" Đêm Ngàn Mắt - Cornell Woolrich full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đêm Ngàn Mắt - Cornell Woolrich full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo ĐÊM NGÀN MẮT ———★——— Nguyên tác NIGHT HAS A THOUSAND EYES Tác giả CORNELL WOOLRICH Người dịch NGUYỄN THỊ HẠNH Xuất bản NXB VĂN HỌC ebook©vctvegroup 05-04-2020 Lời tựa Cornell Woolrich (1903-1968) là một trong những nhà văn “trinh thám đen” vĩ đại nhất thế kỷ XX. Ông để lại một kho tàng đồ sộ gần 200 truyện ngắn hình sự. Nhưng tiểu thuyết trinh thám mới là lĩnh vực ông để lại dấu ấn lớn hơn cả. Truyện của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cố định, nhưng vẫn cuốn hút độc giả bởi hình ảnh những con người bình dị phải vùng vẫy thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã bủa vây. Văn phong tinh tế, tình tiết đầy ám ảnh, kết thúc bất ngờ, tất cả đã tạo cho Woolrich một phong cách rất riêng. Ông được mệnh danh là “Poe của thế kỷ XX”. Cornell Woolrich cũng là một trong những nhà văn trinh thám có nhiều tác phẩm được dựng phim nhất: gần 60 lần chuyển thể lên màn ảnh rộng, trong đó có ba bộ phim gần chạm ngưỡng kinh điển là Phantom Lady, The Window và No Man of Her Own. Đạo diễn danh tiếng Alfred Hitchcock đặc biệt ưu ái khi chọn đến 5 truyện ngắn của ông để chuyển thể, nổi tiếng nhất là Rear Window. Đêm ngàn mắt Khi thám tử Shawn cứu cô gái trẻ thoát khỏi ý định dại dột, anh chưa từng nghĩ sẽ được nghe một câu chuyện vượt xa trí tưởng tượng của mình. Câu chuyện về một vùng đất cấm và cái giá phải trả cho những kẻ dám xâm phạm vùng đất ấy. Được xuất bản năm 1945, tiểu thuyết Đêm Ngàn Mắt (Night Has A Thousand Eyes) mang âm hưởng u tối như nhiều tác phẩm khác của Cornell Woolrich: đêm đen, bóng tối và cái chết bao trùm khắp câu chuyện tạo nên bầu không khí bất an và hồi hộp. Nhưng lần này, lưỡi hái tử thần không còn nằm trong tay một kẻ thủ ác bằng xương bằng thịt, mà là thứ gì đó đang ẩn mình trong bóng tối ngoài kia... Những vì sao lấp lánh trên bầu trời tựa như ngàn con mắt đang dõi theo ta, khiến ta không thể chối bỏ số phận cũng như chạy thoát khỏi thời khắc định mệnh. Có lẽ, không gì có thể diễn tả câu chuyện Đêm Ngàn Mắt tốt hơn một trích đoạn trong bài hát Que será, será: “Que será, será. Chuyện gì phải đến sẽ đến. Tương lai không phải thứ chúng ta có thể nhìn thấu.” Phần Một 1 Cuộc gặp gỡ Tối nào anh cũng đi dọc bờ sông về nhà, giống như tối nay. Người ta làm thế khi người ta còn trẻ: Cuốc bộ bên bờ sông, ngắm trăng sao mây nước. Kể cả khi người ta là một thám tử, thẳng thừng mà nói thì chuyện ấy chẳng liên quan gì đến trăng sao cả. Đúng ra, anh có thể bắt xe buýt như mọi người, khi tan sở. Cuốc bộ ven sông này còn chẳng phải là chặng đường về ngắn nhất, nó làm anh vòng vèo thêm một đoạn. Anh không bận tâm. Nó khiến người ta huýt sáo thấy đã hơn, mặt nước làm cho những ngôi sao dường như sáng hơn, khiến người ta muốn ngắm nhìn thêm, sao trên trời và bóng sao lồng trong nước. Nó khiến những cơn mơ thi vị hơn, những mộng mơ thường có ở lứa tuổi hai mươi. Nhưng người ta không thể mộng mơ trên xe buýt, xung quanh ken đặc người là người. Và như thế, mỗi tối, anh lại đi dọc bờ sông về nhà. Chẳng hạn như tối hôm nay. Bất cứ thói quen nào, nếu lặp đi lặp lại nhiều lần, kiểu gì cũng sẽ có lúc ta đột nhiên bắt gặp một chuyện gì đó. Chuyện gì đó đáng nhớ, chuyện gì đó quan trọng, chuyện gì đó làm thay đổi cả phần đời còn lại của ta. Và ta quên đi tất cả những lần cuốc bộ trước, chỉ nhớ độc có một lần này. Shawn là tên anh, tên một nhân vật khó hiểu trong mắt người xung quanh. Nhưng có ai hiểu được người xung quanh mình? Họ thậm chí chẳng cố tìm hiểu, làm gì có thời gian, chỉ đôi lúc hỏi thăm nhau khi tan làm. “Này Shawn, đi cùng không?” “Không, tôi đi đường bờ sông.” Thế là ai đi đường nấy. Có người bình phẩm, nhưng không ác ý, “Thật không hiểu nổi gã này.” “Tâm hồn treo ngược cành cây, có lẽ vậy.” Sẽ có những cái gật đầu, nhưng đám đông chỉ dừng lại ở mức độ phê phán nhẹ nhàng. Một thám tử quèn mờ nhạt chẳng thể nào dành được sự chú ý đồng lòng của họ. Sẽ không ai buồn nhắc lại trong vòng một, hai tháng tới. Đó chỉ là một kiểu tính cách, không phải sự khác biệt quá nổi trội. Lúc này đây, chỉ còn lại dòng sông, anh và một buổi tối như bao buổi tối khác. Tiếng huýt sáo của anh văng vẳng phía trước một đoạn, anh theo sau bằng những bước sải thảnh thơi. Tiếng huýt sáo không quá ồn ã. Nó vui tươi, khẽ khàng và không được hay lắm. Cùng một giai điệu cho mỗi buổi tối, gần như là mọi buổi tối. Hãy chỉ cho tôi đường về nhà. Một bài hát thích hợp để đồng hành bên bờ sông khi người ta hai mươi tám tuổi. Xung quanh tĩnh lặng. Không người lại qua. Chỉ có anh và những ngôi sao. Chốc chốc anh lại ngước lên nhìn chúng. Tối nay sao nhiều vô kể. Hẳn là có bao nhiêu chúng đều lộ diện hết. Chưa bao giờ anh thấy nhiều sao đến thế. Chúng gần như đan dệt vào nhau, thành một tấm vải vân vảy cá sáng lấp lánh. Bờ sông phía trước dốc lên, gần như dốc đứng, rồi cua một vòng thoai thoải dẫn vào một cây cầu. Bờ bên này là thành phố, bờ bên kia là vùng thôn quê. Có thể nhìn thấy những ánh đèn giăng dọc theo đại lộ phía xa, nom rất giống một chuỗi hạt với những viên ngọc lác đác điểm trên đoạn dây trơ trọi. Thỉnh thoảng, có một đốm sáng trườn từ viên ngọc này tới viên ngọc kia. Đó là một chiếc xe ô tô chạy với tốc độ cao, song nhìn từ chỗ anh, nó chỉ như đang bò. Song song với hướng anh đi một khoảng khá xa là bức tường chắn của thành phố, những bóng đèn màu cam trên đó gắn theo một khoảng cách và độ cao lộn xộn. Vào tầm một giờ khuya này, hầu như chúng đều đã tắt và chìm vào giấc ngủ. Phía trước bức tường là đường giao thông hai hoặc ba làn, như một con hào bằng bê tông. Rồi đến một dải đất rộng với hàng cây đương trổ lá non tháng Sáu, một cột đèn đường nằm giữa hàng cây tỏa ra quầng sáng rực rỡ màu xanh táo dưới vòm lá sẫm tối. Rồi đến lối đi nơi anh đang sải bước, lát đá màu đen ánh xanh xen kẽ ánh bạc, cũng được những ngọn đèn ven đường soi tỏ. Rồi đến bờ tường đá cao ngang thắt lưng, chạy thẳng xuống mép nước. Đó là khung cảnh nơi anh huýt sáo, ngắm sao và mơ mộng, nếu có. Và có lẽ là có, ai mà chẳng có ít nhất một giấc mơ để thắp lên và tận hưởng, trên bước đường về nhà ở tuổi hai mươi tám. Anh bước trên lối đi với những vạch sáng, tối, rồi lại sáng. Ánh mắt bắt gặp một mảnh trắng trên mặt đất, trong đầu anh nảy ra một suy nghĩ viển vông mà ai ai cũng có, không lúc này thì lúc khác, rằng tiền đang nằm dưới chân mình. Anh mặc kệ và đi tiếp hai bước. Mỡ đấy mà xơi, chỉ thằng ngốc mới dừng lại để nhặt. Tiếng huýt sáo im bặt, anh cúi xuống rồi quay người, đi ngược lại hai bước, sau đó dừng lại và nhặt nó lên. Lần này, đó đúng là thứ mà người ta nghĩ. Tiền. Một tờ năm đô la. Anh huýt một tiếng sáo, một tiếng sáo không theo điệu nào, đoạn săm soi tờ bạc rồi toan đút vào túi quần. Một cơn gió nhẹ nổi lên, thổi ngược về phía anh. Chưa kịp nhét tiền vào túi, anh lại trông thấy thứ gì đó chao liệng về phía mình. Dừng lại, rồi trượt tới, dừng lại, chao lên. Anh dùng chân chặn nó. Lại là tiền, một tờ một đô la. Anh nghển cố nhìn theo đường kẻ trắng đen tạo thành từ những vạch sáng tối, cho đến khi chúng vòng vào cây cầu. Không một bóng người, vắng tanh vắng ngắt. Anh hối hả đi tiếp. Trong tay giờ đã có hai tờ bạc. Anh không huýt sáo nữa. Anh dừng lại, đi tiếp. Giờ là ba tờ. Anh đi vội vã hơn bao giờ hết. Dừng lại lần nữa, anh nắm ba tờ bạc trong một tay, tờ còn lại trong tay kia. Mười sáu đô la. Cứ như nhặt lá dưới đất vậy. Anh rẽ ngang. Cây cầu đã ở ngay trước mặt. Lối đi của anh tiếp tục trải dài trên mặt nước. Bờ tường cũng vậy, nhưng đất nền phía dưới được thay bằng khoảng không uốn cong. Hàng cây đã dừng. Đèn ở đây nhiều hơn, những cột đèn hình chúc đài kiểu cách đứng hai bên đầu cầu. Bản thân cây cầu chìm trong bóng tối, như một đường hầm chạy dưới những dầm cầu đan chéo. Chẳng mấy khi anh đặt chân lên cây cầu. Anh thường vòng qua nó rồi đi tiếp, vẫn ở mũi đất bên này thành phố nơi cây cầu nhô ra. Nhưng chẳng mấy khi anh không dưng nhặt được tiền. Có gì đó nhấp nháy, như thể một ngôi sao vừa rơi xuống lối đi. Anh nhón lấy đốm sáng đó và đứng lên với một chiếc nhẫn trên tay. Nó đính một viên đá quý lớn lên nước bóng loáng. Anh thận trọng ngó quanh, vẫn vắng lặng, không một bóng người. Rồi anh trông thấy một thứ nhô lên từ bề mặt bằng phẳng của bờ tường đá. Một vật vô tri vô giác, một khối đen thù lù. Anh lại gần. Nó nằm ngay dưới quầng sáng tỏa ra từ một cột đèn. Tới nơi, anh liền biết tiền với nhẫn từ đâu mà ra. Vật đó là một chiếc túi xách màu đen của phụ nữ, làm bằng chất liệu mềm, có lẽ là da lộn. Anh không am tường những thứ này, nhưng nó trông có vẻ đắt tiền. Trên túi có chữ cái nổi lồng vào nhau, làm bằng thứ chất liệu lấp lánh mà sau này anh mới biết, nhưng hiện tại thì chưa, là đá marcasit. Không phải nó vô tình bị đánh rơi hay thất lạc, nếu thế nó phải nằm dưới đất kia. Đằng này nó lại ở trên bờ tường, dốc ngược và mở toang, miệng túi vắt vẻo trên thành tường. Có vẻ như nó bị chủ cầm ngược từ trên cao, ngang vai hoặc ngang mặt, và mọi thứ trong túi rơi vung vãi xung quanh. Khi bên trong đã rỗng không, nó đáp xuống và rơi vào trạng thái hiện giờ. Mở toang, lộn ngược, bằng chứng của việc bị vứt bỏ. Xung quanh túi la liệt những món đồ thân thiết với nữ giới. Một hộp phấn bằng kim loại bóng loáng, một thỏi pha lê vốn là chai nước hoa đã vỡ tan, vẫn tỏa ra hương thơm thoang thoảng. Trời đất chứng giám, tuy không phải là chuyên gia về phụ nữ, nhưng anh nghĩ họ sẽ không bao giờ vứt những thứ này đi. Đây hẳn là kết thúc của một cuộc tình buồn. Nằm sát ngay cạnh, rõ ràng bị đánh rơi, là một cuộn tiền giấy mà cơn gió vừa mới tách ra vài tờ khi anh đến. Anh chộp lấy nó, nhét trở lại ví. Xa hơn một quãng, lại có một món đồ nữa, nhưng không thể nào là bị rơi ra vì nó nằm quá xa đám còn lại. Một sợi dây lụa màu đen, đúng hơn là hai sợi. Nằm giữa chúng là một mặt đồng hồ bé xíu bằng móng tay cái, được viền những viên kim cương nhỏ, có đầy đủ kim và chữ số. Một chiếc đồng hồ đeo tay. Vị trí của nó cho người tìm thấy biết điều gì đã diễn ra. Nó bám vào mép trong bờ tường, một sợi dây và mặt đồng hồ vắt lên trên, sợi thứ hai rủ từ thành tường xuống. Ngoài ra, khi anh nhặt lên, những viên kim cương rơi lại trên mặt đá bám đầy bụi thủy tinh. Chủ nhân của chiếc đồng hồ đã tháo nó khỏi cổ tay, cầm một đầu dây quật xuống khiến nó vỡ nát và ngừng hoạt động, sau đó để nó lủng lẳng ở đó. Anh đưa nó lại gần, nhìn kĩ trong ánh đèn yếu ớt. Nó chỉ 1:08. Nó đã chết. Anh xem đồng hồ của mình, 1:12. Thời gian đã dừng lại với một người nào đó. Rồi anh trông thấy cô gái. Cô không ở trên lối đi bộ trống trải của cây cầu, anh đã phải căng hết mắt để nhận ra điều này. Cô đứng thẳng trên bờ tường, dù vậy vẫn rất khó để anh trông thấy. Cô ở khuất sau một trong những gờ tường đá lớn hoặc trụ đá cao vút cách nhau một quãng đều đặn để đỡ những thanh dầm thép tạo thành mái cầu phía trên. Cơn gió đùa nhẹ gấu váy cô. Sự chuyển động của làn váy lọt vào ánh mắt đúng lúc đó đang lướt xuống của anh. Cô không hề trông thấy anh, vì cô còn đang mải nhìn xuống dòng sông, lưng xoay về phía anh. Hình như cô đang làm gì đó với bàn chân mình. Anh có cảm tưởng cô đang co một chân lên, tay nắm lấy nó. Một chiếc giày rơi nhẹ xuống lối đi, một bên chân duỗi thẳng. Rồi đến chân bên kia, chiếc giày thứ hai rơi xuống. Chúng gần như không gây tiếng động. Nhưng không gian quá mức tĩnh lặng, đến độ tiếng rơi êm ái của chúng cũng trở nên rõ rệt. Chợt một tia sáng đỏ lóe lên sau lưng cô, xiên một vệt chéo xuống đất rồi tắt. Đó là điếu thuốc bị búng đi, cũng sẽ là sự cắt đứt cuối cùng, lời trăng trối cuối cùng của cô. Rồi sau chẳng còn gì để mà từ bỏ nữa. Anh khom người chạy thoăn thoắt. Anh đã chạy được vài giây, kể từ lúc thấy gấu váy cô bay phơ phất. Anh nhón gót để tránh bị cô phát hiện, lao đi bằng mũi chân. Lòng anh hoảng sợ, chưa bao giờ anh hoảng sợ như thế trong suốt mười năm qua. Nỗi sợ kì lạ và sự nghẹn thở không liên quan gì đến tình hình nguy hiểm, mà còn tồi tệ hơn. Bản năng mách bảo rằng nếu anh kêu lên, cô sẽ càng hành động nhanh hơn, anh sẽ đến quá trễ và thấy bờ tường đã trống không. Hẳn là cô không nghe thấy anh, nhịp độ động tác của cô vẫn giữ nguyên không đổi. Khi anh phóng qua gờ tường chắn giữa cô và tầm mắt anh, hình dáng cô hiện ra hoàn toàn. Đầu cô hơi ngửa lên chứ không cúi xuống, tay che mắt như thể bị ánh sao làm chói, bởi vì bàn tay cô ngửa lên chứ không hướng xuống mặt nước bên dưới. Lưng bàn tay áp chặt vào trán với vẻ đề phòng, phía dưới hở ra một khoảng hẹp. Anh đâm bổ vào bức tường đá, đồng thời vòng hai cánh tay qua người cô, siết chặt lại theo tư thế xoắn ốc, một trên một dưới, như thể cú va chạm đã tự động khép chúng lại. Anh vòng một cánh tay ra sau đầu gối cô để kẹp cứng đôi chân, cánh tay kia giữ chắc eo, ngăn cản cô cúi người lao mình xuống. Cô chỉ còn có thể cử động đầu, vai và phần thân trên. Cô lảo đảo lắc lư, như thể bị cắm cứng xuống đất, nửa dưới bị kẹt, chỉ có nửa trên vùng vẫy, phần nhiều do đà lao tới của anh truyền sang chứ không phải nỗ lực của cô. Hoặc cũng có thể là vậy, căn cứ vào dáng đung đưa yếu ớt của cô dưới ánh sao. Hai tay cô buông thõng, đầu tiếp tục ngửa ra sau, cho đến khi cô cô uốn cong, như thể những ngôi sao là những mũi dao sáng lấp lánh còn họng cô là bia ngắm của chúng. Cái hoạt cảnh tóm bắt và quy thuận này chỉ diễn ra không quá vài giây. Đầu óc anh không kịp nghĩ ngợi, có lẽ cô gái cũng vậy. Sau đó, anh đưa được cô xuống, bằng hai, ba cử động vụng về kết hợp thành một, khó mà tách biệt rành mạch. Đầu tiên là kéo cô về phía sau, khiến cô gần như ngồi trên vai anh, song không phải, cô chỉ tựa vào phần thân trên của anh mà thôi. Cô không hề chống cự khi anh để cơ thể của cô trượt theo người anh xuống đất. Rồi anh bỏ cánh tay phía dưới ra, giữ cô đứng thẳng và dựa vào anh bằng cánh tay vẫn đặt ở eo cô. Kết thúc rồi, xong rồi. Anh đã giữ được mạng sống của cô. Anh thở dốc do vừa chạy qua cầu. Hơi thở của cô gái cũng dồn dập, do bàng hoàng trước cái đỉnh điểm bi kịch đã bị dập tắt đột ngột, không được diễn ra nữa. Anh nghe thấy nó sát bên tai. Anh chờ cho nó điều hòa và chậm dần. Cuối cùng, nó cũng bình thường trở lại, cùng với nhịp thở của anh. Bàn tay cô lại đưa lên trán, nhưng không che mắt. Giờ nó hơi nằm lại bên thái dương, hướng ra bên ngoài như canh chừng điều gì đó. Có một sự im lặng lạ lùng giữa họ. Cô gái không mắng nhiếc hay xỉa xói gì anh, không gây ra một màn ầm ĩ thường có. Về phần mình, anh cũng không biết phải nói gì. Anh không biết người ta hay nói thế nào sau khi vừa ngăn chặn một con người khỏi những hành động như ban nãy. Phải có người mở lời trước. Họ không thể đứng đờ đẫn thế này cả đêm. Anh nghĩ: Mình có thể mời cô ấy một điếu thuốc. Nhưng anh không làm. Nếu người ta đã không cần cuộc sống thì cũng chẳng cần thuốc lá làm gì. Đó chỉ là một phần nhỏ bé nhất của cuộc sống mà thôi. Cô gái vẫn ôm đầu để mắt không chạm vào ánh sao, bàn tay nắm hờ tạo ra một khoảng tối. Tất cả chỉ diễn ra trong một hoặc hai giây, nhưng lại tưởng như kéo dài vô tận, vì sự im lặng giữa hai con người. Cuối cùng, anh lên tiếng, giọng bình thường như đã đoán trước được tình huống, thản nhiên như thể cô chỉ bị vấp chân hoặc đại loại vậy. “Sao thế?” Anh hạ giọng hỏi. “Hãy để tôi thoát khỏi chúng.” “Ai cơ?” Cô quay gương mặt còn cúi gằm hơn nữa sang anh, né tránh những điểm sáng rực rỡ chi chít khắp bầu trời. Anh chợt hiểu ra. “Lẽ ra anh nên để cho tôi thoát khỏi chúng. Tôi muốn chìm thật sâu, nơi tôi không thể thấy chúng tỏa sáng và chúng không thể thấy tôi.” Hẳn là cô gái có vấn đề. Không ai lại đi nghĩ về những ngôi sao theo kiểu đó. Chúng là hiện thân của cái đẹp. Chúng là tạo vật đẹp đẽ nhất trên đời mà loài người muốn ngắm nhìn. “Ra chỗ sáng này để tôi có thể nhìn rõ cô nào.” Một cô gái đáng thương - anh phán đoán - bị thất tình. Hoặc tệ hơn, một cô gái ăn sương ghê tởm bản thân. Anh cúi xuống tìm kiếm. “Cô không cần cái này sao?” Anh đưa đôi giày cho cô, chúng đung đưa dưới những sợi dây quai. Có một sự quở trách nhẹ nhàng trong câu trả lời của cô. “Anh khiến cho tôi lại phải cất bước thì tôi còn cách nào khác.” Cô đặt đôi giày xuống đất, ướm chân vào, khom người qua vòng tay anh để thắt những nút dây cần thiết. Anh cẩn thận đỡ eo cô. Họ đi về phía trước vài bước, tới chỗ ngọn đèn gần nhất đang tỏa một quầng sáng tròn giữa bóng tối của lối đi bộ. Họ bước chầm chậm, không sóng đôi, dù cho có cánh tay anh dìu đỡ. Cô đi sau anh một bước, dáng vẻ đầy miễn cưỡng. Mặc dù vậy, xem ra một khi đã bắt đầu, cô dường như không thể ngừng nói. “Anh định làm việc tốt, nhưng không phải đâu. Đừng, xin đừng. Ôi, hãy cho tôi thoát khỏi chúng, tránh xa chúng. Chúng cứ phải sáng mãi sao? Chúng sẽ không bao giờ tắt sao?” Anh khẽ lắc đầu, không đáp. Anh đã chạm tới rìa quầng sáng. Vòng cung rực rỡ ấy đem lại một sự bất ngờ, khi nó tách đôi bóng tối và cô bước qua. Cánh tay anh buông thõng xuống là biểu hiện đầu tiên. “Coi... coi, coi cô kìa!” Anh lắp bắp. “Tôi còn tưởng cô hết đát cơ! Cô trẻ trung, xinh đẹp, lại ăn vận đắt tiền. Cô có tất cả! Hà cớ gì lại làm một việc dại dột thế?” Anh không phán xét cô. Anh vốn không khéo ăn nói, lúc này còn dở hơn bao giờ hết. Anh ném vào cô những ý ngay thật đầu tiên bật ra trong đầu, nhưng đó cũng là những thắc mắc thật sự. Cô gái không quá đôi mươi. Cô xinh đẹp, nhưng không theo kiểu ngọt ngào điệu đà như đôi môi chúm chím hay hàng mi chấp chới, vẻ đẹp trên gương mặt cô thể hiện ở sự hài hòa, ở vầng trán cao, đôi mắt với khoảng cách rộng ở giữa, nét ngay thẳng trong sáng chúng toát ra, vẻ trung thực và cá tính thể hiện rõ nơi chiếc cằm. Tất cả những đường nét đều thể hiện cô là một người phụ nữ đẹp, dù ở độ tuổi nào đi nữa. Nét mặt cô còn tái nhợt, cú sốc vẫn chưa tan. Không có lớp trang điểm nào trên gương mặt để che giấu điều đó. Mái tóc cô, sự pha trộn giữa óng vàng và nâu sáng, xõa xuống mềm mại, chắc hẳn phải hút hồn lắm nếu được chăm chút cẩn thận. Cô mặc một chiếc váy sẫm màu, không được tô điểm bởi món trang sức nào ngoài một chiếc cúc. Tuy nhiên, nhìn cách chiếc váy buông xuôi theo thân hình, có thể thấy nó được đặt may riêng cho cô. Quá bàng hoàng trước những giá trị vừa phát hiện ở cô, anh hỏi lại. Ngay cả một kẻ có con mắt ngờ nghệch như anh cũng nhận ra được điều này. “Việc gì cô phải làm thế? Một cô gái như cô?” Và anh lại nhận được câu trả lời tương tự, “Hãy tắt ánh sáng của chúng đi.” Mắt cô long lên một cách căng thẳng. Anh không biết xử trí ra sao. “Nhưng ở trên đó chúng đâu làm hại cô được. Chúng chỉ... chỉ ở đó thôi. Từ xưa đến giờ.” “Vậy thì tôi không muốn chúng ở đó.” Anh cố chuyển đề tài khó nhằn này sang khía cạnh dễ chịu hơn. “Có tôi ở đây với cô rồi. Tôi sẽ không làm hại cô? Cô không cho là tôi sẽ hại cô chứ?” Cô chạm vào cánh tay anh, rồi thình lình bàn tay nắm chặt điên cuồng. “Không, anh thì không. Con người không hại tôi. Đàn ông không hại tôi. Con người có trái tim, ta có thể lay động trái tim họ, có thể nói với họ, ‘Hãy để tôi yên’...” “Được rồi, có tôi ở đây. Rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi. Cứ nắm tay tôi nếu cô muốn. Cứ nắm đi, cả hai tay vào, thế.” Cô run rẩy. “Lát nữa thôi anh sẽ rời bỏ tôi, sẽ chỉ còn mình tôi với chúng.” Anh choàng tay qua vai cô, cố làm sao cho hành động đó mang tính vô tư và che chở, như một người đàn ông ôm lấy một đứa trẻ vừa nói với anh ta rằng nó bị lạc. Họ bước đi trong một tư thế mới. Họ băng qua ánh sáng đèn đầu tiên và đi vào bóng tối, rồi sang một quầng sáng khác, rồi lại bước vào bóng tối liền sau đó. Anh tự hỏi mình nên làm gì với cô. Anh không thể ngả mũ chào rồi quay bước, khi mà giờ đây anh đã đưa cô rời khỏi cây cầu. Về nhà với cô, gửi cô ở đó? Nhà sẽ không giúp ích được nhiều cho cô. Hẳn là cô đã đi ra từ chỗ đó, không lâu trước khi cô tìm cách... làm chuyện kia. Gọi xe cấp cứu, đưa cô tới bệnh viện để theo dõi? Như thế chỉ tổ làm cô thêm sợ hãi, mà cô đã đủ sợ hãi rồi. Họ đã tới chỗ chiếc túi, những món đồ nằm rải rác cách nhau vài bước chân. Cô không có động thái muốn lấy lại chúng. Anh mới là người phải nhặt nhạnh từng thứ một, tất cả những món đồ bị rơi ra. Anh dừng lại khi đến chỗ lọ nước hoa vỡ, dò hỏi cô, “Cái này thì thôi nhé?”, rồi đẩy nó qua bờ tường. Cô không đáp, như thể không biết nó là gì, hoặc nếu biết cũng chẳng quan tâm. Anh nhớ đến những tờ tiền mình đã nhặt dọc lối đến đây, liền lấy chúng ra khỏi túi, bổ sung vào mớ đồ. Chiếc đồng hồ vỡ, anh đưa thẳng cho cô. Cô nhìn nó với một vẻ hài lòng ngây dại. “Ít ra tôi đã làm cho thứ này dừng lại”, cô thở phào. Thế nhưng hàng mi lại cụp xuống, hẳn cô phải kiềm chế thôi thúc muốn ngước nhìn lên bầu trời. “Nhưng chúng vẫn cứ sáng.” Cô đưa lại cho anh, bình thản như thể nó là của người khác và cô chỉ mượn xem giờ. Anh để nó trôi qua lòng bàn tay vào trong túi. Kim cương đổ ra thành một dòng chảy nhỏ lấp lánh. Đồ đã gom đủ, anh đóng túi lại và đưa cho cô. Nhưng mãi mà cô vẫn không chịu cầm, hẳn là ý định ban đầu đối với thứ của nợ này vẫn còn nung nấu trong cô, kể cả sau chừng ấy thời gian. “Cô không muốn lấy lại nó à?” Anh thúc giục. “Không”, cô đáp đơn giản. “Nhưng vì anh muốn thế, nên chắc tôi phải giữ lại.” Cô đeo nó vào cánh tay như cách anh vẫn thấy ở những người phụ nữ khác. Anh hỏi cô một câu và ngay lập tức hối hận, ước chi mình đã không hỏi. Nó nghe thật độc ác. Nó còn ngu ngốc và phá hỏng bầu không khí hơn câu hỏi đầu tiên trên cầu. “Đủ cả rồi chứ?” Nghe như anh đang giúp cô lên xe buýt hoặc lên tàu hay gì đó. Có lẽ cuộc đời là vậy, anh đang đẩy cô trở lại, sau khi cô vừa ra khỏi cái bến đi lầm . “Đủ rồi”, cô đáp. “Tất cả. Đồng hồ, ví, cuộc sống của tôi, địa ngục của tôi.” Anh nghe được ý chua chát trong đó nhưng không bình luận gì. Cô không có ý ám chỉ rằng đáng ra anh nên để cho cô nhảy xuống mới phải, bất kể cô có nói sao. “Chúng ta đi lối này nhé?” Anh hỏi. Anh dẫn cô ra đường lớn, băng qua đường sang thành phố phía bên kia. Anh để cánh tay cô vòng qua tay mình, bàn tay còn lại đặt nhẹ lên trên. Không chặt như khóa tay một tù nhân, mà giống một sự dẫn dắt âm thầm. Cô không chống đối, nhưng đến lề đường thì cô hỏi, ‘Anh định đưa tôi đi đâu?” “Tìm nơi nào đó ngồi nói chuyện một lúc.” Cô đọc ra ý nghĩ của anh. “Cách xa con sông.” “À”, anh chống chế, “có nhiều chốn vui tươi hơn mà.” Cô không nói gì, nhưng anh hiểu được câu trả lời: Nhưng con sông đem lại cảm giác bình yên cho cô. “Tôi đậu xe đằng kia.” Một lát sau cô nói, như sực nhớ ra. “Sao cô không bảo sớm?” Anh thốt lên, đoạn dừng lại ngay tắp lự, kéo cô rẽ sang hướng khác. Con đường này đi ngược lên phía trên cây cầu. “Chúng ta qua lấy xe nhé?” Nó nằm ẩn dưới hàng cây, gần như vô hình khi nhìn từ nơi anh đứng lúc đầu, nơi anh vừa đưa mắt đã trông thấy cô. Nó dần hiện rõ dưới ánh đèn đường khi họ đến gần. Đó là một chiếc xe mui trần hai chỗ, gầm thấp, được đặt riêng, màu đen bóng loáng. Vài đốm sáng đèn lọt qua tán lá, rớt xuống tạo thành hình những đồng tiền vàng, một ở mui xe, một trên đuôi xe, một trên ghế phụ đằng sau. Anh huýt sáo. “Cái này của cô à?” Anh tìm cách lấy lại tinh thần cho cô, bằng một lối thiện chí vụng về. “Và cô định bỏ rơi nó? Cô có lương tâm không thế?” Cô không đáp, như thể chẳng hiểu anh đang nói gì. Anh ngồi vào sau tay lái. “Cô có chìa khóa không?” “Hình như tôi vẫn cắm trong ổ.” Anh tìm thấy chùm chìa khóa nằm dưới chân. “Hay chưa kìa?” Anh ra vẻ triết lí. “Nếu cô muốn có chiếc xe để quay về thì chắc nó sẽ biến mất khi cô quay lại. Nhưng vì cô không muốn nó nữa nên nó vẫn ở đó.” Anh chạm vào nút nào đó, một luồng sáng trắng rọi chói lòa con đường phía trước. Không gian dưới hàng cây sáng rực như ban ngày. Anh chỉnh ánh sáng dịu xuống. “Hết sảy!” Anh lướt tay qua thành kính chắn gió chếch nghiêng. “Bố tôi đặt mua nó hồi chúng tôi còn ở bờ bên kia. Nó là quà sinh nhật mười tám tuổi của tôi.” Dường như anh phát hiện được điều gì qua câu nói đó. “Nó ở với cô bao lâu rồi?” Anh vừa nghịch công tắc đánh lửa vừa hỏi. “Hơn hai năm.” Đúng là cô hai mươi tuổi. Cô cứ đứng sững ngoài cửa xe, như thể rời khỏi cánh tay anh là cô cũng hết muốn nhúc nhích. Anh muốn cô lên xe ngồi cạnh mình. Anh đưa ra lời mời vốn đã định thực hiện ở trên cầu, như một phương cách kéo cô lại gần, ở kế bên anh. Anh chìa bao thuốc ra, cánh tay không vươn quá xa về phía cô. “Cô có muốn dùng không?” Cô bước vào xe và buông mình xuống cạnh anh. Anh nghĩ là cô không biết bản thân đang làm gì. Anh đưa một que diêm cho cô, tay kia với qua đóng cửa xe lại. Rồi anh quay sang nhìn cô, khuỷu tay dựa vào lưng ghế. “Giờ cô có phiền nếu chúng ta nói về chuyện đó không?” Anh thấy cô khẽ lắc đầu. Chẳng biết thế nghĩa là cô không phiền, hay không thích nói về chuyện đó nữa. Cô ấy trông thật ngơ ngác và tội nghiệp - anh nghĩ - khiến người ta muốn choàng tay ôm chặt lấy cô và... Anh vội túm lấy cổ tay mình, khóa cứng và ấn nó vào thành ghế bằng tay kia. Cô nhìn chăm chăm sàn xe bọc da dưới chân. Anh biết lí do vì sao, để cô không phải ngẩng lên. Cô sợ chúng, chúng vẫn quấy rầy cô. “Anh chàng nào thế?” Cô mỉm cười. “Tôi chưa từng yêu.” Anh nghĩ đến chiếc túi, những tờ tiền rải dọc lối đi. “Không phải vì tiền.” Nụ cười biến thành tiếng cười. Một tiếng cười buồn bã, chẳng hề vui vẻ. Cô lặp lại, “Tiền”, như thể đang nói tới bụi đất, thứ gì đó hiện diện khắp nơi, khiến người ta không tránh khỏi việc giẫm vào, thứ mà một người lịch sự chẳng bao giờ bàn luận công khai. Anh tự trả lời. “Tôi đoán là không phải.” Anh vuốt tay dọc viền vô lăng, trầm ngâm. “Không phải tình, không phải tiền, vậy phải chăng mấy tay bác sĩ đã nói gì với cô? Bọn họ cũng có lúc nhầm lẫn, họ đâu phải là thánh.” “Tôi không đến bác sĩ từ năm mười hai tuổi. Tôi chưa bao giờ gặp vấn đề về sức khỏe, hiện tại cũng vậy. Tôi chưa từng bị ốm dù chỉ một ngày.” Không nghĩ ra lí do nào khác, anh cúi đầu về phía vô lăng. “Tôi chỉ muốn giúp cô thôi.” “Anh còn quá trẻ, chúng thì già cỗi. Anh chỉ có một mình, chúng thì hằng hà sa số.” Cô bị ám ảnh trầm trọng bởi những ngôi sao, anh nghĩ. Bệnh này phải mất nhiều tuần mới chữa khỏi. Phải cần đến một bác sĩ chuyên gia... Gì nhỉ? Anh không nghĩ ra được từ đó. Anh để ý thấy cô bắt đầu run rẩy. Không khí ban đêm ấm áp, dưới vòm cây còn hơi ngột ngạt. Có lẽ là do tác động của cú sốc tinh thần cô trải qua trên cầu. Người ta không thể đẩy bản thân tới một hành động như thế mà sau đó thần kinh không rối loạn. “Mạn phép cô”, anh nói, đưa tay đặt lên mu bàn tay cô. Nó lạnh ngắt. Anh nổ máy xe. “Chúng ta ra khỏi đây chứ?” “Đưa tôi đến chỗ nào không nhìn thấy chúng. Thoát khỏi bầu trời, thoát khỏi ngàn con mắt trừng trừng ấy.. Chiếc xe lướt đi. Anh buộc phải lái dọc đường bờ sông một đoạn cho đến khi có thể chuyển hướng. Cô gái cúi thấp đầu, nhìn xuống hai bàn tay, thỉnh thoảng lại lật chúng qua lại cho bớt nhàm chán. Tất cả chỉ để tránh ngước mắt lên. Sống như thế thật đáng sợ. Một nửa thế giới là bầu trời, phân nửa thời gian nó chìm trong bóng tối và được những ngôi sao thắp sáng. Một phần tư thế giới vây quanh ta, một phần tư đời người bị chặn đứng, một vùng cấm, một vùng nguy hiểm không được nhìn vào. Nếu được làm lại, anh vẫn sẽ hành động như thế. Nhưng giờ anh bắt đầu tự hỏi, ở trên cây cầu đó, người nào sáng suốt hơn? Anh hay cô? Có lẽ cô biết rõ mình đang làm gì. Anh nhận ra đây không chỉ là một sự việc xảy ra trong một buổi tối. Mới qua bước đầu tiên - anh tự nhủ - mình còn nhiều việc phải làm phía trước, còn nghề nghiệp của mình nữa. Chuyện này sẽ mất thời gian và còn lâu mới dễ dàng. Mình vừa cứu cô ấy thoát khỏi nguy hiểm. Giờ mình phải hoàn thành nốt việc cứu vớt cuộc đời cô ấy. Họ đang chạy qua một con đường lớn sáng đèn, cách xa dòng sông. Ở đây sẽ tốt cho cô hơn chút ít. Ánh sáng rực rỡ từ các tấm biển hiệu mờ tỏ và những bóng đèn nê-ông, mọc lên khắp nơi, kèn cựa nhau, lấn át những điểm sáng trên bầu trời. Họ đi qua một, hai quán rượu mờ khói, ảm đạm với ánh đèn mờ. Nhưng chúng không phải là nơi anh nên đưa cô tới, bất cứ ai giống như cô. Ngay cả khi họ không ở trong hoàn cảnh như tối nay đi nữa, tay đàn ông nào cũng có thể thấy rõ điều đó khi nhìn cô. Cô đang gặp vấn đề, trưng cô ra giữa những ánh mắt chòng chọc ngà say và tiếng người huyên náo chỉ càng làm vấn đề trầm trọng hơn. Vả lại đây không phải một sự kiện giao tế, mà là một ca được xếp vào loại khẩn cấp. Anh cũng tránh những địa điểm ăn uống không phù hợp mà họ gặp trên đường. Chúng chỉ là những quầy phục vụ, điểm lui tới của cánh tài xế taxi, xe tải đường dài và những hạng người tương tự. Anh đã nhắm sẵn một chỗ, một quán ăn mở cửa qua đêm, một nơi lạc hậu so với thời nay khi không có hình thức giải trí hay tiêu khiển nào để bù cho việc đồ ăn bình thường, đơn điệu. Nó vô cùng cũ kĩ và mốc meo, anh cũng chẳng thể hiểu nổi làm thế nào mà nó vẫn còn hoạt động, trừ phi đó là sự cố chấp không thể từ bỏ của chủ quán. Anh dừng xe trước cửa quán yên ắng. Họ đi vào trong. Quán rất vắng, như mọi lần anh đến. Ở một bàn nọ, có hai người đàn ông đang mải mê với cuộc chuyện trò đã kéo dài mấy giờ đồng hồ. Gần đó là một đôi nam nữ chìm trong sự yên lặng muộn sầu suốt mấy tiếng liền. Một người phục vụ, rất ư mệt mỏi, rất ư kiên nhẫn, đứng lơ ngơ. Anh dẫn cô đến một bàn trong góc, kéo ghế ra. “Chỗ này được không?” Cô ngồi xuống, rồi lại đứng lên với vẻ ác cảm đột ngột. “Không, chỗ này quá gần cửa sổ. Chúng ở ngoài kia, nếu quay đầu tôi vẫn nhìn thấy chúng. Tôi sẽ vẫn... Chúng như đang rình mò sau lưng tôi vậy.” Anh phát hiện ra một hốc tường, hoặc có thể là một góc lõm cuối phòng. Họ đi tới đó. “Ở đây thì sao?” Lần này cô ngồi xuống, không đứng lên nữa. Thấy vậy, anh mới ngồi xuống ghế. “Anh phục vụ, đóng hết rèm cửa sổ bên kia lại giúp tôi.” “Nhưng thưa anh, như thế anh mới nhìn thấy tất cả.. “Tôi bảo là đóng lại.” “Chặn đứng chúng”, cô nói khi anh chàng đã đi khỏi. “Che cho tôi. Hãy giăng một ngàn tấm rèm lên. Nhưng dù vậy tia sáng của chúng vẫn lọt qua mà thôi. Chẳng có nơi nào trên thế gian này, hay ẩn sâu bên dưới, mà tia sáng của chúng không rọi qua được.” “Chà!” Shawn khẽ nói với chính mình. Anh cố gắng mỉm cười với cô. “Giờ cô cảm thấy ra sao? Cho tôi kiểm tra tay cô nào.” Nó vẫn lạnh. “Cô muốn một chút whisky không?” “Có tác dụng chăng? Nếu thế tôi đã dầm mình vào rượu rồi.” Người phục vụ đã quay lại. “Cà phê cho cô đây. Cà phê đen. Đậm và nóng.” Anh đốt một điếu thuốc nữa trong lúc chờ đợi, để có việc mà làm hơn là vì anh muốn hút. “Cô có muốn cho tôi biết tên không?” Anh dè dặt hỏi. “Tất nhiên cô không nhất thiết phải...” “Jean Reid”, cô ngắt lời. “Cảm ơn, cô Reid.” “Anh có thể gọi tôi là Jean.” Anh tự hỏi cô đang nhìn gì. Mặt bàn giữa họ, nơi ánh mắt cô đang dán vào, trống trơn. Anh phải tiếp tục câu chuyện giữa hai người. “Cô có muốn biết tôi là ai không?” Cô tiếp tục nhìn vào điểm hư vô trên mặt bàn. “Anh là một người đàn ông. Anh tự dưng xuất hiện. Anh khiến cho tôi phải tiếp tục nhìn chúng trong khi đáng lẽ tôi đã được giải thoát từ lâu, tất cả là do anh. Không biết tôi có nên cảm ơn anh vì chuyện đó hay không.” Anh chớp mắt rồi cúi đầu. “Tôi tên Tom Shawn”, anh nói. “Tôi... là nhân viên sở cảnh sát. Tôi là một thám tử ở ban Trọng án. Nếu tôi có thể giúp gì..” “Cảnh sát. Thám tử.” Cô phá lên cười. Anh chờ cho cô cười xong. Cô vẫn cứ cười, dường như chẳng cần gì khác. Tiếng cười không khàn khàn hay lanh lảnh, nó thậm chí không thu hút sự chú ý của hai đôi ở phòng ngoài. Nó thanh lịch, giống như mọi thứ khác ở cô. Nhưng xem ra cô không kìm được tiếng cười. Khóc lóc còn thua xa. Không gì kinh khủng bằng việc phải ngồi nghe một người cười hoài cười mãi. Không vui vẻ, không giễu cợt, không hy vọng. Anh siết chặt năm đấm dưới gầm bàn, nơi cô không trông thấy, và ấn nó xuống đầu gối. Anh tự hỏi làm sao để cô dừng lại. Anh từng nghe nói nếu tát đối phương thì họ sẽ dừng. Anh không thể làm được điều đó dù có cố. Anh nghe nói nếu hắt một cốc nước vào mặt họ, họ sẽ dừng. Anh cũng không thể làm được, như vậy thật khiếm nhã. Anh ước gì cái người mình cứu trên cầu là một tay đàn ông, để anh có thể đấm trẹo quai hàm hắn mà không mảy may hối tiếc. Cô chĩa ngón tay cái qua vai. “Bắt lũ sao ngoài kia đi, ông cảnh sát. Hãy còng tay chúng, đánh chúng bằng dùi cui đi.” Shawn này đâu phải không có lòng tự trọng. Anh vốn định giúp đỡ mà. Anh đứng lên, cẩn thận đẩy chiếc ghế về vị trí cũ, rồi lẳng lặng quay bước. Tiếng cười chợt tắt. Anh ngoái nhìn lại từ bên này phòng. Đầu cô gái cúi xuống, hai tay ôm chặt quanh người. Cô đã nín lặng. Anh tần ngần tại đó. Rồi anh xoay người, bước trở lại chỗ, chậm rãi như lúc bỏ đi. Anh kéo chiếc ghế cũ ra và lặng lẽ ngồi xuống. Cuối cùng, khi cô ngẩng lên, anh lại ngồi trước mặt cô, kiên nhẫn chờ đợi. Anh đang cố cho cô thấy, bằng cách duy nhất mà anh biết, là mình muốn giúp cô. Hàng mi dưới của cô đọng đầy hơi nước. Cô nhìn anh, vuốt nhẹ mái tóc ra sau. “Giờ cô có muốn nói với tôi không?” “Tôi không thể.” “Tại sao?” “Tôi không biết nói thế nào.” “Thì có sao nói vậy. Chuyện đã tích tụ trong người cô, cứ để nó thoát ra.” “Chuyện này không nói thành lời được. Nó không thể truyền từ người này sang người khác. Anh phải sống với nó. Anh không thể nghe suông.” “Chẳng có chuyện gì mà không nghe được cả. Tôi đã nghe không ít chuyện kì lạ..” “Chuyện này chứa đựng rất nhiều chi tiết nhỏ, như những hạt cát hay những giọt nước. Anh không thể kể về những hạt cát hay giọt nước, nó không giống bất cứ thứ gì. Họ sẽ không hiểu ý anh.” “Có lẽ tôi giúp được cô, chắc tôi sẽ khiến cho cô mở lời được. Hãy cố quên rằng tôi đang ngồi trước mặt cô đi. Kể lại thành tiếng câu chuyện như cô đang kể cho chính mình, xung quanh không có ai khác.” Ngay cả như thế, cô cũng không bắt đầu được. Anh nhẫn nại chờ. “Tối nay cô cảm thấy sợ hãi, đúng không?” Cô hít một hơi sâu đầy run rẩy. “Vâng, tối nay tôi rất sợ.” “Ngày trước cô không sợ.” “Ngày trước tôi không sợ.” “Rồi, bắt đầu từ đó. Cứ kể lại theo cách ấy.” Anh quan sát mắt cô, chúng từ từ thay đổi. Đầu tiên là mờ đi, không phải về mặt vật lí, mà do sự hồi tưởng. Sau đó chúng lướt qua anh, xuyên qua bóng đêm, chìm vào quá khứ xa xưa. “Có một thời tôi không sợ...” 2 Câu chuyện Nó bắt đầu một cách rất nhỏ nhặt. Một giọt. Phải, đúng là một giọt. Nhưng không phải nước. Một giọt súp nóng bỏng trên một chiếc váy áo trắng tinh lần đầu tiên được mặc. Không thể có sự bắt đầu nào vụn vặt hơn. Một giọt súp bắn ra. Một ánh nhìn khiển trách liếc sang, giữa hai đoạn đối thoại đang diễn ra vào thời điểm đó. Những biểu hiện lo lắng trên một gương mặt thoáng thấy qua vai. Gương mặt khuất đi. Giọt súp bay hơi. Cuộc đối thoại tiếp tục. Nhưng có cái gì đó đã bắt đầu. Bắt đầu của cái chết. Bắt đầu của bóng tối, trong ánh lửa vàng nhạt của những ngọn nến trên bàn ăn tối. Cái chấm nhỏ ban đầu không lớn hơn một giọt súp bị bắn ra ấy. Từ từ to lên, qua từng ngày, từng tuần, từng tháng, cho đến khi nó che phủ tất cả. Cho đến khi chỉ còn lại bóng tối. Bóng tối, sự sợ hãi và đau đớn, cái chết và sự diệt vong. Như tôi đã nói, tôi là Jean Reid, còn Harlan Reid là bố tôi. Chúa đã truyền cho chúng ta ý niệm phải yêu thương bố mình, Chúa cũng truyền ý niệm ấy vào con gái nhiều hơn con trai. Nhưng Chúa lại quên chỉ cho chúng ta cách xóa đi nỗi đau mà đôi khi tình yêu đem lại. Trên hết, Chúa cho phép chúng ta nhìn lại phía sau, nhưng lại cấm chúng ta nhìn về phía trước. Nếu chúng ta làm thế, ấy sẽ là cả một sự mạo hiểm. Không có loại thuốc giảm đau nào đi trước được nỗi đau, chỉ có một loại có thể theo sau, tên là thời gian. Tôi mồ côi mẹ từ khi lên hai, thế nên tôi chưa bao giờ thực sự thân thuộc với bà. Lúc nào cũng chỉ có bố, hai bố con tôi. Nhiều lúc, tôi cho rằng đó là tình yêu mạnh mẽ nhất, nguyên thủy nhất, được gia thêm những yếu tố của tình yêu lãng mạn nhưng bị cấm đoán. Đó là cuộc sống của chúng tôi, có thể như thế là không tốt, nhưng chúng tôi không nên bị trừng phạt vì lẽ đó. Lần đầu tiên tôi phát hiện ra sự khác biệt của mình, của chúng tôi, là năm tôi lên tám hay chín tuổi. Cho đến khi đó, tôi vẫn chưa hề biết, bất kì đứa trẻ nào cũng không biết những chuyện như vậy nếu chúng chỉ có một mình. Có thể đó là một điều tồi tệ đối với tôi. Bố tôi cam đoan là không phải vậy. Tựa như... khi bị ngã trầy đầu gối hoặc vấp xước chân trên vỉa hè, anh chạy về mách bố, ông sẽ đặt anh lên đùi. Và với sự thông thái bao la, ông sẽ chấm thứ gì đó lên vết thương, khiến nó không bị mưng mủ. Ông cũng làm như vậy với điều tôi phát hiện ra. Sơ cứu, khử trùng, đảm bảo nó không để lại sẹo hay ảnh hưởng nào. Một đứa con gái đứng trước mặt tôi trong sân trường, nghiêng đầu, trợn mắt nhìn tôi rồi hỏi, “Có phải nhà mày cực kỳ giàu không?” Tôi hơi lùi lại, lòng đầy đề phòng. “Không phải”, tôi nói, không được tự tin cho lắm. Cứ như tôi bị cáo buộc đã dầm mình trong một thứ nước sốt ngấy mỡ vậy. “Đúng thế”, nó quả quyết. “Nhà mày giàu. Người ta bảo thế. Nhà mày giàu.” Nhân lúc con bé không để ý, tôi liếc trộm xuống váy mình. Nó trông sạch sẽ và phẳng phiu. Tôi tỏ vẻ không sao, nhưng thực ra trong lòng rất phiền muộn. Tối đó về nhà, tôi hỏi bố. “Giàu nghĩa là sao hả bố?” Ông trả lời chậm rãi, đượm chút buồn bã và sáng suốt. “Con hãy nghe thật kĩ. Và ngày mai đừng nhớ đến chuyện này. Nhưng một ngày nào đó, con hãy nhớ khi con mười tám hoặc hai mươi tuổi. Khi ấy, nó cần thiết với con hơn. Nó có nghĩa là con sẽ có một giai đoạn khó khăn. Con sẽ luôn phần nào thấy cô đơn. Sẽ không có ai nắm lấy bàn tay con đưa ra. Và nếu có, con sẽ không thể biết có phải họ làm thế vì sự cô đơn của con không. Nó nghĩa là con sẽ phải cẩn thận trước những cạm bẫy.” “Con phải làm gì ạ?” Tôi nín thở hỏi. “Con chỉ có thể làm một điều. Hành xử như mình không biết. Hãy hoạt động, sống và suy nghĩ như thể con không giàu. Như vậy, có lẽ thế giới mới để cho con quên đi.” Sang ngày hôm sau, tôi lập tức quên. Hoặc chắc chắn hơn, ngày hôm sau nữa. Và nhiêu năm sau, nó trở lại, khi tôi cần đến nó hơn, như lời bố đã nói. Giống như một món đồ bạn ném xuống nước, thoạt tiên nó nằm dưới đáy trong một thời gian dài, rồi cuối cùng lại nổi lên. Bố đã trao nó cho tôi như một thứ tín ngưỡng, tôi đã sống với nó kể từ đó trở đi. Tôi không nhớ rõ về khoảng thời gian ngay trước ngày giọt súp bé nhỏ ấy rơi xuống người tôi và bóng tối bắt đầu vây bủa. Tôi có những nhiệm vụ nho nhỏ, những công việc vụn vặt và những sở thích riêng. Cuộc sống yên ấm và an toàn. Tôi có ít bạn bè đồng trang lứa vì không cùng sở thích với họ. Tôi thuộc mẫu người kì quặc, khép kín. Tôi không thích tiệc tùng, thờ ơ với quần áo giày dép. Tôi ham mê đọc sách. Tôi thích đi dạo một mình, để đầu trần dưới mưa, tay đút sâu trong túi, ngửa mặt lên trời cảm nhận những hạt mưa rơi. Nhưng ít nhất, thế giới của tôi chưa từng xuất hiện sự sợ hãi. Vào một tối nọ bên bàn ăn - hẳn là một hoặc hai ngày trước khi giọt súp rớt xuống - bố tôi bất chợt thông báo, “Jean này, xem ra thứ Sáu bố phải đi San Francisco một chuyến.” “Lâu không ạ?” Tôi hỏi. Trước nay ông vẫn thường xuyên đi công tác. “Hai hoặc ba ngày”, ông trả lời. “Bố đi rồi về ngay.” Rồi ông nói gì đó về việc xuất vải lụa từ Nhật Bản gặp vài khó khăn. Tôi vừa giơ một ngón tay cảnh báo với ông vừa tiếp tục xúc món tráng miệng. “Tốt hơn là thứ Hai bố hãy đi. Bố biết thứ Sáu là ngày gì không? Ngày mười ba đó.” Ông cười xòa thoải mái, đó là tất cả những gì tôi trông đợi khi nêu ra lời đề nghị ban đầu. Rồi chúng tôi chuyển sang chuyện khác, người hầu gái rót cà phê cho chúng tôi bên tủ chén. Buổi tối hai ngày sau, tức là vào thứ Năm, tôi nhớ chúng tôi có khách. Nến thắp sáng rực, chúng tôi ăn tối trang trọng hơn bình thường. Nghĩa là không được thoải mái lắm - theo ý bố con tôi. Chúng tôi đã thừa nhận điều đó với nhau từ trước kia rồi, nhưng người ta buộc phải chịu đựng nó thường xuyên. Tôi diện chiếc váy trắng mới, tôi không thích nó chút nào. Trước hết là do nó mới. Thứ hai, nó màu trắng. Thứ ba, ờ, việc nó là một cái váy đã quá đủ. Tôi ghét cảm giác khi mặc váy, cổ thì trễ và gấu thì dài, rồi vải vóc lùng nhùng xung quanh khi bước đi. Tôi thích sự tiện lợi của áo chui đầu và quần vải tuýt. Nhưng đó cũng là điều người ta phải thường xuyên chịu đựng. Tôi hạn chế nó ở mức thấp nhất. Tối nay, tôi ngồi cứng ngắc trong bộ lễ phục và nói chuyện với những người mình không hề quan tâm, về những chủ đề mình không hứng thú. Lúc ấy, câu chuyện xung quanh một ca sĩ opera sắp có buổi trình diễn riêng thì phải. “Thế thì hai bố con nhất định phải đến”, bà quả phụ giắt đầy kim cương ngồi đối diện tôi thốt lên. “Tối mai chúng ta chờ cháu đây.” “Ồ, chờ chút, bác nói tối mai ạ?” Tôi sực nhớ ra một chuyện trong cảm giác nhẹ nhõm khôn tả. “Ngày mai nhà cháu không đi được rồi. Bố cháu bảo thứ Sáu ông phải bay đến Frisco*.” Tôi quay sang nhìn bố qua bàn, chờ ông xác nhận. Sự đồng thuận còn quan trọng hơn cả lời nói. Đúng lúc ấy, một đĩa súp được đặt xuống trước mặt tôi. Bàn tay bê nó giật nhẹ một cái, một giọt súp bắn ra và rơi xuống váy tôi. Tôi cảm nhận được độ nóng rát của nó trong tích tắc qua lớp vải mỏng. Rồi ánh mắt khiển trách của tôi, rồi vẻ lo lắng tương ứng trên gương mặt người hầu gái đang cúi xuống gần tôi để phục vụ món, có lẽ còn lo lắng thái quá. Thôi bỏ qua cái sự cố nhỏ này đi, tôi đang định làm thế. Cuộc nói chuyện đã tiếp tục mà không có tôi. Tôi vội vã bắt cho kịp. “Không, đó không phải ngày lành để xuất hành bằng máy bay”, tôi đồng tình. “Nhưng vẫn còn dịp khác để xem hòa nhạc đúng không ạ?” “Xin lỗi cô”, một giọng nói thì thầm sát bên tai tôi. Lần này tôi không quay sang. “Không sao đâu”, tôi nói ngắn gọn, rồi tiếp tục. “Bố cháu cứ giả vờ chán ghét những chuyến đi, nhưng cháu biết trong bụng ông rất thích.” “Ồ phải”, ông nói với vẻ rầu rĩ châm biếm. “Tôi chẳng thích gì hơn việc cố gắng cạo râu khi máy bay băng qua một ‘ổ gà giữa không trung’*. Thú vị lắm, đang để dao cạo bên trên thì đột nhiên mặt mình tuột xuống bên dưới.” Và sự việc cứ thế chìm xuống. Vết ố mà giọt súp tạo ra đã khô. Tôi đồ rằng một giờ sau, tôi sẽ quên hẳn nó. Nhưng nó đã được đem trở lại trước mặt tôi, có thể nói là in sâu vào ý thức tôi. Ngay khi những vị khách ra về, tôi lập tức đứng dậy, tháo bỏ bộ áo giáp. Tôi nằm dài trong chiếc áo choàng len, chúi mũi vào một cuốn sách. Đúng lúc này, tiếng gõ cửa vang lên, cô hầu ló đầu vào. Phải mất một lúc, tôi mới nhớ ra lần cuối cùng mình trông thấy cô ta là ở đâu. Lúc này, cô mặc áo khoác đen và đội chiếc mũ đi đường sụp vành. “Có chuyện gì vậy?” “Tôi có thể nói chuyện với cô một lát không?” “Được thôi. Nhưng sao chị vẫn còn ở đây? Tôi tưởng chị đã về nhà từ lâu rồi cơ. Gần mười hai giờ rồi.” “Tôi biết, thưa cô. Tôi đã cố ý chờ để nói với cô rằng tôi rất xin lỗi.” Cô ta đi đến chỗ chiếc ghế đang vắt chiếc váy. “Mong cô thứ lỗi. Tôi không thể tha thứ cho bản thân mình.” Tôi có thể bỏ qua việc bị đổ nước súp vào người, kể cả với số lượng lớn. Nhưng tôi rất ghét việc người ta phủi hoặc chải sạch cho tôi sau đó. Dường như đó là điều cô ta đang cố làm, dù chỉ bằng lời nói. “Chuyện có gì to tát đâu, Eileen”, tôi nói. “Đừng mất ăn mất ngủ vì nó. Đằng nào trông tôi cũng như một bộ Charlotte Russe bung ra khỏi hộp đựng trong chiếc váy đó. Để nó bị ướt một tí biết đâu lại hay.” Cô ta liền đứng xa nó ra, nhưng vẫn chưa chịu đi. Tay tôi sắp mỏi rã rời vì ôm cuốn sách của Hemingway. “Không phải thế đâu, cô Jean. Vấn đề nằm ở nguyên nhân của lần sơ sẩy này. Tay tôi bình thường rất vững.” “Vậy thì nó đã run bất thần, đó là nguyên nhân. Chúng ta kết thúc chuyện này nhé.” Cô ta không chịu kết thúc. Cứ phải kéo dài vẻ nhu mì ngoan ngoãn, quả thực không gì kinh khủng hơn. Hay nói đúng hơn là sự vờ nhu mì của tôi. “Là do chuyến bay.” “Chuyến bay nào?” “Chuyến bay của ngài Reid, thưa cô. Tôi nghe ngài ấy nói sẽ đi công tác vào ngày mai. Tôi đứng ngay sau ghế của cô mà.” Tôi nhất thời không hiểu những gì cô ta nói. Tôi gập cuốn sách lại, bối rối nhìn cô ta. “Ồ, là vì ngày mười ba sao? Trời đất, chị phải trưởng thành lên đi, Eileen.” Cô ta lắc đầu. “Không, cái ngày đó chẳng thể làm hại ai. Nó chỉ là một con số.” “Tôi mừng vì chị đã nói thế”, tôi hơi mỉa mai. “Mà là lịch bay kia, cái đó...” Cô ta thấy tôi đang nhìn. “Tôi biết không phải việc của tôi...” “Không, chị nói tiếp đi”, tôi điềm tĩnh động viên. “Tôi muốn nghe.” Cô ta lén lút vặn vẹo hai bàn tay vào nhau, cứ như chắt ra từng chữ một từ chúng. “Ngài ấy đi chuyến bay đó sẽ không tốt. Nếu... ngài ấy đi muộn hơn, ngài ấy sẽ về muộn hơn.” “Ồ, tôi hiểu”, tôi thong thả nói. “Chị biết trước tương lai.” “Không tốt đâu”, cô ta lặp lại một cách bảo thủ. “Đừng để ngài ấy đi, cô Jean. Không lành. Nếu ngài ấy đi ngày mai...” “Thì sao?” “Thì ngài ấy sẽ lên chuyến bay đêm trở về vào tối thứ Hai.” “Lịch trình là như thế. Có vấn đề gì?” Cô ta bật ra một tiếng tuyệt vọng, như thể sợ nói ra, nhưng đồng thời còn sợ hơn nếu không nói. “Chính chuyến bay đó. Chuyến bay về phía đông. Sẽ có chuyện xảy ra với nó.” “Ồ, chuyện gì?” Tôi gặng hỏi. “Những điều này đã được tiên đoán trước sao?” “Không phải, thưa cô”, cô ta đáp với vẻ bất bình. “Cô biết là không phải mà.” “Nghe này, Eileen. Tôi không để tâm nếu chị có uống một, hai ly dưới nhà. Nhưng tôi phản đối việc chị mượn rượu lên đây nói năng linh tinh.” “Tôi không uống rượu, thưa cô”, cô ta lẩm bẩm, giọng nhỏ đến gần như không thể nghe thấy. Chỉ cần nhìn là tôi biết là cô ta không uống. Cô ta có gương mặt xanh xao, hốc hác, và thân hình gầy gò khẳng khiu. Cô ta mà uống rượu ắt sẽ gục ngay tại chỗ. “Chị nghe nói đến Cassandra* bao giờ chưa, Eileen?” Tôi dịu giọng. Tôi không thể tưởng tượng nổi cảnh cô ta được mọi người yêu quý. “Chị không muốn bị như thế chứ? Cứ đi giội gáo nước lạnh vào người khác, họ sẽ bắt đầu tránh né chị đấy.” Cô ta có vẻ ăn năn thực sự. “Xin lỗi cô, tôi không định làm phiền...” Trên đường ra cửa, cô ta thêm vào. “Không phải là tôi, thưa cô. Mà là một người bạn của tôi.” “Chắc bạn chị hành nghề thầy bói. Hãy cảm ơn cô ấy giúp tôi. Nhắn với cô ấy rằng tôi không cần bất kỳ sự trợ giúp nào trong những chuyện tương tự.” Mắt cô ta trợn tròn như thể tôi vừa nói một điều báng bổ. “Không phải thế đâu, thưa cô. Đáng ra tôi còn không được tiết lộ cho cô…” “Nhưng chị đã tiết lộ rồi đấy.” Lúc này, tôi bắt đầu thấy mệt. “Chúc ngủ ngon, Eileen.” Cô ta nghẹn họng trước lời xua đuổi của tôi, cái cổ họng khẳng khiu gồ lên một cục. “Chúc cô ngủ ngon.” Rồi đóng cửa lại. Tôi quay về với Hemingway, vừa đọc vừa mỉm cười ở những đoạn chẳng hề buồn cười. * * * Hôm sau, tôi lái xe đưa bố ra sân bay. Trên đường, tôi chụp một bức ảnh của ông, bằng tâm trí. Trong lúc chúng tôi nói chuyện dọc đường đi, tôi liên tục quay sang và liếc nhìn ông, ồ, chẳng vì lí do gì, không chủ ý đánh dấu lại hay ghi nhớ hình ảnh ông trong giây phút đó. Chỉ đơn giản là ta phải quay sang nhìn một người ngồi cạnh mình trên xe trong lúc đang trò chuyện. Và như thế, bức ảnh ra đời. Tôi vẫn giữ nó trong đầu, bức ảnh chụp nhanh ấy, nguyên vẹn và rõ ràng như mới. Nó được lưu giữ, in ra như một bức ảnh thực sự. Về một điều gì đó giờ đây đã không còn. Ông ngồi bên cạnh tôi, nhìn ông thật rắn rỏi và điển trai. Có lẽ chính mái tóc bạc gần như lấp lánh có tác động đối lập với tất cả những nét còn lại rất trẻ trung ở ông, khiến chúng càng thêm nổi bật, tôi cũng không biết nữa. Nhưng tôi biết ông tạo ra một ấn tượng vô cùng bảnh bao, tráng kiện, sáng sủa, nam tính, tùy cách người ta gọi, hơn hẳn phần lớn những người đàn ông tóc đen ngoài hai lăm tuổi xung quanh. Da dẻ ông luôn hồng hào và săn chắc, tương phản với nó là mái tóc bạc trắng được chải gọn gàng, lúc nào cũng được cắt tỉa hoàn hảo ở phía sau và hai bên thái dương, như mốt của lứa thanh niên. Nhìn ông, thấy tác dụng của mái tóc lên ông, tôi có thể hiểu rõ vì sao lớp trẻ ở thế kỷ XVIII - cả đàn ông và phụ nữ - đều thích rắc phấn lên tóc. Ông có đường quai hàm tuyệt đẹp, có thể thấy được sự sắc nét của những đốt xương, không chỗ nào chảy xệ hay nọng mỡ. Lúc ông nói chuyện, có thể nhìn thấy sự chuyển động của nó bên dưới lớp da má hồng hào, khiến người ta nghĩ ngay đến sự khỏe khoắn. Người ta nghĩ đến sự khỏe khoắn, có lẽ cả một chút cố chấp nữa, nhưng cái đó không vượt trội, và sự hiểu biết. Nhưng trên hết, trên tất cả, là sự trung thực. Tôi không biết tại sao, tôi không biết trung thực có liên quan gì với đường quai hàm, đáng ra phải là đôi mắt, nhưng bạn sẽ nghĩ đến nó khi nhìn đường quai hàm sắc nét ấy, lúc ở yên hay chuyển động, Đôi mắt sáng và trong toát lên sức sống hừng hực, đôi mắt của tuổi trẻ chưa bao giờ bị mờ, chưa bao giờ mệt mỏi với những gì chúng đã chứng kiến. Chúng có màu xanh lam thỉnh thoảng ngả sang xám. Chúng tràn đầy sự tử tế và hiền hòa, với những nếp nhăn nhỏ xung quanh. Khi hoạt động, chúng biểu hiện một sự thấu suốt tinh tường. Chí ít là đối với tôi, nhưng tôi đâu có biết đôi mắt ấy nhìn người khác thì như thế nào, tôi chỉ thấy khi chúng nhìn tôi mà thôi, nên về điểm này tôi không dám khẳng định. Cổ chiếc áo khoác lông lạc đà của ông được bẻ cao sau gáy. Ông luôn mặc áo khoác kiểu đó, hệt như đám thanh niên. Ông ngồi một cách thoải mái, tựa như khi đi lại. Mọi khớp xương của ông đều linh hoạt, thư giãn, không hoen gỉ theo tuổi tác. Ông đang đặt chiếc cặp táp lên đùi, kiểm tra lại giấy tờ bên trong trong lúc nói chuyện với tôi. Giờ tôi vẫn nhớ rõ nó màu da lợn nhẵn mịn, với lớp lót kẻ ô vuông. Chính tôi đã tặng nó cho ông một hay hai năm trước. Ông đi một chiếc găng tay, chiếc còn lại đã tháo ra để hút thuốc. Những ngón tay khỏe mạnh và vững chãi, bàn tay lí tưởng của đàn ông, không ngón nào quá thon nhọn. Ông đeo một chiếc nhẫn khắc dấu bằng hợp kim vàng xanh. Trong trí nhớ của tôi, đó là món trang sức duy nhất ông từng có và đeo. Ông lật giấy tờ trong cặp táp. Rồi ông đóng cặp, ấn ngón tay cái vào chiếc chốt nhỏ bằng crom, khóa lại. Cái chốt hình chữ nhật, sáng bóng như gương. Tôi nhớ nó đã mờ đi khi ngón tay ông rời ra, rồi sáng trở lại, như mặt kính khi ta hà hơi vào nó. Đôi khi, tôi nghĩ đó là tất cả dấu ấn chúng ta tạo ra trong đời. Một dấu tay mờ hơi nước, nhanh chóng tan đi khi ta bỏ tay ra. Tôi vẫn giữ bức ảnh về ông, một chân dung trọn vẹn bắt được trong khoảnh khắc. Bức ảnh về một người giờ đã đi xa. Chúng tôi còn vài phút khi đến nơi. Chúng tôi ngồi trong xe, phía trước tòa nhà điều hành, trong ánh nắng nhạt bao trùm. Tôi nhớ mình còn không tắt máy, vì chỉ dừng một lát rồi sẽ đi. Cả hai bố con chưa bao giờ nghĩ đến chuyện tôi nên đi vào với ông. Chẳng để làm gì. Ông đi đi về về suốt, đây chỉ như việc bắt một chiếc taxi vào thành phố mà thôi. “Tối nay con có đến nhà Ainsley không?” Ông hỏi với vẻ trêu chọc. “Lạy Chúa, không!” Tôi nhăn mặt. “Thật mừng vì con có lí do chính đáng để từ chối.” “À mà này”, ông nói, “nếu Ben Harris gọi đến, nhớ bảo ông ấy là bố mời ông ấy đi chơi một tuần từ Chủ nhật. Bố muốn giới thiệu ông ấy với những vị khách lần trước của chúng ta. Bố thích bọn họ.” Tôi chạm một ngón tay vào trán, ra hiệu tuân lệnh. “Thôi, bố vào trong đây.” Ông bước ra, đóng cửa xe, rồi hôn tôi qua thành cửa. “Bố chỉnh lại cà vạt đi”, tôi cằn nhằn. “Có bao giờ bố thắt nút được chính giữa không?”, rồi chỉnh lại giúp ông. “Có luật quy định như thế à?” Ông hỏi tỉnh khô. Đột nhiên, tôi mỉm cười sực nhớ, thế nào mà tôi lại nhớ mỗi chuyện đó. “Ồ, con quên nói với bố một chuyện. Có một cô hầu gái lên gác gặp con tối hôm qua, cái cô Eileen McGuire ấy, và khăng khăng bảo con rằng bố không nên về nhà trên chuyến bay hôm thứ Hai tới. Bạn của một người bạn của một người bạn của chị ta đã xem bói lá trà. Giá mà bố có thể trông thấy dáng vẻ quyết tâm ấy của chị ta, đến nỗi làm ướt cả thảm trải sàn cơ mà.” Ông không thể nhớ ngay ra cô ta. Xét cho cùng, đó là công việc của bà Hutchins, không phải của ông. “McGuire? Là ai?” “Người mới ạ.” “Chuyện gì sẽ xảy ra?” Ông cười hỏi. Tôi bật ngón tay. “Con quên hỏi rồi.” Ông cười vang. Tôi cười theo ông. Lúc này không còn nhiều thời gian để nói chuyện nữa. “Gặp lại con vào sáng thứ Ba”, ông vui vẻ nói, rồi xách cặp quay đi. “Tạm biệt bố.” Tôi nhả chân côn cho xe chạy mà không đợi để nhìn ông đi vào cửa. Chẳng để làm gì. Ông đi công tác như cơm bữa. Với lại tôi còn có hẹn với thợ làm tóc, tôi không muốn đến muộn. Tối hôm đó, cô ta dọn bữa tối cho tôi. Tôi ăn một mình. Cô ta không nói gì, nhưng mặt mũi cô ta hết sức nghiêm nghị. Mỗi lần ánh mắt chúng tôi vô tình giao nhau, cô ta liền cụp mắt xuống. Trước lúc gặp lại cô ta, tôi không hề nghĩ đến chuyện đó, nhưng giờ trông thấy cô ta, tôi lại nghĩ đến. Tôi có thể cảm thấy cô ta đang khao khát muốn tôi tự khơi ra chủ đề để mở đường cho mình, nhưng tôi nhất định không làm thế. Sao tôi phải khuyến khích cô ta với cái ý tưởng vớ vẩn ấy? Nhưng cặp mắt ái ngại luôn nhìn xuống của cô ta cuối cùng đã thắng được tôi. Giá như cô ta cứ cụp hẳn, hoặc ngước lên hẳn. Đằng này mỗi lần cô ta nhìn xuống đều cứ như sợ nhìn vào mắt tôi vậy. “Eileen này, chị vui lòng giảm bớt không khí ngột ngạt ở đây được không. Tôi đang cố dùng bữa tối, chị thấy đấy.” Cô ta ngoan ngoãn rút ra cửa phòng ăn. Nhưng rồi cô ta không nhịn được nữa. “Ngài ấy đi rồi ạ?” Tôi sốt ruột vung tay về phía ghế của bố. “Chị không nhìn thấy ông ấy đúng không? Vậy đương nhiên là ông đi rồi.” Cô ta đã định đi rồi cơ mà, còn khai quật cái chủ đề này lên làm gì. Cô ta đúng là một kẻ hèn nhát thích đâm người rồi bỏ chạy. Nhưng tôi giữ cô ta lại để kết thúc cho xong chuyện này. “Eileen, chuyện lần trước đã không vui vẻ gì. Tối nay tôi không có tâm trạng một chút nào hết. Chị đem cà phê cho tôi là được rồi, tôi không cần gì khác.” “Tôi xin lỗi, thưa cô”, cô ta lí nhí, rồi khuất dạng sau cánh cửa. Tôi lắc đầu, không thể hiểu nổi. Tôi châm một điếu thuốc. Tối thứ Bảy, tôi cũng ăn một mình. Lại gương mặt phiền muộn đó. Đôi mắt nhìn xuống đó. Sự im lặng nặng nề đó. Tôi hầm hầm đẩy đĩa thức ăn trước mặt ra, xoay nửa vòng trên ghế. “Eileen, tôi xin lỗi phải nói ra, nhưng chị đang khiến tôi khó chịu.” “Tôi có nói gì đâu, thưa cô.” Quả thực cô ta chẳng nói gì. Trừ câu “Chào buổi tối” bằng một giọng sầu thảm, khi tôi mới bước vào phòng. “Không phải bằng lời nói, mà bằng cái nhìn chòng chọc của chị.” “Thỉnh thoảng tôi phải nhìn cô, để biết tôi sẽ đi đâu, để xem tôi nên...” Muốn đi đến tận cùng chuyện này ắt phải cãi nhau đến khô cả họng. Tôi ấm ức với cảm giác bị đánh bại, trong một cuộc chiến mà tôi còn không biết là mình tham gia. Bạn không thể ra lệnh cho người khác không được nhìn mình. Bạn không thể ra lệnh cho người khác không được nghĩ. Nhưng cô ta cứ nhắc tôi phải nhớ, nhắc tôi phải nhớ. Cô ta đã gieo một hạt mầm. Chỉ cần nhìn cô ta, ở cạnh cô ta, tôi ắt sẽ nhớ đến nó. Tín ngưỡng, sự cả tin không liên quan gì ở đây. Nó chỉ là ý thức, chính ý thức đó làm tôi khó chịu. Tôi đứng dậy, rời khỏi phòng mà không chờ cà phê được đem lên. Tôi gọi bà Hutchins lên phòng khách trên gác gặp riêng. Bà làm quản gia cho nhà chúng tôi đã mười lăm năm. Bà bắt đầu thêm từ “cô” vào trước tên tôi năm tôi mười sáu tuổi, nhưng tôi đã ngăn chặn gần như ngay lập tức. Bà không có vẻ gì của một quản gia chuyên nghiệp, có lẽ chính vì lẽ đó mà bà quán xuyến công việc rất tốt. Bà làm tôi nghĩ đến một bà cô hiền lành, lớn tuổi, có phần héo hắt, cổ đeo một dải băng bằng nhung đen. Bà nói năng khẽ khàng, không bao giờ lớn tiếng, tính cách không có một chút gì bạo ngược hay độc đoán. Tôi hiếm khi trông thấy bóng dáng bà, song ngôi nhà vẫn vận hành chính xác như một chiếc đồng hồ, không mảy may trục trặc. Đó là một nghệ thuật. Tôi không thể nào làm được như vậy. “Bữa ăn ngon chứ, Jean?” Bà hỏi tôi. “Grace, mong bác giúp cháu một việc...” Tôi nói một mạch rồi khựng lại, không biết tiếp tục thế nào. Tôi biết nói gì? Bà có thể làm gì cho tôi đây? “Bảo cô hầu đó đừng tỏ ra đáng sợ nữa đi”? Nghe không ổn. Không được. “Cháu... Cháu... Thôi bỏ đi, cháu đổi ý rồi”, tôi ấp úng, rồi thình lình xoay người đi ra. Hôm sau là bữa tối Chủ nhật. Sáng hôm đó, tôi chỉ dùng một tách cà phê trong phòng riêng, do một người hầu khác mang đến. Buổi trưa, tôi lái xe ra ngoài như mọi khi, nên bữa tối là thời gian duy nhất tôi đương đầu với cô ta. Tôi bước vào phòng với tinh thần chuẩn bị sẵn sàng, từ giờ chúng tôi sẽ không dây dưa vụ kia nữa. Lỗi phần lớn tại tôi, tôi cứ đáp trả cô ta từng câu một. Nếu tôi ngừng làm thế, chuyện sẽ tự nó kết thúc. Sự căng thẳng do cả hai người mà nên. Tôi nói với một sự vui vẻ gần như hăng hái khi cô ta kéo ghế cho tôi, “Chào buổi tối, chị Eileen. Ngày hôm nay của chị thế nào?” “Rất tuyệt, thưa cô”, cô ta đáp một cách nhiệt tình. “Chuyến đi của cô vui vẻ chứ ạ?” “Vui lắm. Chị nên nhìn thấy những bông hoa tôi mang về.” Cô ta đi ra, mang vào một món, rồi lại đi ra. Sau một lúc, cô ta quay lại. Cô ta bắt đầu nói, với một sự liến thoắng gượng ép, gần như từ ngay ngưỡng cửa phòng để đồ ăn. “Tôi chưa bao giờ thấy một ngày đẹp trời như thế. Nắng chiếu cả ngày?..” “Chúng ta cùng chung ý kiến về điều đó”, tôi hòa nhã đáp. Tôi định nói thêm, cứ phục vụ tôi thôi, không cần phải lấy lòng tôi, nhưng nghe có vẻ gay gắt quá. Cô ta đặt một chiếc đĩa trước mặt tôi. Nó rung rinh trên suốt đường đi, dù không quá nặng hay quá nóng. Tôi chộp lấy chiếc đĩa từ tay cô ta trước khi nó chạm vào mặt bàn, tự mình đặt xuống, để nó hạ cánh nhẹ nhàng và không gây nguy hiểm. “Tay chị run thế?” Tôi lẳng lặng nói, “Chị không được để như vậy.” Hình như bà Hutchins đã hiểu được ý tôi và đã nhắc nhở cô ta phải tỏ ra vui vẻ khi phục vụ. Con người này đã quay ngoắt một trăm tám mươi độ. Cô ta gồng mình lên, ríu ra ríu rít để không rơi vào im lặng. Tôi không chắc cái nào tệ hơn nữa. “Có được một ngày như thế vào thời điểm này trong năm là hiếm lắm. Ở đây đã đẹp thế này thì ngoài bãi biển không biết ra sao, chính là ngày mà bố...” Cô ta dừng bặt, thân hình chao đảo trong một cơn nấc cụt dữ dội. Như thể vẫn còn chưa đủ, bàn tay cô ta đưa lên ép chặt miệng trước khi kịp dừng lại. Mắt cô ta đảo về ghế của bố tôi rồi nhanh chóng kìm lại. Cô ta lại buông tay xuống, cố gắng xóa đi những hành động vừa rồi, nhưng giờ đã vô ích. Cô ta tự bóp họng để bắt mình im lặng. Rồi cô ta từ từ lùi ra xa tôi, nhích từng bước một. Gương mặt đầy kinh hãi. Tôi cảm thấy họng mình thắt lại, nhưng là vì giận dữ. Tôi không để nó len vào giọng mình. Tôi nói hết sức điềm tĩnh, nhỏ nhẹ. “Bố tôi không chết. Chẳng có lí do gì để chị dùng màn kịch câm giật gân đó khi nhắc đến ông.” Tôi thở dài và đẩy ghế ra khỏi bàn. Đời tôi chưa từng sa thải người làm nào. Tôi nói, “Chị ra khỏi đây ngay. Tôi không chịu nổi nữa. Làm ơn đi ra. Đến chỗ bà Hutchins nhận tiền lương tháng này và... xin chị đi cho.” Tôi thấy mắt cô ta rưng rưng, môi run lẩy bẩy. “Tôi không làm gì sai, thưa cô. Cô làm vậy thật bất công.” Tôi nhìn đi nơi khác. “Tôi xin lỗi. Chị đã gây ra một chuyện mà tôi... Hình như tôi không kiểm soát được nữa. Tôi không tức giận với chị, nếu điều đó an ủi chị phần nào. Tôi không đổ lỗi cho chị. Chỉ là... chị đi thì sẽ tốt cho cả hai chúng ta.” Cô ta gục đầu, chắc là để tôi không nhìn thấy gương mặt mếu xệch đã bắt đầu đỏ lên. Rồi vẫn cúi đầu như thế, cô ta quay người. Không phải tại chỗ, mà thành một vòng cua, cô ta vừa xoay người vừa bỏ chạy, như người ta bẻ lái một chiếc xe. Cô ta chạy khỏi phòng bằng những bước ngắn giật cục, như cách chạy của phụ nữ Nhật Bản truyền thống. Đó là sự ra đi kì cục nhất tôi từng thấy. Nó làm tôi cảm thấy mình không ra gì, độc ác và nhẫn tâm lắm. Tuy nhiên, tôi đã hành động theo suy nghĩ, ta còn có thể làm gì khác nếu định thành thật với bản thân? Tôi đã đuổi cô ta khỏi tâm trí bằng việc đuổi cô ta khỏi phòng, ra khỏi nhà. Cô ta đi luôn, tôi nghĩ thế là chấm dứt. Thứ Hai đến, nắng rực rỡ tới trưa, rồi giảm dần cho đến tối. Sự yên ổn, an toàn, tự tin là những thói quen không dễ gì phá vỡ. Cần có thời gian để phá vỡ bất kỳ thói quen nào, dù tốt hay xấu, và sức ảnh hưởng của chúng vẫn còn mạnh mẽ đối với tôi. Những cái gọi là sợ hãi và hoảng hốt không xuất hiện. Xe chạy êm ru, ánh mặt trời sưởi ấm vai áo len cashmere của tôi, cơn gió nhẹ mát rượi trên mặt. Tôi dừng lại đổ xăng, boa cho anh chàng đổ xăng năm mươi xu vì ánh mắt tươi cười thân thiện với tôi. Nó gần như phản chiếu ánh mắt của tôi, nhưng điều đó không quan trọng. “Xe đẹp đấy!” Anh ta trầm trồ. “Một cô gái ngoan”, tôi công nhận. “Không bao giờ cãi lời tôi.” Một cô bé vẫy tay với tôi từ một ngã tư làng tôi đi ngang qua, tôi giơ cả cánh tay lên vẫy lại. Khi còn nhỏ, tôi cũng thích vẫy người đi đường như thế và rất tủi thân vì chẳng ai đáp lại. Tôi không muốn cô bé ấy tủi thân. Tôi nhìn đồng hồ, gần sáu giờ. “Tốt hơn mình nên quay xe về”, tôi tự nhủ. “Không nên về muộn và làm phiền mọi người trong bếp.” Lần đầu tiên trong ngày, tôi nghĩ đến ông. Gần sáu giờ, theo giờ chỗ chúng tôi. Gần ba giờ theo múi giờ Thái Bình Dương. Cách nhau ba tiếng đồng hồ. Ông còn sáu tiếng ở San Francisco. Chuyến bay cất cánh lúc chín giờ ở đó. Rồi tôi nghĩ đến cô ta, hoặc đúng hơn là những gì cô ta đã cố nói. Tôi mỉm cười, rồi nụ cười chợt tắt, cô ta vẫn ở đó, gõ gõ cánh cửa trong tâm trí tôi. Tôi sẽ không mở cho cô ta vào. Nhưng một khi đã ở ngưỡng cửa, cô ta sẽ không chịu đi và để tôi yên. Lúc này, mặt trời đã xuống thấp. Vai tôi đã không còn cảm giác ấm áp, nhưng là do chiều muộn chứ không phải vì những suy nghĩ của tôi. Tôi kéo áo khoác vào sát người và lún sâu hơn xuống ghế, tránh đi phần nào cơn gió buốt lúc này đang thổi mạnh. Tôi đi qua một văn phòng Western Union, nó lùi dần trong kính chiếu hậu. Rồi đột ngột tôi tấp xe vào lề đường, cài số lùi, từ từ lăn bánh quay lại chỗ tôi vừa bỏ qua. Tôi dừng xe, bước xuống và đi vào trong. Lúc ấy, tôi chắc chắn mình không hề suy nghĩ rành mạch. Kiểu như: Mình sẽ đi vào đây, mình sẽ đi vào đây làm những việc này việc này. Tôi cứ đi vào thôi. Tôi ngồi xuống trước một chiếc bàn, rút một xấp giấy trắng, lấy một trong những chiếc bút chì gắn dây cố định của họ và bắt đầu viết. Harlan Reid Ở công ty Reid & Sewell Đường Market, San Francisco Hãy về bằng tàu hỏa thay vì... Tôi chùn tay, rồi dừng lại và nhìn quanh, song tâm trí ở tận đâu đâu. Bóng đèn lớn màu trắng sữa trên trần đã sáng dù đang giữa ban ngày. Người đưa thư nhỏ thó, nhìn như mới mười hai tuổi, song chắc hẳn già hơn, trong bộ đồng phục màu ô-liu sẫm, ngồi đong đưa chân trên một băng ghế, chờ chuyến thư tiếp theo. Một người đàn ông đứng sau quầy, đang soát một bức điện bằng đầu bút chì, lẩm nhẩm đếm từ mà không đọc. Trên tường có một hộp vuông cỡ lớn bằng những tờ bìa trắng, tạo thành một quyển lịch, tờ trên cùng in số “16” màu đen. Tôi lại nhìn xuống, vò tờ giấy rồi vứt vào sọt rác, sau đó viết lại. Harlan Reid Công ty Reid & Sewell Đường Market, San Francisco Hãy đi chuyến bay ngày thứ Ba thay vì tối n... Thế còn tệ hơn. Tôi bảo với mình, ngươi làm như thế để làm gì? Và tôi không tìm được câu trả lời. Tôi có nóng ruột không? Tất nhiên không. Tôi có sợ không? Tất nhiên không. Tôi có thực sự tin câu chuyện vớ vẩn kia không? Đừng có lố bịch! Thế thì còn lí do nào khác để ngươi làm việc này? Ngươi biết bố sẽ phản ứng thế nào đúng không? Ông chỉ cười. Ông sẽ là người đầu tiên cười. Rồi về sau ông sẽ không ngừng trêu chọc ngươi về chuyện đó. Thôi, bỏ đi thôi. Tôi quăng cây bút chì vào chỗ cũ, sợi xích nhỏ buộc nó tạo thành một mạng hoa văn Ả Rập phức tạp khi rơi xuống mặt kính. Tôi đứng dậy đi ra cửa, sau đó quay lại và bóc bức điện dở dang ra để dòng địa chỉ không rơi vào tay kẻ nào bất hảo. Tôi vo tròn và ném vào sọt rác theo bức điện trước, rồi tôi đi hẳn. Đường về se lạnh. Mặt trời đã lặn, con đường mờ tối, gió thổi buốt giá. Tôi mừng khi trở về, đó là tâm trạng hiếm khi tôi có được trong những chuyến độc hành. Tối nay, bà Hutchins bố trí một cô gái người Thụy Điển béo tốt, thân thiện phục vụ bàn ăn. Cô ấy làm căn phòng như ấm áp hẳn lên mỗi khi bước vào, song vì là người mới nên cô ấy rất vụng về. Tôi tự hỏi tại sao mình lại thấy căn phòng thiếu sự ấm áp. Nhiệt độ vẫn như vậy, con người kia thì đã đi rồi, chỉ còn mỗi mình tôi. Hẳn là nó bắt nguồn từ tôi. Lần này là lỗi của tôi. Tôi hỏi, “Cô nói tên mình là gì nhỉ?” “Signe, thưa cô.” “Cô ra đằng kia gạt giúp tôi cái công tắc! Cái ở gần cửa ấy.” “Gạt ư, thưa cô?” Cô gái bối rối hỏi, tay đặt lên công tắc. Chắc cô ấy tưởng tôi muốn rứt nó khỏi tường và ném đi. Tôi hơi mỉm cười, nhưng không niềm nở như tôi chắc chắn sẽ làm vào một thời điểm khác. “Ý tôi là dùng ngón tay đẩy nó lên. Như thế?’ Căn phòng chợt bừng sáng. Tôi cúi người thổi tắt những ngọn nến đáng ghét. Đến lúc này, tôi mới nhận ra mình không thích nến. Có lẽ chưa bao giờ thích, theo như tôi nhớ. Tôi tự hỏi tại sao mình lại quay ra ghét chúng vào lúc này, khi chúng đang cháy, giữa bữa ăn. Cô ấy gật đầu tán đồng. “Tốt hơn nhiều thật. Nến dùng cho nhà thờ thôi, không hợp với nhà ở. Nó quá ảm đạm.” Phần còn lại của buổi tối tôi dành để nghe nhạc. Những bản nhạc tách biệt nhau song kết hợp liền mạch tạo thành một đoạn phim, một câu chuyện, đúng nghĩa một buổi tối. Tôi nằm bò ra trên chiếc ghế bọc đệm mềm lút trong phòng khách, trong bộ dạng biếng nhác rất chướng. Tôi sẽ không bao giờ dám làm thế nếu trong phòng có người khác, trừ bố tôi. Hơn nửa người tôi vắt vẻo giữa mặt ghế và sàn nhà. Quá nửa ở dưới sàn. Vai tôi gần như ngang mặt ghế, đầu ở cao hơn chút đỉnh, hai tay ôm cái đệm đằng sau. Hai bàn chân vắt chéo vung vẩy, gót chân gõ xuống sàn theo nhịp trống phát ra sau khe sáng của tủ đài bằng gỗ cứng đặt cạnh tôi. Đôi giày của tôi nằm chỏng chơ, như hai chiếc thuyền nhỏ dạt lên bãi biển sau khi những người trên thuyền đã rời bỏ chúng. Một điếu thuốc gác lên vành chiếc đĩa thủy tinh nhỏ cạnh ghế, toát ra làn khói mảnh như sợi chỉ xám đang tở ra khỏi cuộn chỉ, lúc một sợi lúc thì hai, lơ lửng trên cao. Chỉ là một buổi tối ở nhà như bao buổi tối trước đó, như bao buổi tối sau này. Mãn nguyện, lờ đờ, rất khó tả. Một trạng thái, một dạng tồn tại chứ không hoạt động. Khi bạn nhàn rỗi, hãy hát. Nhạc sẵn đấy rồi, “quẩy” thôi. Tôi hát dở kinh khủng. Tôi mà cất giọng ở quãng trung hoặc quãng cao thì lạc tông hết chịu nổi. Tôi chỉ có thể hát đúng nhạc nếu ậm ừ trong miệng. Dù sao trong phòng cũng chẳng có ai. Tôi hát theo nam ca sĩ, song ca với anh chàng từng câu một. Thình lình, tôi bật dậy khỏi ghế. Đôi giày vẫn ở chỗ cũ. Sợi khói mảnh ngả rạp trong một phút, rồi từ từ quay về chỗ cũ, uốn lượn lên cao trở lại. Tôi đập vào thứ gì đó, lưỡi liềm sáng trong cái đài tắt ngấm. Giờ nó chỉ là một cái hộp, tối om và câm lặng. Tôi ngoảnh nhìn chỗ cũ của mình, đoạn đưa tay quẹt trán. Là tôi di chuyển nhanh như chớp thế sao? Để làm gì, cái quái gì xảy ra thế? Tôi không quay lại ghế nữa. Có cái gì đó đã rời khỏi căn phòng, khiến nó trống trải hơn trước. Hẳn là do không khí, một nguyên nhân tinh thần nào đó, vì đồ đạc không cái nào xê dịch. Đèn vẫn sáng, nhưng dường như đã mất đi một phần hơi nóng và vẻ rực rỡ, như thể chúng đã tàn úa. Căn phòng quá rộng lớn để ở một mình, xung quanh tôi có quá nhiều không gian. Hiện tại đang là đêm, ngoài trời tối đen. Một phút trước tôi còn chưa nghĩ đến những chuyện này. Tôi chợt phát hiện ra mình không thích âm nhạc, chí ít là cái tuyển tập vừa phát, y như tôi vừa phát hiện mình không thích thắp nến trên bàn ăn. Tôi nắm những sợi dây giày, nhặt đôi giày lên và đi ra bằng đôi chân xỏ tất. Lúc tắt đèn, tôi dùng mu bàn tay, không nhìn lại phía sau. Đoạn phim kết thúc. Chuyển sang cảnh phim khác, ngắn hơn. Tôi ngồi trên băng ghế nhỏ bọc lụa trên gác, trước gương, trong phòng mình. Mái tóc đổ hết về đằng trước như một tấm rèm che kín mặt. Tay tôi chải từng nhát lược đều đều. Rồi nhịp chải bỗng khựng lại. Qua khe hở của mái tóc, tôi trông thấy chiếc đồng hồ nắp gập trên bàn trang điểm. Mười một giờ ba mươi, thời điểm thích hợp để đi ngủ, những khi tôi không bị giữ lại tại một sự kiện giao tế chán chết nào đó. Nhưng tôi không dừng lại như thế chỉ để xem giờ. Tôi nhìn nó chằm chằm. Tôi rẽ mớ tóc ra, để lộ một phần khuôn mặt. Rồi tôi ngoảnh lại nhìn về phía chiếc giường, đúng hơn là chiếc bàn đầu giường, với cái điện thoại đặt ở đó. Sau đó, tôi lại quay về nhìn mặt đồng hồ chênh chếch. Mười một giờ ba mươi. Tám giờ ba mươi. Tôi dứt khoát đặt lược xuống, hất mạnh đầu, cả suối tóc bay lên đổ xuống sau gáy, trở về vị trí ban đầu. Tôi đi tới giường, ngồi xuống mép giường và nhấc điện thoại lên. “Cho tôi gọi một cuộc đường dài qua tổng đài. Tôi là Jean Reid. Tôi muốn nói chuyện với ông Harlan Reid, ở khách sạn Palace, San Francisco, California.” Tôi đọc số của mình rồi gác máy, lập tức bàng hoàng. Tôi làm thế để làm gì? Tối nay tôi ăn nhầm thứ gì vậy? Lại còn gọi cho ông nữa chứ. Tôi sẽ chẳng thể nói được gì. Vì sao ư, ông sẽ cười nhạo tôi. Tốt hơn tôi nên hủy cuộc gọi trước khi nó được kết nối. Bàn tay tôi đã giơ ra, rồi dừng, lặng lẽ hạ xuống. Bàn tay dường như không thể quyết định dứt khoát, giống như đầu óc tôi vậy. Tôi đứng lên, quay trở lại trước gương và lại ngồi xuống. Tôi lần lượt cầm món này món kia lên, không sử dụng, cũng chẳng có ý định sử dụng. Sau đó, tôi lại đặt chúng xuống, như đang thực hiện một cuộc kiểm kê. Bỗng một âm thanh như tiếng sáo mà tôi quá quen thuộc vang lên. Cả người tôi giật nảy. Tôi vốn chưa bao giờ giật mình trước tiếng chuông điện thoại. Có quá nhiều lần đầu tiên, khi con đường bạn đi chạm đến vùng tranh tối tranh sáng của nỗi sợ. Tôi lao đến, ghì chặt ống nghe trong bộ dạng cuống quýt. Tôi biết bây giờ tôi sẽ nói với ông, năn nỉ ông rằng tôi đã tin, chỉ cần qua thời điểm này... “Cô Reid?” “Tôi nghe đây.” “Tôi rất tiếc, chúng tôi không liên lạc được với người đó. Khách sạn Palace ở San Francisco cho biết ông Harlan Reid vừa đi khỏi cách đây vài phút.” Tôi gác máy, người rũ xuống. Can đảm nhen nhóm trở lại. Can đảm là một phẩm chất hèn nhát, nhát gan vốn là một loại dũng cảm. Sự can đảm này nhuốm mùi chua của chùm nho xanh. Không sao hết. Ngã ngũ rồi. Chuyện đã vượt ngoài tầm xử trí của ngươi, như thế là tốt nhất. Ngươi đã biết ngay từ đầu là không nên cố làm gì. Ngươi đã tránh được cảnh tự biến mình thành một con ngốc sụt sùi. Ngươi nên mừng mới phải. Tôi đi tắt đèn, chỉ để lại một ngọn đầu giường để đọc sách. Trong phòng có duy nhất một điểm sáng màu vàng đục, như ánh sáng của một lò sưởi leo lét cháy. Tôi lên dây chiếc đồng hồ, đem đặt nó dưới ngọn đèn đầu giường, cùng với cuốn sách tôi đã chọn trong thư viện dưới nhà trước đó. Tôi tháo sợi dây ở eo và thả chiếc áo choàng tắm màu trắng xuống. Chăn trên giường đã lật ra một góc phía trên, tôi kéo nó xuống xa hơn rồi trèo lên giường. “Mai bố sẽ về. Khi gặp lại bố, ngươi sẽ kể lại những chuyện ngươi đã suýt làm tối nay. Nhưng tình hình sẽ khác. Đừng nói vội, sau này hãy nói với bố. Cả hai sẽ được một trận cười nắc nẻ.” Tôi bật lửa châm điếu thuốc, cầm quyến sách, ngả lưng vào đầu giường trong vầng sáng bằng quả trứng đà điểu của ngọn đèn. “Ôi! Manon, Manon”, tôi nói tiếp trong tiếng thở hắt ra, “đã quá muộn để nàng khóc thương ta khi chính vì nàng mà ta phải chết.”* Mắt tôi rời khỏi trang sách. Mười hai giờ kém mười. Sắp đến rồi. Ông không bao giờ đến đâu sớm hơn mức bắt buộc. Mắt tôi lại cụp xuống. ...đã quá muộn, chính vì nàng mà ta phải chết. Tôi phải đọc lại từ đầu. ...đã quá muộn... Không được, nó không có tác dụng. Quyển sách trượt xuống chăn trong trạng thái vẫn đang mở. Tôi chộp lấy điện thoại. “Cho tôi gọi đường dài. Làm ơn nhanh lên. Đây là số của Jean Reid. Gọi cho Harlan Reid. Sân bay San Francisco, hãng hàng không Transcontinental and Western, tòa nhà điều hành. Ông ấy đặt chuyến bay về phía đông lúc chín giờ. Ôi, đừng lặp lại lời tôi. Xin hãy nhanh lên, chuyện gấp lắm.” Tôi gác máy. Tôi nghĩ nó sẽ không bao giờ reo. Tôi tì lên khuỷu tay, cúi người trên cái điện thoại, tư thế vặn vẹo mỏi nhừ. Những ngón tay tôi gõ vào chăn, không phát ra âm thanh. Rồi chúng chụm thành một đường thẳng, thục vào chăn thành một cái rãnh, di đi di lại trong đó. Rồi chúng nhảy lên mái tóc đã chải hết ra sau của tôi, kiểm tra lại xem tóc đã vuốt hết ra sau thật hay chưa, thậm chí còn sờ thử. Những suy nghĩ trẻ con lướt qua đầu tôi. Có khi áp vào gần điện thoại quá sẽ làm nó ngạt thở. Ngươi đang cản trở nó, tránh ra cho nó có chỗ để reo chứ. Tôi đặt tay lên điện thoại, chờ đợi. Tôi lại nhấc nó lên, gõ gõ hai cái, như cách người ta giục một con chó. Chuông bỗng reo vang, sát sạt như vang lên từ trong lồng ngực tôi vậy. “Cô Reid?” “Vâng? Vâng?” Tôi rất tiếc, phía sân bay không thể liên lạc với ông Harlan Reid theo yêu cầu của chúng tôi. Chuyến bay về phía đông đã cất cánh từ lúc chín giờ.” Đồng hồ của tôi vẫn còn bốn phút nữa mới đến mười hai giờ. Giọng khô rang, tôi hỏi một cách khó nhọc, “Ở đó hiện là mấy giờ?” “Chính xác là mười hai giờ một phút, giờ chuẩn miền Đông.” Mười phút sau, tôi mới cử động trở lại. Nhờ vào chiếc đồng hồ, tôi biết đã mười phút trôi qua. Nó chỉ mười hai giờ sáu phút. Tôi với tay cầm lấy nó, chỉnh nhanh thêm mười một phút, sau đó đặt chuông báo thức bảy giờ ba mươi, đoạn đặt nó về chỗ cũ. Trong mười phút đó, hẳn là tôi chỉ ngồi im lìm trong ánh đèn, không làm bất cứ chuyện gì. Tôi chỉ ngồi nhìn trân trân vào một điểm nào đó. Tôi tắt đèn, dải ánh sáng tàn dư hắt trên những chiếc gối co rút lại thành hư không. Một lúc sau, trong bóng tối, âm nhạc quay trở lại, thứ nhạc tôi đã nghe hồi tối, ban đầu mờ nhạt và bập bõm, rồi mạnh dần, như một chiếc radio khởi động, cuối cùng dội ầm ầm trong đầu tôi. Tôi lăn lộn trong bóng tối, hai tay nắm hai mép gối, vòng nó qua đầu, áp chặt vào hai bên tai. Nhưng nó không chặn được tiếng nhạc. Làm sao chặn được khi nó vang lên từ bên trong? Song, nó từ từ thay đổi. Lời và giai điệu nhỏ dần rồi biến mất. Chỉ còn nhịp phách, to lên, đồng thời nhòa đi, cho đến khi biến thành tiếng ì ầm rền vang của động cơ máy bay trên bầu trời. Âm thanh quen thuộc mà ta thường xuyên nghe thấy khi một chiếc máy bay bay qua đầu. Rồi âm thanh đó cũng nhỏ dần, lùi xa, hút vào tít tắp, vào lãng quên. Đúng thời khắc cực điểm ấy, nó tan biến vào im lặng, một giấc ngủ bất an kéo đến. Chẳng mấy chốc, chuông báo thức đã réo, đã sang một ngày mới. Bố tôi sắp về đến đây rồi, phải đi đón ông thôi. Tôi kéo hết rèm lên, mặt trời như một khoanh đồng vừa được đãi ra từ mỏ. Những suy nghĩ và sợ hãi không đâu đêm qua đã biến mất. Không có ngóc ngách nào trong tâm trí mà mặt trời không rọi đến và rửa sạch những muội bám và cặn lắng của đêm. Quy luật của tự nhiên trở lại nắm quyền. Chỉ những cái mắt thấy tai nghe và tiếp xúc mới thực sự tồn tại. Tôi đứng dưới vòi sen, hứng những tia nước lạnh căm và lấy lại niềm kiêu hãnh thường trực một cách không nao núng, ngay cả khi bả vai giật lên đau nhói. Lúc sau, khi môi đã khô lại, tôi mới vừa huýt sáo vừa lau người, mặc quần áo. Lúc xuống nhà, người làm đưa tôi một tách cà phê. Tôi khoác áo, đón lấy cái tách và đứng uống tại bàn. Tôi tù chối các món khác, bảo họ là tôi sẽ ăn sáng với bố khi hai chúng tôi về nhà. Tôi phóng xe vun vút trong tâm trạng phơi phới, cũng bất cần nếu có cảnh sát đuổi theo. Cứ đuổi cho vui. Nhưng chẳng thấy viên cảnh sát nào. Đến gần trung tâm, tôi giảm tốc độ để tránh gây tai nạn. Khi ra khỏi thành phố ở đầu bên kia, tôi tăng tốc trở lại. Làn gió mát thổi tung tóc tôi ra sau, gần như làm duỗi hết những lọn quăn thành đường thẳng. Tôi đến nơi sớm năm phút. Tôi đậu xe, đi bộ ngược lại vào phòng chờ. Trên bảng tin đã thông báo giờ đến của chuyến bay là 8:30. Tôi mua một bao thuốc lá ở quầy rồi đi dạo loanh quanh. Tôi dừng lại một lúc trước một cái giá xoay, lật góc mấy quyển tạp chí mà mình không thực sự định mua. Rồi tôi để chúng lại, kiếm một chỗ ngồi, hút thuốc trong niềm hân hoan, thậm chí lấy chiếc gương nhỏ ra soi xem dung nhan đã đạt mức mong muốn chưa. Tôi đột ngột ngước lên khi một người đàn ông xuất hiện và trèo lên cái thang gấp. Anh ta rút một trong những tấm thẻ trên bảng lịch trình ra, tấm thẻ ghi “San Francisco - 8:30 sáng.” Anh ta không thay vào tấm thẻ khác. Tôi bước tới chặn người đàn ông lại khi anh ta kẹp tấm thẻ mang đi. “Chỉ còn vài phút nữa thôi đúng không? Đã hai chín phút kể từ..” Anh ta nhìn tôi và lắc đầu rất nhanh. “Máy bay bị trễ”, anh ta đáp ngắn gọn, định đi tiếp. Tôi chặn anh ta lại lần thứ hai. “Nó trễ bao lâu, anh cho tôi thêm thông tin được không? Tôi đã đi một quãng đường xa đến đây chỉ để đón nó.” “Khó nói lắm”, anh ta dè dặt. “Mong anh tìm hiểu giúp tôi. Hãy hỏi những người trong kia, chắc chắn họ biết.” Anh ta đi vào văn phòng và đóng cửa lại. Tôi đứng tại chỗ đợi. Một lúc sau, anh ta đi ra và bảo. “Chúng tôi không biết được chính xác. Cô chờ ở đây chỉ tổ mất thời gian thôi. Tốt nhất cô hãy về nhà rồi gọi cho chúng tôi trong buổi sáng nay, có thể chúng tôi sẽ...” “Nhưng anh phải biết chứ!” Tôi khăng khăng. “Điểm dừng gần nhất là ở đâu? Pittsburgh đúng không? Nó rời Pittsburgh khi nào? Cho tôi vào trong kia một lát?” “Xin lỗi, thưa cô, người ngoài không được vào đó. Cô chờ cho một phút.” Anh ta lại biến vào trong, sau đó bước ra cùng một người khác. Tôi để ý thấy ông ta có một vẻ lơ đãng, như thể suy nghĩ đang ở tận đâu đâu, ngay cả trong lúc ông ta nhìn tôi. Tôi không thích điều đó. “Nếu cô vui lòng để lại số điện thoại ở sân bay”, ông ta nói, “chúng tôi sẽ gọi cho cô ngay khi...” “Máy bay rời Pittsburgh lúc nào?” Tôi nhắc lại. Thoạt tiên ông ta nhìn tôi, như không định trả lời. Rồi ông ta đáp, “Nó không đến Pittsburgh.” “Đã có sự cố ư? Chuyện gì xảy ra? Thế nó rời Chicago khi nào?” Ông ta liếc nhìn người đàn ông kia, miệng lẩm bẩm gì đó đại loại như “Cô ấy có quyền được biết”, “Dù sao nó cũng sắp được công bố”. Rồi ông ta quay người và lại đi vào phòng. “Máy bay đã bị mất liên lạc từ mười một giờ tối qua, theo giờ Thái Bình Dương, hai tiếng sau khi cất cánh ở San Francisco.” Người đàn ông tiếp tục nói, nhưng chẳng chữ nào lọt vào đầu tôi. Tôi còn đang cố trấn tĩnh, tự nhủ không cần lo lắng, mọi chuyện sẽ ổn, họ không có tin xấu nào, chỉ là không có tin tức gì thôi. Anh ta đi cùng tôi một đoạn trên đường ra xe, qua những cánh cửa phòng chờ, tôi nghĩ là qua nhiều cánh cửa khác nữa, ra đến bên ngoài rồi dừng. Như thế hợp ý tôi. Tôi cũng như anh ta đều lấy làm mừng vì chuyến hộ tống ngắn ngủi ấy đã chấm dứt. Tôi lại ở ngoài trời, vẫn ánh nắng màu bánh quy phủ lên mọi cảnh vật. vẫn những bóng râm màu xanh sẫm mát mắt trùm lên khách bộ hành, vẫn bầu trời xanh trong vắt, điểm vài vệt mây như những đám bọt dầu gội đầu, bị ai đó bất cẩn hất lên bằng miếng bông tắm. Mọi vật trông đều sạch sẽ và tươi tỉnh. Tôi trở vào xe, nổ máy và ngồi thừ ra. Tôi biết mình phải ấn vào chân ga nếu muốn nó chuyển bánh, nhưng tôi không làm, công việc đó có vẻ quá rắc rối. Ắt tôi còn ngồi lâu hơn nữa, nếu không có một nhân viên bãi đỗ xe đi đến định giúp đỡ. Anh ta nghe thấy tiếng động cơ, nhưng không thấy xe chạy. “Cô gặp vấn đề gì à? Xe bị hỏng chỗ nào chăng?” “Không”, tôi đờ đẫn nói. “Không, nó hoạt động bình thường, miễn là người ta muốn nó hoạt động.” Đoạn tôi nhấn ga cho anh ta thấy rồi lái xe khỏi đó. Tôi bò như rùa trên đường về nhà. Tôi cứ quên giữ tốc độ, chiếc xe suýt nữa dừng hẳn. Rồi nhớ ra mình phải tập trung, tôi lại cho xe chạy tiếp. Tôi ngây dại và đờ đẫn vì sốc. Tôi biết thế này chưa là gì. Những gì đến sau đó, một khi trạng thái đờ đẫn này qua đi, mới là tệ nhất. Thành phố, khi tôi đi qua nó sang đầu bên kia để về nhà, mang vẻ rực rỡ, hối hả, năng động mà một ngày quang đãng có thể tạo nên. Cửa kính sáng chói của những quầy hàng làm anh lóa mắt, như những tấm gương phản chiếu mặt trời. Đó đây vút lên những mặt tiền ốp đá vôi và đá granite của các tòa nhà nom như mới được gọt đẽo và rửa sạch, không vương một hạt bụi. Dân tình đi thành từng đoàn, bóng họ tạo thành những khối mực màu lam sẫm bám theo mỗi bước đi. Đến vỉa hè cũng lấp lánh những hạt mica li ti gắn bên trong. Tôi dừng xe trước đèn đỏ, chợt nghĩ lẽ ra ông đã ngồi ở ghế phụ cạnh tôi, trong chiếc áo khoác nhẹ cổ bẻ cao sau gáy, với chiếc cặp táp trên đầu gối. Lẽ ra chúng tôi đang chuyện trò rôm rả, thay vì chỉ có mình tôi ngồi im lìm trong xe như thế này. Tôi quay sang nhìn chỗ trống bên cạnh, bàn tay buông xuống, khẽ chạm vào nó với niềm khắc khoải lặng lẽ, rồi lại trở về nắm lấy vành vô lăng. Cách đó không xa, tôi trông thấy một chiếc xe giao báo đỗ trước một quầy báo ở góc phố, mọi người đang dỡ những số báo mới xuống. Tôi dừng xe và vẫy chủ quầy mang cho mình một tờ, trước khi ông ta kịp cắt xong mớ dây bó sấp báo thành một khối vuông vức. Tin tức đã lên báo mà tôi thì biết rất ít hoặc không biết gì. Giờ đã có giấy trắng mực đen, không có tin nào khủng khiếp và đáng sợ hơn. “Máy bay mất tích cùng với mười bốn hành khách. Vị trí cuối cùng được xác định là ở dãy núi Rocky. Công tác tìm kiếm đang được tiến hành...” Đau đớn càng tăng lên. Giờ nó bắt đầu thấm qua những kẽ hở. Tôi vo tờ báo thành một cục, thả nó xuống bệ lên xuống ô tô, từ đấy nó rơi tiếp xuống mặt đường. Tôi cho xe chạy tiếp. Người ở nhà đã hay tin cả, tôi biết điều này qua vẻ mặt họ. Việc họ không nói gì, không hỏi han tại sao ông không về cùng tôi, là minh chứng rõ ràng hơn thảy. Họ nghĩ không đả động đến chuyện đó là khôn khéo. Có lẽ họ đúng. Nó đau theo cách khác, kiểu gì cũng gây đau đớn mà thôi. Tôi muốn về phòng và ở một mình, nhưng tôi phải vượt qua bọn họ trước đã. Tôi thấy bà Hutchins nhìn tôi. “Chuyến đi của cháu công cốc rồi.” Tôi nở nụ cười cứng nhắc với bà. Tôi phạm sai lầm khi bước vào phòng ăn và bắt quả tang họ, trước khi họ có thể xóa mọi dấu vết của bữa điểm tâm chào mừng. “Dọn hết chúng đi”, tôi nói, quay phắt lại. “Cô dùng một cốc cà phê nhé?” Signe nài nỉ. “Không, cảm ơn. Chị lấy cho tôi ít rượu brandy, tôi sẽ đem lên phòng.” Khi cầm chai rượu đi tìm tôi, cô ấy thấy tôi ngồi cạnh chiếc đài. Tôi biết họ đã mở nó trước khi tôi về, vì mặt kính nhỏ trên nút chỉnh vẫn còn hơi ấm. “Có tin gì mới không?” “Chưa cô ạ. Bà Hutchins đã dò. Mới chỉ đến chương trình dạy làm bánh.” “Tin tức sẽ được cập nhật từng giờ trên kênh này, kênh ở cuối đó. Mọi người phân công nhau trực để nghe. Tôi ở trên gác, có gì thì gọi tôi.” Signe liền ngồi xổm xuống ngay tại đó, váy xòe ra thành một vòng tướng trên sàn trước chiếc đài. Trông cô rất tức cười. Chắc cô tưởng ngồi sát như thế thì có thể đốc thúc được nó. Đôi mắt cô rưng rưng, chỉ đợi tôi cho phép là nước mắt sẽ vỡ òa. Cô ấy thuộc kiểu sẵn sàng khóc với bất cứ ai. Tôi không muốn cô ấy khóc cho tôi. Tôi lên gác để khóc một mình. Từng giờ. Cụm từ đó chưa bao giờ mang ý nghĩa đặc biệt như thế. Có đến cả ngàn lần tôi vô thức nghe thấy nó lặp lại, phá ngang những cái khác. Như một khẩu hiệu nhàm tai, cho đến khi nó kết thúc và chương trình tiếp tục bình thường. Có một điều tôi chắc chắn. Sẽ không bao giờ tôi nhìn thấy biểu tượng ấy, nghe thấy khẩu hiệu ấy mà không rùng mình, không sống lại những hồi ức đau đớn và cắn rứt. Trong mỗi giờ trôi qua của toàn bộ thời gian sắp tới đây. Tôi nghĩ buổi trưa là lần đầu tiên, sau khi tôi từ sân bay trở về. Họ cử người lên gõ cửa phòng và gọi tôi, nhưng tôi đã gặp sứ giả ngay tại cầu thang, trên đường đi xuống. Tôi canh thời gian sát sao không kém gì họ. Tôi bước vào phòng khách, mọi người đã có mặt đông đủ trước tôi, lặng im và bất động, trong một cảnh tượng tập trung đến nghẹt thở. Bà Hutchins đứng cạnh chiếc đài, tay nắm một góc của nó, như sợ nếu bà giơ tay lên thì dòng thông tin sắp tuôn ra sẽ tự động dừng lại. Cô gái người Thụy Điển Signe ngồi phủ phục dưới sàn phía trước nó. Theo như tôi biết, cô không hề rời vị trí. Một cô hầu nữa đứng sát tường, giữa cửa và chiếc đài, hai tay giấu sau lưng. Người lái xe đứng ngay ngoài cửa, vị trí thích hợp với một người thường không được lên nhà trừ khi có lệnh. Bà nấu bếp còn ở xa hơn, từ cửa căn bếp của mình nhìn ra, nghiêng đầu lắng nghe. Và Weeks, người gác cửa. Tôi lẳng lặng bước vào giữa họ. Tất cả đều tránh nhìn tôi, cố gắng không làm phiền. Ai đó dịch một chiếc ghế tới, nhưng tôi lắc đầu và đi tiếp tới cửa sổ, đứng quay lưng lại với họ. “Tin tức thời sự cập nhật từng giờ. Vẫn chưa có thêm thông tin về chuyến bay nội địa mất tích lúc mười một giờ tối qua. Trên máy bay có mười bốn hành khách. Chiếc máy bay được cho là đã buộc phải hạ cánh trong khu vực dãy núi Rocky. Tôi hít thật sâu, để lấy sức trở lên trên gác, đi qua bọn họ. Tôi quay người lại, gian phòng trống trơn. Họ đều đã ý tứ lui đi hết, khả năng cao là theo hiệu lệnh ngầm của bà Hutchins. Tôi rời khỏi cửa sổ. Giọng nói vẫn lải nhải theo một cách ghê rợn. “Cho những quý thính giả nghe muộn, chúng tôi xin nhắc lại: Vẫn chưa có thêm thông tin về chuyến bay nội địa...” Tôi vội vã bước đến tắt đài đi. Đoạn, tôi đi lên gác, qua hành lang trống không, qua những cánh cửa cố tình đóng kín. Tôi không khóc, tôi gần như không rơi một giọt nước mắt nào. Khóc lóc dành cho những chuyện đau buồn, không phải chuyện này. Tôi chôn mình ở bàn trang điểm phần lớn thời gian, đầu gục xuống mặt bàn, náu trong hai cánh tay khoanh lại. Lặng im, bất động. Một cái chai nhỏ có hình chạm trổ đổ xuống ngay bên cạnh, tôi trông thấy nhưng mặc kệ. Lúc một giờ, tôi lại xuống dưới nhà. Rồi hai giờ, ba giờ, bốn giờ… để tham dự cuộc gọi hồn tập thể đầy khổ sở và não lòng này. “Tin tức thời sự cập nhật từng giờ. Tin tức thời sự cập nhật từng giờ.” Và chấm hết. Cho đến khi tôi nghĩ mình sẽ phát điên. Cho đến khi nó vang lên bên trong cũng như bên ngoài đầu tôi. Không còn cách nào ngăn chặn nó, tắt đài cũng không hiệu quả. “Tin tức thời sự cập nhật từng giờ... Từng giờ...” Khoảng bốn rưỡi, có tiếng gõ rụt rè ngoài cửa. Trong khoảnh khắc, tia hy vọng như lưỡi lửa đâm xuyên người tôi, lan nhanh khắp thân thể. Nó tắt ngấm trước cả khi tôi ngóc đầu nhìn ra cửa, hoặc đứng lên đi ra đó. Vì tiếng gõ quá rụt rè và phân vân chính là một sự báo hiệu tin tức, dù là tốt hay xấu. Tôi mở cửa. Signe đứng đó, bưng một chiếc khay nhỏ đặt một tách cà phê bốc khói, với một sự khẩn cầu câm lặng trên gương mặt. Cô ấy còn không dám mở miệng bảo tôi, chỉ giơ cái khay ra, sẵn sàng tháo lui trước một dấu hiệu cự tuyệt, sợ xâm phạm đến tâm trạng tôi. Đó, thành thực mà nói, đúng là điều cô ấy đang làm. Tôi đón lấy tách cà phê, cốt đế thoát khỏi sự hiện diện của cô, nhất là cái biểu cảm trên mặt cô, còn hơn là từ chối và phải chịu đựng cảnh cô đứng ỳ ra đó và nài nỉ tôi. Tôi đóng cửa và đặt bừa nó xuống một chỗ, không hề đụng đến nữa. Hơi nóng dần mất đi, tách cà phê nằm đó, im lìm và đen đặc. Tôi nhận ra trọng tâm của tấm màn sợ hãi và đau thương đang bao phủ lên mình không nằm ở bản chất tai ương của nó hay sự mất mát nó. Mà ở việc nó đã được báo trước. Có một sự khiếp sợ ớn lạnh trong đó, một sự khủng khiếp, một... Tôi không biết gọi là gì. Có một cảm giác ác mộng đè lên tôi, ngay cả khi đỉnh điểm hủy diệt của nó đã qua và không còn phía trước, cũng không làm tôi nhẹ nhõm hơn. Không có chuyện này, tôi vẫn sẽ suy sụp trước tin tức kia. Nhưng tôi sẽ suy sụp trong thế giới bên ngoài. Giờ tôi suy sụp cả trong bóng đêm mình tạo ra, bóng đêm của tâm tưởng. Tôi la hét trong tâm trí hỗn loạn của mình. “Những chuyện đó không được biết trước! Không thể! Nó không thể nào là sự thật, không thể nào.” Và xem kìa, câu trả lời xuất hiện ngay lập tức. Nhưng đó là sự thật. Ngươi biết mà. Đừng tự dối mình. Ngươi đã được thông báo và ngươi biết điều đó. Cô ta đã đến nói với ngươi. Cô ta đã đến khóc lóc với ngươi. Cô ta bất chấp nguy cơ bị đuổi việc, và cuối cùng đã bị đuổi, chỉ để báo cho ngươi. Không phải thế! Không đúng, ta thề (trên chiếc ghế và dưới lọ nước hoa đã đổ này)! Ta sẽ không chấp nhận! Ta sẽ không tin! Một động cơ máy bay bị hỏng, máy bay đã đâm vào một triền núi và phát nổ lúc nửa đêm. Nhưng chỉ một phút trước, ba mươi giây trước đó, cho đến khi động cơ gặp sự cố, viên phi công ngồi trước nó không hề biết chuyện gì sắp xảy ra. Không một linh hồn sống nào trên chuyến bay ấy biết được. Đó là số phận, là sự sắp đặt của Chúa lòng lành. Ấy thế mà ngươi cứ cố thuyết phục bản thân là có một cô gái ở cách đó ba nghìn dặm, nơi miền Đông này, từ hai ngày trước, từ ba ngày trước, đã biết nó sẽ xảy ra như thế? Một cô hầu gái, một đầy tớ, thấp hèn và... Nhưng câu trả lời rất trầm và thấp, song không tài nào thoát được, như một lời thì thào sát bên tai. Này, nhìn ra đây, theo hướng cửa, nơi đặt chiếc ghế dài. Tối hôm đó, cô ta đứng trong căn phòng này, ngay chỗ ngươi đang nhìn. Cô ta chẳng đã lên đây? Cô ta chẳng đã vặn vẹo hai tay như thế này, cố gắng giải thích đó sao? Mở tủ ra. Nhìn vào trong, dưới lớp bọc bằng giấy bóng kính, về bên trái. Chiếc váy trắng dài. Nếu ngươi lấy ra, ngươi sẽ thấy một vết ố trên đó, vết ố mà cô ta gây ra do biết trước câu chuyện và sợ hãi. Jean, uống chút rượu mạnh đi. Đừng để những suy nghĩ ấy len vào đâu. Cứ uống cho đến khi ngươi nhấn chìm chúng, đốt cháy chúng, đốt cháy tất cả. Dù cho quay cuồng ngã nhào cũng phải uống, nhất định phải ngăn những ý nghĩ đó lại. Chúng sẽ dẫn ngươi đến sự điên loạn mà thôi. Họ gõ cửa để xem có chuyện gì. Tôi đang loạng choạng xô đổ bàn ghế và đồ đạc, nỗi sợ hãi và việc mò mẫm tìm kiếm câu trả lời đã khiến tôi ngà say hơn là rượu brandy. “Không sao đâu, tôi ổn. Đừng để ý”, tôi nói lớn. “Mang thêm brandy cho tôi. Mang lên đây một bình, rồi để nó ngoài cửa cho tôi.” Không có tiếng thì thầm cảnh báo ư? Ngươi không nảy sinh mối nghi hoặc vì lời truyền đạt của cô ta, dù là gián tiếp ư? Nói dối. Nói dối không biết ngượng. Thế tại sao ngươi dừng xe, xuống xe, rồi đi vào trong gửi một bức điện, lúc sáu giờ tối qua? Tại sao ngươi lại nhấc điện thoại, trong chính căn phòng này, trước mười hai giờ, và gọi đến khách sạn ông ở? Tại sao ngươi nhấc điện thoại lần thứ hai, vào lúc mười hai giờ, và gọi đến sân bay, như một phương sách cuối cùng? Ngươi có chối không làm những chuyện đó không? Ngươi thừa nhận. Rồi, vậy ngươi có chối việc đã có linh cảm không? Ngươi thừa nhận mình có linh cảm, vậy ngươi có bác bỏ cô ta là nguồn cơn của nó không? Ngươi thừa nhận. Vậy ngươi có chối rằng cô ta, ít nhất, đã cảnh báo và cố gắng truyền đạt điều đó cho ngươi không? Brandy, nhanh lên, brandy! Tất cả brandy mà ngươi có thể uống. Không tác dụng, nó không có hiệu quả. Những ý nghĩ mạnh hơn chất cồn. Rượu thiêu đốt trên đường đi xuống, như ngọn lửa cháy ngược, khi tiếng gõ cửa vang lên ban nãy, rồi nó lập lòe ánh xanh và tắt phụt gần như ngay lập tức. Tay ngươi lạnh ngắt, ngươi đang run rẩy. Rượu tràn ra ngoài nhiều hơn qua môi ngươi. Khi ngươi lên bốn hay năm tuổi, lần đầu tiên đến lớp học ngày Chủ nhật, người ta giảng cho ngươi về Chúa. Trước đó ngươi chưa từng nghe nói đến Người, nhưng ngươi không thấy sợ, bởi đó là điều tích cực, chỉ xoay quanh ngươi. Đó là mái nhà che chở ngươi. Giờ ngươi hai mươi tuổi và ngươi khiếp sợ, sợ đến phát ốm. Bởi đây là sự tiêu cực. Nó thổi bay những bức tường, thổi bay mái nhà trên đầu ngươi. Giờ ngươi cô độc, trần trụi và vô cùng nhỏ bé trước cơn gió đêm. Họ không biết. Họ không thể biết được. Họ đã biết. Ai đó đã biết. Có người chạy lên và gõ cửa. Lần này, họ không chần chừ mà gọi thẳng luôn. “Có tin mới, cô Reid. Cô xuống dưới nhà mau đi.” Tôi mở toang cửa, lướt qua họ, chạy xuống cầu thang. Cái áo choàng tôi mặc bay phấp phới như lá cờ, tay vẫn vô thức nắm chặt bình rượu. Tôi đã bỏ lỡ nó. “... từ mười một giờ tối qua.” Nhưng nó sẽ được nhắc lại, phát thanh viên vẫn đang nói. Không thể nào là tin lành, tôi để ý thấy chẳng người nào định kể lại cho mình. Họ len lén đi ra khỏi phòng, chỉ có bà Hutchins ở lại, nấn ná nơi cửa, như xem liệu có giúp gì được cho tôi trong giờ phút sắp tới. Thấy mình vẫn cầm bình rượu trên tay, tôi bèn đặt xuống. Khúc đầu của bản tin đã phát lại, tôi cúi đầu thật thấp và đứng lặng phắc. “Cho những quý thính giả nghe muộn, chúng tôi xin nhắc lại. Chiếc máy bay bay tuyến nội địa bị mất tích cùng với mười bốn hành khách, đã được phát hiện cách đây một giờ bởi các máy bay cứu nạn. Nó bị vùi sâu trong tuyết trên một sườn núi, ở nơi hẻo lánh không thể tiếp cận. Họ thông báo không thấy có dấu hiệu của sự sống, khả năng có người còn sống sót được xem là rất thấp. Có thể mất một khoảng thời gian để các đội cứu hộ trên mặt đất tìm được đến nơi. Không có một tín hiệu nào từ chiếc máy bay kể từ mười một giờ tối qua.” Tôi vươn tay tắt đài. Bà Hutchins ngập ngừng dợm bước lại gần tôi. Tôi giơ tay ngăn bà lại. “Không sao đâu”, tôi khẽ nói. “Cháu lại lên phòng đây.” Bà phát ra một âm thanh nghẹn ngào trong họng, sau đó đi ra ngoài. Chẳng bao lâu sau, tôi đã ở trong phòng. Tôi nghĩ mình đã đi bộ lên cầu thang. Ngôi nhà im lìm chìm trong tang tóc. Ngoài trời vẫn sáng, ánh sáng rọi qua những ô cửa sổ như rắc bột. Nhưng đó là thứ ánh sáng nhất thời trước khi diệt vong, gồng mình lên lần cuối rồi chết, giống như que diêm sẽ cháy bùng trở lại một khắc trước khi tắt. Tôi thấy mình đã mặc quần áo. Tôi đang lấy xuống chiếc áo khoác trong tủ, lấy mũ trên giá treo nhỏ bằng gỗ. Tôi đang sửa soạn, chuẩn bị ra ngoài. Tôi bắt gặp hình ảnh mình đi qua đi lại trước gương mấy lần, nhờ đó tôi biết việc mình đang làm. Tôi không chắc là tôi biết bản thân định làm gì, hoặc trước hết là định đi đâu. Hoặc có lẽ tôi đã biết. Tâm trí không phải là tờ giấy in có thể lật xem lại mỗi khi quên một đoạn nào đó. Tôi đi ra và đóng cửa phòng lại. Áo khoác vắt trên cánh tay, mũ đội cẩu thả trên đầu, tôi lục túi tìm chìa khóa xe để đảm bảo nó có ở đó. Giờ thì tôi biết mình định làm gì, nhưng không biết tại sao, hay làm thế có lợi gì cho tôi. Tôi đi về phía sau dọc theo hành lang trên gác, thay vì xuống cầu thang, đến phòng bà Hutchins. Tôi gõ cánh cửa hai lần bằng móng tay. Nó tạo ra âm thanh tích tích rất nhỏ, nhưng chắc hẳn bà nghe thấy. Bà nói “Mời vào”, và tôi mở cửa bước vào. Bà đang ngồi trên ghế bập bênh sát cửa sổ, mắt nhìn ra ngoài. Thần sắc của bà - trước khi bà trông thấy tôi và xóa sạch nó đi - toát lên nỗi ưu tư sầu muộn. Một cảm giác mất mát, không sâu sắc như cảm giác của tôi, nhưng chí ít cũng vô cùng chân thật. Vì đầu bà quay hẳn sang bên, như thế bà đang nhìn chếch ra ngoài cửa sổ ở một góc hẹp tới bức tường bao của ngôi nhà - dù rõ ràng bà chẳng nhìn bất cứ cái gì ngoài đó - và bàn tay bà ôm đỡ lấy một bên mặt, như thể bị đau răng và phải ấn chặt lên đó hòng làm dịu cơn đau. Một chiếc khăn tay nhỏ nằm phất phơ trên lòng bà, hình như nó vừa được sử dụng rồi để ở đó. Bà cử động khi tôi bước vào, không biểu hiện gì. Bản tính bà là vậy, không bao giờ thể hiện cảm xúc ra ngoài. Bà nhỏm dậy và đứng với vẻ dò hỏi trước chiếc ghế đang đung đưa nhè nhẹ vì vừa được giảm tải. “Grace, bác có địa chỉ cô gái đó ở đây không? Xin cho cháu mượn.” “Eileen ư?” Bà hỏi, “Eileen McGuire? Bác có.” Gương mặt bà không biểu cảm gì. Bà đi tới mở ngăn kéo bàn giấy. Bà là một người ngăn nắp và chỉn chu. Hình như bà lưu giữ một hộp các sắp xếp cẩn thận về những người làm việc cho nhà tôi, trước kia và hiện giờ. Tôi chưa bao giờ tò mò về cách thức quản lí của bà. Một lúc sau, bà cầm lên một tấm thẻ. “Bác sẽ đưa nó cho cháu, hay cháu muốn bác liên hệ với cô ấy?” “Không, cháu sẽ tự đi đến đó.” “Địa chỉ ở trong thành phố.” Bà đọc tên phố và số nhà từ tấm các. “Cô ấy ở số 112 đường Holden.” “Cảm ơn bác. Cháu sẽ nhớ.” Bà cất tấm thẻ đi. Bà trao cho tôi một ánh mắt đầy hàm ý, khiến tôi khựng lại một lúc khi định quay người đi ra cửa. “Bác có gì muốn nói với cháu à?” Giọng bà thấp đến mức tôi gần như không nghe thấy. “Đừng đến đó, Jean. Có thế không tốt cho cháu đâu.” Tôi nhận thấy bà biết nguyên do của vụ sa thải. Cho đến giờ, tôi không rõ liệu còn người nào trong số họ biết nữa không. “Cháu phải đến một nơi nào đó”, tôi nói. “Chẳng còn nơi nào cháu có thể đến nữa cả.” Tôi đóng cửa lại sau lưng, đi xuống cầu thang xuyên qua ngôi nhà im ắng, bước ra trời chiều màu vàng đục. Tôi đánh xe ra ngoài, bắt đầu chạy ngược theo con đường dài vào thành phố. Giờ tôi mới biết có một con đường như thế tồn tại. Có bao nhiêu điều đến tận bây giờ tôi mới biết. Tôi ắt chẳng tìm ra nó nếu không có sự giúp đỡ. Tôi thả xe chầm chậm bên cạnh viên cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ trên quảng trường lớn, nghiêng đầu ra ngoài. “Tôi đang tìm đường Holden. Mong anh chỉ giúp.” “Ồ, nó ở đoạn cuối thành phố.” Viên cảnh sát nói giọng khàn khàn. Anh ta liếc nhìn chiếc xe và liếc nhìn tôi, như cố chắp nối bọn tôi với địa điểm đó. Anh ta ra hiệu cho những chiếc xe đi sau tôi vòng qua chướng ngại vật tạm thời tôi tạo ra. “Thế này, cô cứ đi thẳng theo đường Số Ba. Gần đến cuối đường cô sẽ thấy nó.” Tôi lái xe dọc theo con đường rộng và xấu xí tưởng chừng vô tận này, qua những ống khói bằng gạch của xưởng rượu bia, những kho chứa than và những thùng khí đốt chằng lưới sáng nhờ nhờ. Đèn đường chợt bật sáng, chỉ càng làm nổi bật vẻ tiêu điều và buồn tẻ của nó. Chúng được đặt cách nhau quá xa và kéo dài thành hai đường thẳng tít tắp khiến con đường càng thêm quạnh quẽ và hoang vắng. Ngày đã chết, khu vực này là nghĩa địa của nó. Một màu vàng xỉn giăng ngang bầu trời phía tây, trong khi ở nơi khác nó vàng rực. Phần còn lại đen như bồ hóng, tựa bức họa than chì nhòe nhoẹt phác những ngôi nhà và con đường hun hút bằng ngón tay cái di trên tờ giấy trắng. Tôi lại hỏi đường một tài xế xe tải chở nước đá đang đỗ trước xưởng để bốc hàng, ông ta chỉ cho tôi chỗ rẽ và cách đi từ đó đến đường Holden. Sau một lúc, tôi đã đến nơi. Ánh đèn pha xe tôi tạo thành một vết sẹo lớn làm bề mặt nó sáng hơn bao giờ hết. Nó không như tôi dự đoán, sau khu vực tôi vừa đi qua. Đúng là nó nghèo, nghèo xơ xác. Nhưng nó không hoang phế, không nhếch nhác, không lụp xụp. Nó nhã nhặn, trầm tĩnh trong cái nghèo khó của mình. Đó là một dãy căn hộ có cùng chiều cao, hình dạng, kích thước. Không thể biết nó bắt đầu chỗ nào và kết thúc ở đâu, nếu không có những ô cửa trổ ra đều đặn. Cùng với những cầu thang tay vịn sắt giống nhau làm dấu. Những ô cửa sổ với ánh đèn đằng sau khiến chúng trở nên sâu hơn, được che rèm trang nhã, lớp kính sạch sẽ mang vẻ khiêm nhường, trên bệ cửa đặt một vài hộp đất trồng hoa phong lữ. Bất cứ ai có thiên hướng phân chia giai tầng xã hội sẽ liệt nó vào mức giao thoa giữa tầng lớp hạ lưu cấp cao và trung lưu cấp thấp. Tôi tìm thấy số nhà mình muốn, bèn đỗ lại, tắt đèn xe và ngồi im một lúc, một cánh tay thõng xuống đung đưa ngoài thành xe. Một bé gái chạy ào ra cánh cửa gần nhất và hét vào bóng tối sâm sẩm. “Tiny! Mẹ bảo chị về ngay không thì mẹ mang roi đi tìm đây!” Bóng người thứ hai xuất hiện bên cạnh cô bé, nổ ra một cuộc cãi cọ ầm ĩ và ngắn ngủi, rồi cả hai biến mất vào trong nhà. Tất cả trở lại yên tĩnh như trước. Một người đàn ông lê bước trên đường với vẻ mệt mỏi sau ngày làm việc. Ông ta liếc nhìn tôi và chiếc xe nằm im với vẻ tò mò khách quan, rồi đi vào cánh cửa tôi ngồi canh nãy giờ. Bàn tay thõng xuống của tôi va vào cửa xe. Tôi nghĩ: Không phải ở đây, nó không đến từ bất cứ ngôi nhà nào ở đây, lời báo trước tương lai ấy. Không, chắc tôi đã sai lầm, tôi đã đến nhầm chỗ! Thế nhưng chiếc máy bay đã rơi, một cô gái ở con đường này đã cho tôi biết điều đó, trước cả khi nó cất cánh. Tôi ra khỏi xe và đứng lưỡng lự, lòng tự hỏi mình muốn gì ở cô ta? Mình sẽ nói gì với cô ta. Tôi thấy mình đang bám chặt vào mép cửa xe bằng cả hai tay. Tôi kiên quyết dứt ra khỏi nó. Dường như có một lực đẩy vô hình đẩy tôi đi qua vỉa hè, bước lên những bậc thang có lan can sắt rồi đi qua cửa lớn. Bên trong có đèn, yếu nhưng đủ để phân biệt các nút bấm. Phần lớn các nút đều có tên bên dưới, một trong số đó là McGuire. Nó là cái thứ hai tính từ ngoài đường vào, nên tôi đoán căn hộ ấy ở tầng hai. Tôi thử đẩy cửa mà không ấn nút. Nó không khóa. Tôi đi vào một cách dễ dàng, leo lên một cầu thang nứt nẻ đã xuống cấp sau nhiều năm sử dụng. Hẳn là tôi đã lo mình sẽ không được cho vào nếu xưng tên dưới nhà. Tôi không ý thức được nỗi lo ấy, nhưng có thứ gì đó đã ngăn tôi ấn cái nút dưới kia. Tôi lên đến đầu cầu thang rồi dừng lại trước một cánh cửa. Tôi sợ phải đi xa hơn, nhưng quyết tâm không quay bước. Tôi nghe thấy những tiếng lao xao bên trong, lúc gần lúc lùi xa vào những ngóc ngách khiến chúng bặt đi. Nhưng đó là những âm thanh bình thường, không the thé, gay gắt hay kịch tính. Tôi đột ngột gõ cửa, ngoài cả dự kiến của mình, như có một thôi thúc bất ngờ đã điều khiển bàn tay tôi. Giọng một phụ nữ vang lên. “Ra xem ai.” Cửa được mở ra khá mạnh, một cô bé khoảng mười một, mười hai tuổi đứng chắn trước cửa và ngước nhìn tôi. “Là một quý cô, diện lắm”, cô bé thông báo, không rời mắt khỏi tôi. Một bàn tay to lớn đặt lên vai con bé, đẩy nó sang một bên, sốt ruột nhưng không thô bạo. Một người phụ nữ đẫy đà tầm bốn mươi tuổi thế chỗ nó, như chuỗi hình ảnh đang trình chiếu bỗng bị ngắt đột ngột. Bác ta bắt đầu lau hai tay vào trước tạp dề, như một cử chỉ lịch sự hơn là bác cảm thấy chúng cần được lau, tôi nghĩ vậy. “Có phải Eileen McGuire sống ở đây không ạ?” Tôi hỏi. “Đúng, thưa cô.” Bác ta nhớ ra mái tóc của mình, liền vuốt nó ra sau búi thành một búi, với một sự mau lẹ nói lên nỗi lo lắng thái quá khi muốn làm hài lòng người đối diện. “Xin cho tôi nói chuyện với cô ấy một lát?” “Con bé chưa về.” Bác đáp. “Ít phút nữa là nó về.” Với cùng một vẻ lo lắng vội vã như đối với mái tóc. Cố gắng xoa dịu sự thất vọng của tôi bằng thông báo hấp tấp của mình. Bác ta còn ngoảnh đầu lại, gọi với qua vai, như một món quà bù đắp. “Cath-reen! Nhìn đồng hồ xem mấy giờ rồi!” Rồi nói với vẻ xin lỗi, không chờ câu trả lời, “Con bé về muộn một chút. Chắc nó phải đợi xe buýt.” Bác niềm nở mở rộng cửa. “Mời cô vào nhà chơi.” Nhìn qua khung cửa mở, khung cảnh lọt vào mắt tôi quá ư phù hợp, với người đàn bà, với cả tòa nhà - hoặc có lẽ tôi nên nói là với ấn tượng của tôi về cả hai - nghịch lí đến mức gần như được xếp đặt một cách giả tạo, như thể cố tình thiết kế đế nhấn mạnh, để cộp mác một phong cách sống không thể lầm lẫn. Tôi không biết còn khung cảnh nào khác thể hiện tốt hơn thế không, căn cứ vào môi trường sống của họ. Nhưng tôi biết là sự bình thường của nó khiến tôi hết sức kinh ngạc. Anh trông đợi sự lệch tông, đây lại là sự đúng tông cực điểm. Các bức tường sơn màu lục sáng, bạc phếch. Bức tường thẳng trước mặt treo một khung gỗ mạ vàng rất lớn, trang trí những hình cuộn rối rắm và vặn vẹo trong một kiểu dáng phức tạp. Bên trong căng một tấm thảm nhung màu đỏ anh đào, ở giữa trổ một hình ô van. Bên trong hình ô-van này là tấm ảnh cưới của một người đàn ông và một phụ nữ, nước ảnh nâu đen đã bạc màu, người đàn ông ngồi, người phụ nữ thì đứng. Một chiếc bàn kê ở giữa, cách không xa khung cửa hạn chế tầm nhìn của tôi. Mặt bàn được ngăn đôi chính xác đến từng phân bởi một khung ảnh thu nhỏ tương tự, ngoài ra trên đó còn đặt một cây đèn bắt mắt. Nó là một hình vòm bằng thủy tinh xước mờ, có gọng như một chiếc ô mở. Quả thực nó na ná như một mẫu ô thu nhỏ. Từ vành ô rủ xuống những tua thủy tinh dài. Một sợi dây điện bọc loang lổ từ dưới chân đèn nối ra, chạy thành một đường thẳng lên cái hốc trên trần. Phía trên, một thằng bé con đang ngồi tì cằm lên mặt bàn. Nó nhỏ hơn đứa bé ra mở cửa, đang tròn xoe mắt nhìn tôi. Nó bỏ bẵng cả bài tập về nhà, bởi tôi thấy có một quyển sách cũ nát mở trước mặt nó, một tờ giấy vàng trải rộng, một mẩu bút chì thò ra từ bàn tay nắm chặt chĩa lên trời, vết bút chì in khắp môi trên thằng bé, tôi nghĩ vậy, cũng có thể không phải là dấu bút chì. Trong tích tắc một, hai giây giữa lời mời của người phụ nữ và lời từ chối của tôi, có một sự cắt ngang thô bạo ở chiếc bàn, không liên quan gì đến tôi. Một xấp vải trắng mỏng đáp xuống mặt bàn không tiếng động, ở đầu bên kia, ngoài tầm mắt tôi, chỉ nhô ra khoảng một, hai phân nơi tôi có thể thấy, nhưng tạo ra một luồng gió làm tóc thằng bé bay phơ phất, hất bay tờ giấy trước mặt nó. Tôi nghe thấy đứa con gái đanh giọng ra lệnh. “Đi ra chỗ khác mau. Tao phải dọn bàn cho mẹ.” Thác vải trắng ấy tràn ra bàn, dìm tờ giấy và quyển sách và gần như cả cái đầu của người sử dụng chúng trong những đợt sóng thất thường. Thằng bé chui ra từ bên dưới, vơ lấy mớ đồ trước mặt cùng với một ôm vải, cuối cùng gần như kéo cả tấm vải theo khi nó tụt xuống nền nhà và trở nên lùn hơn cả lúc trước. Nó dang tay tát một người nào đó không thấy mặt hai cú, và một bàn tay từ phía ấy tát lại nó một cú. Cả ba cái tát đều trượt mục tiêu rất xa. Chúng được tung ra nhằm trả miếng hơn là vì ác ý. Nhưng trong lúc đó, tôi đã trả lời bà mẹ, “Cám ơn bác, không cần đâu ạ. Tôi sẽ đợi ở tầng dưới.” “Cô cứ vào đi, đừng ngại.” “Tôi đợi cô ấy ngoài cửa cũng được.” Bác ta băn khoăn về danh tính tôi nhưng không biết nói thế nào. “Tôi... có thể biết là ai tìm con bé không, nếu cô không phiền.” “Reid”, tôi đáp. “Jean Reid.” Tôi thấy nét mặt bác thay đổi. Vẻ tươi cười của người mở cửa biến mất, thay bằng sự nghiêm nghị. Sự khó chịu không lộ rõ, nhưng nó mang vẻ bài xích quàu quạu. Tôi tự hỏi liệu bác ta có nhắc đến chuyện đó không, và trong lúc tôi đang băn khoăn thì bác đã nói luôn. Chí ít bác không đạo đức giả. “Cô Reid, sao cô lại đuổi việc con gái tôi như thế?” Bác hỏi với vẻ trách móc, buồn bã. “Theo như nó kể thì tôi dám chắc nó đã cố hết sức để làm hài lòng cô.” Xem ra bác chỉ biết kết quả mà không biết nguyên nhân. Tôi không trả lời. “Ồ, nó đã tìm được việc làm khác”, bác nói. “Nhưng công việc vô cùng vất vả.” “Tôi xin lỗi”, tôi lẳng lặng nói. “Tôi sẽ đợi dưới nhà.” Tôi quay đi. Ánh đèn sau lưng bác hắt ra tạo thành một hình quạt nhàn nhạt trên bức tường bên cạnh khi tôi đi xuống. Nó thu hẹp lại, giống như đang được người cầm quạt từ từ gấp vào, cho đến khi hai đầu cánh quạt khép vào nhau và không nhìn thấy chiếc quạt nào nữa. Tôi đi chậm chạp, bàn tay lê trên tay vịn cũ kĩ, nơi hẳn đã in dấu bao nhiêu bàn tay khác trước tôi. Tôi ra khỏi cánh cửa dưới đường và đi về xe. Tôi cứ đứng cạnh nó, không mở cửa bước vào. Tôi đứng nhìn nó, thay vì ngó ngược ngó xuôi con đường, lưng quay về phía ngôi nhà. Tôi nghĩ bên trên có hai gương mặt nhỏ đang ló ra nhìn tôi từ ô cửa sổ sáng đèn. Chắc đứa chị đã liếc nhanh một cái để xem tôi còn đợi không, rồi nó kéo hai thằng em vào và bảo chúng không được nhìn trộm, thế là không đứng đắn. Nhưng tôi không ngẩng lên để xác nhận. Cứ để cho cả thế giới soi mói tôi, tôi chẳng quan tâm. Tôi thấy bóng cô ta hiện ra phía cuối đường. Tôi biết nhất định là cô ta, mặc dù tôi không thường xuyên thấy cô ta đi bộ - ở một khoảng cách xa - để nhận ra tiếng bước chân và lúc này lại quá tối để nhận dạng từ xa. Nhưng đó là một người phụ nữ, một người phụ nữ rất gầy, đi một mình và đang vội vã trở về nhà. Người nọ bước rất nhanh, tuy nhiên vẫn đượm nét ủ rũ mệt mỏi sau một ngày làm việc. Khi cô ta lao người về phía trước, phần thân trên hơi nghiêng đi do tác dụng của trọng lực, song không cúi rạp, nhờ đó mà tôi biết nhất định là cô ta. Tôi quay ngoắt khỏi chiếc xe, gần như xoay vòng trên gót chân. Tôi đứng tại chỗ, đối diện hướng đi của cô ta, cứng đờ và căng thẳng. Một cảm giác tò mò dâng trào trong lồng ngực hẳn đã làm tăng nhịp tim tôi, song tôi không dừng lại để phân tích xem đó là gì. Cô ta đến gần, cuối cùng cũng lọt vào vùng sáng đèn. Ánh lam nhạt của bóng tối tan dần khỏi cô, những màu sắc của chiếc áo choàng sọc vuông quen thuộc tôi từng thấy một lần phủ lên người cô. Rồi chiếc mũ len hiện ra, nó như một chiếc mũ dạng bít tất, hoặc loại mũ những cậu bé hay đội khi trượt băng. Nó vô cùng lạc quẻ, ôm trùm hết cả đầu, trên chóp mũ là một quả bông nhỏ bằng len, thứ duy nhất không mang công năng gì. Cuối cùng là gương mặt cô, một gương mặt đờ đẫn, nhợt nhạt, rúm ró mà tôi còn nhớ. Kiểu gương mặt không tuổi. Ngay cả khi đang độ thanh xuân, trông nó cũng như đã héo hon rồi, chắc sau này cũng sẽ chẳng thay đổi gì nhiều. Hiện giờ nó trông mệt mỏi và phờ phạc, tệ hơn cả thời gian cô làm việc ở nhà tôi. Khuôn miệng rũ xuống và đôi môi bợt bạt, cô quá mệt và quá mong muốn về nhà nên chẳng buồn tô son. Cô nhìn thấy chiếc xe trước tiên, khi đi tới lối vào. Và lạ thay, ánh mắt cô dửng dưng lướt qua tôi. Đây không phải là một mánh khóe, tôi có thể khẳng định như vậy. Không có điều gì làm cô quan tâm cả, cô đã cạn kiệt năng lượng để chú ý tới những người xung quanh trên đường. Tất cả những gì cô muốn là đi vào cánh cửa kia và lên gác, nơi mình ở. Tôi không chắc giọng mình được như mong muốn, cổ họng tôi đã thít chặt. “Eileen”, tôi thấp giọng gọi. Dường như cô không nghe thấy. Cô bước lên ba hay bốn bậc thềm. “Eileen. Đợi đã.” Cô dừng bước và quay lại nhìn. Rồi cô nhận ra tôi. Sự dò hỏi lơ đãng biến thành vẻ giận dỗi, cô dợm quay ngược lên đi tiếp. Tôi cảm giác đã nhổ bật cả người mình lên khỏi chỗ đứng bên cạnh xe, lảo đảo lao tới chân cầu thang, tựa như bạn dồn hết năng lượng cho một cú nhảy và do đó mất hết thăng bằng. Một tay tôi chộp lấy tay vịn cầu thang, tay kia đưa lên hướng về cô ta. Cô đứng phía trên tôi, do khoảng cách những bậc thang tạo ra. Tôi lại buông tay xuống, không biết mục đích của hành động vừa rồi là gì. Có lẽ chỉ để giữ cô ta lại, có lẽ là một cách khẩn cầu giấu giếm. “Chị có nhớ tôi không? Tôi là Jean Reid.” “Tôi nhận ra cô, cô Reid”, cô ta nói với vẻ lạnh nhạt đầy tổn thương. Không còn lời nào nữa, trong mấy giây nặng nề sau đó. Tôi ngước nhìn cô, cô cúi nhìn tôi. Nhưng thể chúng tôi đang bị đối phương thôi miên. “Nó... đã xảy ra”, tôi lắp bắp. “Không biết liệu chị có biết... chị có biết không? Nhưng nó đã xảy ra.” Tôi nghe thấy cô hít vào, thành những tiếng rít khe khẽ. “Tôi không biết”, tôi nghe thấy cô nói. “Tôi kiệt sức đến chẳng buồn cầm tờ báo lên. Bố tôi thường mang một tờ về nhà, nhưng từ khi ông đi...” Tôi nghe thấy cô nói, nhưng không thể nhìn thấy cô. Có chuyện gì đó với thị lực của tôi. Hình ảnh cô tan ra, vỡ thành nhiều mảnh như mặt trăng trong nước, bập bềnh trôi ra khỏi tầm nhìn của tôi. Tôi cảm thấy đầu mình gục xuống như có một bàn tay dúi mạnh. Trán tôi gác lên tay vịn sắt và ở nguyên đó, chỉ lăn qua lăn lại, từ thái dương bên này sang thái dương bên kia như để làm giảm cái áp lực không chịu đựng nổi trong đầu tôi bằng sự tiếp xúc dễ chịu với bề mặt kim loại mát lạnh. Tôi cảm thấy tay cô chạm nhẹ vào đầu tôi, như tìm cách xoa dịu tôi, rồi rút về, hoảng hốt trước sự cả gan của nó. Tôi ngước lên, gương mặt cô đã ghép thành một khối trở lại. Qua một ánh nhìn, tôi biết ở cô không hề có bản tính ác độc, lòng hận thù, ham muốn trả đũa hay sự hả hê trước nỗi đau đớn của tôi. Nếu có, ắt nó sẽ bộc lộ ra, không thể che giấu được. Cái nhìn thấu suốt trong tích tắc ấy đã khắc sâu trong tâm trí tôi. Không hề có sự thù địch ở đó. Gương mặt ấy cau lại, đồng cảm với tôi. Có sự sợ hãi, ít nhất cũng ngang với nỗi sợ của tôi. Có cả sự bất lực, có lẽ còn lớn hơn cảm giác bất lực của tôi. Có sự yếu đuối khôn cùng, nín lặng, bị động, hoang mang. Cả con người cô toát lên sự yếu đuối, cơ cực. Nhưng không có cái xấu. Không có cảm giác ích kỷ, biểu lộ sự thỏa mãn tàn nhẫn. Trong khoảnh khắc nhìn cô, tôi có thể chắc chắn về điều đó hơn tôi từng chắc chắn về bất cứ chuyện gì. “Eileen, lẽ ra tôi nên nghe...” Tôi thì thầm. “Tôi không trách cô. Cô chỉ làm những chuyện mình phải làm, không cách gì thay đổi...” Cô thả hai cánh tay, vốn để ngang eo, thõng xuống hai bên sườn. Chúng còn hơi đung đưa theo quán tính. Tôi nhớ một bên tay cô cầm một gói giấy nâu và nó cùng đu đưa ở thấp hơn. “Ông ấy có...? Phải chăng ông ấy đã...?” “Tôi không biết”, tôi thẫn thờ đáp. “Tôi không nghe được tin gì từ ông, tôi chờ đợi cả ngày... Chắc chắn ông ở trên chuyến bay đó. Tôi đã cố liên lạc với ông tối qua, ngay trước khi nó cất cánh, tôi đã hành động quá muộn...” “Sẽ không có tác dụng gì đâu. Chuyện gì phải làm cô đã làm rồi, những gì xảy ra là không thể tránh khỏi.” Bóng tối như sẫm hơn bình thường - thứ bóng tối ở bên trong, không phải bên ngoài. Tôi không nhìn rõ mặt cô phía trước. Ý chí, mong muốn - như một ngọn nến lập lòe cháy trong thứ bóng tối ấy - thấp dần, thấp dần, chảy đến giọt sáp cuối cùng. Những gì còn sót lại là bóng đêm vĩnh cửu, sự đặc quánh của định mệnh, của số phận. Nó bóp nghẹt lấy chúng tôi, cô ta và tôi. Tôi chống chọi và vật lộn với nó, cởi đốm lửa cháy cao hơn một chút. Không! Không! Không! Có ý chí, có sự làm chủ quá trình, có ứng biến. Mọi chuyện không xảy ra theo vận số, chúng đến một cách tự nhiên. Và cho đến khi chúng xảy ra, chúng không được biết, chúng không được chờ đợi. Chỉ khi xảy ra, chúng mới bắt đầu tồn tại. Cô ta nhìn tôi giãy giụa với vẻ ghê sợ đầy hiếu kì. Tôi biết cô không hiểu, cô nghĩ đó là sự sợ hãi hoặc là bi kịch của mất mát. Nhưng không phải vậy, đây là một cuộc chiến khác. Cuộc chiến tinh thần, là trận chiến sống còn của lí trí chống lại những thế lực của bóng tối, ngay trên những bậc thang bên ngoài một ngôi nhà gạch tầm thường. “Hãy lên nhà tôi một lúc”, cô nói vẻ thương hại. “Cô ốm rồi, cô mệt mỏi...” Tôi cương quyết lắc đầu. Ngọn lửa lại đang chìm xuống, tôi cảm nhận được nó. Chẳng còn năng lượng nào để tiếp cho nó nữa. “Giá như ông không lên chuyến bay. Giá như ông đợi sang tuần...” “Ông ấy phải đi”, cô ta nhẹ nhàng nói, “cũng giống như cô phải đuổi việc tôi. Cũng như cô phải gọi lỡ ông trên điện thoại. Vì thế mà tôi thật ngu ngốc khi cố gắng nói ra. Nhưng rất khó để rút kinh nghiệm, ta cứ quên hoài…” Tôi bịt chặt hai tai, cố chặn lời cô lại, lắc đầu quầy quậy. “Không! Không! Đó không phải sự thật! Tôi không nghe đâu! Ông không phải đi. Bất cứ thứ gì cũng có thể ngăn ông lại, dù là vật nhỏ bé nhất, như cọng rơm trong cơn gió...” “Không gì có thể ngăn được ông ấy. Vấn đề nằm ở chỗ cô không biết, cô không tin. Tôi cũng đã mất một khoảng thời gian dài. Cô thấy tôi đã làm gì rồi đấy, tôi đã cố nói với cô, như thể làm thế sẽ ngăn được ông ấy vậy.” Hai tay tôi buông thõng xuống. Cô không biết chuyện gì vừa xảy ra. Tôi không chắc chắn về bản thân mình nữa. Ngọn lửa vừa tắt. Bóng tối và sự tĩnh lặng bao trùm bên trong tôi, bên ngoài tôi và cả thế giới xung quanh tôi. Chẳng còn gì nữa để đấu tranh, để chống lại nữa. Cô đứng nhìn tôi, không phỏng đoán. Có lẽ tâm trí cô đã bình thản hơn, cô không gắng sức nữa. “Giá mà tôi giúp được gì cho cô...” Cuối cùng, cô lên tiếng. Tôi ngẩng đầu nhìn cô, đoạn vươn tay nắm lấy vạt áo khoác của cô. “Người bạn này, con người này... Eileen, hãy đưa tôi tới chỗ cô ấy. Để tôi tìm hiểu xem có phải tất cả họ đã... Chẳng lẽ không còn một ai? Trong mười bốn người kia? Đó là lí do tôi đến đây gặp chị. Eileen, tôi phải được biết. Tôi không chịu đựng nổi nữa, cứ chờ đợi thế này, không biết... Nó như một lưỡi rìu, lúc nào cũng chực chờ rơi xuống.” Tôi thấy cô cắn môi, tuồng như do dự. Tôi ghì chặt áo cô, giật mạnh. “Eileen, thế cho tôi đi cùng chị vậy, để tôi tìm hiểu... Hãy bảo chị có một người bạn...” “Phải”, cô đáp. “Ông ấy không thích bị tra hỏi như thế. Ông ấy sẽ không bằng lòng nếu biết tôi đã nói với cô. Ông không thích người khác, những người lạ ấy, biết về mình.” Vậy là lần đầu tiên, tôi biết đó là một người đàn ông. Vẻ mặt cô cho thấy cô đang mềm lòng. Cô ngọ nguậy với vẻ bối rối. Cô ngoái nhìn cánh cửa, rồi lại nhìn tôi. Rồi cô nghiêng đầu, ngó lên phía trên dọc theo mặt ngoài tòa nhà, tới những ô cửa sổ căn hộ của mình, tôi ước đoán, song đây chỉ là giả thuyết của tôi. Cũng có thể là cô đang tìm một cái cửa sổ vô hình nào đấy. Cuối cùng, cô lại quay trở về nhìn tôi. Tôi càng khẩn nài. “Ít nhất là để biết, để chính tai nghe, tôi không chịu nổi việc chờ đợi vô vọng thế này. Eileen, tôi sẽ phát điên mất. Xin hãy giúp tôi, tôi xin chị, nếu chị có chút lòng trắc ẩn nào...” Hẳn cô đã nhìn ra ý định của tôi, đã thấy người tôi hơi chùng xuống, chuẩn bị quỳ sụp trước mặt cô ngay bậc cửa đầy bụi bẩn của ngôi nhà tồi tàn. Cô vội vàng đỡ lấy và giữ tôi lại, bằng sự cứng rắn của sự xót thương. Đó là sự kiên quyết hiếm có chợt lóe, ngắn ngủi, đối với một tính cách như cô. Rồi nó lại tan biến, như một miếng mica lóe lên trong lớp lớp cát mềm. “Chờ đã”, cô nói, “tôi sẽ...” Và cô ngoái nhìn ra sau, như một đứa trẻ dự định làm một chuyện mà nó không chắc được cho phép. “Cô chờ dưới đây, tôi sẽ thử tìm cách. Để xem tôi có thể nói chuyện với ông ấy không đã, ông ấy sẽ không thích những câu hỏi trực tiếp, nhưng có thể tôi sẽ tìm hiểu được điều gì đó cho cô...” Rồi cô vội vàng bổ sung. “Cô chắc là mình không sợ chứ? Cô chắc chắn muốn tôi làm điều đó chứ?” “Có”, tôi hổn hển đáp. “Có. Kể cả tin xấu nhất. Bất cứ tin gì, tôi không quan tâm, chỉ cần tôi không phải trải qua chuyện này thêm bất cứ…” “Vậy thì cô đợi tôi ngoài này. Sẽ tốt hơn nếu ông ấy không biết tôi đang tìm hiểu giúp một người khác. Ông ấy sống ngay trong ngôi nhà này...” Cô đưa cả hai tay nắm chặt cánh tay tôi, động viên tôi. “Cho tôi biết liệu có còn cơ hội nào...” Tôi cầu khẩn. “Nếu tất cả bọn họ đều mất tích...” “Tôi sẽ xuống nhanh nhất có thể”, cô thì thầm. Rồi cô quay khỏi tôi và đi vào trong, còn lại tôi nghiền ngẫm một mình trước ngưỡng cửa của nhà tiên tri. Tôi nghe thấy tiếng chân cô đi lên, nhỏ dần rồi mất hút. Tôi tự nói với mình. Nghe thấy không? Đó chỉ là bước chân của một cô gái mệt mỏi, cực nhọc, làm việc trong một nhà máy hay cửa hàng nào đó, đi vào một khu nhà tập thể, thế thôi. Sao ngươi lại đến đây? Sao ngươi đứng đây chờ cô ta đem xuống cho mình một tin tức mà không ai ở đây có thể biết, không ai trong thành phố này có thể biết trong tối nay? Ngươi là đồ ngốc, đồ ngốc, sao ngươi lại dỏng tai lên để bắt lấy tiếng bước chân cuối cùng? Đó không phải tiếng bước chân vào một ngôi đền thiêng, đó chỉ là tiếng chân tầm thường lên một cầu thang ọp ẹp trong một tòa nhà mốc meo. Một âm thanh như bao bước chân của cư dân tòa nhà tạo nên, đi ra đi vào hàng ngày, hàng tối. Sao ngươi phải hong hóng thế? Tôi bị bỏ lại đó một lúc lâu. Được rồi, tôi có thể thấy và biết những vấn đề của mình. Xe của tôi đang đỗ ở lề đường, lấp lánh trong bóng tối, với một gợn sóng nhỏ của nước sơn màu cam chạy từ mui xe đến chỗ bị ánh đèn từ cửa hắt vào. Một gợn sóng chưa từng di chuyển, tuy nhiên lại uốn lượn và dập dềnh như những con sóng bình thường. Tôi nhúc nhích một lần, từ chỗ đứng đến gần nó, đứng sát nó, hai tay dán chặt lên thành cửa xe, như thể tôi chao đảo và cần bám vào thứ gì đó để đứng thẳng. Đầu tôi nghiêng xuống, như ngắm nghía mặt đệm ở dãy ghế sau. Phải, chiếc xe là thật, nó ở đó. Bàn tay tôi cảm nhận được nó, mắt tôi nhìn thấy nó, nhưng tôi vẫn phải ấn vào một cái nút cho ánh sáng bừng lên, thứ ánh sáng không sự tối tăm nào chịu được. Tuy nhiên nó vẫn bị bóng tối lấn át. Nó bất lực không xé được tấm màn phủ lên đôi mắt nhìn nó, tâm trí suy nghĩ về nó. Nó không thể đưa tôi ra khỏi vùng tối, chính tôi đã mang nó vào bóng tối với mình. Sức mạnh đối nghịch của nó bị tước mất, nó trở thành đồng minh với thứ bóng tối gothic* bao quanh tôi. Vì bóng tối đến từ bên trong, nên bất cứ thứ gì đến gần đều bị nó bao phủ. Y như người ta áp lên mắt một mảnh kính ám khói đen, ánh nắng rực rỡ nhất cũng trở thành ảm đạm. Mỗi người lại có một thế giới riêng của mình để nhìn vào. Cho dù người khác có đứng đúng chỗ anh đặt chân lên, đánh dấu bằng vạch phấn, anh ta cũng không nhìn thấy thứ mà anh thấy. Sẽ có hai góc nhìn khác nhau, không chỉ một. Hay ngoài kia có một thế giới khác trước mặt chúng ta? Có lẽ nó không ở bên trong, đằng sau đôi mắt và mở vào hư không, mà chỉ là một miền vô cực? Nhưng hướng suy nghĩ này sắp thành điên rồ rồi, tôi vội vã ngoảnh đi. Một con chó nhỏ vô chủ xuất hiện trên con đường vắng, bước chân lon ton. Nó quay đầu chạy về phía tôi khi trông thấy tôi đứng đó. Nó hít hít giày tôi. Tôi nhìn xuống nó, mắt nó nhìn thẳng vào mắt tôi trong một lúc, từ dưới thấp. Nó vẫy đuôi một cái, tưởng nhớ đến sự thân thiện trong quá khứ, rồi lon ton chạy đi. Thân hình trăng trắng của nó mờ dần trong bóng tối và mất hẳn như một xoáy nước, không còn lại gì khi tâm dòng xoáy khép lại. Ngươi cũng bị mắc bẫy như ta, tôi nghĩ. Ngươi phải xuất hiện vào đúng lúc này và đi qua đúng con đường này. Ngươi không thể xuất hiện vào lúc nào khác, không thể đi qua bất cứ con đường nào khác. Ngươi dừng lại, đánh hơi, vẫy đuôi, tất cả những hành động đó được sắp sẵn cho ngươi, được lên lịch cho ngươi, cách đây hàng trăm giờ đồng hồ, hoặc hàng trăm năm, ta cũng chẳng rõ. Chúng nằm chờ ngươi thực hiện, không cách nào thoát được, không quay đi đâu được, cho đến khi ngươi đến với chúng. Phải, chúng ta đều sập bẫy, ngươi và ta. Nhưng ta bị nặng hơn ngươi, vì ít ra ngươi còn không biết ngươi phải làm những chuyện đó, còn ta giờ đây đã biết. Tôi ngẩng gương mặt run rẩy khỏi đôi cánh tay đang vòng lại trên thành cửa xe khi nghe thấy tiếng chân cô chậm chạp đi xuống cầu thang. Âm thanh như được phóng đại, như thể có một cái kén rỗng bao quanh cô, khiến tận ngoài này tôi cũng nghe rõ. Song tiếng động không quá nặng nề hay gay gắt, nó giống tiếng lá khô thì thầm và rào rạo bị cuốn theo từng bước chân. Tôi đứng sững một lúc, không thể buông chiếc xe ra, không thể điều khiển cơ thể mình. Tiếng rào rạo đã chạm đáy, dừng bặt. Khi tôi quay lại, cô đang đứng bất động trước cửa. Cô dựa vào một bên cửa, ngây ngô nhìn tôi, đầu chống vào bức tường gạch như thể nó đang đè lên đôi vai mình. Ông mất rồi! Tôi thảng thốt. Mọi đường nét ủ rũ trên cơ thể cô thể hiện... Vỉa hè dưới chân tôi như giật mạnh một cái, như thể có người kéo phăng tấm thảm anh đang đứng, khiến tôi nhào lên ngưỡng cửa bên cạnh cô. “Tôi sợ lắm”, cô ta rên rỉ. “Mỗi khi nghe ông ấy nói, tôi đều không chịu đựng nổi...” Cô ôm chặt lấy người mình. “Bụng tôi trở nên lạnh toát...” Tôi có thể thấy răng cô va lập cập vào nhau, môi cô cũng run bần bật, nên chắc hẳn là vậy. “Ông ấy biết, ông ấy đã biết… Cô thút thít. “Trước cả khi tôi gom đủ dũng khí để nói được câu gì. Có thể ông ấy biết qua vẻ mặt tôi. Nhưng cái đó cũng luôn làm tôi thấy sợ. Chắc chắn ông ấy biết cô ở dưới này. ‘Xuống nói với cô ta…’, ông ấy bảo thế.” “Chắc ông ấy nhìn thấy chiếc xe từ cửa sổ.” Tôi không nghĩ mình đã thốt ra thành tiếng, nhưng hẳn là tôi đã làm vậy, vì tôi nghe thấy cô trả lời. “Phòng của ông ấy ở phía sau nhà.” Mắt tôi chợt hoa lên, một cành cây trôi trên dòng sông tối quất vào tôi, suýt va vào đầu. Tôi bám vào cô, như một người đích thực sắp bị nhấn chìm và cuốn đi, hai bàn tay túm mép áo cô kéo về phía mình. “Gì cơ?” Tôi thở dốc. “Eileen, gì cơ?” “Họ đều đã chết. Cả mười bốn người. Không một ai sống sót.” Bóng tối như một ngọn roi lạnh, quấn quanh cổ họng tôi, từ từ thít lại. Giọng cô vẳng đến từ xa xôi, dường như nó phải đi một đoạn đường dài mới đến được chỗ tôi. Giờ đến lượt cô giữ lấy tôi. Chúng tôi ở sát nhau, song giọng cô lại ở rất xa. “Sau đó ông ấy nói, ‘Nhưng bảo cô ta là cô ta sẽ gặp lại bố mình.’ Cô có nghe thấy tôi nói không, cô Reid? Cô có hiểu tôi đang nói gì không? Ông ấy đã nói, ‘Bảo cô ta về nhà đi, cô ta sẽ nhận được tin.”' “Nhưng ông đã ở trên đó. Tôi biết vì tôi đã gọi điện chậm một giây, máy bay đã cất cánh, và ông ở trên đó. Nếu không còn ai sống sót thì...” “Nào, để tôi đưa cô ra xe. Hãy làm theo lời ông ấy, về nhà đi...” Tôi đã ở trong xe. Cô ta đứng nhìn tôi. Tôi thấy lờ mờ gương mặt cô. “Cô ổn chứ? Tôi lấy cho cô thứ gì nhé? Cô có lái xe được không?” “Chắc là được”, tôi mơ hồ đáp. “Không cần làm gì nhiều, chỉ cần nhấn chân xuống và giữ chắc vô lăng...” Gương mặt cô trượt dần về đằng sau trong bóng tối, hẳn là tôi đang lái xe. Tôi sẽ gặp lại bố. Ôi đúng, tôi cho là vậy, nhưng bằng cách nào? Một cái xác trên cáng, được đưa xuống từ máy bay mấy ngày nữa? Hai vấn đề mâu thuẫn nhau. Nếu tất cả họ đều chết trên chiếc máy bay đó thì ông cũng vậy. Nếu tôi gặp lại ông còn sống, thì không phải tất cả đều chết. Và trong hai, tôi nghiêng về giả thiết thứ nhất. Tôi dừng đèn đỏ trước một ngã tư nhộn nhịp. Tôi ắt sẽ không dừng cho dù có đèn, nhưng chiếc xe trước mặt dừng nên tôi phải dừng theo, từ từ húc vào nó cho đến khi tôi nhớ ra mình phải phanh. Một chiếc xe khác xuất hiện bên cạnh ở làn ngoài và dừng ngang hàng xe tôi. Tôi nghĩ đó là một chiếc taxi, tôi không biết nữa. Bài tường thuật đều đều, đứt quãng về một trận đấu quyền anh phát oang oang trên radio của chiếc xe. Tài xế và hai hành khách ngồi sau đồng loạt chụm đầu tới trước hóng lấy từng chữ. Đột nhiên, bài tường thuật bị ngắt, một giây im lặng, rồi một giọng nói vang lên rành rọt như hồi chuông báo tử. “Chúng tôi xin cắt ngang chương trình để thông báo một tin mới nhận được. Các đội cứu hộ mặt đất đã tới được hiện trường vụ tai nạn của chuyến bay nội địa. Chính thức xác minh không còn người nào sống sót. Thi thể của những người ở trên chiếc máy bay khi nó cất cánh từ trạm dừng cuối cùng đến giờ đã được thống kê. Một số người được tìm thấy cách rất xa...” Tiếng còi xe kêu ầm ĩ sau lưng tôi. Đèn đỏ đã hết từ lâu, chiếc xe đằng trước đã phóng đi, chiếc taxi bên cạnh đã phóng đi. Xe của tôi đang nằm ì giữa đường, chặn đứng luồng giao thông. Thật dễ dàng, chẳng cần nhớ nhiều. Chỉ cần nhấn nhẹ chân, như thế, và giữ cho vô lăng xoay từ từ. Và trong lúc chờ về đến nhà để khóc òa lên, hãy giữ gương mặt cứng đơ vô cảm như thế. Anh không chắc đó là nhà, ngay cả khi đã đỗ xe trước nó. Bàn tay trên vô lăng tự dẫn đường cho anh, chúng không có mắt, chỉ dựa vào trí nhớ. Anh nhìn hai lần cho chắc, song thế vẫn chưa yên tâm. Nhưng rồi cửa mở, mọi người đứng đó chờ đón anh, thế nên anh biết rốt cuộc mình đã về đúng chỗ. Tất cả đều đứng trên thềm chờ tôi khi tôi bước vào. Tất cả đều nhìn tôi bằng ánh mắt bất lực người ta vẫn nhìn khi họ muốn nói với anh điều gì đó mà không biết mở lời ra sao. “Tôi biết rồi”, tôi lẳng lặng nói. “Tôi vừa nghe được trên đường.” Một cánh tay ngập ngừng đưa về phía tôi, tôi bảo. “Không, tôi có thể tự lên gác. Cho tôi qua nào, làm ơn tránh đường...” Ai đó không nén được và thổn thức sau lưng tôi, bị một người khác trấn áp bằng tiếng suỵt nhỏ. Tôi đoán là bà Hutchins. Giá mà họ đừng đứng dàn hàng nhìn tôi đi lên, tôi biết mình có thể đi khá vững vàng. Đã được năm bậc, không chao đảo, và chỉ đặt một tay lên tay vịn. “Cô Reid.” Có tiếng gọi rụt rè trong đám người. Tôi quay đầu lại, đó là Signe. Tôi ắt chẳng biết, nhưng cái vụt tay tức giận của bà Hutchins nhằm chặn lời cô ấy đến quá muộn, khiến cô ấy bị lộ. “Gì vậy?” “Cái này cũng được gửi đến.” Tôi nhìn nơi ánh mắt họ cùng dồn vào, không dám chạm đến nó. Một chiếc phong bì màu vàng nhạt để nơi mép bàn, một góc phong bì thò ra. Bức điện báo tử. Thông báo chính thức. “Đưa cho tôi”, tôi nói. “Tôi sẽ đem nó lên.” Bà Hutchins chộp lấy chiếc phong bì và chạy ba bậc thang lên trao trực tiếp cho tôi. Tôi quay đi, bước lên một bậc. Rồi một bậc nữa. Khó nhọc hơn. Bức điện như nặng trĩu. Tôi lại dừng lại. Có tiếng xé giấy, ngón tay tôi lùa qua mép gấp của nó. Chiếc phong bì rơi xuống qua thành lan can. Màu mực tím đã mờ, những chữ cái in hoa nhòe đi. Nhưng khi tôi căng mắt nhìn, nó lại ghép lại thành dòng ngay ngắn. Vừa hay biết. Đừng lo, không làm sao. Ở lại vì công việc. Ngày kia sẽ về bằng tàu hỏa. Bố. Tôi lại nghe thấy tiếng bà Hutchins, nó như vọng lên từ bức điện, như thể bức điện đang nói. Nhưng có thể là do bức điện, cả bản thân tôi, đang rơi thẳng xuống những bậc thang phía dưới nơi bà đứng. “Mau mau! Ai giúp tôi đỡ cô ấy! Mấy người không thấy cô ấy ngất xỉu rồi hay sao!” Trong lúc ở nhà ga chờ tàu đến, thoạt tiên tôi nghĩ sẽ kể ngay lập tức với ông, đó sẽ là điều đầu tiên bật khỏi miệng tôi. Và rồi tôi trông thấy ông đi qua cổng, thấy thấp thoáng chiếc áo khoác lông lạc đà qua lớp lưới mắt cáo giăng ngang, bị phân ra làm nhiều mảnh, kết lại thành hình dáng ông và rẽ đám đông cuồn cuộn đi về phía tôi. Khi chạy tới lao vào vòng tay ông và ôm chặt ông, tôi không nói được lời nào. Câu chuyện hay bất cứ cái gì khác. Chỉ dựa vào ông, cảm nhận vòng tay ông, vậy là đủ. Thật quá đỗi ấm áp và an toàn khi áp mình vào áo khoác của ông. Ở đó không có bóng tối, không có những ngôi sao nhìn xuống. Chỉ có khuôn mặt ông, chỉ có hơi thở ấm áp của ông ở trước mắt mà thôi. Chúng tôi đứng nhìn nhau, cho đến khi đám đông đổ ra đã tản mát chỉ còn thưa thớt. Rồi những người chậm chạp cuối cùng đã lần lượt đi qua và rẽ sang các ngả, chỉ còn chúng tôi ở đó, nổi bật giữa không gian rộng lớn và u tối, quên hết xung quanh, theo cách những trụ cầu và đá tảng hiện ra khi mực nước quanh chúng rút xuống. “Nhìn con khác quá”, ông nói với vẻ xót xa. Ông đón lấy cằm tôi, định nâng mặt tôi lên nhìn cho rõ. Tôi trì lại. “Đừng đứng đây nữa”, tôi nói với vẻ nghèn nghẹn. “Chúng ta ra ngoài và rời khỏi đây thôi.” Chúng tôi sóng bước ra khỏi nhà ga, vẫn khoác tay nhau. “Con đợi có lâu không?” Ông hỏi. “Từ sáng ạ.” Bước chân đều đều của ông nhất thời khựng lại. “Nhưng đây là chuyến tàu lúc chín giờ, bố tưởng con biết rồi chứ.” “Con biết, chính vì thế mà con phải đến đây ngay, cho dù tàu mới chỉ rời ga. Đó là cách duy nhất khiến đoàn tàu chuyển bánh nhanh hơn.” “Con bé này”, ông lẩm bẩm. Cho đến giờ, ông vẫn chưa nhìn rõ mặt tôi, chỉ lướt qua khi chúng tôi ôm chầm lấy nhau trong kia. Hiện tại ông đã thấy, trong dòng ánh sáng ban ngày ngập tràn giữa cửa nhà ga và chiếc xe. Ông không nói gì, chỉ dừng lại một lúc, nét mặt thoáng thay đổi, sau đó lại đi tiếp. Chúng tôi đi cùng nhau, tay chúng tôi khoác sau lưng nhau, tay tôi luồn qua lớp áo choàng buông chùng của ông. “Lái xe hả?” Ông nói khi tôi đóng cánh cửa lại sau lưng. “Vâng, đi thôi ạ.” Bàn tay chúng tôi cùng đặt lên vô lăng. “Tay con lạnh thế.” “Chúng lạnh suốt ba ngày nay đấy.” Tôi hà hơi vào hai bàn tay. “Giờ chúng ổn rồi.” Tôi luồn một tay qua dưới cánh tay ông, tay kia vòng ra bên ngoài, ngoắc chúng vào nhau. “Con phải chịu khổ rồi”, ông khàn khàn nói, sầm mặt nhìn dòng xe phía trước. Ông không nói gì thêm cho đến khi chúng tôi đi gần hết quãng đường và gần về tới nhà. “Con ra nông nỗi này bao lâu rồi? Bố đã cố đánh điện cho con nhanh nhất có thể. Thời gian gián đoạn giữa tin tức và bức điện dài lắm sao?” “Không phải”, tôi đáp ngắn gọn. “Không phải chuyện đó, không phải vụ tai nạn.” Ông ngẫm nghĩ hồi lâu, tôi nhận ra ông đang bối rối. “Jean”, ông nói một cách lo lắng, “con là một cô gái khác thường. Bố chịu không hiểu nổi, cứ như thể bố đã đi mười năm không bằng. Tôi muốn nói mình không phải là đứa khác thường, chỉ vì cái thế giới tôi đang sống là một thế giới khác thường mà thôi. Tất cả đều mừng rỡ khi gặp lại ông. Họ nói ra điều đó bằng đủ các cung bậc cảm xúc. Nhưng khác một điều rằng đối với họ, chuyện đã kết thúc, họ quay về với cuộc sống thường ngày. Nhưng tôi thì không. Tôi không bao giờ trở lại như trước đây được nữa. Weeks cất mũ và áo khoác của ông theo một cách đặc biệt, vắt áo khoác qua cánh tay một cách gần như nâng niu, như thể chúng rất mong manh và quý giá. Đó là cách thể hiện của ông ấy. Bà bếp nói, “Tôi đã làm cho ngài một mẻ bánh muffin phủ đường mật đó.” Nói đến đây, mắt bà ươn ướt hơn cả chiếc bánh muffin ngon lành nhất. Bà Hutchins ra những mệnh lệnh ồn ào không cần thiết cho những người còn lại, giải tán họ với một vẻ nghiêm nghị hiền hòa. Nhưng họ thật may mắn, tất cả bọn họ. Với họ, chuyện đến đây là hết. Chúng tôi đi vào ngồi xuống bàn ăn sáng. Bố tôi thốt lên, “A, thật dễ chịu!”, và xoa xoa hai tay một cách phấn khởi. Ánh nắng như lớp phấn hoa vàng nhạt phủ khắp khăn trải bàn, viền lên cả vai và tay áo ông. Đồ thủy tinh sáng lên lấp lánh, có một gương mặt hơi phình lên trong ánh phản chiếu của chiếc bình thủy tinh gần nhất đang dòm lại tôi. Ông lật lật chồng thư từ, không mở xem cái nào. Tôi chờ đợi. Sớm muộn gì nó cũng phải xuất hiện. Nó ở đó, nó phải xuất hiện. Ánh nắng không thể làm nó tan rã. Sự trở về của ông không thể khiến nó phân hủy. Nó như lớp băng bao bọc trái tim tôi, cần đến một cái đục và kẹp để bẩy nó ra. “Jean”, ông hỏi, “đã xảy ra chuyện gì với con vậy?” Cả hai chúng tôi đều ăn chậm rãi. Rồi chúng tôi cùng ngừng ăn, trước khi bữa ăn kết thúc hoàn toàn. Tiếng lanh canh của đĩa tách dừng lại và chúng tôi im lặng, chỉ nhìn nhau. “Bố”, tôi nói đột ngột. “Con phải nói chuyện này. Con phải nói chuyện này với bố. Có cố kìm nén cũng vô ích. Lúc nào con cũng nghĩ đến nó, ban ngày, ban đêm. Nó phải được kể ra!” Tôi đấm tay xuống mặt bàn, lần thứ nhất, lần thứ hai rồi lần thứ ba, nhẹ dần. Ông bật dậy và đi vòng qua bàn tới chỗ tôi, đứng cạnh ghế, kéo đầu và vai tôi dựa vào ông. Tôi bám lấy ông, vùi gương mặt vào áo ông. “Nhưng nó đã qua rồi, Jean. Kết thúc rồi, con hãy nghĩ theo chiều hướng ấy.” “Con đã định nói với bố trước khi lên xe. Đó không phải là tai nạn, không phải sự thoát hiểm.” “Thế thì là gì? Con có liên quan gì đến nó?” “Con đã được nghe về nó trước khi nó đến. Có một người đàn ông trong thành phố này bảo nó sẽ xảy ra. Và nó đã xảy ra.” “Ôi không, Jean”, ông dịu giọng vỗ về. “Câu chuyện của cô hầu mà con nhắc đến hả? Bố nhớ ra rồi. Không phải đâu, con yêu. Con quá nhạy cảm, quá cả nghĩ… “Tối hôm nọ, con đã đến đấy. Và con được nghe một phần của nó, rằng bố sẽ không sao. Rồi con về nhà và nhận được bức điện của bố.” Tôi rùng mình. Lần này, ông không trả lời. Một bàn tay ông rời khỏi tôi, bằng một cách nào đó, dù cho không cần nhìn lên, tôi vẫn biết ông đang xoa cằm một cách trầm ngâm. “Sao bố lại ở lại?” Sau một lúc, tôi hỏi. Ông hơi giật mình, cái giật mình của người đang mải mê suy nghĩ. “Bố nhận được một bức điện vào phút cuối, đúng lúc định lên máy bay. Thực ra bố nghĩ hành lí đã ở trên đó rồi, bố nghe thấy tên mình qua loa phóng thanh...” Nỗi sợ hãi như một con dao nhọn hoắt. Nó đâm vào, xoáy tròn trong da thịt ta. Rồi nó rút ra. Nhưng vết đâm thì còn đau mãi. Tôi đã định gửi một bức điện. Tôi đã xóa đi viết lại hai lần. Nhưng chưa hề gửi đi. “Ôi lạy Chúa!” Tôi nói bằng giọng hổn hển, yếu ớt đưa tay đỡ lấy trán. “Sao thế?” “Con tưởng mình không gửi nó đi... Con biết mình đã không gửi...” Ông nắm hai vai tôi, trấn an. “Không phải do con gửi.” Tôi cảm thấy đầu mình rũ xuống, như quả dưa hấu chín nẫu rũ khỏi dây leo. Tôi nghe thấy hơi thở mình trút ra kiệt sức. Giọng ông đanh hơn, tôi nghe thấy ông nói, “Bố không thích kẻ nào làm chuyện này với con. Bố sẽ khiến cho hắn phải cảm thấy nhục nhã. Bố không thích chúng giở trò với con gái bố…” Rồi, như sực nhớ tôi vẫn còn đấy và có thể nghe được những suy nghĩ thành lời của mình, ông vuốt vuốt tóc tôi. “Sẽ ổn cả thôi”, ông nói nhẹ nhàng. “Chúng ta sẽ đến đó, và bố sẽ cho con thấy. Chuyện chẳng có gì hết.” Cô hoảng sợ, tôi thấy được điều đó. Không phải sợ chúng tôi, mà là điều chúng tôi sắp hỏi, điều mà cô biết là mục đích chúng tôi đến đây. Cô thụt lùi khỏi cửa khi thấy chúng tôi, không kịch liệt, nhưng co rúm lại. Cô lắp bắp. “Chào cô! Chào ngài?” Rồi cô đưa hai bàn tay ôm ghì lấy phần trên hai cánh tay, tuyệt vọng nhìn quanh, nhìn ra đằng sau, như cố huy động sự trợ giúp từ ai đó đang ở nhà cùng với mình. Tôi nói, “Chúng tôi có thể vào được không, Eileen?” “Vâng, vâng, mời vào.” Cô kéo cái tay ghế, nhưng không đủ để mở lối. Bố tôi muốn trấn an cô, bèn mỉm cười hỏi, “Chào cô, Eileen? Dạo này cô thế nào?” “Tốt ạ”, cô đáp hụt hơi. “Rất tốt, thưa ngài.” Và cô lại động vào cái tay ghế, lần này để dịch nó về chỗ cũ. Rồi cô co người lại, hơi nghiêng mình vào nó, như thể mất thăng bằng và đôi chân không đỡ được thân mình, như hành động của một đứa trẻ khi tinh thần bất an. Tôi và ông nhìn nhau. Cách tốt nhất là nói luôn một lần cho xong. “Chúng tôi có thể gặp ông ta không?” Tôi hỏi. “Chúng tôi có thể nói chuyện với người bạn của chị không?” Tôi xuống giọng khi hỏi, nghĩ rằng làm vậy có thể truyền cho cô chút tự tin. Cô bặm chặt môi dưới một lúc, người ta thường làm thế khi nhăn mặt đau đớn. Rồi cô nhả nó ra, lao qua giữa hai chúng tôi tới cửa, gần như nhẹ nhõm, như biết trước chuyến đi của mình sẽ không có kết quả. “Để tôi xem ông ấy về chưa”, cô đề xuất. “Tôi sẽ lên đó gõ cửa. Tôi chưa nghe thấy tiếng ông ấy đi qua, nên tôi nghĩ ông ấy vẫn chưa về.” Cô chạy đi mà không khép cửa, để lại một lối hẹp. Chúng tôi nghe thấy tiếng giày của cô lạo xạo trên cầu thang bên ngoài. Mẹ cô xuất hiện ở khoảng mở giữa các phòng và ngó ra. Bác ta đang cầm một cái đĩa và chầm chậm xoay nó giữa những nếp khăn lau. “Xin chào.” Bác nói một cách lạnh nhạt. Cái đĩa dừng xoay trong lúc mắt bác nhìn chúng tôi, sau đó lại xoay tiếp. Bố tôi gật đầu niềm nở, tôi chào đáp lễ bác. Cánh cửa khép lại, Eileen đã quay về. Cô đã bình tĩnh hơn lúc nãy. Đối với người nhút nhát, sự trì hoãn là một phương thuốc tốt. “Ông ấy không trả lời, ông ấy chưa về đâu.” Từ trong nhà, mẹ cô cằn nhằn. “Cái gì, con định đưa họ lên để khoe khoang năng lực của ông ấy à? Con không nên làm thế. Con thừa biết là ông ấy không thích.” “Không phải lỗi của Eileen đâu”, tôi can thiệp. “Chúng tôi đã yêu cầu được gặp ông ấy.” “Tôi muốn biết ông ấy”, bố tôi nói với vẻ hòa nhã thoải mái, vờ như không để ý đến sự lạnh nhạt của họ. “Tôi muốn nói chuyện với ông ấy. Chắc không hại gì, phải không?” Ông nhìn quanh và chọn một cái ghế. “Chúng tôi có thể ngồi đợi được không?” “Vâng, được.” Eileen nao núng. Nhưng hành động đã đi trước lời nói. Trong nỗ lực đuổi khéo cuối cùng, cô vặn vẹo hai tay vào nhau với vẻ lo lắng. “Mong là ông ấy không đi quá lâu. Chắc ông ấy chưa về ngay được.” “Chúng tôi không vội”, bố tôi đáp. “Tôi cảm thấy được ông ấy tiếp chuyện là một dịp quý giá.” Ông bắt đầu bóc lớp giấy bọc điếu xì gà và ngắm nghía quá trình với một phong thái thong thả và nhàn hạ ông có thể khoác lên nếu muốn. Nó tạo thành hàng phòng thủ vững chắc trước những luồng tấn công bên ngoài. Tôi từng trông thấy những người khôn ngoan hơn bị nó vô hiệu hóa, một mánh khóe có thể coi là tài tình. “Cô không phiền nếu tôi hút thuốc trong phòng khách chứ?” Ông kẹp lưng chừng điếu xì gà đã bóc vỏ. “Ồ, không phiền gì, thưa ngài!” Eileen vội vã thốt lên. “Ngài cứ tự nhiên.” Cuối cùng, cô đã ở vị thế khác, nghĩa vụ hiếu khách của một chủ nhà. Cô nhanh nhảu đặt cái gạt tàn bên cạnh ông, rồi lại đứng lùi ra sau, thở dốc vì sự sốt sắng của mình. Nhìn ông, tôi tự hỏi đã bao nhiêu năm rồi ông mới lâm vào tình cảnh không được chào đón mà vẫn bất chấp ở lại như vậy. Có lẽ là rất rất lâu. Có lẽ hồi thanh niên, ông đã ngồi trong một hoặc hai văn phòng như thế này, kiên trì bám trụ, mặc kệ bị lạnh nhạt, cho đến khi đạt được mục đích, ký kết giao dịch mà mình quyết tâm ký kết. Nhưng chắc chắn từ đó trở đi thì không, trong suốt mấy chục năm từ những ngày đầu bỡ ngỡ ấy. Tuy nhiên, biệt tài của ông không hề mai một. Tôi ngồi ghé lên tay ghế, đặt tay lên vai ông, tăng thêm sự xuề xòa và thân thiện cho sự hiện diện của chúng tôi. Bà mẹ quay người đi vào trong, coi như chấp nhận chúng tôi ở lại. Eileen đứng thẳng đơ sát tường một, hai phút, như dán chặt vào đó, như thể bị sự hiện diện của chúng tôi đẩy bạt ra đó. Dường như nhận thấy tư thế của mình thật kỳ khôi, cô bèn làm một động tác vụng về hơn là cải thiện, rón rén trượt xuống cái ghế đẩu gần nhất và ngồi ghé lên một cách cứng nhắc, quá xa mặt ghế và quá thẳng đuỗn để được gọi là nghỉ ngơi hay thư giãn. Sự im lặng buông xuống căn phòng, không ai nói chuyện. Tiếng chân vang lên, bà mẹ xuất hiện trở lại, lần này bước hẳn vào phòng, mang theo một chồng đĩa. Bác ta đặt chúng xuống bàn. Rồi bác mở một cái tủ nhỏ kiểu Trung Quốc kê sát tường, bắt đầu xếp từng chiếc đĩa vào, chia theo kích cỡ, hình dạng và chức năng. “Xong hết rồi, chỉ còn chỗ dao dĩa thôi.” Bác nói với Eileen. Cô nàng bật dậy khỏi ghế với sự hoạt bát xuất phát từ mong ước thoát khỏi chúng tôi và căn phòng, chứ không phải bởi ý ra lệnh hay sai khiến - vốn không hề tồn tại - trong câu nói. “Để con làm nốt cho”, cô đề nghị, rồi chạy bay ra ngoài. Bà mẹ tiếp tục xếp từng cái đĩa trong im lặng, làm ngơ chúng tôi. “Bác có tin vào năng lực của ông ấy không, bác McGuire?” Tôi đột nhiên hỏi. “Nó có sẵn.” Bác không quay lại nhìn tôi. “Bác biết ông ấy lâu chưa?” “Lâu rồi.” Bác đáp gọn lỏn. Tôi không nghĩ bác ta sẽ tiếp tục, với thái độ đầy kỳ thị ấy. Bác nhấc một cái đĩa lên và lấy tạp dề lau quanh vành đĩa. Rồi đột nhiên bác nói tiếp, như chưa hề gián đoạn. “Chúng tôi là bạn thuở nhỏ, ông ấy và vợ chồng tôi. Chúng tôi hay chơi với nhau, là người cùng làng.” Xong bác lại dừng. Phải hỏi cho rõ. Nếu bố tôi không hỏi, tôi ắt sẽ hỏi. “Lúc ấy ông ấy đã có nó chưa?” “Tôi nghĩ là có. Ông ấy luôn có nó.” “Bà nhận thấy à?” “Làm gì có chuyện? Trẻ con không nghĩ được nhiều như thế.” “Nhưng hẳn phải có lần đầu tiên chứ?” Bố tôi kiên trì. “Vào một ngày, năm ông ấy mười hai tuổi, ba chúng tôi đang chơi trên một sườn đồi. Dưới chân đồi là trang trại của làng chúng tôi, trải rộng bên dưới như tấm khăn trải bàn. Bỗng nhiên, ông ấy ngừng chơi và nói, ‘Tớ phải xuống dưới kia. Kho cỏ nhà tớ bị cháy.’ Chúng tôi quay lại nhìn, Frank và tôi. Có thể nhìn thấy rất rõ, ngày hôm ấy trời quang đãng.” Tôi đang chống đầu nhìn xuống sàn. Bố tôi ngừng hút thuốc. Chúng tôi đều sợ bác dừng lại. ‘Đâu có’, hai chúng tôi bảo. Bầu trời bên trên trong veo, không một vẩn khói. Ông ấy đã chạy xuống. Chúng tôi co cẳng chạy theo. Tới chân đồi vẫn không có hiện tượng gì. Nhưng đúng lúc chúng tôi đặt chân tới nhà kho, làn khói trắng đầu tiên luồn ra từ dưới cửa kho và trở nên dày đặc trong vòng một phút. Khói tuôn ra từ mọi khe hở. Mọi người từ trong nhà và ngoài đồng chạy đến, giúp chúng tôi dập lửa. Chúng tôi đã cứu được cái kho. Tôi nhớ sau đó, khi chúng tôi đang nằm vật ra đất nghỉ, Frank nói với ông ấy, ‘Mắt cậu tinh thật đấy, nhìn từ trên kia chẳng thấy gì.’ Ông ấy nhấm nhấm một cọng rơm và đáp, ‘Tớ không nhìn thấy. Tớ chỉ biết nó sắp bị cháy thôi.' Chúng tôi không cười ông ấy, vì ông ấy đã đúng. Chúng tôi hỏi, ‘Làm sao cậu biết được?’ Ông ấy nói ngay bản thân cũng không biết làm sao mình biết. Chúng tôi thấy ông ấy nheo mắt nhìn mặt trời, cố gắng suy nghĩ. Sau đó, ông ấy nói, nguyên văn, tôi chưa bao giờ quên: ‘Tớ bất chợt nghĩ đến nó khi leo lên đồi. Mỗi lần nghĩ đến điều gì, thường có hình ảnh đi theo, điều mình nghĩ hiện ra trước mắt. Nếu nghĩ đến một cái cây, trong giây lát hình ảnh cái cây liền hiện ra. Nếu nghĩ đến một ngôi nhà, hình ảnh ngôi nhà liền hiện ra. Tớ tình cờ nghĩ đến nhà kho nhà tớ và đùng một cái, trong đầu tớ trở nên trắng xóa, như có một thứ ánh sáng cực mạnh chiếu vào. Tớ thấy cảnh nhà kho đang bốc cháy, nó hiện ra trong đầu rõ mồn một. Tớ nhìn xuống, thấy nó vẫn chưa cháy, nên tớ biết như thế nghĩa là nó sắp cháy.”' Không có âm thanh nào phát ra từ hai chúng tôi. Bố tôi đã hứng tàn thuốc vào lòng bàn tay, để chúng ở yên đây. Không người nào trong chúng tôi nhúc nhích. Cuối cùng, ông lật tay trút tàn thuốc vào cái gạt tàn dành cho nó. Tôi vẫn nhìn xuống sàn. Bác ta kể hết sức đơn giản. “Làm sao nó có thể là bất cứ cái gì khác ngoài sự thật rành rành?” Tôi nói với mình. Làm sao có thể là một mưu đồ, một sự diễn kịch qua câu chuyện bác vừa kể cho chúng tôi? Bác đã xếp xong cái đĩa cuối cùng. Bác đóng cửa tủ, đoạn nán lại phủi bụi cái núm cửa thủy tinh nhỏ bằng tạp dề, lần lượt tất cả các núm cửa. Bác làm một cách lơ đãng, như thể tâm trí đang ở tận đâu đâu. Trong im lặng, bỗng vang lên tiếng loảng xoảng của đồ bạc, vẳng ra từ chỗ Eileen bên trong. Nghe xa lạ như ở một không gian khác. Bác vừa tiếp tục lau núm cửa vừa nhìn xuyên qua căn phòng, nhìn vào quá khứ, tới hồi ức về những điều đang kể. “Sau đó xảy ra rất nhiều chuyện tương tự. Không có cái nào đột ngột và đáng chú ý bằng. Nhưng đó là lần đầu tiên nó xảy ra. Không cần thiết kể cho hai người phần sau nữa.” “Những người khác có biết chuyện không?” Bố tôi hỏi. “Một số, không nhiều. Lời đồn dần dần lan quanh vùng, trong những người biết chúng tôi.” “Họ cảm thấy thế nào?” Bác nhún vai. “Tôi không biết. Chắc là như chúng tôi thôi. Họ cũng như chúng tôi, đều là người chân chất. Nó là một điều chúng tôi không thể hiểu. Chúng tôi chấp nhận việc ông ấy có được món quà mà người khác không có, nhưng ngoài cái đó ra, chúng tôi không cảm thấy ông ấy khác biệt với bất cứ ai. Chẳng có gì ở ông ấy khiến chúng tôi cảm thấy như vậy. Bố ông ấy thỉnh thoảng vẫn bạt tai ông ấy, như những gì ông bố khác làm với con trai họ sau ngày hôm đó. Không khác gì.” “Người ta không tìm cách lợi dụng, tranh thủ món quà của ông ấy sao, theo cách bà gọi?” “Lúc đầu cũng có vài người. Những phụ nữ mang thai thỉnh thoảng tìm đến, muốn biết họ sẽ sinh con trai hay con gái. Một người hàng xóm hỏi vụ mùa năm nay của mình có trúng không. Những chuyện đó ông ấy không ngại, nếu họ thành thật với ông ấy. Nhưng khi người ta đến vì tính hiếu kỳ, chỉ thử ông ấy để lấy làm trò đùa thì ông ấy không chịu nổi. Ông ấy đau đớn và xấu hổ, tôi không biết nói sao nữa, giống như bị trưng ra triển lãm vậy. Đến một ngày, ông ấy bỏ chạy khỏi bọn họ và tìm cách treo cổ mình. Frank tìm thấy ông ấy trong nhà kho và cắt dây kịp thời. Sau đó, chúng tôi che chắn cho ông ấy. Chúng tôi không cho người ngoài biết chuyện nữa, chúng tôi để ông ấy được yên.” “Ông ấy sống một mình ở đây?” “Một người như ông ấy luôn sống một mình. Frank và tôi chuyển lên thành phố sau khi chúng tôi kết hôn một năm, không lâu sau ông ấy cũng đi theo chúng tôi. Bố mẹ ông ấy qua đời, ông ấy bán hết nhà cửa đất đai. Chúng tôi là những người bạn duy nhất của ông ấy. Ông ấy biết đi đâu được? Ông ấy làm gì được?” Bố tôi nói chậm rãi, trầm ngâm. “Nhưng ông ấy có thể có mọi quyền lực, với một món quà như thế. Ông ấy có thể giàu có và...” Ông quay sang nhìn bác ta với vẻ bất lực. “Tại sao?” “Ông ấy là người tốt”, bác trả lời đầy sùng kính. “Ông ấy nhận những gì Chúa trao tặng, không đòi hỏi thêm.” Chúng tôi lại rơi vào im lặng một lúc. Bố tôi quan sát bác rời khỏi những núm cửa đã được chăm chút rất lâu, đi qua phòng, cuối cùng dừng lại trước cái bàn, cúi nhìn nó như đang soi bóng mình qua mặt bàn đánh bóng. “Nó là gì, bà McGuire? Bà nghĩ sao về nó?” “Đó không phải việc của tôi”, bác đáp. “Không phải cái để tôi tò mò. Lúc nhỏ tôi đã không thắc mắc, giờ về già cũng vậy. Ông ấy chưa bao giờ dùng nó để hại tôi hay bất cứ ai mà tôi biết. Đó là ý muốn của Chúa và ngoài cái đó ra, tôi không muốn biết nó là gì.” Eileen đi vào phòng và bảo, “Con làm xong rồi.” Mẹ cô nói, “Cảm ơn con yêu”, với tiếng thở dài lơ đãng, như thể chính bác mới là người vừa làm xong việc. """