"
Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám
Ebooks
Nhóm Zalo
Robert van Gulik
ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #17
QUẢNG CHÂU ÁNMurder in Canton (1966) Tùng Vũ dịch
dựa theo bản in
của NXB Văn học, 2019
NHÂN VẬT
CÁC NHÂN VẬT CHÍNH
ĐỊCH NHÂN KIỆT: Đại lý tự khanh*. Ông thường được gọi là "Địch Công". Trong tiểu thuyết này, ông đang tuần sát Quảng Châu* vào mùa hè năm 680 sau Công nguyên.
KIỀU THÁI: trợ thủ của Địch Công, Tả Quả nghị Đô úy. ĐÀO CAM: trợ thủ của Địch Công, Trưởng sử của Đại lý tự. CÁC NHÂN VẬT KHÁC
ÔN KHẢN: Đô đốc* Lĩnh Nam.
BẢO KHOAN: Thứ sử* Quảng Châu.
LIỄU ĐẠO VIỄN: Ngự sử Đại phu*.
TÔ CHỦ SỰ: tùy tùng của Liễu Đạo Viễn.
CHÂU MỘC NÔ: vũ nữ người Đại Thực*.
MÃN TỐC NHI: thủ lĩnh cộng đồng Đại Thực ở Quảng Châu. LƯƠNG PHỔ: một thương nhân nổi danh.
DIÊU THÁI KHAI: một thương nhân giàu có.
LAN LỴ: một thiếu nữ mù.
NGHÊ THIÊN TẾ: một thuyền trưởng.
ĐINH DA, ĐAN NẠP: tỳ nữ của Nghê Thiên Tế.
Quan viên đứng đầu Đại lý tự, cơ quan có nhiệm vụ xét lại những án nặng đã xử rồi gửi kết quả cuộc điều tra qua Bộ Hình để đệ tâu lên
Hoàng đế xin quyết định.
Thủ phủ của Lĩnh Nam đạo dưới thời Đường. Nay là thành phố Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông.
Chức quan quản lý quân sự và dân chính các châu, quận trong một đạo.
Chức quan đứng đầu một châu, dưới quyền Đô đốc.
Chức quan chuyên giám sát, can gián, kiểm soát các quan trong triều đình.
Đại Thực (750-1258): Một vương triều Hồi giáo Ả Rập do các Khalip (vua Hồi) của nhà A Bạt Tư (Abbas) cai trị sau khi lật đổ chính quyền của nhà Uy Mã Á (Omeyyad).
CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN
Vụ án NGỰ SỬ ĐẠI PHU
Vụ án VŨ NỮ LỤC BẢO
Vụ án ĐÔI TÌNH NHÂN BÍ MẬT
BẢN ĐỒ THÀNH QUẢNG CHÂU
1. Đô đốc phủ; 2.Nha môn Quảng Châu; 3. Khảo thí đường; 4. Chiết xung phủ; 5. Chợ; 6. Miếu Quan Đế; 7. Miếu Khổng Tử; 8. Cửa Đại Nam; 9. Thị bạc ty; 10. Chùa Quang Hiếu; 11. Chùa Hoa Tháp; 12. Chùa Hoài Thánh; 13. Miếu Ngũ Tiên; 14. Cửa Quy Đức; 15. Mã Đầu tửu điếm; 16. Ngũ Tiên
lữ điếm; 17. Nơi trọ của Đào Cam; 18. Dịch quán Đại Thực Hải Viên; 19. Lương phủ; 20. Tư gia của Nghê Thiên Tế; 21. Tư gia của Diêu Thái Khai; 22. Dinh phủ của Bảo Khoan; 23. Chùa Thanh Chân; 24. Sông Châu Giang
HỒI 1
Tại bến thuyền, Đào Cam thổ lộ tâm tư
Nơi tửu điếm, Kiều Thái kết giao bằng hữu
Hai nam nhân đứng trong góc phòng Thị bạc ty* lặng lẽ quan sát bến thuyền ảm đạm, dài hun hút. Kẻ luống tuổi hơn có dáng người mảnh khảnh, gầy nhom, khoác trên mình một tấm áo chẽn da dê cũ kĩ, kín mít từ đầu đến chân. Kẻ còn lại, một nam nhân lực lưỡng trông thật khôi ngô tuấn tú ở độ tuổi vãn tứ tuần, vận bộ y phục nâu sẫm và áo choàng cùng màu vá chằng vá đụp. Đương lúc họ đứng đó, màn sương mù oi ả và ẩm ướt hóa thành cơn mưa phùn ấm áp, làm ướt lớp nhung mòn vẹt trên những chiếc mũ đen họ đội. Trời vẫn đứng gió dù đã gần sập tối và không hề có dấu hiệu của một cơn gió đêm mát mẻ nào.
Cơ quan phụ trách thương nghiệp mậu dịch đường biển.
Một tá phu khuân vác lưng trần đang dỡ hàng xuống từ một con thuyền ngoại quốc vốn được neo đậu phía xa dọc theo bến thuyền tại bờ sông, đối diện cánh cổng hình vòm của Thị bạc ty. Oằn lưng dưới những kiện hàng nặng nề, họ lê bước xuống bến thuyền theo giai điệu ảm đạm lê thê của một khúc hát. Bốn tên lính gác đang đứng tại cổng đẩy những chiếc mũ sắt chóp nhọn ra khỏi vầng trán nhễ nhại mồ hôi. Họ nặng nề tựa lưng vào cây trường kích của mình, theo dõi công việc với đôi mắt chán ngán.
“Nhìn kìa! Con thuyền đã chở chúng ta xuôi dòng hồi sáng nay đang chạy đến kìa!” Nam nhân đứng tuổi la lên. Y chỉ tay vào khối đen đen thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương mù. Nó xuất hiện ở phía bên kia cột buồm một con thuyền đang thả neo cạnh con thuyền ngoại quốc. Chiếc thuyền đen kịt đang được chèo lái băng băng đến cửa sông Châu Giang với tốc độ kinh hoàng. Tiếng chiêng đồng lanh lảnh khua vang cảnh báo các thuyền nhỏ của những người bán rong trên sông.
“Với thời tiết thuận lợi thế này, họ sẽ đến phía Nam sớm thôi!” Bằng hữu vai u thịt bắp của y cộc cằn nói. “Chắc chắn có nhiều trận thủy chiến lớn xảy ra ở đó. Nhưng ta và huynh lại phải chôn chân ở tại hậu phương, trong thành trấn hoang vắng đìu hiu này, nhận lãnh mệnh lệnh đi đánh giá tình hình! Chết tiệt, mồ hôi lại chảy ròng ròng xuống cổ ta. Cứ như cái nóng trời đánh thánh vật này chưa vắt đủ hết mồ hôi của ta vậy!”
Y kéo cổ áo khoác sát hơn vào cổ mình, đồng thời cẩn thận che giấu chiếc áo giáp được kết bằng những vòng kim loại mà mình đang mặc bên trong cùng với tấm kim bài Quả nghị Đô úy, là một tấm lệnh bài tròn chạm hình song long kim huy. Rồi y gắt gỏng hỏi, “Huynh biết tất cả mọi chuyện là thế nào chứ, Đào huynh?”
Nam nhân gầy còm buồn bã lắc mái đầu hoa râm của mình. Giật mạnh ba sợi lông dài nhú ra từ nốt ruồi trên má, y chậm rãi đáp lời:
“Đại nhân không hề hé lộ với ta điều gì cả, Kiều đệ. Dù vậy, chuyện này ắt hẳn rất quan trọng. Nếu không thì ngài sẽ chẳng phải rời kinh thành quá đột ngột như vậy để cấp bách xuống đây cùng chúng ta, ban đầu là đại nhân cưỡi ngựa, rồi sau chuyển qua đi bằng thuyền nhẹ lướt gió di chuyển nhanh. Chắc chắn có vấn đề gì đó đang được trù tính tại nơi đây, ở Quảng Châu này. Từ khi chúng ta tới nơi vào sáng nay, ta đã…”
Một tiếng vỗ nước lớn vang lên ngắt lời y. Hai phu khuân vác đã để rơi một kiện hàng xuống dải nước bùn giữa con thuyền và bến thuyền. Một tên vấn khăn trắng trên đầu nhảy xuống từ boong thuyền và bắt đầu đá vào đám phu khuân vác, la mắng chúng bằng thứ tiếng ngoại quốc. Đám lính gác của Thị bạc ty đang lừ đừ buồn chán bỗng chợt bừng tỉnh. Một tên bước về phía trước, xoay nhanh thanh kích và dùng mặt lưỡi dẹp của nó đánh vào vai tên Đại Thực đang chửi rủa kia.
“Không được chạm vào người của bọn ta, tên súc sinh!” Gã lính gác quát ầm lên. “Nhà ngươi đang ở lãnh thổ Đại Đường, nhớ đó!”
Tên Đại Thực nắm chặt cán dao găm giắt trong chiếc dây đai đỏ của hắn. Một tá nam nhân mặc áo choàng trắng nhảy từ con thuyền xuống, rút những thanh loan đao* ra. Khi bọn phu khuân vác vứt bỏ các kiện hàng xuống và nháo nhào tháo chạy, bốn tên lính gác chĩa mũi kích hướng về phía những gã thủy thủ đang chửi bới. Đột nhiên có tiếng giày sắt vang trên nền đá cuội. Hai mươi binh sĩ đang hành quân băng qua cổng của Thị bạc ty. Như vẫn luyện tập bấy lâu nay, họ dễ dàng bao vây đám người Đại Thực đang giận dữ và chĩa mũi giáo dồn chúng lùi lại sát mép bến thuyền. Một tên Đại Thực có vóc dáng mảnh khảnh, cao lênh khênh với chiếc mũi khoằm đang đứng tựa vào lan can bắt đầu hô hào đám thủy thủ bằng giọng the thé. Chúng tra gươm vào vỏ và leo trở lại sàn thuyền. Các phu khuân vác, cũng trở lại công việc như chưa có gì xảy ra.
Loại vũ khí ngắn hơn kiếm và dài hơn dao găm, có lưỡi cong hình cung, chủ yếu do người Hồ sử dụng.
“Có khoảng bao nhiêu tên cặn bã xấc xược như thế trong thành này vậy?” Đô úy hỏi.
“Chà, chúng ta đếm được bốn chiếc thuyền đang neo tại cảng, đúng không? Thêm hai chiếc nữa nằm ở cửa sông chuẩn bị khởi hành sang các nước ngoại bang. Cộng thêm đám Đại Thực trên bờ, là đệ có hai ngàn tên, ta cho là vậy. Và khách điếm tồi tàn của đệ lại nằm ngay giữa khu phố của người Hồ*! Rất dễ nhận phải nhát dao đâm lén sau lưng lúc màn đêm xuống! Khách điếm của ta cũng chẳng hay ho gì, nhưng lại ở ngay bên ngoài cổng thành phía Nam, ít nhất thì lính gác cũng nghe thấy tiếng ta gọi.”
Từ dùng để chỉ các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á. “Ở đó huynh thuê phòng nào?”
“Gian phòng trong góc trên lầu hai, từ vị trí đó ta có tầm nhìn tốt để quan sát bến thuyền theo mệnh lệnh được giao. À, mà đệ có thấy là chúng ta lảng vảng ở đây cũng lâu rồi không? Cơn mưa phùn đang ngày càng nặng hạt. Chúng ta hãy đi nếm thử món ăn ở đằng kia xem.”
Y chỉ tay về phía cuối bến thuyền, nơi có một bóng người đang thắp sáng ngọn đèn lồng đỏ của tửu điếm.
“Ta sẽ uống đôi chút!” Kiều Thái khẽ nói. “Chưa bao giờ đệ thấy nơi nào ảm đạm như thế này! Và ta cũng chẳng thể nói được ngôn ngữ ở đây.”
Vội vã bước về phía thảm đá cuội trơn trượt, họ không mảy may để ý đến một nam nhân râu ria xồm xoàm, ăn vận xoàng xĩnh vừa rời khỏi nhà kho nằm ở phía xa dọc theo bến thuyền mà hắn đang trú ẩn và đi theo họ.
Đến cuối bến thuyền, Kiều Thái trông thấy một cây cầu bắc qua chiến hào nằm kế bên cửa Quy Đức đang đông đúc bách tính qua lại. Khoác trên mình những tấm áo đi mưa bằng rơm, họ hối hả lao về phía trước, mỗi người chỉ mải mê chú tâm đến công việc của mình.
“Chẳng ai dành thời gian nhàn tản để la cà quanh đây làm gì.” Y càu nhàu.
“Đó là lý do tại sao họ có thể biến Quảng Châu thành trấn cảng giàu nhất miền Nam!” Đào Cam bình phẩm. “Chúng ta tới rồi!”
Y kéo tấm màn cửa vá víu qua một bên và họ tiến vào một tửu điếm lờ mờ tối, trông như một hang động. Mùi tỏi để lâu ngày và mùi cá muối xộc vào mũi họ. Những ngọn đèn dầu tỏa khói đung đưa qua lại trên các xà nhà thấp lè tè, chiếu ánh sáng mập mờ xuống vài chục vị khách bên dưới. Họ đang túm tụm lại thành từng nhóm từ bốn đến năm người, ngồi quanh những chiếc bàn nhỏ. Họ mải mê thì thầm to nhỏ với nhau, có vẻ chẳng ai mảy may chú ý tới hai kẻ mới đến.
Khi hai người đã an tọa tại một bàn trống gần cửa sổ, gã nam nhân râu ria vốn theo dõi họ nãy giờ bước vào. Hắn đi thẳng một mạch tới phía sau, đến bên quầy gỗ mòn vẹt tơi tả. Tại đó gã chưởng quỹ* đang hâm nóng những vò rượu thiếc trong một chậu nước sôi.
Chủ hiệu buôn.
Đào Cam lưu loát dùng tiếng Quảng Châu bảo tiểu nhị mang cho họ hai vò rượu lớn. Trong lúc chờ đợi, Kiều Thái chống cùi chỏ lên mặt bàn nhờn mỡ, ủ rũ đưa mắt dò xét các vị khách.
“Thật đông đúc!” Một hồi sau, y lầm bầm. “Huynh thấy tên lùn kinh tởm đằng kia không? Không hiểu sao Kiều mỗ có thể bỏ qua gã ngớ ngẩn xấu xí đó khi bước vào chứ!”
Đào Cam ngó nhìn nam nhân lùn bè bè đang ngồi trơ trọi một mình tại chiếc bàn gần cửa sổ. Hắn có khuôn mặt phẳng lì, ngăm đen cùng vầng trán nhăn nheo thấp tịt và một cái mũi to bạnh. Cặp mắt nhỏ và trũng sâu nằm dưới hàng chân mày lởm chởm. Đôi bàn tay to lớn, lông lá của hắn siết chặt quanh chiếc chén rỗng.
“Kẻ duy nhất có ngoại hình đường hoàng chính là người ở bàn bên!” Đào Cam thầm thì. “Hắn trông như một cao thủ võ lâm.” Y hất cằm về phía một nam nhân vai rộng đang lẳng lặng ngồi một mình ở bàn bên. Hắn mặc một tấm áo choàng gọn ghẽ màu xanh lam sẫm, thắt chặt dây đai đen tuyền quanh eo lưng mảnh khảnh. Đôi mắt sụp mí khiến gương mặt rám nắng khôi ngô của hắn vương nét buồn ngủ. Hắn đang nhìn trừng trừng vào khoảng không, dường như lãng quên thế sự xung quanh.
Tên tiểu nhị nhếch nhác đặt hai vò rượu lớn xuống trước mặt họ. Sau đó, y quay trở lại quầy thu ngân. Rõ ràng là y cố tình làm lơ tên lùn đang vẫy chén rượu cạn với mình.
Kiều Thái hớp một ngụm, có vẻ khá ngờ vực. “Cũng không tệ chút nào!” Y thốt lên, vẻ ngạc nhiên thú vị. Kiều Thái uống cạn chén rượu, đoạn rót thêm, “Khá ngon, thực đó!” Y uống chén thứ hai trong một hớp dài. Đào Cam cũng làm theo, đoạn cười sảng khoái.
Nam nhân râu ria xồm xoàm đứng tại quầy thu ngân đã quan sát họ nãy giờ. Hắn đếm số chén họ uống. Khi thấy hai bằng hữu bắt đầu một tuần rượu nữa, đến chén thứ sáu, hắn dợm chân định rời khỏi quầy. Nhưng khi mắt hắn chạm phải tên lùn thì hắn liền khựng lại.
Gã đại hán ngồi tại bàn kế bên vốn đang dõi theo cả nam nhân râu rậm lẫn tên lùn qua khóe mắt sụp mí, giờ đây đã ngồi thẳng dậy. Hắn trầm ngâm vuốt chòm râu quai nón ngắn ngủn được cắt tỉa gọn gàng.
Kiều Thái đặt chén rượu trống rỗng xuống. Y vỗ bàn tay to bản lên bờ vai xương xẩu của vị bằng hữu và nói với một nụ cười nhăn nhở:
“Ta không thích ở thành này, chẳng chịu nổi thứ thời tiết oi bức chết tiệt, càng không ưa các tửu điếm hôi thối ở đây. Nhưng ơn trời là có hảo tửu, dù sao thì cũng thật vui khi đi ra ngoài để thực thi công vụ. Còn huynh thì sao, Đào huynh?”
“Ta cũng phát ngán chốn kinh thành rồi.” Đào Cam đáp. “Cẩn thận, kim bài của đệ lộ ra kìa.”
Kiều Thái kéo hai vạt áo lại. Nhưng nam nhân râu rậm tại quầy đã thoáng thấy tấm kim bài, môi hắn cong lên một nụ cười thỏa mãn. Sau đó, mặt hắn lại xịu xuống khi trông thấy một tên Đại Thực chít khăn xanh với con mắt trái bị lác bước vào để nhập bọn cùng tên
lùn. Nam nhân râu rậm quay lại quầy và ra hiệu cho chủ quán rót rượu vào chén của hắn.
“Trời cao chứng giám, ta không phù hợp với chức Đô úy phô trương chút nào!” Kiều Thái vừa rót đầy lại chén rượu của mình vừa kêu lên. “Bây giờ cũng đã bốn năm trôi qua rồi, huynh nhớ chứ! Huynh nên xem qua chiếc giường mà đáng lẽ ta phải ngủ trên đó! Gối lụa, khăn trải giường cũng bằng lụa và màn cửa bằng gấm thêu kim tuyến! Chúng khiến ta cảm thấy mình như một kỹ nữ tuổi hoa vậy! Huynh biết ta làm gì mỗi khi đêm xuống không? Ta lôi manh chiếu sậy giấu sau giường ra, trải xuống nền nhà và đặt mình xuống đó ngủ một giấc ngon lành! Chỉ phiền một nỗi là mỗi sáng ta phải vò nhàu chăn gối trên giường một chút, để giữ thể diện trước đám nô bộc, huynh hiểu không!”
Kiều Thái cười ha hả đầy hào sảng. Đào Cam cũng thế. Trong lúc tâm trạng sảng khoái, họ không nhận ra tiếng cười của mình quá lớn. Cuộc trò chuyện dừng lại; đám khách mặt mũi sưng sỉa, im lặng
nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Tên lùn đang giận dữ quát mắng tên tiểu nhị đứng khoanh tay trước bàn. Đại hán kia cũng dõi theo họ, rồi lại hướng ánh nhìn chằm chằm về phía nam nhân đứng cạnh quầy.
“Còn ta”, Đào Cam vừa nói vừa cười toe toét đầy ranh mãnh, “tối nay ta có thể bình yên mà ngủ ngon lành trên căn gác mái nhỏ bé. Ta không cần phải xua đuổi mấy tỳ nữ trẻ trung mà tên quản gia đem đến. Gã vô lại ấy vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó sẽ bán được cho ta một ả về làm thiếp!”
“Sao huynh không bảo tên khốn ấy thôi giở cái trò vô vị đó nữa? Đây, cạn thêm một chén nào!”
“Làm vậy sẽ tiết kiệm ngân lượng, bằng hữu à! Đám tiện nữ đó đến làm việc không công, mong muốn tóm được gã độc thân già nua giàu có này, đệ hiểu không!” Đào Cam uống cạn chén, rồi lại rót vào, “May sao ta và Kiều đệ đây không phải là loại nam nhân thích thành gia lập thất! Không như vị bằng hữu Mã Vinh của chúng ta!”
“Đừng đề cập đến gã khốn khổ ấy nữa!” Kiều Thái la lên. “Nghĩ mà xem, sau khi cưới hai tỷ muội song sinh từ bốn năm trước, giờ y đã có đến sáu nhi tử và hai nhi nữ! Điều đó đã khiến niềm hoan lạc của một đấng nam nhi bị hạ thấp thành những công việc lao tâm khổ tứ! Dạo này y còn ngại chẳng dám về nhà khi say xỉn. Huynh có…”
Y bất chợt ngưng bặt, kinh ngạc nhìn ra phía vụ lùm xùm gần cửa quán. Tên lùn xấu xí và gã Đại Thực đã nhổm dậy. Gương mặt đỏ phừng phừng giận dữ, bọn chúng bắt đầu chửi rủa tên tiểu nhị đang cố quát tháo át tiếng đối phương. Những vị khách khác nhìn cảnh ấy với vẻ mặt dửng dưng. Đột nhiên, gã Đại Thực mò lấy con dao găm. Tên lùn nhanh chóng giữ tay hắn lại và kéo ra ngoài. Tiểu nhị chộp lấy chén rượu của tên lùn và ném theo hắn. Nó vỡ tan thành nhiều mảnh trên nền đá cuội. Tiếng thì thầm tán đồng vang lên từ đám đông.
“Ở đây họ không thích người Đại Thực.” Kiều Thái bình phẩm. Nam nhân ngồi ở bàn bên xoay đầu lại. “Không, chúng không phải là
người Đại Thực đâu.” Hắn nói rành mạch với họ bằng giọng miền Bắc. “Nhưng các hạ nói đúng, chúng ta cũng chẳng ưa nổi đám người Đại Thực ở đây. Sao chúng lại đến nơi này nhỉ? Dù gì chúng cũng không uống được rượu của chúng ta. Tín ngưỡng của chúng không cho phép.”
“Mấy tên da đen cặn bã ấy lỡ mất những thứ tuyệt hảo nhất trần đời rồi!” Kiều Thái nói, miệng cười toe toét. “Cùng uống chung với bọn ta một tuần rượu nào!” Khi kẻ lạ mặt mỉm cười và kéo ghế tiến đến gần bàn của hai người, Kiều Thái hỏi, “Các hạ đến từ phương Bắc xa xôi à?”
“Không, tại hạ vốn sinh ra và lớn lên trên vùng đất Quảng Châu này. Nhưng tại hạ đã ngao du sơn thủy nhiều nơi, mà thân là một kẻ phiêu bạt chốn giang hồ thì tất phải học nhiều thứ tiếng. Hai vị thấy đó, tại hạ là một thuyền trưởng. Tiện đây xin giới thiệu, tại hạ là Nghê Thiên Tế. Điều gì mang các vị xuống đến nơi này?”
“Chúng ta chỉ ghé ngang qua chốn đây thôi.” Đào Cam giải thích. “Chúng ta là tùy tùng của một vị quan khâm sai đang đi tuần ở phủ này.”
Viên thuyền trưởng nhìn Kiều Thái vẻ thận trọng.
“Tại hạ cứ tưởng hai vị ở trong quân đội.”
“Ta chỉ biết múa vài đường quyền kiếm, như là thú vui mà thôi.” Kiều Thái thản nhiên nói. “Các hạ cũng có hứng thú à?”
“Chủ yếu là kiếm pháp. Nhất là tung hoành thiên hạ với những lưỡi gươm Đại Thực. Đáng để học lắm, vì tại hạ từng rong ruổi trên những chuyến hải hành đến vịnh Ba Tư. Các hạ biết đó, những vùng biển ấy thường có nhiều hải tặc qua lại.”
“Tại hạ thật không thể hiểu làm sao họ có thể điều khiển được những thanh loan đao ấy.” Kiều Thái nhận xét.
“Các hạ sẽ phải ngạc nhiên.” Thuyền trưởng họ Nghê nói. Chỉ chốc lát, hắn và Kiều Thái đã say sưa trò chuyện rôm rả về các thể loại kiếm pháp phân tranh cao thấp khác nhau. Đào Cam lơ đãng lắng nghe, y còn mải tập trung rót đầy những chén rượu. Nhưng khi nghe vị thuyền trưởng trích dẫn một số thuật ngữ tiếng Đại Thực, thì Đào Cam ngước lên nhìn và hỏi:
“Các hạ biết thổ ngữ của họ à?”
“Đủ để trò chuyện xã giao thôi. Tại hạ cũng học được cả tiếng Ba Tư nữa. Tất cả đều dùng cho công việc hàng ngày!” Hắn quay sang Kiều Thái:
“Tại hạ muốn được cho ngài xem bộ sưu tập những thanh kiếm ngoại bang của mình. Hay là cùng tại hạ ghé qua tệ xá uống thêm vài chén nhé? Tại hạ sống ở phía Đông thành.”
“Tối nay thì chúng ta khá bận rộn.” Kiều Thái đáp. “Các hạ có thể thu xếp vào ngày mai không?”
Thuyền trưởng liếc nhanh gã nam nhân đứng ở quầy thu ngân. “Cũng được”, hắn nói, “các hạ đang ở đâu?”
“Ở lữ điếm Ngũ Tiên, gần chùa Hoài Thánh*.”
Là Thánh đường Hồi giáo cổ nhất Trung Quốc, tương truyền do một người Ả Rập tên là Uyển Cát Tố xây dựng khi đến truyền đạo năm 627. Các tín đồ Hồi giáo tại Trung Quốc gọi là chùa Hoài Thánh để tưởng nhớ tới thánh nhân Muhammad.
Vị thuyền trưởng định nói gì đó nhưng lại đổi ý. Hắn nhấp rượu rồi thản nhiên hỏi, “Vị bằng hữu của các hạ cũng ở đó chứ?” Khi Kiều Thái lắc đầu, thuyền trưởng nhún vai, đoạn nói tiếp, “À, các hạ chắc đủ khả năng tự lo liệu được. Tại hạ sẽ cho kiệu đến rước, khoảng nửa canh giờ* sau bữa sáng nhé.”
1 canh giờ = 2 tiếng.
Đào Cam trả tiền, rồi họ tạm biệt vị bằng hữu mới. Bầu trời đã quang đãng; làn gió sông hiu hiu phả hơi mát rượi vào những gương mặt đỏ bừng của họ. Khung cảnh bến sông giờ đây thật náo nhiệt. Những quầy hàng đêm dọc bờ sông, được thắp sáng nhờ hàng dãy đèn lồng màu sắc sặc sỡ. Dòng sông lấp lánh ánh lửa từ các ngọn đuốc lập lòe được neo cột từ mũi cho đến đuôi những chiếc thuyền nhỏ đang nằm rải rác. Làn gió nhẹ phảng phất đưa mùi gỗ cháy xộc đến mũi họ. Dân chài đang chuẩn bị bữa cơm tối của mình.
“Chúng ta hãy thuê một chiếc kiệu.” Đào Cam nói. “Từ đây đến Đô đốc phủ còn một quãng khá xa.”
Kiều Thái không trả lời. Y đang bận dò xét đám đông với vẻ mặt đăm chiêu. Đột nhiên y hỏi:
“Huynh không có cảm giác như kẻ nào đó đang theo dõi chúng ta à?”
Đào Cam nhanh chóng nhìn qua vai mình.
“Không, ta không nhận ra.” Y nói. “Nhưng linh cảm của đệ thường đúng, ta thừa nhận thế. À, vì đại nhân căn dặn chúng ta phải bẩm báo vào giờ Dậu*, nên chúng ta vẫn còn khoảng nửa canh giờ nữa. Chúng ta hãy mỗi người một hướng. Như vậy sẽ giúp cả hai có cơ hội tốt hơn để biết được liệu mình có đang bị theo dõi hay không. Đồng thời, ta cũng có thể kiểm tra trí nhớ của mình về địa hình của thành này.”
Từ 5 giờ đến 7 giờ tối.
“Được thôi. Ta sẽ ghé qua khách điếm của mình và thay đổi y phục, sau đó đi qua khu phố người Hồ. Nếu cứ tiến theo hướng Đông Bắc, sớm muộn gì ta cũng sẽ tới được con đường lớn dẫn đến phía Bắc, đúng không?”
“Nếu đệ hành xử phải phép và tránh xa rắc rối thì đúng vậy! Hãy ngắm Thủy vận Nghi tượng đài* trên phố chính, một kỳ quan nổi
tiếng đó. Thời gian được biểu hiện chính xác bằng các phao nổi bên trong một chuỗi các thùng đồng chứa nước, cái này đặt ở trên cái kia, giống như là cầu thang vậy. Nước sẽ nhỏ giọt chầm chậm từ những thùng cao xuống thùng thấp. Đúng là một hệ thống thiết bị tinh xảo!”
Đồng hồ thiên văn chạy bằng nước, phát minh của học giả Tô Tụng (1020-1101), Trung Quốc. Ở đây, tác giả Robert van Gulik có chút nhầm lần, Thủy vận Nghi tượng đài được xây dựng vào khoảng năm 1086 dưới triều Tống, sau thời điểm xảy ra Quảng Châu án khoảng 400 năm.
“Huynh nghĩ ta mà lại cần mấy thứ đó để canh thời gian trong ngày sao?” Kiều Thái khịt mũi hỏi. “Xưa nay ta hành tẩu giang hồ vốn dựa vào mặt trời và cơn khát của mình để đoán giờ. Vào những ngày mưa và khi đêm xuống thì ta chỉ tận dụng được cơn khát thôi. Hẹn gặp lại huynh, ở Đô đốc phủ!”
HỒI 2
Nơi ngõ hẹp, Đô úy gặp người lạ
Chốn nhà hoang, hảo hán thoát sát mưu
Kiều Thái quẹo vào góc đường, băng qua cây cầu bắc qua chiến hào và vào thành tại Kiêu Tế môn.
Trong khi chen lấn xô đẩy để băng qua đám đông càng về tối càng dày đặc, thỉnh thoảng Kiều Thái lại liếc nhìn qua vai, nhưng không ai có vẻ là đang theo dõi mình cả. Y băng qua phía trước cánh cổng sơn son cao vút của miếu Ngũ Tiên, tiến vào con phố đầu tiên bên trái, cuối cùng cũng đến khách điếm được đặt tên theo ngôi miếu. Đó là một tòa nhà xiêu vẹo hai tầng. Bên trên mái, y nhìn thấy đỉnh tòa tháp của chùa Hoài Thánh sừng sững vươn cao đến hơn mười lăm sải* giữa trời.
1 sải tương đương 1,8288m.
Hô to lời chúc ngủ ngon với gã chưởng quỹ cau có đang ngồi lọt thỏm giữa chiếc ghế trúc đặt trong hành lang nhỏ tẹo, Kiều Thái đi thẳng lên phòng mình ở tầng hai, phía sau khách điếm. Bên trong nóng bức và ngột ngạt vì những cánh cửa chớp của cửa sổ duy nhất đã đóng im ỉm suốt cả ngày. Sáng nay, sau khi thuê phòng, y mới chỉ vào để đặt bọc hành lý của mình lên tấm phản trơ trụi. Vừa chửi rủa, Kiều Thái vừa đẩy các cánh cửa chớp mở toang. Y đứng ngắm tòa tháp ở một tầm nhìn khoáng đạt.
“Đám ngoại bang đó thậm chí còn không thể xây cất một ngôi chùa thực sự.” Y lẩm bẩm, miệng nở nụ cười ngạo nghễ. “Không lầu, không mái cong, chẳng có gì cả! Thẳng đuột như một khúc mía vậy!”
Vừa ngâm nga một giai điệu, Kiều Thái vừa thay một tấm áo sạch sẽ, rồi lại khoác áo giáp xích* lên mình và gói ghém mũ sắt, bao tay sắt cùng giày sắt vào một vuông vải xanh. Rồi y đi xuống tầng.
Áo giáp đan bằng dây xích sắt.
Ở dưới đường, trời vẫn còn rất nóng; cơn gió nhẹ lất phất trên sông không thể thổi xa vào tận trong thành. Kiều Thái tiếc là mình không thể cởi tấm áo choàng vướng víu ra bởi vì y cần che giấu áo giáp. Sau một thoáng vẩn vơ nhìn khách bộ hành, y đi vào con hẻm kế bên khách điếm.
Những con đường chật hẹp được đèn lồng của các quầy hàng đêm chiếu sáng, nhưng chỉ có lác đác vài người qua lại. Y nhìn thấy vài người Đại Thực, thật dễ nhận ra họ nhờ vào những chiếc khăn quấn đầu trắng và sải chân bước dài hối hả. Sau khi băng qua chùa Hoài Thánh, phố xá bắt đầu khoác lên mình diện mạo ngoại lai. Những ngôi nhà trát vữa trắng không có cửa sổ ở tầng trệt; ánh sáng duy nhất phát ra từ tầng hai, len lỏi chiếu xuyên qua lớp màn của những tấm lưới mắt cáo cầu kỳ. Đây đó có một lối đi hình vòm bắc ngang qua con đường, nối tầng hai của các căn nhà hai bên. Kiều Thái vẫn còn trong trạng thái lâng lâng vì men rượu khiến y quên mất kiểm tra xem liệu mình có đang bị kẻ nào theo dõi hay không.
Khi tiến vào một con hẻm vắng vẻ, đột nhiên y phát hiện một đại hán râu ria xồm xoàm đi bên cạnh mình. Hắn xẵng giọng hỏi Kiều Thái:
“Các hạ có phải là Đô úy họ Cao hay Thiệu, hoặc đại loại vậy không?”
Kiều Thái khựng lại. Trong ánh sáng mập mờ, y chăm chú dò xét người lạ. Gương mặt hắn lạnh lùng, hàng tóc mai dài và bộ râu bạc, mình vận áo choàng nâu rách te tua, đầu đội nón mòn vẹt tả tơi, chân mang hài dính đầy bùn đất. Hắn trông thật tồi tàn, thế nhưng lại mang phong thái đĩnh đạc tự nhiên của một nam nhân có địa vị, và gã nói chuyện bằng chất giọng Trường An không thể lẫn vào đâu được. Kiều Thái thận trọng cất lời:
“Tại hạ họ Kiều.”
“A, hẳn là Đô úy Kiều Thái rồi! Hãy nói cho tại hạ biết, có phải chủ nhân của ngài, Địch đại nhân, cũng đang ở Quảng Châu này
không?”
“Ngài ấy có mặt ở đây thì sao?” Kiều Thái hùng hổ đáp.
“Đừng nói gì cả, quan gia!” Kẻ lạ mặt ngắt lời. “Tại hạ phải diện kiến ngài ấy, có việc khẩn cấp. Hãy đưa tại hạ đến chỗ của Địch đại nhân.”
Kiều Thái cau mày. Kẻ này không giống phường lừa đảo cho lắm. Mà nếu có đi chăng nữa thì gặp Kiều Thái đây là hắn tới số rồi! Kiều Thái nói:
“Tình cờ là tại hạ cũng đang trên đường đến gặp đại nhân. Vì thế, các hạ có thể đi cùng tại hạ ngay bây giờ.”
Kẻ lạ mặt vội vàng ngoái qua vai nhìn những bóng đen đằng sau mình.
“Các hạ hãy đi trước.” Hắn nói cộc lốc, “Tại hạ sẽ nối gót theo sau. Tốt hơn hết là đừng để xung quanh nhìn thấy chúng ta đang đi cùng nhau.”
“Tùy ý các hạ.” Kiều Thái nói và tiếp tục bước đi về hướng đã định. Bây giờ, y phải thật thận trọng, vì có nhiều hố sâu giữa những phiến đá lát đường, và nguồn sáng duy nhất đến từ một ô cửa sổ lúc đóng lúc mở. Xung quanh không có bóng người nào lảng vảng; âm thanh duy nhất chính là tiếng bước chân nặng nề phát ra từ đôi giày của kẻ lạ mặt phía sau Kiều Thái.
Sau khi Kiều Thái rẽ sang hẳn một góc đường khác, y thấy mình đang ở trên một con phố tối đen như mực. Y ngước lên nhìn xem có thể thấy được đỉnh tòa tháp hay không nhằm xác định phương hướng cho mình. Nhưng những ngôi nhà cao hai bên đường cứ xiêu vẹo nghiêng ngả vào nhau khiến y chỉ còn thấy được một khoảng trời hẹp đầy sao. Kiều Thái chờ cho người kia đi đến phía sau rồi nói với qua vai mình:
Ở
“Ở đây chẳng thấy được gì cả. Tốt hơn là chúng ta nên quay lại và tìm một cỗ kiệu, vẫn còn nhiều con đường khác dọc theo lối đi chính.”
“Hãy hỏi thường dân trong ngôi nhà gần bên đó đi.” Kẻ lạ mặt nói. Giọng hắn vang lên khàn khàn.
Kiều Thái chăm chú nhìn về phía trước, quả thật giờ đây y nhìn thấy một ánh sáng mờ mờ xuất hiện trong bóng tối. “Giọng của lão già kia nghe thều thào ốm yếu vậy mà đôi mắt vẫn còn tinh tường đó!” Vừa lẩm bẩm, y vừa bước về phía ánh sáng đang hắt ra mờ nhạt. Ngay khi vòng qua góc đường, y nhìn ra nguồn sáng đó phát ra từ cây đèn dầu rẻ tiền được đặt trong ngách cao trên bức tường trắng trơn gớm ghiếc phía tay trái. Xa hơn một chút là một cánh cửa được chạm nổi những hình trang trí bằng đồng. Ở phía trên đầu Kiều Thái là một lối đi băng ngang nối liền tầng hai của căn nhà với căn đối diện. Y tiến lại gần cánh cửa. Lúc gõ mạnh lên cánh cửa chớp che lỗ nhìn, y nghe thấy tiếng kẻ đồng hành dừng bước. Kiều Thái hô to lên với hắn:
“Chẳng có ai trả lời cả, nhưng tại hạ sẽ đánh thức lũ khốn này dậy!”
Y lại gõ cửa thật mạnh suốt một hồi, sau đó ép tai lên cánh cửa gỗ. Không nghe ngóng được gì cả. Y tung cước đá cánh cửa vài cú, rồi lại gõ vào lỗ nhìn cho đến khi khớp ngón tay đau điếng. “Đến đây!” Y quát lên giận dữ với kẻ đi theo. “Chúng ta sẽ đạp đổ cánh cửa thối tha này mà xông vào! Chắc chắn có người ở nhà, nếu không thì làm sao chiếc đèn đó được thắp sáng.”
Không có tiếng trả lời.
Kiều Thái quay người lại. Chỉ còn lại mình y trong con hẻm.
“Cái tên khốn đó có thể biến đi đâu…” Y bối rối nói, rồi đột ngột dừng lại. Y thấy chiếc mũ của kẻ lạ mặt nằm trên phiến đá lát đường, ngay phía dưới lối đi ngang. Nguyền rủa một câu, Kiều Thái đặt gói đồ xuống đất, với tay lên lấy chiếc đèn dầu trong ngách. Lúc bước về phía trước để xem xét chiếc mũ kĩ hơn, đột nhiên y cảm
thấy ai đó vỗ nhẹ lên vai. Y nhanh chóng quay ngoắt lại. Không ai ở đó cả. Nhưng rồi y thấy một đôi giày lấm bùn đang lủng lẳng ngay sát trên đầu mình. Y lại chửi đổng một câu rồi giơ cao cây đèn dầu, ngước nhìn lên. Kẻ đồng hành cùng Kiều Thái đã bị treo cổ ở phía bên kia lối đi ngang, đầu ngoẹo thành một góc không tự nhiên lắm, hai cánh tay cứng đờ rũ xuống hai bên. Một sợi dây thừng mỏng mảnh chạy vắt qua ngưỡng cửa sổ đang mở toang trên lối đi ngang.
Kiều Thái mất bằng hữu đồng hành
Kiều Thái quay sang cánh cửa ngay bên dưới lối đi và tung một cước dữ dội. Cánh cửa bật tung ra và đập vào vách tường. Y nhanh
chân leo lên những bậc thang đá nhỏ hẹp dẫn lên theo góc nhọn, đến một lối đi tối tăm bắc ngang qua con phố. Giơ chiếc đèn lên cao, y nhìn thấy một nam nhân vận áo choàng Đại Thực đang nằm sõng soài trước cửa sổ. Hắn nằm đó, gần như bất động, nắm chặt một cây giáo ngắn có đầu nhọn dài sắc bén trong tay phải. Khuôn mặt sưng phồng và chiếc lưỡi thè ra ngoài kia đủ để chứng minh hắn đã bị siết cổ đến chết. Một trong hai con mắt lồi của hắn bị lác.
Kiều Thái quệt mồ hôi trên trán.
“Vừa mới trông thấy hắn đang uống rượu vui vẻ!” Y lẩm bẩm. “Nếu đây không phải là cách tệ nhất để tỉnh rượu! Chính là tên khốn mà ta nhìn thấy ở tửu điếm. Nhưng còn tên lùn xấu xí kia đâu?”
Y nhanh chóng soi đèn sang phía bên kia lối đi. Từ chỗ đó, một cầu thang tối om dẫn xuống dưới, nhưng hết thảy đều im lặng như tờ. Y đặt chiếc đèn xuống sàn, bước qua xác gã Đại Thực, kéo mạnh sợi
cước mỏng được buộc chặt vào một chiếc móc sắt móc phía dưới ngưỡng cửa. Kiều Thái từ từ lôi thi thể nam nhân râu rậm lên. Khuôn mặt méo mó đến kinh hoàng của hắn xuất hiện ở khung cửa sổ, máu nhỏ ra từ khuôn miệng rộng ngoác.
Kiều Thái kéo lê cái xác vẫn còn ấm nóng vào trong và đặt trên sàn, kế bên xác gã Đại Thực. Sợi dây thòng lọng cắt sâu vào cổ họng khẳng khiu, dường như đã bị gãy. Y chạy xuống lối cầu thang ở đầu bên kia lối đi. Đi chừng sáu bậc thang, y đã đến được một cánh cửa thấp. Kiều Thái đập cửa ầm ầm như sấm rền nhưng không có ai trả lời, y bèn lao mình phá cửa. Những tấm ván cũ kĩ đã bị mối ăn lập tức vỡ tan, y ngã nhào vào một gian phòng tranh tối tranh sáng giữa tiếng loảng xoảng của đống chai lọ và bát đĩa, vướng vào các mảnh gỗ vương vãi.
Chỉ trong chớp mắt, y đứng bật dậy. Một mụ già Đại Thực vốn đang co rúc người ở giữa gian phòng nhỏ bé ngước lên nhìn y, khuôn miệng móm không còn chiếc răng nào há hốc vì sợ hãi, không nói nên lời. Cây đèn dầu làm bằng đồng thau treo trên xà nhà ám đen tỏa ánh sáng soi rọi xuống một thiếu phụ Đại Thực đang ngồi xổm trong góc cho con bú với bộ ngực trần. Thét lên một tiếng đầy kinh
hoàng, nàng ta dùng một phần tấm áo choàng rách rưới che đi bộ ngực. Kiều Thái đang định hỏi chuyện họ thì cánh cửa phía đối diện mở toang, hai tên Đại Thực gầy gò xông vào và vung loan đao lên. Kiều Thái kéo mép áo khoác xuống một chút, để lộ tấm kim bài, bọn chúng khựng lại.
Trong khi hai tên Đại Thực đứng đó chần chừ, một tên thứ ba, trông trẻ hơn nhiều, đẩy hai tên kia qua một bên và tiến lại gần Kiều Thái. Hắn hỏi bằng thứ tiếng Hoa trọ trẹ:
“Ngài có ý gì khi phá cửa xông vào khu vực của nữ nhân nhà ta, thưa quan gia?”
“Hai nam nhân đã bị sát hại ở lối đi ngoài kia.” Kiều Thái quát lớn. “Nói đi! Kẻ nào đã gây ra?”
Tên tiểu tử ngó nhanh cánh cửa bị vỡ nát. Rồi hắn cau có nói, “Chuyện xảy ra ở lối đi băng ngang con phố đó không liên quan đến chúng ta.”
“Lối đi ấy nối liền với nhà của ngươi đó, tên súc sinh!” Kiều Thái gầm gừ. “Ta nói cho ngươi biết, có hai nam nhân đã chết ngoài đó. Mau khai ra, bằng không ta sẽ cho bắt tất cả các ngươi và dụng hình thẩm vấn!”
“Nếu ngài vui lòng nhìn kĩ”, tiểu tử Đại Thực khinh khỉnh nói, “ngài sẽ thấy cánh cửa mà ngài vừa đập nát đó đã đóng im ỉm suốt hàng năm trời.”
Kiều Thái quay lại. Những mảnh gỗ vướng trên người y là những gì còn lại của một chiếc tủ cao. Liếc nhanh vào vết bụi bám trước cánh cửa đang mở toang và ổ khóa gỉ sét mà mình vừa phá nát, y thấy quả là tên này nói thật. Cánh cửa dẫn lên lối đi ngang đã không được sử dụng từ lâu.
“Nếu có ai đó bị sát hại trên lối đi đó”, tên tiểu tử nói tiếp, “bất cứ khách qua đường nào cũng có thể là thủ phạm. Theo như ta biết thì
ở phía bên kia đường có một cầu thang dẫn lên đó, và các cánh cửa bên dưới thì không bao giờ khóa cả.”
“Vậy thì lối đi đó được dùng làm gì?”
“Sáu năm về trước, phụ thân của ta là thương nhân A Bố Đỗ Lạp cũng sở hữu căn nhà đối diện. Sau khi người bán nó đi thì cánh cửa ở đầu kia đã được xây bít lại.”
“Nàng có nghe thấy tiếng động gì không?” Kiều Thái hỏi thiếu phụ. Nàng ta không đáp lời, ngước lên nhìn y với nỗi sợ hãi mơ hồ. Khi tên tiểu tử mau mắn phiên dịch lại, nàng ta dứt khoát lắc đầu. Hắn nói với Kiều Thái:
“Các bức tường rất dày, và do chiếc tủ đứng chắn ngay trước cánh cửa cũ kĩ đó…” Hắn múa may cánh tay phụ họa.
Hai tên Đại Thực kia đã tra lại loan đao vào dây đai. Trong lúc chúng bắt đầu thì thầm trò chuyện thì bà lão kia đã hoàn hồn và bắt đầu bài ca thán dông dài bằng giọng Đại Thực chói tai, vừa nói vừa chỉ vào đống mảnh vỡ trên sàn.
“Bảo mụ rằng mụ sẽ được bồi thường!” Kiều Thái nói. “Còn ngươi, đi theo ta!”
Kiều Thái khom người và băng qua cánh cửa đang mở toang, tên tiểu tử nối bước theo sau. Khi cả hai đứng trước lối đi, y chỉ vào tên Đại Thực đã chết và hỏi:
“Nam nhân đó là ai?”
Tiểu tử ngồi xổm xuống cạnh bên thi thể. Sau khi thản nhiên ngó nhìn gương mặt biến dạng kia, hắn tháo lỏng chiếc khăn lụa thắt quanh cổ họng của nam nhân xấu số. Rồi hắn dùng các ngón tay
lanh lẹ của mình mò mẫm trong các nếp gấp của chiếc khăn quấn đầu. Thẳng người lên, hắn chậm rãi nói:
“Nam nhân này không mang theo bất cứ ngân lượng hay giấy tờ gì cả. Ta cũng chưa hề gặp hắn trước đây, nhưng chắc hẳn hắn đến từ miền Nam Đại Thực, vì dân ở đó là những cao thủ phóng đoản tiêu.” Trao chiếc khăn choàng cho Kiều Thái, hắn tiếp tục trình bày, “Dù vậy, không phải người Đại Thực xuống tay hạ sát y. Ngài có nhìn thấy đồng bạc được buộc vào góc khăn không? Đồng xu khiến chiếc khăn nặng hơn, do đó cho phép kẻ bóp cổ có thể vung chiếc khăn quanh cổ nạn nhân từ phía sau. Một thứ vũ khí hèn hạ. Người Đại Thực bọn ta chỉ dùng giáo, kiếm và chủy thủ* - vì vinh quang vĩ đại của đức An Lạp* và Nhà Tiên Tri của người*.”
Một loại kiếm ngắn.
Allah, cách gọi Thượng đế trong đạo Hồi.
Muhammad, người sáng lập đạo Hồi, được các tín đồ Hồi giáo coi là sứ giả của Thượng đế.
“A men*.” Kiều Thái chua chát nói. Y đăm chiêu nhìn hai thi thể. Giờ thì y hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tên Đại Thực không chỉ định ám sát kẻ lạ mặt râu rậm, mà còn nhắm vào Kiều Thái. Hắn ta đã nằm đó, ngay cửa sổ, chờ đợi họ. Hắn đã để Kiều Thái đi qua bên dưới, nhưng khi kẻ đồng hành của y đi theo và đứng chờ ở đó khi y đập cửa, kẻ thủ ác đã thả dây thòng lọng qua đầu và kéo nam nhân xấu số lên bằng một cú giật mạnh thình lình rất đáng sợ. Sau đó, hắn buộc đuôi dây vào chiếc móc và chụp lấy cây lao. Nhưng khi hắn sắp sửa mở cánh cửa sổ đối diện để phóng lao vào lưng nạn nhân thứ hai, thì một kẻ thứ ba đã siết cổ hắn bằng tấm khăn choàng từ phía sau, sau đó thì bỏ trốn.
Amen, từ được dùng như là một lời kết cho những lời cầu nguyện và thánh ca.
Kiều Thái mở toang cánh cửa sổ và nhìn xuống con đường bên dưới.
“Khi đứng đằng kia gõ lên cánh cửa đáng nguyền rủa đó, Kiều mỗ hẳn đã là một mục tiêu hoàn hảo cho kẻ sát nhân!” Y lẩm bẩm. “Và
mũi lao nhọn hoắt đó cũng có thể đã đâm xuyên qua chiếc áo giáp của ta! Ta nợ ân nhân ẩn danh đó một mạng.” Quay sang tên tiểu tử Đại Thực, y khàn giọng nói, “Kêu ai đó chạy ra phố chính và thuê một cỗ kiệu lớn về đây!”
Trong lúc tiểu tử la lớn điều gì đó qua cánh cửa bể nát, Kiều Thái xem xét thi thể của đại hán râu rậm. Nhưng không có gì để xác định thân thế của hắn. Y lắc đầu thất vọng.
Họ chờ đợi trong sự im lặng bức bối cho đến khi nghe thấy những tiếng hò hét inh ỏi ở con phố bên dưới. Kiều Thái nhoài người qua cửa sổ và trông thấy bốn phu khiêng kiệu cầm đuốc. Quăng thi thể của đại hán râu rậm lên vai, Kiều Thái ra lệnh cho tiểu tử:
“Hãy đứng ở đây để canh chừng thi thể đồng hương của ngươi cho đến khi các Bộ khoái* đến mang đi. Ngươi và cả gia quyến sẽ phải chịu trách nhiệm nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra cho hắn!”
Chức vụ phụ trách truy nã, bắt giữ tội phạm và duy trì trị an thời xưa. Tập thể các Bộ khoái được gọi là khoái ban và người đứng đầu khoái ban gọi là Bộ đầu.
Vác cái xác nặng nề trên vai, y cẩn trọng bước xuống cầu thang chật hẹp.
HỒI 3
Thăm chốn cũ, ngẫm đời lãng tử
Gặp bất bình, nghĩa hiệp ra tay
Đào Cam đã quay trở lại Thị bạc ty. Băng qua cổng vòm cao vút, y quan sát một lúc các viên Lục sự vẫn còn đang bận rộn phân loại từng đống hộp và kiện hàng. Có mùi hăng hăng của gia vị ngoại lai. Y rời đi bằng cửa sau, liếc mắt nhìn qua khách điếm ảm đạm của mình, rồi đi vào thành qua cổng Nam.
Tản bộ qua đám đông nhộn nhịp, y tự thấy hài lòng khi có thể nhận ra hầu hết các tòa nhà lớn mình từng đi ngang qua. Rõ ràng vùng đất Quảng Châu không hề thay đổi nhiều trong khoảng hai mươi năm ròng rã kể từ lần cuối cùng y trú ngụ ở chốn đây.
Y nhận ra ngôi miếu đường bệ phía bên phải mình; đó là nơi thờ phụng Quan Đế. Y tách khỏi đám đông và bước lên những bậc đá cẩm thạch rộng rãi dẫn lối lên cổng miếu cao ngất, với cánh cửa đôi có hai con sư tử đá khổng lồ tọa trấn hai bên, mỗi con thu mình lại trên một bệ hình bát giác. Như thường lệ, con sư tử đực ở bên trái quắc mắt nhìn xuống với cái miệng ngậm chặt, còn con sư tử cái bên phải thì ngước đầu lên cao, hàm mở rộng.
“Nó chẳng bao giờ ngậm cái miệng thối tha đó lại được!” Đào Cam lẩm bẩm chua chát. “Hệt như ả vợ cũ lăng loàn trắc nết của ta!”
Chậm rãi vuốt bộ ria mép xác xơ, y gượng gạo ngẫm ra trong suốt hai mươi năm qua, mình hầu như không hề nghĩ đến ả dâm phụ đó. Chính chuyến thăm lại thành trấn này, nơi y từng sinh sống vài năm khi còn trẻ, đã chợt mang quá khứ ùa về trong tâm trí y . Người vợ mà y từng yêu thương đã hèn hạ phản bội y, đã cố hủy hoại đời y, khiến Đào Cam buộc phải xa xứ để giữ lấy mạng mình. Khi đó y đã quyết định xa lánh nữ nhân, quyết tâm chống lại cõi nhân gian đã ruồng bỏ mình. Đào Cam trở thành một kẻ lừa đảo rày đây mai đó. Thế nhưng sau này, y đã tri ngộ Địch Công, được ông giúp cải tà
quy chính và thu nhận làm thuộc hạ, từ đó y có thêm niềm vui mới trong cuộc sống. Đào Cam đã phụng sự Địch Công từ khi ông còn là một Huyện lệnh cho đến sau này được tấn phong lên chức vị đại quan hiện nay ở kinh thành, mà y cũng được bổ nhiệm làm Trưởng sử. Một nụ cười châm biếm sáng lên trên gương mặt dài ngoằng ảm đạm của Đào Cam khi y mãn nguyện nói với con sư tử cái:
“Quảng Châu vẫn thế, chẳng đổi thay gì, nhưng hãy nhìn ta mà xem! Giờ đây, Đào Cam này không chỉ có quan tước mà còn là một nam nhân giàu có. Trong tay nắm một gia sản đáng kể, ta nên nói như thế mới đúng!” Y thình lình giật mạnh chiếc mũ của mình, chỉnh lại nó cho ngay ngắn, đoạn ngạo mạn gật đầu chào gương mặt đá hung tợn ấy rồi tiến vào khu miếu thờ.
Băng qua sảnh chính, y quan sát nhanh bên trong. Trong ánh sáng nhấp nháy của những cây nến cao màu đỏ, một nhóm người đang cắm thêm những cây nhang mới vào chiếc lư đồng lớn đặt trên án thờ cao. Xuyên qua màn khói lam dày đặc, y lờ mờ trông thấy bức
tượng Quan Đế râu dài đang vung thanh long yển nguyệt đao mạ vàng cao chót vót. Đào Cam khịt mũi, bởi y hầu như không ngưỡng mộ sự can trường nghĩa đảm của đám võ quan. Y không có được tầm vóc và sức mạnh của vị bằng hữu Kiều Thái, và y cũng chẳng bao giờ mang theo bất cứ món vũ khí nào. Nhưng việc không biết sợ là gì cùng với trí khôn ngoan ứng biến mau lẹ dù sao cũng đã khiến y trở thành một kẻ đáng gờm. Đào Cam bước tiếp theo hướng đã định, vòng qua đại sảnh để đến cổng sau của ngôi miếu. Nhớ ra khu chợ lớn nhất thành nằm ngay hướng Bắc của ngôi miếu, y nghĩ rằng mình có thể đi vòng quanh ngắm nhìn nơi đó trước khi ra con đường chính dẫn đến Đô đốc phủ nằm ở mạn Bắc thành.
Khu vực phía sau ngôi miếu là những căn nhà gỗ nghèo nàn ầm ĩ những tiếng la hét, cười đùa. Mùi mỡ rán rẻ tiền vất vưởng bay lên trong không khí. Tuy vậy, xa hơn một chút thì không gian lại trở nên cực kỳ im ắng. Tại đây chỉ có những căn nhà bỏ hoang đứng trơ trọi, nhiều căn đã xiêu vẹo đổ nát. Những đống gạch mới và những chiếc bình đựng đầy vữa được xếp đều đặn cho thấy một căn nhà mới đang xây. Đào Cam ngoái nhìn ra phía sau vài lần nữa nhưng không
thấy có ai lảng vảng cả. Y điềm tĩnh bước đi không vội vã, giữ chiếc áo chẽn bó sát thân hình xương xẩu của mình, mặc kệ cái nóng ngột ngạt.
Lúc vòng qua góc của một con hẻm nữa, y nghe thấy tiếng ồn ào phát ra từ khu chợ phía trước. Cùng lúc đó, Đào Cam trông thấy một vụ náo động ở phía cuối chợ xa xa. Bên dưới chiếc đèn lồng treo lủng lẳng trên thanh gióng cửa ọp ẹp, hai tên lưu manh nhếch nhác đang tấn công một nữ nhân. Nhanh chân chạy về phía họ, Đào Cam thấy tên đứng sau nữ nhân nọ đang vòng một tay bịt miệng nàng, tay kia thì khóa hai cánh tay nàng sau lưng. Tên thứ hai đứng phía trước đang xé nát tấm áo choàng ngoài và mơn trớn bộ ngực trần quyến rũ. Khi hắn bắt đầu xé toạc sợi dây đai quần quanh eo nữ nhân, nàng cuống cuồng đá vào hai chân hắn. Nhưng rồi tên đứng sau thình lình giật mạnh đầu nàng ngửa ra sau, còn tên kia đấm một cú thật mạnh vào bộ ngực trần trụi.
Đào Cam hành động mau lẹ. Tay phải nhặt lấy một viên gạch từ đống gạch gần nhất, tay còn lại vớ lấy một nắm vôi sống từ chiếc bình bên cạnh. Y nhón chân phóng nhanh về phía hai kẻ côn đồ, dùng cạnh nhọn của viên gạch nặng đánh một cú thôi sơn vào vai của tên đang giữ lấy nữ nhân. Hắn buông nàng ra, ôm chặt lấy bờ vai bị thương và kêu lên thảm thiết. Tên côn đồ còn lại quay sang Đào Cam, mò lấy thanh chủy thủ giắt ở thắt lưng. Nhưng Đào Cam đã ném vôi sống vào mắt hắn khiến cho hắn lấy tay ôm mặt, rú lên đau đớn.
“Người đâu, mau bắt mấy tên cặn bã này lại!” Đào Cam hét lên.
Tên côn đồ bị đập vào vai nắm lấy cánh tay của tên đồng bọn đang rú ăng ẳng, kéo hắn đi. Hắn phi đến con hẻm nhanh hết sức.
Nữ nhân kia kéo tấm áo choàng sát vào thân thể, thở hổn hển. Đào Cam mơ hồ nhận thấy nữ nhân này sở hữu một diện mạo đoan trang; tóc được búi thành song nha kế*, kiểu tóc của một thiếu nữ chưa thành gia lập thất. Y đoán tuổi của nàng ước chừng hai mươi lăm.
Kiểu búi tóc thành hai lọn sau gáy.
“Theo ta đến chợ nào, nhanh lên”, y thô lỗ nói với nàng bằng giọng Quảng Châu, “trước khi hai tên kia phát hiện ra ta đã lừa bịp chúng.”
Khi nàng tỏ vẻ chần chừ, y nắm lấy tay áo và kéo nàng đi về phía khu chợ ồn ào.
“Đi một mình trong khu vực vắng vẻ như vậy rất dễ rước họa vào thân đó, tiểu cô nương à.” Đào Cam nói vẻ quở trách. “Hay là nàng quen hai tên vô lại đó?”
“Thưa không, chúng hẳn là bọn côn đồ lang thang đầu đường xó chợ.” Nàng đáp với giọng nhỏ nhẹ, nho nhã. “Tiểu nữ định đi đường tắt này từ khu chợ đến miếu Quan Đế thắp hương thì gặp những kẻ ấy. Bọn chúng để tiểu nữ lướt qua, rồi đột nhiên tóm lấy tiểu nữ từ phía sau. Đa tạ ngài đã ra tay nghĩa hiệp kịp thời tương trợ tiểu nữ!”
“Hãy đa tạ hạnh vận tinh* của nàng!” Đào Cam gầm gừ. Khi họ bước ra đến con phố sầm uất chạy dọc theo rìa phía Nam của khu chợ đèn đuốc sáng choang, y nói thêm, “Tốt hơn hết nên hoãn chuyến viếng thăm miếu Quan Đế của nàng cho đến khi trời sáng rõ! Cáo từ.”
Ngôi sao may mắn.
Y đang định tiến vào lối đi hẹp ở giữa các quầy hàng trong chợ thì nữ nhân đã đặt bàn tay mình lên cánh tay y, rụt rè hỏi:
“Làm ơn cho tiểu nữ biết tên của cửa hiệu ở trước mặt. Chắc hẳn là một quầy trái cây vì tiểu nữ có thể ngửi được mùi quýt. Nếu biết chúng ta đang ở đâu, tiểu nữ có thể tự mình tìm được đường.”
Nói đoạn, nàng lấy từ trong tay áo ra một ống gậy tre nhỏ và lắc ra một số mối nối nhỏ hơn từ nó. Đó là một chiếc gậy dò đường có thể xếp gọn lại.
Đào Cam tức thì nhìn vào đôi mắt nàng. Chúng là một màu xám mờ đục, mù lòa.
“Tất nhiên là ta sẽ đưa nàng về nhà.” Y nói với vẻ ăn năn.
“Không cần đâu, thưa ngài. Tiểu nữ rất thông thạo khu này. Tiểu nữ chỉ cần biết điểm xuất phát thôi.”
“Đáng lẽ ta phải giết chết lũ khốn hèn hạ đó!” Đào Cam lẩm bẩm giận dữ. Rồi y nói với nữ nhân, “Đây, đây là tay áo của ta. Nếu ta dẫn đường, nàng sẽ về nhanh hơn. Nàng sống ở đâu?”
“Ngài thật chu đáo, thưa ngài. Tiểu nữ sống gần góc Đông Bắc chợ.”
Họ cùng bước đi, Đào Cam dẹp lối mở đường bằng khuỷu tay xương xẩu của mình. Sau một hồi, nữ nhân ấy hỏi:
“Ngài là quan viên tạm thời đang có công vụ liên quan đến nha phủ của thành này, phải không ạ?”
“Ồ, không đâu! Ta chỉ là một thương nhân đến từ khu Tây thành.” Đào Cam mau lẹ đáp lời.
“Tất nhiên rồi. Xin thứ lỗi cho tiểu nữ!” Nàng nhu mì nói.
“Điều gì khiến nàng nghĩ ta là một quan viên?” Đào Cam dò hỏi, vẻ tò mò.
Nàng ngập ngừng đôi chút rồi đáp:
“À, tiếng Quảng Châu của ngài rất thông thạo, nhưng thính giác của tiểu nữ rất nhạy, tiểu nữ nhận ra khẩu âm chốn kinh thành. Thứ nữa, khi ngài lừa gạt hai tên kia, giọng nói của ngài mang khẩu khí đích thực của kẻ có quyền có chức. Thứ ba, trong thành này, mỗi bách tính toàn chỉ màng đến sự vụ của riêng mình. Chẳng có thường dân áo vải nào dám mơ đến việc đơn thương độc mã giải quyết hai tên côn đồ đang hà hiếp một nữ nhân. Thêm một điều nữa là tiểu nữ có linh cảm rằng ngài là một nam nhân tử tế và chu đáo.”
“Suy luận tốt lắm.” Đào Cam nhận xét cộc lốc. “Trừ câu khẳng định cuối của nàng, quả thật là sai rồi!”
Liếc nhìn xéo sang nữ nhân, y trông thấy một nụ cười nhẹ nở trên gương mặt bình yên ấy. Khoảng cách rộng giữa hai mắt và khuôn miệng đầy khiến cho nhân diện của nàng trông có chút gì đó ngoại lai, thế nhưng Đào Cam vẫn thấy ở nàng có điều gì đó hấp dẫn khác
thường. Họ bước đi về hướng đã định trong im lặng. Khi đã đến góc Đông Bắc của chợ, nữ nhân mù nói:
“Tiểu nữ sống ở ngõ hẻm thứ tư bên phải. Từ lúc này hãy để tiểu nữ dẫn đường cho ngài.”
Con đường hẹp dần trở nên tối tăm khi họ tiến bước, nữ nhân nhẹ nhàng gõ chiếc gậy của mình xuống những viên đá lát đường. Ở hai bên đường là những ngôi nhà gỗ hai tầng xiêu vẹo. Khi đã rẽ vào con hẻm thứ tư, tất cả trở nên tối đen như mực. Đào Cam phải cẩn trọng bước đi để không bị vấp té trên nền đất nhấp nhô, trơn trượt.
“Trong mỗi gian nhà ở đây đều có vài gia đình là dân bán rong ở chợ cùng sinh sống.” Nàng nói. “Họ về nhà vào lúc đêm muộn, nên ở đây rất im ắng. À, chúng ta tới rồi. Ngài cẩn thận các bậc thang nhé, chúng rất dốc.”
Đã đến lúc phải nói lời từ giã, nhưng Đào Cam tự nhủ rằng đã đi xa đến nước này rồi, y cũng có thể tìm hiểu thêm về nữ nhân kỳ lạ này. Do vậy, Đào Cam quyết định bước theo nàng đi lên cầu thang ọp ẹp, tối tăm. Đến đầu cầu thang, nàng dẫn y tới một cánh cửa, đẩy nó mở ra và nói:
“Ngài sẽ tìm thấy một cây nến trên chiếc bàn ngay bên phải mình.”
Đào Cam thắp sáng ngọn nến bằng mồi lửa của mình và quan sát gian phòng nhỏ bé trống trơn. Sàn nhà được lát ván gỗ; ba bức tường phủ thạch cao nứt nẻ, nhưng ở phía trước rất thoáng. Chỉ có một lan can bằng trúc ngăn cách gian phòng với mái nhà bằng phẳng của ngôi nhà liền kề. Ở phía xa, mái nhà cong cong của những tòa nhà cao vời vợi nổi bật trên bầu trời đêm tối. Gian phòng
cực kỳ sạch sẽ, một làn gió nhẹ yếu ớt xua tan đi cái nóng bức ngột ngạt vẫn còn phảng phất đâu đây trên đường phố. Kế bên ngọn nến là một giỏ ủ trà rẻ tiền, một cái chén đất nung và một cái đĩa đựng vài lát dưa chuột cùng một con dao dài mỏng. Phía trước bàn là chiếc ghế gỗ thô thấp lè tè cùng một trường kỷ hẹp đặt sát vách bên. Y trông thấy ở phía sau có một bức bình phong bằng trúc cao ngất.
“Như ngài thấy đó, tiểu nữ không có gì nhiều để báo đáp.” Nàng nghiêm nghị nói. “Tiểu nữ dẫn ngài đến đây bởi vì trên thế gian này, chẳng có gì khiến tiểu nữ căm ghét hơn là phải mang những món nợ bên mình. Tiểu nữ còn trẻ, dung nhan cũng không tới nỗi khó nhìn. Nếu muốn ái ân với tiểu nữ thì ngài có thể. Giường nằm ở phía sau bình phong.” Trong lúc Đào Cam đăm đăm ngó nhìn nữ nhân trong nỗi ngạc nhiên đến không thể thốt nên lời, nàng bình thản nói thêm, “Ngài không cần phải băn khoăn làm gì, vì tiểu nữ không còn là xử nữ. Năm trước, bốn tên lính say xỉn đã cưỡng bức tiểu nữ.”
Đào Cam nhìn đăm đăm vào gương mặt lặng yên, nhợt nhạt của nàng. Y từ tốn nói:
“Hoặc nàng là một kẻ suy đồi hết mực, còn không thì là một nữ nhân hoàn toàn chân thật đến mức khó tin. Dù là thế nào thì ta không có hứng thú với lời đề nghị của nàng. Tuy nhiên, điều ta ưa thích chính là tìm hiểu các kiểu người và nàng là một kiểu người hoàn toàn mới mẻ với ta. Cho nên một cuộc hàn huyên ngắn ngủi và một chén trà xem như đã giải quyết món nợ ân tình mà nàng cho là đã nợ ta.”
Nàng mỉm cười yếu ớt.
“Mời an tọa! Để tiểu nữ đi thay y phục, ôi tấm áo choàng rách nát này.”
Nữ nhân biến mất sau tấm bình phong. Đào Cam rót cho mình một chén trà từ ấm trong giỏ. Hớp một ngụm trà, y tò mò nhìn vào dãy các hộp nhỏ được treo bằng những móc tre trên thanh sào bắc ngang dưới mái hiên. Có khoảng một tá hộp với hình dạng và kích
thước khác nhau. Xoay người lại, y nhìn lên chiếc kệ đặt phía trên chiếc trường kỷ, trên đó là bốn chiếc bình lớn bằng đất nung màu lục, mỗi bình có một nắp đậy vừa khít được đan từ tre. Y cau mày bối rối, chú ý lắng nghe. Ngoài những âm thanh hỗn độn vọng đến từ phố xá trong thành, Đào Cam nghe thấy một âm thanh vo vo dai
dẳng mà y không thể xác định được ở đâu. Có vẻ là phát ra từ những chiếc hộp nhỏ.
Đào Cam đứng dậy, bước ra đứng bên cạnh lan can, cẩn thận xem xét chúng. Mỗi chiếc hộp được đục những lỗ nhỏ, âm thanh chính là phát ra từ đó. Y chợt hiểu ra. Bên trong chứa những con dế. Bản thân y không có hứng thú đặc biệt với những con côn trùng đó, nhưng y biết nhiều bách tính yêu thích lắng nghe tiếng kêu ríu rít của chúng, thậm chí còn nuôi một vài con trong nhà, thường là trong những chiếc lồng nhỏ được đẽo bằng ngà voi hoặc dây bạc đắt đỏ. Có những người còn nghiện chơi đá dế. Họ mang những nhà vô địch của mình đến các tửu điếm và khu chợ để tìm kiếm đối thủ, rồi đặt cặp côn trùng hiếu chiến này vào một ống tre chạm trổ và khiến chúng ngứa ngáy bằng những sợi rơm mỏng để kích động chúng hăng máu lên. Những khoản tiền cược đáng kể đã được bỏ vào những trận đá dế này. Lúc này, y để ý thấy tiếng kêu mà mỗi con dế phát ra đều hơi khác nhau một chút. Tuy nhiên, tất cả chúng đều bị áp đảo trước một giọng trong trẻo, ngân vang phát ra từ quả bầu nhỏ treo ở cuối dãy. Âm thanh bắt đầu ở âm trầm, rồi dần vút lên một âm cao chót vót, rõ ràng đến kinh ngạc. Y tháo trái bầu xuống và áp vào tai. Đột nhiên giai điệu ngân vang chuyển thành tiếng kêu vo vo thầm thì.
Nữ nhân xuất hiện từ sau bức bình phong, giờ đây nàng vận một tấm áo choàng màu hoàng lục đơn giản viền đen với dây thắt lưng mỏng. Nàng tiến nhanh lại gần Đào Cam và khua tay mò mẫm giữa không trung để tìm chiếc lồng nhỏ.
Đào Cam gặp Kim Chung
“Xin hãy cẩn thận với con Kim Chung của tiểu nữ!” Nàng hét lớn. Đào Cam đặt quả bầu vào bàn tay nàng.
“Ta chỉ đang nghe âm thanh du dương của nó.” Y nói. “Nàng bán những sinh vật này à?”
“Đúng thế.” Nữ nhân đáp lời, treo quả bầu trở lại thanh sào. “Tiểu nữ bán chúng ở chợ hoặc là bán trực tiếp cho các khách nhân tử tế. Đây là con tốt nhất; nó rất hiếm, nhất là tại miền Nam này. Các cao thủ về chơi dế gọi nó là Kim Chung*.” Ngồi xuống trường kỷ và đặt đôi tay mảnh mai lên đùi, nàng nói thêm, “Trong những chiếc bình trên kệ đằng sau, tiểu nữ đựng vài con dế chọi. Bọn chúng cũng
đáng thương lắm; tiểu nữ ghét phải nghĩ đến cảnh những đôi chân cứng cáp và những cặp râu dài đẹp đẽ của chúng bị vỡ nát trong các cuộc chiến. Nhưng tiểu nữ vẫn phải tích trữ chúng, vì nhu cầu của khách đối với loại dế này khá là ổn định.”
Chuông vàng.
“Làm sao nàng bắt được chúng?”
“Tiểu nữ chỉ cần ngẫu nhiên đi bộ dọc theo các bức tường vây quanh các hoa viên và những tòa nhà cũ. Tiểu nữ nhận ra những con dế tốt qua tiếng gáy của chúng và dùng trái cây thái lát để làm mồi nhử. Mấy con vật nhỏ xíu này cũng khôn lắm; tiểu nữ thậm chí còn nghĩ bọn chúng quen biết mình nữa. Khi tiểu nữ thả chúng trong phòng này, chúng luôn quay lại chiếc hộp của mình ngay khi tiểu nữ ra lệnh.”
“Không có ai chăm sóc cho nàng à?”
“Tiểu nữ không cần ai chăm sóc cả, tiểu nữ có thể tự lo liệu khá chu toàn cho mình.”
Đào Cam gật đầu. Rồi y đột ngột nhìn ra. Y nghĩ mình đã nghe thấy tiếng cầu thang kêu cọt kẹt bên ngoài.
“Chẳng phải nàng nói hàng xóm quanh đây chỉ về nhà lúc đêm muộn thôi ư?”
“Đúng thế.” Nàng đáp.
Y chú ý lắng nghe. Nhưng bây giờ Đào Cam chỉ còn nghe được tiếng dế kêu. Chắc hẳn y đã nhầm. Y hỏi vẻ ngờ vực:
“Hầu như lúc nào nàng cũng một mình ở trong ngôi nhà này thì liệu có ổn không?”
“Ôi, ổn mà! Nhân tiện thì ngài có thể nói tiếng của mình. Tiểu nữ cũng khá quen với nó.”
“Không cần đâu, ta muốn tập luyện tiếng Quảng Châu của mình hơn. Nàng không có gia quyến thân thuộc ở trong thành sao?”
“Tiểu nữ có. Nhưng sau khi đôi mắt mất đi ánh sáng thì tiểu nữ đã bỏ nhà đi. Tiện đây xin giới thiệu tiểu nữ tên Lan Lỵ. Và tiểu nữ vẫn nghĩ ngài là một quan viên.”
“Đúng vậy, nàng đoán đúng. Ta làm công việc đại loại như của một Lục sự; trong đoàn tùy tùng của một vị khâm sai đến từ kinh thành. Ta họ Đào. Số tiền kiếm được từ những con dế này có đủ cho nàng trang trải nhu cầu hàng ngày không?”
“Đủ dùng và còn dư nữa! Tiểu nữ chỉ cần tiền cho mỗi chiếc bánh dầu vào bữa sáng và tối, và một tô mì cho bữa trưa. Bắt đám dế này thì không tốn gì cả, nhưng lại bán rất được giá. Chẳng hạn như con Kim Chung này. Ngài biết không, nó đáng giá một nén bạc đó! Nhưng không vì vậy mà tiểu nữ từng nghĩ đến việc sẽ bán nó! Sáng nay thức dậy, nghe tiếng nó kêu khiến tiểu nữ hạnh phúc lắm.” Nàng cười, đoạn nói tiếp, “Tiểu nữ chỉ vừa mới bắt được nó vào tối hôm qua thôi. Thật là vô cùng may mắn. Tiểu nữ đã vô tình đi dọc theo bức tường phía Tây của chùa Hoa Tháp*… Ngài biết ngôi chùa đó chứ?”
Là một trong bốn ngôi chùa cổ nhất Quảng Châu, được xây dựng năm 537. Từ đời Minh về sau được gọi là chùa Lục Dung.
“Tất nhiên rồi. Chùa Hoa Tháp, ở khu phía Tây thành.”
“Chính xác. Chuyện là như vậy, tối qua, tiểu nữ bỗng nhiên nghe thấy âm thanh của nó phát ra ở đó; tiếng kêu đầy sợ hãi. Tiểu nữ đặt một lát dưa chuột dưới chân tường và gọi nó ra, như thế này này.” Nàng mím môi lại và phát ra tiếng kêu giống với tiếng ríu rít của một con dế đến kỳ lạ. “Sau đó tiểu nữ ngồi xổm xuống và chờ đợi. Cuối cùng thì nó cũng đến; tiểu nữ nghe thấy nó nhai tóp tép miếng dưa chuột. Sau khi ăn no rồi thì nó vui lắm, tiểu nữ dụ nó chui vào trong trái bầu rỗng ruột mà tiểu nữ luôn mang theo trong tay áo.” Ngẩng đầu lên, nàng nói, “Nghe kìa! Bây giờ nó lại gáy rất hay, đúng không?”
“Chắc chắn rồi!”
“Tiểu nữ nghĩ có lẽ ngài cũng sẽ mê chúng thôi, sau một thời gian. Giọng điệu của ngài nghe rất tử tế; không thể là phường thảo khấu. Ngài đã làm gì hai tên nam nhân hành hung tiểu nữ vậy? Chúng dường như rất đau đớn.”
“À, ta không phải là một võ biền. Ta chỉ là một nam nhân đã luống tuổi. Khoảng gấp đôi tuổi nàng. Nhưng ta đã đi đến nhiều nơi và học cách tự lo cho mình. Ta mong từ giờ trở đi, nàng cũng sẽ học được như vậy, Lan Lỵ. Thế gian này đầy rẫy bọn người cặn bã sẵn sàng lợi dụng một thiếu nữ như nàng.”
“Ngài nghĩ vậy thật sao? Không hẳn đâu, nhìn một cách tổng thể thì tiểu nữ nhận thấy bách tính khá là tốt bụng. Và nếu họ có đồi bại, đó chủ yếu là vì họ thấy mình bất hạnh hay cô đơn, hoặc không thể có được thứ mình muốn; hay là có quá nhiều thứ mà họ muốn, có lẽ là
vậy. Dù sao đi nữa, tiểu nữ dám cược là hai tên kia thậm chí còn không có đủ ngân lượng lo cho mình một bữa ăn thịnh soạn nữa, chứ đừng nói đến một nữ nhân! Bọn chúng đã khiến tiểu nữ khiếp sợ vì nghĩ là chúng sẽ đánh mình bất tỉnh sau khi thỏa mãn với mình xong. Nhưng giờ thì tiểu nữ nhận ra cuối cùng bọn chúng sẽ không làm như vậy, vì biết rằng tiểu nữ bị mù nên sẽ không bao giờ có thể tố giác chúng được.”
“Lần sau gặp chúng”, Đào Cam cáu kỉnh nói, “ta sẽ thưởng cho mỗi tên một nén bạc, xem như là phần thưởng vì ý tốt của chúng!” Y uống cạn chén trà, rồi nở lại nụ cười hài lòng, “Nhắc đến bạc, ta cho là chúng sẽ vô cùng cần đến! Vì một kẻ sẽ không bao giờ có thể sử dụng tay phải được nữa, còn tên kia sẽ cố rửa vôi sống khỏi mắt mình và sẽ bị tàn phế cả đời!”
Nữ nhân giật nảy người lên.
“Chuyện ngài làm thật đáng kinh tởm!” Nàng la lên giận dữ. “Và ngài có vẻ thích thú với điều đó! Ngài thật là tàn nhẫn, bỉ ổi!”
“Còn nàng là một thiếu nữ rất xuẩn ngốc!” Đào Cam vặn lại. Đứng dậy và tiến về phía cánh cửa, y chua chát nói thêm, “Cảm tạ vì chén trà!”
Nàng dò dẫm mò lấy ngọn nến rồi tiến lại gần đầu cầu thang, đứng ngay sau Đào Cam, giơ cao ngọn nến.
“Cẩn thận đó”, nàng thì thầm nói, “những bậc thang này trơn lắm.” Đào Cam lẩm bẩm gì đó rồi đi xuống.
Trong con hẻm tối, y căng mắt nhìn kĩ căn nhà. Như một thói quen, y tự nhủ với mình; tất nhiên là ta không hề có một ý định nào, dù là nhỏ nhất, quay lại nơi này. Ta chẳng có hứng thú gì với nữ nhân, huống hồ là tiểu nha đầu ngu ngốc đó cùng với lũ dế của nàng ta! Y bước đi về hướng đã định, khó chịu vô cùng.
HỒI 4
Đô đốc phủ, Địch Công gặp thuộc hạ
Quảng Châu thành, Liễu Ngự sử thất tung
Con đường chính chạy xuyên qua thành từ Bắc xuống Nam được thắp sáng rực rỡ bằng những ngọn đèn lồng sặc sỡ của các cửa tiệm, trà lâu và tửu quán. Hòa vào dòng người đông đúc, lắng nghe những cuộc cãi vã ác liệt và đấu khẩu dữ dội, tâm trạng của Đào Cam đã khá hơn. Nụ cười châm biếm thường thấy lại hiện trên gương mặt y khi bức tường cao vút bao quanh Đô đốc phủ hiện ra trong tầm mắt.
Nơi đây có ít cửa tiệm hơn, người qua lại cũng thưa thớt dần. Giờ y chỉ thấy chủ yếu là những toà nhà cao, cổng được những lính gác có vũ trang bảo vệ. Tọa lạc phía bên trái là nha môn Đô đốc phủ, bên cánh phải là chiết xung phủ*. Đào Cam bước qua những bậc thềm đá hoa cương rộng rãi dẫn lối lên cánh cổng sơn son lộng lẫy của dinh thự. Đi theo bức tường loang lổ gớm ghiếc, y gõ vào cái lỗ nhìn trên một cánh cổng nhỏ hơn ở góc phía Đông của khu nhà. Đào Cam khai báo danh tính cho lính gác. Đẩy nhẹ cánh cửa mở ra, y bước xuyên qua hành lang dài lát đá cẩm thạch tạo ra âm vang để đi tới sân trong riêng biệt nằm ở dãy nhà phía Đông, Địch Công đang lưu trú tại đây.
Đơn vị tổ chức cơ bản của phủ binh, chế độ quân sự Trung Quốc thời Tuỳ - Đường. Phủ binh phải thay nhau đóng ở kinh sư, ngoài ra còn được điều đi đóng giữ ở các khu vực xung yếu, mỗi năm một kỳ.
Trong phòng chờ, viên tổng quản vận y phục trang nhã đang nhướng mày chăm chú xem xét kĩ lưỡng vị khách nhếch nhác. Đào Cam bình tĩnh cởi chiếc áo chẽn da dê ra. Bên trong y vận một tấm trường bào màu nâu sẫm, cổ áo và cổ tay áo thêu chỉ vàng thể hiện chức vị Trưởng sử của mình. Viên tổng quản nhanh chóng cúi đầu
thi lễ, rồi kính cẩn cầm lấy bộ y phục tồi tàn của y. Đoạn hắn đẩy cánh cửa kép cao nghệu mở ra.
Gian sảnh mênh mông trống trải được thắp sáng lờ mờ nhờ một tá giá nến bạc đứng sừng sững giữa những cây cột lớn sơn son tạo thành hai hàng trang nghiêm dọc theo các vách tường. Ở bên trái là một chiếc trường kỷ rộng được đẽo từ gỗ đàn hương cùng một chiếc bàn, trên bàn có đặt một bình hoa bằng đồng. Chính giữa sảnh chỉ có một tấm thảm lớn màu xanh lam sẫm trải rộng mênh mông. Ở xa xa cuối sảnh, Đào Cam nhìn thấy một chiếc án thư to lớn, đặt trước bức bình phong thếp vàng. Địch Công đang an tọa sau đó, đối diện là Kiều Thái ngồi trên chiếc ghế thấp. Trong sảnh thật mát mẻ và yên ắng. Khi Đào Cam bước ra phía sau, y ngửi được mùi hương thoang thoảng của gỗ đàn hương và hoa nhài khô.
Địch Công vận tấm trường bào tím thêu viền vàng, đầu đội mũ ô sa cánh chuồn cao có gắn kim huy của tước vị Ngân thanh Quang lộc Đại phu*. Ông đang ngồi tựa lưng vào chiếc ghế bành rộng rãi, khoanh tay lại trong tà áo rộng. Kiều Thái có vẻ cũng đang đắm chìm trong suy nghĩ; y nhìn chằm chằm vào những món đồ cổ bằng đồng trên án thư, bờ vai rộng của y khom xuống. Đào Cam chợt nhận thấy Địch Công đã già đi nhiều suốt bốn năm qua. Gương mặt của ông hốc hác hơn, khóe mắt và vành miệng cũng đã xuất hiện nhiều nếp nhăn sâu hoắm. Hàng chân mày rậm của ông vẫn còn đen tuyền, nhưng bộ râu dài, hàng ria và tóc mai đã ngả hoa râm.
Chức quan văn kiêm nhiệm, tuy phẩm hàm cao nhưng không có thực quyền, chuyên cố vấn chính sự.
Khi Đào Cam tiến lại gần án thư và cúi đầu thi lễ, Địch Công nhìn lên. Ông thẳng người lên, giũ ống tay áo dài ra, rồi nói với giọng trầm vang:
“Hãy ngồi bên cạnh Kiều Thái đi. Chúng ta có một hung tin, Đào Cam à. Ta đã đúng khi cho hai ngươi cải trang đến bến thuyền, vì điều đó đã khiến mọi chuyện bắt đầu tiến triển. Rất nhanh.” Ông quay sang viên tổng quản vẫn còn đứng ở đó:
“Mang trà mới lên đây!”
Sau khi tổng quản rời đi, Địch Công chống khuỷu tay lên án thư, chăm chú nhìn hai thuộc hạ hồi lâu, rồi tiếp tục nói với nụ cười ảm đạm:
“Thật tốt khi chúng ta lại được kề vai sát cánh nhau, các bằng hữu! Sau khi đến kinh thành, mỗi người chúng ta đều phải bận bịu với công vụ của riêng mình, đến nỗi hiếm khi có dịp ngồi hàn huyên tâm sự như chúng ta từng làm mỗi ngày khi ta vẫn còn giữ chức Huyện lệnh. Những ngày tháng đó thật vui vẻ, khi mà Hồng sư gia vẫn còn bên cạnh chúng ta và…” Ông đưa tay lên che mặt với điệu bộ mệt mỏi. Sau đó ông tự trấn tĩnh lại và ngồi thẳng người lên. Địch Công mở cây quạt xếp, nghiêm nghị nói với Đào Cam, “Vừa mới đây thôi, Kiều Thái đã chứng kiến một vụ án mạng vô cùng tàn nhẫn. Tuy nhiên, trước khi y kể cho ngươi nghe về chuyện đó, ta muốn nghe những ấn tượng của ngươi về thành trấn này.”
Ông gật đầu với thuộc hạ gầy gò của mình, tựa lưng vào ghế và bắt đầu phe phẩy quạt. Đào Cam cựa mình trên chiếc ghế rồi bắt đầu kể:
“Sau khi Kiều Thái và thuộc hạ hộ tống đại nhân về nha phủ nơi đây, chúng thuộc hạ lên kiệu đi tới phía Nam thành, tìm chỗ trọ gần khu người Hồ, theo như lệnh của đại nhân. Kiều đệ chọn một khách điếm gần khu chùa Hoài Thánh, còn thuộc hạ thì ở bên ngoài cổng Nam thành, tại bến sông. Chúng thuộc hạ tái ngộ tại một tửu quán nhỏ để dùng cơm trưa, và dành cả buổi chiều tản bộ dọc theo bờ sông. Chúng thuộc hạ nhìn thấy có nhiều người Đại Thực ở xung quanh; thuộc hạ còn nghe nói khoảng một ngàn người đã định cư trong thành này, và thêm một ngàn người nữa đang ở trên thuyền neo tại cảng. Tuy nhiên, họ sống rất khép kín và có vẻ như không hòa hợp được nhiều với bách tính Đại Đường. Vài thủy thủ Đại Thực trở nên hung hăng khi một lính gác ở Thị bạc ty tấn công một nam nhân trong số bọn chúng, nhưng chẳng mấy chốc chúng đã trật tự sau khi bị binh lính dàn quân bao vây và một trong những tên thủ lĩnh lên tiếng thị uy nạt nộ.”
Y trầm tư vuốt ria rồi tiếp tục, “Quảng Châu là thành trấn phồn vinh bậc nhất miền Nam, thưa đại nhân, nổi tiếng với đời sống về đêm rất nhộn nhịp, nhất là ở những chiếc thuyền hoa trên sông Châu Giang. Cuộc sống ở vùng đất này chuyển biến với tốc độ chóng mặt: một thương nhân giàu có hôm nay nhưng có thể thành khất cái vào ngày mai; hàng đêm tại các đổ phường, vận may được tạo ra và biến mất. Thật hoàn toàn không ngoa khi nói nơi đây là thiên đường thật sự dành cho tất cả những trò lừa đảo và bịp bợm, dù lớn hay nhỏ, và mỗi đêm đều có kha khá các vụ lừa đảo ngân lượng. Nhưng bách tính Quảng Châu chủ yếu là thương nhân, nên họ không bận tâm nhiều đến chuyện triều đình. Nếu đôi lúc họ càu nhàu một chút về triều đình, hầu hết các thương nhân đều thế, thì đó chỉ là vì họ phẫn nộ với việc can thiệp vào giao thương của mình. Nhưng thuộc hạ vẫn không thấy có dấu hiệu của sự bất mãn thật sự nào, và thuộc hạ cũng không hiểu làm sao một nhóm người Đại Thực lại có thể gieo rắc rối thực sự ở nơi đây.”
Địch Công vẫn im lặng, Đào Cam nói tiếp:
“Trước khi rời bến thuyền, trong một tửu điếm, chúng thuộc hạ đã kết giao với một vị thuyền trưởng họ Nghê, một người tử tế có thể nói được tiếng Đại Thực và tiếng Ba Tư, từng giao thương ở vịnh Ba Tư. Vì hắn có vẻ là một đầu mối liên lạc hữu ích, nên Kiều Thái
đã chấp nhận lời mời ghé thăm hắn vào ngày mai.” Y dè dặt nhìn Địch Công, đoạn hỏi, “Tại sao ngài lại quá quan tâm đến những tên da đen mọi rợ đó vậy, thưa đại nhân?”
“Bởi vì, Đào Cam à, bọn họ là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta trong việc tìm ra manh mối về nơi ở của một nhân vật cực kỳ quan trọng đã mất tích trong thành này.” Địch Công chờ đến khi hai gia nhân đặt khay trà bằng sứ cổ tinh xảo lên án thư trước ánh nhìn của viên tổng quản. Sau khi tổng quản rót trà, Địch Công bảo hắn, “Các ngươi có thể đi và chờ ở bên ngoài.” Rồi ông lại tiếp tục, điềm tĩnh nhìn hai thuộc hạ, nói tiếp:
“Kể từ khi Thiên hoàng* lâm bệnh, trong triều đình hình thành các bè phái đối địch nhau. Một số ủng hộ Thái tử Điện hạ*, người thừa kế ngai vàng hợp pháp; còn lại theo phe Thiên hậu*, nương nương
luôn muốn thay thế Thái tử bằng một thành viên trong gia tộc của mình; ngoài ra còn một số khác kết bè kéo cánh với nhau tạo thành một liên minh quyền lực ủng hộ cho chế độ Nhiếp chính sau khi Bệ hạ băng hà. Nhân vật đang nắm giữ cán cân quyền lực chính là Ngự sử Đại phu Liễu Đạo Viễn. Ta nghĩ các ngươi chưa từng gặp, nhưng dĩ nhiên đã nghe danh của ngài rồi. Một nam nhân trẻ tuổi nhưng rất có năng lực, hết lòng phụng sự vì lợi ích của vương triều Đại Đường. Ta đã duy trì mối quan hệ thân thiết với ngài ấy, do ta kính trọng sự chính trực và tài năng tuyệt vời của Liễu đại nhân. Nếu có biến loạn xảy ra, ta sẽ hết lòng hỗ trợ ngài ấy.”
Đường Cao Tông.
Chương Hoài Thái tử Lý Hiền.
Võ Tắc Thiên.
Địch Công nhấm nháp chén trà. Cân nhắc một lát, ông nói tiếp:
“Khoảng sáu tuần trước, Liễu Ngự sử đã đến Quảng Châu, tháp tùng là vị quân sư thân tín, Tô Chủ sự cùng với một số thị vệ. Thượng thư tỉnh* đã lệnh cho ngài kiểm tra công tác chuẩn bị cho cuộc viễn chinh bằng đường thủy của chúng ta đến An Nam. Ngài trở về kinh thành và dâng lên một bản tấu sớ đầy triển vọng, khen ngợi công cán của Ôn Khản, Đô đốc Lĩnh Nam. Ta hiện đang là khách của ông ấy ở đây.
Cơ quan hành chính tối cao, chưởng lãnh bá quan trong triều, nắm giữ quyền hành chính, cao nhất dưới Hoàng đế, thay mặt Hoàng đế thi hành quyền quản lý hành chính, trực tiếp quản lý lục bộ Thượng thư.
“Tuần trước, Ngự sử đại nhân đột ngột quay lại Quảng Châu, lần này thì chỉ có Tô Chủ sự hộ tống. Ngài ấy không hề nhận được lệnh của triều đình để làm chuyện này, cũng không ai biết mục đích của chuyến viếng thăm lần hai này là gì. Liễu đại nhân cũng không thông báo cho Ôn Đô đốc khi ngài đến nơi, cũng chẳng hề lộ diện ở phủ này; rõ ràng là ngài ấy muốn giữ kín hành tung. Nhưng một mật
thám của Đô đốc từng có lần tình cờ trông thấy Ngự sử đại nhân và Tô Chủ sự ở gần khu người Hồ, đi chân trần và vận đồ rách rưới. Sau khi Đô đốc trình báo việc này về kinh thành, Thượng thư tỉnh chỉ thị cho ông ta truy ra nơi ở của Ngự sử đại nhân, đồng thời báo cho ngài ấy biết Thượng thư tỉnh lệnh cho ngài phải lập tức hồi kinh không được chậm trễ, vì tại triều đình có chuyện cấp bách cần có sự hiện diện của Ngự sử đại nhân. Ôn Đô đốc đã huy động tất cả các mật thám, ám vệ và các thủ hạ khác của mình. Họ bới tung cả thành lên, nhưng đều công cốc. Ngự sử đại nhân và Tô Chủ sự vẫn biệt vô âm tín.”
Địch Công trút một hơi thở dài. Ông lắc đầu và tiếp tục:
“Vấn đề này phải được liệt vào dạng công vụ tối mật cần được giám sát chặt chẽ, vì sự vắng mặt lâu ngày của Ngự sử đại nhân ở kinh thành có thể gây ra những hậu quả triều chính nghiêm trọng. Thượng thư tỉnh nghi ngờ có vấn đề gì khuất tất ở đây, do đó đã thông báo cho Ôn Đô đốc biết sự vụ đã được xử lý xong xuôi, lệnh cho ông ta ngừng tìm kiếm. Tuy nhiên, Thượng thư tỉnh đồng thời cũng chỉ thị cho ta tới Quảng Châu bí mật điều tra, viện cớ là đi thu thập thông tin về tình hình ngoại thương theo yêu cầu truy vấn của Bộ Hộ*. Tuy nhiên, thực tế thì nhiệm vụ của chúng ta là tìm cách liên lạc với Ngự sử đại nhân, tìm hiểu từ chính ngài ấy xem hà cớ gì ngài ấy lại thân chinh đến Quảng Châu, và chuyện gì đang khiến ngài phải lưu lại chốn đây. Còn Tô Chủ sự thì chúng ta không cần tìm kiếm thêm nữa. Thi thể của ông ta đang nằm trong sảnh bên. Hãy kể cho Đào Cam biết chuyện gì xảy đi, Kiều Thái!”
Cơ quan phụ trách kiểm soát thuế khóa, tài chính, ngân khố của quốc gia.
Kiều Thái kể ngắn gọn cho vị bằng hữu đang ngạc nhiên nghe về vụ án hai nhân mạng trong khu người Hồ. Khi y kết thúc, Địch Công nói:
“Ta ngay lập tức nhận ra thi thể được Kiều Thái mang về đây chính là của Tô Chủ sự. Ông ta hẳn là đã nhận ra Kiều Thái khi hai người đang quẩn quanh ở khu vực bến thuyền, nhưng ông ta chưa muốn
bắt chuyện với Kiều Thái khi mà ngươi, Đào Cam, vẫn còn đi chung với y, do ông ta chưa từng gặp ngươi bao giờ cả. Vì thế, họ Tô bám theo đến tửu điếm, và sau khi hai ngươi đã tách ra, ông ta liền bắt chuyện với Kiều Thái. Tuy nhiên, bản thân Tô Chủ sự đã bị một tên sát thủ Đại Thực và một tên lùn bí ẩn theo dõi. Hai kẻ đó hẳn là đã thấy họ Tô bắt chuyện với Kiều Thái, và chúng nhanh chóng ra tay hành động. Do khu người Hồ giống như một hang thỏ với những con hẻm quanh co và những lối đi tắt mà chẳng ai ngờ ra được, nên chúng và bọn đồng lõa có thể đi trước một bước và giấu mình ở hai hay ba con hẻm mà Kiều Thái và Tô Chủ sự có thể sẽ đi ngang qua. Tên sát thủ Đại Thực đã thành công phần nào khi hạ sát được họ Tô. Hắn cũng trù tính thủ tiêu cả Kiều Thái, nhưng rồi một bên thứ ba không rõ hành tung đã can thiệp vào và siết cổ hắn. Vậy là chúng ta phải đối mặt với hai nhóm có tổ chức quy củ, cách thức ra tay đều tàn nhẫn như nhau, nhưng lại theo đuổi những mục tiêu trái ngược nhau. Điều đó chứng tỏ Ngự sử đại nhân quả thực đang gặp vấn đề rất nghiêm trọng.”
“Thưa đại nhân, không có dấu hiệu nào chỉ ra bản chất của vấn đề sao?” Đào Cam hỏi.
“Không có gì cả ngoại trừ mối quan tâm rõ ràng của ngài ấy đến dân Đại Thực ở nơi đây. Sau khi hai ngươi rời đi vào sáng nay để tìm chỗ trọ, Ôn Đô đốc đưa ta tới nơi ăn và nghỉ ở dãy phòng phía Đông. Ta bảo ông ta chuyển cho mình những hồ sơ mật về quan lại triều đình ở cấp châu và huyện trong năm ngoái, để ta có được định hướng chung. Ta đã dành cả buổi sáng để nghiên cứu kĩ lưỡng tất thảy. Tuy nhiên, ta chỉ phát hiện ra những vấn đề thường nhật, không có gì liên quan đến người Đại Thực ở đây cả, và cũng chẳng có gì kinh tâm động phách đến mức khiến Ngự sử đại nhân phải đặc biệt lưu tâm cả. Dù vậy, ta đã tìm ra bản tấu của mật thám đã thoáng nhìn thấy Ngự sử đại nhân và Tô Chủ sự. Trong đó hắn nói rõ hai người họ ăn vận rách rưới, trông thần sắc mệt mỏi và lo lắng. Ngự sử đại nhân đã tiếp cận nói chuyện với một người Đại Thực đi ngang qua. Ngay khi mật thám bước đến gần họ để xác định danh tính thì cả ba nam nhân đã biến mất vào đám đông. Hắn tức tốc hồi phủ tâu lại những gì đã chứng kiến cho Ôn Đô đốc.”
Địch Công uống cạn chén trà rồi nói tiếp, “Trước khi rời kinh thành, ta đã tiến hành nghiên cứu những công vụ mà Liễu Ngự sử đang giải quyết, nhưng ta không tìm được vấn đề nào dính líu đến Quảng Châu hay người Đại Thực ở nơi đây cả. Còn về đời tư thì ta chẳng biết gì ngoài sự thật ngài ấy là một nam nhân cực kỳ giàu có nhưng vẫn chưa thành gia lập thất, và trừ Tô Chủ sự ra thì ngài không có bằng hữu nào cả.” Trao cho hai thuộc hạ một ánh nhìn sắc bén, Địch Công nói thêm, “Phiền hai ngươi đừng để cho Ôn Đô đốc biết tất cả chuyện này! Mới đây thôi, khi vừa dùng trà với ông ta, ta đã bảo ông ta rằng Tô Chủ sự là một nhân vật có lai lịch bất minh đến từ kinh thành và đã trà trộn với bọn vô lại Đại Thực ở chốn đây. Phải để cho Ôn Đô đốc có ấn tượng rằng chúng ta ở đây chỉ để điều tra về tình hình ngoại thương.”
“Tại sao, thưa đại nhân?” Kiều Thái thắc mắc. “Ngài ấy là người có quyền hành cao nhất ở địa phương, ngài ấy có thể giúp chúng ta trong việc…”
Địch Công dứt khoát lắc đầu.
“Ngươi phải nhớ rằng”, ông nói, “Ngự sử đại nhân không báo cho Ôn Đô đốc về chuyến viếng thăm Quảng Châu lần hai. Đó có thể là do công vụ lần này của Ngự sử đại nhân vô cùng cơ mật, đến nỗi ngài ấy thậm chí không dám tiết lộ cho Đô đốc. Tuy nhiên, cũng có thể là Ngự sử đại nhân không tin tưởng Đô đốc và nghi ngờ ông ta có liên quan đến những công vụ bí ẩn mà ngài đang tra xét ngọn nguồn tại đây. Dù là trường hợp nào đi nữa thì chúng ta cũng phải tuân theo chính sách tuyệt mật của Ngự sử đại nhân - ít nhất là cho đến khi chúng ta biết thêm được những chuyện gì đang diễn ra ở nơi đây. Do đó, bản thân chúng ta không thể tận dụng được những nguồn lực mà nha phủ địa phương có thể cung cấp cho mình. Tuy vậy, sau khi dùng cơm trưa, ta đã cho triệu chấp pháp quan* tới, và y đã cắt cử bốn chấp pháp vệ hỗ trợ chúng ta những sự vụ thường nhật trong tiến trình điều tra. Như các ngươi biết đó, chấp pháp quân hoạt động hoàn toàn độc lập; các võ tướng địa phương cũng không thể ra lệnh cho họ, và họ bẩm báo trực tiếp về kinh thành.” Ông thở dài rồi nói tiếp, “Vậy là các ngươi có thể thấy chúng ta đang
phải đương đầu với một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn. Một mặt, chúng ta phải vờ tỏ ra là đang cộng tác chặt chẽ với Ôn Đô đốc để tìm hiểu một mục đích giả tưởng, mặt khác, chúng ta vẫn phải tiến hành cuộc điều tra của riêng mình với sự cẩn trọng tuyệt đối.”
Chức vụ đứng đầu chấp pháp đội - lực lượng bán vũ trang làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự trong quân đội và hỗ trợ tư pháp.
“Và cả một đối thủ ẩn danh trong bóng tối, mà chúng ta thì đang ở ngoài sáng, chúng đang theo dõi sát sao hành động của chúng ta!” Đào Cam bình phẩm.
“Không chỉ chúng ta mà còn theo dõi cả Ngự sử đại nhân và Tô Chủ sự.” Địch Công đính chính. “Về phần kẻ đó, hay những kẻ đó, cũng không thể biết được mục đích thật sự của chúng ta đến đây là gì; đây là cơ mật, chỉ có Thượng thư tỉnh mới biết. Bọn chúng theo dõi Tô Chủ sự, và có lẽ là cả Ngự sử đại nhân, bởi vì chúng không muốn họ liên hệ với những người bên ngoài. Và bởi chúng là những kẻ giết người không gớm tay, không hề biết ‘đao hạ lưu tình’, nên Ngự sử đại nhân có thể đang trong tình trạng vô cùng nguy hiểm.”
“Liệu có bất cứ căn cứ nào để ngờ vực Ôn Đô đốc không, thưa đại nhân?” Kiều Thái hỏi.
“Theo như ta biết thì không. Trước khi rời kinh thành, ta đã tra cứu hồ sơ của ông ta tại Bộ Lại*. Họ Ôn được mô tả là một viên quan mẫn cán và có thực lực. Từ hai mươi năm trước, khi còn là một Huyện thừa* ở địa phương này, ông ta đã có tiếng tuổi trẻ tài cao. Sau đó, ông ta tiếp tục phụng sự triều đình ở chức vụ Huyện lệnh tại nhiều huyện, rồi được thăng chức làm Thứ sử. Hai năm trước, ông ta lại được điều về Quảng Châu, lần này là giữ chức Đô đốc cai quản cả Lĩnh Nam. Đời tư của Đô đốc cũng rất mẫu mực; ông có ba nhi tử và một nhi nữ. Lời chỉ trích duy nhất mà ta tìm được đó là ông ta bị tham vọng làm mờ mắt, đang nung nấu hy vọng sẽ được giữ chức vụ Kinh triệu doãn*. À, sau khi kể lể một hồi để đánh lạc hướng ông ta khỏi vụ án mạng Tô Chủ sự, ta đã lệnh cho ông ta mở một cuộc hội ý khoảng hai khắc* trước khi bắt đầu bữa tối, mời những nhân vật am hiểu nhất về ngoại thương tới dự. Theo đó, ta
hy vọng thu thập được một số thông tin chung về tình hình người Đại Thực, dưới vỏ bọc về tình hình ngoại thương nói chung.” Địch Công đứng lên và nói, “Chúng ta hãy đến Đô đốc phủ thôi; họ đang chờ chúng ta.”
Cơ quan phụ trách kiểm tra, thăng, giáng, nhậm chức hoặc bãi miễn quan viên từ tứ phẩm trở xuống.
Chức quan ở dưới Huyện lệnh, giúp việc cho Huyện lệnh. Chức quan giữ nhiệm vụ quản lý hành chính và trị an ở kinh đô. 1 khắc = 15 phút.
Khi ba người bước ra đến cửa, Đào Cam hỏi:
“Thưa đại nhân, một Ngự sử Đại phu thì có thể có việc gì với các sự vụ tầm thường của bọn man di da đen đó chứ?”
“Ôi, ai mà biết được.” Địch Công cẩn trọng nói. “Có vẻ như các bộ tộc người Hồ đã hợp nhất lại dưới trướng một thủ lĩnh mà họ tôn sùng, gọi là Cáp Lý Phát*. Đám quân ô hợp của hắn đã giày xéo, tàn phá hầu hết vùng hoang mạc phía Tây. Tất nhiên là những gì diễn ra ở các vùng đất man di bên ngoài lãnh thổ Đại Đường văn minh này đều không liên quan đến chúng ta; tên Cáp Lý Phát này thậm chí còn chẳng là gì cả nên hắn không dám cử sứ giả mang đồ triều cống đến cầu xin Thiên hoàng ban cho hắn tước vị chư hầu. Thế nhưng có khả năng là một lúc nào đó, hắn có thể sẽ thiết lập liên lạc với kẻ thù không đội trời chung của Đại Đường, bọn Thát Đát* sống bên ngoài biên giới Tây Bắc. Bên cạnh đó, những chiếc thuyền Đại Thực tại miền Nam này có thể là để cung cấp khí giới cho đám phiến quân ở phía Nam - đây chỉ là hai phỏng đoán đang xuất hiện ngay trong tâm trí của ta thôi. Nhưng chúng ta đừng tự suy đoán viển vông nữa. Theo ta!”
Khalip (vua Hồi) là chức sắc cao nhất đối với tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Trong nhiều thế kỷ, Khalip cũng giữ vai trò Hoàng đế chung của tất cả các nước mà Hồi giáo là quốc đạo.
Một bộ lạc hùng mạnh thống trị ở khu vực phía Bắc Trung Quốc, nay là cao nguyên Mông Cổ.
HỒI 5
Ôn Khản dẫn kiến chứng nhân
Địch Công cải trang tra án
Viên tổng quản cẩn thận dẫn Địch Công và hai thuộc hạ đi qua một hành lang phủ mái che, ngoằn ngoèo như một mê cung kỳ dị. Sau khi băng qua khoảng sân giữa bên trong, nơi mà các viên Lục sự, tín sứ và lính canh đang hối hả ngược xuôi dưới ánh đèn lồng sặc
sỡ, hắn đưa họ tiến vào một cánh cổng đường bệ rồi hộ tống tất cả nhập Đô đốc phủ đang được thắp sáng rực rỡ với tầng tầng lớp lớp những giá nến cao vượt đầu người.
Đô đốc - một nam nhân cao lớn, râu rậm, vai rộng, lưng gù, cúi đầu thi lễ cung nghênh Địch Công, khiến cho hai ống tay của tấm áo choàng gấm xanh lục thêu kim tuyến lộng lẫy khẽ quẹt xuống mặt sàn đá cẩm thạch. Phù hiệu vàng gắn trên hai cánh chuồn rung rinh của chiếc mũ chóp cao ông ta đang đội tạo nên những âm thanh leng keng. Ông ta tiếp nhận lời giới thiệu của Địch Công về Đào Trưởng sử và Kiều Đô úy qua một cái cúi đầu khác, giờ thì theo kiểu chiếu lệ, qua loa. Kế đó, ông ta giới thiệu một nam nhân cao niên, vóc người mảnh khảnh, đang quỳ gối bên cạnh mình. Người này chính là Bảo Khoan, Thứ sử Quảng Châu, chịu trách nhiệm cai quản vùng này. Thứ sử khấu đầu hành lễ.
Địch Công bảo Thứ sử đứng dậy. Sau khi nhìn qua gương mặt nhăn nheo, đầy lo lắng của nam nhân già cả đó, Địch Công đi theo Đô đốc. Ông được dẫn tới một chiếc ghế có hình dáng tựa như ngai vàng ở phía cuối căn phòng. Rồi Đô đốc cúi người đứng kính cẩn trước bục; vì tuy là nhân vật có quan vị lớn nhất Lĩnh Nam, nhưng so về phẩm cấp, ông ta vẫn kém hơn Địch Công vài bậc - người hiện giờ đã đứng đầu Đại lý tự, và có hai năm kiêm nhiệm chức Ngân thanh Quang lộc Đại phu của triều đình.
Địch Công an tọa, còn Kiều Thái và Đào Cam đứng hai bên bục. Đào Cam toát lên vẻ nghiêm trang trong tấm áo choàng dài màu nâu
và chiếc mũ the cao đặt trên đầu. Kiều Thái đội chiếc mũ chỏm nhọn, đeo một thanh gươm lấy từ võ khố của Đại nội. Bộ áo giáp xích ôm sát làm lộ ra dáng vẻ vai u thịt bắp của y.
Đô đốc cúi xuống, đoạn trịnh trọng cất lời:
“Theo huấn thị của đại nhân, hạ quan đã cho vời Lương Phổ tiên sinh và Diêu Thái Khai tiên sinh. Lương tiên sinh là một trong những thương nhân giàu có nhất tại thành này, ông ấy…”
“Ông ấy có liên quan gì đến nhà họ Lương, gia tộc đã bị một tên sát nhân khét tiếng giết liền chín mạng người, suýt nữa bị diệt môn hay không? Chính ta đã xử lý vụ án đó mười bốn năm trước khi còn là Huyện lệnh Phổ Dương*.”
Xem tập Bí mật quả chuông trong bộ Địch Công kỳ án.
“Đó là một trong những vụ án nổi tiếng nhất của đại nhân!” Đô đốc nhã nhặn nói. “Nó vẫn còn được nhắc đến ở chốn đây, tại vùng Quảng Châu này, với sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của bách tính lê dân! Nhưng họ Lương này là người của một gia tộc hoàn toàn khác. Lương tiên sinh là nhi tử duy nhất của cố Bình Nam tướng quân Lương Tường.”
“Một gia tộc lừng lẫy.” Địch Công bình phẩm. Xòe chiếc quạt của mình ra, ông tiếp tục, “Lương tướng quân là một chiến binh nghĩa đảm can trường, và là một chiến lược gia kinh bang tế thế. Ngài ấy còn được lưu danh thiên cổ với danh xưng ‘Người chinh phục Nam Hải’. Ta mới gặp ngài được một lần, nhưng nhớ rất rõ vẻ ngoài phi phàm đó. Một nam nhân thấp đậm, bờ vai rộng bản, với một gương mặt phẳng lì, khá là khó coi - vầng trán thấp cùng đôi gò má cao. Nhưng một khi đã trông thấy đôi mắt sắc sảo ấy, mọi người sẽ hiểu rằng mình đang diện kiến một nam nhân thật sự vĩ đại.” Địch Công vuốt chòm ria, đoạn hỏi, “Vậy tại sao nhi tử của Bình Nam tướng quân không tiếp nối truyền thống của gia tộc?”
“Thưa đại nhân, sức khỏe xấu khiến cho Lương tiên sinh không thể theo nghiệp binh gia. Đây thực sự là một điều đáng tiếc, vì họ
Lương thừa hưởng tài thao lược của phụ thân mình, được chứng tỏ qua sự nhạy bén trong việc quản lý dược đường của Lương gia. Ngoài ra, Lương tiên sinh còn sở hữu một kỳ nghệ hiếm có! Lương tiên sinh là kỳ thủ vô địch tại phủ này.” Đưa tay che tiếng ho, Đô đốc nói tiếp, “Tất nhiên một nam nhân thuộc dòng dõi Lương gia sẽ không hạ mình trực tiếp… à… giao thiệp với những thương nhân man di. Nhưng tiên sinh đảm bảo mình luôn nắm rõ đại cục. Trái lại, Diêu Thái Khai lại có mối quan hệ mật thiết với những thương nhân ngoại bang, chủ yếu từ Đại Thực và Ba Tư. Diêu tiên sinh không màng đến chuyện này, vì ông ta xuất thân từ một gia đình khá là… ừm… tầm thường, bản tính lại khoáng đạt và thoải mái. Hạ quan nghĩ rằng Lương tiên sinh và Diêu tiên sinh sẽ có thể trình bày cho đại nhân nghe một mô tả tương đối hoàn chỉnh về thực trạng giao thương trong địa hạt của hạ quan.”
“Đây là một thành lớn.” Địch Công thản nhiên bình phẩm. “Thiên hạ sẽ nghĩ rằng nơi đây có nhiều chuyên gia về ngoại thương hơn là chỉ hai kẻ này.”
Đô đốc liếc nhanh về phía Địch Công, rồi khẽ nói:
“Thưa đại nhân, việc giao thương với ngoại bang được tổ chức rất chặt chẽ. Phải như vậy thôi, bởi vì triều đình nắm quyền kiểm soát một phần trong đó. Chính hai tiên sinh này là những người đang âm thầm kiểm soát tình hình.”
Kiều Thái tiến về phía trước và nói:
“Thuộc hạ nghe nói có một thuyền trưởng họ Nghê cũng được coi là một chuyên gia trong lĩnh vực này. Những con thuyền của hắn thường xuôi tuyến qua lại giữa các bến cảng tại Quảng Châu và Đại Thực.”
“Họ Nghê ư?” Đô đốc hỏi. Ông ta ném ánh nhìn đầy hoài nghi về phía Bảo Thứ sử. Y chậm rãi vuốt chòm râu dê lưa thưa của mình, đoạn ngờ ngợ nói:
“Ồ, vâng, đúng rồi! Vị thuyền trưởng này nổi tiếng trong giới hải vận. Nhưng có vẻ như hắn đã yên vị trên đất liền trong khoảng ba năm vừa qua, và đang nếm trải… à… một cuộc sống khá là phóng đãng.”
“Ta hiểu”, Địch Công nói, rồi ông quay sang phía Đô đốc, “thôi, hãy mời hai vị tiên sinh mà ông vừa nói đến vào đi.”
Đô đốc ra lệnh cho Thứ sử, rồi bước lên bục và đứng bên phải Địch Công. Họ Bảo quay lại, dẫn theo hai nam nhân băng qua đại sảnh. Một kẻ có vóc dáng nhỏ bé, gầy ốm. Người còn lại thì cao to, bụng phệ. Khi họ đang quỳ trước bục, Thứ sử giới thiệu người đầu tiên là thương nhân Lương Phổ, tiếp đó là kẻ đồng hành béo tốt của y, Diêu Thái Khai.
Bảo Thứ sử trình diện họ Lương và họ Diêu với Địch Công
Địch Công bảo họ đứng lên. Ông nhận thấy Lương Phổ có một khuôn mặt nhợt nhạt, khá lạnh lùng với hàng ria mượt mà, đen nhánh và một bộ râu dê mỏng dính. Đôi lông mày cong vút cùng với hàng mi dài khác thường khiến cho nửa trên khuôn mặt của y tỏa ra nét gì đó khá nữ tính. Y vận một tấm áo khoác dài màu hoàng lục, trên đầu là một chiếc mũ the đen là dấu hiệu cho thấy họ Lương cũng thuộc dòng dõi thư hương. Còn họ Diêu thì rõ ràng có một nhân dạng khá khác biệt; khuôn mặt tròn hớn hở điểm tô một bộ ria mép tua tủa cùng chòm râu quai nón được cắt tỉa gọn gàng. Bao quanh đôi mắt to ngờ nghệch của y là những nếp nhăn nhỏ. Y thở có chút phì phò, từng giọt mồ hôi đang lấm tấm nhỏ xuống trên
gương mặt đỏ ửng. Bộ lễ phục bằng gấm nâu nặng nề rõ ràng đã khiến y thấy vướng víu bất tiện.
Địch Công nói một vài lời lịch sự, rồi ông bắt đầu hỏi han Lương Phổ về tình hình giao thương. Họ Lương đáp bằng tiếng Quan thoại* rành rọt, những câu trả lời đều vào rất đúng trọng tâm. Hắn có vẻ như là một nam nhân khôn ngoan hiếm có, toát lên phong thái ung dung của kẻ xuất thân danh gia vọng tộc. Địch Công nhận ra một điều khiến ông cảm thấy bất an, đó là cộng đồng người Đại Thực ở Quảng Châu lớn hơn ông tưởng; họ Lương nói có khoảng mười ngàn người trải khắp thành và vùng lân cận. Tuy nhiên, hắn nói thêm rằng số lượng này biến động theo mùa, vì cả những thuyền trưởng người Đại Thực cũng như Đại Đường đều phải lưu lại Quảng Châu để chờ đợi qua mùa mưa lớn trong tiết trời đông giá lạnh trước cho thuyền khởi hành tới An Nam và Đại Mã*. Sau họ tiếp tục tới vùng Tích Lan, rồi từ đó căng buồm vượt Ấn Độ Dương để đến vịnh Ba Tư. Họ Lương nói rằng những chiếc thuyền của người Đại Thực và Ba Tư có khả năng chứa được đến năm trăm người, còn những thuyền lớn của người Đại Đường thậm chí còn có tải trọng lớn hơn.
Một nhóm các ngôn ngữ được nói khắp miền Bắc và Đông Nam Trung Quốc, bao gồm cả phương ngữ Bắc Kinh, cơ sở ngữ âm của tiếng Trung Quốc tiêu chuẩn.
Nay là Malaysia.
Rồi đến lượt họ Diêu. Y có vẻ kinh sợ trước những nam nhân phẩm vị cao quý này. Lúc ban đầu, y còn nói khá lan man. Nhưng đến khi y miêu tả chi tiết công việc kinh doanh, Địch Công mau chóng hiểu ra đây là một nhân vật giảo hoạt khác thường với khả năng nắm bắt tốt các vấn đề về kinh thương. Khi họ Diêu hoàn thành lời khai báo về danh mục các mặt hàng được nhiều thương nhân Đại Thực nhập vào Đại Đường, Địch Công nhận xét:
“Ta không thể hiểu được ông đã xoay xở như thế nào để có thể phân biệt mấy tên ngoại quốc này. Với ta, tất cả họ nhìn đều giống
nhau cả. Chắc hẳn ông phải khó chịu lắm khi ngày nào cũng phải làm ăn với lũ man di kém văn hóa đó.”
Họ Diêu khẽ nhún đôi vai tròn của mình.
“Trong việc kinh thương, những thứ mà kẻ khác có thể làm được thì chúng ta cũng phải làm được, thưa đại nhân! Và một vài người Đại Thực cũng đã có những hiểu biết sơ lược về văn hóa Đại Đường. Lấy Mãn Tốc Nhi, thủ lĩnh của cộng đồng người Hồ ở đây làm ví dụ. Hắn nói trôi chảy tiếng Hoa, và tiếp đãi chúng ta cũng rất nồng hậu. Thực ra tối nay tiểu nhân đã nhận lời dự tiệc tại tư gia của hắn.”
Địch Công nhận thấy đôi chân của họ Diêu cứ nhấp nhổm không yên, dường như muốn cáo lui. Địch Công bèn nói:
“Đa tạ những thông tin quý báu của Diêu tiên sinh. Ông có thể lui. Hãy đưa Kiều Đô úy cùng tới dự bữa tiệc Đại Thực ấy; đó sẽ là một trải nghiệm thú vị cho y.” Địch Công gật đầu ra dấu cho Kiều Thái và hạ giọng nói, “Hãy tìm hiểu xem bằng cách nào mà những người Đại Thực lại có mặt ở khắp thành này, nhớ hãy chú ý đến từng chi tiết!”
Sau khi một bài phó* dẫn lối đưa Kiều Thái và Diêu Thái Khai ra cửa, Địch Công trò chuyện một hồi với Lương Phổ về những chiến dịch thủy quân chinh Nam phạt Bắc của vị phụ thân quá cố, rồi sau đó cũng cho hắn lui. Ông lặng lẽ phe phẩy quạt một hồi lâu. Đột nhiên, ông nói với Đô đốc:
Binh sĩ phụ tá cho các tướng lĩnh trong quân trại.
“Ta đã đi một chặng đường dài từ kinh thành tới đây. Bách tính Quảng Châu nổi tiếng là khá ương ngạnh và bình sinh họ rất độc lập. Lại thêm cả sự hiện diện của những kẻ ngoại bang kia, chắc hẳn việc giữ gìn trị an cho thành này không phải là một nhiệm vụ đơn giản.”
“Hạ quan không có gì phải phàn nàn cả, thưa đại nhân. Bảo Thứ sử đây là một quan phụ mẫu có năng lực. Ngài ấy có những thuộc hạ đã lăn lộn trải nghiệm chốn quan trường nguy hiểm lẫn giang hồ
sóng gió. Phủ binh trấn nhậm vùng này cũng tập hợp toàn những binh lính dày dạn trận mạc đến từ phương Bắc. Nhìn chung, có một sự thật là bách tính địa phương đôi khi cũng hơi xa rời triều đình, tuy nhiên họ vẫn tuân theo vương pháp, và với một vài xử trí khéo léo…”
Đô đốc khẽ nhún vai, Bảo Thứ sử sắp sửa thốt ra điều gì đó, nhưng rõ là y lại thay đổi ý định.
Địch Công xếp chiếc quạt của mình lại và đứng dậy. Thứ sử cung tiễn quan án và Đào Cam ra cửa, rồi viên tổng quản dẫn họ quay trở lại dãy phòng mà Địch Công đang cư ngụ.
Địch Công lại bảo y đưa họ tới gian tiểu đình tại hậu hoa viên nhỏ ngập tràn ánh trăng. Ở đó có một ao thả cá vàng, khiến cho bầu không gian có chút mát mẻ dễ chịu. Khi họ đã an tọa bên chiếc bàn trà nhỏ đặt cạnh dương đài* cẩm thạch chạm trổ, Địch Công cho viên tổng quản lui. Ông chậm rãi nói:
Bao lơn.
“Quả là một buổi thảo luận thú vị. Nhưng ngoại trừ việc chúng ta biết được rằng ở đây thậm chí còn có nhiều dân Đại Thực hơn dự tính, thì nó chẳng giúp ích gì cho chúng ta cả. Hay là ta đã bỏ qua điều gì rồi?”
Đào Cam ủ rũ lắc đầu. Sau một hồi, y cất lời:
“Đại nhân đã nói với chúng thuộc hạ rằng đời sống công khai của Ngự sử đại nhân hoàn hảo như ngọc không tì vết. Nhưng còn những niềm vui thú cá nhân thì sao? Trong trường hợp một nam nhân trẻ tuổi, chưa thành gia lập thất…”
“Ta cũng đã nghĩ đến điều đó. Ta là Đại lý tự khanh, nên có thể dễ dàng điều tra đời tư của ngài ấy. Dù có dáng vẻ tuấn mỹ, phong tư tiêu sái, nhưng ngài ấy chưa bao giờ biểu hiện chút hứng thú nào
với nữ sắc cả. Nhiều danh gia vọng tộc chốn kinh thành đều có ý kén ngài làm hiền tế*, nhưng đều vô vọng. Ngài ấy cũng chẳng bao
giờ phát sinh mối quan hệ luyến ái với bất cứ kỹ nữ quyến rũ nào trong số những kẻ vẫn thường đến góp vui trong những yến tiệc mà một nam nhân ở địa vị như ngài ấy phải tham dự hầu như mỗi đêm. Như ngươi biết đó, việc ấy không bắt nguồn từ nỗi ác cảm bẩm sinh đối với nữ nhân - một đặc điểm thường thấy ở những nam tử trẻ tuổi, mỹ mạo. Lý do cho sự lảng tránh của Ngự sử đại nhân đơn thuần chỉ là bởi ngài ấy toàn tâm toàn ý với công việc của mình mà thôi.”
Người con rể hiền tài.
“Chẳng lẽ ngài ấy không có bất cứ thú vui nào hết sao, thưa đại nhân?”
“Không, ngoại trừ thú chơi dế. Ngài ấy có một bộ sưu tập dế trác tuyệt bao gồm cả dế gáy và dế chọi nữa. Chủ đề này xuất hiện trong suốt cuộc trò chuyện gần đây nhất giữa ta với ngài ấy. Ta nhận thấy từ ống tay áo của Ngự sử đại nhân phát ra âm thanh ríu rít, rồi ngài ấy lấy chú dế ra từ trong một chiếc lồng nhỏ kết bằng tơ bạc. Ngài ấy nói mình luôn mang theo nó bên mình. Nếu ta nhớ không lầm, nó là một loài dế quý hiếm, có tên là Kim Chung. Ngự sử…” Nhìn thấy gương mặt thảng thốt của Đào Cam, Địch Công chợt dừng lại, ngạc nhiên hỏi, “Có vấn đề gì sao?”
“À”, Đào Cam chậm rãi đáp lời, “thực ra thì… trên đường tới đây, thuộc hạ tình cờ gặp một nữ nhân mù đang bán dế, nàng ấy đã bắt được một con Kim Chung đi lạc vào đêm qua. Chắc hẳn là một sự trùng hợp tình cờ, dĩ nhiên thế rồi, nhưng vì nàng ấy bảo với thuộc hạ đó là loại dế cực kỳ hiếm, đặc biệt ở đây, tại miền Nam này, liệu có thể nào…”
“Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc nàng ấy bắt được nó ở đâu và như thế nào.” Địch Công xẵng giọng nói, “Hãy kể cho ta nghe thêm về cuộc gặp đó!”
“Thuộc hạ vô tình gặp nàng gần chợ, thưa đại nhân. Nàng ấy tự mình bắt dế, nhận biết các giống tốt qua tiếng gáy. Trong lúc đi qua bức tường phía Tây của chùa Hoa Tháp, một ngôi chùa nổi tiếng ở
phía Tây thành, nàng nghe thấy tiếng ồn lạ kỳ của một con Kim Chung. Âm thanh đó chắc hẳn lẩn khuất trong kẽ tường; tiếng gáy của nó nghe như rất hoảng sợ, nàng nói thế. Rồi nữ nhân ấy đặt mồi và dụ được con dế chui vào một trái bầu nhỏ.”
Địch Công không đưa ra bình luận gì. Ông giật mạnh chòm râu của mình một lúc, rồi trầm ngâm nói:
“Dĩ nhiên đó là một cơ hội đáng kể rồi. Thế nhưng, chúng ta không thể loại trừ khả năng là chính con Kim Chung của Ngự sử đại nhân đã trốn khỏi lồng khi ngài ấy ở khu vực đó. Trong lúc Kiều Thái thu
thập thông tin tại bữa tiệc của Mãn Tốc Nhi, chúng ta cũng có thể tham quan ngôi chùa và xem xét liệu có được manh mối nào về hành tung của Ngự sử đại nhân hay không. Dù gì thì ta cũng nghe nói rằng nơi ấy là một trong những danh thắng của thành này. Chúng ta có thể ăn cơm tối ở một tiểu quán nào đó trên đường đi.”
“Ngài không thể làm vậy được, thưa đại nhân!” Đào Cam phản đối, vẻ kinh hãi. “Trước đây, khi mà ngài vẫn còn là một Huyện lệnh địa phương, việc cải trang giả dạng thường dân để vi hành trong thành
không có gì nguy hiểm cả. Nhưng bây giờ, đường đường là đại quan nhị phẩm tại kinh thành, là tâm phúc cơ mật của đấng cửu ngũ chí tôn, đại nhân thực sự không thể…”
“Ta có thể và ta sẽ làm!” Địch Công ngắt lời y. “Tại kinh thành, ta phải chấp nhận hoàn cảnh và tất cả những lề lối khoa trương vốn thuộc về chốn quan trường ở Đại lý tự, nơi ta thực thi công vụ - ta chẳng thể làm khác được. Nhưng giờ đây, chúng ta không phải ở kinh sư, mà đang ở Quảng Châu, có mấy ai nhận ra được ta. Dĩ nhiên ta sẽ không thể vuột mất cơ hội này để ung dung tự tại, rũ bỏ lớp áo ngoài vướng víu của một mệnh quan triều đình, thân bất do kỷ!” Như thể để chặn trước mọi lời can ngăn phản đối khác, Địch Công thình lình đứng dậy, đoạn nói thêm, “Ta sẽ gặp ngươi ở tiền sảnh, khi đã thay đổi y phục xong.”
HỒI 6
Rượu ngon thức lạ, dạ tiệc Mãn Tốc Nhi
Vũ điệu hoang tàng, say lòng Kiều Đô úy
Sau khi Kiều Thái rời khỏi Đô đốc phủ cùng Diêu Thái Khai, y nhanh chóng đi đến võ khố, cởi bỏ quân phục rồi khoác lên mình tấm áo choàng xám bằng bông mỏng mảnh, đầu đội chiếc mũ the đen. Sau đó, Kiều Thái nhanh chóng nhập hội cùng Diêu Thái Khai ở cổng phủ. Họ Diêu đề xuất cả hai ghé qua tư gia của mình, vì y muốn thay đổi trang phục trước khi tới dự tiệc. Họ ngồi trên cỗ kiệu lót đệm êm ái và dễ chịu của Diêu Thái Khai tới tư gia của y - một tòa nhà lớn ở phía Tây Đô đốc phủ, gần chùa Quang Hiếu*.
Là một trong bốn ngôi chùa cổ nhất Quảng Châu, Trung Quốc, được xây dựng năm 233.
Trong lúc chờ đợi Diêu Thái Khai ở gian khách sảnh rộng rãi, Kiều Thái ngờ vực ngắm nhìn sự xa hoa phàm tục ở nơi đây. Chiếc bàn kê sát tường bày những chiếc bình bạc lấp lánh cắm hoa giả làm bằng sáp; các cuộn giấy hồng với những dòng chữ ca tụng tầm quan trọng và độ giàu có của Diêu gia được trang trí trên các vách tường. Một tỳ nữ dâng trà cho y, tuy ả ăn vận kín đáo và nền nã, nhưng lớp điểm trang dày cùng với ánh nhìn dò xét thẳng thắn của ả đã chỉ ra rằng trước đây ả từng là một vũ nữ.
Không lâu sau, Diêu Thái Khai đến đón Kiều Thái. Y mặc áo choàng mỏng màu xanh lam, đội chiếc mũ đen đơn giản có vẻ thong dong. “Chúng ta cùng đi thôi nào!” Y nói vẻ hoạt bát. “Tối nay thảo dân khá bận, ngài biết đó. Sau bữa tối, thảo dân có một sự vụ cấp bách cần phải tham dự. May mắn là những bữa tiệc của người Đại Thực thường kết thúc khá sớm.”
“Thức ăn ở đó thế nào?” Kiều Thái hỏi trong khi kiệu của họ được khiêng đi dọc phố.
“Đồ ăn khá đơn giản, nhưng lại có mỹ vị riêng. Nhưng không cần phải nói nhiều, chúng chẳng thể nào sánh với ẩm thực Trung Nguyên chúng ta. Ngài đã dùng thử món bạch tuộc hầm của Quảng Châu chưa? Hay là món lươn chẳng hạn?”
Y bắt đầu giải thích tường tận về các món ăn này khiến cho Kiều Thái ứa nước miếng thèm thuồng, rồi sau đó là một bài diễn thuyết hùng hồn về rượu mùi và rượu trắng địa phương. Rõ ràng y là một nam nhân rất phóng khoáng, Kiều Thái nghĩ. Dù chỉ là một kẻ xuất thân tầm thường, nhưng họ Diêu cũng có thể được coi là một nam nhân dễ chịu.
Lúc họ đang bước xuống kiệu ngay phía trước cánh cổng quét vữa trắng giản dị, Kiều Thái thốt lên:
“Hôm nay, tại hạ đã dùng bữa trưa sớm, nhưng cuộc nói chuyện với tiên sinh lại khiến tại hạ cảm thấy đói cồn cào rồi! Giờ Kiều mỗ có thể ăn ngấu nghiến hết nguyên cả một con lợn quay, nói cho tiên sinh biết đó!”
“Suỵt!” Họ Diêu nhanh chóng cảnh báo, “Đừng đề cập đến lợn ở đây! Người Hồ thậm chí còn không được phép sờ đến nó; thứ thịt được cho là dơ bẩn ấy. Họ bị cấm cả uống rượu nữa, nhưng họ có một thứ đồ uống khác nếm cũng khá ngon.” Nói rồi y gõ lên cánh cửa được trang hoàng những mấu lồi bằng sắt hình cá.
Cửa được một lão Đại Thực lưng gù, đầu quấn khăn sọc vằn mở ra. Lão dẫn họ đi xuyên qua khoảnh sân nhỏ bên trong tới một hoa viên hình chữ nhật trồng những bụi hoa thấp theo một khuôn hình kỳ lạ. Một nam nhân cao lớn, mảnh khảnh bước ra gặp khách. Chiếc khăn quấn đầu và tấm áo choàng dài mềm rũ của hắn trắng toát dưới ánh trăng. Kiều Thái nhận ra hắn. Y từng chứng kiến hắn la mắng đám thủy thủ Đại Thực ở bến thuyền.
“Cầu mong bình an đến với ngài, Mãn Tốc Nhi!” Họ Diêu vui vẻ cất lời. “Tại hạ mạn phép dẫn tới đây một bằng hữu, Kiều Đô úy đến từ kinh thành Trường An.”
Nam nhân người Đại Thực dán chặt đôi mắt lớn, sáng quắc vào Kiều Thái. Màu mắt trắng dã nổi bật trên làn da nâu sẫm của hắn. Bằng thứ tiếng Hoa chậm rãi, lưu loát, hắn dõng dạc nói:
“Bình an dành cho những tín đồ thực sự!”
Kiều Thái lập luận rằng nếu lời chào chỉ giới hạn trong phạm vi người Hồ, thì nó sẽ không dành cho họ Diêu và bản thân mình, và thế thì thật quá thất lễ. Nhưng trong lúc y còn đang nghĩ ngợi, người Đại Thực nọ và họ Diêu đã cúi xuống một bụi cây, say sưa trò chuyện về việc làm vườn.
“Quý ngài Mãn Tốc Nhi là một người vô cùng yêu hoa, giống hệt thảo dân vậy.” Họ Diêu diễn giải khi y đứng thẳng người lên. “Những loài cây thơm ngát này đã được ngài ấy mang suốt cả chặng đường từ bản xứ đến đây!”
Kiều Thái cảm nhận một mùi hương dễ chịu thoang thoảng khắp hoa viên, nhưng việc bị chào đón một cách xấc xược cùng với cái bụng trống rỗng khiến y không có tâm trạng để thưởng thức những đóa hoa. Y cáu kỉnh quan sát ngôi nhà thấp ở hậu viện. Xa xa phía sau là ngọn tháp của chùa Hoài Thánh thấp thoáng in bóng trên nền trời đêm sáng trăng, Kiều Thái kết luận tư gia của Mãn Tốc Nhi cách khách điếm của mình không quá xa.
Cuối cùng, Mãn Tốc Nhi dẫn hai vị khách tiến vào một gian phòng rộng rãi thoáng mát ở phía hậu hoa viên. Mặt tiền của nó là một dãy những khung hình vòm chóp nhọn lạ lùng. Sau khi bước vào, Kiều Thái thất vọng nhận ra bên trong chẳng có nội thất gì cả, chỉ trơ trọi một chiếc bàn ăn. Sàn nhà được trải một tấm thảm màu lam dày cộp, trong góc đặt lăn lóc vài chiếc gối lụa nhồi bông. Trên trần nhà treo một chiếc đèn đồng với tám bấc nến. Khắp phía tường đằng sau treo một loại màn mà y chưa bao giờ trông thấy trước đây: nó được gắn vào những chiếc vòng bằng đồng tới một cây sào ở sát trần nhà, thay vì được khâu vào một thanh tre, như nó phải thế…
Mãn Tốc Nhi và Diêu Thái Khai ngồi khoanh chân trên sàn. Sau một thoáng chần chừ, Kiều Thái cũng làm theo. Rõ là Mãn Tốc Nhi đã
trông thấy ánh nhìn khó chịu của y, vì giờ đây hắn nói với Kiều Thái bằng một giọng điệu chừng mực:
“Ta tin rằng vị khách cao quý này không phản đối việc phải ngồi xuống sàn nhà thay vì ngồi trên ghế.”
“Là một chiến binh”, Kiều Thái cộc cằn nói, “ta đã quen khổ cực rồi.”
“Bọn ta thấy cung cách sống của mình khá thoải mái.” Vị chủ nhà lạnh lùng đáp lại.
Kiều Thái vốn đã không thích nam nhân này, nhưng y phải thừa nhận hắn có một dáng vẻ rất ấn tượng. Khuôn mặt cân đối sáng sủa với chiếc mũi khoằm thon và một hàng ria mép dài, phần đuôi của nó cong lên theo kiểu ngoại lai. Bờ vai thẳng, cơ bắp hơi nổi lên dưới tấm áo choàng trắng mỏng mảnh. Rõ ràng hắn là một nam nhân vô cùng dẻo dai.
Để phá vỡ bầu không khí yên ắng kỳ quặc, Kiều Thái chỉ tay vào dải ký tự phức tạp trải dài phía trên đỉnh của bức tường rồi hỏi:
“Những vòng xoắn trang trí đó có ý nghĩa gì vậy?”
“Đó là chữ viết của người Đại Thực.” Mãn Tốc Nhi vội vã giải thích. “Đó là một văn bản linh thiêng.”
“Đất nước của ngươi có bao nhiêu chữ?” Kiều Thái hỏi Mãn Tốc Nhi.
Hắn cộc lốc đáp, “Hai mươi tám.”
“Hoàng thiên ơi!” Kiều Thái thốt lên. “Đó là tất cả rồi sao? Bọn ta có hơn hai mươi ngàn chữ đó!”
Bờ môi Mãn Tốc Nhi cong lên một nụ cười khinh khi. Hắn quay lưng lại, vỗ tay.
“Làm cách quái nào mà bọn họ có thể diễn đạt những suy nghĩ của mình chỉ vỏn vẹn trong hai mươi tám chữ chứ?” Kiều Thái khẽ hỏi
họ Diêu.
“Họ chẳng có nhiều suy nghĩ để mà diễn đạt đâu!” Họ Diêu thầm thì, khẽ cười.
“Đồ ăn tới rồi đây ạ!”
Một tiểu tử Đại Thực bưng một chiếc khay lớn bằng đồng chạm trổ tiến vào. Bên trên đó để nhiều gà rán, một cái bình và ba cái chén tráng men màu mè. Sau khi rót ra một thứ rượu vô sắc, tiểu tử cáo lui. Mãn Tốc Nhi nâng chén của mình lên và trang trọng nói:
“Chào mừng đến tệ xá!”
Kiều Thái uống xong và nhận ra thứ rượu nồng này khi được thêm hương vị của hạt hồi vào sẽ tạo ra vị khá ngon. Món gà ngửi mùi rất hấp dẫn, nhưng y không biết làm sao mà ăn được vì chẳng thấy đôi đũa nào cả. Sau khi thêm một vài tuần rượu, nhìn thấy Mãn Tốc Nhi và Diêu Thái Khai xé gà bằng tay trần, y liền bắt chước theo. Y cắn một miếng đùi, nhận ra hương vị của nó thật tuyệt hảo. Sau món gà là một đĩa đầy ắp cơm nấu nghệ chiên với thịt cừu thái lát, nho khô
và quả hạnh. Kiều Thái cũng thích món đó, y thưởng thức nó theo kiểu của những vị khách khác - dùng tay nhào cơm thành từng nắm. Sau khi rửa tay bằng thứ nước ướp hương hoa trong cái chậu do một nô bộc bưng tới, y dựa lưng vào gối, nở một nụ cười lớn đầy vẻ thỏa mãn, đoạn nói:
“Quả là ngon! Chúng ta hãy dùng thêm một tuần rượu khác nữa nào!” Sau khi họ cạn chén, y nói với Mãn Tốc Nhi:
“Chúng ta đều là hàng xóm láng giềng mà, các vị biết đó! Hiện ta đang ngụ ở lữ điếm Ngũ Tiên. Hãy kể cho ta nghe nào, có phải tất cả đồng hương của ngươi đều đang sống ở khu vực đặc biệt này không?”
“Hầu hết là thế. Bọn ta thích ở gần thánh địa. Những lời cầu nguyện được loan báo từ đỉnh tháp, và khi một con thuyền của bọn ta tiến vào cửa sông, bọn ta sẽ thắp lên ngọn lửa hiệu ở nơi đó và cầu
nguyện cho họ sẽ cập bến an toàn.” Uống một hơi dài xong, hắn tiếp tục:
“Khoảng năm mươi năm trước, một người họ hàng của Nhà Tiên Tri ở xứ bọn ta, cầu đức An Lạp phù hộ cho ngài ấy, đã đến thành này và qua đời tại tư gia ở bên ngoài cổng Đông Bắc. Nhiều tín đồ chân
chính đã định cư tại thánh địa ấy để thành tâm hướng về ngôi mộ của ngài. Thêm nữa, các thủy thủ của bọn ta theo lệ thường hiện đang sống ở sáu đại khách điếm, cách Thị bạc ty không quá xa.”
Kiều Thái tiếp lời, “Ta đã gặp một thuyền trưởng Đại Đường có thể nói ngôn ngữ của các vị. Kẻ đó họ Nghê.”
Mãn Tốc Nhi đưa mắt nhìn Kiều Thái đầy cảnh giác. Hắn nói với giọng đều đều:
“Phụ thân của họ Nghê là người Trung Nguyên, nhưng mẫu thân của y có gốc gác Ba Tư. Đám Ba Tư đó chẳng hữu hảo chút nào cả. Những chiến binh dũng cảm can trường của bọn ta, dưới sự dẫn dắt của Cáp Lý Phát vĩ đại, đã băm vằm bọn chúng vào bốn mươi năm trước, tại trận chiến ở Nạp Cáp Vạn Đức*.”
Nay là thành phố Nahavand, thủ phủ của hạt Nahavand, tỉnh Hamadan, Iran.
Diêu Thái Khai mời hắn thêm một tuần rượu nữa rồi gặng hỏi:
“Có đúng là phía Tây lãnh địa của Cáp Lý Phát có những người da trắng, mắt xanh, tóc vàng đang sinh sống hay không?”
“Làm gì có chuyện tồn tại những người thực sự như vậy!” Kiều Thái phản đối. “Họa chăng chỉ là ma quỷ mà thôi!”
“Họ quả thật có tồn tại.” Mãn Tốc Nhi nghiêm túc nói. “Họ chiến đấu cũng rất giỏi. Thậm chí họ có thế viết chữ, nhưng ngược lại với kiểu thông thường của chúng ta - viết từ trái sang phải.”
“Vậy thì rõ rồi!” Kiều Thái nói, vẻ hài lòng. “Bọn chúng chính là phường ma quỷ! Dưới âm phủ, mọi thứ đều ngược hoàn toàn so với dương gian.”
Mãn Tốc Nhi uống cạn chén rượu của mình.
“Một vài kẻ còn có tóc đỏ.” Hắn bình phẩm.
Kiều Thái đưa ánh mắt dò xét về phía hắn. Miệng toàn nói những điều hàm hồ như vậy, hắn chắc hẳn đã uống rất nhiều.
“Thế còn những vũ điệu Đại Thực thì sao nhỉ, Mãn Tốc Nhi?” Họ Diêu hỏi, miệng toét ra cười. Rồi y quay sang phía Kiều Thái, “Ngài đã bao giờ nhìn thấy các vũ nữ Đại Thực chưa, Đô úy?”
“Chưa bao giờ. Họ có nhảy múa giỏi như các vũ nữ của chúng ta không?”
Mãn Tốc Nhi đứng dậy.
“Nhân danh đức An Lạp!” Hắn thốt lên. “Câu hỏi của ngươi chứng tỏ ngươi chẳng hiểu gì cả!” Mãn Tốc Nhi vỗ tay, và quát lên ra lệnh cho đám nô bộc bằng tiếng Đại Thực.
“Hãy nhìn tấm màn trướng!” Diêu Thái Khai thì thầm đầy phấn khích. “Nếu chúng ta gặp may, thì đây sẽ là một bữa tiệc thật sự đó!”
Một nữ nhân xuất hiện khi tấm màn trướng mở ra. Nàng có vóc dáng tầm thước, và gần như lõa thể, ngoại trừ một băng vải đen tua rua nhỏ hẹp quấn quanh hông, trễ đến mức để lộ hết cả vùng bụng; mảng da thịt mềm mại trơn nhẵn ấy thu hút ánh nhìn bối rối dán vào viên ngọc lục bảo lấp lánh đính vào rốn nàng. Vòng eo mảnh mai khiến bộ ngực căng tròn trông lớn hơn hẳn; còn cặp đùi gợi tình thì thật quá nặng nề. Nàng có một làn da nâu vàng đẹp đẽ, nhưng khuôn mặt ấy, dù có truyền cảm đi nữa, thì cũng không phù hợp với những tiêu chuẩn của người Đại Đường về nhan sắc nữ nhân. Đôi mắt nàng với những đường viền đen đậm kiểu Đại Thực dường như quá to; đôi môi đỏ tươi đầy đặn quá mức, và những nút thắt lấp ló
dưới làn tóc đen óng trông thật kỳ lạ. Những đặc điểm không mang bản sắc Trung Nguyên ấy gây khó chịu, nhưng cùng lúc chúng lại mê hoặc Kiều Thái đến lạ lùng. Khi nàng đứng đó, khẽ nhướng mày lên quan sát các khách nhân, Kiều Thái bắt gặp đôi mắt to tròn, ướt át, gợi nhớ cho y về một con hươu mà mình từng lỡ tay sát hại trong lúc đi săn nhiều năm về trước.
Mãn Tốc Nhi thiết đãi khách khứa
Nàng nhón chân bước vào phòng, những cái lắc chân bằng vàng tạo nên âm thanh leng keng yếu ớt. Hoàn toàn không để tâm đến tình trạng lõa thể của bản thân, nàng cúi mình thi lễ trước Mãn Tốc Nhi, nhanh chóng vòng tay phải chạm ngực, đoạn cúi đầu chào Diêu
Thái Khai và Kiều Thái. Nàng quỳ xuống trước mặt Mãn Tốc Nhi, hai đầu gối chụm lại. Khi nữ nhân xếp đôi bàn tay mảnh khảnh vào lòng, Kiều Thái ngạc nhiên nhận thấy lòng bàn tay và móng tay nàng được thoa màu đỏ tươi.
Trông thấy ánh nhìn chằm chằm đầy ngưỡng mộ của Kiều Thái, Mãn Tốc Nhi cong môi nở một nụ cười hài lòng.
“Đây là Châu Mộc Nô, vũ nữ Lục Bảo.” Hắn khẽ nói. “Bây giờ ả sẽ trình diễn cho các vị xem một điệu múa của quê hương bọn ta.”
Một lần nữa, Mãn Tốc Nhi lại vỗ tay. Hai tên Đại Thực trong những tấm áo choàng rộng đi ra từ phía sau tấm màn trướng và ngồi xổm xuống ở góc xa nhất của gian phòng. Một người bắt đầu gõ lên chiếc trống gỗ lớn, kẻ còn lại lên dây cho cây nhị hồ*, kéo cây vĩ bằng mây dài cong vút trượt trên những sợi dây đàn.
Một loại nhạc cụ truyền thống của người Hồ.
Mãn Tốc Nhi dán đôi mắt to, sáng rực vào nữ nhân. Sau khi thờ ơ liếc nhìn hắn, nàng xoay nửa người trên đầu gối, hướng ánh nhìn đăm đăm đầy vẻ ngang tàng về phía Diêu Thái Khai và Kiều Thái. Khi Mãn Tốc Nhi trông thấy vũ nữ sắp sửa chào hỏi Diêu Thái Khai,
hắn quát lên ra lệnh cho các nhạc công.
Ngay khi cây nhị hồ khởi lên giai điệu trầm trầm, ai oán, Châu Mộc Nô bắt tréo hai tay sau đầu và bắt đầu uốn éo thân thể theo một nhịp điệu chậm rãi. Cùng lúc, nàng ngả người về phía sau, thấp dần, thấp dần cho đến khi đầu tựa xuống sàn trên hai cánh tay gấp lại. Bầu ngực chĩa về phía trước, núm vú căng cứng, mái tóc xoăn buông xõa phủ lên đôi tay quyến rũ. Nàng nhắm mắt lại, hàng lông mi tạo thành hai viền dài chạy dọc trên đôi bờ má mềm mại.
Giờ đây, nhạc công chơi nhị hồ đã chuyển cung đàn sang nhịp điệu nhanh hơn; những nhịp trống đều đều làm nổi bật nhịp đàn. Kiều Thái cứ ngỡ nàng sẽ nhổm dậy và tái khởi vũ đạo của mình, nhưng vũ nữ vẫn bất động. Đột nhiên, y ngỡ ngàng nhận ra viên ngọc lục bảo gắn ở giữa cái bụng trần của nàng đang từ từ khẽ rung lên qua
lại. Phần còn lại của cơ thể cong vòng vẫn hoàn toàn bất động; chỉ có vùng bụng vẫn cứ di chuyển lên xuống, trái phải theo một kiểu chuyển động ngắt quãng kỳ lạ. Nhịp trống nhanh hơn; lúc này viên ngọc lục bảo bắt đầu vẽ lên những đường tròn càng lúc càng lớn dần. Ánh mắt của Kiều Thái bị hút vào viên ngọc lục bảo lấp lánh đầy ma mị dưới ánh đèn. Máu chảy rần rật khắp người y, cổ họng y tưởng như nghẹn lại. Mồ hôi tuôn chảy đầm đìa trên mặt, nhưng Kiều Thái vẫn thẫn thờ không nhận ra điều đó.
Nhịp trống đột ngột dừng lại khiến Kiều Thái bàng hoàng sực tỉnh khỏi cơn mơ thoáng chốc. Tiếng nhị hồ chấm dứt bằng một vài nốt nhạc lanh lảnh ngân vang. Trong không gian yên ắng đến rợn người sau đó, vũ nữ tự nâng mình dậy, khuỵu gối lại theo một tư thế yêu kiều khép nép hệt như con thú hoang. Đôi tay nàng khẽ khàng khéo léo vuốt lại mái tóc mình. Bầu ngực phập phồng; một lớp màng mỏng ẩm ướt phủ lên cơ thể lõa lồ của nàng. Kiều Thái cảm nhận được mùi xạ hương nồng nàn mà nàng đang sử dụng; nó hòa lẫn với mùi hơi hăng hắc đến lạ kỳ của cơ thể giai nhân. Dù đã tự nhủ rằng điều này thật ghê tởm, nhưng cùng lúc nó lại khuấy động cảm xúc nguyên thủy nào đó đang ẩn sâu thăm thẳm bên trong y, khuấy động cả một vùng ký ức khiến y nhớ lại mùi vị của những loài thú hoang trong những cuộc săn bắn vẫy vùng nơi rừng sâu núi thẳm, mùi mồ hôi của chiến mã quyện với mùi máu tanh nóng hổi đỏ rực khói lửa sa trường.
“Thượng đế soi rọi!” Mãn Tốc Nhi hét lên đầy thán phục. Hắn lấy một đồng vàng ngoại quốc từ thắt lưng ra và đặt nó lên sàn nhà trước mặt nữ nhân đang quỳ gối. Nàng nhặt lên, không thèm đoái hoài liếc nhìn chút nào nữa, Châu Mộc Nô ném nó dọc theo căn phòng về phía hai nhạc công. Rồi nàng xoay người trên đầu gối và hỏi Kiều Thái bằng thứ tiếng Hoa lưu loát:
“Phải chăng khách quan lạ lẫm này đến từ nơi chân trời góc bể?”
Kiều Thái nuốt nước bọt; cổ họng y như nghẹn lại. Hấp tấp nhấp vội hớp rượu từ chén, y cố gắng đáp lời một cách tự nhiên nhất có thể:
“Tại hạ đến từ kinh thành. Danh xưng Kiều Thái.”
Đôi mắt to trong trẻo của nữ nhân nhìn y một hồi lâu. Rồi nàng quay sang kẻ bên cạnh Kiều Thái, thờ ơ cất lời:
“Trông ngài khá là khỏe mạnh, Diêu tiên sinh.”
Gã thương nhân mở miệng cười lớn. Y nói, bắt chước tục lệ kiểu Đại Thực:
“Tại hạ khỏe mạnh được dường này là nhờ hồng phước của đức An Lạp!” Chằm chằm ngó vào bộ ngực nữ nhân, họ Diêu ném ánh nhìn đầy dâm dật sang phía Mãn Tốc Nhi, đoạn nói, “Như một trong các thi sĩ Trung Nguyên bọn ta đã viết: Quả chín trĩu cây.”
Mãn Tốc Nhi xịu mặt xuống. Hắn dõi theo Châu Mộc Nô khi nàng châm đầy rượu vào chén của Diêu Thái Khai và Kiều Thái. Khi nữ nhân ngả người về phía Kiều Thái, mùi hương nồng nặc gần như của loài động vật khiến y cảm thấy nóng ran cả vùng bụng. Y siết
chặt hai nắm tay to bản cố gắng chế ngự dòng huyết quản đang sôi sục khắp thân thể. Nữ nhân ghé sát đầu vào y, môi kề môi, mắt kề mắt, chậm rãi nở một nụ cười khoe hàm răng hoàn mỹ của mình, rồi thầm thì buông lời:
“Thiếp ngụ trên con thuyền đầu tiên tại hàng thứ tư.” “Lại đây!” Mãn Tốc Nhi hét lên.
Khi nàng quay về phía hắn, Mãn Tốc Nhi rít lên gì đó bằng tiếng Đại Thực.
Nàng uể oải nhướng mày, rồi cao ngạo đáp lời bằng tiếng Hoa:
“Ôi, chủ nhân của những con thuyền ơi, thiếp hàn huyên với ai mà thiếp ưa thích.”
Gương mặt Mãn Tốc Nhi biến dạng trong cơn thịnh nộ. Đôi mắt trắng dã lóe lên khi hắn gầm thét:
“Quỳ xuống và tạ lỗi về lời nói xấc xược của ngươi đi!”
Nàng nhổ nước bọt xuống sàn nhà, ngay trước mặt hắn.
Mãn Tốc Nhi thốt lên một câu chửi thề. Hắn vùng dậy, túm tóc nữ nhân bằng một tay, thô bạo xốc nàng chới với đứng kiễng trên đầu ngón chân. Tay còn lại xé toạc băng vải tua rua quấn quanh hông nàng, hắn xoay Châu Mộc Nô lại đối diện với hai khách nhân, rồi thét lên bằng giọng nghèn nghẹt:
“Hãy thưởng thức nhan sắc của ả dâm nữ này đi! Ả là để bán đó!”
Nàng cố gắng cựa quậy để thoát thân, nhưng hắn lại kéo ngoắt nàng lại với một cú giật mạnh hung bạo. Trong lúc ép nàng quỳ gối và ấn đầu nàng xuống sàn, hắn quát lên ra lệnh cho các nhạc công. Nam nhân đang cầm nhị hồ vội vàng đứng dậy và trao cho Mãn Tốc Nhi cây vĩ dài bằng mây.
Kiều Thái cố rời mắt khỏi nữ nhân đang quỳ mọp kia. Y lạnh lùng cất lời với Mãn Tốc Nhi:
“Tốt hơn hết là ngươi hãy giải quyết vụ cãi vã của mình một cách riêng tư. Ngươi đang khiến khách nhân của mình khó xử đó.”
Mãn Tốc Nhi điên tiết trừng mắt nhìn Kiều Thái. Hắn mở miệng định nói gì đó nhưng rồi trấn tĩnh lại. Cắn chặt môi, hắn hạ cây vĩ đang giơ cao xuống và buông tóc nữ nhân ra. Mãn Tốc Nhi lại ngồi xuống, lẩm bẩm gì đó qua hơi thở.
Vũ nữ gắng gượng đứng dậy. Châu Mộc Nô nhặt nhạnh những mảnh vải rách nát, rồi quay về phía Kiều Thái và Diêu Thái Khai, rít lên với đôi mắt rực lửa:
“Hãy lưu tâm những gì hắn đã nói. Thiếp sẵn sàng trao thân cho ai trả giá cao nhất!”
Ngẩng cao đầu, nàng bước về phía tấm màn trướng và biến mất. Hai nhạc công vội vã nối gót Châu Mộc Nô.
“Thật là một kỹ nữ hung hăng!” Diêu Thái Khai cười to với Mãn Tốc Nhi. “Ta dám chắc ả cũng khá khó chịu đó!” Y rót đầy chén rượu của Mãn Tốc Nhi, rồi nâng chén của mình lên và nói, “Đa tạ buổi thiết đãi thịnh tình này!”
Mãn Tốc Nhi lặng lẽ cúi đầu. Diêu Thái Khai đứng dậy và Kiều Thái làm theo. Y cũng muốn nói vài lời cảm tạ nhưng rồi lại thôi khi nhìn thấy đôi mắt bừng bừng lửa giận của Mãn Tốc Nhi. Vị chủ nhân dẫn họ băng qua hoa viên thơm ngát hương hoa để ra tới cổng, và tiễn họ với vài lời cáo biệt vừa đủ nghe.
Các phu khiêng kiệu của họ Diêu hối hả chạy ra trước mặt họ, nhưng Kiều Thái lắc đầu.
“Chúng ta hãy tản bộ một chút nào.” Y nói với Diêu Thái Khai. “Không khí trong đó ngột ngạt quá, và món rượu ngoại quốc đó bắt đầu xông lên đầu ta rồi.”
“Thảo dân cũng là người có chút tiếng tăm.” Thương gia béo phị ngần ngại nói. “Thật sự thảo dân không cho là mình nên tản bộ vòng vòng đâu.”
“Tả Quả nghị Đô úy cũng vậy thôi.” Kiều Thái lãnh đạm nói. “Phố xá đương lúc vắng vẻ, sẽ không ai thấy chúng ta đâu. Cùng đi nào!”
Họ bước đi về phía góc phố, những tên phu kiệu cũng nối theo sau.
“Đồ ăn ngon”, Kiều Thái lầm bầm, “nhưng gã đó không nên làm ra cảnh tượng đáng hổ thẹn ấy.”
“Ngài có thể mong đợi gì từ đám mọi rợ kia chứ?” Diêu Thái Khai nhún vai nói. “Thật đáng tiếc vì ngài đã ngăn cản hắn. Thời này mà ả kia dám tự ban cho mình cái quyền hành xử kiểu trịch thượng ấy thì một cái mông bầm giập sẽ dạy cho ả biết điều. Ngài biết đó, nữ nhân ấy không phải là dân Đại Thực chính gốc… Mẫu thân của ả thuộc về tộc Đản*, đám ngư dân ấy, và chính điều đó càng khiến Châu Mộc Nô man rợ gấp đôi bình thường. Nhưng dù thế nào thì
hắn cũng sẽ không dám cho ả một trận đòn roi ra trò đâu, kiểu đánh bật máu để lại sẹo ấy.”
Một tộc người miền Nam Trung Quốc (từ Chiết Giang đến Quảng Đông) sinh sống trên thuyền.
Y liếm ướt môi. Kiều Thái nhìn họ Diêu đầy chua chát. Y ngẫm lại suy nghĩ đầy thiện chí của mình trước đó. Ở kẻ này có một nét tính cách thật kinh tởm. Kiều Thái lạnh lùng nói:
“Dường như Mãn Tốc Nhi hoàn toàn có ý làm chuyện đó. Vậy thì tại sao hắn không dám in dấu vết đòn roi lên cơ thể nàng chứ?”
Câu hỏi rõ ràng đã khiến họ Diêu bối rối. Y ngần ngừ một hồi trước khi hồi đáp:
“À, Mãn Tốc Nhi không sở hữu ả đó, theo như thảo dân biết thì là vậy. Thảo dân cho rằng ả có một kẻ bảo trợ quyền lực nào đó, ở đâu đây. Và mặc dù những kẻ như vậy không phiền lòng khi nữ nhân của mình kiếm thêm chút ngân lượng tiêu vặt bằng cách nhảy múa góp vui trên tiệc, nhưng mà chẳng ai chịu được khi họ quay lại với làn da tím bầm đòn roi đâu.”
“Nhưng Mãn Tốc Nhi đã nói nàng ta là để bán mà!”
“Ồ, điều đó chỉ để làm nhục ả thôi. Đừng để nó ảnh hưởng đến tâm tư của ngài, Đô úy à! Dù gì thì thảo dân cũng sẽ không tiến cử những nữ nhân da đen đó đâu. Chúng có kiểu cách khá là thô lỗ, ngài biết đó, giống như những con thú hoang vậy. Ôi, bây giờ thảo dân mong được lên kiệu đây, nếu ngài không phiền, thảo dân phải đến một cuộc hẹn đã trù tính trước tại… à ừ… ở một cơ ngơi riêng tư.”
“Đừng lỡ việc!” Kiều Thái cộc cằn nói. “Ta sẽ tự xoay xở được.”
Diêu Thái Khai ngó nhìn Kiều Thái đầy ngờ vực; y dường như đã nhận ra sự thay đổi trong thái độ của người đồng hành. Y đặt cánh
tay mập mạp của mình lên cánh tay Kiều Thái, mở miệng cười toe toét, nói ra vẻ lấy lòng:
“Thảo dân sẽ đưa ngài tới nơi đó vào một đêm khác nhé, thưa quan gia! Vị phu nhân mà thảo dân phó thác thì rất kín đáo, và những thú vui chốn đó thật… à… khác thường. Như ngài biết đó, thảo dân thường đi đến đó để kiếm tìm sự mới mẻ cho đời sống thường nhật. Nhưng mà không phải thảo dân không chu toàn việc nhà. Rất tốt là khác, thảo dân có thể nói thế. Nên là thế, hãy nhìn vào số ngân lượng mà thảo dân dành cho các thê thiếp của mình. Cái góc nhỏ bé ấm cúng của Diêu mỗ tọa lạc ở vị trí thuận tiện, không quá xa tệ xá. Cụ thể là nó nằm ở góc phố thứ hai phía Nam chùa Quang Hiếu. Thảo dân sẽ đưa ngài tới đó ngay bây giờ, duy có điều là phu nhân mà Diêu mỗ định gặp ở đó lại khá e thẹn, ngài biết đó… không dễ lại gần. Bọn thảo dân có một sở thích chung và điều đó sẽ có ích, thảo dân tin là thế, nhưng nếu trông thấy thảo dân đi cùng với một người lạ mặt thì nàng có thể…”
“Thôi đi.” Kiều Thái ngắt lời hắn. “Đừng bắt nàng ấy chờ đợi, nữ nhân có thể chạy mất đó!” Vừa bước đi, y vừa lẩm bẩm với bản thân, “Có thể đó sẽ là điều khôn ngoan nhất mà nàng ta nên làm, ta nghĩ vậy!”
Ở con phố kế tiếp, y vẫy một chiếc kiệu và bảo đám phu đưa mình quay trở lại Đô đốc phủ. Ngay khi các nam nhân lóc cóc khiêng kiệu khởi hành, Kiều Thái dựa lưng lên ghế, cố tranh thủ chợp mắt một chút. Nhưng ngay khi vừa khép đôi mi, trước mặt y lại hiển hiện tấm thân uốn lượn của nàng vũ nữ Đại Thực cùng mùi hương mê say nồng nàn quyến rũ tâm trí nam nhi trong giấc mộng mơ màng.
HỒI 7
Chốn trà lâu, hỏi dò kỹ nữ
Nơi chùa cổ, tìm thấy tử thi
Địch Công và Đào Cam rời khỏi Đô đốc phủ qua lối cửa phụ hẹp. Họ tản bộ xuống con đường chính. Giờ trông họ hệt như hai lão văn sĩ. Địch Công khoác lên mình tấm trường bào vải bông xanh thẫm, quanh lưng thắt một dải dây đai màu đen, đầu đội chiếc mũ chỏm bằng lụa đen tuyền. Còn Đào Cam mặc tấm áo choàng dài nâu nhạt cùng với chiếc mũ nhung cũ kĩ, là vật bất ly thân của y.
Sau khi băng qua khu công sự của phủ, họ đi vào tửu điếm đầu tiên mình trông thấy. Địch Công chọn một bàn ở phía sau, nơi đó ông có tầm nhìn tốt để quan sát đám đông khách nhân hỗn tạp. Ông nói với Đào Cam. “Ngươi gọi đồ ăn đi! Hãy nói tiếng địa phương ở đây. Gọi một bát cháo lớn với màn thầu. Ta nghe nói trong thành này món đó khá ngon. Và món trứng chiên cua, một đặc sản địa phương khác.”
“Chúng ta cũng nên thử một vò rượu địa phương ạ.” Đào Cam đề nghị.
“Trước đây ngươi khá tiết chế bản thân mà.” Địch Công mỉm cười bình phẩm. “Ta e là Kiều Thái lại ảnh hưởng xấu đến ngươi rồi!”
Đào Cam đáp, “Kiều Thái và thuộc hạ đã gặp nhau nhiều hơn, kể từ khi vị huynh đệ kết nghĩa cắt máu ăn thề Mã Vinh của y thích ru rú xó nhà hơn là ra ngoài ngao du sơn thủy và kết giao bằng hữu!”
“Đó là lý do khiến ta không dẫn Mã Vinh theo trong chuyến đi này. Ta hài lòng thấy y cuối cùng cũng yên bề gia thất. Ta không muốn khiến y dính dáng tới tất cả những chuyến phiêu lưu có thể cám dỗ Mã Vinh ngựa quen đường cũ! Chỉ ba chúng ta cũng có thể giải quyết ổn thỏa việc tìm ra Ngự sử đại nhân!”
“Ngài ấy có bất cứ dấu hiệu hay phong thái riêng nào không, thưa đại nhân? Những thứ mà chúng ta có thể đề cập đến khi chốc nữa dò la tung tích của Ngự sử đại nhân tại ngôi chùa?”
Địch Công trầm ngâm vuốt những sợi tóc mai của mình.
“À, ngài ấy là một nam nhân khôi ngô tuấn tú, dĩ nhiên rồi, và có phong thái tự tin đĩnh đạc của một đại quan đang đà thăng quan tiến chức ở chốn triều đình. Vậy nên ngôn từ của ngài ấy cũng có thể cung cấp manh mối đó. Ngự sử đại nhân nói chuyện như một triều thần mẫu mực, hàm ngôn thể hiện tất cả phong thái của bá quan văn võ hiện nay. Chà, mùi vị món cháo quả thật rất ngon đó!” Sau khi dùng đũa gắp một cái màn thầu từ trong tô ra, ông nói thêm, “Vui lên nào, Đào Cam. Chẳng phải chúng ta từng cùng nhau hóa giải những vấn đề còn khó khăn hơn thế này sao?”
Đào Cam cười lớn tỏ vẻ thích thú. Sau khi ăn xong một bữa tuy đơn giản nhưng đầy đủ, họ uống một chén trà Phúc Kiến đậm đặc, rồi tính tiền và rời đi.
Những con đường tối tăm thưa thớt bóng người qua lại, bởi lúc này đang là giờ cơm chiều. Tuy nhiên, lúc đến khu phố phía Tây, họ thấy phố xá đã đông đúc hơn. Sau khi tiến vào con đường dẫn đến chùa
Hoa Tháp, họ nhận thấy mình lọt thỏm giữa một đám đông nhộn nhịp - tất cả già trẻ gái trai đều mặc những bộ y phục đẹp nhất của mình, cùng di chuyển về một hướng. Địch Công nhẩm tính trên ngón tay, đoạn nói:
“Hôm nay là ngày đản sinh của Quán Thế Âm, vị Bồ Tát hiện thân cho lòng từ bi. Chùa sẽ chật kín khách khứa.”
Ngay khi băng qua cánh cổng bên ngoài, họ nhận thấy ngôi chùa quả thật giống như một hội chợ đêm vậy. Con đường mòn lát đá dẫn lối đi lên cầu thang cẩm thạch cao vút của khu tiền sảnh rộng lớn mênh mông được những cây cột đèn chia lối, nối với nhau bằng hàng chuỗi đèn lồng màu sắc sặc sỡ. Ở mỗi bên đều có một dãy quầy hàng chào bán rất nhiều hàng hóa đa dạng: từ những quyển sách kinh cho đến đồ chơi thiếu nhi, mứt kẹo cùng những chuỗi
tràng hạt. Dân bán bánh rán rong đang chen chúc trong đám đông, rao bán bằng giọng lanh lảnh chói tai.
Địch Công nhìn vào đám đông xô bồ đó.
“Đen đủi thật!” Ông cáu kỉnh nói với Đào Cam. “Làm sao có thể tìm ra được một nam nhân trong đám đông hỗn loạn kia chứ? Và ngôi chùa nổi tiếng ở đâu vậy?”
Đào Cam chỉ lên bầu trời. Phía bên kia tòa nhà chính là chín tầng tháp xá lợi của chùa Hoa Tháp, cao xấp xỉ ba trăm thước*. Quả kim cầu trên đỉnh tháp đang tỏa hào quang dưới ánh trăng. Địch Công có thể nghe thấy tiếng leng keng khe khẽ của những chiếc chuông bạc nhỏ bé được treo dọc theo những mái hiên cong cong của mỗi tầng lầu.
1 thước Trung Quốc tương đương 0,33m.
“Một kiến trúc đẹp!” Địch Công hài lòng nhận xét. Khi bước chân vào theo hướng đã định, ông vô tình liếc nhìn một trà lâu nằm bên tay phải, dưới bóng của một khóm trúc cao vút. Bên trong trà lâu vắng lặng; bách tính đang quá say mê chiêm ngưỡng cảnh vật đến mức không ai có thời gian nhàn tản thưởng thức một chén trà. Phía trước cổng vào có hai nữ nhân ăn mặc lòe loẹt đang bị một mụ già vừa đứng xỉa răng vừa dựa lưng vào trụ cửa chằm chặp theo dõi. Bước chân Địch Công đột nhiên khựng lại.
Ông bảo Đào Cam, “Ngươi hãy đi trước và thám thính một vòng xem sao. Ta sẽ theo sau ngay.”
Rồi ông bước lại gần trà lâu. Thiếu nữ nhỏ nhắn còn trẻ và không phải là không hấp dẫn; nữ nhân còn lại cao hơn, khoảng ba mươi tuổi, lớp son phấn dày cộp chẳng thể che giấu được nhan sắc đã bị nghề này tàn phá. Mụ già nhanh chóng đẩy các nữ nhân dạt ra một bên, nở nụ cười xun xoe lấy lòng khách nhân, miệng đon đả nói tiếng Quảng Châu cung nghênh Địch Công.
“Ta muốn trò chuyện với các nữ nhân của bà một chút.” Ông cắt ngang lời chào mời nghe chẳng hiểu gì cả của mụ già. “Họ hiểu được tiếng phương Bắc chứ?”
“Trò chuyện ư? Hoang đường! Tiền trao cháo múc, không thì thôi!” Mụ già chua ngoa đáp bằng tiếng phương Bắc the thé. “Sáu mươi đồng. Kỹ quán ở phía sau chùa.”
Nữ nhân lớn tuổi hơn, nãy giờ đang nhìn Địch Công với vẻ thờ ơ, bây giờ lại vẫy tay ra hiệu cho ông và hồ hởi nói bằng thổ ngữ miền Bắc đặc sệt:
“Xin hãy chọn thiếp, thưa ngài!”
Cuộc gặp gỡ tại hội chùa
"""