" Đẹp Là Một Nỗi Đau - Eka Kurniawan & Nguyễn Thái Hà (dịch )& Dương Kim Thoa (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đẹp Là Một Nỗi Đau - Eka Kurniawan & Nguyễn Thái Hà (dịch )& Dương Kim Thoa (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo ĐẸP LÀ MỘT NỖI ĐAU Tác giả: Eka Kurniawan Người dịch: Dương Kim Thoa – Nguyễn Thái Hà Hiệu đính: Trần Tiễn Cao Đăng Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: Hội nhà văn 01-2020 —★— ebook©vctvegroup Một phụ nữ, chết đã hai mươi mốt năm, sống lại. Hoàn toàn bằng xương bằng thịt, trở lại cõi đời từ dưới nấm mồ. Ở thế giới nào khác, đây có thể là chuyện hoang đường, quỷ dị, nhưng trong thế giới của Đẹp là một nỗi đau thì không. Và, đến cả cái đẹp truyền kiếp của những phụ nữ trong gia đình Dewi Ayu dường như cũng vừa hoang đường quỷ dị vừa bình thường, hợp lẽ. Qua bao biến động và thăng trầm lịch sử của Indonesia, từ thời thuộc địa Hà Lan cho tới Thế chiến thứ hai với sự hiện diện bạo tàn của phát xít Nhật, rồi thời độc lập với cuộc xung đột một mất một còn, những người đàn bà đó, dẫu có làm gì, dẫu được xã hội gọi là gì, vẫn luôn là họ, những phụ nữ đẹp cả bên ngoài lẫn bên trong, để rồi đều được số phận đáp lại bằng một cách mà họ không chờ đợi. Nếu sắc đẹp là một trong những đặc tính vĩnh hằng của gia tộc này và có lẽ của cả Halimunda, quê nhà họ, thì nỗi đau cũng là một đặc tính vĩnh hằng. Đẹp là một nỗi đau, tiểu thuyết đầu tay của Eka Kurniawan, viết khi tác giả chưa đầy ba mươi tuổi, là một tác phẩm đẹp, đau, thực sự khó quên. Sau khi lau chùi vũ khí, sửa chữa mũ mãng, đặt cho ngựa và cho mình một cái biệt hiệu khá oai, chàng thấy còn một việc nữa là phải tìm một tình nương, vì một trang hiệp sĩ giang hồ không có người yêu ví như cây không lá không quả, như xác không hồn. - Miguel de Cervantes, Don Quijote Chương 1 -------------- Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm. Một thằng bé chăn cừu, bừng tỉnh sau giấc ngủ ngày dưới gốc cây đại, đã tè cả ra quần và hét toáng lên, rồi cùng với bốn con cừu chạy tán loạn giữa những tấm bia mộ bằng gỗ như thể người ta vừa ném một con hổ vào giữa chúng. Mọi chuyện bắt đầu từ tiếng động phát ra từ ngôi mộ cũ có tấm bia không tên ngập trong cỏ dại cao tới gối nhưng ai cũng biết đó là mộ của bà Dewi Ayu. Bà qua đời ở tuổi năm mươi hai và sống lại sau khi chết hai mươi mốt năm, và từ thời điểm đó trở đi không ai biết làm thế nào để tính chính xác tuổi của bà. Nghe thằng bé chăn cừu kể lại chuyện xảy ra, người trong xóm liền đổ tới chỗ ngôi mộ. Cuốn lại mép xà rông, bế theo con cái, ôm khư khư cán chổi, lấm bùn ngoài ruộng, họ tụ tập sau mấy bụi anh đào, rặng dầu mè và trong các vườn chuối gần đó. Không ai dám lại gần, họ chỉ lắng nghe tiếng ầm ào phát ra từ ngôi mộ cũ như thể đang túm tụm quanh người bán thuốc rong chào hàng ngoài chợ mỗi sáng thứ Hai. Tất thảy đám đông đều thích thú với cảnh tượng đáng sợ này, không hề bận tâm rằng giả như họ chỉ có một mình thì một nỗi kinh hoàng như thế chắc hẳn đã khiến họ chết khiếp rồi. Họ thậm chí còn chờ đợi một điều kỳ lạ nào đó, chứ không phải mỗi ngôi mộ cũ ồn ào, bởi người đàn bà nằm dưới ba thước đất đó từng là gái điếm cho người Nhật trong chiến tranh và đức kyai cũng luôn nói rằng, những người có tội lỗi ô nhục chắc chắn sẽ bị trừng phạt dưới mồ. Chính bởi thế mà âm thanh ồn ào đó dứt khoát là tiếng roi quất của một thiên thần đang đày đọa, nhưng họ dần dà thấy chán và hy vọng có điều kỳ diệu nho nhỏ nào khác nữa. Nhưng khi điều đó xảy ra, nó đến theo cách kỳ khôi nhất. Ngôi mộ rung lắc và rạn nứt, mặt đất bùng nổ tựa như bung ra từ sâu bên dưới, gây ra cơn địa chấn nhỏ và một cơn dông khiến cỏ giả và bia mộ bay ràn rạt, bên dưới làn mưa bụi đất như cả một tấm màn dày đó, xuất hiện hình dáng một người đàn bà lớn tuổi đứng dậy trông bực bội và cứng nhắc, thân thể vẫn bọc trong vải liệm như thể bà mới được chôn đêm trước thôi. Lúc này mọi người đều hoảng loạn chạy tứ tán, thậm chí còn hỗn loạn hơn cả bầy cừu, tiếng la hét của họ dội vang vào những dãy đồi ở phía xa. Một người đàn bà quẳng đứa bé con mình vào bụi cây còn bố nó trốn biệt sau thân cây chuối. Hai người đàn ông lao xuống mương, một số người lăn ra bất tỉnh bên đường trong khi một số người khác nữa chạy một mạch không ngừng mười lăm cây số. Chứng kiến tất cả những điều này, bà Dewi Ayu chỉ ho vài tiếng rồi hắng giọng, khoan khoái thấy mình đang giữa bãi tha ma. Bà cũng gỡ bớt nút thắt cao nhất của tấm lót bộ vải liệm, rồi nới lỏng bớt hai nút thấp nhất để hai chân có thể bước đi. Mái tóc bà đã dài ra một cách kỳ lạ, thế nên khi bà giũ tóc ra khỏi tấm vải hoa quấn quanh, nó xõa ra bồng bềnh trong gió chiều, quét lên mặt đất và óng ánh như lớp địa y đen dưới lòng sông. Tuy đã có nếp nhăn nhưng gương mặt bà vẫn trắng sáng, đôi mắt vẫn linh hoạt chăm chú nhìn đám người đứng xem đang bỏ chạy khỏi chỗ nấp phía sau bờ bụi, một nửa số họ chạy đi, số còn lại sắp ngất xỉu. Bà phàn nàn, không phải riêng với người nào, rằng người ta thật ác độc khi đã chôn sống bà. Điều đầu tiên bà nghĩ tới là đứa con nhỏ của bà, tất nhiên bây giờ nó không còn là đứa trẻ nữa rồi. Hai mươi mốt năm trước, bà đã chết mười hai ngày sau khi sinh hạ một bé gái hình hài gớm ghiếc, nó xấu tới mức bà đỡ khi đó còn không chắc nó có thực sự là một đứa trẻ không nữa, vì cái lỗ nơi nó chui ra và cái lỗ để thải phân chỉ cách nhau có hai xăng ti mét thôi. Nhưng rồi đứa trẻ này oằn mình vặn vẹo và mỉm cười, rốt cuộc thì bà đỡ cũng tin rằng nó thực sự là người chứ không phải phân và nói với mẹ nó, bấy giờ đang nằm mệt lử trên giường và không có vẻ gì khao khát được nhìn thấy con mình, rằng đứa bé đã chào đời, khỏe mạnh và có vẻ dễ gần. “Là con gái phải không?” Dewi Ayu hỏi. “Phải,” bà đỡ đáp, “giống như ba đứa trẻ ra đời trước nó vậy.” “Bốn đứa con gái, đứa nào cũng đẹp,” Dewi Ayu nói với giọng bực bội. “Lẽ ra tôi nên tự mở một nhà chứa mới phải. Nói cho tôi biết con bé này đẹp thế nào đi?” Đứa trẻ được cuốn chặt trong lớp tã bắt đầu oằn mình khóc trong vòng tay bà đỡ. Một người đàn bà đi ra đi vào căn phòng, vơ đống quần áo bẩn dính đầy máu mang đi, vứt bỏ nhau thai và suốt một hồi bà mụ không trả lời vì bà không sao có thể nói đứa trẻ trông giống đống phân đen sì này là xinh đẹp được. Cố tình phớt lờ câu hỏi, bà nói, “Cô đã lớn tuổi rồi, nên tôi e cô không đủ sữa nuôi con đâu.” “Đúng vậy, tôi đã bị ba đứa trước vắt kiệt rồi.” “Và hàng trăm thằng đàn ông nữa.” “Một trăm bảy mươi hai thằng. Người già nhất đã chín mươi, đứa nhỏ nhất mới mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó. Tôi nhớ tất cả bọn họ.” Đứa bé lại khóc. Bà đỡ nói bà phải đi tìm sữa mẹ cho nó. Nếu không có, bà sẽ phải tìm sữa bò hoặc sữa chó, hoặc thậm chí là sữa chuột. Vâng, bà đi đi, Dewi nói. “Tội nghiệp bé gái không may,” bà đỡ nói, liếc nhìn gương mặt tội nghiệp của nó. Bà thậm chí không miêu tả được nó, nhưng bà nghĩ nó giống như con quái vật đáng nguyền rủa từ địa ngục vậy. Toàn thân nó đen thui như bị thiêu sống, hình dạng kỳ quái và không thể nhận diện được. Chẳng hạn như bà không chắc liệu cái mũi của nó có phải là mũi không nữa, vì nó trông giống một ổ cắm điện hơn bất cứ cái mũi nào bà từng thấy trong đời. Cái miệng của nó khiến bà liên tưởng tới khe nhét tiền của con lợn đất, đôi tai thì hệt như hai quai nắm của chiếc nồi. Bà chắc rằng không có sinh vật nào trên quả đất này gớm ghiếc hơn đứa trẻ khốn khổ này, và nếu bà là Chúa, có thể bà sẽ giết chết nó ngay thay vì để nó sống; thế giới sẽ ngược đãi con bé không thương tiếc. “Tội nghiệp đứa trẻ,” bà đỡ lại nói lần nữa trước khi đi tìm ai có sữa đặng xin cho nó. “Phải, tội nghiệp đứa trẻ,” Dewi Ayu nói, trở mình trên giường. “Ta cũng đã làm đủ cách để cố giết mày. Đáng lẽ ta nên nuốt một quả lựu đạn cho nó nổ tung trong bụng mình mới phải. Ôi đứa con khốn khổ - giống như những kẻ bất lương, người khốn khổ cũng đâu dễ chết.” Thoạt đầu bà đỡ cố giấu không cho các bà hàng xóm tới xem mặt đứa bé. Nhưng khi bà nói cần sữa cho đứa trẻ, họ xô nhau vào xem nó vì, với những người quen biết Dewi Ayu, được ngắm nhìn những cô con gái bé bỏng xinh xắn của bà luôn là niềm vui. Bà đỡ không ngăn nổi đám người xông vào cũng chẳng giữ được tấm vải che mặt đứa bé, nhưng khi họ đã trông thấy nó và hét lên khiếp đảm chưa từng thấy, bà đỡ mỉm cười nhắc lại với họ rằng bà đã cố hết sức để ngăn không cho họ nhìn thấy diện mạo khủng khiếp đó. Sau con khiếp đảm đó, khi bà đỡ vội vã đi rồi, họ đứng lại giây lát, vẻ mặt đờ đẫn như những kẻ ngốc vừa bị xóa sạch ký ức. “Nên giết ngay nó đi,” một bà nói, đây là người đầu tiên thoát khỏi cơn mất trí bất ngờ. “Tôi cũng thử rồi,” Dewi Ayu nói khi bước ra, trên người chỉ độc chiếc váy ngủ nhăn nhúm và một mảnh vải thắt ngang eo. Tóc bà rối bù, hệt như người lảo đảo bước ra từ một cuộc đấu bò. Một người nhìn bà thương hại. “Nó xinh đẹp, phải không?” Dewi Ayu hỏi. “Ừm, phải.” “Không có tai họa nào kinh khủng hơn là sinh ra đứa con gái xinh đẹp trong một thế giới của những gã đàn ông dâm dục như bọn chó đang động cỡn.” Không ai trả lời bà, họ chỉ nhìn bà cảm thông, biết rằng họ đang nói dối. Rosinah, cô gái câm người miền núi đã phục vụ bà Dewi Ayu nhiều năm qua, dẫn bà vào phòng tắm, ở đó cô đã chuẩn bị sẵn nước nóng trong bồn. Dewi Ayu ngâm mình trong xà phòng lưu huỳnh thơm nức, cô gái câm giúp bà gội đầu bằng dầu lô hội. Chỉ có cô gái câm dường như không bối rối trước mọi chuyện, mặc dù chắc chắn cô đã biết chuyện đứa bé gái gớm ghiếc, vì không ai khác ngoài Rosinah là người đã ở ngay sát bên bà đỡ trong lúc bà làm việc. Cô chà lưng cho bà chủ bằng đá bọt, quấn khăn lên người bà và dọn dẹp nhà tắm khi Dewi Ayu bước ra ngoài. Một người cố xua tan không khí ảm đạm nói với Dewi Ayu, “Cô cần đặt cho con bé một cái tên hay.” “À,” Dewi Ayu nói. “Tên nó là Đẹp.” “Ô!” mọi người kêu lên, bối rối tìm cách khuyên can bà. “Thế còn tên Nỗi Đau thì sao?” “Vì Chúa, xin đừng đặt tên đó.” “Thôi nào, tên con bé là Đẹp.” Họ bất lực nhìn theo khi Dewi Ayu quay trở lại phòng bà để mặc đồ. Họ chỉ còn biết nhìn nhau, buồn bã hình dung cảnh một cô gái trẻ đen như nhọ nồi với cái ổ cắm điện chình ình giữa mặt bị gọi bằng cái tên Đẹp. Đúng là một sự sỉ nhục. Tuy nhiên thực sự là trước đó Dewi Ayu đã cố tìm cách giết chết đứa bé khi bà nhận ra rằng tuy đã sống trọn nửa thế kỷ, bà vẫn lại có thai lần nữa. Cũng như những đứa con khác của bà, bà không biết cha nó là ai, nhưng không giống những đứa kia, bà hoàn toàn không mong đứa bé này tồn tại. Vậy là bà uống đến năm viên paracetamol cực mạnh lấy từ một bác sĩ trong làng, tống chúng vào ruột bằng nửa lít nước ngọt, chừng đó gần như cũng đủ để giết chết bà rồi nhưng hóa ra vẫn chưa đủ để giết chết đứa bé. Nghĩ tới cách khác, bà liền gọi một bà đỡ chuyên phá thai tới lôi nó ra khỏi bụng bà bằng cách chọc một que củi nhỏ vào bụng. Bà bị chảy máu rất nhiều suốt hai ngày hai đêm và miếng củi trôi ra ngoài thành nhiều mảnh nhỏ nhưng đứa bé vẫn tiếp tục lớn. Bà đã thử tới sáu cách khác nhau để đánh bại nó nhưng tất cả đều vô vọng, rốt cuộc bà đầu hàng và than thở: “Đứa con này thực là ương ngạnh quá, rõ ràng nó đã đánh bại mẹ nó trong cuộc chiến này.” Vậy là bà để mặc cái bụng cứ lớn dần, lớn dần, tổ chức lễ selamatan lúc thai được bảy tháng và để cho nó được chào đời bất luận bà không muốn nhìn nó. Trước đó bà cũng đã sinh ba đứa con gái và cả ba đứa đều tuyệt đẹp, giống hệt nhau như chị em sinh ba. Bà đã phát chán những đứa con như thế, những đứa mà theo bà chẳng khác nào mấy con ma-nơ-canh trưng bày trước cửa hàng, thế nên bà không muốn nhìn đứa con út, chắc chắn là nó cũng sẽ chẳng khác gì so với ba cô chị. Nhưng bà đã nhầm, và không hề biết cô con út của bà gớm ghiếc tới mức nào. Ngay cả khi các bà hàng xóm kín đáo thì thào rằng đứa bé này giống như sản phẩm phối giống ngẫu nhiên giữa một con khỉ với một con cóc và một con kỳ đà, bà cũng không nghĩ họ nói về con mình. Và khi họ nói rằng đêm trước đám chó hoang cứ tru lên trong rừng và lũ cú bay táo tác tìm chỗ ngủ, bà cũng không mảy may nghĩ đó là những điềm gở. Sau khi mặc lại quần áo, bà nằm xuống, chợt thấy mọi việc sao mệt mỏi quá, sinh tới bốn đứa con và sống đằng đẵng hơn nửa thế kỷ. Và rồi bà buồn bã nhận ra rằng nếu đứa bé này đã không muốn chết thì có lẽ mẹ nó nên chết đi, để không bao giờ phải trông thấy nó lớn lên thành thiếu nữ. Bà nhổm dậy, loạng choạng bước tới bậc cửa, ngó ra các bà hàng xóm vẫn đang túm tụm bàn tán về đứa bé. Rosinah từ nhà tắm đi ra đứng cạnh Dewi Ayu, linh cảm như bà chủ chuẩn bị yêu cầu cô điều gì. “Đi mua cho ta một tấm vải liệm,” Dewi Ayu nói. “Ta đã sinh ra bốn đứa con gái cho cái thế giới đáng nguyền rủa này rồi. Giờ đã đến lúc làm đám ma cho ta.” Mấy người đàn bà hét lên, ngơ ngác trố mắt nhìn Dewi Ayu. Sinh ra một đứa con gớm ghiếc như vậy đã là sỉ nhục lắm rồi, nhưng từ bỏ nó theo cách ấy còn đáng sỉ nhục hơn. Nhưng họ không nói ra điều đó, chỉ cố khuyên giải bà đừng có chết ngu ngốc như vậy, rằng có những người còn sống thọ tới hơn trăm tuổi, rằng Dewi Ayu vẫn còn quá trẻ để chết. “Nếu tôi sống tới trăm tuổi, tôi sẽ đẻ ra tám đứa con,” bà nói với vẻ điềm tĩnh thận trọng. “Như vậy là quá nhiều.” Rosinah đi mua về cho Dewi Ayu một tấm vải xô màu trắng, bà quấn lên người ngay lập tức - dù vậy nó cũng không đủ để khiến bà chết ngay tức khắc. Và thế là, trong lúc bà đỡ chạy khắp xung quanh tìm một người đàn bà nào đó cũng đang cho con bú (dù chuyện này vô vọng và rốt cuộc bà phải cho đứa bé uống nước vo gạo), Dewi Ayu nằm bình thản trên giường, vải liệm quấn quanh người, chờ thần chết tới mang bà đi, một cách kiên nhẫn lạ lùng. Khi thời gian phải dùng nước vo gạo qua đi và Rosinah cho đứa trẻ uống sữa bò (ở cửa hàng người ta gọi là “Sữa Gấu”), Dewi Ayu vẫn nằm trên giường, không cho ai mang đứa trẻ tên Đẹp vào phòng bà. Nhưng câu chuyện về đứa bé gớm ghiếc cùng người mẹ quấn vải liệm mau chóng loang ra như bệnh dịch, lôi kéo những người không chỉ ở những vùng lân cận mà cả ở những làng xa xôi nhất trong huyện tới để xem cái được người ta mô tả như là sự giáng thế của một đấng tiên tri, người ta so sánh tiếng tru của lũ chó hoang với ngôi sao được Ba Vua nhìn thấy khi Chúa Jesus giáng sinh và so sánh người mẹ quấn vải liệm lên người với đức mẹ Mary kiệt sức - một kiểu ví von khó mà chấp nhận được. Với vẻ khiếp hãi của bé gái vuốt ve hổ con trong vườn thú, những người đến thăm đứng tạo dáng chụp hình chung với đứa bé gớm ghiếc cho một tay phó nháy dạo. Họ làm việc này sau khi đã làm tương tự với Dewi Ayu lúc này vẫn đang nằm yên trong sự thanh thản bí ẩn của bà, không bực bội vì sự ồn ào tàn nhẫn ấy. Một số người bị bệnh nặng hoặc bệnh hiểm nghèo cũng đến với hy vọng chạm được vào đứa bé, tuy nhiên Rosinah ngay lập tức cấm họ làm vậy vì cô sợ các loại vi khuẩn sẽ lây sang đứa trẻ, thay vào đó, cô đã chuẩn bị sẵn những thùng nước đã dùng để tắm cho Đẹp. Có những người khác lại đến với hy vọng lấy thêm chút may mắn tại bàn cá cược hoặc biết được cách làm ăn sinh lời. Với tất cả những người này, cô gái câm Rosinah, nay đã thốt nhiên trở thành bảo mẫu của đứa bé, đã chuẩn bị hòm công đức và chẳng mấy chốc các hòm này đầy ắp những tờ rupiah của khách thập phương. Cô gái câm đã khôn ngoan lường trước khả năng rồi thì Dewi Ayu cũng sẽ chết, cô làm như vậy để kiếm thêm chút tiền từ cơ hội hiếm hoi này, để cô không phải lo về chuyện mua Sữa Gấu hay mai kia chỉ còn lại cô với Đẹp trong nhà, vì ba cô chị lớn của Đẹp có thể sẽ chẳng bao giờ xuất hiện ở đó nữa. Nhưng sự ồn ào đó mau chóng chấm dứt khi cảnh sát tới cùng một vị kyai, người này coi toàn bộ vụ này là một trò dị giáo. Vị kyai bắt đầu nổi xung ra lệnh Dewi Ayu phải dừng ngay hành vi đáng hổ thẹn của bà, thậm chí yêu cầu bà phải tháo bỏ tấm vải liệm trên người. “Ông đang yêu cầu một cô gái điếm cởi quần áo đấy,” Dewi Ayu khinh bỉ nói, “vậy nên tốt hơn ông phải có tiền để trả tôi.” Vị kyai mau chóng cầu nguyện ơn trên tha thứ, quay người bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Một lần nữa chỉ còn duy nhất một người ở lại là cô gái trẻ Rosinah, một người chưa bao giờ thấy phiền lòng vì sự điên rồ của Dewi Ayu bất luận ở dạng nào, và mọi việc càng cho thấy rõ ràng duy chỉ cô gái ấy là người thực sự hiểu người đàn bà đó. Từ khá lâu trước khi tìm cách loại bỏ đứa bé trong bụng, Dewi Ayu đã bảo bà chán ngấy chuyện có con rồi, và thế là Rosinah hiểu bà đang mang bầu. Nếu Dewi Ayu nói chuyện này với các bà hàng xóm, những người mà sở thích buôn chuyện ăn đứt cả thói quen của những con chó hay tru tréo, họ nhếch mép cười khinh thị và bảo đúng là lời nói rỗng tuếch - ngưng bản thân thì khỏi lo dính bầu, họ sẽ nói như vậy đấy. Nhưng nói nhỏ nhé: hãy nói điều đó với một cô gái điếm khác chứ đừng nói với Dewi Ayu. Bà chưa bao giờ nghĩ rằng ba đứa con của bà (và nay là bốn đứa) là hệ lụy của chuyện làm điếm, và nếu các cô con gái không có bố, bà nói, đó là vì chúng thực sự và quả tình không có bố, chứ không phải vì chúng không biết bố chúng là ai, và chắc chắn không phải vì bà chưa từng đứng cạnh một gã đàn ông nào trước mặt vị trưởng làng. Thay vì vậy bà tin rằng chúng là con cái của đám ma quỷ. “Bởi vì quỷ Satan cũng khao khát tận hưởng lạc thú hệt như Chúa trời hay những vị thánh,” bà nói. “Giống như Đức mẹ Mary sinh ra Con trai của Đức Chúa trời và hai người vợ của Pandu sinh ra những đứa con thần thánh của họ, cái bụng của ta là nơi đám ma quỷ gửi vào mầm sống của chúng và thế là ta sinh ra những đứa con ma quỷ. Và ta mệt mỏi với chuyện đó rồi Rosinah ạ.” Như thường lệ, Rosinah chỉ mỉm cười. Cô không nói được, ngoại trừ vài tiếng ú ớ rời rạc, nhưng cô có thể cười và thích cười. Dewi Ayu rất thích cô, đặc biệt là vì nụ cười đó. Bà từng gọi cô là em bé voi, vì dù giận dữ thế nào đi nữa, những chú voi vẫn luôn mỉm cười, hệt như những con voi ta thấy ở đoàn xiếc gần như năm nào cũng tới thị trấn vào dịp cuối năm. Bằng ngôn ngữ ký hiệu của mình, kiểu ngôn ngữ không thể học ở bất cứ ngôi trường nào dành cho người câm mà phải do chính Rosinah trực tiếp dạy, cô gái nói với Dewi Ayu là bà chẳng nên buồn chán làm gì - bà thậm chí còn không có được hai mươi đứa con, trong khi đó Gandari đã sinh tới cả một trăm đứa con cho Kurawa. Điều này khiến Dewi Ayu phá lên cười. Bà thích sự hài hước trẻ thơ của Rosinah và tiếp tục cười khi cô nói tiếp rằng Gandari không sinh ra một trăm đứa con trong một trăm lần khác nhau, bà ấy chỉ sinh ra một súc thịt lớn rồi sau đó mới tạo ra từng đứa một. Rosinah cứ làm việc vui vẻ như thế, chẳng phật ý chút nào. Cô chăm sóc đứa bé, vào bếp hai lần một ngày và giặt giũ mỗi sáng, trong khi Dewi Ayu chỉ nằm, gần như không nhúc nhích, chẳng khác gì một xác chết đang chờ người ta đào xong huyệt cho mình. Đương nhiên nếu thấy đói, bà sẽ ngồi dậy ăn, sáng và chiều bà đều đi tắm. Nhưng bà luôn trở lại chỗ nằm, quấn quanh người tấm vải liệm và rồi lại nằm xuống ngay dơ, hai tay đặt lên bụng, mắt nhắm nghiền, vành môi khẽ cong lên thành nụ cười uể oải. Có vài người hàng xóm cố tình nhòm trộm bà qua cánh cửa sổ để ngỏ. Thi thoảng Rosinah cố xua họ đi nhưng chẳng bao giờ cô xua được và những người đó sẽ hỏi, tại sao bà ấy không tự tử quách đi cho rồi. Kìm lại những lời châm chọc thường lệ, Dewi Ayu chỉ làm thinh, hoàn toàn nín lặng. Cái chết được chờ đợi từ rất lâu rốt cuộc cũng đến vào ngày thứ mười hai kể từ hôm Dewi Ayu hạ sinh Đẹp gớm ghiếc, hoặc ít nhất đó là điều mà mọi người tin. Dấu hiệu cái chết đã cận kề xuất hiện vào buổi sáng hôm đó, lúc bà Dewi Ayu nói với Rosinah rằng bà không muốn tên mình ghi trên bia mộ, thay vào đó bà muốn trên bia chỉ có một câu duy nhất, “Tôi đã sinh ra bốn đứa con và tôi đã chết.” Khả năng nghe của Rosinah rất tốt và cô biết đọc, biết viết, vậy nên cô ghi lại nguyên văn câu đó, nhưng yêu cầu này ngay lập tức bị ông thầy tế chủ trì đám tang từ chối đáp ứng, ông cho rằng một yêu cầu điên rồ như vậy thậm chí còn khiến cho vụ việc càng tội lỗi hơn, và ông tự quyết định rằng người đàn bà đó sẽ không được khắc bất cứ chữ gì lên bia mộ. Vào một buổi chiều, một trong những người hàng xóm vẫn thường dòm lén qua cửa sổ nhận thấy Dewi Ayu đang ngủ trong trạng thái im lìm thường chỉ thấy ở những người sắp lìa đời. Tuy nhiên cũng còn một điều khác nữa: có mùi hàn the trong không khí. Rosinah đã mua hàn the ở tiệm bánh và Dewi Ayu đã tự rắc lên người bà thứ bột bảo quản xác chết mà đôi khi người ta trộn với thịt viên trong món mie bakso. Rosinah đã để mặc cho người đàn bà này làm bất cứ thứ gì bà muốn trong nỗi ám ảnh về cái chết, ngay cả nếu Dewi Ayu yêu cầu cô đào huyệt chôn sống bà thì cô cũng sẽ làm mà chỉ coi đó như một phần tính hài hước dị thường của bà chủ, nhưng với người đàn bà dòm trộm thì không như vậy. Bà nhảy vọt qua cửa sổ, tin rằng Dewi Ayu đã đi quá đà. “Này, đồ điếm ngủ với chồng chúng tao!” giọng bà ta phẫn nộ. “Nếu muốn chết thì chết đi, đừng có bảo quản thân xác làm gì, vì chỉ khi thân xác mụ thối rữa ra thì mới không có ai ghen tức với mụ nữa.” Bà ta lắc lắc người Dewi Ayu nhưng tấm thân bà chỉ lăn qua lăn lại mà không thức dậy. Rosinah bước vào ra hiệu rằng bà ấy chắc hẳn đã chết rồi. “Mụ điếm ấy chết rồi ư?” Rosinah gật đầu. “Chết rồi ư?!” Thế là khi đó bà mới thể hiện đúng con người thật của mình, người đàn bà đang rên la khóc lóc như thể chính mẹ mình vừa chết, nói giữa những tiếng thổn thức khàn khàn, “Ngày 8 tháng Giêng năm ngoái là ngày đẹp nhất của gia đình chúng tôi. Đó là ngày lão chồng tôi nhặt được ít tiền dưới cầu nên đã tới nhà thổ của má mì Kalong ngủ với cô gái điếm đang nằm chết ngay trước mặt tôi đây. Sau đó lão về nhà, và đó là ngày duy nhất lão tử tế với cả nhà. Lão thậm chí còn chẳng đánh bất cứ ai trong nhà cả.” Rosinah khinh bỉ nhìn bà ta như muốn nói rằng chẳng ai trách khi ông ấy muốn đánh một người đàn bà cứ luôn rên rỉ như vậy, sau đó đuổi khéo bà ta bằng cách nhờ bà ta đi loan báo về cái chết của bà Dewi Ayu. Không cần vải liệm nữa vì bà ấy đã mua một tấm từ mười hai ngày trước rồi; cũng không cần tắm cho bà ấy nữa vì bà ấy đã tự tắm cho mình rồi, bà ấy thậm chí còn tự bảo quản thi thể cho mình nữa. “Nếu có thể,” Rosinah ra hiệu với ông thầy tế của đền thờ gần nhất, “bà ấy cũng sẽ tự đọc kinh cầu nguyện cho mình luôn rồi.” Ông thầy tế nhìn cô gái câm với vẻ đầy căm ghét mà nói, bản thân ông cũng không sẵn lòng cầu nguyện cho cái xác của một ả điếm hay tệ hơn nữa là mai táng bà ta. “Vì giờ bà ấy chết rồi,” Rosinah nói (vẫn bằng ngôn ngữ ký hiệu), “nên bà ấy không còn là gái điếm nữa.” Kyai Jahro, thầy tế của đền, rốt cuộc chịu thua và chấp nhận chủ trì lễ tang của Dewi Ayu. Cho tới tận lúc Dewi Ayu chết, một việc mà không mấy người tin là sẽ xảy ra nhanh đến thế, bà vẫn chưa bao giờ thực sự nhìn thấy đứa bé. Mọi người bảo bà rất may vì có lẽ người mẹ nào cũng sẽ buồn khôn tả khi thấy con mình sinh ra gớm ghiếc đến vậy. Khi đó cái chết của bà sẽ không yên ả, và bà sẽ chẳng bao giờ ra đi thanh thản được. Duy chỉ Rosinah không chắc lắm liệu Dewi Ayu có buồn không nếu trông thấy đứa bé, vì cô hiểu rằng bà ghét một bé gái xinh đẹp hơn bất cứ thứ gì trên đời. Bà hẳn sẽ sung sướng tột cùng nếu biết rằng đứa con gái út của mình khác hẳn so với các cô chị nó; nhưng bà đã không biết. Vì cô gái câm này vẫn luôn vâng lời bà chủ, nên trong những ngày cuối đời của bà, cô không ép bà phải chấp nhận đứa trẻ, dù rằng nếu biết đứa trẻ trông như thế nào, rất có thể Dewi Ayu sẽ trì hoãn cái chết, ít nhất trong vài năm nữa. “Thật ngớ ngẩn, chết lúc nào là tùy ở ý Trời,” thầy tế kyai Jahro nói. “Bà ấy đã chuẩn bị để chết trong suốt mười hai ngày và rồi bà ấy chết,” Rosinah nói bằng cử chỉ, thừa hưởng sự cứng đầu của bà chủ cô. Theo nguyện vọng của người đã chết, lúc này Rosinah trở thành người bảo trợ cho đứa bé bất hạnh. Và cô cũng là người phải bận rộn với một việc vô vị khác là gửi điện tín cho ba đứa con của bà Dewi Ayu, báo với họ rằng mẹ họ đã mất và sẽ được mai táng ở nghĩa trang cộng đồng Budi Dharma. Chẳng đứa nào tới, nhưng đám tang được cử hành ngày hôm sau đông vui đến độ chẳng đám tang nào trước đó nhiều năm ở thành phố đó sánh được, và có lẽ cả nhiều năm sau này cũng vậy. Là bởi vì gần như tất cả đàn ông từng ngủ với bà gái điếm này đều tới tiễn biệt bà bằng những nụ hôn gió âu yếm gửi theo những bó hoa nhài rắc dọc con đường linh cữu bà đi qua. Vợ và người yêu của họ cũng đứng ken chật con đường, hích mông các gã đàn ông của mình với vẻ ghen tuông như bao lâu nay, vì họ thừa hiểu những gã đàn ông háo sắc này sẽ vẫn đánh nhau để giành cơ hội được ngủ với Dewi Ayu lần nữa, bất kể giờ đây bà chỉ còn là cái xác không hồn. Rosinah đi sau chiếc quan tài do bốn người đàn ông láng giềng khiêng giúp. Đứa bé thiếp đi trong vòng tay cô, được mép chiếc mạng đen cô trùm che chắn. Một người đàn bà, chính là bà hay rên rỉ, đi cạnh cô cầm một rổ cánh hoa. Rosinah bốc cánh hoa ném vào không trung, cùng với những đồng xu mau chóng bị bọn trẻ con giành lấy, chúng còn chạy cả xuống dưới gầm quan tài khiêng để nhặt, bất chấp chuyện có thể bị ngã xuống mương hay bị những người đưa ma đang cầu kinh chúc phúc cho người chết giẫm lên. Dewi Ayu được chôn ở góc xa nhất trong nghĩa trang giữa mộ của những người xấu số khác, vì đó là việc mà kyai Jahro và phu đào huyệt đã thống nhất từ trước. Bị chôn ở đó là một tên trộm đê tiện từ thời thuộc địa, một kẻ giết người tàn độc và nay là một gái điếm. Người ta tin rằng những linh hồn kém may mắn đó sẽ liên tục bị quấy quả vì những cuộc thử thách và phán xét dưới mồ, vậy nên cách khôn ngoan là tách biệt mộ của họ ra xa mộ của những người ngoan đạo, những người muốn được yên nghỉ thanh thản, bị bọn giòi và sự mục ruỗng xâm phạm trong hòa bình, và làm tình với những tiên nữ xinh đẹp tuyệt trần mà không bị làm phiền. Ngay khi đám ma kết thúc, người ta lập tức quên mọi chuyện về Dewi Ayu. Kể từ ngày đó, chẳng ai tới viếng mộ bà, kể cả Rosinah và Đẹp. Họ để mặc cho tàn tích của nó bị vùi dập trong những cơn bão biển, bị lá đại rơi phủ kín và cỏ dại mọc trùm. Duy chỉ Rosinah có lý do thuyết phục cho chuyện vì sao cô không chăm sóc mộ của Dewi Ayu. “Bởi vì chúng ta chỉ chăm nom mộ của người chết thôi,” cô nói với đứa bé gớm ghiếc (bằng ngôn ngữ ký hiệu mà đương nhiên đứa bé chẳng hiểu gì). Có thể đúng là Rosinah có khả năng nhìn thấu tương lai, một năng lực rất khiêm tốn được trao truyền lại từ tổ tiên thông thái của cô. Năm năm trước Rosinah lần đầu tiên đến thành phố này cùng cha cô, một thợ khai thác cát miền núi đã già và bị chứng thấp khớp nặng, khi cô mới mười bốn tuổi. Họ đã xuất hiện ở phòng của Dewi Ayu tại nhà thổ của má mì Kalong. Thoạt đầu bà gái điếm chẳng để ý gì tới cô bé, cũng không quan tâm gì tới cha cô, một ông lão có cái mũi giống mỏ vẹt, mái tóc quăn đã bạc, da dẻ nhăn nheo đen như đồng mun, đáng nói hơn cả là cách đi lại quá mức thận trọng của ông, cứ như chỉ cần bà khẽ xô vào ông là từng khúc xương trong người ông sẽ đổ ụp xuống thành một đống. Dewi Ayu lập tức nhận ra ông, liền nói. “Ông nghiện rồi, ông già ạ. Ta mới làm tình hai đêm trước mà.” Người đàn ông mỉm cười ngượng ngập, giống như cậu thiếu niên đang gặp người yêu, và gật đầu. “Tôi muốn chết trong vòng tay em,” ông nói. “Tôi không thể trả tiền cho em, nhưng tôi sẽ cho em đứa bé câm này. Nó là con gái tôi.” Dewi Ayu nhìn cô gái nhỏ bối rối. Rosinah đứng không xa bà lắm, bình thản và mỉm cười thân thiện với bà. Lúc đó cô bé rất gầy gò, mặc chiếc váy thêu quá rộng so với khổ người, chân đất, mái tóc quăn buộc gọn phía sau bằng sợi dây chun. Da cô bé mịn màng, giống như các cô sơn nữ, cùng một khuôn mặt tròn đơn giản, đôi mắt thông minh, sống mũi thẳng và khuôn miệng rộng khiến cô bé có thể nở nụ cười dễ chịu với mọi người. Dewi Ayu không biết sẽ dùng được cô bé này vào việc gì, bà nhìn lại phía ông già. “Tôi đã có ba đứa con gái rồi, tôi biết làm gì với đứa bé này đây?” bà hỏi. “Nó biết đọc biết viết, mặc dù nó không nói được,” cha cô bé nói. “Tất cả các con tôi đều biết đọc biết viết và chúng còn nói được nữa,” Dewi nói và cười to trêu chọc. Nhưng ông già cứ nhất quyết muốn ngủ với bà và chết trong vòng tay bà rồi trả công cho bà bằng cô con gái câm. Bà có thể làm bất cứ điều gì bà muốn với cô gái. “Em có thể biến nó thành gái điếm và thu về số tiền nó kiếm được chừng nào nó còn sống,” ông già nói. “Hoặc giả nếu không có thằng đàn ông nào muốn ngủ với nó thì em có thể xẻ thịt nó ra thành miếng bán ngoài chợ vậy.” “Tôi không chắc liệu có ai muốn ăn thịt con bé đâu,” Dewi Ayu nói. Ông già không chịu thua và sau một hồi, ông bắt đầu giống như đứa trẻ không thể nhịn tiểu được nữa. Không phải Dewi Ayu không muốn đối đãi tử tế và dành cho ông già vài giờ lạc thú trên chiếc nệm của bà, nhưng bà bối rối vì cuộc đổi chác này, và hết lần này đến lần khác bà nhìn tới nhìn lui giữa ông già và đứa bé câm, cho tới khi rốt cuộc cô bé hỏi xin mẩu giấy và cây bút chì rồi viết: “Cứ ngủ với ông ấy đi, chẳng mấy nữa ông ấy sẽ chết thôi.” Thế là bà ngủ với ông, không phải vì bà chấp nhận thỏa thuận, mà bởi lời của đứa bé rằng ông sắp chết. Họ vật lộn trên giường trong khi cô bé câm ngồi trên ghế ngoài cửa phòng ngủ, nắm chặt chiếc túi nhỏ đựng quần áo của mình mà chỉ một lúc trước đó cha cô còn cầm, chờ đợi. Hóa ra Dewi Ayu không cần nhiều thời gian đến thế, và bà thừa nhận rằng thực tình bà không cảm thấy gì nhiều, chỉ như một cái cù nhẹ vào phần giữa háng thôi. “Như là bị chuồn chuồn cắn rốn vậy,” bà gái điếm nói. Người đàn ông lao vào bà dữ dội, gần như không nói năng gì, giống như tiểu đoàn lính Hà Lan tiến quân với sứ mệnh là phá hủy, băng băng lao tới, quên luôn chứng thấp khớp của ông. Sự vồ vập của ông mau chóng đạt tới đỉnh khi ông phát ra tiếng rên ngắn và toàn thân co giật; thoạt đầu Dewi nghĩ đó là cơn co giật bình thường của một người đàn ông khi xuất tinh, nhưng hóa ra còn hơn thế - ông già cũng đã xuất luôn linh hồn mình. Ông chết trong khi nằm sõng soài trong vòng tay bà và trong lúc “chiến cụ” của ông vẫn còn ướt nhoẹt và mềm xuội. Họ lặng lẽ chôn ông già ở cùng góc nghĩa trang mà sau này Dewi Ayu cũng sẽ được mai táng. Mặc dù chưa bao giờ chăm sóc ngôi mộ của bà chủ, nhưng Rosinah luôn tranh thủ cơ hội tới thăm mộ cha vào cuối mỗi tháng ăn chay, nhổ cỏ và cầu nguyện mà không kết tội. Dewi Ayu mang cô bé câm về nhà, chẳng phải để giải sầu sau buổi tối buồn tẻ, mà vì cô bé câm không còn cha mẹ hay bất cứ ai khác có thể gọi là gia đình. Ít nhất thì, lúc đó Dewi Ayu nghĩ, bà có thể giữ con bé ở cùng nhà với mình, chiều chiều bắt chấy cho bà và trông nom cửa nhà cho bà trong lúc bà tới nhà thổ. Rosinah đã không thấy một ngôi nhà sinh động như cô kỳ vọng, đó chỉ là một ngôi nhà đơn sơ yên ắng và tĩnh lặng. Có những bức tường màu kem vẻ như nhiều năm qua không được sơn quét gì, mấy chiếc gương bụi bặm và những tấm rèm ố mốc. Ngay cả căn bếp cũng trông như chẳng bao giờ dùng tới ngoại trừ thi thoảng pha một tách cà phê. Những căn phòng duy nhất trông có vẻ được chăm sóc cẩn thận là phòng tắm, với một chiếc bồn tắm kiểu Nhật lớn và phòng ngủ thuộc về bà chủ căn nhà. Trong mấy ngày đầu tiên về căn nhà này, Rosinah đã chứng tỏ mình là một cô gái rất đáng giữ lại. Trong lúc Dewi Ayu nghỉ trưa, Rosinah sơn lại các bức tường, lau dọn sàn nhà, chà sạch các ô cửa sổ bằng chỗ mùn cưa cô xin được từ một bác thợ xẻ, thay rèm và bắt đầu dọn dẹp lại khu vườn mà rất nhanh sau đó đã đầy ắp các loại hoa. Khi chiều xuống, Dewi Ayu thức giấc và lần đầu tiên suốt bao lâu nay, bà ngửi thấy hương thơm thảo mộc và mùi gia vị nấu nướng trong bếp, họ ăn tối cùng nhau trước khi Dewi Ayu phải đi ra ngoài. Rosinah không hề thấy phiền lòng về tình trạng xập xệ của ngôi nhà cần phải chăm sóc dọn dẹp quá nhiều, nhưng cô băn khoăn vì chỉ có hai người họ sống ở đó. Ở thời điểm đó Dewi Ayu vẫn chưa học ngôn ngữ ký hiệu của cô gái câm nên Rosinah lại viết. “Bà nói bà có ba đứa con?” “Đúng vậy,” Dewi Ayu đáp. “Chúng đều đã ra đi ngay khi chúng biết mở khóa quần đàn ông.” Một vài năm sau, Rosinah lập tức nhớ lại câu nói đó khi bà Dewi Ayu nói bà không muốn lại mang bầu lần nữa (mà thực tế là bà đã mang bầu rồi), và bà chán ngấy việc có con. Buổi chiều họ thường chuyện phiếm với nhau lúc ngồi trên bậc cửa nhà bếp, nhìn ra đám gà Rosinah mới nuôi đang bới đất, và giống như nàng Scheherazade, bà Dewi Ayu kể rất nhiều chuyện kỳ lạ, hầu hết về những cô con gái xinh đẹp của bà. Đó là cách họ gây dựng tình bạn đầy thấu hiểu nhau, vậy nên khi Dewi Ayu cố tìm cách giết chết cái thai trong bụng bà bằng những cách khác nhau kia, Rosinah đã không ngăn cản. Thậm chí ngay cả khi Dewi Ayu bắt đầu tỏ ra tuyệt vọng, Rosinah lại chứng tỏ cô là một cô gái trẻ thông thái, cô viết cho bà gái điếm. “Hãy cầu nguyện rằng đứa bé này sẽ thậm xấu.” Dewi Ayu quay sang cô đáp, “Đã nhiều năm rồi ta không còn tin vào cầu nguyện nữa.” “Ồ, còn tùy bà đang cầu nguyện ai nữa chứ,” Rosinah nói và mỉm cười. “Quả thực là có một số vị thần thánh đã tỏ ra quá bủn xỉn.” Nửa tin nửa ngờ, Dewi Ayu bắt đầu cầu nguyện. Bà cầu nguyện bất cứ khi nào điều đó lướt qua đầu bà, trong nhà tắm, trong bếp, trên đường phố, hoặc thậm chí nếu trong lúc một gã đàn ông béo ú đang ngụp lặn trên cơ thể bà và bà bất chợt nhớ ra chuyện đó thì bà cũng ngay lập tức nói rằng, bất kể ai đang lắng nghe lời cầu nguyện của tôi, thần thánh hay ma quỷ, thiên thần hay Genie Iprit, hãy làm cho đứa con của tôi thậm xấu. Bà thậm chí còn bắt đầu hình dung về tất cả các loại xấu xí nhất trên đời. Bà nghĩ về con quỷ có sừng và cặp răng nanh vểnh ra như nanh lợn đực, và thấy sung sướng xiết bao nếu có một đứa con như thế. Một hôm bà nhìn thấy một cái ổ cắm điện và tưởng tượng ra đó là cái mũi của đứa bé. Bà cũng hình dung đôi tai nó giống như hai cái quai nồi, miệng nó như cái khe nhét tiền của con lợn đất, tóc nó thì hệt như cái chổi rơm. Bà thậm chí còn nhảy cẫng lên sung sướng khi đang ngồi trong bồn cầu mà nhận thấy cục phân kinh tởm ra sao và tự hỏi, làm sao mình không sung sướng cho được nếu có một đứa con như thế; da giống như da rồng komodo, chân thì giống chân rùa. Bà Dewi Ayu thỏa sức với trí tưởng tượng ngày càng rồ dại hơn và trong lúc đó đứa trẻ trong bụng bà cũng lớn dần lên. Đỉnh điểm là một buổi đêm trăng tròn lần thứ bảy trong thai kỳ của bà, giữa lúc, có Rosinah phục vụ, bà tắm trong bồn nước tẩm hương hoa. Đây là cái đêm người ta bày tỏ nguyện ước về đứa con mình và vẽ khuôn mặt của nó lên một quả dừa. Hầu hết các bà mẹ đều vẽ gương mặt của Drupadi, Shinta hoặc Kunti hoặc bất cứ nhân vật rối nào xinh đẹp nhất, hoặc nếu họ sắp đẻ con trai, họ sẽ vẽ Yudhitira, Arjuna hoặc Bima. Nhưng Dewi Ayu - có lẽ là người đầu tiên trên thế giới làm như vậy, và bởi vậy cho tới tận lúc chết bà cũng không thể chắc chắn được kết quả - đã dùng mẩu than đen vẽ ra một đứa trẻ gớm ghiếc. Bà hy vọng con bà sẽ không giống bất cứ ai hoặc bất cứ thứ gì bà từng thấy, ngoại trừ có lẽ một con lợn rừng hay con khỉ. Thế nên bà vẽ ra một con quái vật kinh hoàng bà chưa từng trông thấy và cũng sẽ chẳng ngó tới một lần trước khi người ta mai táng thi thể bà. Nhưng rồi rốt cuộc bà cũng thấy con bé, sau hai mươi mốt năm, vào cái ngày bà hồi sinh. Lúc ấy, ngày đang chuyển sang đêm, mưa như trút trong các cơn bão báo hiệu sắp chuyển mùa. Lũ chó hoang ajak tru trên sườn đồi bằng giọng chói tai, át cả tiếng của vị muadzin đang gọi mọi người tới nhà thờ làm lễ cầu kinh chiều Maghrib, rõ ràng ông không thể hoàn thành nhiệm vụ vì chẳng ai muốn ra khỏi nhà trong khi trời đang mưa nặng hạt lúc chạng vạng và họ có thể nghe tiếng tru của bầy chó, và càng không muốn đi khi có một con ma khoác vải liệm đang vừa bước trên đường trong tình trạng lôi thôi bệ rạc vừa rên rỉ như vậy. Khoảng cách từ nghĩa trang công cộng về nhà bà không hề gần, nhưng các tay lái xe ôm ojek thà quẳng xe máy xuống mương rồi chạy càng nhanh càng tốt còn hơn phải chở Dewi Ayu về. Cũng chẳng chiếc xe buýt nào chịu dừng lại. Ngay cả quầy hàng cửa hiệu dọc đường cũng chọn cách đóng cửa cả ngày, khóa trái cửa ra vào, chốt chặt cửa sổ. Không một bóng người trên phố, ngay cả mấy người vô gia cư hay điên loạn, không ai hết ngoại trừ người đàn bà lớn tuổi vừa trở về từ cõi chết này. Chỉ có mấy con dơi bay hết sức bình sinh, lao sầm sập vào cơn bão, di chuyển trên bầu trời và những tấm rèm thi thoảng hé ra để lộ những gương mặt xanh lè vì khiếp đảm. Bà run rẩy vì lạnh và còn vì đói nữa. Một vài lần bà thử gõ cửa nhà những người bà cho rằng có thể vẫn nhớ bà, song những người đó chọn cách im lặng, nếu không phải vì lúc đó họ đã chết ngất rồi. Vậy nên bà quá đỗi vui sướng khi từ xa bà nhận ra ngôi nhà của mình, trông nó vẫn hệt như trước đây khi người ta hạ bà xuống huyệt. Hoa giấy nở bung trùm kín toàn bộ hàng rào, hoa cúc bao quanh nhà trông thật thanh bình dưới làn mưa xối xả, ánh sáng ấm áp tỏa ra từ chiếc đèn bên hiên nhà. Bà nhớ Rosinah ghê gớm và lòng tràn đầy hy vọng một đĩa cơm đang chờ đợi bà. Hình dung đó khiến bà rảo bước nhanh hơn một chút, giống như những người ở nhà ga hay bến xe buýt, khiến tấm vải liệm xổ tung ra vì gió bão giằng giật, để lộ thân thể trần trụi của bà, nhưng tay bà mau chóng túm lấy tấm vải, cuốn lại quanh người như một thiếu nữ trong tấm khăn choàng sau khi tắm. Bà nhớ tới đứa con, đứa thứ tư, và hy vọng sẽ thấy nó trông như thế nào. Đúng như mọi người vẫn nói, một giấc ngủ say dài có thể làm trái tim thay đổi, nhất là khi giấc ngủ ấy dài tới hai mươi mốt năm. Một cô gái trẻ đang ngồi trên chiếc ghế ngoài hiên nhà, ngay dưới quầng sáng, đúng chỗ Dewi Ayu và Rosinah thường ngồi bắt chấy cho nhau mỗi buổi chiều. Cô gái ngồi như thể đang chờ ai đó. Thoạt đầu Dewi Ayu nghĩ đó là Rosinah, nhưng ngay khi đứng trước mặt cô gái, bà nhận ra cô gái này không quen. Bà suýt hét lên khi nhìn thấy hình hài kinh hãi ấy, trông cứ như thể cô ta bị bỏng rất nặng, và một tiếng nói độc ác vang lên trong đầu bà nói rằng bà vẫn chưa trở lại mặt đất mà vẫn đang lang thang dưới địa ngục. Nhưng bà đủ nhạy cảm để mau chóng nhận ra quái vật gớm ghiếc đó không gì khác chính là một cô gái trẻ xấu xí; bà thậm chí còn biết ơn vì rốt cuộc bà đã gặp một người không chạy đi khi gặp một người đàn bà lớn tuổi quấn vải liệm ghé qua nhà giữa cơn mưa như trút. Đương nhiên bà không nhận ra đó là con gái mình, vì bà vẫn chưa nhận ra rằng hai mươi mốt năm đã trôi qua, và để xua đi mọi bối rối, bà cố chào hỏi cô gái. “Đây là nhà tôi,” bà giải thích. “Tên cô là gì?” “Đẹp.” Dewi Ayu phá lên cười khiếm nhã trước khi ngừng bặt và hiểu ra mọi chuyện. Bà ngồi xuống một ghế khác, ngăn cách khỏi cô gái bởi một chiếc bàn phủ khăn màu vàng có tách cà phê của cô. “Giống như con bò cái nhìn thấy con bê con đờ đẫn của nó biết chạy rồi vậy,” bà bối rối nói, sau đó lịch sự hỏi xin cốc cà phê trên bàn và uống. “Ta là mẹ con,” bà nói thêm, vô cùng tự hào khi đứa con gái đó giống y như bà mong mỏi. Nếu trời không mưa và bà không đang quá đói, và nếu mặt trăng tỏa sáng rực rỡ, chắc hẳn bà đã chạy đi trèo lên mái nhà nhảy múa vui mừng rồi. Cô gái không nhìn bà và thậm chí chẳng nói gì. “Con đang làm gì ngoài hiên nhà lúc nửa đêm thế này?” Dewi Ayu hỏi. “Con đang chờ vị hoàng tử của con đến,” rốt cuộc cô gái cũng nói, dù vẫn không quay đầu lại. “Để giải thoát con khỏi lời nguyền của khuôn mặt gớm ghiếc này.” Cô gái bị ám ảnh bởi chàng hoàng tử đẹp trai đó kể từ khi cô nhận ra những người khác không xấu xí như mình. Rosinah đã thử mang cô sang nhà những người hàng xóm hồi cô mới là đứa bé còn ẵm ngửa, nhưng chẳng ai muốn tiếp đón họ, vì từ lúc đó cho đến hết buổi chiều con gái họ sẽ thét lên và la khóc trong khi những người già cả lập tức lên con sốt và hai ngày sau sẽ qua đời. Họ hắt hủi con bé ở khắp nơi, và mọi chuyện chẳng thay đổi gì cho tới khi con bé đến tuổi tới trường; không trường nào chấp nhận Đẹp. Rosinah thậm chí đã lạy lục xin xỏ một ông hiệu trưởng, nhưng gã ta dường như quan tâm tới cô gái trẻ câm nhiều hơn là đứa bé gái xấu xí và đã lỗ mãng sờ soạng cô ngay tại văn phòng khi cửa đóng. Rosinah thông minh nghĩ rằng, hễ muốn là sẽ có cách, và nếu cô phải đánh mất trinh tiết của mình để Đẹp được vào trường, cô cũng sẵn sàng làm. Vậy nên sáng đó cô thấy mình trần truồng trong chiếc ghế văn phòng xoay được của ông hiệu trưởng và họ làm tình trong tiếng o o của chiếc quạt trần trong hai mươi ba phút, nhưng rốt cuộc thì kể cả như vậy, Đẹp vẫn không được nhập học vì nếu con bé đi học, những đứa trẻ khác sẽ không chịu đăng ký học. Không chịu thua, rốt cuộc Rosinah lên kế hoạch tự dạy học cho con bé tại nhà, ít nhất là với vốn liếng số và chữ của cô. Tuy nhiên, chưa kịp dạy gì cho con bé, Rosinah đã lặng người khi nhận ra con bé biết đếm chính xác những tiếng kêu của con thằn lằn. Cô còn kinh ngạc hơn khi một buổi chiều Đẹp lôi ra một đống sách mẹ nó để lại và đọc vang nhà khi chưa từng có ai dạy nó bảng chữ cái. Có gì đó không ổn trong những sự lạ lùng này, một điều thực sự đã bắt đầu từ nhiều năm trước, khi Rosinah hết sức kinh ngạc không biết ai đã dạy con bé học nói. Rosinah đã cố tình theo dõi đứa trẻ, nhưng nó chẳng bao giờ ra khỏi hàng rào ngôi nhà và cũng chẳng có ai xuất hiện, và con bé cũng chưa từng gặp ai khác trừ một người giúp việc bị câm cũng nói chuyện với cô bằng tay. Dù vậy con bé vẫn biết tất cả các từ diễn tả những thứ nhìn thấy được và không nhìn thấy được, những từ gọi mèo, thằn lằn, gà vịt đi lại quanh nhà họ. Bên cạnh tất cả những năng lực kỳ diệu này, con bé vẫn là một bé gái bất hạnh, xấu xí và sầu tủi. Rosinah thường bắt gặp cảnh nó đứng sau rèm cửa sổ, lén quan sát mọi người trên phố hoặc nhìn chăm chú vào cô khi cô cần ra ngoài mua gì đó, như muốn xin được đi cùng. Đương nhiên Rosinah sẵn lòng đưa con bé đi theo, nhưng chính con bé sẽ phản đối và nói với giọng tội nghiệp, “Không, tốt hơn là con không đi, vì thấy mặt con là người ta hết muốn ăn trong suốt phần đời còn lại.” Con bé hay ra ngoài lúc sớm tính mơ khi mọi người chưa thức giấc, trừ người bán rau vội vã ra chợ, nông dân hối hả ra đồng hoặc ngư dân lục tục về nhà, họ đi bộ hoặc lướt qua trên xe đạp, song những người đó sẽ không nhìn thấy con bé lúc trời chưa sáng hẳn. Đó là khi con bé có thể tìm hiểu thế giới, xem bầy dơi tìm đường về tổ, lũ chim sẻ đậu trên nụ chồi hạnh nhân, lũ gà trống gáy vang những tràng dài, mấy con bướm từ sâu kén nở ra bay lên đậu trên những bông dâm bụt, những chú mèo con nằm ườn trên chiếu và mùi thức ăn từ bếp nhà hàng xóm bay sang, tiếng máy móc khởi động rền vang phía xa xa, cùng đó là tiếng giảng đạo từ một chiếc đài ở đâu đó vọng lại, và trên tất thảy là ánh sáng rực rỡ của sao Mai phía đằng Đông, đó là tất cả những gì con bé thích thú nhìn trong lúc ngồi trên chiếc xích đu đong đưa mắc vào chạc cây khế. Rosinah thậm chí còn không biết điểm sáng nhỏ nhưng tỏa ra rực rỡ đó là sao Mai, nhưng Đẹp biết rất rõ, cũng như con bé còn biết cả những điềm báo của tất cả các chòm sao trên trời. Ngay khi bình minh ló rạng, con bé chui biến vào trong nhà, giống như đầu con rùa chui tọt vào cổ nhút nhát né tránh những kẻ trêu chọc nó, vì đám trẻ đi học sẽ luôn dừng lại trước cổng hàng rào, hy vọng nhìn thấy con bé, chúng chăm chăm dõi mắt vào cửa chính và các ô cửa sổ với vẻ tò mò. Các ông bà già cũng đã kể cho chúng nghe những câu chuyện ám ảnh về cô Đẹp đáng sợ, người sống trong ngôi nhà đó, rằng người đó sẽ cắt phăng đầu chúng nếu không chịu vâng lời, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống chúng nếu cãi lời: tất cả những chuyện đó ám ảnh lũ trẻ, đồng thời cũng thôi thúc chúng muốn gặp con bé để xem những điều đáng sợ ấy có thật không. Nhưng chúng chưa bao giờ gặp con bé, vì Rosinah sẽ ngay lập tức xuất hiện tay khua cây cán chổi lộn ngược, bọn chúng sẽ vừa bỏ chạy tán loạn vừa chửi rủa người phụ nữ trẻ bị câm này. Thực ra không chỉ đám trẻ con mới đứng trước cổng rào chờ nhìn thấy Đẹp, vì ngay cả mấy người đàn bà ngồi xích lô đi ngang qua cũng ngoái đầu lại một lát, những người đi làm và cả mấy người chăn cừu đi qua cũng vậy. Nhưng Đẹp sẽ lại ló mặt ra ngoài vào ban đêm, khi đám trẻ con bị cấm ra khỏi nhà còn cha mẹ chúng thì bận rộn chăm sóc con cái, những người duy nhất ra khỏi nhà khi ấy là đám ngư dân hối hả ra biển, vác theo mái chèo và lưới trên lưng. Con bé sẽ ngồi trên một chiếc ghế ngoài hiên, cùng một tách cà phê. Khi đó Rosinah sẽ hỏi con bé làm gì lúc đêm muộn như vậy ngoài hiên, Đẹp sẽ trả lời cô giống như con bé đã trả lời mẹ nó, “Chờ hoàng tử của con tới, để giải thoát con khỏi lời nguyền của gương mặt gớm ghiếc này.” “Tội nghiệp con gái,” mẹ con bé nói vậy, vào đêm đầu tiên họ gặp nhau. “Thực ra con nên nhảy múa vì vui sướng khi được may mắn như vậy. Chúng ta vào nhà đi.” Dewi Ayu lại được tận hưởng sự chu đáo xưa nay của Rosinah, cô gái câm gần như ngay lập tức đã chuẩn bị xong nước ấm trong bồn tắm cũ của bà, cho đủ cả lưu huỳnh và một viên đá bọt cùng mấy miếng gỗ đàn hương và lá trầu không khiến bà trở lại tươi tỉnh bên bàn ăn tối. Rosinah và Đẹp kinh ngạc nhìn cơn đói ngấu của bà, bà ăn như thể bù đắp cho bao nhiêu năm tháng bị bỏ đói không ăn uống gì. Bà ăn hết sạch hai con cá ngừ, cả xương và ngạnh, một bát xúp và hai đĩa cơm. Đồ uống của bà là một bát yến chưng. Bà ăn nhanh hơn hai phụ nữ ăn cùng. Ăn xong, dạ dày của bà sôi lên ùng ục liên tục, và sau khi xì ra một tiếng rít dài qua hậu môn, kiểu rắm không thể kiềm chế được, bà vừa lau miệng bằng giấy ăn vừa hỏi: “Vậy là ta đã chết bao lâu rồi nhỉ?” “Hai mươi mốt năm,” Đẹp đáp. “Ta xin lỗi, lâu quá rồi,” bà buồn bã nói, “nhưng chẳng có cái đồng hồ báo thức nào dưới mộ cả.” “Lần sau mẹ đừng quên mang theo một chiếc nhé,” Đẹp ân cần nói, rồi thêm, “và cũng đừng quên một cái màn tránh muỗi.” Dewi Ayu phớt lờ những lời của Đẹp, được nói nhỏ bằng giọng nữ cao du dương. “Quả là khó hiểu khi ta sống lại sau hai mươi mốt năm, vì ngay cả cái ông tóc dài chết trên cây thập giá cũng chỉ chết ba ngày là đã sống lại rồi.” “Đúng là rất khó hiểu,” Đẹp nói. “Lần sau, hãy nhớ gửi điện báo trước khi mẹ đến.” Vì lẽ gì đó Dewi Ayu không thể phớt lờ kiểu nói đó nữa. Sau khi suy nghĩ một lát, bà bắt đầu cảm thấy có giọng điệu thù hằn trong những lời bình luận của con gái. Bà nhìn con, nhưng cô gái xấu xí chỉ mỉm cười với bà, vẻ như muốn nói rằng cô chỉ đang nhắc nhở bà đừng hành động bất cẩn thôi. Dewi Ayu nhìn sang Rosinah, như muốn tìm ra manh mối nào đó, nhưng ngay cả cô gái câm cũng chỉ mỉm cười, vẻ như chẳng có chút gì lập lờ đa nghĩa trong đó. “Vậy đó Rosinah, cô đã bốn mươi tuổi rồi. Chả mấy nữa cô cũng sẽ già nua nhăn nheo thôi.” Vừa nói Dewi Ayu vừa cười dịu dàng, cố làm cho không khí quanh bàn ăn tối nhẹ nhõm. “Giống như con cóc,” Rosinah nói bằng ngôn ngữ ký hiệu. “Giống con rồng komodo,” Dewi Ayu đùa. Cả hai cùng nhìn Đẹp, chờ cô nói gì đó và họ không phải chờ lâu. “Giống như con vậy,” cô nói. Cụt lủn và bất mãn. Trong mấy ngày liền Dewi Ayu bận bịu vì đám bạn bè cũ đến thăm, họ muốn nghe chuyện về thế giới của người chết nên có thể phớt lờ sự hiện diện của đứa quái thai khó chịu trong nhà. Ngay cả vị kyai, người nhiều năm trước đã miễn cưỡng chủ trì tang lễ cho bà và nhìn bà với sự kinh tởm giống như bé gái nhìn con giun đất, cũng tới thăm bà với sự kính cẩn giống như con chiên ngoan đạo trước một vị thánh, và chân thành nói việc bà cải tử hoàn sinh đúng là một điều kỳ diệu và chắc chắn không ai được ban cho điều kỳ diệu này nếu người đó không trong sạch. “Tất nhiên là tôi trong sạch chứ,” Dewi Ayu nhẹ nhàng nói. “Vì trong hai mươi mốt năm qua có ai chạm vào người tôi đâu.” “Cảm giác khi chết như thế nào?” kyai Jahro hỏi. “Nói thật là rất vui. Đó là lý do chính khiến trong số tất cả những người đã chết, chẳng ai chọn được sống lại cả.” “Nhưng bà đã sống lại đó thôi,” vị kyai nói. “Tôi sống lại chỉ để có thể nói với ông điều đó.” Đây sẽ là chi tiết tuyệt vời để thêm vào bài thuyết pháp giữa trưa thứ Sáu, và vị kyai rời đi với gương mặt vô cùng phấn khởi. Ông không cần cảm thấy xấu hổ vì đã tới thăm Dewi Ayu (bất chấp việc nhiều năm trước ông từng la toáng lên rằng thật tội lỗi khi tới thăm nhà của mụ gái điếm ấy và người ta có thể bị hỏa thiêu dưới địa ngục chỉ vì mở cổng nhà mụ), vì như người đàn bà đó đã nói, bà không còn là gái điếm nữa sau hai mươi mốt năm không bị một kẻ nào chạm vào, và tốt hơn ta hãy tin rằng từ nay và mãi mãi về sau cũng sẽ chẳng còn ai muốn đụng vào bà nữa. Người khổ sở nhất trong những ồn ào nhặng xị này do sự hồi sinh của bà già không ai khác ngoài Đẹp, cô phải tự nhốt mình trong phòng. May mắn là chưa ai ở lại lâu hơn vài phút, vì tất cả những người tới thăm sẽ mau chóng cảm thấy một nỗi khiếp đảm kinh hoàng phát ra từ phía sau cửa phòng đóng kín của Đẹp. Với một mùi quái lạ gây lộn mửa, một cơn gió quái đản, tăm tối và ghê tởm sẽ quét qua họ, luồn qua khe cửa và chui qua lỗ khóa, cảm giác ớn lạnh chạm tới tận xương tủy họ. Hầu hết mọi người đều chưa từng thấy Đẹp, ngoại trừ lúc cô còn bé tí và bà đỡ phải chạy quanh làng tìm kiếm vú em. Nhưng chỉ nghĩ về cô thôi cũng đủ khiến họ dựng tóc gáy và toàn thân run rẩy khi dán mắt vào cánh cửa phòng con quái vật, khi gió mang theo một mùi quái đản tới mũi họ và âm thanh của sự im lặng lộng lên trong tai họ. Đó là khi miệng họ sẽ buột ra một chuyện phiếm ngớ ngẩn nào đó, họ quên phắt nỗi thèm thuồng được nghe bất cứ điều kỳ thú nào mà Dewi Ayu phải kể cho họ nghe, họ sẽ mau chóng đứng dậy sau khi cố nuốt nửa tách trà đắng và xin cáo từ trở về nhà kể chuyện cho người khác nghe. Nếu có ai hỏi họ sau chuyến thăm khiếp đảm vô chừng đó, họ sẽ nói: “Dù anh chị tò mò đến độ nào về bà Dewi Ayu vừa sống lại sau khi chết đi chăng nữa, tôi khuyên anh chị chớ vào nhà bà ấy.” “Sao thế?” “Vì anh chị sẽ sợ đến chết giấc đấy.” Khi người ta không còn tới thăm nữa, Dewi Ayu bắt đầu nhận ra những điểm dị thường của Đẹp ngoài việc ngồi ngoài hiên nhà chờ một hoàng tử đẹp trai tới và đoán vận mệnh của mình qua những vì sao. Vào nửa đêm, bà nghe thấy tiếng vật lộn trong phòng ngủ của Đẹp, khiến bà ra khỏi giường, lần đi trong bóng tối và lo lắng đứng trước cửa phòng con gái, càng lúc càng hoang mang hơn trước những âm thanh vọng ra từ bên trong phòng đứa con gái xấu xí. Bà đang đứng đó thì Rosinah xuất hiện cùng một chiếc đèn pin, rọi vào đúng mặt bà chủ. “Tôi biết những tiếng động này,” Dewi Ayu thì thào với Rosinah, “giống như trong nhà thổ.” Rosinah gật đầu đồng tình. “Nó là tiếng người ta làm tình với nhau,” Dewi Ayu nói tiếp. Rosinah lại gật đầu. “Vấn đề là, nó đang làm tình với ai, hoặc là, ai mà lại muốn làm tình với nó đây?” Rosinah lắc đầu. Con bé không làm tình với ai cả. Hoặc đúng là nó đang làm tình với ai đó, nhưng người ta sẽ chẳng bao giờ biết đó là ai, vì chẳng thấy ai cả. Dewi Ayu đứng đó, thầm kính nể sự bình thản của cô gái câm, nó khiến bà nhớ lại cái thời điên rồ của chính mình và khi đó chỉ mình cô gái này hiểu bà. Đêm đó họ ngồi cùng nhau trong bếp, vẫn ngay trước bếp lò cũ, đun ít nước pha cà phê và chờ sôi. Ngồi trong ánh sáng duy nhất từ ngọn lửa tỏa ra liếm dần mép đống mồi nhen làm từ cành ca cao gãy, mấy nhánh cọ và đám xơ dừa, họ nói chuyện giống như thường vẫn nói ngày xưa. “Cô đã dạy nó như thế nào?” Dewi Ayu hỏi. “Dạy cái gì cơ?” Rosinah hỏi, chỉ bằng khẩu hình mà không có tiếng. “Chuyện thủ dâm ấy.” Rosinah lắc đầu. Đẹp không phải đang thủ dâm, cô đang làm tình với ai đó nhưng người ta chỉ không biết đó là ai thôi. “Tại sao không biết?” Vì tôi cũng không biết. Rosinah lắc đầu. Cô kể cho Dewi Ayu về tất cả những chuyện kỳ lạ, chuyện khi Đẹp còn bé tí chưa từng được ai dạy nói mà đã biết nói, chuyện con bé lên sáu tuổi thậm chí còn biết đọc biết viết và rốt cuộc thì Rosinah đã không dạy nó một cái gì vì con bé đã biết làm cả những việc mà bản thân Rosinah không làm được. Chín tuổi nó biết thêu thùa, mười một tuổi biết may vá và thậm chí không cần ai yêu cầu nó cũng có thể nấu bất cứ món ăn nào ta muốn. “Chắc chắn phải có ai đó dạy nó,” Dewi Ayu nói vẻ hoài nghi. “Nhưng không có ai tới ngôi nhà này cả,” Rosinah ra hiệu. “Tôi không quan tâm hắn đến bằng cách nào, hay là hắn đã đến mà cả cô lẫn tôi đều không biết. Nhưng chắc chắn hắn đã đến dạy con bé mọi thứ, thậm chí là dạy cả làm tình.” “Vâng, đúng vậy, hắn đến và họ làm tình với nhau.” “Ngôi nhà này bị quỷ ám rồi.” Rosinah chưa bao giờ tin rằng ngôi nhà này bị quỷ ám, nhưng Dewi Ayu có lý của bà. Dù vậy, đó lại là vấn đề khác, và Dewi Ayu không muốn nói bất cứ điều gì về nó với Rosinah, ít nhất đêm hôm đó thì không. Bà đứng dậy đi nhanh trở lại giường, quên luôn ấm nước sôi và tách cà phê. Những ngày sau đó, bà già tìm cách theo dõi đứa con gái xấu xí để phát hiện ra lời giải thích thỏa đáng nhất cho mọi điều kỳ lạ này vì bà không muốn tin chuyện đứng sau tất cả là một con ma, ngay cả khi đúng là có một con ma tồn tại trong căn nhà này. Một buổi sáng bà và Rosinah trông thấy một người đàn ông già nua ngồi trước bếp lò rực lửa, run rẩy vì khí lạnh buổi sớm. Trông ông giống như một người du kích, tóc tai bơ phờ, bết lại, buộc ra phía sau bằng một chiếc lá vàng héo rũ. Ấn tượng đó càng mạnh hơn khi ta nhìn vào mặt ông, nó hóp lại như thể ông đã nhịn đói nhiều năm, cùng trang phục tối màu, bê bết bùn và máu khô của ông. Thậm chí còn có một con dao găm lủng lẳng cạnh hông, buộc vào thắt lưng da. Ông đi đôi giày giống như của chiến binh Gurkha thời chiến, quá rộng so với ông. “Ông là ai?” Dewi Ayu hỏi. “Hãy gọi ta là Shodancho,” ông già đáp. “Ta đang lạnh cóng, hãy cho ta sưởi nhờ một lát trước lò sưởi của bà.” Rosinah cố gắng dùng lý trí xét đoán ông già. Có thể trong quá khứ ông từng chỉ huy một shodan, hoặc có thể ông từng thuộc một tiểu đoàn ở Halimunda nổi dậy chống lại người Nhật trước khi rút chạy vào rừng. Có thể ông đã bị mắc kẹt trong đó suốt nhiều năm trời, không hay rằng cả Hà Lan lẫn Nhật đều đã rút đi lâu rồi và hiện tại chúng ta đã có một nền cộng hòa với quốc kỳ và quốc ca riêng. Rosinah mang bữa sáng tới cho ông cùng cái nhìn dịu dàng và thái độ có phần nể trọng hơn bình thường một chút. Nhưng Dewi Ayu thì nhìn ông với đôi chút ngờ vực, bà tự hỏi không biết ông ta có phải là chàng hoàng tử mà con gái bà ngóng đợi hằng đêm không, hay có phải ông ta chính là người đã dạy nó cách làm tình hay không. Nhưng ông lão có vẻ đã ngoài bảy mươi và rất có thể đã bất lực nhiều năm rồi, vì thế mà những ý nghĩ ngờ vực đó của bà Dewi Ayu cũng nhạt dần. Bà thậm chí còn mời ông vào ở trong nhà vì vẫn còn một phòng trống, và ông lão có vẻ như đã cắt đứt mọi liên hệ với thế giới bên ngoài. Shodancho, trong lúc bối rối và sầu não, đã đồng ý. Đó là ngày thứ ba, ba tháng sau khi Dewi Ayu trở về từ cõi chết, cũng là ngày họ thấy Đẹp nằm vật ra trên sàn phòng ngủ trong tình trạng khổ sở. Mẹ cô cố đỡ cô đứng dậy và Rosinah giúp Đẹp nằm lại lên giường. Bất ngờ ông Shodancho xuất hiện sau lưng họ và nói: “Nhìn cái bụng cô ấy kìa, cô ấy có thai gần ba tháng rồi.” Không thể tin được, Dewi Ayu chằm chằm nhìn Đẹp bằng ánh mắt không còn chút hồ nghi nào nữa mà chỉ còn là cơn giận dữ không thể phớt lờ, gặng hỏi, “Vì sao con có thai?!” “Cũng như cách mẹ có thai bốn lần thôi,” Đẹp nói. “Con cởi quần áo và làm tình với một người đàn ông.” Chương 2 -------------- Có một chuyện lạ lùng nào đó chắc chắn đã xảy ra, vì một đêm kia, một ông già bị ép phải kết hôn với cô thiếu nữ Dewi Ayu. Ông đang ngủ rất say và ngáy khò khò thì một chiếc ô tô Colibri đỗ xịch trước cửa nhà, tiếng động cơ của nó khực lên giữa đêm đen như mực làm ông giật mình tỉnh giấc. Ông già, Ma Gedik, còn chưa kịp hoàn hồn sau cú sốc đó thì việc tiếp theo ập đến như cơn bão: một gã đàn ông dữ tợn bước ra khỏi ô tô với mã tấu lủng lẳng bên hông, đá một phát vào con chó lai của ông lão đang nằm trước cửa. Con chó sủa váng lên và nhảy chồm vào định cắn hắn, nhưng nó chẳng làm được gì vì gã lái chiếc Colibri đã nhanh chóng dùng súng trường bắn nó. Con chó tru lên một tiếng trước khi chết, cùng lúc đó gã đàn ông dữ tợn xông vào túp lều bằng gỗ dán của ông già, bỏ mặc con chó nằm gục bên mép cửa. Túp lều rất tối, nó giống hang dơi hay hang thằn lằn hơn là giống nhà của một con người. Hai căn phòng trông lờ mờ dưới ánh trăng: một phòng ngủ với ông già đang ngồi ngơ ngác ở mép giường và một gian bếp có chiếc lò chất đầy tro. Mạng nhện giăng chằng chéo khắp nơi, ngoại trừ lối đi lại của ông già từ giường tới bếp lò và tới cửa. Gã đàn ông dữ tợn suýt nôn ọe vì mùi nước tiểu nồng nặc hơn bất cứ cái chuồng lợn nào, gã vơ một nắm lá cọ khô từ một đống lá gần bếp lò, gập lại châm lửa đốt cho nó biến thành ngọn đuốc. Ngay lập tức căn phòng bừng sáng với những cái bóng đung đưa, run rẩy đủ mọi hình thù và kích cỡ khác nhau. Bọn dơi bắt đầu bay tán loạn. Ông già vẫn ngồi bên mép giường, nhìn người khách không mời với vẻ ngơ ngác không vơi bớt chút nào. Điều bất ngờ tiếp theo: gã đàn ông dữ tợn chìa cho ông già một tấm bảng đen trên đó có dòng chữ viết ngay ngắn của một thiếu nữ. Ông già không đọc được nó, gã đàn ông cũng không đọc được, nhưng gã biết những gì viết trên đó. “Dewi Ayu muốn cưới ông,” hắn nói. Chuyện này đúng thật là trò đùa. Ông biết quá rõ mình mà - ông là một lão già, ông sống hơn nửa thế kỷ rồi, và ngay cả những bà góa già có chồng chết trong đầm lầy Dell hay bị ném xuống Boven-Digoel cũng thà làm việc thiện tích phúc cho kiếp sau còn hơn lấy một phu xe như ông. Vẫn còn may nếu ông nhớ được cách ôm một người đàn bà, vì thực tế là ông đã quên luôn cách ngủ với đàn bà. Lần cuối cùng ông tới nhà thổ cách đây đã nhiều năm rồi, và lần cuối cùng ông tự xử một mình, bằng tay, cũng đã từ nhiều năm trước. Vậy nên, với vẻ ngơ ngác của một gã trai làng, ông nói với gã hung tợn: “Tôi còn không chắc tôi có thể cưới cô ấy được không nữa là.” “Ông hay cái của quý con chó của ông sẽ phá trinh cô ta chả quan trọng gì sất, cô ta muốn lấy ông,” gã hung tợn gầm gừ. “Nếu không, đức ông Stammler sẽ biến ông thành bữa sáng cho bọn ajak đấy.” Câu nói khiến ông rùng mình. Nhiều người Hà Lan nuôi chó rừng để săn lợn rừng và đúng là nếu họ không thích một người bản địa, họ sẽ bắt anh ta phải chiến đấu với những con ajak đó cho tới chết. Nhưng ngay cả khi lời đe dọa đó là đúng thì cưới Dewi Ayu cũng không phải chuyện đơn giản, và ông không hiểu vì sao ông phải cưới cô ta. Và trong bất cứ trường hợp nào thì ông cũng đã thề sẽ không cưới ai nữa, vì tình yêu vĩnh viễn đã dành cho Ma Iyang, người đàn bà một ngày kia đã bay lên trời và biến mất. Người đàn bà đó là một câu chuyện khác, một kiểu tình yêu quá đẹp nên không thể kéo dài. Ma Gedik và Ma Iyang lớn lên bên nhau trong khu lều đánh cá, gặp nhau hằng ngày, cùng bơi trong một vịnh, cùng ăn một loại cá, và điều duy nhất ngăn cản họ lấy nhau lập tức chính vì tuổi của họ, vì cả hai vẫn chưa là những chàng trai, cô gái thực thụ. Không như hầu hết bọn trẻ cùng độ tuổi, đi đâu Ma Gedik cũng mang theo một ống tre đựng sữa mẹ, rất lâu sau khi cậu đã biết đi và rời lưng mẹ. Một ngày nọ Ma Iyang tò mò hỏi tại sao đã mười chín tuổi đầu mà cậu vẫn uống loại sữa đó và không hề biết nó đã hỏng từ lâu rồi. “Vì cha tôi lúc nào cũng bú sữa của mẹ tôi, cho tới khi ông ấy là một ông già.” Ma Iyang hiểu ra mọi chuyện. Phía sau một bụi cây lá nếp, cô cởi bỏ chiếc áo cánh và bảo gã trai hãy ngậm vào núm vú thon nhỏ đáng yêu của cô. Không có sữa nào chảy ra, nhưng Ma Gedik cuối cùng đã dừng việc bú mẹ và đã yêu cô gái đó suốt cuộc đời. Và mọi chuyện cứ thế trôi đi cho tới một đêm Ma Iyang bị một chiếc xe ngựa bắt mang đi, được trang điểm giống như một vũ công sintren, trông thật xinh đẹp nhưng cũng thật đau đớn. Ma Gedik, người luôn biết chuyện sau cùng, đã chạy dọc bờ biển đuổi theo chiếc xe ngựa ấy, và khi đã đuổi kịp người đánh xe, anh chạy cạnh xe, hét thật to về phía cô gái xinh đẹp: “Em đang đi đâu?” “Tới nhà một ông chủ người Hà Lan.” “Tại sao? Em không thể làm hầu gái cho người Hà Lan được.” “Không đâu,” cô gái đáp. “Em sẽ làm vợ lẽ của ông ta. Anh có thể gọi em là bà chủ Iyang.” “Vớ vẩn!” Ma Gedik hét lên. “Tại sao em muốn làm vợ bé của người ta chứ?” “Vì nếu em không làm vậy, cha mẹ em sẽ thành bữa sáng cho lũ ajak.” “Nhưng chẳng lẽ em không biết là anh yêu em sao?” “Có, em biết.” Anh vẫn cứ chạy bên chiếc xe ngựa, và họ cứ như thế, một chàng trai và một cô gái trẻ, khóc lóc vì cuộc chia ly đau khổ, chỉ có người đánh xe ngựa chứng kiến những giọt nước mắt của họ, ông cố tìm cách an ủi họ một chút và nói: “Các con không cần phải thuộc về nhau thì mới có thể yêu nhau.” Nhưng điều này chẳng giúp họ nguôi ngoai bớt chút nào, mà còn khiến Ma Gedik ngã gục xuống đống cát bên đường mà than khóc, rên rỉ cho sự bất lực của anh. Cô gái yêu cầu người đánh xe dừng lại, rồi cô trèo xuống khỏi xe, đứng trước chàng trai. Và rồi, trước những chứng nhân là ông lão đánh xe, con ngựa, bầy ếch nhái ộp oạp, lũ cú, đám muỗi và những con sâu bướm, cô gái nói ra lời thề. “Mười sáu năm nữa kể từ hôm nay, lão chủ người Hà Lan đó sẽ chán ngán em. Hãy chờ em ở đỉnh núi đá này nếu anh vẫn còn yêu em, nếu anh vẫn còn bận tâm tới thứ đồ phế thải này của một gã đàn ông Hà Lan.” Sau đó họ chẳng bao giờ còn nhìn hay nghe thấy tin tức gì về nhau nữa. Ma Gedik thậm chí còn chưa bao giờ biết gã chủ người Hà Lan đó là ai, một lão chủ háo sắc thèm khát nhục dục tới mức hắn muốn có người yêu của chính anh, một bông hoa đang rạng rỡ nhất ở tuổi mười lăm. Ma Gedik, chàng trai mười chín tuổi, thề sẽ yêu người con gái đó ngay cả khi cô ấy trở về nhà trong tình trạng thây phân trăm mảnh. Nhưng dù sao đi nữa mất đi người yêu là chuyện không đơn giản. Anh bắt đầu những năm tháng chờ đợi bằng cách trở nên điên rồ hơn mọi kẻ điên, ngu ngốc hơn mọi gã khờ và bi thảm hơn tất cả những người đang phải trải nỗi đau tang tóc. Đám bạn phu xe ngựa và thợ thuyền ở bến cảng cố an ủi bằng cách khuyên anh nên cưới một người đàn bà khác, nhưng anh lại thích đổ tiền và thời gian vào bài bạc và khật khưỡng về nhà trong trạng thái say mèm vì rượu arak hơn. Sau đó đám bạn bắt đầu thuyết phục anh tới nhà thổ, hy vọng là ít nhất thân thể một người đàn bà khác có thể làm dịu bớt nỗi đau khổ vô bờ của anh. Hồi đó chỉ có một nhà thổ duy nhất cuối bến sông. Thực ra nó được xây dựng để phục vụ đám lính Hà Lan sống trong doanh trại, nhưng sau khi dịch giang mai bùng phát, hầu hết bọn lính không còn tới đó nữa, họ thích nuôi riêng vợ bé hơn, thế là về sau những người lao động ở cảng bắt đầu tìm tới đó. “Đến nhà thổ cũng là sự phản bội giống như cưới người đàn bà khác vậy,” Ma Gedik cứng đầu nói. Tuy nhiên một tuần sau, đám bạn của anh đã kéo lê người đàn ông này, say mèm và gần như không còn biết gì nữa, tới nhà thổ đó và anh đã bỏ ra tiền công một ngày ra để ở trên giường với một người đàn bà mập ú có âm đạo to như lỗ chuột và, ngay lập tức bị mê hoặc trước những cám dỗ này, anh tự chữa lời đã nói, “Làm chuyện ấy với gái điếm thực ra không phải là phản bội, vì gái điếm chỉ được trả tiền chứ không có tình yêu.” Sau đó anh trở thành khách hàng trung thành của nhà thổ cuối bến sông, ngủ với tất cả đàn bà ở đó trong lúc vẫn thì thầm gọi tên Ma Iyang. Anh làm chuyện đó gần như mỗi dịp cuối tuần, cùng nhóm bạn vẫn luôn tốt với anh như bao lâu nay. Khi tiền bạc dư dả, mỗi người họ ngủ với một cô gái điếm, nhưng đôi khi cần tiết kiệm, năm người họ chung nhau một người đàn bà. Mọi chuyện cứ tiếp diễn như thế trong nhiều năm, cho tới khi từng người đàn ông trong số đó lần lượt lấy vợ. Điều này gây khó cho Ma Gedik, vì các bạn anh không còn thời gian để đến nhà thổ nữa - và dù sao thì bây giờ họ cũng đã có vợ để có thể ngủ vì tình yêu, không phải vì tiền nữa - và đến nhà thổ một mình đúng là điều chán đời nhất trên đời. Khi Ma Gedik cảm thấy cô đơn, anh tự thủ dâm bằng tay, nhưng rồi cách đó rốt cuộc cũng trở nên chán ngán quá sức chịu đựng, và anh lại buộc phải lẳng lặng giữa đêm một mình mò tới nhà thổ rồi trở về nhà trước khi đám ngư dân đi biển trở về. Sau một thời gian anh trở thành người kỳ cục, nếu không muốn nói là kẻ thù của mọi người, vì cứ hết lần này đến lần khác lại xảy ra một vụ om sòm trong chuồng bò của một người hàng xóm và anh lại bị bắt gặp đang cưỡng hiếp một con bò cái, hoặc thậm chí một con gà, cho tới khi ruột rà của nó lòi hết ra. Thi thoảng anh thụi một thằng bé chăn cừu rồi bắt một con cừu và làm việc đó ngay giữa cánh đồng, có lần đã khiến một bà trung niên ôm rổ lá khoai mỡ vừa chạy hết một cánh đồng lúa vừa hét lên khiếp đảm trước cảnh cuồng dâm không thể kiểm soát. Mọi người bắt đầu lánh xa anh, và anh cũng không tắm nữa. Anh ngừng ăn cơm hay bất cứ thứ gì khác ngoại trừ chính phân của mình và phân lượm được từ các vườn chuối. Gia đình và bạn bè anh vô cùng lo lắng và đã mời một ông dukun từ phương xa về, một thầy pháp nổi tiếng là có thể chữa khỏi đủ loại bệnh tật. Với chiếc áo choàng màu trắng và bộ râu rậm dài, trông ông ta giống như một vị tông đồ uyên bác. Ông thăm bệnh cho Ma Gedik trong chuồng dê, vì suốt chín tháng qua người đàn ông này bị trói tại đó, chỉ sống nhờ vào phân trong chuồng. Bình thản, vịdukun bảo với những người đang lo lắng đứng xung quanh: “Chỉ có tình yêu mới có thể chữa khỏi con người điên rồ này.” Nhưng đó là vấn đề quá khó, vì người ta không thể mang trả Ma Iyang lại cho anh, vậy nên rốt cuộc họ đành bỏ cuộc và để mặc Ma Gedik trong xiềng xích đợi chờ đằng đẵng. “Chúng đã hứa sẽ chờ đợi mười sáu năm,” mẹ Ma Gedik giận dữ nói, “nhưng chắc chắn nó sẽ tàn tạ trước khi ngày đó đến.” Bà là người đã quyết định trói anh lại, sau khi phải giết thịt con gà thứ sáu được phát hiện đang quằn quại đau đớn và ruột lòi ra nơi lỗ đít. Nhưng anh đã không tàn tạ. Thực tế, dường như anh còn rất khỏe mạnh, hai má anh hồng lên khi ngày tháng dần qua và thời điểm anh chờ đợi đang đến gần. Chiều chiều, trước khi về nhà chăn gia súc, lũ học trò nam đi chân đất thường tập trung bên ngoài chuồng dê, anh vừa bỡn cợt vừa dạy chúng cách dùng nước bọt cọ xát mơn trớn bộ phận sinh dục của mình: thế là giáo viên trong trường cấm không cho bất cứ ai được tới gần anh. Nhưng chắc chắn lũ trẻ đã thử làm những gì anh dạy chúng vì một số đứa vẫn lén lút tới chuồng dê lúc nửa đêm thì thầm với anh chúng đã phát hiện ra một cách đi tiểu mới có cảm giác thích hơn nhiều so với cách đi tiểu thông thường. “Chuyện đó sẽ còn thích hơn nữa nếu mày thử với chỗ kín của mấy đứa bé gái.” Vào buổi chiều khi một nông dân phát hiện hai đứa trẻ chín tuổi làm tình trong bụi lá dứa thơm, dân làng điên tiết chặn kín luôn cái chuồng dê ấy. Ma Gedik bị nhốt bên trong không có ai nói chuyện cùng, và đương nhiên cũng chẳng có chút ánh sáng nào. Nhưng rồi hình phạt này cũng không đánh bại được tinh thần của anh. Bất chấp thân thể bị giam giữ trong chiếc chuồng kín mít, cái miệng anh lại bắt đầu cất lên những bài hát dâm dục khiến các vị kyai đỏ chín mặt còn mọi người thì vật vã trở mình giữa đêm, run rẩy trong khổ sở. Sự trả thù này tiếp diễn nhiều tuần, nhưng đúng lúc dân làng quyết định sẽ nhét một quả dừa non vào mồm anh thì một điều kỳ diệu xảy đến. Buổi sáng đó anh không còn hát những bài ca dâm dục nữa, mà hoàn toàn ngược lại, anh hát những bản tình ca tuyệt đẹp, khiến nhiều người xúc động rơi nước mắt. Hết người này tới người kia ngừng công việc, sững sờ như đang đợi các nàng tiên tuyệt trần giáng thế, cho tới lúc một ai đó rốt cuộc nhận ra: đó chính là ngày cuối cùng trong chuỗi chờ đợi đằng đẵng của Ma Gedik. Đây là ngày anh sẽ gặp lại người yêu trên đỉnh ngọn đồi toàn đá. Những người biết anh mau chóng xúm lại tháo bỏ những tấm gỗ nhốt anh bên trong. Khi những tia sáng rọi vào chuồng dê, mùi hôi hám nồng lên như tổ chuột, họ thấy người đàn ông vẫn đang bị trói, nhưng vẫn đang hát. Họ tháo dây trói và đưa anh tới một vũng nước, cùng nhau tắm rửa cho anh, như thể anh là một đứa trẻ sơ sinh hay một ông già vừa tạ thế. Sau đó họ xức nước hoa lên thân thể anh, từ dầu hoa hồng cho tới nước hoa oải hương, rồi họ đưa cho anh quần áo ấm còn tốt, cộng thêm chiếc áo khoác và một cái quần do một người đàn ông Hà Lan bỏ đi, họ tô điểm cho anh giống như xác một người Thiên Chúa giáo chuẩn bị đặt vào quan tài. Khi tất cả những việc này xong xuôi, một trong những người bạn cũ của anh ngạc nhiên thốt lên, “Cậu đẹp trai quá, tôi sợ là vợ tôi cũng sẽ phải lòng cậu mất!” “Tất nhiên là thế rồi,” Ma Gedik kiêu hãnh. “Ngay cả lũ cừu và bọn cá sấu còn phải lòng tôi nữa là.” Và đúng như những gì vị dukun đã nói, tình yêu có thể chữa lành căn bệnh của anh, có thể chữa mọi chứng bệnh. Không ai còn lo lắng về anh nữa, mọi người đều quên những hành xử tồi tệ trong quá khứ của anh. Ngay cả những cô gái trẻ đứng sát bên cũng không còn sợ bàn tay anh sờ soạng thô thiển nữa, và người ngoan đạo vui vẻ tiếp đón anh mà không sợ tai họ sẽ phải nghe toàn những lời báng bổ. Mẹ anh tổ chức một bữa tiệc nhỏ mừng sự bình phục bất ngờ của anh với món xôi tumpengan hình nón màu vàng và một con gà được giết mổ theo đúng cách thông thường chứ không phải với bộ lòng mề lòi ra ở lỗ đít, và một vị kyai được mời tới để đọc những lời nguyện cầu may mắn và tạ ơn. Đó là một buổi sáng vui vẻ ở khu lều trại của dân chài, tại một góc xa của Halimunda vẫn còn phủ trong sương, một buổi sáng mà nhiều năm sau người ta sẽ còn nhớ mãi bất cứ khi nào họ kể lại cho con cháu nghe câu chuyện về tình cảm mãnh liệt của những người yêu nhau, điều mà nhiều thế hệ vẫn coi là chuyện một tình yêu đích thực và vĩnh cửu. Nhưng sự chờ đợi đằng đẵng mười sáu năm cuối cùng đã kết thúc trong bi kịch. Không lâu sau khi mặt trời bắt đầu thiêu đốt, người ta bắt đầu vội vã lên ô tô và ngựa, đuổi theo một người vợ lẽ đang chạy trốn lên ngọn đồi đá, chắc chắn đó là Ma Iyang. Mượn một con lừa, Ma Gedik đuổi theo những người đàn ông Hà Lan và người yêu anh, những người trong vùng cũng chạy theo anh thành một hàng dài, hệt như cái đuôi một con rắn khổng lồ. Khi họ tới thung lũng thì những người đàn ông Hà Lan cuối cùng cũng dừng lại, và Ma Gedik gào lên, liên tục gọi tên người yêu. Trông Ma Iyang quá nhỏ nhoi trên đỉnh đồi đá, nơi mà ô tô, ngựa và lừa không thể tới được. Những người Hà Lan cáu tiết nói nếu họ túm được cô, họ sẽ tống cô vào chuồng ajak. Ma Gedik đang cố trèo lên ngọn đồi, nhưng nó hiểm trở tới mức người ta không hiểu làm sao người đàn bà có thể leo tới đỉnh được. Sau những cố gắng điên cuồng, Ma Gedik đã đứng cạnh người yêu của anh, trào sôi niềm khao khát. “Anh có còn muốn em nữa không?” Ma Iyang hỏi. “Toàn bộ thân thể em đã bị liếm láp và bị tinh trùng của một gã đàn ông Hà Lan tưới lên, hắn cũng đã thọc vào chỗ ấy của em một ngàn một trăm chín mươi hai lần rồi.” “Anh cũng đã thọc vào chỗ kín của hai mươi tám người đàn bà khác nhau bốn trăm sáu mươi hai lần, và anh cũng đã tự dùng tay mình làm chuyện đó vô số lần, đó là còn chưa kể tới số chỗ kín của những con vật nữa, vậy thì chúng mình có khác gì nhau đâu.” Như thể một vị thần nhục dục đã nhập vào họ, họ siết chặt nhau hơn bao giờ hết, hôn nhau dưới cái nắng thiêu đốt của mặt trời nhiệt đới. Và như để giải tỏa niềm khao khát đã tích tụ quá lâu, họ lột phăng tất cả quần áo đang khoác trên người quẳng đi: những chiếc quần áo bay là là xuống thung lũng, xoay tròn xoay tròn như những bông dái ngựa bị gió thổi tung. Mọi người gần như không tin mắt họ nữa, vài người hét lên còn mặt những người Hà Lan chuyển sang đỏ lựng. Và rồi, không chút ngần ngừ, hai người làm tình trên một tảng đá phẳng, ngay trước mắt mọi người đã đứng đầy thung lũng như thể họ đang xem một bộ phim chiếu rạp. Những người đàn bà đoan chính kéo mép tấm mạng che mặt lại, toàn bộ đám đàn ông cửng hết lên và không dám nhìn nhau, những người Hà Lan nói: “Đúng như chúng ta vẫn thường nói, đám người bản địa hệt như lũ khỉ vậy.” Bi kịch thực sự xảy ra sau khi họ làm tình xong, khi Ma Gedik mời người yêu anh trèo xuống khỏi đồi đá và về nhà cùng anh, để rồi họ có thể lấy nhau, sống cùng nhau và yêu nhau mãi mãi. Điều đó là không thể, Ma Iyang nói. Trước khi họ đặt chân xuống được thung lũng, những người Hà Lan sẽ ném họ vào một chuồng ajak. “Vậy nên em muốn bay hơn.” “Điều đó là không thể được,” Ma Gedik nói, “em đâu có cánh đâu.” “Nếu anh tin anh có thể bay, thì anh có thể bay.” Để chứng minh điều đã nói, Ma Iyang, với tấm thân trần truồng lấm tấm những giọt mồ hôi phản chiếu ánh mặt trời nom như những hạt ngọc trai, nhảy xuống và bay về phía thung lũng, biến mất phía sau một đám mây bên dưới. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng la thét thảm thiết của Ma Gedik khi anh chạy dọc xuống sườn đồi để tìm người yêu. Mọi người cùng đổ vào tìm kiếm cô, ngay cả những người Hà Lan và đám chó hoang. Họ sục sạo mọi ngõ ngách trong thung lũng, nhưng không thể tìm thấy Ma Iyang, bất kể còn sống hay đã chết, và rốt cuộc mọi người tin rằng người đàn bà đó thực sự đã bay đi mất. Những người Hà Lan tin như vậy và Ma Gedik cũng tin thế. Và bây giờ, tất cả những gì còn lại chỉ là ngọn đồi đá ấy, mọi người đặt tên nó theo tên người đàn bà đã từ đó bay vào bầu trời: đồi Ma Iyang. Sau ngày đó, Ma Gedik đi tới vùng đầm lầy, nơi người Hà Lan không chịu được chứng sốt rét trong mùa mưa, và dựng một túp lều ở đó. Ban ngày anh kéo xe chở đầy cà phê, hạt ca cao, đôi khi cả cùi dừa và khoai từ tới bến cảng, ngoại trừ vài trao đổi ngắn với những người kéo xe khác, anh chỉ nói chuyện một mình và với những linh hồn lảng vảng xung quanh. Mọi người bắt đầu nghĩ rằng tình trạng điên loạn của anh lại tái phát, dẫu anh không còn cưỡng hiếp lũ bò cái hay gà và cũng không còn ăn phân nữa. Gần như ngay sau khi túp lều đầu tiên được dựng lên, có thêm nhiều người khác cũng bắt đầu tới khu đầm lầy, và những túp lều đó lập tức biến khu vực này thành một khu lều trại mới. Người Hà Lan duy nhất từng tới đó là một nhân viên kiểm tra được giao nhiệm vụ kiểm kê dân số, một tuần sau người ta phát hiện anh này chết vì sốt rét tại phòng trọ, đó cũng là người cuối cùng và duy nhất tới thăm Ma Gedik trong nhiều năm cho tới cái đêm gã lái chiếc Colibri bắn chết con chó lai của ông và gã đàn ông hung hãn đạp cửa xông vào nhà ông mang theo cái tin bất ngờ là Dewi Ayu muốn cưới ông. Ông không biết vì sao cô muốn cưới ông, nên một câu chuyện mờ ám bắt đầu hiện ra rất tự nhiên trong đầu ông. vẫn còn run rẩy, ông hỏi gã đàn ông bặm trợn: “Cô ta có thai à?” Có thể cô ta bị ép phải lấy ông để che đậy nỗi hổ thẹn cho một gia đình người Hà Lan. “Ai có thai cơ?” “Dewi Ayu.” “Nếu cô ấy muốn lấy ông thì chắc chắn là vì cô ta không muốn có thai,” gã kia đáp. Dewi Ayu vui vẻ đón tiếp vị hôn phu của mình. Cô yêu cầu ông đi tắm và mang quần áo đẹp cho ông mặc vì cô bảo ông rằng vị trưởng làng sẽ đến sớm. Nhưng điều đó không làm ông Ma Gedik sung sướng gì, ngược lại là khác. Ông cảm thấy đó thực ra là một thảm họa, vậy nên càng tới gần thời gian tổ chức đám cưới, ông càng trở nên ủ rũ. “Cười lên nào, anh yêu,” Dewi Ayu nói. “Nếu không, con ajak sẽ ăn thịt anh đấy.” “Nói đi, tại sao cô muốn cưới tôi?” “Suốt cả buổi sáng ông chỉ hỏi tôi có mỗi chuyện đó thế,” Dewi Ayu nói, hơi chút bực mình. “Ông nghĩ là những người khác có lý do thực sự hay ho để kết hôn sao?” “Thường thì vì họ yêu nhau.” “Và trường hợp này thì chính xác là ngược lại. Chúng ta không hề yêu nhau,” Dewi Ayu nói. “Vậy đó là một lý do tốt, phải không?” Mới chỉ mười sáu tuổi, và giống như nhiều thiếu nữ có dòng máu lai khác, cô gái này xinh đẹp. Cô có mái tóc đen nhánh và đôi mắt xanh xanh. Cô bận váy cưới bằng vải tuyn, đội chiếc mũ miện nhỏ khiến cô trông như một nàng tiên trong truyện trẻ em. Cô là người duy nhất quản lý gia đình Stammler lúc này, kể từ khi toàn bộ gia đình cô gói ghém hành lý và lũ lượt kéo nhau ra bến cảng cùng các gia đình Hà Lan khác bỏ chạy tới Úc trong lúc vẫn còn cơ hội. Quân đội Nhật đã chiếm đóng Singapore, và tuy vẫn chưa tới Halimunda, nhưng họ hoàn toàn có thể đã tới Batavia rồi. Thật ra tin về chiến tranh đã đến từ nhiều tháng trước, khi họ nghe trên đài rằng chiến tranh đã bùng nổ ở châu Âu. Lúc đó Dewi Ayu đã vào học ở trường dòng Francis, ngôi trường mà nhiều năm sau này là nơi cháu ngoại của cô, Rengganis Xinh Đẹp, bị một con chó cưỡng hiếp trong nhà vệ sinh. Cô muốn trở thành giáo viên vì lý do rất đơn giản là không muốn làm y tá. Cô thường đi đến trường với bà dì Hanneke, một giáo viên mầm non, trên chính chiếc xe hơi Colibri mà không lâu sau đã tới bắt ông Ma Gedik, và với chính người lái xe đã bắn chết con chó của ông già. Cô được học những giáo viên giỏi nhất ở Halimunda: các nữ tu dạy cô âm nhạc, lịch sử, ngôn ngữ và tâm lý. Đôi khi các thầy tu Dòng Tên từ trường dòng tới thăm sẽ giảng về giáo dục tôn giáo, lịch sử nhà thờ và thần học. Họ đều ấn tượng vì trí thông minh trời phú của cô, nhưng lo lắng về nhan sắc của cô, một số nữ tu đã cố thuyết phục cô thề nguyền sẽ sống cuộc đời nghèo nàn, thanh sạch và trinh tiết. “Không thể nào,” cô nói. “Nếu mọi người phụ nữ đều thề như vậy, loài người sẽ tuyệt chủng giống như loài khủng long vậy.” Cách nói xóc óc của cô gây lo lắng còn nhiều hơn sắc đẹp của cô. Vả lại, điều duy nhất cô thích ở tôn giáo là những câu chuyện huyền thoại, và điều duy nhất cô thích ở nhà thờ là giai điệu dịu dàng của những hồi chuông cầu nguyện Đức Bà. Khi cô đang học năm đầu tại trường dòng Francis, chiến tranh nổ ra ở châu Âu. Chiếc đài ma xơ Maria đặt trước lớp phát tin rằng quân Đức đã xâm lược Hà Lan và họ chỉ mất bốn ngày để chiếm được xứ này. Bọn trẻ bị cuốn vào bản tin và kinh ngạc khi thấy chiến tranh là sự thật chứ không chỉ là câu chuyện thuần chữ nghĩa viết trong sách sử. Hơn nữa, chiến tranh lại đã nổ ra ngay ở đất nước của tổ tiên ông bà chúng, và Hà Lan đã thất thủ. “Đầu tiên là Pháp, và nay là Đức đang chiếm đóng nó?!” Dewi Ayu nói. “Thật là một đất nước thảm hại.” “Sao cơ, Dewi Ayu, ý em là gì?”, xơ Maria hỏi. “Ý em là chúng ta có quá nhiều nhà buôn nhưng binh sĩ thì lại không có đủ.” Cô bị phạt vì lời bình luận không phù hợp, và bị bắt phải đọc thánh thi. Tuy nhiên, trong số các bạn học cùng lớp, Dewi Ayu là người duy nhất thích nghe tin tức về cuộc chiến tranh và cô thậm chí còn đi xa hơn khi đưa ra dự đoán rợn người: chiến tranh sẽ lan tới vùng Đông Ân và thậm chí tới cả Halimunda nữa. Mặc dù cô vẫn tham gia buổi cầu nguyện do các nữ tu chủ trì để cầu mong bình yên cho gia đình họ ở châu Âu nhưng Dewi Ayu không quan tâm tới điều đó lắm. Tuy nhiên nỗi lo lắng về chiến tranh cũng vẫn bao trùm cả nhà cô, nhất là vì ông bà của cô, ông Ted và bà Marietje Stammler, có rất nhiều người nhà ở Hà Lan. Họ cứ liên tục hỏi về thư từ từ Hà Lan mà chúng thì chẳng bao giờ tới. Hơn tất thảy, họ lo lắng cho cha mẹ của Dewi Ayu, Henri và Aneu Stammler, những người đã bỏ ra đi. Một buổi sáng mười sáu năm trước, họ đã bất ngờ bỏ đi, không một lời từ biệt, bỏ lại Dewi Ayu, lúc đó vẫn còn là đứa trẻ sơ sinh, ở lại. Tuy điều này khiến cả nhà tức điên lên, thực tế là họ vẫn rất lo lắng. “Bất kể chúng nó đang ở đâu, tôi vẫn hy vọng chúng hạnh phúc,” ông Ted Stammler nói. “Và nếu người Đức có giết họ, có lẽ họ vẫn tiếp tục sống hạnh phúc trên thiên đàng,” Dewi Ayu nói. Sau đó cô tự trả lời mình: “Amen.” “Sau mười sáu năm, bà không còn tức giận nữa,” bà Marietje nói. “Thay vì vậy con nên cầu nguyện rằng con có thể gặp được họ.” “Tất nhiên là con hy vọng như vậy mà bà. Họ nợ con mười sáu món quà Giáng sinh và mười sáu món quà sinh nhật, đó là còn còn chưa tính tới mười sáu quả trứng Phục sinh nữa.” Cô cũng đã biết về cha mẹ mình, Henri và Aneu Stammler. Một số người hầu trong bếp đã kể cho cô nghe chuyện đó, thì thầm thôi, vì nếu ông Ted hay bà Marietje Stammler hay được là do họ bép xép nói ra thì ắt họ bị đánh đòn. Nhưng sau một thời gian, ông bà Ted và Marietje hiểu rằng Dewi Ayu đã nghe được mọi chuyện, trong đó có cả đoạn một buổi sáng nọ họ tìm thấy cô nằm trong chiếc giỏ đặt nơi bậc cửa. Cô đang ngủ rất say, cuốn trong một chiếc chăn tã, kèm theo tờ giấy nhỏ ghi tên cô và giải thích rằng bố mẹ cô đã lên tàu Aurora tới châu Âu. Cô đã luôn ngạc nhiên rằng vì sao cô không có cha mẹ, chỉ có ông bà và một người dì. Nhưng khi biết được cả cha lẫn mẹ cô đều đã biến mất trong một buổi sáng, cô không tức giận, thật ra là ngược lại, cô thấy ngưỡng mộ họ. “Họ đúng là những nhà phiêu lưu thực sự,” cô nói với ông Ted Stammler. “Con đúng là đã đọc quá nhiều sách truyện rồi, nhóc ạ,” ông cô bảo. “Họ chắc chắn phải là rất người sùng đạo. Kinh Thánh có nói về một người mẹ bỏ con lại bên bờ sông Nile.” “Chuyện đó khác.” “Vâng, đương nhiên rồi. Con thì bị bỏ lại ở bậc cửa.” Henri và Aneu đều là con của ông Ted Stammler. Họ sống cùng nhà từ khi còn là trẻ sơ sinh, nhưng chẳng ai nhận ra họ đã phải lòng nhau - một vụ bê bối thực sự đáng hổ thẹn. Sinh ra từ bụng bà Marietje, Henri lớn hơn Aneu hai tuổi. Aneu là con của ông Ted với người vợ lẽ bản địa tên là Ma Iyang. Mặc dù Ma Iyang sống trong một ngôi nhà khác có hai gã đàn ông hung dữ bảo vệ, ông Ted lại quyết định đưa Aneu về sống cùng họ sau khi cô bé ra đời. Thoạt tiên bà Marietje phản đối việc này dữ lắm, nhưng rồi mọi sự cũng ổn thỏa sau khi hầu hết đám đàn ông đều có thê thiếp và có những đứa con hoang. Rốt cuộc bà cũng chấp nhận để cho đứa trẻ sống trong nhà mình và cho nó mang họ gia đình để tránh những điều tiếng xì xào trong giới. Họ lớn lên cùng nhau, nên họ có nhiều thời gian để yêu nhau. Henri là một thanh niên dễ mến, rất giỏi săn lợn bằng những con chó giống Borzoi (được gửi trực tiếp từ Nga sang), đá bóng giỏi, bơi cừ và là một vũ công. Trong khi đó Aneu trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, biết chơi piano và hát giọng nữ cao ngọt ngào. Ông Ted và bà Marietje cho phép họ tới dự hội chợ đêm và sàn nhảy vì đây là lúc họ được vui chơi và thậm chí có thể tìm được ý trung nhân tốt nữa. Nhưng đó lại là khỏi đầu của một thảm kịch - sau khi khiêu vũ tới nửa đêm và uống một ly nước chanh từ nhà hàng nơi tổ chức lễ hội, họ đã không về nhà. Ted rất lo lắng và đem theo hai gã đàn ông khỏe mạnh chạy đi tìm hai đứa ở khu tổ chức hội chợ đêm. Họ chỉ thấy một vòng đu quay tối mịt và im ắng, ngôi nhà ma ám đã khóa chặt, sàn khiêu vũ trống trơn, các quầy bán đồ ăn cũng đã đóng cửa và một số nhân viên nằm dài ngủ vì mệt mỏi trước quầy. Không thấy bóng dáng hai đứa trẻ ở đó, nên rốt cuộc ông Ted phải tìm hỏi bạn bè của chúng xem chúng đang ở đâu. Một đứa nói: “Henri và Aneu đi ra vịnh rồi.” Ngoài vịnh ban đêm chẳng có gì trừ một vài nhà trọ. Ông Ted đi từng nhà tìm kiếm họ và phát hiện ra hai đứa trong một căn phòng, trần truồng, bị bắt quả tang. Ông không nói một lời, và họ cũng chẳng bao giờ về lại nhà nữa. Không ai biết sau đó họ đi đâu. Có thể họ sống tại một trong những nhà trọ ấy, mưu sinh bằng những công việc lặt vặt, không thì bằng cách vay mượn tiền hoặc nhờ bạn bè giúp đỡ. Cũng có thể họ đã vào rừng sống bằng trái cây và thịt lợn rừng. Một người khác nói họ đã ở Batavia và làm việc cho một công ty xe lửa. Ông bà Ted và Marietje chưa bao giờ biết thông tin về nơi ở cũng như tình trạng của họ, cho tới một buổi sáng ông Ted phát hiện một đứa trẻ trong chiếc giỏ đặt ngoài cửa nhà mình. “Và đứa trẻ đó là con,” ông Ted nói. “Chúng đặt tên con là Dewi Ayu.” “Và sau đó họ tạo ra thêm nhiều đứa trẻ khác trên chiếc Aurora… có thể sẽ có thêm những chiếc giỏ khác đặt trước tất cả các ngôi nhà ở châu Âu,” cô gái nói. “Khi biết chuyện, bà ngoại của con rất kích động. Bà ấy chạy ra khỏi nhà như một người điên và không ai đuổi bắt được, kể cả bằng ngựa và ô tô. Chúng ta đã thấy bà ấy trên đỉnh ngọn đồi đá, nhưng bà ấy không bao giờ xuống nữa, bà ấy bay đi mất rồi.” “Bà Marietje bay đi ấy ạ?” Dewi Ayu hỏi. “Không, là bà Ma Iyang.” Người vợ bé, người bà khác của Dewi Ayu. Theo lời ông cô, nếu cô ngồi ở phía hè sau nhìn về hướng Bắc, cô sẽ thấy hai ngọn đồi đá nhỏ. Ngọn đồi phía Tây chính là nơi bà Ma Iyang đã bay đi và biến mất vào bầu trời, và người dân địa phương đặt tên ngọn đồi ấy theo tên bà: Ma Iyang. Thật ấn tượng, nhưng cũng thật buồn. Buổi chiều Dewi Ayu thường ngồi một mình nhìn về phía ngọn đồi ấy, hy vọng sẽ trông thấy bà của cô vẫn đang bay ở đó như một con chuồn chuồn. Chỉ chiến tranh mới làm chệch hướng mối quan tâm của cô, và thế là Dewi Ayu bắt đầu ngồi thường xuyên hơn trước chiếc radio lắng nghe các bản tin từ chiến tuyến. Tuy chiến tranh còn ở rất xa nhưng tại Halimunda người ta đã cảm nhận được ảnh hưởng của nó rồi. Cùng với một số người Hà Lan khác, ông Ted Stammler đồng sở hữu một đồn điền trồng dừa và ca cao lớn nhất huyện. Vì chiến tranh, hoạt động giao thương toàn cầu đình đốn. Thu nhập của họ sa sút và dường như việc kinh doanh của họ cũng sụp đổ. Các gia đình phải sống tằn tiện hơn. Bà Marietje chỉ còn mua thực phẩm từ mấy người bán rong đi từ nhà này sang nhà khác. Dì Hanneke cũng phải bỏ thói quen xem phim ở rạp và mua đĩa nhạc. Ngay cả ông Willie người Indonesia làm bảo vệ kiêm thợ máy cho họ cũng phải cắt giảm số đạn sử dụng cho súng của ông và xăng cho chiếc Colibri. Trong khi đó Dewi Ayu phải tạm sơ tán tới ký túc xá trường. Đó cũng là cách các nữ tu dòng thánh Francis cố giúp đỡ mọi người trong thời chiến; họ mở rộng cửa ký túc xá không tính tiền. Và lúc này, tất cả bài học ở trường đều đầy ắp những lo âu rằng chiến tranh rốt cuộc sẽ ập tới ngay sân trước nhà mình. Dewi Ayu, quá rốt ruột với những bài thuyết giáo vô tận, đã đứng dậy nói to: “Thay vì cứ ngồi đây mà nói như vậy, tại sao chúng ta không học cách bắn súng trường và súng đại bác chứ?” Các nữ tu đuổi học cô một tuần và chỉ vì đang có chiến tranh nên ông cô mới không phạt thêm nữa. Cô trở lại trường ngay sau trận bom ném xuống Trân Châu Cảng và xơ Maria, người luôn dạy môn sử với vẻ mặt vui vẻ, nghiêm trang nói: “Đã đến lúc người Mỹ can thiệp vào rồi.” Họ nhận ra lúc này chiến tranh đã rất gần rồi, nó đang từ từ bò đến như một con thằn lằn trong đám cỏ, chậm rãi nhưng chắc chắn sẽ đem đạn và máu tới phủ khắp mặt đất. Ý kiến của Dewi Ayu lúc này có vẻ như là lời tiên đoán, nhưng hóa ra không phải lính Đức mà là lính Nhật đang tiến vào. Giống như con hổ đái lên những vùng lãnh thổ mở rộng của mình, lá cờ có hình mặt trời mọc bắt đầu tung bay ở Philippines, và rồi thật bất ngờ nó tung bay ở cả Singapore nữa. Ở nhà, chuyện này còn gây ra nhiều vấn đề lớn hơn. Giống như tất cả đàn ông trưởng thành, ông Ted Stammler, vẫn chưa già, nhận được giấy triệu tập nhập ngũ bắt buộc. Đây là tình huống khó khăn hơn nhiều so với chỉ cố gắng tiết kiệm tiền. Dì Hanneke thổn thức đưa cho ông vài lá bùa hộ mệnh còn Dewi Ayu khuyên ông: “Bị kẻ thù bắt còn tốt hơn bị bắn chết.” Ông Ted ra đi mà không ai biết ông được điều tới đâu, mặc dù gần như chắc chắn ông sẽ được điều tới Sumatra để đối đầu với quân Nhật đang mau chóng tiến vào Java. Cùng với những người đàn ông khác, hầu hết từ các gia đình có đồn điền, ông Ted bỏ Halimunda và gia đình lại phía sau. “Tôi thề bằng chính sinh mạng của mình là ông ấy thậm chí chưa từng bắn một con lợn, khả năng ngắm bắn của ông ấy tệ lắm,” bà Marietje nói qua làn nước mắt khi chia tay ông tại quảng trường thị trấn. Lúc này bà đã thay chồng giữ vai trò đầu tàu của cả nhà, trông bà đau khổ tới mức con gái và cháu gái phải cố an ủi bà. Ông Willie gần như ngày nào cũng đến - ông không bị bắt lính vì ông là một người Indo chưa từng đăng ký làm công dân Hà Lan, và thêm nữa, ông què một chân sau lần bị một con lợn rừng lao vào. “Bà bình tĩnh đi bà ơi, mắt của người Nhật bé tới mức họ không thấy được Halimunda trên bản đồ đâu,” Dewi Ayu nói. Tất nhiên cô chỉ đang cố làm cho bà Marietje nhẹ nhõm hơn, nhưng bà thậm chí không thể cười nổi một chút nào nữa. Không khí u ám bao trùm toàn thành phố. Chợ đêm đóng cửa, cũng không ai tới câu lạc bộ nữa. Không còn khiêu vũ và văn phòng đồn điền chỉ còn một nhóm người già yếu canh gác. Mọi người chỉ gặp nhau tại bể bơi để ngâm mình trong im lặng. Cũng trong khoảng thời gian đó, tất cả người Nhật từng sống ở Halimunda đều biến mất. Vài người trong số họ là nông dân, một số người từng là thương nhân, một người từng là thợ chụp ảnh và vài người thậm chí từng là diễn viên nhào lộn trong rạp xiếc, nhưng khi tất cả họ đột nhiên biến mất, mọi người mới nhận ra rằng lâu nay mình đã sống giữa những tên gián điệp của kẻ thù. Chỉ có người bản địa không lo lắng vì những việc này - họ vẫn làm mọi việc như đã luôn làm. Phu xe vẫn kéo nhau hàng đoàn ra bến cảng vì việc giao thương vẫn tiếp diễn và tàu chở hàng vẫn chạy. Nông dân vẫn làm việc trên đồng và ngư dân vẫn đi ra biển mỗi đêm. Lính chính quy đã tới cảng ở Halimunda, giờ đây trở thành cảng lớn nhất trên toàn khu vực bờ biển phía Nam Java và là cửa ngõ mà làn sóng di cư tới Úc thường nhắm tới. Thoạt đầu nó chỉ là một cảng cá thông thường ở cửa lớn của sông Rengganis, chứ không giống một cảng cá theo truyền thống đi biển. Người dân từ vùng ven biển và sâu trong đất liền tập trung ở đó để trao đổi hàng hóa. Ngư dân đổi cá, muối và mắm ruốc để lấy gạo, rau và gia vị. Và trước đó rất lâu, Halimunda chẳng là gì ngoài một vạt rừng toàn đầm lầy, một vùng sương mù phủ đặc chẳng thuộc về ai. Một bà hoàng thuộc thế hệ cuối cùng của vương quốc Pajajaran đã chạy tới vùng này và đặt tên cho nó. Các thế hệ cháu con của bà đã gây dựng nó thành làng mạc, thị trấn. Vương quốc Mataram đày ải tới đó những hoàng tử chống đối triều đình và người Hà Lan thoạt đầu hoàn toàn không quan tâm tới huyện này - những đầm lầy đe dọa bệnh sốt rét, nạn lụt không thể kiểm soát và các con đường trong tình trạng khủng khiếp. Con tàu lớn đầu tiên cập vào nơi đó là vào khoảng giữa thế kỷ mười tám, một con tàu của Anh có tên The Royal George, nó chỉ vào để lấy nước ngọt chứ không buôn bán gì. Tuy nhiên điều này khiến chính quyền Hà Lan hơi khó chịu, ngờ rằng người Anh trên thực tế đã mua cà phê và bột chàm và có thể cả ngọc trai, có lẽ còn buôn lậu cả vũ khí qua Halimunda để cất giữ tại Diponegoro. Vậy là rốt cuộc một đoàn thám hiểm Hà Lan đã tới khu vực đó xem xét và lập bản đồ. Một trung úy, hai trung sĩ, hai hạ sĩ và khoảng sáu mươi binh sĩ vũ trang là những người Hà Lan đầu tiên tới sống tại đó, và đơn vị đồn trú của họ đã mở một trạm gác ở Halimunda. Đó là sau khi chiến tranh Diponegoro kết thúc, khi Hệ thống Canh tác đã bắt đầu. Trước khi có đơn vị đồn trú này, và trước khi người Hà Lan bắt đầu trồng cây ca cao, sản lượng thu hoạch cà phê và bột chàm tăng nhiều trên toàn khu vực sâu bên trong Halimunda, và người ta vận chuyển sản phẩm qua tuyến đường nội bộ tắt ngang qua Java để tới Batavia. Lộ trình này có rất nhiều rủi ro: hàng hóa có thể bị hỏng trên đường vận chuyển, dọc tuyến đường cũng nhiều trộm cướp. Nay với một đơn vị đồn trú tại Halimunda và cảng biển đã được mở, người ta có thể chất sản phẩm thu hoạch lên tàu gửi thẳng tới châu Âu bán. Đường sá cũng được mở rộng hơn để xe ngựa và xe goòng di chuyển được. Hệ thống kênh mương cũng được đào để tránh lũ lụt và các nhà kho được xây dựng khắp nơi quanh cảng. Mặc dù chưa bao giờ quá quan trọng khi so sánh với các cảng ở phía Bắc, nhưng Halimunda cũng khiến chính phủ thực dân chú ý, và rốt cuộc cảng này được mở cho các hoạt động buôn bán tư nhân. Tất nhiên doanh nghiệp đầu tiên hoạt động ở thành phố là Nederlandsch Indisch Stoomvaartmaatshappij sở hữu một số tàu buồm. Một số doanh nghiệp kinh doanh kho bãi cũng được thành lập, nhất là sau khi đường sắt khai trương, chạy xuyên qua hòn đảo từ Đông sang Tây. Tuy nhiên hóa ra thương mại chẳng bao giờ thực sự đạt tới thời kỳ hoàng kim của nó - thay vì vậy, sau khi thành lập đơn vị đồn trú đầu tiên, chính phủ thực dân phát triển khu Halimunda thành một căn cứ quân sự. Họ đã nhìn ra lợi thế chiến lược của nó, là một cảng biển lớn duy nhất ở bờ biển phía Nam, thành phố này có thể trở thành cửa sau để người Hà Lan có thể di tản tới Úc mà không cần phải vượt qua Sunda hay eo Ball trong trường hợp chiến tranh xảy ra. Họ bắt đầu xây dựng pháo đài và lắp đặt súng thần công để bảo vệ cảng biển và thành phố. Các tháp canh được xây trên những đỉnh đồi trong rừng, dọc theo đúng phần mũi đất mà nhiều năm trước bà hoàng dòng dõi vương triều Pajajaran đã sống. Một trăm lính pháo binh được đưa tới. Hai mươi năm sau, hai mươi lăm khẩu súng thần công Armstrong đồ sộ được lắp đặt và vào đầu thế kỷ hai mươi kế hoạch phòng thủ đạt tới đỉnh cao với việc xây dựng thêm doanh trại quân đội. Đó là khởi đầu cho rất nhiều thứ khác ở Halimunda: các nhà thổ, câu lạc bộ tư nhân, bệnh viện, những nỗ lực triệt tận gốc bệnh sốt rét, và doanh nhân người Hà Lan bắt đầu tràn vào thành phố, vài người trong họ lập đồn điền trồng ca cao và ở lại nhiều năm. Khi chiến tranh nổ ra và Đức chiếm được Hà Lan, tất cả các căn cứ quân sự đều được nâng cấp và ngay cả binh sĩ cũng được điều động thêm tới thành phố này. Rồi đài truyền thanh thông báo hai chiến hạm của Anh, The Prince of Wales và Repulse đã bị Nhật Bản đánh chìm và bán đảo Mã Lai rơi vào tay kẻ địch. Chiến thắng của người Nhật không dừng ở đó. Không lâu sau khi bán đảo Mã Lai bị chiếm đóng, thượng tướng Arthur Percival, tư lệnh lực lượng quốc phòng Anh, đã ký giao nộp Singapore, từ lâu vốn được đồn là pháo đài kiên cố nhất của Anh. Mọi thứ càng tệ hơn nữa, dẫn tới một buổi sáng kia, một người quản lý tới các nhà dân ở Halimunda và nói một điều khiến mọi người thất kinh: “Surabaya đã bị Nhật Bản đánh bom.” Những người lao động bản địa dừng làm việc và mọi hoạt động buôn bán cũng dừng luôn. “Bà phải di tản thôi thưa bà,” họ nói với bà Marietje Stammler, nhưng bà Marietje cùng dì Hanneke và Dewi Ayu không đáp lại. Thành phố mau chóng đầy ắp người tị nạn đổ tới bằng tàu lửa hoặc ô tô riêng, những ô tô vứt ngổn ngang tràn ra ngoài phạm vi thành phố, lấp đầy các dòng kênh trong lúc chủ nhân của chúng xếp hàng hết đêm này qua đêm khác chờ cơ hội được lên một chiếc tàu. Khoảng năm mươi tàu quân sự đã tới cảng để hỗ trợ cuộc di tản. Mọi thứ đều hỗn loạn, và vùng Đông Ấn thất thủ dường như là chuyện không thể tránh khỏi. Sau khi được người ta đảm bảo về việc khi nào họ có thể ra đi, các thành viên còn lại trong gia đình Stammler vội vã bắt tay gói ghém đồ đạc, nhưng họ ngạc nhiên trước tuyên bố bất ngờ của Dewi Ayu: “Con sẽ không đi đâu.” “Đừng ngốc thế, bé con,” dì Hanneke nói. “Nước Nhật sẽ không bỏ qua cháu đâu.” “Dù thế nào đi nữa, vẫn phải có một người Stammler ở lại đây,” cô bướng bỉnh nói. “Cả bà và cháu đều biết rõ chúng ta còn phải chờ ai nữa.” Bật khóc trước sự cứng đầu của cô, bà Marietje rên rỉ, “Họ sẽ biến cháu thành tù nhân chiến tranh mất!” “Bà ơi, tên cháu là Dewi Ayu, và mọi người đều biết đó là tên của một người bản địa mà.” Sau khi người Nhật đánh bom phá hủy Surabaya, họ tiếp tục nhắm tới mục tiêu của họ, Tanjung Priok. Một số quan chức cao cấp trong chính phủ thực dân là những người đầu tiên di tản. Bà Marietje và bà Hanneke Stammler rốt cuộc cũng đã lên con tàu hơi nước khổng lồ Zaandam mà không hay biết gì về số phận của ông Ted trên chiến trường và bỏ lại Dewi Ayu như cô khăng khăng muốn vậy. Con tàu đã chở vô số hành khách ngược xuôi rất nhiều lần, nhưng đây là hành trình cuối cùng của nó: tàu Zaandam và một tàu khác đã vô tình đụng phải một tàu tuần dương của Nhật Bản và cả hai tàu đã chìm mà không có bất cứ cuộc chiến nào. Dewi Ayu cùng ông Willie, những người hầu khác và các thanh niên khỏe mạnh bắt đầu những ngày tang tóc. Một lực lượng bộ binh Nhật Bản từ sư đoàn bốn mươi tám đã đặt chân tới Kragan sau cuộc chiến tại Bataan, Philippines. Một nửa số họ di chuyển tới Malang qua Surabaya, nửa kia tới Halimunda, họ tự đặt tên là lữ đoàn Sakaguchi. Máy bay Nhật cũng đã bay trên trời và ném bom các cơ sở lọc dầu của Mexolie Olvado thuộc về Bataafse Petroleum Maatschappij, ném bom lên khu nhà của công nhân và lên văn phòng các đồn điền ca cao và dừa. Lữ đoàn Sakaguchi chiến đấu với lực lượng quân đội KNIL của Hà Lan đang chốt chặn bên ngoài thành phố mới được hai ngày thì tướng P. Meijer nhận được tin báo Hà Lan đã đầu hàng ở Kalijati. Toàn bộ vùng Đông Ấn đã bị lật đổ và chiếm đóng. Tướng P. Meijer giao nộp quyền kiểm soát Halimunda cho quân Nhật Bản tại tòa thị chính của thành phố. Dewi Ayu nhìn và nghe tất cả những sự việc này bằng chính tai và mắt của cô, tuy nhiên vì đang trong thời gian để tang, cô không nói với bất cứ ai, cô chỉ ngồi ngoài hiên sau nhà, nhìn về phía ngọn đồi mà ông Ted từng nói được đặt theo tên bà Ma Iyang. Một buổi chiều cô thấy ông Willie xuất hiện ở sân sau, dắt theo con chó borzoi mà người ta bảo từng là con chó của cha cô trước đây, ông Henri. Lần đầu tiên kể từ khi thời kỳ để tang bắt đầu, cô lên tiếng. “Một người thì bay đi mất, người kia thì chết đuối.” “Chuyện gì vậy, thưa cô chủ?” ông Willie hỏi. “Ồ, tôi chỉ đang nhớ tới các bà của tôi thôi,” cô đáp. “Cô phải làm gì đó thôi cô chủ ạ, những người làm đang hoang mang quá. Chẳng phải lúc này cô là chủ của gia đình này hay sao?” Cô gật đầu. Tối đó khi mặt trời đã lặn cô ra lệnh cho ông Willie tập hợp đám gia nhân trong nhà lại: những người nấu bếp, các cô hầu gái, làm vườn, bảo vệ. Cô bảo họ rằng giờ đây cô là bà chủ duy nhất của gia đình này. Tất cả mệnh lệnh của cô phải được thực hiện, không ai được phép phản đối. Cô sẽ không đánh phạt ai, nhưng nếu ông Ted Stammler về nhà, ông sẽ đánh phạt tất cả những kẻ không tuân lệnh, quẳng họ vào chuồng nhốt ajak. Mệnh lệnh đầu tiên của cô dường như chẳng khiến ai lo sợ mà chỉ làm họ ngạc nhiên và không hiểu gì cả. “Đêm nay, ai đó phải tới bắt cóc một ông già tên là Ma Gedik từ khu nhà trong đầm lầy,” cô nói. “Vì sáng mai ta sẽ cưới ông ấy.” “Đừng đùa thế, thưa cô chủ,” ông Willie nói. “Hãy làm đi và cứ cười nếu ông nghĩ là tôi đang đùa.” “Nhưng linh mục đã biến mất và nhà thờ cũng đã bị bom phá nát thành trăm mảnh rồi!” “Vẫn còn có ông trưởng làng.” “Cô chủ, cô đâu phải người theo đạo Hồi chứ?” “Không, nhưng tôi cũng không phải người theo đạo Thiên Chúa, đã lâu lắm rồi.” Đó là sự khỏi đầu của cuộc hôn nhân giữa Dewi Ayu với ông Ma Gedik. Một ông già khốn khổ kết hôn với một cô gái trẻ xinh đẹp: tin này mau chóng loang ra mọi ngõ ngách thành phố - ngay cả những người Nhật vừa tới cũng nghe thấy chuyện đồn đại này. Trong khi đó những người Hà Lan vẫn chưa thể thoát thân đã thông qua người làm gửi thư hỏi xem chuyện này có thực hay không, một số người bắt đầu kể lại vụ bê bối hổ thẹn của cha và mẹ cô. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không cưới cô?” cuối cùng ông Ma Gedik hỏi, một lúc sau khi trưởng làng đã tới. “Ông sẽ trở thành bữa tối cho lũ ajak.” “Vậy hãy để chúng ăn thịt tôi đi.” “Và đồi Ma Iyang sẽ bị san phẳng.” Với lời đe dọa kinh khủng đó, ông đành bất lực chấp nhận làm đám cưới với Dewi Ayu vào khoảng chín giờ sáng hôm đó, đúng lúc binh lính Nhật bắt đầu cử hành buổi lễ đánh dấu sự chiếm đóng thành phố. Không ai được mời tới chúc mừng đám cưới của họ ngoại trừ những người giúp việc và bảo vệ. Ông Willie trở thành nhân chứng và trong suốt lễ cưới, ông Ma Gedik liên tục run rẩy lắp bắp tới mức không thể nói chính xác những lời tuyên thệ. Cuối cùng ông sụp xuống, bất tỉnh, và người trưởng làng hợp thức hóa cuộc hôn nhân của họ. “Ông già tội nghiệp,” Dewi Ayu nói. “Nếu ông Ted không bắt bà Ma Iyang làm thiếp thì đáng lẽ ra ông là ông của tôi rồi.” Chiều hôm ấy khi ông Ma Gedik hồi tỉnh lại, ông nhận ra mình đã là chồng của Dewi Ayu mà không hiểu mọi sự diễn ra như thế nào, ông kinh hoàng nhìn cô như thể cô là một con quỷ cái. Ông không chịu đụng vào người cô, rú lên mỗi khi cô tìm cách lại gần ông và ném vào cô bất cứ thứ gì ông vớ được. Khi Dewi Ayu dịu đi một chút, ông thu mình lại trong góc phòng, run rẩy khóc như đứa trẻ trong nôi. Dewi Ayu kiên nhẫn chờ đợi, cô ngồi không xa ông lắm, vẫn đang mặc đồ cưới. Thi thoảng cô lại dỗ dành ông hãy đến gần vuốt ve cô, thậm chí làm tình với cô nữa, vì giờ cô đã là vợ của ông. Nhưng cứ mỗi khi ông Ma Gedik lại chực hét lên, cô sẽ dừng việc dỗ dành, lặng lẽ trở về chỗ của mình, nhoẻn cười với ông và sau đó lại tiếp tục kiên trì cố gắng. “Sao ông lại sợ tôi? Tôi chỉ muốn ông chạm vào tôi, và tất nhiên là ngủ với tôi, vì ông là chồng tôi mà.” Ông Ma Gedik không trả lời. “Hãy nghĩ mà xem, cứ cho rằng chúng ta lấy nhau và ông không ngủ với tôi,” cô tiếp tục. “Tôi sẽ không bao giờ có thai và mọi người sẽ bảo là cái đó của ông nó chẳng còn hoạt động được nữa.” “Cô đúng là con quỷ cái chuyên dụ dỗ,” cuối cùng ông Ma Gedik lắp bắp. “Tôi là người đàn bà quyến rũ xinh đẹp,” Dewi Ayu nói thêm. “Cô không còn trinh nữa.” “Đương nhiên chuyện đó không đúng!” Dewi Ayu nói, hơi bực bội. “Hãy ngủ với tôi đi rồi ông sẽ thấy là ông sai rồi.” “Cô không còn trinh nữa, và cô đã có bầu, và cô muốn tôi là người đổ vỏ chứ gì.” “Không đúng.” Cuộc tranh cãi của họ kéo dài tới nửa đêm, và rạng sáng hôm sau, không ai chịu thay đổi quan điểm. Khi ngày mới đã tới và ánh sáng tràn vào phòng tân hôn của họ, Dewi Ayu quá mệt mỏi với những tiếng la hét kích động của người đàn ông nên thôi chẳng cố lại gần ông ta nữa. Cô cởi bỏ toàn bộ quần áo trên người, váy cưới và mũ miện, ném lên giường. Hoàn toàn trần truồng, cô đứng trước mặt người đàn ông vẫn đang bị kích động, nói lớn vào tai ông ta: “Làm đi, rồi ông sẽ thấy tôi vẫn còn trinh!” “Tôi thề với quỷ là tôi sẽ không làm chuyện đó, vì tôi biết rõ cô không còn trinh nữa!” Thế là Dewi Ayu thọc ngón tay giữa vào âm đạo, thật sâu vào trong, ngay trước mũi Ma Gedik. Cô khẽ rên rỉ vì đau đớn, run lên mỗi khi ngón tay cô thọc vào giữa hai chân, cho tới khi cô lôi nó ra và chỉ cho Ma Gedik thấy. Một giọt máu vẫn còn vương lại trên ngón tay cô, cô liền dùng nó quệt một đường thẳng từ đỉnh trán của ông Ma Gedik xuống dưới mép cằm đang run lẩy bẩy của ông. “À, giờ thì chắc đúng rồi,” Dewi Ayu nói. “Giờ thì tôi không còn trinh tiết nữa.” Cô bỏ đi tắm và sau đó ngủ trên giường cưới của mình, như thể chẳng hề bận tâm tới ông già đang run rẩy trong góc phòng. Cô đã không được nghỉ ngơi chút nào suốt cả một ngày một đêm, vậy nên cô ngủ rất say, không buồn phản ứng khi người hầu cố đánh thức cô dậy ăn bữa trưa. Buổi chiều cô tỉnh dậy và chẳng hề bận tâm tới ông Ma Gedik, cô đi ngay tới bàn, ăn uống đầy khoái trá, không trò chuyện gì với những người phục vụ đứng cạnh nhìn cô và chờ mệnh lệnh. Khi trở lại phòng, cô nhận ra ông già đã đi đâu mất. Cô tìm ông trong nhà tắm, trong vườn, trong bếp, nhưng không thấy. Cuối cùng Dewi Ayu hỏi một trong những người bảo vệ ở phía trước nhà. “Ông ấy vừa bỏ chạy vừa hét như thể trông thấy quỷ vậy, thưa cô chủ.” “Anh không bắt ông ấy lại à?” “Ông ấy chạy nhanh quá, hệt như bà Ma Iyang chạy mười sáu năm trước,” người bảo vệ nói. “Nhưng ông Willie đuổi theo ông ấy bằng ô tô rồi.” “Và bắt được ông ta chưa?” “Chưa ạ.” Cô chạy ra chuồng ngựa và gia nhập cuộc truy đuổi trên lưng ngựa. Dewi Ayu đoán là, mặc dù cô đoán hơi nhầm, người đàn ông đó chạy về phía đỉnh ngọn đồi đá nơi bà Ma Iyang đã bay xuống và biến mất trong đám sương mù. Nhưng hóa ra ông Ma Gedik không chạy về ngọn đồi đó, mà chạy tới một ngọn đồi khác nằm ở phía Đông. Sau khi hỏi vài người dân bên đường, họ lấy thêm một số vỏ lốp xe Colibri, chiếc xe đã đưa họ tới chân ngọn đồi đó. Dewi Ayu thấy ông Willie đang ngồi trên thanh cản va chạm phía đuôi xe, trông có vẻ như ông không thể lái xe cao hơn được nữa. “Ông ấy đang ngồi hát trên đỉnh đồi,” ông Willie nói. Dewi Ayu nhìn lên và thấy ông Ma Gedik đang ngồi trên tảng đá mà hát như một ngôi sao opera biểu diễn trên sân khấu. Cô nghe loáng thoáng tiếng hát của ông, nhưng cô không biết đó chính là bài ông đã hát nhiều năm trước đây, vào đúng ngày cuối cùng trong chuỗi mười sáu năm trời đợi bà Ma Iyang. “Chắc chắn ông ấy sẽ nhảy xuống, giống như người yêu của ông ấy,” ông Willie nói tiếp. “Và ông ấy sẽ bay vào trong mây, biến mất phía sau làn sương mù.” “Không,” Dewi Ayu nói. “Ông ấy sẽ lao xuống đống đá và tan thây như một đống thịt bò bị băm nhừ.” Và đó đúng là những gì đã xảy ra: ngay khi hát xong bài hát, ông Ma Gedik nhảy vào không trung. Có vẻ như ông sẽ bay, quá đỗi sung sướng, nhiều năm nay chẳng ai từng nhìn thấy ông vui như vậy. Hai cánh tay ông đập đập như cánh chim, nhưng chúng không khiến thân thể ông bay cao hơn chút nào, và ông rơi xuống với tốc độ mỗi lúc một nhanh. Mặc dù biết rõ điều gì đang chờ mình ở bên dưới, ông vẫn mỉm cười và hò reo, đầy phấn khích. Ông lao sầm xuống những tảng đá, thân thể nát bươm thành những mảnh nhỏ kinh khủng, hệt như Dewi Ayu đã đoán trước. Họ mang những mảnh thi thể của ông, trông giống một thứ nước xuýt hay hỗn hợp bột lỏng hơn là xác người chết, về nhà chôn cất tử tế. Dewi Ayu đặt tên ngọn đồi đó là đồi Ma Gedik, nhô ra ngay bên cạnh đồi Ma Iyang, và quyết định để tang một tuần. Cuối thời kỳ để tang, cô lại nhận được tin ông Ted Stammler đã ngã xuống trong lúc bảo vệ Batavia ở trận chiến cuối cùng trước khi Hà Lan đầu hàng. Thi thể của ông chẳng bao giờ được đưa về, nhưng Dewi Ayu vẫn quyết định để tang thêm một tuần nữa. Cuối thời kỳ để tang lần hai, hài lòng vì không còn phải nhận thêm tin buồn đau nào nữa, cô lột bỏ hết tang phục. Rồi cô bận lên người những quần áo vui vẻ, trang điểm cho mình xinh đẹp, đi chợ như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Nhưng lúc trở về nhà, cô nghe thấy một điều còn đáng kinh ngạc hơn cả tin về một cái chết khác. Ông Willie, bận áo khoác cùng chiếc cà vạt, đôi giày da bóng lộn, tiến tới gần cô bảo rằng ông có một việc quan trọng muốn trao đổi. Dewi Ayu nghĩ rằng có lẽ người đàn ông này sẽ bỏ đi và tới Batavia tìm việc làm, hoặc ông sẽ gia nhập quân đội Nhật Bản. Tuy nhiên chẳng phỏng đoán nào của cô thậm chí là gần đúng. Mặt ông Willie đỏ bừng vì bối rối, tới lúc nói ông cũng chẳng nói được gì bí mật. Ông chỉ thốt ra vài từ nhưng chỉ chừng đó cũng khiến cô nghẹt thở: “Cô chủ,” ông nói. “Hãy cưới tôi đi.” Chương 3 -------------- Dewi Ayu đã quên mất rằng quân Nhật sẽ không thể nào giành được chiến thắng trong cuộc chiến nếu họ không nắm được thông tin gì, ví dụ như thực tế rằng cô là con của một gia đình Hà Lan. Không phải khuôn mặt hay làn da của cô tiết lộ bí mật đó, mà chính là hồ sơ dân cư của thành phố, toàn bộ các hồ sơ lưu trữ đó bây giờ người Nhật đã kiểm soát được, vậy nên họ sẽ không tin cô là người bản địa, bất kể tên cô có phải là Dewi Ayu hay không. “Tôi đoán đó là lý do,” cô nói. “Cũng giống như người ta biết gã Multatuli là một tay nát rượu và hoàn toàn không phải là người Java.” Cô thấy mình đơn độc, nhớ tiếc quá khứ, lắng nghe chiếc máy hát quay những bản nhạc yêu thích nhất của ông, Giao hưởng Dang dở của Schubert và bản Scheherazade của Rimsky-Korsakov, đồng thời suy nghĩ về việc nên trả lời lời cầu hôn của ông Willie ra sao. Cô biết ông Willie là người rất tốt - cô thậm chí từng hy vọng ông có thể lấy dì Hanneke của cô. Làm một người tốt như vậy thất vọng thì cũng nặng nề chẳng khác gì liều kết hôn với ông ta, nhưng dù tình huống nào thì sau cuộc hôn nhân ồn ào với ông Ma Gedik, cô cũng chưa từng có ý định sẽ tái hôn với ai khác nữa. Ông Willie tới Halimunda vào lúc ông cô đặt mua chiếc Colibri từ một cửa hàng Velodrome tại Batavia để thay cho chiếc Fiat cũ kỹ. Công ty này thuộc về một doanh nhân tên là Brest van Kempen, một người tốt bụng cho mọi người mua ô tô theo hình thức trả góp. Ông cô không cần phải trả góp, nhưng bạn bè đã mách ông về gói khuyến mại kèm theo mà hãng Velodrome đang chào mời - chiếc ô tô sẽ được bảo hiểm tai nạn hoàn toàn miễn phí, được sửa chữa tại một ga ra chất lượng cao, và họ còn cung cấp miễn phí một tài xế có kinh nghiệm trong việc xử lý các loại động cơ. Ông cô đã trở về nhà cùng ông Willie, người đã trở thành lái xe kiêm thợ máy, vô cùng hữu dụng vì họ cần một người coi sóc thiết bị máy móc ở đồn điền. Ông Willie có khổ người tầm thước, khoảng trên dưới ba lăm tuổi. Áo khoác của ông chẳng bao giờ cài cúc, quần áo ông lúc nào cũng bê bết dầu mỡ, và ông mang một khẩu súng lục để bắn chuột và lợn. Đó là khi Dewi Ayu mới mười một tuổi, năm năm trước khi ông cầu hôn với cô. “Hãy nghĩ lại đi thưa ông,” cô nói. “Tôi chỉ là một người đàn bà điên rồ.” “Nhìn cô tôi không thấy bất cứ dấu hiệu nào của sự mất trí cả,” ông Willie nói. “Khi ông Ma Gedik chết, tôi nhận ra tôi cưới ông ấy chỉ vì quá giận chuyện ông Ted đã hủy hoại tình yêu của ông ấy. Vậy đó, rõ ràng là tôi điên rồi.” “Cô chỉ hơi vô lý thôi.” “Đó là một cách nói khác về sự điên rồ, thưa ông.” Nhưng nay, sự cứu giúp mà cô cần đã tới: cô có thể bỏ chạy và tránh không phải đáp lại lời cầu hôn của ông ta. Đó là một buổi sáng yên tĩnh và chiếc đĩa hát vẫn chưa phát xong bài hát cuối cùng thì cô trông thấy những xe tải quân sự dàn hàng trên bãi biển, sẵn sàng lùng bắt tất cả cư dân người Hà Lan còn sót lại để đưa tới trại tù. Ngày trước đó, lính tráng đã tới nhà của họ ra lệnh phải thu vén đồ đạc. Đêm đó, không nói gì với bất cứ ai, nhất là không nói với ông Willie, Dewi Ayu gói ghém đồ đạc. Cô không mang theo nhiều, chỉ một va li chất đầy quần áo, một cái chăn, tấm mền ngủ và các giấy tờ chứng minh ruộng đất của gia đình cô. Cô không mang theo tiền bạc hay đồ trang sức vì biết tất cả những thứ đó rồi sẽ bị lấy trộm. Thay vì vậy, cô thu thập một số vòng cổ và vòng tay từng là của bà cô, trút tất cả số nữ trang này qua bồn cầu xuống bể phốt. Cô chia phần còn lại thành một số phong bì nhỏ đưa cho kẻ ăn người ở trong nhà, giúp họ cầm cự trong lúc tìm việc ở nơi khác. Riêng cô, cô nuốt sáu chiếc nhẫn có gắn ngọc bích, ngọc lam và kim cương. Chúng sẽ an toàn trong người cô, sẽ thải ra ngoài cùng với phân của cô, và sau đó cô sẽ nuốt chúng trở lại, chừng nào cô còn bị giam giữ. Nhưng giờ đã tới lúc phải đi rồi - một trong các xe tải đã dừng lại bên ngoài nhà cô, hai tên lính ra khỏi xe với lưỡi lê trong tay, chúng trèo lên tam cấp, tới hiên nhà nơi cô đang ngồi chờ chúng. “Tôi biết các anh,” Dewi Ayu nói, “các anh là những tay phó nháy thường làm việc nơi đoạn rẽ của con đường!” “Phải, chuyện đó vui đấy. Chúng tôi chụp ảnh từng người Hà Lan một ở Halimunda,” một trong những tên lính đáp lại. Một tên khác nói: “Hãy chuẩn bị đi, thưa cô.” “Ý anh là thưa bà phải không.” Dewi Ayu nói. “Giờ tôi là một góa phụ rồi.” Cô xin một ít thời gian để nói lời tạm biệt với đám gia nhân. Dường như họ đã biết cô chủ của mình sẽ phải ra đi. Họ thấy một trong những người đầu bếp, bà Inah, đang khóc. Bà Inah thực ra là chủ của căn bếp, và bà của Dewi Ayu luôn tin tưởng giao phó mọi bữa ăn tiếp khách của gia đình cho bà. Dewi Ayu sẽ chẳng bao giờ còn lại được thưởng thức món rijsttafel ngon tuyệt của bà nữa, có thể mãi mãi không bao giờ nữa - một đầu bếp giỏi là một phần quan trọng trong sự thịnh vượng của bất cứ gia đình nào, nhưng nay gia đình ấy đã biến mất và thành viên cuối cùng là cô sẽ ra đi, trở thành tù nhân chiến tranh. Khi đưa cho người đàn bà ấy chiếc vòng cổ bằng vàng, bao ký ức chợt ùa về trong Dewi Ayu. Khi cô còn nhỏ, bà Inah đã dạy cô nấu nướng, đã để cho cô nghiền gia vị và quạt than trong lò. Cô cảm thấy cú sốc đau buồn này còn mạnh mẽ hơn cả khi cô nhận được tin báo ông bà cô đã chết. Đứng cạnh bà đầu bếp là một thằng nhỏ giúp việc nhà, con trai bà Inah. Muin là tên nó. Thằng bé luôn ăn vận thời trang hơn bất cứ ai khác, với chiếc mũ blangkon, gây ấn tượng ngay cả với người Hà Lan. Bổn phận của nó là loanh quanh khắp nơi trong nhà, nhưng nó bận rộn nhất là vào giờ ăn khi phải bày biện và chăm chút bàn ăn. Ông Ted Stammler đã dạy thằng bé cách sử dụng máy nghe đĩa, thường yêu cầu thằng bé thay đĩa hoặc tìm bản nhạc nào đó. Thằng bé luôn vui sướng làm việc đó, xoay đĩa nhạc và chỉnh kim như thể nó là người duy nhất dành cho công việc đó. Thằng bé học được nhiều đoạn nhạc cổ điển và dường như cũng thực sự thích. “Em có thể lấy tất cả những thứ đó,” Dewi Ayu nói với nó, tay chỉ chiếc máy nghe nhạc và cái giá để đĩa. “Em không thể lấy được!” Muin nói. “Chúng là của ông chủ mà.” “Tin ta đi, người chết không nghe nhạc đâu.” Nhiều năm sau này, sau khi chiến tranh đã kết thúc và nền cộng hòa được thiết lập, cô gặp lại Muin. Vào lúc ấy, gần như chẳng còn gia đình Hà Lan nào ở lại nữa và cũng không ai đủ giàu có để thuê quá nhiều gia nhân. Cô biết Muin cũng không thể làm được gì ngoại trừ bày biện bàn ăn và chỉnh sửa máy nghe nhạc; và lúc đó thằng bé đang ở phía trước một khu chợ, bật các đĩa nhạc được thừa hưởng từ ông cô, trong lúc một con khỉ nhỏ được huấn luyện khéo léo đẩy qua đẩy lại một chiếc xe nhỏ hoặc cầm ô, nhảy múa trong lúc bản Giao hưởng Số 9 cung Rê thứ vang lên, và mọi người ném những đồng tiền lẻ vào chiếc mũ blangkon đang được Muin lật ngửa ra. Dewi Ayu chỉ nhìn thằng bé từ xa, mỉm cười với vận may của nó. Công việc khác duy nhất của Muin là làm người đưa thư: thời các nhà chưa có điện thoại và “thư” thực tế là một phiến đá đen mỏng dùng làm bảng có hai mặt, viết lên bằng phấn. Cô vẫn thường chuyện gẫu với đám bạn ở trường bằng cách viết lên một mặt tấm bảng đó. Muin sẽ mang tấm bảng tới nhà của bạn cô và chờ thông tin hồi đáp được viết lên mặt còn lại. Trong khi chờ đợi, cậu được đãi một món đồ uống mát lạnh và vài cái bánh nhỏ và cậu ăn hết sức ngon lành, rồi cậu sẽ mang tấm bảng trở về nhà cùng một lô những chuyện gẫu nghe được từ đám gia nhân nhà khác. Cậu rất thích công việc này và Dewi Ayu gần như ngày nào cũng cử cậu đi. Tấm bảng duy nhất cô đã không nhờ Muin gửi đi chính là tấm bảng cuối cùng cô gửi, trên đó là thông điệp gửi tới ông Ma Gedik, do ông Willie và một gã thanh niên khỏe mạnh mang tới túp lều của ông. “Tấm bảng đó cũng là của em,” cô nói. Rồi cô quay sang Supi bà giặt đồ, nữ hoàng của máy bom và xà phòng. Khi cô còn nhỏ, người đàn bà lớn tuổi này luôn mang cô theo bên cạnh khi cô ngủ, hát cho cô bài hát ru Nina Bobo và kể cho cô nghe truyện cổ tích Lutung Kasarung. Chồng bà là người làm vườn. Ông luôn có một con dao rựa ở bên hông và một chiếc liềm trong tay, và thường về nhà với những gói bọc rất bất ngờ - một con mèo con màu đen, những quả trứng rắn, một con kỳ đà - hoặc với những món quà thích mê như một nải chuối ngự, một quả mãng cầu xiêm sắp chín hay một túi đầy ắp xoài. Còn một số thanh niên khỏe mạnh khác - những người bảo vệ nhà, trông vườn và canh chuồng dê - cô ôm từ biệt tất cả bọn họ. Lần đầu tiên trong nhiều năm, Dewi Ayu khóc. Bỏ lại họ cũng giống như mất đi một phần thân thể của cô. Cuối cùng cô đứng nhìn ông Willie. “Tôi là một người điên và chỉ người điên mới cưới người điên,” cô nói với ông. “Và tôi không muốn cưới một người điên.” Cô hôn ông trước khi ra đi cùng hai người lính Nhật đã không thể chờ đợi thêm phút nào nữa. “Hãy coi sóc nhà của tôi,” cô nói với họ lần cuối, “trừ phi những người này tịch thu nó.” Cô leo lên phía sau chiếc xe tải đang nổ máy trước nhà. Cô gần như không ngồi vào được vì chiếc xe đã chật ních đàn bà và trẻ con khóc. Cô vẫy tay với những gia nhân vẫn đang đứng trên hiên nhà. Trong mười sáu năm sống ở đó, cô chưa bao giờ đi đâu ra khỏi thành phố ngoại trừ vài chuyến đi nghỉ ngắn tới Bandung hay Batavia. Cô trông thấy lũ chó săn borzoi từ phía sau nhà chạy ra sủa inh ỏi trong khoảng sân đầy cỏ Nhật mà chúng vẫn thích lăn mình, với những bông hoa nhài mọc lan bên cạnh nhà và đám hoa hướng dương vươn mình sát hàng rào. Đó là lãnh địa của chúng và Dewi Ayu hy vọng ông Willie sẽ chăm sóc tốt cho chúng. Chiếc xe tải bắt đầu di chuyển và Dewi Ayu chật vật hít thở khi bị nhồi nhét giữa thân thể những người đàn bà khác. Cô vẫy tay về phía những con chó borzoi đang sủa. “Thật không thể tin được chúng ta đang bỏ lại nhà cửa của mình!” người đàn bà cạnh cô nói. “Tôi mong là chuyện này sẽ không lâu.” “Tôi mong quân đội của chúng ta có thể đánh bại người Nhật,” Dewi Ayu nói, “Nếu không chúng ta sẽ bị đem bán như bán đường hay gạo vậy.” Những người bản địa ngồi xổm dọc hai bên đường, ánh mắt đờ đẫn quan sát đám người đang chen chúc nhau phía sau chiếc xe tải. Nhưng rồi vài người trong họ bắt đầu bật khóc khi nhìn thấy vài phụ nữ Hà Lan mà họ biết, thế là họ vừa thổn thức vừa giơ khăn tay lên vẫy. Dewi Ayu lau nước mắt, mỉm cười trước cảnh tượng lạ lùng. Những người bản địa tốt bụng và ngây thơ, dễ bảo và hơi lười biếng. Dewi Ayu nhận ra vài người trong số họ; họ đã làm việc trong đồn điền ca cao của ông cô và cô thường lẻn tới lều của họ. Cô thích họ vì họ kể cho cô nghe nhiều truyện thần thoại về wayang và buta, họ thích cười, họ khoác lên người cô những chiếc xà rông bó sát và những chiếc áo đăng ten kebaya rồi buộc tóc cô ra phía sau thành một lọn. Họ rất nghèo và chỉ được xem phim từ phía sau màn hình để hình ảnh chiếu ngược lại, và họ cũng chưa bao giờ tới câu lạc bộ hay phòng khiêu vũ trừ phi là để dọn dẹp. “Nhìn kìa,” cô nói với một phụ nữ khác cạnh mình, “chắc họ phải hoang mang lắm khi thấy hai nước ngoại bang đánh nhau trên đất của họ.” Cuộc hành trình dường như kéo dài mãi mãi khi họ hướng về nhà tù trên bờ Tây vùng châu thổ nhỏ của sông Rengganis. Cho tới lúc này nhà tù chỉ toàn tội phạm trọng án: những kẻ giết người và hiếp dâm, tù chính trị của chính quyền thực dân, hầu hết là những người cộng sản bị tạm giữ tại đó trước khi bị quẳng vào nhà ngục Boven-Digoel. Những người phụ nữ bị thiêu đốt dưới ánh mặt trời nhiệt đới chói chang, không một cái dù che và không có gì để uống. Giữa đường chiếc xe tạm dừng; bộ tản nhiệt của nó còn được tưới cho chút nước nhưng những người trên xe thì không được gì cả. Dewi Ayu, kiệt sức vì cúi lom khom và nhìn mãi ra đường, xoay người lại ngả dựa vào thành xe và chợt nhận ra cô thực sự biết rất rõ một số phụ nữ trên xe - họ là những hàng xóm và bạn bè của cô ở trường. Người Hà Lan có đời sống xã hội khá gần gũi. Nếu là trẻ con, bạn gặp nhau gần như mỗi buổi chiều tại vịnh để bơi. Nếu là thanh thiếu niên, bạn gặp nhau tại phòng khiêu vũ hay rạp chiếu phim hoặc các chương trình hài kịch. Nếu là người trưởng thành, bạn gặp nhau tại câu lạc bộ. Dewi Ayu nhận ra một số bạn của cô. Họ trao nhau những nụ cười chua chát, một trong số họ hỏi đùa cô: “Này, cậu thế nào?” Với vẻ quả quyết thành thực, Dewi Ayu trả lời, “Tệ lắm. Bọn mình đang tiến về một trại tù.” Thế là đủ để khiến họ cười lên được một chút. Cô gái vừa khởi lên câu chuyện đùa đó là Jenny. Họ đã từng đi bơi với nhau, nổi bồng bềnh trên chiếc săm xe cũ Dewi Ayu để trong ô tô. Những ngày đó thật vui, trước khi sấm sét chiến tranh xảy ra. Đám thanh niên hay đứng gần mép nước, còn các ông già ngồi trên cát dưới tán ô, miệng phì phèo điếu thuốc, họ ở đó chỉ để săm soi các cô gái trẻ mặc đồ tắm. Cô cũng biết rõ họ sẽ làm gì nữa trong phòng thay đồ. Cái họ gọi là phòng thay đồ thực ra là một dòng nước tự nhiên nơi mép bờ biển, bao quanh bằng đám tre ken lại với nhau. Mặc dù người ta có ngăn riêng khu vực cho đàn ông và cho phụ nữ nhưng cô thường bắt gặp những ánh mắt dòm qua khe hở trong bụi tre. Cô sẽ dòm lại và hét lên, “Ôi lạy Chúa, cái của anh nhỏ quá!” Đám đàn ông sẽ xấu hổ chạy biến đi. Thi thoảng sự xuất hiện của một chiếc vây cá mập sẽ khiến những người đi bơi tán loạn cả lên, nhưng chưa ai bị tấn công. Bãi tắm Halimunda quá nông nên cá mập thường phải bơi ngược trở lại biển. Đôi khi những con cá mập nhỏ bị mắc lưới ngư dân, nhưng họ luôn thả chúng ra, nói rằng giữ chúng lại sẽ không may mắn. Cá mập không phải những con vật duy nhất đáng sợ, vì còn lũ cá sấu sống gần cửa sông nữa, chúng cũng rất thích ăn thịt người. Bây giờ thì con vịnh với những con sóng hiền hòa chắc chỉ còn toàn những đứa trẻ bản địa, những đứa luôn đi chân đất và thân thể lúc nào cũng trát toàn bùn đất, luôn tản sang một bên khi các cô và các ông tới đó bơi. Dewi Ayu thắc mắc không biết trong tù họ có được phép bơi nửa hay không. “Cầu sao chúng ta sẽ không gặp con cá sấu nào,” một bà trung niên đang ôm một đứa trẻ trong lòng nói. Bà nói vậy là có lý do của bà. Để tới được nhà tù ở giữa vùng châu thổ, họ phải vượt qua sông. Sau một hành trình kinh khủng trên xe tải, lúc này họ đã dừng lại trước một con sông. Đám lính Nhật đi lại hai bên bờ sông, la hét đám đàn bà bằng thứ ngôn ngữ mà chẳng ai hiểu. Những người đàn bà bị nhồi nhét lên một chiếc phà, tình huống lúc này còn đáng sợ hơn cả lúc trên xe, vì bây giờ còn có nguy cơ họ có thể bị chết đuối, và đúng như bà kia đã nói, một con cá sấu sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào và chẳng ai trong họ có thể bơi nhanh hơn con vật hung dữ đó. Chiếc phà lừ đừ di chuyển, xoay vòng vòng để tránh dòng chảy trực tiếp của luồng nước. Một đám hỗn hợp gồm bồ hóng đen ngòm và khói từ ống khói bốc lên trời. Một nhóm mấy con diệc giật mình vì tiếng ồn vụt bay lên, đậu vào một cái sào tại vùng nước nông; dù vậy thì cảnh tượng này chẳng đẹp đẽ gì khi họ tới một tòa nhà cổ hiện lên sau mấy lùm cây, trông như thể đã được dọn trống chỉ để giữ tù nhân chiến tranh. Đây là nhà tù Bloedenkamp, một nhà tù có lịch sử đẫm máu, ngay cả những kẻ tội phạm cũng khiếp nó. Một khi đã bị tống vào đó rồi, gần như rất ít cơ hội thoát ra, trừ phi anh có thể bơi hàng dặm vượt qua con sông rộng nhanh hơn một con cá sấu. Khi phà đã cập bờ, đám lính Nhật lại tiếp tục la hét, những người đàn bà nhảy xuống nhanh hết mức có thể. Đám trẻ con bắt đầu khóc thét, một vài hỗn loạn xảy ra: một chiếc va li bị hất tung xuống sông và chủ nhân của nó đã ướt sũng người vì cố vớt lại, một tấm giát giường rơi xuống bùn, một bà mẹ lạc mất con trong khi đứa bé bị giẫm đạp trong đám hỗn loạn. Đám người lục tục đi về phía nhà tù, vượt qua ba ô cửa sắt có lính canh. Trước khi vào trong, họ xếp hàng trước một cái bàn, ở đó có hai gã lính Nhật ngồi, nắm chặt một tờ danh sách. Cạnh họ là một chiếc giỏ đựng tiền và đồ quý giá. Vài phụ nữ đang tháo đồ trang sức ra quẳng vào đó. “Làm đi trước khi chúng tao lục soát bọn mày,” một trong hai tên lính nói bằng tiếng Mã Lai rất chuẩn. Thử lục soát phân của tao ấy, Dewi Ayu nghĩ thầm. Nhà tù tởm lợm hơn cả một cái chuồng lợn. Mái nhà dột nát, các bức tường loang lổ vết máu cũ, rêu và cỏ dại mọc xuyên qua những kẽ nứt, sàn nhà bẩn thỉu và nhung nhúc chấy rận, gián, cả đỉa nữa. Đám chuột cống to bằng bắp đùi trẻ con chạy điên cuồng xung quanh khiến những người mới tới giật mình, chúng chạy ngoằn ngoèo dưới chân đám đàn bà khiến họ nhảy dựng lên la hét. Đám phụ nữ vội vàng khoanh vùng khu vực của mỗi người bằng những chiếc va li càng nhanh càng tốt, vừa dọn dẹp vừa khóc. Dewi Ayu chiếm một chỗ nhỏ giữa gian nhà, trải tấm nệm ra và dùng chiếc va li làm gối, cô mệt mỏi nằm xuống. Cô may mắn vì không có mẹ hay con cái cần phải chăm sóc và cô cũng đã không quên mang theo những viên thuốc ký ninh và các loại thuốc khác vì có nguy cơ sẽ bị sốt rét hay bệnh lỵ: nhà vệ sinh ở đây không dùng được nữa. Tối đó không có đồ ăn. Những mẩu thức ăn nhỏ mang theo, những người đàn bà đã ăn hết trong bữa trưa rồi. Ai đó hỏi đám đàn ông Nhật về chuyện ăn uống, chúng bảo có thể mai hay mốt mới có. Đêm đó họ sẽ phải nhịn đói. Dewi Ayu đi ra khỏi tòa nhà ngoài khu nhà tù, tiến về phía cánh đồng. Cả ba cổng tù đều mở và mọi người có thể ra khỏi pháo đài đi lại xung quanh. Lúc mới tới, Dewi Ayu đã nhìn thấy mấy con bò. Có thể chúng là bò của cai ngục bản địa hoặc nông dân sống trong vùng châu thổ. Cô đã gom được một nắm đỉa trong lúc dọn dẹp chỗ ở của mình trong tù, xếp chúng vào bên trong một chiếc hộp thiếc cũ đựng món bơ thực vật hiệu Blue Band. Thấy một con bò đang ăn cỏ, con béo nhất, cô liền đặt mấy con đỉa này lên da nó. Con bò chỉ ngẩng lên một lát, không khó chịu, và Dewi Ayu ngồi lên một hòn đá chờ đợi. Cô biết những con đỉa đang hút máu bò, và khi hút máu no rồi, chúng rơi ra như táo chín. Cô lôi chúng ra khỏi mặt đất đặt lại vào trong hộp thiếc. Bây giờ trông chúng trương phình và béo múp. Nhóm một đống lửa nhỏ, cô luộc lũ đỉa trong chiếc hộp thiếc với một ít nước lấy từ sông. Không bỏ thêm chút gia vị nào, cô mau chóng mang chúng trở lại tòa nhà lớn giờ đã là nhà mới của cô. “Bữa tối xong rồi đây,” cô nói với một số phụ nữ và con cái họ đang sống gần cô, những hàng xóm mới. Không ai muốn ăn đỉa, và một người đàn bà thậm chí còn nôn ọe ngay khi nghĩ tới một bữa ăn như vậy. “Chúng ta không phải đang ăn đỉa mà là ăn tiết bò,” Dewi Ayu giải thích. Cô dùng một con dao nhỏ mổ bụng đỉa, lôi những cục tiết bò trong ra, dùng mũi dao chọc vào và nuốt những cục tiết đó. Không ai tiến tới dự cùng bữa ăn man rợ của cô, ít nhất cho tới khi đêm xuống và mọi người không chịu được cơn đói hành hạ nữa. Và họ nếm thử. Nó không có vị gì đặc biệt, thậm chí còn hơi ngon nữa. “Chúng ta sẽ không đói,” Dewi Ayu nói. “Ngoài đỉa ra còn có tắc kè, thằn lằn và chuột nữa.” “Đúng vậy,” những người đàn bà đáp vội. “Tuyệt vời, cảm ơn cô.” Đêm đầu tiên thực sự kinh khủng. Ánh sáng tắt rất nhanh, như vẫn thường như vậy ở vùng nhiệt đới. Tuy không có điện, nhưng gần như ai cũng mang theo nến, và những đốm lửa nhỏ khiến bức tường nhằng nhịt những bóng đen run rẩy khiến mấy đứa nhỏ khiếp hãi. Nằm xoài ra trên nệm, trông thật thảm hại, không ai chợp mắt được. Chuột chạy băng qua họ trong đêm tối, muỗi vo ve từ tai nọ sang tai kia, dơi bay táo tác trên đầu. Còn tệ hại hơn nữa là những cuộc kiểm tra đột ngột của đám lính Nhật lùng sục xem có ai vẫn còn giấu tiền bạc hay nữ trang không. Bình minh ló rạng nhưng chẳng hứa hẹn điều gì. Nhà tù Bloedenkamp chật ních khoảng năm ngàn phụ nữ và con cái họ, bị thu gom từ đâu chẳng ai biết. Tia hy vọng duy nhất đến từ một bà thầy bói, bà đã tham khảo thông tin từ bộ bài của mình và nói với họ rằng phi công Mỹ sẽ ném bom xuống doanh trại của người Nhật. Dewi Ayu vội vàng chạy tới nhà vệ sinh, nhưng một hàng dài người đã đứng chờ ở đó rồi nên cô dùng chiếc hộp đựng bơ thực vật Blue Band cũ của mình múc một ít nước và đi ra phía cánh đồng. Ở đó, giữa đám khoai lang, cô đào một chiếc hố nhỏ và đại tiện vào đó như một con mèo. Sau khi rửa ráy cho mình, cô để dành lại ít nước, cô tự cào đống phân của mình tìm sáu chiếc nhẫn. Một số phụ nữ khác cũng bắt chước cách làm bẩn thỉu của cô ở một khoảng cách an toàn, nhưng họ không biết rằng Dewi Ayu đang bảo vệ tài sản. Sau đó cô rửa mấy chiếc nhẫn bằng phần nước còn lại và lại nuốt chúng vào bụng. Cô không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau chiến tranh. Có thể cô sẽ mất nhà và mất đồn điền, nhưng cô thề rằng sẽ không để mất những chiếc nhẫn của mình. Cô trở lại trại mà không biết liệu hôm đó có được tắm hay không nữa. Sáng hôm đó, những người mới đến phải đứng trên cánh đồng dưới nắng như thiêu đốt, đám trẻ con la khóc trong khi những người đàn bà chỉ chực té xỉu, họ chờ viên chỉ huy trại tù và đám nhân viên của hắn tới. Viên chỉ huy sau đó xuất hiện, hắn có hàng ria mép rậm rịt và một thanh kiếm samurai lủng lẳng cạnh hông, đôi bốt loang loáng phản chiếu ánh mặt trời. Hắn nói với những người tù rằng họ phải cúi người thật thấp, quá cả phần eo, trước tất cả lính Nhật ngay khi lệnh Keirei! được phát ra, và họ chỉ được phép thẳng người lên trở lại khi nghe thấy lệnh Naore! “Đó là biểu hiện sự tôn trọng với Đế chế Nhật Bản,” hắn giải thích thông qua phiên dịch. Những ai không tuân thủ sẽ nhận hình phạt thích đáng: họ sẽ bị bắt làm việc thêm, bị đánh đập hoặc thậm chí bị giết. Khi trở lại trong trại, vài phụ nữ, sợ bất cẩn mà mắc lỗi, vội vàng dạy lại con họ về các mệnh lệnh. Những tiếng thét Keirei! và Naore! của họ khiến Dewi Ayu phá lên cười ngặt nghẽo. “Các bà trông còn ác hơn cả lính Nhật nữa!” cô kêu lên. Và các bà mẹ cũng phải bật cười. Cũng chẳng có nhiều trò giải trí ở đó. Bản năng của một người từng được đào tạo để trở thành giáo viên trong Dewi Ayu trỗi dậy, cô bèn tập hợp một nhóm trẻ nhỏ lại, lập ra một trường học nhỏ ở góc không dùng tới trong tòa nhà, và dạy chúng đọc, viết, số học, lịch sử và địa lý. Ban đêm cô kể cho chúng nghe truyện cổ dân gian và truyện trong Kinh Thánh, rồi diễn tả lại cho chúng những hồi wayang trong các thiên sử thi Ramayana và Mahabharata mà cô được nghe từ dân bản địa và cả những cốt truyện trong nhiều cuốn sách cô đã đọc. Bọn trẻ thích cô vì chuyện của cô chẳng """