🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đèn Xanh, Đèn Đỏ
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: PHẠM NGUYỆT NGA Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT Đọc sách mẫu: NGUYỄN THỊ HƯƠNG VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/5-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 417-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6890-7.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
H÷u Thä
§Ìn xanh, ®Ìn ®á / H÷u Thä. - XuÊt b¶n lÇn thø 3. - H : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2021. - 228tr ; 21cm ISBN 9786045767122
1. B¸o chÝ 2. NghÒ b¸o 3. Bµi viÕt 4. ViÖt Nam 079.597 - dc23
CTF0553p-CIP
Một trăm kẻ vâng dạ không bằng một người nói thẳng TRẦN THỦ ĐỘ
T
LỜI NHj XUẤT BẢN
rưởng thành từ phóng viên “ba lô, chân đất” với tuổi nghề đã hơn 50 năm, nhiều
năm lãnh đạo báo Nhân Dân, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại biểu Quốc hội, nhà báo Hữu Thọ đã cùng với tập thể lãnh đạo, chủ động, vững vàng chèo lái “con thuyền báo chí” vượt qua thác ghềnh gian khó, tạo luồng sinh khí mới trong xã hội, góp phần đấu tranh chống tiêu cực, làm trong sạch bộ
máy của Đảng và Nhà nước.
Nhà báo Hữu Thọ đã cho ra mắt bạn đọc nhiều tác phẩm đặc sắc, đó là những cuốn sách được bạn đọc yêu thích: Bản lĩnh Việt Nam, Theo bước chân đổi mới, Công việc của người viết báo...
Với tác phẩm Đèn xanh, đèn đỏ, nhà báo Hữu Thọ muốn gửi tới bạn đọc và các nhà báo trẻ lời tự sự của ông về nghề làm báo và quản lý báo chí.
Cuốn sách xuất bản lần đầu vào năm 2005, lần thứ hai vào năm 2012. Hướng tới kỷ niệm 96 năm
5
Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/2021), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản cuốn sách Đèn xanh, đèn đỏ nhằm giới thiệu với bạn đọc, các nhà báo trẻ, những người quản lý lĩnh vực báo chí những chia sẻ, cảm nghĩ của một nhà báo lão luyện về nghề báo - một nghề rất vinh quang,
nhưng cũng đầy cam go, với mong muốn những người làm báo phải rèn luyện bản lĩnh vững vàng, phải tinh thông nghề nghiệp mới làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 4 năm 2021
NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
CHUYỂN CÔNG TÁC
NHƯNG CỐ GẮNG GIỮ NGHỀ
Cuộc đời có những bất ngờ, có khi là bất ngờ lớn. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng, tôi được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói là bất ngờ, vì tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc được tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Vì nó rất “cao xa”. Vì tâm niệm vẫn thích nghề báo. Vả lại tuổi cũng đã cao. Khi được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương tôi đã 59 tuổi, lúc đó chưa có quy định hạn chế tuổi tác, còn từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng thì những ủy viên mới tham gia phải có tuổi từ 55 trở xuống để có đủ tuổi tham gia hết nhiệm kỳ và để “trẻ hóa” lãnh đạo.
Anh Hà Đăng đi họp Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (khoá VI) về cho biết: “Cậu được giới thiệu”. Anh Nguyễn Ngọc Trìu người quen biết từ lâu, đã tham gia Trung ương từ
khóa IV, đã từng là Phó Thủ tướng, nói:
7
“Trung ương thấy cần thêm nhà báo vào Ban Chấp hành nhưng cân nhắc giữa cậu với một đồng chí. Cậu có thế mạnh là có nhiều bài ủng hộ sự nghiệp đổi mới và trẻ hơn, nhưng phiếu thăm dò trong Trung ương cũng chỉ hơn nhau chút đỉnh, cho nên còn phải chờ Đại hội; bài học ở Đại hội lần thứ VI đã thấy rõ là không phải cứ Trung ương giới thiệu là Đại hội bầu, khác với các kỳ Đại hội trước, vì không khí dân chủ đang mở rộng”.
Thật ra, quá trình vào Trung ương của tôi cũng không đơn giản. Không đơn giản từ khi cử đại biểu cơ quan đi dự Đại hội. Một đồng chí được giới thiệu là bí thư đảng ủy cơ quan. Còn tôi là Phó Tổng Biên tập thường trực, có những đóng góp nhưng trong cơ quan không tránh khỏi có một số người không ưa, cho là kiêu ngạo và hay “đấu tranh”.
Làm được một chút việc, viết được một số bài khá, nhất là từ đầu những năm 60, lại chưa biết giữ gìn. Khi được cử sang làm Phó Ban sinh hoạt Đảng phụ tá cho anh Nguyễn Thành Lê, công việc quá khó và quá mới. Một đồng chí Trưởng Ban của báo tỏ vẻ thông cảm. Tôi cảm ơn, và nói: “Thưa chị, trong đầu óc tôi, không có khái niệm “không hoàn thành nhiệm vụ”“. Tôi nói thế là nói thật, vì trải qua
8
nhiều nhiệm vụ được giao, từ việc nhỏ nhất là làm liên lạc cho tự vệ chiến đấu hồi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ở Hà Nội, cho tới khi đảm nhiệm cấp ủy ở thị xã Hải Dương mới giải phóng, công việc rất khó khăn, có thể chưa hoàn thành xuất sắc nhưng cũng “không bao giờ không hoàn thành nhiệm vụ”. Chuyện thật từ đáy lòng nói ra chỉ để biểu thị quyết tâm nhưng lại mang tiếng “kiêu ngạo”. Rồi khi viết các chuyên đề nông nghiệp, được anh Nguyễn Chí Thanh quý, hay cho gặp, khi về truyền đạt hay nói: “Anh Thanh nói” cũng bị mang tiếng là ỷ thế cấp trên; ngay Lê Điền là Trưởng Ban Nông nghiệp, người bạn chí cốt cũng có lúc không bằng lòng vì cảm thấy như bị vượt quyền.
Còn chuyện “đấu tranh” thì thật khó nói, khó thanh minh. Không phải chuyện gì tôi cũng “đấu”; khi cơ quan phê phán, kỷ luật các anh T và D tôi đâu có tán thành việc phê phán gay gắt đó, nhưng lại nói ra miệng: “Vi phạm kỷ luật thì xử nhưng có “lý luận” gì mà phê phán!”. Thế là có đồng chí phê ngay tại hội nghị chi bộ, tuy không nói tên, nhưng ai cũng biết là ám chỉ tôi. Có chăng là chuyện đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại sau Nghị quyết
9
Hội nghị Trung ương 9 (khóa II). Thực ra, lúc đó tôi đâu có biết hết Nghị quyết; nhưng tinh thần của lớp đảng viên trẻ chúng tôi lúc đó là: “Cứ ai không nhất trí với Nghị quyết Trung ương là phản đối tới cùng”. Cho nên khi tham gia ý kiến trong chi bộ, bây giờ không nhớ kỹ, nhưng cũng nặng lời với một đồng chí. Còn quyết định kỷ luật anh ấy như thế nào thì cũng không được biết, không được tham gia ý kiến. Có thể những điều đó là do non kém về lý luận, không nhuần nhuyễn cách ứng xử.
Chính vì lẽ đó mà khi cơ quan giới thiệu để Trung ương xem xét trong danh sách đề cử Ban Chấp hành Trung ương, tôi chỉ được hơn đa số một ít, tuy là số phiếu không cao nhưng cao nhất ở cơ quan trong số người mới. Theo quy chế lúc đó, những người được từ 30% phiếu trở lên của cơ quan giới thiệu đều được vào diện xem xét...
Khi Đại hội tiến hành bầu cử, anh Nguyễn Ngọc Trìu lo lắng: “Danh sách giới thiệu thì đông mà số người vào Trung ương có hạn, cho nên danh sách báo Nhân Dân có hai người là gay đấy!”. Nhưng cũng may, cả hai anh em, Hà Đăng và tôi đều trúng cử vào Trung ương.
Vào Trung ương rồi nhưng phân công làm gì thì còn phải “chờ” vì không thể cơ quan báo
10
Nhân Dân có hai Ủy viên Trung ương. Lúc đó, sau Đại hội toàn quốc là Đại hội vòng hai các tỉnh, thành. Tôi đăng ký với cơ quan đi Đại hội tỉnh Hải Hưng, để nhân tiện gặp bạn bè cảm ơn, tâm sự. Tháng 8, trời nắng chang chang, Đại hội tỉnh Hải Hưng họp ở hội trường mới làm trên đường ra ga xe lửa. Nghỉ giải lao, anh Lê Phước Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách tổ chức bá vai tôi ra sân tâm sự. Anh Lê Phước Thọ nói: “Tôi dự kiến có ba việc để cậu chọn. Việc thứ nhất là làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa rồi sau đó làm Bộ trưởng thay anh Trần Hoàn đi làm việc khác. Việc thứ hai là làm Phó Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, làm Phó Ban thôi vì theo anh Đào Duy Tùng thì Trưởng Ban lúc này phải là nhà lý luận, anh Trần Trọng Tân phải về Sài Gòn, làm Phó Bí thư phụ trách tuyên giáo. Lúc này mặt trận tư tưởng là rất quan trọng, cần tăng cường. Tôi chỉ nghĩ tới hai việc thôi. Nhưng sáng nay, anh Đỗ Mười nói là xin cậu về làm Trợ lý Tổng Bí thư. Thế là ba việc. Cậu nghĩ thế nào!”.
Như tôi đã có lần viết trong Những ngày chưa xa1, khi là Ủy viên Ban biên tập rồi
____________
1. Hữu Thọ: Hồi ký, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
11
Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân, đã ba lần cấp trên dự định điều động về làm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, tức là được cất nhắc nhưng tôi đều từ chối vì thích làm nghề báo. Nhưng lần này không thể từ
chối vì đây là phân công công tác các ủy viên Trung ương, thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị. Thế là lần thứ hai trong đời phải chọn lựa. Năm 1957, phải chọn lựa giữa đi nhận nhiệm vụ Bí thư Huyện ủy Ninh Giang và về làm phóng viên báo Nhân Dân, thì tôi đã chọn nghề báo. Lần này, năm 1991, lại phải chọn lựa một trong ba việc. Cả ba việc đều không hoàn toàn mới lạ; nói là không hoàn toàn mới lạ thôi, chứ đều mới lạ, vì đã gần 40 năm gắn bó với nghề báo, gắn bó với báo Nhân Dân.
Tình hình thế giới đang diễn biến rất phức tạp. Cải tổ của Liên Xô theo kiểu Goócbachốp đã ảnh hưởng sâu rộng đến nước ta. Ngay trên báo cũng đã có một loạt bài giới thiệu cách cải cách kinh tế của Liên Xô, đã đăng bài Hiện tượng Enxin, và những nhân vật gọi là “cấp tiến” cũng đều đăng đàn giới thiệu kinh nghiệm, chủ yếu là kinh nghiệm cải tổ của Liên Xô. Nhưng dù sao, văn kiện Đại hội cũng vẫn “hy vọng” Liên Xô sẽ vượt qua khó khăn,
12
giữ vững định hướng. Thế rồi chỉ ba tháng sau, Liên Xô sụp đổ và sau đó tan rã. Có thể nói, tuy mọi người rất lo lắng, nhưng sự kiện Liên Xô sụp đổ và tan rã là ngoài dự kiến của Đại hội lần thứ VII của Đảng. Liên Xô sụp đổ và tan rã là một đòn rất mạnh đánh vào lý tưởng của đông đảo cán bộ, đảng viên. Lúc tôi dự Đại hội ở Hải Hưng thì Liên Xô chưa sụp đổ, nhưng tình hình ngày càng rối ren. Tháng 5/1991, tôi sang Mátxcơva dự Hội báo Sự thật (Pravđa) thì đồng chí Vascô, Phó Tổng Bí thư khi gặp đã nói tới “khủng hoảng về Đảng”. Phần lớn báo chí của Liên Xô công khai xuyên tạc, vu cáo lịch sử, tấn công Đảng. Khi về, tôi đã báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư. Có thể nói tình hình rất nguy cấp.
Cho nên, ba công việc mà tôi phải lựa chọn thì có hai công việc thuộc cơ quan Đảng, một công việc thuộc cơ quan nhà nước. Chọn lựa giữa công việc Đảng, công việc chính quyền và công việc kinh doanh đang là vấn đề nóng hổi, mới mẻ của xã hội, vì các giá trị đang bị đảo lộn. Lê Huyền Thông đã viết bài Em lạy anh
rất nổi tiếng, miêu tả một người được đề bạt một công việc trong Đảng cao hơn nhưng nhất quyết không nhận, nói “em xin lạy anh” để làm một việc ở chính quyền chức thấp hơn
13
nhưng quyền nhiều hơn, lợi nhiều hơn, và cũng có thể không muốn dính dáng tới Đảng trong lúc này. Đó là trạng thái tâm lý của những con người thực dụng lúc đó. Bài báo được bàn bạc rộng rãi ngoài xã hội, lại còn được bàn bạc ngay trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Vả lại, lúc đó ngoài xã hội, trong cán bộ
đang phổ biến một câu: “Tiến vi Bộ, thoái vi Ban, lang thang vi Tổ”. Nghĩa là người ta đang rất coi trọng các công việc của chính quyền, cố vận động xin được ở lại, hoặc điều động về cơ quan chính quyền. Hiện tượng đó kéo dài cho tới lúc này.
Lúc bấy giờ, vào năm 1991, tôi chưa hiểu biết kỹ càng những vấn đề như tôi vừa kể, song đại thể cũng đã thấy ra, thấy rõ những vấn đề như thế. Nhưng thực sự việc Liên Xô sụp đổ, tan rã, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào đã tác động mạnh mẽ tới lý tưởng và tình cảm của tôi và nhiều đồng chí, và không chỉ gây ra sự nản chí. Cho nên, đứng giữa trời nắng ở sân hội trường tỉnh Hải Hưng, tôi đã trả lời anh Lê Phước Thọ: “Lúc này thì tôi chọn về cơ quan Đảng, còn tùy Bộ Chính trị phân công!”. Sau này, nghe tôi kể
lại, có một số bạn cho là tôi dại, “bốc đồng”, chui đầu vào chỗ bí. Anh em báo Nhân Dân
14
thì lưu luyến không muốn cho đi. Vợ tôi, bà Trâm vốn là nhà báo nhưng đã hy sinh cho đời làm báo của tôi rất nhiều, cho nên rất gắn bó với nghề báo, cũng tỏ vẻ buồn ra mặt. Lúc trả lời, hăng máu lên, tôi đã quyết định như
thế, nhưng nghe anh em nói tôi cũng đâm lo, nhưng đã quyết là làm, tôi vẫn không cho sự lựa chọn của tôi chỉ là thứ tình cảm bột phát nhất thời.
Công việc lúc bấy giờ rất khẩn trương. Một buổi sáng, tôi chuẩn bị đi khám bệnh thì được cơ quan báo là lên Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương có việc. Vào cuộc họp đã có đông đủ cán bộ cấp vụ của Ban, anh Trần Trọng Tân - Trưởng Ban đọc quyết định của Bộ
Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười ký điều tôi về làm Phó Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, anh Thái Ninh cũng là Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Giáo sư, nguyên Phó Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương làm Trưởng Ban.
Sau khi đọc quyết định, anh Tân mời tôi phát biểu ý kiến. Tôi nói: “Thật ra tôi chưa nhận được quyết định, nhưng công văn từ số 4 về số 10 Nguyễn Cảnh Chân chắc nhanh hơn về
71 Hàng Trống, cho nên tôi xin chấp hành. Tôi làm báo chuyên nghiệp đã gần 40 năm, tuy
15
cùng ngành tuyên giáo nhưng không phải là tuyên giáo. Nói thật lòng thì tôi gắn bó với nghề báo, thích nghề báo hơn, vì nghề tuyên giáo với tôi là mới. Nhưng nhớ và theo phương châm của người xưa: “Không được làm việc mình thích thì hãy thích việc mình làm”. Cho nên tôi xin cố gắng, và nhờ anh chị em giúp đỡ”.
Anh Thái Ninh đã từng cộng tác với tôi khi anh là Giám đốc Nhà xuất bản Tuyên huấn, xuất bản lần đầu cuốn Công việc của người viết báo của tôi. Sau cuộc họp, Thái Ninh mời tôi vào phòng nói: “Tôi biết là tôi chưa đủ sức làm Trưởng Ban, nhưng anh Đào Duy Tùng giải thích là “công tác tư tưởng - văn hóa lúc này rất khó khăn, cho nên cần người quen việc và cốt lõi của công tác tư tưởng là công tác lý luận, cho nên Thái Ninh phải làm và chúng ta cùng nhau gánh vác công việc”.
Tôi bắt đầu nhận nhiệm vụ ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương lần thứ nhất. Gọi là lần thứ nhất, vì còn lần sau nữa, sau này sẽ kể. Tuy phải chuyển khỏi nghề báo nhưng lúc nào cũng tìm cách giữ nghề.
16
KHÔNG ĐƯỢC LjM VIỆC MÌNH THÍCH THÌ HÃY THÍCH VIỆC MÌNH LjM
Lần thứ nhất về công tác ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương có chín tháng nhưng đã có biết bao thử thách.
Đối với anh chị em công tác ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tuy là khác cơ quan nhưng cũng là người quen biết như các anh Lê Lục ở Vụ Tuyên truyền, anh Võ Tử Thành, chị Tuyết Mai, anh Trúc Thanh ở Vụ Báo chí, anh Đào Nguyên Cát, anh Phạm Quang Nghị ở Trung tâm giáo dục chính trị, anh Nguyễn Đăng Quang ở Vụ Lý luận, các anh Nguyễn Văn Trung, Đoàn Thế Nga ở Văn phòng... Đó là kể các anh, chị đang còn làm việc, còn đã về hưu thì quen rất nhiều. Các anh, chị đều hiểu năng lực làm báo của tôi nhưng qua xét đoán thái độ thì xem ra còn nghi ngờ về khả năng làm công tác tuyên giáo của tôi. Đó cũng là điều dễ hiểu.
17
Đối với tôi, công tác tư tưởng - văn hóa thì lại vừa quen, vừa lạ. Quen vì đã từng làm công tác Đảng, công tác Đoàn, là chính trị viên đại đội thì thế nào cũng phải làm công tác tư tưởng, đó là chưa kể khi tham gia tiếp quản thị xã Hải Dương tham gia Thường vụ thị ủy trực tiếp phụ trách Trưởng Ban Tuyên huấn, nhưng dù sao thì cũng chỉ ở một địa phương nhỏ trong hoàn cảnh kháng chiến hoặc ngày đầu mới giải phóng, cho nên tham gia lãnh đạo công tác tư tưởng - văn hóa ở trung ương trong thời kỳ đổi mới thì còn lạ lẫm, ít hiểu biết. Riêng về lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thì mới chỉ là người yêu thích, chứ chưa hiểu biết gì về quy luật hoạt động của lĩnh vực này, mặc dù đã có làm thơ, có thơ được đăng báo nhưng xem lại đều là “thơ con cóc”, cho nên cũng là lĩnh vực mới.
Ngày càng hiểu thêm nội dung cốt lõi của công tác tư tưởng là công tác lý luận, nhất là lúc này. Tôi là người thích đọc sách lý luận, đã theo học hai năm lớp cao cấp chính trị đào tạo cán bộ trẻ khóa đầu ở Trường Nguyễn Ái Quốc, nhưng cũng chỉ để hỗ trợ công tác viết báo, chứ không thể nói là hiểu sâu về lý luận... Đó là chưa kể trong thời kỳ đổi mới có rất nhiều vấn đề lý luận rất mới xuất phát từ
18
thực tiễn Việt Nam. Anh Nguyễn Đức Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác tuyên giáo đã nói với tôi: “Trong kho tàng chủ nghĩa Mác - Lênin, có bộ phận mãi mãi đúng, có bộ phận đúng lúc đó bây giờ phải được bổ sung, có bộ phận mới ở dạng lý thuyết chưa qua khảo nghiệm thực tiễn”. Nói thế là rất đúng, nhưng cũng rất bạo, chỉ đến thời kỳ đổi mới mới có thể nói được. Nhưng tính tôi là đã hiểu cái gì thì muốn hiểu đến cùng, cho nên hỏi anh: “Thế thì anh nói xem nội dung gì mãi mãi đúng, nội dung gì chỉ đúng lúc đó, nội dung gì chưa được khảo nghiệm thực tiễn”. Anh không trả lời, vì xem ra rất khó, vì với sự sụp đổ của một loạt nước xã hội chủ nghĩa, nhiều nội dung lý luận phải được nhận thức lại tuy rằng phải giữ vững lý tưởng cách mạng. Sau này, có Nghị quyết Trung ương 9 về những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, tuy là sự cố gắng rất lớn để góp phần giữ vững lập trường, mục tiêu, nhưng nhiều vấn đề còn xa với thực tiễn, cho nên bọn tôi nói đùa với nhau là Nghị quyết “không chín” (09). Nói thế để thấy, trong thời kỳ này, mặc dù công tác lý luận đã có nhiều cố gắng, nhưng còn phải cố gắng rất nhiều xuất phát từ tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam.
19
Sau này, tổng kết từ thực tiễn, đặc biệt là từng bước nghiên cứu, tổng kết tư tưởng Hồ Chí Minh thì lý luận về chủ nghĩa xã hội mới “rõ dần ra”. Tôi bạo miệng phát biểu tại Hội nghị Trung ương: “rõ dần ra” nghĩa là không còn mù mờ, không thể hoài nghi, nhưng là “chưa rõ hẳn”. Tôi làm công tác tư tưởng - văn hóa trong hoàn cảnh khó khăn chung của công tác này; đối với người mới như tôi lại càng khó khăn. Nhưng có đồng chí động viên: “Cậu mới vào ngành thì có khi lại đỡ
khó khăn hơn, vì không bị ràng buộc, không quá thuộc lòng những tư duy, công thức cũ!”. Nghe thế, tôi cũng biết vậy, nhưng thực sự là khó khăn.
Làm nghề báo đã gần 40 năm, nhận công tác ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tôi còn khó khăn nữa là phải “chuyển” từ tư duy, phong cách viết sang tư duy nói, mà nói đâu có dễ vì nó có quy luật riêng; từ phong cách trình bày thoải mái, có phần tự do sang cách nói chững chạc, đúng mực “trên bục giảng”. Thay đổi phương pháp, thói quen đâu có dễ. Đó là chưa kể không khí làm việc cũng thay đổi, từ chỗ tấp nập ngày đêm, sang chỗ chủ yếu lặng lẽ nghiên cứu, mà tôi từng nói vui: “Từ chợ sang chùa”.
20
Nghĩa là có rất nhiều điều mới lạ, từ nội dung tới phương pháp; mà những điều mới lạ đó, bên cạnh việc học tập kinh nghiệm những người đi trước, chủ yếu còn phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết những vấn đề mới.
Công tác tư tưởng dù học, đọc bao nhiêu thì cũng là để góp phần giải đáp những vấn đề mới nảy sinh. Cho nên công tác đã mới lạ, lại gặp ngay thử thách mới, mà là thử thách rất to lớn.
Vấn đề lớn nhất là sau Đại hội lần thứ VII của Đảng ta được mấy tháng thì Liên Xô tan rã, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Đảng đã có Nghị quyết bước đầu phân tích nguyên nhân, để khẳng định niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Công việc truyền đạt này do Thái Ninh phụ trách, nhưng chẳng may anh bị ốm, mà lại là bệnh trọng. Cho nên anh điện cho tôi đang công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh là thay anh báo cáo với Hội nghị cán bộ miền Nam đã triệu tập. Tôi không được chuẩn bị, mà ngày mai đã họp rồi. Suốt đêm đó phải ngồi viết đề cương, để sáng mai đăng đàn.
Chưa bao giờ cuộc Hội nghị đông như vậy, ngồi kín Hội trường số 10 Trần Quốc Toản, có
21
tới 8 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng đến dự, có đồng chí đã tham gia trước tôi một, hai khóa. Tôi báo cáo với các đồng chí theo những gì đã nhập tâm từ Nghị quyết của Đảng, nhưng còn nói lên từ tấm lòng của tôi. Tôi đã trình bày: con đường của chủ nghĩa xã hội hiện thực đang bị trục trặc, phải được bổ sung, nhận thức lại qua sự nghiệp đổi mới của ta; điều đó không có gì là lạ, cũng như chủ nghĩa tư bản đã hình thành hơn 200 năm nay nhưng cũng phải tiếp tục điều chỉnh, và cho dù lực lượng sản xuất ở các nước đó phát triển rất mạnh nhưng vấn đề công bằng xã hội được đề xướng từ cuộc cách mạng tư sản dân quyền năm 1789 đến nay vẫn chưa giải quyết được, và tình trạng bất công ngày càng trầm trọng hơn. Rồi chợt nhớ tới phát biểu của Blega Dimitrova, nhà thơ lớn của Bungari đã nói mà tôi đọc được: “Một con thuyền ra khơi gặp phong ba bão táp, nếu mọi người cùng nhau ra sức chèo lái thì có thể tìm cách vượt qua, nhưng ai đó bỏ thuyền nhảy ra ngoài thì chắc rằng không thể sống nổi, và nhiều người như thế thì con thuyền sẽ chìm!”... Đã lâu lắm rồi, tôi không thể nhớ là tôi đã nói những gì, nhưng chỉ biết chắc là tôi nói với lòng tin và cả tấm lòng, cho nên “có vẻ” chừng mực nào đó có
22
sức thuyết phục. Nói trong một ngày, người rất mệt, tôi ăn cơm, tắm rồi về phòng ở tầng 3, T72 nghỉ. Tối, anh Sáu Phong, Bí thư và Út Đường, Chủ tịch tỉnh Bình Phước (lúc chưa chia tách) tới gõ cửa phòng vào chơi, nói: “Ông nói được, thuyết phục đấy!”. Đây là lần đầu tiên tôi biết anh Sáu và anh Út, mặc dù anh Sáu cùng ở
trong Ban Chấp hành Trung ương với tôi. Các anh cho chai rượu Tây và tút thuốc lá thơm Hòa Bình gọi là “thưởng cho diễn giả”. Một lúc sau, anh Lương lúc đó là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Khánh (lúc đó chưa chia tách) cũng vào phòng cho cân cá mực, cho là “nói được, phần nào thuyết phục”. Thật ra, có giỏi giang gì đâu, tài liệu gốc thì không có trong tay, chỉ nhớ trong đầu, nhưng có lẽ tôi đã trình bày suy nghĩ của tôi với cả tấm lòng của một người đã đi theo Đảng mấy chục năm, từ lúc 14 tuổi. Thì ra công tác tư tưởng xem ra không chỉ là từ lý lẽ của lý trí, mà sự thuyết phục nhiều khi là từ tấm lòng. Mà tấm lòng thì không giấu được ai. Đó là thử thách đầu tiên mà rất gay gắt của nghề tuyên huấn, mà cũng từ đó rút ra bài học có thể cũ, nhưng lại rất mới đối với tôi trong công tác mới mẻ này.
Thử thách thứ hai là chủ trì cuộc hội nghị lớn và có thể là đầu tiên về công tác báo chí,
23
xuất bản, tổ chức ở hai miền, miền Bắc họp ở Hội trường Ba Đình, miền Nam họp ở Hội trường Thống nhất. Vì đông người dự và vì rất quan trọng cho nên người ta dành hội trường quan trọng nhất ở hai miền cho cuộc họp này. Theo sự phân công của lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, tôi làm công tác thường trực Ban và phụ trách công tác tuyên truyền và báo chí, xuất bản; đó là sự phân công hợp lý. Ai cũng nghĩ là tôi rất thành thạo công tác báo chí, nhưng thực sự không hoàn toàn như thế. Tôi có thể có kinh nghiệm viết báo, quản lý một tờ báo lớn, nhưng quản lý cả một ngành báo chí đang phát triển nhanh và đa dạng trong thời kỳ đổi mới, đang có nhiều vấn đề tranh cãi, là điều mới mẻ và không dễ chút nào. Tôi và anh Trần Hoàn, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin được phân công chủ trì cuộc họp quan trọng này, nhưng anh Hoàn dành cho tôi quyền điều khiển và kết luận; còn Đề cương báo cáo thì Ban và Bộ cùng chuẩn bị.
Cuộc sống báo chí sau 5 năm đổi mới rất sôi động, nhưng không đơn giản. Báo chí xông vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mở đầu chuyên mục Những việc cần làm ngay trên báo Nhân Dân.
24
Các phóng sự Cái đêm hôm ấy đêm gì phản ánh nỗi khổ của nông dân ở Thanh Hóa không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn bị o ép nhiều bề, Lời khai của bị can nói về vụ oan khuất vì kỳ thị người giàu, qua kiểm tra hành chính Vua lốp ở Hà Nội, Người đàn bà quỳ phản ánh nỗi oan khuất, khiếu kiện kiên trì của một người nông dân tỉnh Hải Hưng. Khái niệm “cường hào mới”, lần đầu tiên đưa lên mặt báo chỉ những hành vi ức hiếp dân của cán bộ cơ sở. Tôi rất thích các phóng sự đó, vì từ lâu mới được đọc các phóng sự nói lên mặt trái cuộc sống mà không phải ai cũng biết. Nhưng nghe nói một số anh không đồng tình, cho là thể hiện cường điệu mặt trái của xã hội, không đồng tình cụm từ “cường hào mới” cho nên cũng không dám khen công khai. Nhưng đồng thời cũng phải thấy tác động to lớn và có hiệu quả của đấu tranh chống tiêu cực công khai trên báo. Tuy nhiên, báo chí năng động, tích cực nhưng cũng có biểu hiện quá đà. Các đồng chí lo ngại mặt tiêu cực của báo chí đều là những đồng chí tích cực ủng hộ sự nghiệp đổi mới, nhưng “gương tày liếp” của báo chí Liên Xô trong cải tổ, nhân danh đấu tranh chống tiêu cực, xem xét lại các vấn đề lịch sử đã công phá, làm mất uy tín, thậm chí
25
vô hiệu hóa các cơ quan Đảng và Nhà nước, làm cho ai nấy đều giật mình. Nhưng kết luận thế nào để thể hiện tinh thần của Bộ Chính trị, vừa đánh giá vai trò to lớn, tác dụng tích cực của báo chí trong thời kỳ đổi mới, vừa chỉ
ra các khuyết điểm, nhất là nguyên nhân, mà không “dội gáo nước lạnh” vào nhiệt tình đổi mới của anh chị em làm báo tâm huyết.
Phải công nhận vị trí quan trọng của báo chí, đóng góp to lớn của báo chí trong sự nghiệp đổi mới, nhưng lại phải chỉ ra những khuyết điểm, nêu lên những phương hướng phát triển mới.
Lúc bấy giờ, có ý kiến muốn nói tới “quyền lực thứ tư” của báo chí. Đó là khái niệm của phương Tây, nhưng lúc đó ở ta cũng đã dịch cuốn sách của Anphanaxép, nhiều năm làm Tổng Biên tập báo Sự thật (Liên Xô), người đã từng biên tập nhiều diễn văn của nhiều đời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Cuốn sách lại có đầu đề Quyền lực thứ tư. Khi kết luận, tôi không công nhận khái niệm này, dù đánh giá rất cao vị trí của báo chí tham gia quản lý xã hội, tham gia quá trình mở rộng dân chủ. Cho dù báo chí có tác dụng hình thành dư luận xã hội nhưng nếu công nhận là “quyền lực thứ tư” tức là ngang quyền lập pháp,
26
hành pháp, tư pháp, tức là quyền lực của nhân dân được thể chế hóa. Kết luận như thế, nhiều anh chị em đồng tình, nhưng xem ra đến nay cuộc tranh luận vẫn chưa kết thúc.
Nói về khuyết điểm của báo chí thì có những nội dung dễ được chấp nhận như một số thông tin sai sự thật, khi sai không cải chính đàng hoàng, biểu hiện của bệnh cửa quyền. Có nhận định được tranh cãi rất nhiều như “không đúng tôn chỉ, mục đích”. Bây giờ, báo là của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đã được Luật báo chí và Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị xác định, nghĩa là rất mới, vì không chỉ là của Đảng như trước đây. Nhưng dù sao Đảng vẫn phải lãnh đạo báo chí. Mỗi tờ báo đều là cơ quan ngôn luận của một tổ chức, nhưng vấn đề là báo “viết về” hay “viết cho” là cuộc tranh luận sâu sắc, kéo dài. Báo Tiền phong viết về thanh niên, hay viết cho thanh niên. Nếu “viết cho” thanh niên tức là phải thông tin và bình luận về tất cả vấn đề để thanh niên biết, với tư cách là người chủ trẻ của xã hội. Còn viết “về thanh niên” là chỉ viết về sinh hoạt Đoàn và đời sống thanh niên thì diện thông tin rất hẹp. Phải tranh luận mãi mới đi tới kết luận: “Viết cho”.
27
Nhưng khi thấy tình hình phức tạp của một số tờ báo, thì đến nay vẫn có ý kiến quay trở lại “viết về” để thu hẹp phạm vi đề tài.
Một vấn đề khác là khuynh hướng “thương mại hóa”. Báo chí phát triển, đến lúc đó số đầu báo đã lên tới 374 tờ, gấp ba, bốn lần trước đổi mới. Đối với một số tờ báo quan trọng thì Nhà nước phải chu cấp tài chính, còn nói chung thì báo phải tự hạch toán, tự
nuôi nhau. Người ta thường nói: “Ai nuôi thì nói theo tiếng nói của người đó”, cho nên chúng tôi thường nói đùa với nhau: “Không nuôi mà lại bắt nó nói theo mình, thế mới thần kỳ!”. Cho nên phải thấy là đa số anh chị
em rất tốt. Báo chí tự hạch toán cho nên phải tìm cách mở rộng phát hành, tranh thủ độc giả. Mà trong tâm lý xã hội thì ai “nói ngược” dễ được tìm đọc; nói cho cùng thì đó cũng không phải là điều gì xấu, vì độc giả muốn nghe những ý kiến khác nhau để xác định thái độ của mình. Cho nên “đua nhau” nói “trái một chút”, trái ở đây là trái với chính sách hiện hành. Rồi tâm lý người đọc muốn được biết những vụ tham nhũng, những vụ án, những chuyện tình duyên dang dở, những rắc rối, “bí mật” trong đời tư của người lãnh đạo, quản lý, các nghệ sĩ nổi tiếng, những
28
doanh nhân giàu có... tức là những “nhân vật xã hội” - người của công chúng. Thế là đua nhau đưa tin vụ án, miêu tả bạo lực... Có tờ báo địa phương như báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hành tới 60 vạn tờ/kỳ, trong khi báo Nhân Dân, tờ báo Đảng lớn nhất lúc đó chỉ phát hành được 70 - 80.000 tờ/ngày. Phân tích đi, phân tích lại thì cũng chẳng có “địch”, có “phần tử xấu” nào ở đây, mà chủ yếu là để bán báo, nuôi nhau, và có thể làm giàu. Cho nên rất ít tờ báo sơ suất đăng bài chống đối về chính trị, nhưng lại la liệt các sản phẩm “vô văn hóa”, “dưới văn hóa”, sẽ làm hỏng thị hiếu thẩm mỹ của dân tộc, nhất là tầng lớp trẻ. Khái niệm “dưới văn hóa” lần đầu tiên được tôi trình bày ở Hội nghị và phân tích sự nguy hại lâu dài, thậm chí gây “thảm họa” khi nó hình thành một thị hiếu phổ biến, “một nền văn hóa dưới văn hóa”; được nhiều anh chị em tán thành.
Tôi vốn là nhà báo, bây giờ lại làm người “quản lý báo chí”, thì làm sao đây để vừa quản lý được theo luật pháp, định hướng, vừa khỏi mang tiếng với bạn đồng nghiệp. Đã từng làm nghề báo, cho nên biết rằng với nghề này thì chỉ có bàn bạc, thuyết phục chứ không thể ra lệnh. Mà cái nghề “chữ nghĩa” thì rất khó
29
lường, vì vừa viết vừa lách, nói thẳng không được thì nói vòng, mà ông cha ta thường nói “đánh thẳng dễ đỡ, đánh vòng khó tránh”. Thật ra họ đều là đồng chí, bạn bè, có người có quá trình chiến đấu rất vẻ vang. Nhưng làm cái nghề này trong thời buổi này phải thế, “phải nuôi nhau” cho nên phải tính. Cho nên, những sai sót do thông tin vội vàng, đăng chuyện vụ án, kích dâm cũng chỉ là do muốn bán báo, cho nên chỉ là khuyết điểm “thương mại hóa”, chứ không “chính trị, chính em” gì. Nhiều đồng chí tổng biên tập đều là những đồng chí tâm huyết với nghề báo, một số đồng chí có quá trình đấu tranh cách mạng gian khổ. Gặp các bạn đó mà trao đổi lợi hại trên tinh thần đồng chí là có thể được. Nhưng lâu lâu lại vẫn “xì” ra tin này, bài khác không có lợi cho sự ổn định xã hội vì muốn cạnh tranh tin tức với các tờ báo khác.
Rồi ngay khái niệm “thương mại hóa” cần khắc phục, tuy đã vào Chỉ thị số 22 của Bộ Chính trị, nhưng đâu đã phải mọi chuyện đều thông suốt. Báo phải tự trang trải, cho nên phải làm kinh tế, phải bán được báo, phải quảng cáo - đó là vấn đề rất mới trong làm báo thời kỳ này. Tờ báo có bán, có mua, thích thì mua, không thích thì thôi, không thể ép buộc,
30
cho nên là một thứ “hàng hóa”, không thể không chấp nhận. Nhưng báo chí là sản phẩm tinh thần, là phương tiện công tác tư tưởng - văn hóa, cho nên không thể là một thứ hàng hóa thông thường; nó là một thứ hàng hóa đặc biệt. Tại Hội nghị này, tôi đã dẫn lời một học giả nổi tiếng trên thế giới nói: “Khi ông tổng biên tập thu về 5 đôla tiền lãi, thì ông nhớ cho rằng có khi xã hội phải bỏ ra 500 đôla để sửa chữa những gì đã mang lại cho ông chủ báo 5 đôla!”. Nói “thương mại hóa” với báo chí thuần túy là sản phẩm hàng hóa, thì còn gì là phương tiện của công tác tư tưởng nữa; mà nếu không là phương tiện tư tưởng của ta thì nó sẽ là phương tiện tư tưởng của các thế lực xa lạ. Cho nên khắc phục “khuynh hướng thương mại hóa” trong báo chí là đúng. Nói đến như thế, mà đến nay vẫn có đồng chí không thông, có đồng chí không nói lời chống đối nhưng “việc ta ta cứ làm”, có đồng chí lên diễn đàn phát biểu hoặc viết bài trên báo không đồng tình. Không nên coi các đồng chí đó là những người “chống đối”, vì phải chấp nhận những ý kiến khác nhau để tiếp tục tranh luận. Xem ra cuộc tranh luận kéo dài tới hơn 10 năm chưa dứt, cho dù đã có chỉ thị, nghị quyết; cũng chẳng phải lý lẽ gì ghê gớm,
31
mà chỉ vì “chuyện làm ăn” trong nghề báo thời kỳ mới!
Còn cái bệnh “thích nổi tiếng”. Nói thật ai mà chẳng thích nổi tiếng, nhưng có một số nhà báo muốn nổi tiếng theo kiểu “Erostat đốt đền” khi muốn động tới cái cao cả, thì phải tới năm 1997 tôi mới viết trên báo Nhân Dân khi thực tiễn đã bộc lộ.
Về phương hướng quản lý báo chí. Định thu gọn số lượng lại, vì trùng lặp khá nhiều. Phải bắt đầu từ các cơ quan chủ quản vì bây giờ mỗi cơ quan có tới mấy tờ báo. Các anh Trần Hoàn, Cù Huy Cận và tôi đến từng cơ
quan bàn bạc, phân tích, nhưng về cơ bản không “sắp xếp” được mấy, vì cơ quan nào cũng muốn có tiếng nói. Nêu lên trách nhiệm của cơ quan chủ quản là rất đúng vì tờ báo là “tiếng nói” của cơ quan đó cho nên cơ quan đó phải có trách nhiệm, nhưng khốn nỗi báo chí là một nghề, mà nhiều đồng chí lãnh đạo cơ
quan lại không biết nghề báo thì làm sao mà lãnh đạo được, mà thì giờ đâu để mà duyệt bài; đó là chưa kể không ít tổng biên tập lại có trình độ văn hóa cao hơn, thậm chí có một số đồng chí lại có quá trình phấn đấu lâu hơn, oanh liệt hơn đồng chí phụ trách tuyên huấn của cơ quan đó, thì làm sao mà quản được.
32
Có lẽ trừ hệ thống báo quân đội và công an là “quản” theo quân lệnh. Một phương hướng nêu lên đã được xác định trong Chỉ thị số 22 là “phát triển đi đôi với quản lý”, được hiểu là năng lực quản lý tới đâu thì phát triển tới đó và quản lý ở đây không chỉ có nghĩa là quản lý hành chính, là thu hẹp, mà quản lý là tạo điều kiện để phát triển đúng hướng, hiệu quả cao hơn... Nhưng nói như thế cũng là trên lý thuyết, cho nên có lúc lại có ý kiến “cứ để phát triển, lấy cái gốc là phát triển, từ đó phải vươn trình độ quản lý lên ngang tầm!”. Đầu tiên đó là ý kiến một số nhà theo “lý thuyết kinh tế”, nhưng thấy áp dụng trong quản lý văn hóa lại không được, mà ngay trong kinh tế cũng gây ra khá nhiều lộn xộn, cho nên lại phải quay trở lại quan điểm đã xác định.
Tưởng là đã thạo nghề báo nhưng càng đi vào ngõ ngách lại càng thấy nhiều vấn đề mới nảy sinh. Chỉ mới mấy tháng thôi mà đã thấy phức tạp. Nhưng dù sao cũng góp phần ra đời được Chỉ thị số 22 của Bộ Chính trị từ năm 1991, một Chỉ thị của Đảng đã được các đồng chí tổng biên tập góp ý sửa chữa trước khi ký, mà đến năm 2004, về cơ bản cũng chưa có gì có thể thay đổi lớn.
33
KHÔNG ĐỔI MỚI THÌ KHÔNG GIỮ VỮNG ĐƯỢC NGỌN CỜ BÁO CHÍ
Thái Ninh bị bệnh trọng, sức khỏe ngày một yếu, thực chất công việc lãnh đạo Ban do các đồng chí lãnh đạo khác của Ban đảm nhiệm, mà công tác tư tưởng - văn hóa xem ra ngày càng phức tạp. Thái Ninh làm Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương được tám tháng thì mất. Rất tiếc và rất thương một đồng chí tận tụy, trung thực. Thế là công tác của tôi lại một lần nữa đảo lộn.
Tháng 6/1991, anh Đào Duy Tùng gọi lên nói là tôi về làm Tổng Biên tập báo Nhân Dân; Hà Đăng, Tổng Biên tập báo Nhân Dân lên làm Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Lý do như thế nào thì không rõ nhưng còn nhớ, khi mới lên nhận nhiệm vụ trên Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, anh Tùng dặn: “Lên đây, nhưng không được bỏ viết đấy!”. Nghĩa là anh ấy vẫn còn tiếc khả năng viết báo của tôi, cho nên có dịp lại đưa về làm báo.
34
Khi mới về công tác ở Ban Đảng phải thay đổi nhiệm vụ và phương thức công tác thấy rất chán, nhưng khi bắt đầu bắt được nhịp công tác, cũng đã thấy vui, thấy thích vì làm được một số việc, lại được anh em trong ngành lúc đầu “nghi ngờ” nay bước đầu tín nhiệm, cho nên khi đi cũng có phần lưu luyến. Nhưng dù sao về làm báo, quay trở lại cơ quan cũ là sướng lắm rồi. Nhưng công việc tuy cũ mà lại rất mới trong quá trình đất nước đổi mới, báo chí đổi mới.
Tuy rằng chưa ai dám đả động tới vị trí ngọn cờ chính trị, tư tưởng của báo Nhân Dân, nhưng trước tình hình mới, dư luận xã hội và đồng nghiệp đòi hỏi báo Nhân Dân mấy vấn đề mà trong báo cáo công khai trước anh chị em tôi đã trình bày:
- Thông tin cần nhanh hơn, nhiều hơn, “đời thường” hơn;
- Đấu tranh chống tiêu cực mạnh hơn, triệt để hơn;
- Mở rộng diễn đàn hơn, để các ý kiến khác nhau được phát biểu trên báo. Đây không phải là những vấn đề mới mà là vấn đề được nêu lên suốt từ năm 1988 đến năm 1991; có đồng chí vì lòng tốt muốn báo Nhân Dân đổi mới hơn nữa, hấp dẫn hơn nữa, nhưng
35
cũng có một số ít người tìm cớ để phủ định ngọn cờ chính trị, tư tưởng của báo Nhân Dân. Cuộc đấu tranh để giữ vững bản lĩnh chính trị của tờ báo Đảng lúc này rất phức tạp.
Báo Nhân Dân là tờ báo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối thoại với bạn đồng nghiệp ở Hội Nhà báo Việt Nam, tôi thẳng thắn nêu lên và phản bác một số ý kiến cho rằng báo “chỉ bám lấy các vấn đề chính trị
thì báo không thể hấp dẫn!”. Lịch sử đã chứng minh vấn đề chính trị là vấn đề rất hấp dẫn, vì đó là vấn đề động chạm tới hàng triệu người. Chống Mỹ, cứu nước là vấn đề chính trị
lớn nhất của dân tộc suốt mấy chục năm, báo chí đã tuyên truyền rất hấp dẫn; trong “12 ngày đêm chiến đấu chống B.52 trên bầu trời Hà Nội” người ta phải xếp hàng mua báo như mua gạo thời kỳ tem phiếu, bài xã luận trên báo Nhân Dân: “Hà Nội - Thủ đô của phẩm giá con người” do Thép Mới viết là bài xã luận chính trị, là bài văn hùng hồn, sảng khoái, ai cũng thích đọc, sao lại bảo không hấp dẫn! Thời kỳ manh nha đổi mới, báo Nhân Dân đi đầu tuyên truyền, ủng hộ khoán sản phẩm trong nông nghiệp, đấu tranh bền bỉ suốt 5 - 6 năm trời, là vấn đề chính trị lớn động chạm tới quyền lợi của mấy chục triệu
36
nông dân và là thời kỳ báo chí ít bài viết có “văn chương” nhưng lại rất hấp dẫn, nhiều cán bộ, nông dân mua báo, cắt các bài báo lưu trữ, truyền tay nhau đọc, ai bảo báo không hấp dẫn! Rồi những vấn đề mới đang đặt ra, vấn đề phân hóa giàu nghèo trong thời kỳ mới, đời sống gia đình liệt sĩ, thương binh sau khi đã xóa bỏ bao cấp ở các hợp tác xã, vấn đề làm giàu chính đáng, xóa đói, giảm nghèo, vấn đề
chống tham nhũng... đều là những vấn đề chính trị lớn rất bức xúc, nếu làm cho đúng hướng thì sẽ rất hấp dẫn. Rồi tiếp tục giữ vững trận địa tư tưởng trong tình hình phức tạp của thế giới trong khi còn có nhiều ý kiến khác nhau, báo tiếp tục thực hiện Kết luận số 20 của Bộ Chính trị (tháng 11/1988) khẳng định đường lối đổi mới theo con đường xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng theo quan điểm của ta, phê phán sự rập khuôn, sao chép cải tổ, cải cách hoặc trì trệ, bảo thủ... là vấn đề chính trị rất cốt tử mà báo Nhân Dân phải giữ vững và giương cao ngọn cờ, v.v..
Tuy nhiên, nhiều ý kiến độc giả góp ý, phê bình, đòi hỏi chính đáng phải tiếp thu, sửa chữa, đáp ứng như thông tin nhanh hơn, nhiều hơn, đấu tranh chống tham nhũng tích cực hơn.
37
Cùng với tập thể lãnh đạo và anh chị em trong tòa soạn, báo Nhân Dân trong những năm 1992 - 1996 đã có những bài điều tra về vụ tiêu cực ở ngân hàng, ở Cục Dự trữ quốc gia, ở việc thi công đường dây 500KV, ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao..., nhiều vụ đã dẫn tới kỷ luật những người phụ trách, trong đó có cả Ủy viên Trung ương Đảng. Rồi các vụ điều tra về lấn chiếm đất đai ở đường số 5, “lấn đất” sông Hồng, các vụ cấp đất trái phép ở Nghệ
An, Vĩnh Phúc, Bà Rịa - Vũng Tàu; một số vụ tiêu cực trong cơ quan bảo vệ luật pháp, sự lừa lọc, đầu cơ trong cơ chế thị trường. Loạt bài điều tra có tiếng vang là điều tra cơn sốt xi măng năm 1995, đây là bài điều tra rất công phu của Phạm Thanh, chỉ rõ Tổng Công ty Xi măng đã gây cơn sốt giả để “đục nước béo cò”, khác với cách giải thích là “cung” không đáp ứng “cầu” do Tổng Công ty Xi măng trình bày. Bài báo đó đăng lên, anh Quy, Chủ tịch Hội đồng quản trị và anh Thiện, Tổng Giám đốc phản ứng rất quyết liệt, nhưng Thanh tra Nhà nước vào cuộc và đã thu 200 tỉ đồng từ Tổng Công ty Xi măng do thu lợi từ chênh lệch giá.
Vấn đề xây dựng Đảng và đấu tranh chống tham nhũng là vấn đề rất phức tạp, Tổng Biên tập phải phụ trách. Các bài điều tra phân tích
38
tình trạng mâu thuẫn nội bộ kéo dài ở tỉnh Khánh Hòa, rồi bài Em lạy anh thể hiện xu hướng không muốn làm công tác Đảng, là những bài có tính phát hiện trong công tác xây dựng Đảng của thời kỳ mới. Tôi phải trực tiếp bàn bạc với các anh Đức Lượng và Lê Huyền Thông về các bài này.
Kể lại những việc mà nhiều người còn nhớ chỉ để nói là báo Nhân Dân đã có cố gắng và tiến bộ, thực sự có những đợt tuyên truyền, có bài điều tra đi đầu trong đấu tranh gây tiếng vang khá lớn và có sức hấp dẫn bạn đọc; còn làm mạnh hơn như mong muốn của một số đồng nghiệp thì còn phải tính toán trên cương vị tờ báo của Trung ương Đảng. Tuy nhiên, khi anh Đào Duy Tùng đến thăm báo Nhân Dân, nắm tay tôi anh chúc một câu rất đau, mà rất đúng: “Chúc báo Nhân Dân
“nhân dân” hơn nữa”. Nghĩa là còn phải cố gắng rất nhiều để báo sát cuộc sống, sát yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Mà cuộc đấu tranh nào cũng có những khó khăn, phức tạp, từ nhiều phía rất tế nhị với người cầm bút.
Loạt bài điều tra về lấn chiếm đất đường số 5 do Nguyễn Oanh lúc đó là Phó Ban Nông nghiệp trực tiếp phụ trách một nhóm phóng
39
viên như Hoàng Hiển, Đào Việt điều tra viết bài trong những năm 1994 - 1995. Đó là loạt bài điều tra của báo Nhân Dân mở đầu cho loạt bài điều tra về tình trạng “lấn đất công” của các báo, cho đến ngày nay vẫn là vấn đề
rất nhức nhối.
Tình hình Hải Hưng lúc đó đang có chuyện mâu thuẫn nội bộ, muốn chia tách đông, tây đường số 5 theo địa dư tỉnh cũ. Nghe thế cũng rất lo sợ cán bộ viết bài có định kiến. Nhưng quan trọng là đúng sai; nếu đúng thì nhất định làm, không vì “điều ong tiếng ve” mà nghi ngờ cán bộ. Rồi lại chuyện tôi là cán bộ từ Hải Dương lên, sao lại nỡ “trở mặt” với anh em. Trong diện lấn chiếm có nhà của anh V, là cán bộ phụ trách một cơ quan của tỉnh, khi là cán bộ huyện đã từng giúp đỡ
tôi rất nhiều, khi cho con gà, khi cho chục ký gạo thời kỳ bao cấp khó khăn. Một số bạn bè cũ ở Hải Dương cũng viết thư lên. Nhưng làm sao được. Không dám viết thư trả lời vì không muốn lưu lại dấu tích, chỉ nhắn tin về “mong các anh thông cảm” và cứ cho đăng loạt bài điều tra đó.
Đến chuyện đấu tranh với đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thì tình hình lại phức tạp hơn vì “động” vào đây
40
mà có sai sót thì rất nguy hiểm. Điều tra ba tháng trời, công lớn của chị Kim Anh và anh Thế Lân. Nhưng vai trò quyết định là Tổng Biên tập. Có trường hợp phải họp bàn trong Ban biên tập, lật lên lật xuống từng vụ việc để xem xét từ việc bán nhà của cơ quan, may quần áo của ngành... Báo đã đăng một số bài, vừa đăng vừa thăm dò. Anh Lê Phước Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị gọi lên hỏi. Vì anh phụ trách cán bộ, tôi phải báo cáo thẳng là “Báo Nhân Dân sẽ đăng tiếp”; anh Lê Phước Thọ
báo cáo chuyện đó với Bộ Chính trị. Thế là anh Đỗ Mười gọi lên, vì đồng chí này vốn là Anh hùng không quân, nghe nói quy hoạch cho vị trí cao hơn. Tôi biết là anh sẽ hỏi chuyện đó cho nên ôm tài liệu lên. Bộ Chính trị đang họp bàn nhân sự bổ sung Ủy viên Trung ương khoá VII, giữa nhiệm kỳ, nhưng Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng bỏ Hội nghị ra hỏi. Thời gian rất khẩn trương, anh chỉ hỏi gọn: “Tình hình thì biết rồi. Nhưng tài liệu của các cậu chính xác tới đâu!”. Tôi thưa với anh: “Tất cả có bốn vụ việc, ba việc thì chắc đúng, còn một việc phải điều tra thêm. Chúng tôi sẽ đăng và chịu trách nhiệm”. Thế là tôi ra về. Cuối cùng dự kiến nhân sự về đồng chí đó không thành, nhưng báo không
41
đăng tiếp hai bài đã chuẩn bị. Kim Anh và Thế Lân có vẻ không hài lòng với tôi, vì nghĩ “kiểu này là “áo gấm đi đêm”. Giá cứ đăng rồi kết cục như Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ diễn ra thì có phải báo mình oai hơn không!”. Thôi, cốt được việc, chứ “oai” để làm gì!
Rồi lại chuyện Sỹ Chiến, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quảng Ninh có khuyết điểm trong việc đất đai, báo Nhân Dân đăng bài phê bình. Nhưng Chiến lại được chuẩn bị
đề bạt làm Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Một số người muốn bịt đi. Đồng chí Viện trưởng vừa cười vừa nói: “Chuyện nhỏ thôi mà, các ông tha cho nó!”. Nhưng ở đây sao lại có chuyện “bắt”, chuyện “tha”. Một hôm một đồng chí lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, xuất thân từ thợ mỏ đến gặp tôi nói: “Ông Thọ ơi, thôi cho qua đi. Chiến là công nhân, lại có bằng luật học, có công tác thực tiễn địa phương. Đề bạt một cán bộ xuất thân từ công nhân đâu có dễ!”.
Thế là “lập trường giai cấp” của tôi nổi lên, rồi phải nói với các anh chị ở Ban Nội chính không tiếp tục đăng bài phê bình. Sau này, khi Sỹ Chiến mắc vào vụ Năm Cam, điều tôi hối hận chính là lúc đó nếu tôi kiên quyết để anh
42
chị em tiếp tục điều tra, đăng bài, thì Chiến không thể được đề bạt làm Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và gây hậu họa.
Vấn đề thông tin bình luận quốc tế cũng không đơn giản. Sau vụ “đảo chính ngày 19/8” ở Liên Xô, tình hình tư tưởng nhân dân diễn biến phức tạp, số đông ủng hộ vì đang rất không đồng tình Goócbachốp. Nhưng Ban Bí thư chỉ đạo “đưa tin khách quan, không bình luận, vì còn cần theo dõi tiếp”. Đêm đó anh Trần Kiên, Phó Tổng Biên tập thường trực, chị Hoàng Liên, Trưởng Ban Quốc tế viết tin. Họ
đều là những cán bộ đã từng học, từng công tác ở Liên Xô, tình cảm với Liên Xô rất đậm đà. Cho nên chấp hành chỉ thị của cấp trên là thông tin khách quan, nhưng sắp xếp các thông tin “ủng hộ” đậm đà thành ra một bản tin có khuynh hướng. Mới sáng ra, anh Đỗ
Mười đã gọi lên, nói rất gay gắt: “Phải kỷ luật cậu. Tình hình rất phức tạp mà các cậu không chấp hành chỉ thị của Ban Bí thư”. Đọc lại tin bình, tôi thấy là rất gay go, chép miệng chấp nhận chịu kỷ luật về trách nhiệm khi làm sai mặc dù tôi không trực đêm đó. Nhưng mấy ngày sau không ai nhắc gì tới án kỷ luật cả.
Trên đây tôi kể một số chuyện phức tạp trong hơn bốn năm làm Tổng Biên tập báo
43
Nhân Dân. Chuyện còn dài, còn nhiều, nhưng chỉ nói thế thôi cũng đã đủ thấy đau đầu. Đêm nào cũng đến 23 giờ 30 tôi mới ra khỏi cơ quan về ngủ với giấc ngủ chập chờn vì không biết những tin, bài đã đưa có gì sai sót. Còn bây giờ với phương tiện thông tin hiện đại, Tổng Biên tập có thể duyệt bài tại nhà thì người lãnh đạo đỡ vất vả hơn.
Hiện nay, công việc làm báo muốn thỏa mãn yêu cầu của người đọc và theo kịp đòi hỏi của thời kỳ đổi mới, ngoài vấn đề bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo thì cơ bản là đội ngũ cán bộ. Ai cũng phải thấy đội ngũ cán bộ
báo Đảng được chọn lọc và đều là những người trung thành, tận tụy của một tờ báo có truyền thống rất vẻ vang. Nhưng thời kỳ đổi mới có những đòi hỏi mới, cuộc cạnh tranh về thông tin rất quyết liệt, cho nên bên cạnh những ưu điểm có tính truyền thống thì việc chuyển hướng xem ra vẫn có vẻ chậm chạp. Trong dịp tổng kết làm báo sau 20 năm giải phóng miền Nam là thời kỳ làm báo trong hòa bình, thống nhất và đổi mới, tôi mạnh dạn nêu lên những nhược điểm của đội ngũ, không hề có ý định phủ định quá khứ vẻ vang của báo, mà chỉ nêu lên những vấn đề phải tiếp tục phấn đấu, phấn đấu rất quyết liệt, mà trong những lần tâm sự
44
với anh Hoàng Tùng, người đã 30 năm làm Tổng Biên tập cũng thấy cần phải thẳng thắn đặt ra, để “đào tạo lại”, như anh nói. Tôi nói và sau đó ghi lại thành văn bản đưa lại các anh chị em thảo luận tập thể, vì là vấn đề đánh giá cán bộ, rất hệ trọng. Tôi thẳng thắn nêu lên:
“Nhiều ý kiến cho rằng lòng say mê nghề nghiệp có phần giảm sút...”. “Tính thụ động thì khá rõ ở nhiều người. Những người đó thường chỉ đợi: đợi người ta mời đi họp, đợi thông tin đến, đợi cộng tác viên, đợi cấp trên gợi ý... Thiếu hẳn cảnh săn lùng tin, ảnh, xông đến với thông tin viên, với bạn đọc như
nghề báo cần phải có. Thiếu những kiến nghị, suy nghĩ độc lập. Thiếu hẳn những chuyến đi sục sạo đến nơi lầm than, gặp người có khó khăn; chỉ thấy đi họp, đi hội thảo, đi xem triển lãm, đi họp báo... Cho nên có nhiều người nói đọc nhiều bài báo, nhiều tin trên báo thấy “thơm tho, sạch sẽ” quá. Báo sát “quan” mà không sát dân. Đó là sự trì trệ, xơ cứng của bệnh quan báo”.
... “Rồi mặt trái của cơ chế thị trường cũng đang tác động vào người cầm bút của ta... không phải báo ta không có kiểu viết “quảng cáo”, viết “trả ơn”, viết “trả oán”... Thậm chí có dư luận cho là có người của báo Nhân Dân
45
tham gia vào một nhóm nhà báo nào đó để cùng “bốc” ai, cùng “đánh” ai. Cả chuyện đem thư tố cáo đi hù dọa, vòi vĩnh...”.
... “Còn nghề nghiệp thì cũng phải xem là chậm đổi mới. Viết còn dài, lòng thòng mà ít thông tin. Tính cụ thể còn ít. Phóng sự thì ít bài có chất văn. Bình luận là thể tài đang hẫng hụt lớn... Thiếu hẳn những cây bút chuyên gia, thiếu các đầu mối thông tin nhanh nhạy”.
... “Để tâm quan sát thấy các đồng chí ít đọc quá. Lê Quý Đôn nói: “đi, đọc, học, nghĩ, viết” mà ta đi thì đi ít, đọc và học thì ít, còn nghề thì thiếu sâu sắc. Thiếu cán bộ có tầm chiến lược quá. Lo quá các đồng chí ạ, chúng tôi thì già rồi”, v.v..1.
Nói công khai với anh chị em như thế là quá mạnh bạo vì động tới thói quen và quan trọng là động tới “truyền thống vẻ vang”. Tuy nhiên, không đổi mới thì không thể đứng vững và sự đổi mới nào cũng phải khác với nếp nghĩ và cách làm truyền thống. Động chạm không nhỏ nhưng không thấy phản ứng gì. Phải cảm ơn tám tháng ở Ban Tư tưởng -
____________
1. Hữu Thọ: Công việc của người viết báo, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, tr. 364-365.
46
Văn hóa Trung ương, hiểu thêm những quyết tâm, sáng kiến đổi mới của anh chị em ở một số tờ báo, cũng biết thêm một số khuyết điểm mà anh chị em đang gặp phải để soi rọi vào mình. Rồi cũng phải đến năm 1994, sau hơn hai năm làm Tổng Biên tập và sau 32 năm tham gia quản lý các cấp của cơ quan báo mới dám nói mạnh thế, để thực sự là tự phê bình trách nhiệm của mình, chứ không phải là muốn phủ định quá khứ. Bốn năm sau, khi đọc lại, Cao Xuân Phách lúc đó là Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng nói: “Đọc đoạn này thấy anh thật dũng cảm, và cũng đúng như tình trạng của báo em!”.
Nhưng cũng phải thông cảm với hoàn cảnh báo Nhân Dân rất khó làm. Có người nói ác miệng: “Báo các ông núp dưới gốc cây đa cổ thụ 200 năm. Cây đa thì bền vững, nhưng mỗi năm chỉ thấy đổi lá một lần, cho nên chậm đổi mới là phải”. Phải thông cảm với lãnh đạo báo Nhân Dân khi phải đua tranh về thông tin với các báo mà lại phải giữ đúng định hướng chỉ đạo.
Thông tin nhanh là một tiêu chuẩn hàng đầu nhưng với “cơ chế” này thì báo Nhân Dân làm sao thông tin nhanh được. Cứ nói một chuyện nhỏ: Sau khi một máy bay của Hãng hàng không dân dụng Việt Nam bị rơi ở Thái Lan, việc mọi
47
người cần biết là ai đi trên chuyến bay đó, ai còn, ai mất. Phóng viên báo Nhân Dân có nguồn thông tin sớm nhưng không thể đưa khi chưa có thông báo của cơ quan có thẩm quyền, vì các báo khác đưa tin sai thì có thể
chưa sao, nhưng báo Nhân Dân đưa tin sai là có chuyện lớn. Rồi một chuyện nhỏ là một danh nhân nào đó từ trần, báo Nhân Dân thường biết tin rất sớm, nhưng không thể đưa tin, vì còn phải chờ thông báo của Ban Tổ chức, trong khi đó các báo khác đã đưa tin đầu tiên rất sớm. Rồi chuyện lớn hơn như những vụ tham nhũng lớn, các vụ án lớn chẳng hạn. Các báo có thể đưa những tin ban đầu từ cơ quan thanh tra, điều tra, nhưng báo Nhân Dân không thể làm như thế, vì những thông tin đó dù là của các cơ quan quan trọng cũng chưa thể đã chính xác. Ngay đầu tháng 5/2004, các báo Tuổi trẻ, Thanh niên đưa tin dồn dập các vụ tham nhũng lớn ở ngành Dầu khí, Viễn thông, Seaprodex nhưng báo Nhân Dân không đưa được vì chưa có kết luận chính thức, cũng gây nên thắc mắc. Nhưng đâu có phải bó tay. Vì sao vụ án ma túy do cán bộ công an Vũ Xuân Trường cầm đầu và một số vụ khác báo Nhân Dân là cơ quan thông tin sớm nhất.
48
Do đó phải tạo ra cơ chế cho anh chị em làm và tìm ra cách làm, chẳng hạn như đưa “tin ban đầu”...
Nói như thế để thấy cái khó của người làm báo Nhân Dân cho đến ngày nay mà anh em hay nói đùa là “gái chính chuyên” không thể có chuyện “bồ, bịch”, tuy vậy, tôi nghĩ vẫn có thể
tháo gỡ phần nào. Như bình luận là thể tài rất mạnh của cơ quan có thẩm quyền thì vì sao lại không thể vươn lên, từ những bài xã luận về đường lối, phương hướng, tới các “thời đàm” bình luận theo dòng thời sự. Ngay phóng sự cũng có thể có những bài phóng sự kinh tế, xã hội sâu sắc. Cho nên vấn đề là cây bút, những cây bút có thẩm quyền, khi một thế hệ đã nghỉ hưu, thế hệ mới vươn lên chưa kịp. Mà đào tạo cây bút thì đâu có phải là công việc một sớm một chiều. Vấn đề là phải đào tạo thế hệ trẻ mà thế hệ đó phải lăn lộn trong thực tiễn mà vươn lên. Cùng chị Đoàn Kim Khúc, Vụ trưởng Vụ Tổ chức, chúng tôi tích cực tuyển dụng cán bộ theo cách thi tuyển; bên cạnh bản lĩnh chính trị, kiến thức văn hóa, vốn sống, rất coi trọng thử năng khiếu qua trắc nghiệm... Thi tuyển hẳn hoi rồi mới xét tuyển. Tôi trực tiếp nói chuyện, truyền đạt kinh nghiệm với cán bộ trẻ báo Nhân Dân, nhấn mạnh năm vấn đề:
49
“say mê nghề nghiệp; có bản lĩnh chính trị vững vàng; có kiến thức rộng; có tay nghề vững; luôn luôn có tinh thần sáng tạo và cuối cùng là phải luôn luôn gắn bó với cuộc sống”. Nhấn mạnh “phải lăn lộn trong cuộc sống để làm nghề”, để tránh các bạn trẻ làm báo chuyên ngồi bàn giấy. Tôi nói: “phải có mắt sáng, lòng trong, bút sắc” khi phát biểu với sinh viên khoa báo chí khoá 11, tháng 6/1996 của Phân viện Báo chí - Tuyên truyền. Sau khi nghe tôi phát biểu thế, có anh bạn già nói: “Cậu nói sâu sắc đấy nhưng không thấy cậu nói tới ý thức Đảng với cánh phóng viên trẻ!”. Tôi cười nói: “Đâu phải cứ luôn nhắc tới từ Đảng mới có tính Đảng. Tố Hữu dịch thơ Aragôn, có câu “Đảng cho tôi sáng mắt, sáng lòng”. Phải thấm nhuần chân lý và phương pháp luận của Đảng mới có thể có “mắt sáng” mà nhìn thấu sự vật, mới có thể có tấm “lòng trong” để nhìn cho ra bản chất sự vật và xử sự đúng mực, có sức thuyết phục trong thông tin, bình luận”.
Đào tạo thế hệ phóng viên trẻ cho cơ quan “mắt sáng, lòng trong, bút sắc” là vấn đề sinh tử trong việc nâng cao chất lượng báo chí thời kỳ đổi mới, để đào tạo nguồn nhân lực mới cho báo thời kỳ đổi mới. Tất nhiên, để có “bút sắc” trong quá trình hội nhập quốc tế, người làm
50
báo phải tiếp cận cách làm báo hiện đại của thế giới đang đổi mới nhanh chóng, phải biết cách sử dụng các công cụ hiện đại của thông tin, chứ không thể cứ ôm mãi cái bút bi, quyển sổ với tập phong bì. Nghĩa là phải rèn luyện, phải học hằng ngày.
51
SÁNG TẠO, PHÁT TRIỂN MỚI CÓ THỂ KIÊN ĐỊNH
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, tôi được tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương, lúc này đã 64 tuổi. Từ Đại hội này đã quy định tuổi tác, nghĩa là những đồng chí vào Trung ương lần đầu phải dưới 55 tuổi để đủ tuổi tham gia hết nhiệm kỳ, còn tái cử
phải không quá 65 tuổi. Kể ra, quy định tuổi tác như thế có phần hợp lý để trẻ hóa đội ngũ, nhưng xem ra lại có phần cứng nhắc. Một số đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng có năng lực, còn sức khỏe nhưng vì quá tuổi quy định nên ra khỏi Trung ương, rất tiếc. Tại Đại hội lần thứ VIII, tôi chưa quá tuổi quy định nên vẫn được tín nhiệm tái cử.
Báo Nhân Dân lại có hai người được giới thiệu là tôi và anh Hồng Vinh, đều trúng cử với số phiếu không cao, nhưng dù sao Đại hội cũng ưu tiên cho báo Nhân Dân có hai đại biểu trúng cử. Lại chuyện ai ở, ai đi? Trong
52
thâm tâm tôi muốn ở lại báo Nhân Dân, một phần vì gắn bó với báo mấy chục năm, đồng thời cũng muốn triển khai một số công việc đổi mới cho đủ sức là “ngọn cờ” báo chí trong thời kỳ mới như phần trên đã nói. Mặt khác, lại thấy tuổi cũng đã nhiều, không đủ sức thức đêm thức hôm như thời kỳ trai trẻ; vả
lại nghề báo vừa vẻ vang, vừa rất nguy hiểm, khi phải duyệt các bài tin quan trọng vào thời gian từ 16 giờ tới 23 giờ, là lúc rất mệt và rất đói.
Nhớ lại những phút nguy hiểm đã vấp phải. Chẳng hạn bài xã luận về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư lúc đó, trực tiếp viết. Anh Trường Chinh có thói quen làm việc rất cẩn thận, những bài như thế, anh đều trực tiếp đến nhà in xem morát. Nhưng hôm đó anh bận tiếp khách quốc tế cho nên giao cho anh Hoàng Tùng đi nhà in thay. Nhưng anh Tùng cũng lại bận tiếp khách quốc tế cho nên lại giao cho tôi và anh Đặng Phò đi nhà in. Lúc đó, học tập kinh nghiệm nước ngoài, báo Nhân Dân có chế độ “tỉnh táo”, chỉ cấp chuyên viên mới được đi. Những người làm nhiệm vụ “tỉnh táo” cho nghỉ làm việc buổi chiều, đêm đi nhà in đọc bài coi như độc giả đầu tiên đọc
53
báo, lại là người có trình độ nghiệp vụ, để phát hiện sai sót, sau 24 giờ được bồi dưỡng một bát phở. Đêm đó, tôi và Đặng Phò đọc lại bài xã luận tới hai lần, đi ăn phở rồi còn quay trở lại đọc thêm lần nữa. Ngủ muộn, 8 giờ sáng hôm sau đến cơ quan giở tờ báo ra đọc, tôi giật mình. Bài viết không có gì sai, nhưng chữ “Xã luận” ở trên lại xếp thành “Xã suận”. Hoảng quá! Bài của tòa soạn viết thì đề “xã luận”, bài của Tổng Bí thư viết lại là “xã suận”. Chuyến này thế nào cũng bị kỷ luật. Cứ hồi hộp lo lắng cả buổi sáng, nhưng không thấy trên Văn phòng Trung ương gọi xuống vì không ai có thể ngờ lại sai vào chỗ không thể sai. Thế là thoát chết, nhưng nghĩ lại thấy thót tim. Tôi có một kinh nghiệm: khi có việc, có bài quan trọng thì chỉ người phụ trách biết mà để tâm theo dõi kỹ, còn nếu họp lại nhắc nhở, dặn dò gây không khí căng thẳng, thì thể nào cũng có chỗ sai, không sai chỗ này thì sai chỗ khác.
Lại có lần báo chí chuẩn bị tuyên truyền cho Đại hội lần thứ VII của Đảng. Thông thường hay có những đợt thi đua chào mừng, lập thành tích, tăng năng suất, sản lượng. Những tin đó rất cần, nhưng cũng không quan trọng, cốt đúng là được rồi. Hôm đó là
54
phiên tôi trực, có tin một xí nghiệp đồ gỗ tăng 120% sản lượng trong đợt thi đua này, cho nên tôi xem qua và ký cho đăng kèm với một số tin trên trang nhất. Chín giờ sáng hôm sau, Phùng, Bí thư Cẩm Giàng gọi điện thoại lên nói là gặp tôi. Phùng không biết tôi trực đêm hôm trước, nhưng lại muốn gặp riêng vì là bạn quen. Trên đầu dây Phùng nói: “Ông Thọ ơi, gay rồi. Ai duyệt báo ra hôm nay?”. Tôi hỏi “Có việc gì thế?”, nhưng đã thấy lo! “Cái xí nghiệp đó đóng ở huyện tớ, chuyên sản xuất quan tài. Các cậu lại đăng tin sản xuất quan tài vượt mức kế hoạch để chào mừng Đại hội thì gay quá. Anh em ở cơ quan đang xôn xao!”. Nào tôi đâu có biết gì, nhưng lộ ra ngoài thì càng gay, cho nên phải nói với Phùng: “Thôi, cậu thu xếp cho. Ở trên này, không ai biết chuyện đó!”. Cũng nhờ Phùng mà tin đó không loang ra ngoài, cũng là thoát chết, vì lộ ra, có thể bị suy diễn nhiều kiểu. Tôi cũng ém nhẹm cho nên cả cơ quan cũng không ai biết.
Đấy là nói mấy chuyện nhỏ, rất nhỏ thôi, mà đã thấy căng thẳng, tổn thọ như thế. Mà những sai sót thì đâu chỉ có mấy chuyện nhỏ đó. Lúc bấy giờ báo mới có 4 trang, nhưng Tổng Biên tập có bao giờ đọc hết cả 4 trang, chỉ đọc những bài, tin quan trọng, nhưng
55
trách nhiệm lại phải gánh chịu. Nhớ lại lời anh Hoàng Tùng từng kể, có lần báo Nhân Dân cũng có một sai sót, bị Bác Hồ gọi lên, anh cũng trình bày là hôm đó anh đi công tác vắng, Bác nói ngay: “Thế Trung ương đặt chú ở đó làm gì. Chú đi vắng thì có phó ở nhà. Phó sai cũng một phần do chú không bồi dưỡng, dặn dò. Không phải cái gì cũng đổ hết trách nhiệm cho dưới!”. Bác phê bình thế là rất đúng, v.v..
Vào thời điểm sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng, tôi rời khỏi báo Nhân Dân cũng đúng lúc, vì tuổi đã cao không thích hợp với việc làm báo hằng ngày.
Lúc bấy giờ công tác tư tưởng - văn hóa rất quan trọng. Đại hội lần thứ VI phê phán công tác tư tưởng, tổ chức là nguyên nhân của những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà xem ra, đã qua hai nhiệm kỳ, công tác tư tưởng - văn hóa tuy làm được một số việc nhưng thay đổi chưa như
mong muốn. Cho nên, Bộ Chính trị muốn tăng cường. Trưởng ban phải là một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, lúc đầu là anh Nguyễn Phú Trọng, sau đó lại đến anh Nguyễn Đức Bình, tuy tầm cỡ có khác nhau, nhưng đều là người làm công tác lý luận, mà đổi mới trước
56
hết phải là đổi mới tư duy, liên quan tới đổi mới nhận thức, lý luận. Nhưng anh Nguyễn Đức Bình kiên quyết từ chối, vì anh không thích làm công tác cụ thể, và kiên trì giới thiệu tôi làm Trưởng ban. Ngày 10/8/1996, Tổng Bí thư Đỗ Mười ký quyết định tôi thôi làm Tổng Biên tập báo Nhân Dân, nhận nhiệm vụ Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Anh em trong ngành mừng cho tôi vì được cấp trên tín nhiệm, nhưng tôi thì thực sự lo lắng.
Công tác tư tưởng - văn hóa có nhiều lĩnh vực, tôi chỉ quen công tác báo chí, xuất bản, phần nào công tác tuyên truyền, còn mảng lý luận, văn nghệ thì chỉ là người quan tâm, có một chút hiểu biết. Vả lại, tuy đã có tám tháng làm lãnh đạo Ban, lại làm Thường trực, nhưng chủ yếu vẫn phụ trách công tác báo chí, xuất bản, tuyên truyền. Mà làm phó khác làm trưởng, làm trưởng là phải góp phần đề xướng và quyết định, cho dù có thảo luận dân chủ.
Lên gặp Tổng Bí thư Đỗ Mười để nhận nhiệm vụ Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, anh nhắc: “Cần quan tâm góp phần lãnh đạo công tác kinh tế, mà việc này phức tạp lắm, cậu chỉ quen mảng nông nghiệp”. Anh Đào Duy Tùng, Thường trực Bộ Chính trị
57
và Ban Bí thư lại nhắc: “Dựa vào anh em mà làm. Nhưng không được bỏ nghề báo đấy!”. Anh Tùng vốn là nhà báo lý luận cho nên hiểu rằng nghề báo rất khó, nên thấy tiếc cho kinh nghiệm làm báo của tôi, do đó từ năm 1991, anh đã giới thiệu để Phân viện Báo chí - Tuyên truyền bổ nhiệm tôi kiêm nhiệm Chủ
nhiệm Khoa Báo chí, ngay khi tôi còn làm Tổng Biên tập báo Nhân Dân.
Tôi rất kính trọng, lắng nghe lời khuyên của anh Đào Duy Tùng, nhưng làm theo anh để tiếp tục giữ nghề báo là một việc rất khó. Tôi vẫn tâm niệm lời dạy của nhiều vị học giả: “Hãy tập trung 85% thời gian vào 15% công việc quan trọng nhất”. Cho nên tôi tạm thời nghỉ viết báo, nghỉ viết chuyên mục Chuyện làm ăn trên báo Nhân Dân và Chuyện đời trên báo Thế giới mới, để chuyên tâm học tập, nghiên cứu các lĩnh vực còn ít hiểu biết, nhất là vấn đề lý luận là vấn đề tôi ít hiểu biết sâu sắc tuy đã học tập trung trong hai năm và thích đọc sách, vì có nhiều vấn đề rất mới đang đặt ra.
Thời gian tám tháng công tác lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đầu năm 1991 đối với tôi rất quý, giúp tôi từ bên trong mà nhìn ra và hơn bốn năm làm Tổng
58
Biên tập báo Nhân Dân, lại có thời gian từ dưới nhìn lên, từ ngoài nhìn vào. Trong thâm tâm thấy cần phải thay đổi rất nhiều cho phù hợp với tình hình mới. Nếu không thay đổi thì không thể có hiệu quả trong tình hình mới.
Để tăng cường lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, trước đó Ban Bí thư điều Tiến sĩ Đào Duy Quát, từ Viện phó Viện Mác - Lênin về làm Phó Ban, sau đó đề bạt Tiến sĩ Trần Văn Luật để tăng chất lý luận; điều động thêm anh Võ Hồng Nhân, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp thay anh Ba Nhàn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ nghỉ hưu về làm Phó Ban để tăng chất thực tiễn. Điều động anh Trần Hoàn, nguyên Ủy viên Trung ương và Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin về làm Phó Ban để tăng chất văn hóa, văn nghệ. Khi điều động anh Trần Hoàn về, anh Đỗ Mười rất băn khoăn, vì anh biết là anh Trần Hoàn khi công tác ở khu Tả Ngạn bao giờ cũng được đánh giá hơn tôi một bậc, đã từng là Phó Ban Tuyên huấn khu, rồi làm Trưởng Ban Tuyên huấn Hải Phòng, Trưởng Ban Tuyên huấn Bình Trị Thiên, Trưởng Ban Tuyên giáo Hà Nội, nghĩa là một người rất am
59
tường nghề tuyên huấn..., bây giờ làm Phó Ban có khó khăn gì không. Anh gọi tôi lên hỏi ý kiến. Tôi mạnh dạn thưa với anh: “Tôi biết anh Trần Hoàn, đã từng ngủ chung hầm, đã từng ở với nhau một khóa trong Trung ương, cho nên chúng tôi có thể cộng tác với nhau tốt”. Thấy tôi nói thế, anh Mười mới nhắc anh Tùng ký quyết định. Còn Phạm Quang Nghị
mới tham gia Trung ương, nhưng là cán bộ trẻ, đã từng được cử vào tham gia công tác văn hóa ở miền Nam trước giải phóng. Nghĩa là, trừ anh Hà Học Hợi, còn phần lớn cán bộ lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương là người mới, không bị quá ràng buộc với những chuyện đã qua. Đó cũng là không khí thuận lợi để thống nhất với nhau phương
hướng đổi mới công tác tư tưởng - văn hóa. Chúng tôi cùng trao đổi ý kiến với nhau, trước hết từ thay đổi nhận thức rồi mới đến phương pháp:
Công tác tư tưởng trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đang tạm thời lâm vào thoái trào cho nên phải kiên định mục tiêu lý tưởng. Trên tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, số tháng 7/1997, tôi nhấn mạnh: “kiên định nhưng phải sáng tạo, phát triển; không sáng tạo, không phát triển thì không thể kiên định”, “lúc này
60
hơn lúc nào hết phải phát huy tư duy độc lập, sáng tạo”.
Trong bối cảnh thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng giao lưu quốc tế sẽ làm “nảy sinh những hiện tượng không lành mạnh về tư tưởng, đạo đức, lối sống, với chiều hướng cực đoan hơn và có sức phá hoại lớn hơn đối với các giá trị truyền thống”. Nhận thức những nguy cơ tiềm ẩn của sự mất ổn định chính trị - xã hội có thể nảy sinh khi có vấn đề “quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; những vấn đề có quan hệ tới tôn giáo, dân tộc”, “đặc biệt chú ý tâm trạng lo lắng của cán bộ, nhân dân đang nổi lên vì hiệu quả thấp của đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công, quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả cao, tình hình tiêu cực của một số người trong chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công, quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả cao, tình hình tiêu cực của một số người trong cơ quan bảo vệ luật pháp, tệ lừa lọc và các tệ nạn xã hội khác...”; nhấn mạnh: “những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân nếu xử lý không đúng đắn theo đường lối quần chúng, có thể “cái xảy nảy cái ung”, nổi lên việc tranh chấp đất đai, nhà cửa, giải quyết
61
mặt bằng xây dựng, việc đóng góp của nhân dân và phân phối ở cơ sở...”.
Chúng ta đang coi kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Nhưng chúng tôi đã đề cập ý kiến của nhiều nhà khoa học trên thế giới nói tới “năm mô hình xấu” của tăng trưởng kinh tế để tránh (mà tôi đã từng trình bày tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương). Đó là:
“Tăng trưởng kinh tế không đi đôi với giải quyết nạn thất nghiệp, tình trạng thiếu việc làm.
Tăng trưởng kinh tế dẫn tới phân hóa giàu nghèo sâu sắc, dẫn tới bất ổn xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhưng không bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế dẫn tới hủy hoại môi trường tự nhiên, làm cho tài nguyên cạn kiệt. Thật ra, còn có chuyện tăng trưởng kinh tế không gắn với giữ vững truyền thống tốt đẹp, phát triển văn hóa, đặc biệt là về tư tưởng, đạo đức, lối sống”.
Đối với công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng không chỉ một chiều dội “từ trên xuống”, “từ trong ra” mà còn có trách nhiệm rất quan trọng là tập hợp trí tuệ toàn xã hội; bao gồm cả
ý kiến “trái tai” để làm giàu trí tuệ của Đảng, giúp Đảng có thể hoạch định đường lối, chính
62
sách phù hợp với quy luật khách quan, với đặc điểm nước ta, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chúng ta hay nói đưa Nghị quyết vào cuộc sống, nhưng có lẽ nên nói thêm “đưa cuộc sống vào Nghị quyết”. Đây là mặt công tác mà gần đây chúng ta coi nhẹ, là một biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, xa rời nhân dân.
Đối với công tác lý luận, chúng tôi cho rằng: “Nghiên cứu lý luận là việc rất quan trọng. Nhưng trong tình hình chúng ta đổi mới mà không có sẵn mô hình, cho nên tổng kết thực tiễn đổi mới có vai trò cực kỳ quan trọng. Có tổng kết thực tiễn đổi mới mới có thể phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Đảng”1...
Những ý kiến nêu trên xuất phát từ suy nghĩ của bản thân đồng thời tập hợp những ý kiến khi trao đổi với các đồng chí Hoàng Tùng, Trần Trọng Tân, Trần Bạch Đằng, Phan Hiền, Dương Đình Thảo... là những đồng chí có thâm niên trong nghề. Nhưng khi tập hợp lại thì có vấn đề nhắc lại những nguyên lý, nguyên tắc công tác mà trong một
____________
1. Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, lưu hành nội bộ, Hà Nội, tháng 7/1997.
63
thời gian dài khi đã có chính quyền, đã có hòa bình, ta đã quên, nhưng đồng thời có nhiều vấn đề mới, mà nếu thống nhất nhận thức thì phải thay đổi phương pháp công tác. Do đó, tôi chuẩn bị đề cương kỹ lưỡng phát biểu vào máy ghi âm, đồng chí Đỗ Văn Hoa ở Văn phòng gỡ băng, và thẩm định vì tôi biết anh là người thẳng thắn và rất cẩn thận; rồi tôi lại sửa đi sửa lại. Nhưng để cẩn thận hơn tôi gửi tới các đồng chí lãnh đạo Ban và các vụ góp ý kiến. Làm cẩn thận thế, đến tháng 5/1997 thì xong, nhưng chỉ đăng ở số tháng 7/1997, tạp chí Thông tin công tác tư tưởng là tạp chí lưu hành nội bộ. Ban có tạp chí này, in bìa trắng cho nên anh em gọi là “tạp chí trắng” để phân biệt với tạp chí Tư tưởng - Văn hóa là tạp chí công khai. Đề là “Tài liệu nội bộ” nhưng lại bán, mà tâm lý là cứ cái gì “nội bộ” bạn đọc lại thích mua, thích đọc, lãnh đạo đọc mà anh chị em cán bộ tuyên giáo càng thích đọc. Thăm dò thấy không có ai phản ứng gì, sau đó thành tài liệu gửi các trưởng ban tuyên giáo các ngành, các cấp để “tham khảo” trong quá trình đổi mới công tác.
Đây là một tài liệu mở đầu, quan trọng, được anh Vũ Khoan lúc đó là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, thường là báo cáo
64
viên chí cốt của Ban khen, cho là một tài liệu hay, sắc sảo, có tính thực tiễn, dám nói. Nhưng thú thật thì những giải pháp đề ra cũng chẳng đề ra được nhiều điều mới. Nhưng anh chị em nói: Dù sao thì cũng là sự
mở đầu mới mẻ, mạnh dạn. Anh Tố Hữu, anh Lê Xuân Đồng - những người lãnh đạo cũ của Ban cũng nói là: “Đọc được, có điều mới, dám nói, nhưng bây giờ làm thế nào?”. Thế là cũng mừng, vì được sự ủng hộ cổ vũ của các anh lãnh đạo cũ khi dám phê phán, sửa đổi những việc làm trước đây vì sự đổi mới nào mà chẳng có phần phê phán cái cũ, cho nên động chạm không nhỏ. Còn chấp nhận “xưa bầy, nay làm thì cần gì phải đổi mới!”. Sự đổi mới, từ bỏ cái cũ không còn thích hợp để vươn dậy bao giờ cũng gian nan, thậm chí nguy hiểm phải chấp nhận; nghề gì cũng thế.
65
KIÊN TRÌ ĐỐI THOẠI, HƯỚNG VỀ CƠ SỞ
Cứ tưởng công tác ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương thì đỡ vất vả hơn so với khi công tác ở báo Nhân Dân phải xử lý bài vở hàng ngày; thì ra không phải như vậy. Ở vị trí mới này, công việc vẫn rất khẩn trương và lại khó khăn hơn vì toàn là những vấn đề vừa khẩn trương, vừa rất lớn. Chỉ có nơi làm việc ở trong khuôn viên trường Albert Saraut cũ là yên tĩnh với hàng cây cổ thụ. Tất nhiên như
tôi đã có lần tâm sự với bạn bè đồng nghiệp: “Làm báo hay làm nghề gì cũng vậy, để làm cho xong việc thì cũng không khó lắm, nhưng làm cho tốt, cho có hiệu quả thì cực kỳ khó”, hoặc “làm cán bộ mà làm theo kiểu “sớm vác ô đi, tối vác về” thì cũng nhàn nhã, nhưng để
làm cho tốt, cho có hiệu quả thì rất vất vả, có khi xong việc rồi về ngủ không yên giấc vì vẫn thắc thỏm việc quyết định ngày hôm nay đúng hay sai, khi làm có gì trục trặc không?”. Mà cái số tôi vốn vất vả, không chịu ngồi yên
66
một chỗ, không chịu dừng lại không suy nghĩ tiếp. Một số nhà tâm lý học thường nói tới “đạo đức tư duy” để chỉ những người suy nghĩ tới cùng, không chịu dừng lại; tất nhiên tôi không bao giờ nghĩ là tôi đã có thể đạt tới, nhưng đang cố gắng vươn lên.
Năm 1997 là một năm diễn ra những sự kiện quan trọng của đất nước. Công cuộc đổi mới khởi đầu những ngày đầu sau năm 1986 rất gian nan, có lúc lạm phát phi mã tới 700%, nhưng rồi cố gắng vươn lên, sau 5 năm đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội tuy chưa vững chắc, sau 5 năm nữa đã có những tiền đề để bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thu nhập kinh tế quốc dân tăng đều đặn, khá cao, sản phẩm xuất khẩu tăng nhanh, đã chiếm khoảng 50% GDP, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng đến năm 1997 thì có những vấn đề đột xuất, xuất hiện những thách thức mới.
Tháng 5/1997 xảy ra “sự kiện Thái Bình”. Phần lớn số xã đều có khiếu kiện đông người, có một số nơi xảy ra bạo lực, bắt cán bộ xã, bao vây công sở xã, huyện, tỉnh, lúc đầu xảy ra ở xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Côi, sau đó lan ra nhiều xã ở khắp các huyện trong tỉnh. Đây là địa phương mà Ban Tổ chức Trung
67
ương thí điểm xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh và tổ chức Hội nghị toàn quốc rút kinh nghiệm một nơi làm tốt để phổ biến. Hội nghị này tôi cũng tới dự vì là địa phương quê mẹ và là nơi đã từng công tác gần như suốt thời gian kháng chiến chống Pháp. Thế mà gần đây lại xảy ra cơ sự này. Thực ra “điểm nóng” ở nông thôn không phải bắt đầu từ đây, có thể bắt đầu từ một số xã ở Bắc Ninh, Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), Thanh Hóa, nhưng lan rộng như ở Thái Bình thì chưa từng có. Thực chất là vấn đề gì? Có ý kiến cho là “kẻ địch” kích động, tuy ý kiến này không nhiều. Một số ý kiến cho là bị những “phần tử xấu, bất mãn kích động”; tất nhiên có chuyện đó nhưng tại sao lại khá phổ biến như vậy? Một số ý kiến cho cơ bản là từ những khuyết điểm của ta, của cán bộ cơ sở, chủ yếu trong việc bắt dân đóng góp quá nhiều và chi tiêu không sòng phẳng, lại tham nhũng. Một số cán bộ cũ của Thái Bình lên Hà Nội gặp tôi, như các anh Phong, Văn. Anh Văn nói: “Các cụ chung tiền cho tớ đi tàu xe lên gặp cán bộ Trung ương, trong đó có cậu. Cậu nên nhớ “tiếng trống Tiền Hải”, “biểu tình Mã Bụt - Duyên Hà” chủ yếu là nông dân vùng lên đấu tranh chống phù thu
68
lạm bổ, rồi Đảng nắm lấy lãnh đạo. Tình hình ở tỉnh bây giờ là thế. Các cậu có tin chúng tớ là kẻ địch, là kẻ xấu không? Nhưng chúng tớ ủng hộ nông dân đấu tranh. Các cậu bây giờ ở xa lắm rồi, không hiểu biết dân tình đâu?...”. Anh Văn là cán bộ hoạt động trước tôi, trong kháng chiến lăn lộn vào các vùng có đồng bào Thiên Chúa giáo để vận động quần chúng, cho nên tôi hiểu anh! Nhưng như thế là khác ý kiến anh Rinh, Bí thư và anh Trường, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là những tiếng nói rất nặng cân. Tôi nói với anh Văn: “Nhưng một số người bắt bớ, đánh đập cán bộ, bao vây trụ sở huyện, trụ sở tỉnh là không được”. Văn nói: “Đó là chuyện không phải, do một số ít người bất mãn, nhưng số đông bà con không như thế đâu!”... Phân tích nguyên nhân đúng có ý nghĩa rất quyết định, liên quan tới những giải pháp khác nhau. Phải tới 5 ngày sau mới thống nhất được nguyên nhân chủ yếu là do sai sót của một số cán bộ xã lạm dụng chức quyền tham nhũng, ức hiếp dân, nhưng phải lập lại trật tự ngay, không để một số ít người xấu lợi dụng gây rối loạn... Như thế là tình hình nông thôn thực sự có vấn đề về mối quan hệ giữa cán bộ với nhân dân, xuất phát từ tình trạng
69
tham nhũng, quan liêu, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội; trong khi đó lại đánh giá tình hình chủ quan, cho đó là “điển hình” tốt của công tác xây dựng hệ thống chính trị cơ sở!
Đến tháng 7 lại xảy ra tình hình khủng hoảng kinh tế ở Đông Nam Á, bắt đầu từ khủng hoảng tài chính ở Thái Lan rồi thành khủng hoảng kinh tế tài chính cả châu Á, nền kinh tế của nhiều nước giảm sút. Trong khi hoạt động xuất khẩu của nước ta đã chiếm 50% GDP, nền kinh tế lại mới thoát khỏi khủng hoảng, cho nên “thế giới hắt hơi thì ta lên cơn sốt”. Nền kinh tế của ta năm này vẫn tăng trưởng, nhưng đã giảm sút tốc độ, gây lo lắng và ảnh hưởng tới đời sống nhân dân, và rất lo kế hoạch do Đại hội lần thứ VIII đề ra không hoàn thành. Trong khi đó, một số tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế đưa ra lời khuyên, chủ yếu gây sức ép phải phá giá đồng tiền; đằng sau “lời khuyên” đó là sức ép cho vay 500 triệu đôla Mỹ. Nhưng nghe theo thì rất nguy, mà không nghe thì không có được khoản tiền vay khá lớn, trong khi ta đang thiếu vốn!
Lại thêm nữa, tình trạng En Nino ảnh hưởng tới nước ta, bắt đầu từ cơn bão số 5, gây
70
thiệt hại khoảng 5.000 tỉ đồng. Anh Lê Huy Ngọ mới chuyển sang nhận nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phải lao ngay vào trận chống bão lũ; khuôn mặt anh vốn “đau khổ” bây giờ trông trên tivi lại càng “đau khổ” nhưng cũng gây được sự thông cảm của đồng bào.
Ba sự kiện trên cũng chỉ miêu tả thoáng qua thôi để thấy càng cần đổi mới hơn nữa công tác tư tưởng - văn hóa, vì những gì nêu lên trong năm 1995 và năm 1997 là chưa đủ. Chúng tôi lại họp bàn. Lại phải có những nhận định mới mà tôi trình bày trong tạp chí
Thông tin công tác tư tưởng, tháng 8/1998. Những dòng viết trong ngoặc kép dưới đây là trích nguyên văn bài đăng trong tạp chí.
Khi nói về vị trí của công tác tư tưởng, với bối cảnh mới, chúng tôi khẳng định: “Lĩnh vực công tác tư tưởng - văn hóa đang chen lẫn thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn, có thể dự báo là khó khăn sẽ không giảm ngay cả khi những mặt công tác khác có thuận lợi,
đồng thời có rất nhiều vấn đề mới phải được xử lý cho phù hợp với tình hình mới”. Khẳng định vấn đề này để phản bác lại một số chuyên gia kinh tế cho rằng cứ kinh tế lên thì tư tưởng sẽ lên. Chúng tôi đã trao đổi lại:
71
“Kinh tế giảm sút là một nguyên nhân rất quan trọng nhưng không thể chỉ là nó. Vì nếu như thế thì Việt Nam và Trung Quốc phải sụp đổ trước chứ sao Liên Xô và Cộng hòa dân chủ
Đức lại sụp đổ trước!”. “Thái Bình là một tỉnh kinh tế phát triển rất nhanh, là nơi xây dựng cơ sở hạ tầng khá nhất ở miền Bắc, không còn ai đói, đường nhựa tới xóm, vì sao có sự bùng nổ, mất ổn định chính trị, xã hội?”.
Chúng tôi cùng nhau phân tích những mâu thuẫn xã hội thời kỳ mới: “Phân hóa xã hội là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, ở một chừng mực nhất định nó còn là một động lực thúc đẩy đua tranh phát triển, nhưng sự phân hóa lại diễn ra quá nhanh, và trong một chừng mực nào đó lại để
xảy ra tự phát. Bên cạnh hộ giàu - nghèo, người giàu - nghèo, đã phát sinh hiện tượng vùng và địa phương, cơ quan, ngành giàu - nghèo với mức chênh lệch khá cao, quan hệ
không suôn sẻ giữa thành thị và nông thôn nhất là đối với vùng cách mạng cũ, nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng cát, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài xã hội đã vậy, trong Đảng cũng có những khác biệt giữa đảng viên giàu và đảng viên nghèo; giữa một số đảng viên đã nghỉ hưu và một số đảng viên
72
đương chức. Tình trạng phân hóa xã hội diễn ra nhanh hơn, nhạy cảm với tư tưởng và tình cảm nhân dân hơn còn do những tiêu cực xã hội, nhất là tệ tham nhũng và lãng phí của công đang phát triển và là vấn đề nhức nhối nhất trong tâm lý xã hội. Vấn đề “công bằng xã hội”, “dân chủ hoá xã hội” đang là vấn đề có nhiều tâm tư trong nhân dân và trong Đảng. Các quan hệ xã hội đang có những đan xen phức tạp. Trong nông dân lại có người có ruộng, người không có ruộng, người chủ trang trại lớn và người làm thuê; trong công nhân có những lợi ích và các mối quan hệ khác nhau giữa công nhân làm trong các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài; trong giới trí thức có một số người băn khoăn về điều kiện, phương tiện và không khí dân chủ trong quá trình nghiên cứu, sáng tạo và có xu thế hướng tới làm cho các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các dự án hợp tác với nước ngoài để có thu nhập cao hơn, v.v.. Những mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giữa một bộ phận nhân dân với một số cán bộ quan liêu, tham nhũng đã đẻ ra những khiếu kiện đông người ngày càng nhiều, tính chất phức tạp,
73
gay gắt. Nghĩa là khối đại đoàn kết dân tộc, sự đồng thuận xã hội xem ra đang có những vấn đề mới phải được nghiên cứu, xử lý không để “cái xảy nảy cái ung” để các thế lực thù địch kích động”.
Nói về những chuẩn mực giá trị xã hội đang thay đổi trong nền kinh tế thị trường là vấn đề rất lớn của nền văn hóa, tôi viết: “Con người năng động hơn, chủ động hơn, cố gắng nâng cao năng lực hướng tới hiệu quả là nét tích cực rõ nhất. Nhưng chủ nghĩa thực dụng lại đang phát triển, mà những đặc điểm nổi bật của nó là chỉ quan tâm tới lợi ích vật chất, hưởng lạc, coi nhẹ đời sống tinh thần, nhất là tư tưởng, đạo đức, lối sống truyền thống; chỉ coi trọng lợi ích cá nhân cực đoan, coi nhẹ
thậm chí làm hại lợi ích cộng đồng; chỉ nghĩ tới lợi ích trước mắt, coi nhẹ, thậm chí làm hại lợi ích cơ bản, lâu dài, v.v.. Lại cần thấy: những ưu điểm cũng chỉ cách khuyết điểm một sợi chỉ. Ví như: năng động, linh hoạt là ưu điểm nhưng quá mức sẽ dẫn tới vô nguyên tắc; tính “cộng đồng” phát triển khá phong phú, đa dạng, nhưng dễ dẫn tới “phép vua thua lệ làng”, họ tộc cao hơn làng xã, v.v.. Chủ
nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng lạc là một nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự suy thoái về tư
74
tưởng, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên đến mức nghiêm trọng, để xảy ra các tệ nạn xã hội như lừa lọc, buôn lậu, làm hàng giả, nạn cờ bạc, tham nhũng, ma túy, mại dâm...”.
Tôi cũng trình bày để làm sâu sắc thêm bối cảnh mới của công tác tư tưởng, nhấn mạnh: “Cùng với dân trí ngày càng cao của người dân trong thời kỳ hòa bình, xây dựng, xu hướng dân chủ có chiều hướng phát triển đặt ra những đòi hỏi mới về công tác tư
tưởng”, “Với sự phát triển của khoa học, tổng số kiến thức của loài người cứ 5 năm lại tăng gấp đôi. Tốc độ truyền bá thông tin tăng rất nhanh... đòi hỏi phải thay đổi một số phương thức tiến hành của một bộ phận công tác tư
tưởng”. Trong quá trình hội nhập kinh tế, giao lưu văn hóa thế giới, từ sự kiện khủng hoảng kinh tế khu vực tháng 7/1997, “phải có chiến lược bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới”. “Trong quá trình “mở cửa”, hội nhập, một số thế lực sẽ
tranh thủ “cửa mở” đó để nhét vào đó càng nhiều “giá trị” theo quan niệm của họ, nhằm áp đặt, chi phối đời sống tinh thần của nhân dân, kể cả đối với một số cán bộ, đảng viên. Đó là chưa kể những văn hóa xấu, độc cũng
75
qua đây mà luồn vào đất nước ta, vào tận hang cùng, ngõ hẻm, vào tận gia đình, qua các phương tiện kỹ thuật hiện đại, tiện dụng, ngày càng thông dụng”.
Với thực tiễn của đất nước và thực tiễn công tác tư tưởng - văn hóa, lần này đã có điều kiện để nêu lên phương hướng công tác cơ bản là tăng cường thông tin, đối thoại, hướng về cơ sở. Nó không hoàn toàn mới nhưng vì lâu nay ta quên nó, đồng thời lại xuất hiện tình hình mới như trên đã phân tích.
Công tác tư tưởng phải sát từng đối tượng là vấn đề nguyên tắc, từ lâu dễ học, dễ nhớ, nhưng tôi viết: “Tư tưởng nào cũng luôn gắn liền với lợi ích, đó cũng chính là quan điểm của Mác để tránh duy tâm chủ quan. Trong thời kỳ chiến tranh, vấn đề lợi ích từng giai cấp, từng nhóm người, từng cá nhân không phải không được đặt ra nhưng với mục tiêu chung “tất cả để chiến thắng”, nhiều vấn đề về lợi ích cá nhân, bộ phận bị nén lại. Nhưng bây giờ thì không giống như trước đây. Do đó, công tác tư tưởng lúc này phải hết sức quan tâm đến những vấn đề lợi ích của từng giai cấp, từng nhóm người, bảo đảm trong lợi ích chung của cả dân tộc có lợi ích của từng giai cấp, từng nhóm người, từng cá nhân... Đề cao
76
sự thống nhất, sự đồng điệu, lấy lợi ích quốc gia, lấy sự ổn định và phát triển lành mạnh, vững bền làm chuẩn để khắc phục những mâu thuẫn, xung đột có thể có... phải tìm mọi cách giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng cách mạng, lấy lợi ích dân tộc là trước hết, trên hết”.
Để bổ sung cho bài viết đó, trên tạp chí Thông tin công tác tư tưởng tháng 5/1998, tôi đề cập thêm một số vấn đề:
Khi nói về giáo dục lý tưởng thường người ta chỉ nêu lý tưởng chính trị, nhưng tôi mạnh dạn nêu bốn nội dung:
- “Một là, lý tưởng chính trị xã hội mà mục tiêu lớn nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, theo chúng tôi thì cái chốt là ở từ “công bằng”, cái khó là ở từ “công bằng”, chất cách mạng là ở từ “công bằng”, sự bùng nổ, bất bình hiện nay chủ yếu là ở chữ “không công bằng”. Còn giàu mạnh, theo chúng tôi, trong xã hội tư bản có không ít nước giàu mạnh chứ!
- Hai là, lý tưởng đạo đức tức là rèn luyện như thế nào để thành một con người đạo đức; đấu tranh cho một xã hội có nền tảng đạo đức như thế nào... Đạo đức có nhiều mặt gắn với
77
chính trị, có mối quan hệ với chính trị. Đạo đức cũng gắn liền với hiệu quả, đòi hỏi nói đi đôi với làm. Có đạo đức cách mạng và có cả đạo đức đời thường. Công tác tư tưởng là giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức công dân, nhưng không bao giờ quên bồi dưỡng đạo đức đời thường tức là đạo làm người như uống nước nhớ nguồn, lòng trung thực, nhân ái, nghĩa tình, thủy chung với gia đình, họ hàng, bạn bè...
- Ba là, lý tưởng nghề nghiệp... Cái chính là học để mai đây có một nghề, khi “tinh” rồi thì vươn tới đỉnh cao của nghề, vừa cống hiến cho xã hội, vừa có thu nhập cao, bảo đảm đời sống gia đình.
- Bốn là, lý tưởng thẩm mỹ... Đó là quan niệm về cái đẹp, hướng tới cái đẹp..., đặc biệt là đối với thanh niên là lớp người nhạy bén với “mốt”, với “thời thượng”, hay vọng ngoại, sùng ngoại, quay lưng với giá trị truyền thống...”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đề cập tới bốn nguy cơ, trong đó có nguy cơ quan liêu, tham nhũng. Vậy những biểu hiện của bệnh quan liêu trong công tác tư tưởng là gì? Cũng trong bài viết nêu trong tạp chí Thông tin công tác tư tưởng tháng 5/1998, tôi cũng mạnh dạn nêu lên ba
78