến trấn? Thuộc hạ bảo phải, lão liền kéo thuộc hạ ra một góc, hỏi tiếp có muốn mua nữ trang vừa đẹp vừa rẻ không? Thuộc hạ nghĩ thử xem chuyện này có gì hay ho nên đi theo lão. Trong góc phố, dưới ánh đèn lồng của một y quán, lão cho thuộc hạ xem một đôi bông tai rất tinh xảo cùng cặp vòng tay vàng ròng và đòi một lượng bạc cho cả ba món. Thuộc hạ đoán chắc lão đã thó mấy món nữ trang này ở đâu đó, đang băn khoăn xem liệu có nên bắt lão đi báo quan hay lôi lão đến đây trước. Lão thấy thuộc hạ lưỡng lự, lại tưởng thuộc hạ sợ không dám mua nên nói, ‘Đừng lo, mấy món này không vấn đề gì đâu. Ta lấy chúng từ xác một nữ nhân ở đầm lầy gần Bắc môn. Chỉ có mỗi mình ta biết việc này thôi,’ Thuộc hạ bèn kêu lão kể lại toàn bộ sự tình. “Lão bảo thỉnh thoảng vẫn hay về ngủ ở bụi cây gần đầm lầy. Tới tối, lão về đó thì phát hiện thi hài một thiếu phụ trẻ tuổi, mình mặc áo dài gấm thêu sang trọng, được giấu trong bụi rậm. Một con dao găm vẫn cắm nguyên trên ngực cái xác, hẳn nữ nhân đã chết một lúc khá lâu. Lão lục soát tay áo nhưng không thấy bạc cắc nào nên tháo lấy đôi hoa tai và cặp vòng vàng rồi bỏ đi. Khu vực đó về đêm vốn rất vắng vẻ, không người lai vãng. Theo lẽ thường, đám ăn mày sẽ phải cống nạp tất cả những gì kiếm được hay trộm được cho thủ lĩnh giang hồ ở đây, một gã côn đồ tự xưng là Bài Quân, sau đó y sẽ chia lại phần cho đám ăn mày. Nhưng lão ăn mày kia không muốn mất món hời, cho nên lão tìm cách bán rẻ cho khách vãng lai để khỏi bị tên Bài Quân phát hiện. Lão sợ y một phép.” “Thế lão ăn mày đó đâu?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Đừng nói với ta là lão cũng lọt khỏi tay ngươi nữa nhé!” Kiều Thái gãi đầu, lúng túng đáp, “Thưa, không phải vậy. Nhưng lão ăn mày ấy trông như sắp chết đói. Quả là một lão già đáng thương. Thuộc hạ đã tra hỏi kỹ, thấy lão không liên quan gì đến cái chết của nữ nhân kia. Thuộc hạ cũng kiểm tra đôi bông tai, thấy có vết máu khô, đúng là lão đã tháo ra từ một xác chết. Thuộc hạ biết chuyện gì sẽ xảy ra với một lão ăn mày già cả bị mang đến công đường! Bộ khoái sẽ đánh lão một trận nên thân. Kể cả khi được thả ra, lão cũng sẽ bị Bài Quân chặt ra từng khúc vì đã dám qua mặt y. Thuộc hạ quá hiểu thủ đoạn trong giới giang hồ rồi! Vì thế thuộc hạ lấy một xâu tiền đưa cho lão ăn mày, bảo lão chạy trốn cho xa. Thuộc hạ nghĩ, khi báo chuyện này với Đặng đại nhân, ngài có thể nói rằng lão ăn mày đã chạy mất.” Địch Nhân Kiệt đăm chiêu nhìn trợ thủ của mình. “Việc này là trái quy tắc,” ông hơi ngừng lại, “nhưng ta hiểu cái lý của ngươi. Một lão ăn mày già thì không có cơ hội đặt chân vào nội trạch của một phu nhân. Mà khi ra ngoài, một quý phu nhân thường sẽ ngồi kiệu và có tùy tùng theo hầu. Lão đã nói thật về chuyện xung quanh không bóng người, bằng không lão đã chẳng dám lục soát lấy đồ từ xác chết. Nữ nhân kia rõ ràng là bị sát hại tại một nơi khác rồi đem giấu xác ở đầm lầy. Kiều Thái, trong trường hợp này ngươi chưa gây ra chuyện, nhưng đừng để hảo tâm của ngươi ảnh hưởng đến sự vụ quá nhiều lần. Thôi, giờ chúng ta đến nha phủ, Đặng đại nhân phải điều tra vụ án này ngay!” Địch Nhân Kiệt ngẩng đầu nói thêm, “Đưa ta xem số nữ trang đó!” Kiều Thái lấy đôi bông tai và hai chiếc vòng từ trong tay áo ra đặt lên bàn. Địch Nhân Kiệt nhìn qua mấy món trang sức, “Quả là thợ kim hoàn có tay nghề!” Địch Nhân Kiệt tính bước ra cửa thì đột nhiên khựng lại. Ông cúi xuống, kéo cây nến lại gần để xem xét đôi hoa tai thật kỹ lưỡng. Mỗi bên hoa tai đều gắn một bông sen bạc hết sức tinh xảo, lại đính thêm sáu viên hồng ngọc, kích thước tuy nhỏ nhưng chất lượng thượng hạng. Cặp vòng tay được làm bằng vàng ròng, chạm hình rắn uốn lượn. Mắt rắn là hai viên ngọc lục bảo, ánh lên sắc xanh ma mị dưới ánh nến. Địch Nhân Kiệt đứng thần người một lúc, chăm chú nhìn số nữ trang, chầm chậm vuốt bên ria mép. Sau một hồi, Kiều Thái lo lắng hỏi, “Đại nhân, chúng ta nên đi thôi chứ?” Địch Nhân Kiệt cất mấy món nữ trang vào tay áo rồi nghiêm giọng nói với Kiều Thái, “Ta nghĩ chưa nên thông báo việc này cho Đặng đại nhân vội. Giờ chưa phải lúc.” Kiều Thái ngạc nhiên nhìn Địch Nhân Kiệt. Y định hỏi rõ ý tứ ông thì đột nhiên cửa buồng bật mở, gã trung niên lao vào vào nạt hai người, “Quan phủ tìm đến các ngươi rồi, nhanh hơn ta nghĩ! Các ngươi đúng là mất trí, dám đến công đường xem xử án! Bộ đầu đã đến sảnh, đang hỏi các ngươi thuê buồng nào. Chớ lo, ta sẽ dẫn các ngươi tẩu thoát. Mau đi theo ta!” Kiều Thái tức giận định quát trả nhưng Địch Nhân Kiệt đã giơ tay ngăn lại. Nghĩ ngợi giây lát, ông nói với gã, “Dẫn đường đi!” Gã đưa bọn Địch Nhân Kiệt ra khỏi căn buồng rồi nhanh chóng kéo cả hai vào một hành lang nhỏ. Có vẻ gã đã thuộc lòng hết tất cả ngóc ngách trong khách điếm. Gã dẫn hai người theo một thông đạo tối tăm, bốc mùi ẩm thấp dẫn đến một cánh cửa xiêu vẹo thông ra ngõ hẻm. Bọn họ len lỏi giữa những đống rác cao nghệu. Mùi dầu chiên cho thấy cả ba đang ở đâu đó phía sau khu bếp của khách điếm. Sau đó, gã đạo chích rẽ ngoặt vào cửa sau của tửu lâu sát vách, chen qua đám thực khách ồn ã để ra tới cổng trước. Gã dẫn hai người vòng vèo qua hàng loạt các ngõ hẻm, khi rẽ trái, lúc rẽ phải, đi lên rồi đi xuống, khiến Địch Nhân Kiệt mất hết cảm giác về phương hướng của mình. Thế rồi bất chợt gã chột dừng lại, khiến Địch Nhân Kiệt đâm sầm vào gã. Ba người dừng bước ngay trước lối vào một hẻm sau vắng vẻ ảm đạm. Gã chột chỉ tay vào cửa sổ duy nhất còn sáng đèn ở cuối hẻm, “Kia chính là tửu điếm Phượng Hoàng. Các ngươi sẽ tuyệt đối an toàn ở đấy. Hãy nói với Bài Quân là các ngươi do Quân Sơn đưa tới. Chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau thôi.” Đoạn gã quay người, khéo léo thoát khỏi Kiều Thái, khi đó rất muốn mà không tài nào tóm được gã. Rồi gã lẩn vào màn đêm. HỒI 4 Phẫn nộ rút dao, thư sinh đổ máu Địch Quan án chạm trán Lưu Bài Quân Kiều Thái bật tiếng chửi thề, cáu kỉnh hỏi Địch Nhân Kiệt, “Đại nhân, thuộc hạ hi vọng ngài có lý do thỏa đáng cho tất cả những việc này. Xin thứ lỗi cho thuộc hạ phải cảnh báo ngài, trái với cái tên Phượng Hoàng mỹ miều nên thơ đằng kia, nó chính là hang ổ của bọn giang hồ!” “Đương nhiên rồi,” Địch Nhân Kiệt bình tĩnh đáp. “Nếu đã thấy Bài Quân và gã chột kia có âm mưu, ít nhất chúng ta cũng sẽ biết được mục đích của chúng đối với ta là gì, như vậy sẽ dễ dàng tìm cách đối phó hơn. Bằng không, một nhân vật như Bài Quân và đám thủ hạ của gã cũng chính là những gì ta cần để giải quyết vấn đề đang băn khoăn. Dù thế nào thì hai ta cũng phải đóng tròn vai mà gã Bài Quân kia đã chỉ định sẵn, là hai kẻ du côn cướp đường. Đi thôi!” Kiều Thái nhe răng cười, thắt lại đai lưng nói, “Có khi ta sẽ đánh một trận ra trò đây.” Hai người đi về phía khu nhà gỗ hai tầng lầu xiêu vẹo. Có giọng nói thô lỗ vang vọng hòa lẫn với ánh sáng từ phía khung cửa sổ. Kiều Thái tiến lên gõ cửa, tiếng nói bên trong chợt im bặt. Cánh cửa hé mở một lỗ nhỏ, một giọng nói cộc cằn hỏi, “Ai?” “Chúng ta đến bái kiến Bài Quân.” Kiều Thái đáp. Có tiếng tháo then cửa, một gã thanh niên phục trang lôi thôi mở cửa, đưa hai người vào một buồng rộng, trần thấp, đầy mùi mồ hôi và mùi rượu rẻ tiền. Trong buồng leo lét một ngọn đèn dầu. Gã này chắc là tiểu nhị, nên mới đi thẳng tới phía sau quầy, hờ hững nhìn hai người, “Đại ca vẫn chưa tới.” “Chúng ta sẽ đợi.” Địch Nhân Kiệt bước tới chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ. Ông ngồi xuống chiếc ghế hướng nhìn vào trong buồng, còn Kiều Thái ngồi phía đối diện, ngó qua vai Địch Nhân Kiệt gọi to tên tiểu nhị, “Cho hai chén rượu, loại hảo hạng.” Có bốn người đang chơi bạc ở chiếc bàn lớn phía góc nhà, cùng lúc ngẩng lên nhìn hai người ngờ vực, rồi lại tiếp tục ván bài. Một nữ nhân đứng gần quầy, dáng vẻ nhếch nhác, xấc xược dò xét nhìn hai người Địch Nhân Kiệt từ đầu đến chân. Ả ta mặc một chiếc váy đen, buộc dây lưng đỏ, khoác hờ chiếc áo màu xanh sậm, để lộ một phần ngực. Tên tiểu nhị nhún vai, đẩy ả đi chỗ khác rồi đứng dựa lưng vào quầy, quay sang nhìn đám người chơi cờ bạc kia. Một gã gầy râu rậm trong đám đang lắc xúc xắc bằng một cái vỏ dừa rồi đổ xuống. Gã reo lên, “Tứ điểm đôi, ăn chè ăn xôi!” Tiếp theo, một gã vai rộng hói đầu cầm xúc xắc đổ xuống, chửi thề, “Tam điểm, lục điểm. Tối nay xui chết cha chết mẹ.” “Ngươi nên luyện chơi nhiều hơn mới được.” Một gã thanh niên mở miệng châm chọc. “Tú Tài! Câm mồm!” Gã hói gầm lên. Bốn kẻ nọ tiếp tục ném xúc xắc. “Đôi tám, ăn mày gặp đám! Ha ha, ván này thuộc về ta rồi!” Tên tiểu nhị mang đến hai chén rượu đặt trước mặt Địch Nhân Kiệt, “Tất cả là sáu đồng.” Gã gắt gỏng. Địch Nhân Kiệt lấy ra bốn đồng để trên bàn, “Ta chưa bao giờ trả quá hai đồng cho một chén rượu.” “Năm đồng hai chén, nếu không thì biến.” Tên tiểu nhị nói. Địch Nhân Kiệt lấy ra thêm một đồng nữa. Gã cầm tiền quay đi. Ông nói lớn với Kiều Thái, “Đúng là quân lừa đảo.” Tên tiểu nhị giận dữ quay lại. “Tiểu tử, thích choảng nhau à?” Kiều Thái khiêu khích. Tên tiểu nhị quyết định không đối đầu với sự thách thức của Kiều Thái. Góc bên kia căn buồng lại vang lên tiếng chửi thề. Gã hói đầu quát thanh niên, “Ta cảnh cáo ngươi, đừng nhúng tay vào cuộc chơi của bọn này! Tiểu tử thối, đến trộm đồ bố thí còn chẳng nổi, ngươi có mấy đồng mà đòi đánh bạc. Ngồi im đó đi, Tú Tài đại nhân.” “Chỗ kiếm được duy nhất của tên tiểu tử này là từ kỹ nữ kia.” Một gã khác nói, “Bài Quân mà biết thì ngươi cứ xác định toi đời, đồ ma cô.” Gã thanh niên nắm đấm lao tới, nhưng chưa kịp chạm vào gã kia thì đã ăn một quả thụi từ gã hói đầu khiến hắn bật về phía quầy thu ngân, ôm bụng thở hồng hộc. Đám bài bạc cười hô hố. Nữ nhân òa khóc chạy lại phía gã thanh niên, khoác tay qua vai đỡ hắn, giúp hắn mửa vào cái ống nhổ. Hắn ngồi dậy, mặt trắng bệch. Nữ nhân nắm chặt tay áo hắn thì thầm gì đó. “Để ta yên, ả kỹ nữ ngu ngốc!” Tú Tài thở dốc, giơ tay tát nữ nhân. Ả liền chạy ra sau quầy, ngồi nấc lên từng hồi, mặt giấu sau tay áo. “Quả là một màn kịch thú vị.” Địch Nhân Kiệt quay sang Kiều Thái, hắn đang nhìn chén rượu trong tay, vẻ mặt buồn bực. “Thứ rượu này còn tệ hơn thứ tiểu nhân đã uống ở ngoài phố.” Kiều Thái quay qua nhìn nữ nhân lúc này đã lau mặt, đứng dựa vào quầy, “Nếu rửa trôi hết đám phấn son đi, trông ả cũng không đến nỗi tệ, thậm chí còn ưa nhìn là đằng khác.” Gã thanh niên hồi phục lại, bất chợt rút ra một thanh chủy thủ* Chủy thủ là một loại kiếm ngắn hoặc dao găm. trong thắt lưng. Nhưng tên tiểu nhị đã nhanh chóng lao tới tóm lấy, vặn tay hắn từ phía sau. Thanh chủy thủ rơi xuống sàn nhà. Gã nói, “Tiểu tử thối, ngươi biết đại ca không muốn chém giết trong này chứ?” Gã hói đứng dậy bước tới, nhặt lấy chủy thủ rồi quại cho gã thanh niên một đấm vào mặt, lập tức máu chảy đầy đầu hắn. “Thì ra hôm nay ngươi đã sẵn sàng dùng hung khí cơ đấy?” Gã hả hê nói, “Được tặng một nhát ngang trán thế kia còn chưa đủ sao? Nhãi con chớ có dại nghịch hung khí!” Đột nhiên có đôi tiếng gõ cửa vang lên. “Đại ca đến.” Gã hói nhanh nhảu chạy ra mở cửa. Một nam nhân cao to bước vào. Tên này mặt to, rỗ, râu ria bờm xờm, mái tóc muối tiêu được búi lên buộc bằng dây lụa, mặc quần xanh rộng, khoác áo chẽn để hở phần ngực đầy lông lá và đôi cánh tay cơ bắp. Nam nhân này không thèm đoái hoài gì đến tên hói, đi thẳng đến quầy thu ngân, “Lấy cho ta một bát rượu lớn từ hũ hảo hạng mau!” Y quát tên tiểu nhị. “Có chút chuyện vừa xảy ra, nơi này càng ngày càng chật chội. Làm sao có thể sống nổi ở trấn đông đúc này chứ?” “Chỗ nào cũng chạm trán đám chó săn quan nha.” Y kéo lấy bát rượu, nhấp một ngụm rồi quát nữ nhân, “Đừng đứng đấy nức nở nữa!” Rồi lại quay sang tiểu nhị, “Rót cho cả nàng ta đi, đời cũng không sung sướng gì.” Ánh mắt y đảo qua gã thanh niên đang lau vết máu trên mặt, “Có chuyện gì với Tú Tài thế?” Bài Quân hỏi. “Đại ca, hắn rút chủy thủ tấn công đệ.” Gã hói đáp. “Có đúng thế không? Tiểu tử, mau lại đây.” Tú Tài sợ sệt chầm chậm bước đến. Bài Quân khinh khỉnh nhìn hắn hỏi, “Ngươi thích nghịch hung khí lắm hả? Được, cho ta xem bản lĩnh của ngươi đi.” Một thanh chủy thủ dài sáng loáng xuất hiện trong tay Bài Quân, tay kia tóm cổ Tú Tài. Tên tiểu nhị vội nấp sau quầy, còn nữ nhân nhanh chóng vươn tay nắm lấy vai Bài Quân, “Xin đại ca tha cho hắn!” Ả khóc òa lên. Quầy rượu của tửu điếm Phượng Hoàng Bài Quân lắc vai thoát khỏi tay nữ nhân. Chợt nhìn thấy hai người ngồi cạnh cửa sổ, y ném Tú Tài đã mềm nhũn vì sợ hãi vào một góc, bước tới hỏi, “Trời đất thiên địa ơi, tên rậm râu nào đây?” “Người lạ mới đến đó, thưa đại ca.” Tú Tài khúm núm đáp. Tên tiểu nhị nhổm dậy từ sau quầy, hằn học cáo trạng, “Đại ca, gã rậm râu kia nói đệ là tên lừa đảo.” “Có ai bảo ngươi không phải quân lừa đảo chứ? Nhưng ta thường không tin khách vãng lai cho lắm.” Bài Quân tiến đến chỗ bàn Địch Nhân Kiệt và gằn giọng hỏi, “Các ngươi từ đâu tới?” “Bọn ta gặp chút rắc rối, được Quân Sơn giúp đỡ đưa đến đây.” Bài Quân ngờ vực nhìn hai người, đoạn ngồi xuống bên cạnh nói, “Ta không biết rõ Quân Sơn lắm. Hãy kể ta nghe rắc rối của các ngươi xem.” “Bọn ta chỉ là thương nhân buôn bán bình thường, chăm chỉ làm ăn lương thiện. Sáng nay trên sơn đạo, bọn ta gặp một phú thương, ba người trò chuyện rất hợp ý, phú thương kia bèn lấy ra mười lạng bạc tặng bọn ta làm lễ gặp mặt. Sau đó hắn nằm xuống ven đường nghỉ trưa, còn bọn ta vào trấn để đầu tư làm ăn. Nhưng tay phú thương kia lại tỉnh dậy trong một cái miếu rách, phường lừa đảo đó bèn chạy lên công đường báo quan rằng bọn ta cướp của hắn. Thế là quan nha mới truy lùng bọn ta. Sau đó Quân Sơn dẫn bọn ta đến đây. Thực ra chỉ là một hiểu lầm nho nhỏ thôi, có trách cũng là trách tên phú thương kia tỉnh dậy quá sớm.” “Thú vị đấy!” Bài Quân nhe răng cười. Nhưng chưa hết ngờ vực, y hỏi tiếp, “Tại sao ngươi lại để râu thế kia? Còn nói năng như một phu tử vậy?” “Bộ râu đó,” Kiều Thái nói, “được nuôi theo ý quan lớn đấy. Trước đây lão gia nhà ta vốn là bộ đầu trong công đường hẳn hoi nhưng phải nghỉ hưu sớm, cũng vì vài hiểu nhầm liên quan đến tiền bạc. Còn vị đại ca đây chắc cũng từng là bộ khoái, ta thấy đại ca có vẻ thích tra hỏi lắm.” “Ta hỏi vài câu cho rõ thôi,” Bài Quân cười đáp. “Mà đừng gọi ta như thế, không bộ khoái bộ khiếc gì hết. Trước đây ta đã từng tòng quân, họ Lưu chức danh Bài quân* Bài quân là một cấp bậc trong quân đội, tương đương Hạ sĩ. thuộc Đệ Tam cánh quân, Tây Chinh binh đoàn. Đã ghi nhớ vào cái đầu đất của ngươi rồi chứ?” Đoạn y quay sang Địch Nhân Kiệt hỏi, “Quân Sơn có phải là bằng hữu của ngươi?” “Không.” Địch Nhân Kiệt kể, “Hôm nay chúng ta mới gặp gã. Tình cờ gã cũng có mặt ở khách điếm khi quan nha đến truy lùng bọn ta.” “Được!” Bài Quân gằn giọng, “Mời các ngươi một chén!” Y quát gọi tiểu nhị mang rượu đến. Vừa thưởng rượu, Bài Quân vừa hỏi tiếp, “Cho hỏi các ngươi trước đây ngụ chốn nào?” “Ở Bồng Lai,” Địch Nhân Kiệt đáp. “Bọn ta không thích nơi đó lắm.” “Có lý.” Bài Quân lại gằn giọng, “Ta nghe nói ở đấy có một tri huyện mới, họ Địch thì phải, rất giỏi tróc nã tội nhân, nổi tiếng khắp vùng. Mới tuần trước thôi hắn vừa chặt đầu một bằng hữu của ta.” “Chính vì thế nên bọn ta mới rời đi. Bọn ta cũng thường qua lại chỗ Đồ Tể, khách điếm của gã ở ngay gần Bắc môn.” Bài Quân đấm mạnh xuống bàn, “Huynh đệ! Sao không nói ngay từ đầu? Tạp chủng Quân Sơn kia thật chẳng bằng một góc của Đồ Tể. Đồ Tể là một hảo hán chân chính, chẳng qua có hơi nóng nảy, động chút là động đao kiếm. Ta đã bảo gã bao nhiêu lần phải sửa cái tính ấy rồi mà gã không nghe.” Địch Nhân Kiệt mừng vì Bài Quân tin vào câu chuyện ông bịa ra. Gã Đồ Tể đã dùng chủy thủ đâm chết một người, bị ông kết án tử hình ngay trước khi rời Bồng Lai. Địch Nhân Kiệt hỏi, “Quân Sơn là người của ngươi?” “Không, gã hoạt động riêng thôi, đó là một tay trộm cắp thạo nghề đấy, lắm ngón đào tường khoét vách. Nhưng lại là một tên bần tiện hay gây gổ nên ta mừng là gã không đến đây thường xuyên. Các ngươi thì khác. Vì là bằng hữu của Đồ Tể, các người có thể ở lại đây, chỉ cần đặt một xâu tiền ra đây là được.” Địch Nhân Kiệt lấy trong tay áo một xâu tiền đưa y. Bài Quân bèn quẳng nó về phía gã hói, gã liền điệu nghệ bắt lấy. “Chúng ta muốn ở lại đây vài ngày, chờ mọi việc lắng xuống hẵng đi,” Địch Nhân Kiệt nói. “Được, cứ sắp xếp như vậy.” Bài Quân nói rồi quay qua gọi nữ nhân, “Cẩm Chướng, lại đây diện kiến hai khách nhân của ta nào!” Ả bước tới, Bài Quân liền vòng tay qua eo, giới thiệu với Địch Nhân Kiệt, “Đây là quản gia của bọn ta, nàng từng là kỹ nữ, nhưng vẫn còn xài được tốt, phải không Cẩm Chướng? Nàng chỉ bước xuống phố lúc cần mua y phục hay gì đó đại loại thế. Giờ nàng phục vụ cho ta và Hói. Đệ ấy là phó tướng của ta, như các ngươi đã thấy. Chúng ta cũng chia nhau cả tiền bạc nữa.” Y nhìn Địch Nhân Kiệt nghĩ ngợi một lúc, rồi hỏi, “Ngươi biết đọc biết viết không?” Địch Nhân Kiệt gật đầu. Bài Quân vui mừng nói tiếp, “Sao ngươi không ở lại đây lâu hơn nhỉ? Ta sẽ cho ngươi một buồng trên lầu, ăn uống thì ở dưới này. Khi nào cần âu yếm nữ nhân, sẽ có Cẩm Chướng đây phục vụ. Đừng có lườm ta như thế, mỹ nhân, rồi nàng sẽ quen với bộ râu đó thôi.” Gã véo Cẩm Chướng đang bĩu môi một cái, rồi quay sang Địch Nhân Kiệt nói tiếp, “Huynh đệ, ngươi không biết ta phải giải quyết bao nhiêu công việc ở đây đâu. Ta có hơn bảy mươi tên ăn mày, trộm vặt dưới trướng. Hàng ngày bọn chúng mang về cống nộp những đồ lấy được, mười phần thì hai phần là của ta, một phần chia cho Hói, một phần nữa thuộc về tửu điếm. Vì không ai biết chữ, ta phải tính toán tất cả bằng dấu chấm và dấu gạch. Tên Tú Tài kia có thể giúp ta, nhưng các huynh đệ ở đây lại không đồng ý vì chưa tin tưởng hắn lắm. Nếu ngươi giúp ta, ta sẽ trả ngươi nửa phần, hoàn toàn miễn trừ cống nộp. Ngươi nghĩ sao? Thỏa thuận chứ?” “Quả là một đề nghị hào phóng!” Địch Nhân Kiệt đáp. “Nhưng thứ lỗi cho ta phải từ chối, ta không muốn dây vào án mạng.” Bài Quân đẩy Cẩm Chướng ra, hỏi, “Án mạng nào? Ở đâu?” “Trong chợ có lời đồn, một phu nhân bị sát hại rồi vứt xác ở đầm lầy. Hai người bọn ta chỉ cướp vặt chỗ này chỗ kia thôi, về lâu dài như vậy sẽ tốt hơn. Giết người cướp của luôn mang lại rắc rối vô cùng.” “Hói!” Bài Quân gọi. “Sao ngươi không báo cáo gì về việc có người bị giết quanh đây? Là kẻ nào làm chuyện này?” “Đại ca, đệ không biết gì về vụ này cả! Đệ xin thề!” Gã Hói lên rỉ, “Không có ai bẩm báo về vụ này với đệ!” “Ta muốn xem xem chuyện này là thật hay giả, Bài huynh nghĩ sao?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Không phải chính ngươi đã cắt cổ nữ nhân đó chứ?” Bài Quân hằm hè hỏi. “Lẽ nào ta là thủ phạm mà lại đích thân đi xem xét việc này ư?” “Không, ta hỏi vậy thôi,” Bài Quân lẩm bẩm. Y xoa cái trán thấp đang nhăn lại, rầu rĩ nhìn chằm chằm vào bát rượu. Địch Nhân Kiệt đứng dậy, “Cử một người dẫn ta tới đầm lầy xem sao. Đừng quên ta đã từng là bộ đầu, ta biết tất cả về tử thi đấy. Nhỡ đâu ta lại tìm được kẻ gây ra vụ này giúp ngươi.” Bài Quân phân vân. Sau một hồi, y ngẩng lên nói, “Thôi được, ngươi mang Tú Tài theo. Đám ăn mày sắp mang cống phẩm về rồi, ta không thể để kẻ khác đi cùng. Này, Tú Tài, ngươi hãy đi cùng tên râu rậm này.” “Ngươi ở lại đây,” Địch Nhân Kiệt nói với Kiều Thái, “hai ta cùng đi sẽ khiến quan phủ chú ý.” Kiều Thái im lặng nghe cả đoạn đối thoại trong kinh ngạc. Y lầm bầm gì đó, rồi nhấc hũ rượu rót đầy chén. HỒI 5 Chốn đầm lầy, xem xét nữ thi Dọa Tú Tài, tường tri nha phủ Tú Tài đưa Địch Nhân Kiệt men theo vài khu phố vắng vẻ xuôi xuống phía nam trấn. Hắn giải thích rằng tửu điếm Phượng Hoàng nằm trên đồi cao, ngay chính giữa. Thị trấn được xây trên sườn dốc, phía bắc chính là nơi thấp nhất. Địch Nhân Kiệt không nói gì nhiều, đang mải mê theo đuổi suy nghĩ của mình. Hiển nhiên, Bài Quân không hề biết gì về vụ sát hại này cũng như ý đồ của Quân Sơn. Một loạt các manh mối cho thấy giả thuyết của ông là đúng, tuy nhiên… “Ban ngày có nhiều người qua lại khu vực đầm lầy không?” Địch Nhân Kiệt đột nhiên hỏi Tú Tài. “Có, buổi sáng cũng có khá nhiều người,” hắn trả lời. “Nông phu từ bên ngoài vào qua Bắc môn, mang theo rau củ hay nông sản vào chợ bán. Nhưng về đêm thì nơi này hoàn toàn hoang vắng. Mọi người nói nơi đây bị ma ám.” “Sao quan phủ không cho lấp đầm lầy đi?” “Bốn năm trước ở đây có một trận động đất lớn. Hồi đó ta mới mười bốn tuổi, vẫn còn nhớ rất rõ. Khu phía bắc thảm hại nhất, tất cả nhà cửa đều bị phá hủy, trở thành đầm lầy như bây giờ. Lúc đó còn xảy ra hỏa hoạn. Trời đất, nếu ông nhìn thấy cảnh đó, cảnh tượng thật huy hoàng! Mọi người đều bốc cháy, gào thét lao mình xuống sông. Bình sinh ta chưa bao giờ cười nhiều đến thế. Tiếc là lửa lại không lan đến nha phủ. Sau đó mọi người bắt đầu dọn dẹp đống đổ nát, nhận thấy khu đất đã sụt xuống thấp hơn mực nước sông, không thể xây dựng được gì nữa. Từ đó cả khu vực bị bỏ hoang mọc đầy cỏ dại.” Địch Nhân Kiệt gật đầu. Ông đã suy đoán ra từ trước, nơi có nhiều ôn tuyền thường hay xảy ra động đất. Hai người băng qua một con phố nhỏ, yên tĩnh. Ánh trăng soi rõ từng hàng mái ngói lượn cong. “Ông biết không, ta có ý muốn rời khỏi băng đảng Bài Quân,” Tú Tài nói. Địch Nhân Kiệt nhìn hắn, ông vẫn nghĩ đây là một kẻ khó ưa, nhưng cũng có thể ông đã nhầm. “Thật sao?” Địch Nhân Kiệt hỏi lại. “Thật!” Tú Tài khinh miệt đáp. “Ông cũng thấy đấy, ta khác với lũ hạ lưu ti tiện kia chứ. Phụ thân ta là một phu tử, ta cũng được học hành đàng hoàng, còn thi đỗ tú tài. Ta bỏ đi vì muốn làm một việc gì đó vang danh thiên hạ, nhưng băng đảng này lại là nơi duy nhất chứa chấp ta. Ăn xin, trộm cắp là tất cả những gì chúng làm. Lũ chó má ngu ngốc đó suốt ngày châm chọc ta, vì chúng biết ta hơn chúng!” “Ta hiểu,” Địch Nhân Kiệt đáp. “Hai người các ông thì khác.” Tú Tài buồn rầu tiếp, “Ta dám chắc các ông đã từng cắt cổ vài người rồi! Ông nói không muốn dính dáng đến án mạng bởi vì nghe thấy tên tiểu nhị tiết lộ Bài Quân không thích giết chóc trong trấn thôi. Đừng lo, ta hiểu mà.” “Đầm lầy còn xa nữa không?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Qua con phố đằng kia thôi, phía sau huyện nha là ngõ cụt rồi, chỗ mấy căn nhà đổ nát ấy. Hồi còn làm bộ đầu, ông có thường tra tấn nữ nhân không?” “Đi nhanh lên,” Địch Nhân Kiệt giục, giọng cộc lốc. “Ta đoán mấy ả sẽ thét lên như heo chọc tiết khi bị gí que sắt nung vào người. Đám nữ nhân đều ham muốn ta, nhưng không ích gì hết, rặt một đám kỹ nữ. Khi bị vặn tay, hẳn chúng cũng kêu váng lên chứ? Vậy chúng có gào thét nhiều không?” Địch Nhân Kiệt tóm lấy khuỷu tay Tú Tài, bẻ quặt lại. Những ngón tay cứng như thép bấm sâu vào da thịt và dây thần kinh của hắn. Khi Tú Tài kêu lên đau đớn, ông mới thả hắn ra. “Lão súc sinh!” Hắn kêu nấc lên, xoa lấy khuỷu tay đau. “Chẳng phải chính ngươi là người đặt câu hỏi ư?” Địch Nhân Kiệt nhẹ nhàng đáp, “Giờ ngươi đã biết câu trả lời chính xác rồi đấy.” Hai người lặng lẽ đi qua những ngôi nhà đổ nát tới một khu đất rộng, thoáng đãng. Một làn sương nóng bốc lên bám trên những tán cây thấp, phủ một lớp dày trên mặt đất. Phía xa xa có thể nhìn thấy lờ mờ bóng tháp canh phía bắc trấn. “Đầm lầy đây rồi,” Tú Tài thông báo. Không gian thật tĩnh lặng. Sự huyên náo của thị trấn không lan được tới đây. Chỉ nghe thấy văng vẳng tiếng kêu của vịt trời. Địch Nhân Kiệt đi theo con đường mòn trơn trượt chạy xung quanh đầm lầy, nhìn chăm chú những bụi cây nhỏ, rồi dừng lại trước một vết máu đỏ nhấp nhoáng dưới bụi rậm. Ông tiến đến rẽ các nhánh cây ra. Một xác chết được phủ kín từ cổ đến chân trong chiếc trường bào màu đỏ thêu hoa văn vàng. Ông cúi xuống xem xét kỹ tử thi. Khuôn mặt khá mỹ miều, vẻ mặt hoàn toàn bình thản một cách kì lạ. Mái tóc dài mượt như lụa được búi bởi một dải vải bằng bông. Nữ nhân khoảng hai mươi lăm tuổi. Vành tai bị rách, nhưng chỉ thấy vài vết máu nhỏ. Địch Nhân Kiệt mở áo ra xem xét bên trong, sau đó nhanh chóng khép lại. “Đi xuống kia canh gác đi,” Địch Nhân Kiệt bảo Tú Tài, “huýt sáo báo hiệu cho ta nếu ngươi thấy có người đến.” Ngay khi Tú Tài vừa lẩn đi, Địch Nhân Kiệt vén áo tử thi lên. Nữ nhân lõa thể hoàn toàn, trên ngực trái cắm một con dao găm, vết máu xung quanh đã khô lại. Cán dao bằng bạc được chạm khắc tỉ mỉ, tuy đã ngả màu theo thời gian. Đây là một món đồ cổ có giá trị. Lão ăn mày không nhận ra điều này nên không lấy nó đi lúc lão ăn trộm đôi khuyên tai với vòng tay. Địch Nhân Kiệt ấn ngực thi thể thấy vẫn mềm, bèn nhấc một bên tay lên thấy vẫn chưa bị cứng lại. Người này mới chết cách đây chỉ khoảng vài giờ. Khuôn mặt tử thi bình thản, chân trần không mang giày cho thấy nạn nhân chết khi đang ngủ trên giường. Thủ phạm vội vàng quấn tóc nạn nhân rồi dùng áo choàng bó lại mang đến đầm lầy. Những đặc điểm trên đều phù hợp với nhận định này. Địch Nhân Kiệt gạt mấy cành cây để ánh trăng chiếu rõ xuống thân thể mảnh mai của nữ nhân. Ông quỳ xuống, xắn tay áo và cẩn thận kiểm tra phần hạ thể. Địch Nhân Kiệt là người hiểu biết rộng về y dược, đặc biệt là điều tra những án mạng bất thường. Khi chùi tay vào đám cỏ ướt xung quanh, gương mặt ông mang vẻ phức tạp khó hiểu. Nữ nhân đã bị cưỡng bức. Điều này mâu thuẫn hoàn toàn với giả thuyết của ông. Địch Nhân Kiệt đứng dậy, quấn chiếc áo choàng đỏ quanh tử thi, kéo nó sâu vào sau bụi rậm để người đi đường không nhìn thấy, xong xuôi mới quay lại. Tú Tài vẫn đang ngồi trên tảng đá lớn, không ngừng xoa nắn chỗ khuỷu tay bị đau. “Tay ta không cử động được…” Hắn rên rỉ. “Ngươi thật phiền phức,” Địch Nhân Kiệt lạnh lùng nói. “Đợi ở đây. Ta sẽ đi kiểm tra mấy gian nhà hoang đằng kia.” “Đừng bỏ ta một mình!” Hắn van nài. “Nghe nói nơi này âm hồn bất tán, đều là người chết trong trận hỏa hoạn năm xưa.” “Tệ nhỉ! Lúc nãy chẳng phải ngươi kể những lời kêu khóc của họ khiến ngươi vui sướng lắm sao? Những âm hồn ấy hẳn đã nghe thấy lời ngươi nói đấy. Được rồi, ta sẽ giúp ngươi.” Địch Nhân Kiệt đi ba vòng quanh tảng đá, lầm rầm niệm chú. “Giờ thì an toàn rồi. Ta đã học cách tạo vòng tròn thuật pháp học từ một lão đạo sĩ. Không âm hồn nào có thể vượt qua vòng tròn này.” Địch Nhân Kiệt rời đi, tin chắc Tú Tài sẽ không dám rời khỏi tảng đá và mò đến chỗ xác chết trong lúc ông không ở đây. Băng qua đống đổ nát, Địch Nhân Kiệt tới một dãy nhà hoang. Nơi góc phố kế tiếp, ông thấy ánh đèn từ quán trà mình và Kiều Thái ngồi uống hồi chiều. Ông đi bộ một đoạn ngắn đến lối hậu của nha phủ rồi gõ cửa. HỒI 6 Giấu xác vợ, tri huyện lo sợ Chốn thư phòng luận chuyện tứ bình phong Ngay khi cửa vừa mở, lão quản gia đón Địch Nhân Kiệt với sắc mặt nhẹ nhõm, “Vậy là tiên sinh đã nhận được lời nhắn bộ đầu để lại khách điếm. Đại nhân đang chờ tiên sinh ạ.” Lão quản gia dẫn Địch Nhân Kiệt tới thẳng thư phòng. Đặng tri huyện đang ngủ gục trên án thư, khuôn mặt lộ rõ vẻ tiều tụy dưới ánh nến. Được viên quản gia đánh thức, Đặng tri huyện nhanh chóng ra đón Địch Nhân Kiệt. Đợi ông ta đi khỏi, vị quan Huyện mới thốt lên đầy kích động, “Ơn trời, Địch đại nhân đây rồi, mời ngài ngồi. Tại hạ đang gặp lúc nguy nan, muốn xin ngài lời khuyên.” Khi cả hai cùng ngồi xuống, Địch Nhân Kiệt mới mở lời, “Tại hạ đồ rằng chuyện này có liên quan tới việc phu nhân ngài bị sát hại.” “Sao ngài biết?” Đặng tri huyện thất kinh. “Trước hết để tại hạ kể lại những gì mình phán đoán, sau đó phiền đại nhân giải thích bổ sung.” Đặng tri huyện run run nâng chén trà, làm sóng vài giọt xuống mặt bàn. “Khi tại hạ diện kiến đại nhân chiều nay, tại hạ thấy đại nhân có vẻ bất an. Vì cũng có chút quan hoài, tại hạ đã hỏi Phan Du Đức. Lão nói lúc sáng đại nhân còn hoàn toàn khỏe mạnh, vì vậy tại hạ đoán rằng đại nhân gặp đại sự mới đây thôi. Khi gia nhân hỏi về phu nhân, đại nhân nói rằng sau giấc nghỉ trưa, phu nhân nhận được thư gọi về thăm nương gia. Nhưng cửa buồng phu nhân vẫn khóa, điều này khiến tại hạ băn khoăn. Tại sao trước khi đi phu nhân lại khóa cửa? Bọn nô bộc vẫn phải vào quét dọn cơ mà? Khi biết tin chiếc bình cổ trong buồng phu nhân bị vỡ, đại nhân vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh, như vậy đại nhân đã biết trước việc này và có việc khác quan trọng hơn khiến đại nhân phải lưu tâm. Tức là sau giờ nghỉ trưa đã có chuyện hệ trọng xảy ra trong buồng phu nhân. Dù sao đấy cũng là chuyện trong nhà, tại hạ không tiện hỏi, cũng không nghĩ đến nữa.” Đặng tri huyện vẫn lặng thinh. Địch Nhân Kiệt nhấp ngụm trà rồi tiếp, “Tình cờ tại hạ có được vài món nữ trang do một tên ăn mày lấy trộm từ tử thi ở đầm lầy. Trong đó có một đôi hoa tai sen bạc chạm trổ tinh vi, có khảm vàng và hồng ngọc. Giá trị của vật sức trang trí hơn gấp nhiều lần đôi hoa tai bạc, như vậy chúng hẳn mang một ý nghĩa đặc biệt. Tại hạ e rằng món đồ này thuộc về Ngân Liên phu nhân của quý phủ. Tất nhiên tại hạ cũng không dám chắc trong trấn còn ai khác cũng mang danh tự Ngân Liên hay không, nhưng nhớ lại vẻ lo lắng của đại nhân và sự vắng mặt khác thường của phu nhân, tại hạ đồ rằng những chi tiết này có liên quan mật thiết với nhau. “Khi bộ đầu đến khách điếm, tại hạ đoán đại nhân có chuyện muốn trao đổi cùng mình. Trước khi đến đây, tại hạ muốn tìm hiểu thêm về tử thi nọ nên vội rời khách điếm bằng lối hậu, đến đầm lầy và khám nghiệm kỹ càng. Đó là một nữ nhân quý phái, trên mình không mặc y phục gì. Như vậy, nạn nhân bị sát hại khi đang ngủ trên giường. Thời điểm sát hại vào khoảng giờ ngọ. Vị trí đầm lầy cũng rất gần nha phủ. Tại hạ kết luận tử thi này đích thị là quý phu nhân, người đã bị sát hại tại phủ trong giờ nghỉ trưa, thi thể bị mang đi giấu ở đầm lầy. Khu vực này vốn ít người qua lại, quý phủ lại có lối hậu thông ra một con phố vắng, việc phi tang tử thi sẽ gặp rất ít rủi ro, có phải vậy không Đặng đại nhân?” Đặng tri huyện chậm rãi nói, “Mọi suy đoán của Địch đại nhân đều đúng. Nhưng…” Địch Nhân Kiệt giơ tay chặn lại. “Trước khi đại nhân nói thêm, tại hạ muốn khẳng định rằng, dù chuyện xảy ra thế nào, tại hạ sẽ dốc sức hỗ trợ đại nhân. Nhưng tại hạ không thể tri pháp phạm pháp. Đại nhân hãy cân nhắc trước khi giải thích, vì những gì đại nhân nói có thể dùng làm lời chứng khi xét xử.” “Tại hạ hiểu,” Đặng tri huyện đáp, “Đương nhiên thảm án này sẽ được xét xử trên công đường. Tại hạ sẽ kể mọi chuyện để Địch đại nhân biện hộ giùm. Vì chính tại hạ là người sát hại phu nhân!” “Tại sao?” Địch Nhân Kiệt bình tĩnh hỏi. Đặng tri huyện dựa lưng vào ghế, mệt mỏi đáp, “Mọi việc bắt đầu từ rất lâu rồi, hơn bảy mươi năm trước...” “Tại hạ nghĩ đại nhân chưa quá tứ tuần, phu nhân cũng chỉ mới ngoài đôi mươi?” Địch Nhân Kiệt ngạc nhiên. Đặng tri huyện gật đầu, hỏi, “Địch đại nhân, ngài am hiểu về quân sử, chắc đã từng nghe đến cái tên Đặng Quốc Diêu?” Địch Nhân Kiệt khẽ nhíu đôi mày. “Đặng Quốc Diêu? Đó là một danh tướng quả cảm trong cuộc đại trường chinh ở Trung Á. Những tưởng Đặng tướng quân sẽ có một tiền đồ xán lạn, chẳng ngờ ông đột ngột từ quan…” Địch Nhân Kiệt khựng lại nhìn Đặng tri huyện. “Trời, lẽ nào Đặng tướng quân chính là tổ phụ của đại nhân?” Đặng tri huyện chầm chậm gật đầu. “Đúng vậy. Tổ phụ trước đây từ quan cũng có nguyên do. Trong một cơn loạn trí nhất thời, tổ phụ đã sát hại chính bằng hữu thân cận nhất của mình. Sau đó, người không bị buộc tội sát nhân, nhưng cũng vì chuyện này mà phải từ quan.” Hai người ngồi lặng hồi lâu, rồi Đặng tri huyện nói tiếp, “Thân phụ là một người hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng tại sao ta lại di truyền quái chứng ấy từ tổ phụ? Tám năm trước ta thành thân với Ngân Liên. Ta và nàng như sinh ra để dành cho nhau. Nếu ta có chịu tiếng là ít giao du với bên ngoài, thì cũng là bởi bên ngoài không có tri kỷ nào được như nàng. Thế rồi một ngày bảy năm về trước, nàng bắt gặp ta nằm bất tỉnh dưới sàn buồng ngủ. Ta cảm thấy mình không khỏe, trong đầu ta vảng vất những hồi ức kỳ quái. Lưỡng lự hồi lâu, ta cũng kể sự thật với nàng, rằng trong cơn loạn trí nhất thời, ta đã sát hại một người, thậm chí còn say mê với hành động man rợ ấy. Ta nói với nàng lời nguyền năm xưa nay đã ứng nghiệm, rằng nàng không thể tiếp tục sống với một kẻ điên như ta. Ta sẽ làm mọi cách để hòa ly* Hòa ly nghĩa là ly hôn. với nàng ngay lập tức!” Địch Nhân Kiệt nhìn Đặng tri huyện đầy thương cảm. Vị đồng liêu của ông hai tay ôm mặt hồi lâu, khi đã bình tâm hơn, ông ta tiếp, “Ngân Liên cương quyết khước từ. Nàng sẽ không bao giờ bỏ ta, sẽ chăm lo cho ta nếu chuyện không may kia lại xảy đến. Hơn nữa, không ai có thể chắc chắn rằng ta lên cơn loạn trí là do lời nguyền năm xưa, có thể là vì một nguyên nhân khác chăng. Ta không muốn nàng gặp nguy hiểm, nhưng nàng vẫn một mực cự tuyệt, rằng nàng sẽ quyên sinh nếu ta nhất quyết hòa ly. Cuối cùng ta cũng đành nhượng bộ… Chúng ta quyết định không sinh con để tránh những việc đáng tiếc sau này. Ta và nàng lấy văn chương thơ phú làm thú vui để quên đi nỗi bất hạnh khi yêu thương ái ân lại không được đơm hoa kết trái. Chắc Địch đại nhân cũng đã hiểu vì sao bên ngoài luôn nghĩ tại hạ là kẻ lạnh lùng kín kẽ.” Địch Nhân Kiệt khẽ gật đầu. Đối diện với một nỗi bi ai khổ sở như vậy, thật không biết phải nói gì. Đặng tri huyện tiếp, “Bốn năm trước, ta phát bệnh lần thứ hai. Hai năm sau đó là lần thứ ba. Lần cuối cùng bệnh tái phát mới thật khủng khiếp, Ngân Liên phải ép ta uống thuốc ngủ để tránh sự cố thảm khốc xảy ra… Sự chia sẻ và săn sóc của nàng là nguồn an ủi duy nhất cho ta. Thế rồi bốn tuần trước, sự an ủi ấy cũng bị cướp đi. Ta không còn chia sẻ nỗi đau với nàng được nữa. Bức bình phong kia đã xâm chiếm lấy tâm hồn ta.” Đặng tri huyện ngừng lời, chỉ tay lên bức bình phong gỗ sơn đỏ phía sau Địch Nhân Kiệt. Ánh nến nhảy nhót chiếu những tia kỳ dị lên từng đường chạm trổ tinh xảo. Ông ta nhắm mắt, giọng đều đều, “Địch đại nhân hãy đến xem đi, tại hạ sẽ miêu tả cho ngài. Tại hạ thuộc nó như chính lòng bàn tay mình.” Địch Nhân Kiệt đứng dậy, bước lại gần. Bức bình phong gồm bốn phiến, mỗi phiến là một bức tranh sơn son thếp vàng có khảm trai, ngọc bích và nhiều châu báu quý giá khác. Đó là một món đồ cổ có giá trị ít nhất cũng phải ngoài hai trăm năm. Từ phía sau, giọng Đặng tri huyện gần như lạc đi, “Bốn bức tứ quý đặc trưng cho bốn mùa. Bức đầu tiên bên trái là mùa xuân. Đó là giấc mộng mùa xuân của một thư sinh, đọc sách ngủ quên ngoài hiên dưới bóng tùng, thư đồng đang pha trà, còn thư sinh đang mơ gặp bốn cô nương dung mạo mỹ miều, duy chỉ có một trong số đó lọt vào mắt xanh của chàng. Bức: Mùa Xuân “Bức thứ hai tả cảnh mùa hè, khi những khát vọng chín muồi. Thư sinh nay đã thành một tú tài đĩnh đạc trên đường lai kinh ứng thí với ước mong đỗ trạng làm quan. Tú tài cưỡi ngựa đi trước, tiểu đồng theo sau. Bức: Mùa Hạ “Bức tiếp theo là mùa thu, mùa của sự viên mãn. Chàng tú tài đã như nguyện. Trên đường vinh quy bái tổ, chàng nhìn thấy bốn cô nương của giấc mơ ngày trước, trong đó có người chàng muốn lấy làm thê tử.” Bức: Mùa Thu Đặng tri huyện ngừng lời. Địch Nhân Kiệt bước tới ngắm kỹ bức thứ tư. “Bức thứ tư chính là mùa đông, mùa của nội tại và những vui thú thầm lặng. Hay hiểu sâu hơn chính là mùa của những hoan lạc cuộc sống phu thê.” Bức: Mùa Đông Địch Nhân Kiệt nhìn cặp đôi trong bức tranh. Cả hai đang ngồi trong căn buồng trang trọng, phu quân một tay choàng qua vai thê tử, tay kia nâng chén chúc nàng. Địch Nhân Kiệt xoay người định quay về chỗ ghế ngồi, Đặng tri huyện nhanh chóng nói, “Địch đại nhân đừng vội. Tại hạ mua bức bình phong này trong một cửa hàng đồ cổ ở kinh đô, sau khi thành hôn với Ngân Liên không lâu. Ngay khi nhìn thấy nó, ta đã quyết mua bằng được, dù phải bán bớt một số món đồ giá trị để bù tiền. Bức bình phong này tình cờ miêu tả đúng bốn bước ngoặt lớn trong đời ta. Khi còn là một thư sinh nơi quê nhà, ta từng mơ tới bốn cô nương. Ta cũng từng lên kinh đô ứng thí và gặp bốn cô nương trong mộng khi đi ngang qua dinh thự Ngô Phủ doãn* Phủ doãn là một chức quan thời xưa. . Ta đã cưới thứ nữ của Ngô Phủ doãn, chính là Ngân Liên, người con gái ta chọn trong mộng khi xưa. Tấm bình phong này chính là tài sản quý giá nhất của đôi ta, đi đâu ta cũng mang theo nó. Đã bao lần ta và nàng ngồi trước bức bình phong này, ngắm từng đường nét và hàn huyên về cuộc hôn nhân của chúng ta. “Tháng trước, vào một buổi chiều nóng nực, ta cho trải chiếu trúc trong thư phòng, ngay trước bức bình phong. Ta nằm gối đầu ngắm đôi tân lang tân nương trong bức hình. Đột nhiên ta phát hiện một sự thay đổi khủng khiếp: phu quân tay cầm dao đâm vào ngực thê tử!” Địch Nhân Kiệt kêu lên một cách ngạc nhiên rồi cúi xuống xem kỹ bức hình. Ông thấy tay trái nam nhân đang cầm dao, mũi dao chĩa thẳng vào tim nữ nhân. Ngay đó có một miếng bạc mỏng đính dưới lớp sơn mài. “Ta không hề biết bức tranh thay đổi từ lúc nào. Khi mới phát hiện ra, ta còn nghĩ là do thợ sơn mài lúc xưa vô tình làm rơi miếng vảy bạc vào, nay lớp sơn bong, vô tình lộ ra điềm báo về bi kịch như vậy. Nhưng nhìn kỹ mới thấy, miếng bạc được gắn lên một cách vụng về, nhiều vụn bạc còn dính xung quanh.” Địch Nhân Kiệt từ từ gật đầu, ông cũng nhận thấy điều đó. “Như vậy chỉ còn một khả năng là, trong cơn loạn trí, chính ta đã làm việc đó. Phần điên trong tâm trí ta có mưu đồ sát hại nàng.” Đặng tri huyện đưa tay vuốt mặt, nhìn lại bức bình phong một lúc. Ông ta ngước mắt nghẹn ngào, “Việc này trở thành nỗi ám ảnh với ta. Suốt tuần qua, ta đã gặp nhiều cơn ác mộng nghẹt thở, trong cơn mơ chính ta là người sát hại hiền thê. Ý nghĩ ấy giày vò, hành hạ ta mỗi khi thực giấc. Nó thực sự ám lấy ta… Ta không thể kể việc này với nàng. Nàng có thể chịu đựng tất cả, nhưng không phải việc chính ta, phu quân của nàng, sẽ là người sát hại nàng, dù là trong cơn loạn trí. Việc đó sẽ làm nàng đau khổ vô cùng.” Đặng tri huyện ngước cặp mắt vô hồn nhìn xa xăm, rồi đột nhiên quay trở về thực tại. “Trưa nay ta và nàng dùng cơm bên ngoài, nơi góc hoa viên râm mát đằng kia. Tuy thế ta vẫn cảm thấy ngột ngạt, bồn chồn không yên. Có vẻ như cơn đau đầu lại sập đến. Ta bảo với nàng sẽ nghỉ trưa tại thư phòng và xem xét ít công văn. Trong thư phòng quá nóng, ta không thể tập trung được nên quyết định đến nghỉ trưa cùng Ngân Liên…” Đặng tri huyện đứng dậy nói, “Đi nào, ta sẽ chỉ ngài xem.” Đặng tri huyện cầm theo một cây bạch lạp, cả hai rời khỏi thư phòng. Đặng tri huyện dẫn Địch Nhân Kiệt qua hành lang hút gió, đến một căn buồng. Ông ta mở cửa, chỉ cho Địch Nhân Kiệt biết đây là buồng thay y phục của Ngân Liên phu nhân. Bên phải kê một chiếc bàn phấn chạm bằng gỗ hồng sắc, bên trên là tấm gương bạc tròn bóng nhẵn. Bên trái, ngay trước cánh cửa nhỏ đặt một trường kỷ trúc. Phòng được lát đá hoa cương đỏ, giữa phòng có một chiếc bàn tròn gỗ mun được chạm trổ khéo léo. Đặng tri huyện nói tiếp, “Trên bàn kia vốn là chiếc bình cổ ta đã làm vỡ. Cửa bên trái dẫn ra khuôn viên tiểu cảnh với hồ cá vàng. Đứa a hoàn của Ngân Liên luôn ngủ trên chiếc kỷ trúc ngay trước cửa này. Sau cánh cửa sơn đỏ đối diện là buồng ngủ của nàng. Địch đại nhân xin chờ một chút.” Đặng tri huyện bước vào, lấy từ trong ngực áo một chiếc chìa khóa, mở cánh cửa sơn đỏ rồi quay lại cạnh Địch Nhân Kiệt. “Hồi chiều khi ta vào căn buồng này, a hoàn vẫn đang nằm ngủ trên trường kỷ. Điều cuối cùng mà ta còn nhớ được là nhìn thấy nàng nằm trên giường qua cánh cửa buồng khép hờ như lúc này. Nàng không mặc gì, nằm quay vào trong ngủ yên lành, đầu gối lên cánh tay phải. Ta nhìn thân hình tuyệt mỹ của nàng, mái tóc đen mượt để xoã phủ qua vai chảy xuống thành giường. Ta chuẩn bị đánh thức nàng thì đột nhiên mọi thứ tối sầm lại, ta không còn biết gì nữa. “Tỉnh dậy, ta thấy mình đang nằm trên sàn, ngổn ngang giữa những mảnh vỡ của chiếc bình cổ. Mắt ta mờ đi, đầu đau như búa bổ. Ta nhìn sang thấy đứa a hoàn vẫn đang say ngủ, bèn bò dậy lập cập chạy vào trong, nơi Ngân Liên vẫn đang nằm yên trên giường, hệt như ta nhìn thấy lúc trước. Ta những tưởng cơn bệnh tái phát đã qua mà không gây hậu quả gì. Nhưng khi bước tới giường, ta mới thấy điều kinh khủng mình đã gây ra. Con dao găm của ta cắm nguyên nơi ngực Ngân Liên. Nàng đã chết!” Đặng tri huyện phát hiện vợ đã chết Đặng tri huyện dựa lưng vào khung cửa, hai tay ôm mặt nấc lên từng hồi. Địch Nhân Kiệt bước nhanh vào trong buồng. Ông xem xét kĩ chiếc giường rộng, trên có trải chiếu cỏ tranh mềm mại. Trên vách, ngay phía đầu giường vẫn còn chiếc bao dao được treo trên dây lụa. Bên cạnh là thanh cổ kiếm vỏ đồng, với một cây thất huyền cầm. Cửa sổ duy nhất trong buồng có dán lớp giấy bồi dày trên khung tre, được cài chặt bởi then gỗ chạm trổ khá đẹp. Đồ đạc trong buồng chỉ có một chiếc bàn trà cổ nhỏ làm từ gỗ đàn hương, cũng được chạm khắc tinh xảo. Phía góc buồng là bốn chiếc rương quần áo bằng da màu đỏ mạ hoa văn vàng, chứa y phục cho các mùa trong năm. Địch Nhân Kiệt quay lại chỗ Đặng tri huyện, hỏi khẽ, “Sau đó ngài làm gì?” “Khi đó, nỗi sợ khủng khiếp đã khuất phục ta hoàn toàn. Ta chạy vội ra ngoài, khóa chặt cửa rồi không hiểu làm cách nào đã quay về thư phòng. Đang lúc rối bời, choáng váng bởi sự thật kinh hoàng đó thì gia nhân báo với ta ngài tới.” “Thứ lỗi cho tại hạ, đã đến đúng lúc ngài gặp hung sự. Ta không hề biết trong phủ lại xảy ra việc như vậy…” “Là ta tiếp đón ngài không chu đáo. Nên chăng chúng ta quay trở lại thư phòng chứ?” Khi cả hai trở về ngồi bên bàn trà trong thư phòng, Đặng tri huyện kể tiếp, “Sau khi Địch đại nhân rời đi, tại hạ cũng khá hơn được phần nào. Phiên thăng đường buổi chiều cũng làm ta định tâm hơn. Vụ tự tử trên công đường khiến ta tạm thời không nghĩ đến thảm kịch đáng sợ kia, nhưng ta cũng nhận ra rằng công lý vẫn phải được thực thi. Ta muốn lên công đường tự thú việc sát hại Ngân Liên, nhưng ta sẽ làm gì với thi thể nàng, sẽ phải nói gì với gia nhân trong phủ? Ta chợt thấy thật may mắn khi Địch đại nhân đang ở đây. Ta vội sai bộ đầu mang thiếp mời ngài tới. Khi bộ đầu báo rằng ngài đã rời đi không rõ tung tích, ta vô cùng sợ hãi. Ta trông cậy ngài sẽ đến giúp ta ngay, nhưng giờ có thể ngài sẽ rời đi vài ngày, hoặc giả có chuyện không may xảy đến với ngài… Ta sẽ phải đối diện mọi chuyện một mình. Chẳng mấy mà gia nhân sẽ hỏi chìa khóa buồng để vào quét dọn… Ta phải nghĩ cách giấu xác nàng. Khi đám gia nhân dùng cơm tối, ta vội đến buồng ngủ, bọc xác Ngân Liên vào trong áo choàng ngoài, rồi mang xác nàng qua lối cửa hậu thông ra hẻm sau. Khi đó không có ai, ta mang xác nàng giấu ở đầm lầy. “Khi quay về, ta thấy mình mới thật ngu ngốc làm sao. Trong lúc quá kích động, ta đã không nghĩ đến cách đơn giản nhất để trì hoãn là giả vờ làm mất chìa khóa. Điều này cho thấy ta không thể giải quyết việc này một mình được. Một lần nữa ta lại sai bộ đầu đến khách điếm tìm ngài dù đã muộn. Tạ ơn trời Phật, cuối cùng ngài cũng đến. Địch đại nhân, ngài bảo ta phải làm sao bây giờ?” Địch Nhân Kiệt ngồi lặng hồi lâu, chăm chú nhìn bức bình phong, tay vuốt râu một cách chậm rãi. Cuối cùng ông ngẩng lên nói với Đặng tri huyện, “Tạm thời ngài không nên làm gì cả, chí ít là trong lúc này.” “Nghĩa là sao?” Đặng tri huyện thốt lên, nhổm hẳn người khỏi ghế, “Tại hạ phải tới Đăng châu phủ ngay sáng sớm mai. Giờ ta hãy viết một phong thư cho Tri phủ đại nhân, gửi hỏa tốc trong đêm để sáng mai…” Địch Nhân Kiệt giơ tay ngăn lại. “Ngài hãy bình tâm. Ta đã khám nghiệm tử thi và xem xét hiện trường. Ta không chắc mình đã nắm hết các dữ kiện của thảm án. Ta cần bằng chứng rằng chính ngài đã sát hại phu nhân.” Đặng tri huyện không kiềm chế được, gần như hét lên, “Địch đại nhân, ngài nói hồ đồ gì vậy? Ngài còn cần bằng chứng gì nữa, những trận tái phát bệnh, những cơn ác mộng của ta, rồi cả bức bình phong này…” “Vẫn còn những tình tiết cần phải tra xét thêm,” Địch Nhân Kiệt ngắt lời, “những ẩn tình từ yếu tố bên ngoài.” Đặng tri huyện giậm chân xuống sàn, “Địch đại nhân, ngài đừng cố gạt ta. Ngài thực sự nghĩ trong khi ta lên cơn loạn trí, có kẻ khác đã lẻn vào ám sát Ngân Liên? Trên đời làm gì có sự trùng hợp kỳ lạ như thế?” Địch Nhân Kiệt nhún vai. “Đặng đại nhân, ta cũng không thích sự trùng hợp. Nhưng những việc tương tự như vậy vẫn xảy ra. Cũng như việc ngài tái phát bệnh và tự sửa lại bức bình phong mà không nhớ gì. Hơn nữa, khi ngài thấy phu nhân đang nằm quay lưng lại, lúc đó rất có thể phu nhân đã chết rồi. Ngài có kẻ thù nào không?” “Dĩ nhiên là không!” Đặng tri huyện tức giận. “Hơn nữa, chỉ mình ta và phu nhân biết những điểm đặc biệt của tấm bình phong này. Nó cũng chưa từng được mang đi đâu kể từ khi ta chuyển đến đây. Không ai khác có thể động vào nó được.” Ông ta lấy lại bình tĩnh. “Địch đại nhân có cao kiến gì chăng?” “Xin ngài cho ta một ngày để thu thập thêm bằng chứng. Nếu không tìm được gì, ta sẽ đích thân hộ tống đại nhân đến Đăng châu phủ và giải thích mọi chuyện với Tri phủ đại nhân.” “Địch đại nhân, trì hoãn báo án là một trọng tội…” Đặng tri huyện bật khóc. “Vừa rồi ngài còn nói sẽ không làm gì phạm pháp…” “Ta sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm,” Địch Nhân Kiệt ngắt lời. Đặng tri huyện nghĩ ngợi hồi lâu, lo lắng đi đi lại lại quanh căn buồng. Sau cùng ông ta dừng lại, đành đồng ý với Địch Nhân Kiệt. “Thôi được, Địch đại nhân, mọi chuyện xin nghe theo ngài. Giờ ta phải làm gì?” “Đơn giản thôi. Trước tiên đại nhân hãy lấy một phong thư, đề tên và địa chỉ của phu nhân vào.” Đặng tri huyện mở ngăn kéo lấy ra một phong thư. Sau khi đề tên và địa chỉ, ông đưa lại cho Địch Nhân Kiệt. Địch Nhân Kiệt đón lấy, cất vào trong tay áo. “Giờ phiền đại nhân lấy giúp ta một bộ y phục mà phu nhân vẫn dùng trong buồng ngủ, đừng quên lấy thêm một đôi giày nữa.” Đặng tri huyện tò mò nhìn Địch Nhân Kiệt, rồi lẳng lặng rời đi lấy y phục. Địch Nhân Kiệt nhanh chóng đứng dậy, tới ngăn kéo bàn vẫn để mở, lấy ít giấy và phong thư đóng sẵn dấu son của huyện nha, giấu kỹ trong tay áo. Đặng tri huyện bước vào, mang theo bao y phục màu xanh, nhìn Địch Nhân Kiệt một lượt, bối rối nói, “Địch đại nhân, thứ lỗi cho ta. Tâm trí ta chỉ mải dồn vào việc tư, không để ý đến y phục của ngài. Xem này, áo choàng của ngài lấm lem hết rồi, ủng cũng dính đầy bùn đất. Để ta sai gia nhân lấy…” “Ngài đừng bận tâm,” Địch Nhân Kiệt ngắt lời. “Ta cần đi điều tra thêm vài chỗ nữa. Y phục mới sẽ gây chú ý một cách không cần thiết. Đầu tiên, ta sẽ quay lại đầm lầy, vận y phục cho thi thể phu nhân rồi kéo qua đường mòn để sáng mai sẽ có người phát hiện. Ta cũng nhét phong thư đề tên và địa chỉ vào tay áo thi thể để giúp xác định danh tính phu nhân. Khi đó đại nhân có thể cho khám nghiệm tử thi. Ta biết ngài có một quan ngỗ tác không tệ, đúng không?” “Đúng vậy, hắn mở một đại dược phòng trong chợ.” “Tốt lắm. Ngài hãy phán rằng phu nhân bị ám sát trên đường đến Bắc môn, rồi tiến hành điều tra. Sau đó ngài có thể tiến hành khâm liệm thi thể phu nhân.” Địch Nhân Kiệt cầm bao y phục, đặt tay lên vai Đặng tri huyện, mỉm cười. “Ngài hãy cố chợp mắt một chút. Ngày mai ta sẽ có tin cho ngài. Giờ ngài không cần phải tiễn nữa, ta tự biết đường ra.” Địch Nhân Kiệt gặp lại Tú Tài ở chỗ cũ, bộ dạng của hắn trông thật thảm hại. Hắn ngồi cúi gập người trên tảng đá, toàn thân run lẩy bẩy mặc dù tiết trời vẫn oi bức. Tú Tài ngước nhìn Địch Nhân Kiệt, cười mếu máo định nói gì đó, nhưng hai hàm răng va vào nhau lập cập liên hồi khiến hắn không mở được lời. “Đừng lo,” Địch Nhân Kiệt nói, “ta quay lại đây rồi. Giờ ta cần kiểm tra cái xác một lần nữa. Sau đó chúng ta có thể quay về đánh một giấc.” Tú Tài vẫn còn vô cùng hoang mang, không để ý đến bao y phục Địch Nhân Kiệt cầm theo. Sau khi rút con dao găm ra, Địch Nhân Kiệt gói nó lại trong một miếng giấy dầu, cất vào trong bao, đoạn mặc y phục, xỏ giày cho tử thi rồi kéo ra đặt cạnh vệ đường. Xong xuôi, ông cất tiếng gọi Tú Tài, hai người lặng lẽ đi qua trấn không còn một bóng người. Tú Tài có vẻ vẫn còn bực bội vì phải ngồi đợi một mình. Địch Nhân Kiệt đoán hắn cố tỏ ra hung ác nhằm ra vẻ can đảm thế thôi. Hắn mới chừng mười tám, có lẽ ham muốn côn đồ du đãng mới nảy sinh khoảng một năm nay. Gã thanh niên này có thể đã làm gì đó tệ hại hơn việc gia nhập băng đảng của Bài Quân. Tuy Bài Quân là một gã du côn hung hăng nóng nảy, nhưng Địch Nhân Kiệt nghĩ y không hoàn toàn tệ hẳn. Nếu vượt qua chuyện này, Tú Tài có thể ăn năn hối cải và quay trở lại cuộc sống lương thiện. Hai người đi được nửa đường, đột nhiên Tú Tài nói, “Ta biết ông và Bài Quân không coi ta ra gì. Nhưng ta nói cho ông biết, chỉ ít ngày nữa thôi, ta sẽ kiếm được nhiều hơn số tiền các người kiếm được cả đời.” Địch Nhân Kiệt không đáp, ông thấy chán trước sự khoa trương của Tú Tài. Đến trước cửa tửu điếm Phượng Hoàng, Tú Tài dừng lại, gắt gỏng, “Chúng ta hãy cáo biệt ở đây. Ta hẵng còn việc khác phải làm.” Địch Nhân Kiệt bước vào tửu điếm. HỒI 7 Nơi tửu điếm, Bài Quân bày tỏ Vọng trúc viên, Kiều rõ mỹ nhân Khi Địch Nhân Kiệt và Tú Tài rời tửu điếm đi đến đầm lầy, Kiều Thái ngồi uống thêm vài chén với Bài Quân. Hai người trò chuyện về những trận giao tranh trong mấy năm gần đây, đúng chủ đề ưa thích của Bài Quân. “Nếu Bài đại ca ưa thích cuộc đời quân ngũ như thế, sao lại nỡ từ bỏ vậy?” “Ta đã phạm phải một sai lầm ngu xuẩn, vì thế buộc phải nhanh chân chuồn đi,” Bài Quân đáp cộc lốc. Đám ăn mày rách rưới lũ lượt kéo vào. Bài Quân đứng dậy bắt đầu tính toán chia phần cùng gã Hói. Kiều Thái thấy không khí trong tửu điếm ngày càng ngột ngạt, phần vì lo ngại lão ăn mày gạ bán số nữ trang hồi chiều có thể cũng đến đây, nên y quyết định ra ngoài đi dạo một vòng. Đường phố bên ngoài vẫn hết sức oi bức. Kiều Thái chọn đại một con phố nhỏ xuôi xuống bờ sông, hi vọng dưới đó sẽ thoáng đãng hơn. Vòng vèo một hồi, Kiều Thái cũng tìm được chốn thích hợp, ở đây có một cây cầu lớn uốn cong bắc sang bờ bên kia. Kiều Thái bước lên cầu chỗ cao nhất, tì tay lên thành cầu bằng đá cẩm thạch. Bên dưới dòng nước đen ngòm không ngừng gào thét, bọt tung trắng xóa. Lòng sông đầy đá ngầm lô nhô nhọn hoắt, có vài tảng nhỏ trồi lên mặt sông. Kiều Thái sảng khoái hít sâu không khí mát mẻ, nhìn dòng nước giận dữ cuộn xoáy bên dưới. Xung quanh không có nhiều người lắm. Đây đích thị là khu dân cư, nhiều ngôi nhà to, khá giả nằm phía bờ sông bên hữu, còn bờ bên tả là dãy tường dài với hàng lỗ châu mai dẫn đến cổng lớn quân doanh. Dãy cờ ngũ sắc đứng im, trời không chút gió. Hai tên cướp vặt lặng lẽ tiến đến chỗ Kiều Thái. Gần đến nơi, chúng lẳng lặng nhìn nhau lắc đầu, quyết định rút lui. Nam nhân to cao rắn rỏi này không phải là mục tiêu thích hợp của chúng. Kiều Thái đang băn khoăn không biết nên làm sao, cố gắng đoán xem Địch Nhân Kiệt đang tính toán điều gì nhưng không thể. Những suy tính đó đều vượt xa khả năng dự đoán của y. Mà trước sau gì ông cũng sẽ nói cho y biết vào thời điểm thích hợp. Kiều Thái nhổ nước bọt xuống sông, vị rượu cay xè ở tửu điếm Phượng Hoàng vẫn còn đầy trong miệng. Y nhớ đến bằng hữu của mình ở Bồng Lai, lão Hồng và Mã Vinh. Giờ này có lẽ cả hai đang ngồi nốc mĩ tửu ở Cửu Hoa Viên ngay phía đối diện nha phủ. Đấy là nếu Mã Vinh đang không bận ôm một cô nương trẻ đẹp nào đó. Còn Kiều Thái vốn kén chọn, y không thích đến lầu xanh. Y thở dài rồi quyết định sẽ quay lại tửu điếm, giờ này chắc đám ăn mày cũng giải tán rồi. Kiều Thái đi xuống cầu, dạo bước dọc theo bờ sông một đoạn, đột nhiên có cảm giác ai đó đang bám theo. Vô lý, Quân Sơn giờ đây đã là đồng đảng rồi… Kiều Thái rẽ vào con phố nhỏ đi về phía nam. Đập vào mắt y là khung cửa sổ một căn nhà lớn phía sau hàng rào tre. Kiều Thái kiễng chân nhìn qua hàng rào, tò mò không biết ai vẫn còn thức giờ này. Y nhìn thấy một góc buồng đồ đạc sang trọng, hai ngọn nến đặt trên bàn phủ khăn. Một nữ nhân khoác độc chiếc áo lụa trắng mỏng đứng trước gương chải tóc. Không thiếu phụ đoan trang nào lại ăn vận như vậy, Kiều Thái đoán rằng ả ta cũng là hạng buôn phấn bán hương, tự mình làm ăn ở đây. Y nhìn lại để khẳng định một lần nữa. Ả khoảng ba mươi tuổi, cơ thể đầy đặn, khuôn mặt trái xoan xinh xắn, trông có vẻ từng trải và hiểu chuyện, đúng mẫu hình y thích. Kiều Thái vuốt hàng ria, cô nương xinh đẹp xuất hiện đúng lúc y đang có nhã hứng. Tuy thế, có một vấn đề nhỏ. Kỹ nữ này chắc hẳn thuộc vào loại cao cấp, cho dù ả có đồng ý tiếp y thì chưa chắc y đã có đủ ngân lượng trả. Y chỉ còn hai xâu tiền trong tay áo, mà xem chừng cô nương kia phải năm xâu tiền, thậm chí một lạng bạc mới đủ. Nhưng ít nhất y có thể vào làm quen trước, rồi sau đó tối mai hẹn gặp. Cũng đáng để thử lắm. Kiều Thái ngắm mỹ nhân Kiều Thái đẩy cánh cổng tre bước vào, băng qua khoảng hoa viên nhỏ bài trí tinh tế, tiến đến gõ lên tấm cửa lớn sơn đen. Nữ nhân tự mình ra mở cửa, chợt thốt lên ngạc nhiên, rồi vội đưa tay áo lên che miệng, dáng vẻ bối rối. Kiều Thái cúi chào, lịch sự nói, “Xin thứ lỗi, đêm hôm thế này còn đường đột quấy rầy cô nương. Ta tình cờ đi ngang qua cửa sổ, thấy cô nương đang chải tóc liền vô cùng ngưỡng mộ trước vẻ kiều diễm của nàng. Ta tự hỏi không biết một kẻ lữ hành cô đơn như ta có thể ở lại bầu bạn tâm sự với nàng được chăng?” Nữ nhân lưỡng lự, nhìn Kiều Thái từ trên xuống dưới, vầng trán trắng muốt hơi nhăn lại. Đột nhiên ả mỉm cười đáp khẽ, “Thiếp đang chờ một người khác, nhưng đã quá giờ hẹn lâu rồi. Chàng cứ vào đi ạ.” “Thật không tiện cản trở cuộc hẹn của cô nương, để mai ta quay lại sau vậy.” Kiều Thái vội vàng nói. “Khách nhân của cô nương có thể đến bất cứ lúc nào, đúng là chỉ có kẻ ngốc mới không tới thôi.” Nữ nhân bật cười. Ả thật sự rất hấp dẫn. “Mời ngài vào,” nữ nhân nói. “Thiếp cũng rất thích diện mạo của ngài.” Kiều Thái theo kỹ nữ bước vào trong. “Mời ngồi.” Nữ nhân bẽn lẽn. “Thiếp sắp chải tóc xong rồi.” Ngồi xuống chiếc đôn sứ nhiều màu, Kiều Thái buồn bã nghĩ đáng lẽ y nên hẹn ả vào một tối khác thì hơn. Đây rõ ràng là một đào nương hạng nhất. Sàn nhà trải thảm dày màu lam, trên vách treo nhiều tranh gấm thêu, trường kỷ gỗ mun có khảm trai, chiếc đỉnh nhỏ trên bàn phấn bốc lên một làn khói mỏng, tỏa ra mùi hương trầm hảo hạng. Kiều Thái vân vê hàng ria mép, từ phía sau lặng ngắm nữ nhân với tấm lưng thon và cặp mông căng tròn, cánh tay trắng muốt duyên dáng đưa lên theo từng nhát lược, chải mái tóc dài bóng mượt. Một lúc sau, Kiều Thái mở lời, “Ta đoán một người mỹ miều như nàng hẳn phải mang một cái tên cũng yêu kiều không kém.” “Tên thiếp ư?” kỹ nữ hỏi lại, mỉm cười nhìn Kiều Thái qua gương. “Chàng có thể gọi thiếp là Thu Hồng.” “Quả là một cái tên hay!” Kiều Thái đáp. “Nhưng dù sao cũng không có cái tên nào có thể xứng với vẻ đẹp tuyệt sắc của nàng.” Nữ nhân quay lại mỉm cười hài lòng, ngồi xuống bên mép ghế, lấy từ cạnh bàn ra một chiếc quạt nhỏ vừa phe phẩy vừa nhìn Kiều Thái dò xét. Một lúc sau, ả nói, “Trông chàng thật cường tráng, khôi ngô dù hơi nhuốm vẻ phong trần. Áo choàng của chàng là loại rất có giá trị, nhưng lại được mặc không đúng kiểu cho lắm. Để thiếp thử đoán xem chàng là ai nhé. Chắc là một vị quan binh đang thi hành công vụ ư?” “Cũng gần đúng,” Kiều Thái đáp. “Quả thật là như vậy, để ta nói nàng hay, ta chỉ vừa mới đến trấn này.” Nữ nhân ngước đôi mắt to lấp lánh nhìn Kiều Thái hỏi, “Chàng có định lưu lại Mậu Bình lâu không?” “Ta chỉ định ở vài ngày. Hôm nay gặp nàng ở đây, ta ước mình có thể ở lại đây mãi mãi.” Nữ nhân đập nhẹ cây quạt vào chân Kiều Thái, cười hỏi, “Bây giờ trong quân đội lại dạy binh lính biết nói những lời hoa mỹ như vậy sao?” Ả nguýt Kiều Thái một cái dài, vô tình để lộ bộ ngực trắng ngần bên trong lớp áo. “Ái chà, đêm muộn rồi mà trời vẫn nóng quá!” Kiều Thái hơi nhích người. Sao tú bà vẫn chưa mang trà ra nhỉ? Cô nương đã đồng ý tiếp khách rồi, theo đúng quy ước trong chốn phong nguyệt, giờ là lúc y có thể ngã giá với tú bà được rồi… Kiều Thái hắng giọng ấp úng hỏi, “Ta có thể gặp… ma ma được không?” “Chàng muốn gặp ma ma làm gì?” nữ nhân nhướn mày hỏi. “À thì, ta có chút chuyện muốn nói với ma ma, nàng biết đấy…” “Nói chuyện với ma ma? Sao thế, quan gia không thích nói chuyện với thiếp nữa à?” “Đừng giỡn nữa nào,” Kiều Thái cười, “thì ta muốn trao đổi về… mấy chuyện cụ thể ấy.” “Chàng nói vậy là sao?” kỹ nữ hờn dỗi. “Trời ạ!” Kiều Thái nóng nảy thốt lên. “Hai ta đều không còn là trẻ con nữa mà? Ta muốn biết phải trả bao nhiêu tiền hay sẽ được vui vẻ bao lâu, đại loại thế!” Nữ nhân bật cười lớn, giấu nửa mặt sau cây quạt. Kiều Thái cũng bật cười theo, vẻ hơi bối rối. Cười xong, ả đáp, “Ma ma đang bị bệnh, chàng bàn ‘chuyện cụ thể’ với thiếp cũng được. Theo chàng thì sự hầu hạ của thiếp đáng giá bao nhiêu?” “Một vạn lượng vàng,” Kiều Thái rộng rãi đáp. “Chàng đáng yêu quá, lại còn là một nam nhân cường tráng nữa. Thiếp đoán thê tử của chàng ở nhà chắc chết mệt vì chàng ấy nhỉ,” nữ nhân tỏ vẻ hài lòng. “Hôm nay là một ngày đặc biệt. Chàng có thể ở lại đây với thiếp bao lâu tùy ý mà không phải bận tâm đến mấy ‘chuyện cụ thể’ đáng ghét kia. Thiếp cũng chỉ ở lại đây vài hôm thôi, nên lần tới chàng có đến thăm sẽ không tiện đâu. Nhưng chàng phải hứa rằng sau đêm nay, chàng sẽ không đến tìm thiếp nữa nhé?” “Nàng làm trái tim ta tan nát mất rồi nhưng ta xin hứa,” Kiều Thái đáp. Y thấy ghen tị với vị đại gia nào có thể đưa cô nương thú vị này theo cùng. Y đứng dậy đến ngồi cạnh bên nữ nhân, một tay choàng qua và kéo ả vào lòng hôn say đắm, tay kia lần cởi dây lưng áo… HỒI 8 Trong lén lút, Quân Sơn bày kế Mượn quan ấn, khiển tướng điều binh Kiều Thái tản bộ về tửu điếm Phượng Hoàng, vừa đi vừa ngâm nga hát. Trong sảnh không có ai ngoại trừ Cẩm Chướng với vẻ mặt ủ rũ đang lau sàn nhà. Cẩm Chướng hỏi, “Tú Tài đâu?” “Chắc đâu đây thôi,” Kiều Thái đáp, nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế mây cũ gần đấy. “Mau pha một ấm trà lớn đi, không phải cho ta mà cho lão gia của ta. Lão gia là một người nghiện trà đấy. Quân Sơn đã đến chưa?” Cẩm Chướng nhún vai, “Đến rồi, tên bần tiện ấy tìm ông, ta bảo là ông đã ra ngoài, gã nói lát nữa sẽ quay lại. Nói thật, ta từng ăn nằm với đủ loại nam nhân, nhưng với gã Quân Sơn đó thì có cho mười lạng vàng ta cũng không thèm.” “Ngươi có thể nhắm mắt vào mà.” “Không phải vì bản mặt xấu xí của gã mà bởi tên khốn ấy thích hành hạ người khác. Khéo có lúc nào đó gã cắt cổ ta cũng nên. Lúc đó thì có mười lạng vàng cũng để làm gì chứ?” “Thì mang nộp cho Diêm Vương chứ sao. Thôi đừng nói về Quân Sơn nữa. Thế còn ta thì sao, cô nương?” Cẩm Chướng tiến đến nhìn y một hồi, hít một hơi rồi khinh khỉnh đáp, “Ông á, tuần tới khi ông đã lại sức thì may ra. Vẻ tự mãn trên mặt cho thấy ông mới được thỏa mãn ngoài sự mong đợi, mà cũng khá tốn kém nữa, cứ dựa vào hương thơm vẫn còn trên người ông thì biết. Khéo ông chả còn đủ sức mà kéo váy ta lên chứ đừng nói đến chuyện khác.” Cẩm Chướng quay về phía nhà bếp. Kiều Thái cười hô hố. Y dựa lưng vào ghế, gác chân lên bàn làm một giấc, chả mấy chốc đã ngáy vang. Cẩm Chướng quay lại mang theo một bình trà lớn đặt lên bàn, ngáp một cái dài rồi đi về phía quầy ngồi xỉa răng. Lát sau, Cẩm Chướng ra mở cửa cho Địch Nhân Kiệt, lo lắng hỏi, “Tú Tài không quay về cùng với ông à?” Địch Nhân Kiệt nhìn ả đáp, “Ta bảo hắn đi làm một việc khác rồi.” “Hắn sẽ không gặp chuyện rắc rối gì chứ?” “Không đâu, dù là chuyện gì ta cũng có cách giải quyết. Trông ngươi cũng mệt rồi, nên nghỉ một chút đi. Chúng ta còn gặp nhau ở đây nhiều đấy.” Chờ Cẩm Chướng đi lên lầu, Địch Nhân Kiệt đánh thức Kiều Thái. Y ngỡ ngàng nhìn khuôn mặt hốc hác bơ phờ của Địch Nhân Kiệt, vội rót một chén trà lớn cho ông, lo lắng hỏi, “Đại nhân, đã xảy ra chuyện gì thế ạ?” Địch Nhân Kiệt kể lại việc khám xét tử thi và cuộc trò chuyện với Đặng tri huyện. Đoạn có tiếng gõ cửa khẽ khàng. Kiều Thái ra mở cửa, đối mặt vơi Quân Sơn, “Hừ, gã chột quái đản!” “Ít nhất thì ngươi cũng nên cảm tạ ta,” Quân Sơn lạnh lùng đáp. “Xin bái kiến Thẩm tiên sinh, ta đoán nơi ở mới của ngươi cũng khá được đấy chứ?” “Ngồi xuống đi,” Địch Nhân Kiệt nói. “Không sai, ngươi đã giúp bọn ta, giờ hãy nói xem vì sao ngươi lại làm thế?” “Thú thật, ta chẳng quan tâm việc các ngươi có bị bắt hay bị chặt đầu giữa pháp trường, nhưng tình cờ ta còn có việc cần các ngươi giúp, mà phải khẩn trương lên mới được. Hãy nghe đây, ta là đạo tặc có nghề và kinh nghiệm nhất huyện này, hành nghề suốt hơn ba mươi năm qua mà chưa từng bị tóm lần nào. Tuy vậy ta lại không có đủ sức, cũng chưa từng có ý định rèn luyện sức lực làm gì. Việc thượng cẳng chân hạ cẳng tay thật tầm thường. Nhưng giờ có một vụ cần động thủ tay chân. Ta đã quan sát hai người các ngươi rất kỹ. Chắc chắn các ngươi thích hợp với vụ này. Phần kiếm được dù không muốn nhưng ta sẽ chia chác cho các ngươi. Vì ta đã giải quyết hết các sự vụ khó khăn ban đầu, vả cũng không có mấy rủi ro, ta cho là các ngươi hãy nên bằng lòng với phần chia khiêm tốn của mình.” “Nói thẳng thì,” Kiều Thái ngắt lời, “phần nguy hiểm bọn ta lãnh hết mà ngươi đòi nẫng hết tay trên sao? Phần chia khiêm tốn ư? Không thể được, phải nhiều hơn chứ, đồ dơ dáy nhát chết kia!” Mặt Quân Sơn tái lại, lời vừa rồi đã chọc đúng điểm nhột của gã. Gã nham hiểm nói, “Cường tráng mới dễ đóng vai anh hùng thay! Ngươi tưởng mình đang là quân tử đứng trước mỹ nhân sao? Đêm nay ta đã nghĩ nếu ngươi cứ sùng sục như thế chắc cái trường kỷ sẽ sập mất. Một thi sĩ đã viết, ‘Mưa móc dập vùi cánh hồng thu’.” Kiều Thái bật dậy tóm cổ Quân Sơn, quăng gã xuống sàn. Y đè gối lên ngực Quân Sơn, hai tay bóp cổ gã, gầm lên, “Tên hèn hạ bỉ ổi kia! Ngươi theo dõi ta đấy à? Ta phải bẻ gãy cái cổ chó nhà ngươi!” Địch Nhân Kiệt vội vươn tay nắm lấy vai Kiều Thái. “Thả gã ra,” ông ra lệnh, “ta muốn nghe gã nói hết.” Kiều Thái đứng dậy, Quân Sơn đầu va xuống sàn. Gã nằm im một lúc, hơi thở khò khè, cổ thâm tím. Kiều Thái sa sầm mặt tức giận, nặng nề ngồi xuống cạnh Địch Nhân Kiệt. “Hồi tối thuộc hạ có gặp gỡ một kỹ nữ. Con chuột nhắt này đã theo dõi chúng ta!” “Ta nghĩ ngươi nên kiểm soát sự phong lưu của mình kín kẽ hơn. Dù sao ta cũng không thể để chuyện này ảnh hưởng đến việc điều tra được. Mau giội nước cho hắn tỉnh lại.” Kiều Thái lấy bình nước lớn giội vào đầu Quân Sơn. “Chắc phải mất một lúc nữa gã súc sinh này mới tỉnh dậy.” “Ngồi xuống đi. Để ta kể nốt cho ngươi chuyện ở Đặng phủ,” Địch Nhân Kiệt nói. Sau khi nghe Địch Nhân Kiệt thuật hết chuyện về bức tứ bình phong, Kiều Thái đã hết bực, háo hức thốt lên, “Đại nhân, thật quả là một câu chuyện đáng kinh ngạc!” Địch Nhân Kiệt gật đầu. “Ta không muốn nói với Đặng đại nhân rằng phu nhân của ông ấy bị người ngoài sát hại. Hơn nữa, ta còn phát hiện Đặng phu nhân đã bị cưỡng bức. Ta không muốn Đặng tri huyện phải buồn phiền thêm nữa.” “Nhưng chẳng phải ngài nói là vẻ mặt tử thi trông hoàn toàn bình thản đó sao?” Kiều Thái hỏi. “Nếu bị cưỡng bức, thiết nghĩ nữ nhân sẽ tỉnh dậy ngay và phản kháng chứ?” “Đó chỉ là một trong nhiều điểm khúc mắc của vụ án kỳ lạ này.” Địch Nhân Kiệt nhắc, “Cẩn thận đấy, Quân Sơn sắp tỉnh lại kìa.” Kiều Thái kéo gã chột dậy rồi đặt xuống ngồi trên chiếc ghế mây. Quân Sơn dò dẫm đón lấy chén trà, khó nhọc uống từng ngụm nhỏ, gằn giọng với Kiều Thái, “Ta sẽ bắt đồ súc sinh nhà ngươi phải trả giá cho việc này.” “Bất cứ lúc nào phụng bồi* phụng bồi nghĩa là ‘đón tiếp’. ,” Kiều Thái đáp. Quân Sơn ném cho Kiều Thái cái nhìn hiểm ác từ con mắt còn lại, nhếch mép nói, “Ngươi còn chẳng biết mình đã bị mụ quả phụ đó cho ăn quả lừa nhỉ, đúng là đồ ngốc!” “Quả phụ?” Kiều Thái thốt lên. “Đương nhiên rồi, chồng mụ lại còn mới chết nữa chứ. Tên ngốc nhà ngươi đã mò đến cửa ngách nhà Kha Hưng Nguyên, lão chủ phường lụa mới tự sát hôm qua. Mụ quả phụ kia chuyển từ buồng ngủ chính sang buồng ngủ nhỏ bên tả để bày tỏ lòng thương tiếc phu quân. Nhưng ngươi, một kẻ tưởng như ‘kinh nghiệm đầy mình’ lại nhầm lẫn mụ với một kỹ nữ.” Mặt Kiều Thái đỏ bừng xấu hổ. Y muốn nói gì đó nhưng không thốt nên lời, miệng chỉ lầm rầm vài tiếng. Địch Nhân Kiệt thương cảm nhìn y, nói nhanh, “Cũng có thể đức hạnh của thê tử có liên quan đến cái chết của lão Kha.” Quân Sơn thấy cổ họng đã khá hơn, gã uống cạn chén trà rồi nói, “Nữ nhân vốn làm gì có đức hạnh, thê tử của lão Kha cũng không phải ngoại lệ. Hơn nữa, phi vụ làm ăn giữa chúng ta cũng có liên quan đến phường lụa của lão Kha. Các ngươi nghe kỹ đây, ta sẽ nói ngắn gọn thôi. Ta tình cờ có được cuốn sổ ghi chép của Lương Chiến, một chưởng quỹ ngân hàng nổi tiếng vùng này, là người hùn vốn và cũng là quân sư tài chính cho Kha Hưng Nguyên. Ta cũng khá thạo về các vấn đề tiền bạc, nên sớm nhận thấy cuốn sổ ghi chép kia là những bí mật của Lương Chiến mỗi lần qua mặt lão Kha trong hai năm qua. Hắn làm giả sổ sách, bằng cách đó đã ăn chặn được số tiền không nhỏ, khoảng một nghìn lượng gì đấy.” “Ngươi lấy được cuốn sổ đó bằng cách nào?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Những thứ như thế một chưởng quỹ ngân hàng thường phải giấu kỹ chứ?” “Đó không phải là việc của ngươi!” Quân Sơn vặc lại. “Giờ các ngươi xem đây, ta…” “Chờ đã!” Địch Nhân Kiệt ngắt lời. “Ta đây cũng là một người ham thích các vấn đề liên quan đến ngân quỹ. Cũng vì thế mà ta phải vội vàng bỏ trốn khỏi chức bộ đầu tại Bồng Lai. Phải là một thuật sĩ mới có thể lấy được những thông tin giao dịch buôn bán phức tạp và bí mật như vậy. Huynh đệ, ngươi nên nghĩ ra một câu chuyện khác hợp lý hơn.” Quân Sơn ngờ vực nhìn Địch Nhân Kiệt. “Đúng là gian tặc giảo hoạt! Nếu ngươi đã khăng khăng muốn biết thì được thôi, ta sẽ nói cho ngươi hay. Ta đã lẻn vào dinh thự của lão Kha vài lần, đương nhiên là lão không biết. Ta mò mẫm trong hòm đựng ngân lượng của lão, tìm thấy hai trăm lượng vàng lão để dành như một khoản dự phòng khi cấp bách, mà giờ thì đấy là khoản dự phòng của ta. Trong hòm, ta cũng tìm thấy những ghi chép, đơn phiếu, khế ước đủ thứ dính dáng tới chuyện làm ăn buôn bán của lão, chúng giúp ta suy đoán ra cuốn sổ bí mật của Lương Chiến. Thế được chưa?” “Ta hiểu rồi.” Địch Nhân Kiệt nói. “Tiếp tục đi.” Quân Sơn lấy trong tay áo ra một tờ giấy nhỏ, cẩn thận vuốt phẳng phiu, đặt lên bàn nói, “Đây là một tờ ta xé ra từ cuốn sổ kia. Sáng mai các ngươi hãy đến gặp Lương Chiến, cho hắn xem mẩu giấy này, bảo rằng các ngươi đã biết hết mọi chuyện. Ngươi bắt hắn viết hai tấm ngân phiếu để trống tên người nhận, một tấm sáu trăm năm mươi lượng, một tấm năm mươi lượng. Vố này sẽ lấy mất của hắn kha khá, chỉ để lại cho hắn khoảng ba trăm lượng vàng. Ta định sẽ lấy tất cả một nghìn lượng, nhưng bí kíp của việc tống tiền là phải chừa cho nạn nhân một con đường, không nên dồn hắn vào tuyệt lộ. Tấm ngân phiếu sáu trăm năm mươi lượng các ngươi giao lại cho ta, còn tấm năm mươi lượng kia thuộc về các ngươi. Thỏa thuận thế nhé?” Địch Nhân Kiệt nhìn chằm chằm Quân Sơn, chầm chậm vuốt chòm râu nói, “Vị huynh đệ này của ta tuy có hơi thẳng tính, nhưng những gì y nói hoàn toàn chính xác. Ta tin ngươi là một bậc thầy trong nghề đào tường khoét vách, nhưng ngươi không đủ dũng khí thực hiện những phi vụ cần phải lộ diện. Ngươi biết rõ bản thân không bao giờ dám đến gặp chưởng quỹ ngân hàng để tống tiền hắn, phải không?” Quân Sơn vặn vẹo mình trong chiếc ghế mây, cáu tiết hỏi, “Tóm lại các ngươi có thỏa thuận hay không?” Địch Nhân Kiệt cầm tờ giấy nhét vào tay áo, đáp, “Có, nhưng tiền chia đều. Ngươi nên nhớ rằng, với tờ giấy này, chúng ta có thể tống tiền Lương Chiến mà không cần đến ngươi hay cuốn sổ kia. Cớ gì bọn ta không lấy cả số tiền mà lại phải chia cho ngươi?” “Đúng vậy, sao phải chia cho ngươi?” Kiều Thái cười khoái chí. “Hà cớ gì ta lại không đi báo quan tóm hai tên cướp đường các ngươi chứ?” Quân Sơn tức giận hỏi. “Vì ngươi không có gan làm điều đó.” Địch Nhân Kiệt bình thản đáp. “Ngươi tự quyết định đi.” Quân Sơn hằn học nhìn Địch Nhân Kiệt, hai tay xoa bên má đang giật giật liên tục vì căng thẳng. Cuối cùng gã nói, “Thôi được. Chia đều thì chia.” “Quyết định vậy đi.” Địch Nhân Kiệt hài lòng. “Ta sẽ đến tìm Lương Chiến ngay sáng mai. Hắn ở chỗ nào?” Quân Sơn mô tả cho Địch Nhân Kiệt vị trí tiệm bạc của Lương Chiến, cũng là nơi hắn kinh doanh ngân hàng. Gã đứng dậy định rời đi, nhưng bị Địch Nhân Kiệt kéo lại niềm nở, “Vẫn còn sớm, hãy uống vài chén mừng cho sự hợp tác của chúng ta đã.” Đoạn ông quay sang Kiều Thái. “Mau ra sau quầy mang hũ rượu của Bài Quân ra đây.” Kiều Thái rời bàn, băn khoăn không hiểu sao Địch Nhân Kiệt dù đang mệt mỏi rã rời giống y mà vẫn muốn tiếp chuyện với gã súc sinh kia. Y thấy tiểu nhị đang nằm ngủ gục giữa quầy, phía kệ trên cùng là hũ rượu của Bài Quân. Y cầm lấy mang ra bàn. Rượu đã được rót đầy chén, Địch Nhân Kiệt mân mê chòm râu nói, “Quân Sơn, có thể ngươi là một bậc thầy đạo chích, nhưng mấy trò vặt vãnh đó còn lâu mới sánh được với những việc chúng ta đã làm. Để ta kể cho ngươi nghe một vài phi vụ. Ngươi biết không, hồi ở Từ châu, bọn ta…” “Ta không có hứng thú nghe chuyện của ngươi!” Quân Sơn ngắt lời. “Việc các ngươi làm hoàn toàn dựa vào chân tay võ biền, việc của ta mới là dùng đầu óc. Phải mất khá nhiều năm mới có thể thành đạo tặc có nghề được.” “Nhảm nhí!” Địch Nhân Kiệt thốt lên. “Đến ta thậm chí cũng có thể mở khóa cửa từ bên ngoài. Một khi đã vào được bên trong nhà rồi, ngươi sẽ khống chế chủ nhà, rồi nhã nhặn hỏi xem họ để của báu ở đâu rồi lấy thôi. Chả có gì là khó cả.” “Chính ngươi mới là đồ vớ vẩn,” Quân Sơn tức giận đáp. “Phương pháp của ngươi thật quá tầm thường và ngu ngốc. Ngươi có thể thành công một, hai lần, nhưng tai tiếng sẽ lan nhanh và thế là ngươi bị bắt. Ta có phương pháp của riêng ta, đã được tôi luyện suốt ba mươi năm qua mà chưa từng bị tóm lần nào, dù ta có hoạt động thường xuyên trong trấn này suốt bao năm liền.” Địch Nhân Kiệt nháy mắt với Kiều Thái. “Gã này lại ba hoa khoác lác đấy nhỉ?” Ông hỏi. “Có hẳn phương pháp bí truyền, mà sư phụ lại chỉ truyền cho đồ đệ vào ngày thứ chín của tuần trăng cơ đấy.” “Các ngươi đúng là một cặp du côn thô lỗ! Có cho các ngươi biết tuyệt chiêu cũng chả ăn nhằm gì. Các ngươi sẽ chả bao giờ học theo ta được đâu,” Quân Sơn khinh khỉnh nói. “Đầu tiên ta do thám căn nhà trong vài tuần, tìm hiểu những người sống ở đó và thói quen của họ. Ta bắt chuyện với bọn gia nhân, những người trông coi quán xá lân cận, thỉnh thoảng mua vài món đồ. Rồi ta đột nhập vào nhà, nhưng không lấy thứ gì. Ta có khá nhiều thời gian. Ta đã quan sát toàn bộ căn nhà. Ta có thể nấp trong tủ vài canh giờ hay đứng im sau rèm cửa, cuộn mình nấp trong rương quần áo, hoặc nấp sau khe giường. Như vậy ta nắm được hết những người sống trong nhà đi lại, ăn uống, ngủ nghê như thế nào; nghe chúng nói chuyện, bàn bạc; theo dõi những việc chúng làm khi chúng nghĩ rằng chỉ có một mình. Cuối cùng ta đánh cú chót, không cần phá khóa cửa, không cần lục tung đồ đạc, không làm phiền ai, không thứ gì bị xáo trộn. Nếu có chỗ nào giấu tiền bí mật thì ta là người biết rõ thậm chí còn hơn chính chủ nhân của nó. Nếu có một hòm đựng ngân lượng thì ta biết đích xác chỗ giấu chìa khóa ở đâu. Không ai nhìn hay nghe thấy ta. Thường thì nhiều ngày sau bọn chúng mới phát hiện ra tiền đã bị mất. Và chúng còn không nghĩ là đã có kẻ trộm. Thế là phu nghi thê, thê nghi nô bộc… Ta e rằng chính mình đã gây ra không ít hiểu lầm và lục đục cho khá nhiều gia đình.” """