"
Di Sản Kinh Hoàng - Lisa Gardner & Nguyễn Quang Huy (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Di Sản Kinh Hoàng - Lisa Gardner & Nguyễn Quang Huy (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
LISA GARDNER
Nguyễn Quang Huy dịch
—★—
DI SẢN KINH HOÀNG
• FEAR NOTHING •
(Detective D.D. Warren, #7)
ĐINH TỊ & NXB LAO ĐỘNG
ebook©vctvegroup | 20-05-2021
PHẦN DẪN
Ầu ơ, con yêu, trên ngọn cây...
Thi thể đã được mang đi, nhưng mùi thì vẫn vương lại. Kinh nghiệm mách bảo sĩ quan điều tra án mạng của sở cảnh sát Boston D.D. Warren rằng với kiểu hiện trường thế này, mùi máu có thể lưu cữu đến hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Các kỹ thuật viên hiện trường tội ác đã dọn đi hết bộ chăn ga gối đệm, nhưng máu vẫn còn vương vãi. Máu thấm qua lớp vữa. Máu chảy đằng sau món đồ trang trí bằng gỗ. Máu đọng thành vũng giữa các tấm ván sàn. Christine Ryan hai mươi tám tuổi, từng có chừng 4,7 lít máu, và ngần ấy máu đã tuôn ra ngoài qua các tĩnh mạch. Giờ đây phần lớn lượng máu ấy thấm đẫm tấm thảm xơ xác choán ngay giữa không gian xám xịt, gớm ghiếc này.
Khi gió thổi, nôi sẽ đu đưa...
Cuộc gọi đến ngay sau chín giờ sáng. Cô bạn thân Midge Roberts ngày càng thấy lo lắng khi Christine không trả lời lúc cô gõ cửa nhà, cũng như không hồi âm những tin nhắn gửi tới di động của bạn. Christine là kiểu người có trách nhiệm. Không ngủ nướng, không lẻn đi chơi với gã phục vụ quầy rượu bảnh bao nào đó, không bao giờ mắc cảm mạo mà không báo trước cho cô bạn thân nhất, người luôn đón cô đúng bảy rưỡi sáng mỗi ngày trong tuần để cùng nhau đi làm tại công ty kế toán địa phương.
Midge gọi cho vài người bạn nữa. Họ đều xác nhận rằng chưa hề nghe tin gì từ Christine kể từ bữa tối hôm trước. Midge tin vào linh tính của mình, cô gọi cho ông chủ căn hộ bạn mình thuê, cuối cùng ông ấy cũng đồng ý mở cửa căn hộ.
Thế rồi ông ta nôn mửa khắp sảnh trên lầu lúc phát hiện ra cảnh tượng này.
Midge không bước lên cầu thang. Cô đứng trong tiền sảnh của căn hộ chật hẹp, khi gọi cho người bạn tên Phil thuộc đội đặc nhiệm của D.D., cô đã biết. Chỉ là biết thôi. Có lẽ ngay cả từ khoảng cách xa như thế, cô đã ngửi thấy được mùi tanh hôi không thể nhầm lẫn của máu khô.
Ầu ơ, con yêu...
Khi đến nơi, hiện trường vụ án ngay lập tức khiến D.D. kinh hãi bởi những sự tương phản rõ rệt. Nữ nạn nhân trẻ tuổi, nằm sõng soài dang chân dang tay trên giường, đôi mắt xanh vô hồn nhìn trừng trừng lên trần nhà. Khuôn mặt xinh đẹp gần như thanh thản, mái tóc nâu dài chấm vai buông mềm mại trên chiếc gối màu trắng trơn.
Ngoại trừ từ cổ trở xuống...
Làn da bị lột thành những dải băng mỏng mảnh, quăn queo. D.D. đã nghe nói về điều này từ trước. Lúc mười một giờ trưa hôm nay, cô đến chứng kiến tận mắt. Một phụ nữ trẻ bị lột da ngay trên giường ngủ của mình. Với một chai sâm banh trên chiếc bàn đầu giường và một bông hồng đỏ lẻ loi nằm vắt ngang cái bụng đầm đìa máu.
Phil phát hiện ra đôi còng tay nằm cạnh chai sâm banh. Loại còng tay được bán tại các cửa hàng đồ chơi tình dục sành điệu, có đệm lông tạo cảm giác dễ chịu. Còng tay, sâm banh sủi bọt, bông hồng đỏ...
Buổi hẹn hò của cặp tình nhân biến thành thảm kịch, Phil phác một giả thuyết. Hoặc giả, xét theo mức độ bạo lực, là một hành động báo thù cuối cùng của gã bạn trai bị phụ tình. Christine đã chia tay một kẻ đáng thương hại nào đó, và đêm qua, kẻ đáng thương hại ấy đã quay lại và chứng minh một lần cho mãi mãi rằng ai mới là kẻ cầm trịch.
Tuy nhiên D.D. không có chung suy nghĩ như vậy. Đúng là có còng tay, nhưng chúng không đeo vào hai cô tay của nạn nhân. Đúng là có chai sâm banh đã khui, nhưng chưa có chút rượu nào được rót vào những chiếc ly đang để sẵn chờ uống. Cuối cùng, đúng là có hoa hồng, nhưng thiếu giấy gói quà tặng của cửa hàng hoa.
Cô cũng cảm thấy khung cảnh này... như cố ý sắp đặt từ trước. Không phải loại tội ác phạm phải do nóng giận hay do mối bất hòa giữa hai kẻ đang yêu ở tuổi trưởng thành. Mà là một sản phẩm được dàn dựng kĩ lưỡng suốt nhiều tháng, nhiều năm, có lẽ hắn đã mất cả một đời lên kế hoạch và cân nhắc cẩn thận.
Theo ý kiến của D.D., họ đang chứng kiến không phải chỉ một hiện trường tội ác. Mà họ đang nhìn vào tác phẩm trang trí quái dị đen tối nhất, sâu thẳm nhất của kẻ sát nhân.
Và mặc dù đây có thể là hiện trường đầu tiên họ đang điều tra, vụ án mạng quá chú trọng nghi thức thế này có khả năng không phải là vụ cuối cùng.
Khi gió thổi...
Đội đặc nhiệm của D.D., các kỹ thuật viên hiện trường, bộ phận Khám nghiệm Pháp y, đó là còn chưa kể bao nhiêu thanh tra khác, đã mất sáu giờ đồng hồ làm việc tại không gian này. Họ thu thập chứng cứ, phủ bụi tìm dấu
vết, phác vẽ khoanh vùng hiện trường và thảo luận cho đến khi mặt trời lặn, xe chở bữa tối đã đến và đã có những bực bội. Với tư cách là thanh tra chỉ huy, cuối cùng D.D. bắt tất cả về nhà cùng mệnh lệnh phải thư giãn ngay, sau đó mới làm việc tiếp. Ngày mai là một ngày mới, khi họ có thể rà soát cơ sở dữ liệu Liên bang để tìm kiếm các kẻ sát nhân khác khớp với miêu tả này, trong khi lập nên các hồ sơ mô tả về nạn nhân và hung thủ. Có rất nhiều việc phải làm, quá nhiều khía cạnh phải điều tra. Còn giờ, phải nghỉ ngơi đã.
Ai cũng chấp hành mệnh lệnh. Tất nhiên, ngoại trừ D.D.
Đã gần mười giờ đêm. Lẽ ra cô nên trở về nhà, tặng người chồng nụ hôn thay lời chào, vào kiểm tra cậu con trai ba tuổi đã ngủ say tít vào cái giờ muộn thế này. Lẽ ra cô nên dành cho mình giấc ngủ ngon, bù lại khoảng thời gian loanh quanh tại hiện trường tội ác đen tối với giai điệu hát ru mà cậu bé con trai cô yêu thích văng vẳng trong đầu.
Nhưng cô không thể làm thế. Bản năng nào đó, hay có lẽ sự thâu suốt tài tình, đã sai khiến cô quay lại căn nhà quá yên tĩnh này. Suốt cả ngày, cô cùng các thanh tra đồng sự của mình đã đứng đây và tranh luận về những gì họ thấy. Bây giờ cô đứng trong bóng tối, ngay giữa căn phòng tanh nồng mùi máu, và đợi chờ sẽ cảm thấy điều gì đó.
Ầu ơ, con yêu...
Christine Ryan đã chết trước khi kẻ sát nhân đưa nhát dao đầu tiên. Họ có thể đoán chắc điều đó vì gương mặt nhợt nhạt của cô ấy không thể hiện nỗi đau khổ. Nạn nhân đã chết tương đối dễ dàng. Vậy thì nhiều khả năng nhất là chính lúc trái tim cô ấy đập vài nhịp cuối cùng, kẻ sát nhân đã xẻ xuống nhát cắt đầu tiên dọc theo mạn sườn phải của nạn nhân.
Tức là mục đích vụ án mạng không nhắm vào nỗi đau đớn của nạn nhân, mà là...
Sự thể hiện? Sự dàn dựng? Chính đó cũng là một nghi lễ? Một kẻ sát nhân bị ám ảnh cưỡng chế về da. Có thể khi còn bé, hắn đã từng tập tành với những con vật nhỏ hay thú cưng nuôi trong gia đình, thế rồi khi trí tưởng tượng quái dị ấy không chịu nguôi ngoai...
Đội pháp y sẽ kiểm tra xem có các dấu vết ngập ngừng nào không, liệu các đường rạch lởm chởm dứt khoát có thể tạo ra đống da mỏng manh, quăn queo này hay không, cũng như làm xét nghiệm tìm bằng chứng tấn công tình dục.
Nhưng một lần nữa, D.D. lại chịu đựng cảm giác khó chịu dai dẳng. Những chi tiết này là những gì một thanh tra hình sự có thể nhận ra. Trong thâm tâm, D.D. đã nghi ngờ mình đang đi sai hướng. Thực tế là họ đang nuông theo đúng những gì kẻ sát nhân muốn họ tập trung.
Sao lại có những trò dàn dựng này nếu không phải để lôi kéo khán giả tập trung vào đúng thứ mình muốn?
Thế rồi một ý nghĩ chợt lóe lên. Nó vốn đã nằm trong đầu cô. Câu hỏi đầu tiên và quan trọng nhất xứng đáng để theo đuổi, là lý do khiến giờ này cô đứng trong bóng tối, cố ý để tầm nhìn hạn chế đi: Tại sao lại sắp đặt hiện trường như thế?
Một tiếng động, ở phía đằng xa. Cửa ra vào căn nhà đang khẽ khàng mở ra? Tiếng kẽo kẹt trên ván đứng khi một bàn chân nặng nề bước lên bậc đầu tiên? Tiếng tấm ván sàn cọt kẹt ngay phía dưới sảnh?
Một tiếng động. Lúc nãy còn nghe khá xa giờ đã gần hơn, Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren nhận ra một thứ mà đáng lẽ cô phải đoán ra từ mười
lăm phút trước. Bài hát ru yêu thích của Jack, ca khúc thiếu nhi cô đang ngân nga khe khẽ... Giai điệu ấy không chỉ xuất phát từ trong đầu cô. Kẻ nào đó cũng đang hát ca khúc này. Rất dịu dàng. Phía ngoài phòng ngủ. Từ nơi nào đó khác trong căn hộ của người phụ nữ đã chết. Ầu ơ con yêu, trên ngọn cây...
Bàn tay D.D. sờ ngay vào bên sườn, mở khóa bao súng đeo ngang vai, rút ra khẩu Sig Sauer. Cô quay người, khom người xuống khi lướt mắt kiểm tra khắp các góc nhà tìm kiếm dấu hiệu của kẻ đột nhập. Không có chuyển động nào trong bóng tối, không thấy cái bóng nào có hình người.
Nhưng rồi cô nghe thấy nó. Tiếng tấm ván sàn kẽo kẹt đâu đó trong căn hộ.
Khi gió thổi, nôi sẽ đu đưa...
Cô rón rén nhanh chóng đi từ phòng ngủ vào sảnh tối om, súng giơ ra phía trước. Hành lang hẹp không có ánh đèn nào trên đầu. Chỉ thêm những cái bóng hắt sang từ đèn nhà hàng xóm qua các ô cửa sổ không kéo rèm. Một chùm những cái bóng xám xịt nửa sáng nửa tối đang nhảy nhót qua mặt sàn bằng gỗ cứng.
Nhưng cô thuộc lòng căn nhà này, D.D. tự nhắc mình. Cô đã bước qua cái sảnh này, thận trọng tránh các bãi nôn, trong khi vẫn để ý tới từng chi tiết quan trọng.
Cô lên đến đầu cầu thang, đảo mắt từ bên này sang bên kia, rồi nhòm xuống khu vực tối om như mực đánh dấu sàn nhà bên dưới. Tiếng ngâm nga đã tắt lịm. Thứ tồi tệ hơn tiếng hát đó là sự câm lặng rợn người.
Thế rồi từ trong bóng tối, với âm vực thấp và du dương. “Ầu ơ, con yêu, trên ngọn cây...”
D.D. khựng lại. Ánh mắt cô đảo khắp nơi theo phản xạ, cố gắng xác định vị trí của kẻ xâm nhập khi tiếng hát đang tiếp tục vang lên, chậm rãi và chế nhạo: “Khi gió thổi, nôi sẽ đu đưa...”
Giờ thì cô hiểu ra rồi. Cô cảm thấy máu mình như đóng băng khi hiểu ra trọn vẹn hàm ý. Tại sao ngươi lại sắp đặt hiện trường này? Bởi vì ngươi đang muốn tìm khán giả. Hoặc có thể là một khán giả đặc biệt nào đó. Ví như, một thanh tra chuyên cần ngớ ngẩn đến mức bị phát hiện sau khi màn đêm đã buông xuống ở một hiện trường tội ác, hoàn toàn đơn độc.
Cô vươn tay tìm điện thoại, nhưng nhận ra đã quá muộn.
Đúng lúc ấy một tiếng động rõ rệt vang lên ngay sau lưng cô. Cô quay ngoắt lại. Hai mắt mở lớn.
Khi một bóng người lao ra từ bóng tối, nhào thẳng đến chỗ cô. “Nếu cành cây gãy, cái nôi sẽ rơi...”
Theo bản năng, D.D. bước lùi lại. Nhưng cô quên mất rằng sau lưng mình là đầu cầu thang. Bàn chân trái của cô thay vì tìm một mặt phẳng, lại chỉ thấy khoảng không trống rỗng.
Không! Điện thoại của cô đang rơi lách cách xuống dưới. Khẩu Sig Sauer của cô đang giơ lên. Cô rướn người về phía trước, cố lấy lại thăng bằng trong muộn màng.
Thế rồi... cái bóng vươn tay ra. Cả người cô ngã về phía sau. Xuống, xuống dưới, xuống nữa.
Đúng vào giây cuối cùng, D.D. siết cò súng. Một hành động tự bảo toàn mạng sống theo bản năng. Đoàng, đoàng, đoàng. Cho dù cô biết rằng hành động ấy là quá ít ỏi, và quá muộn.
Đầu cô đập xuống mặt sàn bằng gỗ cứng. Một tiếng rắc. Một cơn đau nhói lên. Lời ca khúc cuối cùng, thì thầm trong bóng tối:
“Và đứa bé sẽ rơi, cả cái nôi và mọi thứ...”
CHƯƠNG 1
Chị gái là người phát hiện ra tình trạng của tôi lúc tôi ba tuổi. Mẹ nuôi của chúng tôi bước vào, trên tay cầm cây kéo, trong khi tôi đang đứng đó, hai cánh tay trần ngoan ngoãn chìa ra, máu từ hai cổ tay tôi chảy xuống tấm thảm sợi lông màu xanh ô liu.
Chị gái sáu tuổi của tôi nói: “Mẹ xem kìa, nó còn chẳng thèm bận tâm.” Rồi chị vớ lấy cái kéo, rạch một đường trên cẳng tay tôi. Máu tuôn xối xả. Mẹ nuôi tôi thét lên, rồi ngất lịm.
Tôi nhìn xuống bà chằm chằm, tự hỏi chuyện gì đã xảy ra. Sau đó, chị tôi bỏ đi. Còn tôi được đưa đến bệnh viện. Ở đấy, các bác sĩ dành mấy tuần liền tiến hành hàng loạt các xét nghiệm khác nhau, gây đau đớn hơn cả kiểu chăm sóc sắc bén của chị tôi, ngoại trừ những xét nghiệm này cho ra kết quả: Do đột biến cực hiếm của gen SCN9A trong người mà tôi không cảm nhận được đau đớn. Tôi có thể cảm thấy sức ép. Lưỡi kéo đang đè xuống làn da tôi. Tôi có thể cảm thấy kết cấu. Bề mặt phẳng mịn của những lưỡi dao sắc lẹm mới tinh.
Nhưng cảm giác thực tế là làn da tôi đang nứt ra, máu kết tụ thành dòng...
Tôi không cảm thấy những gì người khác cảm thấy. Chưa bao giờ cảm thấy. Và sẽ chẳng bao giờ cảm thấy được.
Sau khi Shana rạch cánh tay tôi bằng cây kéo may, tôi không còn gặp chị ấy trong hai mươi năm tiếp theo. Phần lớn thời gian ấy chị tôi ở rất nhiều cơ sở khác nhau, nhận danh hiệu là một trong những thiếu nhi nhỏ tuổi nhất tại Massachusetts được đưa vào điều trị chống loạn thần. Chị ấy đã toan giết người lần đầu tiên năm mười một tuổi, và thành công năm mười bốn tuổi. Di sản dị biệt của gia đình chúng tôi.
Tuy nhiên, nếu chị ấy là một đứa trẻ gây tổn thất theo quy tắc xã hội thông thường, thì tôi lại trở thành đứa con nuôi thành công của bang. Căn cứ kết quả chẩn đoán, các bác sĩ không tin rằng cha mẹ nuôi tạm thời có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của tôi. Xét cho cùng, người ta biết rằng những đứa trẻ ra đời mang đột biến gen tương tự như tôi có thể cắn đứt lưỡi khi đang mọc răng. Rồi có những đứa trẻ chập chững biết đi bị bỏng cấp độ ba vì đặt cả hai tay lên bếp đang nóng đỏ, mà không rút tay về; nói gì đến những đứa trẻ bảy, tám, chín tuổi suốt ngày chạy rông với hai mắt cá chân bị giập nát, hay ngất lịm do vỡ ruột thừa đang bị viêm mà không hề biết.
Đau đớn rất hữu ích. Nó cảnh báo nguy hiểm cho bạn, dạy cho bạn về những nguy cơ và những hậu quả do hành động của bạn mang lại. Mất cảm giác đau, việc nhảy xuống từ mái nhà có vẻ là một ý tưởng tuyệt vời. Cũng tương tự như là nhúng tay vào chảo dầu đang sôi ùng ục để lấy được miếng thịt rán đầu tiên. Hay tự nhổ hết từng móng tay bằng kìm. Hầu hết trẻ em mắc chứng mất cảm giác đau bẩm sinh cho biết rằng chúng hành động vì bốc đồng, vấn đề không phải là tại sao, mà là tại sao không.
Tuy nhiên, những đứa trẻ khác với nỗi khát khao mãnh liệt trong giọng nói sẽ cho bạn biết rằng chúng làm thế để xem mình có cảm thấy đau hay không. Bởi vì việc không có cảm giác đau đớn lại được nhiều người coi là
một mục tiêu theo đuổi suốt cuộc đời mình. Một động lực khác thường. Một nỗi ám ảnh không ngớt. Niềm khoái cảm khi cuối cùng cũng cảm thấy đau. Những đứa trẻ mắc chứng rối loạn cảm giác đau có tỷ lệ tử vong cao, chỉ vài người trong số chúng tôi sống được đến tuổi trưởng thành. Phần lớn đòi hỏi sự chăm sóc suốt ngày đêm. Với trường hợp của tôi, một trong số các nhà di truyền học, một ông già không vợ không con, đã vận động để được đưa tôi về nhà mình, nơi tôi trở thành đứa con gái nuôi được yêu quý, đồng thời là trường hợp nghiên cứu ưa thích của ông.
Cha nuôi tôi là một người tốt. Ông chỉ thuê những nhân viên chăm sóc tốt nhất, chịu trách nhiệm giám sát tôi 24/7, trong khi dành trọn ngày nghỉ cuối tuần giúp tôi xoay xở với tình trạng của mình.
Chẳng hạn, nếu bạn không thể cảm thấy đau, vậy thì bạn phải tìm cách khác để phát hiện những mối đe dọa tiềm tàng đền thể chất của bạn. Hồi còn nhỏ, tôi đã biết nước sôi đồng nghĩa với nguy hiểm. Tương tự là các đầu đốt nóng đỏ trên lò sưởi. Tôi cảm nhận một đồ vật trước hết là ở kết cấu. Bất kể cái gì sắc nhọn tôi đều không đụng vào. Tôi không được phép dùng kéo, hay đồ đạc nội thất có cạnh sắc nhọn. Kể cả mèo con hay bất kỳ sinh vật nào có vuốt nhọn. Chỉ được phép đi bộ. Không chạy nhảy, không trượt, không bò trườn và không nhảy múa.
Nếu đi ra ngoài, lúc nào tôi cũng phải đội mũ bảo hiểm, đeo tấm đệm chân tay thích hợp. Trước khi vào nhà tôi phải cởi mũ, tháo hết các miếng đệm và kiểm tra cơ thể xem có xây xát chỗ nào không. Gồm cả thời gian để người chăm sóc tôi cởi giày cho tôi, xoay cổ chân tôi đúng một trăm tám mươi độ. Hình như, tôi từng có lần đứt hết dây chằng khi đi bộ trong công viên. Hay lần khác, tôi về nhà khắp người đầy vết ong chích. Tôi đã vấp
phải một tổ ong bắp cày, và với sự ngây thơ của trẻ năm tuổi, tôi lại tưởng rằng chúng đang khiêu vũ với mình.
Theo thời gian, tôi học được cách tự soát cơ thể mình. Đo thân nhiệt hàng ngày để xem mình có bị sốt không, đó có thể là dấu hiệu cho thấy cơ thể tôi đang bị một dạng nhiễm trùng nào đó. Tự kiểm tra hằng đêm bằng cách đứng trần truồng trước tấm gương soi được khắp người, rà soát từng phân trên làn da xem có bị bầm tím và xước xát gì không, rồi đến các khớp nối xem có bị sưng tấy hoặc bị căng không. Tiếp theo là kiểm tra mắt. Nhãn cầu đỏ là đang bị viêm tấy. Rồi đến tai. Máu trong hốc tai có thể là dấu hiệu cho thấy màng nhĩ bị thủng và/hoặc có thể là bị thương ở đầu. Cuối cùng là hai lỗ mũi, bên trong miệng, răng, lưỡi và lợi.
Cơ thể tôi là cái bình chứa, một đồ vật hữu ích, được kiểm tra, trông nom và chăm sóc. Tôi phải dành cho nó sự quan tâm đặc biệt kĩ lưỡng, vì thiếu đi những kênh phân tử truyền xung điện trực tiếp từ các dây thần kinh cảm nhận đau đớn lên não, nghĩa là lúc ấy cơ thể tôi không thể tự chăm sóc cho chính nó. Ai đó lâm vào tình trạng của tôi không đủ sức tin vào những gì tôi cảm thấy. Thay vào đó, tôi phải làm theo những gì tôi có thể nhìn thấy, nghe thấy, nếm được và ngửi thấy.
Tư duy bằng vật chất, người cha di truyền học liên tục nhắc tôi như thế. Chỉ là một bài tập đơn giản, tư duy bằng vật chất.
Khi tôi đến tuổi mười ba mà không hề bị đột tử vì sốc nhiệt, nhiễm trùng nội sinh hay gặp phải bất kỳ tai nạn nào khác do bất cẩn, cha nuôi tiến thêm một bước nữa trong nghiên cứu của ông. Nếu trên thế giới này có hai trăm đứa trẻ sinh ra mắc phải chứng bệnh này, vậy thì sẽ có khoảng bốn mươi đứa trẻ vẫn sống sót đến tuổi trưởng thành. Việc nghiên cứu những trường hợp này tiết lộ thêm những khiếm khuyết khi sống một cuộc đời mà
cơ thể không bao giờ biết đến đau đớn hay khó chịu. Chẳng hạn, nhiều chủ thể cho biết họ gặp khó khăn khi thấu cảm với người khác, sự phát triển cảm xúc bị kìm hãm và kỹ năng xã hội bị hạn chế.
Cha nuôi ngay lập tức cho tôi làm một đánh giá tâm lý toàn diện. Liệu tôi có thể cảm thấy được đau đớn của người khác không? Có thể nhận ra những dấu hiệu đau khổ trên khuôn mặt người lạ không? Có phản ứng thích hợp với nỗi đau của đồng loại hay không?
Rốt cuộc, nếu bạn không bao giờ khóc khi bị đứt tay, thì bạn có khóc khi người bạn thân nhất mười sáu tuổi đột nhiên tuyệt giao với mình và còn gọi bạn là kẻ quái dị không? Nếu bạn có thể đi bộ hàng dặm với cái đầu gối giập nát, liệu trái tim bạn có thắt lại không nếu khi bạn hai mươi ba tuổi, người chị gái ruột của bạn lại tìm thấy bạn, với lá thư đóng dấu bưu điện từ Cục Cải huấn?
Nếu bạn chưa bao giờ trải qua một giây nào nỗi đau khổ có thực nói trên, làm sao bạn có thể thực sự thấu hiểu lúc người cha nuôi trút hơi thở cuối cùng, ông ấy siết chặt lấy bàn tay của bạn, thốt lên khó nhọc: “Adeline. Đây. Là. Nỗi đau.”
Đứng một mình trong đám tang ông, tôi nghĩ rằng mình đã hiểu. Nhưng là con gái của cha, tôi cũng nhận thức được mình không bao giờ thực sự chắc chắn. Thế nên tôi đã làm như được huấn luyện. Tôi ghi danh tham gia một chương trình đào tạo tiến sĩ hạng nhất nơi tôi học tập, làm các xét nghiệm và nghiên cứu.
Tôi biến đau đớn thành công việc của mình.
Một chuyên ngành hữu ích vì nhiều lý do.
Lúc tôi đến trại cải tạo Massachusetts, chị gái đang đợi tôi. Tôi ghi danh vào cửa, cất túi xách vào trong ngăn tủ có khóa để trống, rồi chờ đến lượt đi qua cổng an ninh. Chris và Bob, hai viên sĩ quan quản chế lâu năm lịch sự gọi tên tôi. Bob rà máy đọc mã vạch của anh ta qua vòng đeo tay y tế của tôi, ngày thứ Hai đầu tiên của tháng nào anh ta cũng kiểm tra như thế. Tiếp theo, Maria, sĩ quan quản chế thứ ba, hộ tống tôi đến căn phòng riêng khép kín, nơi chị gái tôi đang ngồi, hai bàn tay bị còng để trên lòng.
Sĩ quan Maria gật đầu cho phép, tôi bèn bước vào phòng. Căn buồng mỗi chiều rộng tám mét với hai cái ghế nhựa màu da cam và một chiếc bàn gỗ formica. Shana đã yên vị phía đầu kia bàn, phía lưng là bức tường gạch xám, phía trước mặt nhìn ra hành lang qua ô cửa sổ duy nhất. Chỗ ngồi của xạ thủ.
Tôi muốn ngồi đối diện với chị, lưng quay về phía đám đông đi lại ngoài cửa sổ. Không để phí thời gian, tôi kéo chiếc ghế chỉnh thế ngồi theo ý mình. Một phút trôi qua. Rồi hai phút.
Chị lên tiếng trước: “Cởi áo khoác ra.” Giọng chị đã mang vẻ kích động. Điều gì đó đã khiến chị ấy nổi cơn, có lẽ xảy ra trước giờ thăm của tôi, nhưng điều ấy không có nghĩa rằng tôi sẽ không phải là người hứng đòn.
“Tại sao?” Trái ngược với mệnh lệnh cáu kỉnh của chị ấy, tôi cố giữ giọng bình tĩnh.
“Em không nên mặc đồ đen chứ. Dặn bao nhiêu lần rồi hả? Đồ đen khiến em bị lu mờ.”
Người thốt ra câu nói này là một phụ nữ mặc áo tù màu xanh u ám, mái tóc nâu dài chấm vai đang buông xuống những sợi nhờn nhờn. Chị ấy có
thể đã từng xinh đẹp, nhưng rồi bao năm tháng phải sống trong những điều kiện nghiệt ngã, dưới ánh đèn huỳnh quang, sắc đẹp ấy đã bị bào mòn. Đó là còn chưa kể ánh mắt đầy oán giận.
Tôi cởi chiếc áo khoác Ann Taylor vừa vặn ra, vắt lên thành ghế. Bên trong, tôi mặc áo thun màu xám có tay áo dài. Chị gái nhìn chằm chằm vào hai cánh tay được che kín của tôi. Đôi mắt nâu nhìn như xoáy vào mắt tôi, chị thử hít ngửi mấy lần.
“Không còn mùi máu nữa.” Cuối cùng chị nói.
“Chị đâu cần phải thất vọng vậy chứ.”
“Xin mày đấy. Tao mất đến hai mươi ba giờ mỗi ngày nhìn trừng trừng bốn bức tường trắng hếu này rồi. Ít nhất cũng phải cho tao xem vết đứt tay chứ.”
Chị ấy khẳng định mình có thể ngửi được nỗi đau tôi không thể cảm thấy. Chẳng có cơ sở khoa học nào cho điều này, chỉ đơn giản chị ấy là chị gái tôi. Thế nhưng trong đôi ba dịp, trong vài giờ sau khi ở chỗ chị về, tôi phát hiện ra những vết thương mà chị đã cảnh báo tôi.
“Em nên diện màu hồng tía.” Shana nói tiếp. “Em đang sống ở thế giới ngoài kia. Thế nên hãy tận hưởng một chút, Adeline. Rồi có thể em sẽ mang đến cho chị vài câu chuyện có thực. Không công việc, không bệnh nhân, không luyện tập đau đớn các thứ nữa. Kể chị nghe có anh chàng cơ bắp cường tráng nào đó giật cái nịt vú màu hồng tía khỏi bộ ngực phẳng lì của em. Để rồi chị có thể thực sự thích thú những cuộc gặp gỡ hằng tháng thế này. Mà em còn làm tình được không đấy?”
Tôi không đáp. Chị đã hỏi đi hỏi lại câu này hàng trăm lần rồi.
“Đúng rồi đấy, em có thể cảm nhận được những thứ đẹp đẽ mà, chứ đâu chỉ những cái tệ hại. Chắc không có cỡ S và M cho cô em gái bé bỏng của tôi đâu. Thất vọng ghê, cô em.”
Shana thốt ra những lời này với giọng buồn buồn. Chẳng hề câu nệ. Chị ấy tấn công tôi vì đó là cách chị ấy thích làm. Không một chốn ngục tù nào, không một loại thuốc thang nào, hay kể cả tình chị em nào có thể thay đổi được điều đó. Shana là một kẻ săn mồi bẩm sinh, cô con gái của cha tôi. Lúc mười bốn tuổi, chị ấy từng sát hại một cậu bé để rồi ngồi tù. Rồi giết chết một người bạn tù cũng như hai sĩ quan quản chế, và giờ bị giữ ở đây.
Bạn có thể yêu thương nổi một người như chị gái tôi không? Về mặt chuyên môn mà nói, chị ấy là một đối tượng được nghiên cứu thú vị về chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Hoàn toàn chỉ biết yêu bản thân, thiếu cảm thông và cực kỳ thích thao túng người khác, về mặt cá nhân mà nói, chị ấy là người thân duy nhất của tôi còn sống.
“Em nghe nói chị đã tham gia một chương trình mới.” Tôi gợi ý. “Quản giáo McKinnon nói rằng mấy bức họa đầu tiên của chị cho thấy chị có khả năng tốt với tiểu tiết.”
Shana nhún vai, không phải là cử chỉ hài lòng với những lời khen. Chị lại hít ngửi. “Không có nước hoa, nhưng trang phục của em trông chuyên nghiệp đấy. Tức là hôm nay em sẽ đi làm. Đi từ đây tới văn phòng của em. Em có xịt khoáng toàn thân lúc ngồi trong xe không? Hy vọng nó đủ mạnh để át đi cái thứ mùi của trại.”
“Em tưởng chị không muốn nhắc đến công việc của em.” “Thì chị còn biết nói chuyện gì khác được nữa.”
“Thời tiết chẳng hạn.”
“Ôi chết tiệt! Chỉ vì hôm nay là thứ Hai thì đâu nghĩa là tao phải phí một tiếng đồng hồ làm chuột bạch cho công trình nghiên cứu đáng thương hại của mày.”
Tôi không nói gì.
“Tao mệt mỏi lắm rồi, Adeline. Mày. Tao. Những lần viếng thăm hằng tháng thế này, mỗi khi mày thể hiện gu thời trang thảm hại của mình, còn tao chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc ngồi đây và chịu đựng nó. Mày có đủ bệnh nhân rồi thì nên làm ơn tha cho tao đi. Bước ra ngoài. Vĩnh biệt, ý tao là thế đấy!”
Một tiếng gõ cửa vang lên. Sĩ quan Maria, người có thể chứng kiến mọi việc qua ô kính cửa sổ cường lực, đang giám sát chúng tôi. Tôi mặc kệ cô ấy, tiếp tục nhìn chị gái chằm chằm.
Cơn tức giận bột phát của chị không làm phiền tôi, giờ thì tôi đã quá quen với những màn thể hiện này rồi. Giận dữ là thứ cảm xúc ưa thích của Shana, phù hợp với cả tấn công lẫn phòng thủ. Thêm vào đó, chị có đủ lý do để căm ghét tôi. Không chỉ vì tình trạng gen hiếm của tôi, hay là vì tôi đã kiếm được người cha nuôi giàu sụ lo toan hết cho mình. Mà là vì sau khi tôi chào đời, mẹ đã chọn cách giấu tôi trong buồng nhỏ để đồ, và không có đủ chỗ cho cả hai người.
Shana nguyền rủa rôi, đôi mắt chất chứa đầy sự oán hận ứ đọng và cơn trầm cảm sâu sắc, và thường là tôi lại tự hỏi sáng nay đã xảy ra chuyện gì khiến bà chị gái thiện chiến của tôi sửng cồ lên như thế.
“Tại sao chị lại quan tâm?” Tôi bất ngờ hỏi.
“Cái gì?”
“Màu hồng tía ấy. Tại sao chị lại quan tâm? Về quần áo của em, chuyện em nên mặc quần áo màu gì, có khiến người khác thấy em quyến rũ hay không? Tại sao chị lại quan tâm?”
Shana chau mày nhìn tôi, rõ ràng bối rối trước câu hỏi này. Cuối cùng chị đáp: “Mày đúng là đứa chậm phát triển chết tiệt.”
“Và điều này...” Tôi nhận xét. “... Là lời lẽ thắm tình chị em nhất chị từng nói với em.”
Câu đáp trả chua cay thuyết phục. Shana trợn tròn mắt nhưng cuối cùng miễn cưỡng mỉm cười. Sự căng thẳng trong căn phòng cuối cùng cũng dịu xuống, và cả hai chúng tôi có thể cùng thở phào.
Shana có thể ba hoa bốc phét, nhưng theo lời quản giáo, chị gái tôi dường như thực sự chờ mong những cuộc gặp gỡ hằng tháng này. Đến nỗi trong những giai đoạn quá khích có hành xử rối loạn, thì lời đe dọa sẽ không còn được gặp tôi nữa thường xuyên là hình phạt duy nhất đủ nghiêm khắc để kiềm chế chị. Và thế là chúng tôi vẫn tiếp tục vũ điệu hằng tháng này, đến giờ đã được gần mười năm.
Có lẽ gắn bó với một mối quan hệ đích thực cũng như quen biết một kẻ tâm thần bẩm sinh.
“Chị ngủ tốt không?” Tôi hỏi.
“Như một đứa trẻ.”
“Có đọc cái gì hay không?”
“À có. Trọn bộ tác phẩm của Shakespeare. Chẳng bao giờ ngờ được vào lúc nào đó thể thơ năm nhịp đầy lại có ích.”
“Cả cậu nữa sao, Brutus?*”
Lại một nụ cười yếu ớt nữa. Shana ngả người vào lưng ghế thư giãn. Hai chị em tiếp tục trải qua ba mươi phút chuyện trò nữa, lúc thì châm chích, lúc lại vu vơ chẳng đâu vào đâu, như chúng tôi hay làm vào ngày thứ Hai đầu tiên của mỗi tháng. Cho đến khi Sĩ quan Maria gõ lên cửa sổ, và như thế giờ thăm đã hết. Tôi đứng dậy. Chị gái tôi thì chẳng phải đi đâu, chọn cách ngồi yên trên ghế.
“Màu hồng tía nhé.” Chị nhắc lại lời góp ý, khi tôi lấy chiếc áo khoác đen từ lưng ghế.
“Có lẽ chị nên làm theo lời khuyên của chính mình.” Tôi đáp. “Bổ sung thêm sắc màu nào đó vào tác phẩm nghệ thuật của chị.”
“Rồi thêm chuyện cho mấy ông bác sĩ tâm thần nghiên cứu à?” Chị cười khẩy. “Chị chẳng nghĩ thế đâu.”
“Chị có giấc mơ hai màu đen trắng không?”
“Thế em thì sao?”
“Em không chắc là mình có mơ không.”
“Có thể đó là đặc quyền của tình trạng của em. Chị mơ nhiều lắm. Phần lớn là giấc mơ đỏ máu. Khác biệt duy nhất là đôi khi chị là người cầm dao và đôi khi là người cha già yêu dấu.”
Chị nhìn tôi trừng trừng, đôi mắt bất chợt long lên, như mắt cá mập, nhưng tôi hiểu tốt hơn cả là không cắn câu.
“Chị nên có quyển nhật ký ghi lại các giấc mơ của mình.” Tôi khuyên. “Em nghĩ tranh vẽ của chị là cái quái gì thế?”
“Một sự bùng nổ khó chịu của bạo lực thầm kín.”
Chị phá lên cười, vào đúng lúc này, tôi thẳng tiến ra cửa, bỏ lại chị sau lưng.
“Chị ấy ổn chứ?” Một phút sau, tôi hỏi khi đi theo Sĩ quan Maria dọc hành lang. Không có giờ viếng thăm dành cho những người thông thường vào ngày thứ Hai, nên các sảnh tương đối tĩnh lặng.
“Khó nói lắm. Cô biết đấy, sắp đến ngày kỷ niệm ba mươi năm rồi.” Tôi ngây ra, nhìn chằm chằm Sĩ quan Quản chế.
“Nạn nhân đầu tiên của Shana.” Sĩ quan Maria nói thêm. “Đứa trẻ hàng xóm mười hai tuổi, Donnie Johnson. Tuần tới là tròn ba mươi năm Shana giết chết cậu bé. Một phóng viên địa phương nào đó đã gọi đến hẹn lịch phỏng vấn.”
Tôi chớp mắt. Không hiểu sao, tôi lại không cố gắng kết nối những đầu mối này. Vừa với tư cách một nhà trị liệu lẫn một phụ nữ nỗ lực hết sức tự quản lý bản thân, sau này tôi sẽ phải hỏi mình tại sao. Nỗi đau nào tôi đang cố lảng tránh? Một khoảnh khắc tự soi chiếu bản thân thật mỉa mai.
“Dẫu sao thì cô ấy sẽ chẳng trả lời câu hỏi nào đâu.” Maria nói tiếp. “Còn trả lời câu hỏi về cô ấy, cô ấy ổn. Ý tôi là cậu bé kia giờ không thể nói gì được nữa thì kẻ giết cậu ta sao lại phải nói?”
“Giữ liên lạc với tôi nhé.”
“Rất sẵn lòng.”
Ra cửa trước, tôi lấy lại túi xách, ký vào sổ rồi tiến về phía chiếc ô tô của mình đang trong bãi đỗ xe rộng hàng trăm thước, từ biệt khu vực có tường gạch và dây thép gai lởm chởm bao quanh, nơi được xem như chỗ ở thường trú của chị gái tôi.
Trên ghế hành khách là chiếc áo len đan màu hồng hơi đỏ tía sành điệu tôi đã mặc khi đến đây. Thế nhưng tôi đã thay áo trong lúc vẫn ngồi trên xe, tháo hết đồ trang sức, vốn là những quy định khi đến thăm, chọn cho mình vẻ ngoài giản dị hơn, thích hợp với cảnh quan.
Tôi vứt sang bên chiếc áo len mới tinh, vừa mua hai tuần trước, và xin thề đó là món đồ màu hồng tía duy nhất tôi có.
Lúc này tôi ngước mắt nhìn lên cơ sở cải tạo xây bằng gạch. Dĩ nhiên nhìn đâu cũng thấy cửa sổ. Cả khe hở bé tí tẹo trong xà lim cách ly của chị tôi cũng vậy. Nhưng từ khoảng cách này, dù có cúi xuống một cách vụng về sau tay lái, tôi vẫn không nhìn được xa hơn qua cửa kính xe phủ màu của chiếc SUV...
Tôi không bao giờ giải thích được mọi thứ về chị gái. Nhưng rồi tôi nghi ngờ liệu chị ấy có thường xuyên cảm thấy như thế về tôi. Vào số chiếc Acura, tôi lái xe về hướng khu trung tâm thương mại của Boston, nơi một buổi chiều bận rộn đang chờ tôi trước mắt, đầy kín những bệnh nhân đang muốn kiếm tìm sự giải thoát khỏi vô vàn nỗi ưu phiền, gồm có một bệnh nhân mới, nữ thanh tra Boston vừa bị chấn thương khi đang thi hành nhiệm vụ.
Tôi yêu công việc của mình. Tôi mong chờ những thách thức, khi tôi tiếp đón từng bệnh nhân và nói lời chào thích hợp với một phụ nữ cũng ở tình trạng như tôi. “Xin hãy kể tôi nghe nỗi đau của bạn.”
CHƯƠNG 2
Trong thâm tâm, D.D. biết mình là người may mắn. Nhưng tâm trí cô dường như vẫn chưa thể chấp nhận sự thật ấy.
Cô dậy muộn. Nhìn đồng hồ đã quá mười giờ khiến cô bối rối. Nếu ai đó từng bảo rằng cô có thể ngủ đến mười giờ sáng thứ Hai, cô hẳn sẽ gọi hắn là kẻ dối trá. Những buổi sáng là thời gian thức dậy, vội vã đến thẳng cơ quan. Uống vội cốc cà phê đen, theo kịp đội đặc nhiệm và có thể tham gia vào một vụ án mạng còn nóng hổi.
Cô thích cà phê đen, các thanh tra đồng nghiệp và những vụ án mạng hấp dẫn.
Thế nhưng cô lại không thích một đêm ngủ chập chờn và bị chìm trong giấc mơ bất an. Nơi những cái bóng cất tiếng hát, và đôi khi những cánh tay và đôi chân vươn ra trước khi đuổi bắt.
Rồi cô ngã lộn nhào. Lần nào cũng thế. Trong những cơn ác mộng, Thượng sĩ D.D. Warren vĩ đại lao thẳng vào nơi chết chóc. Bởi vì trong thâm tâm, cô biết mình là người may mắn. Nhưng lý trí của cô lại không thể chấp nhận sự thật ấy.
Máy theo dõi trẻ em vẫn nằm yên trên chiếc bàn cạnh giường ngủ của cô. Nó vẫn ở đấy, nhưng im lặng. Rất có khả năng Alex đã đưa Jack đến cơ
sở trông nom trẻ ban ngày. Sau đó, anh ấy có thể đến thẳng chỗ làm tại học viện cảnh sát, trong khi D.D. thì...
Cô phải mất cả ngày để xuống khỏi giường.
Cô di chuyển thật rón rén. Cánh tay trái và vai trái cứ hễ cử động là lập tức khiến cô đau buốt, nên suốt mấy tuần vừa rồi, cô đã luyện đến thuần thục nghệ thuật trở mình sang bên phải. Tiếp theo cô đưa hai chân xuống sàn, làm bệ đỡ khi cố gắng ngồi thẳng dậy. Sau khi vất vả ngồi dậy, cô phải mất vài phút mới lấy lại được nhịp thở bình thường.
Vì chuyện xảy ra tiếp theo mới là đau đớn đích thực, có Chúa giúp cô, nhưng sau sáu tuần, đáng lẽ chỉ đơn giản chịu đựng thì cô lại ngày càng căm ghét đau đớn.
Cơ bắp căng cứng. Dây chằng sưng tấy. Thần kinh căng thẳng. Rồi chấn thương nổi trội nhất là chứng gãy xương do giật hành hạ. Một mỏm xương cánh tay trái của cô bị dây chằng kéo gãy trật ra. Trong vài tích tắc, cơ thể tuổi bốn mươi tư của D.D. đã phải hứng chịu chấn thương nặng đến nỗi giờ đây cô di chuyển như Người Thiếc, không thể quay đầu, không thể nâng cánh tay trái hoặc xoay người. Các bác sĩ bảo rằng không có lựa chọn phẫu thuật, chỉ nhờ thời gian, sự kiên cường chịu đựng và vật lý trị liệu. Những việc này cô đã làm cả. Mỗi tuần hai cuộc hẹn trị liệu kế tiếp những bài tập tại nhà hằng ngày khiến cô la hét vì đau đớn.
Cô đã thôi không nghĩ đến việc cầm súng trở lại. Ngay bây giờ, D.D. còn không thể bế nổi con mình.
Cô hít thở sâu, đếm đến ba rồi đứng dậy. Khi chuyển động đột ngột, suýt nữa cô không giữ được thăng bằng. Nghĩa là cô phải gồng lên theo bản năng lúc nhún vai bên này, xoay cổ bên kia, trong khi hai hàm răng cô nghiến chặt, bàn tay phải siết thành nắm đấm. Và cô còn buột miệng thốt ra
những từ ngữ tồi tệ nhất, tục tĩu nhất mình có thể nghĩ đến sau hai mươi năm làm cảnh sát Boston, cả những câu chửi thề khiến ngay đến một tài xế xe tải dạn dày cũng phải đỏ mặt. Dù thế đi nữa, cô suýt nữa thì nôn ọe vì đau.
Nhưng giờ đây cô đang đứng thẳng. Mồ hôi đầm đìa. Hơi lảo đảo. Nhưng hoàn toàn đứng thẳng.
Không biết bao nhiêu lần, cô nghĩ mãi vẫn không hiểu mình làm cái quái gì tại hiện trường vụ án đó lúc tối muộn như thế. Bởi vì sáu tuần sau, cô vẫn không thể nhớ nổi một chút gì. Cô đã mắc phải chấn thương tồi tệ nhất cuộc đời mình, đặt cả sự nghiệp vào vòng nguy hiểm, đặt cả gia đình mình vào khủng hoảng, thế mà cô vẫn chẳng có chút manh mối nào.
Vào một ngày cách đây sáu tuần, cô đã có mặt tại nơi làm việc. Và cuộc đời cô mang theo một bí ẩn kể từ lần đó.
Lại mất tiếp ba mươi phút nữa để cô xoay xở đánh răng, chải đầu. Lúc tắm thì cô phải nhờ Alex giúp đỡ. Anh rất lịch thiệp khi giúp vợ. Anh bảo mình sẵn lòng làm mọi việc miễn là cô không mặc gì. Nhưng đôi mắt xanh thẳm của anh vẫn nhìn thận trọng. Như thể cả người cô bất ngờ được làm bằng thủy tinh và lúc nào cũng cần nâng niu nhẹ nhàng.
Ngày đầu tiên ở nhà, cô bắt gặp anh đang nhìn chằm chằm những vết thâm tím sưng vù trên lưng cô, và ánh nhìn trên gương mặt anh... Đau khổ. Khiếp đảm. Kinh hoàng.
Cô không nói lời nào. Một lúc sau, anh tiếp tục xả sạch xà phòng gội đầu cho những lọn tóc xoăn vàng ngắn của cô. Tối muộn hôm ấy, anh với tay chạm vào cô, rất thận trọng, nhưng theo phản xạ, cô vẫn rít lên vì đau
khiến anh rụt phắt tay lại như thể bị ăn đòn. Kể từ đó mọi chuyện cứ diễn ra như thế.
Anh giúp đỡ cô mọi việc trong sinh hoạt hằng ngày. Và về phía mình, cô cảm thấy một cách từ từ nhưng chắc chắn cô đang trở thành cái bóng của bản thân mình, một đứa trẻ thứ hai mà người chồng kiên nhẫn đến không thể tin nổi của cô phải chăm sóc.
Trong thâm tâm, cô biết mình gặp may. Nhưng tâm trí cô chưa thể chấp nhận sự thật ấy.
Đến lúc thay đồ. Cô không thể cử động cánh tay trái đủ để mặc được áo sơ mi. Thay vào đó, cô lấy trộm một trong mấy chiếc sơ mi vải flannel quá cỡ của Alex, luồn cánh tay phải vào ống tay áo, còn cánh tay trái cô đành để áp sát vào mạn sườn. Cô không thể xoay xở mọi việc dễ dàng nhưng vẫn đủ sức ăn hết bữa sáng.
Việc đi bộ không khó khăn lắm. Một khi cô đã đứng thẳng, miễn là giữ được hai vai ngang bằng và lưng không bị gập, phần cổ và vai sẽ không còn gây phiền hà nhiều nữa. Cô thận trọng bước xuống cầu thang, bàn tay phải nắm chặt tay vịn. Lần cuối cùng đương đầu với những bậc cầu thang, cô đã thất bại và cô không thể ép mình tin tưởng chúng lần nữa.
Ầu ơ, con yêu, trên ngọn cây...
Tuyệt hảo. Thêm một buổi sáng nữa, giai điệu ru con rùng rợn cũ rích ấy văng vẳng trong đầu cô.
Khi vào phòng khách, D.D. nghe thấy những tiếng nói vẳng ra từ trong bếp. Tiếng hai người đàn ông thì thào. Có thể là cha chồng cô, ông ghé qua uống tách cà phê chăng? Bố mẹ Alex đã chuyển đến Boston sáu tháng trước để có nhiều thời gian với cháu trai duy nhất. Ban đầu D.D. thấy căng thẳng,
cô vốn đã yên tâm với cuộc sống riêng của cha mẹ mình tại Florida. Tuy nhiên cha mẹ của Alex là Bob và Edith đã nhanh chóng chứng tỏ họ cũng dễ chịu như con trai họ. Chưa kể Jack bé bỏng rõ ràng rất yêu thương ông bà, và với lịch công tác của cô và Alex mà nói, có ông bà nội trên danh sách cuộc gọi nhanh khi cần được giúp đỡ thì không bao giờ là ý tưởng tồi. Dĩ nhiên, cô sẽ thích hơn khi ông bà chịu chăm sóc Jack chỉ vì công việc của cô quá bận rộn, chứ không phải vì cô là một người tàn tật hoàn toàn, thậm chí còn không thể tự mặc quần áo. Và nhiều chuyện vụn vặt khác nữa.
Cả hai người đàn ông rõ ràng đang cố không đánh thức D.D. Cô xem đó như lời mời bước vào bếp.
“Xin chào.”
Alex đang ngồi tại chiếc bàn bếp tròn ngay lập tức ngẩng lên nhìn. Không phải cha chồng cô, mà là Phil, cộng sự trong đội đặc nhiệm của cô, ngước mắt lên chậm hơn. Gương mặt Alex điềm tĩnh một cách lịch sự. Rõ ràng anh ấy đã thức dậy mấy giờ đồng hồ rồi, đã đi tắm táp, cạo râu và chăm sóc xong xuôi cậu con trai ba tuổi. Giờ thì anh đã mặc đồ đi làm, sơ mi học viện màu xanh hải quân và quần ka ki. Chiếc áo làm nổi bật đôi mắt thẫm màu và mái tóc muối tiêu của anh. Một người ưa nhìn, cô nghĩ bụng, không phải là lần đầu tiên. Đẹp trai, thông minh, rất yêu thương con cái, nhạy cảm với những nhu cầu của vợ.
Ngồi đối diện Alex chính là đồng nghiệp thân quen nhất của D.D., mái tóc nâu lưa thưa, đã kết hôn và chung tình với người yêu từ hồi trung học tên là Betsy, là cha của bốn đứa trẻ. Ông từng tuyên bố mình gia nhập lực lượng điều tra án mạng Boston để tránh bị đổ máu.
Ngay từ đầu cô đã nghi ngờ.
“Cà phê nóng không?” Phil vui vẻ hỏi. Ông không nhìn thẳng vào mắt cô, đẩy lùi ghế ra sau, tiến thẳng đến ấm pha cà phê.
“Anh không chơi golf à?” D.D. lên tiếng.
Một nụ cười mỉm hé trên khóe miệng Alex.
“Gì cơ?” Phil hỏi, ông đang hết sức tập trung rót cà phê vào cái cốc quá cỡ.
“Cả hai anh đều không đánh bạc. Cũng chẳng có chung những người bạn thân thiết nhất để dự tiệc độc thân. Thật ra mối liên hệ chung duy nhất của hai người là tôi.”
Phil rót xong cà phê. Ông cẩn thận đặt bình cà phê xuống, chậm rãi cầm lên cốc cà phê đang bốc khói, khoan thai quay về phía cô. D.D. kéo ra một cái ghế và ngồi thụp xuống, đồng thời nhăn nhó. Bất chợt, cô không chắc rằng mình muốn biết
Alex không cười nữa. Mà thay vào đó, anh với tay qua bàn rồi nhẹ nhàng chạm vào mu bàn tay phải của cô.
“Ngủ được chút nào không?” Anh hỏi.
“Tất nhiên. Ngủ đẫy luôn. Chưa từng thoải mái đến thế. Đến nỗi em ước mình lại ngã lộn cổ xuống cầu thang lần nữa để có thể ngủ nướng trên giường lâu hơn.”
D.D. để ý kĩ tới Phil. Ông ấy là mắt xích yếu. Dù có chuyện gì đang diễn ra ở đây, ông ấy sẽ là người nhượng bộ.
“FDIT à?” Cô nhẹ nhàng dự đoán trong khi Phil vẫn đang đứng trước mặt cô, hai bàn tay đỡ lấy cốc cà phê của mình.
Trong thuật ngữ cảnh sát, FDIT tức là Đội Điều tra Sử dụng Vũ khí*. Bất cứ khi nào một sĩ quan sử dụng vũ khí, bao gồm nổ súng vào một mục tiêu không xác định tại một hiện trường vụ án rắc rối, FDIT có trách nhiệm điều tra sự việc và quyết định xem liệu hành động của viên sĩ quan ấy có thích hợp không, hay là do bất cẩn.
Vào lúc D.D. tỉnh lại ở bệnh viện, đội FDIT đã tịch thu khẩu súng của cô, còn tương lai sự nghiệp cảnh sát của cô phụ thuộc vào báo cáo mà họ cuối cùng sẽ chuyển cho Cục Tiêu chuẩn Chuyên môn.
Các thanh tra đồng nghiệp đã dặn cô đừng lo lắng. Khả năng nhiều nhất là vũ khí của cô đã phát nổ khi cô ngã xuống cầu thang. Ngoại trừ việc các khẩu Sig Sauer không đơn giản là tự rơi ra khỏi bao súng trên vai. Tương tự, ngón tay trỏ của viên sĩ quan không tự nằm trên cò súng khi chủ nhân đang ngã nhào xuống không gian trống đằng sau lưng, rồi bóp cò ba lần liên tiếp.
D.D. đã cố tình khai hỏa khẩu súng cơ quan cấp cho mình. Bắn vào cái gì đó, hay ai đó.
Ngay cả cô cũng suy đoán được ngần ấy.
Nhưng bắn vào cái gì hay ai và có hay không có chứng cứ hợp lý? Vì các cảnh sát đồng nghiệp của cô chẳng tìm thấy ai khác ở hiện trường. Họ chỉ tìm thấy mỗi mình cô trong trạng thái bất tỉnh nhân sự trong tiền sảnh căn hộ của Christine Ryan và có ba lỗ đạn trên tường. Một trong số ba viên đạn đã xuyên qua căn hộ liền kề. Tạ ơn Chúa, nó không trúng ai hết. Tuy nhiên, hàng xóm không thấy việc này là bình thường, rồi đến chuyện tại sao lại có viên cảnh sát nào đó bắn đạn vào căn hộ kế bên, và...
Các báo cáo gửi về Cục Tiêu chuẩn Chuyên môn đương nhiên sẽ không chỉ bao gồm những gì viên sĩ quan đã làm, mà còn cả những ảnh hưởng từ các hành động này lên toàn bộ hình ảnh của Sở Cảnh sát.
D.D. đang trong vòng nguy hiểm và cô biết thế. Lý do duy nhất các nguy cơ chưa đến sớm hơn là do mức độ những chấn thương khiến cô được nghỉ phép điều trị ngay lập tức. Chưa cần Cục phải ra quyết định vội vàng cho cô quay về làm việc, bác sĩ đã phán rằng cô sẽ còn phải nghỉ làm một thời gian dài nữa.
“Chưa có tin gì.” Phil đáp.
“Ơ.”
“Như thế có thể là tin tốt.” Ông nhanh chóng nói tiếp. “Nếu có bằng chứng rõ ràng về hành vi sai trái, chính quyền sẽ chẳng ngại ngùng gì mà không ra đòn. Không có tin gì thì là tin tốt, và chỉ có thế thôi.”
D.D. dò xét anh bạn đồng nghiệp lâu năm của mình, tự nhủ rằng giá như những lời của ông ấy ăn khớp với biểu hiện trên nét mặt.
“Vai sao rồi?” Phil hỏi.
“Đợi ba tháng nữa hẵng hỏi tôi đi.”
“Lâu thế?”
“Cũng lâu chừng như tôi đang già đi thôi. Nhưng tôi đang tham gia vật lý trị liệu và cả thực hành kiên nhẫn.”
Phil ném sang cô ánh mắt nghi ngờ, ông đã làm việc cùng D.D. đủ lâu để hiểu mức độ kiên nhẫn của cô.
“Đúng như vậy đấy.” Cô đồng tình với Phil.
“Đau lắm à?”
“Gần như lúc nào cũng đau.”
“Bác sĩ không cho cô thuốc giảm đau sao?”
“Chết tiệt, họ kê cho tôi đủ các loại thuốc rồi. Nhưng anh biết tôi mà, Phil. Tại sao lại phải giảm đau khi tôi có thể chia sẻ nó với tất cả mọi người?”
Phil gật đầu tán đồng. Alex vuốt ve mu bàn tay phải của cô. “Hôm nay tôi sẽ gặp một bác sĩ mới.” Cô nói tiếp, gượng gạo nhún một bên vai. “Nhà trị liệu nào đó chuyên về các kỹ thuật tinh thần trong kiểm soát đau đớn. Tư duy bằng vật chất hay cái gì gì ấy. Ai mà biết được, có thể tôi sẽ học được cái gì đó.”
“Tốt.” Phil cuối cùng cũng trao cho cô cốc cà phê, cẩn thận đặt nó xuống bàn sao cho cô có thể với tới bằng bên tay lành lặn. Nhiệm vụ đã hoàn thành, dường như ông không biết phải làm gì tiếp theo.
“Nếu không đến đây để nói về báo cáo điều tra sử dụng vũ khí, thì anh đến đây làm gì hả Phil?” D.D. nhẹ nhàng hỏi.
Thế rồi khi Phil vẫn không ngước mắt lên, còn Alex một lần nữa xoa nhẹ mu bàn tay cô, Warren nhắm mắt lại để cho bản thân nhận ra cái điều cô đã nghi ngờ từ nãy giờ.
“Có thêm một án mạng nữa.”
“Phải.”
“Cũng bị lột da, cũng có bông hồng đỏ nằm trên bụng nạn nhân, chai sâm banh trên chiếc bàn cạnh giường ngủ.”
“Phải.”
“Anh cần tôi nhớ ra.” Thế rồi tiếp nối theo suy nghĩ đó, cô nói tiếp: “Anh không đến đây với tư cách đồng sự của tôi, đúng không Phil? Đây không phải là chuyện giữa cảnh sát với cảnh sát. Anh cần biết tôi đã thấy cái gì vào đêm đó, là chuyện giữa thanh tra và nhân chứng.”
Ông không nói lời nào. Alex tiếp tục lướt phần da mềm ở ngón tay cái của mình trên các chóp khớp ngón tay cô.
Cô nhìn chằm chằm vào cốc cà phê của mình.
“Được rồi.” Cô thì thầm. “Tôi hoàn toàn hiểu mà. Và dĩ nhiên tôi sẽ giúp. Tôi sẽ làm bất kỳ điều gì giúp ích được.”
Cựu thanh tra D.D. Warren, cô chua chát nghĩ, cố gắng tự nhủ rằng, thực tâm cô biết mình may mắn, ngay cả nếu lý trí của cô chưa thể chấp nhận sự thật ấy.
CHƯƠNG 3
Một giờ chiều thứ Hai, tôi chạm trán bệnh nhân mới nhất của mình, ngay lập tức tôi biết rằng Thượng sĩ D.D. Warren thuộc tuýp người hoài nghi bẩm sinh.
Điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Làm việc trong ngành trị liệu kiểm soát nỗi đau đủ lâu nên tôi có kinh nghiệm trợ giúp rất nhiều người thuộc lực lượng phản ứng nhanh, ví như các sĩ quan cảnh sát, kỹ thuật viên y tế khẩn cấp và cảnh sát phòng cháy chữa cháy. Những người bị kéo vào các công việc đòi hỏi ở họ rất nhiều, cả thể chất cũng như tinh thần. Những người thích được bận rộn, thích đảm nhận vai trò ra quyết định, điều hành hoạt động và thích chỉ huy.
Nói cách khác, những kiểu người này không thích ngồi chơi xơi nước. Trong khi đó, một nhà trị liệu đang diện trên người bộ vest trị giá nghìn đô lại giải thích cách thực hiện bước đầu tiên trong kiểm soát đau đớn chính là liên kết với nó. Đặt cho nó một cái tên. Phát triển một mối quan hệ tiến triển tốt.
“Không đùa chứ?” Thanh tra D.D. Warren đang hỏi tôi thế. Cô ấy ngồi thẳng đơ người trên chiếc ghế gỗ đơn giản, đối diện chiếc sô pha trống không. Thậm chí chưa cần xem hồ sơ y tế, tôi cũng đoán được cổ và vai cô ấy đang cực kỳ đau đớn. Nó được thể hiện rõ rành rành trong thế ngồi cứng đơ, cách cô ấy xoay toàn bộ cơ thể lúc tiến vào phòng và cách cô ấy không
thể quay đầu. Đó là chưa kể cánh tay trái luôn ép sát người, như thể vẫn tự phòng vệ tránh một đòn đánh sắp tới.
Tôi ngờ rằng nữ thanh tra tóc vàng này hiếm khi được mô tả như một phụ nữ dịu dàng. Nhưng giờ đây với đôi mắt có quầng đen, cái miệng mím chặt và đôi gò má xương xương u sầu, trông cô ấy có vẻ gì đó cay nghiệt, già hơn rất nhiều so với cái tuổi bốn mươi tư.
“Nền tảng thực hành của tôi là mô hình trị liệu Hệ thống Gia đình Nội Thể.” Tôi kiên nhẫn giải thích.
Cô ấy nhướng một bên mày, chẳng nói lời nào.
“Một trong những giả định cơ bản của mô hình trị liệu này, đó là tâm trí có thể được chia nhỏ thành một số nhân cách phụ riêng biệt. Đầu tiên và quan trọng nhất là Bản Thể, đóng vai trò lãnh đạo tất cả các nhân cách phụ khác. Khi Bản Thể của chị được phân biệt rõ ràng và có giá trị cao hơn các thành viên khác trong hệ thống, thì chị sẽ ở vị thế tốt nhất để thấu hiểu, xử lí và kiểm soát cơn đau của chị.”
“Tôi đã bị ngã cầu thang.” D.D. nói thẳng. “Nếu bản thể của tôi được cho là đóng vai trò chỉ huy, thì bây giờ đã hơi trễ rồi.”
“Để tôi hỏi chị câu khác: Chị có thấy đau không?”
“Ý cô là chẳng hạn như ngay bây giờ ấy à?”
“Đúng, ngay bây giờ.”
“À có. Bác sĩ nói các dây chằng đã giật chòi hẳn một đoạn xương cánh tay trái của tôi. Đau lắm.”
“Theo thang điểm từ một đến mười, một là mức độ khó chịu nhẹ, mười là mức độ đau đớn tồi tệ nhất có thể hình dung được...”
Nữ thanh tra bĩu môi đáp: “Sáu.”
“Vậy là trên trung bình một chút.”
“Đúng. Tôi muốn thêm vài khả năng nữa. Tối nay là thời điểm tôi phải đi tắm, nên mức độ đau sẽ là bảy. Tiếp theo là cố gắng ngủ, mức độ đau là tám, vì dường như tôi không thể ngăn mình nằm nghiêng sang bên trái. Thế nên dĩ nhiên, nỗi khổ khi phải xuống khỏi giường sáng hôm sau dễ dàng tăng mức độ đau lên chín.”
“Theo chị, mức độ mười sẽ là gì?”
“Tôi chưa biết.” Cô ấy đáp gọn lỏn. “Tôi vẫn còn mới mẻ với trò thương binh này, nhưng tôi có thể đoán được đấy chính là lý do sản sinh ra các nhà vật lý trị liệu để phát hiện ra câu trả lời.”
Tôi mỉm cười. “Nhiều bệnh nhân của tôi sẽ đồng ý với chị đấy.” “Tôi biết về thang điểm.” D.D. đáp. “Russ Ilg, người tra tấn riêng của tôi đã hướng dẫn tôi trải qua giai đoạn đó. Đừng nghĩ đến đau đớn như điểm duy nhất, mà là cả một chuỗi trọn vẹn. Bạn đang ở đâu trong cả cái chuỗi đó ngay bây giờ, trong chiều nay, suốt cả ngày và trong cả tuần? Thế rồi thay vì chỉ cảm thấy đau, bạn có thể trải qua trọn vẹn một cầu vồng đau đớn tột cùng về thể chất. Hoặc thứ gì đó đại loại thế.”
“Ông ấy có bảo chị đánh giá mức độ khó chịu của chị khi làm việc cùng chị không?”
“Có. Ông ấy nâng cánh tay trái của tôi lên. Tôi kêu thét lên. Ông ấy bảo tôi hít thở bằng miệng. Tôi càng la hét dữ hơn. Ông ấy hỏi đã đau đến mức tám chưa. Tôi bảo chưa, ông ấy liền nâng cánh tay trái lên thêm hai phân nữa.” D.D. lúc này không còn nhìn tôi nữa. Cô ấy nhìn qua bờ vai phải của tôi, tới một điểm trên tường, trong khi cẳng chân phải bắt đầu đưa lên hạ xuống liên tục.
Tôi đã xem qua bệnh án của cô ấy. Chứng gãy xương do giật mà cô ấy đang phải chịu đựng ở vai trái là chấn thương đặc biệt hiếm và đau đớn, đòi hỏi một phương pháp điều trị khắc nghiệt hơn nhiều, đó là vật lý trị liệu. Rất nhiều bài tập cực kỳ đau đớn được thiết kế giúp vai trái của cô ấy không bị liệt, đồng thời làm giảm thiểu mô sẹo trong quá trình hàn gắn.
Căn cứ theo các biểu đồ của nữ sĩ quan này, cô ấy làm việc với một nhà vật lý trị liệu hai lần một tuần. Nhiều khả năng mỗi phiên trị liệu đều kết thúc trong nước mắt.
Tôi phải tự hỏi, với một người phụ nữ đã quá quen kiểm soát hoàn toàn cảm xúc khi làm việc như cô ấy, thì cảm xúc của cô ấy sẽ như thế nào. “Vậy là chị có dành thời gian đánh giá cơn đau?” Tôi hỏi. Cô ấy phác một cử chỉ, có thể là gật đầu cũng có thể không. “Thường xuyên đến mức nào?” Tôi dồn ép.
“Thì cô biết đấy, khi Russ hỏi tôi.”
“Tức là trong phiên vật lý trị liệu?”
“Đúng.”
“Thế còn ở nhà thì sao? Như khi chị thức giấc giữa đêm và cảm thấy khó chịu. Thế lúc đó chị làm gì?”
Cô ấy không trả lời ngay.
Tôi còn nhiều thời gian, nên kiên nhẫn đợi.
“Tôi tự nhắc mình đi ngủ lại.” Cuối cùng cô ấy đáp.
“Có hiệu quả không?”
Lại là cử chỉ ấy, gật đầu mà như không gật.
“Chị có muốn tới đây không?” Tôi đột ngột hỏi.
Dường như cô ấy giật mình. “Ý cô là sao?”
“Hôm nay. Ngay bây giờ. Chị có muốn bước vào văn phòng của tôi, nói chuyện với tôi không?”
Nữ thanh tra không nhìn chằm chằm bức tường trong phòng nữa, thay vào đó, cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi. Ánh mắt muốn nổi loạn. Tôi không ngạc nhiên. Có người giấu kín nỗi đau của họ. Người khác lại thể hiện ra ngoài, xả cả một tràng. Không quá khó để nhận định D.D. Warren thuộc kiểu người nào.
“Không.” Cô ấy đáp thẳng thừng.
“Vậy tại sao chị lại đến đây?”
“Tôi muốn trở lại làm việc. Tôi thích công việc của mình.” Giọng cô ấy đã bớt thù địch hơn, mang tính đề phòng hơn.
“Chị là một thanh tra điều tra án mạng đúng không?”
“Đúng.”
“Và chị thích công việc của mình?”
“Tôi yêu công việc của tôi.”
“Tôi hiểu. Với chấn thương hiện giờ, chị không thể làm việc được, chắc khó khăn lắm.”
“Tôi đang nghỉ phép điều trị.” Nữ thanh tra vội giải thích. “Có thể nói ra: Cô bị thương nên nghỉ ở nhà. Khỏi rồi thì quay lại làm việc. Nhưng như bất kỳ cơ quan nào khác, sở cảnh sát hay thích biến nó trở nên phức tạp. Bởi vì vai tôi có thể đã khá hơn, nhưng còn đầu tôi thì sao? Tôi có còn là nữ thanh tra lạnh lùng, điềm tĩnh như trước kia không? Có thể tôi đã hồi phục được cơ thể nhanh nhẹn để đảm đương một tình huống khủng hoảng. Nhưng tôi có làm được không? Hay tôi sẽ lùi lại, căng thẳng với suy nghĩ
rằng mạn sườn trái của tôi đang đau nhức nhối, vai tôi đang căng lên? Cơ quan không muốn cơ thể tôi quay lại làm việc nhưng để quên não ở nhà. Tôi hiểu quan điểm của họ, nhưng mà...”
“Chị đến đây để làm vui lòng các sếp.”
“Nói thế cũng được. Đích thân phó giám đốc phụ trách hình sự đã trao cho tôi danh thiếp của cô. Tôi nghe lời ông ấy.”
“Vậy kế hoạch của chị là gì?” Tôi hỏi, nhoài người về phía trước, giờ đây tôi thực sự thấy hứng thú. “Chị sẽ phải hợp tác với tôi nhiều hơn một buổi đấy. Chẳng ai tin chị nghiêm túc thực hiện trị liệu đau đớn chỉ với một lần gặp mặt đâu. Sáu có thể là cấp độ hơi cao. Tôi đảm bảo với chị chỉ đến ba buổi thôi. Chị sẽ gặp tôi ba lần; sau đó sẽ lên lịch tái hẹn.”
Lần đầu tiên, nữ thanh tra có vẻ cảm kích. “Tôi đang nghĩ số ba sẽ là số đẹp.”
“Đủ đẹp đấy. Chỉ có ba buổi thôi. Nhưng chị phải đến gặp tôi một cách nghiêm túc, đó là điều kiện của tôi. Chị không buộc phải tin vào mọi điều tôi nói. Nhưng chừng nào chúng ta có ba buổi làm việc với nhau, chị cũng phải lắng nghe cho kĩ. Và làm bài tập về nhà.”
“Bài tập về nhà ư?”
“Chính xác. Bài tập đầu tiên là gọi tên cơn đau của chị.”
“Cái gì?” Một lần nữa nữ thanh tra lại hoàn toàn chú ý vào tôi, nhiều khả năng cô ấy nghĩ tôi thật gàn dở.
“Đặt tên cho cơn đau của chị. Và lần tới chị thức giấc giữa đêm, thay vì tự nhắc mình phải đi ngủ lại, tôi muốn chị gọi thẳng cơn đau của chị bằng tên. Nói chuyện với nó. Rồi lắng nghe những gì nó đáng lẽ phải nói ra.”
“Ý cô là giống như “Cho tao mấy viên giảm đau Percocet” ấy hả?” D.D. lẩm bẩm.
Tôi mỉm cười. “Nhân tiện nói đến thuốc giảm đau, chị có đang uống loại nào không?”
“Không.”
“Tại sao không?”
Lại là cái gật đầu nửa chừng ấy, hoặc có thể chỉ là cái nhún vai nửa chừng. “Chỉ là nói không với thuốc thang, thuốc theo đơn, thuốc không theo đơn, vân vân. Có ranh giới mong manh dẫn đến ma túy và tôi không thích vượt qua nó.”
“Chị sợ phải dùng thuốc à?”
“Sao cơ?”
“Vài người như thế đấy. Họ sợ cái cách mà thuốc khiến họ cảm nhận được, họ sợ mình sẽ bị nghiện. Tôi không nói như thế là sai. Tôi chỉ hỏi vậy thôi.”
“Tôi không thích thuốc men. Đơn giản thế thôi. Chúng không dành cho tôi.”
“Chị tự xem mình cứng rắn hơn cả thuốc?”
“Cô đang áp đặt lên tôi.”
“Còn chị đang lảng tránh câu hỏi của tôi.”
“Có đúng là cô không thể cảm thấy đau không?”
Tôi mỉm cười, ngồi thẳng lại và liếc nhìn đồng hồ. “Hai mươi hai phút.” Tôi đáp.
Nữ thanh tra không ngốc. Cô ấy liếc nhìn đồng hồ treo tường bên cạnh bàn làm việc của tôi, rồi cau có.
“Chị là thanh tra.” Tôi nói tiếp. “Nên đương nhiên chị đã điều tra thông tin về tôi. Và từ báo Boston Herald, chưa kể nhiều ấn phẩm khoa học khác thấy tình trạng của tôi rất hấp dẫn, nên chị hẳn đã biết được ít nhiều. Vậy thì chỉ đơn giản là vấn đề chờ đợi cho đến khi chị cần lảng tránh, đánh lạc hướng. Lấy công bù thủ là chiêu thức tốt nhất đúng không?” Tôi vẫn giữ giọng đều đều. “Để cho chính xác thì, thưa Thanh tra, tôi không thể cảm thấy bất kỳ nỗi đau đớn thể chất nào. Có nghĩa là tôi chẳng có việc gì tốt hơn để làm ngoài việc tập trung vào cơn đau của chị. Và chị vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi. Chị có nghĩ bản thân mình cứng rắn không?”
“Có.” Cô ấy buột miệng.
“Đã cứng rắn thế, thì vai và lưng của chị lẽ ra không nên làm chị chậm lại thế này chứ?”
“Tôi không gội đầu được!”
Tôi chờ đợi.
“Tôi không bế con được. Con trai tôi ba tuổi. Còn tối qua, nó tới ôm hôn tôi nhưng tôi phải bước tránh ra vì tôi biết làm thế sẽ đau. Tôi không chịu được đau đớn.”
Tôi chờ đợi.
“Các bác sĩ đều nói rồi sẽ khá hơn. Phải làm thế này, phải làm thế kia, nhưng trong khi chờ đợi, tôi không ngủ được, không cử động được và thậm chí tôi không thể thoải mái lăn mình trên giường, vì tôi cực kỳ căm ghét cái giường của mình. Cứ lên hay xuống giường cũng đều quá đau đớn. Tôi già rồi, tôi bị chấn thương và cơ bản là đang thất nghiệp. Khốn kiếp!”
Rồi tới một tràng. “Mẹ kiếp, chết tiệt, chó chết, quỷ tha ma bắt. Khốn kiếp!”
“Melvin.” Tôi lên tiếng.
“Gì cơ?” D.D. ngước lên nhìn, đôi mắt ánh lên tia hoang dại. Một biểu hiện tôi đã thấy nhiều lần khi hành nghề, ánh mắt của con thú bị thương. “Melvin.” Tôi bình tĩnh nhắc lại. “Tôi nghĩ chị nên đặt tên cho cơn đau của mình là Melvin. Mẹ kiếp, quỷ tha ma bắt Melvin. Và mỗi lần hắn làm phiền chị, hãy mắng chửi hắn. Nguyền rủa hắn. Tại sao không? Chị thực sự có thể cảm thấy khá hơn. Việc phát hiện ra rằng cứ để Bản Thể của mình xử lý Melvin sẽ khiến hắn nhỏ bé đi, còn Bản Thể của chị trở nên mạnh mẽ hơn. Chẳng phải đó là thứ chị thực sự bỏ lỡ sao? Cảm thấy mình mạnh mẽ ấy?”
“Melvin.” D.D. nói.
“Chỉ là gợi ý thôi. Rõ ràng chị muốn một cái tên thật kêu đối với mình.” “Cho hỏi lại cô tính một giờ bao nhiêu ấy nhỉ?”
“Tôi là một bác sĩ. Tiền nào của nấy thôi.”
“Melvin. Chúa lòng thành, cơn đau của tôi có tên là Melvin.” “Mô hình trị liệu Hệ thống Gia đình Nội Thể chia nhỏ tâm trí thành bản nhân cách phụ, chính. Trọng tâm là Bản Thể, nhà lãnh đạo tự nhiên của hệ thống. Tiếp theo là Kẻ Lưu Đày, bao gồm nỗi đau và sang chấn tinh thần chị chưa sẵn sàng giải quyết được nên chị loại bỏ chúng đi. Đáng tiếc là Kẻ Lưu Đày cần phải chia sẻ những câu chuyện của mình. Chúng sẽ tiếp tục phản ứng tiêu cực, dưới hình thức cơn giận dữ, nỗi kinh hoàng, đau buồn và hổ thẹn, cho đến khi chúng được lắng nghe.
Khi Kẻ Lưu Đày hành động, thì nhóm nhân cách phụ tiếp theo, Lính Cứu Hỏa, sẽ bắt đầu triển khai. Các kỹ thuật chữa cháy cổ điển bao gồm lạm dụng thuốc hoặc rượu, ăn uống quá độ, những lý do bao biện ngắn hạn khác che đậy nỗi đau dài hạn. Cuối cùng ta có Nhà Quản Lý. Bộ phận này cũng cố gắng giữ khoảng cách an toàn với Kẻ Lưu Đày, bằng cách kiểm soát triệt để từng tình huống. Đấu tranh, phán xét, chỉ trích bản thân, tất cả đều do Nhà Quản Lý làm. Về cơ bản, nỗi đau hay sang chấn tinh thần của chị bị lưu đày gây ra những đau khổ về cảm xúc, đến lượt mình, nó kích thích Lính Cứu Hỏa có nhiều hành động tự hủy hoại, hối thúc Nhà Quản Lý có những hành động đàn áp. Và chị cứ xoay tròn như thế, quay cuồng trong các vòng đời không bình thường. Nguyên nhân là do Bản Thể cốt lõi của chị không còn nắm quyền chỉ huy.”
“Tôi bị ngã cầu thang.” D.D. đáp.
“Vâng.”
“Tôi không hiểu chuyện này thì liên quan gì đến Kẻ Lưu Đày, Lính Cứu Hỏa và Nhà Quản Lý. À còn Bản Thể đích thực của tôi nữa.” “Cú ngã là sang chấn tinh thần. Nó gây đau đớn nhưng cũng tạo ra nỗi sợ hãi, bị tước mất sức mạnh và cảm giác bất lực.”
Nữ thanh tra khẽ khom vai, nhăn nhó.
“Những cảm xúc ấy là Kẻ Lưu Đày của chị.” Tôi nhẹ nhàng bổ sung. “Chúng đang gào thét muốn được lắng nghe. Lính Cứu Hỏa trong hệ thống có thể đáp lại bằng một khao khát muốn uống, hoặc lạm dụng thuốc kê theo đơn...”
“Tôi sẽ chẳng dùng loại thuốc nào hết!”
“Hoặc Nhà Quản Lý có thể nhảy ra tiền tuyến.” Tôi nói tiếp. “Quản lý vi mô toàn bộ hệ thống bằng cách kiểm soát và phán xét phản ứng của chị với cơn đau. Thực chất là đòi hỏi chị phải đủ cứng rắn.”
D.D. hơi trố mắt. Cô ấy nhìn tôi chằm chằm đến cả phút, rồi nheo mắt lại.
“Cần phải lắng nghe Kẻ Lưu Đày.” Cô ấy lẩm bẩm. “Đó là lý do tại sao cô muốn tôi nói chuyện với cơn đau của mình.”
“Melvin. Nói chung, nếu đối phương có một cái tên thì sẽ dễ trò chuyện hơn.”
“Rồi Melvin sẽ nói gì? Này, tôi bị đau đấy. Tôi bất lực đấy. Tôi ghét mấy cái cầu thang. Và tôi sẽ nói, được rồi, thế là cơn đau của tôi tự nhiên biến mất à?”
“Rồi chị có thể cảm thấy cơn đau dễ được kiểm soát hơn. Phần còn lại của hệ thống có thể nghỉ ngơi khi Bản Thể cốt lõi của chị xuất hiện. Cần phải nhớ là từng có rất nhiều nghiên cứu về nỗi đau thể chất. Một trong số những phát hiện lý thú nhất: Ai ai cũng đau đớn, nhưng chỉ một vài người bị đau đớn làm phiền. Có nghĩa là, nói theo lối thông thường, thái độ quyết định tất cả.”
“Tôi nghĩ rằng...” Nữ thanh tra chậm rãi đáp. “... Đấy là mớ chuyện nhảm nhí nhất tôi từng được nghe.”
“Vì thế chúng ta ở đây. Một buổi xong rồi, còn hai buổi nữa thôi.” D.D. gượng gạo nhún một bên vai, chậm rãi đứng dậy. “Mẹ kiếp Melvin.” Cô ấy khe khẽ làu bàu, rồi tiếp tục: “Tôi khá là khoái nguyền rủa hắn.”
“Thanh tra...” Tôi hỏi khi cô ấy tiến ra cửa. “... Vì chúng ta chỉ còn hai buổi nữa, nên mục tiêu nào sẽ là giá trị nhất đối với chị? Ngay bây giờ chị muốn chúng ta theo đuổi điều gì nhất?”
“Tôi muốn nhớ lại.” Cô ấy đáp ngay.
“Nhớ lại gì...?”
“Cú ngã.” Cô ấy nhìn tôi một cách giễu cợt. “Tôi có quyền được yêu cầu bảo mật đúng không?”
“Tất nhiên.”
“Chấn thương của tôi... Tôi bị ngã cầu thang tại một hiện trường vụ án. Tôi đã nổ súng. Thế nhưng tôi chẳng nhớ nổi tại sao mình lại đến đó, hoặc tôi đã bắn vào ai.”
“Thú vị đấy. Chấn động sau cú ngã à?”
“Có khả năng. Như các bác sĩ nói là nó có thể gây mất trí nhớ.” “Điều cuối cùng chị còn nhớ là gì?”
Cô ấy im lặng một lúc lâu, khiến tôi tưởng cô ấy không nghe thấy câu hỏi của tôi. Rồi cô ấy lên tiếng: “Mùi máu.” Cô ấy thì thầm. “Cảm giác rơi xuống. Đứa trẻ rồi sẽ rơi, cả cái nôi và mọi thứ.”
“Thanh tra Warren?”
“Vâng.”
“Vào giữa đêm, khi chị đã nguyền rủa Melvin xong, tôi muốn chị hỏi hắn một câu. Tôi muốn chị hỏi hắn tại sao hắn không muốn nhớ ra.” “Cô nói nghiêm túc đấy à?”
“Nghiêm túc. Sau đó tôi muốn chị nói với hắn rằng ổn cả rồi. Chị an toàn và giờ chị có thể tự lo được rồi.”
“Ký ức về chuyện đã xảy ra?”
“Đúng. Sau đó hãy tự chuẩn bị tâm lý nhé, Thanh tra Warren. Melvin có thể có lý do rất chính đáng để muốn chị quên ký ức đó đi.”
CHƯƠNG 4
“Cơn đau của em có tên là Melvin.”
“Hay hơn nhiều cái tên Wilson.” Chồng của D.D., Alex Wilson, nhận xét. “Hay phải nói là hay hơn nhiều so với Horgan.” Phó Giám đốc Phòng Điều tra Án mạng Cal Horgan là sếp của D.D.
“Xin anh, hai người bọn anh là những cái nhọt nhỏ xíu trên mông, trong khi Melvin là nỗi đau đớn nghiêm trọng trên cổ đây này.” D.D. tiếp tục bước về phía chồng, anh đang đứng trên hàng hiên căn nhà xây bằng gạch đỏ khiêm nhường trong thành phố. Trời đã dần tối. Mặt trời đang lặn, bầu không khí buổi tối rét buốt với cơn gió lạnh đầu đông. Cô đỗ xe cách đây ba khối nhà. Cứ như thể một người dân địa phương, lái xe quay về nhà sau một ngày làm việc. Hoặc một thanh tra bị chấn thương, vừa tình cờ có mặt ở nhà hàng xóm nhân một vụ án mạng gần đây, ra ngoài đi dạo buổi tối.
Cô không nên ở đây. Thực ra cô chẳng có quyền gì được ở đây hết. Thế nhưng, khi rời khỏi văn phòng của bác sĩ điều trị mới, cô đã biết nơi mình sắp đến chính là hiện trường vụ án mạng mới nhất. Khi tự ngồi vào được ghế lái, cô cẩn thận vươn tay ngang người tìm kiếm sợi dây da Alex đã tạm gắn vào bên trong cánh cửa phía lái, rồi kéo sợi dây này để
vụng về đóng chặt cửa lại mà không cần cử động mạnh cánh tay trái. Cả quá trình diễn ra chậm rãi, bất tiện và khó nhọc.
Có nghĩa là cô còn rất nhiều thời gian để đổi ý.
Cô tra chìa vào ổ, khởi động và cài số lùi.
Bỗng nhiên cô được trải nghiệm một cảm giác kí ức ảo giác rất mạnh mẽ. Rằng trước kia cô đã từng làm chuyện này. Tự nhủ sẽ lái xe về nhà, trong khi lại đang tiến thẳng tới hiện trường vụ án.
Dĩ nhiên, cô đã lặp đi lặp lại khuôn mẫu này suốt cuộc đời mình. Khác biệt duy nhất đó là lần này, chồng cô đang đứng trước cửa ngôi nhà của người phụ nữ bị giết và anh có vẻ không ngạc nhiên khi thấy vợ đến gần.
“Cuộc hẹn với bác sĩ ổn cả chứ?” Alex hỏi, đưa tay nhấc dải băng vàng để cô chui qua, bước lên hàng hiên có mái che.
“Em được bảo là phải nói chuyện với cơn đau của mình. Anh xem thế mà gọi là ổn sao?”
“Cơn đau của em có đáp lại không?”
“Rõ ràng đó là bản chất của đau đớn.”
“Thú vị đấy.” Anh đáp.
“Vớ vẩn thì có.” Cô tuyên bố.
Cô bước đến bên anh và dừng lại. Ánh mắt Alex vẫn bình thản như luôn thế, không thể đọc được gì trên gương mặt anh. Cô cảm thấy trái tim mình đang có nhịp đập thất thường, hơi thở nông. Cơn đau, cô tự nhắc mình. Phương pháp phục hồi chấn thương dành riêng cho cô tiêu tốn quá nhiều năng lượng, chỉ bước lên ba bậc thang chết tiệt này thôi mà cô cũng phải cực kỳ nỗ lực.
“Họ gọi anh đến à?” Cuối cùng cô hỏi. “Cần đến chuyên môn của anh à?” Phần lớn thời gian, Alex giảng dạy phân tích hiện trường vụ án tại Học viện Cảnh sát. Ngoài ra anh còn làm cố vấn riêng. Và khi có dịp, để mài dũa kỹ năng, anh thích làm việc ngay tại hiện trường, đó là cách hai người gặp gỡ nhau nhiều năm về trước. Tại một ngôi nhà khác ở thành phố, khá giống căn nhà này, ngoại trừ việc ở căn nhà ấy có gã đàn ông đã giết hại toàn bộ gia đình hắn trước khi tự sát bằng súng.
D.D. vẫn nhớ cảnh cô bước qua hiện trường tội ác đó, đi theo các vết máu khi Alex tường thuật lại câu chuyện anh đã thấy được thể hiện qua từng vũng máu và chỗ máu bắn ra, về người vợ, với cột sống bị chém đứt tàn bạo từ phía sau, về cậu con trai đang tuổi thanh thiếu niên lực lưỡng, bị phục kích với một nhát dao duy nhất đâm vào giữa mạng sườn, rồi đến hai đứa trẻ nhỏ tuổi hơn, cố thủ trong phòng ngủ phía sau. Một đứa không bao giờ thoát được khỏi căn phòng đó. Còn một đứa kém may mắn hơn đã làm được.
“Anh biết em sẽ đến.” Alex giản dị nói.
“Muốn tiễn em về à? Nhét em vào trong xe, nơi em thuộc về chứ gì?” Chồng cô chỉ mỉm cười. Anh vươn tay ra, vén một lọn tóc vàng đi lạc ra sau tai cô. “Cũng có thể là cầu mong gió đừng thổi. Thôi nào D.D. Hóa ra cảnh sát điều tra Boston muốn anh giúp đỡ trong vụ này. Chừng nào anh còn ở đây, sao chúng mình không làm một vòng nhỉ?”
“Đó là lý do cơn đau của em không tên là Wilson.” Cô thành thật bảo anh.
Tuy nhiên, nét mặt Alex bỗng trở nên buồn rười rượi, “ơ, anh sẽ không thấy biết ơn đâu.”
Bước vào tiền sảnh tối om, ban đầu D.D. choáng váng với cái mùi. Lại thêm một lần cảm giác ký ức ảo giác quay về. Cô có thể hình dung mình đang bước vào căn hộ của Christine Ryan, cũng hít ngửi đúng cái mùi hăng hắc ấy và ngay cả khi chưa nhìn thấy cái xác, cô đã biết rằng xác chết trông sẽ rất kinh khủng. Thế rồi khoảnh khắc đầu tiên, cô run rẩy khi nhận ra mình đang nhìn xuống phần còn lại của cô gái trẻ. Làn da bị lột thành những dải dài, quăn queo và chất đống cạnh xác chết.
Alex đang dò xét cô. Không nhìn vào sàn nhà, các bức tường hay cầu thang lên gác, tất cả những yếu tố hợp lý để nhà tội phạm học phân tích. Anh đang chăm chú nhìn cô, và điều ấy quan trọng ngang với bất kỳ điều gì khác, ép buộc cô phải gắng hết sức.
Cô hít một hơi thật sâu, lần này qua đường miệng, và tiếp tục dấn bước. Alex chỉ tay vào một cái thùng cạnh bức tường. Trong thùng là bao ni lông bọc giày và mũ bọc tóc dành cho tất cả các thanh tra vào ra hiện trường, một sự đề phòng bổ sung cần thiết khi một hiện trường tội ác được xem là đặc biệt phức tạp, hoặc khi bằng chứng thuộc loại đặc biệt dễ bị xâm hại.
Nghi thức khác so với nạn nhân vụ án mạng đầu tiên. Hiện trường đó tuy ghê rợn nhưng chủ yếu do tấm thảm thấm đẫm máu của nạn nhân. Còn lần này...
D.D. đeo bao ni lông xanh lơ quanh đôi bốt gót thấp. Bao ni lông lớn và đàn hồi, nên không quá khó khi dùng một tay để đeo. Đối với mũ chụp tóc thì khó khăn hơn nhiều. Cô không tìm ra cách nào đội được mũ chụp tóc cho đúng, đồng thời phải gom hết các lọn tóc bướng bỉnh. Alex phải giúp đỡ. Những ngón tay anh lướt quanh chân tóc của cô, gom lại các món tóc quăn vàng và nhét vào mũ chụp. Cô đứng im, để anh thực hiện ma lực của
mình, khi hơi thở của anh phả trên má cô. Ngoài những lúc giúp cô trong phòng tắm, đây là thời điểm hai vợ chồng gần gũi nhất suốt mấy tuần. “Nhìn kìa!” Alex lẩm bẩm, đưa tay chỉ bức tường liền kề cầu thang. Cô nhìn theo ngón tay anh và lập tức nhận ra, ngay phía trên ván đứng thấp nhất, một vết ố nổi bật trên nền sơn nhạt hơn. Vết máu đầu tiên. “Đây nữa này.” Lúc này anh chỉ một chỗ trên mặt sàn, cách chân trái của cô cỡ mười lăm phân. Trong ánh sáng mờ mờ, tuy rất khó nhìn, nhưng dấu này còn to hơn, rõ ràng hơn.
D.D. cúi xuống xem xét kĩ hơn, trong khi Alex tăng thêm cường độ ánh sáng. Anh chiếu sáng dấu vết này, D.D. không thể ngăn mình bật ra tiếng thở gấp thật khẽ.
“Dấu chân thú.”
“Nạn nhân nuôi một con chó nhỏ tên là Lily. Giống chó fluffy nhỏ, qua quan sát ván đứng cầu thang.”
Khi xem xét kĩ hơn, D.D. đã hiểu ý anh. Vết máu ở đó đã tạo thành một mẫu vết máu rõ nét, với đặc trưng là hàng tá đường thẳng màu đỏ mảnh, đúng như những gì xảy ra khi bộ lông đẫm máu quét qua sàn hoặc trượt xuống từ trên tường.
“Lông thẳng, không xoăn.” D.D. lẩm bẩm. “Thế đúng rồi, Lily là giống chó fluffy.”
Đến giờ D.D. đã nhận ra lý do đằng sau những bao ni lông bọc giày. Bởi vì con chó hoàn toàn vô tình đã làm hiện trường bị xáo trộn, các thanh tra không thể bị phân tâm hơn nữa.
Alex bước thẳng lên cầu thang, nhưng D.D. ngăn anh lại. Cô muốn dành thêm một phút nữa xác định phương hướng, thiết lập ấn tượng ban đầu về
căn nhà này và người phụ nữ đã sống ở đây.
Bây giờ cô mới để ý một tiền sảnh khiêm tốn, với chiếc ghế dài phủ đệm thêu hoa, trên mặt ghế lẫn dưới gầm ghế là các đôi giày xếp bừa bãi. Cô trông thấy nào là bốt, guốc, và vài đôi cao gót. Những đôi giày thiết thực mang tông màu trung tính đen và nâu với gót cao vừa phải. Đều là giày nữ, cỡ số tám.
Từ tiền sảnh, không gian mở rộng ra một phòng khách nhỏ, với chiếc sô pha màu xanh xám bọc đệm dày sụ đã mòn xơ và chiếc ghế dài có đệm hợp tông. Một cái chăn quấn xốp nhẹ màu xanh dương chất đống trên một góc sô pha, trong khi chiếc khăn đắp của chó phủ lên chiếc ghế dài. Mấy chồng quần áo có lẽ là xếp trên một chiếc ghế nữa, chắc là sắp gấp cất đi, trong khi sô pha nằm đối diện chiếc ti vi màn hình phẳng kích cỡ trung bình.
Từ phòng khách, D.D. bước vào căn bếp mang phong cách cổ điển thập niên 70, hoàn chỉnh với lớp vải sơn lót sàn nhà màu vàng đã phai màu và bếp màu xanh ô liu kiểu cũ. Trái ngược với phòng khách và tiền sảnh được sử dụng nhiều, không gian này gần như rất nghèo nàn. Một máy pha cà phê hiệu Keurig, một lò vi sóng bé tí nằm trên kệ bếp. Trong bồn rửa có một cái đĩa duy nhất, còn lại là nĩa, dao và ly rượu. Nhất định căn bếp này thuộc về kiểu người thích mua đồ ăn sẵn về. D.D. biết rõ vì trước khi kết hôn với Alex, căn bếp của cô cũng gần giống thế này.
Cô cùng Alex quay ra tiền sảnh. “Em mạnh dạn đoán cô ta là y tá.” Cô nói to suy nghĩ của mình. “Có cuộc sống tươm tất, vừa đủ tiền mua một căn hộ chung cư, nhưng không có dư tiền để nâng cấp tủ giá, hoặc sắm đồ nội thất sành điệu của Pottery Bam. Công việc của cô ta đòi hỏi đi lại rất nhiều, do đó phải mua những đôi giày thực tế hơn là thời trang. Độc thân, hoặc chỉ vừa mới bắt đầu một mối quan hệ. Nhưng nếu vậy, họ sẽ gặp gỡ nhau tại
nhà của anh ta, vì nơi này là lãnh địa riêng, cô ta chưa sẵn sàng chia sẻ nó với ai.”
Alex nhướng mày. “Gần đúng. Regina Bames. Bốn mươi hai tuổi, chuyên viên trị liệu cơ năng, mới ly hôn, làm việc tại một cơ sở dưỡng lão cách nhà không xa. Không có thông tin gì về các bạn trai mới, nhưng không có nhân chứng và không có dấu hiệu cố tình đột nhập.”
“Có thể gần đây, cô ta đã gặp gỡ ai đó. Hoặc có một mối quan hệ trên mạng. Cô ta đã cho hắn vào nhà.”
Alex không nói gì. Các chuyên viên kỹ thuật sẽ sục sạo máy tính cùng các thiết bị khác ghi chép các hoạt động trực tuyến của nạn nhân. Lãnh địa của Alex chính là những dấu chân chó đẫm máu và mẫu vết máu ngắt quãng dẫn lên cầu thang.
“Nhà của Christine Ryan cũng không có dấu hiệu cố tình đột nhập.” D.D. cân nhắc. “Bạn bè của cô ấy đã thề rằng nêu cô ấy mà có bồ mới thì hẳn họ đã biết, bất kể trên mạng hay ngoài đời. Hàng xóm có nghe thấy gì không?”
“Không.”
Cô vươn tay, gõ lên bức tường trong nhà để thăm dò. Nói chung, các ngôi nhà liền kề ở thành phố như này thì hàng xóm khó mà biết được vì có hệ thống cách âm tốt. Một cuộc vật lộn sinh tử, tiếng la hét hẳn là sẽ không thể nào không vọng ra ngoài.
“Các máy quay phim của hàng xóm, hệ thống an ninh trong nhà thì sao?”
“Không thu được gì.”
“Thời điểm tử vong là mấy giờ?”
“Từ nửa đêm đến hai giờ sáng.”
“Có thể hắn phục kích các nạn nhân trong khi họ đang ngủ. Đó là lý do tại sao không có dấu hiệu vật lộn.”
“Nhưng làm sao hắn vào được trong nhà?”
“Bẻ khóa chăng?” D.D. quay ra, kiểm tra cơ cấu khóa cửa ra vào. Như một biện pháp đảm bảo an toàn cho phụ nữ đơn thân trong thành phố, Regina rất xem trọng hệ thống an ninh trong nhà. D.D. nhận thấy một cái khóa chốt bằng thép trong tình trạng tương đối mới. Christine Ryan, nạn nhân đầu tiên, cũng thận trọng không kém.
Alex im lặng chờ đợi khi cô đi đến câu trả lời anh đã biết. “Có thể làm được.” D.D. lẩm bẩm. “Nhưng không phải dễ.” “Có thể là không.”
“Nhưng nếu cô ta cho hắn vào... một cái đĩa, một cái chén trong bồn rửa trong bếp. Đó không phải là quan hệ xã giao. Ví dụ, mời một người bạn đặc biệt ghé qua uống chén rượu trước khi đi ngủ. Có thu được bất kỳ bằng chứng nào từ phòng khách hay nhà bếp không? Dấu chân, tóc hay sợi vải?”
“Không có dấu chân, vẫn đang xử lý tóc và sợi.”
Cô gật đầu, nhìn xuống dấu chân chó trên sàn, khi Alex một lần nữa hướng lên cầu thang.
Cô đang muốn trì hoãn. Hai chân cô vẫn đứng nguyên tại chỗ, kháng cự lại việc dang dở lúc trước là dấn bước lên cầu thang, tiến vào phòng ngủ chính, đến với cốt lõi của vấn đề. Phải chăng cô đang quá sợ hãi khung cảnh mình sẽ thấy trong phòng ngủ? Hay phải chăng còn tồi tệ hơn thế? Có phải cô đang sợ cái cầu thang?
Cuối cùng Alex giành lấy vinh dự đó. Anh bước lên vài bậc đầu tiên. D.D. không còn lựa chọn nào khác đành bước theo.
Với chùm ánh sáng công suất cao, Alex rọi sáng thêm nhiều bằng chứng vết máu dọc đường đi. Những dấu chân thú, vài dấu còn nguyên vẹn, vài dấu chỉ còn lại một phần, khi con chó nhỏ đi lên đi xuống cầu thang. Thế rồi lên đến đầu cầu thang, họ thấy một vệt to hơn đáng kể, như thể ai đó đã phát hiện một vũng máu lớn và cố gắng lau sạch.
“Chúng ta sẽ tiến hành vài thí nghiệm xem có thể tái tạo mẫu không.” Alex lên tiếng. “Nhưng anh tin rằng mẫu vết máu này cũng do con chó mà ra. Nó bị kích động, dành thời gian ở bên cạnh xác chết, rồi chạy tới chạy lui trong tiền sảnh. Anh nghĩ đến đầu cầu thang này, con chó nằm nghỉ một lát. Có thể nó chờ người đến cứu.”
D.D. đang khó khăn lấy lại nhịp thở. Cô tự nhắc mình là do leo cầu thang. Nhưng cô phải siết thật chặt tay vịn bên phải, lồng ngực cảm giác co thắt bất thường. Như thể một gã khổng lổ nào đó đã len vào trong cơ thể cô, giờ đây đang vặn xoắn hai lá phổi của cô bằng nắm tay nung núc thịt của hắn.
Cô hơi cúi xuống, thấy mình đang thở hổn hển.
Rồi khi những chấm trắng bắt đầu xuất hiện trước mắt cô... Ầu ơ, con yêu, trên ngọn cây...
“Nắm lấy tay anh. Đứng vững vào. Giờ thì thở đi. Hít vào bằng miệng, một, hai, ba, bốn, năm. Thở ra bằng mũi. Một... hai... ba... bốn... năm. Bình tĩnh, em yêu. Bình tĩnh.”
Một phút nữa. Có thể là hai, ba, hay mười phút. Cô thấy xấu hổ khi nhận ra toàn thân mình đang run lên không sao kiểm soát được. Người cô
đang vã mồ hôi. Cô có thể cảm thấy những giọt mồ hôi đang đọng trên lông mày, chảy xuống hai má cô. Trong một khoảnh khắc, cô bùng lên ham muốn lao xuống cầu thang và chạy ra cửa. Cô sẽ chạy trốn khỏi hiện trường này. Bỏ chạy và không bao giờ quay lại.
Những ngón tay của Alex đan vào những ngón tay của cô. “Em không phải làm việc này.” Anh nhẹ nhàng nói. “Bất kỳ lúc nào em muốn, D.D. chúng ta có thể rời khỏi chỗ này. Anh sẽ đưa em về nhà.” Câu nói đã có hiệu quả. Giọng nói của anh thật kiên nhẫn, thật thấu hiểu, cô không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nghiến chặt răng và đứng thẳng người dậy. Cô không muốn trở thành con người này. Một phụ nữ yếu đuối, run rẩy, đòi hỏi chồng phải đỡ cả khi leo mấy bậc cầu thang chết dẫm. Cô hít vào thật sâu, đếm đến năm. Rồi thở ra, và ngẩng đầu lên. “Em xin lỗi.” Cô nói ngay, không dám nhìn vào mặt Alex. “Rõ ràng là đúng lúc lên cơn tăng xông.”
“D.D.”
“Tất cả những thứ lộn xộn ở đây chẳng hề tốt cho sức khỏe tẹo nào.” “D.D.”
“Có thể thay vì đặt tên cho cơn đau, em nên buộc nó phải chạy mấy vòng. Như thế sẽ dạy cho nó một bài học.”
“Dừng lại đi.”
“Gì cơ?”
“Đừng có nói dối anh. Nếu em cần nói dối bản thân mình, việc đó vẫn có thể hiểu được. Nhưng đừng nói dối anh. Đây là lần đầu tiên quay lại một hiện trường vụ án kể từ khi em gặp tai nạn. Rằng em đang phải chịu một kiểu cơn hoảng loạn nào đó...”
“Em không hoảng loạn!”
“Một kiểu phản ứng cảm xúc nào đó vô căn cớ. Em đâu có phải mình đồng da sắt, em yêu.” Giọng Alex ngày càng dịu dàng. “Em là con người thật sự. Và con người thật sự sẽ cảm thấy sợ hãi, đau đớn và có lúc này lúc khác. Nó không làm cho em yếu đi. Mà chỉ có nghĩa là em là người.”
“Em không hoảng loạn.” Cô lẩm bẩm, vẫn nhìn ra chỗ khác. Thế rồi, đơn giản là cô cần phải biết. “Con chó có sao không?”
“Đang ở nhà hàng xóm, mà anh nghĩ rằng đây là ngôi nhà thứ hai của nó rồi.”
“Mình con chó phủ đầy máu đúng không? Cách duy nhất để cái vệt này trông to như thế... Bốn chân và bụng của con chó chắc hẳn phải đẫm máu. Từ tấm thảm. Từ việc nằm xuống cạnh cô chủ của nó, và từng chồng, từng chồng da bị lột ra...”
“Chúng ta có thể về nhà, D.D., bất kể lúc nào em muốn.”
“Khi gió thổi.” Cô lẩm bẩm.
“Cái gì thế?”
Cô đơn giản chỉ mỉm cười, ngẩng đầu lên và so vai lại. “Và đứa trẻ sẽ rơi, cái nôi và mọi thứ.”
Cô tiếp tục đi xuống sảnh.
Họ đã để lại hiện trường tương đối nguyên vẹn. Dĩ nhiên thi thể đã được mang đi. Nhưng tấm thảm thấm đẫm máu, chai sâm banh, đôi còng tay lót lông vẫn để nguyên chỗ cũ. Tấm ga giường đỏ máu được vắt tạm lên bức tường trống. D.D. đã từng chứng kiến kỹ thuật này rồi, ga trải giường, quần áo, thậm chí là toàn bộ các phần sàn gỗ đều được treo lên tại hiện trường tội ác ban đầu, giúp cho phép phân tích máu bắn ra dễ thấy hơn. Mặc dù vậy,
cô vẫn phải cố gắng tự trấn tĩnh khi Alex bật sáng ngọn đèn trên đầu, xua tan đi bóng tối dày đặc, làm lộ ra toàn bộ khung cảnh máu me ghê rợn. “Anh đã đề nghị họ để lại hiện trường ban đầu càng nguyên vẹn càng tốt.” Alex nhẹ nhàng lên tiếng. “Cho phép anh có cơ hội nghiên cứu hiện trường theo đúng tình trạng của nó.”
D.D. gật đầu. Vai trái của cô lại bắt đầu đau nhói từ sâu bên trong. “Cũng là chai sâm banh như trước.” Cô nhận xét, quan sát mọi thứ ngoại trừ tấm ga giường đang treo lơ lửng.
“Phil tin rằng kẻ sát nhân mang đến tất cả: chai sâm banh, còng tay và bông hồng.”
“Đạo cụ cho vở diễn của hắn.”
“Hắn muốn màn diễn phải đúng như thế.” Alex nhận định. “Không phải là bất cứ chai rượu nào, hay bất kỳ bông hoa nào. Mà phải là những món đặc trưng này.”
“Đúng kiểu chú trọng nghi lễ.” Cô đã từng nghĩ đến chuyện này. Họ đang xem xét trí tưởng tượng hết sức phong phú của kẻ sát nhân. Lúc này một ý nghĩ khác quay lại với cô, giống như những bóng đen của một giấc mơ. “ViCAP thì sao?” Cô hỏi, ý muốn nói tới Chương trình Nghiên cứu Tội phạm Nguy hiểm, bao gồm cơ sở dữ liệu có thể tìm kiếm được, thu thập đầy đủ những chi tiết thích hợp từ các vụ án hình sự khắp toàn quốc. Các thanh tra có thể sử dụng nó để đối chiếu tội phạm thuộc thẩm quyền của họ với những hành vi tương tự từ các địa phương khác.
“Anh chắc chắn họ sẽ kiểm tra chương trình ấy.”
“Hắn sắp xếp mọi thứ sao cho trông có vẻ lãng mạn.” Cô lẩm bẩm. “Hoa hoét, sâm banh, đồ chơi tình dục. Nhưng tất cả đều để kiểm soát. Hắn,
kẻ kiểm soát mọi thứ.”
Alex không nói gì. Anh len ra phía sau, chiếu chùm ánh sáng cường độ cao hướng ra tiền sảnh. Chùm ánh sáng trắng rực rỡ ngay lập tức chiếu sáng hàng tá vết máu, hầu hết là những dấu chân đẫm máu do con chó chạy tới chạy lui. Tiếp theo anh hướng chùm sáng xuống sàn trong phòng ngủ chính và D.D. lập tức kinh ngạc trước sự tương phản. Một loạt những dấu chân thú dẫn từ giường ngủ cỡ lớn đến cửa ra vào. Rồi một dấu vết nhạt hơn xuất hiện trên mặt sàn gần chiếc bàn đầu giường ngủ bên tay phải, chính là chỗ có máu nhưng tên sát nhân đã cố gắng lau sạch nó đi.
Còn lại... chẳng có gì.
Tại đây, trong căn phòng đóng vai trò như sân khấu trung tâm của một trong những vụ án mạng ghê rợn nhất D.D. từng thấy, gần như không có bằng chứng về máu. Trên sàn không có, trên tường cũng không.
“Nhưng... nhưng...” D.D. thấy mình đang cà lăm. Rồi cô quả quyết hơn: “Không thể nào. Không đời nào anh có thể lột da ai đó mà bản thân anh không bị dây máu khắp người. Không đời nào kẻ sát nhân có thể di chuyển quanh căn phòng này, chứ chưa nói đến chuyện rời khỏi căn nhà, mà không để lại một vệt máu rõ ràng. Ngay cả sau đó nếu hắn có vệ sinh thân thể sạch sẽ bằng giẻ lau thấm đẫm thuốc tẩy, cũng không thể nào gột sạch hết được. Đó là toàn bộ ma thuật trong công việc của anh. Kể cả khi anh có thể không còn nhìn thấy máu bằng mắt thường nữa, nó vẫn vương vấn, vẫn đợi chờ đến khi gặp một chùm đèn cường độ cao hoặc một dung dịch hóa chất thích hợp để kể câu chuyện của mình. Chỗ này...” Cô vẫy tay về phía bề mặt tương đối rộng không dây máu trên sàn gỗ. “... Em đang nhìn vào nó, nhưng không tin nó.”
“Như anh đã nói, cảnh sát điều tra Boston sẽ không phiền nếu ta giúp đỡ trong vụ này.” Alex bước sâu hơn vào trong phòng, chiếc đèn rọi sáng của anh quét theo phương pháp bên phải, bên trái, bên phải. “Chúng ta bắt đầu với ga giường nhé? Anh tin nó đóng vai trò mở đầu câu chuyện.”
Cô gật đầu ngay. Đáp lại tín hiệu bằng tay của anh, cô ngoan ngoãn tắt ngọn đèn trên đầu. Trong bóng tối lờ mờ, dễ dàng tập trung vào ánh đèn cường độ cao của Alex hơn và cách ánh sáng làm nổi bật tấm ga bọc đệm duy nhất có những vệt máu đen ngòm loang lổ như vết mực đổ kinh hoàng, chết chóc.
Bây giờ D.D đã hiểu, các mẫu máu biến đổi tùy thuộc vào tốc độ cú đánh và tính chất xốp của vùng bề mặt. Bộ đồ giường, chẳng hạn như các tấm chăn và đệm, rõ ràng rất mềm và xốp, nghĩa là máu bắn ra đã thấm vào trong thay vì nẩy bật thẳng ra ngoài, hoặc hình thành một mẫu máu bắn tóe hình sao khi va chạm. Thực ra, lúc này trên tấm ga giường trắng muốt đã xuất hiện một dấu máu duy nhất, rất dài, gần như có hình trụ, được chia thành hai nửa nhờ các vạch trắng. Cô cùng Alex bước đến gần hơn, kiểm tra các đường mép bên ngoài của dấu vết.
“Em không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của bụi mịn..D.D. lẩm bẩm. “... Như kiểu sự dội ngược trở lại do khẩu súng tốc độ cao.”
“Nạn nhân không bị bắn. Các mẫu máu cho thấy sự va chạm ở tốc độ thấp.”
Và D.D. biết rằng nó tương đồng với hầu hết các vết đâm. Cô vẫn nhíu mày. “Nhưng không hề thấy máu bắn ra, thậm chí không thấy cả những giọt máu ngẫu nhiên từ chuôi dao hay mép lưỡi dao. Anh giải thích sao về điều đó?”
“Hung thủ không đâm. Nguyên nhân chết còn chưa rõ. Nhưng xét đến sự thiếu vắng các vết thương do tự vệ, động mạch không phun và bắn máu ra ngoài, nạn nhân đã chết trước khi hung thủ bắt đầu lột da cô ta. Anh chỉ là một nhà tội phạm học, không phải nhà nghiên cứu hành vi, nhưng có vẻ như tội ác này chú trọng vào kiểm soát, chứ không phải đau đớn và hành hạ. Thứ chúng ta đang thấy ở đây chỉ đơn thuần là kết quả của công việc sau khi nạn nhân đã chết.”
Ý nghĩ ấy hẳn là làm an lòng cô hơn. Rằng nạn nhân đã chết trước khi lưỡi dao lạnh buốt ấy đâm xuống bên dưới làn da cô ta... Thế nhưng, D.D. thấy mình như càng khiếp sợ hơn. Một kẻ săn mồi bệnh hoạn về mặt tình dục với thôi thúc áp đảo muốn nạn nhân phải đau đớn và phải chịu đựng là một chuyện cô gần như có thể hiểu được. Nhưng... tên này lại chỉ thích lột da nạn nhân để tiêu khiển ư?
“Những khoảng trống kìa?” Lúc này cô thì thầm, đưa tay chỉ hai vết trống giống hệt nhau trên tấm ga giường trắng sạch ở giữa vết máu hình trụ lớn.
Alex lấy ra một cây bút chì. Bằng tay trái, anh bắt đầu vừa chỉ vừa giải thích. “Nhớ này, hành vi xẻ thịt sau khi chết gần như được thực hiện ở phần thân mình và phía trên hai bên đùi. Nếu em nhìn theo vết máu, em có thể thấy vết loang ở phía trên cùng, và những vết hằn ở đây mà anh tin rằng chúng là do các xương bả vai của nạn nhân bị ấn mạnh xuống tấm ga giường để hạn chế hấp thụ máu. Rồi tự định hướng, chúng ta có thể thấy đây là đầu, hai vai, thân người, hai chân. Căn cứ theo đó...”
“Các khoảng trống nằm ở hai bên đùi của nạn nhân.”
“Từ phần dưới hai chân hung thủ, anh nghĩ vậy. Về cơ bản, hắn đang ngồi theo kiểu cưỡi ngựa trên người cô ấy, mặt trước hai bên ống đồng của
hắn ép vào tấm đệm trên cả hai bên đùi nạn nhân, vì thế cho nên phần ga giường ấy không thấm máu.”
“Hắn vô hiệu hóa nạn nhân của hắn.” D.D. lẩm bẩm, cố gắng sắp xếp thành chuỗi các sự kiện trong đầu. “Thế rồi nhiều khả năng nhất là hắn sắp đặt bối cảnh. Rượu sâm banh, còng tay, bông hồng. Hắn muốn mọi thứ xong xuôi trước khi biến thành... hỗn loạn.”
Alex quay lại, quét chùm sáng cường độ cao qua chiếc bàn đầu giường nơi chai sâm banh và các đạo cụ khác đang chờ. Ánh đèn không làm xuất hiện một giọt máu nào.
“Giả định tốt đấy.” Anh nói.
“Tiếp theo... hắn sẽ phải lột truồng nạn nhân. Phơi bày làn da của cô ta.” Chùm sáng chiếu đến phía bên trái giường, lúc này D.D. đã thấy ở đó một đống quần áo tối màu.
“Mấy cái áo len chui đầu màu đen, áo thun Red Sox ngoại cỡ, đồ lót.” Alex thông báo.
“Có vẻ như một bộ pijama thích hợp cho phụ nữ độc thân. Hắn gạt nó sang bên.”
Một cái gật đầu nữa.
“Tiếp theo...” Cô quay về phía giường. “... Hắn trèo lên giường, chọn tư thế cưỡi ngựa trên cơ thể trần truồng của nạn nhân, và bắt đầu... lột da cô ta. Tại sao?”
Alex nhún vai. “Một phần của nghi lễ? Có thể hung thủ thực sự mắc chứng loạn dâm với xác chết, và chính những khoảnh khắc này với xác chết là những thời khắc khiến hắn thỏa mãn. Những mảnh da rất mỏng, căn cứ theo nghiên cứu của pháp y về nạn nhân đầu tiên, chúng đều rất chuẩn xác,
được thực hiện có phương pháp. Theo ước tính của anh ấy, hung thủ đã mất ít nhất một tiếng đồng hồ cho quá trình lột da, nếu không phải hai hoặc ba tiếng.”
“Tinh dịch thì sao?” D.D. hỏi. “Có dấu hiệu tấn công tình dục không?” “Nạn nhân thứ nhất thì không có. Nạn nhân thứ hai thì phải chờ xét nghiệm.”
“Em không hiểu. Hắn tiếp cận và vô hiệu hóa nạn nhân bằng cách nào. Đánh thuốc mê họ à?”
“Vẫn phải chờ sàng lọc chất độc.”
“Tiếp theo... bắt đầu với con dao. Trong ít nhất một tiếng à?” “Với một chút kỹ năng.” Alex bổ sung. “Pháp y gợi ý rằng hoặc hắn là thợ săn hoặc thậm chí có thể là đồ tể. Tuy nhiên dựa trên những nhát cắt mượt và đều đặn, hung thủ của chúng ta có kinh nghiệm đấy.” “Kiểu lưỡi dao như thế nào?”
“Nhiều khả năng nhất là lưỡi dao nhỏ và sắc bén, thậm chí có thể là được thiết kế đặc biệt cho công việc này. Đây là vấn đề khác cần phải cân nhắc. Thường trong những vụ án như thế này, hung thủ cuối cùng sẽ hạ vũ khí xuống. Em biết đấy, nghỉ ngơi một lát, điều chỉnh lại tay nắm, hoặc thậm chí là đặt con dao xuống khi lên hoặc xuống khỏi giường. Một hành động theo phản xạ, thậm chí hắn còn chả nghĩ đến, nhưng để lại vết hằn đẫm máu của lưỡi dao như một bằng chứng bổ sung. Trong trường hợp hung thủ dành nhiều thời gian bên cạnh xác chết tại một hiện trường, thì vết máu này là loại bằng chứng em trông đợi nhất. Ngoại trừ...”
“Hắn không làm thế.”
“Hoặc hắn hoàn toàn nhận thức được, hoàn toàn kiểm soát bản thân, đặt con dao xuống giữa một vết máu khác, một nơi mà hắn nghĩ rằng sẽ không để lại mẫu máu.”
D.D liếc nhìn chồng. “Anh vừa nói hắn nghĩ như thế sẽ không để lại mẫu máu...?”
Alex mỉm cười yếu ớt. Anh quay lại với tấm ga giường đẫm máu trên tường, chùm sáng từ ngọn đèn pin của anh đang chiếu sát vào nó. “Trong kiểu tấn công thế này, nơi nạn nhân bị chảy máu từ rất nhiều vết thương trong khoảng thời gian kéo dài...”
“Đó cũng là một giả định.”
“Em thu được các mẫu máu chồng lên nhau. Khi máu bắt đầu khô, nó sẽ thâm đặc lại, các mép chuyển thành màu vàng do huyết sắc tố đang tách ra khỏi các tiểu cầu. Máu cũ bắt đầu hình thành một lớp bề mặt để máu mới nhỏ giọt lên đó.”
Cô gần như có thể hình dung được điều này. “Có nghĩa là nếu hung thủ đặt con dao đang đẫm máu tươi xuống một vùng máu đang khô, thì có thể để lại một vết hằn trên bề mặt máu cũ.”
“Chính xác đấy.”
“Và trong trường hợp này...”
Gương mặt Alex chỉ cách bề mặt đẫm máu đỏ đã khô cứng này có năm phân. “Anh nghĩ... mình có thể thấy một đường nét. Tuy mờ nhưng nó ở đó. Anh sẽ dự đoán một con dao phi lê, nhưng nói công bằng, đôi khi rất khó biết liệu ta đang thấy thứ ta muốn thấy hay thứ thật sự đang ở đó. Tuy nhiên, chúng ta có thể tinh chỉnh hình ảnh này, tăng độ tương phản bằng
cách sử dụng vài hóa chất khi quay về phòng thí nghiệm. Chắc chắn nó đáng để theo đuổi.”
“Chắc chắn rồi.” Cô đồng tình.
Anh nhíu mày thêm lần nữa, chăm chú nhìn kĩ. Vì muốn tranh luận D.D. cũng làm theo, nhưng không thể nhìn ra được sắc thái của một vết máu bên trong một vết máu. Cố gắng lắm cô cũng chỉ nhận thức được mùi tanh của máu ngày càng nồng. Quá nồng. Tấm ga giường này. Tấm đệm này.
Thế nhưng khi quay người đi, cô không ngửi thấy cái mùi tanh nồng ấy trong không gian còn lại của căn phòng.
Alex nhìn theo hướng cô, một lần nữa quét chùm sáng cường độ cao lên các bức tường và sàn khi họ cân nhắc bước cuối cùng trong quy trình của hung thủ.
“Dọn dẹp.” D.D. lẩm bẩm.
“Nhất định rồi.” Alex đồng tình. “Hắn dọn dẹp.”
Anh di chuyển chùm sáng thành các đường chậm rãi, nhịp nhàng xung quanh phạm vi chiếc giường cỡ lớn, rọi sáng những dấu chân thú, một vết máu to hơn nữa gần cửa phòng ngủ khớp với vết dưới phòng lớn. Con chó Lily, một lần nữa lại nằm xuống.
“Con chó không sủa à?” D.D. hỏi.
“Không phải ai cũng nghe thấy tiếng sủa.”
“Thế nhưng rõ ràng con chó đang đau khổ.” Cô chỉ tất cả những dấu chân thú, tới lui tới lui.
“Đau khổ, nhưng nhỡ nó bối rối thì sao? Hãy nhớ, mặc dù nghe có vẻ lạ lùng, nhưng đây không phải là cuộc tấn công bạo lực. Ít nhất chúng ta
không có bằng chứng cho thấy kẻ sát nhân đột nhập vào nhà và khống chế nạn nhân. Dù xảy ra chuyện gì đi nữa, nó cũng diễn ra rất... nhẹ nhàng. Ngay cả việc cắt xẻ sau khi nạn nhân chết. Chắc hắn đã ngồi lên xác chết ở trên giường. Không có la hét, không có vật lộn, không có dấu hiệu đau khổ nào của nạn nhân thể hiện ra ngoài.”
D.D. rùng mình. Cô không thể kiềm chế được. “Hắn lên kế hoạch.” Cô nói lớn, tập trung trở lại. “Hắn đã thực hiện kế hoạch. Và rồi ..” “Và rồi tự hắn dọn dẹp mọi thứ sau đó.” Alex đáp, rồi nhíu mày. “Đây chính là phần anh không hiểu. Ngay cả khi không phải là một hiện trường lộn xộn, không có chạy trốn, không có rượt đuổi, không có khống chế còn lượng máu chảy từ xác nạn nhân thấm vào tấm đệm... thì hai bàn tay, hai cẳng tay của kẻ sát nhân hẳn phải đẫm máu. Còn chưa nói đến đôi chân hắn từ tư thế ngồi cưỡi ngựa trên xác chết, hai bàn chân hắn... Cái sàn nhà này nên là đối tượng nghiên cứu để tìm bằng chứng vết máu. Nếu trên sàn không hề có những dấu chân đẫm máu, máu bắn tóe ra v.v... vậy thì tối thiểu nhất, vẫn phải có những mẫu vết máu xuất hiện do nỗ lực xóa sạch mọi dấu vết của hung thủ. Nhưng tại sao lại chẳng có gì hết?” D.D. hiểu quan điểm của Alex. Cô có thể đếm được nhiều hơn cả tá dấu chân thú khi con chó chạy tới lui khắp sàn nhà. Và chỉ có thế. “Sau đó, hắn rửa ráy trong phòng tắm à?” D.D. cân nhắc. “Có thể là vòi sen? Anh chắc chắn Phil đã dùng gạc thấm vòi sen và các ống dẫn nước của bồn rửa để tìm dịch thể rồi chứ?”
“Anh chắc chắn Phil làm rồi. Nhưng làm sao kẻ sát nhân vào được trong đó? Khinh công à?” Alex quét chùm sáng từ giường đến ngưỡng cửa phòng tắm chính. Các tấm ván sàn không cho thấy hình ảnh một vết máu nào. Anh cũng chiếu đèn lên cả tay nắm cửa bằng đồng. Cũng không hề có các dịch
thể. Thế rồi để cho triệt để, anh còn quét chùm sáng cường độ cao qua sàn nhà lót vải sơn nứt nẻ, bồn tắm màu trắng quen thuộc, bồn rửa tay rồi bệ xí. Chẳng có gì, chẳng có gì cả, chẳng gì hết.
“Một kiểu rửa ráy đặc biệt chăng?” D.D. nghĩ tiếp. “Hắn cọ rửa không gian này bằng bàn chải đánh răng và thuốc tẩy, làm sạch thật kĩ từng centimet vuông...”
“Có thể, nhưng có khả năng đó không?” Vẻ mặt Alex vẫn hồ nghi. Như Alex từng nói rõ, gần như không thể nào gột sạch hết một trăm phần trăm máu. Do đó, các nhà tội phạm học có thể xây dựng toàn bộ quá trình sử dụng bằng chứng vết máu để tóm các kẻ sát nhân thông minh, biết dùng thuốc tẩy rửa sạch tường nhưng lại quên chốt cửa sổ, hoặc chà sạch máu trên da mình nhưng lại quên làm sạch mặt đồng hồ đeo tay. Kẻ sát nhân chỉ có thể làm sạch những chỗ mình có thể nhìn thấy. Trong khi biết ơn với các công cụ như đèn pin cường độ cao và các hóa chất như luminol, một thanh tra thông minh về căn bản còn phải tiếp cận từng hiện trường bằng đôi mắt của máy X quang.
D.D. giật mình trước ý nghĩ mới mẻ này. “Cùng nghĩ lại chuyện này dưới một góc nhìn khác xem. Chúng ta có một kẻ sát nhân không chỉ vào nhà mà không bị phát hiện, mà còn rời khỏi nhà mà chẳng ai thấy. Ngoại trừ trên đường thoát ra, chắc hẳn vẻ ngoài của hắn xộc xệch lắm, thậm chí là khắp người hắn còn đẫm máu sau công việc cắt xẻ vừa rồi. Hắn đã ngụy trang bằng cách nào?”
Alex nhún vai. “Giải pháp rõ ràng nhất đối với hắn chính là đi tắm sau khi giết người, như em đã gợi ý. Hắn rửa sạch hết tất cả những dấu vết máu, thay quần áo mới, sau đó bước ra khỏi cửa trước, đóng giả như một anh chàng hàng xóm.”
“Trong trường hợp như anh nói, chúng ta sẽ thấy những dấu vết máu dẫn từ giường ngủ đến phòng tắm, đó là còn chưa kể trên sàn phòng tắm, vòi hoa sen, bồn rửa. Tức là... Nếu hắn trần truồng thì sao nào? Chuyện gì xảy ra nếu sau khi khuất phục nạn nhân... trước khi bắt đầu vào sự kiện chính, kẻ sát nhân cởi hết quần áo của hắn ra?”
“Thận trọng đấy.” Alex đáp. “Máu dính trên da dễ gột sạch hơn trên quần áo.”
“Em còn chú ý đến một điều khác, đó là dường như không có bất kỳ chiếc khăn tắm nào bị mất trong phòng tắm của nạn nhân. Có một chiếc khăn mặt trên dây treo khăn mặt, và hai chiếc khăn tắm trên giá. Thế nên nếu hắn tắm rửa ở đó, hắn đã dùng cái gì để lau khô?”
Alex khẽ gật đầu, cân nhắc.
“Có thể...” D.D. nói tiếp:“... Chừng nào kẻ sát nhân có mang theo các đạo cụ cho vụ án mạng, hắn cũng sẽ mang theo bộ đồ làm sạch riêng. Gói ghém mang theo hai chiếc khăn lau, thậm chí có thể mang theo cả thảm chùi chân riêng, đặt ở sàn nhà cạnh giường. Thấy dấu vết ở đây không?” Cô chỉ tay vào một mẫu vết máu cô độc, gần chiếc bàn đầu giường phía bên phải. “Hắn đặt cái thảm chùi chân xuống đây, cởi bỏ quần áo, sau đó trèo lên giường làm điều hắn sẽ làm. Rồi hắn xuống giường đặt chân lên thảm chùi chân, lau sạch người bằng khăn tắm của mình, thay quần áo, thay cả tất và giày. Tiếp theo hắn chỉ cần đơn giản cuộn thảm lại, bỏ khăn tắm đẫm máu, con dao v.v... vào trong cái thảm. Rồi cho tất cả vào một cái túi xách tay, và ung dung ra về. Chắc chắn điều này sẽ giải thích được việc không có bằng chứng máu trong phần còn lại của căn nhà, kể cả phòng tắm.”
“Không chỉ thận trọng thôi đâu...” Alex chữa lại. “... Mà còn thông minh nữa.”
“Có kinh nghiệm.” D.D nhấn mạnh. “Chẳng phải đó là những gì pháp y đã nói sao? Thằng cha này biết rõ hắn đang làm gì. Và hắn hoàn toàn kiểm soát được. Kể từ lúc bắt đầu cho đến tận khi kết thúc. Chúng ta sẽ không tìm được bất kỳ đáp án kỳ diệu nào ở đây đâu.”
Alex bật ngọn đèn cạnh giường lên, tắt đèn pin. “Anh không chắc chắn về việc đây. Cởi bỏ quần áo có thể làm hạn chế nguy cơ xuất hiện bằng chứng dây máu, nhưng nó làm tăng cơ hội kẻ sát nhân bỏ lại tóc, sợi, ADN.”
“Hợp lý.”
“Và vẫn còn một vấn đề nhỏ, đó là hắn phải vô hiệu hóa các nạn nhân bằng cách nào đó. Một khi pháp y tìm hiểu được, chúng ta sẽ có chi tiết khác để theo đuổi.”
Họ rời khỏi phòng ngủ, tiến ra tiền sảnh, tới cầu thang xuống nhà. “Em không muốn bị chấn thương nữa đâu.” D.D. nghe thấy chính mình nói, mắt nhìn chằm chằm cầu thang.
“Anh biết.”
“Em không muốn cảm thấy mình yếu đuối và bất lực thế này. Em muốn được tiếp tục làm việc. Em muốn truy tìm kẻ sát nhân này.” “Em nhớ được gì thêm không?”
“Ý anh là tại sao em lại cố gắng lộn cổ xuống cầu thang? Hay tại sao lại nổ ba phát súng lên tường à?” Cô lắc đầu.
“Tối nay em giúp được nhiều đấy.”
“Không chính thức. Còn chính thức thì em là một nữ thanh tra quay lại hiện trường vụ án, một thân một mình, hẳn là đã nổ súng với lý do chính đáng hoặc không. Với tình hình bây giờ em là đối tượng chịu trách nhiệm
pháp lý trước cơ quan điều tra, cả hai ta đều biết ngay cả nếu cánh tay trái của em có sớm lành lặn một cách kỳ diệu ngày một ngày hai, cơ quan vẫn sẽ không thể cứ đơn giản cấp lại phù hiệu cảnh sát cho em. Em là một câu hỏi chưa được giải đáp, và các cảnh sát ghét điều đó.”
“Em là một câu hỏi chưa được giải đáp.” Alex đồng tình, bước đến bên cô.
“Trời ạ, cảm ơn anh.”
Anh chăm chú nhìn cô. “Nhưng em biết gì không? Em còn là một thứ khác nữa cơ.”
“Nữ thanh tra có tài? Người vợ hoàn hảo? Người mẹ thương con? Được rồi, anh cứ phóng đại lên đi. Melvin đang bắt đầu thực sự khiến em muốn điên, và ngay bây giờ em đang muốn thốt ra cả đống những từ bậy bạ đây.”
“Thực ra anh đang nghĩ nhiều hơn về cách các thanh tra trả lời câu hỏi. Hoặc thực ra là cách anh trả lời những câu hỏi.”
Cô nhìn anh trừng trừng. “Anh là nhà tội phạm học mà.”
“Chính xác. Anh nghiên cứu các hiện trường tội ác. Và em, D.D., vai em, cánh tay em, những chấn thương của em, em chính là một hiện trường tội ác. Thậm chí hơn thế nữa, em chính là hiện trường mà kẻ sát nhân của chúng ta không kiểm soát được.”
CHƯƠNG 5
Đau đớn nghĩa là...
Một cuộc đối thoại. Cha nuôi tôi đã bắt đầu đối thoại khi tôi mười hai tuổi, cố gắng giúp tôi hiểu vô số hình thức và chức năng của sự khó chịu cả thể xác lẫn tâm hồn. Đau đớn nghĩa là... ngắm nhìn người giúp việc của chúng tôi làm vỡ cốc, bà ta dùng nhíp gắp một mảnh thủy tinh găm vào ngón tay cái, miệng xuýt xoa nghe chói cả tai.
Đau đớn nghĩa là... quên mất cách đánh vần từ đốt sống trong bài kiểm tra, cho dù tôi vừa học về nó tối hôm trước. Do đó, tôi đạt chín mươi điểm, mặc dù cha tôi khen là giỏi, nhưng cả hai cha con đều biết tôi chưa đạt yêu cầu.
Đau đớn nghĩa là... cha tôi không biến nó thành vấn đề khoa học của bang. Hay thành một trường hợp khác, một bài luận văn cấp bách, đòi hỏi phải dành hàng giờ nghiên cứu. Mà ông bảo đảm với tôi rằng ông yêu thương tôi và thấy tiếc cho tôi, trong khi tôi dò xét ông chặt chẽ hơn và cố gắng thấu hiểu cả những cảm xúc này. Thương tiếc. Ăn năn. Hối lỗi. Những tình cảm được định nghĩa là hậu quả tất yếu của quá trình đau đớn.
Đau đớn nghĩa là... người bạn thân nhất của tôi kể tôi nghe từng chi tiết về nụ hôn đầu của cô ấy. Ngắm nhìn gương mặt cô ấy bừng sáng, lắng nghe giọng cười khúc khích của cô ấy, tôi tự hỏi liệu mình có lúc nào sẽ cảm thấy như thế. Cha tôi đã phát hiện hai trường hợp chị em gái mắc chứng không
cảm nhận được đau đớn bẩm sinh đã kết hôn và sinh con. Theo lý thuyết, tình trạng của họ không ngăn cản khả năng họ yêu và được yêu. Nó không ngăn cản hy vọng sự bất thường về gen một ngày nào đó sẽ trở lại bình thường.
Nó không ngăn cản bạn mong muốn có một gia đình để yêu thương. Cha nuôi yêu thương tôi. Không phải ngay lập tức. Ông ấy không phải tuýp người đó. Kiểu của ông là tiếp cận có tính toán, có kiểm soát với cuộc sống. Thấu hiểu những thực tế nghiệt ngã mà một đứa con nuôi phải đối mặt, ông đã đầu tư một cách nghiêm túc vào việc nhận nuôi tôi trong tương lai, như cơi nới nhà cửa cùng huy động những nguồn trợ giúp tài chính đáng kể. Rất có thể, ông đã lựa chọn kĩ càng đội ngũ nhân viên đáp ứng các nhu cầu thường ngày của tôi, trong khi tiếp tục nghiên cứu tình trạng của tôi và viết những báo cáo hàn lâm khô khan đến phát sợ.
Tuy nhiên, ông không lường trước được những cơn ác mộng mà tôi trải qua, hoặc không ngờ đứa con gái bé bỏng không thể cảm thấy đau đớn vẫn có thể mơ về nỗi đau một cách hoàn hảo, đêm này qua đêm khác. Ngay từ đầu, ông đã băn khoăn về hiện tượng này, hỏi tôi vô vàn câu hỏi. Rằng tôi nhìn thấy gì? Nghe thấy gì? Cảm thấy gì?
Tôi không trả lời được. Cảm xúc duy nhất của tôi là sợ hãi. Sợ bóng đêm. Sợ bóng tối. Những âm thanh na ná tiếng cười. Những con búp bê. Những cái kéo. Những cái túi ni lông. Những cây bút chì. Có một lần khi tôi nhận ra một cái xẻng đang tựa vào căn nhà kho trong vườn, tôi đã hét toáng lên rồi chạy trốn vào nhà vệ sinh, tự nhốt mình trong đó mấy giờ đồng hồ.
Sấm chớp. Mưa nặng hạt. Lũ mèo đen. Những chiếc chăn bông màu xanh. Một số nỗi sợ hãi của tôi vốn rất bình thường trong vốn từ điển của
tuổi thơ. Một số khác hoàn toàn không hiểu nổi.
Cha nuôi đã tham khảo ý kiến của một nhà trị liệu tâm lý trẻ em. Theo lời khuyên của bà ta, ông đề nghị tôi vẽ ra những cơn ác mộng của mình. Nhưng tôi không thể. Sức tưởng tượng hội họa của tôi chỉ giới hạn ở một vũng nước đen ngòm, ngăn giữa là một đường kẻ vàng mờ nhạt.
Sau này, tôi đã nghe trộm nhà trị liệu nói chuyện với cha nuôi: “Có lẽ tất cả những gì con bé có thể thấy chỉ gói gọn trong căn buồng để đồ đó. Nhưng hãy hiểu rằng ngay cả một đứa trẻ sơ sinh cũng có khả năng nhận ra và phản ứng với nỗi khiếp sợ. Và căn cứ theo những gì đã diễn ra trong căn nhà đó, việc cha con bé làm...”
“Nhưng làm sao con bé biết được?” Cha tôi hỏi dồn. “Và tôi không có ý nói rằng do lúc đó con bé hẵng còn nhỏ. Nhưng nếu bà không thể cảm thấy đau đớn, vậy làm sao bà biết nên sợ hãi cái gì? Chẳng phải căn nguyên của hầu hết nỗi sợ hãi của chúng ta chính là nỗi đau hay sao?”
Nhà trị liệu không có câu trả lời, và tôi cũng vậy.
Khi mười bốn tuổi, tôi đã thôi không còn chờ những cơn ác mộng của mình tự hiện thân ra bằng một cách diệu kỳ nào đấy, thay vào đó tôi bắt đầu nghiên cứu gia đình mình. Tôi tìm đọc rất nhiều những “thành tích” chói lọi của cha đẻ của tôi, Harry Day, dưới những tiêu đề như “Căn nhà kinh hoàng Beverly” và “Cơn cuồng sát của tay thợ mộc điên khùng”. Hóa ra, cha đẻ tôi không chỉ giết chết tám cô gái điếm, mà còn chôn họ ngay dưới xưởng làm việc tư nhân của ông ta, lẫn dưới phòng khách trong nhà của chúng tôi.
Cảnh sát đã đặt giả thuyết có vài phụ nữ sống sót được mấy ngày, thậm chí là mấy tuần, trong khi ông ta tra tấn họ.
Có dạo tôi bị ám ảnh với việc khai quật từng mẩu thông tin mình có thể tìm hiểu về Harry Day. Và không chỉ vì quá khứ của tôi kinh hoàng và gây sốc, mà còn vì nó thật... lạ lùng. Tôi sẽ nhìn trừng trừng những bức ảnh chụp căn nhà đó, một chiếc xe đạp hoen gỉ tựa vào hàng hiên trước nhà, mà... chẳng cảm thấy gì hết.
Ngay cả khi nhìn chằm chằm vào bức ảnh cha đẻ của mình, tôi cũng không thể gợi ra mảy may nét nhận diện nào dù chỉ là cảm giác thoáng qua chút xíu. Tôi không nhìn thấy đôi mắt hay cái mũi của chị tôi. Tôi không hình dung được hai bàn tay to chai sạn hay nghe ra tiếng cười khúc khích yếu ớt và khó hiểu. Harry Day, số nhà 338 phố Bloomfield. Giống như thể đang nhìn chằm chằm vào những khung cảnh tại một phim trường. Tất cả đều thật, nhưng đồng thời cũng đều là tưởng tượng.
Tất nhiên, khi cảnh sát phát hiện ra sở thích giết người của Harry, và đổ xô đến nhà chúng tôi, tôi mới chỉ là đứa trẻ mười một tháng tuổi. Harry được phát hiện đã chết trong bồn tắm, hai bên cổ tay bị rạch, trong khi mẹ tôi được đưa vào bệnh viện tâm thần. Bà đã qua đời trong cảnh cô độc và lúc đó vẫn bị giam giữ hòng đảm bảo an toàn cho chính bà, trong khi chị em tôi chính thức nằm dưới sự giám hộ của bang.
Có những ngày, khi không nhìn trừng trừng gương mặt toe toét của Harry, tôi nghiên cứu về mẹ. Không còn nhiều bức ảnh chụp bà. Tôi biết bà bỏ học trung học. Gia đình bà từng sinh sống ở đâu đó trong vùng Midwest, nhưng rồi bà đã chạy trốn khỏi chính gia đình của mình. Bà tìm đường đến Boston, nơi bà nhận công việc hầu bàn trong một quán ăn tối. Rồi bà bập vào Harry, số phận của bà được định đoạt.
Những bức ảnh duy nhất tôi tìm được là ảnh của cảnh sát chụp bà đang đứng ở hậu cảnh, trong khi các thanh tra lật hết các tấm ván sàn trong nhà
bà lên. Một phụ nữ gầy gò với gương mặt xanh xao, mái tóc nâu dài rối bù và dáng đứng tuyệt vọng.
Tôi cũng không thấy đôi mắt của tôi hay cái mũi của chị tôi khi nhìn bà. Tôi chỉ trông thấy một bóng ma, một phụ nữ đã lầm đường lạc lối trước khi nhận được sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Cuối cùng, những cơn ác mộng của tôi cũng giảm đến đi. Tôi ít lo lắng về việc gia đình đã trao cho tôi một gen ADN lỗi và học hành chăm chỉ hơn để nhận được sự tán dương của cha nuôi. Đáp lại, cha nuôi bắt đầu rút bớt số nhân viên làm việc ngày cuối tuần, đích thân ông giúp đỡ tôi hoàn thành các kế hoạch ở trường, có lúc ông thậm chí còn ngồi bên tôi suốt những đêm tôi không ngủ được, mang lại cho tôi sự trấn an dịu dàng nhờ cách bầu bạn của một người cha trầm mặc suy tư mà vững chãi.
Ông yêu thương tôi. Bất chấp việc ông mang trái tim của một vị học giả, bất chấp cơ thể khiếm khuyết của tôi, chúng tôi vẫn là một gia đình. Thế rồi ông mất. Những cơn ác mộng của tôi lại quay về, dữ dội hơn trước.
Đêm đầu tiên, tôi chỉ còn lại một mình sau đám tang ông. Tôi đã uống quá nhiều rượu vang đỏ. Cuối cùng, tôi nhắm mắt lại...
Và trông thấy cánh cửa phòng chứa đồ bất ngờ mở tung ra. Gợi nhớ lại cái bóng đèn trơ trụi hắt thứ ánh sáng yếu ớt khắp phòng ngủ bé xíu, bừa bộn. Nhìn thấy chị gái mới chập chững biết đi của tôi ở giữa phòng, đang giữ chặt một con gấu bông màu nâu cũ rích, khi cha tôi đang trừng mắt hết nhìn tôi rồi nhìn chị gái tôi.
Rồi nghe thấy tiếng mẹ tôi nói: “Xin anh, Harry, không phải đứa bé đó...” trước khi một lần nữa tôi bị nhấn chìm vào bóng tối u ám.
Đau đớn không phải là thứ bạn nhìn thấy và cảm thấy. Đau đớn là thứ bạn chỉ có thể nghe thấy, khi ở một mình trong bóng tối.
Tôi thức giấc lần đầu tiên ngay sau mười một giờ. Tôi đã ngủ được gần mười phút, thế nhưng trái tim tôi vẫn đang đập điên cuồng, mặt đầm đìa mồ hôi. Tôi nhìn trừng trừng trần nhà 3D trong phòng ngủ, thực hành các bài hít thở sâu tôi từng được dạy nhiều năm về trước.
Thiết bị ru ngủ nằm trong góc phòng ngủ. Tôi đã quên bật nó lên. Tất nhiên rồi.
Tôi xuống khỏi giường, ấn cái nút to đùng trên thiết bị ru ngủ của hãng Brookstone và được đền đáp bằng những thanh âm dịu dàng của tiếng sóng đại dương xô bờ và tiếng chim mòng biển. Quay lại giường ngủ, tôi giữ nguyên tư thế lúc nãy, nằm ngửa như nằm trong quan tài, hai cánh tay để xuôi bên người. Tôi nhắm mắt lại, tập trung vào âm thanh trên bờ biển mặn mòi, đẹp kỳ lạ.
Tám phút, căn cứ theo những con số màu đỏ trên chiếc đồng hồ cạnh giường ngủ. Tôi ngồi bật dậy, tay siết mạnh tấm ga giường trong khi cố nuốt tiếng thét xuống, nhìn trừng trừng vào những cái bóng đen trong phòng ngủ rộng lớn. Ba ngọn đèn ngủ. Những thiết bị có gắn đèn LED hình ô van tỏa ra những biến ánh sáng xanh mềm mại. Tôi ngồi đếm những ngọn đèn năm lần, chờ đợi trái tim tôi sẽ trở lại nhịp đập bình thường, hơi thở của tôi sẽ chậm lại. Nhưng rồi tôi bỏ cuộc, với tay bật ngọn đèn bên giường ngủ.
Tôi có một phòng ngủ tuyệt đẹp rộng mênh mông. Đắt đỏ. Thảm trong phòng được dệt bằng thứ len mềm mại nhất. Theo thiết kế căn phòng chỉ sử
dụng các loại lụa sành điệu nhất, bao gồm đệm trải giường và các rèm trang trí cửa sổ khâu tay, tất cả đều mang sắc màu xanh da trời mềm mại, màu kem sang trọng và màu lục xám.
Một ốc đảo dễ chịu cho cả cảm xúc lẫn mắt nhìn. Một lời nhắc về sự hào phóng của cha nuôi và thành công liên tiếp của cá nhân tôi. Tuy nhiên, đêm nay chúng không có tác dụng với tôi. Và đến mười một rưỡi tôi biết tiếp theo mình nên làm gì.
Bởi vì cho dù tôi có là sản phẩm của quá trình nuôi dạy trí tuệ tốt đẹp nhất, cả về phương diện con người lẫn trường hợp nghiên cứu cụ thể, cả khi là bác sĩ lẫn bệnh nhân, thì tôi vẫn là một thành viên của loài người. Và nhân loại là một đống hỗn độn, nơi mà việc hiểu rằng chuyện nọ chuyện kia là đúng đắn không nhất thiết sẽ ngăn cản bạn không làm điều sai trái.
Tôi đi tắm rồi diện chân váy bút chì màu đen, đôi bốt da màu đen dài đến gối và thậm chí chẳng cần suy nghĩ, chiếc áo màu hồng tía ưa thích của chị tôi. Tôi trang điểm gương mặt, buông xõa mái tóc nâu và đeo thêm chiếc nhẫn vàng trơn lên ngón đeo nhẫn tay trái. Nhiều năm trước tôi được biết rằng đó là chìa khóa thành công, khi xuất hiện với dáng điệu như thế bạn cũng đã kết hôn giống như các đối tượng. Nó làm giảm đi nỗi sợ hãi những tình huống khó khăn sắp tới của họ, trong khi làm tăng thêm cảm giác tội lỗi chung giữa hai bên. Bạn chẳng có gì hơn đối tượng, do đó phải trở thành một mục tiêu hấp dẫn.
Còn mười phút nữa là đến nửa đêm. Tôi chụp lấy hộp đồ nghề bằng nhựa luôn giấu phía sau ngăn kéo dưới tủ buồng tắm. Nhét cái hộp vào chiếc túi xám. Sau đó tôi ra khỏi nhà, lái xe tiến về sân bay Logan Boston để tới điểm đến lựa chọn từ trước, bên cảng Hyatt Boston.
Sau nửa đêm của thứ Hai, hầu hết các quán bar đều chìm trong không khí tĩnh lặng, ngay cả ở một thành phố lớn. Tuy nhiên, các khách sạn sân bay tiếp tục hoạt động trong khoảng chân không vô tận. Người người thức dậy, người người đi ngủ, theo rất nhiều lịch khác nhau, giờ giấc thực tế đã không còn ý nghĩa. Bạn luôn có thể thấy người ta uống rượu tại một quán bar ở sân bay.
Tôi chọn một bàn gần các ô cửa sổ nhìn ra cảnh đường chân trời Boston đẹp như truyền thuyết của bến cảng Hyatt. Ở dưới là những vùng nước bên cảng tối om, ở trên là những ánh đèn thành phố lấp lánh. Tôi gọi một ly Cosmopolitan, có nồng độ cồn rất mạnh, trong khi vẫn có chất nữ tính thích hợp. Sau đó tôi bắt tay vào việc.
Tôi đếm được tám người ngồi trong quán bar. Một cặp đôi, và sáu người đi một mình. Trong số này, có hai quý ông cao tuổi hơn, một người rõ ràng là người châu Âu, đang chìm sâu vào ly rượu mạch nha duy nhất, và một người châu Á. Tôi không thèm đếm xỉa đến họ như sự phản ánh thái độ thiếu quan tâm của chính tôi, không liên quan đến thái độ của họ.
Hai anh chàng cuối quán bar thu hút sự chú ý của tôi lâu nhất. Cả hai đều mặc comple xanh, trang phục gọn gàng, tóc ngắn sẫm màu. Tôi đoán là người vùng Midwest. Chàng trung niên trông lại trẻ tuổi hơn. Chàng bên phải to lớn hơn, nam tính hơn, rõ ràng đang rất thoải mái với bản thân và những người xung quanh. Tôi mạnh dạn dự đoán họ là dân kinh doanh. Kiểu người thích nghi với cuộc sống rong ruổi đây đó, tính hướng ngoại, tràn đầy năng lượng đến nỗi họ không ngại khi mỗi ngày đến một thành phố mới, đủ thông minh để phát triển một hệ thống tối đa hóa việc di chuyển hàng không, trong khi giảm thiểu những bất lợi của nó.
Tôi nhấp một ngụm martini trái cây, cảm thấy miệng ly cứng cạ vào răng và lưỡi. Ánh mắt tôi lơ đãng chạm lưng anh ta, nấn ná ở đấy. Mười lăm phút sau, anh ta xuất hiện bên cạnh bàn tôi, hai má đỏ bừng, đôi mắt lấp lánh. Do rượu? Do hồi hộp? Điều ấy có quan trọng không nhỉ? Tôi thấy ánh mắt anh ta du ngoạn lên bàn tay trái của tôi, để ý thấy cái nhẫn cũng tương xứng với cái nhẫn trên tay mình. Hai người lớn đủ chín chắn, cùng có những nhu cầu chốc lát như nhau, những rào cản dài hạn tương đồng. Anh ta nở nụ cười, ngỏ ý gọi đồ uống cho tôi. Đáp lại, tôi mời anh ta ngồi xuống chiếc ghế trống trước mặt mình.
Anh ta quay về phía quầy bar, bề ngoài là gọi đồ uống, trong khi nhiều khả năng nhất là bảo anh bạn đồng hành đừng đợi mình. Người bạn kia cười toét miệng, rồi tháo lui.
Anh chàng nhân viên kinh doanh quay lại, tự giới thiệu tên mình là Neil, bày tỏ lòng ngưỡng mộ chiếc áo len dài tay của tôi, màu đẹp, sau đó chúng tôi theo đà nói chuyện. Anh ta hỏi tôi, rồi đến tôi hỏi anh ta. Tất cả đều được trả lời dễ dàng, đa phần có lẽ là dối trá. Nhưng vẫn đủ xã giao và được thốt ra rất duyên. Chỉ là tỏ ra cho hợp với bối cảnh, một ly cosmo thứ ba cho tôi, ly whiskey thứ tư, thứ năm hay thứ sáu cho anh ta. Thế rồi cũng đến cái giây phút tinh tế ấy, khi tôi ngắm nhìn anh ta liếm môi dưới, dự tính hành động tiếp theo của mình.
Tôi không thích khiến nam giới cảm thấy mình quá dễ dãi. Chẳng cần phải viện đến những tiếng cười khúc khích lấy lòng hay những đụng chạm gợi tình, tôi có những tiêu chuẩn của riêng mình. Anh chàng này phải tìm đến với tôi. Anh ta phải phấn đấu vì điều đó.
Rồi cuối cùng, thật xứng đáng là một chuyên gia chào hàng chuyên nghiệp, anh ta chủ động ngỏ lời. Rằng tôi có thích đến một nơi nào đó yên tĩnh hơn không? Có thể là tiếp tục cuộc nói chuyện đôi bên một cách riêng tư hơn?
Thay vì trả lời, tôi cầm túi xách lên và đứng dậy. Nụ cười của anh ta rạng rỡ hơn, khi anh ta nhận ra chuyện gì đang thực sự diễn ra, một phụ nữ xa lạ trong quán bar đang thực sự nhận lời anh ta. Thề có Chúa, cô ấy cả khi đứng lên hay ngồi xuống cũng đều xinh đẹp, và làm ơn, ôi làm ơn, làm ơn hãy để cô ấy mặc quần lót ren đen dưới chiếc váy bó khít kia...
Tôi theo anh ta về phòng, không bao giờ để lộ ra chuyện tôi chẳng hề có phòng riêng, vì vào ngày này và thời đại này, thuê phòng đều đòi hỏi giấy tờ tùy thân có ảnh, hơn nữa đây không phải là những buổi tối mà tôi muốn bị dây dưa về sau.
Một khi đã vào trong phòng, tất cả đều thẳng thắn. Chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì lạ thường. Điều này luôn làm tôi ngạc nhiên. Tất cả những người đàn ông này, họ dám vượt qua những rào cản hôn nhân, rồi dính líu vào những hành động tình dục cũ rích từ bao đời. Một chuỗi diễn xuất cố định cho vai của họ à? Hay có thể họ chẳng đòi hỏi quá nhiều màn tạp kỹ như họ tưởng. Ngay cả với bạn tình mới, họ theo bản năng vẫn tìm kiếm cách thức quen thuộc khiến mình thoải mái nhất.
Đề nghị của tôi: Không tắt đèn.
Anh ta thích thế. Hầu hết đàn ông đều thế. Rốt cuộc, đàn ông yêu bằng mắt.
Tôi để mặc anh ta cởi đôi bốt da cao đến đầu gối của tôi. Tháo cúc chiếc váy bó để tìm chiếc quần lót ren màu đen. Rồi những ngón tay tôi gỡ móc
"""