"Địch Công Kỳ Án Tập 10: Mê Cung Án - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địch Công Kỳ Án Tập 10: Mê Cung Án - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám Ebooks Nhóm Zalo Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #13 MÊ CUNG ÁN The Chinese Maze Murders (1951) Nguyễn Việt Hải dịch dựa theo bản in của NXB Văn học, 2019 LỜI TỰA Sau khi ra mắt bản dịch cuốn tiểu thuyết trinh thám Trung Hoa cổ của mình là Địch Công án*, tôi được đề nghị tìm dịch thêm các tiểu thuyết Trung Hoa khác về cùng chủ đề này. Tuy nhiên, những cuốn sách như vậy hiện nay có phần khan hiếm. Hơn nữa, cũng khó để tìm được một bộ sách có sức hấp dẫn, đáp ứng được thị hiếu của phương Tây và Trung Quốc hiện đại. Nhưng Địch Công án lại là một ngoại lệ, vì phong vị, nội dung của các vụ án cổ cũng như những câu chuyện huyền bí lại vô cùng khác biệt so với những câu chuyện hiện đại không gây được nhiều hứng thú cho độc giả phương Đông và càng ít hấp dẫn đối với độc giả phương Tây. Địch Công án, còn có tên Ba vụ án được quan án Địch phá giải, là cuốn tiểu thuyết trinh thám cổ của Trung Hoa được dịch từ nguyên bản tiếng Trung, với lời giới thiệu và những ghi chép của Robert van Gulik. Mặt khác, các câu chuyện phá án ở Trung Quốc thời cổ bao gồm nhiều tình tiết gay cấn và nhiều chất liệu liên quan đến tra án hơn. Bởi thế, tôi nghĩ mình sẽ có một thử nghiệm thú vị khi tự tay viết một bộ truyện trinh thám mang phong cách Trung Quốc, sử dụng những tình tiết trong các câu chuyện từ xa xưa ở Trung Quốc. Tôi bắt tay vào thử nghiệm này chủ yếu để chứng minh cho các tác giả Nhật Bản và Trung Quốc hiện đại thấy rằng: Ta hoàn toàn có thể viết tiểu thuyết trinh thám bằng phong cách Trung Hoa truyền thống mà vẫn tạo hứng thú cho độc giả phương Đông ngày nay. Tôi nghĩ đây là điều đáng giá hơn cả, bởi lúc này thị trường sách ở Trung Quốc và Nhật Bản tràn ngập các bản dịch kém chất lượng của các tác phẩm giật gân nước ngoài hạng ba, trong khi các bộ truyện trinh thám cổ của nước mình gần như đã bị lãng quên. Khi tôi viết xong bản thảo tiếng Anh cuốn Mê Cung Án, tác phẩm này đã được giáo sư Ogaeri Yukio dịch sang tiếng Nhật và nhà xuất bản Kadan-sha in năm 1951 tại Tokyo dưới tựa đề Meiro no Satsujin, đồng thời được nhà văn viết truyện kỳ ảo nổi tiếng người Nhật là Edogawa Rampo viết lời đề tựa. Rồi tự tôi lại thực hiện một phiên bản tiếng Trung của cuốn sách này và nhà xuất bản Nanyang Press tại Singapore ấn hành vào năm 1953, dưới tựa đề Địch Công kỳ án. Cả hai ấn bản này đều được đón nhận nồng nhiệt trong ngành xuất bản ở Nhật Bản và Trung Quốc. Có động lực từ thành công trên, tôi viết thêm hai cuốn truyện về Địch Công là Bí Mật Quả Chuông và Thuyền Hoa Án, các phiên bản tiếng Nhật và tiếng Trung của hai cuốn này cũng chuẩn bị xuất hiện. Sau khi đạt được mục tiêu chính, tôi thấy các độc giả phương Tây cũng có thể sẽ thích thú với kiểu truyện trinh thám mới này. Bởi thế, tôi quyết định xuất bản nguyên bản tiếng Anh của cuốn Mê Cung Án, một bước tiến khi mà các yếu tố Trung Quốc được các nhà văn phương Tây giới thiệu nhiều đến mức tôi nghĩ độc giả sẽ hào hứng muốn xem phong cách Trung Quốc thực sự sẽ như thế nào. Để biết thêm thông tin về nền tảng của cuốn sách này và các nguồn tư liệu của Trung Quốc được sử dụng, mời độc giả tham khảo phần tái bút của tôi ở cuối sách. Có thể nói rằng, tôi mượn ba cốt truyện từ các nguồn tư liệu cổ của Trung Quốc để viết lại thành một câu chuyện liền mạch, xoay quanh vị thần thám trứ danh thời Đường ở Trung Quốc là Địch Nhân Kiệt. Tôi giữ lại các đặc điểm tiêu biểu của các truyện trinh thám Trung Quốc xưa kia, như đoạn mở đầu sẽ mang một vài ý niệm trong các sự kiện chính của câu chuyện, tên chương sẽ là hai câu đối xứng, nói lên hai yếu tố đặc biệt giúp quan án hóa giải đồng thời một số tình tiết… Và nói chung, tôi cố giữ gìn phong cách và khí chất Trung Hoa nhiều nhất có thể. Bối cảnh trong truyện được xây dựng ở huyện Lan Phường, một địa danh tưởng tượng ở biên giới Trung Quốc, trong giai đoạn thế kỷ VII sau Công Nguyên. Người đọc sẽ thấy một bản đồ kiểu Trung Hoa của huyện này ở đầu cuốn sách. Các bức họa được chính tôi vẽ theo phong cách minh họa sách thời Minh. Mọi giá trị làm thỏa mãn độc giả trong cuốn truyện này đều là của các tác giả Trung Hoa cổ, những người đã xây dựng nên các tình tiết. Mọi thiếu sót xin cứ trách riêng tôi, tác giả thời nay. The Hague, mùa xuân 1956 Robert van Gulik NHÂN VẬT CÁC NHÂN VẬT CHÍNH ĐỊCH NHÂN KIỆT: tân Huyện lệnh của huyện Lan Phường một huyện ở biên giới Tây Bắc Đại Đường. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Huyện lệnh”. HỒNG LƯỢNG: quân sư thân cận của Địch Nhân Kiệt, cũng là Sư gia của nha phủ, thường được gọi là “lão Hồng” hay “Hồng Sư gia”. ĐÀO CAM, KIỀU THÁI, MÃ VINH: các trợ thủ thân tín của Địch Công. CÁC NHÂN VẬT KHÁC ĐINH HỔ QUỐC: vị tướng đã từ quan về sống ở huyện Lan Phường. ĐINH Y: một Tú tài, nhi tử độc nhất của Đinh Hổ Quốc. NGÔ PHONG: một Tú tài và họa sư, nhi tử của Tướng quân Ngô Long. NGHÊ THỌ KIỀN: cựu Tuần phủ, qua đời khi từ quan về sống ở huyện Lan Phường. NGHÊ KỲ: trưởng nam của Nghê Thọ Kiền với đại phu nhân. MAI THỊ: nhị phu nhân của Nghê Thọ Kiền. NGHÊ SAN: nhi tử của Mai thị. LÝ PHU NHÂN: họa sư, bằng hữu của Mai thị và Nghê Thọ Kiền. PHƯƠNG CHÍNH: một thợ rèn, về sau được bổ nhiệm làm Bộ đầu ở huyện nha. BẠCH LAN: trưởng nữ của Phương Chính. HUYỀN LAN: thứ nữ của Phương Chính. TIỀN MƯU: tên ác bá lộng hành ở Lan Phường. LƯU VẠN PHƯƠNG: môn khách trong nhà Tiền Mưu. LĂNG BÀI QUÂN: quan quân đào ngũ, sau được Địch Công phục chức. Ô NHĨ KIM: thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ. Còn được nhắc đến là Ô Nhĩ Kim Quận vương. LẠP HỘ: kẻ đồng mưu với Ô Nhĩ Kim. THỐ NHĨ BỐI: một cô nương Duy Ngô Nhĩ. HẠC Y TIÊN SINH: một lão ẩn sĩ. CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN Vụ án CĂN PHÒNG BỊ NIÊM PHONG. Vụ án BẢN CHÚC THƯ BÍ MẬT. Vụ án THIẾU NỮ KHÔNG ĐẦU. TOÀN CẢNH HUYỆN LAN PHƯỜNG 1. Huyện nha; 2. Miếu Thành Hoàng; 3. Miếu Khổng Tử; 4. Miếu Quan Đế; 5. Tháp Chuông; 6. Tháp Trống; 7. Tháp Cửu Trùng; 8. Bắc Liêu Phường; 9. Nam Liêu Phường; 10. Tư gia của Tiền Mưu; 11. Tư gia của Đinh Tướng quân; 12. Vĩnh Xuân tửu điếm; 13. Chùa Tam Bảo; 14. Tư gia của Lý Phu nhân; 15. Nhà cũ của Nghê Thọ Kiền; 16. Tư gia của Nghê Kỳ; 17. Thủy môn; 18. Pháp trường TỰ Bên hồ sen, gặp được Địch thái công Ngỡ chiêm bao, xin kể chuyện năm xưa Thiên Đạo đã sinh ra một khuôn mẫu bất biến suốt cả vạn năm qua, cho nhật nguyệt ở trên cao, thủy thổ ở dưới. Về sau, những bậc hiền nhân thời cổ đã tạo nên trật tự xã hội tôn nghiêm của chúng ta, coi Thiên Đạo và Nhân Luật là hai thành tố chính tạo nên thế giới. Một quan án sáng suốt và chính trực đích thị là công cụ hành pháp của Ngọc hoàng, là quan phụ mẫu vừa biết thương dân như con, vừa nghiêm khắc uy quyền. Ở công đường của vị quan đó, những người chịu oan khuất sẽ được đền bù sau những tổn hại, những tội nhân thì không có lối thoát dẫu dùng mọi âm mưu thủ đoạn. Dưới triều Minh thịnh vượng do Vĩnh Lạc đế* cai trị, thiên hạ thái bình, mùa màng tốt tươi, không có hạn hán hay lũ lụt, dân chúng no đủ. Quốc thái dân an hoàn toàn là nhờ Thiên Đức của Thánh thượng. Đương nhiên, trong thời bình, ít khi xuất hiện tội phạm, do đó ngày nay có ít tư liệu phục vụ cho nghiên cứu về tội phạm và điều tra án. Người thời nay phải quay về quá khứ để tìm lời giải thích cho hoạt động tra án và những giải pháp tuyệt diệu mà các Huyện lệnh thông tuệ đưa ra. Vĩnh Lạc đế: Tức Minh Thành Tổ (1360 - 1424), vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông được coi là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thấy mình có nhiều giờ phút thư nhàn để theo đuổi công việc nghiên cứu ưa thích, ta tỉ mỉ tìm kiếm những tài liệu cũ và lục trong kho lưu trữ ám bụi những vụ đại án cổ xưa. Khi tề tựu trong quán trà, ta thường cẩn thận lắng nghe bằng hữu và người quen đàm luận về những vụ kỳ án do các vị quan án trứ danh phá giải hàng trăm năm trước. Hôm nọ, vào lúc xế chiều, ta tản bộ qua vườn hoa phía Đông thành để ngắm hoa sen đang nở rộ. Ta băng qua cây cầu chạm khắc bằng cẩm thạch dẫn đến hòn đảo nhỏ ở giữa hồ sen và tìm được một bàn còn trống trong góc hiên một tửu quán. Vừa dùng trà và nhấm hạt dưa, ta vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ nước ngợp màu sen. Như thường lệ, ta quan sát một đám người qua đường đủ mọi tầng lớp và tiêu khiển bằng cách thử suy đoán tính cách cũng như xuất thân thông qua vẻ ngoài của họ. Ta đặc biệt chú ý đến hai cô nương diễm lệ đang nắm tay nhau đi ngang qua ta. Hai người rất giống nhau nên ta cho rằng họ là tỉ muội. Nhưng rõ ràng tính nết hai nàng hoàn toàn khác nhau. Cô em tươi tắn và hoạt bát, luôn miệng nói cười. Trái lại, cô chị là người dè dặt, e lệ, hầu như không đáp lại lời muội muội. Khuôn mặt nàng mang nỗi buồn sâu thẳm. Ta chắc rằng đời nàng đã có một tấn bi kịch ghê gớm. Khi hai thiếu nữ biến mất vào đám đông, ta nhận thấy có một nữ nhân trung niên đi theo sau họ. Bà ta hơi tập tễnh, đi phải chống gậy và dường như chỉ một mực muốn theo kịp hai thiếu nữ kia. Ta đoán bà ta là bảo mẫu của họ. Nhưng khi nữ nhân đi qua phía trước hiên quán, ta trông thấy cái liếc mắt đầy vẻ độc ác của bà ta, đến nỗi ta phải vội chú ý đến hai người trẻ tuổi đi cạnh nữ nhân này. Nam nhân trẻ tuổi đội mũ ra dáng thư sinh, còn thiếu nữ ăn vận kín đáo như một người nội trợ. Hai người đi cách xa nhau, nhưng qua ánh mắt trìu mến của họ, có thể thấy rõ họ đã phải lòng nhau. Ngay khi hai người đi qua trước mặt ta, thiếu nữ kia nắm tay chàng thư sinh, nhưng y vội rụt tay lại và cau mày lắc đầu. Từ vẻ vụng trộm của cả hai, ta kết luận họ đang có mối quan hệ ân ái mờ ám. Quan sát những vị khách đang kéo đến hiên quán, ta chú ý tới một người tròn mập, ăn vận gọn gàng, ngồi một mình giống ta. Ta đoán đó là một phú hộ. Ông ta có khuôn mặt tròn trĩnh, khôi hài và có vẻ là kiểu người hay nói, nên ta vội quay đi vì sợ rằng ông ta sẽ lầm tưởng ánh mắt chăm chú của ta là một lời làm quen. Ta thích ngồi một mình với những ý nghĩ hơn, thêm nữa ta cũng nhận thấy một tia lấp lánh trong đôi mắt ông ta khiến ta phải thận trọng. Ta nghĩ người có ánh mắt lạnh lùng, đầy toan tính, trái ngược với vẻ mặt thân thiện ấy có đủ khả năng tham gia vào một âm mưu đen tối được lên sẵn kế hoạch. Một lát sau, ta thấy một thân sĩ cao tuổi có bộ râu dài trắng như cước chậm rãi bước từng bậc lên hiên quán. Lão nhân mặc lễ bào màu nâu có ống tay rộng với một lớp nhung đen may nối, đầu đội mũ vải sa đen và có chóp cao. Dù trang phục không thể hiện phẩm cấp, nhưng ông lại có một diện mạo phi thường. Ông đứng chống gậy một lát, dò xét khắp hiên quán đông người bằng đôi mắt sắc sảo dưới hàng chân mày trắng và rậm. Lẽ nào một người khả kính như vậy cứ phải đứng mãi? Ta vội vàng đứng dậy, mời lão nhân ngồi xuống bên bàn mình. Ông nhã nhặn cúi đầu cảm tạ. Trong khi uống trà, hai chúng ta hỏi nhau những câu lịch thiệp thường gặp, hóa ra lão nhân mang họ Địch và là một Tri phủ đã cáo lão hồi hương. Hai chúng ta nhanh chóng bị cuốn vào một cuộc trò chuyện thú vị. Địch thái công là người uyên bác và có thẩm mỹ thanh cao, chúng ta quên cả thời giờ khi vừa mải đàm đạo về thơ văn vừa nhìn ra đám đông đủ màu sắc đứng ven hồ. Ta nhận thấy lão nhân nói giọng Thiểm Tây, nên trong lúc tạm dừng câu chuyện, ta hỏi gia tộc ông có liên quan đến gia tộc họ Địch ngày trước ở Thái Nguyên, thủ phủ của tỉnh Thiểm Tây hay không. Nhiều thế kỷ trước, dưới thời nhà Đường, nơi ấy đã sinh ra vị thần thám kiệt xuất Địch Nhân Kiệt. Ánh mắt Địch thái công bỗng sáng rực. Ông giận dữ giật mạnh bộ râu dài và nói, “Hừ! Nhà ta đương nhiên là một nhánh của gia tộc họ Địch, sinh ra quan án Địch nổi danh thiên hạ, và ta lấy làm tự hào khi ngài là một vị liệt tổ liệt tông của mình. Nhưng cùng với đó, chuyện này lại là ngọn nguồn của những phiền toái nối tiếp. Bất cứ khi nào ta dùng cơm hoặc nhấm thứ trà thơm trong quán, ta đều nghe thấy đám khách kể cho nhau những câu chuyện về Địch Công. Về căn bản, những điều họ nói về sự nghiệp chói lọi của ngài trong triều đình thường là sự thật. Hơn thế, những câu chuyện như vậy có thể xác minh thông qua việc tham chiếu pho chính sử thời Đường. Tuy nhiên, phần đông những kẻ dốt nát lại bàn tán về những câu chuyện kỳ quái xảy ra vào giai đoạn đầu trong sự nghiệp làm quan của ngài, khi ấy ngài luôn giữ chức Huyện lệnh ở các tỉnh và danh xưng ‘Địch Công’ trở nên nổi tiếng vì đã phá giải nhiều vụ kỳ án. Trong dòng họ ta, ghi chép đúng sự thật về phần lớn những vụ án đó đều được truyền qua rất nhiều thế hệ. Điều ấy khiến ta vô cùng bực bội khi phải nghe những câu chuyện giả tạo được kể lại trong tửu quán, và ta thường bỏ đi khi chưa dùng xong bữa.” Địch thái công lắc đầu và giận dữ dộng mạnh cây gậy xuống nền đá. Ta rất mừng vì biết rằng Vị khách này quả nhiên là hậu duệ của quan án Địch nức tiếng khắp nơi. Ta đứng dậy và đến trước mặt ông, rạp người vái để tỏ lòng tôn kính đối với gia tộc lẫy lừng của ông. Rồi ta bộc bạch, “Thái công, vãn sinh là người thích nghiên cứu những câu chuyện có thật về khả năng tra án tài ba của các vị quan án nổi danh sống dưới thời kỳ vàng son thuở trước. Tuy nhiên, vãn sinh không phải ham chuyện tầm phào, vãn sinh có hứng thú với phân tích thấu đáo trong những văn bản cổ như vậy. Chẳng phải những tài liệu ấy giống như tấm gương sáng cho chúng ta, những người đời sau, cảnh báo chúng ta bằng cách chỉ ra những nhược điểm và khiếm khuyết sao? Những ghi chép ấy không chỉ nâng cao phẩm hạnh và cải thiện tập tục, mà còn giữ vai trò như một công cụ đầy quyền uy ngăn chặn những kẻ hung hiểm. Không tìm được ở đâu những minh chứng hùng hồn hơn cho câu ‘Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát’.” “Theo ý vãn sinh, tự cổ chí kim, không có vị quan án nào sánh bằng Địch Công. Trong nhiều năm, vãn sinh đã cần mẫn sưu tầm những tư liệu về các vụ án do vị thanh quan này phá giải. Giờ đây, số mệnh đã chiếu cố cho vãn sinh được gặp thái công, người nắm giữ vô số câu chuyện về ngài. Vãn sinh tự hỏi nếu cúi mình xin thái công đích thân kể cho nghe vài vụ án ít người biết tới, thì liệu mình có làm phiền đến thái công hay không?” Địch thái công đồng ý ngay và ta mời ông ăn một bữa tối đơn sơ. Chạng vạng tối, khách khứa đã rời khỏi hiên quán để vào bên trong dùng bữa, đám tiểu nhị đã thắp nến cùng những chiếc đèn lồng bằng giấy màu. Ta tránh gian đại sảnh vì ở đó thực khách trò chuyện ồn ào, rồi dẫn Địch thái công đến một phòng ăn nhỏ bên cạnh, trông ra mặt hồ lúc này đang tràn ngập ráng đỏ của ánh tà dương. Ta gọi hai phần cơm có bốn món và một bình rượu nóng. Sau vài tuần rượu và đã thưởng thức đồ ăn, Địch thái công vuốt râu nói, “Ta sẽ kể cho ngươi nghe ba vụ kỳ án mà Địch Công đã phá trong những tình huống dị thường nhất. Khi đó, ngài còn đang giữ chức Huyện lệnh ở Lan Phường, một huyện hẻo lánh ở biên giới Tây Bắc Đại Đường.” Rồi ông bắt đầu kể một câu chuyện dài và ly kỳ. Mặc dù câu chuyện rất hấp dẫn, nhưng ông lại đi vào nhiều chi tiết dài dòng bên lề và giọng kể của ông đều đều, phảng phất như tiếng ong đập cánh. Sau một lúc, ta đã thấy mình hơi mất tập trung. Ta uống hết liền ba chén rượu để tâm trí tỉnh táo trở lại, nhưng thứ rượu màu hổ phách này chỉ khiến ta thêm phần đờ đẫn. Trong khi giọng của thái công vẫn cứ đều đều, ta thấy như mình đang được thần ru ngủ. Khi tỉnh dậy, ta thấy chỉ còn mình ta trong căn phòng lạnh lẽo, đang nằm nhoài ra bàn, gục đầu lên hai cánh tay khoanh trước mặt. Một tiểu nhị khó tính đang đứng bên và bảo ta lúc này đã là canh đầu. Có phải ta đã nhầm tửu quán này với một khách điếm mà người ta hay ở lại qua đêm? Ta thấy đau đầu nên không vội tìm ngay lời lẽ để đuổi gã quê mùa này ra ngoài. Thay vào đó, ta hỏi về Địch thái công và mô tả lại từng chi tiết về vẻ ngoài của ông. Tiểu nhị nói lúc chập tối y mải phục vụ ở gian khác trong quán. Không lẽ ta nghĩ y có thời gian quan sát từng vị khách hay sao? Thế rồi y đưa hóa đơn cho hai phần cơm, mỗi phần gồm sáu món ăn cùng tám bình rượu. Ta đành phải trả tiền, dù tự hỏi phải chăng cuộc gặp gỡ với Địch thái công chỉ là một giấc chiêm bao và tên nhãi này lợi dụng lúc ta không tỉnh táo để moi tiền của ta. Ta ra khỏi quán với tâm trạng của kẻ bị lợi dụng và băng qua con phố vắng để về nhà. Thư đồng của ta đã ngủ gật ở góc thư phòng. Ta không đánh thức cậu ta mà rón rén đến bên kệ sách. Ta lấy xuống những bộ sử về đời Đường, bộ tự điển địa lý và những ghi chép của ta về Địch Công. Nghiền ngẫm cả ba tập sách, ta thấy mặc dù tổng quan câu chuyện của Địch thái công khá giống với sự thật lịch sử, nhưng lại không hề có một địa danh nào là huyện Lan Phường ở biên giới Tây Bắc. Ta nghĩ có thể mình đã nghe nhầm tên vùng đất ấy và quyết tâm ngày mai phải đến thăm Địch thái công để nhờ ông giải thích rõ hơn. Rồi ta lại thấy nản lòng khi nhận ra dù mình nhớ rõ từng câu từ trong câu chuyện Địch thái công kể, nhưng có cố gắng đến mấy ta cũng không thể nhớ lại từng chi tiết liên quan đến thân phận của ông. Ta đã quên cả tên của thái công và nơi ông đang sống. Ta lắc đầu rồi mài mực. Và ngay đêm đó, ta miệt mài viết lại toàn bộ câu chuyện ông kể, đến khi gà gáy sáng mới đặt bút xuống. Hôm sau, ta đi hỏi thăm đám bằng hữu, nhưng không ai từng nghe đến một vị Tri phủ hồi hương họ Địch sống trong trấn này, cũng không có gì sáng tỏ thêm khi đi tìm hiểu về nơi lão nhân sinh sống. Chuyện này vẫn không hề làm tiêu tan mọi nghi hoặc của ta. Lão nhân này chắc hẳn chỉ đi ngang qua đây hoặc sống đâu đó ở ngoại thành. Vì vậy, ta mạo muội thuật lại câu chuyện như đã được nghe, để những độc giả sáng suốt đánh giá và tự nhận định xem cuộc gặp gỡ bên hồ sen này là mơ hay thực. Nếu câu chuyện kể về ba vụ kỳ án này khiến độc giả trong chốc lát quên đi những mối quan tâm, lo lắng của cuộc sống thường nhật, thì ta sẽ không thấy tiếc số tiền mình đã phải mất ở tửu quán. Vì dù chuyện gì thực sự đã diễn ra thì gã tiểu nhị đó rõ ràng là một kẻ xấu bụng. Thật khó tin khi một hoặc thậm chí là hai văn sĩ có khẩu vị thanh nhã lại uống hết tám bình rượu trong một cuộc gặp mặt. HỒI 1 Đường gập ghềnh, qua núi đồi khúc khủy Trong núi hiểm, đụng độ phường đạo tặc Bốn cỗ xe ngựa chậm chạp chuyển bánh qua dãy núi phía Tây huyện Lan Phường. Trong cỗ xe đầu tiên, tân Huyện lệnh huyện Lan Phường là Địch Nhân Kiệt đã cố để mình thư thái nhất có thể trong hành trình cực nhọc. Ông ngồi trên tấm đệm, tựa vào kiện sách lớn. Vị quân sư trung tín của ông, lão Sư gia Hồng Lượng, đang ngồi trên cái gối vải đối diện ông. Đường đi gập ghềnh nên dù bố trí chỗ ngồi trong xe cẩn thận thế nào cũng không tránh khỏi việc liên tục bị va đập. Địch Công và Sư gia đều mệt vì cả hai đã đi suốt nhiều ngày. Phía sau xe của họ là một cỗ xe lớn có rèm lụa che kín. Trong xe là ba vị phu nhân và các nhi tử của Địch Công cùng mấy tỳ nữ đang nằm cuộn mình giữa đám gối và chăn bông, cố chợp mắt một chút. Hai cỗ xe phía sau chở đầy hành lý. Một vài người hầu đang ngồi vắt vẻo trên những kiện đồ và rương hòm, vài người khác thích đi bộ bên đám ngựa cũng đã ướt sũng mồ hôi. Trước khi trời sáng, đoàn người đã rời khỏi ngôi làng sau cùng. Từ sau đó, đường đi đều chỉ qua vùng núi hoang. Những người duy nhất họ gặp là vài người hái củi. Buổi chiều hôm đó, hành trình bị chậm lại một canh giờ* vì có một bánh xe ngựa bị gãy lìa và trời đã nhá nhem tối, vùng đồi núi dường như có phần hung hiểm hơn. Canh giờ: 1 canh bằng 2 tiếng. Có hai nam nhân cao lớn phóng ngựa lên phía trước đoàn người. Cả hai đeo phác đao sau lưng, mỗi người đều treo một cây cung bên mã yên bao*, tên trong bao va vào nhau kêu lách cách. Hai người này là Mã Vinh vài Kiều Thái, hai trợ thủ thân tín của Địch Công. Họ là hộ vệ cho cả đoàn. Một trợ thủ khác của Địch Công là Đào Cam, người mảnh khảnh, lưng hơi gù. Đi cuối cùng là lão quản gia. Mã yên bao: túi đeo bên yên ngựa. Đến đỉnh núi, Mã Vinh ghìm cương. Con đường phía trước dẫn vào một thung lũng rậm rạp. Dốc núi bên kia vươn lên ở phía đối diện. Vẫn ngồi trên lưng ngựa, Mã Vinh quay lại bảo người đánh xe, “Tên ngốc kia, ngươi đã nói chỉ còn nửa canh giờ nữa là sẽ đến huyện Lan Phường cơ mà! Giờ lại có một ngọn núi nữa chắn ngang đường!” Người đánh xe quay ra lẩm bẩm với những người khác, cho rằng đám người thành thị rất hay nóng vội, rồi buồn bã nói, “Đừng lo, từ đỉnh núi bên kia, các vị sẽ trông thấy trấn Lan Phường dưới chân dốc.” “Lúc trước, đệ đã nghe thấy tên này nói ‘đỉnh núi bên kia’ một lần rồi”, Mã Vinh bảo Kiều Thái. “Sẽ rất nguy hiểm nếu nửa canh giờ nữa mới đến được Lan Phường! Vị huyện quan sắp chuyển đi kia chắc chắn đã ngóng chúng ta từ trưa. Và còn biết bao hương thân phụ lão khác trong huyện cùng bữa tiệc mừng thì sao? Tất cả chúng ta đều đã đói meo rồi!” “Họng ta khô đến nỗi không nói nổi!” Kiều Thái nói thêm. Rồi y quay ngựa phóng đến bên xe của Địch Công. “Bẩm đại nhân, trước mặt còn có một thung lũng nữa”, y bẩm báo, “nhưng qua được khỏi đây là chúng ta đến huyện Lan Phường.” Hồng Sư gia buông ra tiếng thở dài. “Thật đáng tiếc khi đại nhân ra lệnh rời khỏi Phổ Dương quá sớm. Dù đã có hai vụ đại án xảy ra ngay sau khi chúng ta đến đó, thì Phổ Dương vẫn là một nơi dễ chịu.” Địch Công mệt nhọc mỉm cười, cố tìm cách ngồi dựa vào đống hành lý sao cho thoải mái hơn. Ông nói, “Hình như tàn dư của đám Phật tử cuồng tín ở kinh thành đã bắt tay với đồng đảng trong đám thương gia Quảng Châu, gây ảnh hưởng đến việc thuyên chuyển của ta từ rất lâu, trước cả khi ta kết thúc nhiệm kỳ ở Phổ Dương. Nhưng đáng giá nhất vẫn là được giữ chức Huyện lệnh ở một huyện hẻo lánh như Lan Phường. Chắc chắn chúng ta sẽ gặp những sự vụ đặc biệt lý thú mà những châu huyện lớn hơn ở Trung Nguyên không bao giờ có.” Hồng Sư gia cũng đồng ý nhưng trông vẫn còn mệt mỏi. Lão đã ngoài lục tuần, nỗi khổ nhọc trong chuyến đi dài này làm lão kiệt sức. Từ thuở ấu thơ, Hồng Lượng đã là thân tín trong Địch gia. Khi bước vào chốn quan trường, Địch Công đã coi lão Hồng là vị quân sư thân tín của mình. Ở mọi nhiệm sở nơi ông giữ chức, ông đều chỉ định lão làm Sư gia ở chốn công đường. Người đánh xe vung roi quất ngựa. Cả đoàn người vượt qua ngọn núi và tiến vào thung lũng theo con đường hẹp quanh co. Họ nhanh chóng xuống đến thung lũng, dưới này đường đi tối tăm do có những đám tuyết tùng cao vun vút mọc lên giữa đám cây bụi dày đặc hai bên đường. Địch Công vừa định bảo thuộc hạ thắp đuốc lên thì nghe tiếng quát rộ lên cả ở phía trước và phía sau. Một nhóm người mang khăn đen bịt mặt bất ngờ hiện ra từ giữa đám cây rừng. Hai kẻ túm chân phải Mã Vinh rồi lôi y xuống khỏi yên ngựa trước khi y kịp rút kiếm. Tên thứ ba nhảy phốc lên phía sau ngựa của Kiều Thái, kẹp chặt cổ rồi kéo y xuống đất. Ở phía cuối đoàn người, hai tên đạo tặc khác đang khống chế Đào Cam và Sư gia. Người đánh xe nhảy xuống và biến mất vào rừng. Đám gia đinh nhà Địch Công bỏ chạy thục mạng. Hai kẻ bịt mặt đến trước cửa sổ xe Địch Công. Lão Hồng bị đánh vào đầu đến bất tỉnh. Địch Công chỉ kịp tránh mũi thương đâm vào trong xe. Ông vội túm chặt cán thương bằng cả hai tay. Bên ngoài, kẻ cầm thương liền xoay mạnh hòng rút lại cây thương. Ông trước hết giữ chặt, rồi bất ngờ đẩy mạnh cây thương về phía tên kia. Hắn ngã ngửa ra sau. Địch Công giật được cây thương từ tay hắn và nhảy ra từ cửa sổ. Ông múa thương không cho hai kẻ hung đồ lại gần. Tên đạo tặc đã đánh Hồng Sư gia mang một cây côn, kẻ cầm thương khi nãy giờ rút ra cây trường kiếm. Chúng nhất tề hung hãn tấn công, Huyện lệnh nghĩ mình không đủ sức để chống lại cả hai kẻ địch quá lâu. Địch Công và lũ đạo tặc Hai tên đạo tặc đã lôi Mã Vinh xuống khỏi ngựa đang toan một đao lấy mạng khi y định vùng thoát. Nhưng thật không may, chúng phải đấu với một tráng sĩ vũ dũng hơn người, ít năm trước cũng là đạo tặc khét tiếng. Trước khi được Địch Công cảm hóa, cả Mã Vinh và Kiều Thái đều là những tráng sĩ phường lục lâm. Do đó, Mã Vinh đã thông thạo chuyện giao chiến trên đường rừng. Không cố để vùng dậy, y xoay mình trên đất, nắm chặt cổ chân một tên cướp và giật mạnh. Cùng lúc đó, Mã Vinh đạp mạnh vào khoeo chân tên còn lại. Đòn liên hoàn này giúp y có đủ thời gian bật dậy. Tên cướp đang loạng choạng bị giáng cho một quyền rất mạnh vào đầu và ngã gục. Y nhanh như chớp xoay mình, tên bị đạp vào khoeo chân kia nhận ngay một cước vào mặt, đầu hắn gập ra sau, gần như đã gãy cổ. Mã Vinh vội rút kiếm, lao đến chỗ Kiều Thái đang nằm trên mặt đất, liều lĩnh vật lộn với kẻ đang bóp cổ y. Hai tên cướp khác cầm dao dài chờ sẵn để đâm Kiều Thái ngay khi có thể. Mã Vinh phóng kiếm đâm trúng lồng ngực một tên. Không kịp rút lưỡi kiếm ra, y xông đến đá thẳng vào hạ bộ tên còn lại khiến hắn gục luôn xuống đất. Cầm con dao dài của tên cướp, Mã Vinh đâm một nhát lút cán vào vai trái kẻ đang vật lộn với Kiều Thái. Vừa đỡ Kiều Thái dậy, Mã Vinh nghe Địch Công gọi, “Cẩn thận đấy!” Kẻ cầm đoản côn đánh Địch Công đã xông tới tương trợ đồng bọn. Mã Vinh vội xoay mình, tránh được nhát côn nhằm thẳng đầu y. Cây côn đánh trúng vai trái y. Y khuỵu xuống, bực tức chửi um. Tên kia vung côn định đánh vỡ sọ Kiều Thái. Y rút dao, lao vào bên dưới cánh tay địch thủ đang vung lên, cắm lưỡi dao vào tim hắn. Địch Công lúc này chỉ phải địch với một tên mang kiếm, ông khiến hắn phải luôn tay chống đỡ. Ông vung thương tung đòn giả vào lúc tên cướp định vung kiếm chém xuống. Rồi Địch Công lừa kẻ địch bằng ngón thương “cán cờ đổ”. Ông quay tròn cây thương và vụt xuống khiến kẻ địch vỡ đầu. Để Kiều Thái trói gô mấy tên cướp còn sống lại, Địch Công chạy đến chỗ xe chở hành lý. Một tên cướp đang nằm sõng soài trên đất, tay ôm chặt lấy cổ. Một tên khác tay cầm đoản côn, đang dò xét dưới gầm xe. Ông đánh gục hắn bằng một nhát thương giáng xuống đầu. Đào Cam bò ra từ dưới gầm xe, tay cầm một sợi dây mỏng. “Có chuyện gì ở đây vậy?” Địch Công hỏi. Đào Cam mỉm cười đáp, “Bẩm, một tên mãng phu đã đánh ngất quản gia, một tên khác suýt đánh trúng đầu thuộc hạ. Thuộc hạ cố tình ngã xuống, hổn hển thở trong cơn sợ hãi và nằm yên không nhúc nhích. Chúng nghĩ thuộc hạ đã ngất đi và bắt đầu lục tung hành lý. Thuộc hạ ngồi dậy và từ phía sau siết cổ tên gần nhất. Rồi thuộc hạ chui xuống gầm xe, kéo sợi dây chặt hết sức có thể. Tên còn lại không thể đuổi theo thuộc hạ mà không ra khỏi xe, và hắn cũng không sử dụng đoản côn dưới gầm xe được. Hắn đang băn khoăn không biết phải làm sao thì đại nhân giúp hắn giải quyết tình thế lưỡng lự đó.” Huyện lệnh mỉm cười rồi vội quay lại chỗ Mã Vinh. Đào Cam rút từ trong tay áo ra một sợi dây và trói chặt tay chân hai tên cướp. Rồi y nới sợi dây thòng lọng quanh cổ tên cướp đang sắp chết ngạt. Hai tên này xem thường vẻ ngoài hiền lành của Đào Cam. Y ở tuổi trung niên, không giống một người học võ, nhưng là người vô cùng mưu trí, đã nhiều năm làm kẻ lừa đảo chuyên nghiệp để mưu sinh. Một lần, Địch Công đã giải thoát cho y khỏi một vụ rắc rối, đưa y về làm trợ thủ cho mình. Sở hữu những hiểu biết sâu sắc về mọi thủ đoạn trên giang hồ, y đã chứng tỏ bản lĩnh của mình trong việc tróc nã tội phạm và thu thập bằng chứng. Và đúng như tên cướp mang bộ mặt xanh lét kia đã biết, Đào Cam có đầy mưu chước không ai ngờ được. Khi đến phía đầu đoàn xe, Địch Công thấy Kiều Thái đang đấu tay đôi với một trong hai kẻ đã khống chế Mã Vinh lúc trước, hắn đã tỉnh lại sau cú đánh trúng đầu. Mã Vinh cúi rạp người, tay trái đã tê liệt do vai bị trúng đòn. Dùng cánh tay phải, y cố chống trả một tên nhỏ thó, hắn nhảy nhót quanh y cực kỳ nhanh nhẹn, tung ra những đường dao ngắn mà liên hồi. Địch Công vung thương. Đúng lúc đó, Mã Vinh túm được cổ tay kẻ địch. Y kẹp chặt cánh tay hắn rồi vặn xoắn cho đến khi hắn buông rơi con dao. Rồi Mã Vinh ấn người hắn xuống và thúc mạnh gối vào bụng hắn. Tên đạo tặc buông tiếng kêu đau đớn. Mã Vinh khó nhọc đứng dậy, trong khi kẻ kia đấm liên hồi vào đầu và vai y bằng cánh tay còn lại. Tuy nhiên chẳng hề gì đối với Mã Vinh. Y hổn hển bảo Địch Công, “Đại nhân, ngài muốn lột che mặt của hắn chứ?” Địch Công kéo tấm khăn xuống. Mã Vinh thốt lên, “Xin Trời Phật lượng thứ! Là một ả thôn nữ sao!” Hai người giương hai cặp mắt sửng sốt nhìn một thiếu nữ. Mã Vinh buông tay ả ra trong nỗi ngạc nhiên tột cùng. Huyện lệnh vội ghìm chặt hai tay ả ra sau và chua chát nói, “Chà, đôi khi ta sẽ bắt gặp một nữ tặc trong đám cướp. Trói ả ta lại như những kẻ khác!” Mã Vinh gọi Kiều Thái, nãy giờ y vẫn mải khống chế và trói bọn cướp. Mã Vinh vẫn đứng đó và bối rối gãi đầu trong khi Kiều Thái trói hai tay nữ tặc ra sau. Ả không nói một lời nào. Địch Công đến bên cỗ xe có mui kín chở mấy vị phu nhân. Đại phu nhân náu mình bên cửa sổ xe với con dao nhỏ trong tay. Những người khác đang co rúm lại dưới những tấm chăn trong nỗi sợ hãi tột cùng. Ông bảo rằng nguy hiểm đã qua. Đám gia đinh và người đánh xe đã ra khỏi chỗ ẩn nấp và quay lại. Họ vội vã tìm cách thắp đuốc. Trong ánh sáng bập bùng, ông dò xét hiện trường trận giao tranh. Bên Địch Công có chút thương tổn không đáng kể. Hồng Sư gia đã tỉnh lại và được Đào Cam băng bó. Lão quản gia sợ hãi nhiều hơn là đau đớn sau khi bị hành hung. Mã Vinh ngồi trên một thân cây, áo đã kéo xuống ngang hông. Vai trái của y tím bầm và sưng phù, Kiều Thái đang dùng dầu thuốc xoa bóp vết thương cho y. Mã Vinh đã giết hai tên đạo tặc, Kiều Thái giết một tên. Sáu tên khác đều ít nhiều bị thương, chỉ duy có ả thôn nữ kia là không hề hấn gì. Địch Công ra lệnh cho đám người hầu trói bọn cướp lên một cỗ xe chở hành lý, cho những xác chết lên một xe khác. Ả thôn nữ được phép đi bộ. Đào Cam đem đến một chiếc giỏ đậy kín. Địch Công và các trợ thủ cùng uống trà nóng. Mã Vinh súc miệng, cục cằn nhổ ra rồi bảo Kiều Thái, “Xem ra, đây chỉ là một vụ cướp xoàng. Đệ không nghĩ đám này là bọn đạo tặc hoành hành lâu năm đâu.” “Đúng thế”, Kiều Thái đồng tình, “có mười tên, đúng ra chúng phải làm ăn nhanh gọn hơn.” “Với ta, như vậy là đủ rồi”, Địch Công lãnh đạm nói. Cả nhóm người lặng lẽ uống trà. Tất cả đều mệt mỏi và không ai muốn nói nhiều. Chỉ còn nghe tiếng thì thào của những gia đinh và tiếng rên rỉ của mấy tên cướp bị thương. Sau khi nghỉ ngơi một lát, cả đoàn xe ngựa lại lên đường. Hai gia đinh cầm đuốc dẫn đường. Phải mất gần một canh giờ nữa, họ mới đi qua đỉnh núi cuối cùng. Rồi đường đi trở nên rộng rãi và đoàn người trông thấy tường thành đầy những lỗ châu mai của cổng phía Bắc huyện Lan Phường in bóng trên nền trời tối. HỒI 2 Đến huyện Lan Phường, thấy toàn sự lạ Xem văn thư cũ, gặp được án xưa Kiều Thái sững sờ trước cánh cổng đồ sộ bên dưới thành lầu hùng vĩ. Rồi y nhớ ra huyện Lan Phường là một huyện vùng biên thùy, luôn phải đề phòng những trận tập kích của các bộ lạc dị tộc từ vùng đồng bằng phía Tây. Y gõ chuôi kiếm vào cánh cổng khảm sắt. Một lúc rất lâu sau, cánh cửa nhỏ trên thành lầu mới mở ra. Một giọng nói thô lỗ vọng xuống, “Đóng cổng thành suốt đêm. Sáng mai hãy quay lại!” Kiều Thái lại dữ dội đập cổng. Y quát, “Mau mở cổng, Huyện thái gia đã đến rồi đây!” “Huyện thái gia nào?” Người trên thành lầu hỏi lại. “Địch đại nhân, tân Huyện lệnh của huyện Lan Phường. Quân có mắt như mù, mau mở cổng!” Người kia sập mạnh cửa. Mã Vinh giục ngựa lên chỗ Kiều Thái. Y hỏi, “Sao lại chậm trễ như vậy nhỉ?” “Đám cẩu tử này đang ngủ quên!” Kiều Thái gay gắt. Vừa nói, y vừa gõ kiếm vào cánh cổng. Hai người nghe tiếng dây xích loảng xoảng. Cuối cùng, cánh cổng nặng nề hé mở. Kiều Thái thúc ngựa qua, suýt nữa đâm phải hai người lính nhếch nhác, đội mũ sắt đã han gỉ. “Lũ ngốc này, mau mở rộng cổng ra!” Kiều Thái quát. Hai người lính kia trâng tráo nhìn lên hai kẻ cưỡi ngựa lạ mặt. Một người khẽ lẩm bẩm, nhưng trông thấy ánh mắt nảy lửa của Kiều Thái, hắn vội đổi ý rồi cùng người còn lại mở rộng cổng. Đoàn xe ngựa tiến vào và đi theo hướng Nam, dọc theo con phố thênh thang tăm tối. Phố thị chìm trong cảnh hoang vắng, đìu hiu. Dù chưa sang canh đầu nhưng mọi quán hàng đều đã đóng cửa cài then chắc chắn. Đâu đó có những nhóm người tụ tập quanh những chiếc đèn dầu của đám bán hàng rong. Khi đoàn xe ngựa đi ngang qua, họ ngoái lại, thờ ơ nhìn mấy cỗ xe một lát, rồi lại quay về với những tô mì. Không ai đến chào tân Huyện lệnh và cũng không có dấu hiệu của sự nghênh tiếp. Đoàn xe đi qua một cổng vòm uy nghi cao lớn chắn ngang phố. Đến đây, con phố lớn chia thành hai hướng, chạy dọc theo một bức tường lớn. Mã Vinh và Kiều Thái cho rằng đó là đoạn tường phía sau khuôn viên nha môn. Đoàn người rẽ theo hướng Đông và đi dọc theo bức tường cho đến khi đến một cánh cổng lớn. Bên trên cổng có tấm bảng gỗ cũ sờn, khắc mấy chữ “Lan Phường huyện nha”. Kiều Thái nhảy xuống ngựa và dùng hết sức đập cửa. Một kẻ béo lùn ăn vận rách rưới ra mở cửa. Mắt hắn lác, bộ râu lởm chởm dính đầy mỡ. Hắn đưa chiếc đèn lồng lên dò xét Kiều Thái rồi cấm cảu hỏi, “Tên tiểu tốt này, không biết nha môn đã đóng cửa rồi sao?” Kiều Thái không chịu nổi nữa. Y túm lấy bộ râu của hắn rồi xô mạnh, đầu hắn đập vào một bên cửa. Đến lúc hắn kêu xin tha, Kiều Thái mới buông ra. Y dữ dằn nói, “Địch đại nhân, tân Huyện lệnh của huyện Lan Phường đã đến. Mau mở cửa và triệu tập mọi người trong nha môn đến!” Gã kia vội vã mở tung cửa. Đoàn xe tiến vào và dừng lại ở sân chính, phía trước gian đại sảnh tiếp khách. Địch Công xuống xe và đảo mắt nhìn quanh. Những cánh cửa cao và lớn gấp sáu lần cửa bình thường của gian sảnh đường này đều được khóa và chèn chắn cẩn thận, cửa sổ của nha sảnh đối diện cũng được đóng kín. Tất cả nhuộm màu tăm tối và hiu quạnh. Huyện lệnh khoanh tay, ra lệnh cho Kiều Thái đưa kẻ gác cổng đến gặp ông. Kiều Thái túm cổ áo gã kia lôi đến. Tên béo lùn vội quỳ thụp xuống. Địch Công gặng hỏi, “Ngươi tên là gì? Quảng đại nhân đâu?” “Tiểu nhân”, kẻ kia lắp bắp, “là Đề lao. Sáng sớm nay Quảng đại nhân đã rời đi theo lối cổng phía Nam.” “Ấn tín đâu?” “Ấn tín chắc nằm ở đâu đó trên nha sảnh”, tên đề lao vừa đáp vừa run. Địch Công không thể nhẫn nại thêm. Ông giậm chân xuống đất và quát hỏi,“Lính gác đâu, Bộ khoái đâu? Nha lại, Lục sự* đâu, những người còn lại trong huyện nha đâu?” Lục sự: người giữ việc biên chép văn thư, sổ sách. “Tháng trước, Bộ đầu đã bỏ đi. Nha lại đã xin nghỉ phép từ gần một tháng nay và. “Ở đây không còn lại ai, ngoại trừ ngươi”, Địch Công ngắt lời hắn. Quay sang Kiều Thái, ông tiếp tục, “Tống tên đề lao này vào chính nhà lao của hắn. Ta sẽ tự mình tìm hiểu xem rút cục chuyện gì đã xảy ra ở đây!” Tên đề lao định cự lại nhưng Kiều Thái đã giáng cho hắn một quyền và khóa chặt hai tay hắn ra sau. Y lôi tên đề lao đi, vừa thúc cho hắn một cú đá vừa quát, “Đưa ta đến nhà lao!” Dãy nhà bên trái huyện nha, phía sau túc xá của sai nha, là một nhà lao rộng lớn. Rõ ràng nhà lao đã lâu không được sử dụng, nhưng các cửa lao trông vẫn đủ vững chãi và các ô cửa có gắn lưới sắt. Kiều Thái đẩy tên đề lao vào một phòng nhỏ và khóa cửa. Địch Công bảo, “Giờ chúng ta hãy đến xem qua đại đường và nha sảnh!” Kiều Thái cầm đèn lồng. Hai người không mấy khó khăn để tìm được cánh cửa kéo của đại đường. Khi Kiều Thái đẩy mạnh, cánh cửa mở tung kèm theo tiếng kẽo kẹt rợn người. Y đặt đèn lồng xuống. Đại đường trống không, thênh thang. Một lớp bụi và cát dày bao phủ lên nền đá và mạng nhện giăng kín tường. Địch Công bước lên bệ và nhìn vào tấm hồng điều rách nát bạc màu phủ trên ghế của Huyện lệnh. Một con chuột lớn tìm đường bỏ chạy. Địch Công ra hiệu cho Kiều Thái. Rồi ông bước qua bệ, đi vòng qua ghế rồi kéo tấm màn che lối đi dẫn đến thư phòng của Huyện lệnh phía sau công đường. Một đám bụi rơi xuống người ông. Căn phòng gần như trống trơn, chỉ có một án thư xiêu vẹo trơ trọi, một chiếc ghế đã gãy lưng và ba chiếc ghế gỗ nhỏ. Kiều Thái mở cánh cửa phía tường đối diện. Một thứ mùi nặng nề ùa ra. Trên tường là những kệ sách chất đầy những hộp văn thư bằng da đã mốc xanh. Địch Công ngao ngán lắc đầu. “Văn khố đồ sộ vậy mà!” Ông thì thầm. Huyện lệnh đạp tung cánh cửa ra hành lang và lặng lẽ quay lại sân chính của nha huyện, Kiều Thái cầm đèn dẫn đường. Mã Vinh và Đào Cam đã giam đám đạo tặc vào nhà lao. Ba kẻ đã chết được đưa đến quân doanh. Những gia đinh của Địch Công đang mải dỡ hành lý xuống dưới sự giám sát của quản gia. Có người đến báo cho Địch Công biết nội trạch phía sau huyện nha vẫn còn trong tình trạng tốt. Vị Huyện lệnh tiền nhiệm đã để lại tất cả nguyên vẹn. Phòng ốc đã được quét dọn, vật dụng đều sạch sẽ và được sửa chữa tử tế. Trù sư* của Địch Công đang nhóm lửa trong bếp. Trù sư: đầu bếp. Huyện lệnh thở phào nhẹ nhõm, ít nhất thì gia quyến của ông cũng đã có nơi ở. Ông cho Hồng Sư gia và Mã Vinh đi nghỉ ngơi. Họ có thể chuẩn bị chỗ ngủ ở một phòng kế bên tư thất của ông. Rồi Địch Công ra hiệu cho Kiều Thái và Đào Cam theo ông quay lại thư phòng đã bị bỏ không từ lâu. Đào Cam đặt hai cây nến đã thắp lên án thư. Địch Công thận trọng buông mình xuống chiếc ghế đã lung lay. Hai trợ thủ cũng thổi sạch bụi trên mấy chiếc ghế rồi ngồi xuống. Địch Công khoanh hai tay lên mặt án thư. Cả ba im lặng hồi lâu. Họ đều mang một vẻ thiểu não giống nhau. Cả ba vẫn đang mặc trường bào vi hành màu nâu rách và lấm bẩn sau trận đụng độ với đám đạo tặc. Khuôn mặt họ cau có và hốc hác dưới ánh nến xao động. Rồi Địch Công cất lời, “Ôi, các huynh đệ của ta, giờ cũng đã muộn rồi và chúng ta đều vừa mệt vừa đói. Nhưng ta muốn bàn với hai ngươi về những dị sự chúng ta vừa gặp ở đây.” Đào Cam lẫn Kiều Thái đều gật đâu tán thành. “Trấn này”, Địch Công nói tiếp, “khiến ta vô cùng khó hiểu. Dù vị huyện quan tiền nhiệm đã ở đây suốt ba năm và giữ cho tư thất của mình luôn khang trang, nhưng ông ta dường như không hề sử dụng đến đại đường và đã cho toàn bộ người trong nha huyện về quê. Dù tín sứ chắc chắn đã báo với ông ta về chuyện ta sẽ đến đây vào chiều nay, nhưng ông ta lại bỏ đi mà thậm chí không để lại cho ta một phong thư và giao phó con dấu của Huyện lệnh cho một gã đề lao vô lại. Những chức dịch khác trong huyện cũng không đoái hoài đến chuyện ta đến đây. Hai vị giải thích mọi chuyện này thế nào?” “Đại nhân, có khi nào người dân huyện này đang định nổi dậy chống lại triều đình?” Kiều Thái hỏi. Địch Công lắc đầu đáp, “Rõ ràng là phố xá vắng hoe và mọi hàng quán đều đóng cửa sớm hơn thường lệ. Nhưng ta không nhận thấy có bất cứ dấu hiệu nào của bạo động và cũng không có các chướng ngại vật hoặc những hoạt động phòng bị của quan quân. Thái độ của người dân trên phố không có vẻ là đối nghịch, họ chỉ tỏ vẻ lãnh đạm mà thôi.” Đào Cam trầm ngâm vuốt ba sợi lông dài mọc ra từ nốt ruồi trên má trái. Y nhận định, “Thuộc hạ trộm nghĩ, có thể tai họa nào đó hoặc vài thứ dịch bệnh nguy hiểm đã tàn phá huyện này. Tuy nhiên, điều đó cũng không liên quan cho lắm, bởi không hề có dấu hiệu của nỗi sợ hãi hoang mang và người dân vẫn thoải mái ăn uống quanh những quán hàng trên phố.” Huyện lệnh gỡ vài mẩu lá khô ra khỏi dải tóc mai dài. Sau một lúc, ông lên tiếng, “Ta không cần tên đề lao phải giải thích đâu. Tên này rặt một vẻ vô lại tột cùng!” Quản gia bước vào, theo sau là hai gia đinh của Địch Công. Một người bưng chiếc khay gỗ có mấy bát cơm và canh, người còn lại bưng một bình trà lớn. Ông bảo quản gia đem cơm vào nhà lao cho đám tù nhân kia. Mấy người lặng lẽ ngồi ăn. Khi ăn xong bữa cơm hổ lốn ấy và uống một chén trà, Kiều Thái ngồi suy ngẫm hồi lâu, tay mân mê hàng ria mép. Rồi y cất lời, “Đại nhân, thuộc hạ đồng ý với Mã Vinh, khi đang đi qua dãy núi, đệ ấy đã nói đám đạo tặc tấn công chúng ta không phải bọn cướp nhà nghề. Đại nhân nghĩ sao nếu ta đi thẩm vấn chúng xem rốt cuộc ở đây đang có chuyện gì?” “Ý hay!” Địch Công tán thành. “Hãy xem kẻ nào là đầu đảng và đưa hắn đến đây!” Kiều Thái trở lại, chỉ dẫn theo một tên cướp, chính là kẻ đã định dùng thương đâm Địch Công. Ông nhìn hắn sắc lạnh. Hắn có khuôn mặt rộng và cân đối, giống một tiểu thương hoặc một thương gia hơn là đạo tặc. Hắn vừa quỳ xuống phía trước án thư, Địch Công đã cộc cằn ra lệnh, “Mau trình báo họ tên và nghề nghiệp!” Nam nhân kia kính cẩn đáp, “Bẩm đại nhân, thảo dân là Phương Chính. Trước giờ, thảo dân là thợ rèn ở huyện Lan Phường, gia môn của thảo dân đã sống nhiều đời ở đây.” “Vậy tại sao nhà ngươi, vốn đã gắn bó với một nghề cao quý và lâu đời như vậy, lại thích sống cuộc đời hèn hạ của một kẻ đạo tặc?” Họ Phương cúi đầu và nói với chất giọng khàn khàn, “Thảo dân phạm tội hành hung có chủ ý và biết rõ án tử đang đợi mình. Thảo dân thú nhận tội lỗi mà không cần thêm bằng chứng. Tại sao Huyện lệnh đại nhân lại mất công hỏi thêm làm gì?” Từng lời của hắn toát nên nỗi thất vọng sâu sắc. Địch Công ôn tồn nói, “Ta không bao giờ tuyên án một người cho đến khi được nghe toàn bộ câu chuyện của kẻ đó. Mau nói đi, và trả lời câu hỏi của ta!” “Thảo dân”, họ Phương bắt đầu, “đã làm thợ rèn được hơn ba mươi năm, được học nghề ấy từ chính gia phụ. Thảo dân và tệ nội, cùng một nhi tử, hai nhi nữ đều khỏe mạnh, nhà thảo dân có cơm ăn hàng ngày, thỉnh thoảng còn được ăn thịt. Thảo dân tự thấy mình là người có phúc. Cho đến một hôm, người của Tiền Mưu trông thấy nhi tử nhà thảo dân là một thanh niên tráng kiện,chúng đã buộc nó phải về phục vụ cho mình.” “Tiền Mưu là ai?” Địch Công ngắt lời. “Tiền Mưu là ai ư?” Phương Chính cay đắng đáp. “Hơn tám năm nay, hắn nắm giữ mọi quyền lực ở huyện này. Hắn sở hữu một nửa số đất đai và gần một phần tư số cửa hiệu và nhà ở trong trấn. Hắn vừa là Huyện lệnh vừa là pháp quan và cũng là một vị quan quân. Hắn thường xuyên hối lộ các vị Tri phủ ở cách nơi này tầm năm ngày đi ngựa. Hắn khiến họ phải tin rằng nếu không có hắn, những bộ tộc ở bên kia biên giới đã chiếm huyện này từ lâu rồi.” “Vị Huyện lệnh tiền nhiệm cũng chấp nhận những chuyện này sao?” Địch Công gặng hỏi. Họ Phương nhún vai đáp, “Các vị Huyện thái gia được bổ nhiệm đến đây sớm nhận ra rằng cứ bằng lòng trước sự có mặt của một thế lực hắc ám, giao mọi quyền lực vào tay của Tiền Mưu thì sẽ được sống nhàn nhã và an toàn hơn. Chừng nào họ còn giống những con rối của Tiền Mưu thì hàng tháng hắn còn đem tài vật đến dâng tặng họ. Tất cả huyện quan đều sống trong an lành và nhàn nhã trong khi đám dân chúng như thảo dân thì phải chịu thống khổ.” “Chuyện ngươi kể”, Địch Công lạnh lùng nói, “ta thấy thật phi lý hết sức. Thật không may nếu quả thực có một kẻ hung bạo chiếm được quyền hành ở một huyện hẻo lánh. Và thật đáng buồn nếu thỉnh thoảng vẫn có một vị Huyện lệnh sức tàn lực mỏng chấp nhận tình trạng không có vương pháp như vậy. Nhưng ngươi nói trong tám năm qua, mọi Huyện lệnh được bổ nhiệm đến đây đều phải phục tùng gã Tiền Mưu đó thì thật khiến ta không tin nổi.” Họ Phương đáp với một nụ cười khinh bỉ, “Chỉ có người dân huyện Lan Phường là bất hạnh thôi! Bốn năm trước, có một vị Huyện lệnh duy nhất dám đối đầu với Tiền Mưu. Nửa tháng sau đó, xác ông ta được tìm thấy bên bờ sông, cổ bị cứa đứt từ mang tai bên này sang mang tai bên kia.” Địch Công bỗng rướn người về trước hỏi, “Có lẽ nào là Phan đại nhân?” Phương Chính gật đầu. “Kinh thành được báo tin Phan đại nhân đã thiệt mạng trong một trận giao tranh với các bộ lạc người Duy Ngô Nhĩ đến xâm phạm. Khi ấy, ta cũng đang ở đó. Ta còn nhớ thi thể ông ấy cũng được chuyển về kinh thành theo nghi thức của quan quân và ông ấy còn được truy phong chức Tri phủ.” “Đó là cách mà Tiền Mưu che giấu vụ giết Phan đại nhân”, Phương Chính lãnh đạm nói “Thảo dân biết rõ sự thật, chính mắt thảo dân trông thấy xác của Phan đại nhân.” “Ngươi kể tiếp đi!” Địch Công ra lệnh. “Chính vì vậy, nhi tử độc nhất nhà thảo dân bị buộc phải gia nhập đám giang hồ mà Tiền Mưu thuê làm cận vệ, và thảo dân không bao giờ còn được gặp lại con mình nữa.” “Rồi có một mụ già gớm ghiếc đến tìm thảo dân. Mụ ta chính là tú bà làm việc cho Tiền Mưu. Mụ nói Tiền Mưu trả mười nén bạc để mua Bạch Lan, trưởng nữ của thảo dân. Thảo dân khước từ. Ba ngày sau, trưởng nữ nhà thảo dân đi chợ và không quay về nữa. Hết lần này đến lần khác, thảo dân đến gia trang nhà họ Tiền và cầu xin được cho phép gặp nhi nữ, nhưng lần nào thảo dân cũng bị đánh đập tàn tệ và bị đuổi đi.” “Mất đi nhi tử duy nhất và trưởng nữ, tệ nội sinh ra đau ốm. Bà ấy đã mất từ nửa tháng trước. Thảo dân cầm thanh kiếm mà gia phụ truyền lại rồi đến Tiền gia trang. Bọn cận vệ chặn đường thảo dân. Chúng dùng loạn côn hành hung thảo dân rồi vứt thảo dân lại trên phố để chờ chết. Mười ngày trước, một toán vô lại đã đốt mất cửa hiệu nhà thảo dân. Thảo dân bỏ đi khỏi trấn cùng tiểu nữ Huyền Lan và nhập bọn cùng một đám người mạt vận khác vào núi làm cướp. Tối nay, cả đám lần đầu tiên thử đánh cướp của khách qua đường và tiểu nữ nhà thảo dân cũng bị quan gia bắt giữ.” Sự im lặng bao trùm hồi lâu. Địch Công định tựa người ra sau ghế nhưng vừa kịp nhớ ra lưng ghế đã gãy. Ông lại vội thu cả hai khuỷu tay lên bàn rồi mới mở lời, “Chuyện ngươi kể nghe rất quen thuộc. Đám trộm cướp vẫn thường hay kể câu chuyện bi thảm kiểu đó khi bị bắt lúc đang hành sự. Nếu ngươi nói dối, ngươi sẽ bị rơi đầu trên pháp trường. Nếu đúng là ngươi nói sự thật, ta sẽ hoãn lại bản án dành cho ngươi.” “Đối với thảo dân”, người thợ rèn sầu thảm nói, “thì không còn chút hi vọng nào nữa rồi. Nếu đại nhân không lấy đầu thảo dân, thì Tiền Mưu chắc chắn cũng sẽ giết thảo dân thôi. Đồng đảng của thảo dân cũng sẽ chịu cảnh tương tự, họ đều là những nạn nhân bị Tiền Mưu áp bức rất tàn tệ.” Địch Công ra hiệu cho Kiều Thái. Y đứng dậy và dẫn Phương Chính trở lại nhà lao. Ông đứng dậy khỏi ghế và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Khi Kiều Thái trở lại, Địch Công đang đứng lặng yên, rồi trầm ngâm nói, “Hiển nhiên là Phương Chính nói thật. Huyện này đang ở dưới quyền một tên ác bá, những Huyện lệnh chỉ còn là đám bù nhìn vô năng. Đó là lý do dân chúng nơi này có thái độ lạ lùng như vậy.” Kiều Thái đấm mạnh xuống gối, y giận dữ thốt lên, “Chúng ta sẽ phải khom lưng uốn gối trước tên vô lại Tiền Mưu đó sao?” Địch Công khẽ nhếch mép cười và nói, “Cũng muộn rồi, hai người nên lui về nghỉ và cố ngủ cho ngon giấc. Ngày mai, ta sẽ giao cho hai người nhiều việc đấy. Ta sẽ ở lại đây thêm khoảng nửa canh giờ nữa và xem qua những văn thư cũ này.” Đào Cam và Kiều Thái xin được thức để hỗ trợ Huyện lệnh nhưng ông nhất quyết từ chối. Họ vừa đi khỏi, Địch Công cầm nến đi sang phòng bên. Ông dùng hai ống tay áo lấm bẩn lau sạch đám mốc trên những hộp văn thư. Ông thấy những tập tài liệu mới nhất cũng là từ tám năm trước. Địch Công đem chiếc hộp đó sang thư phòng của mình và bày mọi thứ trong đó lên án thư. Con mắt lão luyện của ông không mất nhiều thời gian để nhận ra đây chủ yếu là những văn thư liên quan đến cách điều hành huyện này. Tuy thế, dưới đáy hộp, ông tìm thấy một cuộn giấy nhỏ, trên đó đề “Nghê thị huynh đệ tài sản án”*. Ông ngồi xuống và mở cuộn giấy rồi đọc qua. Nghê thị huynh đệ tài sản án: vụ án tài sản anh em họ Nghê. Huyện lệnh nhận ra đây là vụ kiện liên quan đến chuyện gia tài của Nghê Thọ Kiền, một Tuần phủ, chín năm trước đã qua đời trong thời gian hồi hưu về sống ở Lan Phường. Địch Công nhắm mắt và để những suy nghĩ trôi về mười lăm năm trước, khi ông còn là một tiểu thư lại ở kinh thành. Lúc đó, danh xưng Nghê Thọ Kiền đã lẫy lừng khắp Đại Đường. Ông ấy là một vị quan tài ba xuất chúng và cực kỳ thanh liêm, tận lực cống hiến cho quốc gia và dân chúng. Ông ấy nổi danh là vị quan nhân đức và là một chính khách uyên bác. Rồi khi Thánh thượng sắc phong ông ấy là Thượng thư Bộ Lễ, Nghê Thọ Kiền bỗng xin cáo lão hồi hương. Viện lý do thân thể đã yếu, ông ấy chỉ sống ở quanh vài huyện hẻo lánh vùng biên cương. Thánh thượng đích thân thuyết phục ông ấy nghĩ lại, nhưng Nghê Thọ Kiền đã nhất quyết chối từ. Địch Công nhớ rằng thời điểm đó quyết định từ quan bất ngờ này đã khiến cho cả kinh thành phải xôn xao. Vậy là huyện Lan Phường chính là nơi năm xưa Nghê Thọ Kiền đã sống những năm cuối đời. Địch Công chậm rãi mở cuộn văn thư một lần nữa rồi cẩn thận đọc lại từ đầu chí cuối. Ông phát hiện ra khi Nghê Thọ Kiền an lành thoái hưu ở Lan Phường, ông ấy đã quá lục tuần và là người thất ngẫu. Nghê Thọ Kiền chỉ có một nhi tử độc nhất là Nghê Kỳ, lúc đó mới ba mươi tuổi. Không lâu sau khi đến huyện Lan Phường, ông ấy nạp thiếp. Nghê đại nhân chọn hiền thê là thôn nữ trẻ họ Mai, tuổi vừa mười tám. Cuộc hôn phối chênh lệch tuổi tác ấy đã cho vị Tuần phủ đứa nhi tử thứ hai, tên là Nghê San. Khi lâm bệnh và thấy mình sắp không qua khỏi, Nghê Thọ Kiền gọi Nghê Kỳ cùng thê tử và hài nhi còn ẵm ngửa đến bên giường bệnh. Ông ấy để lại một bức họa do chính tay mình vẽ tặng Mai phu nhân và nhị công tử Nghê San, toàn bộ số gia sản còn lại thuộc về Nghê Kỳ. Ông ấy còn nói thêm rằng ông ấy tin Nghê Kỳ sẽ để kế mẫu và tiểu đệ được nhận những gì xứng đáng với họ. Trăn trối xong, Nghê Thọ Kiền quy tiên. Địch Công nhìn vào ngày tháng của văn thư và nghĩ lúc này Nghê Kỳ chắc hẳn tầm bốn mươi tuổi, vị quả phụ họ Mai kia cũng gần ba mươi và Nghê San đã mười hai tuổi. Văn thư cho biết ngay khi thân phụ vừa qua đời, Nghê Kỳ đã đuổi kế mẫu và Nghê San ra khỏi nhà. Hắn nói những lời trăn trối của thân phụ rõ ràng có ngụ ý rằng Nghê San là đứa con hoang và không được làm bất cứ điều gì cho nó lẫn người mẹ hoang dâm của nó. Do đó, Mai quả phụ đã làm đơn kiện lên huyện nha để đòi xác minh lại di huấn của phu quân và đòi một nửa gia sản cho hài tử của mình, dựa trên thông luật lúc đó. Khi ấy, Tiền Mưu vừa tự xưng mình là chủ của huyện Lan Phường. Dường như huyện nha không đoái hoài đến lời thỉnh cầu của Mai quả phụ. Địch Công cuộn văn thư lại. Ông nghĩ Mai phu nhân không hề có lợi thế. Những lời Nghê Thọ Kiền nói lúc lâm chung cùng với sự chênh lệch tuổi tác giữa ông ấy và nhị phu nhân có vẻ đã cho thấy Mai phu nhân thực sự đã phản bội phu quân của mình. Mặt khác, cũng thật lạ lùng khi một người có phẩm cách cao quý như Nghê đại nhân lại chọn cách lạ lùng này để tuyên bố Nghê San không phải nhi tử của mình. Nếu ông ấy thực sự đã phát hiện ra thê tử xuân sắc kia đã lừa gạt mình, có thể hình dung ông ấy sẽ lặng lẽ từ bỏ nàng và đưa nàng cùng hài nhi đi sống ở đâu đó thật xa. Như vậy mới bảo toàn được thanh danh của ông ấy và của gia tộc danh giá họ Nghê. Và tại sao ông ấy lại để lại một bức tranh cho mẹ con họ? Cũng thật lạ lùng khi Nghê Thọ Kiền không để lại chúc thư viết tay. Một người có kinh nghiệm quan trường lâu năm chắc sẽ biết rằng di huấn qua những lời trăn trối gần như luôn gây ra những bất hòa sâu sắc trong gia tộc. Vụ án này có nhiều góc khuất cần phải được thẩm tra kỹ lưỡng. Có thể chuyện này sẽ làm sáng tỏ nguyên nhân bí ẩn của việc Nghê Thọ Kiền bất ngờ xin cáo lão hồi hương. Địch Công soát lại các tài liệu khác nhưng không tìm ra bất cứ chi tiết gì liên quan đến việc xét xử vụ án này. Ông cũng không tìm ra bất cứ bằng chứng nào có thể sử dụng để chống lại Tiền Mưu. Địch Công xếp lại những văn thư ấy vào hộp. Ông còn ngồi chìm sâu trong suy tưởng một lúc lâu nữa. Huyện lệnh nghĩ cách để triệt hạ tên ác bá Tiền Mưu, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, mọi suy nghĩ của ông đều quay về với vị Tuần phủ già và di ngôn kỳ lạ của ông. Một ngọn nến lụi đi và tắt hẳn. Địch Công thở dài rồi thắp ngọn nến khác và quay về tư thất. HỒI 3 Tiền Mưu lộng hành, xưng bá chủ Đinh Y chịu nhục, gặp Địch Công Sáng hôm sau, Địch Công giật mình khi biết đã dậy muộn. Ông vội ăn điểm tâm và quay về thư phòng ngay lập tức. Ông thấy căn phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ đâu ra đấy. Ghế ông ngồi đã được sửa và án thư đã sáng bóng. Trên mặt án, mọi dụng cụ viết lách mà Địch Công ưa thích đều đã được bày biện cẩn thận, ông nhận ra chính bàn tay của Hồng Sư gia đã làm tất cả. Địch Công thấy Sư gia đang ở trong thư khố. Cùng với Đào Cam, lão đã quét dọn và sắp xếp lại gian phòng ẩm mốc tối tăm này. Giờ đây, gian phòng có mùi hương dễ chịu của loại sáp ong mà họ dùng để đánh bóng những tráp văn thư bọc da màu đỏ. Huyện lệnh gật đầu hài lòng. Vừa ngồi xuống ghế, ông lệnh cho Đào Cam đi gọi Mã Vinh và Kiều Thái. Khi cả bốn trợ thủ đã có mặt, trước hết ông hỏi han về thương tích của Hồng Sư gia và Mã Vinh. Cả hai đều nói họ không có thương tích nghiêm trọng sau trận đụng độ tối hôm trước. Sư gia đã thay băng trên đầu bằng thuốc cao và Mã Vinh thì có thể điều khiển cánh tay trái như trước dù vẫn có đôi chút gượng gạo. Mã Vinh báo rằng sáng sớm y đã cùng Kiều Thái đi xem xét kho vũ khí của huyện nha. Cả hai tìm được một loạt giáo mác, kích, kiếm, mũ đầu mâu và áo khoác da còn tốt, nhưng tất cả đều đã cũ và dính bụi bẩn, cần phải được đánh bóng kỹ lưỡng. Địch Công chậm rãi bảo, “Câu chuyện của Phương Chính là lời giải thích hợp lý cho những dị sự ở huyện này. Nếu mọi lời hắn nói là sự thật, chúng ta phải mau chóng hành động trước khi Tiền Mưu phát hiện ra chúng ta đang lên kế hoạch đối phó với hắn và ra tay trước. Chúng ta phải tấn công trước khi hắn biết chuyện gì đang diễn ra. Cổ nhân có câu ‘Chó dữ có thể cắn mà không để lộ răng’!” “Chúng ta sẽ xử lý gã đề lao thế nào đây?” Hồng Sư gia hỏi. “Trước mắt, chúng ta cứ giam hắn trong nhà lao. Thật may vì có nhà lao để giam tên vô lại ấy. Rõ ràng hắn là người của Tiền Mưu. Hắn sẽ chạy ngay đến chỗ chủ nhân mà báo lại mọi chuyện về chúng ta.” Mã Vinh định nói điều gì đó nhưng Địch Công khoát tay. Ông nói tiếp, “Đào Cam, giờ ngươi sẽ ra ngoài thu thập mọi tin tức có thể về Tiền Mưu và đám người của hắn. Trong lúc đó, phiền ngươi hãy điều tra về một phú hộ tên là Nghê Kỳ, trưởng nam của Tuần phủ lẫy lừng Nghê Thọ Kiền - người tám năm trước đã qua đời ở huyện Lan Phường.” “Đích thân ta sẽ đi cùng Mã Vinh để thu thập tình hình chung trong trấn. Lão Hồng sẽ giám sát mọi việc ở huyện nha cùng Kiều Thái. Mọi cánh cổng sẽ được khóa kỹ, nội bất xuất ngoại bất nhập trong khi ta vắng mặt, ngoại trừ quản gia. Lão sẽ một mình ra ngoài để mua lương thực. Chúng ta hội kiến ở đây vào buổi trưa!” Địch Công đứng dậy và đội chiếc mũ đen. Trong bộ áo xanh dung dị, trông ông giống một học sĩ uyên thâm lúc thư nhàn. Ông ra khỏi huyện nha, Mã Vinh đi kế cận. Hai người cứ theo hướng Nam và đến thăm một ngôi chùa có tiếng ở huyện Lan Phường. Ngôi chùa nằm trên một hòn đảo nhỏ ở chính giữa hồ sen. Rặng liễu bên bờ đang đua nhau vẫy tay trong làn gió sớm. Khi đi ngược lên phía Bắc, họ hòa vào đám đông. Vẫn là một buổi sáng sớm với nhịp sống thường nhật, mọi cửa hiệu hai bên phố chính tấp nập người mua kẻ bán. Nhưng người dân cười rất khẽ và hay hạ thấp giọng khi trò chuyện, họ vội vàng trông trước ngó sau rồi mới dám nói. Khi cả hai đến cổng vòm kép ở phía Bắc huyện nha, Địch Công và Mã Vinh rẽ trái và đến khu chợ nằm phía trước Tháp Trống. Khu chợ này bày ra một cảnh tượng độc đáo. Người bán hàng rong từ bên kia biên giới mặc trang phục nhiều màu sắc kỳ dị, vừa cất giọng khàn khàn rao vừa giơ hàng hóa lên, đâu đó có một tăng nhân Thiên Trúc cầm bát đi khất thực. Một đám những kẻ ăn không ngồi rồi tụ lại quanh một người bán cá, người này đã lớn tiếng cãi cọ với một nam nhân ăn vận chỉnh tề. Nam nhân ấy hình như đang bị lừa mua giá cao. Cuối cùng, anh ta ném một nắm tiền xu vào giỏ của người bán cá và giận dữ mắng, “Nếu đây là một trấn được cai quản nghiêm minh, nhà ngươi còn lâu mới dám lừa gạt người khác giữa thanh thiên bạch nhật!” Bỗng có một đại hán vai hùm lưng gấu tiến lên phía trước. Hắn xô đẩy nam nhân trẻ tuổi kia rồi giáng một quyền vào miệng anh ta. “Dạy cho ngươi vì dám hỗn xược với Tiền đại gia!” Hắn gầm gừ. Mã Vinh định nhảy vào can thiệp nhưng Địch Công giữ chặt lấy cánh tay y. Những người chứng kiến vội tản đi. Nam nhân kia không nói được lời nào. Anh ta lau máu quanh miệng rồi bỏ đi. Huyện lệnh ra hiệu cho Mã Vinh. Hai người cùng đi theo người trẻ tuổi kia. Khi anh ta rẽ vào một con ngõ nhỏ yên tĩnh, Địch Công đuổi kịp, ông hỏi, “Xin thứ lỗi vì đã làm phiền. Ta vừa thấy tên hung đồ kia đánh đập ngươi. Tại sao ngươi không lên nha môn trình báo?” Người trẻ tuổi đứng lặng. Anh ta ngờ vực nhìn Địch Công cùng vị bằng hữu vạm vỡ của ông và lạnh lùng đáp, “Nếu các ngươi là ưng khuyển của Tiền Mưu thì đừng hòng mong ta tự rơi vào bẫy!” Địch Công nhìn trước nhìn sau quanh con ngõ. Chỉ có ba người ở đó. “Tiểu huynh đệ, ngươi nhầm to rồi”, ông ồn tồn nói. “Ta chính là Địch Nhân Kiệt, tân Huyện lệnh của huyện Lan Phường.” Nam nhân kia xanh xám mặt mày, trông anh ta như vừa gặp ma. Rồi anh ta vỗ lên trán và cố không tỏ ra quá xúc động. Vừa thở phào, khuôn mặt anh ta sáng bừng lên với một nụ cười rạng rỡ. Nam nhân kính cẩn cúi đầu vái chào, “Vãn sinh họ Đinh tên Y, là một Tú tài, nhi tử của Đại tướng quân Đinh Hổ Quốc, người ở Trường An. Vãn sinh được nghe danh đại nhân đã lâu. Không ngờ cuối cùng lại được gặp ngài ở huyện này!” Địch Công khẽ gật đầu tỏ ý cảm tạ. Ông mang máng nhớ ra nhiều năm trước Đinh Tướng quân đã gặp phải chuyện gì đó không may. Đinh Hổ Quốc đã từng đánh thắng ngoại bang ở biên cương phía Bắc. Nhưng khi trở lại kinh thành, ông ta bỗng bị ép phải từ quan. Địch Công tự hỏi tại sao nhi tử của Đinh Tướng quân lại xuất hiện ở chốn xa xôi này. Ông bảo Đinh Y, “Trấn này tất có chuyện mờ ám đang diễn ra. Xin Đinh công tử có thể kể cho ta rõ hơn về mọi chuyện ở đây.” Đinh Y không trả lời ngay. Anh ta suy nghĩ một lát rồi mới nói, “Tốt nhất không nên đàm luận những chuyện đó ngoài đường. Có thể cho vãn sinh vinh dự được mời đại nhân một chén trà không?” Địch Công đồng ý. Ba người vào quán trà trong góc con ngõ rồi chọn một bàn cách xa những vị khách khác. Sau khi tiểu nhị đem trà lên, Đinh Y thì thào, “Tên ác nhân Tiền Mưu nắm mọi quyền lực trong tay. Không ai dám đối đầu với hắn. Tiền Mưu nuôi tầm một trăm tên hung đồ trong gia trang của mình. Chúng không có gì làm ngoài việc đi lang thang quanh trấn và dọa dẫm dân chúng.” “Chúng có mang theo hung khí không?” Mã Vinh hỏi. “Khi ra ngoài phố, đám lưu manh này chỉ mang theo côn và kiếm, nhưng vãn sinh sẽ không lấy làm lạ nếu trong Tiền gia trang có cả một kho khí giới.” Địch Công hỏi, “Công tử có thường thấy đám dị tộc từ bên kia biên cương đến trấn này không?” Đinh Y lắc đầu dứt khoát. Y đáp, “Vãn sinh chưa bao giờ trông thấy một người Duy Ngô Nhĩ đơn độc nào ở đây.” “Những kẻ xâm phạm mà Tiền Mưu trình báo về triều đình”, Địch Công bảo Mã Vinh. “Rõ ràng là do hắn bịa đặt ra, để khiến các vị thượng quan tin rằng hắn cùng người của mình là những kẻ không thể thiếu được ở nơi này.” Mã Vinh hỏi, “Công tử đã bao giờ vào trong Tiền gia trang chưa?” “Trời đất!” Đinh Y thốt lên. “Vãn sinh luôn tránh xa nơi đó. Tiền Mưu xây dựng tường kép bao quanh gia trang của mình, có tháp canh ở bốn góc.” “Hắn đã thâu tóm quyền lực ở đất này thê nào?” Địch Công hỏi. “Hắn được thừa kế gia sản vô tận từ thân phụ, nhưng hắn không hề có tài đức gì. Thân phụ hắn là người trấn này, một người trung thực và cần cù, trở nên giàu có nhờ buôn trà. Ít năm về trước, quan đạo đi Hòa Điền (ở Tây Vực) và các nước chư hầu khác ở phía Tây chạy qua huyện Lan Phường và trấn này trở thành một chốn phố thị trọng yếu. Rồi ba ốc đảo trên con đường qua sa mạc đều khô cằn và con đường bị dịch chuyển lên phía Bắc cả trăm dặm. Tiền Mưu sau đó thu thập được một đám du đãng về quanh mình, rồi một ngày hắn tự xưng mình là phú hào ở huyện này.” “Hắn là kẻ thông minh và quyết đoán, có thể dễ dàng thành danh trong chốn quan quân. Nhưng hắn không tuân lệnh ai, hắn thích làm bá chủ ở huyện này như một lãnh chúa tự phong không chịu trách nhiệm trước bất cứ ai trên đời.” “Thật là tai ương”, Địch Công bình phẩm. Ông uống cạn chén trà rồi đứng dậy bỏ đi. Đinh Y vội vươn người về trước và khẩn xin Địch Công ở lại thêm chút nữa. Huyện lệnh do dự, nhưng trông anh ta có vẻ buồn bã nên ông đành ngồi xuống. Đinh Y vội châm đầy các chén trà. Anh ta dường như bối rối không biết mở lời ra sao. “Nếu công tử đang nghĩ điều gì, xin cứ tự nhiên nói ra!” “Xin kể sự thật với đại nhân”, Đinh Y đành trả lời, “có một chuyện còn đè nặng lên tâm trí vãn sinh. Không thể động thủ với gã Tiền Mưu bạo ngược đó được. Vì sẽ liên lụy đến gia đình của vãn sinh.” Nói đến đó, anh ta dừng lại. Mã Vinh có vẻ thiếu kiên nhẫn, không ngồi được yên. Đinh Y cố tìm lời nói tiếp, “Đại nhân, thân phụ của vãn sinh sẽ bị giết mất!” Địch Công nhướn mày bảo, “Nếu công tử đã biết trước như vậy thì ngăn chặn tội ác này thật không khó!” Tú tài lắc đầu, “Xin cho vãn sinh kể lại toàn bộ câu chuyện. Đại nhân có thể sẽ được nghe nói về chuyện gia phụ bị một viên tướng dưới quyền mình vu khống, đó là Ngô Long? Hắn ghen tức với chiến công hiển hách của gia phụ ở phương Bắc, dẫu cho hắn không bao giờ có thể chứng minh bản cáo trạng mà Bộ Binh đã dùng để buộc gia phụ phải từ quan.” “Đúng vậy, ta vẫn còn nhớ chuyện đó. Đinh lão gia vẫn đang sống ở đây sao?” “Gia phụ đến nơi hẻo lánh này một phần vì gia mẫu đã qua đời là người huyện Lan Phường, và cũng vì gia phụ muốn tránh xa những chốn thị phi có thể khiến ông phải bẽ bàng khi gặp những bạn đồng liêu năm xưa. Hai phụ tử vãn sinh đều nghĩ rằng mình có thể sống trong yên bình.” “Có điều, một tháng trước, vãn sinh bắt đầu nhận thấy những kẻ khả nghi hay lai vãng quanh nhà mình. Mười ngày trước, vãn sinh bí mật đi theo một kẻ trong số đó. Hắn đến một tửu điếm nhỏ ở phía Tây Bắc trấn, tên là‘Vĩnh Xuân’. Không ai hiểu được nỗi ngạc nhiên của vãn sinh khi đứng từ một tửu điếm bên kia đường, vãn sinh đã nhận ra kẻ đó là Ngô Phong, trưởng tử của Ngô Long!” Địch Công tỏ vẻ nghi ngờ. “Tại sao Ngô Long lại cử nhi tử của mình đi quấy nhiễu Đinh Tướng quân? Hắn đã phá hoại binh nghiệp của lệnh đường. Làm thêm chuyện bất lương nào nữa chỉ khiến hắn gặp tai họa.” “Vãn sinh biết rõ kế hoạch của hắn!” Đinh Y kích dộng thốt lên. “Ngô Long biết các vị bằng hữu của gia phụ ở kinh thành đã tìm ra bằng chứng cho thấy những lời buộc tội năm xưa là vu khống. Hắn cử Ngô Phong đến để sát hại gia phụ, hòng che giấu ác nghiệp của hắn! Đại nhân không biết Ngô Phong đâu. Từ nhiều năm nay, y đắm chìm trong tửu sắc, một kẻ vô cùng phóng đãng, không thích gì ngoài những trò bạo ngược. Y thuê một đám du đãng theo dõi nhà vãn sinh và sẽ ra tay ngay khi có cơ hội.” “Dù vậy”, Địch Công nhấn mạnh, “ta không biết mình nên can thiệp thế nào. Ta chỉ có thể khuyên công tử phải để mắt đến mọi hoạt động của nhà họ Ngô và đồng thời phải có phòng bị trước trong Đinh gia trang. Có dấu hiệu nào cho thấy họ Ngô có liên hệ với Tiền Mưu không?” “Bẩm không, Ngô Long hiển nhiên không tìm cách để có được sự trợ giúp của Tiền Mưu. Trong khi phòng bị, gia phụ đã nhận được nhiều thư đe dọa nhất từ khi ông từ quan. Gia phụ ít khi ra ngoài và Đinh gia trang luôn cửa đóng then cài cả ngày lẫn đêm. Hơn nữa, gia phụ đã xây kín mọi cửa ra vào và cửa sổ ở thư phòng, chỉ chừa lại một cửa. Cửa đó chỉ có duy nhất một chìa khóa mà gia phụ luôn đem theo bên mình. Khi vào trong, ông đều chặn cửa cẩn thận. Gia phụ dành hầu hết thời giờ ở trong thư phòng ấy, biên soạn lịch sử về những cuộc chiến ngoài biên cương.” Huyện lệnh bảo Mã Vinh ghi lại địa điểm của Đinh gia trang. Nơi đó cách quán trà này không xa, phía bên kia Tháp Trống. Khi đứng dậy từ biệt, Địch Công nói, “Xin công tử đừng quên lên nha môn trình báo nếu có bất cứ diễn tiến mới nào. Giờ ta phải đi, công tử rồi sẽ thấy vị trí của ta ở huyện này không hề dễ chịu chút nào. Ngay khi giải quyết được Tiền Mưu rồi, ta sẽ xem xét kỹ hơn về trường hợp của công tử.” Đinh Y bái tạ Địch Công và tiễn hai người ra cửa quán. Anh ta cúi đầu chào tiễn biệt. “Vị công tử này”, Mã Vinh nói, “khiến thuộc hạ nhớ đến một người luôn đội mũ đầu mâu cả ngày lẫn đêm vì sợ thiên thạch rơi trúng đầu mình!” Địch Công lắc đầu, trầm ngâm nói, “Đây là một kỳ án. Ta không hề hứng thú chút nào.” HỒI 4 Địch quan án khoan dung tha phạm Phương Bộ đầu trượng nghĩa giúp người Mã Vinh trông có vẻ ngạc nhiên nhưng Địch Công không bình phẩm thêm. Hai người lặng lẽ quay về huyện nha. Kiều Thái mở cổng đón họ và báo với Huyện lệnh rằng Đào Cam đang đợi ông trong thư phòng. Ông triệu Hồng Sư gia đến. Khi cả bốn trợ thủ đã ngồi xuống trước án thư, Địch Công kể vắn tắt về chuyện gặp Đinh Y, rồi ông bảo Đào Cam trình báo. Vẻ mặt Đào Cam có phần chán ngán hơn thường lệ khi bẩm báo, “Bẩm đại nhân, tình hình này không hề có lợi cho chúng ta. Tiền Mưu đã tạo dựng được một vị thế đầy quyền uy. Hắn bòn rút hết tài vật của huyện này nhưng lại khôn khéo tránh xa những người của gia tộc quyền quý, họ đều từ kinh thành đến đây, không để họ trình báo những điều bất lợi cho hắn với các thượng quan ở kinh thành. Vậy nên Đinh công tử, nhi tử của Đinh Tướng quân mà đại nhân vừa gặp, và Nghê Kỳ, nhi tử nhà Tuần phủ Nghê Thọ Kiền không bị hắn động đến.” “Tiền Mưu đủ khôn ngoan để không quá táng tận khi bóc lột dân chúng. Trong mọi thương vụ diễn ra ở huyện này, hắn đều chiếm một phần lớn, nhưng vẫn để lại cho các thương nhân một phần lợi nhuận đáng kể. Kể ra hắn cũng đã duy trì được cảnh an bình cho dân chúng. Nếu một kẻ bị bắt gặp đang giở trò trộm cắp hoặc gây rối thì sẽ bị thủ hạ của Tiền Mưu đánh cho thừa sống thiếu chết ngay lập tức. Thực tế, đám thủ hạ đó ăn uống trong các tửu quán và khách điếm đều không trả một xu nào. Mặt khác, Tiền Mưu vung tiền rất hào phóng và nhiều cửa hiệu lớn có mối quan hệ tốt với hắn cũng như người của hắn. Nhưng nói chung, những chủ hiệu nhỏ và đám thương gia thì phải chịu đựng đủ mọi uất ức vì sự ngang ngược của Tiền Mưu. Tuy nhiên, nếu xét tổng thế, người dân huyện Lan Phường đều cam phận, vì số phận họ có thể tăm tối hơn trong thoáng chốc.” “Thủ hạ của Tiền Mưu có trung thành với hắn không?” Địch Công ngắt lời. “Có gì mà không trung thành được?” Đào Cam hỏi lại. “Đám vô lại ấy có tầm một trăm tên, suốt ngày chỉ uống say sưa và đánh bạc. Tiền Mưu thu nạp chúng trong đám cặn bã chốn phố thị và còn chọn được khá nhiều tên trong số những kẻ đào ngũ, trốn quân dịch. Thuộc hạ cũng xin nói luôn, Tiền gia trang trông giống như một pháo đài, nằm ở gần cổng thành phía Tây. Xung quanh có tường cao chông sắt và cổng chính được canh phòng suốt ngày đêm bởi bốn gã đầy đủ khí giới.” Địch Công giữ yên lặng hồi lâu, chậm rãi vuốt dải tóc mai, rồi hỏi, “Ngươi đã biết được gì về Nghê Kỳ rồi?” Đào Cam đáp, “Nghê Kỳ sống gần thủy môn. Hắn dường như là người đã quen với cuộc sống kín đáo và bình lặng. Nhưng dân chúng có kể nhiều chuyện về thân phụ hắn, Tuần phủ quá cố Nghê Thọ Kiền. Đó là một lão nhân kỳ dị, đã sống gần như trọn đời ở một vùng thôn dã mênh mông dưới chân dốc núi, bên ngoài cổng thành phía Đông. Trang viên ấy là một nơi cổ kính và tối tăm, nằm giữa một khu rừng rậm rạp. Người ta nói nơi đó được xây dựng hơn hai trăm năm trước. Ở phía sau, Nghê đại nhân có cho xây một mê cung trong phạm vi gần một mẫu đất. Lối vào trang viên bị bao quanh bởi đám cây bụi dày đặc và những tảng đá lớn, tạo nên một bức tường bất khả xâm phạm. Họ còn nói mê cung đó có rất nhiều loài bò sát độc hại, những người khác lại quả quyết Nghê đại nhân sắp đặt nhiều loại cạm bẫy ghê gớm dọc theo con đường. Cho dù thế nào thì mê cung này hoàn hảo đến nỗi chưa từng có ai ngoại trừ Nghê lão gia dám cả gan bước vào. Tuy thế, ông ấy đã từng đến mê cung đó gần như mọi ngày và ở lại trong mê cung trong nhiều canh giờ.” Địch Công dõi theo từng lời của Đào Cam và thấy thú vị vô cùng. Ông nhận định, “Thật là một câu chuyện kỳ thú! Nghê Kỳ có thường đến trang viên đó không?” Đào Cam lắc đầu.“Không hề, thưa đại nhân. Nghê Kỳ rời khỏi nơi đó ngay sau khi mai táng cho Nghê đại nhân. Hắn chưa hề quay lại từ sau đó. Trang viên ấy bỏ không, chỉ còn lại một lão môn đinh cùng thê tử trông nom. Người ta nói nơi đó bị ma ám và hồn ma Nghê đại nhân vẫn đi lại quanh đó vào ban đêm. Mọi chuyện khiến cho ít người dám lai vãng đến gần điền trang đó, dù là giữa thanh thiên bạch nhật.” “Gia trang của Nghê đại nhân trong trấn nằm ngay phía bên trong cổng thành phía Đông. Nhưng Nghê Kỳ đã bán nơi đó ngay sau khi thân phụ qua đời và mua tư gia hiện tại, ngay phía bên kia trấn. Tư gia mới này nằm trên một khoảng đất trống ở góc Tây Nam, gần dòng sông. Thuộc hạ không kịp đích thân đến đó, nhưng nghe người dân nói thì đó là một gia trang đồ sộ, xung quanh tường cao bao kín.” Địch Công đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại. Lát sau, ông hỏi với vẻ nôn nóng, “Chuyện triệt hạ Tiền Mưu tất sẽ dẫn đến rắc rối với quan quân, và bản thân ta không mấy hứng thú với những chuyện như vậy. Thật không khác gì chơi một ván cờ, đối thủ và mọi phương sách của hắn đều đã được biết rõ ngay từ đầu, không có bất cứ yếu tố vô định nào. Mặt khác, ta lại vô cùng tò mò trước hai chuyện ly kỳ kia, đó là những lời di huấn mơ hồ của Nghê đại nhân và chuyện sát hại Đinh Tướng quân lại được báo trước. Ta muốn tập trung vào hai vụ án đó, vì ta đều thấy thích thú. Trước hết, ta phải xử lý tên ác bá kia! Quả là một tình huống bức bối!” Địch Công giận dữ vuốt râu rồi đứng dậy bảo, “Được, ta cho rằng không thể làm gì hơn nữa. Giờ ta sẽ đi dùng cơm trưa, sau đó thăng đường xử vụ án đầu tiên ở huyện nha này.” Địch Công rời khỏi phòng. Bốn người bọn Mã Vinh quay về túc xá, ở đó quản gia đã chuẩn bị một bữa cơm đạm bạc cho họ. Vừa vào đến nơi, Kiều Thái đã ra hiệu cho Mã Vinh. Hai người cứ đứng bên nhau một lúc ngoài hành lang. Kiều Thái thì thầm với Mã Vinh, “Ta e rằng đại nhân đã xem thường những gì chúng ta sắp phải đối mặt. Huynh đệ ta đều đã ở trong quân đội, chúng ta biết rõ mình không hề có thời cơ. Tiền Mưu có một trăm thủ hạ cao cường, trong khi những người biết võ công trong chúng ta, ngoại trừ đại nhân, thì chỉ còn ta và đệ. Quân doanh gần nhất cách nơi này ba ngày đi ngựa. Sao chúng ta không can đại nhân đừng hành động quá vội vàng?” Mã Vinh mân mê hàng ria mép. Y hạ thấp giọng và đáp, “Đại nhân có đủ mọi dữ kiện mà hai ta có. Đệ cho rằng đại nhân đã nghĩ ra kế để phá giải vụ án này.” “Mưu kế thâm sâu nhất”, Kiều Thái nói, “thì không được liên quan đến dùng vũ lực. Đối với huynh đệ ta thì không sao, nhưng còn các vị phu nhân và các công tử của đại nhân? Tiền Mưu sẽ không nương tay với họ đâu. Ta nghĩ giờ chúng ta phải đề nghị với đại nhân, cho phép hai ta trước hết giả quy phục Tiền Mưu, sau đó sẽ lên kế hoạch ra tay với hắn. Chúng ta có thể gọi được cả ngàn quan quân đến đây trong vòng nửa tháng.” Mã Vinh lắc đầu, “Mưu kế tùy tiện sẽ không được cho phép đâu. Chúng ta hãy cứ đợi ít lâu xem chuyện gì sẽ xảy ra. Đệ thấy nếu phải chết, thì không gì hơn chết trong một trận quyết đấu hay ho.” “Đúng thế, nếu buộc phải công khai tử chiến, ta sẽ hạ được ít nhất bốn tên vô lại trong số đó. Giờ chúng ta vào trong đi. Đừng hở ra lời nào về kế hoạch của hai ta, đừng đánh động đến Sư gia và Đào Cam.” Mã Vinh gật đầu. Hai người bước vào phòng và thích thú ngồi dùng bữa. Khi ăn xong, Đào Cam xoa cằm nói, “Ta đã đi theo đại nhân được hơn sáu năm, vốn nghĩ mình đã hiểu rõ về ngài. Nhưng nay ta không sao hiểu nổi tại sao đại nhân lại lo lắng trước một vụ kiện cũ và một vụ giết người có thể sẽ không xảy ra, trong lúc chúng ta lại phải đối mặt một vấn đề đầy khó khăn và cấp thiết như triệt hạ gã Tiền Mưu. Hai đệ và lão Hồng đã theo đại nhân cả đời mình rồi, vậy các vị nói sao?” Hồng Sư gia đang mải uống nốt tô canh, tay trái nâng bộ râu. Lão lặng lẽ đặt tô canh xuống rồi mỉm cười đáp, “Trong những năm qua, lão phu chỉ học được một cách để hiểu đại nhân. Đó là từ bỏ cố gắng!” Bốn người cười ầm. Họ đứng dậy và trở lại thư phòng của Địch Công. Trong lúc Hồng Sư gia giúp Địch Công đổi sang bộ nghi bào, ông than, “Vì ta thiếu các Bộ đầu Bộ khoái trên công đường, nên hôm nay phiền cả bốn vị thế chỗ họ.” Đoạn Địch Công kéo bức màn ngăn phòng mình và đại đường, rồi bước lên vị trí của pháp quan. Khi đã ngồi xuống phía sau đại án, Địch Công lệnh cho Hồng Sư gia và Đào Cam đứng hai bên tả hữu làm nha lại, ghi chép mọi biên bản. Mã Vinh và Kiều Thái đứng dưới, ngay trước đại án, làm Bộ khoái. Vừa đứng vào vị trí, Mã Vinh đã đưa mắt nhìn Kiều Thái với vẻ hoang mang. Cả hai tự hỏi tại sao Địch Công lại một mực muốn dựng lên một phiên xử án thật chốn công đường. Nhìn xuống đại đường trống trơn, Kiều Thái thấy chuyện này khiến y nghĩ đến một đám diễn kịch. Địch Công cầm kinh đường mộc* vỗ án. Ông trang trọng tuyên bố, “Đây là vụ án đầu tiên bản quan xét xử ở nha huyện này. Kiều Thái, áp giải phạm nhân lên!” Dụng cụ các quan án dùng để đập xuống bàn trong lúc thăng đường. Kiều Thái mau chóng quay lại, dẫn theo sáu kẻ đạo tặc và một ả thôn nữ. Y trói tất cả lại vào cùng một sợi xích dài. Đến giữa chốn công đường trống trải, cả đám hoảng hồn nhìn Địch Công uy nghi trong quan phục, ngồi sau bàn xử án. Sắc diện điềm tĩnh, Địch Công lệnh cho Đào Cam ghi chép đầy đủ họ tên và nghề nghiệp trước kia của từng phạm nhân. Rồi ông dõng dạc phán, “Các ngươi phạm tội hành hung cướp bóc có chủ ý hung bạo giữa chốn công lộ. Theo luật, các ngươi phải chịu xử trảm, tịch biên gia sản, bêu đầu thị chúng ba ngày trước cổng thành.” “Tuy nhiên, nhận thấy trong số các nạn nhân không có ai thiệt mạng và thân thể không chịu thương tích nghiêm trọng, cũng vì những lý do đặc biệt mà các ngươi bị đẩy đến tuyệt lộ, nên bản quan quyết định khoan hồng với các ngươi chứ không dùng hình pháp. Bản quan sẽ phóng thích các ngươi, nhưng phải có một điều kiện.” “Tất cả các ngươi sẽ phải phục vụ vô thời hạn cho huyện nha, trở thành những Bộ khoái dưới quyền của Bộ đầu là Phương Chính, tận tụy trung thành với triều đình và dân chúng cho đến khi ta trả tự do cho các ngươi.” Đám phạm nhân lặng người. “Bẩm đại nhân”, Phương Chính thưa, “chúng thảo dân vô cùng biết ơn ân đức của đại nhân. Có điều nếu đại nhân làm vậy, chúng thảo dân cũng sẽ phải chết trong vài ngày tới. Đại nhân chưa được biết đến trò trả thù của Tiền Mưu đâu, còn nữa…” Địch Công vỗ án. Giọng ông vang như sấm dậy chốn công đường, “Mau ngẩng lên nhìn rõ Huyện lệnh của các ngươi! Hãy nhìn cho kỹ quan mạo mà triều đình ban cho bản quan. Từ ngày hôm nay, chính giờ khắc này, các ngươi hãy nhớ rằng hàng nghìn mệnh quan của Đại Đường đội mũ quan giống như ta cũng đang đại diện cho triều đình và muôn dân để hành pháp. Từ xa xưa, quan án là biểu tượng của trật tự xã hội được quyết định dựa trên minh ý của các vị tiên hiền, được duy trì bởi thiên mệnh và nguyện vọng của biết bao người dân áo vải.” “Các ngươi không thấy đôi khi người ta thử cắm một cây gậy xuống dòng suối chảy xiết sao? Cây gậy chỉ đứng vững được trong chốc lát, rồi sẽ bị dòng nước mạnh mẽ bất tận cuốn đi. Do đó, đôi khi những kẻ độc ác và ngu muội sẽ xuất hiện và tìm cách phá vỡ những khuôn thước từ nghìn đời nay trong thiên hạ. Có phải những hành vi như vậy sẽ chỉ chuốc lấy bại vong thê thảm không? Hãy để ta và các ngươi không bao giờ mất đi lòng tin vào Thiên Đạo, để không mất đi lòng tin vào chính mình. Mau đứng lên và tự tháo bỏ dây xích cho mình!” Đám phạm nhân không hiểu hết mọi ẩn ý trong lời của Huyện lệnh. Nhưng cả đám đều cảm kích trước vẻ chân tình hết mức của ông và bị vẻ cương quyết tột cùng của ông lay động. Tuy nhiên, những trợ thủ của Địch Công đã thấu hiểu và cũng biết rằng những lời này đối với họ cũng giá trị không kém gì đám phạm nhân kia. Mã Vinh và Kiều Thái cúi đầu rồi nhanh chóng tháo dây xích. Địch Công hỏi chuyện đám người, “Sau đây, các ngươi sẽ đến trình báo với Đào Cam và Hồng Sư gia những nỗi oan tình mà Tiền Mưu đã gây ra cho các ngươi. Lần lượt từng vụ án sẽ được giải quyết trên công đường. Có điều, lúc này, còn có những việc cấp bách hơn. Sáu người các ngươi hãy mau đến sân sau của huyện nha và lau sạch binh khí lẫn những bộ giáp cũ của công sai. Hai trợ thủ của ta là Mã Vinh và Kiều Thái sẽ dạy quân quy cho các ngươi. Nữ nhi của Phương Chính sẽ đến trình diện quản gia của ta để trở thành thị nữ trong phủ. Bãi đường!” Địch Công đứng dậy và trở lại thư phòng. Ông đổi sang bộ thường phục dễ chịu. Ông vừa định phân loại một số văn thư thì Phương Chính bước vào. Thi lễ xong, ông ta kính cẩn nói, “Bẩm đại nhân, bên kia thung lũng, ở nơi bọn thảo dân chặn cướp đoàn xe của đại nhân, vẫn còn hơn ba mươi người nữa đang nương náu trong một căn lều tạm bợ. Họ phải trốn khỏi trấn vì những việc đại nghịch của Tiền Mưu. Thảo dân biết rõ tất cả bọn họ. Có năm hoặc sáu người là những kẻ giang hồ, số còn lại đều là lương dân mà thảo dân dám đảm bảo cho họ. Chắc chắn một ngày không xa thảo dân sẽ phải đến đó và thu nạp họ về phụng sự cho huyện nha.” “Ý hay!” Địch Công đồng tình. “Ngươi mau lấy ngựa và đến đó ngay đi. Chọn ra những người mà ngươi thấy phù hợp. Đưa họ trở về trấn vào lúc chiều tối thành từng nhóm hai hoặc ba người, đi theo những con đường khác nhau!” Phương Bộ đầu vội vã lui gót. Xế chiều hôm đó, sân sau của huyện nha không khác gì quân trại. Mười nam nhân đội mũ đầu mâu sơn đen và mặc áo da có thắt khăn đỏ - sắc phục thường thấy của công sai - được Phương Chính dẫn dắt luyện tập. Mười người khác mặc áo giáp sáng bóng và đội mũ đầu mâu lấp lánh đang luyện thương và có Mã Vinh giám sát. Kiều Thái dạy cho mười người khác những thủ thuật của điều khiển kiếm. Cổng nha môn đóng kín. Hồng Sư gia và Đào Cam đứng trông chừng. Tối muộn hôm đó, Địch Công lệnh cho tất cả tập trung lên công đường. Dưới ánh sáng của ngọn nến duy nhất, ông chỉ thị cho họ một số điều. Khi xong việc, ông dặn họ phải tuyệt đối giữ yên lặng một lát. Rồi ông thổi tắt ngọn nến. Đào Cam rời khỏi công đường. Y cẩn thận đóng cửa lại và bước xuống những hành lang tối tăm, tay cầm đèn lồng soi đường. Y đến nhà lao và mở cửa cho tên đề lao. Tên đề lao bị xích vào một vòng sắt trên tường. Đào Cam tháo xích và ra lệnh, “Huyện thái gia đã quyết định bãi chức ngươi vì tội vô đạo. Ngươi đã không biết gìn giữ ấn tín của huyện nha mà ngươi được phó thác. Sắp tới, Huyện thái gia sẽ mộ những công sai mới cho huyện nha, tội nhân đầu tiên quỳ gối trong xích sắt trước công đường chính là tên ác Tiền Mưu!” Tên đề lao lộ rõ vẻ giận dữ. Đào Cam dẫn hắn qua những hành lang trống trải tối tăm, băng qua khoảng sân vắng. Hai người đến túc xá của nha sai. Tất cả chìm trong bóng tối tĩnh mịch. Đào Cam mở cổng rồi đẩy tên đề lao ra ngoài, miệng quát to, “Biến đi! Đừng bao giờ để ta thấy bộ mặt đê tiện của ngươi nữa!” Tên đề lao khinh bỉ nhìn y. Hắn nói cũng bằng giọng khinh khỉnh, “Ông đây sẽ còn quay lại sớm hơn ngươi nghĩ đấy, đồ cẩu trệ!” Rồi hắn biến mất vào con phố tối tăm. HỒI 5 Nửa đêm, huyện nha bị kinh động Trời sáng, Địch Công bắt Tiền Mưu Vừa quá nửa đêm, bỗng xuất hiện những âm thanh phá vỡ không gian yên tĩnh của huyện nha. Có những giọng nói khàn khàn ra hiệu, tiếng binh khí va chạm. Có kẻ đập cổng chính của huyện nha, từng tiếng đập trầm đục dội lại trong không gian tối tăm. Nhưng trong huyện nha vẫn không có động tĩnh. Cánh cửa gỗ rạn vỡ, từng tấm gỗ lớn đổ sập xuống đất. Hai mươi tên hung đồ múa gậy khua thương ào vào trong. Một gã to lớn cầm đuốc dẫn đường. Chúng kéo vào sân sau thứ nhất và quát gọi “Tên cẩu quan ở đâu? Tên Huyện lệnh thối tha ở đâu?” Gã to xác kia đạp cửa dẫn vào sân chính rồi đứng tránh qua một bên, kiếm tuốt trần cầm tay để những kẻ khác tiến vào. Vào đến bên trong, cả đám dừng lại vì bên trong tối đen như mực. Bất ngờ, cả sáu cánh cửa của đại sảnh tiếp khách bật mở. Cả sân bỗng sáng rực vì mười hai ngọn nến lớn lẫn đèn lồng xếp thành hai hàng. Những kẻ đột nhập lóa mắt vì thứ ánh sáng đột ngột ấy, chúng thấy hình như có một đội binh lính đã được bố trí hai bên tả hữu. Ánh đuốc soi sáng mũ đầu mâu và những mũi thương dài đã chĩa ra chờ sẵn. Ở dưới chân cầu thang, chúng thấy có một hàng Bộ khoái gươm đã tuốt sẵn. Ở phía trên cùng của cầu thang, một người uy nghi trong bộ quan phục có thêu kim tuyến sáng lấp lánh, đầu đội mũ ô sa cánh chuồn. Hai bên tả hữu của vị đại quan là hai đại hán mặc binh phục. Ngực và giáp vai của họ sáng rực, núm tua ngũ sắc rung rinh trên chóp mũ. Một người giương cây cung lớn, lãnh tiễn đã chực phóng. Địch Công cất giọng nói rền vang như sấm, “Huyện lệnh huyện Lan Phường ở đây! Mau bỏ hung khí xuống!” Gã to lớn kia tay cầm gươm đã tuốt trần, hắn là người đầu tiên trấn tĩnh lại.“Mở đường máu!” Hắn thét lên với đám thủ hạ. Vừa vung gươm lên, hắn đã ngã vật ra sau trong tiếng thở dốc. Mũi tên của Kiều Thái đã đâm trúng cổ họng hắn. Cùng lúc đó, từ phía sảnh đường, một giọng khàn khàn cất lên, “Bên phải… tiến!” Lập tức, tiếng binh khí va chạm và những bước chân nặng nề rộ lên. Đám hung đồ khiếp đảm nhìn nhau. Một kẻ nhảy lên trước ra lệnh cho cả đám, “Huynh đệ, chúng ta trúng kế rồi! Quan quân đang ở đây!” Tay sai của Tiền Mưu hoảng hốt nhìn nhau Dứt lời, hắn ném ngọn thương về phía trước cầu thang. Vừa tháo dây đeo kiếm, hắn vừa nói, “Được lắm, phải mất sáu năm ta mới trở thành Bài quân. Xem ra ta sẽ lại phải làm sĩ tốt rồi!” Mã Vinh quát, “Kẻ nào tự xưng là Bài quân ở đây?” Gã kia tự động đứng nghiêng mình. “Tại hạ họ Lăng tên Cương, Bài quân của bộ binh đệ lục đội, Tả Dực tam thập tam quân. Xin nghe lệnh ngài!” “Tất cả những kẻ đào ngũ mau bước lên trước!” Mã Vinh thét. Năm người tự xếp thành hàng phía sau viên Bài quân và đứng nghiêm với vẻ hổ thẹn. Mã Vinh xẵng giọng, “Các ngươi mau đến trình diện quan quân.” Trong lúc đó, đám hung đồ còn lại giao nộp khí giới cho công sai. Cả đám đều bị trói tay ra sau. Địch Công phán, “Mã Hiệu úy, hỏi xem có bao nhiêu kẻ đào ngũ còn lẩn trốn quanh trấn này.” Mã Vinh quát hỏi kẻ trước kia từng là Bài quân, đoạn nói, “Bẩm đại nhân, có tầm bốn mươi người!” Địch Công vuốt râu, bảo Mã Vinh, “Khi các ngươi điều tra các huyện xung quanh, ta muốn có một số binh lính đến đây canh phòng. Ngươi hãy đến trình báo với Đại tướng quân rằng đã có đầy đủ tên tuổi những kẻ đào ngũ.” Mã Vinh lập tức ra lệnh, “Lăng Bài quân và năm tiểu tốt kia, mau quay lại quân doanh của các ngươi, nghiêm cấm sách nhiễu dân chúng. Ngày mai, các ngươi tự đến đây trình diện vào đúng giờ quy định, mặc quân phục và mang theo quân bị đúng như quân pháp quy định!” Cả sáu người đồng thanh “Xin tuân lệnh!” rồi đi. Địch Công ra hiệu, đám công sai dẫn phạm nhân vào nhà lao, Đào Cam đang đợi sẵn ở đó. Đào Cam ghi lại họ tên từng kẻ. Mười lăm tên tất cả, và tên cuối cùng không phải ai khác chính là gã đề lao bị bãi chức, vẻ mặt Đào Cam rạng rỡ khi nở nụ cười khinh bỉ. “Ngươi nói đúng đấy, đồ vô lại! Ngươi thực sự đã trở lại đây sớm hơn ta nghĩ!” Vừa nói, Đào Cam vừa lôi hắn lại và đẩy hắn vào lao phòng lúc trước bằng một cú đá trời giáng. Trong sân chính, những tân binh vừa được Phương Chính chiêu mộ đã ôm thương quay về túc xá. Thấy bọn họ hàng ngũ tề chỉnh, Địch Công cười bảo Mã Vinh, “Không uổng một buổi chiều thao luyện!” Ông bước xuống từng bậc. Hai công sai đóng cửa đại đường lại. Hồng Sư gia xuất hiện, trên tay là mấy chiếc nồi cũ, ấm nước và sợi xích han gỉ. Địch Công bình phẩm, “Lão Hồng, nhuệ khí của lão thật đáng nể!” Sáng sớm hôm sau, khi trời vừa hửng sáng, ba người thúc ngựa rời khỏi nha môn. Địch Công ở giữa, mặc y phục đi săn. Mã Vinh và Kiều Thái hộ tống hai bên, uy nghi trong giáp phục của quan Hiệu úy. Ngựa nhằm hướng Tây mà phi, Địch Công quay người trên yên và nhìn thấy lá cờ vàng phấp phới trên nóc nha môn, trên đó có mấy chữ màu đỏ tươi “Lan Phường Quân trại đại doanh”. “Các phu nhân của ta phải mất gần hết đêm thêu xong lá cờ ấy”, Địch Công cười nói với trợ thủ. Họ tiến thẳng đến gia trang của Tiền Mưu. Gã đại hán cầm kích đứng trước cổng. Mã Vinh ghìm cương ngay trước mặt chúng. Y cầm roi ngựa chỉ vào cửa và ra lệnh, “Mau mở cửa!” Dường như đám người đào ngũ được cho về đêm qua đã loan tin có quan binh tới. Đám gác cổng còn do dự một lát. Rồi chúng mở cổng. Địch Công cùng hai trợ thủ thúc ngựa vào. Ở sân trước, có vài chục hán tử đứng thành từng tốp, trò chuyện sôi nổi. Cả đám bỗng im bặt rồi đưa ánh mắt lo lắng liếc nhìn ba người cưỡi ngựa kia. Những kẻ mang kiếm vội tìm cách giấu binh khí dưới tà áo. Ba người mắt không trông ngang, cứ thế thúc ngựa vào. Mã Vinh cưỡi ngựa qua bốn bậc thang dẫn đến sân sau, Địch Công và Kiều Thái theo sau. Lăng Bài quân đang giám sát tầm bốn mươi người cặm cụi mài kiếm và thương, đánh bóng áo giáp. Mã Vinh lập tức ra lệnh cho Lăng Cương, “Mau đem theo mười binh lính đi theo ta!” Sân thứ ba không có ai ngoại trừ vài gia đinh, họ vội lủi mất khi thấy ba người cưỡi ngựa vào. Mã Vinh phóng ngựa đến đại đường phía sau, vó ngựa lộp cộp trên nền đá. Những cánh cửa sơn son, chạm trổ cho thấy đó là đại sảnh của gia trang. Ba người xuống ngựa và ném dây cương cho ba mã phu của Bài quân. Chân mang hài sắt, Mã Vinh đạp cánh cửa chính giữa rồi bước vào trong, Địch Công và Kiều Thái theo gót. Rõ ràng họ đã làm gián đoạn một cuộc hội đàm vội vã. Ba người ngồi cạnh nhau ở giữa sảnh. Ở chính giữa là một người cao lớn, vai rộng, ngồi trên chiếc ghế lớn bọc da hổ. Hắn có khuôn mặt hống hách, cằm bạnh, một hàng ria thưa thớt và râu cằm ngắn ngủn. Dường như hắn vừa ngủ dậy, vẫn còn mặc bộ đồ lụa trắng và khoác chiếc áo choàng mỏng có thêu kim tuyến. Hắn đội mũ đen. Hai kẻ khác đều đã trung tuổi, ngồi đối diện hắn trên ghế bằng gỗ mun đen. Có vẻ cả ba đều mặc y phục trong lúc vội vã. Gian sảnh mang đậm vẻ oai hùng, giống một xưởng vũ khí hơn là sảnh tiếp khách. Bốn bức tường đều được trang trí bằng những ngọn thương, giáo và khiên, sàn nhà phủ bằng da những loài thú hoang. Ba vị gia chủ sửng sốt ngẩng lên nhìn những người vừa đến, không nói được lời nào. Địch Công không mở lời. Ông đến thẳng chiếc ghế lớn còn trống và ngồi xuống. Mã Vinh lẫn Kiều Thái đến đứng ngay trước mặt Tiền Mưu, hung nhãn chiếu thẳng vào hắn. Hai tên quân sư của Tiền Mưu vội đứng dậy và lui ra phía sau ghế của chủ nhân. Mã Vinh, Kiều Thái bắt giữ Tiền Mưu Địch Công thản nhiên bảo Mã Vinh, “Mã Hiệu úy, trấn này được quân luật điều chỉnh. Vậy nên ta giao cho Hiệu úy xử lý đám vô lại này!” Mã Vinh quay lại phía sau, gọi lớn, “Lăng Bài quân!” Lăng Cương vội bước vào, theo sau là bốn người khác. Mã Vinh hỏi, “Phản tặc Tiền Mưu là kẻ nào trong mấy kẻ này?” Lăng Cương chỉ vào người ngồi giữa. Mã Vinh áp đảo, “Tiền Mưu, ngươi bị bắt giữ vì tội phản nghịch!” Tiền Mưu bật dậy. Hắn đứng trước mặt Mã Vinh và như để thể hiện mình không chịu thua, hắn thét lên đầy lỗ mãng, “Ai dám ra lệnh trong nhà ta? Người đâu, đuổi chúng ra ngoài!” Hắn vừa dứt lời, Mã Vinh đã tống một quyền vào chính giữa mặt hắn. Tiền Mưu ngã nhào xuống bàn trà trang nhã bên cạnh làm nó đổ sập xuống, vỡ nát cùng bộ ấm chén đắt tiền bằng sứ. Sáu kẻ hung đồ dáng vẻ dữ tợn từ sau tấm bình phong lao ra sảnh. Cả đám mang trường kiếm và tên cầm đầu vung cây phủ hai lưỡi. Tất cả bỗng đứng sựng lại khi thấy Mã Vinh và Kiều Thái giáp trụ uy nghiêm. Mã Vinh khoanh tay lại, cộc cằn ra lệnh cho đám thủ hạ, “Bỏ vũ khí xuống! Đại tướng quân sẽ quyết định các ngươi có tội hay không.” Tiền Mưu bị gãy mũi, máu nhỏ xuống áo choàng. Hắn ngẩng đầu lên và ra lệnh, “Các ngươi chớ có nghe tên khốn này! Mười năm qua chẳng phải các ngươi ăn cơm của ta sao? Mau giết tên cẩu quan kia ngay!” Tên cầm đầu đám thủ hạ vung cây rìu nhào đến chỗ Địch Công. Huyện lệnh không phản ứng gì, ông chậm rãi giật dải tóc mai, khinh bỉ nhìn kẻ đang tấn công mình. “Vương đại ca, dừng tay!” Lăng Cương quát lên, “Đệ chưa nói với huynh là quan quân đã bao vây cả trấn này sao? Chúng ta không còn cơ hội nào nữa đâu, quan quân đã khống chế tất cả rồi!” Gã cầm rìu có ý lưỡng lự. Kiều Thái mất kiên nhẫn giậm chân xuống đất, quát, “Hãy để cho chúng ta làm xong phận sự! Chúng ta có nhiều việc cần làm hơn là xử lý đám côn đồ này!” Y quay lại và bước ra ngoài. Tiền Mưu đờ đẫn cả người. Mã Vinh không thèm để mắt tới đám thủ hạ, y cúi xuống và trói Tiền Mưu lại. Địch Công đứng dậy, chỉnh lại trường bào, lạnh lùng bảo gã cầm rìu, “Mau bỏ thứ hung khí đó xuống đi, huynh đệ!” Ông quay lại phía sau và nhìn hai gã môn khách bằng ánh mắt cứng cỏi. Cả hai đứng lặng từ nãy đến giờ. Rõ ràng chúng không muốn mình tham gia vào bất cứ chuyện gì trước khi mọi chuyện được quyết định. “Hai ngươi là ai?” Địch Công hỏi. Gã lớn tuổi hơn vái thật sâu, đáp, “Bẩm đại nhân, thảo dân bị buộc phải về làm môn khách cho Tiền Mưu. Thảo dân xin đảm bảo với đại nhân rằng…” “Ngươi sẽ đến công đường để trình bày!” Địch Công ngắt lời. Rồi ông bảo Mã Vinh, “Mau trở về nha môn. Chúng ta sẽ chỉ đưa Tiền Mưu cùng hai kẻ này về. Ta sẽ xử lý đám còn lại sau.” Mã Vinh vội đáp, “Xin theo ý đại nhân!” Y ra hiệu cho Lăng Bài quân. Bốn binh sĩ đến trói hai kẻ đồng phạm lại. Kiều Thái gỡ sợi dây nhỏ trên hông y xuống, cuốn thòng lọng ở mỗi đầu và tròng qua cổ hai phạm nhân rồi lôi chúng ra ngoài. Vừa buộc dây trói vào yên ngựa, Kiều Thái vừa đe, “Nếu các ngươi không muốn tự siết cổ mình, thì tốt nhất hãy đi nhanh lên!” Kiều Thái và Địch Công cùng lên ngựa. Mã Vinh cũng trói Tiền Mưu vào yên ngựa, hắn vẫn như người mất hồn. Y gọi Lăng Cương, “Chia binh sĩ của ngươi ra thành bốn đội, mỗi đội mười hai người. Mỗi đội canh chừng mười thủ hạ của Tiền Mưu. Đến cổng thành thì trói đám phạm nhân vào vọng lầu. Đến trưa sẽ có một vị quan quân đến tra vấn tất cả!” “Xin tuân lệnh!” Lăng Cương đáp. Ba người lại cưỡi ngựa qua sân, hai gã đồng mưu lập cập chạy theo sau ngựa của Kiều Thái, ở sân thứ hai, một lão nhân có bộ râu bạc đang đợi họ. Lão nhân quỳ xuống và dập đầu trên nền đá. Địch Công dừng ngựa và bực bội hỏi, “Mau đứng lên và xưng tên họ!” Người kia vội đứng dậy vái chào và đáp, “Thảo dân là quản gia của gia trang này.” Địch Công lệnh, “Ngươi sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trông nom gia trang này cùng mọi thứ ở nơi đây, kể cả những gia đinh và tỳ nữ, cho đến khi người của huyện nha đến tiếp quản!” Rồi ông thúc ngựa bỏ đi. Mã Vinh từ trên ngựa cúi xuống, hỏi lão quản gia bằng giọng vui đùa, “Lão đã bao giờ thấy quan quân dùng một chiếc roi mây nhỏ để quất cho phạm nhân chết dần chưa? Phải mất ít nhất ba canh giờ thì phạm nhân mới chết đấy.” Lão quản gia bối rối vội kính cẩn đáp rằng lão chưa bao giờ trông thấy cảnh tượng ấy. “Đó chính là hình phạt cho lão nếu lão không tuân theo từng lời của Huyện thái gia đấy!” Mã Vinh thản nhiên nói. Y thúc ngựa đi, để lại lão quản gia đứng đó run rẩy với vẻ mặt tái xám. Khi ba người vừa ra khỏi cổng chính của Tiền gia trang, bốn tên lính canh đều giao nộp binh khí. HỒI 6 Địch Nhân Kiệt chỉnh đốn huyện nha Nghê quả phụ đến kể oan tình Vừa về đến huyện nha, Mã Vinh và Kiều Thái giao Tiền Mưu và hai kẻ đồng phạm cho Bộ đầu Phương Chính. Tiền Mưu vẫn ngẩn ngơ đờ đẫn, hai kẻ kia thở không ra hơi. Mã, Kiều quay về thư phòng của Địch Công. Hồng Sư gia đã giúp Huyện lệnh đổi sang bộ thường phục. Mã Vinh lột bỏ mũ đầu mâu và lau mồ hôi đang ướt sũng chân mày. Y nhìn Địch Công đầy thán phục rồi khẳng định, “Đây là mưu kế thâm hiểm nhất mà thuộc hạ từng thấy!” Địch Công mỉm cười ảo não. Ông giải thích, “Ta sẽ không bao giờ dùng kế này, nếu không phải đối phó với Tiền Mưu. Dù chúng ta có thực sự được sử dụng hai trăm binh sĩ, đó cũng sẽ là một trận giao tranh đẫm máu. Tiền Mưu là một kẻ vô lại, nhưng hắn hiển nhiên không phải một kẻ hèn nhát và thủ hạ của hắn vẫn sẽ một lòng muốn đấu lại với chúng ta.” “Ngay từ đầu ta đã lên kế hoạch để lừa chúng, buộc Tiền Mưu và đám người của hắn phải công nhận bọn chúng đã thất bại và chiến thắng của chúng ta đã được định trước. Kế hoạch ban đầu của ta là sắm vai một Tuần phủ hoặc một Khâm sai đại thần đang trên đường tuần thú biên cương. Ngay khi Đào Cam báo về là trong số đám thủ hạ của Tiền Mưu có nhiều kẻ đào ngũ khỏi quân đội, ta đã theo đó mà thay đổi kế hoạch.” Kiều Thái hỏi, “Đại nhân không thấy thật liều lĩnh khi để viên Bài quân cùng năm người kia quay lại Tiền gia trang sau khi đã đột nhập vào huyện nha sao? Chúng có thể dò xét và phát hiện ra chúng ta đang lập mưu.” “Đó chính là điểm quyết định.” Địch Công đáp. “Không ai trong lúc sáng suốt lại để sáu kẻ hảo hán quay về với chủ nhân của chúng, trừ khi sau lưng có đông đảo người hỗ trợ. Lăng Bài quân sẽ không bao giờ đi dò xét lại. Tiền Mưu là kẻ khôn ngoan nhưng hắn thậm chí không ngờ về sự hiện diện của quan quân. Hắn sẵn sàng đổi mạng trong trận kịch chiến sau cùng, nhưng người của hắn lại sáng suốt hơn, nhất là khi chúng ta tuyên bố phóng thích chúng.” “Và chúng ta đã tạo ra một đội quân tưởng tượng. Chúng ta lập lại kế đó lần nữa thế nào đây?” Hồng Sư gia hỏi. “Nếu ta không tính toán sai về diễn tiến của sự việc”, Địch Công trầm tĩnh đáp, “thì ngoài kia sẽ có tin đồn rằng, quan quân trước hết sẽ được bổ sung lực lượng cho đến khi trở thành một đội quân hùng hậu, và rồi sẽ lại biến mất mà chúng ta không cần phải cố gắng làm điều gì.” “Bây giờ là việc cần làm. Trước hết, ta phải sắp xếp lại nha môn này. Những oan tình liên quan đến Tiền Mưu cần phải được giải. Đào Cam giờ sẽ ra ngoài và đi triệu tất cả Vệ úy trấn thành đến trình diện ta ngay lập tức. Y cũng sẽ mời chủ của mọi phường hội trọng yếu nhất đến gặp ta trưa nay.” “Lão Hồng, lão hãy đến Tiền gia trang cùng Phương Bộ đầu và mười Bộ khoái khác. Những tỳ nữ và gia đinh vẫn còn lưu lại đó cho đến khi có mệnh lệnh khác. Lão hãy cùng quản gia kiểm tra mọi tài sản giá trị, chuyển tất cả vào một phòng cẩn mật và niêm phong trước cửa. Phương Bộ đầu sẽ đi tìm nhi tử và trưởng nữ Bạch Lan của ông ta.” “Mã Vinh và Kiều Thái sẽ tuần tra bốn cổng thành, kiểm tra xem Lăng Bài quân đã bố trí người của mình cẩn thận chưa và bốn mươi tên thủ hạ của Tiền Mưu, những kẻ không ở trong quân đội, đã bị giam giữ ở vọng lâu chưa. Nếu tất cả đều đã xong, hai ngươi hãy báo lại cho Lăng Cương rằng hắn đã được trở lại với chức vụ cũ trong quân đội. Tận dụng thời gian và tìm cho ra lai lịch của những kẻ đào ngũ. Những kẻ không đào ngũ trong chiến đấu hoặc không bỏ trốn vì phạm trọng tội có thể được cho trở lại quân đội. Chiều nay, ta sẽ thảo một bản tấu dâng lên Bộ Binh để có được chỉ dụ theo đúng thể thức. Cùng lúc đó, ta sẽ xin cử một trăm binh lính đến đây.” Nói xong, Địch Công ra bảo Hồng Lượng đưa cho ông bình trà lớn. Đào Cam không mấy khó nhọc khi tập hợp mọi phường chính. Họ có vẻ không hài lòng khi được đưa đến thư phòng của Địch Công. Những người này được tuyển mộ tại địa phương để giữ vai trò như sợi dây liên kết giữa huyện nha và dân chúng. Họ chịu trách nhiệm trình báo về sinh tử, hôn nhân và những sự vụ khác hoàn toàn bị bỏ bê khi Tiền Mưu nắm quyền. Là người của cửa quan, những phường chính lẽ ra phải đến trình diện ở nha môn để nghênh tiếp Huyện lệnh. Nhưng giờ tất cả đang chờ một trận lôi đình. Đó chính là những gì đám phường chính phải nhận, kèm theo nỗi căm hận. Tất cả mặt mũi tái xám khi ra khỏi phòng của Địch Công, vừa run rẩy vừa vừa tìm cách lẩn đi nhanh nhất có thể. Địch Công đến đại sảnh tiếp khách của nha môn và gặp những chủ phường kim hoàn, thợ mộc và thương nhân lúa gạo cũng như thương nhân tơ lụa. Ông lịch thiệp hỏi danh tính từng người. Lão quản gia dâng trà lên. Các chủ phường hội đều chúc mừng tân Huyện lệnh vì đã nhanh chóng bắt giữ Tiền Mưu và họ cũng thể hiện nỗi vui mừng khi giờ đây trấn Lan Phường đã trở lại như xưa. Tuy nhiên, họ vẫn còn đôi chút phiền hà khi có rất nhiều quan binh xuất hiện. Địch Công nhướn mày, “Ở đây chẳng có binh lính nào, trừ mười hai kẻ đào ngũ mà bản quan đã cho làm nhiệm vụ canh gác.” Chủ phường kim hoàn nhìn sang các đồng bạn với vẻ thấu hiểu. Ông ta mỉm cười nói, “Bẩm đại nhân, chúng thảo dân hiểu rõ đại nhân đã giữ bí mật. Nhưng lính gác ở cổng phía Bắc thành đã nói khi đại nhân vào thành thì cũng là lúc họ bị một đội phiên binh tấn công. Tối qua, một người thợ kim hoàn trông thấy một hàng hai trăm binh lính hành quân qua phố chính, trên giày của họ đều quấn rơm khô.” Chủ phường buôn tơ lụa nói thêm, “Biểu huynh của thảo dân trông thấy một đoàn mười cỗ xe ngựa đi qua, chở theo nhiều quân dụng. Dù thế nào thì đại nhân cũng có thể hoàn toàn tin tưởng chúng thảo dân. Chúng thảo dân nhận thấy một đội tuần binh của những huyện miền biên cương đang bí mật hành sự để đám quân dị tộc bên kia sông không phát hiện ra. Những tin tức này không hề được lan truyền trong huyện. Tuy nhiên, nếu Đại tướng quân không treo cờ ở huyện nha thì tình hình có khá hơn không? Nếu những kẻ nội gián của đám quân rợ trông thấy lá cờ ấy, chúng sẽ biết quan quân đang ở đây.” “Lá cờ ấy”, Địch Công giảng giải, “là do chính ta treo. Chỉ để khẳng định rằng, tân Huyện lệnh tạm thời dùng quân luật để điều hành huyện Lan Phường, vì bản quan đã được trao quyền thực thi việc đó trong trường hợp khẩn cấp.” Những chủ phường đều mỉm cười và cúi đầu bái phục. “Chúng thảo dân đã hiểu thâm ý của đại nhân!” Người cao tuổi nhất nghiêm nghị nói. Địch Công cũng không bàn luận thêm về chuyện này, nhưng lại đề cập đến một chuyện khác. Ông yêu cầu ngay trong chiều nay những chủ phường cử đến chỗ ông ba người trung tuổi đủ phẩm chất và sẵn lòng phục vụ cho huyện nha tương ứng với các vị trí Lục sự, quán lại và đề lao, thêm mười hai tráng niên trung tín để làm Bộ khoái. Địch Công cũng nhờ họ cho huyện nha mượn hai nghìn nén bạc để tu sửa đại đường và trả lương cho công sai. Số bạc này sẽ được hoàn trả ngay khi vụ án Tiền Mưu được khép lại và tài sản của hắn bị sung công. Các chủ phường đều sẵn lòng. Cuối cùng, Địch Công cho họ biết sáng mai ông sẽ thăng đường xử án Tiền Mưu và nhờ họ thông báo sự kiện này đi khắp huyện. Khi các chủ phường ra về, Địch Công trở lại thư phòng. Ông thấy Phương Chính đang đợi mình cùng một nam nhân tuấn tú. Cả hai người quỳ xuống thi lễ. Nam nhân kia dập đầu ba lần liên tiếp. “Đại nhân”, Phương Chính nói, “xin cho thuộc hạ đưa nhi tử đến chào đại nhân. Nó bị thủ hạ của Tiền Mưu bắt cóc và bị ép buộc làm người hầu trong gia trang của hắn.” “Cậu ta sẽ trở thành một Bộ khoái dưới quyền ngươi. Ngươi có tìm được trưởng nữ không?” “Ôi”, Phương Chính thở dài đáp, “nhi tử của thuộc hạ chưa hề trông thấy nó, dù đã tìm kiếm kỹ lưỡng trong Tiền gia trang nhưng cũng không thấy dấu vết nào của nó. Thuộc hạ đã cẩn thận hỏi quản gia của Tiền Mưu. Ông ta nhớ có lần Tiền Mưu tỏ ý muốn đưa Bạch Lan vào làm thê thiếp nhưng âm mưu không đạt được vì thuộc hạ không đồng ý gả bán trưởng nữ nhà mình. Thuộc hạ không biết phải làm sao nữa.” Địch Công trầm ngâm đáp, “Ngươi cho rằng Tiền Mưu đã bắt cóc Bạch Lan và ngươi cũng không dám chắc mình đã đúng. Kẻ như Tiền Mưu cũng vẫn thường thích có những chuyện thông gian bên ngoài gia trang. Mặt khác, chúng ta cũng phải tính đến khả năng hắn thực sự không liên quan đến chuyện Bạch Lan mất tích. Ta sẽ tra hỏi Tiền Mưu về chuyện này và tiến hành điều tra kỹ lưỡng. Đừng từ bỏ hi vọng quá sớm!” Ông vừa nói xong thì Mã Vinh và Kiều Thái bước vào. Hai người báo rằng Lăng Cương đã làm đúng lệnh của ông. Mỗi cổng thành có mười binh sĩ được cử đến và mười hai thủ hạ của Tiền Mưu đều bị giam ở vọng lâu. Số phạm nhân đã có thêm năm tên lính đào ngũ nữa, chúng đào ngũ để tránh bị trừng phạt do phạm tội. Những kẻ gác cổng thành mà trễ nải xao nhãng việc công đều bị Lăng Cương giáng xuống làm phu gánh nước. Mã Vinh cho biết thêm, Lăng Cương có đầy đủ phẩm chất của một vị quan quân tài năng, ông ta đào ngũ vì xung đột với một Hiệu úy bất lương và giờ rất vui mừng khi trở lại làm binh. Địch Công gật đầu bảo, “Ta đề nghị thăng chức cho Lăng Cương. Lúc này, chúng ta sẽ để bốn mươi binh sĩ đóng giữ các cổng thành. Nếu họ vẫn giữ vững được nhuệ khí, ta sẽ đề nghị chia họ làm bốn đội, thay phiên nhau đến Tiền gia trang. Trong thời gian đó, ta sẽ xem nơi đó là một đồn binh. Kiều Thái, ngươi sẽ vẫn là thống lĩnh của bốn mươi người đó và hai mươi người chúng ta đã huấn luyện ở nha môn, cho đến khi những binh lính được ta cử đi quay về.” Nói xong, Địch Công cho mọi người về nghỉ. Ông cầm bút lông và thảo một lá thư khẩn cho Tri phủ đại nhân ở xa, tường thuật lại mọi sự việc trong hai ngày vừa rồi. Ông cũng thêm vào một danh sách những người muốn tòng quân trở lại và một bản kiến nghị tấn phong cho Lăng Cương làm Lữ soái. Cuối cùng, ông thỉnh cầu Tri phủ cử một trăm binh sĩ đến huyện Lan Phường trấn thủ. Vừa dán thư lại, Phương Chính đã bước vào. Ông ta cho hay Nghê phu nhân đến bái kiến Địch Công, đang đợi ngoài cổng huyện nha. Địch Công mừng rỡ ra lệnh, “Mau đưa phu nhân vào!” Phương Bộ đầu đưa Mai thị vào thư phòng của Địch Công, ông nhìn nàng dò xét. Quả phụ này tầm ba mươi tuổi và vẫn còn là một thiếu phụ xinh đẹp hơn người. Nàng ăn vận giản dị và không điểm trang. Mai thị quỳ xuống trước án thư và e thẹn chào, “Dân nữ Mai thị bái kiến đại nhân.” “Phu nhân, đây không phải công đường”, Địch Công hiền hòa nói, “không cần phải thi lễ. Mời phu nhân đứng dậy và an tọa!” Nghê phu nhân chậm rãi đứng dậy và ngồi xuống ghế trước án thư. Nàng còn ngập ngừng chưa dám nói. Địch Công mở lời, “Bản quan vô cùng ngưỡng mộ Nghê Tuần phủ, phu quân của phu nhân. Ta xem ông ấy là vị quan vĩ đại nhất thời nay.” Mai thị cúi đầu. Nàng nói rất nhỏ, “Bẩm đại nhân, lão gia là người nhân hậu và trác tuyệt. Dân nữ không dám lấy đi thời giờ quý báu của đại nhân, nếu như không phải vì thực hiện di ngôn của lão gia.” Địch Công vươn người về trước. “Xin phu nhân cứ thẳng thắn!” Ông chăm chú. Mai thị đưa tay vào ống tay áo và lấy ra một gói nhỏ hình chữ nhật. Nàng đứng dậy và đặt lên án thư. Cuộn tranh Nghê phu nhân giao cho Địch Công “Khi nằm trên giường bệnh, lão gia đã đưa cho dân nữ cuộn tranh này, do chính lão gia tự vẽ. Lão gia nói đây là tài sản thừa kế dành cho dân nữ và nhi tử. Những tài sản còn lại thuộc về đại công tử Nghê Kỳ.” “Nói đến đó, lão gia bắt đầu ho và Nghê Kỳ ra khỏi phòng để lấy một bát thuốc mới. Hắn vừa đi khỏi, lão gia bỗng nói với dân nữ, ‘Nếu nàng gặp trở ngại, phải đem bức tranh này đến nha môn và giao cho Huyện lệnh. Nếu ngài ấy không hiểu ý nghĩa của bức tranh, nàng phải giao nó cho Huyện lệnh kế nhiệm, cho đến khi có một vị quan án sáng suốt tìm ra được bí mật trong đó.’ Rồi Nghê Kỳ vào phòng. Lão gia nhìn mẫu tử ba người. Ông ấy đặt bàn tay gầy gò lên đầu tiểu nhi của dân nữ, mỉm cười rồi tạ thế mà không nói thêm lời nào.” Mai thị thổn thức. Địch Công đợi đến khi nàng bình tâm hơn mới nói, “Phu nhân, mọi chi tiết về hôm đó rất quan trọng. Xin hãy kể cho ta mọi chuyện về sau.” “Công tử Nghê Kỳ”, Mai thị nói tiếp, “lấy bức tranh trong tay dân nữ và bảo hắn sẽ giữ nó giúp dân nữ. Hắn vốn không phải người độc ác. Có điều ngay sau đám tang của lão gia, hắn đã thay đổi. Hắn cay nghiệt đuổi dân nữ cùng tiểu nhi ra khỏi nhà ngay lập tức. Hắn còn buộc tội dân nữ đã phản bội lão gia và cấm mẫu tử hai người được bén mảng đến nhà mình. Rồi hắn ném bức tranh lên án thư và khinh bỉ bảo đó là tài sản thừa kế của dân nữ.” Địch Công giật mạnh bộ râu dài. “Phu nhân, chính vì Nghê lão gia là một người thông minh tuyệt trần, nên chắc chắn bức tranh có một ý nghĩa sâu xa nào đó. Bản quan sẽ nghiên cứu cẩn thận. Tuy nhiên, ta sẽ không vội vã kết luận ẩn ý trong thông điệp mật của bức tranh này. Ẩn ý đó có thể có lợi cho phu nhân, cũng có thể chứng minh phu nhân phạm tội thông gian. Dù trong trường hợp nào, ta cũng sẽ tiến hành từng công đoạn thỏa đáng và sẽ đem lại sự công bằng. Bản quan để cho phu nhân quyết định, hoặc để bức tranh này lại, hoặc đem nó về và rút lại lời kêu oan.” Mai thị đứng dậy, đường hoàng thưa, “Xin đại nhân cứ giữ bức tranh lại để điều tra. Dân nữ nguyện cầu với Hoàng Thiên để bức tranh này sẽ giúp đại nhân phá án.” Rồi nàng cúi chào và lui gót. Hồng Sư gia và Đào Cam vẫn đợi ngoài hành lang nãy giờ. Cả hai cùng vào yết kiến Địch Công. Đào Cam đang mang một ôm những cuộn văn thư. Hồng Lượng cho hay, cả hai đã kiểm kê hết tài sản nhà Tiền Mưu. Họ thấy có hàng trăm thỏi vàng và một lượng bạc lớn. Số vàng bạc này đã được niêm phong cẩn mật cùng với nhiều đồ đạc bằng vàng nguyên chất. Những tỳ nữ và gia đinh trong nhà đều được bố trí ở sân thứ ba. Sáu Bộ khoái của huyện nha cùng mười binh sĩ đã được chia làm bốn đội ở sân thứ hai dưới quyền của Kiều Thái để canh phòng gia trang. Đào Cam nở nụ cười mãn nguyện, đặt số văn thư lên án và nói, “Bẩm đại nhân, đây là những biên bản kiểm kê bọn thuộc hạ đã làm, còn nhiều chứng thư và sổ sách được tìm thấy trong kim khố nhà Tiền Mưu.” Địch Công tựa người ra sau và nhìn tất cả đám đó với nỗi căm tức lộ rõ. Ông nói, “Giải quyết vụ án Tiền Mưu sẽ là một công vụ nhàm chán và mất thời giờ. Ta giao lại vụ việc này cho hai vị. Ta không mong những văn thư này có thứ gì quan trọng hơn những bằng chứng về việc chiếm hữu điền thổ, nhà cửa và bóc lột bất hợp pháp. Các chủ phường hứa sẽ cử những người thích hợp đến đây chiều nay để đảm nhận việc của nha lại, bao gồm cả quán lại. Bọn họ sẽ giúp đỡ chúng ta được rất nhiều khi giải quyết những khó khăn này.” “Bẩm đại nhân, tất cả đang đợi ở sân trước”, Hồng Sư gia bẩm. “Được rồi, lão và Đào Cam sẽ hướng dẫn cho họ mọi việc. Tối nay, quán lại sẽ giúp các vị phân loại tài liệu. Ta để cho hai ngươi giúp ta thảo một bản tấu dài, đưa ra những kiến nghị về cách xử lý vụ án Tiền Mưu. Tuy nhiên, hai ngươi cứ để riêng những tài liệu liên quan đến vụ án giết vị đồng liêu của ta là Phan Huyện lệnh. Ta muốn tự mình tìm hiểu vụ án đó ngay tại đây.” Vừa nói, ông vừa đưa ra gói nhỏ mà Mai thị để lại. Ông mở ra và trải bức tranh cuộn lên án thư. Hồng Sư gia và Đào Cam bước đến rồi cùng Địch Công tỉ mỉ quan sát bức tranh. Đó là một bức tranh có kích thước trung bình, vẽ trên lụa, miêu tả phong cảnh một ngọn núi tưởng tượng, màu sắc đậm đà. Mây trắng bồng bềnh giữa những vách đá. Đâu đó có những căn nhà ẩn trong chốn sơn lâm, bên phải là một dòng sông chảy qua. Không có lấy một bóng người trong Ở tranh. Ở trên cùng bức tranh, Nghê Thọ Kiền đã viết tựa đề bằng bốn chữ “Hư Không lâu các”. Nghê Tuần phủ không đề tên mình ở tựa đề này, chỉ đóng một dấu triện son. Bốn mép bức tranh đều được nạm kim tuyến. Bên dưới là thanh cuộn bằng gỗ, bên trên là thanh gỗ nhỏ có vòng để treo tranh. Tranh cuộn thường để treo trên tường. Hồng Sư gia trầm ngâm vuốt râu và giảng giải, “Tựa đề này có thể được hiểu là bức tranh mô tả chốn tiên cảnh của đệ tử Đạo gia, hoặc chỉ nơi an cư của phàm nhân.” Địch Công gật đầu nói, “Bức tranh này cần được xem xét kỹ lưỡng. Treo nó lên bức tường đối diện án thư của ta để ta có thể nhìn thấy nó bất cứ khi nào ta muốn.” Khi Đào Cam treo bức tranh lên giữa cửa chính và cửa sổ, Địch Công đứng dậy và ra sân trước. Ông thấy những người đến để vào vị trí nha lại đều mang một vẻ nghiêm túc, thận trọng. Địch Công hỏi qua từng người rồi phán, “Hai trợ thủ của ta sẽ chỉ dẫn cho các ngươi. Hãy lắng nghe thật cẩn thận, vì ngày mai các ngươi sẽ bắt đầu công việc khi ta thăng đường.” HỒI 7 Lên công đường, Tiền ác bá bất tỉnh Vẽ Quan Âm, sư hổ mang chịu đòn Sáng hôm sau, trước lúc bình minh, dân chúng huyện Lan Phường đã lũ lượt kéo về huyện nha. Đến giờ thăng đường buổi sáng, một đám đông tụ lại trên con phố trước cổng nha môn. Tiếng chiêng đồng vang lên ba lần. Những Bộ khoái mở cổng nha môn và đám đông ùa vào trong, kéo đến trước đại đường. Chẳng mấy chốc đã không còn chỗ mà chen chân nữa. Những Bộ khoái tách họ ra hai bên tả hữu trước đại đường. Bức màn phía sau rẽ ra. Địch Công mình mặc quan bào tiến ra đại đường, ông ngồi xuống ghế của pháp quan, bốn vị trợ thủ cũng vào vị trí. Nha lại và những trợ thủ khác đứng hai bên ghế của pháp quan, lúc này được phủ tấm hồng điều mới. Tất cả đều yên lặng trong lúc Địch Công cầm bút lông son và viết tờ lệnh cho đề lao. Phương Bộ đầu kính cẩn đón lấy bằng cả hai tay rồi rời khỏi đại đường cùng hai Bộ khoái khác. Ba người quay lại với một trong hai môn khách của Tiền Mưu, chính là kẻ lớn tuổi hơn. Hắn quỳ trước công đường, Địch Công ra lệnh, “Mau xưng rõ họ tên và nghề nghiệp!” Kẻ kia khúm núm đáp, “Thảo dân là Lưu Vạn Phương, vốn là quản gia cho Tiền lão thái công. Sau khi lão thái công tạ thế, Tiền Mưu đã giữ thảo dân lại làm môn khách. Thảo dân xin cam đoan trước đại nhân, thảo dân vẫn luôn tìm mọi cách có thể để buộc Tiền Mưu sửa đổi tâm tính!” Địch Công lạnh lùng nói, “Bản quan chỉ có thể nói rằng mọi cố gắng của ngươi đem lại một kết quả vô cùng nhỏ nhoi! Huyện nha đang tìm kiếm và sàng lọc mọi bằng chứng về tội lỗi của chủ nhân ngươi, chắc chắn sẽ chứng minh được tội đồng lõa của ngươi trong những tội ác của Tiền Mưu. Tuy nhiên, lúc này, ta không quan tâm đến những tiểu tội mà ngươi và chủ nhân ngươi phạm phải. Vì lúc này, ta muốn tập trung vào những chuyện lớn hơn. Mau nói đi, có bao nhiêu người đã bị Tiền Mưu sát hại?” Họ Lưu đáp, “Bẩm đại nhân, quả là Tiền trang chủ đã chiếm hữu nhiều đất đai, nhà cửa của dân chúng, ông ấy cũng hay tìm lý do để hành hung người khác. Nhưng theo như thảo dân được biết, Tiền trang chủ chưa bao giờ cố ý giết người.” “Dối trá!” Địch Công quát. “Vậy còn Phan Huyện lệnh, người bị sát hại một cách đê tiện thì sao?” “Chuyện đó thật oan uổng cho lão gia cũng như thảo dân!” Địch Công nhìn hắn bằng ánh mắt hoài nghi. “Đương nhiên”, Lưu Vạn Phương vội nói tiếp, “chúng thảo dân biết Phan đại nhân đang định triệt hạ Tiền trang chủ. Vì Phan đại nhân không có ai bên cạnh ngoại trừ một trợ thủ, nên lão gia nhà thảo dân không hề hành động trong nhiều ngày. Ông ấy muốn đợi xem Phan đại nhân có mưu kế gì. Rồi một buổi sáng, có hai người của gia trang chạy về báo. Chúng nói thi thể Phan đại nhân được tìm thấy ở bờ sông.” “Lão gia vô cùng bực tức vì ông ấy biết dân chúng sẽ nói rằng chính ông ấy sát hại Phan đại nhân. Ông ấy vội thảo một bản tấu giả, gửi lên Tri phủ đại nhân, trong đó nói rõ rằng Phan đại nhân và sáu dân binh khác đã mạo hiểm vượt qua sông để bắt tên thủ lĩnh phiến quân người Duy Ngô Nhĩ, và Phan đại nhân đã bị sát hại trong lúc giao chiến. Sáu người của Tiền gia đã ký tên làm chứng và…” Địch Công vỗ án, giận dữ quát, “Bản quan chưa hề được nghe những lời dối trá vô đạo như vậy bao giờ! Mau đánh tên điêu dân này hai mươi roi cho ta!” Họ Lưu định phân trần nhưng Phương Bộ đầu đã nhanh tay vả miệng. Những Bộ khoái khác lột áo Lưu Vạn Phương ra, đè hắn xuống đất và vung roi. Ngọn roi nhỏ xé rách da thịt. Lưu Vạn Phương thảm thiết kêu rằng điều hắn nói là sự thật. Được mười lăm roi, Địch Công khoát tay. Ông bảo Lưu Vạn Phương không có lý do gì để bao che cho gã chủ nhân thất thế của hắn, và họ Lưu phải nhận thấy lời chứng khai của những phạm nhân khác sẽ sớm tố cáo hắn nếu hắn dám điêu trá. Huyện lệnh muốn hắn quẫn trí mà nói ra mọi điều mình biết, mười lăm roi kia chẳng qua chỉ là một phần trong hình phạt mà tên điêu dân này phải chịu. Phương Bộ đầu đưa cho Lưu Vạn Phương một chén trà đắng. Rồi Địch Công tiếp tục tra án. “Nếu lời ngươi nói là sự thật, vậy tại sao Tiền Mưu không tìm cách truy ra kẻ sát nhân thực sự?” “Chuyện đó, thật không cần thiết vì lão gia biết kẻ nào gây ra chuyện bỉ ổi đó.” Địch Công nhướn mày. Ông nhận định,“Chuyện ngươi kể thật phi lý hết sức. Nếu chủ nhân của ngươi biết danh tính kẻ sát nhân, tại sao hắn không bắt giữ kẻ đó và áp giải lên Tri phủ đại nhân? Như vậy Tiền Mưu chẳng phải sẽ được các vị thượng quan tin cậy hơn sao?” Họ Lưu lắc đầu với vẻ chán nản, “Bẩm đại nhân, xin để chính Tiền trang chủ trả lời câu hỏi ấy. Dù lão gia có tham vấn thảo dân những vấn đề nhỏ, nhưng ông ấy không bao giờ hé lộ nửa lời cho chúng thảo dân biết về những điều thực sự quan trọng. Thảo dân biết, trong số những chuyện trọng yếu ấy, lão gia chỉ nhờ đến một người giúp sức, danh tính kẻ này thì chúng thảo dân không sao đoán ra được.” “Bản quan nghĩ Tiền Mưu hoàn toàn có thể tự mình chỉ đạo mọi việc. Tại sao hắn cần thêm vài quân sư bí ẩn?” Họ Lưu đáp, “Lão gia là người thông minh và quả cảm, cũng là người tinh thông võ nghệ. Nhưng hơn hết, ông ấy sinh ra và lớn lên ở một trấn nhỏ vùng biên cương. Người dân Lan Phường biết gì về chuyện lừa bịp một Tri phủ và đối đãi với những thượng quan trong triều? Lần nào cũng thế, cứ sau khi có một kẻ lạ mặt đến thăm, lão gia nhà thảo dân lại có một quyết định sáng suốt để ngăn Tri phủ đại nhân tham gia vào những chuyện ở huyện này.” Địch Công vươn người về trước và cộc cằn hỏi, “Kẻ bí ẩn đó là ai?” “Bốn năm trở lại đây, kẻ đó vẫn đều đặn bí mật đến gặp lão gia. Thường thì vào lúc đêm muộn, lão gia sẽ cử thảo dân ra cửa phụ của gia trang và báo với thị vệ rằng ông ấy muốn mời một vị khách vào thư phòng ngay lập tức. Kẻ này luôn đi bộ tới, mặc áo choàng của tăng nhân, quấn khăn đen quanh đầu. Không ai từng trông thấy khuôn mặt hắn. Lão gia thường tiếp đón hắn trong vài canh giờ. Rồi hắn ra về cũng lặng lẽ như khi hắn đến. Lão gia không bao giờ giải thích về những lần viếng thăm đó. Nhưng theo sau những lần đó luôn là những sự vụ quan trọng.” “Thảo dân tin rằng kẻ đó đã sát hại Phan đại nhân mà không cần cho lão gia biết trước. Cùng đêm hôm đó, hắn cũng đến Tiền gia trang. Hắn chắc chắn đã cãi cọ kịch liệt với Tiền lão gia. Ngoài hành lang, chúng thảo dân nghe họ quát mắng nhau, dù không thể nghe rõ bất cứ lời nào. Sau buổi hôm đó, lão gia bực bội suốt vài ngày.” Địch Công nôn nóng, “Ta đã nghe đủ thứ chuyện kỳ lạ rồi. Còn chuyện Tiền Mưu bắt cóc nhi tử và trưởng nữ nhà người thợ rèn họ Phương thì sao?” “Những chuyện như vậy, thảo dân và những người khác có thể trình báo đầy đủ mọi chi tiết với đại nhân. Nhi tử nhà họ Phương quả thực bị người của lão gia bắt đi. Tiền gia trang thiếu gia đinh và lão gia cử người đi tìm một số tráng niên ngoài phố. Chúng đưa về bốn người. Ba người sau đó đã bị trả về khi phụ mẫu họ đem ngân lượng đến chuộc. Người thợ rèn kia có gây sự với trang khách nên lão gia đành phải giữ người thanh niên kia để dạy cho ông ta một bài học.” “Còn với thiếu nữ nhà họ Phương, thảo dân biết lão gia vô tình gặp nàng ta khi kiệu của ông ấy đi ngang qua lò rèn nhà họ. Lão gia sinh lòng mê luyến và đề nghị được mua nàng ta. Khi người thợ rèn từ chối, lão gia sớm đã quên chuyện đó. Rồi họ Phương đến Tiền gia trang để đổ tội bắt cóc thiếu nữ ấy. Lão gia tức giận sai người đốt nhà của ông ta.” Địch Công tựa người ra sau và chậm rãi vuốt râu. Ông nghĩ Lưu Vạn Phương hiển nhiên nói sự thật. Chủ nhân hắn không liên quan đến sự mất tích của trưởng nữ nhà họ Phương. Cần phải mau chóng có kế sách bắt giữ vị khách bí ẩn của Tiền Mưu. Ít nhất thì cũng không được để quá muộn mới bắt hắn. Ông ra lệnh, “Mau thuật lại những chuyện đã xảy ra hai ngày trước, khi ta vừa đến đây!” “Mười ngày trước, Quảng Huyện lệnh báo cho Tiền trang chủ biết đại nhân sẽ đến đây như dự kiến. Ông ta muốn rời khỏi đây vào sáng sớm hôm đó vì nghĩ nếu gặp đại nhân thì thật khó xử. Lão gia đồng ý. Quảng đại nhân ra lệnh rằng không ai được mảy may đoái hoài đến tân Huyện lệnh tới nhậm chức, để cho huyện quan biết tầm ảnh hưởng của ông ta. Lão gia đợi tên đề lao cũ đến trình báo. Ngày đầu tiên, không thấy hắn đến. Tối hôm sau, hắn đến và bảo lão gia rằng đại nhân muốn hạ thủ ông ta. Hắn còn nói thêm, chỉ có ba hoặc bốn người ở huyện nha nhưng toàn là những người vô cùng hung dữ và cứng cỏi.” Nghe đến đó, Đào Cam mỉm cười tự mãn. Y thường được nghe những lời tán tụng đó về mình. Họ Lưu tiếp tục, “Lão gia lệnh cho hai mươi trang khách đột nhập huyện nha tối hôm đó, để bắt giữ ngài và hành hung những người khác. Khi Lăng Cương và năm người của hắn quay về, chúng cảnh báo có một đội quan quân đã phong tỏa cả trấn, lão gia đang ngủ và không ai dám làm phiền ông ấy. Sáng sớm hôm qua, đích thân thảo dân đưa Lăng Cương đến phòng ngủ của lão gia. Ông ấy ra lệnh lập tức treo cờ đen trên cổng chính và vội vã lên đại sảnh. Khi ba người bọn thảo dân đang bàn xem nên làm gì, thì đại nhân cùng các vị quan sai đến bắt giữ cả ba.” “Cờ đen được treo là có ý gì?” Địch Công hỏi. “Những người ở gia trang đều hiểu rằng cờ đen là để triệu tập gã mặc đồ tăng nhân bí ẩn kia. Mỗi lần cờ đen được kéo lên, thì ngay đêm đó hắn sẽ đến.” Địch Công nhìn Phương Chính ra hiệu. Lưu Vạn Phương được đưa đi. Rồi ông viết một lệnh khác cho đề lao và đưa cho Phương Bộ đầu. Lát sau, Tiền Mưu được đưa đến công đường. Có tiếng xì xào trong đám đông khi họ trông thấy kẻ tám năm qua đã dùng cường quyền để áp bức mình. Tiền Mưu chắc chắn là một kẻ đồ sộ. Hắn cao hơn sáu thước*, vai rộng, cổ dày như cổ trâu, dũng lực không giấu được. 1 thước tương đương 0,33m. Hắn có vẻ không muốn quỳ. Trước hết, Tiền Mưu vẫn ngạo mạn nhìn lên Địch Công, rồi quay lại phía sau, vẫn với vẻ khinh bạc, hắn nhìn đám đông đang há hốc miệng kinh ngạc. “Đồ điêu dân xấc láo, thấy Địch đại nhân sao còn không quỳ xuống!” Phương Bộ đầu quát lớn. Mặt Tiền Mưu đỏ tía vì tức giận. Trước trán hắn nổi lên từng mạch máu như những sợi dây. Hắn định nói gì đó, nhưng bất chợt từ cái mũi vỡ của hắn có một tia máu phun ra. Hắn thoáng lảo đảo, rồi đổ sụp xuống đất. Được Địch Công ra hiệu, Phương Bộ đầu cúi xuống lau máu trên khuôn mặt Tiền Mưu. Hắn đã bất tỉnh. Bộ đầu sai một Bộ khoái đi lấy thùng nước lạnh. Hai người cởi áo cho Tiền Mưu và lau trán lẫn ngực cho hắn. Nhưng vô ích. Tiền Mưu không hồi tỉnh. Địch Công vô cùng khó chịu. Ông bảo Bộ đầu đi đưa Lưu Vạn Phương quay lại. Hắn vừa quỳ xuống trước đại đường, Địch Công đã hỏi, “Có phải chủ nhân của ngươi đang lâm bệnh không?” Lưu Vạn Phương kinh hoàng nhìn thân hình sõng soài của Tiền Mưu. Các Bộ khoái vẫn đang tìm cách giúp hắn hồi tỉnh. Họ Lưu lắc đầu, “Dù lão gia có thể lực khỏe mạnh phi thường, nhưng ông ấy bị bệnh kinh niên về não. Ông ấy vẫn đi gặp đại phu từ nhiều năm nay nhưng không có thứ thuốc nào giúp ích được. Khi nổi giận, ông ấy sẽ ngã khuỵu xuống như vậy và bất tỉnh nhân sự trong vài canh giờ. Các đại phu đều nói chỉ có thể chữa trị cho lão gia bằng cách mổ sọ ra và nạo hết khí độc bên trong. Nhưng không đại phu nào ở huyện Lan Phường có khả năng đặc biệt ấy.” Lưu Vạn Phương lại được đưa đi. Bốn Bộ khoái khiêng thân hình ủ rũ của Tiền Mưu về lại nhà lao. “Hãy bảo đề lao báo cho ta ngay khi hắn hồi tỉnh!” Địch Công lệnh cho Bộ đầu. Ông nghĩ chuyện Tiền Mưu bất tỉnh thật là một rủi ro không kể xiết. Cần phải buộc Tiền Mưu nói ra danh tính kẻ bí ẩn kia. Hoãn lại giờ nào thì những kẻ giấu mặt sẽ có thêm cơ hội để giúp hắn tẩu thoát. Địch Công hối hận vô cùng vì đã không trực tiếp thẩm tra Tiền Mưu sau khi bắt hắn. Nhưng ai biết trước là hắn có kẻ đồng lõa bí ẩn kia? Địch Công thở dài rồi lấy lại tinh thần, ông cầm kinh đường mộc vỗ án rồi dõng dạc phán, “Trong suốt tám năm, Tiền Mưu đã giành được đặc quyền từ triều đình. Từ giờ phút này trở đi, luật lệ và trật tự sẽ được tái lập ở huyện Lan Phường. Người tốt sẽ được bảo vệ, kẻ ác sẽ bị tróc nã thẳng tay và bị trừng trị theo vương pháp.” “Tội phạm Tiền Mưu đã phạm tội phản nghịch và sẽ nhận được hình phạt đích đáng. Bên cạnh tội phản nghịch, hắn còn phạm nhiều tội danh khác. Những ai muốn thưa kiện Tiền Mưu thì phải dâng đơn kiện lên huyện nha. Mọi vụ án sẽ được điều tra và oan tình sẽ được giải ở bất cứ đâu có thể. Bản quan cũng phải báo trước là xử lý những vụ án này sẽ mất thời gian dài. Tuy nhiên, các ngươi có thể an tâm rằng trong thời gian sắp tới, mọi oan khuất sẽ được làm rõ và ai cũng được công bằng.” Đám đông dân chúng tung hô nồng nhiệt. Công sai phải mất một lúc mới ổn định lại được. Trong một góc đại đường, có ba nhà sư trước sau vẫn tách biệt khỏi đám dân chúng. Họ đứng đó bí mật thì thầm bàn bạc với nhau. Lúc này, họ tiến lên trước đám đông lớn tiếng cho biết họ đang phải chịu nỗi bất công thậm tệ. Khuôn mặt cả ba thô kệch, đầy nhục dục, đôi mắt ánh lên vẻ quỷ quyệt. Khi họ đều đã quỳ trước đại đường, Địch Công lệnh, “Người cao tuổi nhất trong ba vị hãy xưng họ tên và nói rõ oan tình!” Ba nhà sư bẩm báo vụ mất trộm trong chùa """