"Địch Công Kỳ Án Tập 1: Hoàng Kim Án - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địch Công Kỳ Án Tập 1: Hoàng Kim Án - Robert van Gulik full prc pdf epub azw3 [Trinh thám Ebooks Nhóm Zalo Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #02 HOÀNG KIM ÁN The Chinese Gold Murders (1959) Tùng Vũ dịch Địa đồ huyện Bồng Lai (1) Nha phủ, (2) Văn miếu (thờ Khổng Tử), (3) Võ miếu (thờ Quan Vũ), (4) Miếu thờ Thổ Thần, (5) Cố lầu, (6) Cửu Hoa Viên, (7) Khách điếm, (8) Giải tửu lâu, (9) Bến cảng, (10) Dòng sông, (11) Phố người Cao Câu Ly, (12) Nhánh sông lớn, (13) Cầu Nghê Hồng, (14) Bạch Vân tự, (15) Thuyền hoa, (16) Đập nước, (17) Thôn trang của Tào học sĩ, (18) Diệp gia trang, (19) Cố gia trang, (20) Tửu lâu Giới thiệu Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, còn gọi là ‘Địch Công’, huyện lệnh mới được bổ nhiệm của Bồng Lai, một thị trấn ở bờ biển Đông Bắc tỉnh Sơn Đông. HỒNG LƯỢNG, quân sư thân cận của Địch Nhân Kiệt, cũng là sư gia của nha phủ. MÃ VINH và KIỀU THÁI, hai trợ thủ thân tín của Địch Nhân Kiệt. Các nhân vật khác VƯƠNG LẬP ĐỨC, cố huyện lệnh huyện Bồng Lai, bị phát hiện trúng độc chết trong thư phòng. ĐƯỜNG TRINH TƯỜNG, viên chánh lục sự*Lục sự là viên quan giữ việc biên chép văn thư sổ sách ở các phủ. của nha phủ Bồng Lai. NGỌC CHÂU, một kỹ nữ người Cao Câu Ly*. Cao Câu Ly (37 TCN - 668) là một vương quốc ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên và Mãn Châu ngày nay DIỆP THỦ BÔN, một thuyền chủ giàu có. BỐC KHẢI, viên cối kế* của Diệp Thủ Bôn. Cối kế là người giữ sổ sách thu chi và làm công việc kế toán cho các phường chủ. CỐ MẠNH BÌNH, một thuyền chủ giàu có. TÀO ANH, tân nương của Cố Mạnh Bình. TÀO HẠC TIÊN, phụ thân của Tào thị, một học sĩ. TÀO VĂN, tiểu đệ của Tào thị. KIM XƯƠNG, cối kế của Cố Mạnh Bình. PHẠM TRỌNG, lục sự của nha phủ Bồng Lai. NGÔ SƠN, đầy tớ của Phạm Trọng. BÙI CỬU, nông phu làm ruộng thuê cho Phạm Trọng. BÙI THỤC NƯƠNG, con gái của Bùi Cửu. A QUẢNG, một gã lang thang. HUỆ BẢN, nhà sư của Bạch Vân tự. TRÍ HẢI, tăng nhân phát chẩn của Bạch Vân tự. Các vụ án trong truyện Vụ án Cố huyện lệnh bị sát hại. Vụ án Tân nương mất tích. Vụ án Gã côn đồ hung bạo. HỒI 1 Tam bằng hữu chia ly nơi tửu chuyện Nhị nam nhân tri ngộ huyện thái gia Hợp tan là lẽ thường tình Buồn vui tiếp nối, bóng hình ngày đêm. Quan đi quan đến bên thềm Chữ Công - Liêm - Chính vững bền còn đây. Đế vương dù có đổi thay Con đường thời thế ai hay chuyện đời. Ba nam nhân lặng lẽ ngồi nhấp rượu trên lầu thượng Sầu Hỷ Lâu, dõi mắt về con đường lớn băng qua Bắc môn kinh thành. Tự bao giờ, tửu lâu ba lầu cũ kỹ dựng trên đồi thông này đã trở thành địa điểm quen thuộc của các quan lại kinh thành mỗi khi đưa tiễn bằng hữu đi nhậm chức phương xa, hay nghênh đón nhau hồi triều lúc mãn nhiệm. Quán rượu mang tên hai thứ cảm xúc trái chiều này chính là theo ý tứ bài thơ khắc trước cổng. Bầu trời u ám, cơn mưa phùn mùa xuân ảm đạm kéo dài lê thê như chẳng muốn ngừng. Nơi nghĩa địa khuất sau đồi, hai phu đào huyệt đã tìm thấy chỗ trú mưa dưới tán thông già, co ro ngồi sát vào nhau. Ba vị khách đã dùng xong bữa trưa thanh đạm, sắp đến lúc phải chia tay. Giây phút chia ly khó thốt nên lời. Cả ba đều khoảng tam tuần. Hai vị đội mũ gấm thêu dành cho Viên ngoại lang Bộ Hình* đang tiễn vị đội mũ đen đi nhậm chức huyện lệnh. Bộ Hình tương đương bộ Tư pháp hiện nay, có nhiệm vụ thẩm định các chủng loại pháp luật, xem xét tội danh và hình phạt trong các vụ án, lập hội đồng cửu khanh thẩm lý giam hậu (xem xét các án có tội danh là tử hình) và trực tiếp thẩm lý các vụ án lớn trong phạm vi kinh đô. Lương Thể Nhân dằn mạnh chén rượu xuống bàn, gắt gỏng với vị huyện lệnh trẻ tuổi, “Việc này thực chẳng đáng làm phiền huynh chút nào! Huynh đã được bổ nhiệm làm Đại lý tự thừa rồi còn gì. Rồi huynh sẽ trở thành đồng liêu với ta và huynh đệ Hầu Quân đây, chẳng phải chúng ta sẽ tiếp tục cuộc sống vui vẻ ở kinh thành này sao, vậy mà huynh…” Địch huyện lệnh mất kiên nhẫn vuốt mạnh chòm râu dài đen nhánh, bực dọc cắt ngang. “Chúng ta đã nói chuyện này nhiều lần rồi và ta…” ông nhanh chóng lấy lại bình tĩnh và tiếp tục với nụ cười hối lỗi, “… đệ từng bảo là chán muốn phát bệnh việc tra án trên văn thư rồi mà!” “Vậy huynh cũng đâu cần phải rời bỏ kinh thành chứ!” Lương Thể Nhân bất bình, “Ở đây không có đủ án cho huynh phá à? Thế còn vụ một Lang trung Bộ Hộ*, tên Vương Nguyên Đức thì phải, đã hạ thủ lục sự của mình rồi đào tẩu với ba chục thỏi vàng trong quốc khố? Hầu Niên thúc thúc của bằng hữu ta là Thượng thư Bộ Hộ, ngày nào cũng hỏi tin tức ở Đại lý tự*, đúng không hả Hầu huynh?” Bộ Hộ là cơ quan coi giữ việc ruộng đất, nhân khẩu, kho tàng, thu phát, bổng lộc, đồ cống nạp, thuế khoá, muối và sắt Đại lý tự là cơ quan có nhiệm vụ xét lại những án nặng đã xử rồi gởi kết quả cuộc điều tra qua bộ Hình để đệ tâu lên Hoàng đế xin quyết định. Vị khách thứ ba, cũng đeo thẻ bài Viên ngoại lang Đại lý tự, lộ rõ vẻ lo lắng. Ông ta ngập ngừng một chút rồi mới đáp lời, “Cho đến lúc này, chúng ta vẫn chưa có tí manh mối nào về hành tung của tên vô lại đó. Vụ án này gay đấy, Địch huynh ạ!” “Hai huynh cũng biết rồi,” Địch Nhân Kiệt hờ hững nói, “vụ án này được đích thân quan Đại lý tự khanh* để tâm. Tất cả những gì các huynh và đệ thấy cho đến nay chỉ vỏn vẹn một mớ giấy tờ sao lục! Toàn giấy với tờ thôi!” Đại lý tự khanh là quan viên đứng đầu Đại lý tự. Ông với tay lấy bình rượu thiếc, rót cho đầy chén. Tất cả đều im phăng phắc. Một hồi sau Lương Thể Nhân mới lên tiếng, “Ít nhất thì huynh cũng có thể chọn huyện nào khá khẩm hơn Bồng Lai chứ? Cái xứ khỉ ho cò gáy đó suốt ngày chỉ có sương mù và mưa phùn, ảo não lắm, lại xa vùng duyên hải nữa! Chả lẽ huynh không biết mấy chuyện quái gở người ta kể về vùng đó từ ngày xửa ngày xưa? Thấy bảo trong những đêm mưa bão, người chết đội mồ sống dậy, những hình thù quái đản thoắt ẩn thoắt hiện trong sương mù thổi từ biển vào, thậm chí còn có cọp tinh lượn lờ trong rừng nữa. Vậy mà huynh lại còn thế chỗ cho một vị huyện lệnh bị mưu sát! Người ta có được bổ nhiệm cũng tìm cách thoái thác, đằng này huynh lại chủ ý xin đi!” Vị tân huyện lệnh trẻ tuổi dường như tảng lờ hết mọi lời khuyên can, hồ hởi nói, “Thử nghĩ xem, sẽ thật tuyệt nếu đệ phá được một vụ án mạng bí ẩn ngay khi mới chân ướt chân ráo nhậm chức! Một cơ hội vàng để vứt bỏ mớ lý thuyết suông và những vụ án bàn giấy! Cuối cùng đệ cũng được mục sở thị người thật việc thật, các huynh ạ!” “Đừng quên là huynh sẽ phải giải quyết cả chuyện người chết nữa đấy!” viên ngoại lang Hầu Quân lạnh lùng nhắc nhở, “Viên khâm sai được Bộ Hình cử đến Bồng Lai báo lại rằng không có manh mối nào về kẻ ra tay với cố huyện lệnh, cũng không rõ cả động cơ gây án của hắn. Đệ cũng từng kể với huynh là chỗ văn tự lưu chiểu về vụ này đã không cánh mà bay khỏi văn khố pháp đình của chúng ta rồi, đúng không?” “Ẩn tình của việc đó,” viên ngoại lang Lương Thể Nhân nhanh nhảu tiếp lời, “huynh đệ ta đều hiểu. Vụ sát hại cố huyện lệnh hẳn có dây mơ rễ má tận kinh thành. Có trời mới biết huynh sắp chọc vào tổ kiến nào, rồi không rõ huynh sẽ sa chân vào mưu đồ của đại quan nào nữa! Huynh đã đỗ loại ưu tất cả các kỳ thi văn, ở đất kinh thành này huynh có tiền đồ xán lạn. Sao huynh lại thích chôn vùi đời mình ở cái chốn Bồng Lai khỉ ho cò gáy đó?” “Địch huynh,” vị quan nhân thứ ba nghiêm giọng, “hãy nghĩ lại đi, vẫn còn kịp đấy. Huynh chỉ việc cáo ốm bất ngờ, hoãn đi chục ngày là được. Trong lúc đó, thể nào chẳng có kẻ thế mạng. Nghe đệ đi, Địch huynh! Đệ đang khuyên với tư cách hảo bằng hữu của huynh!” Nhìn thấy vẻ khẩn khoản trong mắt người huynh đệ, Địch Nhân Kiệt vô cùng xúc động. Dù mới quen nhau được một năm nhưng ông đánh giá cao tài trí và năng lực phi phàm của Hầu Quân. Địch Nhân Kiệt uống cạn chén rồi đứng dậy. “Đệ vô cùng cảm kích sự lo lắng của các huynh, đây là dấu ấn của tình hảo hữu keo sơn!” Địch Nhân Kiệt nở một nụ cười ấm áp. “Cả hai huynh nói chẳng sai chút nào. Hẳn là đệ sẽ có sự nghiệp xán lạn nếu lưu lại chốn kinh thành. Nhưng đệ đã tự hứa với mình là phải nhận công việc này. Chuyện đỗ đạt Lương huynh đã nói, đệ chỉ coi như gió thoảng mây trôi, không đáng nhắc đến. Bao nhiêu năm làm công việc giấy tờ ở văn khố Đại lý tự, đệ vẫn chưa chứng tỏ được mình thực sự có năng lực phục vụ hoàng thượng và bách tính. Chức huyện lệnh Bồng Lai mới thực sự là chương mở đầu cho sự nghiệp của đệ!” “Hoặc là chương kết thúc sự nghiệp của huynh đấy!” Hầu Quân lẩm bẩm, đứng dậy bước về phía cửa sổ. Mấy phu đào huyệt đã rời khỏi chỗ trú mưa và đang tiếp tục công việc. Mặt Hầu Quân trở nên nhợt nhạt và mắt đảo liên hồi. Ông ta quay mặt sang chỗ khác rồi cất giọng khàn khan, “Mưa tạnh rồi.” “Vậy thì đệ lên đường đây!” Địch Nhân Kiệt lên tiếng. Ba hảo hữu cùng nhau bước xuống cầu thang xoắn hẹp. Ba hảo bằng hữu chia ly Một lão phu đã đứng chờ sẵn bên hai con ngựa ở dưới sân. Tiểu nhị rót đầy chén rượu tiễn đưa. Ba bằng hữu tâm giao dốc cạn một hơi, rồi bối rối trao đổi những câu nhắn gửi và lời chúc cuối cùng. Địch Nhân Kiệt quăng mình lên yên tuấn mã, lão phu leo lên con ngựa còn lại. Tân huyện lệnh vẫy roi chào từ biệt rồi cả hai phi ngựa xuống con đường mòn dẫn ra cái quan. Nhìn theo bóng người dần khuất xa, Hầu Quân nói với vẻ lo lắng, “Đệ đã không dám cho Địch huynh biết, sáng nay có người ở Bồng Lai kể với đệ những tin đồn quái đản ở đó. Bàn dân thiên hạ bảo vẫn thấy hồn ma của cố huyện lệnh lang thang trong nha phủ.” Hai ngày sau, lúc gần trưa, Địch Nhân Kiệt cùng phụ tá đã tới ranh giới tỉnh Sơn Đông. Cả hai ăn trưa ở đồn lính, đổi ngựa rồi tiếp tục đi về phía đông, men theo đường lớn đến Bồng Lai. Con đường này xuyên qua một vùng đồi núi và rừng rậm. Tri huyện mặc một tấm áo đi đường màu nâu giản dị. Quan phục và một ít vật dụng cá nhân được gói ghém trong hai tay nải lớn treo hai bên yên ngựa. Vì đã quyết định để hai người vợ cùng con cái chuyển tới sau khi ông ổn định ở Bồng Lai, nên Địch Nhân Kiệt mới có thể di chuyển thảnh thơi như vậy. Gia đình ông sẽ đưa đám gia nhân và các tài sản khác theo xe ngựa có tán che tới sau. Lão phụ tá của ông, Hồng Lượng, đang giữ hai món đồ quý giá nhất của quan tri huyện là thanh kiếm Long Vũ uy chấn thiên hạ, vốn là bảo vật gia truyền của Địch gia. Bảo vật còn lại là bộ sách cổ về án lệ và truy án quy chuẩn, đã được thân phụ của ông chính tay chấp bút với rất nhiều chú thích tỉ mỉ bên lề thuở người còn đương chức trong triều. Hồng Lượng là quản gia cho nhà họ Địch từ hồi còn ở Thái Nguyên, lão đã chăm nom Địch Nhân Kiệt từ tấm bé. Về sau, khi Địch Nhân Kiệt chuyển tới kinh thành sinh sống và lập gia thất, lão quản gia trung thành cũng theo chân. Lão giỏi việc tề gia, đồng thời cũng là phụ tá tâm phúc của Địch công tử. Bây giờ, lão lại nhất quyết đi cùng tới Bồng Lai vào lần đầu chủ nhân làm quan phụ mẫu ở địa phương. Để mặc ngựa chạy nước kiệu, tri huyện xoay mình trên yên ngựa nói, “Này lão Hồng, nếu trời cứ khô ráo thế này thì chắc tối nay chúng ta sẽ tới kịp khu đồn trú Yên châu. Sáng sớm mai chúng ta có thể đi tiếp từ đó, đến buổi chiều là tới được Bồng Lai.” Lão Hồng gật đầu. “Chúng ta sẽ yêu cầu Tổng binh Yên châu sai người hỏa tốc đến báo cho nha phủ Bồng Lai rằng ta sắp tới và…” “Chúng ta sẽ không làm như vậy, lão Hồng à!” Địch tri huyện ngắt lời. “Viên lục sự đang tạm quyền cai quản sau khi cố huyện lệnh bị sát hại đã biết ta được bổ nhiệm. Vậy là đủ! Ta thích đến một cách bất ngờ hơn. Thế nên khi viên chỉ huy đồn trú ngỏ lời cho quân hộ tống thì ta đã khước từ.” Thấy lão Hồng im lặng, tri huyện tiếp tục, “Ta đã nghiên cứu kĩ văn thư vụ sát hại cố huyện lệnh, chắc lão cũng biết là phần quan trọng nhất lại bị mất, chính là những giấy tờ cá nhân tìm được ở thư phòng của nạn nhân. Quan khâm sai đã mang tất cả về kinh thành, nhưng chúng lại bị trộm mất rồi.” “Có phải vị quan nhân đó chỉ ở Bồng Lai có ba ngày thôi không?” Lão Hồng lo lắng hỏi. “Hạ sát huyện lệnh đâu phải là một chuyện nhỏ, nhẽ ra ông ta phải tra án lâu hơn chứ, không thể cứ ra về mà không vạch nổi một giả thuyết nào về cách thức và động cơ gây án.” Địch tri huyện gật gù tán thành, “Đó mới chỉ là một trong nhiều khía cạnh kì lạ của vụ án! Quan khâm sai chỉ báo cáo rằng Vương huyện lệnh bị đầu độc trong thư phòng, chất độc được xác định là bột rễ cây xà thảo. Không xác định được cách thức đầu độc, không có đầu mối truy tìm hung thủ, cũng không rõ động cơ. Tất cả chỉ có vậy!” Một lúc sau, Địch Nhân Kiệt mới nói tiếp, “Ngay khi giấy bổ nhiệm được chấp thuận, ta đã đến Đại lý tự để tìm viên quan khâm sai. Nhưng ông ta đã đi nhận nhiệm vụ mới ở miền nam mất rồi. Thừa phái của ông ta trao cho ta văn thư không đầy đủ. Y nói là quan khâm sai không thảo luận vụ án với mình, cũng không để lại bút tích hay chỉ thị bằng lời nào về cách thức điều tra vụ án. Lão Hồng này, vậy là ta sẽ phải bắt đầu lại từ đầu!” Lão nô bộc không trả lời, có vẻ như lão chẳng mặn mà gì trước sự nhiệt tình của chủ nhân. Cả hai cưỡi ngựa đi tiếp trong im lặng. Họ đã đi được một lúc mà không gặp khách bộ hành nào khác. Hai người đang băng qua một vùng hoang sơ trải dài, cây cối cao thấp mọc dày đặc hai bên đường. Tới một khúc quanh, đột nhiên có hai kỵ mã xông ra từ một lối mòn nhỏ hẹp. Cả hai đều mặc đồ mã phu vá chằng vá đụp, tóc búi cao bằng dải giẻ màu xanh dơ dáy. Trong khi một tên cầm nỏ chĩa thẳng vào hai lữ khách, tên còn lại phóng ngựa chồm tới, tay lăm lăm gươm đã rút khỏi vỏ. “Xuống ngựa ngay!” Y quát. “Chúng tao sẽ lột cả ngựa của ngươi và lão già làm lộ phí!” HỒI 2 Song hùng kiếm, bất phân ngã ngũ Tứ nam nhân, luận tửu điếm Yên châu Lão Hồng nhanh chóng xoay người trên yên ngựa để chuyển kiếm cho chủ nhân. Nhưng một mũi tên rít ngang qua đầu lão. “Để cây tăm xỉa răng ở yên đó, lão già!” Tên cầm nỏ quát. “Bằng không mũi tên này sẽ cắm thẳng vào cổ lão đấy!” Địch tri huyện nhanh chóng thấu thị tình hình. Bặm môi tức giận, ông nhận thấy mình khó mà làm gì được vì bị tấn công bất ngờ. Ông tự trách bản thân đã không cho lính theo hộ tống. “Mau lên,” tên vô lại gầm gừ, “may cho các ngươi, chúng ta là hạng lương thiện nên không ra tay đoạt mạng đấy.” “Cướp đường lương thiện ư?” Địch Nhân Kiệt nhếch mép mỉa mai khi nhảy khỏi ngựa. “Tấn công người tay không tấc sắt, lại có cả cung tên yểm trợ. Cả hai ngươi chỉ đáng là lũ trộm ngựa tầm thường thôi!” Tên cướp nhào xuống ngựa với thân thủ nhanh nhẹn đáng kinh ngạc, đứng chắn trước mặt tân tri huyện, tay lăm lăm thanh gươm. Y cao hơn Địch Nhân Kiệt một chút, vai rộng cổ dày chứng tỏ sức mạnh phi phàm. Đẩy khuôn mặt bị thịt về phía trước, y rít lên giận dữ, “Cẩu quan, ngươi dám nhục mạ ta sao?” Địch Nhân Kiệt mặt đỏ phừng phừng, ra lệnh cho lão Hồng, “Đưa kiếm cho ta!” Tên cầm nỏ lập tức thúc ngựa tới chắn trước mặt lão bộc. “Ngậm mồm lại và làm như ta bảo!” Y đe dọa tân tri huyện. “Hãy chứng tỏ các ngươi không phải một lũ cướp đầu trâu mặt ngựa!” Địch Nhân Kiệt cáu kỉnh gắt. “Đưa kiếm của ta đây! Ta sẽ xử tên nhãi con này trước rồi sẽ đến ngươi!” Tên cao lớn cầm gươm bỗng cười hô hố. Y hạ gươm xuống và hét toáng lên với tên cầm nỏ, “Để ta đùa với gã râu dài này một chút, người huynh đệ! Cứ cho hắn chạm vào gươm, ta sẽ tặng hắn vài nhát chém làm bài học!” Tên kia trầm ngâm nhìn tri huyện. “Không phải lúc đùa giỡn đâu!,” giọng y sang sảng. “Lấy ngựa rồi biến ngay!” “Ta nghĩ có sai đâu,” Địch Nhân Kiệt khinh khỉnh nói, “đồ miệng hùm gan sứa!” Tên cao lớn chửi rủa ầm ĩ. Y tới gần con ngựa của lão Hồng, giật lấy thanh kiếm lão đang đeo và quăng cho tri huyện. Ông chụp lấy nó, sau đó nhanh chóng cởi áo choàng ra, vén chòm râu dài qua hai bên rồi cột túm lại sau ót. Vung gươm lên, Địch Nhân Kiệt nói với tên côn đồ, “Bất kể thế nào thì các ngươi cũng phải thả lão bộc đi!” Y gật đầu rồi nhanh tay xỉa gươm vào ngực tri huyện. Ông dễ dàng né tránh, tiếp gươm bằng mấy đường kiếm gió khiến tên lưu manh giật mình lùi lại. Bấy giờ y tấn công thận trọng hơn và cuộc so gươm bắt đầu ra trò, lão Hồng và tên cầm nỏ ngẩn ra nhìn chứ không can dự. So gươm một lúc, Địch Nhân Kiệt nhận ra đối thủ dù đã lĩnh hội kiếm thuật qua thực chiến, nhưng thuật kiếm của y vẫn còn nông cạn so với những tay tuyệt kiếm môn phái. Tuy vậy, y có sức mạnh kinh người và lối đánh khôn ngoan, liên tục dẫn dụ Địch Nhân Kiệt tới vùng đất gồ ghề bên đường, nơi ông phải chú ý nhiều hơn tới vi bộ của mình. Đây là trận thực chiến bên ngoài võ trường đầu tiên của Địch Nhân Kiệt và ông cực kỳ thích thú. Ông tin rằng mình sẽ sớm có cơ hội hạ gục đối thủ. Nhưng rồi thanh gươm thường của đối phương chẳng thể chống chọi lâu với khí tụ gươm thiêng của Long Vũ kiếm. Khi tên côn đồ đỡ một nhát chém mạnh, gươm của y thình lình gãy đôi. Cuộc đọ kiếm giữa cái quan Trong khi y đang đứng chết trân nhìn thanh gươm gãy trong tay, Địch Nhân Kiệt quay về phía tên còn lại. “Đến lượt ngươi!” Tên cầm nỏ nhảy phắt xuống ngựa, nhanh chóng cởi mã phục bên ngoài và nhét thân áo vào thắt lưng. Nhãn quan y đã thấy được đối phương đích thực là một cao thủ kiếm thuật thượng thừa. Sau một hồi tiến thủ chớp nhoáng qua lại, Địch Nhân Kiệt cũng nhận ra rằng y là một đối thủ đáng gờm, quả là một tay kiếm đã kinh qua huấn luyện, khó ai có thể địch nổi. Ông cảm thấy kích động. Trận so kiếm ban nãy đã giúp ông giãn gân giãn cốt, giờ đây ông cảm thấy rất sung sức. Lưỡng thể quần Long - Kiếm người hợp nhất. Địch Nhân Kiệt tấn công bằng một loạt chiêu lưỡng kiếm phức tạp kết hợp giữa hư kiếm với truy kiếm nhưng đối phương đều né được. Một thân hình hộ pháp không ngờ lại có thân thủ nhanh lẹ đến ngỡ ngàng như vậy. Y nhanh chóng phản công bằng loạt kiếm gió chém trực diện, nhưng Long Vũ vút lên trong không trung, gạt phăng từng nhát kiếm của đối thủ. Và rồi ông bất chợt vung một đường kiếm dài xoẹt ngang cổ họng đối phương trong gang tấc. Y vẫn không chùn bước, nhanh chóng tung ra một vài chiêu hư kiếm để khơi mào một đợt quyết chiến mới. Đột nhiên có tiếng binh khí rền vang ầm ĩ. Một đoàn hai mươi kỵ binh hùng hổ giăng thiên la địa võng bao vây bốn người, lăm lăm đầy đủ cung nỏ gươm giáo. “Đã xảy ra chuyện gì?” Người dẫn đầu quát. Bộ đoản giáp ngoài và mũ chóp nhọn cho thấy gã là thủ lĩnh của đội kỵ binh. Cáu tiết vì trận so gươm thực chiến đầu tiên bị gián đoạn, Địch Nhân Kiệt trả lời nhát gừng, “Ta là Địch Nhân Kiệt, mới được bổ nhiệm làm huyện lệnh của Bồng Lai. Ba kẻ này là thuộc hạ của ta. Bọn ta đang hào hứng so cao thấp bằng vài chiêu kiếm để giãn gân giãn cốt sau một chặng đường dài.” Viên tướng nghi ngờ nhìn khắp lượt. “Phiền đại nhân cho xem giấy thông hành!” gã cộc lốc nói. Địch Nhân Kiệt rút một phong thư từ trong ủng ra rồi đưa cho viên thủ lĩnh. Gã liếc nhanh văn thư bên trong, trả lại cho ông và kính cẩn nói, “Thưa đại nhân, mong ngài thứ lỗi cho tiểu nhân vì đã quấy quả. Chả là bọn tiểu nhân được báo rằng lũ thổ phỉ đang lảng vảng ở vùng này, nên buộc phải cẩn trọng để phòng chuyện bất trắc. Chúc đại nhân thượng lộ bình an!” Gã to tiếng ra lệnh cho thủ hạ của mình. Đoàn người ngựa phi nước đại rồi đi. Khi đám kỵ binh đã khuất khỏi tầm nhìn, Địch Nhân Kiệt lại vung kiếm lên. “Tiếp tục nào,” ông nói và chĩa trường kiếm vào ngực đối phương. Tên kia lách mình tránh né rồi bất ngờ thu kiếm tra vào vỏ. “Thưa huyện lệnh, xin ngài hãy đi cho,” y xẵng giọng. “Tiểu nhân lấy làm mừng vì vương triều còn có những vị quan như ngài.” Hắn ra hiệu cho đồng bọn, cả hai cùng nhảy lên lưng ngựa. Địch Nhân Kiệt giao kiếm cho lão Hồng và khoác lại áo choàng lên người. “Ta rút lại lời nói ban nãy,” ông hạ giọng. “Nhưng nếu các ngươi cứ ngựa quen đường cũ thì sớm muộn gì cũng sẽ bị đưa ra pháp trường như bao tên trộm quèn khác. Ta khuyên các ngươi hãy buông bỏ hận thù, đừng làm chuyện thương thiên hại lý thiệt người thiệt mình nữa. Tin mới truyền về là quân ta đang giao tranh ác liệt với rợ phương Bắc. Quân đội cần chiêu mộ những nhân tài như các ngươi.” Tên cầm nỏ liếc nhìn ông sắc lẹm. “Thưa huyện lệnh, tiểu nhân cũng khuyên ngài,” y điềm tĩnh nói, “hãy xem kiếm là vật bất ly thân, kẻo có ngày bị đánh úp lần nữa thì nguy!” Nói đoạn, y quay đầu ngựa và cả hai mất hút vào trong rừng. Khi Địch Nhân Kiệt lấy lại kiếm từ lão Hồng và đeo sau lưng, lão bộc nói vẻ thỏa mãn, “Thưa đại nhân, ngài đã dạy cho bọn chúng một bài học nhớ đời. Mà hai tên ấy là hạng người như thế nào vậy?” “Thường thì,” Địch Nhân Kiệt đáp, “những kẻ mang trong mình mối thâm thù đại hận thường chọn con đường sống ngoài vòng pháp luật. Nhưng chúng thường chỉ cướp của quan lại và những người lắm tiền nhiều của, lại hay ra tay hiệp nghĩa cứu giúp kẻ cùng quẫn, vì thế được người đời ca tụng như những anh hùng cái thế thay trời hành đạo, trừ gian diệt ác. Chúng tự xưng là hào kiệt giang hồ.” Nói đoạn, ông thúc giục, “Được rồi, lão Hồng à, cuộc giao chiến thú vị đấy nhưng mất nhiều thời gian quá rồi. Mau lên đường thôi!” Đến Yên châu vào lúc chạng vạng tối, họ được lính gác cổng thành đưa đến một khách điếm lớn chuyên dành cho quan lại tuần du ở trung tâm trấn. Chọn một gian phòng ở lầu hai, Địch Nhân Kiệt sai tiểu nhị dọn một bữa cơm thịnh soạn để giải quyết cơn đói cồn cào sau hành trình dài. Dùng bữa xong, lão Hồng châm một chén trà nóng cho chủ nhân. Huyện lệnh ngồi gần cửa sổ và nhìn xuống khung cảnh phía dưới. Trước cửa khách điếm là một đám đông chộn rộn gồm binh lính và quân kỵ đang qua lại. Ánh sáng từ những ngọn đuốc soi rõ mũ sắt và áo giáp của họ. Bất chợt có tiếng gõ cửa. Xoay người lại, Địch Nhân Kiệt nhìn thấy hai gã đàn ông cao lớn bước vào phòng. “Trời ơi!” Ông thốt lên kinh ngạc, “Ta lại được gặp hai vị huynh đệ chốn lục lâm ư?” Cả hai lúng túng cúi chào. Chúng vẫn mặc đồ mã phu vá víu ban chiều nhưng đầu lại đội mũ đi săn. Tên có thân hình vạm vỡ xuất ngôn trước, “Bẩm đại nhân, chẳng phải lúc trưa ngài đã nói với viên thủ lĩnh kia rằng bọn tiểu nhân là thuộc hạ của ngài hay sao? Ngài là một vị huyện lệnh đáng kính, vậy há chẳng phải bọn tiểu nhân là lũ tội đồ, đã khiến ngài trở thành một kẻ dối gạt trong mắt người đời. Bọn tiểu nhân đã bàn bạc kỹ càng, nếu ngài thu nhận, cả hai sẽ tận trung tận lực với ngài.” Địch Nhân Kiệt nhướn mày. Tên còn lại nhanh nhảu tiếp lời, “Thưa đại nhân, bọn tiểu nhân tuy không thông thạo công vụ ở nha phủ, nhưng chắc cũng có ích những lúc cần động chân động tay. Bọn tiểu nhân nguyện làm bất kỳ việc gì, dù có lên núi đao xuống biển lửa cũng không từ!” “Ngồi xuống đi!” Địch Nhân Kiệt trầm giọng, “Ta muốn biết lai lịch của các ngươi.” Cả hai ngồi xuống ghế đẩu, tên đầu tiên chống tay xuống gối, hắng giọng kể, “Tiểu nhân tên Mã Vinh, người tỉnh Giang Tô. Phụ thân vốn là chủ một thuyền buôn và tiểu nhân là chân chạy việc cho ông. Thuở nhỏ, thấy con trai khỏe mạnh và thích đánh đấm, phụ thân đã gửi gắm tiểu nhân cho một vị sư phụ nổi tiếng, nhờ thầy dạy cả văn lẫn võ, với mong muốn sau này con trai có thể theo binh nghiệp. Chẳng may phụ thân đột ngột qua đời, để lại những khoản nợ kếch xù. Tiểu nhân buộc phải bán thuyền để trả nợ, sau đó gia nhập nha phủ và làm hộ vệ cho viên huyện lệnh địa phương. Tiểu nhân sớm phát hiện ra hắn ta là một tên tham quan vô lại và độc ác. Có lần hắn dùng hình để bức cung một góa phụ nhận tội nhằm chiếm đoạt gia sản của người ấy. Tiểu nhân tranh cãi với tên cẩu quan ấy và bị hắn đánh. Sau khi hạ gục hắn ta, tiểu nhân bỏ trốn và lưu lạc trong rừng sâu. Nhưng trước vong linh của phụ thân, tiểu nhân đã thề sẽ không bao giờ giết người vô tội vạ mà chỉ cướp của kẻ có tiền. Bằng hữu đây là huynh đệ kết nghĩa với tiểu nhân, huynh ấy có thể làm chứng cho tiểu nhân. Xin hết!” Địch Nhân Kiệt gật đầu rồi nhìn sang tên kia dò xét. Y có khuôn mặt góc cạnh, sống mũi thẳng và đôi môi mỏng. Vân vê hàng ria con kiến, y bộc bạch, “Tiểu nhân tự xưng là Kiều Thái, vốn là con cháu dòng dõi danh gia vọng tộc có tiếng một phương, không tiện để lộ tên húy. Dạo đó, một tên quan lớn đã cố tình dồn các chiến hữu của thuộc hạ của tiểu nhân vào chỗ chết. Rồi tên vô lại ấy lặn mất tăm, còn tiểu nhân đi cáo trạng khắp nơi nhưng không ai chịu giải quyết. Từ đấy, tiểu nhân trở thành một tên cường đạo lang bạt khắp nơi, hi vọng một ngày truy ra dấu vết của kẻ thủ ác kia và giết hắn để rửa sạch mối thâm thù huyết hận này. Cả đời tiểu nhân không bao giờ cướp của dân nghèo, thanh kiếm trong tay tiểu nhân quyết không nhuốm máu người vô tội. Tiểu nhân nguyện theo hầu ngài chỉ với một thỉnh cầu, đó là khi tiểu nhân tìm được hắn, mong ngài cho phép tiểu nhân được từ quan. Tiểu nhân đã thề với vong linh của thủ hạ mình rằng sẽ cắt đầu hắn ném cho chó ăn.” Địch Nhân Kiệt chăm chú nhìn hai nam nhân trước mặt, ung dung vuốt nhẹ chòm râu. Một hồi sau, ông đáp, “Ta chấp thuận yêu cầu của Mã Vinh và điều kiện của Kiều Thái. Nhưng nếu tìm được kẻ kia, trước hết ngươi phải giao hắn lại để ta có cơ hội chiếu theo phép công mà xử. Các ngươi có hai lựa chọn, hoặc theo ta đến Bồng Lai, công việc khi đến đó ta sẽ bố trí, hoặc đi tòng quân ở phương Bắc ngay, bằng không coi như ta chưa nói gì cả.” Khuôn mặt Kiều Thái đỏ phừng phừng như say rượu, y phấn khích đáp, “Thưa, được ăn cả ngã về không, đó là tâm niệm của bọn tiểu nhân, xin nguyện đi theo hầu ngài!” Y đứng dậy rồi quỳ xuống trước mặt huyện lệnh, dập đầu xuống sàn lạy ba cái liên tiếp. Bằng hữu của hắn thấy vậy cũng làm theo. Khi Mã Vinh và Kiều Thái đứng lên, Địch Nhân Kiệt mới nói, “Đây là Hồng Lượng, quân sư tâm phúc của ta, là người mà ta thổ lộ mọi bí mật. Các ngươi sau này sẽ hợp tác chặt chẽ với lão. Địch mỗ ta lần đầu được bổ nhiệm về Bồng Lai, vốn không rõ thực hư về công việc pháp đình trong nha phủ thế nào. Ta đoán chừng các lục sự, bộ khoái, lính tuần và nha dịch trong phủ đều chỉ tuyển dụng dân ở đó. Ta nghe nói gần đây ở Bồng Lai đang xảy ra nhiều chuyện kì quái, có trời mới biết nội bộ nhân tâm trong nha phủ đang rối loạn như thế nào. Vì lẽ đó, ta cần thủ hạ thân tín ở bên cạnh. Cả ba ngươi sẽ là ‘thiên lý nhãn’, ‘thuận phong nhĩ’ của ta. Lão Hồng, kêu tiểu nhị mang bình rượu đến đây!” Chén rượu được rót đầy, Địch tri huyện lần lượt nâng chén với từng người, còn họ thì cung kính chúc ông sức khỏe và công thành danh toại. Sáng hôm sau, lúc Địch Nhân Kiệt bước xuống chân cầu thang, lão Hồng và hai trợ thủ mới đang đứng chờ trong sân. Mã Vinh và Kiều Thái rõ là đã sắm sửa đồ đạc đầy đủ, cả hai mặc áo choàng nâu cùng thắt lưng đen nai nịt gọn ghẽ, đầu đội mũ chỏm nhỏ màu đen, mang đậm phong thái của quan viên phủ nha. “Bẩm đại nhân, trời hôm nay mây đen vần vũ quá,” lão Hồng nhắc. “E rằng chúng ta sẽ mắc mưa đấy.” “Xin đừng lo, tại hạ đã chuẩn bị mũ rơm, buộc trên yên ngựa đây này,” Mã Vinh tiếp lời. “Chúng ta cứ yên tâm mà tới Bồng Lai thôi!” Đoàn người ngựa rời khỏi thành qua ngõ Đông môn. Họ tháp tùng nhau đi qua con đường cái tấp nập du khách thập phương. Được vài dặm*, đường sá dần trống trải và thưa người hơn. Đến khi họ tiến vào một vùng đồi núi hoang vắng, một kỵ sĩ phi nước đại xồng xộc từ phía đối diện, kéo theo hai con tuấn mã buộc dây ở phía sau. Mã Vinh nhìn thoáng qua và cảm thán, “Ngựa tốt! Ta thích con ngựa màu sáng kia!” 1 dặm tương đương 1,61 ki-lô-mét. “Gã không nên để chiếc tráp đó trên yên ngựa,” Kiều Thái xen vào. “Chỉ tổ rước họa vào thân!” “Sao lại thế?” Lão Hồng thắc mắc. “Ở những vùng thế này,” Kiều Thái giải thích, “chỉ có địa chủ đi thu tô mới mang theo mấy cái tráp bọc da màu đỏ như thế để đựng ngân lượng. Kẻ khôn ngoan sẽ giấu nó trong tay nải.” “Có lẽ gã vội quá nên bất cẩn thôi!” Địch Nhân Kiệt điềm đạm bình luận. Đến trưa, đoàn người đã tới rặng núi cuối cùng. Bỗng một cơn mưa xối xả như thác lũ ập đến. Họ trú mưa dưới tán cây đồ sộ ở vùng đất bằng ven đường, phóng tầm mắt về vùng bán đảo xanh tươi màu mỡ phía xa, nơi có huyện Bồng Lai ở đó. Trong khi mọi người nhấm nháp lương khô, Mã Vinh khoái trá kể về những chuyến du sơn ngoạn thủy của y cùng các cuộc phong lưu tình ái với mấy thôn nữ chân lấm tay bùn. Địch Nhân Kiệt không có hứng thú với những câu chuyện tếu táo thô tục đó, nhưng ông phải thừa nhận rằng tên Mã Vinh này tính khí khá hài hước và thích châm chọc người khác. Khi y đang ‘phun châu nhả ngọc’ một câu chuyện kiểu đó, ông bất chợt cắt ngang, “Ta nghe nói ở những vùng này có cọp dữ. Ta cứ tưởng chúng thích khí hậu khô ráo hơn chứ?” Kiều Thái, nãy giờ vẫn im lặng lắng nghe mọi người trò chuyện, chợt lên tiếng, “Ôi, chuyện này cũng rất khó nói. Theo quy luật thì loài vật hung hãn ấy thường chỉ lui tới vùng rừng rậm có địa thế cao, nhưng một khi đánh hơi được mùi thịt người thì chúng cũng lảng vảng ở cả vùng đất bằng này. Chúng ta có thể săn bắn ra trò ở dưới đó đấy!” “Còn lời đồn đại về cọp tinh?” Địch Nhân Kiệt hỏi. Mã Vinh lo lắng hướng tầm mắt về phía khu rừng rậm tăm tối sau lưng họ. “Thuộc hạ chưa bao giờ nghe thấy!” Y đáp cụt lủn. “Thưa đại nhân, liệu thuộc hạ có thể mục sở thị thanh bảo kiếm của ngài?” Kiều Thái đột nhiên hỏi. “Nó quả là một thanh bảo kiếm cổ!” Trao kiếm cho y, Địch Nhân Kiệt đáp, “Tên nó là Long Vũ kiếm.” “Bẩm quan, không phải nó là thanh Long Vũ kiếm uy chấn thiên hạ kia chứ?” Kiều Thái mê mẩn thốt lên. “Thanh cổ kiếm mà mọi kiếm sĩ dưới gầm trời này đều tôn sùng kính sợ! Đây chính là thanh tuyệt kiếm vô song cuối cùng mà lão tiền bối lừng danh Tam Chỉ, đệ nhất tuyệt thế thợ rèn kiếm, đã hun đúc khí thiêng trời đất mà chế tác thành vào ba trăm năm trước!” “Tương truyền rằng,” Địch Nhân Kiệt tiếp lời, “lão tiền bối Tam Chỉ đã cố công rèn nó tám lần nhưng lần nào cũng thất bại. Rồi tiền bối thề độc rằng lão sẽ hiến dâng vị tiểu nương tử yêu dấu cho Thủy Thần nếu mình thành công. Đến lần thứ chín thì lão quả thật đã rèn được thanh kiếm này. Lão lập tức chém đầu nương tử của mình bên bờ sông. Một trận giông tố đáng sợ nổi lên và Tam Chỉ bị sét đánh chết. Thi thể của lão cùng nương tử bị những con sóng dữ cuốn trôi. Thanh kiếm này chính là bảo kiếm gia truyền của Địch gia ta hai trăm năm nay, chỉ truyền lại cho trưởng tử.” Kiều Thái kéo khăn choàng cổ che mũi miệng mình để tránh cho hơi thở làm vấy bẩn thanh bảo kiếm. Rồi y rút kiếm ra khỏi vỏ. Cung kính nâng nó lên bằng hai tay, y say sưa ngắm nhìn lưỡi gươm lục bảo ngời sáng và sắc bén không tì vết, chém sắt như chém bùn này. Một ngọn lửa kỳ dị lấp lánh trong mắt khi y nói, “Nếu thiên mệnh khiến ta phải chết bởi gươm đao, ta nguyện tắm trong lưỡi gươm này!” Cúi đầu cung kính, y nâng kiếm trả lại cho huyện lệnh. Mưa chỉ còn lất phất. Đoàn người ngựa tiếp tục xuôi xuống dốc núi. Xuống đến vùng đất thoải, họ trông thấy cột đá ven đường đánh dấu địa giới huyện Bồng Lai. Sương mù giăng trên vùng đồng bằng lầy lội, song huyện lệnh vẫn thấy đây quả là tuyệt cảnh. Từ giờ nó sẽ là vùng trời riêng của ông. Vó ngựa buông cương thần tốc lao về phía trước. Đến xế trưa, bức tường bao quanh huyện Bồng Lai ẩn hiện trong làn sương mờ dần hiện ra trước mắt họ. HỒI 3 Nhân chứng sống tường tri vụ án tử Ngộ bóng ma, Địch giận đả lôi đình Lúc bốn người gần đi đến Tây môn, Kiều Thái chợt nhận ra và cất giọng cảm khái về những dãy tường thấp cùng một căn vọng gác đơn sơ cao hai lầu. “Ta đã xem trên tấm địa đồ,” Địch Nhân Kiệt giảng giải, “huyện lỵ này có hệ thống phòng thủ trời cho. Nó nằm cách ba dặm so với hạ nguồn một dòng sông, là nơi tiếp giáp với một nhánh sông lớn. Cửa sông được trấn thủ bởi một vọng gác lớn, là nơi đồn trú của một đội quân thiện chiến. Họ tra soát mọi tàu thuyền ra vào. Vài năm trước, trong cuộc giao chiến giữa nước ta và Cao Câu Ly, chính họ đã ngăn chặn thuyền chiến của kẻ địch tiến vào đây. Ở phía bắc con sông, ven bờ là những vách đá cheo leo dựng đứng, còn xuôi dần về phía nam lại chẳng có gì ngoài những bãi đầm lầy rộng lớn. Đây là địa thế hiểm yếu theo kiểu độc đạo, thủ dễ khó công. Vì lẽ đó Bồng Lai là bến cảng tốt nhất ở vùng này, trở thành nơi giao thương trọng yếu giữa nước ta với Cao Câu Ly và Nhật Bản.” “Bẩm quan, hồi còn ở kinh thành, lão phu có nghe người ta nói,” lão Hồng thêm vào, “nhiều người dân Cao Câu Ly, đa phần là thuyền nhân, thợ đóng thuyền và các nhà sư, đã an cư lập nghiệp tại vùng đất này. Họ ngụ ở con phố người Cao Câu Ly nằm ở bờ bên kia nhánh sông phía đông trấn, gần nơi đó còn có một Phật tự cổ kính danh tiếng vang xa.” “Vậy là đệ có thể thử vận may với một thiếu nữ Cao Câu Ly đấy,” Kiều Thái nói với Mã Vinh, “xong rồi tiện thể vào ngôi chùa kia để chuộc lại tội lỗi!” Hai tên lính thủ thành mở cổng. Chủ tớ Địch Nhân Kiệt, cả người lẫn ngựa, rồng rắn lên mây dọc theo một con phố buôn bán sầm uất, cho đến khi đối mặt với bức tường cao của phủ nha. Men theo nó, họ dừng lại trước nha môn ở bức tường phía nam, nơi một vài nha dịch canh cổng đang ngồi trên băng ghế dài bên dưới chiếc chiêng đồng lớn. Nhìn thấy đoàn người tiến đến, bọn chúng đứng bật dậy và mau chóng hành lễ nghênh đón tân huyện lệnh. Thế nhưng, lão Hồng chợt nhận ra bọn chúng đang lén liếc mắt nhìn nhau đầy ẩn ý sau lưng họ. Một bộ khoái dẫn họ vào chánh đường nằm đối diện với sân chính. Bốn viên lục sự đang bận khoa tay múa bút dưới sự trông coi của một ông lão với thân hình gầy gò và chòm râu ngắn bạc phơ. Lão đến gần đoàn người với vẻ lúng túng, lắp bắp tự giới thiệu mình là Đường Trinh Tường, hiện giữ chức chánh lục sự, đang tạm quyền cai quản huyện lỵ này. “Bẩm đại nhân, thuộc hạ thật đáng trách,” lão nói với vẻ lo lắng, “thuộc hạ không được báo trước rằng ngài sắp đại giá quang lâm đến đây, vì thế chưa kịp chuẩn bị bữa tiệc tẩy trần cho ngài và…” “Vậy mà ta cứ tưởng là,” Địch Nhân Kiệt cắt ngang, “đồn gác ngoài biên thành đã sớm truyền tin rồi chứ. Chắc là có sai sót gì ở đây. Nhưng giờ ta đã đến đây, ngươi cũng nên đưa ta đi một vòng tham quan nha phủ.” Đường Trinh Tường đưa họ đến công đường rộng rãi. Mặt sàn lát gạch vuông được quét dọn sạch sẽ, bàn xử án đặt trên bệ phía sau được phủ mảnh vải gấm thêu đỏ tươi. Toàn bộ bức tường phía sau bàn được che phủ bởi một bức trướng lụa màu tía, ở chính giữa như thông lệ là biểu tượng đại kỳ lân biểu trưng cho công lý, được thêu bằng chỉ sợi dày màu vàng kim. Đoàn người xuyên qua lối đi đằng sau bức màn trướng, băng qua một hành lang hẹp, rồi tiến vào thư phòng dành cho quan huyện. Căn phòng này được giữ gìn sạch sẽ và ngăn nắp: án thư sáng bóng không vương một hạt bụi, vách tường thạch cao vừa được sơn trắng tinh tươm, nằm sát bức tường phía sau là bộ trường kỷ bọc gấm thêu màu lục bảo tinh xảo. Sau khi liếc nhanh qua văn khố ở cạnh thư phòng, Địch Nhân Kiệt bước ra ngoài dãy sân phía trước khách sảnh. Viên lục sự già nua thấp thỏm giải thích rằng khách sảnh vốn đã không được sử dụng từ lúc quan khâm sai rời khỏi đây, bàn ghế còn kê lộn xộn không đúng chỗ. Huyện lệnh lấy làm lạ về dáng vẻ lom khom đầy lúng túng của lão quan, trông có vẻ gượng gạo thiếu tự nhiên. “Ngươi quản mọi sự rất chu toàn và ngăn nắp,” Địch Nhân Kiệt nói kiểu vỗ về. Lão Đường cúi rạp mình rồi lắp bắp, “Bẩm đại nhân, thuộc hạ phụng sự ở đây đã bốn mươi năm rồi, từ lúc còn là một nha lại chạy việc vặt trong nha phủ. Thuộc hạ thích mọi thứ phải có trật tự kỷ cương. Mọi việc ở đây vốn rất suôn sẻ, nhưng giờ mọi thứ trở nên tệ đi sau ngần ấy năm…” Nói đến đây, lão nhỏ giọng dần, rồi hấp tấp mở cửa gian khách sảnh. Khi họ vây quanh cái bàn cao được chạm trổ tinh xảo nằm giữa gian phòng, lão Đường cung kính dâng ấn quan vuông vức của phủ nha lên cho huyện lệnh. Địch Nhân Kiệt đem nó so với con dấu được đóng trên sổ sách, rồi đặt bút ký nhận. Từ giờ phút này, Địch Nhân Kiệt chính thức nhậm chức huyện lệnh, nắm quyền cai quản huyện Bồng Lai. Ông vuốt chòm râu và nói, “Án mưu sát cố huyện lệnh phải được ưu tiên giải quyết trước các sự vụ thông thường. Vào lúc thích hợp, ta sẽ tiếp đón các thân hào nhân sĩ trong huyện và tuân thủ các nghi lễ cần thiết khác. Ngoài những người làm việc trong nha phủ này, hôm nay ta còn muốn diện kiến các vệ úy trấn thủ bốn phía cổng thành.” “Bẩm đại nhân, thực ra là có năm người ạ,” lão Đường nhắc, “tính cả quan trông coi phố người Cao Câu Ly nữa.” “Y là người Hán chứ?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Dạ bẩm, không phải ạ,” lão Đường đáp, “nhưng y nói tiếng Hán rất thạo.” Lão che miệng ho khan vài tiếng, rồi tiếp tục với vẻ dè dặt. “Bẩm đại nhân, thuộc hạ cho rằng việc này vốn không hợp quy củ, nhưng Tri phủ đại nhân đã cho phép phố người Cao Câu Ly ở bờ đông vùng này được phép bán tự trị. Viên Vệ úy ấy phụ trách việc duy trì trị an ở đó, người của ta chỉ được phép vào khi nào y cần chi viện.” “Rõ là trái với phép tắc,” huyện lệnh lẩm bẩm. “Một hôm nào đó ta sẽ tra xét lại việc này. Được rồi, giờ ngươi hãy truyền lệnh cho tất cả quan viên trong nha phủ tập trung ở công đường. Trong lúc chờ đợi, ta sẽ xem qua hậu viện và nghỉ ngơi một chút.” Trông lão Đường có vẻ lúng túng. Sau một hồi do dự, lão lên tiếng, “Hậu viện đã được Vương huyện lệnh cho sửa sang lại vào mùa hè năm ngoái nên vẫn còn rất tốt. Ngặt nỗi vật dụng và hành lý đóng gói nguyên kiện của ngài ấy vẫn còn ở bên trong. Vị lệnh đệ vốn là người họ hàng duy nhất còn sống của Vương đại nhân vẫn bặt vô âm tín, thuộc hạ không biết nên chuyển những đồ đạc ấy đến nơi nào. Từ khi góa vợ, cố huyện lệnh chỉ thuê dân địa phương làm gia nhân, họ đã lập tức rời đi sau… cái chết của ngài ấy.” “Thế quan khâm sai ở đâu khi ông ta đến đây?” Địch Nhân Kiệt kinh ngạc hỏi. “Bẩm đại nhân, ngài ấy nghỉ ở trường kỷ trong thư phòng,” lão Đường rầu rầu đáp. “Các lục sự cũng phục vụ ngài ấy dùng bữa ở đó. Thuộc hạ hối hận vô cùng, tất cả chẳng đúng lễ nghi gì cả, nhưng từ lúc lệnh đệ của Vương huyện lệnh không hồi âm thư của thuộc hạ… Thật là không may, nhưng…” “Không sao cả,” Địch Nhân Kiệt nói nhanh. “Ta không định đưa gia quyến cùng gia nhân đến đây khi vụ án còn chưa được hóa giải. Giờ ta sẽ đến thư phòng và sửa sang lại mọi thứ ở đó, ngươi hãy đưa các thủ hạ của ta đi xem nơi ở của họ đi.” “Dạ bẩm, ở phía đối diện nha phủ,” lão Đường hồ hởi nói, “có một gian khách điếm khá ổn. Thuộc hạ cùng phu nhân cũng đang ngụ ở đó, thuộc hạ có thể cam đoan rằng thủ hạ của ngài cũng sẽ…” “Lại càng chẳng coi vương pháp ra gì,” Địch Nhân Kiệt lạnh lùng ngắt lời. “Tại sao ngươi lại không ở trong phạm vi nha phủ? Ngươi sống già đời ở đây, ngồi đến mòn cái ghế quan rồi thì phải biết trật tự kỷ cương là gì chứ!” “Dạ bẩm, thuộc hạ vốn ở lầu trên của gian nhà đằng sau khách sảnh,” lão Đường hối hả giải thích, “nhưng từ lúc mái nhà cần được tu sửa, thuộc hạ nghĩ rằng sẽ không ai phản đối việc mình chuyển ra ngoài, tất nhiên chỉ là tạm thời mà thôi…” “Đủ rồi!” huyện lệnh Địch thẳng thừng ngắt lời lão, “Dù thế nào ta cũng yêu cầu ba thủ hạ của mình nhất định phải ở trong nha phủ. Ngươi hãy bố trí cho họ ở trong đồn gác đi.” Lão Đường cúi đầu thật thấp rồi rời khỏi phòng cùng Mã Vinh và Kiều Thái. Lão Hồng theo sau huyện lệnh tiến vào thư phòng. Lão bộc giúp ông thay quan phục và châm sẵn một chén trà. Khi đang dùng khăn ấm lau mặt, ông bất chợt lên tiếng, “Lão Hồng à, lão có thể đoán được tại sao ông già đấy lại kiểu cách cảnh vẻ như vậy không?” “Bẩm quan, có vẻ như ông ta là hạng người khá cẩn trọng,” lão Hồng đáp. “Phỏng chừng việc chúng ta quá bộ bất ngờ đã khiến ông ta khó chịu.” “Ta thì lại cho rằng,” Địch Nhân Kiệt trầm ngâm, “ông ta đang rất e ngại điều gì đó ở nha phủ này. Đó cũng là nguyên do mà ông ta chuyển đến ở khách điếm kia. Thôi được rồi, chúng ta sẽ sớm biết được thôi!” Lão Đường tiến vào và thông báo rằng mọi người đã tập hợp đầy đủ ở công đương. Địch Nhân Kiệt thay sang mũ ô sa cánh chuồn đen rồi tiến ra tiền sảnh, hai lão Hồng, Đường rảo bước theo sau. Ông ngồi xuống sau bàn xử án, rồi ra hiệu cho Mã Vinh và Kiều Thái đứng sau lưng mình. Địch Nhân Kiệt nói vài câu mà ông đã đo ni đóng giày cho hợp lẽ, tiếp đó lão Đường lần lượt giới thiệu với ông về bốn mươi nam nhân đang quỳ trên sàn đá bên dưới. Địch Nhân Kiệt chú ý thấy các lục sự đều vận áo ngoài màu lam gọn ghẽ, các bộ khoái và lính tuần thân khoác áo da, đầu đội mũ sắt sáng bóng. Nhìn tổng thể đây là một đội ngũ chỉnh tề. Ông chẳng ưa được vẻ mặt hung ác của tên bộ đầu. Ông ngẫm rằng những gã đầu sỏ này thường chẳng tốt lành gì, nhất định phải thường xuyên huấn thị bọn chúng. Quan ngỗ tác phụ trách pháp y là Thân Đà, một ông lão với vẻ ngoài đường hoàng cùng một gương mặt đầy cơ trí. Lão Đường thì thầm với huyện lệnh rằng lão nam nhân ấy chính là đệ nhất danh y trong huyện, cũng là một người có nhân cách cao quý. Việc điểm mặt đến hồi chấm dứt, Địch huyện lệnh tuyên bố bổ nhiệm Hồng Lượng làm sư gia của nha phủ, do đó lão sẽ phụ trách trông coi mọi công vụ thường nhật của các lục sự. Mã Vinh và Kiều Thái được giao trọng trách giám sát bộ khoái và lính tuần, đồng thời phụ trách trông coi kỷ cương, đồn gác và nhà lao. Quay về thư phòng, Địch Nhân Kiệt lệnh cho Mã Vinh và Kiều Thái đi tra xét đồn gác và nhà lao. “Sau đó,” ông tiếp tục, “các ngươi hãy tiến hành thao luyện binh lính của nha phủ, đây sẽ là dịp để làm quen với họ và xem thử họ lợi hại ra sao. Xong xuôi, các ngươi hãy ra ngoài thăm dò tình hình trong trấn một lượt. Ta vốn định đi cùng hai ngươi, nhưng ta phải dành cả tối nay để nghiên cứu phương hướng điều tra vụ sát hại ngài cố huyện lệnh. Hoàn thành việc thì trở về bẩm báo lại cho ta ngay đêm nay.” Nhị vị đại hán vừa rời đi thì lão Đường bước vào, theo sau là viên lục sự cầm theo hai giá nến. Địch Nhân Kiệt bảo lão Đường ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước bàn, bên cạnh Hồng quân sư. Viên lục sự đặt nến lên bàn rồi lặng lẽ đi ra ngoài. “Vừa lúc nãy,” Địch Nhân Kiệt nói với lão Đường, “ta nhận thấy một vị lục sự, trên danh sách ghi tên là Phạm Trọng, vắng mặt thì phải. Hắn cáo ốm à?” Lão Đường chợt vỗ trán, lắp bắp thưa, “Bẩm đại nhân, thuộc hạ vốn định báo với ngài. Thuộc hạ quả thật đang rất lo cho người ấy. Mùng một tháng này, hắn đi thăm thú thủ phủ của vùng là Tế Nam nhân kỳ nghỉ phép thường niên, lẽ ra phải hồi gia từ sáng hôm qua. Thấy Phạm Trọng vẫn chưa trở về phủ, thuộc hạ có điều một bộ khoái đến tiểu điền trang của hắn ở phía tây trấn để tìm hiểu thực hư. Nông phu làm thuê cho hắn lại bảo rằng chủ tớ Phạm Trọng đã đến đó vào ngày hôm trước rồi rời đi ngay buổi trưa cùng ngày. Quả là phiền phức! Gã Phạm Trọng này vốn là tay xuất chúng, một viên quan có năng lực và luôn đúng giờ. Thuộc hạ cũng không hiểu đã có chuyện gì đã xảy ra với hắn…” “Có khi hắn bị ông ba mươi vồ mất rồi không chừng!” Địch Nhân Kiệt mất kiên nhẫn cắt ngang. “Thưa đại nhân, không thể nào có chuyện đó,” lão Đường bỗng thảng thốt. “Không, không thể thế được!” Gương mặt lão chợt tái mét, vầng sáng từ ngọn nến soi rõ đôi con ngươi trợn tròn đầy hoảng hốt. “Đừng lo lắng quá!” huyện lệnh gắt. “Ta hiểu ngươi đang rất hoảng loạn sau cái chết của cố tri huyện, nhưng chuyện đã xảy ra từ tận hai tuần trước. Bây giờ ngươi còn lo sợ điều gì nữa?” Lão Đường lau mồ hôi trên trán. “Xin đại nhân lượng thứ cho thuộc hạ,” lão lẩm bẩm. “Chuyện là vào tuần trước, người ta tìm thấy xác một nông phu trong rừng với cổ họng rách toạc, thân thể bị cắn xé thảm hại. Chắc chắn là có một loài thú dữ ăn thịt người đang lảng vảng quanh đây. Thưa ngài, vì chuyện đó mà dạo gần đây thuộc hạ không thể nào ngủ yên, cứ trằn trọc mãi đến khuya. Mong ngài lượng thứ cho tiểu nhân và…” “Thôi được rồi,” Địch Nhân Kiệt nói, “hai trợ thủ của ta vốn là những tay thợ săn lão luyện, hôm nào ta sẽ lệnh cho họ đi diệt con cọp đó. Giờ rót cho ta một chén trà nóng rồi tập trung vào việc chính sự đi.” Sau khi lão Đường châm trà rồi dâng lên, Địch Nhân Kiệt nhận lấy chén, hào hứng nhấp vài ngụm. Đoạn ông ngồi xuống chiếc ghế tựa và hỏi, “Ta muốn nghe nội tình từ chính miệng ngươi. Vụ án được phát hiện như thế nào?” Giật giật chòm râu, lão Đường dè dặt nói, “Dạ thưa, ngài cố huyện lệnh vốn là một bậc chính nhân quân tử hào hoa phong nhã và uyên bác. Có đôi lúc Vương đại nhân khá vô tâm và dễ mất kiên nhẫn với những thứ vụn vặt, nhưng ngài ấy lại rất thấu đáo đối với những chuyện đại sự, lại cực kỳ chính trực. Ngài ấy trạc ngũ tuần, là người từng trải và giàu kinh nghiệm. Một huyện lệnh có tài, thưa đại nhân.” “Ngài ấy,” Địch Nhân Kiệt thắc mắc, “có gây thù chuốc oán với kẻ nào không?” “Bẩm quan, không thể có chuyện đó!” Lão Đường la lên. “Ngài ấy là một vị quan liêm khiết, chính trực và rất tinh tường, luôn được dân chúng yêu mến. Thưa đại nhân, thuộc hạ dám khẳng định rằng Vương huyện lệnh được bách tính trong cả huyện này sùng bái, thật sự ngài ấy rất được ái mộ ạ.” Thấy Địch Nhân Kiệt gật gù, lão mới dám tiếp tục, “Bẩm quan, cách đây hai tuần, khi trời còn tờ mờ, quản gia của cố huyện lệnh đến gặp thuộc hạ tại chánh đường để báo rằng chủ nhân mình không ngủ ở hậu viện suốt đêm hôm qua, còn cửa thư phòng ngài ấy thì bị khóa trái từ bên trong. Thuộc hạ biết ngài ấy thường hay đọc văn tự và ghi chép ở thư phòng đến quá nửa đêm canh ba, nên chỉ cho là ngài ấy ngủ quên bên chồng sách. Thuộc hạ liên tục gõ cửa mà không nghe thấy động tĩnh gì từ bên trong. Sợ rằng Vương huyện lệnh có thể bị cảm phong, thuộc hạ vội gọi bộ đầu đến phá cửa xông vào.” Lão Đường nuốt nước bọt, miệng mím chặt. Sau một hồi, lão lại lên tiếng, “Thưa, Vương huyện lệnh lúc ấy nằm sõng soài dưới sàn, ngay phía trước bếp pha trà, đôi mắt mờ đục nhìn trừng trừng lên trần nhà, tay phải rướn về phía một chén trà đang nằm lăn lóc trên thảm. Cảm nhận được thân thể ngài ấy đã lạnh ngắt, thuộc hạ lập tức vời quan ngỗ tác đến. Ông ấy thông báo rằng Vương huyện lệnh đã chết vào khoảng nửa đêm. Ông ấy còn lấy cả một mẫu trà sót lại trong ấm để…” “Ấm trà lúc đó được đặt ở đâu?” Địch Nhân Kiệt cắt ngang. “Bẩm quan, ấm trà nằm trên cái tủ đặt ở góc trái ạ,” lão Đường đáp, “kế bên bếp pha trà bằng đồng dùng để đun nước. Ấm trà lúc ấy hãy còn đầy. Quan ngỗ tác rót cho con chó uống thử một ít, nó liền lăn đùng ra chết. Ông ấy hâm nóng trà, rồi qua mùi hương bốc lên đã xác định được trong trà có độc. Thế nhưng ông ấy không thể kiểm tra nước trong ấm đun vì nó đã bị nấu cạn mất rồi.” “Vậy người nào thường mang nước pha trà vào phòng?” huyện lệnh hỏi. “Bẩm đại nhân, là ngài ấy tự mình đi lấy,” lão lập tức đáp. Thấy Địch Nhân Kiệt nhướn mày, lão vội giải thích, “Thưa, Vương huyện lệnh vốn nhiệt tâm sùng kính trà đạo và rất kĩ tính mỗi khi pha trà. Ngài ấy nhất định phải tự tay gánh nước từ cái giếng trong sân viện, rồi tự mình đun nước trên bếp ngay trong thư phòng. Bộ ấm chén cùng hộp đựng trà đều là vật cổ vô giá được ngài ấy giữ gìn vô cùng cẩn thận trong chiếc tủ bên dưới bếp pha trà. Thuộc hạ cũng lệnh cho quan ngỗ tác xét nghiệm cả lá trà trong hộp đựng nhưng chúng thực không có độc.” “Rồi sau đó ngươi xử trí ra sao?” Địch huyện lệnh hỏi. “Bẩm quan, thuộc hạ lập tức chuyển tin hỏa tốc đến kinh thành, sau đó cho người chuyển thi thể vào một chiếc quan tài tạm bợ, đặt nó trong sảnh trước hậu viện. Sau đó thuộc hạ niêm phong thư phòng lại. Vào ngày thứ ba thì một viên quan khâm sai do kinh thành phái tới đã đến nha phủ. Vị đại nhân ấy lệnh cho viên chỉ huy đồn lính cử ra sáu mật thám trong đám lính nội an để tùy ý sai khiến. Rồi quan khâm sai bắt đầu tiến hành một cuộc điều tra toàn diện, thẩm vấn mọi gia nhân trong phủ và…” “Mấy chuyện ấy ta biết rồi,” Địch Nhân Kiệt mất kiên nhẫn nói, “Ta đã đọc báo cáo của ông ta. Nó xác nhận rõ ràng rằng không có ai động tay vào lá trà cả, cũng chẳng có kẻ nào bước chân vào thư phòng khi ngài huyện lệnh đang nghỉ ngơi. Chính xác thì viên quan khâm sai rời khỏi đây khi nào?” “Bẩm quan, quan về vào buổi sáng ngày thứ tư,” lão Đường chậm rãi đáp. “quan khâm sai đã triệu thuộc hạ tới và lệnh cho thuộc hạ dời quan tài đến Bạch Vân tự ở ngoại ô Tây môn, trong lúc chờ đợi quyết định của lệnh đệ người đã khuất về nơi chôn cất. Sau đó, vị quan nhân ấy cho các mật thám trở về đồn, rồi báo cho thuộc hạ biết rằng mình sẽ khởi hành rời đi cùng tất cả giấy tờ cá nhân của cố huyện lệnh.” Lão Đường trông không được thoải mái lắm. Lão lo lắng liếc mắt về phía huyện lệnh rồi nói thêm, “Bẩm quan, thuộc hạ cho là quan khâm sai đã giải thích với đại nhân về nguyên do mình đột ngột rời khỏi đây rồi chứ?” “Ông ta có chuyển lời cho bản quan,” Địch Nhân Kiệt lập tức ứng biến, “rằng đã đến lúc giao lại cuộc điều tra cho tân huyện lệnh, như vậy việc tra án sẽ thuận lợi hơn.” Lão Đường có vẻ bớt căng thẳng mới hỏi, “Bẩm quan, thuộc hạ chắc rằng vị đại nhân ấy vẫn bình an chứ ạ?” “Ông ta đã đến miền nam thực hiện nhiệm vụ mới rồi,” Địch Nhân Kiệt đáp. Ông đứng dậy và nói tiếp, “Bây giờ ta đi xem xét thư phòng. Trong lúc đó, ông hãy ở lại bàn bạc với Hồng quân sư về những việc hệ trọng nào buộc phải giải quyết trong buổi thăng đường sáng mai.” Địch Nhân Kiệt cầm lấy một chân nến rồi đi ra ngoài. Cánh cửa dẫn đến hậu viện, nằm ở phía bên kia của tiểu hoa viên phía sau khách sảnh, chỉ được khép hờ. Mưa đã ngừng rơi, nhưng sương mù vẫn lảng bảng giữa những tán cây và vương trên luống hoa được cắt tỉa ngay ngắn. Địch Nhân Kiệt đẩy cửa bước vào một gian nhà trống trải. Ông đã xem qua bản vẽ khuôn viên phủ nha, được đính kèm với các bản báo cáo, nên dễ dàng xác định được thư phòng nằm ở phía cuối hành lang chính. Đi dọc theo dãy hành lang dài, ông nhận thấy có hai lối rẽ. Dưới quầng sáng yếu ớt của ngọn nến, ông không thể nhìn ra chúng dẫn đến nơi nào. Bất chợt ông dừng bước. Ánh nến soi tỏ thân hình mảnh khảnh của một nam nhân vừa bước ra từ lối đi ngay phía trước, suýt thì đâm sầm vào ông. Kẻ kia đứng bất động, không mảy may nhúc nhích, nhìn chằm chằm huyện lệnh bằng ánh mắt trống rỗng đầy ma mị. Dung nhan tầm thường của y bị biến dạng bởi một vết bớt to như đồng xu bên má trái. Lòng đầy sửng sốt, Địch Nhân Kiệt để ý thấy y không đội mũ, mái tóc bạc được búi gọn trên đỉnh đầu. Trong không gian tranh tối tranh sáng, ông lờ mờ nhìn thấy bộ thường phục màu xám tro thắt đai lưng đen trên người y. Khi Địch Nhân Kiệt cất tiếng hỏi lai lịch, y chợt lùi bước, lướt đi như gió thoảng về phía hành lang tối. Huyện lệnh nhanh chóng giơ cao tay nến, nhưng động tác quá bất ngờ khiến ngọn lửa vụt tắt. Tứ phía tối đen như mực. “Này, tên kia, mau trở lại đây!” Ông hét lên nhưng chỉ có tiếng vọng giữa thinh không đáp lại. Ông đứng đợi một lúc lâu, cảm nhận xung quanh chỉ còn lại sự tĩnh mịch của gian nhà trống. “Gã hỗn xược!” Địch Nhân Kiệt tức giận càu nhàu. Ông đưa tay mò mẫm dọc theo dãy tường, tìm đường quay trở lại hoa viên rồi nhanh chóng đi về phía thư phòng. Lúc này, lão Đường đang đưa cho Hồng quân sư xem một tập văn thư đồ sộ. “Bản quan chỉ nhắc một lần duy nhất cho tất cả nha lại hiểu,” Địch Nhân Kiệt gắt gỏng với lão Đường, “không ai được phép mặc thường phục đi lại trong nha phủ, vào buổi tối hay khi hết phiên gác cũng không. Mới đây ta bắt gặp một gã mặc mỗi thường phục và chẳng thèm đội mũ. Gã quê mùa hỗn xược đó thậm chí còn không màng trả lời khi ta chất vấn y. Mau tóm cổ y lại cho ta. Bản quan sẽ giáo huấn y một trận ra trò!” Toàn thân lão Đường bắt đầu run rẩy, lão nhìn chằm chằm vào huyện lệnh với vẻ hoảng hốt đầy khổ sở. Địch Nhân Kiệt bỗng cảm thấy có lỗi, suy cho cùng thì lão cũng đã dốc hết sức mình. Ông nói tiếp với giọng điệu bình tĩnh hơn, “Thôi được, ai cũng có lúc phạm sai lầm. Nhưng rốt cuộc kẻ đó là ai? Lính tuần đêm chăng?” Lão Đường phóng ánh mắt đầy hoảng sợ về phía cánh cửa đang mở toang phía sau tri huyện. Lão lắp bắp, “Bẩm quan, có phải nam nhân đó khoác áo thụng xám?” “Phải,” Địch Nhân Kiệt đáp. “Thưa, trên má trái người đó có một vết bớt?” “Phải nốt,” huyện lệnh xẵng giọng. “Đừng làm ta sốt ruột nữa, ông già kia! Nói toạc ra mau, y là ai?” Lão Đường cúi đầu, giọng thều thào không ra hơi, “Bẩm đại nhân, đó chính là cố huyện lệnh đấy!” Đâu đó trong phủ, một cánh cửa bất chợt đóng sầm lại, tựa tiếng sấm rền vang vọng trong đêm khuya. HỒI 4 Địch Nhân Kiệt thẩm án hiện trường Bếp trà thấu thị cho tường chân tơ “Cửa nào đó?” Địch Nhân Kiệt gầm lên. “Bẩm đại nhân, thuộc hạ nghĩ là cửa trước hậu viện,” Lão Đường lắp bắp. “Thưa, bản lề bị hỏng rồi ạ.” “Mai cho người sửa lại cửa ngay!” huyện lệnh gắt gỏng ra lệnh. Ông vẫn đứng chôn chân tại chỗ, chìm trong sự tĩnh lặng rợn người. Chậm rãi vuốt chòm râu, ông đau đáu hồi tưởng ánh nhìn trống rỗng đầy ma mị của vong hồn, cách nó nhanh chóng biến mất vô thanh vô tức ra sao. Đoạn ông vòng qua án thư để thả người xuống chiếc ghế bành. Hồng Lượng lẳng lặng nhìn chủ, đôi mắt trợn trừng đầy khiếp đảm. Địch Nhân Kiệt ra sức trấn tĩnh bản thân. Ông dò xét gương mặt xám ngoét của lão Đường một lúc rồi hỏi, “Lẽ nào ngươi cũng từng nhìn thấy vong hồn đó?” Lão Đường gật đầu. “Bẩm đại nhân, vào ba hôm trước,” lão đáp, “trong chính gian phòng ấy. Lúc đó đêm đã khuya, thuộc hạ đến đây để lấy văn thư cần thiết. Ngài ấy đứng ngay ở đó, gần mép án thư, quay lưng về phía thuộc hạ.” “Rồi chuyện gì xảy ra tiếp theo?” Địch Nhân Kiệt căng thẳng hỏi. “Thưa, thuộc hạ hét lên một tiếng và đánh rơi ngọn nến. Đoạn thuộc hạ ba chân bốn cẳng phóng ra ngoài và gọi lính tuần. Khi bọn thuộc hạ quay lại thì phòng đã không còn một bóng người.” Lão Đường giơ tay dụi mắt và nói thêm, “Thưa đại nhân, ngài ấy mặc bộ thường phục xám, vận đai lưng đen hệt như lúc bọn thuộc hạ phát hiện ra thi thể ở thư phòng vào sáng hôm đó. Chiếc mũ bị văng ra khỏi đầu khi ngài ấy đổ gục xuống sàn…” Thấy Địch Nhân Kiệt và Hồng quân sư vẫn im lặng nên lão tiếp tục kể, “Bẩm quan, thuộc hạ tin rằng quan khâm sai ắt hẳn cũng đã bắt gặp vong hồn ấy! Thế nên vị đại nhân ấy mới trông thất sắc đến vậy vào sáng hôm sau, cũng vì lý đó mà đột ngột rời đi.” Huyện lệnh giật mạnh ria mép. Sau một hồi, ông trầm giọng nói, “Phủ nhận sự tồn tại của ma quỷ là một việc ngu xuẩn. Đừng quên rằng cả đức Khổng Tử cũng chỉ trả lời lấp lửng khi các môn đồ thỉnh giáo về chuyện đó. Mặt khác, ta cũng định bắt đầu đi tìm một lời giải thích hợp lý.” Lão Hồng chậm rãi lắc đầu, “Thưa đại nhân, e là không có lời giải thích nào cả. Cách giải thích duy nhất là cố huyện lệnh không thể yên nghỉ khi chưa rửa được hận. Thi thể ngài ấy còn đang nằm ở Phật tự kia. Dân gian vẫn hay đồn rằng người chết dễ hiện hình gần thi hài của mình, trong lúc nó còn chưa thối rữa hoàn toàn.” Địch Nhân Kiệt đột ngột đứng phắt dậy. “Ta cần suy nghĩ thật thấu đáo về vấn đề này. Giờ ta sẽ trở lại gian nhà đó để tra xét thư phòng.” Lão Hồng thất kinh la lên, “Thưa đại nhân, ngài không thể mạo hiểm đi đến chỗ hồn ma đó lần nữa!” “Hà cớ gì lại không thể?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Ý nguyện của người đã khuất là muốn được báo thù. Nhất định ngài ấy biết ta cũng có chung mong muốn đó. Hà cớ gì ngài ấy phải làm hại ta chứ? Lão Hồng này, khi nào xong việc ở đây, lão hãy qua thư phòng với ta. Lão có thể đi cùng hai lính tuần và mang đèn lồng theo nếu muốn.” Phớt lờ những lời phản đối, Địch Nhân Kiệt rời khỏi thư phòng. Lần này, ông ghé qua chánh đường trước để lấy một chiếc đèn lồng lớn bằng giấy dầu. Lúc trở lại gian nhà bị bỏ hoang, ông bước thẳng vào lối rẽ nơi vong hồn đã biến mất. Cả hai bên lối đi đều có một cánh cửa. Ông mở cửa ở phía tay phải và trông thấy một căn buồng rộng rãi, trên sàn đầy những bọc và rương lớn nhỏ chất đống lên nhau. Địch Nhân Kiệt bèn đặt đèn lồng xuống, sờ vào những cái bọc và quan sát đống rương xếp lộn xộn. Một bóng đen méo mó đứng trong góc khiến ông giật mình, trước khi ông định thần và nhận ra cái bóng của chính mình. Nơi này không có gì ngoài những vật dụng cá nhân của người đã khuất. Huyện lệnh lắc lắc đầu rồi bước vào gian phòng ở phía đối diện. Căn buồng này hoàn toàn trống trải, ngoại trừ vài món đồ gỗ lớn bọc trong chiếu rơm. Cuối lối rẽ là một cánh cửa đồ sộ được cài then khóa chặt. Đắm chìm trong suy nghĩ, Địch Nhân Kiệt quay trở lại hành lang chính. Cánh cửa được chạm trổ rồng mây uốn lượn vô cùng tinh xảo nhưng vẻ đẹp của nó đã bị vài tấm ván gỗ đóng tạm bợ làm hỏng. Các bộ khoái đã phá vỡ phần trên của họa tiết khi cố mở cửa. Địch Nhân Kiệt giật phắt dải giấy niêm phong của nha phủ rồi đẩy cửa vào. Tay giơ cao chiếc đèn lồng giấy, ông xem xét căn buồng nhỏ vuông vức được trang hoàng đơn giản mà tao nhã. Dựng trước khung cửa sổ cao hẹp phía bên trái phòng là một tủ gỗ mun nặng nề, trên nóc đặt một bếp nấu trà lớn bằng đồng. Một cái nồi thiếc tròn được kê trên bếp để đun nước pha trà. Ông trông thấy cạnh bếp có một ấm trà nhỏ bằng sứ trắng men lam thanh tú. Những giá sách lấp đầy khoảng trống còn lại của bức tường đó và cả bức tường đối diện. Vách tường phía sau có một khung cửa sổ thấp mà rộng, ô cửa bằng giấy được lau chùi kỹ lưỡng. Đằng trước khung cửa sổ dựng một án thư cổ bằng gỗ tử đàn, với ba ngăn kéo ở hai đầu. Bên cạnh còn một chiếc ghế bành rộng rãi cũng bằng gỗ tử đàn, được bọc đệm xa-tanh màu đỏ son. Trên án thư chỉ bày một cặp giá nến bằng đồng. Tri huyện bước hẳn vào trong và tra xét vệt đen trên tấm chiếu cói trải giữa tủ trà và án thư. Khi cố huyện lệnh ngã xuống, chắc nước trà từ chén đã sánh ra chiếu và để lại vệt đen ấy. Có khả năng ngài ấy đã đặt bếp đun rồi ngồi đợi tại án thư. Khi nghe thấy tiếng nước sôi, ngài ấy bèn bước tới bên bếp để rót nước vào ấm. Hẳn ngài ấy đã đứng châm đầy chén trà ngay tại đó rồi nhấp một ngụm. Rồi chất độc phát tác. Trông thấy một chiếc chìa còn cắm trong ổ khóa tủ, Địch Nhân Kiệt bèn mở nó ra. Ông ngắm nhìn bộ sưu tập những dụng cụ trà đạo được chọn mua một cách công phu đang xếp đầy hai ngăn tủ, lòng không khỏi ngưỡng mộ. Bên trong không vương một hạt bụi, rõ ràng là quan khâm sai và phụ tá của ông ta đã xem xét mọi thứ rất kỹ lưỡng. Ông đi về phía án thư. Các ngăn kéo, nơi quan khâm sai tìm thấy giấy tờ cá nhân của người chết, đều trống không cả. Huyện lệnh thở dài thườn thượt. Thật đáng tiếc là ông không được trực tiếp thấu thị gian phòng ngay sau khi vụ án mạng được phát hiện. Ông quay qua những giá sách, bâng quơ lướt ngón tay trên gáy các cuốn sách. Chúng bị bao phủ bởi một lớp bụi dày. Địch Nhân Kiệt mỉm cười hài lòng. Ít nhất thì ở đây còn có thứ mới mẻ để tra xét, quan khâm sai và người của ông ta rõ là đã bỏ qua những cuốn sách này. Quan sát tỉ mẩn các giá đầy ắp cuốn, huyện lệnh quyết định tiếp tục tra xét trong lúc chờ lão Hồng đến. Địch Nhân Kiệt tra xét thư phòng Ông xoay chiếc ghế bành hướng ra phía cửa chính rồi ngồi xuống. Khoanh tay trong ống tay áo rộng thùng thình, ông cố mường tượng ra tên sát nhân là hạng người như thế nào. Sát hại một mệnh quan triều đình là vi phạm quốc pháp, luật triều đình nhất định ban cho kẻ thủ ác một án tử vô cùng tàn khốc, chẳng hạn như ‘lăng trì’ hay ‘ngũ mã phanh thây’. Hung thủ hẳn phải có động cơ thúc đẩy ác tâm rất mạnh mẽ. Hắn đã bỏ độc trà như thế nào? Chắc chắn là vào nước pha trà trong nồi, bởi lá trà trong hộp đựng đã được kiểm tra và chứng thực không có độc. Ông nghĩ còn một cách khác là hung thủ đã gửi biếu vị cố huyện lệnh một lượng nhỏ lá trà bị tẩm độc, chỉ đủ pha một tuần trà. Địch Nhân Kiệt lại thở dài và nghĩ đến vong hồn mà mình đã nhìn thấy. Lần đầu tiên trong đời tận mắt chứng kiến một hiện tượng ma quái như vậy, ông vẫn chưa hoàn toàn tin mấy chuyện hồn ma bóng quế. Đây có thể chỉ là một trò lừa bịp nào đó. Nhưng quan khâm sai và lão Đường cũng đã nhìn thấy vong hồn. Kẻ nào lại cả gan mạo hiểm giả ma giả quỷ ngay trong nha phủ này? Vì nguyên cớ gì? Rốt cuộc bóng người đó cũng có thể là hồn ma đích thực của cố huyện lệnh lắm chứ. Địch Nhân Kiệt ngả đầu lên chiếc đệm tựa phía sau, nhắm mắt hình dung lại gương mặt của vong hồn. Lẽ nào người quá cố không thể hiện hồn để trỏ ra vài dấu hiệu nhằm hỗ trợ ông hóa giải bí ẩn này? Ông mở choàng mắt, gian phòng vẫn lặng như tờ và trống trải như trước. Huyện lệnh lại vẩn vơ xem xét trần nhà, được phủ lớp sơn mài đỏ tươi, với bốn cây xà nặng trịch bắc ngang. Trên trần có một đốm ố màu còn góc buồng đặt tủ trà xuất hiện vài mạng nhện giăng đầy bụi. Rõ ràng là cố huyện lệnh chẳng cầu kỳ sạch sẽ như viên chánh lục sự của mình. Rồi lão Hồng đi vào, theo sau là hai lính tuần mang theo những giá nến lớn. Địch Nhân Kiệt lệnh cho họ đặt nến trên bàn rồi đuổi hết lính ra ngoài. “Lão Hồng à, thứ duy nhất còn sót lại cho chúng ta trong này,” ông nói, “là khá nhiều sách và văn thư trên các giá. Nếu lão lần lượt chuyển qua cho ta một chồng rồi cất nó trở lại khi ta đã xem xong thì cũng không mất quá nhiều thời gian đâu!” Lão Hồng vui vẻ gật đầu và lấy một chồng sách từ giá gần nhất. Trong lúc lão dùng ống tay áo lau sạch bụi, huyện lệnh xoay ghế lại đối diện án thư rồi bắt đầu đọc qua những cuốn sách mà lão quân sư đặt trước mặt. Hơn một canh giờ đã trôi qua từ khi lão Hồng đặt trở lại chồng sách cuối cùng lên trên giá. Địch Nhân Kiệt ngả lưng ra ghế và lấy từ ống tay áo một chiếc quạt xếp. Tay vung vẩy quạt, ông nở nụ cười thỏa mãn, “Tốt lắm, lão Hồng à, giờ ta đã có được một bức tranh khá tường minh về con người nạn nhân. Ta đã liếc qua những tập thơ do chính ngài ấy sáng tác, văn phong tao nhã nhưng nội dung lại hời hợt. Đa phần là các bài thơ tình phong hoa tuyết nguyệt, dành tặng những kỹ nữ có tiếng chốn kinh kỳ hay những nơi khác mà Vương huyện lệnh đã phụng sự.” “Thưa đại nhân, chỉ mới đây lão Đường đã có vài lời úp mở,” lão Hồng xen vào, “đại loại rằng ngài cố huyện lệnh là hạng người có lối sống phong lưu. Thậm chí ngài ấy còn lưu kỹ nữ lại phòng qua đêm.” Địch Nhân Kiệt gật đầu. “Xấp văn thư bọc gấm thêu lão đưa cho ta vài phút trước,” ông nói, “không có gì ngoài những bức xuân họa. Ta có thấy một vài cuốn sách chép tay về mĩ tửu và cách nấu rượu ở nhiều vùng khác nhau, ngoài ra còn cả sách về ẩm thực nữa. Mặt khác, ngài ấy dày công sưu tầm được một bộ thơ đồ sộ của các đại thi hào thời cổ, cuốn nào cũng có nếp gấp ở góc, trang nào cũng có ghi chú và bình luận do ngài ấy tự tay viết vào. Bộ sưu tập những tác phẩm Phật giáo và Đạo giáo thần bí cũng đầy đủ không kém. Tuy nhiên, ấn bản sách hoàn chỉnh của Khổng Tử vẫn còn mới nguyên. Ta còn nhận thấy các tác phẩm khoa học được bày biện rất mạch lạc: phần lớn là các công trình quy chuẩn về y học và thuật luyện đan, vài cuốn chuyên luận cổ quý hiếm về những điều bí ẩn, những câu đố hóc búa và các dụng cụ kỹ thuật. Sự vắng bóng của các chủ đề lịch sử, thuật trị quốc và toán học rất đáng lưu ý.” Địch Nhân Kiệt xoay chiếc ghế lại rồi tiếp tục, “Ta kết luận rằng Vương huyện lệnh là một thi sĩ háo sắc và cũng là một triết gia có hứng thú với sự thần bí. Đồng thời ngài ấy cũng là người phóng túng và dễ bị cuốn vào những thú vui trần tục. Ta cũng chẳng lạ gì hạng nhân sĩ đa lạc thú đầy rẫy ngoài kia. Ngài ấy hoàn toàn không có chí tiến thủ, ưa thích cái vị trí huyện lệnh ở một nơi yên tĩnh cách xa chốn kinh kỳ phù hoa náo nhiệt, không bị quan trên nhòm ngó và tự do tự tại sắp xếp cuộc sống theo ý mình. Đó là lý do vì sao Vương đại nhân không muốn thăng quan tiến chức. Bồng Lai này đã là nơi thứ chín ngài ấy náu mình bằng cách nhậm chức huyện lệnh! Tuy nhiên, ngài ấy quả là con người thông minh với đầu óc hiếu kỳ. Niềm yêu thích những điều bí ẩn, các vấn đề hóc búa và các dụng cụ kỹ thuật cùng kinh nghiệm thực tiễn dày dạn đã giúp ngài ấy được lòng dân chúng nơi này, dù ta không cho rằng ngài ấy thực lòng tận tâm với nghĩa vụ của mình. Vương huyện lệnh ít màng đến mối ràng buộc thê tử. Vì vậy ngài ấy không tục huyền sau khi hai vị phu nhân qua đời mà hài lòng với những mối quan hệ trăng gió sớm nở tối tàn với kỹ nữ và gái lầu xanh. Chính ngài ấy đã tổng kết khá chính xác cá tính bản thân trong cái tên tự đặt cho thư phòng.” Địch Nhân Kiệt giơ quạt chỉ về phía tấm bảng khắc chữ treo trên cửa buồng. Lão Hồng không thể nén được cười khi đọc to, “Chốn ẩn dật của loài cỏ dại phiêu bạt.” “Tuy nhiên,” Địch Nhân Kiệt tiếp tục lên tiếng, “ta tìm thấy một điểm mâu thuẫn rất đáng lưu tâm.” Ông gõ nhẹ vào cuốn sổ được để riêng ra và hỏi, “Lão đã tìm thấy nó ở đâu vậy?” “Thưa, nó rơi ra sau chồng sách trên chiếc giá thấp kia,” lão Hồng đáp và giơ tay chỉ. “Trong cuốn sổ này,” Địch Nhân Kiệt nói, “cố huyện lệnh đã tự tay ghi lại một danh sách dài ngày tháng và các con số, thêm vào những trang tính toán phức tạp, nhưng không có một lời ghi chú nào cả. Ta thấy Vương đại nhân không có vẻ hứng thú với những con số. Ngài ấy đã giao lại mọi việc liên quan đến thống kê và chi tiêu cho lão Đường và các lục sự đúng không?” Lão Hồng gật đầu một cách dứt khoát. “Thưa, thế nên vừa nãy lão Đường đã giải thích rõ việc cho lão phu hiểu,” lão Hồng đáp. Địch huyện lệnh đọc lướt qua cuốn sổ, chậm rãi lắc đầu. Ông trầm ngâm nói, “Ngài ấy đã dành rất nhiều thời gian công sức cho những ghi chép này, các lỗi nhỏ nhặt được xóa đi rồi sửa lại cẩn thận. Manh mối duy nhất là những mốc thời gian, thời điểm được đề cập gần đây nhất là đúng hai tuần trăng trước.” Ông đứng dậy và cất cuốn sổ vào trong tay áo. “Có thế nào đi nữa,” ông nói, “ta sẽ xem xét nó vào thời gian rảnh, dù chẳng khẳng định chắc chắn được nó có liên can đến án mạng. Nhưng những điểm mâu thuẫn luôn đáng để ta đặc biệt lưu tâm. Đằng nào chúng ta cũng đã có được một bức chân dung rõ nét về nạn nhân. Theo các cẩm nang về việc phá án, đó chính là bước đầu tiên tiến đến việc vạch mặt hung thủ!” HỒI 5 Nhị nhân, thiết yến tửu lâu Lạ kỳ ma quái, bến tàu đứng xem “Việc đầu tiên cần làm,” Mã Vinh lên tiếng khi y rời khỏi nha phủ cùng Kiều Thái, “là kiếm thứ gì bỏ bụng cái đã. Huấn luyện bọn khốn lười biếng kia khiến đệ đói rã ruột.” “Và khát cháy họng nữa chứ!” Kiều Thái thêm vào. Họ bước vào gian điếm nhỏ đầu tiên mà mình thấy, nằm ở góc tây nam của nha phủ. Nó được đặt một cái tên quý phái: Cửu Hoa Viên. Bên trong chật kín người và đầy những âm thanh hỗn tạp. Khó khăn lắm họ mới tìm được một chỗ trống gần quầy hàng cao ở phía sau, đằng sau quầy là một nam nhân cụt một cánh tay đang đứng khuấy nồi mì to tổ chảng. Mã, Kiều hai người quan sát đám đông. Đa phần là các chưởng quỹ* đang ăn vội một bữa trước khi gấp gáp quay về tiếp đón những khách hàng đổ xô đến tiệm vào buổi tối. Bọn họ đang ngấu nghiến đồ ăn với vẻ thích thú, chỉ ngừng lại để chuyền cho nhau những vò rượu thiếc. Chưởng quỹ là chủ hiệu buôn. Kiều Thái túm lấy tay áo một tên tiểu nhị khi hắn đang vội vội vàng vàng lướt qua, tay bưng một khay đựng các bát mì. “Bốn bát!” Y nói gọn lỏn. “Và hai vò rượu lớn!” “Lát nữa!” Tên tiểu nhị ngắt lời. “Không thấy người ta đang bận sao?” Kiều Thái bật ra một tràng chửi rủa trời ơi đất hỡi. Gã cụt tay ngẩng đầu và nhìn chằm chằm vào y. Gã đặt cái muôi tre dài xuống rồi đi vòng qua quầy hàng, gương mặt ướt đẫm mồ hôi nở một nụ cười toe toét. “Ở đây chỉ có vị kia là dám chửi rủa như thế!” Gã kêu lên. “Ngọn gió nào đưa ngài đến nơi này?” “Quên cái chữ ‘ngài’ ấy đi,” Kiều Thái gắt gỏng. “Sau khi gặp họa lúc viễn chinh lên phương bắc, ta đã từ bỏ địa vị và danh tính của mình rồi. Giờ ta được gọi là Kiều Thái. Nhà ngươi không thể lấy cho bọn ta một ít thức ăn sao?” “Ngài đợi một lát,” gã hào hứng nói rồi biến vào trong bếp. Chẳng mấy chốc thì gã trở lại, theo sau là một người đàn bà mập mạp bưng cái khay đựng hai vò rượu lớn cùng một đĩa đầy ắp cá muối và rau. “Lão bản, có thế chứ!” Kiều Thái hài lòng nói. “Ngồi xuống nào, chiến hữu, để bà vợ già của ông làm thay một lần đi!” Chủ tửu điếm kéo chiếc ghế đẩu lại ngồi với bọn họ, còn bà vợ thì thế chỗ chồng ở sau quầy. Trong lúc Mã, Kiều hai người bắt đầu ăn uống, lão bản kể chuyện mình là dân địa phương, đã mua lại tửu điếm này bằng ngân lượng tích cóp sau khi bị đào thải khỏi đội quân viễn chinh ở Cao Câu Ly, giờ thì chuyện làm ăn cũng không đến nỗi nào. Gã quan sát bộ áo dài nâu của hai huynh đệ rồi thấp giọng hỏi, “Sao các ông lại làm việc trong nha phủ đó?” “Thì cũng giống như ông khuấy mì đấy thôi,” Kiều Thái đáp. “Để kiếm sống ấy mà.” Gã cụt tay dáo dác liếc nhìn xung quanh, đoạn hạ giọng nói, “Có nhiều chuyện kỳ quái đang xảy ra ở đó! Các ông không biết là hai tuần trước, bọn họ đã bóp cổ cố huyện lệnh rồi chặt ngài ấy thành từng khúc nhỏ hay sao?” “Ta tưởng ngài ấy bị đầu độc chứ!” Mã Vinh nói, hớp một hơi dài từ chén rượu. “Bọn nha lại chỉ nói thế thôi!” Lão bản thì thào. “Một nồi thịt băm, đấy là tất cả những gì còn sót lại của ngài cố huyện lệnh! Tin tôi đi, những người ở đó không tốt lành gì đâu.” “Ngài huyện lệnh tại vị là một quan nhân mẫu mực đấy,” Kiều Thái cãi. “Tôi không biết gì về ông ta cả,” gã ương ngạnh nói, “nhưng Đường Trinh Tường và Phạm Trọng, hai tên đó đều chả hiền lành gì cho cam.” “Có chuyện gì sai trái với lão già hết hơi run lẩy bẩy đó thế?” Kiều Thái kinh ngạc hỏi. “Trông lão còn chẳng thể đập nổi một con ruồi nào.” “Đừng dây vào lão già đó!” Lão bản nói bóng gió, “Ông không biết chứ lão ta… khác người lắm. Vả lại, hình như lão Đường có chuyện gì đó rất mờ ám.” “Chuyện gì cơ?” Mã Vinh hỏi. “Huyện này xảy ra nhiều việc khó hiểu hơn ông tưởng đấy, để tôi kể cho mà nghe,” gã khoát tay nói. “Là dân địa phương nên tôi quá rành rẽ! Từ thuở khai thiên lập địa nơi này đã có một vài kẻ chả giống ai rồi. Lão phụ thân từng kể cho tôi nghe vài câu chuyện.” Giọng gã nhỏ dần rồi ngừng hẳn. Gã lắc đầu với vẻ buồn bã, rồi mau mắn nốc cạn chén rượu Kiều Thái dằn đẩy qua cho gã. Mã Vinh nhún vai. “Bọn ta sẽ tự tìm hiểu,” y nói, “vậy mới thú. Còn về gã Phạm Trọng mà ông bạn nhắc đến, sau này bọn ta sẽ để tâm đến hắn. Bọn lính tuần nói rằng hắn vừa mới mất tích thì phải.” “Mong là hắn một đi không trở lại luôn!” Gã cụt tay kích động nói. “Tên côn đồ đó luôn tìm cách chiếm đoạt ngân lượng của tất cả mọi người, không từ một ai, hắn thậm chí còn tham lam hơn cả người đứng đầu vùng này. Gã bất lương đó cũng không chịu buông tha cho đám đàn bà con gái. Bên dưới cái vẻ bề ngoài đạo mạo ấy, có trời mới biết hắn đã gây ra những tội ác tày đình gì! Nhưng nhờ ngồi cùng hội cùng thuyền với lão Đường, hắn luôn được lão già ấy bao che cho.” “Chà,” Kiều Thái chen vào, “những ngày huy hoàng của gã Phạm Trọng đó đã chấm dứt, giờ đây hắn sẽ phải làm việc dưới trướng của ta cùng bằng hữu đây. Nhưng chắc hắn cũng đã vơ vét được kha khá của đút lót rồi. Ta nghe nói hắn có một nông trang nhỏ phía tây trấn.” “Hắn thừa hưởng nơi ấy từ một người họ hàng xa vào năm ngoái,” lão bản nói. “Nông trang đó cũng chẳng có gì nhiều đâu, chỉ là một chốn hẻo lánh bé tẹo ở gần ngôi miếu bỏ hoang. À, nếu hắn ta mất tích ở đó, chắc chắn là bị bọn họ bắt rồi.” “Ông không thể nói thẳng ra một lần được à?” Mã Vinh mất kiên nhẫn la lên. “Bọn họ là ai kia chứ?” Lão bản quay sang quát tiểu nhị đặt hai bát mì lớn lên trên bàn, rồi thấp giọng thều thào tiếp. “Có một ngôi miếu cổ ở phía tây nông trang của gã Phạm Trọng, nơi giao nhau giữa con đường thôn với đường cái. Vào chín năm trước, bốn nhà sư đã ngụ lại nơi ấy, họ vốn là người của Bạch Vân tự ở ngoại ô Đông môn. Một buổi sáng nọ, người ta phát hiện cả bốn người đều đã chết, cổ họng rách từ tai này qua tai kia! Không có ai thế chỗ bọn họ nên ngôi miếu bị bỏ hoang từ dạo ấy. Nhưng hồn ma của bốn người vẫn còn lởn vởn trong miếu. Các nông phu từng nhìn thấy ánh lửa ma trơi ở đó vào buổi tối và ai ai cũng tránh xa nơi đó. Chỉ mới tuần trước, một đứa cháu họ của tôi có việc phải đi ngang qua đó lúc đêm khuya và nhìn thấy một nhà sư không đầu đang lượn lờ dưới ánh trăng. Thằng bé trông rõ ông ta xách theo một thủ cấp dưới cánh tay.” “Trời ơi!” Kiều Thái la toáng lên. “Dừng ngay những câu chuyện rùng rợn ấy đi! Làm sao ta nuốt nổi sợi mì khi mà bọn họ cứ hiện ra ở dưới đáy bát đây?” Mã Vinh cười ngặt nghẽo, rồi bọn họ bắt đầu chuyên tâm ăn mì. Khi họ húp sạch bát không còn chút cặn, Kiều Thái đứng dậy và mò mẫm trong ống tay áo mình. Lão bản lập tức đặt tay lên cánh tay y và kêu lên, “Quan khách đừng bao giờ làm vậy! Tửu điếm và tất cả mọi người trong này đều mắc nợ các vị. Nếu không có các vị, bọn kỵ binh Cao Câu Ly kia đã…” “Thôi được rồi!” Kiều Thái ngắt lời gã. “Đa tạ tấm thịnh tình của ông. Nhưng nếu ông muốn thấy bọn này quay lại thì lần tới phải để bọn ta chi trả ngân lượng đấy!” Gã cụt tay mạnh mẽ phản đối, nhưng Kiều Thái vỗ vỗ vai hắn trước khi họ rời đi. Ra ngoài điếm, Kiều Thái nói với Mã Vinh, “Mã đệ, ăn uống no nê rồi, tốt hơn chúng ta nên xắn tay vào việc thôi! Làm thế nào để khảo sát một trấn cho thông suốt đây?” Mã Vinh nhìn màn sương mù dày đặc rồi gãi đầu đáp, “Kiều huynh, đệ cho rằng chúng ta chỉ có thể cuốc bộ mà thôi!” Họ tản bộ dọc theo con phố, thận trọng đi sát mặt tiền các cửa hiệu đã lên đèn. Mặc cho sương mù, nơi này vẫn có khá nhiều khách bộ hành qua lại. Mã, Kiều hai người thơ thẩn ngắm nhìn các món hàng địa phương được bày bán và lang thang đây đó hỏi thăm giá cả. Đến cổng Võ miếu, họ đi vào bên trong, bỏ vài đồng mua một bó hương trầm để thắp trước bệ thờ, cầu khấn cho linh hồn của các tử sĩ đã ngã xuống trong chiến tranh. Khi đang tản bộ tiếp về phía nam, Mã Vinh hỏi, “Huynh có biết tại sao chúng ta cứ suốt ngày phải giao tranh bên ngoài biên giới để chống lại bọn man di ở đó không? Sao không mặc xác lũ rợ đó tự sinh tự diệt đi?” “Mã đệ à, đệ không hiểu gì cả,” Kiều Thái ra vẻ ta đây đáp. “Nhiệm vụ của chúng ta là giải thoát bọn chúng khỏi đời sống man rợ và dạy cho chúng biết lối sống có văn hóa như chúng ta!” “Thế à,” Mã Vinh nói, “bọn Tháp Tháp Nhĩ tộc ấy cũng hiểu chuyện đó chứ. Huynh có biết tại sao chúng không đòi hỏi tân nương của mình phải là trinh nữ khi thành hôn không? Bởi vì, chiến hữu à, chúng chiếu cố đến thực tế là các thiếu nữ Tháp Tháp Nhĩ tộc đã luôn ngồi trên lưng ngựa từ thuở nhỏ! Nhưng đừng để các cô nương của chúng ta biết chuyện đó nhé!” “Đệ hãy ngừng ngay mấy cái chuyện ba xàm đó đi!” Kiều Thái cáu kỉnh gắt lên. “Chúng ta lạc đường rồi đây này.” Bọn họ nhận ra mình đang ở một nơi có vẻ là khu dân cư. Con phố được lát đá phiến bằng phẳng và hai bên là những bức tường cao của nhiều khu nhà rộng lớn. Không gian vô cùng tĩnh lặng nhờ làn sương mù che lấp mọi âm thanh. “Đằng trước là một cây cầu phải không?” Mã Vinh hỏi. “Chắc hẳn đó là một con kênh băng qua nửa phía nam của trấn. Nếu đi xuôi theo con kênh này về hướng tây, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ quay lại con phố bán buôn vừa nãy thôi.” Họ băng qua cầu và bắt đầu đi bộ dọc theo bờ kênh. Bất chợt Mã Vinh đặt tay lên cánh tay Kiều Thái, lẳng lặng chỉ về phía bờ đối diện mờ ảo trong làn sương. Kiều Thái căng mắt ra nhìn. Bên đó có một nhóm người trông có vẻ đang tiến lại bờ kênh, khiêng trên vai một cái cáng nhỏ không có mui che. Dưới ánh trăng ảm đạm chiếu xuyên qua làn sương, y trông thấy bóng người tọa trên cáng là một nam tử đầu trần đang ngồi duỗi chân, cánh tay khoanh trước ngực. Dường như toàn thân nam nhân ấy đều bị quấn vải trắng. “Gã kỳ quái đó là ai thế?” Kiều Thái hỏi, lòng đầy kinh ngạc. “Có trời mới biết,” Mã Vinh càu nhàu. “Nhìn kìa, chúng đang dừng lại.” Một cơn gió mạnh thổi qua xóa tan lớp sương mù. Mã, Kiều hai người cùng trông thấy những kẻ đó hạ cáng xuống. Bất chợt hai tên đứng sau nâng cây gậy lớn lên đánh mạnh xuống đầu và lưng nam tử đang ngồi. Rồi sương mù lại bao phủ dày đặc, bọn họ chỉ nghe thấy tiếng nước bắn tung tóe. Mã Vinh cất tiếng chửi rủa. “Mau trở lại cầu!” Y rít lên. Bọn họ quay người lại và gấp rút chạy dọc theo dòng kênh. Tuy nhiên, mắt không trông rõ đường còn mặt đất dưới chân thì trơn trượt, phải mất một lúc họ mới đến được cây cầu. Hai người mau chóng băng qua cầu, thận trọng bước xuôi theo bờ kênh đối diện nhưng chỉ thấy khung cảnh xung quanh vắng lặng không một bóng người. Sau đó, khi đi bộ qua lại dọc theo quãng đường mà họ nghĩ rằng đã chứng kiến cuộc tấn công, Mã Vinh bất chợt cúi xuống và chạm tay xuống đất. “Có những vết lún sâu ở đây,” y nói. “Đây chắc chắn là nơi mà chúng đã ném gã xấu số kia xuống dòng kênh.” Lúc này sương mù đã tan bớt đi chút ít, họ có thể trông thấy lớp sình lầy cách mình vài bước chân. Mã Vinh cởi trần, giao lại áo cho Kiều Thái, tháo giày rồi nhảy ào xuống kênh. Nước dâng đến thắt lưng y. “Hôi quá!” Y gắt gỏng. “Đệ chẳng nhìn thấy xác chết nào cả.” Y lội ra xa hơn rồi quay trở lại bờ, chân chạm vào lớp đất và bùn dày đặc ở dưới đáy kênh. “Tốn công vô ích,” y càu nhàu vẻ chán ghét. “Chắc hẳn chúng ta nhầm chỗ rồi, ở đây không có gì cả ngoài một vài cục lớn đất sét hay đá tảng, cả giấy vụn vón cục nữa. Gớm quá! Kéo đệ lên đi!” Trời bắt đầu mưa. “Vận may của chúng ta chỉ còn thiếu thứ này nữa thôi!” Kiều Thái vừa nói vừa rủa. Ngoái trông hàng hiên phía sau cửa hậu của một khu nhà tăm tối phía sau lưng, Kiều Thái cầm theo y phục và giày của Mã Vinh đến trú mưa ở đó. Mã Vinh vẫn đứng dưới mưa cho đến khi cơ thể được nước mưa gột sạch. Tiếp đó, y cùng Kiều Thái trú chân dưới hàng hiên và dùng khăn quàng cổ lau khô người. Khi trời tạnh, bọn họ lại bắt đầu lên đường dọc theo dòng kênh về hướng đông. Sương mù mỏng dần, hai người trông thấy ở bên trái một hàng dài các bức tường hậu cao ngất của những ngôi nhà bề thế. “Người huynh đệ à, chúng ta hành sự chưa được tốt lắm,” Kiều Thái rầu rĩ nói. “Các quan viên lão luyện ắt hẳn sẽ tóm gọn những gã đó.” “Chẳng quan viên lão luyện nào có thể mọc cánh mà bay qua con kênh đó được!” Mã Vinh gắt gỏng đáp. “Cái gã bị băng kín người ấy quả là đã tạo ra một cảnh tượng kì quái. Và nó xứng đáng đứng đầu trong những chuyện tào lao tếu táo mà gã bằng hữu cụt tay của huynh đã kể. Đi tìm một nơi uống tiếp thôi!” Mã, Kiều hai người tiếp tục tản bộ cho đến khi trông thấy qua màn sương ẩm ánh sáng mờ ảo từ chiếc đèn lồng màu sắc, vốn dùng để đánh dấu lối vào bên hông của một tửu lâu. Bọn họ đi vòng ra đằng trước. Bước vào gian phòng chờ được trang hoàng lộng lẫy ở lầu trệt, hai người quắc mắt với tên tiểu nhị lếu láo dám lườm lườm bộ y phục ướt của họ với vẻ oán trách, rồi bước lên cầu thang rộng lớn. Khi đẩy cánh cửa đôi được chạm trổ tinh xảo ra, họ trông thấy một phòng ăn rộng rãi tràn ngập những âm thanh ồn ào huyên náo. HỒI 6 Say tửu, cung trăng, thơ tình ái Hồng nhan, kỹ viện, Kiều Thái vương Ngó thấy toàn những người ăn vận tao nhã, dáng vẻ điềm tĩnh đang vây quanh những chiếc bàn cẩm thạch, Mã, Kiều hai người nhận ra tửu lâu này quá đắt so với hầu bao của mình. “Chúng ta đi chỗ khác thôi,” Mã Vinh càu nhàu. Lúc y xoay người định rời đi, một nam nhân gầy gò đang ngồi một mình ở bàn gần cửa ra vào vội đứng bật dậy khỏi ghế. Gã cất giọng khản đặc, “Các vị bằng hữu, xin hãy ngồi xuống luận tửu với ta vài chén! Uống một mình buồn lắm.” Gã nhìn về phía họ bằng con mắt ướt át bên dưới hàng chân mày cong vút kỳ quái, khiến cho ánh nhìn của gã luôn có vẻ dò xét. Bọn họ để ý thấy gã ta vận một bộ áo dài may từ thứ tơ lụa quý màu chàm và đội một chiếc mũ chỏm nhung đen. Tuy nhiên, cổ áo lại dính vài vết bẩn, còn mái tóc rối bù thì lộ cả ra khỏi mũ. Gã có một gương mặt húp híp, sống mũi thuôn dài với chóp mũi đỏ bừng. “Gã đã có lời mời, chúng ta cũng nên bầu bạn cùng gã một lát,” Kiều Thái nói. “Huynh không muốn cái tên quê mùa dưới lầu cho là chúng ta bị đá ra ngoài đâu!” Mã, Kiều hai người ngồi xuống đối diện với chủ xị, gã lập tức gọi ngay hai vò rượu lớn. “Ngươi làm gì để kiếm sống?” Mã Vinh hỏi lúc tiểu nhị đã đi khuất. “Ta tên Bốc Khải, làm cối kế cho thuyền chủ Diệp Thủ Bôn,” nam nhân mảnh khảnh đáp lời. Gã nốc cạn trong một hơi rồi đầy tự hào nói thêm, “Ngoài ra ta còn là một thi nhân có tiếng đấy.” “Ngươi đã mời rượu thì bọn ta cũng không khách khí làm gì.” Mã Vinh nói giọng kẻ cả. Y nâng vò rượu lên, ngửa đầu ra sau rồi chậm rãi trút nửa vò thẳng xuống cổ họng mình. Kiều Thái cũng noi gương huynh đệ. Bốc Khải thưởng thức màn trình diễn đó một cách hào hứng. “Thật đáng khâm phục!” Gã gật gù nói. “Ở chốn đặc biệt này, khách nhân dùng chén theo quy củ, nhưng ta lại cho rằng cách uống của hai vị mới thật là hào sảng.” Mã Vinh quẹt miệng cùng một tiếng thở dài khoái trá rồi đáp, “Chỉ là đúng dịp bọn ta cần một ngụm dài mà thôi.” Bốc Khải châm đầy chén của mình rồi nói, “Kể cho ta nghe một câu chuyện hay ho xem nào! Các vị sống lang bạt giang hồ chắc đã trải qua một cuộc đời ba nổi bảy chìm lắm.” “Sống lang bạt giang hồ ư?” Mã Vinh quát lên đầy phẫn nộ. “Ngươi nên cẩn trọng lời ăn tiếng nói, bọn ta là quan viên của nha phủ đấy!” Bốc Khải nhướn đôi mày hình cung cao hơn. Gã hét lên với tiểu nhị, “Đem một vò rượu nữa ra đây, vò lớn nhất ấy!” Đoạn gã tiếp tục, “Rồi rồi, vậy ra hai vị là người mà ngài tân huyện lệnh đã mang theo hôm nay. Nhưng chắc ngài ấy mới thâu nạp cả hai mới đây thôi, bởi các vị vẫn chưa có được cái dáng vẻ dương dương tự đắc của mấy tên quan viên quèn.” “Chắc ngươi biết ngài cố huyện lệnh chứ?” Kiều Thái hỏi. “Người ta đồn rằng ngài ấy cũng là một thi nhân đấy.” “Ta hầu như không rõ,” Bốc Khải đáp. “Các vị biết đấy, ta mới chuyển đến vùng này.” Gã chợt đặt chén rượu xuống và kêu lên đầy vui sướng, “Đây là dòng thơ cuối ta đang cố nặn ra!” Nhìn Mã, Kiều với vẻ trịnh trọng, gã nói thêm, “Dòng thơ này hoàn tất một tuyệt phẩm thi ca dâng tặng cho ánh trăng. Hay là ta ngâm cho các vị nghe nhé?” “Không!” Mã Vinh khiếp đảm nói. “Vậy ta ca nó lên nhé?” Bốc Khải hỏi đầy mong chờ. “Các vị biết đấy, ta có một chất giọng khá tốt, những quan khách khác ở đây sẽ rất trân trọng nó.” “Không!” Mã Vinh và Kiều Thái đồng thanh phản đối. Trông thấy vẻ tổn thương trong mắt nam nhân kia, Kiều Thái lấp liếm, “Bọn ta chỉ là không chuộng thơ ca cho lắm, dưới bất kể hình thức hay thể loại nào.” “Tiếc thật!” Bốc Khải ca thán. “Hai vị là Phật tử chăng?” “Cái gã này đang cố sinh sự đấy hử?” Mã Vinh ngờ vực hỏi Kiều Thái. “Gã say rồi,” Kiều Thái lãnh đạm đáp. Rồi y nói với Bốc Khải, “Đừng nói ngươi là Phật tử nhé!” “Một kẻ sùng đạo thành kính,” Bốc Khải nghiêm túc đáp. “Ta thường viếng thăm Bạch Vân tự. Đại sư trụ trì ở đó là một bậc thánh đạo và sư thầy Huệ Bản giảng mấy bài thuyết giáo nhiệm màu. Ngày tới…” “Nghe này,” Kiều Thái ngắt lời, “chúng ta sẽ uống nữa hay thôi?” Bốc Khải trao cho y cái nhìn trách cứ. Gã đứng lên với một tiếng thở dài thườn thượt và lên tiếng với vẻ bất đắc dĩ, “Hãy thưởng rượu cùng các nàng kỹ nữ!” “Đến giờ ngươi mới nói được một câu ra hồn!” Mã Vinh nói với vẻ hăng hái. “Ngươi biết chỗ nào ngon lành chứ?” “Ngựa mà không biết chuồng của nó à?” Bốc Khải khụt khịt đáp. Gã thanh toán ngân lượng rồi bọn họ rời khỏi tửu lâu. Làn sương mù dày đặc vẫn giăng đầy trên phố. Bốc Khải dẫn Mã, Kiều hai người đến bờ sông nằm sau tửu lâu rồi dùng ngón tay huýt gió. Chiếc đèn lồng hình vòm treo trên mũi một chiếc thuyền hoa nhỏ hiện ra trong màn sương. Bốc Khải bước vào trong và nói với người chèo thuyền, “Đến chỗ con thuyền.” “Này!” Mã Vinh quát. “Không phải ngươi nhắc đến mấy nàng kỹ nữ sao?” “Như nhau, như nhau cả thôi!” Bốc Khải ung dung đáp lời. “Bước vào trong đi.” Y nói thêm với người chèo thuyền, “Đi đường tắt đấy, các quan gia đây đang rất vội.” Gã trườn vào dưới mui thuyền thấp, Mã Vinh cùng Kiều Thái ngồi xổm xuống bên cạnh. Bọn họ lướt về phía trước xuyên qua màn sương, chỉ nghe thấy duy nhất tiếng vẩy nước của mái chèo. Một hồi sau, tiếng động này ngừng lại, con thuyền trôi tiếp một cách tĩnh lặng. Người chèo thuyền dập tắt đèn lồng, rồi con thuyền nằm yên. Mã Vinh đặt bàn tay nặng trình trịch của mình lên vai Bốc Khải. “Nếu đây là một cái bẫy,” y bất chợt lên tiếng, “ta sẽ bẻ gãy cổ ngươi đấy.” “Đừng có mà nói nhảm!” Bốc Khải gắt gỏng quát. Tiếng sắt thép loảng xoảng vang lên, rồi con thuyền lại tiếp tục xuôi dòng. “Chúng ta đang luồn qua bên dưới thuỷ môn phía đông,” Bốc Khải giải thích. “Một phần lưới sắt bị hỏng. Nhưng đừng báo điều đó cho đại nhân của các vị đấy!” Chẳng mấy chốc, nước gỗ đen nhánh của một dãy thuyền hoa lớn nổi lên trước mặt họ. “Thuyền thứ hai, như mọi khi,” Bốc Khải ra lệnh cho người chèo thuyền. Lúc thuyền của họ xuôi dọc theo cầu tàu, Bốc Khải đưa cho nam nhân vài đồng rồi leo lên mạn thuyền, theo sau là Mã Vinh và Kiều Thái. Gã cẩn trọng đi chầm chậm qua mấy cái bàn nhỏ và ghế đẩu đặt lộn xộn trên sàn, rồi gõ cửa khoang thuyền. Một nữ nhân mập mạp trong bộ áo dài bẩn thỉu may từ tơ lụa đen vội mở cửa. Mụ cười toe toét, khoe ra một hàm răng đen bóng. “Đại nhân Bốc Khải, mừng ngài trở lại!” Mụ đon đả chào. “Mời các lão gia xuống lầu dưới.” Họ xuống qua một cái thang gỗ dốc đứng và nhận ra mình đang ở trong một khoang thuyền rộng lớn, được chiếu sáng lờ mờ bởi hai chiếc đèn lồng ống màu mè treo trên xà nhà. Ba người ngồi xuống cái bàn lớn chiếm gần hết không gian khoang thuyền. Mụ đàn bà mập mạp vỗ tay vài cái, một gã béo lùn với khuôn mặt thô lỗ liền tiến vào, tay bưng một cái khay đựng vài vò rượu. Trong lúc tên hầu châm tửu, Bốc Khải hỏi mụ đàn bà, “Vị hảo hữu kiêm đồng nghiệp của ta đâu rồi?” “Đại nhân Kim Xương chưa đến ạ,” mụ đáp. “Nhưng tiểu nhân sẽ lo liệu không để cho lão gia nhàm chán đâu!” Mụ ta ra hiệu cho tên tiểu nhị mở cánh cửa ở phía sau và bốn ả kỹ nữ tiến vào, trên người chỉ mặc độc xiêm y mùa hè mỏng manh. Bốc Khải chào đón bọn kỹ nữ một cách nhiệt tình. Kéo xuống mỗi bên một nàng hầu, gã nói, “Ta lấy hai ả này! Không như các vị nghĩ đâu,” y vội thanh minh với Mã Vinh và Kiều Thái, “chỉ để đảm bảo rằng chén rượu của ta sẽ không bao giờ cạn.” Mã Vinh ra hiệu cho một cô nương thân hình đầy đặn với gương mặt tròn trĩnh khả ái đến ngồi cạnh mình, còn Kiều Thái thì bắt đầu tán gẫu với cô nương thứ tư. Y thấy rằng nữ nhân này dung mạo rất xinh tươi nhưng có vẻ ủ ê buồn bã, chỉ đáp lời khi được hỏi đến. Tên ả là Ngọc Châu, vốn là người Cao Câu Ly nhưng nói tiếng Hán rất thạo. “Quê hương của nàng là một xứ sở xinh đẹp,” Kiều Thái cảm thán khi vòng tay quanh eo kỹ nữ. “Ta đã từng ở đó hồi binh qua.” Ả đẩy Kiều Thái ra và trao cho y một cái nhìn khinh khỉnh, Y nhận ra mình đã phạm phải một sai lầm tồi tệ bèn nói chữa, “Người dân quê hương nàng là những chiến binh xuất sắc và quả cảm nhưng đội quân của ta lại vượt trội về quân số.” Ngọc Châu vẫn không đếm xỉa đến y. “Con tiện nhân kia, mày không biết cười biết nói hay sao?” Mụ đàn bà béo ú cáu kỉnh. “Ma ma cứ để kệ con,” ả chậm rãi nói với mụ. “Chẳng phải lão gia đây không kêu ca gì hay sao?” Mụ đàn bà đứng dậy, giơ tay tát Ngọc Châu một cái rồi rít lên, “Con tiện nhân thối tha này, tao sẽ dạy cho mày biết cách hành xử!” Kiều Thái thô bạo đẩy lưng mụ ta ra. Y gầm gừ, “Bỏ tay của ngươi ra khỏi người cô nương này!” “Chúng ta đi lên boong thuyền thôi!” Bốc Khải la toáng lên. “Từ tận đáy lòng, ta cảm nhận được mặt trăng đã lên! Kim Xương sẽ đến đây ngay thôi.” “Thiếp sẽ ở lại đây,” kỹ nữ Cao Câu Ly nói với Kiều Thái. “Tùy ý nàng,” y đáp rồi đi theo những người khác lên boong thuyền. Ánh trăng ảm đạm soi rọi dãy sà lan neo đậu dọc tường thành. Bọn họ phóng tầm mắt qua mặt nước đục ngầu và lờ mờ trông thấy bờ đối diện. Mã Vinh ngồi xuống trên một chiếc ghế đẩu thấp và kéo ả kỹ nữ đầy đặn ngồi lên đùi mình. Bốc Khải đẩy hai ả kia qua cho Kiều Thái. “Giữ các cô nương vui vẻ nhé,” gã nói. “Tâm hồn ta giờ đang đặt cả vào những thứ cao quý hơn.” Gã vẫn đứng, chắp tay sau lưng, ngước nhìn vầng trăng với vẻ ngây ngất. Bất chợt gã nói, “Bởi vì tất cả các vị vẫn luôn yêu cầu, giờ ta sẽ ca cho các vị nghe bài thơ mới của mình.” Vươn chiếc cổ khẳng khiu, gã cất tiếng với một chất giọng the thé lanh lảnh. “Người bằng hữu vô song của ca vũ, Bạn của niềm vui, che phủ nỗi sầu, Ánh trăng ơi, trăng nhiệm màu dát bạc…” Gã dừng lại để thở, rồi chợt hạ thấp đầu xuống và lắng tai nghe. Liếc nhanh mọi người trên boong, gã cáu kỉnh nói, “Ta nghe thấy một tiếng ồn khó chịu!” “Ta cũng vậy!” Mã Vinh nói. “Trời đất thiên địa ơi, đừng có cất lên những âm thanh khủng khiếp kia nữa. Ngươi không thấy là ta đang trò chuyện nghiêm túc với cô nương này ư?” “Ta đang nói đến những tiếng động từ bên dưới,” Bốc Khải đáp với vẻ bướng bỉnh. “Ta đoán chừng cô nương của bằng hữu ngươi đang nhận một trận đòn phạt nhẹ nhàng đấy.” Khi gã im tiếng, bọn họ nghe thấy âm thanh của trận đòn và tiếng kêu rên đứt quãng từ bên dưới. Kiều Thái nhảy dựng lên và lao xuống dưới, Mã Vinh theo sát gót y. Kỹ nữ Cao Câu Ly nằm đơ người ở trên bàn, bị một tên tiểu nhị giữ chặt tay, tên còn lại thì giữ chân. Mụ đàn bà béo đang dùng roi mây quất lên hông cô nương ấy. Kiều Thái hạ gục tên tiểu nhị bằng một cú tấn thủ trời giáng vào quai hàm hắn. Tên kia buông chân kỹ nữ và rút ra một thanh chủy thủ* từ thắt lưng của mình. Kiều Thái phóng qua bàn, đẩy mụ đàn bà kia đập lưng vào tường, nắm lấy cổ tay tên cầm chủy thủ và vặn nhanh như chớp. Hắn ngã ngửa ra sau với tiếng kêu la đau đớn, thanh chủy thủ lạch cạch rơi xuống sàn. Ngọc Châu tự lăn ra khỏi bàn, điên cuồng giật miếng giẻ bẩn khỏi miệng mình. Kiều Thái giúp cô nương đứng dậy và giải thoát ả khỏi miếng giẻ. Tên còn lại cúi người xuống định dùng tay trái nhặt thanh chủy thủ, nhưng Mã Vinh đã cho hắn một cú đá vào xương sườn khiến hắn phải gập người lại bay vào trong góc. Ngọc Châu đang nôn khan dữ dội bỗng bất chợt nôn thốc nôn tháo. Chủy thủ là một loại kiếm ngắn hoặc dao găm. “Một gia đình be bé, một hạnh phúc nho nhỏ!” Bốc Khải vẫn cảm thán từ phía trên thang. “Đi triệu tập bọn lâu la ở thuyền bên cạnh!” Mụ đàn bà béo ú hổn hển ra lệnh cho tên tiểu nhị đang lồm cồm bò dậy. “Kêu tất cả các tên khốn lại đây hết cho ta!” Mã Vinh hét lên đầy phấn khích. Y bẻ gãy chân bàn để làm gậy. “Từ từ, bà dì à, từ từ đã!” Bốc Khải gọi to. “Tốt nhất là mụ nên cẩn trọng. Hai vị này là quan viên nha phủ đấy.” Mụ đàn bà dần trở nên tím tái, vội vàng ra hiệu cho tên tiểu nhị kia quay trở lại. Quỳ xuống trước mặt Kiều Thái, mụ rên rỉ, “Quan gia, tiện nhân cầu xin quan gia, tiện nhân chỉ muốn dạy cho đứa tiện nữ biết cách cư xử với quan gia mà thôi!” “Ta đã bảo mụ bỏ bàn tay dơ bẩn của mình ra khỏi người nàng ấy cơ mà!” Kiều Thái cáu kỉnh gắt. Y đưa khăn quàng cổ của mình cho nữ nhân đang đứng run rẩy để ả lau mặt. “Kiều huynh hãy an ủi nàng ấy một chút đi.” Mã Vinh khuyên nhủ. “Đệ sẽ cắm thanh chủy thủ đó lên chân gã ta một lần nữa.” Ngọc Châu nhặt áo choàng lên rồi bước đến cánh cửa phía sau. Kiều Thái theo chân ả đi vào một hành lang hẹp. Nữ nhân mở một trong số những cánh cửa nằm dọc theo hành lang, ra hiệu cho Kiều Thái đi vào trong trước rồi bước theo sau. Kiều Thái thấy khoang thuyền này rất nhỏ với một chiếc giường kê bên dưới ô cửa sổ mạn sườn. Những món đồ gỗ khác chỉ gồm một bàn trang điểm nhỏ cùng chiếc ghế đẩu bằng tre lung lay sắp gãy dựng bên cạnh, còn có một rương quần áo lớn bọc da đỏ dựa vào vách tường đối diện. Kiều Thái ngồi xuống trên chiếc rương quần áo và đợi Ngọc Châu đi vào. Lúc nữ nhân lẳng lặng quẳng xiêm y lên trên giường, Kiều Thái lúng túng nói, “Ta xin lỗi, tất cả là lỗi của ta.” “Không sao cả,” kỹ nữ hờ hững đáp, khom người trên giường rồi lấy ra một chiếc hộp tròn nhỏ từ khung cửa sổ. Kiều Thái không thể rời mắt khỏi thân hình quyến rũ ấy. “Nàng nên mặc y phục chỉnh tề vào đi,” y gằn giọng nói. “Ở trong này nóng quá,” Ngọc Châu đáp với giọng ủ rũ, hai tay mở hộp và bôi thuốc mỡ lên những lằn roi quanh hông mình. “Nhìn xem,” nữ nhân chợt nói, “may mà chàng tới vừa kịp lúc! Da thịt thiếp vẫn chưa bị rách.” “Nàng làm ơn mặc y phục vào được không?” Giọng Kiều Thái khàn khàn. “Thiếp tưởng rằng chàng hứng thú muốn biết chứ,” kỹ nữ điềm tĩnh nói. “Chàng tự nhận rằng đó là lỗi của mình, không phải sao?” Ả gấp chiếc áo choàng lại, đặt nó trên ghế đẩu trước cẩn thận ngồi xuống và bắt đầu chỉnh trang lại mái tóc. Kiều Thái ngắm nhìn tấm lưng đẹp chuẩn mực của nữ nhân. Y tức giận tự nhủ rằng quấy rầy cô nương kia vào lúc này thì thật là hèn hạ. Rồi y trông thấy bộ ngực đầy đặn săn chắc phản chiếu trong gương. Y nuốt nước miếng và tuyệt vọng kêu lên, “Đừng làm thế nữa! Thật là quá sức chịu đựng của bất kỳ nam nhân nào!” Ngọc Châu quay đầu lại nhìn y đầy kinh ngạc. Rồi ả nhún đôi bờ vai tròn trịa của mình, rời ghế rồi ngồi xuống trên chiếc giường đối diện với Kiều Thái. Cuộc gặp gỡ ở trên thuyền hoa “Có thật chàng đến từ nha phủ không?” Kỹ nữ bất chợt hỏi. “Chàng biết đấy, mấy khách nhân đến nơi này thường hay ba hoa lắm.” Khoan khoái vì đề tài đã chuyển hướng, Kiều Thái kéo một văn tự được gấp gọn từ trong giày ra. Kỹ nữ chùi sạch tay vào tóc rồi nhận lấy nó. “Thiếp không biết chữ,” nữ nhân thú nhận, “nhưng thiếp có đôi mắt tinh tường!” Ngọc Châu vặn hông lại và vươn tay xuống đằng sau chiếc giường, lấy ra một cái gói dẹt hình vuông phẳng lì được bọc kín trong lớp giấy xám xịt. Ả ngồi thẳng người dậy và đối chiếu con dấu trên giấy thông hành của Kiều Thái với con dấu được đóng trên những nếp gấp của giấy bọc. Trả lại giấy thông hành lại cho y, nữ nhân reo lên, “Ra là chàng nói thật! Đó là cùng một con dấu.” Kỹ nữ trầm ngâm nhìn thẳng vào Kiều Thái, chậm rãi mơn trớn đùi mình. “Làm sao mà nàng có được cái gói có con dấu của nha phủ?” Kiều Thái tò mò thắc mắc. “Nhìn xem, chàng đã để ý đến thiếp rồi kìa,” ả bĩu môi nũng nịu. “Chàng là một tay bắt trộm chân chính phải không?” Kiều Thái siết chặt hai nắm tay. “Nhìn đây, cô nương!” Y thốt lên. “Nàng mới vừa bị thương, đúng chứ? Nàng không cho rằng ta rất hèn hạ khi muốn ăn nằm với nàng ngay lúc này chứ, hử?” Kỹ nữ liếc trộm y, ngáp một cái rồi chậm rãi đáp, “Thiếp không cho là thế đâu.” Kiều Thái vội vàng đứng dậy. Khi trở lại khoang chính, y phát hiện Bốc Khải đang ngồi tại bàn, đầu gối lên cánh tay, miệng ngáy như sấm. Mụ đàn bà mập mạp ngồi đối diện với gã, ngắm nhìn chén rượu với vẻ rầu rĩ. Kiều Thái thanh toán ngân lượng với mụ và cảnh cáo rằng mụ sẽ gặp rắc rối to với y nếu còn ngược đãi thiếu nữ Cao Câu Ly một lần nữa. “Thưa quan gia, đứa tiện nữ đó chỉ là một nô lệ chiến tranh và tiểu nhân đã mua ả từ triều đình theo cách hợp pháp,” mụ đáp gay gắt. Đoạn mụ dịu giọng với vẻ lấy lòng, “Nhưng tất nhiên lời nói của quan gia cũng là vương pháp đối với tiểu nhân ạ.” Mã Vinh bước vào, trông có vẻ thỏa mãn. “Xét cho cùng, nơi này là một chốn khá dễ chịu,” y nói, “và cô nương tròn trịa kia quả là thượng đẳng!” “Bẩm, tiểu nhân mong sẽ sớm kiếm được kỹ nữ tốt hơn cho quan gia!” mụ đàn bà hăm hở nói. “Có một cô nương mới trên chiếc thuyền hoa thứ năm, dung mạo như hoa như ngọc, còn được giáo dưỡng tử tế nữa. Chỉ là lúc này ả đang được giữ riêng lại cho một vị đại nhân nào đó, nhưng mà những việc ấy không kéo dài mãi đâu, như quan gia biết đấy! Có lẽ trong một hoặc hai tuần…” “Tốt lắm!” Mã Vinh hét lên. “Bọn ta sẽ quay lại. Nhưng bảo mấy gã của mụ đừng có mà vung dao vào bọn ta, điều đó làm bọn ta không vui đâu. Mà khi mất vui thì bọn ta rất có thể sẽ hành xử lỗ mãng đấy.” Y lay vai Bốc Khải và hét vào lỗ tai gã, “Dậy thôi, thi nhân nửa mùa! Gần nửa đêm canh ba rồi, về nhà đi thôi!” Bốc Khải ngẩng lên và trao cho hai người cái nhìn hằn học, “Cả hai ngươi đều là những kẻ phàm phu tục tử,” gã nói vẻ ngạo mạn. “Không đời nào các ngươi hiểu được tâm hồn cao quý của ta đâu. Ta muốn ở đây chờ hảo bằng hữu Kim Xương của mình. Bầu bạn với các ngươi khiến ta ghê tởm, các ngươi chỉ nghĩ đến việc chè chén và gian dâm mà thôi. Đi đi, ta khinh thường các ngươi!” Mã Vinh cười rống lên. Y đẩy mũ Bốc Khải cụp xuống che mắt gã rồi cùng với Kiều Thái huýt gió gọi thuyền. HỒI 7 Báo án hộp xưa, Địch Nhân Kiệt thấu Án tra đêm tử, Địch giấu mình Lúc Mã Vinh cùng Kiều Thái trở về nha phủ, họ trông thấy ánh đèn trong thư phòng của Địch huyện lệnh. Bọn họ nhận thấy ông đang đóng cửa hội ý kín với Hồng quân sư, trên án thư chất chồng các văn thư và giấy tờ. Huyện lệnh ra hiệu cho hai người ngồi xuống mấy chiếc ghế đẩu trước án thư rồi nói, “Tối nay ta đã cùng lão Hồng tra xét thư phòng của cố huyện lệnh nhưng không thể tra được trà đã bị hạ độc như thế nào. Do bếp pha trà nằm trước cửa sổ nên lão Hồng nghĩ rằng kẻ sát nhân đã đẩy một cái ống thổi mỏng xuyên qua ô giấy của khung cửa sổ từ bên ngoài, rồi theo cách đó thổi chất độc dưới dạng bột vào trong cái nồi đun nước. Tuy nhiên, lúc trở lại thư phòng để xác minh giả thuyết này, bọn ta lại phát hiện phía ngoài cửa sổ là những tấm chắn nặng trịch đã không được mở ra trong nhiều tháng rồi. Cửa sổ đó nhìn ra một góc tối của hoa viên, vì thế mà cố huyện lệnh chỉ dùng cửa sổ còn lại ở trước án thư của ngài ấy. “Ngay trước bữa cơm tối, ta đã tiếp đón bốn viên Vệ úy trấn thành, bọn họ là những gã khá đàng hoàng đấy. Vệ úy phố người Cao Câu Ly cũng đến, quả là một gã có năng lực. Có vẻ như gã cũng từng giữ một chức quan nào đó ở cố quốc.” Huyện lệnh ngừng lại một lát, liếc qua những ghi chép mà ông đã viết lúc nói chuyện với lão Hồng. “Sau bữa cơm tối,” ông nói tiếp, “ta cùng lão Hồng tra xét kỹ lưỡng những văn thư quan trọng nhất trong văn khố ở đây và phát hiện ra mọi sổ sách đều được cập nhật rất cẩn thận.” Địch Nhân Kiệt gạt văn thư trước mặt sang một bên và mau mắn hỏi, “Thế nào, nhiệm vụ của cả hai ngươi tối nay ra sao?” “Thưa tri huyện, e là bọn thuộc hạ vẫn chưa làm tròn phận sự,” Mã Vinh rầu rĩ nói. “Thuộc hạ cùng bằng hữu sẽ phải học tường tận mọi việc bắt đầu từ những gì sơ đẳng nhất, đại loại là vậy.” “Ta cũng phải tự mình học công vụ đây,” Địch Nhân Kiệt đáp với một nụ cười uể oải. “Chuyện gì đã xảy ra?” Trước tiên, Mã Vinh bẩm báo những gì lão bản của Cửu Hoa Viên đã kể về lão Đường cùng phụ tá là Phạm Trọng. Lúc y dứt lời, Địch Nhân Kiệt lắc đầu nói, “Ta không hiểu có chuyện gì không ổn với lão Đường nữa. Lão ta đang ở trong một tình trạng tệ hại, tưởng tượng ra mình nhìn thấy hồn ma của vị huyện lệnh quá cố. Có vẻ điều đó khiến lão ta cực kỳ hoảng hốt. Nhưng ta cũng nghi ngờ là có điều gì khác bất minh ở đây. Lão Đường khiến ta phát cáu nên ta đã cho lão về sau khi thưởng thức xong trà muộn. “Còn về Phạm Trọng, chúng ta không nên quá coi trọng những gì gã chủ tửu điếm nói. Những người đó thường có thành kiến với quan viên nha phủ. Bọn họ không thích việc chúng ta kiểm soát giá gạo, áp chế các thứ thuế lên rượu và những thứ khác. Chúng ta sẽ hình thành nhân tri diện riêng về Phạm Trọng khi nào hắn xuất hiện trở lại.” Huyện lệnh nhấp vài ngụm từ chén trà của mình, rồi tiếp tục lên tiếng, “Tiện thể, lão Đường báo với ta rằng nơi này quả thật có một con cọp ăn thịt người đang lảng vảng. Mới tuần trước nó đã vồ chết một nông phu. Ngay khi chúng ta có tiến triển với việc tra án, hai ngươi thử đi săn con súc vật đó.” “Thưa đại nhân, đó chính là công việc mà bọn thuộc hạ ưa thích!” Mã Vinh hào hứng nói, nhưng rồi mặt y lại xịu xuống. Sau vài lần do dự, y kể lại vụ tấn công giết người mà bọn họ cho là mình đã tận mắt chứng kiến trên bờ kênh. Địch Nhân Kiệt trông có vẻ lo âu. Ông mím môi rồi nói, “Mong là sương mù đã khiến các ngươi nhìn lầm. Ta không muốn có một vụ án mạng thứ hai trong tay ngay lúc này đâu! Trở lại đó vào sáng ngày mai và xem các ngươi có thể thăm dò được gì thêm từ cư dân ở vùng đó không. Có lẽ sẽ có một lời lý giải khá bình thường cho những gì mà các ngươi trông thấy. Thêm vào đó, chúng ta sẽ coi xem có ai báo án mất tích không.” Đoạn Kiều Thái bẩm báo về cuộc gặp gỡ giữa bọn họ với viên cối kế của Diệp Thủ Bôn là Bốc Khải, rồi thuật lại câu chuyện đã được gọt giũa ngắn gọn về chuyến ghé thăm các nhà thổ trên sông. Y nói rằng bọn họ đã uống rượu ở đó và trò chuyện một lát với các kỹ nữ. Mã, Kiều hai người thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy huyện lệnh có vẻ hài lòng với những lời bẩm báo của bọn họ. “Các ngươi hành sự không hề tệ chút nào!” Ông nói. “Các ngươi đã thu thập được khá nhiều tin tức, nhà thổ là nơi qua lại của tất cả những kẻ bất hảo trong trấn. Thật tốt là giờ các ngươi đã biết đường đi đến đó. Chúng ta hãy tìm thử xem những con thuyền ấy neo đậu chính xác ở chỗ nào. Lão Hồng, đưa cho ta tấm bản đồ mà chúng ta đang xem dở.” Lão Hồng trải tấm bản đồ phác họa trấn lên án thư. Mã Vinh đứng dậy và cúi xuống nhìn, trỏ vào cây cầu thứ hai bắc ngang qua dòng kênh, phía đông thuỷ môn ở vùng tây nam. “Bẩm đại nhân, ở đâu đó gần đây,” y nói, “bọn thuộc hạ đã trông thấy một nam tử ngồi trên cáng. Sau đó, hai huynh đệ gặp Bốc Khải trong tửu lâu ở chỗ này, rồi đi thuyền xuôi theo dòng kênh về hướng đông. Rồi cả hai rời đi bằng thuỷ môn kia.” “Làm sao các ngươi vượt qua đó được?” huyện lệnh hỏi. “Mấy thuỷ môn này đều có lưới sắt chặn chắc chắn cơ mà.” “Một đoạn của tấm lưới đó đã bị thủng,” Mã Vinh đáp. “Một con thuyền nhỏ có thể chui qua khe hở đó.” “Ngày mai, việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là sửa lại lưới,” Địch Nhân Kiệt nói. “Nhưng tại sao mấy nhà thổ đó lại ngụ ở chốn sông nước?” “Thưa đại nhân, lão Đường đã kể với lão phu,” lão Hồng xen vào, “rằng vài năm trước, một vị huyện lệnh tại nhiệm không muốn có bất cứ nhà thổ nào bên trong trấn. Vì thế, bọn kỹ nữ buộc phải dời lên trên những con thuyền, neo đậu ở nhánh sông ngoại ô tường thành. Sau đó, vị huyện lệnh hay ra vẻ quang minh lỗi lạc ấy được thuyên chuyển đi nơi khác, nhưng những nhà thổ vẫn lưu lại đó vì các thuyền nhân cảm thấy điều này thuận tiện. Bọn họ có thể đến thẳng nơi ấy từ thuyền của mình mà không cần phải đi ngang qua đội lính tuần tại các cổng.” Địch Nhân Kiệt gật gù, vuốt chỗ tóc mai dài và nhận xét, “Gã Bốc Khải đó nghe chừng cũng thú vị đấy, lúc nào ta muốn gặp gã.” “Gã ta tự xưng là một thi sĩ,” Kiều Thái nói, “nhưng gã cũng là một khách nhân tinh tường lẫn tinh tướng. Chỉ thoáng nhìn một cái là gã đã đoán ra bọn thuộc hạ từng là những kẻ cường đạo. Rồi lúc ở trên thuyền, gã là người duy nhất nhận ra bọn chúng đang đánh đập cô nương đó.” “Đánh đập một cô nương sao?” Địch Nhân Kiệt kinh ngạc hỏi. Kiều Thái đấm vào đầu gối của mình. “Cái gói!” Y la lên. “Thuộc hạ thật đần độn! Thuộc hạ đã quên mất nó! Cô nương Cao Câu Ly đó đã đưa lại cho thuộc hạ một cái gói mà Vương huyện lệnh giao phó cho nàng ấy.” Huyện lệnh bật dậy khỏi ghế. “Nó có thể là manh mối đầu tiên của chúng ta đấy!” Ông phấn khởi nói. “Nhưng tại sao vị cố huyện lệnh lại đưa nó cho một kỹ nữ tầm thường chứ?” “Bẩm,” Kiều Thái đáp, “cô nương đó thuật rằng mình đã gặp Vương huyện lệnh khi được vời đến góp vui trong một bữa tiệc tại tửu lâu, rồi lão huyện lệnh vô lại ấy bắt đầu sủng ái nàng ta. Tất nhiên lão không thể đến thăm kỹ nữ ở trên thuyền hoa, nhưng vẫn thường xuyên giữ nàng ấy lại qua đêm ngay tại hậu viện của mình. Vào buổi sáng nọ, khoảng một tháng trước, khi nàng ta chuẩn bị rời đi, lão đưa cho nàng một cái gói và bảo rằng nơi không ai nghĩ đến nhất luôn là chỗ giấu đồ an toàn nhất. Lão bảo nàng ta giữ hộ món đồ này và không được nói với bất cứ ai, vì mình sẽ đòi lại khi nào cần. Nàng ta có hỏi bên trong gói là thứ gì nhưng lão chỉ cười ầm lên và bảo rằng nó chẳng phải thứ gì quan trọng cả. Nhưng sau đó, lão lại trở nên nghiêm túc và dặn cô nương ấy là nếu có chuyện gì xảy ra với mình thì nàng ta phải giao nó cho huyện lệnh kế nhiệm.” “Thế sao nàng ta không mang nó đến nha phủ sau khi cố huyện lệnh bị sát hại?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Bẩm, những kỹ nữ như cô nương ấy,” Kiều Thái nhún vai đáp, “sợ chết khiếp chốn nha phủ. Nàng ta thích đợi một ai đó từ nơi này lên thuyền hơn và thuộc hạ là người đầu tiên tình cờ đến đó. Nó đây ạ.” Y lấy ra một cái gói từ tay áo và trao nó cho huyện lệnh. Địch Nhân Kiệt xoay cái gói trong tay rồi phấn khích nói, “Chúng ta hãy ngó xem bên trong có gì!” Ông giật dấu niêm phong và mau chóng xé phăng lớp giấy bọc. Bọn họ thấy một chiếc hộp sơn mài nhẵn nhụi màu đen. Nắp hộp được trang trí biểu tượng hai thân tre và một cụm lá, được đúc nổi đẹp đẽ bằng sơn mài hoàng kim đầy tinh xảo, một khung trang trí khảm xà cừ viền quanh. “Chiếc hộp này là một cổ vật quý giá,” Địch Nhân Kiệt nói trong khi nhấc nắp hộp lên. Rồi ông bật ra một tiếng kêu đầy thất vọng. Chiếc hộp trống không. “Có kẻ đã lục lọi nó!” Ông giận dữ hét lên, nhanh chóng nhặt miếng giấy vừa xé lên. “Quả thật có nhiều thứ ta cần phải học,” ông cáu kỉnh nói thêm. “Lẽ ra ta nên kiểm tra kỹ dấu niêm phong trước khi xé tờ giấy bọc! Giờ thì đã quá muộn rồi.” Ông dựa lưng ra ghế, nhíu chặt đôi mày. Hồng Lượng xem xét chiếc hộp sơn mài với vẻ hiếu kỳ. “Bẩm, nếu phán đoán dựa trên kích thước và hình dáng của hộp,” lão Hồng nói, “lão phu cho rằng nó được dùng để cất giữ giấy tờ.” Địch Nhân Kiệt gật đầu. “Được rồi,” ông thở dài nói, “còn tốt hơn là không có gì. Vị huyện lệnh quá cố chắc đã cất một số giấy tờ quan trọng bên trong, quan trọng hơn cả những thứ ngài ấy đã cất trong ngăn kéo của án thư. Kiều Thái, cô nương đó cất cái gói ở chỗ nào?” “Bẩm đại nhân, nàng ta giữ cái gói bên trong khoang thuyền của mình, ở khoảng trống giữa chiếc giường với vách tường.” Kiều Thái mau mắn đáp lời. Địch Nhân Kiệt trao cho y một ánh nhìn sắc lẹm. “Ta hiểu rồi,” ông lạnh nhạt nói. “Nàng ta đảm bảo với thuộc hạ,” Kiều Thái nhanh chóng nói tiếp để che giấu vẻ ngượng ngùng của mình, “rằng mình chưa bao giờ kể về nó hay đưa cho bất kỳ ai khác xem. Nhưng nàng ta còn nói thêm rằng lúc mình không ở đó thì các cô nương khác cũng có thể dùng khoang thuyền này, rồi các nô bộc và khách nhân cũng thoải mái ra vào nơi đó.” “Điều đó có nghĩa là,” huyện lệnh nói, “cho dù cô nương của ngươi nói thật, hầu như bất cứ ai cũng có thể chạm tay vào chiếc hộp này! Lại một ngõ cụt khác.” Ông suy tư trong chốc lát rồi nhún vai nói tiếp, “À, lúc kiểm tra những cuốn sách trong thư phòng của Vương huyện lệnh, ta có tìm thấy một cuốn sổ. Nhìn thử xem các ngươi có hiểu điều gì về nó hay không?” Ông mở ngăn kéo rồi đưa cuốn sổ cho Mã Vinh. Y đọc lướt qua nó, Kiều Thái đứng phía sau nhìn qua vai y. Gã cao lớn lắc đầu rồi trả cuốn sổ lại cho huyện lệnh. “Thưa huyện lệnh, bọn thuộc hạ không thể đi bắt một vài gã lưu manh cho ngài hay sao?” Y hỏi với vẻ mong đợi. “Bằng hữu và thuộc hạ không giỏi mấy chuyện vận dụng đầu óc, nhưng bọn thuộc hạ biết tất tần tật về những thứ võ biền, tay chân chặt chém.” “Đầu tiên ta phải xác định được kẻ thủ ác trước rồi mới có thể tóm cổ hắn,” huyện lệnh đáp với một nụ cười ảm đạm. “Nhưng đừng lo lắng, ta có một công vụ đặc biệt cho các ngươi ngay tối nay đây. “Vì vài lý do tất yếu, ta cần tra xét hậu đường của Bạch Vân tự mà không để bất kỳ ai phát hiện. Xem địa đồ lần nữa đi, rồi nói cho ta biết kế hoạch có thể được tiến hành như thế nào.” Mã Vinh và Kiều Thái chụm đầu vào tấm bản đồ. Địch Nhân Kiệt giơ ngón trỏ chỉ vào và nói, “Các ngươi thấy đó, ngôi chùa này nằm ở phía đông trấn, trên bờ đối diện của nhánh sông và phía nam phố người Cao Câu Ly. Lão Đường đã nói với ta rằng khu hậu sảnh của ngôi chùa nằm ngay bên dưới bức tường. Ngọn đồi phía sau nó được bao phủ bởi một cánh rừng rậm.” “Tường thì có thể trèo lên,” Mã Vinh nói. “Vấn đề là làm sao để tiếp cận đằng sau ngôi chùa mà không thu hút sự chú ý. Không có nhiều khách bộ hành trên đường vào thời điểm tối muộn, nhưng không đời nào lính tuần ở Đông môn chịu câm miệng khi bắt gặp chúng ta ‘thập diện mai phục’ ở đó lúc quá muộn như thế.” Kiều Thái ngước lên từ tấm bản đồ và nói, “Chúng ta có thể thuê một chiếc thuyền đằng sau tửu lâu mà bọn thuộc hạ gặp Bốc Khải. Mã Vinh là một tay chèo thuyền cự phách, đệ ấy có thể chở chúng ta xuôi dòng kênh, chui qua lỗ hổng ở thuỷ môn để tiếp tục đi sang nhánh sông. Sau đó chúng ta đành phải trông cậy vào vận may của bản thân thôi.” “Ý tưởng nghe có vẻ hay,” Địch Nhân Kiệt nói. “Ta chỉ cần khoác thêm tấm áo đi săn trước khi lên đường.” Bốn người rời khỏi nha phủ bằng cửa ngách rồi cuốc bộ dọc theo con đường chính về phía nam. Thời tiết đã đẹp hơn, vầng trăng sáng tỏ trên bầu trời đêm. Bọn họ tìm thấy một chiếc thuyền neo ở phía sau tửu lâu và thuê nó, đặt cọc trước một khoản ngân lượng. Mã Vinh quả thực là một tay chèo thuyền lão luyện. Y thuần thục chèo con thuyền nhỏ đến thuỷ môn. Sau khi bọn họ vượt qua đoạn lỏng lẻo trên tấm lưới cáo, y tiến về phía những nhà thổ trôi nổi trên mặt nước và chèo dọc theo cạnh con thuyền cuối dãy. Rồi y bất chợt rẽ về phía đông và mau chóng đưa thuyền vượt sang phía bên kia. Y chọn một vị trí có bụi cây rậm rạp trên bờ đối diện. Khi huyện lệnh và Hồng quân sư bước ra, Mã Vinh và Kiều Thái kéo thuyền lên đất liền và đẩy nó xuống bên dưới bụi cây. “Thưa đại nhân, chúng ta nên để lão Hồng ở lại đây,” Mã Vinh nói. “Chúng ta không thể bỏ mặc con thuyền không có ai trông coi, hơn nữa việc đi lại phía trước có thể khó khăn đấy.” Địch Nhân Kiệt gật đầu rồi theo Mã Vinh và Kiều Thái xuyên qua bụi rậm. Đến ven đường, Mã Vinh giơ tay lên rẽ mấy cành cây ra, chỉ vào bên sườn núi cây cối rậm rạp ở ven đường đối diện. Bọn họ trông thấy ở đằng xa về bên trái là cổng Bạch Vân tự xây bằng đá cẩm thạch. “Đệ chẳng thấy ai quanh đây cả,” Mã Vinh nói. “Phi thân qua bên đó đi.” Dưới đám cây cối ở bên kia đường là một khoảng không tối đen như mực. Mã Vinh cầm tay Địch Nhân Kiệt và giúp ông vượt qua bụi cây rậm rạp. Kiều Thái đã ở sẵn đằng trước họ, giữa đám cây cối phía trên cao, y hầu như không gây ra một tiếng động nào. Đó là một việc leo trèo đầy chông gai. Đôi lúc, hai hoa tiêu của Địch Nhân Kiệt tận dụng những con đường mòn hẹp dốc, rồi lại rẽ lối xuyên qua những đám cây. Chẳng mấy chốc, huyện lệnh đã mất hết mọi cảm giác về phương hướng, nhưng hai nam nhân còn lại vốn là những bậc thầy thông thạo việc băng rừng, vẫn vững vàng tiến về phía trước. Bất chợt Địch Nhân Kiệt phát hiện Kiều Thái đang ở bên cạnh mình. Y thì thầm, “Chúng ta đang bị theo dõi.” “Đệ cũng nghe thấy nó.” Mã Vinh thều thào nói. Ba người đứng sát vào nhau bất động. Lúc này, huyện lệnh mới nhận ra những âm thanh sột soạt mông lung và một tiếng gầm gừ trầm thấp đến từ nơi nào đó phía dưới, bên trái ông. Mã Vinh giật mạnh tay áo của Địch Nhân Kiệt và nằm sấp người, ép sát bụng xuống đất. Huyện lệnh và Kiều Thái liền làm theo. Bọn họ trườn đến gần một đỉnh đồi thấp. Mã Vinh cẩn thận rẽ các nhánh cây ra một chút. Y bắt đầu rủa thầm nho nhỏ. Địch Nhân Kiệt nhìn xuống hẻm núi nông bên dưới. Được ánh trăng soi rọi, ông thấy một bóng hình đen ngòm đang nhảy những bước dài xuyên qua trảng cỏ kiếm cao vút. “Chắc chắn là một con cọp!” Mã Vinh thì thầm đầy phấn khích. “Tiếc là chúng ta không mang theo nỏ. Nhưng đừng lo, nó sẽ không cả gan tấn công ba người đâu.” “Câm miệng!” Kiều Thái rít qua kẽ răng. Y chăm chú quan sát bóng hình màu đen di chuyển nhanh như chớp qua trảng cỏ. Nó bật nhảy lên một tảng đá rồi lao đi bên dưới rừng cây. “Không phải cọp thường đâu!” Kiều Thái rít lên. “Lúc nó nhảy lên, huynh nhác thấy một bàn chân màu trắng có móng vuốt. Là cọp tinh đấy!” Một tiếng tru dài ma mị xé tan bầu không khí tĩnh mịch. Âm thanh gần giống tiếng người của nó truyền một cơn rùng mình ớn lạnh dọc theo cột sống Địch Nhân Kiệt. “Nó đã đánh hơi thấy chúng ta,” Kiều Thái khàn giọng nói. “Mau chạy đến ngôi chùa! Chắc là nó phục ngay dưới sườn núi đấy!” Y bật mạnh dậy, bắt lấy cánh tay Địch Nhân Kiệt. Hai gã lao xuống dốc núi nhanh nhất có thể kéo huyện lệnh theo cùng. Đầu óc ông chết lặng, tiếng tru khủng khiếp đó vẫn vang vọng bên tai. Ông vấp phải một cái rễ cây và ngã lộn nhào, được kéo dậy ngay lập tức và sảy chân thêm lần nữa, mấy nhánh cây xé toạc y phục ông. Nỗi hoảng sợ man dại xâm chiếm Địch Nhân Kiệt, bất cứ khoảnh khắc nào ông cũng tưởng tượng ra cảm giác bị một sức nặng kinh hồn đè lên lưng rồi những móng vuốt sắc nhọn xé toạc cổ họng mình. Bất chợt hai nam nhân kia buông ông ra và nhanh chóng tiến về phía trước. Khi huyện lệnh đã trườn qua bụi rậm, ông trông thấy một bức tường gạch cao khoảng mười thước* phía trước mặt. Kiều Thái đã cúi người xuống tựa vào tường. Mã Vinh nhẹ nhàng nhảy qua vai y, vươn tay với lên đầu tường và tự nhích đẩy người lên. Lúc ngồi giạng chân trên bờ tường, y rướn người về phía trước và ra hiệu cho Địch Nhân Kiệt. Kiều Thái giúp ông trèo, huyện lệnh nắm lấy tay Mã Vinh để được kéo lên. “Mau nhảy xuống!” Mã Vinh gằn giọng. 10 thước tương đương 4 mét. Địch Nhân Kiệt tự đu mình qua bức tường, dùng tay bám vào bờ tường, rồi thả người xuống dưới và ngã lên một đống rác. Lúc ông nhổm người dậy, Mã Vinh và Kiều Thái đã nhảy xuống bên cạnh. Từ cánh rừng ở bên kia bức tường, bọn họ lại nghe thấy tiếng tru kéo dài không dứt. Rồi mọi vật chìm vào tĩnh lặng. Bọn họ đang ở trong một hoa viên nhỏ, trước mặt là một sảnh cao lầu được xây trên thềm gạch rộng lớn, cao khoảng bốn thước so với mặt đất. “Được rồi, ngài huyện lệnh, hậu đường của ngài đây!” Mã Vinh khàn giọng nói, gương mặt thô kệch của y bơ phờ dưới ánh trăng. Kiều Thái lẳng lặng xem xét vài vết rách trên áo choàng của mình. Địch Nhân Kiệt thở hổn hển vẻ nặng nhọc, mồ hôi túa trên mặt và khắp thân thể. Ông vận sức chỉnh lại giọng và lên tiếng, “Chúng ta sẽ leo lên nền đất đó rồi đi bộ vòng qua lối vào sảnh.” Bọn họ đi đến mặt trước sảnh, bắt gặp một khu điện thờ băng ngang qua một hoa viên chữ điền rộng lớn được lát đá cẩm thạch. Chốn này tĩnh lặng như bãi tha ma. Huyện lệnh đứng quan sát khung cảnh yên bình trong giây lát, rồi quay lại thử mở cánh cổng đôi nặng trịch của sảnh đường. Bọn họ nhìn thấy một gian phòng rộng rãi, được soi sáng lờ mờ bởi ánh trăng chiếu xuyên qua ô cửa sổ giấy trên cao. Nơi này trống trải chẳng có gì, ngoại trừ một hàng các rương hòm thuôn hình chữ nhật và tối om om. Một thứ mùi thối rữa phảng phất trong bầu không khí nặng nề. Kiều Thái lầm bầm rủa, “Đấy là những cỗ áo quan!” “Đó là lý do vì sao ta đến đây,” Địch Nhân Kiệt lạnh lùng nói. Ông lấy ra một cây nến từ ống tay áo rồi kêu Mã Vinh đưa cho mình hộp mồi lửa. Sau khi thắp sáng ngọn nến, huyện lệnh rón rén đi lại giữa những chiếc quan tài, cúi người đọc câu chữ ghi trên những miếng giấy dán ở mặt trước. Ông dừng lại bên cạnh chiếc áo quan thứ tư, đứng thẳng người dậy và chạm dọc theo nắp hòm. “Nó chỉ được đóng đinh tạm bợ,” Địch Nhân Kiệt thì thào. “Nhấc nắp hòm xuống!” Ông chờ đợi với vẻ thiếu kiên nhẫn trong lúc hai thủ hạ tra dao găm bên dưới nắp và vặn lỏng nó ra. Bọn họ nâng nó lên rồi đặt xuống sàn. Một mùi hôi thối buồn nôn bốc lên từ khoảng tối mù bên trong. Mã Vinh và Kiều Thái bật lùi ra sau, không quên buông lời rủa. Địch Nhân Kiệt mau chóng đưa khăn quàng cổ lên che mũi miệng. Ông giơ ngọn nến và nhìn chăm chú xuống gương mặt của tử thi. Mã Vinh và Kiều Thái nhìn qua vai ông, tính hiếu kỳ đã lấn át nỗi sợ. Huyện lệnh nhận ra đó quả thật là nam nhân mình đã diện kiến ở hành lang: nét mặt ngạo nghễ, đôi lông mày mỏng và thẳng, chiếc mũi thanh mảnh và một vết bớt lớn trên má trái. Điểm khác biệt duy nhất là những đốm màu xanh xấu xí đã làm biến dạng hai gò má hóp và đôi mắt trũng sâu đã khép lại. Huyện lệnh cảm thấy một cảm giác trống rỗng đến buồn nôn cuộn lên bên trong dạ dày của mình. Giống nhau như hai giọt nước, không có trò lừa đảo nào ở đây cả. Ông đã đụng một hồn ma trong gian nhà hoang đó! Địch Nhân Kiệt bước lùi lại rồi ra hiệu cho Mã Vinh và Kiều Thái đặt nắp hòm về chỗ cũ. Đoạn ông thổi tắt ngọn nến. “Tốt hơn là chúng ta đừng nên về theo lối cũ,” ông khô khan nói. “Hãy bám theo bức tường ngoài rồi leo qua nó ở mặt trước ngôi chùa, gần với cổng ra vào. Rủi thì chúng ta bị phát giác, nhưng mối nguy hiểm trong rừng kia còn ghê gớm hơn!” Hai gã làu bàu tán thành. Ba người đi vòng qua khuôn viên của chùa, sử dụng thủ pháp vi bộ bên dưới vùng tối của bức tường, cho đến khi trông thấy cổng chùa ở phía trước. Bọn họ trèo qua tường và đi xuôi con đường, nép sát rừng cây. Trong tầm mắt phía trước không có ai cả, ba người nhanh chóng băng qua đường, rồi đi vào mảnh rừng ngăn bọn họ với nhánh sông. Lão Hồng đang nằm ở phía đuôi thuyền, ngủ say sưa chẳng thiết trời trăng gì. Địch Nhân Kiệt đánh thức lão bộc dậy rồi giúp Mã Vinh và Kiều Thái đẩy con thuyền xuống nước. Ngay lúc sắp bước vào trong thuyền, Mã Vinh chợt khựng lại trước giọng ca chói tai vang vọng trên mặt nước tối tăm. Một giọng nam cao the thé cất lên, “Ánh trăng, hỡi ánh trăng bạc…” Một chiếc thuyền nhỏ đi về phía thuỷ môn. Kẻ đang hát hò ngồi ở đuôi thuyền, chậm rãi hoa tay múa chân lên xuống theo giai điệu của bài thơ. “Bốc Khải, thi nhân say xỉn kiêm kép hát nửa mùa của chúng ta rốt cuộc cũng chịu mò về nhà!” Mã Vinh làu bàu, “Tốt hơn là chờ cho gã đi trước.” Khi giọng ca the thé ấy lại cất lên, Mã Vinh dứt khoát cho rằng mình phải dặm mắm thêm muối vào. “Ban đầu thuộc hạ cho rằng giọng hát thật khủng khiếp. Nhưng tin thuộc hạ đi, sau tiếng tru mà chúng ta nghe thấy trong khu rừng kia, thuộc hạ cảm thấy bài ca của gã này thật du dương!” HỒI 8 Tân nương lạc, đại gia tàu báo án Chẳng ngẫu nhiên, quan án phán chuyện xưa Địch Nhân Kiệt trằn trọc cả đêm cho đến tận trước bình minh. Ông cảm thấy mệt lử sau chuyến trở về từ ngôi chùa nhưng ngủ không ngon giấc. Đã hai lần ông nằm mộng thấy vị huyện lệnh đã chết kia đang đứng trước giường. Thế nhưng khi ông tỉnh giấc, cả người ướt đẫm mồ hôi, thì trong gian phòng không có lấy một bóng người. Sau cùng ông trở dậy hẳn, thắp một ngọn nến rồi ngồi xuống án thư xem qua văn thư giấy tờ của huyện, đến tận khi ánh rạng đông rực rỡ nhuộm đỏ những ô cửa sổ bằng giấy và viên lục sự mang cơm sáng đến. Khi huyện lệnh đặt đũa xuống, lão Hồng bước vào với một ấm trà nóng. Lão bẩm báo rằng Mã Vinh cùng Kiều Thái đã ra ngoài giám sát việc tu sửa thuỷ môn và điều tra bờ kênh nơi họ đã chứng kiến cuộc tấn công trong màn sương mù. Bọn họ sẽ cố gắng trở lại kịp phiên thăng đường buổi sáng của nha phủ. Viên bộ đầu đã thưa lại rằng Phạm Trọng vẫn chưa chịu lộ diện. Cuối cùng, nô bộc của lão Đường chạy tới báo rằng chủ nhân của y đã bị cơn sốt hành hạ suốt đêm qua, nhưng lão sẽ đến ngay khi cảm thấy khá hơn một chút. “Ta cũng đang cảm thấy trong người không được khỏe cho lắm,” Địch Nhân Kiệt lẩm bẩm. Ông thèm uống đôi chén trà nóng, rồi nói tiếp, “Phải chi bây giờ có mấy cuốn sách của ta ở đây. Trong đó có một văn tự khái quát về những hiện tượng ma quái và loài cọp tinh, đáng tiếc là ta chưa bao giờ để ý đến chúng. Lão Hồng, một vị huyện lệnh không thể bỏ sót bất kỳ một mảng tri thức nào! À, hôm qua lão Đường đã nói gì về nội dung buổi thăng đường sáng nay?” “Bẩm đại nhân, không có gì nhiều ạ,” Hồng quân sư đáp. “Chúng ta phải ra phán quyết cuối cùng cho cuộc tranh chấp giữa hai nông phu về địa giới ruộng đất của bọn họ. Chỉ vậy thôi ạ.” Lão đưa cho huyện lệnh một xấp văn thư. Địch Nhân Kiệt liếc qua rồi nói, “May là tranh chấp có vẻ đơn giản. Gã Phạm Trọng kia làm rất tốt, y đã ghép tấm địa đồ cũ có biểu thị rõ địa giới gốc với sổ sách đất đai. Chúng ta sẽ kết thúc buổi thăng đường ngay khi giải quyết xong vụ kiện đó. Ở đây còn nhiều công vụ cấp bách hơn!” Địch Nhân Kiệt đứng lên và lão Hồng giúp ông mặc quan phục gấm thêu màu lục bảo. Khi huyện lệnh thay chiếc mũ tròn không vành bằng chiếc mũ ô sa đen cánh cứng, ba tiếng gõ trên cái cồng lớn vang vọng khắp nha phủ, báo hiệu phiên thăng đường buổi sáng sắp diễn ra. Huyện lệnh băng qua hành lang đằng trước thư phòng, đi qua cánh cửa phía sau bức bình phong hình kỳ lân, rồi bước lên bệ. Lúc an tọa trên chiếc ghế bành lớn đằng sau bàn xử án, ông nhận ra cả sảnh đường đã đông nghịt người. Bách tính Bồng Lai đang nóng lòng được diện kiến vị tân huyện lệnh của mình. Ông mau chóng kiểm tra xem người của nha phủ đã đứng đúng nơi quy định hay chưa. Ở hai bên bàn xử án, hai lục sự đang ngồi tại những chiếc bàn thấp hơn, chuẩn bị sẵn nghiên mực và bút lông để ghi chép lại vụ kiện. Dưới bệ, phía trước bàn xử án, sáu bộ khoái chia ra đứng thành hai hàng, mỗi hàng ba người, còn viên bộ đầu thì đứng ở bên cạnh. Y chậm rãi đu đưa cây roi nặng trịch qua lại. Địch Nhân Kiệt đập kinh đường mộc* xuống bàn để tuyên bố phiên thăng đường bắt đầu. Sau khi kết thúc việc điểm mặt, ông quay sang những văn tự mà Hồng quân sư đã trải ra trên bàn xử án. Ông ra hiệu cho bộ đầu. Hai nông phu được dẫn lên trước bàn xử án mau chóng quỳ xuống. Huyện lệnh diễn giải cho bọn họ nghe phán quyết của nha phủ về vấn đề địa giới. Hai nông phu vội dập trán xuống sàn để tỏ lòng biết ơn. Kinh đường mộc là dụng cụ các quan án dùng để đập xuống bàn trong lúc thăng đường. Đương lúc huyện lệnh chuẩn bị kết thúc buổi thăng đường, một nam nhân ăn vận sang trọng bước về phía trước. Trong lúc y khập khiễng chống cây gậy tre nặng nề đi tới trước bàn xử án, Địch Nhân Kiệt quan sát thấy y có một gương mặt cân đối và khá tuấn tú, với hàm ria con kiến và một chùm râu ngắn được cắt tỉa gọn gàng. Trông y khoảng độ tứ tuần. Y khó nhọc quỳ xuống, rồi lên tiếng với chất giọng tao nhã của kẻ trí thức, “Bẩm đại nhân, thảo dân là thuyền chủ Cố Mạnh Bình. Thảo dân rất tiếc khi buộc phải quấy rầy đại nhân trong buổi thăng đường đầu tiên mà ngài tiếp quản. Thế nhưng, sự thực là tân nương của thảo dân, Cố phu nhân Tào thị, đã mất tích nhiều ngày nay khiến thảo dân vô cùng lo lắng khôn nguôi. Thảo dân cầu mong được cậy nhờ nha phủ mở một cuộc điều tra về tung tích phu nhân.” Y dập đầu ba lần xuống sàn nhà. Cố Mạnh Bình tri diện huyện lệnh đại nhân """