🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Địa lý kinh tế, xã hội Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo LG THÔÍ1G [C h ả b ie n ] n G uụ Ễ n ufin PHÚ - n G u vÈ n minH TUỆ Đ i a l í ÍÍÍỊỊHTÊXR HỘI UÌẸTnÃllÌ^ 11H1 í NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC s ư PHẠM GS.TS. LÊ THÔNG (CHỦ BIÊN) TS. NGUYỄN VĂN PHÚ - PGS.TSẵ NGUYỄN minh tuệ ĐỊA LÍ KINH TẾ - XÃ HỘI VlễT NfìM (Tái bản lần thứ tư) ĐẠI HỌC THẤT NGƯYENÌ TRUNG Ĩ AMHỌCLIỆư! NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC s ư PHẠM Mã số: 01.01.468/681.ĐH 2007 LÒI TỰA Cho lần tái bản thứ nhất Giáo trình Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam được xuất bân năm 2001 uới tư cách là m ộ t trong nhiều giáo trìn h cốt lỏi của trư ờ n g Đai học Sư phạm Hà Nội. Việc ra đời của giáo trình, trong chừng mực nhât định, dã đáp ứng dược yéu cầu của dỏng dáo sinh viên, học viên cao h ọ c, ngh iê n cứu sinh thuộc chuyên ngành Đ ịa lí và của n h ữ n g người quan tâm tới Địa lí kinh tế - xã hội nước nhà. Đê tiêp tục phục uụ nhu cẩu của xâ hội, giáo trìn h này dược tái bản có sự bổ su n g uà cập nhậ t cả về sô liệu cũng n h ư về nôi dun g khoa học. Trước hêt ìà uề m ặt sô liệu. Dựa uào những sô liệu cập nhật nhất đã được T ổng cục T hống kê và các cơ quan chức năng khác của Nhà nước công bố cho đên thời điếm này, các tác giả đã chỉnh sửa hầu như toàn bộ sô liệu trong giáo trình cho đến năm 2 0 0 2 hoặc năm 2003. Tiếp theo là về m ặt nội dung khoa học. Việc cập nhật nội dung khoa học cân cứ vào các nghiên cứu và công bố gần đây nhất thì phức tạp hơn nhiều. Tuy nhiên, các tác giả đã cô gắng cập n h ậ t và trìn h bày tóm tắt những kêt quả nghiên cứu mới nhất, th í dụ như sự mở rộng p h ạ m ui các vùng k in h tê' trọ n g điêm hay phương án 6 uùng được phân chia trên c ơ SỞ 64 tỉnh , thành phô' của nước ta đã đượ c Nhà nước phê d u y ệ t... Nhân dịp này, tập thê tác giả xin chân thành cám ơn Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội dã cho phép tái bản giáo trình này. Về phía m ình, các tác giá cũng nỗ lực bô sung, cập nhật đ ể khi tái bản giáo trình vẫn đảm báo dược tính hiện đại đối với m ột giáo trình cốt lõi của trường Đại học Sư phạm Hà Nội ưà đáp ứng dược sự quan tâm của dông dao dộc giả. Tháng 3 - 2004 3 LÒI NÓI ĐẨU Địa lí kinh t ế - x ã hội Việt N am là một trong những giáo trinh cơ bản nhảt được giảng dạy tại khoa Địa lí của các trường Đại học S ư p h ạ m trên p h ạ m vi cả nước. Ngoài ra, nó còn được giảng dạy ở các trường cao đắng và một sô trường đại học khác. Trong chương trinh phô thông hiện hành, môn Địa lí ở lớp 9 và lớp 12 chuyển tải nội dung của địa lí kinh tê' - xã hội Việt Nam . Tuy cùng nằm trong chương trinh đào tạo của nhiều trường đại học, cao đắng, nhưng ở khoa Địa lí thuộc các trường Đại học S ư p h ạ m , giáo trinh này có thời lượng nhiều nhât, m a n g tính khoa học và tính sư p h ạ m nhất. Cho đến nay, có một sô giáo trình Địa lí kinh tê - xã hội Việt N a m đả được xuât bản. Tùy theo từng trường, nội dung giáo trinh được thay đôi cho phù hợp với mục tiêu và đôi tượng đào tạo. Trong hơn một thập ki vừa qua, có thê kê đến một vài giáo trình ở một sô trường đại học như giáo trình của các tác giả Nguyễn Trọng Điều, Vũ Xuân Thảo (1983, 1984) ở trường Đại học S ư phạm Hà Nội; Văn Thái (in lần thứ nhất, 1985) ở trường Đại học Kinh t ế thành phô Hồ Chí Minh ; Đặng N h ư Toàn (chủ biên, 1995) ở trường Đại học Kinh tê quốc dân Hà Nội; Lè Thông (chủ biên, in lần th ứ nhât 1996) ở Viện Đại học Mở Hà Nội v.v... Đê góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về việc xây dựng trường sư phạm trọng điểm, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã có chủ trương đầu tư biên soạn các bộ giáo trình cốt lõi. Cùng với một s ố giáo trình khác, giáo trinh này ra đời n h ằ m triên khai chủ trương nói trên của nhà trường. Được mời biền soạn, chúng tôi củng có nhiều trăn trở. N h ư trên đã trinh bày, hiện nay đã có một sô giáo trinh Địa lí kinh t ế - x ã hội Việt Nam . Vấn đề được quan tâm hàng đầu là ở chỗ chất lượng của giáo trinh và làm sao đ ể nó xứng đáng trở thành một giáo trình cốt Việc biên soạn giáo trình lần này, tảt nhiên, có sự k ế thừa của các giáo trinh đã được xuât bản trước đó. Tuy nhiên, giữa chúng củng có những khác biệt rõ rệt về chất. 5 Trước hết là đôi tượng sử dụng. Là giáo trình cốt lõi cua trường Đại học S ư p h ạ m Hà Nội, đôi tượng sử dụng rộng rãi đầu tiên la sinh viên ngành Địa lí. Ngoài ra, giáo trình còn là tài liệu tham khao chu nhiều đôi tượng khác như học viên hệ thạc sĩ, nghiên cứu sinh khoa Địa lí và những người thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau quan tâm tới địa lí kinh tê - xã hội nước nhà. Đôi tượng sử dụng sẽ chi phôi nội dung cuốn sách. Bên cạnh hệ thống kiến thức cơ bản, chủ yếu dành cho sinh viên khoa Địa lí, trong giáo trình còn có p h ầ n năng cao, mớ rộng nhằm đáp ứng một phần nhu cầu của đông đảo bạn đọc. Thứ hai là nội dung của giáo trình. Mặc dù gặp không ít khó khăn trong quá trình biên soạn, nhưng chúng tôi cò gắng đến mức cao nhất đê gián trình đảm bảo được tính khoa học, hiện đại, Việt N am và tiệm cận với những kết quả nghiên cứu gần đây nhât vê mặt kinh t ế - xã hội của các cơ quan Trung ương và địa phương dưới góc độ đìa lí. Về phương diện ngành, bao trùm lên giáo trinh là các lĩnh vực kinh tê (nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ), sau đó mới đến các ngành cụ thể. Từ khi đất nước bước vào công cuộc đỏi mới, bèn cạnh các ngành truyền thông , đã và đang nổi lèn một vài ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và k h ắ n g đ ịnh vai tro của minh trong nền kinh tê quốc dân, mà ngành du lịch là một thí dụ điển hình. Các giáo trinh Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam xuát bún trước đây hoặc là không, hoặc là hầu n h ư chưa đề cập tới ngành du lịch. Điều đó hoàn toàn dễ hiêu, bởi vỉ trước đổi mới, du lịch mang tính chât bao cấp và chưa được coi là một ngành kinh tế. Trong giáo trinh này, ngành du lịch có vị trí tương xứ ng với khỏi lượng n hất định nhăm cung cấp những kiến thức cơ bần, một m ặt và m ặt khác, lấp chỗ còn trông cứa các giáo trình trước đó. Về phương diện lảnh thô, chúng tôi tập trung phân tích 8 vùng, mà các cơ quan chức năng của Nhà nước hiện đang sứ dung. Đày là một vân đề phức tạp, chắc chắn còn những điếm chưa thàt thông nhảt cần được trao đôi, tranh luận về mặt học thuật. Tuy nhiên, trong giáo dục cần có sự ôn định tương đôi. Vì thê, đôi VỚI >'inh viên địa lí trong giai đoạn hiện nay (và tương lai gần), việc trang bị kiến thức về 8 vùng là hơp lí. Đê rộng đường tham khảo và gán với thực tiễn sinh động đang diễn ra trên đát nước ta, trong giáo trinh đã bước đầu tỏng kết các quan niệm về vừng và công tác phân vung ớ 6 Việt N a m củng n h ư sơ bộ giới thiệu 3 vùng kin h t ế trọng điêm mà N h à nước đầu tư, nghiên cứu từ đầu những năm 90 trở lại đây. Ngoài các nội dung về ngành và lãnh thô, giáo trình này chú trọng hơn các khía cạnh xã hội của Địa lí học. Một sô' vân đề nôi cộm về m ặ t xã hội trong cơ c h ế thị trường hiện nay ở nước ta đã được đưa vào giáo trình. Đó là vấn đề lao động, việc làm, tinh trạng thât nghiệp và chảt lượng cuộc sông của nhăn dãn xét dưới góc độ một sô tiêu chí chủ yếu (về GDP binh quân đầu người; về giáo dục; y tê và chăm sóc sức khoẻ; về nhà ở , nước sạch và điện sinh hoạt). Một sô khía cạnh nói trên, nhất là về chất lượng cuộc sống, gần như không được nêu lên trong các giáo trình trước đây. Đê nhấn mạnh thêm khía cạnh xã hội, tên gọi của giáo trình biên soạn lần này sẽ là Địa lí kinh t ế - x ã hội Việt Nam. Trong Địa lí học, vân đề tô chức lãnh th ổ có vai trò đặc biệt quan trọng và gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay. Vì vậy, có t h ể nói sợi chỉ đỏ xuyên suốt giáo trình là việc tô chức lãnh thô các ngành và các vùng, nhất là đôi với các ngành k in h t ế then chốt. Cuối cùng là việc cập nhật hoá tư liệu, kê cả các kết quả nghiên cứu g ầ n đây n h â t có liên quan tới lĩnh vực địa lí. v ề sô liệu, chúng tôi c ố g ắ n g sử d ụ n g nh ữ n g sô' liệu mới n h ấ t trong điều kiện có thê có được. Đôi với p h ầ n dân cư và nh ữ n g nội d u n g có liên quan củng n h ư p h ầ n các n gành kinh tế, sô liệu đại trà đ ả m bảo sự cập nhật. Trong p h ầ n vùng, do một sô nguyên nhân khách quan, hệ thống s ố liệu chưa thật cập n hật bằng các p h ầ n trên. Đê có thê thấy được bức tranh toàn cảnh về nền kinh tê - xã hội của nước nhà hiện tại và trong thập ki đầu tiên của thiên niên kỉ mới, chúng tôi có sử dụng kết quả của một sô công trình nghiên cứu, dự án, quy hoạch (ngành và lãnh thổ) gần đây đã được nghiệm thu. Giáo trình Địa lí kinh tê - xã hội Việt N a m được cấu trúc thành 3 chương. Chương đầu đề cập tới thiên nhiên và con người Việt Nam, trong đó phần đặc điểm thiên nhiên được coi như là gạch nối giữa tự nhiên và kinh tế. Chương hai trinh bày tổ chức lãnh th ổ các n gành kin h t ế chủ yếu n h ư công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp và một sô' ngành dịch vụ. Chương cuối cùng tập trung vào nội dung tổ chức lãnh thô của các vùng. Ngoài 8 vừng lãnh thổ, chương này còn 7 mở rộng thêm khi tóm lược một sô quan niệm về vùng qua các giai đoạn lịch sử và sự ra đời của 3 vùng kinh t ế trọng điếm ở Việt N am . Trong quá trình biên soạn giáo trinh, nguồn tài liệu tham khảo có ý nghĩa đặc biệt, bởi vi nên kinh t ế nước ta có sự chuyên biến hàng ngày từ khi thực hiện công cuộc đôi mới. Một trong những thuận lợi đáng kê là nhiều chương trình, đề tài các cấp về điều tra cơ bản, hàng loạt dự án, quy hoạch ngành và lãnh thô đã được triển khai trong những năm vừa qua. Bên cạnh hàng loạt ân phàm của các nhà khoa học đã được xuât bản cùng với cúc đề tài mà tập thê túc gia trực tiếp tham gia, chúng tôi may mãn được tiếp cận với một sô công trình nghiên cứu của nhiều cơ quan như: Viện Chiến lược phút trien thuộc Bộ Kê hoạch, và Đầu tư; Viện Nghiên cứu p h á t trien du lịch thuộc Tổng cục Du lịch; Bộ Xây dựng; Bộ Khoa học Công nghệ và Mói trường; Bộ Nông nghiệp và Phát trien nông thôn; Uy ban Quốc gia dân sô và kê hoạch hoá gia đình; Bộ Lao động, thương binh vá xã hội; Tông cục Thống kê... Xin chân thành cảm ơn các cơ quan cũng như các tập thê và các nhà khoa học về những kết quả nghiên cứu mờ chúng tôi đã sử dụng và đưa vào giáo trinh. N h â n dịp này, chúng tôi bày tồ lòng biết ơn đôi với B an Giám Hiệu trường Đại học S ư phạm Hà Nội và Trung tăm sách cứa nhà trường đã tạo điều kiện hô trợ về tinh thần và vật chất cho sự ra đời của cuốn sách. Xin cám ơn TS. Lê Thanh Binh đã dành thời gian đê biên vẽ toàn bộ các bản đồ trong giáo trinh. Giáo trình Địa lí kinh tê - xã hội Việt N a m chắc chan không tránh khỏi những thiếu sót, nhât là sự vênh nhau giữa các nguôn sô liệu, mặc dù đã được xử li. Hi vọng rằng nó sẽ là tài liệu bố ích trước hết cho sinh viên, học viên cao học, nghiên sứu sinh địa lí, củng như những người, quan tâ m tới vân đề này ở Việt Nam . Chủ biên GS. TS Lê Thông Thủng Giêng năm 2000 8 CHƯƠNG 1 THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM I. ĐẶC ĐIẾM CỦA THIẾN NHIÊN VIỆT NAM 1. N H Ữ N G ĐẶC Đ IỂM c ơ BẢN VỂ T ự N H IÊ N 1.1. Lãnh thố Việt Nam là một khôi thống nhất và toàn vẹn, bao gồm vùng đất, vùng trời và vùng biên 1.1.1. Trên đất liền, lãnh thổ toàn vẹn của nước Cộng hoà xã hội chủ n g h ĩa Việt N a m được xác định bơi hệ tọa độ địa lí n hư s a u :111 - Điểm cực Bắc ở vĩ độ 23°23' Bắc, gần s á t chí tu y ến bán cầu Bắc, tại xã Lũng Cú (trên cao nguyên Đồng Văn) thuộc huyện Đồng Văn. tỉnh Hà Giang. - Điểm cực N a m ở vĩ độ 8°30' Bắc, tại xóm Mũi, xã Đ ất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. - Điểm cực Tây ở kinh độ 102°08' Đông, nằm trê n đỉnh núi Khoan La S a n ở k h u vực ngã ba biên giới Việt N am - Lào - T ru n g Quốc, thuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé. tỉnh Điện Biên. - Điểm cực Đông kinh độ 109"28' Đông, tại xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. Lãnh thô Việt N am trên đất liền có hình chữ s. Chiều dài gấp khoảng 4 lần chiều rộng. Nơi rộng nhất chừng 500km. kéo từ Móng Cái (Quảng Ninh) tới xã Sín Thầu (Lai Châu), nơi hẹp nhất khoáng 50 km là ở khoáng cucn đường 20 trên biên giới Việt- Lào với Đồng HỚ1 . Diện tích nước ta rộng 329.247 k n r (2). Xét vồ m ặ t lãnh thổ. Việt Nam thuộc loại tru n g binh trên thê giới (đứng thứ 06), gấp bôn lần Bồ Đào Nha, gấp rưỡi hước Anh, lớn hơn cả nước Italia và Cộng hoả Liên ban g Đức, rộng gần bằng nước N hật. So với các nước ở Đông Ban Biên giới cùa Chính phủ. năm 2000. 121 Niên giám thông kê nước CHXHCN Việt Nam. NXB. Thốn» kè 2003 tr 12 9 Nam Á, lãnh thồ nước ta tương đương với Malaixia và nhó hơn Inđônêxia, Mianma, Thái Lan. Biên giới nước ta trên đất liên tiêp giáp với Trung Quôc ỏ phía Bắc, Lào và Cãmpuchia ở phía Tây và Tây Nam. Biên giới Việt - Trung có chiều dài khoảng 1.400 km, phần lon dựa theo núi, sông tự nhiên với những hẻm núi hiểm trỏ/ Tất cả đã được cắm mốc, phân định và đi vào lịch sử. Tuy nhiên, còn không ít vấn đê tồn tại do lịch sử đê lại mà cho đến nay hai nước vẫn đang tiếp tục bàn bạc, giải quyết. Biên giới nước ta với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào có chiều dài 2.067 km, phần lớn dọc theo đường đỉnh của các dãy núi biên giới và gần đây được cắm mốc cùng với các văn bản, nghị định thư kèm theo. Dãy Trường Sơn (Phuluông - theo tiếng Lào), biên giới hai nước như là một xương sông chung, chia ra nhiều đoạn, với những đèo thấp như Nabẹ có quốc lộ 8, đèo Lao Bảo có quốc lộ 9 cắt ngang v.v... Điều đó không gây trở ngại cho sự giao lưu giữa hai nước, mà trái lại còn mở ra những tuyến đưòng giao thông quan trọng nối liền thung lủng sông Mê Công ỏ phía trong với biển Đông ở phía ngoài. Biên giới với Cămpuchia phía Tây Nam có chiều dài 1.080km, phần lớn xuyên qua các vùng đồi thoải, đổ từ các cao sơn nguyên Tâv Nam Việt Nam xuỗng miền Đông Cămpuchia. Từ phía Tây Nam thị xã Tây Ninh (tỉnh Tây Ninh) trở đi, nó chạy qua vùng đồng bằng hạ lưu sông Mê Công. 1.1.2. Vùng biền của nước ta khá rộng lớn. Phía ngoài lãnh thô đất liền, Việt Nam có thềm lục địa và vô số các đảo, quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Thuộc các đảo ven bò (cách bờ khoảng 100 km), nước ta có 2.773 đáo M ' Đông Bắc cũng là vùng có khí hậu miền núi, nhưng khác với Tây Bắc là mùa hè mát mẻ hơn, mưa nhiêu hơn, độ ẩm cao hơn, mùa đông rét đậm hơn. Khu vực núi cao thường xuâ^t hiện băng giá, sương muôi, ảnh hương trực tiếp của gió mùa đông bắc kèm theo mưa phùn. Một sô tỉnh trong vùng chịu ảnh hương trực tiếp của bão... Khí hậu nhìn chung th u ậ n lợi cho việc phát triển cây nhiệt đới và cây ôn đối như cây ăn quả có giá trị kinh tê (mận hậu, hồng không hạt, giẻ ăn quả, đào, táo, lê), cây dược liệu quý hiếm (như tam thất, đỗ trọng, xuyên khung...) và hoạt động du lịch, nghi mát. Yêu tô bất lợi của khí hậu là vào mùa đông, nhiệt độ hay xuống thấp đột ngột, băng giá, sương muôi kéo dài; bão lũ vào mùa hè. Tây Nguyên có khí hậu cao nguyên với hai mùa mưa, khô rõ rệt (6 th án g mùa mưa và 6 tháng khô). Đây là yếu tô" khí hậu cần chú ý khi bô trí cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, dự trữ nước trong mùa khô đôi vối sản xuất cây công nghiệp. Đông Nam Bộ có khí hậu đa dạng, nóng ảm, gió mùa Đông Nam thịnh hành, không có mùa đông. Vào các tháng mùa mưa, khí hậu mát mẻ. Đồng b ằn g sông c ử u Long có khí h ậ u nh iệt đới nóng am, gió mùa; hoàn to àn không có mùa đông lạnh, n h iệ t độ luôn trê n 25°c, chê độ bức xạ nhiệt lớn, ít chịu ảnh hương của băo. Khí hậu th uận lợi cho việc đa dạng hoá nông nghiệp. Cây trồng, v ậ t nuôi có điều kiện sinh trương, p h á t triể n n h an h , một n ă m có thê làm từ 3 đên 4 vụ. Tuy nhiên, v ấn đê cần lưu ý là phòng chông lũ lụt, có những giải ph áp p h á t t r i ể n kinh tê thích hợp trong quá trìn h “chung sông với lũ”. 1.5ẽ V iệt N am là m ột lãnh thô đa d ạn g với đồi núi chiếm 3/4 diện tích Việt Nam có địa hình đa dạng, vừa có biển, hải đảo, thềm lục địa, vừa có đồng bằng, trung du, miên núi. Tính đa dạng này chi phôi sự phân bô lực lượng sản xuất trong nước, đặt ra cho mỗi vùng nhũng phương hướng phát triển kinh tê - xã hội phù họp vói tiềm năng, thê mạnh của mình. 17 1.5.1.Các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hủi N a m Trung Bộ, Đông N a m Bộ, Đong bằng sông c ử u Long đêu có biển, ven biến, đồng bằng và một sô' vùng có cả địa hình tru n g du, miền núi. Địa hình ven biên của các vùng nảy có điều kiện thiêt lập các cảng, là địa bàn t h u ậ n lợi đê thu hút đầu tư, p h á t trien với tôc độ nhanh và trớ thành động lực thúc đay kinh tê cúa vùng và của cá nước. Vùng biến giàu tài nguyên như các loại hải sản, dầu khí, khoáng sản. Ven biển có nhiêu khu du lịch, nghi m át với nhiểu bãi tắm đẹp nhú: Trà cố, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hái Phòng), Đồng Châu (Thái Bình, Hải Thịnh (Nam Định), sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Nha Trang (Khánh Hòa), Vũng Tàu.... Các vùng này có kết cấu hạ tầng khá tốt và nằm trong các vùng trọng điếm kinh tê của cả nước đang được đầu tư phát triển. Sự kêt hợp giữa dải đồng bằng và dải ven biến tạo ra khu hệ bãi bồi ven biến, cửa sông với hàng chục vạn ha ngập nước, bán ngập nưốc, hoặc những nơi côt đất đã nhô cao chỉ những lúc triều cường mới bị ngập tạo nên những vùng rừng ngập mặn. Nhiều vụng, đầm phá có tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản. Trong rừng có các sân chim tự n hiên đông tới hàng triệu con, có nhiều loài quý hiếm tạo th àn h các khu hệ động thực vật ven biên có giá trị kinh tê cao. Những diện tích bãi bồi nưốc lợ ven biến còn là điểu kiện đê phát trien các loại cây công nghiệp như cói, dừa nưốc, làm nguvên liệu cho tiếu thủ công nghiệp, giải quyêt việc làm, sản xuất ra nhiêu hàng hoá tiêu dùng và xuất khau có giá trị. Đặc điểm địa hình của từng vùng có sự khác nhau. Hai vùng đồng bằng lớn (đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông cửu Lone) chủ yêu do phù sa bồi đắp, địa hình tương đôi bằng phang, khóng gây cản trơ nhiêu đên tô chức sản xuất, khai thác lãnh thố đế phát trien kinh tê - xã hội. Tuy nhiên, đây là vùng có côt đất thấp, mùa hè múa nhiều hay gây lụt lội, xử lí móng xây dựng các công trình tỏn kém hơn các vùng khác. Đồng bằng sông Hồng có địa hình tương đôi bằng p h ắ n e với độ dôc bình qu ân nhò hơn 5% (trên 1 km), độ cao từ 1 - 4 m so với măt biên, hướng th ấp dần từ Bắc xuông Nam và Tây sang Đông, ơ một sỏ khu vực có các vùng th ấp trũng hoặc gò đồi cao hơn so vối địa hình 18 chung. Đồng bằng tuy diện tích không lốn nhưng là nơi tập trung dân cư và những trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị hàng đầu của cả nưốc. Đây là một trong hai vùng lương thực quan trọng của nưốc ta. Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ có địa hình tương đâi phức tạp, chủ yếu là đồi núi (chiêm trên 75% diện tích tự nhiên), thấp dần từ Tây sang Đông. Phía Tây của vùng là sườn Đông dãy Truồng Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng ven biển, th ỉn h thoảng có núi chạv ra sát biến. Lă.nh. thố bị-chia cắt theo „các. lưu vực sông Vu Gia, sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, sông «Gái...Môi lưu vực sông hạ lưu đều tạo thành đồng bằng ven biến nhỏ hẹp. Địa hình ven biến có nhiều điêu kiện thích hợp cho việc xây dựng các cảng lớn. Đây là các cửa vào ra quan trọng không chỉ đôi vối vùng, mà còn có ý nghĩa lớn đôi VỚI Tây Nguyên cũng như một sô" tỉnh của Lào và Đông Bắc Cămpuchia. Đồng bằng sông c ử u Long có địa hình tương đôi bằng phắng, đệL cạo tTUng bình 3 - 5 m so với mực nước biến, hưống thấp dần từ Tây Bắc sang Đông Nam... P h ần lớn lãnh thô trũng, thấp, nến cỉẳ-'it dễ bị lún, có nơi bị ngập lũ hàng năm, ảnh hương tối sản xuất, xây dựng và đời sông. Những khác biệt cục bộ về địa hình gây ảnh hương tối việc tiêu th o át nước. Các tỉnh ỏ’ phía Tây Bắc của vùng vào thời kỳ lũ lớn thưòng bị ngập sâu từ 4 - 5 m. Mạng lưối sông ngòi, kênh rạch phân bô" khá dày đặc, t h u ậ n lỢi_cho việc phát triển giao thông đường thủy vầo bậc n h ất so với các vùng khác trong cả nưốc. Đông Nam Bộ vừa có địa hình đồng bằng ven biên, vừa có địa hình trung du miền núi. Đây là nơi chuyên tiêp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông c ử u Long, vói những đồi gò lượn sóng. Phía Nam của vùng có độ cao trung bình 20 200 m. độ dôc phô biên không quá 15". Khu vực trung tâm có độ cao địa hình th ay đối từ 200 - 600 m. Địa hình tương đôi bằng phang, th u ậ n lợi cho việc sản xuất nông nghiệp tập trung, đặc biệt cho phát triên công nghiệp, đô thị. xây dựng hệ thông co' sỏ hạ tầng giao thông vận tải, cấp nưốc, cấp điện ...Đây là điều kiện tôt đê phát triển một nền kinh tê đa ngành (nông, lâm, công nghiệp, dịch vụ). Nơi đây còn có nhiêu m ặt bằng đê phát triển các khu công nghiệp tập trung và các th à n h phô" mới, lại không ảnh hương; đên đất sẩn xuất lương thực. 1.5.2. Dai đât trung du kéo dài từ Bắc vào Nam , qua hơn 100 huyện của h àn g chục tỉnh thuộc một số’ vùng ơ Việt Nam. Đây là 19 lãnh thố nằm giữa dải đồng bằng ven biển và miên núi, nói hội tụ tính chât đồng bằng và tính chất miền núi. Trên dải lãnh thỏ này, đất đai tương đôi thích hợp vối các loại cây công nghiệp (như đậu tương, lạc, chè, cà phê, cao su....), căy ăn quả (cam, quýt, mít, vải thiêu). Tiêm năng lớn của vùng cần được đầu tư khai thác đế phát triển kinh tê - xã hội trong thời gian tới. 1.5.3. Dải miền núi chiếm phần lớn diện tích nước ta. Đây là nơi có nhiêu dân tộc ít người cư trú, m ật độ dân cư thưa thớt (có nơi như huyện Mường Tè, Lai Châu chưa đến 10 người/kmJ), nhúng lại tập trung nhiêu loại tài nguyên (khoáng sản, rừng...). Trên miền đất này có thực, động vật phong phú, nhiều cây đặc sản, dược liệu quý. Dưối lòng đất có nhiều khoáng sản trữ lượng lớn vối ý nghĩa quốc gia như than đá, bô xít, apatít, đồng, sắt, đất hiếm... và nguồn thuy năng lốn nhất cả nước. Dải đất miền núi còn là nơi tập trung đất lâm nghiệp và tài nguyên rừng, nơi có điều kiện p h á t triên các vùng nguyên liệu tập tru n g vối quy mô lớn (như gỗ, tre, nứa, chè. cà phê, cao su) và chăn nuôi gia súc (trâu, bò, dê...). Miền núi còn có hệ thông cửa khẩu trên bộ và tiềm năng đu lịch đa dạng. Tây Nguyên nằm hoàn toàn về phía Tây của dãy Trường Sơn và bị chia cắt phức tạp. Đặc trưng hơn cả là tínĩi phân bậc rõ ràng vối các bậc cao nằm về phía Tây, bậc thấp n h â t ở phía Đỏng. Địa hình Tây Nguyên bao gồm các dãy núi cao trên 2.000 m, tiêp đên là các dãy núi dưới 2.000m, rồi đên các cao nguyên vối độ cao từ 300 - 800m thoải dần về phía Đông, Đông Nam và Nam. Vùng cao nguyên có diện tích 2.425,34 nghìn ha (48%), vùng núi vối độ cao từ 800 m tối 2.598m có diện tích khoảng 1518,46 nghìn ha (34,5%), th ung lủng giữa núi 882,6 nghìn ha (17,5%). Địa hình phân hoá tạo ra nhung mặt bằng rộng, tương đôi bằng phang, thuận tiện cho việc phát triên kinh tê - xã hội. Tây Nguyên có nhiêu đất bazan, một loại đất rấ t thích hợp với cây công nghiệp như cà phê, cao su..., thuận lợi cho việc tô chức sản xuất trên quy mô lớn. Tuy nhiên, ỏ địa hình cao cuôi dãy Trường Sòn có 6 th án g múa và 6 th án g khô rõ rệt, nên mùa đông thiêu nưốc. dù có nước ngầm, n h ù n g ỏ sâu, đầu tư khai thác tôn kém. Tây Bắc và Đông Bắc phần lớn là núi cao, địa hình chia cắt mạnh, diện tích đất lâm nghiệp là chủ yêu, giao thông đi lại còn khó 20 khăn. Tây Bắc là vùng có địa hình hiếm trở, bao gồm các dãy núi cao, núi trung bình, đồi gò cao nguyên, nghiêng dần từ Tây ổắc xuòng Đông Nam. Phía Bắc là những dãy núi cao, phía Đông và Đông Băc là dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, cao nhất Việt Nam và Đông Dương. Phía Tây và Tây Nam là các dãy núi cao kê tiếp nhau, phân định biên giới Việt - Lào. Sông Đà nằm giữa Tây Bắc, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Hai bên sông là các sơn nguyên và cao nguyên đá vôi kê tiếp nhau từ Sìn Hồ (Lai Châu) đên Mai Châu (Hoà Bình) với độ cao trung bình từ 1.200 — 1.400m. Lưu vực sông Đà và sông Mã tạo cho Tây Bắc những lòng máng không lồ, xung quanh là các núi, cao nguyên, hình thành một vùng tự nhiên độc đáo với nhiêu tiểu vùng khí hậu, đất đai và thực vật rừng điển hình, thích hợp VỐI việc phát triên nên kinh tê hàng hoá hướng tới thị trường, tiêu biêu cho vùng núi cao miền Băc Việt Nam. Đông Bắc có địa hình cao vê phía Bắc và Tây Bắc, thấp dần về phía Nam và Đông Nam. Phía Tây có những dăy núi cao chạy dọc theo hưống Tây Bắc - Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn có đỉnh Phan Xi Pảng cao 3143 m. Phía Đông là vùng biên rộng có thêm lục địa nông với nhiêu ngọn núi cao, tạo nên các vịnh đẹp nôi tiêng như Bái Tử Long, Hạ Long... Vùng giữa là những vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Sự phân hoá của địa hình và khí hậu tạo ra nhiều tiếu vùng sinh thái cho phép phát triển hàng loạt cây trồng, vật nuôi rất đa dạng, phong phú, trong đó có nhiều loại đặc sản có giá trị kinh tê cao. 2. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN 2. 1. Đặc đ iếm 2.1.1.Tài nguycn thiên nhiên là nguồn lực quan trọng đê xây dựng và phát triển kinh tê - xã hội của quốc gia. Nó là điêu kiện thường xuyên, can thiết cho các quá trình sản xuất, là một trong những n h â n tô tạo vùng quan trọng. Vì vậy, tài nguyên thiên nhiên được COI n h ư một tà i sá n quý của quôc gia. 2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta tương đối phong p h ú hơn một sô nước trong khu vực, tạo lợi thê quan trọng cho sự p h ú t triên 21 Một trong những tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú của nước ta là các loại khoáng sản kim loại và phi kim loại. Những khoáng sản này có ý nghĩa lớn đôi với nền kinh tê của cả nước củng như của các vùng (như dầu khí, than đá, apatit, sắt, bôxít. thiêc, kẽm, chì, đá vôi...). Vê sự phân bô của các loại khoáng sán: đồng, niken, đất hiếm thường tập trung ỏ vùng Tây Bắc; khí đốt, dầu, than nâu ỏ vùng thềm lục địa và vùng trũng châu thô sông Hồng; đá vôi, sét làm nguyên liệu xi măng thuộc vùng đồng bằng sông Hồng; sắt, thiếc, đá vôi có quy mô công nghiệp thuộc vùng Bắc Trung Bộ; cát thuỷ tinh ỏ vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, bôxít ở Tây Nguyên; dầu khí ở vùng trũ n g c ử u Long và Nam Côn Sơn... Ngoài ra, còn có một số khoảng sản quí hiếm như vàng, bạc, đá quý..., nhúng trữ lượng không lớn. Trên lãnh thô Việt Nam còn có tài nguyên đất, rừng, biển... là những nguồn lực quan trọng đê phát triển kinh tê - xã hội. Bảng 1.1. Trữ lượng môt số khoáng sản đã được tìm kiếm, thăm dò Khoáng sản Đơn vị Trữ lượng tìm kiếm + thăm dò Tống trữ l ương (dự báo + tìm kiếm thăm dò) Dầu Tỉ tấn 1 ,5 -2 5 - 6 Khí Tỉ m3 18 - 330 - Than antraxit Triệu tấn 3.500 6.600 Quặng sắt Triệu tấn 1.041 1.200 Măngan Nghìn tấn 3.200 6.700 Crôm Nghìn tân 22.818 - Đồng Nghìn tấn 1.200 5.400 Bôxit Triệu tấn 3.040 6.600 Vàng Tấn 100 200 Đất hiêm Nghìn tấn 8.512 22.519 Thiếc Nghìn tấn 201 553 Apatit Triệu tấn 908 2.100 Pyrit Triệu tấn 908 2.100 22 Nước ta có vùng biển khoảng 1 triệu krrr với nguồn lợi hải sán phong phú, có thê cho phép khai thác 1,5 - 2 triệu tấ n cá, tôm. Trong lòng biên có nhiêu tài nguyên quý. Dầu khí là nguồn tài nguyên quan trọng, đã và đang dóng góp to lốn vào việc phát triến kinh tê, hình thành ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam. Ngoài ra, núớc ta còn có 3.260 km bờ biển, 100.000 ha đầm phá và vịnh kín, 200.000 ha bãi triều và ngập mặn, hớn 100 cửa sông. Việt Nam lại gần đường hàng hải quôc tê, giao lùu dễ dàng vối các hải cảng lon trên thê giới. Đó là những điều kiện tôt cho phát triên kinh tê biên. Tài nguyên cho sản xuất vật liệu xây dựng và khoáng sản kim loai (đen và màu) tương đôi nhiêu, song phần lớn trữ lượng nhỏ (trừ một vài loại). Nhìn chung, các loại khoáng sản chủ yếu được thê hiện ỏ báng 1.1. Tài nguyên nước tương đôi dồi dào. có ý nghĩa quan trọng không chỉ cho việc cung cấp nưóc cho sản xuất và sinh hoạt, mà cả cho phát triên năng lượng. Hệ thông sông Hồng (kê cả sông Đà) có tiềm năng thuỷ điện lớn nhất, sau đó là hệ thông sông Đồng Nai. Bảng 1.2. Cơ cấu một số loại tài nguyên theo lãnh thổ Đơn vị: % Tài nguyênTổng sô Đồng bảng sông Hồng Trung du miền n ú i Bắc Bộ Đông Nam Bắc Tru ng Bộ Các vùng còn lại Than 100 - 99,9 - 0,1 - Quặng sắt 100 - 38,7 - 61,3 - Bôxit 100 - 30 - - 70 Dầu khí 100 10 - 90 - - Trữ năng thuỷ điện 100 - 56 6,2 7,8 30 Đá VÔI 100 8 50 - 40 9 Apatít 100 - 100 - - - 23 2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên, một trong những yếu tô quan trọng đê p h á t triển sản xuất, p h â n bô' không đều giữa các vùng. Một s<3 tài nguyên lại thường tập trung những địa bàn ít dân. điểu kiện khai thác khó khăn. Trung du, miền núi Bắc Bộ giàu than, apatit, quặng kim loại, trữ năng thuỷ điện. Đồng bằng sông Hồng có đá VÔI đê sản xuất xi măng, đất trồng lúa. Bắc Trung Bộ có đá vôi. quặng sắt, crôm. Tây Nguyên có bôxít, rừng, đất trồng cây công nghiệp dài ngày; Đông Nam Bộ có dầu khí, đất trồng cây ròng nghiệp dài ngày... Về đại thể, điểu đó được thê hiện qua bảng 1.2. 2.1.4. Việt N am đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng là tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường nưốc, không khí bị ô nhiễm. Đó là hậu quả của chiên tra n h cộng VỐI sự khai thác không hợp lí các tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta phải sử dụng hợp lí và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Đó là con đường tôt n h ấ t đế đạt được sự phát triển bền vững ở Việt Nam. 2.2. Các loại tài nguyên thiên nhiên chủ yêu 2.2.1. Tài nguyên biên và nguồn lợi về biên Tài nguyên biên nưốc ta gồm nguồn lợi hải sản phong phú (có thê cho phép khai thác 1,5-2 triệu tấn cá, tôm hàng năm) và nguồn khoáng sản (dầu khí) giàu có. Dầu khí là tài nguyên hàng đầu, góp phần đáng kê vào việc phát triển kinh tê, hình thành ngành công nghiệp dầu khí non trẻ của nước nhà. Vối trữ lượng 180 - 330 tỉ m:ỉ, dự kiên đến nám 2010 có thê khai thác khoảng 7,5 - 8 tỉ m ’ khí. Dầu mỏ vối trữ lượng địa chất có thê đạt 5 - 6 tỉ tấn. Với hệ sô khai thác trê n dưới 30% thì trữ lượng dự đoán có thể đạt 1,5 - 2 tỉ tấ n dầu quy đối và khai thác hàng năm khoang 23 - 25 triệu tấn dầu thô. Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phone phú trong khu vực. Ngoài cá biến là nguồn lợi chính còn nhiêu loại đặc sản khác có giá trị k in h tê cao như tôm, cua, mực, rong biến... Riêng cá biên đã p h á t hiện hơn 2000 loài khác nhau, trong đó trê n 100 loài có giá trị k inh tế. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó có 12 băi p h â n bô" ơ vùng ven bờ và 3 bãi ỏ các gò nôi ngoài khơi. 24 Theo đánh giá sơ bộ, trữ lượng cá biên Việt Nam đạt khoảng 3 triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm từ 1,2 - 1,4 triệu tấn. trong đó gần 50% sản lượng phân bố ỏ vùng biển Nam Bộ. Khả năng khai thác lớn n h ấ t là khu vực có độ sâu từ 21 - 50 mét, chiêm 58% khả năng khai thác toàn vùng biển; khu vực có độ sâu từ 51 - 100 mét chiêm 24% và khu vực ven bờ từ 20 mét nước trở vào chiêm 18%. Mức khai thác hiện nay đôi với hải sản ven bờ đă đến giới hạn cho phép, cần có biện pháp h ạ n chê. Nguồn lợi cá nối đại dương lớn và có nhiều triển vọng. Tôm là loại đặc sản có tiềm năng khai thác lớn và giá trị kinh tê cao, là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta hiện nay. Tôm p h ân bô rộng khắp ỏ khu vực gần bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu. Các khu vực tập trung là ven biến Quảng Ninh - Hải Phòng, cửa Ba Lạt, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Ninh T h u ậ n và đặc biệt là vùng ven biến Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Rạch Giá. Khả năng khai thác tôm biến khá lán, trong đó trên 70% ỏ ven biển Nam Bộ. Khả năng khai thác mực là 30 - 40 ngàn tàn/năm và tập trung nhiều vùng biên Trung Bộ (45 - 50%). Các loại đặc sản khác như: cua, yên sào, bào ngứ, trai ngọc, sò huyêt, rong biên... r ấ t phong phú; dự tính có thể khai thác hàng trăm ngàn tấn/năm . nhưng chưa được điều tra đầy đủ. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị, mớ ra triến vọng lốn cho việc khai thác và chê biến xuất khau trong tương lai. Dọc ven biên có trên 37 vạn ha m ặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, n h ấ t là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu...Riêng diện tích có thê nuôi tôm nước lợ có tới 3 v ạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bò' n h ư vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, phá Tam Giang, vịnh Văn Phong... Đây là môi trường rất th u ậ n lợi đê p h át triển nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong tương lai có the phát triển m ạn h ng àn h nuôi trồng hải sản ỏ biển và ven biên. Vùng ven biên còn là địa bàn phần bô các khu công nghiệp các hải cảng lốn, phát triển vận tải biển liên vùng trong cả nưốc và viễn dương ra núốc ngoài, là địa bàn thuận lợi phát triển ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biên cũng như ngành dịch vụ vận tẩi biển. 25 Vùng ven biến Việt Nam có nhiểu bãi tắm đẹp, t h u ậ n lợi đê phát triển mạnh ngành du lịch biển, thu hút nhiều khách trong nước và quốc tế. 2.2.2. Tài nguyên đảt - Quỹ đất đai của Việt Nam đa dạng, phức tạp. Tiềm năng đất nông, lâm, ngư nghiệp phụ thuộc vào sự hình thành của hai loại thô nhưỡng là: đất bồi tụ và đất hình thành tại chỗ trên các loại đá mẹ khác nhau. Đất bồi tụ của cả nưốc có 10 triệu ha, bao gồm các loại đất phù sa cô, đất phủ sa mới, đất bồi tụ ỏ thung lũng, trong đó tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông c ử u Long, đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông cử u Long gồm các loại đất phù sa trẻ biến đôi do trồng lúa. Loại đất này do chê độ canh tác không được lu â n canh và chê độ bón ph ân ít p h â n hữu cơ làm cho đất n h a n h thoái hoá, tăng lượng ALO;, và FevO . trong đất. đất trớ nên chua, giảm năng suất sinh học. Đất phù sa cô (hay còn gọi là đất phù sa được bồi đắp đã lâu) thích hợp VỐI các loại cây công nghiệp, cây ăn quả. Ngoài ra, còn có đất nhiễm mặn, đất m ặn ngập nước và bán ngập nước vùng ven biển, cửa sông V.V.... Vùng Tây Bắc và Đông Bắc có các loại đất alít mùn, feralit mùn trên núi cao; đất feralit mùn màu đỏ vàng trên núi trung bình và núi thấp; đất feralit đồi và núi thấp dưối 500 m; đất phát trien trên đá vôi giàu can xi; đất phù sa ven sông suối; đất biến đôi do trồng lúa ở cấc dải đồng bằng hẹp; nhóm đất phù sa cổ; đất lầy thụt giây hoá.... Với đặc điểm đất đai đa dạng, hệ thực vật tự nhiên và cây trồng của Đông Bắc và Tây Bắc cũng hết sức phong phú. Vùng Tây Nguyên chủ yêu là loại đất đỏ bazan, rấ t thích hợp cho cây công nghiệp, cây ăn quả. Ngoài ra, ven sông suôi còn có đất phù sa biên đôi do trồng lúa, đất giây hoá lầy thụt. Các vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ có đất feralit màu đỏ vàng trên núi, đất m ùn trên núi cao; đất feralit đỏ vàng vùng gò đồi, núi thấp; đất phù sa cô, đất phù sa biên đôi do trồng lúa, đất nhiễm mặn, đất mặn ngập nưốc, bán ngập nước dải ven biển, cửa sông; đất lầy thụt giây hóa. 26 - về sử dụng đất Về diện tích tự nhiên, nước ta thuộc loại nước có quy mô trung bình trên thê giối. Hiện nay cả nưốc đã khai thác vào mục đích: lâm nghiệp, nông nghiệp, chuyên dùng và đất là 23.222,3 ngàn ha, chiêm 70,53% diện tích đất tự nhiên. Năm 2001, diện tích đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp là 9382,5 ngàn ha, chiêm 28,5% tồng diện tích tự nhiên (và bằng 40,4% diện tích đã sử dụng), đất lâm nghiệp 11.823,8 ngàn ha và đất chuyên dùng 1568,3 ngàn ha. Các vùng Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên có tỉ lệ diện tích đất đã sử dụng cao nhất, trên 80%. Ớ vùng núi trung du Bắc Bộ, diện tích đất đã sử dụng chỉ chiêm 53,8%, các vùng ven biên mối sử dụng trên 65% diện tích đất tự nhiên. Đất chưa sử dụng và sông, suôi, núi đá còn 9702,4 ngàn ha, chiêm 29,47% tông diện tích tự nhiên. Do dân số nước ta đông nên diện tích đất tự nhiên bình quân đầu người vào loại thấp, chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thê giới. Mặc dù trong nhiều năm qua chúng ta đã tích cực khai thác và đua vào sản xuất nông nghiệp, nhung đên nay diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người vẫn thấp: 1224 rrr/ngưòi (so với năm 1976 giảm 180 irr/người). Từ CUÔ1 những năm 70 đến năm 1990, đất nông nghiệp hầu như không tăng, chỉ giữ mức 6,9 triệu ha. Từ năm 1990 đên năm 2001, tôííc độ tăng đất nông nghiệp đã khá hơn trước. So vối năm 1990, diện tích đất nông nghiệp năm 2001 đã tăng hon 2300 ngàn ha. N hư vậy, diện tích đất nông nghiệp hiện có khoảng 9,38 triệu ha, trong đó: đất trồng cây hàng năm 6,1 triệu ha (riêng đất lúa 4,5 triệu ha); đất trồng cây lâu năm 2,2 triệu ha. Hiện nay, đất tương đôi bằng nhưng chưa sử dụng có diện tích là 548 ngàn ha, chiếm 5,6% đất chưa sử dụng, chủ yêu là loại đất bồi tụ, gồm các loại đất mặn, đất phèn, đất ngập úng. Đất hình thành tại chỗ trên các loại đá mẹ có diện tích khoáng 22 triệu ha, trong đó 1 triệu ha là núi đá. Đất hình thành tại chỗ ỏ độ cao trên 900 m có 3,5 triệu ha trong đó 0,2 triệu ha ỏ độ cao trên 1.800 m. Đất hình thành tại chỗ có độ dốc trên 25° có tói 13,5 triệu ha, chiêm 41% diện tích. Đất mỏng hơn 50 cm có 6,9 triệu ha, chiêm 21%; đất XÓI mòn trơ sỏi đá 0,4 triệu ha chiêm 2%. Dự báo đến năm 2010, chúng ta có thê sử dụng khoảng 50% diện tích đất chưa sử dụng này để mở rộng, phát triên nông nghiệp (khoảng trê n 2 triệu ha), trồng rừng và các mục tiêu kinh tê khác. Do vậy, cần có chính sách sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất, nâng cao giá trị sản xuất ra trên mỗi ha, tăng tỉ suất hàng hoá cho khu vực nông nghiệp và nông thôn. Theo tín h toán, quỹ đ ất nông nghiệp của nước ta có k h o ản g 10 triệu ha sẽ được phân bố như sau: + Đ ất canh tác h àn g năm Trong đó: Đ ất lúa + Đ ất cây lâu năm 6,5 triệu ha. 4.3 triệu ha. 2,8 triệu ha. + Đ ất cỏ và nuôi trồng thuỷ sản : 0,7 triệ u ha. Do hàng năm phải chuyên khoảng 2,8 vạn ha đất sang các mục đích sử dụng khác nên diện tích đất nông nghiệp sẽ tăng rất chậm, đặc biệt là đất lúa sẽ khó tăng. Trong vòng 10 năm tới, khó có k h ả n ă n g sử dụng hết tiềm năng quỹ đất, n h ấ t là ỏ vùng đồi núi điều kiện khai thác khó khăn, nguồn vôn có hạn. Tuy vậy, việc đầu tư mở rộng đất nông nghiệp phải được coi là một định hướng quan trọng trong thời kỳ đên năm 2010 và là điều kiện cần th iế t để chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Bảng 1.3. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 2000 2010 Chỉ tiêu Tông diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Đất chuyên dùng Đất ở Đất chưa sử dụng và sông, suôi, núi đá Diện tích (nghìn ha) 32.924,7 9.345,3 11.575.4 1.532,8 443,2 10.028 Cơ cấu (%) 100,0 28.4 35,2 4,6 1,3 30.5 Diện tích (nghìn ha) 32.924.7 9.919.9 16.243.7 2.089.8 478,5 4.192.8 Cơ cáu (%) 100,0 30.1 49.3 6.4 1.5 12.7 Nguồn: Báo cáo quy hoạch, kê hoạch sử dụng đẫt đai ca nước đến năm 2010. Hà Nội, tháng 2/2003. 28 - Hệ sô sử dụng đất của cả nước đên nám 1998 là 1,73 lân. Theo các vùng thì Đồng bằng sông Hồng đạt 2,1 lần; Tây Nguyên và Tây Băc có hệ sô sử dụng đất thâp nhát, mối ớ mức 1 lân. ơ các vùng khác như Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Bắc, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông c ử u Long, hệ sô" sử dụng đất trồng từ 1,33 - 1,59 lần. Riêng vùng Bắc Trung Bộ có hệ sô" sử dụng đâ"t cao n h ấ t trong cả núớc, đạt 2,6 lần. Đất đưa vào sử dụng của các vùng cũng khác nhau. Duy chỉ có Đồng bằng sông Hồng là đạt tỉ lệ cao n h ất (82,4% diện tích tự nhiên). Bảng 1.4. Hệ số sử dụng đất Chí tiêu Đơn vị 1998 2000 2010 Diện tích gieo trồng cây hàng năm Diện tích đất canh tác Hệ sô sử dụng đất 2.2.3. Tài nguyên nước l.OOOha l.OOOha lần 10.011 5.763 1,73 10.560 5.897 1,79 12.100 6.200 1,95 Tài nguyên nưốc tương đôi dồi dào, có ý nghĩa quan trọng không chỉ cho việc cung cấp nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt, mà cả cho p h át triển thuỷ điện, giao thông vận tải ... -N guồn nước mặt: N ằm trong vùng nhiệt đối, Việt Nam có nguồn nưốc mặt phong phú. Điều đó thê hiện ơ các điếm sau: + Do nhiều hệ thông sông nu'ó'c ta bắt nguồn từ lãn h thô của các nước láng giềng (như hệ thông sông Hồng, sông cứu Long từ Trung Quốc, hệ thông sông Mã, sông c ả từ Lào...) nên khôi lượng nưốc mặt lớn hơn lượng nước mưa, nghĩa là nguồn nước mặt tương đôi phong phu. + Lượng mưa hàng năm tương đôi lớn, trung bình từ 1800 mm đến 2000 mm. Sông ngòi Việt Nam nhiều, phân bô tương đôi đồng đều trê n các vùng lãnh thổ. Dọc ven biển, cứ khoang 10 km có một cửa sông. M ật độ sông ngòi là 0,12 kra/km2. Chỉ kê các sông suôi có chiều dài từ 10 km trơ lên đã có 2.560 sông, bao gồm 124 hệ thông sông vối tổng diện tích lưu vực là 292.470km2. 29 + Mạng lưối sông suôi, kênh rạch ỏ nước ta khá dày đặc. ơ phía Bắc có các hệ thông sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đà...; ó Đồng bằng sông c ử u Long có sông Tiền, sông Hậu; ở Tây Nguyên có sông Xêrêpôc, Xêsan, sông Ba; ở Đông Nam Bộ có sông Đồng Nai... Tổng lượng dòng chảy hàng năm khoảng 840 tỉ m \ trong đó riêng nội địa 328 tỉ m !, chiếm 38,8% lưu lượng dòng chảy. Tổng trữ lượng núớc của các hệ thông sông khá lớn (như sông Hồng, sông Thái Binh: 137 tỉ m :/năm, sông Tiền, sông Hậu 500 tỉ m :i/năm, sông Đồng Nai: 35 ti m /năm). + M ật độ sông ngòi tương đôi dày đặc, m ùa mưa có lưu lượng dòng chảy > 30 1/s/knr. Nhìn chung trên phần lớn các lãnh thố, nêu tính lượng mu'a cả năm và sự đóng góp của nó vào dòng chảy thì nguồn nưốc không thiếu.Ngoài lượng nước mặt, chning ta có thê khai thác từ 20 - 30% trữ lượng nước ngầm (khoảng 50 tỉ m")■ Song, do đặc điểm ở các vùng, trong những năm thời tiết b ấ t th u ận , các công trình thủy lợi hiện có không p h át huy được tác dụng, n hiều nơi vẫn lâm vào tình trạng thiêu nưổc hoặc thừa nước, ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đời sông. Điều đáng lưu ý là nguồn nước p h ân bô" không đồng đều theo thòi gian và không gian trên các vùng lănh thố. Lượng nưóc bình quân trê n I m ' ơ Đồng bằng sông Cửu Long gấp 5 lần, ỏ Đồng bằng sông Hồng gấp 4 lần bình quân cả nước, trong khi đó vùng cực N am Trung Bộ lại kém hơn 5 lần. + Chất lượng nước m ặt ỏ một sô dòng sông và hồ hiện nay đang có chiều hưống ô nhiễm do lượng nước th ải công nghiệp và sinh hoạt không được xử lí thải trực tiếp vào các dòng sông. Ớ các khu vực ven biến, nước m ặn có chiều hướng tiên sâu vào đất liền (sông Hồng lấn sâu 20 km, sông Thái Bình 40 km, sông Tiền 50 km, sông Hậu 40 km). Đặc trưng nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp trên các vùng lãnh thô biêu hiện như sau: Đôi với Trung cỉu miền núi, p h ía B ắ c , Tây Bắc chu yêu lấy nguồn nước từ sông Đà, sông Mã, địa hình chia cắt manh. Vùng Đóng Bắc có một sô sông lốn là sông Bằng Giang, sông Kỳ Cùng, sông Lô. sông Chảy, hệ thông sông Thái Binh (sông cầu, sông Thương, sóng Lục Nam). Chê độ dòng chảy phức tạp. mùa múa nhiêu nưốc thường gây lủ, mùa khô thiêu nước, kê cả nước sinh hoạt. 30 Ớ Đồng bằng sông Hồng, hai hệ thông sông chính là sông Hông và sông Thái Bình có tổng lượng nưốc 137 tỉ mVnăm. Mùa lũ bắt đầu vào th án g 6, kết thúc vào tháng 9. Mức nước cao hơn trong nội đồng khoảng 2 - 8 m. Đây là vùng có nhiêu công trình thuỷ lợi hơn các vùng khác, nhưng diện tích tưới chủ động mới đạt 50%. Đặc biệt vùng sát biến còn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều, mùa khô thiêu nước, mùa mưa tiêu úng kém. Băc Trung Bộ là vùng có nhiều núi thấp, hẹp ngang, dôc, mưa nhiêu, phân bô" không đêu. Nguồn nước chủ yêu từ các sông như sông Mă, sông Chu, sông cả, sông Hương. Mùa cạn thiếu nước, nhưng nhờ các hồ chứa nên đã đáp ứng được khoang 60% nhu cầu. Ớ Duyên hcíi N a m Trung Rộ, sông ngòi tương đôi nhiều. Tổng lượng nước vào khoảng 50 ti m :/năm. Do sông ngòi ngắn và dốc nên lũ nhanh, thường gây ra lụt lớn. Vào mùa khô khoảng tháng 3, đầu t h á n g 4 hoặc CUÔ1 t h á n g 7, đầu t h á n g 8 lại th iế u nước t r ầ m trọng, làm nhiêu vùng bị hạn. Đây là vùng có nguồn nước khoáng lốn và có giá trị. ơ Tây Nguyên, nguồn nưốc chính lấy từ các sông Xêrêpôc, sông Ba. Vào mùa mưa có tới trên 48 tỉ mnhưng vào mùa khô lại thiêu nưốc. Nguồn nước ngầm khá phong phú, nhưng mới chỉ khai thác một p h ần nhỏ phục vụ cho việc trồng cà phê. P h ần lớn nư'ó'c cho sản xuất nông nghiệp vẫn phải dựa vào nguồn nước lấy từ các hồ chứa. Diện tích hồ chứa đây là 13.000 ha và có thê nâng lên 30.000 ha trong tương lai. Ớ Đông N a m Bộ, nguồn nước chủ yêu lấy từ hệ thông sông Đồng Nai với tông lượng nùớc vào khoảng 35 tỉ m /n ă m , tập trung vào mùa múa tói 80%. Nguồn nước ngầm tương đôi dồi dào, nhúng chưa sử dụng nhiêu vào sán xuất nông nghiệp vì giá thành khai thác tương đối cao. Một sô vùng sử dụng nguồn nước chủ yêu từ các hồ chứa như hồ Dẩu Tiêng, Trị An. Ở Dồng bằng sông c ử u Lo?rg, nguồn nước chú yêu là từ hệ thông sông Mê Công, qua sông Tiền và sông Hậu vối tòng lượng nước trung bình khoang 500 tỉ m /năm. Nơi đây hay bị ngập lụt do phân bô' không đều về dòng chảy. Vào tháng 3-5, lưu lượng núốc sông thấp, nước tưới bị hạn chê. vụ hè thu luôn luôn bị thiêu nước. 31 Bảng 1.5. Phân bố nguồn nước mặt Các vừng lãnh thôTổng sôTrong đó: riêng nội địa và lưu vực Lưu lượng (tỉ rn'1 / năm) %Lưu lượng ti m :i / năm% Cả nước 840,0 100.0 328,0 100,0 I. Đong băng sông Hồng Lưu vực sông Hồng và Thái Bình 137,0 16,3 90,6 27,6 II. Đông Bắc 17,4 2 15.7 4,8 - Lưu vực sông vùng Quảng Ninh 8,5 1 7,2 2 2 - Lưu vực sông vùng Cao Bằng, Lạng Sơn 8,9 1 7,2 9 2 III. Bắc Trung Bộ 67 8 58,3 17,9 - Lưu vực sông Mã 18,5 2,3 14,7 4,5 - Lưu vực sông Cả 24,7 2,9 19,8 6,3 - Các sông vùng Bình Trị Thiên 23,8 2,8 23,8 7.3 IV. Duyên hải Natn Trung Bộ 48,7 5,8 48,7 14,8 - Khu vực Quảng Nam, Đà Nẳng 21,6 2,6 21,6 6,6 - Khu vực Quảng Ngãi, Bình Định 14,6 1,7 14,6 3,2 - Khu vực Phú Yên, Khánh Hoà 12,5 1,4 12,5 4.4 V. Tây Nguyên 30,0 3,6 30,0 9.1 VI. Đông Nam Bộ 34.9 4,2 34,9 10.6 - Lưu vực sông Đồng Nai 30,0 3,0 8,4 2,6 - Ninh Thuận - Bình Thuận 8,4 1,0 VII. Đông bằng sÔTìg cửu Long Lưu vực sông Cửu Long 505,0 60,1 50,0 15.2 Nguồn: Viện quy hoạch thuỳ lợi, Bộ N ông nghiệp và Phút triên nông thôn. 32 Các công trình thuỷ lợi của nước ta khá nhiều. Tính đên nay cả nước đã có 833 hồ chứa, 945 đập, trên 2.300 trạ m bơm lớn cộng vối các công trìn h nhỏ có tống công suất tưới 3,4 triệu ha, tiêu trên 2,2 triệu ha. Tuy vậy, năng lực của các công trình này vẫn chưa đảm bảo tưới tiêu cho toàn bộ đất lúa. Diện tích màu và cây công nghiệp được tưới r ấ t thấp, diện tích ngập úng ở Đồng bằng sông Hồng vẫn còn, giải pháp th o át lũ ỏ Đồng bằng sông c ử u Long chưa t h ậ t sự có hiệu quả... Nguồn nước ngầm khá lớn, song việc khai thác và sử dụng trong nông nghiệp còn rất hạn chế. Đế đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nhanh của nông nghiệp cho đên năm 2010, cần phải đấy mạnh việc xây dựng các công trình thủy lợi đê bảo đảm nước tưới cho sản xuất lúa, màu, rau, cây công nghiệp, cây ăn quả...; khai thác cả nguồn nước mặt và nước ngầm phục vụ sản x uất nông nghiệp và đời sông. -N guồn nước ngầm: Tài nguyên nước ngầm của Việt Nam chưa được th ă m dò, đánh giá đầy đủ. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy nguồn nước ngầm phần lớn chứa trong các th à n h tạo cách m ặt đất 10 - 100 m. Các phức hệ có khả n ăn g khai thác là: + Phức hệ tr ầ m tích bỏ rời phân bô chủ yếu Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long và một vài nơi ven biển miền Trung. + Phức hệ trầ m tích cácbonat p h â n bô" chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc, vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. + Phức hệ đá p h u n trào bazan p h ân bô chủ yếu ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. + Trữ lượng nước ngầm của Việt Nam đã được th ă m dò là 3,3 tỉ mVnăm và p h â n bô' không đều. Kết quả khảo sát sơ bộ của Viện Địa chất khoảng sản cho thấy rõ tính chất không đồng đều này. Các phức hệ chứa nưốc thường có độ chứa không đồng đều theo diện tích cũng như chiều sâu, đặc biệt là các phức hệ cácbonat và bazan. Ở vùng ven biển, nưốc ngầm thường bị nhiễm mặn. Ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông c ử u Long, nước ngầm thường có hàm lượng sắt và độ axit cao. 33 Bảng 1.6. Trữ lượng một số điểm nước ngầm STT Vùng Công suất (m */ s) 1 Tây Bắc 262,0 2 Đông Bắc 262,0 3 Đồng bằng sông Hồng 98,0 4 Bắc Trung Bộ 8,5 5 Duyên hải Nam Trung Bộ 307,0 6 Tây Nguyên (tại Plâycu) 16,4 7 Đông Nam Bộ 138,0 8 Đồng bằng sông cửu Long 11,5 -Nguồn thuỷ năng: Tiềm năng thuỷ điện của nưốc ta tương đôi lán, khoảng 30 triệu KW với sản lượng 260 - 270 tỉ KWh. Phần lớn nguồn thuỷ năng tập trung ở hệ thông sông Hồng (khoảng 37%) và hệ thông sông Đồng Nai (19%). Với nguồn thuỷ năng này, cùng vối trữ lượng t h a n và dầu khí đã biết, có thể trong 10-15 năm tới, chúng ta có khả năng đáp ứng đủ năng lượng cho các ngành kinh tế. 2.2.4. Tài nguyên rừng Giông n h ư các nước đang p h át triển ở vùng nhiệt đới, Việt Nam trưốc đảy sử dụng rừng chủ yếu là để khai thác gỗ, mà ít lưu ý đến chức năng môi trường. Do đó, diện tích rừng bị giảm dần. tài nguyên rừng bị cạn kiệt. Năm 1943, cả nước có 14 triệu h a rừng, độ che phủ đạt 43%. Sau khi thông nhất đất nước (năm 1975), theo kêt quả kiểm kê thì diện tích rừng còn lại 11 triệu ha, trong đó rừng trồng 92 nghìn ha. Đên năm 1995, tổng diện tích rừng chỉ còn 9,3 triệu ha, trong đó diện tích rừng trồng là 1,05 triệu ha, độ che phủ của rừng chỉ còn 28,2%. 34 Bảng 1.7. Biến đổi diện tích rừng và độ che phủ NămRừng tự nhiên (1000 ha) Rừng trồng (1000 ha) Tổng diện tích rừng (1000 ha) Độ che phủ (%) 1943 14.000 0 14.000 43,00 1976 11.077 92 11.169 33,80 1980 10.486 422 10.608 32,10 1985 9.308 584 9.892 30,00 1990 8.430 745 9.175 27,80 1995 8.252 1.050 9.302 28,20 2000 9774,5 1800,5 11.575 35,10 Trong những năm gần đây, tình trạng suy giảm diện tích rừng đã chậm lại. Nếu như trong giai đoạn 1976-1990, hàng năm cả nước mất đi 190 ngàn ha rừng, thì trong các năm 1991-1995 diện tích rừng tự nhiên bị m ất là 35 ngàn ha/năm. Diện tích rừnp trồng đã tăng lên nhanh chóng, từ 47 ngàn ha/năm trong giai đoạn 1976-1990 lên 61 n g à n h a / n ă m tro n g giai đoạn 1991-1995. Đó là chưa kể đến số’ lượng cây trồng p h â n tán. Trong các năm 1992-1995, còn có 139 ngàn ha rừng tự nhiên được khoanh nuôi phục hồi. Đến n ă m 2000, toàn quốc có 11.575 n g à n ha đ ấ t lâm nghiệp có rừng, chiếm 35,1% diện tích tự nhiên (phần đất liền) của cả nước, trong đó 9774,5 ngàn ha rừng tự nhiên và 1800,5 ngàn ha rừng trồng. Miên núi và tru n g du Bắc Bộ có diện tích đ ấ t lâm nghiệp có rừng lớn nhất tới 3741,9 ngàn ha, chiếm 32,58% diện tích đất lâm nghiệp có rừng của cả nước, sau đó là Tây Nguyên 2993,2 ngàn ha (25,85%). Về trữ lượng, đến tháng 12/1999, tổng trữ lượng gỗ cây đứng của cả nước là 751.468,5 n g à n m 3 và 8,4 triệu cây tre nứa. Trong sô" này, Tây Nguyên là vùng giàu tài nguyên rừng gỗ n h ấ t với 298.821 n g h ìn m 3 (39,8%), tiếp đến là Bắc T ru n g Bộ 152.857,6 n g à n m 3 (20,3%), Đông Bắc 99386,4 n g à n m 3 (13,2%), D uyên hải N am T ru n g Bộ 95680,5 n g à n m 3 (12,7%), Đông N am Bộ 54508,2 n g à n m 3 (7 2%) 35 Tây Bắc 41754 n g àn m 3 (5,5%), Đồng bằn g sông c ử u Long 6327,7 n g àn m 3 (0,84%) và Đồng bằng sông Hồng 2133,1 n g àn m ! (0.46% trữ lượng gỗ của cả nước). Trữ lượng tre nứ a tập t r u n g chủ yêu ỏ vùng Tây N guyên và Bắc T ru n g Bộ. Rừng nước ta còn có nguồn đặc sản quý, trong đó đáng kể nhất là quế, hồi, trẩu, nhự a thông, cánh kiến, dược liệu. C húng có triển vọng phát triển nếu có chính sách đầu tư và khuyến khích thoả đáng. Ngoài ra, dưói tá n rừng còn có nhiều động v ậ t quý hiếm. Về chất lượng, sau nhiều năm khai thác, hiện tại rừng nghèo chiếm tỉ trọ n g lớn. Thí dụ, trong tổng sô" 5,18 triệ u h a rừ n g thường xanh thì: - Rừng giàu : 567,5 ngàn ha (11%); - Rừng tr u n g b ỉnh : 1.717,5 n g à n h a (33%); - Rừng nghèo kiệt : 2.895,3 ng àn h a (56%). Nếu tiếp tục khai thác, rừng trung bình sẽ còn bị giảm chất lượng hơn nữa. Trong khi đó, các khu rừng vẫn tiếp tục chịu áp lực ngày càng gia tăn g về củi đun, gỗ gia dụng và đất đai để làm nương rẫy, giải quyết lương thực. Sô' lượng loài cây gỗ quý hiếm giảm dần, môi trường sông của động vật rừng ngày càng bị thu hẹp, danh sách các loài động v ật hoang dã có nguy cơ tu y ệt chủng trong sách Đỏ Việt Nam tăng dần. Vê tiềm năng, hiện nay cả nước còn khoảng 12,6 triệu ha đất trông, đồi núi trọc chưa sử dụng, trong đó có k h o ả n g 2 triệ u h a có thể phục vụ cho mục đích nông nghiệp, phần còn lại chủ yếu sử dụng cho mục đích lâm nghiệp. 2.2.5. Tài nguyên khoáng sản Tài nguyên khoảng sản của nước ta đa dạng và phong phú vê chủng loại, nhưng p h ầ n lớn có trữ lượng vừa, nhỏ (trừ bôxit. đất hiêm và khoáng sản làm vật liệu xây dựng), điều kiện khai thác khó khăn. Theo đánh giá, chỉ sô trữ lượng kim loại của Việt Nam chỉ là 0,01, trong khi của Thái Lan là 0,47, Philippin là 0,30; Inđônêxia 1,54, Trung Quốc 8,39. Theo điều tra của Cục Địa chất, vào đầu thập kỷ đã phát hiện được 5000 điểm quặng và mỏ (chưa kể dầu mỏ và khí đốt) với hơn 80 36 loại khoáng sản khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay mới có 300 mỏ của 30 loại khoáng sản được đưa vào khai thác. Khoáng sản p h ân bô" ở nhiều nơi, nhưng tập tru n g chủ yêu ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ. -Khoáng sản nhiên liệu, năng lượng Việt Nam được coi là một nước có tiêm năng lốn về năng lượng: dầu thô, khí tự nhiên, than đá, thuỷ năng. Trong tương lai không xa, nước ta sẽ đáp ứng đủ các nhu cầu trong nưâc và cung cấp một phần cho xuất khẩu. + T h a n của nước ta có nhiều loại, trữ lượng lớn, p h ân bô" ỏ nhiều nơi, nhưng tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh. Tống trữ lượng các mỏ t h a n ở Việt Nam, theo ước tính là trên 6,6 tỉ t ấ n (đứng đầu ở Đông Nam Á), trong đó riêng vùng th a n Quảng Ninh đã chiếm tối 90% trữ lượng của cả nước. T h a n Quảng Ninh, nếu tính đến độ sâu 300 m, trữ lượng thăm dò khoảng 3,5 tỉ tấn, nêu tính từ độ sâu 300 m đến 900 m thì trữ lượng dự báo là khoảng 2 tỉ tấn. P h ần lốn ở đây là t h a n antraxit, chất lượng tốt, có giá trị xuất khẩu. Nhiệt lượng th a n khá cao (8120 - 8650 kcal/kg), độ tro 15,6%, độ ẩm 1,28 - 7,3%. Các mỏ t h a n ở các địa phương khác trữ lượng không lốn, nhưng bù lại có thêm những loại th a n cần thiết cho công nghiệp luyện kim như t h a n mỡ ở Thái Nguyên. T h a n n âu trữ lượng khá lớn, có nhiều ở Đồng bằng Bắc Bộ (trữ lượng hàng chục tỉ tấn, nằm ở độ sâu 1.000-2.000 m), ỏ vùng trũng đệ tam Na Dương (trữ lượng vào khoảng 120 triệu tấn), ỏ các bồn trũng dọc sông Hồng, sông c ả , sông Đà, sông Ba, Di Linh, Bảo Lộc... Than nâu và th a n bùn được phát hiện ở nhiêu no'1 (1.000 điếm) với trữ lượng tương đôì lớn, có nhiều Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ (các mỏ t h a n b ù n ỏ đây có trữ lượng lớn nhất, ước tính là 400 - 500 triệu tấn). + Dầu mỏ và khí đôt là một nguồn năng lượng và nguyên liệu rất quan trọng của nước ta. Trữ lượng dự báo về khí đốt trên toàn lănh thổ nước ta khoảng 180 - 300 tỉ m ’ và trử lượng khai thác có thê đạt khoảng 1,5 - 2 tỉ t ấ n dầu quy đôi. Dầu mỏ nước ta tuy hàm lượng lưu huỳnh thấp, nhúng hàm lượng paraphin lớn (18 - 30%) và đông đặc nhiệt độ cao. 37 Dầu kM của nưốc ta tập trung trong các bế lớn sau: * Bể trầ m tích sông Hồng có diện tích khá lớn. Ờ đây đã phát hiện mỏ khí đốt Tiền Hải trữ lượng 1 tỉ m3. Theo dự báo, trữ lượng của bê này có thể đạt tới 1,5 tỉ tấ n vối giới h ạn dưới là 800 triệu tấn dầu quy đôi. * Bể trầ m tích c ử u Long có dạng bầu dục. Ở đây đã phát hiện ra 2 mỏ lớn. Trữ lượng dự báo là 2,5 tỉ tấ n dầu, trữ lượng khai thác có thể đạt tói 500 triệu tấ n dầu quy đôi. * Bê trầ m tích Nam Côn Sơn là bê rộng nhất, có tiềm nàng lốn nhất. Trử lượng địa chất có thể đạt tới 3-4 tỉ tấn. Do đây là vùng nước sâu nên cóng tác nghiên cứu, tìm kiêm thăm dò chưa làm được bao nhiêu. * Bê trầ m tích Trung Bộ bao gồm các bê ỏ phía Đông Huê, Đông Đà Nẵng, Đông Phú - Khánh. Diện tích bê nhỏ, tiêm năng hạn chê. Trữ lượng dự báo không vượt quá 1 tỉ tấ n quy đôi. * Bê Thố Chu - Mã Lai có tiềm năng không lớn, khoẩng vài trăm triệu t ấ n dầu quv đối. - Các loại khoáng sản khác Ngoài than, dầu khí, nưốc ta còn nhiều loại khoáng sản khác như kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm, khoáng sán phi kim loại. Đây là loại tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt đôi với việc phát triển kinh tê - xã hội. + Vê kim loại đen. nước ta có sắt, m a n g an và crôm. Đã phát hiện mỏ sắt lốn n h ấ t với trữ lượng 550 triệu t ấ n ỏ' Thạch Khê (Hà Tĩnh). Trữ lượng các mỏ sắt ỏ vùng Tây Bắc (Bắc Hà, Nga Mi, Hùng Khánh) và mỏ sắt ỏ Tùng Bá ( Hà Giang) khá lốn (120 triệu tấ n và 140 triệu tấn). Các mò sắt khác ỏ Thái Nguyên, Cao Bằng có trữ lượng hạn chế, khoảng từ 20-50 triệu tấn. Các mỏ mangan trầm tích ỏ Chiêm Hoá có trữ lượng nhỏ hơn. Crôm có nhiều ớ Cô Định (Thanh Hoá), trữ lượng khoảng 20,8 triệu tấn. + Vê kim loại màu, nứốc ta có trữ lượng khá lốn vê quãng bôxít, thiêc, đồng, trữ lượng vừa và nhỏ đôi với các loại quặng kim loại màu khác. ơ miền Bắc, các mỏ bôxít trên vùng núi đá thuộc các tình Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, hình t h à n h ỏ dạng trầ m tích, có trữ lượng nhỏ, khó khai thác. Ớ Tây Nguyên có nhiêu mỏ bôxít latêrit. 38 trữ lượng dự báo đạt trê n 4 tỉ tấn. Các quặng bôxít này tập trung ỏ Lâm Đồng, Đắc Lắc, có chất lượng trung bình, hàm lượng ôxít nhôm từ 38-40%, có nơi lên tới 45%. Việc khai thác trên quy mô lớn gặp phải khó k h ă n về nguồn nước. Thiếc, voníram có nhiều ở Tĩnh Túc, Sơn Dương, Quỳ Hợp, Nam Trung Bộ với tổng trữ lượng khoảng 160.000 tấn. Đồng với trữ lượng khoảng 600.000 t ấ n có nhiều ở Lào Cai (Sinh Quyền), Sơn La. Ở các nơi khác, trữ lượng nhỏ hơn (Bắc Giang, Nghệ - Tĩnh, Quảng Ngãi). Ngoài các mỏ có trữ lượng khá lốn kể trên, ở Việt Nam còn có nhiều titan, chì, kẽm, môlipđen, niken, thuỷ ngân, vàng, bạc. Ti tan có trữ lượng vào khoảng 11 triệu tấn, tập trung chủ yếu ở núi Chúa (5 triệu tấn). Ngoài ra còn thấy ở các bãi cát ven biển như bãi biển Mũi Ngọc, Trà cổ, Móng Cái... Chì và kẽm khá phố biến, nhưng trữ lượng không lốn, đang được khai thác ở chợ Điền, Làng Hít. P h ân bô" cùng với chì và kẽm thường có bạc, vàng với trữ lượng vài ngàn tấ n ở Bảo Lạc, Ngân Sơn, Thái Nguyên, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum. Thuỷ n g ân có ở Hà Giang. Quặng phóng xạ đã phát hiện được ở Tây Bắc. + Các mỏ phi kim loại của nước ta phong phú, quan trọng hơn cả là các mỏ apatít, sét, vật liệu xây dựng. Mỏ apatít Cam Đường (Lào Cai) có trữ lượng lốn (khoảng 500 triệu tấn), chất lượng cao và dễ khai thác. Nước ta có nhiều đá vôi (trữ lượng th ă m dò là 356 triệu tấn), tập trung miền Bắc, diện phân bô" rộng t h u ậ n tiện cho khai thác. Trữ lượng thăm dò của sét dùng làm xi măng của nưốc ta là 135 triệu tấn. Sét dùng làm đồ gốm có trữ lượng tương đôi lốn, p h ân bô" chủ yếu Hải Dương, Móng Cái, Phú Thọ. Nước ta có nhiều loại đá xây dựng có giá trị n h ư đá hoa, đá granit và nhiều mỏ hồng ngọc, lam ngọc có giá trị ơ Nghệ An, Yên Bái... II. CON NGƯÒI VIỆT NAM 1. DÂN C ư Dân cu' là tập hợp người sông trên lãnh thổ, được đặc trưng bởi kết cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của việc p h ân công lao động và cu' trú theo lãnh thố. 39 Dân cư là khâu trung tâm của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong hệ thông tự nhiên - dân cư - kinh tế, chính dân cư là thành phần năng động nhất, gắn bó giữa tự nhiên và kinh tế nhờ nhửng thuộc tính sẵn có của mình. Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần cần thiết cho xã hội đều do lao động của con người tạo ra. Trong xã hội, dân cư vừa là người sản xuất ra giá trị vật chất và tinh thần, đồng thđi lại vừa là người tiêu th ụ những sản phàm do chính lao động của mình làm nên. Như vậy, về phương diện kinh tế, dân cư vừa với tư cách là người sản xuất, vừa với tư cách là người tiêu thụ. Nhờ việc tiêu thụ các giá trị vật chất và tinh thần, con người đảm bảo được sự tái sản xuất ra chính mình bên cạnh quá trình tái sản xuất khác của xã4iội. 1.1. Sô dân Việt Nam là một nước đông dân. Theo sô liệu Tông điểu tra dân sô" toàn quốc lần thứ nhất (1/4/1979), dân sô" nước ta có 52,46 triệu người. Đến thời điểm Tổng điều tra dân sô toàn quốc lần thứ 2 (1/4/1989), sô" dân Việt Nam đã tăng lên tối 64,41 triệu người và tại cuộc Tổng điều tra dân sô" cả nưốc lần thứ 3 vừa qua (1.4.1999), sô dân Việt Nam đạt 76,34 triệu người. Đên năm 2003, dân số nước ta có 80,8 triệu người. Vối sô' dân này, nưốc ta đứng hàng thứ 14 trong tổng số hơn 220 quỗc gia trên thê giới, sau Trung Quôc (trên 1.300 triệu người), An Độ (trên 1.000 triệu người), Hoa Kỳ (288 triệu người), Inđônêxia (gần 220 triệu người), Braxin (174 triệu người), Liên bang Nga (144 triệu người), Pakixtan (144 triệu người), Nhật Bản (gần 130 triệu người), Bănglađét (134 triệu người), Nigêria (trên 130 triệu người), Mêhicô (102 triệu người), CHLB Đức (gần 83 triệu người) và Philippin (81 triệu ngúời). Nếu tính trong khu vực Đông Nam Á, dân sổ" nước ta đứng hàng thứ ba sau Inđônêxia và Philippin. So vối dân sô' t h ế giới, dân số Việt N am chiếm gần 1,3%. Đôi với từng đơn vị h à n h chính (tỉnh, t h à n h phô"), dân sô' có sự khác n h au đáng kể. T h à n h phô Hồ Chí M inh là đơn vị có dân sỏ lớn nhất: trên 5 triệu người (5581,7 nghìn người). Đơn vị có dân sô trên 3 triệu người là Thanh Hoá (3558,6 nghìn người) và thủ đô Hà Nội (3023,9 nghìn ngừời). Đơn vị có dân sô* từ 2 đến 3 triệu người gồm Hà Tây (2473,2 nghìn người), Nghệ An (2989,6 nghìn người), Đồng 40 Nai (2124,2 nghìn người) và An Giang (2158,5 nghìn người). Có 31 tỉnh, t h à n h phô" với sô" dân từ 1 đến 2 triệu người. Đó là th à n h phô Hải Phòng, t h à n h phô" c ầ n Thơ, tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, Đắc Lắc, Gia Lai, Lâm Đồng, Bình Thuận, Hậu Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng và Cà Mau. 21 tỉnh, thành phô còn lại có sô dân từ 0,5 triệu đến 1 triệu và 5 tỉnh có sô" dân đưối 0,5 triệu ngươi là Điện Biên, Lai Châu, Bắc Cạn, Kon Tum và Đắc Nông. D ân sô là nguồn lực quan trọng để p h át triển kinh tế. Vối sô" dân đông, nước ta có nguồn lao động dồi dào. Đồng thời đây còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tuy nhiên, trong điều kiện của nưốc ta hiện nay, dân số đông là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sổng tinh thần và vật chất cho nhân dân. l ễ2. Đ ô n g lự c tăng dân sô 1.2.1. Gia tăng tư nhiên Bảng 1.8. Số dân Việt Nam qua các năm (triệu người) Năm Sô dân Năm Sô dân 1802 - 1819 4,3 1960 30,0 1820 - 1840 5,0 1970 41,0 1841 - 1883 7,2 1977 50,0 1921 15,6 1979 52,5 1931 17,7 1985 60,0 1939 19,6 1989 64,4 1943 99 1, -L 1995 73,9 1945 20,0 1999 76,3 1955 25,0 2003 80,7 41 Con người đã xuất hiện trên lãnh thố nước ta từ rất lâu. Sô dân vào thời kì đó tăng rất chậm do tỉ suất sinh và tỉ suất tử vong đều ở mức cao. Theo ước tính, vào thời kì đầu dựng nước, sô dân có khoảng trê n 1 triệu người. Từ giữa thê kỉ XVIII đến hêt thê kỉ XIX, dân sô" nưổc ta tăng n h a n h hơn, có khoảng 7 triệu người. Cho tới đầu th ế kî XX, dân sô" nước ta tiếp tục tăng tới 13 triệu, vào năm 1921 lên 15,6 triệu, năm 1931 là 17,7 triệu, năm 1943 đạt 22,1 triệu. Đến năm 1945 do n ạn đói Ât Dậu, dân số’ tụ t xuống còn khoảng 20 triệu. Từ đó đến nay, dân số nưốc ta tăng lên nhanh chóng. Cho đên hêt năm 2003, dân sô Việt Nam đạt 80,7 triệu người. Bảng 1.8 cho thấy sự thay đối dân sô" ở Việt N am từ đầu thê kỉ XIX tối nay. Tốc độ gia tăng dân số không giông nhau giữa các thời kì. Trong suốt t h ế kỉ XIX, tỉ suất tăng bình q u ân h à n g năm khoảng 0,4%. Vào đầu thê kỉ XX, tỉ suất tăng bình quân hàn g n ăm đạt 1,3%, đặc biệt ỏ thời kì 1943 - 1951 sô" dân lại giảm sút do ản h hương của chiến tra n h và n ạ n đói. Từ những năm 50 trỏ lại đây, dân sô nước ta tăng nhanh, trong đó có nhiêu thời kì mức tăng tru n g bình năm vượt quá 3% (1954 - 1960: 3,9%, 1965 - 1970: 3,24%, 1970 - 1976: 3%). Do kết quả của việc thực hiện chính sách dân sô" và kê hoạch hoá gia đình, tốc độ tăng dân sô hàng năm có chiều hưống giảm dần, tuy còn chậm. Trong thời kì giữa hai cuộc tống điều tra dân sô" (1979 - 1989), mức tăng bình quân năm là 2,1%. Thời kì 1989 - 1993, mức tăng dân sô bình quân năm có nhích lên đôi chút (2,2%), song từ năm 1994 đến 1999 lại tiêp tục giảm xuổng còn 1,7% và hiện nay lá 1,3%. Mức gia tăn g tự nhiên của dân sô" nước ta có sự p h ân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng lãnh thổ và các tỉnh. 0 thành thị, mức gia tăn g tự nhiên thấp: từ 1,0% đến 1,2%, ỏ nông thôn mức gia tăng tự nhiên cao hơn, trê n 1,4%. Trong sô' 61 tỉnh, t h à n h phô' năm 2002 có 22 tỉnh, th à n h phô với mức gia tăn g tự nhiên dưới 1.2%. Đó là Hà Nội (1,18%), Hải Phòng (1,01%), Hải Dương (1,07%), Hứng Yên (1,1% ), Hà Tây (1,12%), Thái Bình (1,05%), Hà Nam (0.96%), Ninh Bình (0,86%), Cao Bằng (1,05%), Bắc Kạn (1,05%), Lạng Sơn (0,99%), Thái Nguyên (1,19%), Phú Thọ (1,06%), Quảng Ninh (1,16%), T h a n h Hóa (1,0%), T h à n h phô* Hồ Chí M inh (1,16%), Đồng Tháp (1,17%), Tiên Giang (1,1%), Vĩnh Long (0,99%), Bến Tre (0,97%), Cần Thơ (1,18%) và Trà Vinh (1,19%). Có 4 tìn h vối mức gia 42 tăng tự nhiên cao n h ấ t (trên 2,0%) là Lai Châu, Ninh Thuận, Đắc Lắc và Kon T u m (‘). 2003 Hình 1. Tỉ suất gia tăng dân số trung bình năm (1921 - 2003) D ân số’ tăn g n h a n h là yếu tô' dẫn đến sự bùng nổ dân số". Điều này đã xảy ra ở nưốc ta từ nửa cuôi những năm 50 của thê kỉ XX. Nếu sau 70 n ă m (1921 - 1990), dân số’ nưốc ta tăng thêm 50,7 triệu người, thì trong 35 năm đầu (1921 - 1955) chỉ tăng thêm 9,4 triệu, còn 35 năm sau (1956 - 1990) đã tăng thêm 41,3 triệu người. Thời gian dân sô" tảng gấp đôi liên tục được rú t ngắn: từ 40 năm (1921 - 1960) xuông còn 25 năm (1960 - 1985). Sự gia tăng dân số nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đôi VÓI việc phát triển kinh tê - xă hội của đất nưóc, vối tài nguyên môi trường và việc nâng cao chất lượng cuộc sông của từng thành viên trong xã hội. Nguyên nhân chính gây ra tình trạng tăng nhanh dân số ở nước ta là do mức sinh, vẫn còn cao và giảm chậm, trong khi mức chết đã xuổng thấp và tương đôì ôn định. I Kinh tế xã hội Việt Nam 3 nam 2001 - 2003, Tổng cục Thống kê 2003 43 Sức ép dân sô' Chất lượng cuộc sống Tài nguyên môi trường Phát triển kinh té Cung cấp Phát GDP S ự khai Hiện Vấn đề Tốc độ Bó trí cd Tông thu lương trien văn bình thác quá trạng ó không tăng cấu kinh nhập nền thực thưc hóa, y tế, quân mức tài nhiễm gian cii trường tê' (ngành kinh té phàm giáo dục theo đầu nguyên mỏi trú kinh tế và lãnh quốc dãn ngiỉời trương thổ) 1.2.1.1. Tỉ suât sinh thô và tông tỉ suât sinh - Tỉ suât sinh thô (CBR) Tỉ suất sinh thô (CBR) được dùng trực tiếp đế tính tỉ suất gia tăng dân sô", vì chỉ tiêu này đơn giản, dễ tín h toán, dễ so sánh. Tỉ suât sinh thô được xác định bằng sô trẻ em sinh ra còn sông trong năm so với dân sô' tru n g bình ỏ cùng thời gian đó, với đơn vị tính bằng phần nghìn (%<). Việt N am là một trong sô' những nước có tỉ su ất sinh thô khá cao, tôc độ giảm sinh qua các năm còn chậm và có sự p h â n hoá theo vùng khá rõ. Các yêu tô' tác động m ạnh đến mức sinh ở nưốc ta là cơ cấu tuôi và giới tính, tình trạng hôn nhân, những yêu tô tâm lí xã hội (phong tục tập quán, điều kiện xã hội), điều kiện sổng, mức sông và chính sách dân sô. Vối cơ câu trẻ của dân sô, sô phụ nữ ỏ độ tuổi sinh đẻ cao. o nhiều nơi, cứ một phụ nữ bưổc ra khỏi độ tuổi sinh đê thì có 3 người bước vào độ tuôi này. Hàng năm, Việt N am có khoảng 45 — 50 vạn phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ. 44 Bảng 1.9. Tỉ suất sinh thô theo vùng ở Việt Nam (%0) Vùng 1989 1999 2002 Toàn quốc 30,1 19,9 19,0 Tây Bắc 1I 33,8ì 28,9 24,1 Đông Bắc Ị 19,3 18,9 Đồng bằng sông Hồng 26,5 16,2 17,2 Bắc T rung Bộ 32,6 21,4 18,3 Duyên hải N am T ru n g Bộ 33,9 21,0 20,5 Tây Nguyên 46,0 29,8 24,7 Đông Nam Bộ 29,2 18,2 17,5 Đồng bằng sông cửu Long 35,9 18,9 17,7 Nguồn: - Tông điều tra dân sô 1989, 1999 - Điêu tra biến động dân sô 2002 của Tông cục Thông kê. Tuổi kết hôn lần đầu của phụ nữ có ảnh hưởng đến mức sinh đẻ. Nếu kết hôn sớm thì người phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ sớm và con cái của họ cũng có thể lập gia đình sớm. Tuổi kết hôn còn có ảnh hưởng đến khoảng thời gian (sô năm) mà người phụ nữ có khả năng sinh con. N hìn chung, nếu không có sự kiểm soát sinh đẻ thì tuổi kết hôn càng sớm, sô con càng đông. Ở Việt Nam, theo Tổng điều tra dân sô' lần thứ 3 (1/4/1999), tuối kết hôn tru n g bình của nam là 25,5 và nữ là 24,0 (so với một sô” qucíc gia trong khu vực Đông N am Á tương ứng là Singapo 28,0 và 26,0; Thái Lan 26,6 và 23,5). Đặc biệt ở nhóm tuổi 15 - 19, nước ta vẫn còn 0,9% nam và 4,3% nữ đã bưốc vào hôn nhân. Từ năm 1994 trở lại đây, tỉ suất sinh của toàn quôc và trong từng vùng có xu hướng giảm tương đối nhanh. Yếu tô' có tác động mạnh nhất đến mức giảm sinh là việc sử dụng các biện pháp tránh thai của nước ta đã tăng lên, từ 53% năm 1989 lên 65% năm 1994 và 77% năm 2002. Nhò' tích cực vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình, tỉ suất sinh toàn quốc giảm từ 30,l%o năm 1989 xuông 23,6%0 n ă m 1999 và 19%0 n ăm 2002. Một số’ vùng có tỉ s u ấ t sin h thấp 45 như Đồng bằng sông Hồng (17,2%p), Đông Nam Bộ (17,59íf) và Đồng bằng sông c ử u Long (17,7%o). - Tổng tỉ suất sinh (TFR) TFR là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức sinh đã được lượng hoá. Đó là sô' con tru n g bình mà một phụ nữ có thể sinh ra trong suốt cuộc đời mình, nêu như người phụ nữ đó trải qua tấ t cả các tỉ su ất sinh đặc trưng theo tuổi của năm đó. Giữa tỉ s u ấ t sinh thô và tống tỉ suất sinh có môi tương quan chặt và th u ậ n chiểu. Khi tỉ suất sinh thô có xu hướng giảm thì số con trung bình của một phụ nữ trong tuổi sinh đẻ cũng giảm đi. Bảng 1.10. Tỉ suất sinh thô và tổng tỉ suất sinh của Việt Nam thời kì 1989 - 2002 1979 1989 1999 2002 Tỉ suất sinh thô (%e) 33,2 30,10 19,9 19,0 Tổng tỉ suất sinh (con) 5,9 3,80 2,3 2,23 Nguồn: Tông điều tra dân sô 1979, 1989, 1999 và điều tra biến động dân sô 2002. Những sô liệu ở bảng 1.10 cho th ấy tốc độ giảm sinh khá nhanh. Trong mười năm đầu (1979 - 1989) giảm 2,1 con đối vối một phụ nữ, mười năm tiếp theo (1989 -1999) giảm 1,5 con. Tuy nhiên, tổng tỉ suất sinh còn chênh lệch giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Sự phân hoá mức sinh đã chỉ ra rằn g công tác dân sô" - kê hoạch hoá gia đình còn phải được qu an tâm và đẩy m ạnh hơn nữa ở các vùng nông thôn, vùng dân tộc ít người kêt hợp vối các chính sách kinh tê - xã hội đê đạt mục tiêu xây dựng gia đình ít con, khoẻ mạnh, giàu có, tạo điều kiện có cuộc sông ấm no, h ạ n h phúc. 46 Bảng 1.11. Tổng tỉ suất sinh cả nước và theo vùng thời kì 1989 - 1999 Các vùngTFR (con) 1989 1999 2002 Toàn quốc 3,80 2,3 2,20 Tây Bắc 5,40 3,57 3,12 Đông Bắc 4,00 2,32 2,19 Đồng bằng sông Hồng 3,03 1,96 1,89 Bắc T ru n g Bộ 4,29 2,84 2,71 Duyên hải Nam Trung Bộ 4,61 2,50 2,44 Tây Nguyên 5,98 3,93 3,32 Đông Nam Bộ 2,90 1,93 1,87 Đồng bằng sông cửu Long 3,89 2,10 1,98 Nguồn: Tông điều tra dân sô' 1989, 1999, điều tra biến động dân sô 2002. 1.2.1.2 Tỉ suất tử vong và triển vọng sông trung binh (tuổi thọ trung binh) Tỉ s u ấ t tử vong có ản h hưởng tới sự p h â n bô" dân số theo tuổi, giới tính, tuổi thọ t r u n g bình và quy mô dân SCK - Tỉ suất tử thô (CDR) Tỉ su ất sinh thô cùng với tỉ suất tử thô được sử dụng trực tiếp để tín h tỉ s u ấ t gia t ă n g dân sô' tự nhiên. Tỉ s u ấ t tử thô được xác định bằng sô" người ch ết tro n g năm so với số dân tr u n g bình ở cùng thời gian đó, với đơn vị tín h b ằn g p h ẩ n nghìn (%o). Các số liệu điều tra cho thấy mức tử vong của nước ta có xu hướng giảm đi và ở mức thấp. Trong khoảng thời gian hơn 50 năm qua, tỉ suất tử thô của Việt N a m giảm từ 24,2%0 trước năm 1945 xuống 8,4%0 n ăm 1989 5,6%0 n ăm 1999 và 5,8%0 năm 2002. Mức giảm như vậy là khá nhanh chủ yếu do đẩy m ạ n h công tác y tế, giáo dục sức khoẻ, vệ sinh môi trường, cải thiện đòi sông nhân dân và giảm tỉ lệ người nghèo đói Tuy n h iên ở k h u vực nông thôn, miền núi, vùng cao và vùng sâu tỉ 47 suất tử thô cao hơn th à n h thị. Các tỉnh Cao Bằng, Lai Châu. Sơn La, Gia Lai, Đắc Lắc có mức tử vong cao nhất. Bảng 1.12. Tỉ suất tử thô của Việt Nam qua các thời kì ( '/KẴ) Trước 1945 1955 - 1964 1965 - 19741979 1989 1999 2002 24 ,2 12,0 14,0 7,2 8,4 5 ,6 5 ,8 Hiện nay, tỉ suất tử thô của Việt Nam thấp hơn trung bình của th ế giới một chút (9 - 10%o). Một số nước ở Đông N am Á có tỉ suất tử thô cao hơn nước ta như Cămpuchia (11 %o), Lào (13%o), Mianma (12%o), Đông Timo (15%o). Ớ một số nước khác, tỉ suất này thấp hơn Việt Nam như Brunây (3%o), Malaixia, Singapo (4%o). - Tỉ suất tử vong trẻ em Tỉ s u ấ t tử thô không p h ả n á n h cơ cấu tuổi của người chêt. mặc dù trong thực tế. mức độ chết p h ụ thuộc vào cơ cấu tuổi và giới tính. Nhìn chung, mức chết trẻ em (đặc biệt là trẻ sơ sinh) cao n h ấ t so với các nhóm tuổi khác, trừ nhóm người quá già. Vì vậy, tỉ suất tử vong trẻ em và trẻ sơ sinh là đại lượng được quan tâm nhiều nhất. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ suất sinh và quyết định mức cao hay thấp của tuổi thọ trung bình. Bảng 1.13. Tỉ suất tử vong trẻ sơ sinh (IMR) (%o) Năm Tỉ suất tử vong trẻ sơ sinh (I M R ) 1979 54,8 1989 44,2 1999 36,7 2002 26,0 Sô liệu ở b ản g 1.13. cho th ấ y tử vong trẻ em giảm xuống k h á rõ theo từng năm. Đây cũng là lí do giải thích tuổi thọ của dân cư nước ta tăng và tỉ suất tử thô giảm xuống thấp. Mức độ chết của trẻ sơ sinh và trẻ em p h ụ thuộc vào r ấ t n h iều yếu tô", tro n g đó điểu kiện 48 sông và các đặc trưng cơ b ản của người mẹ là quan trọng nhất. Ỡ Việt Nam, mức tử vong của trẻ em ỏ nông thôn cao hơn ở th à n h thị do các yêu tô" xã hội và điều kiện chăm sóc sức khoẻ của trẻ em có sự khác n h a u rõ rệt. Mức tử vong trẻ em ở nhóm các bà mẹ có trình độ học vấn, nghề nghiệp ổn định và thu nhập khá là thấp hơn so với các nhóm khác. - Tuôi. thọ trung bình Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam ngày càng cao do điều kiện sông ngày càng được cải thiện, các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ ngày càng tốt hơn. Tỉ suất tử vong trẻ em, nhất là tỉ suất tử vong của trẻ sơ sinh đang giảm mạnh. Bảng 1.14. Tuổi thọ trung bình của toàn quốc và theo vùng thời kì 1989 - 2002 Tuổi thọ trung bình (năm) Vùng1989 1999 2002 Toàn quôc 65,3 68,6 68,9 Tây Bắc 63,0 63,1 64,7 Đông Bắc 65 ,5 67,5 68,2 Đồng bằng sông Hồng 69,8 71,5 71 ,5 Bắc Trung Bộ 65,3 68,5 68,8 Duyên hải Nam Trung Bộ 66,2 67,4 68,2 Tây Nguyên 58,5 61,6 63,6 Đông Nam Bộ 69,2 72,4 7 2 ,4 Đồng bằng sông cửu Long 66 ,4 68 ,9 69,1 Nguồn: Tông điều tra dân sô 1989, 1999. Điều tra biên động dân sô 2002. Bảng 1.14. còn cho thấy có sự p h ân hoá theo vùng về tuổi thọ trung bình. Trong 8 vùng, tuôi thọ trung bình cao n h ấ t thuộc về Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ (71,5 và 72,4), thấp nhất thuộc về Tây N guyên (63,6) và Tây Bắc (64,7). Sau thời gian 13 năm trên phạm vi cả nước, tuổi thọ trung bình tăng thêm được 3.6 tuổi. 49 1.2.2. Gia tăng cơ hoc Cùng với sinh và tử, di dân là một trong ba quá trìn h cơ bản của dân sô". Vì vậy, ở mỗi quốc gia, khi tính toán số’ liệu dân sô hàng năm hay trong các cuộc tổng điều tra dân số, bao giờ cũng có các tiêu chí về di dân giữa các vùng và di dân quốc tê. Đó là một trong những cơ sỏ đế xây dựng chiến lược phát triển kinh t ế - xã hội. ở Việt Nam, quá trình di dân đã tồn tại trong suổt lịch sủ dựng nưốc và giữ nưổc cũng như trong tiến trình phát triển của xã hội. Chúng ta đã chứng kiến nhiều cuộc di chuyến dân cư từ vùng này sang vùng khác, từ trong nước ra nước ngoài do nhiều nguyên nhân khác nhau. 1.2.2.1. Các dòng chuyển cư ra nước ngoài (xuât cư) Các dòng chuyển Cư ra nước ngoài tuỳ theo từng thời kì lịch sử VỚI sô lượng ít nhiều có khác nhau. Các lí do dẫn đên x u ất cư là kinh tế, chính trị, tôn giáo hoặc do hậu quả của chiên tra n h . Trong thê kỉ XVIII, nhiều người Việt Nam đã sang sinh sông ỏ Thái Lan. Sau đó, một sô" đến Lào, Cămpuchia, Tân Đảo... Trong thời kì đất nùốc bị chia cắt cho đến sau n ăm 1975, có nhiều người Việt N am đến định cư ở Hoa Kỳ, Canada, CHLB Đức và Oxtrâylia. Đặc biệt sau khi miền Nam được giải phóng, một làn sóng di cư ồ ạt ra nước ngoài mà thành phần chủ yếu là sỹ quan, binh lính quân đội Sài Gòn. các nhân viên tru n g cao cấp trong bộ máy ngụy quyền cùng gia đình. Sô" lượng lên đến hàng trăm nghìn người. N ăm 1979, khi cuộc xung đột biên giối phía Bắc xảy ra, lại có hàng trăm nghìn người Việt gốc Hoa lần lượt rời khỏi Việt Nam. Từ năm 1984 đên nửa đầu thập kỉ 90, vì những nguyên nhân kinh tê và chính trị, hàng trăm nghìn người di cư bất hợp pháp chủ yếu bằng thuyền đến các nước và lãnh thổ lân cận như Hồng Công, Thái Lan, Malaixia, Philippin, Inđônêxia và cư trú tạm thời trong các trại tị nạn, mong được định cư tới nưốc thứ ba. Cho tới nay, sô người Việt Nam di cu' ra nước ngoài ưóc khoảng trên 2,5 triệu người, tập tru n g ở các quốc gia như Hoa Kv. Pháp, CHLB Đức, Trung Quôc, Ôxtrâylia, các nước Đông N am Á và một sô nước Tây - Bắc Âu. 50 1.2.2.2. Các dòng nhập cư quốc tế. Các dòng này mang tính chất lịch sử với sô lượng không nhiều, chủ yếu là người Hoa sang lập nghiệp trong khung cảnh di thực xuống Đông Nam Á. 1.2.2.3. Di dân nội địa Trong lịch sử dân tộc, ông cha ta đã tiên h à n h những cuộc di dân khẩn hoang kéo dài từ trung du, miền núi xuống đồng bằng và lấnxa- biển. Những cuộc di dân khẩn hoang có tổ chức với quy mô lốn bắt đầu từ thời Lí - Trần và được tiếp tục qua các thòi Lê - Nguyễn. Năm 1056 Lí Thánh Tông xuông chiếu khuyên nông và mỏ rộng địa bàn khẩn hoang. Đến thời Trần, nhờ việc khẩn hoang nên đă hình th àn h nhiều điền tra n g lớn ven sông Hồng và ven biển Bắc Bộ. Dưới triều Nguyễn, hướng di dân tập trung chủ yếu về phía Nam do ở đó có nhiều vùng hoang hoá. Việc di dân khai hoang gắn liền với mở m ang bờ cõi. Vào năm 1954, khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, đất nước tạm thời bị chia thành hai miền. Hàng chục vạn người, phần lốn là đồng bào công giáo rời miền Bắc vào miền Nam sinh sông. Họ tái định cư chủ yếu ở Biên Hoà và th àn h phô" Hồ Chí Minh. ở miền Bắc, sau năm 1954, đặc biệt từ năm 1960, di dân - phân bô" lại dân cư và lao động theo lãnh thô luôn là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tê - xã hội của đất nước và vùng lãnh thô. Vào thời kì 1960 - 1975, miến Bắc có gần 1,1 triệu người di chuyển chủ yếu từ Đồng bằng sông Hồng tới các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, tạo ra một sự chuyên biến nhất định vê cơ cấu và chất lượng dân cư, cũng như hình thành các vùng kinh tế mới. Sau khi nước nhà thông nhất, việc chuyên cư diễn ra vối quy mô lớn hơn nhằm phân bô"lại dân cư - lao động trong phạm vi toàn quốc. Trong gần 4 th ập kỉ qua, đất nước ta đã tiên h à n h công cuộc di dân có tổ chức, chủ yếu là di dân nông nghiệp n h ằm mục tiêu phân bô' hợp lí hơn dân cú và nguồn lao động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển, đẩy mạnh nhịp độ tăng trương kinh t ế - xã hội nâng cao đời sông nh ân dân, giảm sự cách biệt về trình độ phát triển và mức sông dân cư. Từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện công cuộc 51 đôi mới, các dòng di dân và di chuyển lao động tự do ỏ cả nông thôn và thành thị diễn ra ngày càng mạnh và đa dạng, bên cạnh các hình thức di dân do Nhà nưốc tố chức. Như vậy, ở Việt Nam có hai hình thức di dân chủ yếu là di dân có tổ chức và di dân tự do với 3 luồng di dân chính: nông thôn - nông thôn, nông thôn - đô thị và đô thị - đô thị. ở từng giai đoạn p h á t triển, mỗi hình thức và luồng di dân có vị trí, ý nghĩa và quy mô khác nhau. - Di dân có tổ chức là những dòng di dân theo kê hoạch do Nhà nước đứng ra tổ chức, được đầu tư trước, trong và sau khi di chuyển, v ề cơ bản, đây là dòng di dân nông thôn, di dân nông nghịêp với mục tiêu sản xuất lương thực là chính (thời kì 1960 - 1975) và kết hợp giữa sản xuất lương thực vối cây công nghiệp như chè, cà phê, cao su (từ sau năm 1976). Bảng 1.15. Tình hình di dân có tổ chức thời kì 1960 - 1997 Giai đoạnSô lượng (triệu người) Binh quân hàng năm (nghìn người) 1960 - 1975 1,10 73,3 1976- 1980 1,50 300,0 1981 - 1985 1,27 250,0 1986 - 1990 1,15 230,0 1991 - 1997 0,82 160,0 1960 - 1997 5,84 162,2 Nguồn: Cục Di dân và Phát triến vùng kinh tê mới Qua bảng 1.15 có thể thấy rằng, từ 1960 đến nay, cả nước có 5,84 triệu người đã được di chuyển tới các vùng k inh tê mới, trong đó: + Thời kì 1960 - 1975 có 1,1 triệu người di chuyên vối hướng chủ yêu từ Đồng bằng sông Hồng tới các tỉnh trung du miển núi phía Bắc, trung hình hàng năm di chuyên 7,3 vạn người. + Thời kì 1976 - 1997 có 4.74 triệu người được di dân và tái định cư trên địa bàn mới. Trung bình hàng năm di chuyên 24 vạn người. Di dân nội vùng chiêm 71% tổng số’ người di cư. Di dân ngoại 52 vùng chiêm 29%. Địa bàn xuất cư lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng và địa bàn nhập cư lốn nhất là Tây Nguyên. Hướng di chuyển của dòng di dân có tổ chức khác n h a u theo từng giai đoạn. Địa bàn nhập cư chủ yếu thời kì 1976 - 1980 là vùng trung du miền núi phía Bắc; thời kì 1981 - 1995 là vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông c ử u Long; thời kì 1986 - 1996 là vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Có thể nói, Tây Nguyên là nơi th u h ú t lốn n h ấ t dân cư, lao động của vùng Đồng bằng sông Hồng trong suôt thời gian từ 1976 đến nay. Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ là địa bàn xuất cư chủ yêu tối các tỉn h ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông c ử u Long. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi nhập cư của 4 vùng (Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải N am Trung Bộ và Đông Nam Bộ), nhưng mức độ giảm đi n h a n h chóng trong những năm gần đây. Từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nưâc ta đã và đang chuyên dần theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô và hướng các luồng di dân đã có chiêu hướng thay đổi. Di dân ngoại vùng giảm đi đáng kể và diễn ra chủ yếu giữa vùng đi là Đồng bằng sông Hồng và vùng đến là Tây Nguyên. Đặc biệt từ 1991, di dân có tổ chức được thực hiện theo các dự án p h át triển. Đến nay đã có 200 dự án di dân được thực hiện với quy mô trung bình 1.100 hộ/1 dự án. Các dự án ở vùng nhập cư (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ) th u h ú t nhiều lao động. Hướng di dân có tố chức nông thòn - nông thôn ngày càng giảm, ngược lại, di dân công nghiệp (nông thôn - đô thị và đô thị - đô thị) đã và đang có xu hưống gia tăng. Đó là xu hướng tấ t yếu trong quá trình phát triển. Công tác di dân có tổ chức trong thời gian qua đã đạt được 'những hiệu quả đáng kể. Nó góp phần quan trọng làm giảm sức ép về gia tăn g dân s<3 và việc làm; đáp ứng những yêu cầu cơ b ả n về n h ân lực cho vùng nhập cư và những ngành kinh tê mũi nhọn trong nông nghiệp; mở rộng diện tích đất canh tác, góp phần ôn định quỹ đất sản xuất nông nghiệp và tăng sản lượng nông phẩm trên phạm vi cả nưốc và trong từng vùng; h ình t h à n h trên vùng đất mới hệ thông cơ sở hạ tầng thiết yêu, các công trình phúc lợi cơ bản; góp p h ầ n bảo vệ an ninh quốc phòng tại một số vùng xung yếu. 53 Tuy nhiên, do chính sách di dân còn mang tính phong trào, chưa tôn trọng các quy luật khách quan trong quá trìn h di dân, do sự hạn chê vể vốn đầu tư và trình độ quản lí, về kiến thức khoa học - kĩ thuật trong quá trình khai thác và phát triến vùng đất mới, do việc điêu tra, quy hoạch, chuan bị địa b àn còn sơ sài và thiếu căn cứ... nên đời sông của n h â n dân ỏ các vùng kinh t ế mới còn hêt sức khó khăn, tỉ lệ dân trụ lại không cao. - Di. dân tự do hoặc còn gọi là di dân tự phát, nghĩa là di dân ngoài kê hoạch của Nhà nước, do người dân tự đứng ra lo liệu. Di dân tự do là sự di chuyển đến nơi cư trú mới, hoàn toàn do người dân quyết định bao gồm việc lựa chọn địa bàn nhập cư, tố chức di chuyên, trang trải mọi phí tốn và tự tạo việc làm tại nơi cư trú. Khi đất nước bưốc vào thòi kì đối mới, từ 1986 trơ lại đây, di dân tự do nối lên như một hiện tượng kinh tê - xã hội quan trọng. Các dòng di dân này có hai hưống chính: di dân tự do nông thôn - nông thôn và di dân tự do nông thôn - đô thị. Nơi đi của dòng di dân tự do chủ yếu từ các vùng kinh tê chậm p h á t triển (nông thôn, miền núi, trung du) và nơi đến là các tỉnh ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông c ử u Long và các đô thị trong cả nước. Nguyên n h â n chinh của di dân tự do là sự chênh lệch vê' trình độ phát triển kinh tê - xã hội giữa các vùng, mà cụ thể là: • Chênh lệch về trìn h độ phát triển kinh tê và th u nhập giữa các vùng, trong từng vùng, giữa thành thị và nông thôn. Theo sô liệu điều tra của Tổng cục thông kê, năm 1996 thu nhập ỏ khu vực t h à n h thị gấp 1,85 lần nông thôn và chắc chắn trong các năm tiếp theo, sự chênh lệch này sẽ còn lớn hơn. Vùng có mức thu nhập cao n h ấ t (Đông Nam Bộ) gấp 2,17 lầ n th u n h ập ở vùng miền núi và tru n g du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tây Nguyên có mức thu nhập bình quân đầu người gấp 1,52 lần hai vùng trên và 1.2 lần vùng Đồng bằng sông Hồng. Chênh lệch về mức thu nhập giữa nhóm hộ cao n h ấ t và nhóm hộ thấp n h ấ t năm 1996 của cả nước là 7,3 lần, ở Tây Nguyên 12,8 lần, Đông Nam Bộ 7,9 lần.... • Thừa lao động, thiêu việc làm ỏ nông thôn. Với 69 % lao động nông nghiệp, trong khi đất canh tác chỉ có khoảng 7 triệu ha, chỉ cần khoảng 19 triệu lao động, song thực tê trong nông nghiệp có tối 25,6 triệu lao động. Sô lao động không đủ 54 việc làm chiếm tối 30% nguồn lao động xã hội, tương đương trên 6,5 triệu lao động (Hội nghị chính sách di dân tự phát 7/1998). • Đ ất nông nghiệp, điểu kiện sản xuất không bảo đảm. Quỹ đất nông nghiệp, yếu tô" quan trọng để p h át triên sản xuất đang có sự chênh lệch lớn. Theo điều tra quỹ đất nông nghiệp, bình quân đất cho một hộ ỏ Đồng bằng sông c ử u Long và Tây Nguyên gấp từ 2,3 đên 4,4 lần ở Đồng bằng sông Hồng và 1,9 lần đến 2,8 lần á Bắc Trung Bộ. Bình quân đất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng hiện nay là r ấ t thấp; trong khi ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông c ử u Long có nhiều hộ canh tác từ 1 đến 2 ha, có hộ 5 đến 10 ha. ơ nhiều tỉn h t h u ầ n nông, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển. • Chênh lệch lốn vê' cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội. Khoảng cách về điều kiện giao thông, cung cấp điện, nước sạch, y tế, giáo dục giữa nông thôn và th à n h thị có chiều hướng gia tăng. • Tỉ lệ hộ đói nghèo giữa các vùng và trong từng vùng cũng có sự khác biệt. Tỉ lệ hộ đói nghèo của cả nước năm 1997 là 17,7%, nhưng tỉ lệ này ơ Trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cao hơn từ 4,6 đên 5 lần so với Đông N am Bộ. Trong những năm gần đây, luồng di dân tự do nông thôn - nông thôn và nông thôn - đô thị đang tác động mạnh mẽ và để lại nhiều hậu quả. Bảng 1.16. số lượng dân di CƯ tự do nông thôn - nông thôn tại các vùng nhập cư thời kì 1980 - 1996 Vùng nhập cưS ố hộ (nghìn hộ) Trong nội bộ các tỉn h ỏ trung Sô'nhân khâu (nghìn người) du, miền núi phía Bắc 7,4 _ Đông Nam Bộ 97,0 - Tây Nguyên 70,6 - Đồng bằng sông cửu Long 37,0 - Cộng 212,0 1.031 Nguồn: Cục Di dân và Phát triển kinh tê mới. 55 + Di dân tự do nông thôn - nông thôn với hướng di chuyên chính là từ các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung vào Tây Nguyên và Đông N am Bộ. Lí do di chuyển chính là kinh tê (67% do thiếu đất sản xuất, 24% do th u nhập ở vùng cư trú cũ quá thấp). Các tỉnh phía Bắc có sô' lượng dân di cư lớn n h ấ t vào Tây Nguyên, Đông N am Bộ. Ngoài ra còn có 7,4 n ghìn hộ di dân tự do trong nội bộ các tỉnh thuộc vùng núi, tru n g du phía Bắc, đặc biệt ỏ Lai Châu, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Sô' dân di cư tự do gồm nhiều dân tộc, trong đó người Kinh từ các tỉnh đồng bằng chiếm 50%. Từ năm 1991 đến nay, số dân di cư tự do gấp 5 lần so vối năm 1990 trở về trước. Trong sô' này 60% số’ hộ đã tương đốì ổn định, được địa phương'tiếp nhận; 40% còn lại vào các vùng sâu, vùng xa, vùng đất tự khai phá, đời sông còn nhiều khó khăn. Hiện nay luồng di dân tự do nông nghiệp (nông thôn - nông thôn) đang có p h ầ n chững lại bởi sự h ạ n chế của quỹ đất và môi trường sản x u ất ở các vùng đất mới. Dòng di dân tự do nông thôn - nông thôn đã có những đóng góp n h ấ t định cho sự p h át triển kinh t ế xã hội ở vùng nhập cư. Nó góp p h ầ n p h â n bô" lại dân cư — lao động; mở m ang các vùng kinh tê mới ở vùng núi cao, vùng sâu; tạo được cơ hội có việc làm; góp phần khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất nông nghiệp; đưa thêm ngành nghê mối vào nông thôn. Bản th â n một bộ p hận người di cư tự do đã ổn định cuộc sông, vươn lên làm giàu, góp p h ầ n chuyển dịch cơ cấu kinh tê nông thôn. Bên cạnh đó, những m ặt tiêu cực do người di cư tự do đem lại cũng không ít. Cụ thể là dòng di cư tự do gây ản h hưởng xấu đên môi sinh môi trường, chủ yếu là phá rừng để có đất sản xuất (bình quân một hộ di dân tự do khai phá 4.200m2); t r a n h chấp m ua b á n đất đai gây mất trật tự an ninh, phát sinh nhiều tệ nạn xã hội v.v... + Di dân tự do nông thôn - đô thị nổi lên như một hiện tượng có tính quy lu ật khi chính sách đổi mới được tiến hành, cd chê bao cấp được loại bỏ và đang là điểm nóng của nhiều đô thị lốn như Hà Nội, th à n h phô Hồ Chi Minh, Vũng Tàu v.v... N hìn chung, người di cư tự do vào đô thị có tín h chọn lọc về cơ cấu tuổi, giới tính (thí dụ 75% sô" dân di cư tự do đến Hà Nội ở độ tuổi từ 13 đên 39, trong đó 56 48% thuộc nhóm tuổi từ 20 đến 34, nam nhiều hơn nữ); về trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp và tiêm lực kinh tê thích hợp với nơi đến. Nguyên n h â n bao trùm n h ấ t của việc di cư nông thôn - đô-ihị là do điểu kiện kinh tê khó khăn, không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, thiêu việc làm ỏ nông thôn. Vì thế, người ta quyềt định di chuyến và hy vọng ở đô thị dễ dàng tìm việc, hoặc có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, những nguyên n h ân phi kinh t ế như hợp. lí hoá gia đìnhr học hành, đào tạo... cũng tạo ra dòng di cư tự do vào đô thị. Hà Nội và th à n h phô" Hồ Chí Minh là những thí dụ điển hình của dòng di dân tự do nông thôn - đô thị. Tại Hà Nội, chỉ riêng thời kì 1986 - 1992, bình quân mỗi năm dân sô" Thủ đô tăng thêm khoảng 55 nghìn người, trong đó sô" dân di cư tự do chiếm 40%, ba ph ần tư sô" dân này vào k h u vực nội thành. Số’ dân đến Hà Nội gấp 5 lần số đi khỏi Hà Nội. Ngoài ra, trê n địa bàn th à n h phô" thường xuyên có mặt đội quân di dân thời vụ (khoảng 35 - 40 nghìn người). Kết quả khảo sát điều tra di dân tự do vào Hà Nội cho thấy 24% số hộ có ít n h ấ t là một người nhập cư ('). Dòng di dân nông thôn - đô thị vào t h à n h phô" Hồ Chí Minh còn lớn hơn so với Hà Nội. Trong vòng 20 năm (1976 — 1996), sô" dân của th à n h phô" n ày tăn g thêm 1,4 triệu người, trong đó người nhập cư chiếm gần 50% và chủ yếu là vào nội th à n h (cứ 8 người tăn g thêm ở nội th à n h thì đã có hơn 4 người nhập cư)(2). Di dân tự do từ nông thôn ra đô thị có một sô m ặt tích cực. Đó là việc góp phần cung cấp lực lượng lao động cho các khu đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu lao động trong những ngành nghề nặng nhọc, hoặc một sô" n h u cầu địch vụ mới mà lao động t h à n h phố không đủ hoặc không muôn làm; góp phần giải quyêt việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn, tạo cơ hội để xoá đói, giảm nghèo, chuyển giao kĩ năng, kinh nghiệm làm ăn từ thành thị về nông thôn... Những khía cạnh tiêu cực của hiện tượng di dân tự do nông thôn - đô thị là: sô lượng di dân quá lớn, tạo áp lực đến hệ thông cơ sở hạ tầng, dịch vụ và sinh hoạt vôrt đã kém ở t h à n h thị; đến tình hình giải quyết việc làm vôn đă căng thẳng ở các đô thị; gia tăng tệ 1&2. Hội nghị chính sách di dân tư phát tháng 7/1998 (trang 65 và 132). 57 nạn xã hội; gây mất my quan đô thị, tạo th à n h những điểm cư trú, lấn chiếm bất hợp pháp... 1.3. Dân sô Việt Nam trong tương lai Ì ắ3 Ể2. Quy mô và tốc đô p h á t triển dân sô trong tương lai Bảng 1.17. Dân số dự báo toàn quốc thời kì 2005 - 2020 (triệu người) Năm Phương án2005 2010 2015 2020 Cao 83,1 88,7 94,3 99,5 Trung bình 83,0 88,3 93,6 98,4 Thấp 82,8 87,6 92,6 97,4 Nguồn: Chiến lược dân sô Việt N am đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Sô dân Việt Nam tại cuộc Tông điều tra dần số lần thứ 2 (1.4.1989) là 64,4 triệu người. Mười năm sau, trong cuộc Tông điều tra dân sô' toàn quôc lần thứ 3 (1.4.1999), số dân tăng lên là 76,3 triệu người. Như vậy trong 10 năm (1989 - 1999), tỉ s u ấ t tản g dân sô' hàng năm ỏ nưốc ta là 1,7%. Mức tăng này th ấp hơn so với 2,1% của thời kì 1979 - 1989. Được sự hỗ trợ kĩ t h u ậ t của Quỹ dân sô Liên Hợp Quôc (UNFPA), Tổng cục thông kê đă đưa ra dự báo dân sô" cả nước cho đên năm 2020 với 3 phương án khác nhau: thấp, tru n g bình và cao. Theo phương án tru n g bình của dự báo này, đến năm 2020, sô' dân nước ta sẽ ở khoảng gần 100 triệu người (bảng 1.17). Theo dự báo của phương án trung bình, tỉ suất tăng dân số hàng năm sẽ tiêp tục giảm từ 1,4% trước thềm và một vài nàm đầu của thê kỉ XXI xuông 1,0% vào thời kì 2015 — 2020. Xu hưống giam tỉ suất gia tăng dân sô diễn ra trong t ấ t cả các vùng lãn h thổ ỏ nưốc ta. 58 Bảng 1ề18. Tỉ suất gia tăng dân số toàn quốc thời kì 2005- 2020[%) N ăm Phương án 2000 - 2005 2005 - 2010 2010 - 2015 2015 - 2020 Cao 1,35 1,29 1,22 1,06 Trung bình 1,32 1,24 1,16 1,04 Thấp 1,26 1,12 1,11 1,01 Nguồn: Chiến lược dân sô' Việt N am đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 1.3.2. Chính sách dân sô ở Viêt Nam Tình h ình gia tăng dân sô" và những h ậu quả kinh tê, xã hội, chính trị của nó đã trở thành môi quan tâm của cả cộng đồng quôc tê và của riêng từng nưốc. ở mỗi quốc gia, chính sách dân sô luôn có vị trí xứng đáng trong hệ thông các chính sách của Nhà nưốc. Sốm n h ậ n rõ vấn đề này ỏ nước ta, Đảng và Chính phủ đã đề ra những mục tiêu dân sô^ và ban hàn h hàng loạt chính sách đê đạt được mục tiêu ấy. Ngay từ năm 1961, Chính phủ Việt Nam đã thành Ịập Ban chỉ đạo hưống dẫn sinh đẻ có kê hoạch để xây dựng chính sách dân sô' và thực hiện các dịch vụ của chương trình thông qua Bộ Y tế. Mục tiêu cụ thể trong giai đoạn này là giảm tỉ su ất gia tăn g dân sô' từ 3,5% xuổng 2,5%, rồi 2%; tiến tới mỗi gia đình có từ 2 đến 3 con cách nhau 5, 6 năm. Song do việc tiếp xúc vối các phương tiện trá n h thai hiện đại còn nhiều hạn chê nên mục tiêu đề ra không đạt được. Năm 1970, u ỷ ban Bảo vệ bà mẹ và trẻ em Việt Nam được th àn h lập và được Chính phủ giao trách nhiệm vận động sinh đẻ có kê hoạch, làm các dịch vụ tránh thai thông qua mạng lưới, trung tâm chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kê hoạch hoá gia đình. Nghị quyết số 94/CP ngày 13/5/1970 của Hội đồng Bộ trương về cuộc vận động sinh đẻ có kê hoạch đã n h ấn mạnh: trong vài năm tới, tỉ suất phát triển dân số ỏ miền Bắc nước ta giảm xuông còn 2,2% đến 2,4% trong đó ỏ các t h à n h phô' từ 1,8 đến 2%, các tỉnh đồng bằng từ 2 3 đến 2,5%. 59 N ăm 1974, u ỷ b an Bảo vệ bà mẹ và trẻ em giải thế. Bộ Y tê được giao nhiệm vụ xây dựng chính sách dân số - kê hoạch hoá gia đình và làm các dịch vụ trá n h thai. Chương trìn h dân sô tập trung vào việc khuyến khích sử dụng vòng tránh thai với sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước và Quỹ dân sô" Liên Hợp Quốc (UNFPA). Quy mô gia đình được xác định trong thời kì này là 3 con. Năm 1984, u ỷ ban dân sô" và sinh đẻ có kê hoạch được thành lập (sau đôi th à n h u ỷ ban Quốc gia dân sô" - k ế hoạch hoá gia đình). Lúc này, u ỷ b a n vẫn trực thuộc Bộ Y tê vối nhiệm vụ là xây dựng chính sách dân sô", còn dịch vụ kê hoạch hoá gia đình được thực hiện qua mạng lưổi khám chữa bệnh. Đến năm 1989, u ỷ ban Quốc gia dân số - kê hoạch hoá gia đình tách khỏi Bộ Y tê và hoạt động như một cơ quan ngang Bộ , trực thuộc Chính phủ, do một bộ trưởng, đồng thời là một thành viên của Chính phủ làm chủ nhiệm. Nghị quyêt 04/NQ/HNTW của Đảng ngày 14/1/1993 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) đã nhấn mạnh rằng chiên lược dân sô" và KHHGĐ là một bộ ph ận q u an trọng của chiến lược p h át triển đất nưốc, là n h â n tô" cơ bản nâng cao chất lượng cuộc sông của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Nghị quyết xác định mục tiêu p h át triển dân sô thời kì 1993 - 1995 là mỗi gia đình chỉ có tối đa từ 2 đến 3 con, khoảng cách giữa 2 lần sinh từ 3 đến 5 năm, tổng tỉ su ất sinh là 3,6 con, quy mô dân sô' khoảng 75 triệu người. Thời kì 1996 — 2000, tiêp tục ph ấn đấu giảm tổng tỉ su ất sinh xuống dưới mức 2,5 con, quy mô dân sô' đạt khoảng 80 triệu người, c ả nưốc đay m ạnh chiên dịch thông tin, giáo dục, tru y ề n thông vê dân sô* - KHHGĐ, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ, tư vấn về tránh thai và KHHGĐ. Quá trình thực hiện mục tiêu ha tỉ suất phát triển dân số’ kể từ đầu những năm 60 đến nay đã đạt được những kết quả nhất định, ở các tỉnh miền Bắc, tỉ suất gia tăng trung bình hàng năm đã giảm từ 3.4% (1960) xuông còn 2,5% (1977) và nói chung cả nước từ 2,16% (giai đoạn 1976 - 1979) xuống còn 2,1% (giai đoạn 1979 - 1994), 1,7% (giai đoạn 1995 - 1999) và 1,3% (giai đoạn 1999 — 2003). Tổng tỉ suất sinh thời kì 1960 - 1964 là 6,39 con, giảm xuông còn 3,98 con thời kì 1985 - 1989, rồi 3,1 con thời kì 1990 - 1994 và 2,3 con thời kỳ 1999 - 2003. 60 Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn thấp so với yêu cầu và không đồng đêu theo các vùng lãnh thố. Năm 2003, dân sô Việt Nam đạt 80,8 triệu người. Nêu với tốc độ gia tăng dân sô" hàng năm là khoảng 1,3% (2003) thì khoảng 50 năm nữa, dân sô" Việt Nam sẽ tăng lên gấp đôi. Việc làm tốt công tác dân số - KHHGĐ, thực hiện mỗi gia đình chỉ có từ 1 đên 2 con, tiếp tục giảm tì su ất phát triển dân sô là một vấn đề quan trọng và bức xúc đôi với nưốc ta. 2. KẾT CẤU DÂN SỐ 2Ế1. Kết câu dân tôc 2.1.1. Viêt N am là môt quốc gia có nhiêu thành ph ần dãn tôc Bảng D anh mục các thành phần dân tộc Việt Nam do Tông cục Thông kê công bô" ngày 2/3/1979 đã xác định 54 dân tộc khác nh au đang sinh sông trên lanh thô nước ta. Đại đa số các dân tộc có nguồn gốc bản địa, có quá trìn h hình th àn h và phát triển cùng vối lịch sứ dựng nước và giữ nước, cùng sông chung cỉưối mái nhà của nước Việt Nam thông nhất. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Việt (Kinh) chiêm đa sô" (88% dân sô cả nước, 1995). Các th à n h p h ầ n dân tộc còn lại sinh sông rải rác suôt từ Bắc vào Nam, nhưng chỉ chiếm 12% dân sô toàn quôc. Về mặt sô lượng, sau người Việt là người Tày, Thái, Khơme. Mỗi tộc ngừời có sô dân trên 1 triệu, tông cộng chiêm 4,3% dân sô" cả nước. Các tộc người có sô dân từ 50 vạn đên gần 1 triệu là người Hoa, Mường, Nùng, H'Möng, Dao. Các tộc người khác có sô lượng ít hơn, dao động từ hai ba chục vạn tới vài trăm người (xem bảng 1.19). Vê ngôn ngữ, ở nước ta tồn tại cả 4 ngữ hệ p h â n bô ở Đông Nam Á, trong đó ngữ hệ Nam A là lớn nhất. Ngữ hệ này bao gồm ngôn ngữ của các cư' dân có địa bàn cư trú từ miến núi đến đồng bằng, từ Nam ra Bắc. Ngủ hệ Thái và Hán - Tạng, vê mặt lịch sử chủ yêu p h â n bô ớ miền Bắc, ngữ hệ Nam Đảo gồm một sei ngôn ngữ ở miền Trung và Tây Nguyên. 61 Bảng 1.19. Dân số phân theo thành phấn dân tộc ở Việt Nam năm 1999 (sắp xếp theo s ố lượng dân CƯ) SỐ T T Tộc người Sô' dân (nghìn người) Cả nưốc 76.323.173 Địa bàn cư trú chủ yêu 1. Kinh (Việt) 65.795.718 Khắp cả nước 2 Tày 1.477.514 Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn. Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Nguvên 3. Thái 1.328.725 Hòa Bình, Sơn La, Lai Chầu, Nghệ An, Điện Biên 4. Khrime 1.055.174 An Giang, c ầ n Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long 5. Hoa 862.371 T hành phô Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Kiên Giang, Hải Phòng, Cần Thơ, Sóc Trăng 6. Mường 1.137.515 Hoà Bình, T h a n h Hóa, Nghệ An, Yên Bái 7. Nùng 856.412 Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Tuyên Quang 8. H'Mông 787.604 Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An. 9. Dao 620.538 Miền núi Bắc Bộ 10. Giarai 317.557 Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum 11. É đê 270.348 Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Khánh Hòa, Phú Yên 12. Bana 174.456 Bình Định, Phú Yên, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum 13. Sánchav (Cao Lan. Sán chi) 147.315 Bắc Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh. Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái 14. Cơho 128.723 Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận S ố T T Tộc người S ố dân (nghìn người) Đia bàn cư trú chủ yêu 15. Chăm (Chàm) 132.873 Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Thuận, Khánh Hòa, An Giang, Tp. Hồ Chí Minh 16. Xơđăng 127.148 Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum 17. Sándìu 126.237 Bắc Giang, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ 18. Hơrê 113.111 Bình Định, Quảng Ngãi 19. Raglai 96.931 Khánh Hòa, Ninh Thuận 20. Mơnông 92.451 Bình Dương, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng 21. Thổ 68.394 Nghệ An, Thanh Hóa 22. Xtiêng 66.788 Lâm Đồng, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai 23. Khơmú 56.542 Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An 24. Bru - Vân Kiều 55.559 Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huê 25. Giáy 49.098 Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu 26. Cơtu 50.458 Thừa Thiên - Huê 27. Giétriêng 30.243 Kon Tum, Quảng Nam 28. Mạ 33.338 Lâm Đồng 29. Tàôi 34.960 Quảng Trị, Thừa Thiên - Huê 30. Co 27.766 Quảng Nam, Quảng Ngãi 31. Chơro 22.567 Bình Dương. Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai 32. Hànhì 17.535 Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên 33. Lào 11.611 Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên 34. Xinhmun 18.018 Lai Châu, Sơn La, Điện Biên 63 SỐ T T Tộc người S ố dân (nghìn người) Địa bàn cư trú chủ yếu 35. Churu 14.978 Bình Thuận, Đồng Nai 36. Lachí 10.765 Hà Giang, Lào Cai 37. Phùlá 9.046 Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La 38. Lahủ 6.874 Lai Châu, Điện Biên 39. Kháng 10.272 Lai Châu, Điện Biên 40. Lự 4.964 Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên 41. P àthẻn 5.569 Bắc Giang, Tuyên Quang 42. Lôlô 3.307 Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai 43. Chứt 3.829 Quảng Bình 44. Mảng 2.663 Lai Châu 45. BỐY 1.864 Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái 46. Cơlao 1.865 Hà Giang 47. Laha 5.686 Lào Cai, Sơn La 48. Cổng 1.676 Lai Châu, Điện Biên 49. Ngái 4.841 Bắc Cạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh 50. Sila 840 Lai Châu, Điện Biên 51. Pupéo 705 Hà Giang 52. Rơmăm 352 Kon Tum 53. Brâu 313 Kon Tum 54. ơđu 301 Nghệ An 55. Nưốc ngoài 39.532 Không xác định 1.333 Nguồn: Tông điều tra dân sô' 1999. - Ngữ hệ Nam Á ở nước ta cc/ 32) ngôn ngữ thuộc 4 nhóm: Việt - Mường (4 ngôn ngữ: Việt, Mường, Tho, Chứt); Môn - Khơme (21 ngôn ngữ: Khơme, Bana, Xơđăng, Cơho, Hơrê, Mơnông, Xtiêng, Bru-Vân kiểu, Cơtu, Khơmú, Tàôi, Mạ, Co, Giétriêng, Xinhmun, Chơro, Mảng. Kháng. 64 Rơmăm, ơđu, Brâu); nhóm H'Mông - Dao (3 ngôn ngữ: H'Mông, Dao, Pàthẻn); nlió«uhi>n hơp (4 ngôn ngữ: Laha, Cơlao, Pupéo, Lachí). - Ngỹ,iiệ-Tkái có 8;ngôn ngữ: Tày, Thái, Nùng, Sánchay, Giáy, Lào, Lự, Bô' Yễ - Ngữ hệ N am Đảo có 5 ngôn ngữ: Giarai, Êđê, Chăm, Raglai, Churu. -Ngữ hệ Hán - Tang có.^ngôn ngữ: Hoa(Hán), Sándìu, Ngái, (nhóm Hán), Hànhì, Phùlá, Lahủ, Lôlô, Công, Sila, (nhóm Tạng - Miến). Mỗi tộc người có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng ngôn ngữ chính thức của nước ta là tiếng Viêt. 2.1.2ẵ Các tộc người nước ta Các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có những đặc điếm, phong tục, tập quán, truyền thông sản xuất, tố chức xã hội, địa bàn cư trú rất khác nhau. Những đặc điểm này ảnh hưởng nhiều đên sự phát triển kinh tê - xã hội của mỗi tộc người nói riêng và cả cộng đồng nói chung. 2.1.2.1. Người Viêt (Kinh) Đây là dân tộc đa sô với 65.8 triệu người, chiêm 86,2% dân sô cả nưỏc, thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, p h ân bố” khắp 64 tỉnh, thành phô, song địa bàn cư trú đông đúc nhất là đồng bằng và trung du. Là cư dân có nguồn gốc bản địa lâu đời, cách đây hàng nghìn năm, theo Bùi Thiết (1999), ngùời Việt cố có nhiều tên gọi khác nhau như Âu Lạc, Tây Ãu, Lạc Việt. Đây là một trong sô nhiều nhóm Bách Việt sinh sông từ phía Nam sông Dương Tử trỏ xuông. Lãnh thổ của cư dân Việt cô trừớc Công nguyên rấ t rộng, phía Bắc vươn tối các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông (Trung Quốc), phía Nam vào tậ n Nam Bộ. Do quá trìn h bành trướng và du nhập của v ăn hoá Hán ngay trước Công nguyên, nhóm cư dân Việt ỏ phía Tây và Tây Bắc đã bị p h ân hoá t h à n h các dân tộc Tày - Thái, một bộ p h ậ n ở phía Bắc bị Hán hoá, chỉ còn một bộ phận người Việt đồng bằng, trung du và Bắc Trung Bộ vẫn giữ được bẩn sắc Việt cô trên cơ sơ tiếp th u có chọn lọc nển văn hoá H á n và tồn tại qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Bộ 65 phận cư dân Việt cô ở phía Nam (từ Quảng Bình trơ vào) vào khoảng sau Công nguyên, do sự du nhập của nền văn hoá An Độ, đã dần tách ra khỏi cư dân Việt, hình thành nên nhóm dân tộc Chăm, chu nhản của các nước Chiêm Thành, Lâm Âp, Hoàn Vương và nhóm cu dàn là chủ n h â n của các quốc gia Phù Nam, Chân Lạp. Từ thê kl X sau Công nguyên, người Việt là cư dân có địa b àn tụ cư ôn định ớ đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, một p h ầ n lãn h thô phía Tây Nam Bắc Bộ và Tây Bắc Trung Bộ. Trong khoảng 1.000 năm phát triển, do điều kiện địa lí, do sự phát triển của lịch sử, một nhóm người Việt ở các tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá đã tách ra th àn h một nhóm dân tộc khác gọi là Mường. Ngoài ra, một bộ phận nhò người Việt cô sinh sông từ vùng núi Nghệ An đên Quảng Trị, Thừa Thiên - Huê cũng tách ra thành các dân tộc khác với người Việt vê văn hoá. Đó là dân tộc Thố - Chứt. Từ người Việt cô đến người Việt hiện đại, trong mọi hoàn cánh và điều kiện lịch sử, họ vẫn luôn là cu' dân giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của đất nước ỏ tấ t cả các lĩnh vực: kinh tế, xă hội, chính trị, quân sự, văn hoá ngoại giao... v ề m ặt kinh tế, người Việt cô đă biết đến kim loại, chê tác được các công cụ lao động bằng sắt, đồ dùng bằng đồng và hợp kim đồng. Bằng công cụ lao động này, người Việt cô đã sáng tạo ra nền văn minh rực rỡ VỐI nển nông nghiệp lúa nước là chú đạo, chinh phục châu thố sông Hồng. Cùng vổi nông nghiệp lúa nước, ngứòi Việt còn phát trien hàng loạt nghê thủ công truyền thông, sản xuất nhiều hàng hoá cần thiêt cho cuộc sông như cái ăn, cái mặc, nh à ớ và các phương tiện sông khác. Về tô chức xã hội, sau khi thoát khỏi cuộc sông hang động, người Việt đã định cư và lấy làng xã làm đơn vị cư trú (ngày xua gọi là kẻ). Làng xã của người Việt là đặc trùng nổi bật vê văn hoá cứ trú và tiêu biểu cho thiết chê làng xã Việt Nam. Làng xă là một điêm quần cư và là một hình thức tô chức xã hội nông nghiệp. Cùng voi cư' trú kẻ - làng, từ thời cô người Việt đã biết đến đô thị. Nhiêu đô thị cỏ đã xuất hiện, tiêu biểu là Cô Loa (thế kỉ thứ 3 trước Công nguyên), Hoa Lư, Thăng Long, Phô Hiên... Về chính trị, người Việt sau sự tan rã của chê độ nguyên thuỷ, đã bước vào xã hội có giai cấp và hình th à n h nên các n h à nứớc khác 66 nhau từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến các triều đại Ngô, Đinh, Tiên Lê, Lí, Trần, Lê, Nguyễn. Các nhà nước này tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Về văn hoá, dân tộc Việt là một trong những dân tộc luôn luôn đạt đên trình độ văn hoá văn minh rực rỡ cúa mọi thời đại trong khu vực, từ văn minh Việt cổ, văn minh Đại Việt sau thê kỉ X cho đên ngày nay. 2.1.2.2. Các d â n tôc thiểu sô ở p h ía Bắc Các tỉn h phía Bắc (chủ yêu là các tỉnh trung clu, miên núi) là địa b à n cu' trú của 32 trên tông sô 54 dân tộc với khoảng trên 1/2 sô dân của các tộc người thiểu sô trong toàn quôc. ổ đây có nhiều tộc ngưòi VỐI ngữ hệ khác nhau, từ Nam Á (nhóm Việt - Mường, H'Mông - Dao), Thái đên ngữ hệ H án - Tạng. Sô dân của mỗi tộc người dao động từ hơn một vài triệu cho đên một vài nghìn, vài trăm người. Từ tả ngạn sông Hồng sang phía Đông Bắc chủ yêu là khu vực sinh sông của người Tày, Nùng, H'Mông, Dao. Từ hữu ngạn sông Hồng đên thượng du sông Mă, sông cả lại là địa bàn cư trú của người Thái, Mường, H'Mông. Thổ... Trong sô các tộc người thiểu sô ở phía Bắc, đông đảc hòn cá là người Tày, người Thái, người Mường, người Nùng, người H'Mông, người Dao. — N gười Tày Người Tày có gần 1,5 triệu, thuộc ngữ hệ Tày - Thái. Người Tày sinh sông ở vùng núi thấp thuộc miền núi và trung du Bắc Bộ, nhưng đông n h ất là ơ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh. Là một trong những tộc người có nguồn gốc lâu đời ỏ Việt Nam cùng VỚI cư' dân Việt cô thời Hùng Vưởng, kinh tê nông nghiệp chủ yêu là lúa nước vối trìn h độ kĩ th u ật tiến bộ, đặc biệt là hệ thông thuỷ lợi ( như mương phai). Ngoài ra, người Tày còn giỏi chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây công nghiệp như chè, hồi, thẩo quả. Người Tày có truyền thông sản xuất tiểu thủ công nghiệp như dệt thô cam, đan lát, làm bàn nghê bằng trúc v.v. Người Tày thường tập trung thành bản chân núi hay ven đồi. Trang phục bằng vải bông nhuộm màu chàm, phụ nữ mặc áo dài đến bắp chân, ông tay áo hẹp, xẻ bên nách phải. Sinh hoạt văn hoá, văn 67 nghệ dân gian phong phú, nhiều thở, ca, múa nhạc, tục ngử ca dao. Nổi tiêng hơn cả là hát lượn, h á t then, v ề nhạc cụ có đàn tính là độc đáo nhất. — Người Thái Người Thái hiện có trên 1,3 triệu, thuộc ngữ hệ Tàv - Thái. Người Thái sông tập trung trong các thung lũng và cánh đồng miền núi ỏ các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hoà Bình và Nghệ An. Người Thái có nguồn gôc lâu đời ỏ Việt Nam, có thê là một n h án h cư dân Việt cô thời các vua Hùng tách ra. Họ làm ruộng giỏi, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Người Thái còn có nghề thủ công đan lát, làm đệm cỏ, dệt vải, làm gôm, dệt thố cẩm. Bản của người Thái thường nằm trên những cánh đồng và dưới thung lũng. Phụ nữ mặc áo ngắn màu trắng, cài khuy áo hình bưốm làm bằng bạc trước ngực, váy đen, quần áo may bó sát người, ngày hội mặc thêm áo dài. Người Thái có kho tàng văn hoá, văn nghệ dân gian phong phú, nhiều thần thoại, CD-tích, truyền thuyêt, truyện thơ ca dao... Họ thích hát, đàn và múa. Múa xòe, múa sạp, ném còn là những điệu múa và trò chơi tiêu biểu của người Thái. — N gười M ường Ngựời Mường hiện có trên 1,1 triệu người, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, ngử hệ Nam Á. Người Mường cư t rú t h à n h một dải vòng cung - từ Nghĩa Lộ về Hoà Bình, Tây T h a n h Hoá và Tây Nghệ An với chiều dài gần 300 km và 100 km chiêu rộng. Người Mường có nguồn gốc b ẩn địa, tổ tiên của các chủ n h â n văn hoá khảo cô học Hoà Bình sông trong các hang động đá vôi. Người Mưòng và người V iệ t có chung nguồn gốc. Kinh ì ế clrủ y^-tt-của người Mường là trồng lúa núớc, chăn nuôi, và đặc biệt là còn duy tri ngkể. sirt hắn, hái lượm. Bên cạnh đó, họ còn có nghề rèn, chê tạo công cụ có tiêng từ lâu đòi. Ngưòi Mường quần tụ trong các bẬn, mự(ìng ■ Mỗi b an gồm một sô gia đình, nhiều hay ít tuỳ thuộc vào địa b à n cư trú. Nhiểu bản hợp thành mường, đứng đầu mỗi mường là lang đạn. Người Mường sông trong nhà sàn, lấy bêp lừa làm trung tâm sinh hoạt gia đình. Họ thường ăn cơm nêp và cơm lam. Trang phục của phụ nủ Mường là khản đội đầu, áo cánh ngắn màu trắng, váy đen có cạp dệt hoa văn sặc sỡ vối họa tiêt phong phú. Người Mường có nên văn hoá dân gian phong phú vói nhiều tru y ệ n cô nổi tiêng như Đẻ đất đê nước. Lên 68 trời; Thường Rang Bọ Mẹeng... Nhạc cụ cồng chiêng với hẬt xéc bùạ là nét văn hoá đặc sắc. — N gười N ù n g Người N ùng hiện có trên 85 vạn, thuộc ngữ hệ Thái. Người Nùng sông tập trung tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Họ là một trong các dân tộc có nguồn gôc sinh sông lâu đời tại Việt Nam. Kinh tê chủ yêu là trọng Ma—míớc và lúa nương, trồng ngô, cây công nghiệp, đặc biệt là cây hồi.v à cậy ăn quả. Người Nùng có một sô" nghề thủ công như dệt, mộc, đan lát, rèn sắt, gôm sứ. Bản của người Nùng thường nằm trên siiờn đồi, phía trước là ruộng nước, phía sau là nương và vườn. Nhà íịàxL làm bằng gỗ, lợp ngói hay tranh, cũng có thể là nhà đất. Phụ nữ Nùng thường mặc quần áo màu chàm, áo ngắn. Sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian của người Nùng khá phong phú. Nổi bật là hát: Sli giao duyên của nam nữ vùng Lạng Sơn và hát then. — N gười H'Mỏng (trước đây còn goi là người Mèo) Người H'Mông hiện có gần 79 vạn, thuộc nhóm ngôn ngữ H'Mông - Dao, ngữ hệ Nam A. Người H'Mông sông tập tru n g ở miền núi cao thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sửn La, Tuyên Quang, Yên Bái, Thanh Hoá và Nghệ An. Họ tới Việt Nam cách đâv khoảng vài trăm năm. Kinh tê chủ yêu là nương rẫy, làm ruộng bậc thang, đặc biệt có kĩ th u ậ t dẫn nước tưối cho ruộng bậc thang đê trồng lúa nước. Ngoài ra, người H'Mông còn trồng ngô, lúa-mạch, trồng lanh lấy sợi dệt vải, trồng cây dược liệu, chăn nuôú-tóìu, bò, ngựa, săn bắn và hái lượm. Họ cũng có một sô nghê thủ công truyền thông như dệt vải, may mặc, thêu thùa, mộc, đan lát và rèn sắt. Mỗi dòng họ người H'Mông tụ cu' tại một điếm, có trưởng họ đảm việc chung. Quần áo thường dệt và may lấy bằng vải 'anh. Phụ nữ H'Mông mặc váy, áo xẻ ngực, chân quấn xà cạp, tạp dề trước và sau, cô áo được thêu sặc sỡ, váy có nhiều nêp và xoè rộng. Người H'Mông biết chơi nhiều nhạc cụ. nôi bật là khèn, đàn môi.... — Người Dao Người Dao có 62 vạn, thuộc nhóm ngôn ngữ H'Mônq, - Dao ngữ hệ Nam Á. Người Dao sông xen kẽ vối một sô' dân tộc k lác các 69 tỉnh biên giởi Việt — Trung, Việt — Lào cho tới các tỉnh tru n g du và ven biển Bắc Bộ. Họ cư trú ớ cả vùng cao và vùng thấp và là dân tộc sinh sông lâu đời Việt Nam (từ thê kỉ XIII). Kinh tê chu yêu là trồng lúa nương, làm ruộng lúa nước, trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc, tìm kiêm lâm thố sản, đánh cá... Người Dao giỏi các nghể thủ công như dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu... Bản của người Dao thường gần nguồn nước, nhà trệt, nửa sàn nửa trệt. P h ụ nữ Dao có trang phục đặc trung đê gọi tên như Dao Đỏ (có k h ă n đội đầu màu đỏ), Dao Q uần Chẹt (mặc quần bó), Dao Sơn Đầu (tóc cắt ngắn chải sáp ong)... 2.1.2.3. Các tôc người thiêu sô ở Trường Sơn — Tây Nguyên Đây là khu vực có rất nhiều tộc ngùời, gồm các tộc ngúò'1 thuộc ngữ hệ Nam Á VỚI nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (người Chứt), nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme (Bana, Xơđăng, Bru - Vân kiểu, Cơtu...) và ngữ hệ Nam Đảo với các nhóm ngôn ngữ Giarai, Eđê... Đông nhất trong sô" các tộc người này là người Giarai, Êđê, Bana, Mơnông. Bru - Vân kiêu. — N g ư ờ i G ia ra i Người Giarai hiện có gần 32 vạn, thuộc ngữ hệ Nam Đáo, sinh sông tập trung ở tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đấc Lắc. Đây là dân tộc có nguồn gôc b ản địa và cư trú lâu đời trong khu vực, có quan hệ m ật thiêt với các dân tộc khác trong vùng. Người Giarai sinh sông bằng cách phá rừng, làm rẫy trồng lúa, ngô, mì với kĩ th u ậ t đơn giản: xới đất bằng cuôc, chọc lỗ, tra hạt, nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là voi. Các nghê thủ công có dệt, đan lát. Buôn của người Giarai gọi là Plây hay Bon, nằm rải rác ven suôi, lưng chừng núi hoặc th u n g lũng. Mỗi Plây có chừng 40 - 50 gia đình. Người Giarai theo chê độ m ẫu hệ, vợ chồng lấy n h a u cư trú bên nh à vọ. con cái lấy họ mẹ. Đàn ông đóng khô rộng. Phụ nữ mặc váy dài. áo màu chàm thẫm , bó sát người, gấu váy, th â n và tay có đường viển, đeo vòng tra n g sức bằng bạc. Người Giarai rất tin vào Giàng, có nhiêu lễ nghi liên quan đên cúng Giàng. Người Giarai nối tiêng vói bản trường ca như Đăm di đi săn, Xinh nhã. Họ có nhiều nhạc cụ truyền thông như cồng chiêng, đàn To'ru'ng, Từng nung, Klông pút. 70 — N gười Êđề Người Êđê hiện có khoảng 27 vạn, thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Họ tập trung tỉnh Đắc Lắc, phía Nam Gia Lai, phía Tây hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà và là cư dân sinh sông lâu đời trong vùng. Kinh tê chủ yêu là làm nương rẫy, chăn nuôi, đan lát, vẫn duy trì săn bắn, hái lượm. Người Eđê vận chuyến bằng gùi. Ho tụ cư trong các buôn làng, đứng đầu là một tù trương gọi là Mờ tao, rấ t có quyền uy. Nhà của họ thường dài, có thế dài hàng trăm mét, nằm trê n những quả đồi hay cạnh đưòng giao thông và kê sông, suôi. Trong nhà được chia th àn h nhiều ngăn, n g ăn tiếp khách có bếp lửa, ngăn đế chiêng, chóe rượu và các ngăn đế ở. Y phục của người Êđê thường là màu chàm, hoa văn sặc sỡ. Đ àn ông đóng khô", mặc áo; phụ nữ quấn váy, áo ngắn gắn trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Người Eđê theo chê độ mẫu hệ, con cái theo họ mẹ giông như người Giarai. Trưâc đây, họ còn duy trì tục cà răng căng tai và quy định mọi người phải cắt cụt 6 chiêc răng của hàm trên. Ngươi Eđê có nên văn học dân gian cô đặc sắc, nhiêu th ẩ n thoại, cố tích và sử thi mà tiêu biểu là trường ca Đam San, Đam Kten Mlan. — N gười Bana Người Bana hiện có khoảng 17 vạn, thuộc ngữ hệ Nam A, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme. Họ sông tập trung ỏ th u n g lũng sông Bla thuộc tỉnh Kon Tum. Ngoài ra, họ còn có mặt tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, miền núi Bình Định và Phú Yên. Người Bana sinh sông từ lâu đời Tây Nguyên. Kinh tê chủ yêu là làm nương rẫy và ruộng khô, trồng ngô, lúa, hoa màu, chăn nuôi và phát triển nghề thủ công như dệt vải, rèn, gôm và đan lát. Cư dân Bana sông th à n h buôn làng gọi là Plây như người Giarai, song họ lại ỏ trên các sườn đồi, núi có suôi nước. Người Bana xưa kia cũng có tục cà răng căng tai. Trang phục gần giông người Eđê, song sặc sỡ hơn. Văn hoá dân gian cua người Bana rất phong phú với nhiêu làn điệu dân ca, điệu múa, nhiều nhạc cụ và cả lễ hội, tiêu biêu có đàn TơrƯng, Klôngpút, Kơní, lễ hội đâm trâu. Nét kiến trúc đặc trưng là nhà Rông và tượng nh à mồ bằng gỗ. Dân tộc B ana có nhiều đóng góp to lớn trong lịch sử đấu tra n h chông ngoại xâm của nùốc ta và đã sản sinh ra những người con ưu tú như anh hùng Núp. 71 — N gười B ru — Vân kiêu Người Bru - Vân kiều hiện có khoảng 36 vạn. thuộc ngữ hệ Nam Á trong nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme. Họ sinh sông tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huê và là dân tộc có nguồn gốc b ả n địa, cư trú lâu đòi ở ven Trường Sơn Đông. Kinh tê chủ yêu của người Bru - Vân kiều là nương rẫy, p h ần nào đã biết làm ruộng nước, chăn nuôi gia súc, biêt đan gùi, đan chiêu lá. Hình thức săn bắn, hái lượm, đánh cá cho đên nay v ẫn còn duy trì đê kiếm thêm nguồn lương thực, thực phẩm. Bản của người Bru - Vân kiều nằm dọc theo bờ sông, suôi hay lưng chừng đồi thâp, hoặc những th ung lũng màu mỡ. Cũng giông các dân tộc khác ỏ Tây Nguyên, nhà Roong (hay Rông) là trung tâm văn hoá của mỗi bản. Ngày nay, người Bru - Vân kiểu đã thích nghi vối kiểu nhà trệt. 2.1.2.4. Các tôc người thiêu sô ở N a m T r u n g Bô và N a m Bô Các tộc ngươi thiếu sô" ở vùng này chủ yếu là người Hoa, người Khơme và người Chăm. — N gười Hoa Người Hoa hiện có hơn 86 vạn, thuộc ngữ hệ H á n — Tạng, trong nhóm ngôn ngữ Hán (Hoa). Người Hoa sinh sông rải rác khắp các tỉnh, cả nông thôn và thành phô, nhưng đông nhất tại Chợ Lớn (thành phô" Hồ Chí Minh), rồi Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai. c ầ n Thơ, Sóc Trăng,... Người Hoa (Hán) có nguồn gốc từ Trung Quốc. Từ thời Tần-H án, cùng vối quá trình bành trướng xuống Việt Nam. liên tục có nhiều nhóm người Hoa đên định cư lâu dài. Có một sô đã bị Việt hoá hay lai với người Việt. Người Hoa sinh sông bằng đủ mọi nghề, nhưng thành đạt nhất là thương mại và dịch vụ. — N gười K hơm e Người Khơme hiện có hơn 1 triệu, thuộc ngữ hệ Nam A, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme. Họ sông tập tru n g ở một sô" tỉnh thuộc Đồng bằng sông c ử u Long như An Giang, c ầ n Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và là một dân tộc sinh sông lâu đời ở vùng Đồng bầng Nam Bộ. Kinh tê chủ yếu là trồng lúa nước với trìn h độ thâm canh và làm thuỷ lợi khá cao, trồng dưa hấu, chăn nuôi, dệt vải, làm đường thốt nốt, khảm bạc,... Tô chức xã hội của người Khóme chủ yếu là Phum, Sóc (giông như thôn, ấp của người Việt) có từ 20 đên 70 nóc nhà. Trong các Phum, Sóc có chùa, trung tâm h àn h lễ của cư' dân Khơme. Người Khơme thường theo đạo Phật dòng Tiểu Thừa. Theo quy định, mỗi thanh niên trước khi trương thành phải đên chùa tu học một thời gian đê rèn luyện phẩm hạnh và trình độ, sau đó trở vê nhà. Đàn ông thường vận chiếc sampôt (một loại khô"), đàn bà mặc xà rông (váy) dài màu gụ có nhiều hoa văn đẹp. Dân tộc Khơme có nền văn hoá, văn nghệ dân gian phong phú với nhiều lễ hội, mà điển hình là Chôn Chơ Nam Thơ Mây (tết năm mới), lễ Đôn Ta (rằm tháng bảy), lễ Oóc Om Boóc (cúng Trăng); nhiều trò chơi như th ả diều, đua thuyền... Chùa thờ P h ậ t của người Khơme có kiên trúc rực rỡ và độc đáo. — N g ư ờ i Chăm (Chàm) Người Chăm hiện có khoảng 13 vạn, thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Họ sinh sông chủ yêu ở Đồng bằng Duyên hải cực Nam Trung Bộ (Ninh Thuận - Bình Thuận), một bộ phận An Giang, Long Xuyên, Đồng Nai, Phú Yên, Bình Định và thành phô Hồ Chí Minh. Dân tộc Chăm có nguồn gốc bản địa với quá trình hình th à n h và phát triển từ hàng nghìn năm trước. Kinh tê chủ yếu của người Chăm là nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Họ thành thạo kĩ thuật làm ruộng nước, đắp đập chứa dẫn nưốc vào ruộng. Người Chăm có nhiều nghê thủ công như làm gốm, trồng bông dệt vải. Dân cư sông tập trung theo từng ấp gọi là Puk với 50 -100 nóc nhà. Nhiều Puk họp lại thành Plây (làng). Người Chăm theo đạo Hồi và đạo Bàlamôn. Chê độ m ẫu hệ vẫn còn đậm nét. Dân tộc Chăm đă đê lại nhiều kho tàng kiến trúc nghệ th u ậ t kiệt xuất với hàng trăm toà tháp Chàm lộng lẫy, mà tiêu biểu là thánh địa Mỹ Sơn, tháp Pônaga, tháp Poklong Garai... D ân tộc Chăm còn có nhiều lễ hội truyền thông, phẩn ánh quá trình phát triển của dân tộc mình, tiêu biểu là lễ hội Mbăng Katê, Pơh Mbang Yang (lễ cúng đầu năm)... Dân tộc Việt Nam hình thành do những nhu cầu bức thiết của sự nghiệp dựng nước và giữ nước, của cuộc chinh phục và cải tạo tự nhiên. Quá trình dựng nước, giữ nùớc, chinh phục tự nhiên đã gắn kết các tộc người và hình thành nên dân tộc Việt Nam. Cộng đồng dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thông nh ất vói một nền văn hoá chung về đặc điểm, nhưng đa dạng về hình thái biểu hiện do từ nhiều nguồn sinh thái n hân văn tập hợp lại. Trong sư 73 thông n h â t này nôi lên vai trò đặc biệt của người Việt vối tư cách là hạt nhân tập hợp các tộc người khác. 2.2. Kết cấu sinh học 2.2.1. Kết cấu theo giới Kêt cấu dân sô theo giới còn được gọi là kêt câu n am nữ. Đó là tập hợp nhũng nhóm người được sắp xêp theo giới (nam, nữ). Thông thường, kêt cấu dân sô theo giới được biêu thị bằng sô nam trên 100 nữ. Việc nghiên cứu kêt cấu dàn sô theo giới có ý nghĩa to lốn trong sự phân công lao động xă hội và hoạch định chiên lược phát triển kinh tê - xã hội của quôc gia và của từng vùng. Tỉ sô' giói tính (nam. nữ) không bao giờ cân bằng và thường thay đối theo các nhóm tuổi, theo thời gian và không gian. Nhìn chung, trên thê giới, sô nữ thường cao hơn sô nam một chút. Tỉ sô giới tính toàn thê giới hiện nay là 98,6, nghĩa là cứ 98,6 nam thì có 100 nữ. Tuy nhiên, lúc mới sinh ra, sô trẻ em sơ sinh nam luôn cao hơn sô trẻ sơ sinh nữ (trung bình là 103 - 106 nam trê n 100 nữ). Đên tuổi trương thành, tỉ sô" này gần ngang nhau. Sang lứa tuối già. sô nữ cao hơn số nam. Ó Việt Nam, theo sô liệu Tông điều tra dân sô" lần thứ 1 (1.4.1979), trong tống sô 52.462.000 ngúời thì sô nam là 25.444.000 người và sô" nữ là 27.018.000 ngiíời. Tí sô giới tính là 94,2, nghĩa là cứ 100 nữ thì chì có 94,2 nam. Đến thời điếm Tổng điêu tra dán sô lần thứ hai (1.4.1989), sô nam có 31.337.000 người, sô" nữ là 33.075.000 người, tỉ sô giới tính 94,7. Theo kêt quả Tổng điểu tra dân sô toàn quôc lần thứ ba (1.4.1999), sô nam là 37.519.754 người, sô" nữ là 38.804.999 người và tỉ sô giới tính tăng lên 96,7. Đến năm 2002. sô nam là 39.197.000 người, sô nữ là 40.530.000, tỉ số’ giới tính là 96.7. Theo thòi gian và vùng lãnh thổ, tì số’ giới tính ớ nuớc ta cũng có sự thay đối. 74 Bảng 1.20. Tỉ số giới tính của dân sô Việt Nam thời kì 1931 - 2002 (s ố n a m /100 nữ)NămTỉ sô'giới tính N ămTí sô giới tính (số n a m 1100 nữ) 1931 98,0 1970 94,7 1939 97,2 1979 94,2 1943 96,5 1989 94,7 1951 96,1 1999 96,7 1960 95,9 2002 96,7 Nguồn: - Tông điều tra dân s ố Việt N a m 1989, 1999 -N iê n giám thống kê, 1995, 2002 Như vậy, kê từ năm 1931 cho tối nay, tỉ sô" giới tính của nưốc ta luôn ỏ' mức dưới 100. Mức thấp n h ất của tỉ sô này là vào năm 1979 (94,2). Tỉ số giới tính đă liên tục tăng lên vào các năm tiếp theo và đạt mức 96,7 nam trên 100 nữ năm 1999 và 2002. Theo vùng lãn h thổ, tỉ sô' giới tính có sự khác n h a u khá rõ. Đồn^ bằng sông cửu Long Dông Nam Bộ Tây Nguyên Duyên hải Nam Trung Bộ Bắc Trung Bô Tây Bắc Dông Bắc Đồng bằng sông nồng (96,0) (9(1,1) (95,5) (96 5) (95,5) (100 (98,7) ( 102, 5) 3) 90 92 94 96 98 100 102 104 H ìn h 2: Tỉ sô'giới tính của các vùng năm 2002 (%) (sô nam 1100 nữ) 75 Nguyên n h â n chính của sự khác biệt vê tỉ sô giới tín h d nước ta là do hậu quả của các cuộc chiên tra n h liên tiêp kéo dài đã cướp đi nhiều sinh mạng nam giới ở tuổi trưởng thành, do n am giới phái lao động nhiêu hơn và làm những công việc nặng nhọc hơn, nên tuỏi thọ thấp hơn so vối nữ. Một nguyên n h â n khác cũng ản h hưỏng đên tì sô giới tính giữa các vùng là việc chuyên cư. Trong quá trình chuyên cư, vùng nhập cư thường có sô nam nhiều hơn sô nữ. Ngoài ra, trong hoàn cảnh đói khát, dịch bệnh, có thể nam giói ít thích nghi với hoàn cảnh đê bảo tồn sự sổng hơn so với nữ giới. Nhìn chung, ở nước ta các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc có tỉ sô giới tính cao (102,5 và 100,3), chủ yếu là do mức sinh và tỉ sô nhập cư cao. o Đồng bằng sông Hồng, mặc dù tỉ sô giới tính đă tảng lên từ 82,3 (năm 1979) lên 90,7 (năm 1989), 91,7 (năm 1994) và 95,5 (năm 2002), nhưng vẫn thuộc loại thấp n h ấ t so VỐI cả nước. Điều này liên quan đến việc xuất cư của lực lượng lao động nam và h ậu quả của chiến tranh. Đồng bằng sông c ử u Long cũng có tỉ sô" giới tính thấp: 90,0 (năm 1979), 91,4 (năm 1989), 91,5 (nám 1994) và 96,0 (năm 2002) là do hậu quả của các cuộc chiến tra n h kéo dài (chông Pháp, Mỹ và chiên tranh biên giới Tây Nam). Những tỉnh có tỉ sô giới tính cao như Đắc Lắc (103,3), Gia Lai (102,0), Kon Turn (101,4), Lai Châu (102,2), Sơn La (100,5), Bình Phước (103,9), Lâm Đồng (101,8), đều là những tỉnh có tỉ sô" nhập cư cao vối sô nam thường vượt trội hơn sô' nữ. Thành phô" Hà Nội cũng có tỉ sổ" giối tính cao (100,1) vì sô người nhập cư đa phần là nam giới. Quảng Ninh, tuy không có tỉ lệ nhập cư' cao, nhưng là vùng khai thác th an và công nhiệp nặng nên tỉ sei giới tính cao nhất cả nước (104,2). Một trường họp ngoại lệ rõ nét là thành phô Hồ Chí Minh vói sô nhập cu' khá lớn. nhưng tỉ sô" giối tính năm 2002 vào loại thấp nhất Việt Nam (92.8). Nguyên nhân là do thành phô có khả năng cung cấp nhiều việc làm cho nữ ỏ các ngành công nghiệp nhẹ và cüch vụ. Sự chênh lệch về giới còn thể hiện rõ rệt theo nhóm tuôị, đăc biệt là độ tuôi từ 15 trơ lên. ỏ độ tuổi dưối 15, sô nam vượt quá sô nữ, tỉ sô gioi tính cao (105 - 106). Từ độ tuổi 15 đên 65, sô nữ vượt quá sô nam. Độ tuôi càng cao, khoảng cách giữa sô nam và sô nữ càng rõ. 76 THÁP DÂN SÓ VIỆT NAM QUA CÁC NẢM 1979, 1989, 1999 1979 1989 1999 85 + 80 - 84 75-79 70-74 65-69 60-64 55-59 50-54 45-49 35-39 30-34 25-29 20-24 15-19 10-14 5-9 0-4 -, % 864202468 864202468 8 642 0 2 4 6 8