"
Đêm Qua Anh Ở Đâu - Lauen Weisberger full prc, pdf, epub [Lãng mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đêm Qua Anh Ở Đâu - Lauen Weisberger full prc, pdf, epub [Lãng mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Đêm Qua Anh Ở Đâu?
Tác Giả: Lauren Weisberger
Dịch giả: Nhiều dịch giả
Nhà xuất bản: Văn Học
Ngày xuất bản: 29/09/2012
Chụp sách: Boom boom Boom
Type: Marie Hoang, Song Mẫn Thanh Xà
Onizuka Gto, Trang Kao, Mai Thanh, Ha Huyen
Beta: ThuýHoa Nguyễn, Phi Phi Yên Vũ
Hiệu chỉnh: Ha Huyen
Ebook: Devil & Trần Ngọc Tuyền
MỤC LỤC
Về Tác Giả
Về tác phẩm
1
2 3
4 5 6
7 8 9 10
11 12 13 14
15 16 17 18 19
Lời cảm ơn
Về Tác Gi
Lauren Weisberger (1977) là nhà văn, nhà báo người Mỹ, tác giả của ’Quỷ cái vận đồ Prada’ - cuốn sách dựa trên kinh nghiệm có thật của cô với tư cách trợ lý riêng cho tổng biên tập tạp chí Vogue Anna Wintour. Tác phẩm đã trụ hạng hơn một năm trong danh mục bán chạy nhất của tờ New York Times và bộ phim chuyển thể đạt thành công vang dội trên toàn cầu.
Các cuốn tiểu thuyết khác của cô
– ’Everyone Worth Knowing’, ’Chasing Harry Winston’ và ’Đêm qua anh ở đâu?’ - đều nằm trong danh mục sách bán chạy của Sunday Times và New York Times.
Hiện Weisberger đang sống cùng chồng tại New York.
Về tác phẩm
Đúng là Brooke phải đầu tắt mặt tối làm hai việc một lúc để hỗ trợ anh chồng nhạc sĩ Julian chuyên tâm làm nghệ thuật. Nhưng có hề gì, họ là một cặp đôi hạnh phúc, cô yêu chồng mình và một lòng tin rồi ngày kia anh sẽ thành công. Niềm tin của Brooke hóa ra đã đặt đúng chỗ: Julian vụt trở thành siêu sao. Đột nhiên, thế giới bình yên của họ quay vun vút quanh những bữa tiệc lấp lánh, những khách sạn hoa lệ, những chuyến lưu diễn dài
ngày và hàng đống tạp chí lá cải nhăm nhe xâu xé đời sống riêng tư. Brooke chao đảo đứng giữa vòng xoáy ấy, hoang mang trước câu hỏi mà người vợ đầy tin tưởng trước kia sẽ không bao giờ đặt ra, ”Đêm qua anh ở đâu?”
Hài hước, sắc sảo, sành điệu và tiết tấu nhanh, tất cả những điểm ấy vốn tạo nên thương hiệu cho phong cách viết của Laura Weisberger. Nhưng hơn thế, hãy đọc ’Đêm qua anh ở đâu?’ để khám phá một khía cạnh mới đầy xúc cảm trong ngòi bút của nhà văn best-seller này, nơi những câu chữ khơi gợi trong ta mối đồng cảm sâu sắc với các nhân vật và nỗi xót xa
trước tình cảnh hôn nhân đứng bên bờ vực tan vỡ của họ.
Lời khen tặng dành cho tác phẩm:
“Weisberger thể hiện một cái nhìn thấu suốt về cái giá của thành công trong nền văn hóa phát cuồng vì người nổi tiếng này.”– Publisher Weekly
“Sắc sảo… một tác phẩm cuốn hút và hết mực thú vị.” – Booklist
“Cuốn tiểu thuyết thứ tư của cô (Weisberger) cũng giống như cuốn Prada, là một cái nhìn chân thực vào một nhóm văn hóa nhỏ… khiến ta háo hức lật trang chẳng khác nào khi đọc một cuốn tạp chí buôn chuyện.” – USA Today
“Weisberger hiểu rất đúng về bộ máy chế tạo ngôi sao, và những chi tiết nho nhỏ tạo nên bản chất mối quan hệ của cặp đôi trong truyện đều vô cùng thấm thía và chân thật.” – People
1
Chàng trai chơi dương cầm
Khi chuyến tàu điện ngầm rốt cuộc cũng rít lên chói tai tiến vào ga phố Franklin, Brooke lo lắng đến nôn nao. Cô nhìn đồng hồ cả chục lần mỗi phút và cố tự nhủ rằng đó chưa phải là cơn bĩ cực; Nola, cô bạn thân nhất của cô, sẽ thứ lỗi cho cô, phải thứ lỗi cho cô, dù rằng cô trễ hẹn đến mức không thể tha thứ
được. Cô len lách tìm đường trong dòng hành khách đông nghẹt giờ cao điểm đang tiến ra cửa, nín thở bản năng khi chen chúc giữa đám người đó và để mình cuốn theo về phía cầu thang. Như được lên dây cót, Brooke và những người đồng hành cùng lúc rút điện thoại di động từ túi xách hoặc túi áo khoác ra, lặng lẽ đứng thành một hàng thẳng, và chẳng khác nào những xác chết nhập tràng, họ vừa bước đều như duyệt binh lên phía bên phải những bậc thang xi măng vừa vô cảm dán mắt vào màn hình điện thoại bé tẹo
“Chết tiệt!” cô nghe một phụ nữ to béo phía trên kêu lên, và ngay khắc sau cô liền biết tại sao. Không một dấu hiệu báo trước, cơn mưa quất mạnh vào người cô ngay khi cô vừa nhô người lên khỏi cầu thang. Tiết trời tối tháng Ba vừa mới hai mươi phút trước còn hơi lạnh nhưng vẫn ôn hòa bỗng chốc trở nên lạnh giá và cực kỳ u ám, những trận gió táp cơn mưa xuống làm cho việc giữ mình khô ráo trở nên bất khả thi.
“Khốn thật!” cô góp giọng vào dàn hòa âm lộn xộn của những người đang chửi thề láo nháo xung
quanh trong lúc cố lôi ô từ cặp xách ra hoặc lấy báo che lên đầu mình. Vì sau giờ làm việc cô đã chạy về nhà thay quần áo nên Brooke chẳng có gì ngoài một chiếc xắc màu ngân nhũ bé xíu (và phải nói là rất xinh) để che cho mình khỏi dòng mưa xối xả. Tóc ơi, từ biệt nhé, cô thầm nghĩ trong lúc băng mình chạy qua ba dãy phố để đến nhà hàng. Ta sẽ nhớ tiếc mi, phấn mắt ạ. Rất vui khi được quen biết ngươi, đôi bốt da lộn cao cổ mới tinh lộng lẫy đã ngốn mất nửa tuần lương của ta.
Brooke ướt như chuột lột khi cô đến Sotto, một nhà hàng nhỏ
khiêm tốn trong vùng, nơi cô và Nola gặp nhau vài ba lần mỗi tháng. Món mì pasta ở đây chẳng phải loại ngon nhất thành phố - thậm chí chắc còn chưa phải loại ngon nhất ở dãy phố này - mà không gian cũng chẳng có gì đặc sắc cả, nhưng Sotto có những điểm hấp dẫn khác còn quan trọng hơn: rượu vang đầy bình với giá phải chăng, bánh tiramisu ngon đến chết người, và tay chủ nhà hàng người Ý cực kỳ gợi cảm, người luôn dành chỗ bàn kín đáo nhất ở phía sau cho Brooke và Nola chỉ vì họ thường đến ăn ở đây đã từ lâu rồi.
“Chào Luca.” Brooke chào chủ nhà hàng trong lúc cô rũ chiếc áo khoác len ra khỏi vai, cố tránh vẩy nước mưa tứ phía. “Cô ấy đến chưa vậy?”.
Luca lập tức đặt tay lên điện thoại và chỉ cái bút qua vai. “Như thường lệ. Nhân dịp gì mà diện chiếc đầm gợi cảm thế cara mia (1)? Cô có muốn hong khô trước không?”
(1) Tiếng Ý: em yêu, em cưng, cưng.>
Bằng cả hai bàn tay, cô vuốt
cho phẳng chiếc đầm dệt kim màu đen ngắn tay ôm khít thân hình và cầu mong Luca nói thật, rằng chiếc đầm rất gợi cảm và cô trông rất ổn. Cô đã đến mức coi chiếc đầm đó là bộ trang phục duy nhất để đi xem ca nhạc; kết hợp với giày cao gót, xăng đan hay bốt tùy thời tiết, cô diện nó đi dự hầu hết mọi buổi biểu diễn của Julian.
“Thôi, tôi đã trễ quá rồi. Cô ấy có ca cẩm giận dỗi gì không?” Brooke vừa hỏi vừa ép những lọn tóc trên đầu với một nỗ lực hầu như vô vọng để giữ chúng khỏi nguy cơ bị xoăn tít lại tức thì.
“Cô ấy uống hết nửa bình rồi và vẫn chưa rời điện thoại di động. Cô đến đó ngay thì hơn.”
Họ hôn lên má nhau ba lần - trước đây Brooke đã phản đối hôn đủ ba cái nhưng Luca cứ một mực đòi - rồi Brooke hít một hơi sâu và cất bước về phía bàn của họ. Nola ngồi thu mình trên chiếc tràng kỷ, áo vest của cô vắt qua lưng ghế, chiếc áo len cashmere không tay màu nước biển vừa khoe ra đôi cánh tay chắc nịch vừa làm nước da màu ô liu lộng lẫy của cô nổi bật lên một cách hài hòa. Mái tóc tỉa dài đến vai của cô thật thời trang và gợi
cảm, những lọn tóc nhuộm highlight vàng sáng óng dưới ánh đèn dịu của nhà hàng, và khuôn mặt trang điểm của cô trông trẻ trung tươi mát. Nhìn Nola, không ai có thể biết rằng cô vừa mới ngồi làm việc mười hai giờ đồng hồ liền tại sàn giao dịch chứng khoán, luôn miệng hò hét vào tai nghe điện đàm.
Mãi đến học kỳ hai năm cuối ở Đại học Cornell, Brooke và Nola mới quen nhau, mặc dù Brooke - giống như tất cả những người khác trong hội sinh viên - biết Nola và cảm thấy vừa sợ lại vừa bị cô nàng
mê hoặc. So với những sinh viên cùng trang lứa mặc áo có mũ và đi bốt bệt, cô nàng Nola mảnh dẻ như người mẫu lại thích những đôi bốt cao gót, áo giả vest và không bao giờ buộc tóc đuôi ngựa. Cô trưởng thành từ các trường tư thục tốt nhất ở New York, London, Hong Kong và Dubai - những nơi ông bố giám đốc ngân hàng đầu tư của cô làm việc - và được hưởng sự tự do tất yếu vì là đứa con duy nhất của những bậc cha mẹ quá đỗi bận bịu.
Người ta đoán già đoán non tại sao cô đi học ở Cornell mà không phải Cambridge,
Georgetown hay Sorbonne, nhưng dễ nhận thấy là cô chẳng m ấn tượng về điều đó. Trong khi những người khác còn bận đổ xô đi tham gia các hội nữ sinh, họp mặt ăn trưa tại Phòng Ivy và say sưa ở các quán bar trong khuôn viên trường đại học thì Nola lại khép kín. Cũng có những ý niệm lờ mờ về cuộc sống riêng của cô - cuộc tình nổi tiếng với giáo sư khảo cổ học, sự hiện diện thường xuyên, rồi sau đó nhanh chóng bốc hơi, của những anh chàng bí ẩn và gợi cảm trong khu học xá - nhưng chủ yếu thì Nola đến lớp, đứng đầu tất cả những môn cô học và chuồn thật
nhanh về Manhattan ngay khi vừa đến chiều thứ Sáu. Khi hai cô gái thấy mình được giao đọc truyện ngắn của nhau trong môn viết sáng tác tự chọn năm cuối đại học, Brooke hoảng đến nỗi không nói nên lời. Nola, như thường lệ, không tỏ ra đặc biệt hài lòng hay khó chịu, nhưng một tuần sau đó, khi cô trả lại bài tập viết truyện ngắn đầu tiên của Brooke - tác phẩm hư cấu về một nhân vật nỗ lực thích nghi với nhiệm vụ được Tổ chức Hòa bình Mỹ giao phó tại Congo - thì bản thảo đã đầy những bình luận và gợi ý rất thâm thúy, sắc sảo. Rồi ở trang cuối cùng, sau
khi nguệch ngoạc ý kiến phản hồi dài dòng và nghiêm túc của mình, Nola viết, “Tái bút: Nên chăng cân nhắc cảnh sex ở Congo?” và Brooke đã cười lăn cười lộn đến mức cô phải xin phép chạy ra khỏi lớp.
Sau giờ học Nola mời Brooke tới quán cà phê nhỏ xíu xiu ở tầng hầm của một trong các tòa học đường, nơi bạn bè Brooke chưa bao giờ lai vãng, và chỉ vài tuần sau đó Brooke đã đi New York với Nola vào các dịp nghỉ cuối tuần. Thậm chí sau chừng ấy năm ròng Nola vẫn tuyệt vời không lời nào tả xiết, song nhờ những cuối tuần đó mà
Brooke biết rằng cô bạn mình nức nở khóc khi xem bản tin về những người lính trở về sau cuộc chiến, thầm bị ám ảnh rằng một ngày kia phải có một hàng rào cọc trắng hoàn hảo ở vùng ngoại ô mặc dù ngoài mặt tỏ ra nhạo báng điều đó, và có một nỗi sợ vô lý đối với những con chó xù nhỏ (Walter, con chó của Brooke, không nằm trong diện này).
“Tuyệt, tuyệt lắm. Không, tôi nghĩ rằng ngồi ở quán bar cũng ổn rồi,” Nola vừa nói chuyện điện thoại vừa đảo mắt nhìn Brooke. “Thôi, khỏi cần đặt chỗ ăn tối trước,
cứ để tùy cơ ứng biến. Đồng ý, nghe hay đấy. Hẹn gặp anh lúc đó nhé.” Cô gập điện thoại đánh tách và lập tức chộp lấy bình rượu vang đỏ, rót một ly nữa cho mình trước khi nhớ ra Brooke và cũng rót một ly cho bạn.
“Cậu có giận tớ không?” Brooke hỏi trong lúc xếp áo khoác lên ghế sát chỗ ngồi và ném cây dù ướt nhẹp xuống gầm bàn. Cô uống rượu vang một hơi thật dài và thích thú cảm nhận vị rượu trôi qua
“Vì sao? Chỉ vì tớ ngồi đây một mình đã ba mươi phút rồi á?”
“Tớ biết, tớ biết, thành thực xin lỗi nhé. Một ngày làm việc cực nhọc khủng khiếp. Hai nhân viên nghiên cứu dinh dưỡng chính thức cáo ốm hôm nay - mà nếu cậu hỏi thì tớ cho là rất đáng ngờ - và những người còn lại chúng tớ phải cáng đáng cả phần việc của họ. Dĩ nhiên nếu chúng mình gặp nhau ở gần khu nhà tớ thì có lẽ tớ đã đến được đúng giờ...”
Nola giơ tay lên chặn lại. “Hiểu rồi. Tớ cảm kích vì cậu lặn lội đến tận đây. Ăn tối ở Midtown West thật chẳng thích thú gì.”
“Cậu vừa nói chuyện với ai vậy? Daniel phải không?”
“Daniel á?” Nola có vẻ rối trí. Cô nhìn chằm chằm lên trần nhà vẻ như cố vắt óc ra. “Daniel, Daniel... Ồ! Không phải, tớ thôi hắn rồi. Đầu tuần trước tớ đưa hắn đến dự một sự kiện ở chỗ làm và hắn kỳ cục lắm. Cực chuối. Không, đó là chuyện sắp xếp kế hoạch buổi hẹn hò qua trang hẹn hò Match.com ngày mai. Buổi hẹn thứ hai trong tuần này. Sao mà tớ lại thành kẻ thảm hại đến thế nhỉ?” Cô thở dài.
“Thôi xin đi. Cậu làm gì đến
nỗi...”
“Không, thật đấy mà. Thật thảm hại khi tớ đã gần ba chục cái xuân xanh mà vẫn coi cậu bạn trai thời đại học là mối tình ‘có thực’ duy nhất. Còn thảm hại hơn nữa khi tớ là thành viên của một loạt trang web hẹn hò và đi chơi với bọn đàn ông trên tất cả mấy trang đó. Nhưng thảm nhất - gần như không thể tha thứ được - là tớ mới háo hức làm sao khi thú nhận điều này với bất kỳ ai lắng nghe.
Brooke hớp một ngụm nữa. “Tớ đâu phải là ‘bất kỳ ai lắng
nghe’.”
“Cậu biết tớ ngụ ý gì,” Nola nói. “Nếu cậu là người duy nhất chia sẻ bí mật về sự bẽ bàng của tớ, thì tớ còn có thể chịu được. Đằng này cứ như là tớ trở nên chai sạn với…”
“Dùng từ đắt đấy.”
“Cảm ơn. Từ này sáng nay ở trên cuốn lịch mỗi-ngày- một-từ (2) của tớ. Thế đây, quả thật là tớ đã chai sạn với nỗi nhục ấy đến mức tớ chẳng màng giấu giếm gì thêm nữa. Mới hôm qua đây thôi tớ đã bỏ ra
mười lăm phút ròng gắng giải thích cho một trong những ông phó tổng giám đốc quan trọng nhất của tập đoàn Goldman Sachs về sự khác nhau giữa đàn ông trên trang Match và đàn ông trên trang Nerve. Thật không thể thương được.”
(2) Cuốn lịch mỗi ngày có viết một từ với đầy đủ ngữ nghĩa, cách phát âm, v.v.
“Thế câu chuyện với anh chàng ngày mai thế nào?” Brooke hỏi, cố thay đổi chủ đề. Theo dõi tình trạng bạn trai của Nola từ tuần này sang tuần khác là việc bất khả
thi. Không chỉ vì chẳng biết tuần này cô đi với anh nào - tự nó đã là một câu hỏi khó - mà còn vì không hiểu giờ cô đang tha thiết muốn có một anh bạn trai để sống ổn định hay cô đã lại căm ghét gắn kết với người khác mà chỉ muốn sống độc thân, xả láng và ngủ lang chạ. Tình hình thay đổi thường xuyên, không có gì báo trước, làm cho Brooke phải cố gắng liên tục để nhớ xem anh chàng tuần này “mới tuyệt làm sao” hay “là cả một thảm họa”.
Nola cụp hàng mi xuống và bĩu đôi môi tô son bóng theo cái cách nũng nịu đặc trưng của cô, vẻ
như muốn nói, “Em nhạy cảm,” “Em ngọt ngào,” và “Em muốn được yêu mê đắm” cùng một lúc. Rõ là cô đang chuẩn bị trả lời tràng giang đại hải cho câu hỏi
“Hãy dùng mánh đó với bọn đàn ông. Với tớ thì chả nhằm nhò gì đâu,” Brooke nói dối. Nola không đẹp theo kiểu truyền thống, nhưng điều đó chẳng mấy quan trọng. Cô kết hợp mọi thứ ở mình mới kiều mị làm sao, và ở cô toát ra một vẻ tự tin đến mức cả đàn ông lẫn đàn bà đều bị mê hoặc.
“Chàng này có vẻ hứa hẹn,” cô
trầm ngâm nói. “Tớ chắc rằng từ giờ đến lúc anh chàng bộc lộ cái tính nào đó không thể thương nổi chỉ là vấn đề thời gian, nhưng hiện giờ tớ nghĩ là chàng hoàn hảo.”
“Vậy chàng là người thế nào?” Brooke hối thúc.
“Hừm, xem nào. Chàng từng tham gia đội đua trượt tuyết ở trường đại học, vì vậy mà lúc đầu tớ mới click vào xem thông tin của chàng trên mạng, và chàng còn làm huấn luyện viên hai mùa nữa cơ đấy, đầu tiên là ở Park City và sau đó ở Zermatt.”
“Đoạn này thì hết sảy.”
Nola gật đầu. “Ừ. Chàng chỉ cao chừng mét tám, dáng khỏe mạnh - chí ít thì chàng tự nhận là thế - tóc vàng màu cát và đôi mắt xanh màu lá cây. Chàng mới chuyển về thành phố này vài tháng trước và chưa quen biết ai mấy.”
“Cậu sẽ làm tình trạng đó thay đổi thôi.”
“Ừ, tớ tin là thế...” Nola bĩu môi. “Nhưng...”
“Có vấn đề gì vậy?” Brooke rót
rượu vào cả hai chiếc ly rồi gật đầu với bồi bàn khi anh ta hỏi họ có muốn gọi những m họ thường ăn không.
“Ờ, vấn đề là công ăn việc làm. Chàng nói nghề nghiệp của chàng là ‘nghệ sĩ’.” Cô phát âm từ này nghe cứ như đang nói “kẻ làm phim khiêu dâm” vậy.
“Thế thì sao?”
“Sao với trăng gì nữa? Đó là cái quái gì mới được chứ. Nghệ sĩ?”
“Ừm, tớ nghĩ là nó có nhiều
nghĩa lắm. Họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ, diễn viên, văn...”
Nola đưa tay lên trán. “Xin cậu. Nó chỉ có một nghĩa duy nhất và cả hai chúng ta đều biết nghĩa đó: thất nghiệp.”
“Thời này ai mà chả thất nghiệp. Khá là hợp mốt đấy chứ.”
“Ồ, thôi đi. Tớ có thể chấp nhận chuyện thất nghiệp vì suy thoái kinh tế. Nhưng mà một nghệ sĩ à? Khó tiêu hóa lắm.”
“Nola! Thật vớ vẩn. Có ối
người - đầy ra đây, hàng vạn, chắc phải đến hàng triệu - những người kiếm sống bằng nghệ thuật. Ý tớ là, xem Julian kìa. Anh ấy là một nhạc sĩ. Chả lẽ tớ lại tuyệt đối không nên giao du với anh ấy?”
Nola mở miệng định nói gì đó rồi lại thôi. Một khoảng lặng đầy lúng túng.
“Cậu định nói gì?” Brooke hỏi.
“Có gì đâu, chẳng có gì cả. Cậu nói đúng đó.”
“Không phải. Cậu đã định nói
gì đó? Cứ nói toạc ra đi.”
Nola xoay xoay cuống đế ly rượu vang, trông cô có vẻ như chỉ muốn độn thổ khỏi đây cho rồi. “Tớ không có ý bảo Julian không thực sự tài năng, nhưng...”
“Nhưng sao?” Brooke nghiêng người lại gần đến nỗi Nola buộc phải nhìn vào mắt cô.
“Nhưng tớ không dám chắc rằng tớ có thể gọi anh ấy là một ‘nhạc sĩ’. Hồi mới gặp cậu anh ấy chỉ là phụ tá cho ai đó. Và đến giờ thì cậu vẫn đang phải nuôi anh ấy.”
“Ừ thì đúng anh ấy mới chỉ là thực tập sinh khi bọn tớ mới gặp nhau,” Brooke nói mà chẳng buồn che giấu sự bực bội. “Anh ấy thực tập tại hãng Sony để học hỏi về ngành công nghiệp âm nhạc, tìm hiểu xem nó hoạt động ra sao. Và cậu biết gì không? Chính nhờ những mối quan hệ anh ấy đã gây dựng ở đó mà ban đầu người ta mới chú ý đến anh ấy. Nếu anh ấy không đến đây hằng ngày và cố gắng làm cho mình thành người không thể thiếu được thì cậu nghĩ là ông trưởng Ban Phát triển Tài năng có thể bỏ ra những hai giờ đồng hồ quý giá để xem anh ấy biểu
diễn ư?”
“Tớ biết. Chỉ là...”
“Sao cậu có thể nói rằng anh ấy ăn không ngồi rồi được? Có phải đó chính là điều cậu nghĩ không? Không biết cậu có nhận thấy điều này không, nhưng anh ấy đã dành cả tám tháng vừa qua nhốt mình trong một phòng thu âm tại Midtown để làm một album. Nhân tiện, phải nói là đó không phải một việc phù phiếm đâu nhé; hãng Sony đã ký hợp đồng với anh ấy với tư cách một nghệ sĩ - cũng chính là cái từ nghệ sĩ đó đó - và tạm ứng trước
cho anh ấy hẳn hoi nhé. Nếu cậu không coi đó là một công việc đích thực thì tớ còn biết nói gì hơn với cậu nữa.”
Nola giơ hai tay lên đầu hàng và cúi đầu xuống. “Phải, tất nhiên rồi. Cậu nói rất phải.”
“Nghe giọng cậu không mấy tin tưởng.” Brooke bắt đầu cắn móng ngón tay cái. Mọi niềm khuây khỏa mà cô cảm nhận nhờ rượu vang đã hoàn toàn tan bi
Nola dùng nĩa gảy gót món xa lát. “Ừ thì chẳng phải là họ vẫn mời
mọc ký kết, ờ, hàng đống hợp đồng thu âm với bất kỳ người nào hé lộ một chút xíu tài năng đó sao, vì biết rằng chỉ cần một người thành công lớn là đủ để trang trải chi phí cho tất cả những kẻ thất bại tầm thường kia phải không?”
Brooke ngạc nhiên vì sự hiểu biết của cô bạn về ngành âm nhạc. Julian luôn diễn giải chính cái lý thuyết đó khi anh khiêm tốn nói về hợp đồng thu âm của mình và cố gắng, theo như lời anh nói, “kiềm chế ảo tưởng” về ý nghĩa đích thực của hợp đồng đó. Dù sao chăng nữa, những lời này theo một cách
nào đó nghe lại cay nghiệt hơn khi qua miệng Nola.
“Một ‘chút xíu tài năng’ ư?” Brooke chỉ có thể thì thào những lòi này. “Có phải cậu nghĩ rằng anh ấy chỉ là thế không?”
“Tất nhiên không phải là tớ nghĩ rằng anh ấy chỉ là thế. Đừng có vận vào mình như thế chứ. Là bạn của cậu nên tớ khó mà ngồi nhìn cậu tự giết mình khi làm quần quật để hỗ trợ anh ấy đã bao nhiêu năm nay. Đặc biệt là khi cơ hội mong manh đến nỗi chẳng biết có nên cơm nên cháo gì không.”
“Thôi được, tớ cảm kích vì cậu quan tâm tới hạnh phúc của tớ, nhưng cậu nên biết rằng đó là tớ tự nguyện nhận thêm công việc tư vấn ở trường tư thục để trang trải cho cuộc sống của bọn tớ. Tớ không phung phí lòng tốt của mình đâu, tớ làm như vậy vì tớ thực sự tin tưởng vào bản thân anh ấy cũng như tài năng của anh ấy, và tớ biết - thậm chí ngay cả khi dường như không ai tin điều này - rằng anh ấy có một sự nghiệp rạng rỡ ở phía trước.”
Brooke đã sung sướng ngây ngất đến khó tả - thậm chí có thể
còn hơn cả Julian nữa - khi mà tám tháng trước, anh gọi cho cô báo tin về lời mời đầu tiên của hãng Sony. Hai trăm năm mươi ngàn đô la là khoản tiền lớn hơn thu nhập cả hai kiếm được suốt năm năm trước đó, và Julian có thể thoải mái dùng số tiền đó làm những gì anh muốn. Khi ấy làm sao cô tiên đoán được rằng dòng tiền ồ ạt bơm về đó sẽ làm họ ngập trong nợ nần sâu, hơn cả mức nợ của họ lúc bây giờ? Từ khoản tạm ứng này, Julian phải thanh toán chi phí phòng thu, thuê các nhà sản xuất và kỹ thuật viên âm thanh cao giá cũng như trang trải toàn bộ chi phí trang thiết bị,
chi phí đi lại và chi phí cho ban nhạc trợ diễn. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi khoản tiền đã tiêu tan, khi họ còn chưa kịp tiêu dù chỉ một đồng đô la lẻ để trả tiền thuê nhà, tiền điện nước sinh hoạt, hoặc thậm chí một bữa ăn nhân ngày kỷ niệm nào đó. Và một khi toàn bộ khoản kinh phí đó đã được dùng để giúp Julian tạo danh tiếng cho mình, thì thật vô nghĩa nếu không theo đuổi kế hoạch này đến cùng. Họ đã tiêu thêm ba mươi ngàn đô la tiền túi - là toàn bộ số tiền họ dành dụm được, dự tính là khoản đặt cọc để mua một căn hộ - và mỗi ngày họ càng đốt nhiều tiền hơn.
Phần đáng sợ nhất trong toàn bộ câu chuyện này chính là điều mà Nola vừa thốt ra một cách tàn nhẫn: cơ hội để Julian thành công sau khi tiêu tốn chừng ấy thời gian và tiền bạc - dù là có tên tuổi của hãng Sony làm chỗ dựa - hầu như chỉ là con số không.
“Tớ đủ hy vọng anh ấy biết rằng anh ấy may mắn biết bao khi có được người vợ như cậu,” lúc này Nola nói với giọng mềm mỏng hơn. “Tớ có thể đoan chắc với cậu rằng tớ sẽ chẳng thể giúp đỡ cảm thông được đến mức đó. Hẳn là vì thế mà số tớ cứ độc thân suốt đời...”
May sao món mì của họ đã tới và câu chuyện chuyển sang những chủ đề an toàn hơn: nước xốt thịt gây béo ra sao, Nola có nên yêu cầu tăng lương ở chỗ làm hay không, Brooke ghét bố mẹ chồng đến mức nào. Khi Brooke ra hiệu thanh toán mà không gọi thêm món bánh tiramisu tráng miệng hoặc thậm chí chỉ một cốc cà phê, Nola có vẻ lo lắng.
“Cậu không giận tớ đấy chứ?” cô vừa hỏi vừa cài tấm thẻ tín dụng của mình vào tập bìa da.
“Đâu có,” Brooke nói dối. “Tớ
vừa có một ngày dài vất vả quá.”
“Thế cậu định đi đâu bây giờ? Không đi uống một chầu sau bữa tối ư?”
“Thực ra là Julian có một... anh ấy đang biểu diễn,” Brooke nói sau khi đổi ý vào giây cuối cùng. Cô không muốn đả động gì về sô diễn của anh, nhưng nói dối Nola thì có vẻ kỳ cục thế nào
“Ồ, hay quá!” Nola vừa vui vẻ nói vừa uống nốt cốc rượu vang của mình. “Có muốn tớ đi cùng không?”
Cả hai cùng biết rằng Nola không thực lòng muốn đi, mà cũng chẳng sao vì Brooke cũng không thực lòng muốn Nola đi cùng. Bạn cô và chồng cô khá hòa hợp với nhau, và thế là ổn rồi. Cô trân trọng sự che chở của Nola và biết rằng đó là vì lòng tốt, nhưng thật khó chịu khi thấy bạn thân nhất thường xuyên phán xét chồng mình - và lúc nào anh cũng là người không thành công dù nỗ lực đến mấy.
“Thực ra Trent đang ở trong thành phố,” Brooke trả lời. “Cậu ấy luân chuyển công tác về đây thì phải, thế nên tớ sẽ gặp cậu ấy ở
buổi biểu diễn.”
“A, Trent già tốt bụng. Hắn vẫn thích trường y đấy chứ?”
“Cậu ấy học xong rồi; hiện giờ cậu ấy đang làm bác sĩ nội trú. Julian bảo là cậu ấy thích Los Angeles, ngạc nhiên thật đấy - những kẻ sinh ra và lớn lên ở NewYork chẳng khi nào thích Los Angeles cả.”
Nola đứng dậy khoác áo vest lên người. “Hắn có đang hẹn hò ai không? Nếu tớ nhớ không nhầm thì hắn tẻ ngắt như cơm nguội
nhưng được cái rất điển trai...”
“Thực ra thì cậu ấy đính hôn rồi. Với một cô bạn bác sĩ nội trú khoa tiêu hóa, một cô gái tên là Fern. Bác sĩ Fern, chuyên gia về dạ dày. Tớ đến rùng mình khi tưởng tượng ra những gì họ chuyện trò với nhau.”
Nola nhăn mặt vì kinh tởm. “Cảm ơn vì hình ảnh đó nhé. Mà nghĩ cho cùng, hắn đã có thể hoàn toàn là của cậu
“Hừmmmm.”
“Tớ chỉ muốn đảm bảo rằng mình vẫn được công nhận thích đáng vì đã giới thiệu cậu với chồng cậu thôi. Nếu đêm đó cậu không đi chơi với gã Trent này thì có lẽ cậu vẫn chỉ đơn thuần là cô gái hâm mộ đi cổ động cho Julian.”
Brooke phá lên cười rồi hôn lên má cô bạn. Cô móc ví lấy hai tờ hai chục đô đưa cho Nola. “Tớ phải chạy đây. Nếu ba mươi giây nữa mà không lên được tàu thì tớ trễ mất. Mai nói chuyện sau nhé?” Cô giật lấy áo khoác và xắc, vẫy tay nhanh về phía Luca trên lối đi ra, rồi lao ra khỏi cửa.
***
Thậm chí sau chừng ấy năm trời, Brooke vẫn rùng mình khi nghĩ đến chuyện thiếu chút nữa thì cô và Julian đã bỏ lỡ cơ hội gặp nhau. Đó là vào tháng Sáu năm 2001, tháng đầu tiên sau khi cô vừa tốt nghiệp đại học, và Brooke thấy hầu như không thể thích nghi được với chế độ làm việc sáu mươi giờ một tuần, chia đều giữa những bài khóa luận cao học ngành dinh dưỡng, những giờ thực tập nặng nề và ca làm việc bận bịu của một nhân viên chạy bàn trong tiệm cà phê gần nhà. Một khi cô còn chưa
hình dung ra được những nhọc nhằn vất vả khi làm việc mười hai tiếng mỗi ngày để kiếm được hai mươi hai ngàn đô la một năm - ấy là cô nghĩ thế - thì cô cũng chẳng thể tiên đoán được toàn bộ áp lực căng thẳng của những ngày làm việc dài, tiền lương không đủ xài, quá thiếu ngủ, và hiện thực của việc thuê chung căn hộ một phòng ngủ chỉ nhỉnh hơn sáu mươi lăm mét vuông ở khu Murray Hill với Nola và một người bạn nữa của họ. Tất cả những điều đó chính là lý do vì sao Brooke đã từ chối thẳng thừng khi Nola nài nỉ cô cùng đi xem biểu diễn nhạc sống vào một tối thứ Bảy.
“Đi nào, Brookie, cậu phải ra khỏi nhà đi chứ,” Nola tranh biện trong lúc tròng chiếc áo bó hai dây màu đen vào người. “Có một nhóm tứ tấu nhạc jazz và nghe nói họ chơi hay cực, với lại Benny và Simon nói là họ giữ chỗ cho chúng mình. Năm đô la tiền bàn và đồ uống mua một tặng một. Cậu còn chê cái nỗi gì nữa cơ chứ?”
“Chỉ mệt đứt cả hơi rồi.” Brooke thở dài, uể oải nhấn điều khiển lướt qua các kênh từ trên chiếc phô tơi trong phòng khách. “Tớ vẫn còn bài phải viết, mà mười một tiếng nữa tớ lại còn phải đi làm
nữa chứ.”
“Ôi, đừng bi kịch quá thế. Vì Chúa, cậu hăm hai rồi. Đừng lải nhải nữa và lên thay đồ đi. Mười phút nữa chúng mình khởi hành.”
“Mưa như trút ngoài kia, vả lại…”
“Đúng mười phút thôi, không thêm một giây nào nữa, hoặc chúng mình sẽ chẳng còn bạn bè với nhau gì sất.”
Lúc hai cô đến được quán bar Rue B ở khu East Village và ngồi ép
mình bên một chiếc bàn bé tẹo cùng với các bạn học, Brooke thấy ân hận vì sự yếu đuối của mình. Sao mà cô cứ luôn nhượng bộ Nola thế nhỉ? Việc quái gì mà cô phải lèn mình trong cái quán bar đông nghẹt đầy khói thuốc, uống rượu vodka pha tonic loãng thếch và chờ xem một nhóm tứ tấu chơi nhạc jazz mà cô chưa hề nghe nói đến? Thậm chí cô còn chẳng đặc biệt thích nhạc jazz nữa kia. Mà xét cho cùng, cô chẳng đặc biệt thích bất kỳ buổi biểu diễn nhạc sống nào, trừ phi đó là buổi hòa nhạc của Dave Matthews hay Bruce Springsteen mà cô có thể vui vẻ hòa giọng hát
theo tất cả mọi bài hát. Đêm biểu diễn này hiển nhiên không phải là một đêm như vậy. Chính vì thế mà cô có cảm giác bực bội pha lẫn với nhẹ nhõm khi cô nhân viên chân dài tóc vàng ở quầy bar gõ mạnh chiếc thìa lên ly rượu.
“Này, các bạn ơi! Này, mọi người ơi, các bạn có thể chú ý cho tôi một phút được không?” Cô lau bàn tay rảnh rỗi của mình vào quần jean và kiên nhẫn đợi đám đông lắng xuống. “Tôi biết tất cả các bạn đều đang nôn nóng được nghe Tribesmen hát đêm nay, nhưng chúng tôi vừa nghe tin họ bị kẹt xe
ở đường cao tốc Long Island và chắc sẽ không đến được đúng giờ.”
Tiếng la ó và chế nhạo tức thì nổi lên ầm ĩ.
“Tôi biết, tôi biết, tệ hết chỗ nói. Xe rơ-moóc bị lật, đường nghẽn toàn bộ, vân vân và vân vâ
“Thế thì tặng một chầu miễn phí để xin lỗi nhé?” một người đàn ông trung niên ngồi phía sau giơ cốc của mình và hỏi vọng lên.
Cô nhân viên quầy bar bật cười. “Xin lỗi nhé. Nhưng nếu bất
kỳ ai muốn lên đây tiêu khiển cho chúng ta...” Cô nhìn thẳng vào người đàn ông đó, anh ta lập tức lắc đầu.
“Nói thật đấy, chúng tôi có một chiếc dương cầm rất tuyệt. Có ai chơi được không?”
Căn phòng im phắc trong lúc mọi người đưa mắt nhìn nhau.
“Này, Brookie, cậu chơi được đấy chứ?” Nola nói thầm đủ to để cả bàn họ nghe thấy.
Brooke đảo mắt. “Tớ bị loại
khỏi ban nhạc từ năm lớp sáu vì không thể học để đọc nổi bản nhạc. Có ai bị loại khỏi ban nhạc ở trường trung học nữa không đây?”
Cô nhân viên quầy bar không dễ gì đầu hàng. “Nào, mọi người ơi! Ngoài đường trời đang mưa ào ào khiếp lắm, mà chúng ta thì đang có tâm trạng để nghe nhạc nhẽo một chút. Tôi sẽ nhân nhượng thêm bia miễn phí cho cả phòng nếu ai đó có thể tiêu khiển cho chúng ta vui vài phút.”
“Tôi chơi được chút ít.”
Brooke dõi theo giọng nói về phía một anh chàng có vẻ luộm thuộm ngồi một mình cạnh quầy bar. Anh ta mặc quần jean và áo phông màu trắng, đầu đội một chiếc mũ len mặc dù lúc đó đang là mùa hè. Trước đó cô không để ý đến anh nhưng giờ cô cả quyết rằng anh có thể - có thế thôi nhé - khá bảnh nếu anh tắm rửa, cạo râu và bỏ chiếc mũ đi.
“Vâng, xin mời...” Cô nhân viên quầy bar vung cả hai tay về phía chiếc đàn dương cầm. “Tên anh là gì?
“Julian.”
“Hay quá, Julian, cô nàng là của anh đây.” Cô trở về chỗ của mình phía sau quầy bar và Julian ngồi lên chiếc ghế chơi dương cầm. Anh chơi vài nốt, nghịch ngợm với nhịp phách và giai điệu, và cử tọa nhanh chóng mất hứng quay lại những câu chuyện đang dở của họ. Thậm chí ngay cả khi anh lặng lẽ chơi trọn một bài hát (một bản ballad nào đó mà cô không nhận ra) thì tiếng nhạc lại giống như âm thanh nền hơn. Nhưng mười phút sau anh chơi những nốt dạo đầu bản “Hallelujah” và cất tiếng hát
bằng một giọng đẹp và khỏe đến kinh ngạc. Cả phòng lặng đi.
Trước đây Brooke đã nghe bài hát này, đã từng bị ám ảnh bởi Leonard Cohen một thời, và rất thích bài hát đó, nhưng cái cảm giác gai hết cả người lên thế này là hoàn toàn mới lạ. Cô nhìn khắp phòng. Không hiểu những người khác có cùng cảm giác như mình không nhỉ? Đôi tay Julian dạo trên những phím đàn một cách tự nhiên trong khi anh truyền cảm xúc mãnh liệt vào từng lời hát.
Tận đến khi anh thì thầm
ngân dài câu cuối “hallelujah” xong thì đám đông mới hưởng ứng: họ vỗ tay, huýt sáo, gào thét và hầu như cùng lúc nhảy ra khỏi ghế ngồi. Julian có vẻ lúng túng, ngượng nghịu, và sau một cử chỉ cúi chào hầu như không nhận thấy, anh trở về chỗ của mình trên chiếc ghế cao bên quầy bar.
“Quỷ thần ơi, anh ta tuyệt quá,” một cô gái trẻ thốt lên với người bạn hẹn hò của mình ở bàn phía sau họ, mắt cô dán vào chàng trai chơi dương cầm.
“Hát lại đi!” một phụ nữ
duyên dáng kêu lên, tay nắm chặt tay chồng. Người chồng gật đầu phụ họa với chị. Trong chốc lát, tiếng vỗ tay hoan hô mạnh lên gấp đôi và cả phòng đòi nghe bài hát thứ hai.
Cô nhân viên quầy bar chộp lấy tay Julian kéo anh tới micro. “Anh ấy hát hay đến sửng sốt, phải không các bạn?” cô kêu lên, cười rạng rỡ tự hào với phát hiện mới của mình. “Các bạn bảo sao nếu chúng tôi thuyết phục Julian đây hát thêm bài nữa cho mọi người cùng nghe
Brooke quay về phía Nola, đã nhiều năm nay cô chưa bao giờ cảm thấy phấn khích đến thế. “Cậu nghĩ anh ta có hát thêm không? Cậu có bao giờ tin rằng một người vô danh ngồi trong một quán bar ngẫu nhiên vào một tối thứ Bảy ngẫu nhiên - cái anh chàng đến đây để nghe người khác biểu diễn - lại có thể hát hay đến thế được không?”
Nola nhoẻn cười và nghiêng người để Brooke nghe thấy giọng cô trong đám đông. “Anh ta thực sự có tài đấy. Tệ nỗi là bộ dạng anh ta như thế.”
Brooke cảm thấy như chính cô bị sỉ nhục. “Bộ dạng anh ta như thế nào kia? Tớ lại thích tổng thể cái vẻ luộm thuộm trong phong cách của anh ta đấy. Và với giọng hát như thế thì tớ tin một ngày kia anh ta sẽ thành ngôi sao.”
“Chả có cơ đâu. Anh ta có tài, nhưng cả triệu người khác cũng tài như thế mà còn dễ gần hơn và trông khả dĩ hơn anh ta nhiều ấy chứ.”
“Anh ta hấp dẫn,” Brooke nói với vẻ hơi phẫn nộ.
“Anh ta hấp dẫn kiểu ca sĩ quán bar ở East Village. Không hấp dẫn kiểu ngôi sao nhạc rock quốc tế.”
Cô chưa kịp chồm lên biện hộ cho Julian thì anh đã quay lại ghế dương cầm và bắt đầu chơi lần nữa. Lần này là bài “Let’s Get It On”, và một lần nữa, bằng cách nào đó anh đã khiến cho giọng mình hay hơn cả Marvin Gaye - giọng sâu và gợi cảm hơn, tiết tấu chậm hơn một chút, và sự tập trung căng thẳng biểu cảm trên gương mặt anh. Brooke đắm mình vào trải nghiệm này đến mức không nhận thấy các
bạn mình đã tiếp tục tán gẫu khi những bình bia miễn phí được đưa đến bàn họ. Họ rót và uống và lại rót tiếp, nhưng Brooke không thể rời mắt khỏi anh chàng tóc rối bên chiếc dương cầm. Hai mươi phút sau, khi anh ra khỏi quán bar, cúi chào những khán giả đang tán thưởng mình với vẻ mặt chỉ hơi thoáng bóng nụ cười, thì quả thật Brooke đã nghĩ tới việc đi theo anh. Cô chưa bao giờ làm điều gì tương tự trong đời, nhưng cô có cảm giác đó là điều nên là
“Tớ có nên đến làm quen không nhỉ?” cô hỏi mọi người cùng
bàn, nhoài người về phía trước đủ xa để cắt ngang câu chuyện của họ.
“Với ai cơ?” Nola hỏi.
“Với Julian ấy!” Thật bực hết chỗ nói. Chẳng lẽ không ai nhận thấy anh ấy đã ra khỏi quán và sắp vĩnh viễn biến mất ư?
“Julian, gã chơi dương cầm ấy hả?” Benny hỏi.
Nola đảo mắt và hớp một ngụm bia đầy. “Thế cậu định làm gì đây? Đuổi theo anh ta và bảo anh ta rằng cậu có thể phớt lờ khả năng vô
gia cư tiềm ẩn của anh ta miễn sao anh ta làm tình với cậu thật say đắm trên chiếc dương cầm của anh ta ư?”
Benny bắt đầu hát. “Ô đã chín giờ tối thứ Bảy… Chủ nhật, đám đông thường lệ lại kéo đến (3)…”
(3) Nhại lời bài hát Piano Man rất nổi tiếng của Billy Joel.
“Có một gã nhếch nhác ngồi bên cạnh tôi, tình tự với cô bạn Brooke của chúng ta,” Nola vừa hát nốt vừa cười lớn. Họ cụng những vại bia.
"""