"
Dịch Bệnh Atlantis - A. G. Riddle & Phương Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dịch Bệnh Atlantis - A. G. Riddle & Phương Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Thông tin ebook
Giới thiệu về tác phẩm
Giới thiệu về tác giả
Mục lục
MỞ ĐẦU
PHẦN I – BÍ MẬT
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
Chương 31
Chương 32
PHẦN II – SỰ THẬT, LỜI DỐI TRÁ VÀ NHỮNG KẺ PHẢN TRẮC
Chương 33
Chương 34
Chương 35
Chương 36
Chương 37
Chương 38
Chương 39
Chương 40
Chương 41
Chương 42
Chương 43
Chương 44
Chương 45
Chương 46
Chương 47
Chương 48
Chương 49
Chương 50
Chương 51
Chương 52
Chương 53
Chương 54
Chương 55
Chương 56
Chương 57
Chương 58
Chương 59
Chương 60
Chương 61
Chương 62
Chương 63
Chương 64
Chương 65
Chương 66
Chương 67
Chương 68
Chương 69
Chương 70
PHẦN III – THỬ NGHIỆM ATLANTIS Chương 71
Chương 72
Chương 73
Chương 74
Chương 75
Chương 76
Chương 77
Chương 78
Chương 79
Chương 80
Chương 81
Chương 82
Chương 83
Chương 84
Chương 85
Chương 86
Chương 87
Chương 88
Chương 89
Chương 90
Chương 91
Chương 92
Chương 93
Chương 94
Chương 95
Chương 96
Chương 97
PHẦN KẾT
Lời nhắn của tác giả Lời cảm ơn
THÔNG TIN EBOOK
Tên sách
Dịch bệnh Atlantis
Nguyên tác
The Atlantis Plague
Tác giả
A. G. Riddle
Dịch giả
Phương Anh
Nhà xuất bản
NXB Hội Nhà Văn
Đơn vị phát hành
Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam
Số trang
496
Kích thước
15.5 x 24 cm
Giá bìa
195.000 VNĐ
Năm xuất bản
Tháng 02/2022
Nguồn sách
Thư viện tỉnh Lâm Đồng
Tạo ebook và kiểm tra chính tả
PlanetVN
Ngày hoàn thành 08/3/2023
GIỚI THIỆU VỀ TÁC PHẨM
“Tại Marbella, Tây Ban Nha, Tiến sĩ Kate Warner tỉnh dậy trước thực tại kinh hoàng: Loài người đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng. Một đại dịch chưa từng có đang càn quét địa cầu. Gần nửa tỷ người đã chết – còn những người sống sót thì phải chịu một trong hai số phận: hoặc thoái hóa, hoặc tiến hóa thần tốc.
Khi thế giới chìm vào hỗn mang, những giải pháp cực đoan được đưa ra. Các nước phát triển sản xuất hàng loạt một phương thuốc thần kỳ: Phong Lan. Phong Lan kiểm soát các triệu chứng và ngăn người bệnh tử vong, song không trị được bệnh. Hội Immari lại có một cách tiếp cận khác, ấy là không làm gì cả. Cứ để dịch bệnh tiêu diệt những ai nó chọn.
Với hai thế lực đối đầu nhau, hy vọng cuối cùng của nhân loại là phải tìm ra thuốc giải. Kate là người duy nhất nằm giữ chìa khóa để vén màn bí ẩn vây quanh Dịch bệnh Atlantis. Đào sâu vào quá khứ, cô sẽ sớm phát hiện lịch sử tiến hóa của loài người không giống những gì chúng ta hằng tưởng.
Một đại dịch đã được ấp ủ 70.000 năm.
Sẽ thay đổi số mệnh loài người... mãi mãi.”
GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ
A. G. Riddle đã kinh doanh trên internet 10 năm trước khi nghỉ hưu để theo đuổi đam mê thực sự của mình: viết tiểu thuyết. Dịch bệnh Atlantis là tập hai của bộ ba Bí ẩn Nguồn gốc đã bán được hơn ba triệu bản trên khắp thế giới, được dịch sang 24 ngôn ngữ, xuất bản tại 32 quốc gia và hiện đang trong quá trình chuyển thể lên màn ảnh rộng.
Hiện anh đang sống tại Raleigh, North Carolina với vợ và con gái.
***
Bộ sách Bí ẩn Nguồn gốc:
Gene Atlantis
Dịch bệnh Atlantis
Thế giới Atlantis
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
PHẦN I – BÍ MẬT
PHẦN II – SỰ THẬT, LỜI DỐI TRÁ VÀ NHỮNG KẺ PHẢN TRẮC
PHẦN III – THỬ NGHIỆM ATLANTIS
PHẦN KẾT
Tặng những tâm hồn dũng cảm dám chọn các tác giả vô danh
MỞ ĐẦU
70.000 năm trước
Gần Somali ngày nay
Nhà khoa học mở mắt và lắc đầu, cố tỉnh táo. Con tàu đã đẩy nhanh tiến trình tỉnh dậy của cô. Tại sao? Quá trình thức giấc thường diễn ra chậm hơn, trừ khi... Làn khói dày trong ống của cô tan đi một chút và cô thấy một ánh đèn chớp đỏ trên tường – đèn báo động.
Cái ống mở ra, luồng khí lạnh ùa vào bao lấy cô, mớm vào da cô và xua đi lớp khói trắng cuối cùng. Nữ khoa học gia bước xuống sàn kim loại lạnh lẽo và loạng choạng đi tới bảng điều khiển. Các luồng sáng xanh trắng lấp lánh như một đài phun nước làm từ những con đom đóm sặc sỡ vụt lên từ bảng điều khiển và phủ lấy tay cô. Cô động đậy ngón tay và màn hình trên tường phản ứng lại. Đúng vậy – quá trình ngủ đông dài mười ngàn năm đã kết thúc sớm năm trăm năm. Cô liếc mắt sang hai cái ống rỗng sau lưng, rồi nhìn ống cuối cùng đang giữ bạn đồng hành của cô. Nó đã bắt đầu tiến trình tỉnh giấc. Cô nhanh chóng di chuyển ngón tay, hy vọng dừng được quá trình đó lại, nhưng đã quá muộn.
Ống của anh kêu xì xì và mở ra. “Có chuyện gì thế?”
“Tôi cũng không rõ.”
Cô bật tấm bản đồ thế giới và một loạt các số liệu thống kê lên. “Chúng ta có báo động về dân số. Có thể là một sự kiện tuyệt chủng.” “Nguồn?”
Cô lướt tay đến một hòn đảo nhỏ, bao quanh là chùm khói đen khổng lồ. “Một siêu núi lửa gần xích đạo. Nhiệt độ toàn cầu đã giảm đáng kể.”
“Phân loài bị ảnh hưởng?” bạn đồng hành của cô vừa hỏi vừa bước ra khỏi ống và tập tễnh tiến đến đài điều khiển. “Chỉ một. 8472. Ở châu Phi.”
“Thất vọng thật,” anh nói. “Họ vô cùng triển vọng.”
“Đúng vậy.” Nữ khoa học gia đẩy người ra khỏi bảng điều khiển, giờ đã có thể tự đứng được. “Tôi muốn kiểm tra thử.” Người bạn đồng hành trao cô một ánh nhìn dò xét. “Để lấy vài mẫu thôi.”
Bốn tiếng sau, hai nhà khoa học đã di chuyển con tàu khổng lồ qua được nửa đường băng ngang thế giới nhỏ bé. Trong buồng khử độc của con tàu, nữ khoa học gia cài những cái khóa cuối cùng trên bộ đồ của mình, siết chặt mũ phòng hộ, rồi đứng dậy chờ cửa mở.
Cô kích hoạt loa trong mũ phòng hộ. “Kiểm tra âm thanh.” “Xác nhận âm thanh,” đồng nghiệp của cô đáp. “Đang nhận cả video rồi. Cô có thể khởi hành.”
Cánh cửa hé mở ra một bãi biển cát trắng. Cách cửa sáu mét, bãi biển bị bao trùm trong màn tro dày kéo dài đến một dãy núi đá. Nữ khoa học gia ngước lên nhìn bầu trời tối đen đầy tro. Đám tro còn sót lại trong bầu khí quyển cuối cùng cũng sẽ rơi xuống và ánh nắng sẽ trở lại, nhưng khi đó sẽ là quá muộn cho nhiều cư dân của hành tinh này, bao gồm phân loài 8472.
Cô lê bước đến đỉnh dãy núi và quay lại nhìn con tàu đen khổng lồ đang neo bờ như một con cá voi máy quá khổ. Thế giới tối mịt và tĩnh tại, giống như phần đa những hành tinh trước khi xuất hiện sự sống mà cô đã nghiên cứu.
“Các dấu hiệu sự sống cuối cùng được ghi lại ở ngay bên kia dãy núi, chếch hướng hai lăm độ.”
“Rõ,” nữ khoa học gia vừa nói vừa khẽ xoay người và bắt đầu bước nhanh.
Cao đằng trước, cô thấy một cái hang lớn, bao quanh là một vùng đá lởm chởm bị phủ tro còn nhiều hơn ở bãi biển. Cô tiếp tục đi đến cái hang, nhưng nhịp bước chậm hơn ban nãy. Giày của cô lướt qua đám tro và đá, như thể cô đang đi trên mặt kính phủ đầy những chiếc lông vũ bị xé vụn.
Ngay trước khi đến miệng hang, cô cảm thấy có gì đó dưới giày, không phải tro hay đá. Da thịt và xương. Một cái chân. Nữ khoa học gia lùi lại và để màn hình hiển thị trong mũ phòng hộ của cô điều chỉnh đúng vị trí.
“Anh có thấy không?” cô hỏi.
“Có. Đang lấy nét hình ảnh hiển thị của cô.”
Cảnh vật trở nên rõ nét. Có hàng tá: những thi thể, xếp chồng lên nhau đến tận cửa hang. Những xác chết gầy gò, đen đúa tiệp hẳn vào phần đá bên dưới và lớp tro phủ trên chúng, tạo thành những gò đống lồi lên trông như rễ một cái cây khổng lồ trồi trên mặt đất.
Nhà khoa học kinh ngạc khi thấy các thi thể vẫn lành lặn. “Thật phi thường. Không có dấu hiệu ăn thịt đồng loại. Những kẻ sống sót này biết nhau. Có thể họ là thành viên của một bộ lạc với cùng một chuẩn mực đạo đức. Tôi nghĩ họ đã kéo đến đây, đến biển, để tìm thức ăn và nơi trú thân.”
Đồng nghiệp của cô chuyển màn hình hiển thị sang tia hồng ngoại, xác nhận những người kia đều đã chết. Dù không nói ra nhưng thông điệp của anh đã rõ: hãy tiếp tục công việc.
Cô cúi người rút ra một cái xi lanh nhỏ. “Chuẩn bị lấy mẫu.” Cô đưa xi lanh đến thi thể gần nhất và chờ nó lấy mẫu ADN. Xong việc, cô đứng dậy rồi nói bằng tông giọng trịnh trọng. “Tàu đổ bộ Alpha, Nhật ký Khoa học Thám hiểm, Mục chính thức: Qua quan sát sơ bộ, xác nhận phân loài 8472 đã gặp một sự kiện ở cấp độ tuyệt chủng. Nguyên nhân được nghi là do siêu núi lửa và sau đó là mùa đông núi lửa[∗]. Loài này tiến hóa khoảng 130.000 năm theo giờ địa phương trước ngày nhập nhật ký. Đang thử lấy mẫu từ đối tượng cuối cùng sống sót.”
Cô quay người và bước vào hang. Ánh đèn hai bên mũ phòng hộ của cô lóe sáng, làm lộ ra cảnh tượng bên trong. Các thi thể nằm thành từng đống sát tường, màn hình tia hồng ngoại không cho thấy có dấu hiệu sự sống. Nhà khoa học nữ vào sâu hơn. Được vài mét đã không còn thấy thi thể nào nữa. Cô nhìn xuống. Các lối mòn. Chúng được tạo ra gần đây sao? Cô dấn bước sâu hơn vào hang.
Trên màn hình hiển thị ở mũ phòng hộ, một vệt đỏ lờ mờ nhô ra từ bức tường đá. Dấu hiệu sự sống. Cô vòng qua góc cua, thứ màu đỏ sẫm kia lan ra thành một luồng sáng màu hổ phách, cam, xanh lam và xanh lục. Một người sống sót.
Nhà khoa học nhanh chóng bấm nút điều khiển trên bàn tay, chuyển sang chế độ nhìn bình thường. Người sống sót kia là phụ nữ. Sườn cô ta lồi lên một cách quái dị, kéo căng làn da đen đúa như có thể đâm toạc ra ngoài mỗi lần cô ta hít vào một hơi ngắn. Phía dưới sườn, bụng cô ta không trũng xuống nhiều như nhà khoa học nữ nghĩ. Cô kích hoạt lại tia hồng ngoại và xác nhận nghi vấn của mình. Người kia đang có thai.
Nhà khoa học nữ rút một xi lanh nữa toan lấy mẫu thì đột ngột dừng lại. Đằng sau, cô nghe thấy một tiếng động – tiếng bước chân
nặng nề, như thể chân đang kéo lê trên đá.
Cô xoay đầu vừa kịp lúc để thấy một người sống sót cao lớn, giới tính nam, loạng choạng đi vào khoảng không gian chật hẹp. Anh ta cao hơn hai mươi phần trăm so với chiều cao trung bình của các thi thể nam khác mà cô đã nhìn thấy, vai cũng rộng hơn. Thủ lĩnh bộ lạc chăng? Sườn anh ta méo mó nhô lên, còn tệ hơn cả người phụ nữ kia. Anh ta giơ một cẳng tay lên, che mắt khỏi ánh đèn chiếu từ mũ phòng hộ của nhà khoa học. Anh ta lảo đảo đi về phía cô. Anh ta cầm gì đó trong tay. Nhà khoa học nữ nắm lấy gậy chích điện và loạng choạng lùi, tránh khỏi người phụ nữ, nhưng gã đàn ông khổng lồ vẫn dấn tới. Cô kích hoạt gậy, nhưng ngay trước khi người kia đến được chỗ cô, anh ta đổi hướng, sụp người xuống sát tường bên cạnh người phụ nữ. Anh ta đưa vật trong tay cho cô ta – một miếng thịt thối rữa, lốm đốm. Cô ta điên cuồng táp miếng thịt và anh ta vừa ngửa đầu tựa vào tường đá vừa nhắm mắt.
Nhà khoa học cố gắng điều khiển nhịp thở của mình. Giọng nói người cộng sự vang lên gấp gáp trong mũ phòng hộ của cô. “Tàu đổ bộ Alpha Một, tôi thấy số liệu phủ tạng bất thường. Cô đang gặp nguy?”
Cô vội vàng gõ lên bảng điều khiển trên bàn tay, tắt chế độ cảm biến và màn hình video của bộ đồ. “Không, Đổ bộ Hai.” Cô dừng lại. “Có lẽ bộ đồ gặp trục trặc. Tiếp tục lấy mẫu từ những người sống sót cuối cùng của phân loài 8472.”
Cô rút một xi lanh, quỳ xuống cạnh người đàn ông to lớn và đặt ống xi lanh vào trong khuỷu tay phải của anh ta. Ngay khi tiếp xúc với xi lanh, anh ta nâng cánh tay còn lại về phía cô. Anh ta đặt bàn tay lên cẳng tay của nhà khoa học, nắm nhẹ, chút sức tàn của một người đàn ông hấp hối. Bên cạnh anh ta, người phụ nữ đã hoàn thành bữa
ăn thịt rữa có thể là cuối cùng của mình và nhìn cô bằng đôi mắt gần như chẳng còn sức sống.
Xi lanh lấy mẫu kêu lên thông báo đã đầy một lần, rồi thêm lần nữa, nhưng nhà khoa học nữ không rút nó ra. Cô ngồi đó, đóng băng. Điều gì đó đang xảy ra trong cô. Rồi tay người đàn ông kia trượt khỏi cẳng tay cô, đầu ngả sát tường. Trước khi biết chuyện gì đang diễn ra, cô kéo anh ta lên choàng qua một bên vai và đặt người phụ nữ lên vai còn lại. Khung ngoài của bộ đồ dễ dàng đỡ được phần trọng lượng kia, nhưng khi cô ra khỏi hang, việc giữ thăng bằng trên dãy núi đá phủ tro trở nên khó khăn hơn.
Mười phút sau, cô băng qua bãi biển và cánh cửa con tàu hé mở. Vào trong tàu, cô đặt các thi thể lên hai cái cáng có bánh lăn, cởi bộ đồ phòng hộ và nhanh chóng đưa hai người sống sót đến phòng phẫu thuật. Cô ngó ra sau, rồi tập trung vào bàn làm việc. Cô cho chạy vài trường hợp mô phỏng và bắt đầu điều chỉnh các thuật toán.
Đằng sau cô, một giọng nói lên tiếng. “Cô đang làm gì thế?” Cô giật mình quay ngoắt lại. Cô không nghe thấy tiếng cửa mở. Cộng sự của cô đứng ở ngưỡng cửa, quan sát căn phòng. Cả mặt anh hiện lên vẻ bối rối, sau đó là hoảng hốt. “Có phải cô...” “Tôi...” Trí não cô suy nghĩ thật nhanh. Cô nói điều duy nhất cô có thể. “Tôi đang thực hiện một cuộc thí nghiệm.”
PHẦN I BÍ MẬT
CHƯƠNG 1
Quận Phong Lan
Marbella, Tây Ban Nha
Bác sĩ Kate Warner nhìn người phụ nữ co giật và duỗi căng người dưới lớp dây đai của chiếc bàn mổ tự chế. Các cơn co giật ngày càng dữ dội, máu tuôn ra từ miệng và tai cô ta.
Kate không thể giúp gì cho người phụ nữ kia và điều đó khiến cô buồn bực hơn tất thảy. Cả hồi học trường y và làm bác sĩ nội trú, Kate cũng chưa bao giờ thấy quen với việc chứng kiến bệnh nhân chết. Cô hy vọng mình sẽ không bao giờ cảm thấy quen.
Cô tiến lên, nắm lấy tay trái của người phụ nữ và đứng đó đến khi cô ta ngừng rung lắc. Cô ta trút hơi thở cuối cùng, đầu ngoẹo sang một bên.
Căn phòng rơi vào tĩnh lặng, trừ tiếng máu chảy lộp độp từ trên bàn xuống lớp ni lông bên dưới. Cả phòng được phủ giấy ni lông dày. Đây là căn phòng gần giống với phòng phẫu thuật nhất trong khu nghỉ dưỡng – một phòng mát xa trong tòa nhà spa. Kate sử dụng chiếc bàn từng phục vụ những vị khách du lịch giàu có ba tháng trước để thực hiện các thí nghiệm cô vẫn chưa hiểu thấu.
Phía trên cô, tiếng rè trầm trầm của động cơ điện phá tan sự im lặng khi chiếc máy quay video nhỏ xíu lướt khỏi người phụ nữ để đối diện với Kate, thúc giục cô, rằng: trình báo cáo đi.
Kate giật mạnh khẩu trang xuống, nhẹ nhàng đặt bàn tay người phụ nữ lên bụng cô ta. “Thử nghiệm Dịch bệnh Atlantis Alpha-493: Kết quả âm tính. Đối tượng Marbella-2918.” Kate liếc nhìn người phụ nữ, cố nghĩ một cái tên. Họ không chịu đặt tên cho các đối tượng, nhưng Kate nghĩ ra tên cho từng người một. Họ cũng chẳng thể phạt
cô vì điều đó. Có lẽ họ nghĩ việc giấu tên sẽ khiến công việc của cô dễ dàng hơn. Không hề. Không ai đáng phải là một con số hay chết mà không có tên cả.
Kate hắng giọng. “Tên đối tượng là Marie Romero. Thời gian tử vong: 15:14 giờ địa phương. Nguyên nhân tử vong được nghi là... Nguyên nhân tử vong giống ba mươi người cuối cùng trên chiếc bàn này.”
Kate kéo găng tay cao su ra với một tiếng động lớn, ném chúng xuống cạnh vũng máu đang ngày một lớn trên sàn nhà phủ ni lông. Cô xoay người đi ra cửa.
Loa trên trần bắt đầu kêu loẹt xoẹt.
“Cô cần khám nghiệm tử thi.”
Kate nhìn trừng trừng máy quay. “Tự đi mà làm.”
“Làm ơn đi, Kate.”
Họ gần như giữ bí mật hoàn toàn với Kate, nhưng cô biết một điều: họ cần cô. Cô miễn dịch với Dịch bệnh Atlantis, là người lý tưởng để thực hiện các thử nghiệm của họ. Cô đã làm việc này được vài tuần, kể từ khi Martin Grey, cha nuôi của cô, đưa cô tới đây. Dần dần, cô bắt đầu yêu cầu các câu trả lời. Họ lúc nào cũng hứa hẹn, nhưng chưa một lần tiết lộ gì.
Cô hắng giọng và nói mạnh mẽ hơn. “Tôi xong việc rồi.” Cô kéo cửa ra.
“Dừng lại. Tôi biết cô muốn các câu trả lời. Lấy mẫu đi đã, rồi chúng ta nói chuyện.”
Kate săm soi chiếc xe đẩy kim loại đang chờ ngoài phòng, hệt như ba mươi lần trước. Một ý nghĩ chạy ngang đầu cô: đòn bẩy. Cô cầm bộ dụng cụ lấy máu, quay lại với Marie và đâm kim tiêm vào lõm
khuỷu tay cô ta. Việc này lúc nào cũng tốn thời gian hơn sau khi tim ngừng đập.
Khi xi lanh đã đầy, cô rút kim, đi lại chiếc xe đẩy và đặt ống tiêm vào máy ly tâm. Chiếc xi lanh xoay vài phút. Đằng sau cô, loa vang lên một mệnh lệnh. Cô biết đó là gì. Cô liếc nhìn máy ly tâm khi nó dừng lại. Cô nắm lấy ống tiêm, nhét vào túi và bước ra hành lang.
Cô thường ghé thăm hai thằng bé sau khi xong việc, nhưng hôm nay cô cần làm một việc trước. Cô vào căn phòng bé tí của mình và ngồi uỵch xuống “giường”. Đây gần như là một phòng giam: không cửa sổ, tường trống hoác, một cái khung giường thép với tấm nệm từ thời Trung Cổ. Cô cho là một nhân viên dọn dẹp đã từng ở đây. Kate thấy điều này thật thiếu nhân đạo.
Cô cúi người và bắt đầu mò mẫm trong khoảng tối dưới giường. Cuối cùng, cô tóm lấy chai vodka và lôi nó ra. Cô cầm một chiếc cốc giấy trên kệ đầu giường, thổi bụi, rót đầy rượu rồi nốc cạn.
Cô đặt chai rượu xuống và nhoài người trên giường. Cô vươn tay lên quá đầu ấn nút để bật chiếc radio cũ. Đây là nguồn thông tin duy nhất của cô về thế giới bên ngoài, nhưng cô lại chẳng mấy tin những gì mình nghe được.
Các bản tin radio mô tả một thế giới vừa được cứu khỏi Dịch bệnh Atlantis nhờ thứ thần dược: Phong Lan. Ngay sau cơn bùng phát toàn cầu, các nước công nghiệp đã đóng cửa biên giới và tuyên bố thiết quân luật. Cô chẳng bao giờ nghe được tin có bao nhiêu người đã chết trong trận đại dịch. Phần dân số sống sót, dù nhiều đến mấy, đều được tập hợp đến các quận Phong Lan – những trại tị nạn lớn, nơi người ta cố bấu víu lấy sự sống và hằng ngày uống một liều Phong Lan, thứ thuốc đẩy lùi cơn dịch nhưng không bao giờ chữa hẳn nó.
Kate đã dành mười năm qua để thực hiện nghiên cứu lâm sàng, gần đây đang tập trung tìm cách chữa tự kỷ. Các loại thuốc không thể qua một đêm mà phát triển được, dù có bỏ ra bao nhiêu tiền hay nhu cầu có cấp thiết đến thế nào đi nữa. Phong Lan hẳn là một lời nói dối. Và nếu đúng như vậy, thế giới ngoài kia đang thực sự ra sao?
Cô mới chỉ thoáng thấy vài lần. Ba tuần trước, Martin đã cứu sống cô và hai thằng bé trong cuộc thử nghiệm tự kỷ của cô trong một công trình khổng lồ bị chôn vùi dưới vịnh Gibraltar. Kate và bọn trẻ đã trốn đến công trình Gibraltar đó – nơi mà giờ cô tin là thành phố bị mất Atlantis – từ một khu phức hợp tương tự nằm dưới bề mặt Nam Cực hơn ba cây số. Cha ruột của cô, Patrick Pierce, yểm trợ cho cuộc chạy trốn của họ ở Gibraltar bằng cách cho nổ hai quả bom hạt nhân, phá hủy tàn tích cổ và để các mảnh vỡ bắn ra, suýt đã bít kín các eo biển. Martin đưa họ đi bằng một tàu ngầm tầm ngắn chỉ vài phút trước hai vụ nổ. Tàu ngầm chỉ vừa đủ lực chạy xuyên qua bãi chiến trường toàn những mảnh vỡ và đến Marbella, Tây Ban Nha – một thị trấn nghỉ dưỡng áng chừng cách bờ biển Gibraltar tám mươi cây. Họ bỏ tàu ở bến và tiến vào Marbella trong màn đêm. Martin nói đây chỉ là tạm thời thôi và Kate đã không hề để ý xung quanh. Cô biết họ đã vào một khu phức hợp có lính canh và kể từ lúc đó, cô cùng hai thằng bé bị giam trong tòa nhà spa này.
Martin bảo Kate rằng cô có thể đóng góp cho nghiên cứu đang được thực hiện ở đây – cố gắng tìm cách chữa Dịch bệnh Atlantis. Nhưng kể từ khi đến đây, cô hiếm khi thấy ông hay bất kỳ ai khác, trừ các nhân viên mang đồ ăn và các chỉ dẫn cho công việc của cô.
Cô xoay xoay ống xi lanh trong tay, tự hỏi tại sao nó lại quan trọng với họ đến thế và khi nào họ sẽ đến lấy nó. Và ai sẽ đến lấy nó.
Cô nhìn đồng hồ. Sắp đến bản tin buổi chiều. Cô chưa một lần bỏ lỡ. Cô tự nhủ rằng mình muốn biết chuyện gì đang xảy ra ngoài kia, nhưng sự thật lại đơn giản hơn nhiều. Điều cô thực sự muốn nghe là tin tức của một người: David Vale. Nhưng tin ấy chưa bao giờ đến, và có lẽ sẽ không đến. Có hai cách thoát khỏi hầm mộ ở Nam Cực – qua cổng băng tại Nam Cực hoặc qua cổng Gibraltar. Cha cô đã đóng lối thoát ở Gibraltar vĩnh viễn, đội quân Immari thì đang chờ ở Nam Cực. Chúng sẽ không bao giờ để David sống. Kate cố gạt suy nghĩ đó đi khi phát thanh viên radio lên tiếng.
Các bạn đang nghe đài BBC, tiếng nói của thắng lợi loài người, ngày 78 của Dịch bệnh Atlantis. Trong một tiếng đồng hồ này, chúng tôi sẽ đem đến cho các bạn ba tin tức đặc biệt. Đầu tiên, một nhóm bốn nhân viên điều khiển giàn khoan dầu ngoài khơi đã sống sót sau ba ngày trên biển mà không có thức ăn, hiện đang được an toàn và nhận cứu trợ ở quận Phong Lan thuộc Corpus Christi, Texas. Thứ hai, tin đặc biệt từ Hugo Gordon, người đã ghé thăm cơ sở sản xuất Phong Lan ở ngoại ô Dresden, Đức và đập tan những tin đồn không đúng cho rằng việc sản xuất thuốc chống dịch đang bị chậm lại. Chúng tôi sẽ kết thúc bản tin với một cuộc thảo luận bàn tròn gồm bốn thành viên lỗi lạc của hội hoàng gia, họ tiên đoán rằng phương thuốc chữa trị sẽ xuất hiện không phải trong vài tháng tới, mà là vài tuần tới.
Nhưng trước tiên sẽ là các tin tức về lòng quả cảm và sự kiên trì từ Bắc Brazil, nơi những người chiến đấu vì tự do hôm qua đã giành được thắng lợi quyết định trước các lực lượng du kích từ Argentina vốn bị kiểm soát bởi Immari...
CHƯƠNG 2
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Atlanta, Georgia
Bác sĩ Paul Brenner vừa dụi mắt vừa ngồi xuống bàn máy tính. Anh đã không ngủ suốt hai mươi tiếng. Đầu óc anh lừ đừ và điều đó đang làm ảnh hưởng đến công việc của anh. Anh biết mình cần để trí não được nghỉ, nhưng anh không thể khiến bản thân dừng lại. Màn hình máy tính bật lên, anh quyết định sẽ kiểm tra tin nhắn, rồi cho phép mình chợp mắt tối đa một tiếng.
1 TIN NHẮN MỚI
Anh cầm chuột và ấn vào đó, cảm thấy một luồng năng lượng mới...
TỪ: Marbella (OD-108)
CHỦ ĐỀ: Kết quả Alpha-493 (Đối tượng MB-2918)
Tin nhắn không có phần văn bản, chỉ có một đoạn video bắt đầu bật ngay tức thì. Bác sĩ Kate Warner lấp đầy màn hình, khiến Paul nhấp nhổm trên ghế. Cô tuyệt đẹp. Vì lý do nào đó, chỉ nhìn cô đủ khiến anh hồi hộp.
Thử nghiệm Dịch bệnh Atlantis Alpha-493... Kết quả âm tính. Khi video kết thúc, Paul nhấc điện thoại. “Mở một cuộc hội thảo – Tất cả mọi người – Phải, bây giờ.”
Mười lăm phút sau, anh ngồi ở cuối bàn họp nhìn mười hai màn hình trước mặt, mỗi cái lại có một gương mặt của những nhà nghiên cứu khác nhau ở những địa điểm khác nhau trên thế giới.
Paul đứng lên. “Tôi vừa nhận được kết quả của Thử nghiệm Alpha-493. Âm tính. Tôi...”
Giữa các nhà khoa học nổ ra những câu hỏi và lời buộc tội. Mười một tuần trước, ngay khi dịch bùng phát, nhóm này vẫn lãnh đạm, văn minh... tập trung.
Giờ đây, cảm giác sợ hãi đang bao trùm. Và đó là điều chắc chắn.
CHƯƠNG 3
Quận Phong Lan
Marbella, Tây Ban Nha
Vẫn là giấc mơ đó, giấc mơ khiến Kate vô cùng dễ chịu. Cô gần như cảm thấy giờ mình có thể kiểm soát nó, như một đoạn video mà cô có thể tua và xem lại theo ý mình. Nó là thứ duy nhất còn mang đến cho cô niềm vui.
Cô nằm trên giường ở Gibraltar, trên tầng hai của một tòa biệt thự chỉ cách bờ biển vài bước chân. Một luồng gió mát thổi qua cánh cửa đang mở ra hiên, đẩy mấy tấm màn trắng mỏng bằng vải lanh vào phòng, rồi để chúng rủ lại xuống tường. Cơn gió dường như trôi dạt vào rồi rút ra cùng nhịp với những ngọn sóng phía dưới và hơi thở dài, chậm rãi của cô trên giường. Đây là một khoảnh khắc hoàn hảo, mọi thứ đều hài hòa, như thể cả thế giới là một trái tim duy nhất, cùng đập một nhịp.
Cô nằm ngửa, đăm đăm nhìn trần nhà, không dám nhắm mắt. David nằm sấp cạnh cô. Cánh tay vạm vỡ của anh đặt bừa ngang bụng cô, che gần hết vết sẹo lớn ở đó. Cô những muốn chạm vào tay anh, nhưng cô không dám làm vậy – hay bất kỳ hành động nào có thể kết thúc giấc mơ này.
Cô cảm thấy cánh tay dịch chuyển một chút. Cử động nhẹ nhàng đó dường như phá vỡ cả khung cảnh, như một trận động đất, rồi đánh sập tường và trần nhà. Căn phòng rung lên lần cuối và phai về màu đen, về bóng tối, “phòng giam” chật hẹp mà cô đang ở tại Marbella. Sự thoải mái mềm mại của chiếc giường cỡ lớn biến mất và cô lại nằm trên tấm nệm thô ráp của cái giường hẹp. Nhưng... cánh tay vẫn ở đó. Không phải của David. Một cánh tay khác. Nó
đang chuyển động, với ngang bụng cô. Kate đông cứng người. Bàn tay vòng qua người, vỗ lên túi cô, rồi lần mò bàn tay nắm chặt của cô, cố lấy ống xi lanh. Cô tóm lấy cổ tay tên trộm và vặn mạnh hết sức có thể.
Một người đàn ông hét lên đau đớn trong khi Kate đứng dậy, giật sợi xích ở cái đèn phía trên và nhìn xuống...
Martin.
“Hóa ra họ cử ba đến.”
Cha nuôi của cô chật vật đứng lên. Ông đã ngoài sáu mươi và vài tháng vừa qua đã làm tổn hại đến cơ thể ông. Trông ông phờ phạc, nhưng giọng nói vẫn dịu dàng, thân mật. “Con biết đấy, đôi khi con có thể kích động thái quá, Kate ạ.”
“Con đâu phải người đột nhập vào phòng người khác rồi vỗ vỗ họ trong bóng tối.” Cô giơ xi lanh lên. “Sao ba lại cần cái này? Ở đây đang diễn ra chuyện gì vậy?”
Martin xoa xoa cổ tay và nheo mắt nhìn cô, như thể bóng đèn duy nhất đang đu đưa trong phòng khiến ông lóa mắt. Ông quay lại, cầm một cái bịch lên khỏi chiếc bàn nhỏ trong góc và đưa cho cô. “Đội vào.”
Kate lật nó lại. Đó không phải là cái bịch – nó là một chiếc mũ rộng vành mềm màu trắng. Martin hẳn đã lấy nó trong đống đồ bỏ lại của một trong những vị khách nghỉ mát ở Marbella. “Tại sao?” Kate hỏi. “Con không thể cứ tin ta được à?”
“Rõ là không.” Cô tiến về giường.
Giọng Martin ngang phè, lạnh lùng và vô cảm. “Nó dùng để che mặt con. Có lính gác bên ngoài tòa nhà này và nếu thấy con, họ sẽ bắt giam con hay tệ hơn, bắn bỏ ngay lập tức.” Ông bước ra khỏi phòng.
Kate chần chừ một lúc rồi theo ông, giữ chặt chiếc mũ bên sườn. “Đợi đã. Sao họ lại bắn con? Ba đưa con đi đâu thế?” “Con muốn câu trả lời?”
“Vâng” Cô ngập ngừng. “Nhưng con muốn kiểm tra bọn trẻ trước khi đi.”
Martin liếc nhìn cô, rồi gật đầu.
Kate mở hé cửa vào căn phòng nhỏ của hai thằng bé và thấy chúng đang làm việc mà chúng đã dành chín mươi chín phần trăm đời mình để làm: viết lên tường. Với đa số những bé trai từ bảy đến tám tuổi, mấy nét nguệch ngoạc đó thường là khủng long và lính tráng, nhưng Adi và Surya lại gần như tạo nên một tấm thảm từ bức tường này sang bức tường kia với toàn các phương trình và ký hiệu toán học.
Hai thằng bé người Indonesia vẫn biểu hiện rất nhiều tính cách đặc trưng của bệnh tự kỷ. Chúng hoàn toàn chìm đắm trong tác phẩm của mình; chẳng đứa nào nhận thấy Kate vào phòng. Adi đang đứng thăng bằng trên chiếc ghế mà nó đã đặt trên một cái bàn, rướn lên viết vào một trong những chỗ trống cuối cùng trên tường.
Kate lao tới kéo nó khỏi cái ghế. Thằng bé huơ cây bút chì trong không trung và phản kháng bằng những từ Kate không nghe ra được. Cô dịch ghế về vị trí đúng của nó: trước bàn, không phải trên mặt bàn.
Cô ngồi xổm xuống và giữ lấy hai vai Adi. “Adi, cô đã bảo con rồi: đừng có xếp đồ rồi đứng lên đó.”
“Tụi con hết chỗ rồi.”
Cô quay lại Martin. “Kiếm thứ gì cho hai đứa viết đi ba.” Ông nhìn cô đầy hoài nghi.
“Con nghiêm túc đấy.”
Ông rời đi, Kate lại tập trung vào hai thằng bé. “Tụi con đói không?”
“Lúc nãy họ có đem bánh kẹp tới.”
“Hai đứa đang làm gì thế?”
“Không nói cho cô Kate được.”
Kate nghiêm trọng gật đầu. “Phải. Tuyệt mật.”
Martin trở lại và đưa cô hai tập giấy ghi chép màu vàng. Kate với người ôm lấy cánh tay Surya để chắc chắn nó chú ý đến cô. Cô giơ hai tập giấy lên. “Từ giờ, con viết lên mấy cái này, hiểu chưa?”
Cả hai thằng bé gật đầu và cầm lấy tập giấy. Chúng lật lướt qua, săm soi từng trang xem có vết gì không. Khi đã hài lòng, chúng bước về bàn, leo lên ghế rồi tiếp tục im lặng làm việc.
Kate và Martin rời khỏi phòng, không nói gì nữa. Martin dẫn Kate đi xuôi hành lang. “Con nghĩ cứ để chúng tiếp tục như vậy là khôn ngoan à?” Martin hỏi.
“Chúng không thể hiện ra, nhưng chúng đang sợ. Và bối rối. Hai đứa thích toán bởi nó giúp chúng không nghĩ về những chuyện khác.”
“Phải, nhưng cứ để chúng bị ám ảnh như vậy có tốt không? Làm thế không khiến chúng tệ hơn sao?”
Kate dừng bước. “Tệ hơn gì cơ?”
“Nào, Kate...”
“Những người thành đạt nhất thế giới đều đơn giản là bị ám ảnh với thứ gì đó – thứ gì đó thế giới cần. Hai thằng bé đã tìm ra một thứ hữu ích mà chúng thích. Điều đó tốt cho chúng.”
“Ta chỉ có ý... là chúng sẽ thấy phiền nếu chúng ta phải đưa chúng đi.”
“Chúng ta sẽ đưa hai đứa đi à?”
Martin thở dài nhìn đi chỗ khác. “Đội mũ lên đi.” Ông dẫn cô dọc theo một hành lang nữa và quẹt thẻ khóa vào cánh cửa cuối hành lang. Ông mở cửa, ánh nắng gần như khiến Kate mờ cả mắt. Cô giơ cánh tay lên và cố bắt kịp Martin.
Quang cảnh dần rõ nét. Họ đã ra khỏi tòa nhà một tầng ngay trên bờ biển, ở rìa khu nghỉ dưỡng. Bên phải cô, ba tòa tháp nghỉ dưỡng trắng xóa vươn cao trên các tán cây nhiệt đới tươi tốt và những mảnh đất từng được trông nom cẩn thận. Hai tòa tháp khách sạn phù phiếm tạo nên sự tương phản rõ rệt với hàng rào mắt lưới cao sáu mét có kẽm gai bao quanh khu phức hợp. Trong ánh sáng ban ngày, khu nghỉ dưỡng này trông như đã bị biến thành một nhà tù. Hàng rào được dùng để giữ người ta ở trong – hay ngoài? Hay cả hai?
Với mỗi bước chân, thứ mùi nồng đậm vương trong không khí dường như càng hăng hơn. Đó là gì? Bệnh tật? Cái chết? Có thể, nhưng còn một thứ khác. Kate lướt mắt qua phần đất gần chân tháp, tìm kiếm nơi tỏa mùi. Một loạt những chiếc lều trắng dài che khuất mấy cái bàn nơi người ta dùng dao xử lý thứ gì đó. Cá. Chính là mùi cá, nhưng chỉ một phần thôi.
“Chúng ta đang ở đâu thế?”
“Khu ổ chuột Phong Lan Marbella.”
“Một quận Phong Lan?”
“Những người trong kia gọi nó là khu ổ chuột, nhưng đúng thế.” Kate tiến bước để theo kịp. Cô giữ nguyên chiếc mũ của mình. Nhìn thấy nơi này và đám rào chắn đã ngay lập tức khiến cô coi trọng lời nói của Martin hơn.
Cô liếc về phía tòa nhà spa mà họ vừa bước ra. Tường và mái của nó được bao bọc bằng một lớp phủ xám xịt. Chì là suy nghĩ đầu
tiên của Kate, nhưng trông nó rất lạ – bên bờ biển, tòa nhà nhỏ màu xám, bị chì bao phủ, nằm trong bóng mấy tòa tháp trắng bóng. Khi họ đi dọc con đường mòn, Kate thoáng thấy khu trại mấy lần nữa. Trong mỗi tòa nhà, ở mỗi tầng, đều có vài người đang đứng nhìn ra cánh cửa trượt bằng kính, nhưng lại không có bất kỳ ai ở ban công. Rồi cô nhìn thấy lý do vì sao: một vết sẹo bạc lởm chởm chạy dọc hết phần khung kim loại của mỗi cánh cửa. Chúng đã bị hàn chặt lại.
“Ba đưa con đi đâu vậy?”
Martin ra hiệu về tòa nhà một tầng phía trước. “Đến bệnh viện.” Hóa ra, “bệnh viện” là một nhà hàng lớn bên bờ biển trong khu nghỉ dưỡng.
Ở đầu kia khu trại, phía sau hai tòa tháp trắng, một đoàn xe tải hộ tống chạy động cơ diesel ồn ào, gầm lên ở cổng rồi dừng lại. Kate đứng lại quan sát. Mấy chiếc xe tải đều đã cũ, giấu các kiện hàng sau tấm vải bạt xanh đang lật phật trên rìa khung xe. Gã tài xế đi đầu gào lên với đám lính canh, rồi cánh cổng mắt lưới tách ra để chiếc xe tải đi vào.
Kate nhận thấy mấy lá cờ xanh dương treo trên tháp bảo vệ ở hai bên cổng. Ban đầu, cô tưởng đó là cờ Liên Hợp Quốc – nó có màu xanh dương nhạt, giữa có hình trắng. Nhưng hình trắng ở giữa không phải là quả địa cầu màu trắng với hai cành ô liu bao quanh. Đó là một cành lan. Mấy cái lá trắng đều đối xứng, nhưng hoa văn đỏ vươn ra từ chính giữa lại không đều nhau, giống như những tia nắng hé ra từ sau mặt trăng tối tăm trong nhật thực.
Mấy chiếc xe tải đỗ lại ngay sau cánh cổng và những tay lính bắt đầu kéo người ra – đàn ông, phụ nữ, thậm chí còn có vài đứa trẻ. Tay
mỗi người đều bị trói, nhiều người vừa chống cự lại đám bảo vệ, vừa la hét bằng tiếng Tây Ban Nha.
“Họ đang vây bắt những người sống sót,” Martin thì thầm, như thể những người kia có thể nghe thấy ông từ xa. “Bị bắt gặp ở ngoài là trái luật.”
“Tại sao?” Một ý nghĩ khác hiện lên trong Kate. “Có những người sống sót... không uống Phong Lan sao?”
“Phải. Nhưng… họ không như những gì chúng ta đã trông đợi. Rồi con sẽ thấy.” Ông dẫn cô đi hết quãng đường còn lại để đến nhà hàng, rồi sau đôi lời với tay lính gác, họ tiến vào – trong một buồng khử độc lót ni lông. Các ống phun ở trên và mỗi bên mở ra, xịt từ trên xuống dưới người họ một làn sương hơi châm chích. Đây là lần thứ hai Kate cảm thấy mừng vì có mũ. Trong góc buồng ni lông, đèn giao thông thu nhỏ chuyển từ đỏ sang xanh và Martin đi qua tấm ni lông. Ông dừng lại ngay trước ngưỡng cửa. “Con không cần mũ đâu. Mọi người ở đây đều biết con là ai.”
Khi Kate kéo mũ xuống khỏi đầu, cô lần đầu nhìn thấy toàn cảnh căn phòng rộng lớn – nơi từng là một phòng ăn. Cô gần như không thể tin được cảnh tượng đang trải ra trước mắt mình. “Đây là gì thế?”
Martin nói khẽ. “Thế giới không như những gì họ miêu tả trên radio. Đây là hình dạng thật của Dịch bệnh Atlantis.”
CHƯƠNG 4
3,2 km dưới căn cứ chiến dịch Lăng Kính của Immari Nam Cực
David Vale không thể ngưng nhìn xác của mình. Nó nằm ở hành lang, trong vũng máu của chính anh, mắt vẫn mở, nhìn chằm chằm lên trần nhà phía trên. Một cái xác khác nằm vắt qua anh – chính là kẻ đã giết anh, Dorian Sloane. Xác Sloane là một mớ hỗn độn bầy nhầy; những viên đạn cuối cùng của David đã trúng Sloane ở cự ly gần. Thi thoảng, một mẩu của trận tàn sát lại bong khỏi trần, như một chiếc piñata[∗] đang từ từ rã ra.
David đưa mắt ra khỏi cảnh tượng đó. Cái ống thủy tinh đang giữ anh rộng chưa đầy một mét, đám sương trắng dày trôi qua ống khiến nó có cảm giác còn nhỏ hơn. Anh liếc dọc xuống căn phòng khổng lồ, nhìn cả dãy ống chất chồng từ sàn đến trần, cao đến nỗi anh không thấy được nơi nó kết thúc. Lớp sương trong mấy cái ống kia dày hơn, che lấp những người nằm trong. Người duy nhất anh có thể thấy đang đứng trong ống đối diện anh. Sloane. Khác với David, hắn không hề nhìn xung quanh. Sloane chỉ chăm chăm nhìn thẳng vào David, mắt ngập tràn căm thù, cử động duy nhất là thỉnh thoảng căng cơ hàm.
David thoáng nhìn vào đôi mắt trợn trừng của kẻ đã giết anh, rồi tiếp tục săm soi cái ống của anh lần thứ một trăm. Bài huấn luyện CIA của anh không có bất cứ thứ gì như thế này: cách thoát khỏi ống ngủ đông trong một công trình hai triệu năm tuổi nằm dưới bề mặt Nam Cực 3,2 kilomét. Có lớp dạy cách thoát khỏi mấy cái ống trong những công trình một triệu năm tuổi, nhưng hôm đó anh lại cúp học. David mỉm cười trước màn pha trò chán ngắt của mình. Dù có là gì,
anh cũng chưa mất trí nhớ – hay khiếu hài hước. Khi ý nghĩ đó dần phai biến, nhớ đến cái nhìn trừng trừng không dứt của Sloane, David đánh rơi nụ cười, hy vọng màn sương đã che giấu nó khỏi mắt kẻ thù.
David cảm thấy một cặp mắt khác đang nhìn mình. Anh nhìn lên nhìn xuống căn phòng. Trống trơn, nhưng David chắc chắn có người đã ở đó. Anh cố ngả về phía trước, rướn người nhìn sâu hơn vào hành lang với mấy xác chết. Không gì. Khi anh lướt nhìn quanh, có gì đó đánh động anh – Sloane. Hắn không nhìn David. David dõi theo ánh mắt Sloane vào căn phòng rộng. Một người đàn ông đang đứng giữa hai cái ống của họ. Chí ít ông ta cũng trông giống người. Ông ta đến từ bên ngoài hay bên trong công trình này? Ông ta có phải là người Atlantis? Dù là gì, ông ta cũng cao lớn, dễ phải hơn mét tám, mặc bộ vest đen phẳng lì trông như quân phục. Da ông ta trắng, gần như trong suốt, và ông ta đã cạo râu sạch sẽ. Ông ta chỉ có một mớ tóc dày màu trắng trên đỉnh đầu, trông có vẻ hơi quá khổ với thân hình của mình.
Người đàn ông đứng đó một lúc, nhìn từ David sang Sloane rồi ngược lại, như thể ông ta là một tay chơi cá cược đang diễu qua các chuồng ngựa, cân đo đong đếm hai con ngựa nòi trước cuộc đua lớn.
Rồi một tiếng động đều đều phá tan sự im lặng và bắt đầu vang khắp căn phòng: tiếng chân trần giậm trên sàn kim loại. Mắt David dõi theo tiếng động. Sloane. Hắn đã thoát ra. Hắn tập tễnh hết sức có thể về phía mấy cái xác – và những khẩu súng cạnh chúng. David nhìn người Atlantis kia ngay khi ống của anh trượt mở. David nhảy ra, khập khiễng trên đôi chân chẳng hề dễ điều khiển của mình và rồi
lê bước về phía trước. Sloane đã đi được nửa đường đến chỗ mấy khẩu súng.
CHƯƠNG 5
Quận Phong Lan
Marbella, Tây Ban Nha
Bệnh viện tạm bợ được chia thành hai khu và Kate khó mà hiểu được thứ cô thấy. Giữa phòng, những chiếc giường nhỏ xếp dài ra, nối đuôi nhau, như một bệnh viện dã chiến. Người ta nằm rên rỉ và co giật, vài người đang hấp hối, những người còn lại thì lúc ngất lúc tỉnh.
Martin bắt đầu bước sâu hơn vào phòng. “Bệnh dịch này khác với đợt bùng phát năm 1918.”
Đợt bùng phát đầu tiên mà Martin nói tới là đại dịch cúm Tây Ban Nha đã lan ra toàn cầu năm 1918, giết chết khoảng năm mươi triệu người và khiến một tỷ người nhiễm bệnh. Kate và David đã phát hiện ra điều mà Martin và những tên chủ Immari của ông đã biết gần một trăm năm: bệnh dịch đó được giải phóng bởi một cổ vật cha cô đã giúp lấy ra từ công trình Atlantis ở Gibraltar.
Những câu hỏi vùn vụt chạy trong đầu Kate, nhưng khi nhìn kỹ mấy hàng giường và những con người sắp chết kia, cô chỉ có thể thốt lên, “Sao họ lại hấp hối? Con tưởng Phong Lan đã ngăn được diễn biến của dịch rồi mà.”
“Đúng vậy. Nhưng chúng ta đang chứng kiến thuốc mất tác dụng. Chúng ta ước lượng trong vòng một tháng, mọi người sẽ trở nên nhờn Phong Lan. Một vài người đang hấp hối đã tình nguyện thử nghiệm. Đó là những người con vừa thấy.”
Kate bước lại gần một chiếc giường, xem xét mọi người, tự hỏi... “Chuyện gì sẽ xảy ra khi Phong Lan không dùng được nữa?”
“Không có Phong Lan, gần chín mươi phần trăm những người nhiễm bệnh sẽ chết trong vòng bảy mươi hai tiếng.” Kate không thể tin được. Những con số đó chắc chắn không đúng. “Không thể nào. Tỷ lệ tử vong năm 1918...”
“Thấp hơn nhiều, đúng thế. Đó là một điểm cho thấy dịch bệnh này khác biệt. Chúng ta đã nhận ra các điểm khác biệt khác khi bắt đầu thấy những người sống sót.” Martin dừng lại và hất đầu về phía một loạt các xà lim được rào chắn một phần, nằm dọc tường phòng ăn. Với Kate, những người trong đó trông khỏe mạnh, nhưng hầu hết toàn túm tụm lại với nhau, không nhìn ra ngoài. Có gì đó rất không ổn với họ, nhưng cô không thể chỉ ra đó là gì. Cô tiến một bước về phía họ.
Martin tóm lấy cánh tay cô. “Đừng tiếp cận họ. Những người sống sót này có vẻ, về cơ bản là... tiến hóa ngược. Kiểu như hoạt động não của họ bị rối tung cả lên. Vài người tệ hơn những người khác, nhưng đó là một trạng thái thoái hóa.”
“Điều này xảy ra với tất cả những người sống sót sao?” “Không. Khoảng một nửa bị kiểu tiến hóa ngược này.” “Và nửa còn lại?” Kate gần như phát hãi chờ câu trả lời. “Theo ta.”
Martin nói mấy câu với một lính gác ở cuối phòng, và khi anh ta đứng dịch sang bên, họ bước vào một phòng ăn nhỏ hơn. Các cửa sổ đều đã bị đóng ván kín mít và mọi ngóc ngách trong căn phòng đều được chia thành những xà lim lớn, chỉ trừ một lối đi hẹp ở giữa.
Martin không tiến sâu vào phòng. “Đây là những người sống sót còn lại – những người đã gây rắc rối trong trại.”
Căn phòng tù túng hẳn đang giữ hơn một trăm người sống sót, nhưng nó im bặt. Không ai cử động. Họ đều đứng nhìn Kate và
Martin chằm chằm với những đôi mắt lạnh lùng, vô cảm. Ch Martin tiếp tục thấp giọng. “Không có thay đổi đáng kể nào về thể trạng. Chúng ta chưa thấy gì cả. Nhưng họ lại trải qua sự thay đổi về hoạt động não. Họ trở nên thông minh hơn. Giống việc tiến hóa ngược, mỗi người lại bị ảnh hưởng một kiểu khác nhau, nhưng vài cá thể biểu hiện các khả năng giải quyết vấn đề phi thường. Vài người trở nên mạnh hơn một chút. Và còn một chủ đề nữa: sự cảm thông và trắc ẩn có vẻ lại mất đi. Như ta đã nói, mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả những người sống sót đều có vẻ như đang bị giảm chức năng xã hội.”
Như được ai ra hiệu, đám người ở cả hai bên phòng rẽ ra, để lộ những chữ cái màu đỏ trên bức tường phía sau họ. Họ đã viết những chữ đó bằng máu.
Phong Lan không thể ngăn Darwin.
Phong Lan không thể ngăn Tiến hóa.
Phong Lan không thể ngăn Bệnh dịch.
Phía bên kia phòng, một người sống sót khác đã viết: Dịch bệnh Atlantis = Tiến hóa = Số mệnh Loài người. Trong xà lim bên cạnh có những chữ:
Tiến hóa là không thể tránh khỏi.
Chỉ kẻ ngốc mới chống lại số phận.
“Chúng ta không chỉ đang chống lại bệnh dịch,” Martin thì thầm. “Chúng ta đang chống lại những người sống sót, những người không muốn thuốc chữa, những người coi điều này là bước kế tiếp của nhân loại hay một sự khởi đầu hoàn toàn mới.”
Kate chỉ đứng đó, không chắc nên nói gì.
Martin quay lại dẫn Kate ra khỏi phòng, về lại phòng chữa trị chính, rồi qua một cánh cửa nữa đến một nơi hẳn đã từng là bếp,
nhưng giờ đã thành một phòng thí nghiệm. Sáu nhà khoa học ngồi trên ghế đẩu, làm việc với những thiết bị đặt trên bàn thép. Họ đều ngẩng lên nhìn Kate, rồi từng người một dừng công việc của mình lại và bắt đầu trố mắt ra to nhỏ với nhau. Martin vòng cánh tay qua người cô và vừa gọi với ra sau,”Tiếp tục đi,” vừa đưa Kate đi nhanh qua căn bếp. Ông đột ngột dừng lại trước một cánh cửa trong hành lang hẹp sau bếp. Ông đánh mật mã vào một tấm bảng nhỏ, cửa bật mở với một tiếng rít. Họ bước vào trong, rồi ngay khi cửa đóng kín lại, ông chìa tay ra. “Mẫu thử.”
Kate vân vê cái ống nhựa trong túi. Ông chỉ mới nói cho cô một nửa câu chuyện – chỉ vừa đủ để lấy thứ ông cần. Cô ngả người ra. “Tại sao các ảnh hưởng của dịch bệnh lần này lại khác? Tại sao nó không xảy ra giống năm 1918?”
Martin bước ra xa khỏi cô và ngồi phịch xuống một cái ghế ở chiếc bàn gỗ cũ nát. Đây hẳn đã từng là văn phòng của quản lý nhà hàng. Nó có một ô cửa sổ nhỏ nhìn ra sân. Chiếc bàn phủ đầy những thiết bị Kate không nhận ra được. Sáu màn hình máy tính lớn treo trên tường, biểu thị các bản đồ và đồ thị, đang cuộn xuống những hàng chữ dài bất tận, giống như dòng tiêu đề tin tức thị trường chứng khoán.
Martin day thái dương, rồi lật vài tờ giấy. “Dịch bệnh khác vì chúng ta khác. Bộ gene con người không thay đổi là bao, nhưng não chúng ta hoạt động rất khác so với một trăm năm trước. Chúng ta xử lý thông tin nhanh hơn. Chúng ta dành cả ngày đọc email, xem ti vi, ngấu nghiến thông tin trên Internet, dính lấy mấy cái điện thoại thông minh của mình. Chúng ta biết cách sống, cách ăn uống, thậm chí cả căng thẳng, có thể ảnh hưởng đến sự kích hoạt gene và điều đó tác động trực tiếp đến cách mầm bệnh ảnh hưởng chúng ta. Thời khắc
này trong sự phát triển của chúng ta chính là điều mà kẻ đã tạo nên Dịch bệnh Atlantis mong chờ. Dịch bệnh này như được sắp đặt cho chính thời khắc này, cho não người đạt đến điểm chín muồi để có thể sử dụng.”
“Sử dụng cho việc gì?”
“Đó chính là câu hỏi, Kate. Chúng ta không biết đáp án, nhưng chúng ta có vài manh mối. Như con đã thấy, chúng ta biết Dịch bệnh Atlantis vận hành chủ yếu trên hoạt động não. Với một nhóm nhỏ những người sống sót, nó có vẻ tăng cường hoạt động não. Với những người sống sót còn lại, nó phá tung hoạt động não. Nó giết toàn bộ những người khác – rõ ràng là nó không có tác dụng gì với những người đó. Dịch bệnh đang biến đổi nhân loại ở mức độ di truyền học – thực sự biến đổi sinh học chúng ta thành một kết quả theo ý muốn nào đó.”
“Ba có biết bệnh dịch nhắm tới những gene nào không?” “Không, nhưng chúng ta sắp tìm ra rồi. Giả định hiện nay của chúng ta là Dịch bệnh Atlantis chỉ đơn giản là một sự cập nhật về gene đang cố điều khiển gene Atlantis. Nó đang cố hoàn tất sự thay đổi trong hoạt động não vốn đã bắt đầu bảy mươi ngàn năm trước với sự xuất hiện của Dịch bệnh Atlantis – Bước Đại Nhảy Vọt đầu tiên. Nhưng chúng ta không biết nước cờ cuối là gì. Một Bước Đại Nhảy Vọt thứ hai – ép chúng ta tiến bộ – hay là một bước đại thụt lùi – một sự đảo ngược quy mô lớn trong quá trình tiến hóa loài người?” Kate cố tiêu hóa thông tin này. Ngoài cửa sổ, một trận chiến lớn nổ ra trên phần sân gần tòa tháp gần nhất. Một hàng người chạy tán loạn, một nhóm xông vào đám lính gác. Kate nghĩ đó cũng chính là nhóm vừa được đưa đến, nhưng cô không chắc.
Martin liếc nhanh ra cửa sổ rồi lại tập trung về Kate. “Hay có bạo loạn lắm, nhất là khi một nhóm mới được đưa đến.” Ông chìa một bàn tay ra. “Ta rất cần mẫu thử đó, Kate.”
Kate lướt mắt qua căn phòng lần nữa – đống thiết bị, các màn hình, những đồ thị trên tường. “Đây là cuộc thử nghiệm của ba, đúng không? Ba là giọng nói trong căn phòng kia. Con đang làm việc cho ba.”
“Tất cả chúng ta đều làm việc cho ai đó...”
“Con đã bảo là con muốn câu trả lời mà.”
“Câu trả lời là phải. Đây là thử nghiệm của ta.”
“Tại sao? Sao lại nói dối con?” Kate hỏi, không thể giấu được sự đau đớn trong giọng mình. “Con đáng ra đã có thể giúp ba.” “Ta biết, nhưng con cũng sẽ đặt câu hỏi. Ta đã mong chờ ngày này – nói cho con sự thật, nói cho con những việc ta đã làm, nói cho con tình trạng thế giới. Ta muốn che chở con khỏi nó... lâu hơn một chút.” Martin nhìn tránh đi và trong giây phút đó, ông trông già đi rất nhiều. “Phong Lan. Đó là một lời dối trá, phải không?”
“Không. Phong Lan là thật. Nó ngăn chặn dịch bệnh, nhưng nó chỉ câu giờ cho chúng ta thôi, và nó đang mất tác dụng. Chúng ta đang gặp trục trặc về sản xuất và mọi người đang mất hy vọng.” “Ba không thể phát triển nó qua một đêm,” Kate nói.
“Không. Phong Lan là kế hoạch dự phòng của chúng ta – thực ra là kế hoạch dự phòng của cha con. Ông ấy bắt chúng ta giả định rằng một bệnh dịch sẽ được giải phóng và buộc chúng ta phải tìm thuốc chữa trong trường hợp bệnh dịch xảy ra. Chúng ta đã phát triển nó hàng thập kỷ, nhưng không thực sự đạt được tiến bộ gì cho đến khi tìm ra thuốc trị HIV.”
“Khoan đã, có thuốc trị HIV sao?”
“Ta sẽ nói mọi thứ cho con, Kate, ta thề. Nhưng ta cần mẫu thử. Và ta cần con quay về phòng. Ngày mai, đội SAS[∗] sẽ đến tìm con. Họ sẽ đưa con đến Anh, đến nơi an toàn.”
“Gì cơ? Con không đi đâu hết. Con muốn giúp.”
“Con có thể giúp. Nhưng ta cần phải biết con được an toàn.” “An toàn khỏi cái gì?” Kate hỏi.
“Hội Immari. Chúng đã đưa quân vào Địa Trung Hải rồi.” Những bản tin radio mà Kate đã nghe chủ yếu nói về việc lực lượng Immari bại trận ở các quốc gia thuộc thế giới thứ ba. Cô không nghĩ nhiều về chuyện đó. “Hội Immari là một mối đe dọa ư?” “Hẳn rồi. Chúng đã chiếm được phần lớn bán cầu Nam.” “Không phải chứ...”
“Thật đấy.” Martin lắc đầu. “Con không hiểu. Khi Dịch bệnh Atlantis nổ ra, hơn một tỷ người đã nhiễm bệnh trong vòng hai mươi tư tiếng. Rồi bọn Immari bắt đầu càn quét thế giới. Chúng đưa ra một giải pháp lạ thường: một hội những người sống sót – nhưng chỉ những người tiến hóa nhanh, những kẻ được chúng gọi là “người được chọn”. Chúng bắt đầu với bán cầu Nam, với những quốc gia dân số đông gần Nam Cực. Chúng cai trị Argentina, Chile, Nam Phi và cả tá nước khác.”
“Gì cơ...”
“Chúng đang xây dựng một đội quân để xâm chiếm Nam Cực.” Kate nhìn ông chằm chằm. Không thể nào. Các bản tin BBC lạc quan lắm mà. Cô vô thức lấy ống xi lanh ra khỏi túi đưa cho ông. Martin lấy cái ống và xoay ghế lại. Ông bấm nút trên một chiếc bình trông như phích nước với bảng hiển thị nhỏ và một thứ giống điện thoại vệ tinh gắn bên cạnh. Nắp bình mở ra, Martin thả ống nhựa vào.
Qua cửa sổ, trận chiến trong khu trại trở nên căng thẳng hơn. “Ba đang làm gì thế?” Kate hỏi.
“Cập nhật kết quả của chúng ta lên hệ thống.” Ông ngoái lại nhìn cô. “Chúng ta là một trong nhiều địa điểm. Ta nghĩ chúng ta sắp tìm được rồi, Kate.”
Những vụ nổ ở khu trại che kín ô cửa sổ nhỏ, Kate thậm chí có thể cảm nhận được luồng khí nóng qua bức tường. Martin gõ mạnh bàn phím, các màn hình chuyển sang cảnh khu trại, rồi đến bờ biển. Một nhóm trực thăng đen lấp đầy màn hình. Martin đứng bật dậy ngay trước khi tòa nhà rung chuyển, đẩy Kate xuống sàn. Tai cô ù lên và cô cảm thấy Martin nhảy lên người cô, che chở cô khỏi đống gạch vỡ trên trần đang rơi xuống.
CHƯƠNG 6
3,2 km bên dưới căn cứ chiến dịch Lăng Kính của Immari
Nam Cực
Dorian đã gần đến chỗ mấy cái xác – và những khẩu súng – trong hành lang ngoài căn phòng khổng lồ. Từ sau lưng, hắn nghe thấy tiếng chân trần của David giậm trên sàn. Dorian định nhảy thì David chặn lại, khiến hắn đập mặt xuống sàn. Một tiếng gào chói tai vang khắp không gian khi da thịt hắn trượt ngang mặt sàn lạnh lẽo.
Họ dừng lại tại vũng máu đang khô quanh hai cái xác – xác của họ. Dorian đến nơi trước kẻ đang đuổi theo mình. Hắn nâng cái xác đẫm máu của mình trên sàn lên đủ xa để giáng cùi chỏ vào mặt David.
David loạng choạng lùi lại, Dorian liền nắm lấy cơ hội. Hắn xoay người và ném David ra khỏi mình, rồi cố lấy khẩu súng ngắn nằm cách đó gần hai mét. Hắn phải với được nó; đó là cơ hội duy nhất của hắn. Dù Dorian sẽ không bao giờ lên tiếng thừa nhận, nhưng David rõ ràng là một trong những chiến binh cận chiến giỏi nhất hắn từng thấy. Đây là một trận chiến sống còn, và nếu không có khẩu súng, Dorian biết hắn sẽ thua.
Dorian cảm thấy móng tay David đâm vào sau đùi mình ngay trước khi nắm đấm của anh giội thẳng vào lưng dưới của hắn. Con đau lan từ lưng đến bụng rồi kéo lên ngực hắn. Các con buồn nôn trào lên. Dorian ọe ra đúng lúc cú đấm thứ hai vung lên cao hơn, ngay giữa lưng hắn, thẳng vào cột sống. Con đau đang lan khắp người gần như rút hẳn đi khi hắn mất cảm giác ở hai chân. Hắn đổ
rạp xuống sàn trong lúc David bò lên người hắn, chuẩn bị kết liễu hắn với một cú đánh vào sau đầu.
Dorian áp hai bàn tay xuống sàn nhà đẫm máu, rồi với tất cả sức mạnh tập hợp lại được, hắn nâng người lên, vung đầu ra sau. Hắn đập thẳng vào cằm David, khiến anh mất thăng bằng.
Dorian lại vật người xuống sàn và dùng hai cùi chỏ bò kiểu biệt kích, kéo cơ thể qua vũng máu. Hắn lấy được súng, vừa lật người lại thì David ngồi ngay lên hắn. Dorian giương súng, nhưng David nắm lấy cổ tay hắn. Qua khóe mắt, Dorian thấy người Atlantis kia bước lại gần. Ông ta thản nhiên nhìn, như một khán giả chưa đặt cược vào vòng cẩu chiến này.
Dorian cố suy nghĩ – hắn phải chiếm lại lợi thế bằng cách nào đó. Hắn thả lỏng hai cánh tay và để chúng rơi thõng xuống sàn. David chồm lên nhưng vẫn giữ chặt nắm tay của mình. Dorian xoay khẩu súng trong tay phải, chĩa vào người Atlantis và bóp cò.
David thả tay trái của Dorian ra và liều mình nắm lấy khẩu súng bằng tay phải. Dorian chụm các ngón tay trái lại thành mũi dùi, đâm thẳng vùng bụng trên của David, khiến cơ hoành tê liệt. David thở hổn hển và lảo đảo lùi lại. Dorian gỡ nắm tay của David, giơ súng bắn một phát vào đầu anh. Rồi hắn quay súng ra bắn người Atlantis kia cho đến hết ổ đạn.
CHƯƠNG 7
3,2 km bên dưới căn cứ chiến dịch Lăng Kính của Immari
Nam Cực
Người Atlantis nhìn Dorian với ánh mắt có chút hứng thú. Những viên đạn của Dorian đã xuyên thẳng qua ông ta. Mắt Dorian chuyển sang khẩu súng còn lại trong phòng.
“Muốn thử một khẩu súng khác không, Dorian? Cứ việc. Ta sẽ chờ. Ta có nhiều thời gian lắm.”
Dorian sững người. Thứ này biết tên hắn. Và nó không hề sợ. Người Atlantis bước gần lại Dorian. Ông ta đứng trong bãi máu, nhưng không có bất kỳ giọt máu nào dính vào chân ông ta. “Ta biết ngươi đến đây để làm gì, Dorian.” Ông ta nhìn Dorian chằm chằm, không hề chớp mắt. “Ngươi xuống đây để cứu cha và giết kẻ thù của ngươi – để giúp thế giới được an toàn. Ngươi vừa giết chết kẻ thù duy nhất của mình ở dưới này.”
Dorian rời mắt khỏi con quái vật và nhìn quanh phòng xem có thứ gì, bất cứ thứ gì hắn có thể dùng không. Chân hắn có lại cảm giác, rồi hắn đứng lên và loạng choạng lùi ra sau, tránh xa khỏi người Atlantis, không một lần rời mắt khỏi ông ta. Người Atlantis vừa nhìn Dorian chằm chằm vừa mỉm cười, nhưng không có vẻ định di chuyển.
Mình phải thoát ra, Dorian nghĩ. Tâm trí hắn chạy hết tốc lực. Mình cần gì? Một bộ đồ phòng hộ. Cha Dorian đã mặc bộ đồ của hắn ra ngoài. Bộ của Kate đã bị hư hại, nhưng có lẽ hắn sửa được. Bộ đồ hai thằng bé mặc lại quá nhỏ so với hắn, nhưng có thể hắn sẽ dùng
được một chút để vá bộ của Kate. Hắn chỉ cần được bảo vệ khỏi cái lạnh trong vài phút – chỉ vừa đủ để lên mặt đất và ra lệnh tấn công. Hắn quay lại chạy vụt dọc hành lang, nhưng các cánh cửa đóng sầm trước mặt và xung quanh hắn, khép kín mọi lối thoát. Người Atlantis hiện ra trước Dorian. “Ngươi có thể đi khi ta cho phép, Dorian.”
Dorian nhìn ông ta, một vẻ thách thức lẫn sửng sốt hiện lên trên mặt.
“Thế nào đây, Dorian? Cách dễ hay cách khó?” Ông ta chờ đợi, rồi khi thấy Dorian không đáp lại, ông ta bình thản gật đầu. “Cứ thế đi.” Dorian cảm thấy không khí bị rút khỏi căn phòng như máy hút bụi. Mọi âm thanh dần biến mất và một cú đấm buốt nhói giáng trúng ngực hắn. Hắn mở miệng cố hít lấy không khí trong vô vọng. Hắn khuỵu gối. Tầm nhìn của hắn lốm đốm nốt đen. Hắn ngã xuống sàn và chìm vào bóng tối.
CHƯƠNG 8
Quận Phong Lan
Marbella, Tây Ban Nha
Kate đẩy Martin lăn khỏi người mình và nhanh chóng xem xét, đánh giá vết thương của ông. Máu tuôn ra từ một vết cắt sau đầu ông. Kate tưởng ông có thể bị chấn động nhẹ, nhưng ngạc nhiên thay, ông nheo mắt, chớp vài lần rồi nhảy bật dậy. Ông quan sát quanh phòng và Kate nhìn theo ánh mắt ông. Hầu hết các máy tính và thiết bị trên bàn đều đã bị phá hủy.
Martin bước đến một cái tủ và lấy điện thoại vệ tinh cùng hai khẩu súng lục ra. Ông đưa một khẩu súng cho Kate.
“Bọn Immari sẽ cố đóng cửa khu trại,” Martin vừa nói vừa bắt đầu cho đồ vào ba lô. Ông nhanh chóng kiểm tra thiết bị giống phích nước trên bàn, rồi nhét nó vào túi cùng vài quyển sổ và một chiếc máy tính. “Chúng vẫn đang chiếm các đảo ở Địa Trung Hải, thử nghiệm các vành đai xem liệu các quốc gia Phong Lan có thể, hay sẽ có thể đánh bại chúng không.”
“Họ có thể không?”
Tòa nhà đã ổn định lại, Kate muốn chữa trị vết thương trên đầu Martin, nhưng ông lại đang gấp rút chạy quanh phòng quá nhanh. “Không. Liên minh Phong Lan gần như không bám trụ được nữa. Tất cả nguồn lực – kể cả quân đội – đều được dùng để sản xuất Phong Lan. Không có ai đến giúp đâu. Chúng ta cần ra khỏi đây.” Ông đặt một thiết bị có hình quả trứng lên bàn và vặn nắp. Nó bắt đầu kêu tích tắc.
Kate cố tập trung. Martin đang phá hủy văn phòng. Họ sẽ không quay lại đây. Cô lập tức nghĩ đến tòa nhà spa và bọn trẻ. “Ta cần đến
chỗ Adi và Surya.”
“Kate, chúng ta không có thời gian. Chúng ta sẽ quay lại tìm chúng – với đội SAS đang trên đường đến.”
“Con không bỏ chúng lại đâu. Con sẽ không làm thế” Kate nói với sự dứt khoát mà cô biết Martin sẽ nhận ra. Ông đã nhận nuôi Kate khi cô mới lên sáu, ngay sau khi cha ruột cô biến mất, và Martin hiểu cô đủ rõ để biết ông sẽ không thể thỏa hiệp.
Ông lắc đầu, ánh mắt nhuốm vẻ bối rối lẫn hoài nghi. “Được, nhưng con tốt nhất là nên sẵn sàng sử dụng thứ đó đi.” Ông ra hiệu về phía khẩu súng. Rồi ông bấm mã khóa để ra khỏi văn phòng, dừng lại một chút để Kate ra ngoài, rồi bấm mã bên ngoài để khóa cửa.
Hành lang ngập khói, và tại nơi giao với nhà bếp, một ngọn lửa nổi lên bừng bừng, những tiếng la hét vọng ra từ khoảng không đầy khói. “Có lối thoát nào khác...”
“Không. Phòng khử trùng là lối duy nhất,” Martin vừa nói vừa tiến lên trước cô. Ông giơ súng lên. “Chúng ta sẽ chạy. Bắn bất kỳ ai – bất kỳ ai – cố ngăn ta lại.”
Kate liếc xuống khẩu súng và ngay giây phút đó, nỗi sợ hãi chiếm lấy cô. Trước đây cô chưa từng bắn súng, vậy nên cô không chắc mình có thể bắn ai đó. Martin nắm lấy khẩu súng, kéo khóa nòng khiến thứ gì đó kêu lách cách. “Không phức tạp đâu. Chỉ cần nhắm và bóp cò thôi.” Ông quay lại lao vào căn bếp ngập tràn khói lửa.
CHƯƠNG 9
3,2 km bên dưới căn cứ chiến dịch Lăng Kính của Immari
Nam Cực
Dorian ráng sức nhìn bóng hình lờ mờ. Hắn không thể thở sâu – chỉ thở ngắn, đứt quãng, khiến hắn cảm thấy mình như đang đuối nước. Cả người hắn đau nhức. Phổi hắn nhói lên khi có không khí vào.
Dáng người kia rõ nét lên. Người Atlantis – đứng trên hắn, nhìn hắn, đợi... gì?
Dorian cố nói, nhưng phổi hắn không đủ hơi. Hắn bật ra một tiếng lạo xạo rồi nhắm mắt. Có thêm một chút không khí. Hắn mở mắt. “Ngươi... muốn gì?”
“Ta muốn cái ngươi muốn, Dorian. Ta muốn ngươi cứu loài người khỏi tuyệt chủng.”
Dorian nheo mắt nhìn ông ta.
“Bọn ta không như những gì ngươi nghĩ, Dorian. Bọn ta sẽ không bao giờ làm hại ngươi, giống như việc cha mẹ không bao giờ làm hại con mình.” Hắn gật đầu. “Thật đấy. Bọn ta đã tạo ra ngươi.” “Vớ vẩn,” Dorian đáp trả.
Người Atlantis lắc đầu. “Hệ gene con người phức tạp hơn nhiều so với những gì hiện tại ngươi biết. Bọn ta đã gặp rất nhiều rắc rối với chức năng ngôn ngữ của các ngươi. Rõ là bọn ta còn nhiều việc để làm.”
Giờ Dorian bắt đầu thở bình thường, rồi hắn ngồi dậy. Người Atlantis kia muốn gì? Sao lại úp mở như thế? Ông ta rõ ràng là người điều khiển con tàu. Sao ông ta lại cần mình? Người Atlantis trả lời,
như thể Dorian vừa nói to suy nghĩ mình. “Đừng lo về việc ta muốn gì.” Phía bên kia phòng, những cánh cửa nặng nề trượt ra. “Theo ta.” Dorian đứng dậy và nghĩ một lúc. Mình có lựa chọn nào? Ông ta có thể giết mình nếu muốn. Mình sẽ giải câu đố này và chờ cơ hội. Người Atlantis nói trong lúc dẫn Dorian dọc một hành lang khác lờ mờ ánh đèn và phủ kim loại xám. “Ngươi khiến ta ngạc nhiên đấy, Dorian. Ngươi thông minh, nhưng sự căm phẫn và sợ hãi kiểm soát ngươi. Nghĩ logic đi này: bọn ta đến đây trên một phi thuyền sử dụng những khái niệm vật lý mà giống loài các ngươi thậm chí chưa khám phá ra. Các ngươi chạy lăng xăng quanh hành tinh bé nhỏ này trong những cái lon nhôm sơn màu sẽ đốt cháy phế tích hóa lỏng của các loài bò sát cổ. Ngươi thật lòng nghĩ mình có thể đánh bại bọn ta trong một trận chiến à?”
Trí não Dorian nhớ đến ba trăm đầu đạn hạt nhân xếp quanh vỏ tàu.
Người Atlantis quay sang hắn. “Ngươi nghĩ bọn ta không biết bom hạt nhân là gì sao? Bọn ta đã tách hạt nhân trước khi các ngươi biết bổ củi. Con tàu này có thể chịu đựng lực của mọi đầu đạn hạt nhân trên hành tinh này. Ngươi sẽ chẳng làm được gì ngoài việc khiến băng trên lục địa này nóng chảy, gây lũ lụt cho thế giới và kết liễu nền văn minh của mình. Tỉnh táo lên, Dorian. Nếu bọn ta muốn giết các ngươi thì các ngươi đã chết rồi. Các ngươi lẽ ra đã chết từ hàng chục ngàn năm trước. Nhưng bọn ta đã cứu các ngươi, và bọn ta đã dẫn lối cho các ngươi từ đó đến giờ.”
Người Atlantis kia hẳn đang nói dối. Ông ta đang cố thuyết phục Dorian không tấn công nữa sao?
Người Atlantis mỉm cười. “Vậy là ngươi vẫn không tin. Ta đoán là ta không nên ngạc nhiên. Bọn ta đã lập trình cho các ngươi như vậy
– tồn tại, tấn công mọi mối đe dọa đến sự tồn tại của các ngươi.” Dorian tảng lờ ông ta. Hắn giơ cánh tay ra, bước lại gần và lướt bàn tay qua người Atlantis. “Ngươi không ở đây.”
“Thứ người nhìn thấy là thế thân của ta.”
Dorian ngó quanh. Bây giờ hắn mới thấy có chút tia hy vọng. “Ngươi đang ở đâu?”
“Ta sẽ nói về chuyện đó sau.”
Một cánh cửa trượt ra, người Atlantis bước vào.
Dorian quan sát căn phòng nhỏ. Hai bộ đồ phòng hộ treo trên tường và một chiếc cặp bạc bóng loáng đặt trên băng ghế bên dưới. Trí óc hắn bắt đầu lập nên một kế hoạch đào thoát. Ông ta không ở đây. Ông ta là hình chiếu. Mình có thể vô hiệu hóa ông ta không?
“Ta đã bảo ngươi là chúng ta có thể làm việc này theo cách dễ hoặc cách khó mà, Dorian. Ta sẽ để ngươi đi. Giờ thì mặc bộ đồ vào.”
Dorian nhìn bộ đồ, rồi quan sát quanh phòng, vô vọng tìm thứ gì đó hắn có thể dùng. Cánh cửa đóng sầm lại, và Dorian cảm thấy không khí rút đi. Hắn với lấy bộ đồ và bắt đầu mặc vào. Trong đầu hắn, một kế hoạch được hình thành. Hắn giữ mũ phòng hộ dưới cánh tay phải, và người Atlantis chỉ về phía chiếc cặp bạc.
“Cầm chiếc cặp đi.”
Dorian liếc nó.
“Cái gì...”
“Chúng ta nói xong rồi, Dorian. Cầm cặp đi, nhớ đừng mở nó ra. Bất kể chuyện gì xảy ra, đừng mở chiếc cặp.”
Dorian lấy chiếc cặp và theo người Atlantis ra khỏi phòng, đi dọc hành lang về lại khoảng không gian rộng nơi các xác chết đang nằm. Cánh cửa trượt ban nãy đóng kín giờ đã mở ra, cả hầm mộ rộng lớn
trải ra trước mắt hắn. Dorian liếc cái ống đang mở, nơi David đã thoát ra. Cả hắn và David đều... “hồi sinh” trong mấy cái ống sau khi chết. Liệu David có trở lại lần nữa không? Nếu có thì rắc rối đây. Dorian chỉ vào cái ống trống không của David. “Thế còn...”
“Ta đã lo liệu hắn rồi. Hắn không quay lại đâu.”
Một ý nghĩ khác hiện lên trong đầu Dorian: sự cách biệt thời gian. Cha hắn đã ở dưới này tám mươi bảy năm, nhưng bên trong, mới chỉ có tám mươi bảy ngày trôi qua. Quả Chuông ở vòng ngoài tạo nên một quả bóng giãn nở thời gian. Một ngày ở trong là một năm ở ngoài. Ngoài kia sẽ là năm nào đây? Hắn đã ở trong ống bao lâu? “Năm nào...”
“Ta đã vô hiệu hóa thiết bị các ngươi gọi là Quả Chuông. Mới vài tháng trôi qua thôi. Giờ đi đi. Ta không nói lần nữa đâu.” Không nói thêm lời nào, Dorian chạy dọc hành lang. Có một vệt máu mỏng – của cha hắn. Dorian thở phào khi những giọt máu đó trở nên nhỏ hơn sau mỗi bước chân của hắn và cuối cùng cũng hết. Chúng ta sẽ lại gặp nhau sớm thôi, và chúng ta sẽ kết thúc chuyện này. Giấc mơ cả đời của hắn lại một lần nữa trong tầm tay. Trong phòng khử độc dài, hắn thấy bộ đồ rách rưới của Kate và hai bộ đồ nhỏ hơn mà bọn trẻ từ phòng thí nghiệm của cô đã mặc. Dorian bước đến cánh cổng và cài chặt mũ phòng hộ. Hắn đợi, chiếc cặp kẹp dưới cánh tay phải.
Ba miếng tam giác của cánh cổng vặn ra, Dorian nhanh chóng bước về phía chúng. Ngay trước khi băng qua ngưỡng cửa, hắn ném chiếc cặp sang một bên.
Một trường lực vô hình mạnh như bức tường thép đập vào hắn, đẩy hắn vào lại căn phòng.
“Đừng quên hành lý của ngươi, Dorian,” giọng người Atlantis vang lên trong mũ phòng hộ của hắn.
Dorian nhặt chiếc cặp sáng bóng lên. Mình làm gì còn lựa chọn nào khác? Mình sẽ để chiếc cặp bên ngoài lối vào. Sẽ không có vấn đề gì hết. Hắn ra khỏi tàu và dừng lại nhìn xung quanh. Cảnh tượng vẫn giống như khi hắn bước vào cánh cổng lúc ban đầu: một căn phòng băng có trần cao, một ụ tuyết với cái giỏ kim loại nát bấy và một đống dây thép, cùng một cái ống băng tròn rộng khoảng ba mét dẫn lên mặt đất cách dưới này hơn ba cây số. Tuy nhiên, có một thứ mới. Giữa phòng, ngay dưới ống băng, ba đầu đạn hạt nhân nằm trên một cái bục thép, được buộc lại bằng một bó dây. Từng cái đèn nhỏ xíu nháy lên khi ba đầu đạn nạp nhiên liệu.
CHƯƠNG 10
Quận Phong Lan
Marbella, Tây Ban Nha
Kate theo Martin qua căn bếp cháy rực tới phòng ăn thoáng đãng, nơi từng là tòa nhà chính của bệnh viện. Mức độ tàn phá lớn hơn cô tưởng. Nửa bức tường đằng xa đã bị thổi bay, mọi người đang túa ra khỏi tòa nhà, tránh các mảnh vụn rơi, giẫm đạp lên những người ốm và đi chậm.
Martin lao vào dòng người và húc khuỷu tay gạt họ ra để tiến lên. Kate chật vật bám theo. Cô kinh ngạc trước sự nhanh nhẹn của Martin, đặc biệt là khi đầu ông đang bị thương.
Họ thoát khỏi tòa nhà, đến bây giờ Kate mới được ngắm nhìn toàn trại – hay những gì còn lại của nó. Những ngọn lửa khổng lồ cháy dọc hàng rào nơi các tháp canh từng trụ. Các đoàn xe tải và xe jeep thải ra những cột khói trắng đen dày đặc, hỗn hợp độc hại của nhựa và cao su cháy khiến Kate nghẹn thở, phải lấy áo che mũi và miệng lại. Hai tòa tháp khách sạn màu trắng có vẻ chưa hề hấn gì, nhưng ở chân tòa nhà, một dòng người vô tận đang ào ra.
Sân khu nghỉ dưỡng chật kín. Cả đàn cả đống người kéo đến từ mọi phía, hoảng hốt tìm lối ra, hay một nơi an toàn cách xa những vụ nổ dường như cứ bùng lên sau mỗi vài giây. Họ trông gần giống những đàn gia súc trên thảo nguyên, trốn chạy khỏi một kẻ săn mồi không lộ mặt, từng thành viên đều chỉ đang phản ứng lại với các chuyển động ngay sát mình.
Martin lướt mắt nhìn vành đai trại, tìm lối ra.
Kate hối hả chạy qua ông, thẳng tới tòa nhà spa bọc chì. Một đầu tòa nhà có một ngọn lửa nhỏ đang cháy, nhưng ngoài ra thì chưa bị
ảnh hưởng bởi cuộc tấn công. Từ phía sau, cô nghe thấy tiếng nổ từ nơi từng là văn phòng của Martin.
Kate chạy tới cửa tòa nhà spa và giơ súng lên định bắn ổ khóa, nhưng Martin đã tới ngay cạnh cô. “Tiết kiệm đạn đi.” Ông lướt huy hiệu của mình vào cửa và ổ khóa bật mở. Họ lao xuống các hành lang. Kate mở toang cánh cửa dẫn vào phòng Adi và Surya, rồi nhẹ cả người khi thấy hai thằng bé đang ngồi tại bàn ở hai phía đối diện nhau, viết lên tập giấy được đưa, không mảy may quan tâm đến thế giới.
“Hai đứa, chúng ta phải đi thôi.”
Cả hai lờ cô.
Cô bước tới chỗ Adi và bế nó lên. Thằng bé gầy nhưng vẫn nặng khoảng hai mươi ký. Kate ráng sức giữ nó, trong khi thằng bé cứ quẫy cựa trong vòng tay cô, tuyệt vọng với lấy tập giấy của mình. Cô đặt nó xuống và đưa nó tập giấy, thằng bé liền dịu đi đáng kể. Bên kia phòng, cô thấy Martin cũng làm y như vậy với Surya.
Họ gần như đã phải kéo hai đứa bé ra khỏi tòa nhà, lần này Martin dẫn Kate băng qua trại, hòa vào đám đông ken đặc. Phía trước, một trận đấu súng nổ ra, xé toạc đám đông. Qua người người chạy tán loạn, Kate có thể thấy các đội lính Tây Ban Nha đang chống lại nhóm sống sót – hàng loạt những gương mặt cô đã thấy trong phòng giam, cả những người mới được đưa đến. Lá cờ Phong Lan xanh nhạt cuộn xoắn rồi duỗi ra trước gió trong khi đang cháy phía trên đầu họ.
Martin lục ba lô và đưa Kate một vật hình quả trứng màu xanh lá cây có quai cầm. “Tay con khỏe hơn tay ba,” ông nói. “Nếu lính Tây Ban Nha thua, chúng ta sẽ không thoát ra được.” Ông rút chốt an toàn, rồi khi nhận ra đó là gì, Kate suýt đánh rơi nó. Martin ôm lấy bàn tay cô. “Ném đi.”
Sự hỗn loạn của đám đông xung quanh ngày càng trở nên dữ dội khi người ta cứ đâm sầm vào cô, đẩy tay Adi trượt khỏi tay cô và xô thằng bé xuống đất. Họ sẽ đạp lên nó mất. Kate ném quả lựu đạn về phía cổng và chỗ có tiếng súng, rồi luồn lách qua dòng người. Cô kéo Adi vào vòng tay mình khi tiếng động và sức nóng của vụ nổ xuyên suốt qua đám đông.
Khói vừa cuộn lên, đám đông người liền đảo ngược chiều, tràn về phía cổng. Kate, Martin và hai thằng bé hòa vào dòng người ra khỏi cổng, đúng lúc tiếng súng lại vang lên – lần này ở đằng sau họ.
Mặt lưng khu nghỉ dưỡng dẫn ra một con đường nhỏ nối với quốc lộ chính. Kate dừng lại trước cảnh tượng cô đang chứng kiến – thật đáng kinh ngạc. Những chiếc xe bỏ không xếp đầy trên đường cao tốc tới tận tít điểm cuối cùng tầm mắt cô nhìn được. Ở cả hai làn, xe đột ngột dừng gần cổng vào quận Phong Lan. Các cánh cửa mở toang, đường sá vương vãi áo quần, thức ăn thiu và những vật Kate không luận nổi ra là gì. Mọi người đã lái tới đây tìm kiếm sự an toàn, tìm kiếm thứ thuốc cứu thế. Nếu Kate, Martin và hai thằng bé có thể vào một trong những chiếc xe ngay phía trước, họ có thể nhanh chóng trốn thoát.
Martin dường như đọc được ý cô. Ông lắc đầu. “Chúng bị rút cạn xăng mấy tuần trước rồi. Chúng ta phải tới Phố Cổ. Đó là cơ may duy nhất của chúng ta.”
Họ tiếp tục di chuyển cùng đám đông, nhưng cứ sau mỗi bước, đoàn người ken đặc lại thưa bớt bởi các gia đình và những kẻ đơn độc tách đoàn, chọn lối đi xa khỏi bờ biển và cảnh chết chóc ở quận Phong Lan. Martin vẫn đi đầu, cùng Kate kéo tay hai thằng bé theo.
Bên kia đường cao tốc, dọc các con phố là những công trình đặc trưng của bất cứ thị trấn nghỉ dưỡng Tây Ban Nha nào: cửa hàng
ven biển, chuỗi cửa hàng bán lẻ, khách sạn. Mặt trời giờ đã gần lặn, tiếng súng đằng xa vẫn rền rĩ, nhưng đã thưa đi.
Khi Kate tiến bước, một cảm giác mới bấu chặt lấy cô: một mùi hương, hơi ngọt nhưng thối rữa. Xác chết. Ở ngoài này có bao nhiêu xác chết? Những lời nói trước kia của Martin vang trong đầu cô: chín mươi phần trăm chết trong vòng bảy mươi hai giờ. Bao nhiêu người đã chết trước khi quận Phong Lan được thiết lập? Họ sẽ tìm thấy gì bên ngoài hàng rào của nó?
Họ lặng lẽ đi qua vài dãy nhà nữa, rồi đường sá thay đổi. Nhựa đường nhường chỗ cho đá cuội, cả các tòa nhà cũng khác. Các cửa hàng nhỏ hơn và trông là lạ. Rải rác dọc đường là rạp chiếu bóng, quán cà phê và cửa hàng quà tặng từng bán nữ trang tự làm rẻ tiền. Chúng trông ổn hơn những cửa hàng bên các trục đường chính, nhưng vẫn có dấu hiệu hỗn loạn ở đây: các tòa nhà cháy rụi, những chiếc xe bỏ không, rác rưởi.
Martin dừng lại lấy hơi trước một bức tường trát vữa trắng giữ một cái cổng sắt – có lẽ là cổng vào Phố Cổ. Dòng adrenaline từng thúc đẩy ông trong trại dường như đã trôi đi mất, Kate nghĩ ông trông hốc hác hơn bao giờ hết – như một kẻ say vào buổi sáng sau cuộc chè chén. Ông đặt tay lên hai đầu gối và hít những hơi dài.
Kate quay lại nhìn đường bờ biển sau họ. Khu Phố Cổ của Marbella nằm trên một ngọn đồi, có tầm quan sát tuyệt hảo. Nếu không có các cột khói, cảnh mặt trời lặn trên Địa Trung Hải và bờ biển cát trắng hẳn sẽ vô cùng hớp hồn. Qua lớp khói, hơn chục vật thể màu đen xuất hiện: một đoàn trực thăng.
Cô túm lấy tay Adi và Surya, quay người định chạy, nhưng Martin duỗi cánh tay chặn cô lại. Ông ôm các ngón tay quanh vai cô, đẩy cô
và hai thằng bé ra sau mình, đứng chặn giữa họ và thứ gì đó. Kate liếc qua vai ông và thấy đó là gì.
Ở con phố cắt ngang phía trước, hai con sói lảng vảng chỗ ngã tư. Hai con vật đứng yên một lúc, nghe ngóng, rồi chậm rãi xoay đầu về phía Kate, Martin và hai thằng bé. Một khoảnh khắc tĩnh lặng như kéo dài vô tận. Rồi Kate nghe tiếng móng sói bước nhẹ qua con phố đá cuội. Hai con sói nữa nhập đàn, rồi một con nữa, sau đó thêm ba con, giờ tổng cộng là tám, tất cả đứng trên phố trừng mắt nhìn.
Con sói lớn nhất tách đàn và sải bước tới họ, không hề rời mắt khỏi Martin. Một con dơ dáy khác theo sát gót nó. Chúng dừng cách Martin vài mét, quan sát ông. Tay Kate bắt đầu run. Hơi ẩm lấp đầy khoảng không nơi tay cô nắm tay hai thằng bé.
Đằng sau họ, tiếng lạch phạch của trực thăng ngày càng to.
CHƯƠNG 11
3,2 km bên dưới căn cứ chiến dịch Lăng Kính của Immari
Nam Cực
Dorian giơ hai cánh tay lên, để chiếc cặp rơi ầm xuống mặt tuyết cứng bên dưới. Hắn kỳ vọng đám quân Immari của hắn sẽ làm gì chứ? Hắn vừa bước ra, mặc bộ đồ của người Atlantis, cầm chiếc cặp bí ẩn. Có khi hắn còn bật công tắc cho nổ ba đầu đạn hạt nhân luôn rồi.
Tấm kính che mặt trên mũ phòng hộ được tráng gương – họ không thấy được mặt Dorian. Hắn cần tìm ra cách nào đó để giao tiếp với họ, một phương thức nào đó để gửi thông điệp. Hắn quét mắt nhìn phòng băng tìm thứ gì đó hắn có thể dùng. Hắn không thể viết tin nhắn trên băng – băng đông cứng cả rồi. Hắn bắt đầu huơ tay trên không, viết các chữ: D-O-R-I-A-N. Luồng đèn thứ hai trên ba đầu đạn hạt nhân sáng lên. Hắn lần tay viết chữ một lần nữa. Không có tác dụng. Hắn liếc quanh phòng, tuyệt vọng cố gắng tìm thứ gì đó có thể…
Một thi thể, gần như bị vùi dưới băng, nằm cạnh tường. Dorian vụt chạy tới, đấm tay vào lớp băng quanh nó, cố đào nó ra. Có lẽ hắn có thể kích hoạt radio của bộ đồ. Hắn đập vỡ băng quanh mũ phòng hộ và ngay lập tức lùi lại vì kinh ngạc. Cha hắn. Những dòng máu đóng băng quanh khuôn mặt ông ta. Băng giá đã bảo quản ông ở tình trạng hoàn hảo. Họ đã giết ông ta – để ông ta lại đây cho Quả Chuông xử lý. Tại sao? Người nào? Dorian ngồi đó, nhìn chằm chằm xác cha mình. Hắn không còn quan tâm đến mấy quả bom nữa.
Từ cuối hành lang, tiếng thép nện xuống băng vang vọng khắp phòng. Dorian quay lại. Một chiếc lồng đang ngồi chờ hắn. Ánh đèn trên ba quả bom vẫn sáng, nhưng không chiếu lên.
Dorian lôi phần còn lại của thi thể cha mình ra khỏi băng, dùng cả hai tay nhấc ông ta lên và bước tới cái giỏ. Hắn nhẹ nhàng đặt cha xuống và đứng phía trên ông ta. Cái giỏ bắt đầu vươn lên mặt đất.
CHƯƠNG 12
Quận Phố Cổ
Marbella, Tây Ban Nha
Giờ Kate đã thấy được: tám con vật kia không phải sói, chúng là chó – gầy gò, vô vọng.
Kate rời bàn tay run rẩy của mình khỏi tay Adi và lần tìm súng trong túi. Khi cô rút súng ra, đầu tiên là con chó lớn, rồi đến con chó hung dữ đi cùng nó, nhe răng và gầm gừ. Lông cả hai con dựng lên khi chúng chùn người chuẩn bị phóng tới.
Tay Martin lần tìm tay Kate và ông từ tốn bắt cô cho súng vào lại túi, giấu đi. Ông nhìn về phía trước, nhưng ông không chạm mắt với bất kỳ con chó nào.
Chậm rãi, không khí như rút khỏi mấy con chó. Lông chúng lại hạ xuống những cái gò bết đất trên lưng, hàm răng trắng sùi bọt biến mất, chúng lại bắt đầu chớp mắt. Rồi chúng quay lại đi thơ thẩn về đàn của mình, rút khỏi con phố, không một tiếng động.
Martin lắc đầu. “Chúng đang họp thành đàn, nhưng chúng chỉ ra ngoài này tìm đồ ăn thôi. Và có những thứ ở đây chúng có thể ăn, còn chúng ta thì không.”
Tiếng trực thăng giờ đã ngay trên đầu họ, Kate thấy một ánh đèn pha duy nhất tạc vào bầu trời phía trên. Chúng đang tìm gì nhỉ? Martin nắm tay Surya, rồi Kate và Adi đuổi theo họ. “Có một nhà thờ cách đây vài dãy nhà. Gần điểm hẹn của chúng ta,” ông nói. “Nếu có thể sống sót đến sáng, chúng ta có thể gặp đội SAS ở điểm cứu viện.”
Kate guồng chân chạy nhanh hơn, bắt kịp Martin. Với mỗi bước chạy, những vệt nắng cuối cùng càng phai đi. Trên trời, ba ánh đèn
giờ tạc thẳng vào màn đêm.
Kate dừng lại trên đường. Mấy chiếc trực thăng đang thả gì đó. Cô và Martin gần như phi vào con hẻm gần nhất ngay khi bom rơi xuống. Một quả bom lớn nổ cách họ hơn mười mét, tuôn rào rào... những mảnh giấy xuống quanh họ. Kate tóm lấy một tờ. Một tờ rơi. Trực thăng đang rải truyền đơn. Nó được viết bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng cô lật tờ giấy lại và thấy một bản dịch tiếng Anh.
Gửi các cư dân và tù nhân của Andalusia:
Chúng tôi đã nghe thấy tiếng gọi của các bạn. Tự do đang trong tầm tay.
Immari International đã đến vì các bạn, để trả lại cho các bạn quyền cơ bản của con người, đó là tự do, thứ mà Khối Phong Lan đã tước khỏi các bạn.
Hãy đứng lên cùng chúng tôi và giành lại quyền được sống và chết theo ý mình.
Những kẻ độc tài đã lấy mất quyền lựa chọn chính quyền của các bạn.
Hãy đặt ga trải giường lên mái nhà và cho thế giới biết lựa chọn của bạn.
Chúng tôi đến trong hòa bình, nhưng chúng tôi sẽ không trốn tránh chiến tranh.
Kate đưa mắt nhìn đường chân trời. Những tấm ga trắng dạt xuống từ trực thăng, phủ lên thành phố. Bọn Immari rõ ràng đang ngụy tạo những “phiếu bầu”. Chúng định làm gì? Chụp ảnh vệ tinh và cho thế giới thấy, hòng thanh minh cho cuộc xâm chiếm của mình sao?
Kate nhận ra Martin đã quay ra đường, cố hết sức dấn bước về phía nhà thờ. Kate nhét tờ truyền đơn vào túi và rượt theo ông.
Đằng sau cô, tiếng phành phạch của một nhóm trực thăng nữa lấp đầy không gian. Lần này, chúng thả thứ gì đó khác. Dù thắt vào... lính? Lính nhảy dù?
Martin liếc lại mấy chiếc trực thăng, và trong một khoảnh khắc thoáng qua, Kate thấy nỗi sợ dâng trong mắt ông.
Cuộc đào tẩu gay cấn của họ khỏi bờ biển và tốc độ di chuyển của họ kể từ lúc đó chắc chắn đã đẩy huyết áp ông lên kịch trần – không lý tưởng lắm cho bất cứ ai đang bị thương ở đầu. Kate có thể thấy máu rỉ ra từ vết cắt sau đầu ông. Cô cần đóng miệng vết thương sớm.
Họ tiếp tục tiến lên. Hết dãy nhà này đến dãy nhà kia của quận Phố Cổ trôi vụt qua, gần như thành một bóng mờ.
Phía trước, một chiếc dù hạ xuống, im lặng đu đưa.
Martin và Kate dừng lại, chặn cho hai thằng bé đứng cạnh họ. Họ không còn nơi nào để đi, nhưng… phía cuối đám dây dù không phải là một con người. Đó là một thùng kim loại.
Cái thùng đánh cộp xuống con phố rải đá cuội, lăn vòng một lúc, rồi cái nút ở một đầu bật ra và nó bắt đầu xoay tít trong lúc khí ga màu xanh phả ra đường.
Martin ra hiệu cho Kate rút đi. “Chúng đang cho cả thành phố ngạt khí. Đi thôi, chúng ta phải vào trong nhà.”
Họ tìm một cửa hàng không bị vỡ cửa sổ ở mọi tòa nhà trong dãy, nhưng mặt tiền của cửa hàng nào cũng như nhau: cửa gắn xích, cửa sổ gắn gương đã bị vỡ từ lâu. Adi đang đi chậm lại, khiến Kate phải kéo tay nó theo. Cả hai thằng bé đều mệt. Kate dừng lại và bế Adi lên. Cô thấy Martin cũng làm thế với Surya. Họ có thể bế chúng đi bao xa? Đằng trước, một đám khói xanh tuôn ra từ ngã tư.
Kate cần câu giờ. Cô đặt Adi xuống và nhặt một tấm ga giường nằm trên đường. Cô xé nó thành bốn mảnh. Cô bịt mũi và miệng hai thằng bé, rồi đưa Martin một mảnh.
Trong những con hẻm cả bên trái lẫn bên phải họ, từng làn khí ga xuất hiện. Cảnh tượng giống hệt các ngã tư ở đằng trước và phía sau. Cô bế Adi và theo Martin vào đám khí.
CHƯƠNG 13
Bên ngoài căn cứ chiến dịch Lăng Kính
Nam Cực
Dorian bình thản chờ chiếc giỏ đi lên trong bóng tối tuyệt đối. Ánh sáng lờ mờ từ căn phòng băng bên dưới từ lâu đã biến mất, phía trên không có nắng hay ánh sáng nhân tạo nào, chỉ tuyền bóng tối.
Dorian ngồi xổm trên xác cha mình, nghĩ xem hắn sẽ làm gì khi lên đến mặt đất – và họ sẽ làm gì.
Đưa cái giỏ xuống cho hắn là một động thái khôn ngoan. Chúng cho rằng Dorian là một lính chiến phe kẻ thù. Được tranh đấu trên một chiến trường đúng ý bản thân và gần đội quân của chính mình bao giờ cũng tốt hơn. Immari chỉ có thể gửi một nhúm lính xuống hầm, và khi chạm đáy, họ có thể thấy thêm lính Atlantis ở đó. Quân tiếp viện lại không thể gửi xuống một cách nhanh chóng, vậy nên chúng rất dễ mất đi bất cứ lực lượng nào gửi xuống – hay tệ hơn: bị bắt và tra khảo thông tin về tiềm lực, cũng như khả năng phòng vệ của đội quân Immari.
Dorian chắc chắn một điều: chúng sẽ khử hắn ngay giây phút cái giỏ chạm đến mặt đất.
Hắn nằm ngửa trong giỏ, vai kề vai với người cha đã chết. Hắn quan sát và chờ đợi. Đèn pha của cái bục phía trên rọi xuyên bóng đen, ngày càng sáng rõ và cuối cùng cũng thành hình.
Chiếc giỏ dừng khựng lại và khẽ đong đưa trong gió. Dorian lắng nghe tiếng lạo xạo của tuyết khi đám ủng dồn dập chạy về phía hắn, rồi hắn bị mấy hàng người bao vây, súng trường tự động chĩa vào.
Không có tiếng gì, rồi trong một lúc, chẳng có gì xảy ra. Chúng đang chờ hắn. Dorian không dịch chuyển. Cuối cùng, một tên lính
bước tới, buộc tay chân hắn lại, rồi hai tên khác nhấc hắn cùng cha hắn lên, đưa lên căn cứ. Những ánh đèn sáng rạng thấm đẫm cả khu vực, hé lộ những gì còn lại hiện giờ của căn cứ. Khu gần nhất vẫn hệt như Dorian nhớ: một con sâu bướm trắng khổng lồ, dài hơn cả một sân bóng bầu dục và uốn lượn ở hai đầu. Nhưng giờ có thêm nhiều con sâu bướm nữa – ít nhất là ba mươi – trải ra xa hơn tầm mắt hắn có thể nhìn. Có bao nhiêu đội lính đang cắm ở đây? Hắn hy vọng là sẽ có đủ. Hắn sẽ tìm kẻ đã giết cha mình và bắt kẻ đó chịu trách nhiệm, nhưng trước tiên, hắn cần xử lý mối đe dọa dưới đó đã.
Đám lính bước vào một phòng khử độc lớn, đầu các tia phun đều đã mở, tưới ướt Dorian và những tên lính đang canh hắn. Khi tia nước dừng lại, đám lính đưa hắn ra ngoài và quẳng hắn lên một chiếc bàn.
Tên lính gần nhất bật cái chốt trên mũ phòng hộ của Dorian và nhấc nó ra. Anh ta dường như cúng cả người. “Tôi đã thoát. Giờ hãy cởi trói cho tôi. Họ dậy rồi. Chúng ta cần tấn công.”
CHƯƠNG 14
Trại huấn luyện Camelot của Immari
Cape Town, Nam Phi
Raymond Sanders quan sát gò đất khi những tên lính đầu tiên đi qua. Họ chạy hết tốc lực – gần 35 km/giờ – và đeo theo ba lô nặng hai bảy ký. Mặt trời đã lên quá những rặng núi đằng xa ở Nam Phi, nhưng Sanders không thể rời mắt khỏi đoàn quân đông đảo các siêu chiến binh đang tập luyện dưới kia.
“Thời gian?” Sanders hỏi Kosta, trợ lý của gã, không thèm ngoảnh đầu lại.
“14:23.” Kosta lắc đầu. “Không thể tin nổi.”
Sanders cũng kinh ngạc. Càng bị thúc ép, những tên lính này càng mạnh.
“Nhưng ta có thương vong,” Kosta nói.
“Bao nhiêu?
“Sáu. Nhóm này ban đầu có hai trăm người.”
“Nguyên nhân?
Kosta lật các trang giấy. “Bốn người chết trong cuộc hành quân hôm qua. Chúng ta đang khám nghiệm tử thi. Có khả năng là đau tim hoặc đột quỵ. Hai người nữa chết trong đêm. Cũng đang chờ khám nghiệm tử thi.”
“Ba phần trăm là cái giá quá nhỏ phải trả cho những gì ta thu được. Những nhóm khác thì sao?”
“Có tiến triển nhưng không bằng nhóm 5.”
“Dừng các chế độ huấn luyện còn lại. Nhưng hãy tiếp tục cho kiểm tra,” Sanders nói.
“Cũng những nhóm đó?”
“Không. Bắt đầu mới hoàn toàn. Tôi không muốn những chế độ huấn luyện trước ảnh hưởng đến kết quả. Đội khoa học có giao thức mới à?”
Kosta gật đầu. “Cả đống luôn.”
“Tốt...”
“Nhưng tôi phải nói điều này, thưa sếp. Họ đang chững lại. Giờ ta không thể quay lại làm họ yếu đi được nữa. Họ là con người, không phải mấy con số có thể chỉnh sửa trong bảng tính. Có cảm giác...”
“Họ vẫn đang phát triển. Mạnh hơn, nhanh hơn, thông minh hơn. Mấy bài kiểm tra nhận thức vừa rồi còn chưa phải kết quả tốt nhất.” “Đúng, nhưng tới một thời điểm nào đó, ta phải xác quyết là họ đã đủ tốt rồi. Ta không thể cứ tiếp tục tiến tới vạch kết thúc. Trì..” “Nghe như anh định nói ‘trì hoãn’, Kosta. Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng tôi tin mình là chỉ huy, còn anh chỉ là người giúp mang giấy tờ thôi.” Gã lắc đầu một cách cường điệu. “Chỉ có một cách để biết. Nếu tôi bảo họ cho anh vào nhóm tiếp theo, rồi chuyện đó xảy ra, thì bùm – chúng ta có câu trả lời.”
Kosta nuốt khan và chỉ ra ngoài cửa sổ, về phía mấy dãy lều và trại kéo dài như vô tận. “Tôi chỉ đang cố giúp thôi... Ý tôi muốn nói là... Ta có gần một triệu binh sĩ. Ta có một chế độ huấn luyện có khả năng khiến họ trở nên mạnh hơn bao giờ hết. Và ta không biết mình còn bao nhiêu thời gian.”
“Ta cũng biết rằng ta chỉ có một cơ hội thôi. Ta sẽ chỉ đưa duy nhất một đội quân vào các hầm mộ. Họ phải thành công, nếu không ta sẽ phải đối mặt với sự vô định sau đó. Tôi không muốn như vậy. Anh có muốn không? Anh có thể tuân lệnh tôi, hoặc anh có thể tham gia cùng họ trong mấy cái lều dưới đó. Giờ báo cáo vị trí của quân ta ở phía Nam Tây Ban Nha đi.”
Kosta cầm một tập tài liệu khác lên. “Ta đã chiếm được các thành phố lớn ở Andalusia – Sevilla, Cádiz, Granada và Córdoba. Ta cũng giành được quyền kiểm soát tất cả các thị trấn ven biển trọng yếu, bao gồm Marbella, Málaga và Almería. Ta đang làm việc với các đài phát thanh, ép họ phát câu chuyện của ta. Đại diện của ta nói họ đang do dự. Nếu họ nghĩ ta có cơ hội, có lẽ họ sẽ bắt đầu ngưng ủng hộ Phong Lan. Ta sẽ biết sớm thôi. Các đội lính đổ bộ của ta đã về lại bờ biển.”
“Có phản ứng gì từ Liên minh Phong Lan không?”
“Chưa có gì. Chắc sẽ không phản kháng gì mấy. Tháp Đồng Hồ nói Liên minh có thể đang giảm tốc độ sản xuất Phong Lan ở Pháp và Bắc Tây Ban Nha. Các quốc gia thành viên đang lo sợ.”
Thật đúng lúc; Sanders cũng không thể vạch ra một kế hoạch tốt hơn.
Cửa mở và một chỉ huy Immari bước vào. “Sếp...”
“Chúng tôi đang làm việc,” Sanders cấm cảu nói.
“Cổng ở Nam Cực mở rồi.”
Sanders không chớp mắt.
“Dorian Sloane đã ra. Ngài ấy mang theo một chiếc cặp. Ngài ấy nói...”
“Anh ta đang ở đâu?” Sanders hỏi thẳng.
“Họ đã đưa ngài ấy lên mặt đất. Ngài ấy đang ở trong phòng họp chính để nghe báo cáo tình hình.”
“Cậu đùa đấy à.”
Tên chỉ huy trông bối rối. “Ngài ấy là thành viên đứng đầu Hội đồng Immari.”
“Tôi muốn cậu nghe tôi thật cẩn thận, cậu chỉ huy. Tôi mới là thành viên đứng đầu Hội đồng Immari. Dorian Sloane đã ở trong công trình
đó gần mười một tuần rồi. Ta không biết anh ta đã làm gì dưới đó, nhưng tôi đảm bảo với cậu rằng nó chẳng tốt đẹp gì cho ta đâu. Ta phải giả định rằng chúng đã lập trình lại cho anh ta, tẩy não anh ta và nhả anh ta ra làm nhiệm vụ.”
“Ta nên…”
“Sử dụng đội đặc nhiệm hiện trường của Tháp Đồng Hồ. Bảo họ nói với Sloane là họ cần cho anh ta thấy một thứ. Dẫn anh ta tới một trong các phòng thí nghiệm khoa học. Cho anh ta ngạt hơi. Sau đó đưa anh ta tới một phòng thẩm vấn và trói anh ta chặt vào. Đừng coi thường anh ta. Có Chúa mới biết chúng đã làm gì với anh ta. Nhớ cho lính canh ngoài cửa.” Sanders nghĩ một lát. “Cậu vừa bảo có một chiếc cặp. Nó ở đâu?”
“Sloane đã bỏ nó lại ở cuối đường hầm. Ngài ấy nói nó nguy hiểm lắm. Ta không nên mở nó ra.”
Sanders ngẫm nghĩ. Bản năng đầu tiên của gã bảo rằng cái cặp đó là một quả bom. Có lẽ Sloane cũng thực sự nghĩ như vậy. Nếu họ mang nó lên, nó có thể phá hủy toàn trại hay có khi là điều gì đó tồi tệ hơn. Còn có một giả thuyết khác: Sloane đã bỏ nó dưới đó vì hắn hoặc người Atlantis cần nó. Đội quân Atlantis cần đặt nó ở ngoài để có thể ra khỏi các hầm mộ sao? Nó còn mục đích nào khác ở đó không? Nó có thể làm tan băng và giải phóng con tàu không? Gã cần câu trả lời. Gã không thể cứ để chiếc cặp dưới đó, càng không thể di chuyển nó cho đến khi biết nó là gì.
“Ta có nhân viên khoa học nào ở hiện trường?”
“Tối thiểu. Ta đã sơ tán gần như toàn bộ mọi người khi ta tập hợp lại quân cho cuộc tấn công.”
“Đưa bất cứ người nào ta có xuống đường hầm. Tìm hiểu xem trong chiếc cặp có gì. Nhưng đừng mở nó ra. Cử ai đó không biết gì
về khả năng phòng thủ của chúng ta ấy. Gọi trực tiếp cho tôi khi họ biết nó là gì.”
Tên chỉ huy gật đầu và chờ đợi.
“Chỉ thế thôi, chỉ huy.” Khi tên chỉ huy đi khỏi, Sanders quay lại với Kosta. “Hủy các cuộc thử nghiệm. Chuyện này đang diễn ra rồi đây. Ta phải ra trận với đội quân ta đang có thôi. Tôi có cảm giác ta sẽ cần thêm lính. Đẩy nhanh cuộc thanh trừng Andalusia đi. Phương tiện vận chuyển đến đâu rồi?”
“Ta vẫn đang cố gom tàu thủy.”
“Cố hơn nữa đi. Ta cần đưa một triệu lính tới Nam Cực thật sớm.”
CHƯƠNG 15
Các bạn đang nghe đài BBC, tiếng nói của thắng lợi loài người, ngày 79 của Dịch bệnh Atlantis.
BBC đã xác nhận các báo cáo về việc Immari xâm chiếm châu Âu lục địa. Cuộc xâm lược bắt đầu vào chiều tối hôm qua khi các trực thăng và máy bay không người lái phóng tên lửa vào các thành phố ở miền Nam Tây Ban Nha. Hiện tại vẫn chưa rõ con số thương vong.
Nhân chứng từ khắp tỉnh Andalusia của Tây Ban Nha báo cáo rằng các quận Phong Lan là mục tiêu chính cho cuộc đột kích của Immari. Nhiều tuần qua, giới chuyên gia chính trị đã nghi ngờ rằng Immari sẽ bắt đầu đồng hóa dân số ở châu Âu và châu Á. Có vẻ chúng đã bắt đầu chiến dịch của mình ở Nam Tây Ban Nha.
Trước đó, tiến sĩ Stephen Marcus, một chuyên gia từ Viện nghiên cứu Western Century, đã nói rằng: “Không ai thực sự biết kết cục của Immari, nhưng có một sự thật đã rõ: chúng đang xây dựng một đội quân. Chẳng ai đi xây dựng một đội quân trừ phi cần nó để bảo vệ bản thân hoặc định dùng nó để tấn công kẻ thù. Tôi không nghĩ Liên minh Phong Lan có khả năng phản công.”
Sự yếu kém của Liên minh Phong Lan đã khiến toàn thế giới lo sợ rằng cuộc đột kích của Immari vào Andalusia có thể là màn mở đầu cho một cuộc tấn công lớn hơn vào châu Âu đại lục – một cuộc tấn công mà Liên minh Phong Lan không thể đẩy lùi.
Janet Bauer, một chuyên gia về việc sản xuất Phong Lan, cũng đồng tình với đánh giá này. “Liên minh đang cố gắng giữ nguyên tiến độ sản xuất Phong Lan. Nhưng họ không thể đánh trận. Kể cả có muốn thì việc đưa được Phong Lan lên tiền tuyến để cứu sống lính tráng cũng khiến điều đó bất khả thi rồi. Tạo nên một đội quân đồng minh từ những người sống sót sẽ gặp phải một loạt những vấn đề
hoàn toàn mới, chẳng hạn như lòng trung thành. Phần lớn những người sống sót còn giữ được chức năng não khỏe mạnh là những kẻ có cảm tình với Immari – họ được đưa đến sống ở các quận Phong Lan, nơi nhiều người cho là một nhà tù, đã được gần ba tháng nay.”
Các chuyên gia suy luận rằng Immari chỉ cắn vào rìa châu Âu thôi – tức là chúng chiếm một tỉnh mà Liên minh không thể bảo vệ để thử xem quyết tâm của Liên minh và ý chí của người dân như thế nào. Về bản chất, Immari đang đánh giá phản ứng của châu Âu.
Tiến sĩ Marcus giải thích thêm điểm này: “Đây là chiến thuật chiến tranh căn bản: kẻ tấn công vượt quá giới hạn một chút rồi chờ kết quả. Hắn sẽ được nhân nhượng hay bị trừng phạt? Phản ứng của chúng ta sẽ quyết định bước đi kế tiếp của hắn. Nếu cảm nhận được sự nhu nhược, hắn sẽ tiến thêm một bước, rồi một bước nữa.”
Nhiều người tin bước đi kế tiếp đó có thể là Đức. Chuyên gia Bauer cũng đồng tình. “Đức là phần thưởng đích thực. Là chìa khóa để chiếm toàn bộ lục địa. Đức sản xuất bảy mươi phần trăm lượng Phong Lan ở châu Âu. Nếu quân Immari tới được Đức, châu Âu sẽ tàn đời. Mất Đức là mất cả lục địa.”
Để công bằng với Immari, chúng tôi đã đồng ý đọc tuyên bố của họ về các cuộc tấn công:
“Hôm qua, Immari International đã thực hiện một nỗ lực giải cứu trên diện rộng ở Nam Tây Ban Nha. Trong gần ba tháng qua, người dân Andalusia đã sống trong các trại tập trung và bị bắt sử dụng thuốc dù không muốn. Immari International được thành lập dựa trên ý tưởng tạo nên một xã hội toàn cầu. Xuất phát điểm của chúng tôi là thương mại và kết nối thế giới. Hiện giờ, chúng tôi đã tiếp nối truyền thống đó, nhưng việc các quốc gia Phong Lan đưa thế giới vào một
tình thế tồi tệ như bây giờ đã khiến chúng tôi theo đuổi những phương cách mới để đem lại tự do toàn cầu. Chúng tôi không sử dụng vũ lực, nhưng chúng tôi sẽ bảo vệ mọi người trên thế giới khỏi sự áp bức và bất cứ cách thức nào vi phạm sự tự do ý chí của họ.”
BBC mong quý thính giả hiểu rằng chúng tôi trung lập trong các mâu thuẫn vũ trang. Chúng tôi chỉ đưa tin và sẽ tiếp tục đưa tin, bất luận kẻ thắng người thua là ai.
CHƯƠNG 16
Immari 1
Phía trên vùng biển Nam Đại Tây Dương – trên đường trở về Nam Cực
Raymond Sanders quay lưng lại cửa sổ máy bay và trả lời điện thoại vệ tinh. “Sanders nghe.”
“Chúng tôi vừa nhận được báo cáo từ đội khám cặp. Họ nói nó rỗng không.”
“Rỗng không?” Sanders không ngờ tới việc này. “Sao họ biết?” “Họ dùng máy chụp X-quang cầm tay. Họ cũng nói với trọng lượng như vậy thì nó không thể chứa gì khác ngoài không khí.” Sanders dựa vào ghế.
“Sếp?”
“Tôi đây,” Sanders nói. “Còn gì không?”
“Còn. Họ nghĩ chiếc cặp có thể phát ra một loại phóng xạ nào đó.” “Thế nghĩa là sao? Nó...”
“Đội khám cặp không biết, thưa sếp.”
“Giả thuyết hiện nay là gì?” Sanders hỏi.
“Họ không có giả thuyết nào.”
Sanders nhắm mắt và dụi mí. Dù trong công trình này có ai thì người đó cũng muốn đưa chiếc cặp ra ngoài. “Sloane đã để chiếc cặp ngay ngoài cổng. Có thể nào người Atlantis cần nó ở đó để thoát ra không – có thể nào nó phục vụ một mục đích nào đó không?”
“Tôi cho là có thể. Tôi không chắc ta sẽ kiểm tra giả thuyết đó thể nào. Số lượng nhân viên và thiết bị khoa học tại đây rất hạn chế.” “Được rồi... Đưa cái cặp ra khỏi đó. Bỏ nó vào hộp bọc chì hay gì đó có thể chắn phóng xạ ấy, rồi đưa nó tới cơ sở nghiên cứu chính
của ta – nơi nào đó giúp ta đưa ra câu trả lời thực sự.” “Ta nên cho ai kiểm tra nó đây?” Sanders nghĩ một chốc. “Cái tay khoa học gia khó gần tên gì nhỉ, Chang?”
“Ông ta đang trên tàu dịch ở Địa Trung Hải...”
“Không, không phải ông ta. Gã phụ trách hạt nhân.”
“Chase?”
“Phải. Bảo anh ta xem qua rồi báo cáo kết quả trực tiếp cho tôi.”
CHƯƠNG 17
Quận Phố Cổ
Marbella, Tây Ban Nha
Làn khí xanh giờ đã dày như sương mù, Kate chỉ thấy được vài mét trước mặt. Cô theo sau Martin, hy vọng ông biết mình đang đi đâu và họ sẽ sớm tìm được một nơi trú ẩn. Ông đã thôi kiểm tra cửa sổ các cửa hàng: giờ ông chỉ dẫn Surya xông vào nhanh hết sức có thể. Đầu Adi dựa trên vai Kate, cô vòng hai cánh tay ôm chặt thằng bé. Cứ vài giây, thằng bé lại vừa ho vừa khẽ giật người.
Khí gas khiến mắt cô cay xè và để lại trong miệng cô chút vị kim loại. Cô băn khoăn không biết nó là gì, nó đang làm gì với họ. Phía trước, Martin đột ngột rẽ phải vào một khoảnh sân trong nho nhỏ. Một nhà thờ thạch cao màu trắng nằm ở cuối sân, Martin tức tốc chạy tới cánh cửa gỗ nặng trịch của nó. Tới nơi, Kate kiểm tra các cửa sổ kính màu. Những cư dân tuyệt vọng của Marbella chưa phá vỡ chúng.
Martin mở tung cửa chính để Kate và hai thằng bé chạy vọt vào. Ông đóng cửa lại ngay khi làn khí xanh đầu tiên trôi qua. Kate đặt Adi xuống, gần như gục ngã. Cô hoàn toàn kiệt sức, yếu đến độ thậm chí không thể quan sát nhà thờ. Cô dùng chút sức lực còn lại kéo mảnh vải che mặt Adi và Surya xuống để kiểm tra qua hai đứa. Chúng mệt nhưng vẫn ổn.
Cô quay người, đi về băng ghế gỗ gần nhất rồi nằm sải lai ra. Vài phút sau, Martin tới giơ thanh protein và chai nước trên đầu cô. Cô lấy cả hai, ăn một chút, uống một tẹo, rồi chậm rãi nhắm mắt và chìm vào giấc ngủ.
Martin nhìn Kate ngủ trong lúc chờ kích hoạt đường dây kết nối trò chuyện an toàn.
Cửa sổ trò chuyện mở ra, một đoạn tin nhắn hiện lên.
Trạm 23.DC> Tình hình thế nào?
Trạm 97.MB> Tàn khốc. Immari đang xâm chiếm Marbella. Bị kẹt. Đang giữ cả Kate lẫn Beta-1 và Beta-2. Giờ đang an toàn. Không còn được lâu. Yêu cầu cứu viện lập tức. Không đợi được. Vị trí hiện tại: Nhà thờ Thánh Mary.
Trạm 23.DC> Chờ lệnh.
Trạm 23.DC> Báo cáo của đội hiện trường từ 2 giờ trước: ngoại vi Marbella. Thành phố bị đánh khí gas, nhưng khói đang tan. Sẽ đến điểm hẹn lúc 09:00 giờ địa phương. / BÁO CÁO HẾT / LƯU Ý: đội hiện trường gồm 5 lính trang bị vũ trang, mặc đồng phục quân sự Tây Ban Nha.
Martin ngả ra sau và thở dài. Có lẽ họ có cơ hội. Ông liếc sang Kate. Cô trở mình và nhăn mặt. Cô đang gặp ác mộng, đã thế lại còn nằm ngủ trên băng ghế gỗ cứng ngắc, nhưng Martin chỉ có thể giúp cô đến thế. Ông biết cô sẽ cần được nghỉ ngơi.
Kate đang mơ, nhưng cô cảm thấy rất thật. Cô lại đang ở Nam Cực, trong hầm mộ Atlantis. Những bức tường xám sáng mờ, ánh đèn nhỏ trên sàn và trần hầm khiến người cô run rẩy. Nơi này thật tĩnh lặng, cô đang ở một mình. Tiếng bước chân của cô vang vọng, khiến cô giật mình. Kate nhìn xuống. Cô đang đi ủng – và một kiểu đồng phục gì đó. David ở đâu? Cả cha cô? Hai thằng bé nữa?
"""