" Đêm Lisbon - Erich Maria Remarque full prc pdf epub azw3 [Kinh Điển] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đêm Lisbon - Erich Maria Remarque full prc pdf epub azw3 [Kinh Điển] Ebooks Nhóm Zalo ĐÊM LISBON —★— Nguyên tác: The Night in Lisbon Tác giả: Erich Maria Remarque Dịch giả: Lê Khánh Phát hành: Đông A Xuất bản: NXB Văn Học - 2017 ebook©vctvegroup TOC CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 • CHÚ THÍCH • CHƯƠNG 1 Tôi chăm chú nhìn con tàu buông neo trên sông Tagus, đèn thắp sáng rực rỡ. Mặc dầu tôi ở lại Lisbon đã được một tuần lễ, tôi vẫn chưa quen được với cái ánh sáng rực rỡ vô tư lự của nó. Ở những miền đất nước mà tôi đã ra đi, thành phố tối đen như hầm mỏ than, và ngọn đèn lồng trong bóng đêm còn kinh khiếp hơn bệnh dịch thời Trung Cổ. Và đó là châu Âu của thế kỷ hai mươi. Đó là con tàu chở hành khách; nó đang được chất hàng. Tôi biết nó sẽ ra khơi vào chiều ngày hôm sau. Trong ánh sáng gay gắt của những bóng điện trần, những thùng thịt, cá, thực phẩm đóng hộp, bánh mì và rau tươi đang được đưa xuống hầm chứa hàng. Công nhân bốc dỡ đưa hành lý lên tàu, nâng những thùng, những kiện hàng lên tàu một cách lặng lẽ, tưởng như chúng nhẹ tênh. Con tàu đang được chuẩn bị để làm một cuộc hành trình - như con tàu cứu rỗi vào thời Hồng thủy. Nó đúng là một thuyền cứu rỗi. Bất kỳ chiếc tàu nào rời châu Âu vào những tháng đó của năm 1942 cũng là một tàu cứu rỗi. Đỉnh Ararat[*] xưa kia nay là nước Hoa Kỳ, và nước lũ dâng cao lên từng ngày. Đã lâu nó ào vào nước Đức và nước Áo, nay nó làm chìm ngập Ba Lan và Praha; rồi đến lượt Amsterdam, Brussels, Copenhagen, Oslo và Paris. Tiếp theo là các thành phố nước Ý đã nghe nó thấm rỉ vào, và cả Tây Ban Nha cũng không thoát được. Bờ biển Bồ Đào Nha trở thành niềm hy vọng cuối cùng của những người tị nạn mà công lý, tự do và lòng khoan dung đối với họ có giá trị hơn cả quê hương và cuộc sống. Nơi đây là cửa ngõ vào Hoa Kỳ. Nếu bạn không đến đó được, tức là bạn hết thời, bạn sẽ phải mòn mỏi tiêu hao trong đám rừng rậm của những tòa lãnh sự, đồn cảnh sát, và những cơ quan chính phủ, nơi đây hộ chiếu bị từ chối, công việc làm ăn và giấy phép cư trú không thể có, cả một rừng chằng chịt những trại tập trung, cả một hệ thống giấy tờ thủ tục hành chánh, nỗi cô đơn, nhớ nhà và sự lãnh đạm khô héo của mọi người. Như thường lệ trong thời chiến, sợ hãi và ưu phiền, cả đến sinh mạng cá thể của con người cũng không còn có nữa. Chỉ một điều duy nhất là đáng kể: một tờ giấy thông hành có giá trị. Tối hôm ấy tôi đến sòng bạc Casino Estoril để đánh bạc. Tôi còn giữ được một bộ quần áo tươm tất nên họ để tôi vào. Đây là cố gắng cuối cùng và tuyệt vọng của tôi để thách đố số phận. Giấy phép cư trú tại Bồ Đào Nha của chúng tôi trong vài ngày nữa là hết hạn, mà tôi và Ruth chẳng có giấy hộ chiếu nào khác. Khi ở Pháp, chúng tôi đã vạch kế hoạch và liệt kê danh sách các chuyến tàu có thể đi New York. Con tàu bỏ neo tại sông Tagus này là chiếc sau cùng có ghi trên danh sách của chúng tôi. Vé tàu thì đã bán ra từ nhiều tháng nay; mà chúng tôi lại không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, và còn thiếu hơn ba trăm đô la để mua vé. Ít ra tôi cũng cố gắng nâng số tiền này lên bằng cách còn có thể được đối với một người nước ngoài tại Lisbon, đó là đánh bạc. Thật là một ý nghĩ điên rồ vì nếu tôi đánh bạc có ăn đi nữa thì cũng phải có thêm một phép lạ chúng tôi mới lên tàu được. Nhưng trong lúc hiểm nguy và tuyệt vọng, bạn thường tin tưởng vào phép màu, nếu không bạn sẽ chìm luôn. Tôi đã thua mất năm mươi sáu đô la trong số sáu mươi hai đô la chúng tôi còn lại. Đêm đã về khuya và bến tàu thì gần như hoang vắng. Nhưng một lát sau tôi nhận ra có một người đàn ông cách tôi không xa. Lúc đầu thì hắn thả bộ phất phơ, sau đó hắn dừng lại và cũng bắt đầu chăm chú nhìn ra con tàu. Lại một kẻ tị nạn bị bỏ rơi, tôi chợt nghĩ, và không chú ý đến hắn nữa, cho đến lúc tôi có cảm giác là hắn đang nhìn tôi. Dân tị nạn không bao giờ đánh mất nỗi lo sợ đối với cảnh sát, dù là trong giấc ngủ hoặc trong lúc chẳng có gì phải sợ hãi cả. Bởi thế nên tôi quay đi, giả vờ như dửng dưng chán chường và bắt đầu chậm rãi rời khỏi cầu tàu, như một người chẳng có gì phải lo sợ cả. Một lúc sau, tôi lại nghe tiếng bước chân đằng sau. Tôi vẫn tiếp tục đi mà không vội vã, vừa tự hỏi làm sao tôi có thể báo cho Ruth biết tin nếu tôi rủi bị bắt. Những ngôi nhà màu tùng lam ở cuối cầu tàu ngái ngủ như những con bướm đêm, đối với tôi thật vẫn còn quá xa để tôi có thể chạy đến đó và biến mất trong mấy đường phố quanh co chằng chịt. Giờ đây thì hắn đã đứng ngay bên cạnh tôi. — Ông là người Đức? - Hắn hỏi tôi bằng tiếng Đức. Tôi lắc đầu và tiếp tục bước đi. — Người Áo? Tôi cũng không trả lời. Tôi nhìn những ngôi nhà màu tùng lam đang tiến lại gần một cách quá chậm chạp. Tôi thừa biết có những cảnh sát viên người Bồ Đào Nha nói tiếng Đức rất thạo. — Tôi không phải là cảnh sát. - Gã đàn ông nói. Tôi không tin lời hắn. Hắn mặc thường phục, nhưng đã có năm bảy lần những người mặc thường phục bắt tôi ở châu Âu. Tôi có giấy tờ tùy thân, vốn là một tác phẩm không đến nỗi tệ lắm do một giáo sư dạy toán người gốc thành phố Praha ở Paris thực hiện, nhưng nếu bị kiểm tra kỹ thì chắc sẽ không chút giá trị gì. — Tôi thấy ông nhìn con tàu, - Người đàn ông nói, - Điều đó khiến tôi nghĩ rằng… Tôi dửng dưng nhìn hắn ta. Thật tình thì hắn chẳng có vẻ gì là cảnh sát cả, nhưng người đàn ông mặc thường phục mới đây đã tóm cổ tôi ở Bordeaux lần vừa rồi cũng có vẻ thảm hại như Lazarus[*] khi ra khỏi mồ sau ba ngày, ấy thế mà hắn lại là kẻ tàn bạo nhất trong đám. Hắn đã bắt tôi, dẫu hắn biết qua hôm sau quân Đức sẽ có mặt tại đó, và đời tôi kể như chấm dứt nếu không có tên cai ngục tốt bụng thả tôi ra vài giờ sau đó. — Ông muốn đi New York không? - Người đàn ông hỏi. Tôi không trả lời; chỉ cần hai mươi thước nữa thôi, và nếu cần, tôi có thể đánh gục hắn rồi tẩu thoát. — Đây là hai vé để đáp thuyền tàu đó. - Người đàn ông nói và cho tay vào túi. Tôi trông thấy hai tấm vé. Dưới ánh đèn yếu ớt, tôi không thể đọc trong ấy viết những gì. Nhưng chúng tôi đã ở vào một khoảng cách khá đủ và bây giờ nếu dừng lại thì cũng chẳng sao. — Tất cả những điều này có nghĩa gì thế? - Tôi hỏi hắn bằng tiếng Bồ Đào Nha; tôi đã học được ít câu ngôn ngữ đó. — Ông có thể dùng hai tấm vé đó. - Người đàn ông bảo. - Tôi không cần đến nữa. — Ông không cần đến chúng sao? Ông muốn nói gì vậy? — Tôi không cần đến vé tàu nữa. Tôi nhìn chòng chọc vào người đàn ông. Tôi không thể hiểu nổi. Quả thật hắn chẳng có vẻ gì là cảnh sát cả. Nếu muốn bắt tôi thì hắn có thể làm việc đó mà không cần đến những ngón nghề hoa hòe hoa sói như vậy. Nếu mấy tấm vé kia có giá trị, tại sao hắn không thể sử dụng được? Và tại sao hắn lại biếu tôi? Có một cái gì đó bắt đầu run rẩy trong tôi. Sau cùng tôi đáp bằng tiếng Đức: — Tôi không thể mua những tấm vé ấy được. Chúng rất đắt, bằng cả một gia sản. Tại Lisbon này, có những kẻ dư của nhiều tiền; họ có thể trả bất cứ giá nào ông muốn. Ông đã gặp không đúng người rồi. Tôi chẳng có tiền. — Tôi không muốn bán. - Người đàn ông đáp. Tôi nhìn lại những tấm vé. — Mấy vé ấy thật hay giả? Hắn chìa cho tôi những tấm vé, chẳng nói một lời. Chúng kêu sột soạt giữa mấy ngón tay tôi. Quả thật chúng là những tấm vé thật. Có những tấm vé này, đó là sự khác nhau giữa sự hủy diệt và cứu rỗi. Cho dầu tôi không sử dụng được vì không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, thì sáng hôm sau, chúng tôi vẫn có thể cố gắng xin dấu nhập cảnh, hay ít ra cũng có thể bán vé lại. Như thế có nghĩa là tôi có thể kéo dài cuộc sống thêm sáu tháng nữa. — Quả thật tôi không hiểu? - Tôi nói. — Ông có thể dùng những tấm vé đó, - Hắn đáp lại, - Mà chẳng phải trả bất cứ một thứ gì. Sáng mai đây tôi sẽ rời Lisbon. Chỉ có một điều kiện. Đôi tay tôi chùng xuống. Tôi hiểu rằng đây là một câu chuyện quá đẹp nên khó trở thành sự thật. — Điều kiện gì? - Tôi hỏi. — Đêm nay tôi không muốn phải cô đơn. — Ông muốn tôi ở lại với ông? — Vâng. Cho đến sáng ngày mai. — Có thế thôi sao? — Vâng, chỉ có thế. — Chẳng có gì khác nữa sao? — Không, chẳng có gì khác nữa. Tôi nhìn hắn, bán tính bán nghi. Dĩ nhiên, tôi cũng hiểu người ta trong hoàn cảnh chúng tôi có thể rã rời, chán nản; đôi khi nỗi cô đơn là điều không thể chịu đựng được. Tôi hiểu rõ nỗi sợ hãi, sự trống vắng tấn công những kẻ mà đối với họ thế giới đã biến thành một khoảng cô quạnh, và tôi cũng biết sự có mặt của một người, dù là hoàn toàn xa lạ, còn có thể cứu được người ta khỏi tự vẫn. Nhưng trong những tình cảnh như thế người ta giúp lẫn nhau là chuyện thường tình, chẳng cần đưa ra một đền đáp nào cả. Mà lại là một sự đền đáp như thế. — Ông ở đâu? - Tôi hỏi. Hắn khoát tay ra dấu không có: — Chẳng có nơi nào cho dân tị nạn tìm chút khuây khỏa sao? Một nơi giống quán Café de la Rose ở Paris chẳng hạn? — Tôi không muốn đến đó. Chẳng có một quán rượu nào còn mở cửa nữa sao? — Chắc phải có chứ? Tôi biết quán Café de la Rose. Ruth và tôi đã ngủ tại đó trong suốt hai tuần lễ. Chủ nhân để cho bạn ở đấy bao lâu cũng được với giá tiền một tách cà phê thôi. Bạn cứ trải vài tờ báo ra và nằm ngủ ngay nơi sàn nhà. Tôi chưa bao giờ ngủ trên bàn; ngủ dưới sàn nhà thì không còn rơi xuống đâu nữa. — Tôi chẳng biết quán nào cả. - Tôi đáp. Điều này không đúng, nhưng ta không thể đưa người có hai vé tàu đến một nơi mà nhiều người dám bỏ mất linh hồn để có được chúng. — Tôi chỉ biết có một chỗ. - Người đàn ông nói, - Ta có thể đến đó thử. May ra nó còn mở cửa. Hắn tiến gần một chiếc taxi đơn độc và nhìn tôi. — Cũng được vậy. - Tôi nói. Chúng tôi bước lên xe và hắn cho người lái xe một địa chỉ. Tôi muốn cho Ruth biết đêm hôm đó tôi không về, nhưng khi bước lên chiếc taxi tối om và hôi hám, tôi bị vây bủa bởi một niềm hy vọng quá mãnh liệt và khủng khiếp đến nỗi đầu óc tôi tưởng như quay cuồng. Có thể tất cả chuyện này là thật; có thể là mạng sống của chúng tôi chưa đến lúc tận cùng và điều không thể lại có thể xảy đến; có lẽ chúng tôi sắp được cứu thoát. Một khi ý tưởng này đi sâu vào tâm não, tôi lại đâm ra lo sợ người khách lạ biến mất khỏi tầm mắt mình, dẫu chỉ trong giây phút. Chúng tôi đi lòng vòng quanh quảng trường Praca do Comércio, một nơi trông có vẻ là hí trường, và một lát sau, chúng tôi đến khu gồm những ngõ hẻm chằng chịt và nhiều bậc thang. Tôi không biết khu này của thành phố Lisbon. Lâu nay tôi chỉ quen thuộc với những giáo đường và viện bảo tàng; chẳng phải vì tôi quá yêu Thượng đế hay nghệ thuật, mà vì trong giáo đường hay viện bảo tàng chẳng ai hỏi đến giấy tờ bạn cả. Trước mặt đấng Ki-tô đóng đinh trên thập giá và trước các bức danh họa, bạn vẫn còn là con người chứ không phải là một kẻ nào đó với mớ giấy tờ khả nghi. Chúng tôi xuống taxi và tiếp tục lần lên những đường bậc thang và những con phố quanh co. Đây đây phảng phất mùi cá, mùi tỏi, mùi hoa đêm, mùi nắng đã tắt lịm và mùi của giấc ngủ. Dưới vầng trăng đang nhô lên, lâu đài thánh George vươn lên cao khỏi bóng đêm từ một phía, và ánh trăng tuôn tràn trên mấy lối nấc thang. Tôi đi quanh quất và nhìn xuống cảng. Dưới kia là con sông, mà con sông là tự do và cuộc sống; nó chảy ra đại dương, mà đại dương có nghĩa là Hoa Kỳ. Tôi dừng bước, lặng lẽ. — Tôi mong ông không đùa với tôi đấy chứ? - Tôi nói. — Không. - Người đàn ông trả lời. — À, tôi muốn nói là đùa cợt với những tấm vé đó. Hắn đã bỏ những tấm vé tàu vào túi khi đến cầu tàu. — Không. - Hắn trả lời. - Tôi không đùa đâu. Hắn chỉ về hướng một khu nhà nhỏ nhắn đóng khung trong vòm cây. — Đó là nơi tôi muốn nói đến. Quán này vẫn còn mở cửa. Không ai chú ý đến chúng ta đâu. Hầu hết khách ăn uống đều là người nước ngoài. Họ sẽ nghĩ chúng ta ra đi ngày mai và chúng ta uống mừng đêm cuối cùng ở Bồ Đào Nha trước khi đáp tàu thủy. Nhà hàng thuộc loại tiệm ăn đêm với một sàn nhảy bé tí xíu và một hàng hiên để phục vụ du khách đến và đi. Có ai đó đang chơi đàn ghi ta và ở cuối phòng một cô gái đang hát một bài dân ca ai oán Bồ Đào Nha. Ngoài hàng hiên, phần lớn những dãy bàn đã có người ngoại quốc ngồi rồi. Có một thiếu phụ mặc dạ phục và một người đàn ông mặc smoking. Chúng tôi tìm được một cái bàn ở phía cuối hàng hiên. Từ đây ta có thể trông xuống thành phố Lisbon, những nhà thờ trong ánh sáng mờ nhạt, những đường phố, hải cảng, những cầu tàu và chiếc tàu “cứu rỗi”. — Ông có tin vào sự sống lại sau khi chết không? - Người đàn ông có những tấm vé hỏi. Tôi ngước nhìn lên. Tôi chờ đợi bất cứ mọi chuyện trừ câu hỏi này. Sau cùng, tôi nói: — Tôi cũng không biết nữa. Trong những năm gần đây, tôi mải lo lắng về việc làm sao sống còn được trước khi chết. Tôi sẽ nghĩ đến vấn đề kia một khi đến được Hoa Kỳ. - Tôi nói thêm, có ý nhắc hắn mấy tấm vé tàu hắn hứa cho tôi. — Còn tôi thì không. - Hắn bảo. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi sẵn sàng nghe bất cứ chuyện gì nhưng không tài nào chịu nổi một cuộc tranh luận. Tôi quá mệt mỏi. Bên dưới kia, con tàu nằm chờ đợi. Người đàn ông ngồi đó hồi lâu, như thể ngủ mà mắt vẫn mở. Đến lúc người chơi ghi ta bước ra hàng hiên thì hắn vội thức dậy. — Tôi tên là Schwarz. - Hắn nói, - Đó không phải là tên thật của tôi đâu, chỉ là cái tên trên thẻ thông hành của tôi thôi. Nhưng tôi đã quen với nó rồi. Với cái tên ấy đêm nay thì cũng ổn thôi. Ông ở Pháp có lâu không? — Mãi đến lúc họ không cho phép tôi lưu lại đó nữa. — Bị giam ư? — Vâng, khi chiến tranh bùng nổ, như mọi người. Người đàn ông gật gù. — Chúng tôi cũng thế. Tôi đã hạnh phúc. - Giọng hắn chùng xuống và mặt ngoảnh đi. - Tôi rất hạnh phúc, tưởng như tôi chưa bao giờ nghĩ có thể được hạnh phúc đến như vậy. Tôi ngạc nhiên quay người lại. Thật tình hắn chẳng có vẻ gì là người muốn nói chuyện bằng giọng điệu như thế. Trông hắn có vẻ khó tả và kín đáo. — Lúc nào thế? Trong trại tập trung hả? - Tôi hỏi. — Không phải đâu. Trước kia nữa. — Vào năm 1939? Tại Pháp? — Đúng vậy. Mùa hè trước khi chiến tranh bùng nổ. Đến nay tôi vẫn không hiểu tại sao cớ sự lại xảy ra như thế. Chính vì vậy mà giờ đây tôi cần phải nói chuyện với một ai đó. Ở đây, tôi chẳng quen biết ai cả. Nhưng nếu tôi được kể với ai về chuyện đó, tôi có thể hồi tưởng lại một cách dễ dàng. Trong trí tôi nó sẽ rõ nét hơn. Và nó sẽ còn lại đó. Thật ra, tôi chỉ cần… Bỗng nhiên, hắn ngừng lại. Một lát sau, hắn lại hỏi: — Ông hiểu chứ? — Vâng, chẳng có gì khó hiểu cả ông Schwarz ạ. — Không tài nào hiểu nổi đâu, ông ơi. - Đột nhiên hắn trả lời một cách giận dữ. - Nàng nằm đó, trong phòng đóng kín cửa sổ, trong một cỗ quan tài gớm ghiếc; nàng đã chết, nàng không còn sống nữa! Ai hiểu được điều đó chăng? Chẳng ai cả. Cả ông lẫn tôi đều không thể hiểu. Chẳng ai cả, và kẻ nào đó bảo rằng y hiểu được, kẻ đó là một tên khoác lác. Tôi chẳng nói gì và chờ đợi. Tôi đã từng ngồi tiếp chuyện với một người trong hoàn cảnh tương tự. Những mất mát, thua thiệt thật khó mà chịu đựng nổi khi bạn không có lấy một quê hương riêng cho bạn. Chẳng có gì để nâng đỡ bạn, và cái đất nước xa lạ kia lại càng trở nên xa lạ một cách khủng khiếp hơn. Bản thân tôi đã có kinh nghiệm về chuyện này ở Thụy Sĩ, khi hay tin bố mẹ tôi đã bị giết và hỏa thiêu trong một trại tập trung. Cái ý nghĩ về đôi mắt mẹ tôi trong ngọn lửa lò hỏa thiêu vẫn ám ảnh tôi mãi. — Tôi chắc rằng, - Schwarz nói một cách điềm tĩnh hơn, - Ông cũng đã nếm qua những nỗi phập phồng, kinh hãi của người dân tị nạn là như thế nào rồi. Tôi gật đầu. Người hầu bàn mang ra cho chúng tôi một bát đầy tôm. Đột nhiên tôi mới nhớ tôi chưa ăn gì kể từ bữa cơm trưa. Tôi ngập ngừng nhìn về phía Schwarz. — Mời ông cứ tự nhiên dùng bữa đi. - Hắn nói, - Còn tôi, tôi chờ. Hắn kêu rượu chát và thuốc lá. Tôi ăn thật nhanh. Tôm tươi được ướp gia vị thật tuyệt. — Bỏ lỗi cho tôi nhé. - Tôi nói, - Quả thật là tôi rất đói. Tôi vừa ăn vừa quan sát Schwarz. Hắn ngồi đó, thản nhiên nhìn xuống cái sân khấu bao la mang tên Lisbon mà không nôn nóng hoặc giận dữ gì. Chính điều này khiến tôi bỗng nhiên có đôi chút cảm tình đối với hắn. Dường như hắn nhận ra, dẫu sách dạy lịch sự có nói gì về vấn đề này, người ta vẫn có thể thấy đói ngay cả trong sự hiện diện của nỗi bất hạnh mà chẳng thấy cảm xúc gì cả. Nếu bạn chẳng làm được điều gì có ích hơn, ít ra bạn cũng có thể dùng nốt bữa ăn của bạn trước khi người ta dẹp nó đi. Bởi điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tôi đẩy đĩa thức ăn qua một bên và đốt một điếu thuốc. Đã lâu lắm tôi chưa được hút thuốc. Tôi đã phải nhịn thuốc hầu có thêm chút ít tiền để đánh bạc. — Nỗi lo sợ hốt hoảng đã nhập vào tôi mùa xuân năm 1939. - Schwarz nói, - Hơn năm năm nay tôi là dân tị nạn. Mùa thu năm 1938 ông ở đâu? — Ở Paris. — Tôi cũng thế. Nhưng rồi thì tôi bỏ cuộc. Dạo ấy là ngay trước lúc ký thỏa ước Munich[*]. Nỗi khiếp sợ của tôi rồi tự nhiên cũng qua đi. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục lẩn trốn và cảnh giác vì thói quen, nhưng nay tôi đã bỏ cuộc rồi. Chiến tranh sẽ nổ ra và người Đức sẽ đến đây bắt tôi. Âu đó cũng là số phận của tôi. Tôi đành chịu vậy. Tôi gật đầu. — Đó là vào hồi có làn sóng tự sát. Quả thật là lạ. Một năm rưỡi sau khi quân Đức đến thật sự thì những vụ tự tử lại ít hơn. Tiếp đó là thỏa ước Munich. - Schwarz tiếp, - Mùa thu năm ấy, chúng tôi lại được sống thoải mái hơn. Cuộc sống thật là ngọt ngào, nhẹ nhàng, thanh thản, nên chúng tôi đâm ra thiếu cảnh giác. Năm ấy, quả thật hàng cây dẻ lại trổ hoa một lần nữa ở Paris, ông còn nhớ chứ? Việc này đã khắc sâu vào tâm trí tôi rồi. Một lần nữa tôi lại cảm thấy tôi là con người, và điều tệ hơn nữa là tôi lại hành động như một con người cho nên cảnh sát bắt tôi và giam tôi trong bốn tuần lễ về tội nhập cảnh bất hợp pháp. Ở đâu thì cũng diễn ra cái màn cũ đó. Chúng tống tôi qua biên giới tại Basel, rồi người Thụy Sĩ đẩy tôi trở lại, người Pháp lại tống tôi trở ra tại một địa điểm khác. Tôi bị bắt nhốt lần nữa, chắc ông cũng biết cái thủ tục luẩn quẩn đó, cái trò đánh cờ bằng con người. — Vâng, tôi biết. Nếu là mùa đông thì chẳng vui thú gì. Chỉ có nhà lao Thụy Sĩ là đàng hoàng nhất. Được sưởi ấm như khách sạn. Tôi lại tiếp tục ăn. Với những kỷ niệm khó chịu, vẫn có một khía cạnh tốt: chúng khiến ta nghĩ ta được hạnh phúc trong khi chỉ một lúc trước đó ta lại tin vào điều trái ngược hẳn. Hạnh phúc chỉ là vấn đề mức độ. Khi nhận thức được như vậy, ít khi bạn hoàn toàn khổ sở. Tôi đã được sung sướng trong nhà tù Thụy Sĩ chỉ vì không phải là nhà tù Đức. Nhưng giờ đây, trước mặt tôi là một người đàn ông đang ngồi nói chuyện với tôi, tưởng như hắn được hạnh phúc mặc dầu đâu đây, tại Lisbon này, có một cỗ quan tài đã được dựng lên trong một căn phòng thiếu không khí. — Lần vừa rồi, lúc thả tôi ra, họ bảo sẽ tống tôi về Đức lại nếu bắt được tôi mà không có giấy tờ. - Schwarz nói, - đó chỉ là một lời hăm dọa, nhưng nó vẫn làm cho tôi lo sợ. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ phải làm gì nếu chuyện đó xảy ra thực sự. Ban đêm tôi bắt đầu mơ thấy tôi ở Đức với bọn lính SS[*] đang săn đuổi tôi. Giấc mơ ấy thường đến với tôi đến mức tôi đâm ra sợ những lúc phải ngủ thiếp. Có bao giờ sự thể này xảy đến với ông không? — Tôi có thể viết cả một luận án về vấn đề này. - Tôi đáp. — Có một đêm tôi mơ thấy đang ở Osnabruck[*], một thành phố nơi tôi đã từng sống và vợ tôi thì đang sống. Tôi đứng trong phòng nàng và nhận ra nàng ốm. Nàng gầy như sậy và khóc sướt mướt. Tôi bừng tỉnh dậy, toát mồ hôi lạnh. Trong năm năm, tôi không gặp nàng và cũng không nhận được tin tức gì của nàng. Tôi cũng chẳng viết thư cho nàng nữa. Vì tôi không biết thư từ của nàng có bị mở ra kiểm duyệt không. Trước khi tôi ra đi, nàng có hứa sẽ làm đơn xin ly dị. Tôi nghĩ như thế nàng sẽ được dễ dãi hơn. Và trong nhiều năm nay, tôi tưởng nàng đã làm việc này rồi. Schwarz im lặng một hồi. Tôi không hỏi hắn vì sao bỏ nước Đức ra đi. Có vô số lý do nhưng chẳng có lý do nào vững cả, vì tất cả đều trái với lẽ thường. Làm nạn nhân, thật chẳng có vui thú gì. Hoặc hẳn là dân Do Thái, hay thuộc một đảng chính trị chống lại chế độ, hoặc có những kẻ thù nay đã bước lên địa vị có thế lực. Ở Đức, có hàng tá lý do để bị ném vào trại tập trung hoặc bị hành quyết. — Tôi đã tìm được cách trở lại Paris. - Schwarz nói, - Nhưng mộng ấy vẫn không để tôi yên. Nó cứ trở về với tôi mãi. Trong lúc ấy, ảo tưởng do thỏa ước Munich tạo nên đã tan vỡ. Vào đầu xuân, ai ai cũng biết sẽ có chiến tranh. Bạn có thể đánh hơi thấy nó, y như bạn đánh hơi có lửa trước khi bạn trông thấy nó. Chỉ có những nhà ngoại giao mới nhắm mắt lại và mơ những giấc mơ khao khát là sẽ có một thỏa ước Munich thứ hai hoặc thứ ba hoặc bất cứ là gì nhưng không phải chiến tranh. Chưa lúc nào lại có nhiều người tin vào phép màu như ở thời đại chúng ta đến thế, trong khi thật ra chẳng có phép màu nào cả. — Có chứ. - Tôi nói, - Nếu không, chúng ta đâu còn sống đến ngày nay. — Đúng vậy. Đó là những phép màu riêng tư. Bản thân tôi cũng có được một phép màu như thế. Câu chuyện bắt đầu từ Paris. Dạo ấy, bỗng đâu tôi lại thừa hưởng được một giấy thông hành có giá trị. Đó là tấm thông hành mang tên Schwarz. Nó là của một người Áo tôi gặp tại quán Café de la Rose. Anh ta chết đi và để lại cho tôi tấm thông hành đó cùng tiền bạc của anh ấy. Anh mới đến chỉ ba tuần lễ trước đó. Tôi gặp tại viện bảo tàng Louvres[*], đang ngắm những tác phẩm của các họa sĩ phái ấn tượng. Đôi khi tôi cũng đến đó để cho những dây thần kinh tôi được lắng xuống. Khi bạn ngắm những phong cảnh bình yên ngập nắng, bạn không thể ngờ một giống người có khả năng sáng tạo những bức tranh như thể lại sắp sửa gây ra cuộc chiến tranh tàn hại - một ảo tưởng xoa dịu đưa huyết áp ta xuống trong vài tiếng đồng hồ. Người đàn ông với tấm thông hành mang tên Schwarz thường đứng ngắm những bức tranh hoa sen và giáo đường của Monet[*]. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện với nhau và anh ta cho biết sau vụ Anschluss[*], anh đã tìm đường trốn khỏi nước Áo bằng cách bỏ lại tài sản của mình, gồm bộ sưu tập các bức danh họa của phái ấn tượng. Bộ sưu tập này đã bị Nhà nước tịch thu. Anh ta chẳng luyến tiếc gì. Chừng nào những bức tranh ấy được trưng bày ở viện bảo tàng, thì anh ta còn có thể chiêm ngưỡng chúng như của riêng mình mà không phải lo lắng hỏa hoạn hay trộm cắp. Vả lại, trong những viện bảo tàng của Pháp có những bức tranh còn đẹp hơn những bức tranh anh có thể có. Thay vì bị ràng buộc vào bộ sưu tập tầm thường của riêng mình như người cha bị gắn bó vào gia đình, với bổn phận phải thích cái của mình hơn, nay anh ta có tất cả những bức tranh trong các viện bảo tàng công cộng mà khỏi phải cố gắng hay trách nhiệm gì cả. Anh ta là một người đàn ông kỳ quặc, trầm tĩnh, dễ thương, vui tính, mặc dù đã phải gánh chịu tất cả mọi tai ương. Anh ta mang theo mình rất ít tiền, nhưng có giấu được một số tem cũ. Tem là vật nhỏ nhất có thể giấu được dễ dàng hơn kim cương. Thật khó mà bước đi trên kim cương nếu bạn giấu nó trong giày và bạn bị gọi ra khỏi tàu để kiểm tra. Bạn không thể bán được trừ khi bạn chấp nhận bán lỗ nhiều, và người ta sẽ hỏi bạn nhiều câu hỏi. Còn tem thì dành cho người sưu tầm. Mà những nhà sưu tầm thì không đến nỗi tò mò lắm. — Bằng cách nào mà anh ta có thể đem ra ngoài được? - Tôi hỏi với một sự chú ý mà mọi dân tị nạn đều có. — Anh ta mang theo một ít thư từ cũ, bề ngoài có vẻ vô hại và giấu những con tem đó dưới lớp giấy lót của phong bì. Nhân viên hải quan kiểm soát thư từ chứ không kiểm soát phong bì. — Không tệ lắm. - Tôi nói. — Anh ta cũng mang theo hai bức chân dung của Ingres[*]. Đó là những bức họa bằng bút chì. Anh lồng chúng vào những khung mạ vàng gớm ghiếc và bảo là chân dung cha mẹ mình. Anh nhét hai bức họa của Degas[*] giữa bức chân dung và lớp giấy phía sau lưng. — Không tệ lắm. - Tôi lại nói. — Đến tháng tư, anh ta bị đau tim. Anh để lại tấm thông hành, số tem còn lại, cùng những bức họa cho tôi. Anh ta còn để lại cho tôi địa chỉ những người có thể mua tem. Sáng hôm sau, khi tôi tạt qua thăm anh ta, thì anh đã chết trên giường, nét mặt bị sự im lặng thay đổi đến mức tôi khó lòng nhận ra anh được. Tôi lấy số tiền anh ta còn lại, một bộ áo quần và đồ lót. Ngày hôm trước đó, anh đã bảo tôi làm như thế; anh muốn thà để lại những tư trang của mình cho một người bạn cùng số phận còn hơn cho lão chủ nhà. — Ông có sửa lại giấy thông hành không? - Tôi hỏi. — Tôi chỉ thay đổi tấm ảnh và năm sinh. Schwarz lớn hơn tôi hai mươi tuổi. Tên chúng tôi trùng nhau, còn họ thì khác. — Ai làm việc đó? Brunner phải không? — Một người nào đó, dân Munich. — Đúng là Brunner, chuyên gia về giấy thông hành. Brunner được mọi người biết đến nhờ tài ngụy tạo giấy tờ tùy thân. Ông ta đã giúp cho không biết bao nhiêu người, nhưng chính bản thân ông khi bị bắt chẳng có một mảnh giấy tờ nào cả. Ông ta là người tin dị đoan. Ông nghĩ mình là người đáng kính và là kẻ làm phúc cho thiên hạ, và tin chắc chẳng có chuyện gì xảy đến cho ông chừng nào mà ông không vận dụng nghệ thuật của mình cho chính lợi ích của bản thân. Ông ta đã từng làm sở hữu chủ một nhà in nhỏ ở Munich. — Thế bây giờ ông ta ở đâu? - Tôi hỏi. - Ông ấy chẳng ở Lisbon sao? — Tôi chẳng rõ, nhưng điều ấy có thể là có, nếu ông còn sống. — Thật là chuyện buồn cười. - Schwarz đệ nhị nói, - Khi tôi nắm được tấm giấy thông hành, tôi lại không dám sử dụng nó. Thêm vào đó, tôi phải mất dăm ba ngày để làm quen với cái tên mới của tôi. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại cái tên ấy cho chính mình. Khi qua khu phố Champs Elysées[*], tôi cứ lẩm bẩm cái tên, ngày và nơi sinh mới. Tôi ngồi trong viện bảo tàng chăm chú nhìn mấy bức tranh của Renoir[*], và nếu chỉ có mình tôi lúc đó thì tôi lại diễn tập cuộc đối thoại tưởng tượng. Một giọng nghiêm khắc: “Schwarz!” Rồi tôi nhảy nhổm dậy trả lời: “Dạ, có tôi”. Hoặc là tôi gầm gừ: “Tên gì?” Và tôi lại đáp như cái máy: “Josef Schwarz, sinh tại Wiener Neustadt, ngày 22 tháng sáu năm 1898”. Tôi còn thực tập ngay cả trước khi đi ngủ. Tôi không muốn bị đánh thức bởi một tên cảnh sát và khai tên họ sai trước khi lấy lại bình tĩnh. Tôi phải quên hẳn cái tên cũ của tôi. Có sự khác biệt giữa việc không có giấy thông hành và có một giấy thông hành giả. Tấm thông hành giả nguy hiểm hơn nhiều. Tôi đã bán hai bức tranh của Ingres và nhận được một số tiền ít hơn là số tiền tôi mong đợi, nhưng giờ đây, tôi đã có tiền, và có nhiều hơn là tôi đã được thấy từ lâu. Sau đó, có một đêm tôi nảy ra ý nghĩ vẫn ám ảnh tôi mãi về sau này. Lẽ nào tôi chẳng thể đi Đức được với tấm thông hành này. Trông nó gần giống như thật, và tại sao lại có người nào đó ở biên giới lại sinh nghi? Thế thì tôi có thể gặp lại vợ tôi. Tôi có thể bớt nỗi lo sợ về nàng. Tôi có thể… Schwarz nhìn tôi: — Chắc ông cũng biết qua cái cảm giác đó. Nỗi lo sợ của dân tị nạn dưới dạng thuần khiết nhất. Cái cảm giác bị bóp nghẹt ở dạ dày, cuống họng và ở phía sau con ngươi. Tất cả những gì ta cố gắng chôn vùi đi từ nhiều năm nay, tất cả những gì ta cố quên đi, mà ta tránh xa như bệnh dịch hạch, lại hồi sinh trở lại. Đối với dân tị nạn, ký ức là một chứng bệnh nguy hiểm chết người, nó chính là thứ ung thư của tâm hồn. Tôi cố nhận chìm nó xuống vùng quên lãng. Tôi vẫn tiếp tục đi xem những bức tranh thanh thản và yên tĩnh, những danh họa của Sisley và Pissarro[*] và Renoir. Tôi lưu lại hàng giờ tại viện bảo tàng, nhưng điều này có một tác dụng ngược lại đối với tôi. Mấy bức tranh không còn làm cho tôi yên lòng nữa. Chúng bắt đầu gào thét, thách đố, nhắc nhở tôi về một vùng quê hương lúc bấy giờ chưa bị chứng phung hủi nâu[*]tàn phá, về những buổi chiều ở những con phố với các lối đi um tùm tử đinh hương, về những buổi hoàng hôn vàng chói trên thị trấn cổ xưa, về những tháp chuông rong rêu xanh thẫm với hàng đàn chim én bay quanh, và nhắc về vợ tôi. Tôi là một người bình thường, chẳng có đức tính gì đặc biệt. Trong bốn năm, tôi đã sống với vợ tôi như hầu hết mọi người, nghĩa là một cách bình thường, vui vẻ, song chẳng có đam mê gì lớn lao. Sau vài tháng đầu, mối quan hệ giữa chúng tôi đã biến thành cái mà người đời thường gọi là một cuộc hôn nhân hạnh phúc, một mối quan hệ giữa những người chỉ biết nghĩ đến nhau mà không kỳ vọng gì quá đáng. Những giấc mơ đó của chúng tôi nay đã thuộc về dĩ vãng, nhưng chúng tôi không luyến tiếc chúng nữa. Chúng tôi là những kẻ biết điều. Và chúng tôi rất mực yêu thương nhau. Giờ đây tôi nhìn mọi sự dưới một thứ ánh sáng mới mẻ. Tôi bắt đầu tự trách tôi. Hôn nhân của chúng tôi mà tầm thường như vậy cũng do lỗi tại tôi. Tôi làm cho mọi việc đổ nát. Tôi đã sống vì cái gì đây? Giờ tôi đang làm gì đây? Tôi đã lê thân xuống vực sâu, tôi đã sống như cỏ cây. Sự thể kéo dài trong bao lâu? Chừng nào nó kết thúc? Chiến tranh sẽ đến, và nước Đức chắc chắn sẽ chiến thắng. Chẳng có một nước nào được chuẩn bị đầy đủ cả. Rồi sau đó là gì? Tôi có thể đưa thân xác này đến đâu, giả sử như tôi vẫn còn thì giờ và sức lực? Tôi sẽ chết đói trong một trại tập trung nào đây? Người ta sẽ đặt tôi vào bức tường nào đây để bắn tôi, nếu tôi được may mắn? Tấm thông hành kia đáng lẽ tạo cho tôi sự an tâm thì lại đưa tôi đến chỗ tuyệt vọng. Tôi lang thang khắp các phố mãi đến lúc mệt lử. Thế mà tôi lại không ngủ được, và có khi nào tôi thiếp đi thì những giấc mơ kia lại đánh thức tôi dậy. Tôi lại thấy vợ tôi trong những hầm giam của bọn Gestapo[*]; tôi lắng nghe tiếng nàng kêu cứu trong sân khách sạn tôi ở; và có một hôm, trước khi bước chân vào quán Café de la Rose, tưởng như tôi đã thấy khuôn mặt nàng in trong tấm kính phía bên kia cửa ra vào. Nàng quay mặt về phía tôi trong giây lát, khuôn mặt nàng xanh xao, đôi mắt xa vắng, rồi nàng tan biến đi. Tôi trông thấy nàng quá rõ ràng đến nỗi tôi chắc chắn quả thật nàng có mặt tại đó. Tôi chạy vào phòng sau. Như thường lệ, phòng này đông người, nhưng trong đó không có nàng. Trong mấy ngày liền, tôi bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ nàng đã đến Paris và đang tìm tôi. Đã bao nhiêu lần tôi trông thấy nàng rẽ vào góc phố; tôi trông thấy nàng ngồi trên chiếc ghế trong công viên Luxembourg[*], và khi tôi đến nơi thì lại là một khuôn mặt lạ hoắc ngẩng lên nhìn tôi kinh ngạc; nàng băng qua quảng trường La Concorde[*] vừa đúng lúc dòng xe sắp sửa lăn bánh trở lại, và lần này đích thị là nàng, vẫn dáng đi của nàng, vẫn điệu bộ nàng cân bằng hai vai. Tôi lại còn tưởng đã nhận ra được chiếc áo nàng mặc, nhưng khi người cảnh sát giao thông chặn dòng xe lại và tôi có thể đuổi theo nàng thì nàng lại biến mất, bị cái mõm đen ngòm của tàu điện ngầm nuốt chửng. Tôi vội chạy xuống cầu thang và cũng chỉ vừa đúng lúc để trông thấy ánh đèn đuôi của đoàn tàu đang lùi xa trong bóng đêm. Tôi tâm sự với một người bạn. Anh ấy tên Leser. Anh ta bán vé và trước kia là y sĩ ở Breslau[*]. Anh khuyên tôi không nên sống cô độc lâu như vậy. “Hãy tự kiếm cho mình một người đàn bà đi”. Anh bảo vậy. Cũng chẳng ích gì. Ông cũng biết những rắc rối do những nỗi thống khổ, cô đơn và sợ hãi sinh ra. Ta khao khát sức ấm của con người, một giọng nói, một dáng hình nào đó; ấy thế mà ta thức giấc trong một căn phòng kỳ lạ, ghê rợn, và có cảm giác như đã rơi khỏi quả đất này. Trong cảnh hiu quạnh, phiền muộn, ta rất biết ơn vì được nghe tiếng thở bên tai, nhưng lúc đó trí tưởng tượng của ta lại bắt đầu hoạt động trở lại, và trong chốc lát, chẳng còn lại gì cả ngoài cái cảm giác khó chịu là đã tự mình chửi rủa mình. Giờ đây, khi tôi nói đến chuyện này, thì nghe có vẻ vô lý và mâu thuẫn. Nhưng lúc đó thì khác hẳn. Tất cả những khắc khoải đó của tôi đã làm rõ thêm một điều là tôi phải trở về. Tôi phải gặp lại vợ tôi. Có thể nàng hiện đang sống với một kẻ nào đó, đã bao lâu rồi ai mà biết được. Nhưng chẳng hề hấn gì. Tôi cần gặp nàng. Đối với tôi, điều đó có vẻ hoàn toàn hợp lý. Mỗi ngày qua rõ ràng chiến tranh là điều không thể tránh khỏi. Hitler đã chẳng phải mất thì giờ để nuốt lời cam kết chịu nhận lấy miền nam vùng Sudelenland[*] và buông tha phần còn lại của nước Tiệp Khắc đó sao? Hiển nhiên, hắn cũng sẽ làm như vậy đối với Ba Lan. Như thế có nghĩa là chiến tranh rồi, vì Anh và Pháp cũng là đồng minh của Ba Lan. Và đây không còn là vấn đề tháng, tuần, hoặc ngày nữa. Với tôi, cũng thế. Tôi phải quyết định nhanh. Cả cuộc đời của tôi tùy thuộc vào đó. Và tôi đã quyết định. Tôi đã quyết định. Tôi đã quyết định trở về. Những gì sẽ xảy ra sau đó, tôi chẳng biết. Mà tôi cũng chẳng quan tâm. Nếu chiến tranh bùng nổ thì dẫu sao tôi cũng hết thời. Tôi có làm việc rồ dại này thì cũng thế thôi. Một sự yên tĩnh đến với tôi trong những ngày cuối cùng. Dạo ấy là tháng năm, và những luống hoa uất kim ương ở bồn binh Rond Point nở rực rỡ. Những buổi tối được tắm trong ánh sáng trắng bạc và bóng xanh của những bức tranh phái ấn tượng. Đằng sau cái giá lạnh của những ngọn đèn đường đầu tiên là vòm trời xanh nhạt vươn lên cao, và qua dãy mái mấy tòa cao ốc của báo chí là những băng chữ sáng rực nhấp nháy chạy dài báo hiệu chiến tranh cho những ai biết đọc. Trước tiên, tôi đến Thụy Sĩ. Tôi phải thử dùng hộ chiếu của mình tại một địa điểm an toàn trước khi hoàn toàn tin tưởng vào nó. Nhân viên biên phòng người Pháp dửng dưng trao lại tôi tấm hộ chiếu. Điều đó, tôi đã đoán trước. Chỉ có ở những nước dưới chế độ độc tài mới khó lòng thoát khỏi. Nhưng khi người tuần cảnh Thụy Sĩ đến thì tôi cảm thấy bên trong tôi có cái gì lao xao, như chiếc lá bắt đầu chao đảo lung liêng vào một ngày vắng gió. Nhân viên tuần cảnh nhìn vào tấm hộ chiếu của tôi. Hắn là một gã đàn ông lực lưỡng, đôi vai rộng và hôi mùi khói thuốc điếu. Khi hắn đứng ở ngưỡng cửa toa xe, thân hình hắn che khuất cả ánh sáng và trong thoáng chốc tôi có cảm giác là tự do của tôi bị hắn ngáng lại không cho ra, và toa xe đã biến thành phòng biệt giam ở nhà lao. Sau đó, hắn trả lại tôi tấm hộ chiếu. “Ông quên không đóng dấu vào đây.” Tôi nói, cả người nhẹ nhõm nên những câu nói của tôi đã tuôn ra nhanh hơn tôi định. Gã nhân viên tuần cảnh mỉm cười: “Đừng lo. Tôi sẽ đóng dấu cho. Có sao đâu?” “Thưa không. Nhưng đối với tôi đó là một thứ kỷ niệm”. Gã đóng dấu rồi bỏ đi. Tôi cắn môi suy nghĩ: Thật tôi đã quá lo sợ. Sau đó, tôi thấy với con dấu, hộ chiếu của tôi trông có vẻ thật. Ở Thụy Sĩ, tôi phải mất một ngày để xem tôi có nên đáp xe lửa vào nước Đức không. Sau cùng, tôi nghĩ là nên. Tôi không rõ những giấy thông hành của người Đức, hoặc ngay cả của những người trước kia là dân Áo trở về quê hương có bị kiểm soát đặc biệt chặt chẽ không. Có lẽ là không; nhưng tôi vẫn nghĩ nên vượt biên giới một cách không chính thức. Đến Zurich, tôi đến nhà bưu điện chính như tôi đã làm lần đầu tiên, khi tôi đến đấy nhiều năm trước đây. Tại quầy phát thư chính, bạn gần như chắc chắn sẽ gặp người quen, những kẻ vô gia cư, không giấy phép cư trú, họ có thể cho bạn biết tin tức. Từ đó tôi đến quán Café Greif, kiểu như quán Café de la Rose ở Paris. Tôi đã gặp một số người lẻn trốn qua được biên giới, nhưng chẳng ai thực tình biết cách vượt biên giới để trở về Đức. Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Ngoài tôi ra, còn ai lại muốn trở về Đức? Tôi nhận ra điều đó qua cung cách họ nhìn tôi, và khi họ thấy tôi không nói đùa, thì họ cố lảng tránh. Bất cứ ai có dự định trở về chắc phải là một kẻ phản bội, bởi vì ai còn muốn trở về nếu không chấp nhận chế độ? Và nếu một người có thể làm được việc đó thì sau đó y còn có thể làm những gì nữa? Hắn còn có thể phản bội ai nữa và những gì nữa? Tôi đơn độc. Họ lánh xa tôi như thể tôi là một tên sát nhân mà tôi không cách gì giải thích; khi nghĩ đến việc tôi sẽ làm, tôi kinh hãi đến toát mồ hôi. Làm sao có thể giải thích việc này với bất cứ ai khác? Vào buổi sáng hôm thứ ba, lúc sáu giờ cảnh sát đến lôi tôi ra khỏi giường. Rõ ràng là một trong số người tôi quen biết đã tố cáo tôi. Họ xét hộ chiếu của tôi một cách ngờ vực. Họ bắt tôi về để thẩm tra. Thật may là lúc bấy giờ tấm hộ chiếc có đóng dấu, bởi tôi có thể chứng minh tôi đã nhập cảnh một cách hợp pháp và mới chỉ được ba ngày thôi. Tôi không bao giờ quên được buổi sáng tinh mơ hôm đó khi cảnh sát dẫn tôi qua các phố. Hôm ấy là một ngày tạnh ráo, quang đãng, những tháp chuông và nóc nhà thờ nổi bật rõ nét trên vòm trời tưởng như được cắt từ kim loại ra. Từ một lò bánh mì toát ra mùi bánh mì nóng và tất cả nguồn an ủi trên đời này như gói trọn trong hương vị đó. Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? Tôi gật đầu: — Thế giới chưa bao giờ đẹp bằng lúc ta bị nhốt trong nhà lao. Bằng lúc ta sắp sửa từ giã nó. Phải chi ta giữ được mãi cái cảm giác đó. — Tôi cũng có cùng cái cảm giác ấy. — Ông có thể giữ nó mãi được không? — Tôi chẳng biết nữa. - Schwarz chậm rãi trả lời, - Đó là điều tôi muốn hiểu. Nó lọt qua khỏi mấy ngón tay tôi, mà dẫu tôi có giữ được nó chăng nữa, thì liệu tôi có giữ nó được trọn vẹn không? Có thể nào tôi lấy lại nó được, mãnh liệt hơn trước và giữ được nó mãi mãi không? Ngay giờ đây là lúc nó không còn đổi thay gì nữa? Bao giờ cũng thế, phải chăng chúng ta thường để mất những gì mà ta tưởng có thể nắm giữ được? Phải chăng ta mất nó vì nó chuyển động? Và phải chăng nó chỉ đứng yên đấy là khi nào nó đã ra đi và không còn đổi thay gì nữa? Và chỉ khi ấy nó mới thực sự là của ta? Mắt hắn nhìn tôi chăm chăm, bất động. Đó là lần đầu tiên hắn nhìn thẳng vào mặt tôi. Hai con ngươi hắn mở lớn hơn. Hắn là một kẻ cuồng tín hoặc một tên điên, tôi nghĩ thế. Người thiếu phụ mặc dạ phục ngồi ở bàn kế bên đứng dậy. Qua hàng hiên, nàng nhìn xuống thành phố và hải cảng. — Mình ơi, tại sao ta phải trở về. - Nàng nói với gã đàn ông mặc smoking màu trắng, - Phải chi chúng ta ở lại đây được! Em chẳng muốn trở về Mỹ chút nào cả. CHƯƠNG 2 Cảnh sát Zurich, - Schwarz nói tiếp, - Giữ tôi lại chỉ một ngày. Nhưng đó là một ngày khốn đốn cho tôi. Tôi lo họ sẽ xem lại tấm hộ chiếu của tôi. Một cú điện thoại đến Vienna là đủ. Hoặc nếu họ cho một chuyên gia đến, thì anh ta sẽ phát hiện ra chỗ giả mạo ngay. Đến chiều, tôi yên tâm hơn. Dẫu có chuyện gì đi nữa, tôi nghĩ vậy, âu đó cũng là một cách phán quyết của Thượng đế. Quyết định ở ngoài tầm tay tôi. Nếu họ tống tôi vào nhà lao, chắc là tôi sẽ phải từ bỏ ý định trở về Đức. Nhưng mãi xế chiều họ thả tôi ra và cho tôi hiểu rằng tôi phải rời Thụy Sĩ càng sớm càng tốt. Tôi quyết định đi qua ngã nước Áo. Tôi từng quen với biên giới của nước Áo và cảm thấy chắc chắn nó không được canh gác cẩn mật như nước Đức. Có kẻ nào lại muốn đi vào đó đâu? Thực sự thì có lý do nào biên giới này lại được canh phòng nghiêm ngặt hơn biên giới kia? Có ai lại muốn vào? Và ngược lại, có thể là có nhiều người muốn thoát ra khỏi. Tôi đáp tàu đi Oberriet, dự định tìm cách vượt biên giới tại một nơi nào đó trong vùng phụ cận. Tôi muốn chờ gặp một ngày có mưa, nhưng trong hai ngày liên tiếp trời vẫn quang đãng. Tôi ra đi vào đêm thứ ba, sợ rằng ở lại lâu quá người ta chú ý. Đêm ấy sao sáng tỏ đầy trời, và cảnh vật yên tĩnh tưởng chừng như nghe được cả cây cối nảy mầm. Vào những lúc hiểm nguy người ta lại có một thứ thị lực khác. Không phải là sức tập trung đặc biệt của cặp mắt, mà là một cái gì đó tỏa khắp thân, như thể ta có thể nhìn thấy bằng làn da của ta, nhất là về đêm. Thính giác của ta cũng như tỏa ra từ làn da của ta và tưởng như ta có thể nghe thấy những tiếng động nhỏ nhất. Ta há mồm ra để lắng nghe, và mồm của ta cũng như thể nghe được và thấy được. Tôi không bao giờ quên được cái đêm ấy. Tôi cảnh giác bằng mọi thớ thịt của tôi, mọi giác quan đều thức tỉnh cao độ. Tôi đã chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống, song chẳng sợ sệt chút nào. Tôi có cảm giác như mình đang qua một cây cầu cao từ bên này đời sống qua bên kia đời sống, và tôi biết rằng chiếc cầu sẽ tan biến sau lưng tôi như làn khói bạc mà chẳng bao giờ tôi có thể trở lại. Tôi đang đi từ lý trí qua cảm giác, từ an toàn qua mạo hiểm, từ thực tế đến ước mơ. Tôi hoàn toàn cô đơn, nhưng lần này, nỗi cô đơn không phải là một dằn vặt; có một chút gì thần nhiệm trong đó. Tôi đến sông Rhin[*], nơi đây là đoạn đầu sông, không rộng lắm. Tôi cởi áo quần và gói lại để có thể đội lên đầu. Thật là một cảm giác phi thường khi tôi trần truồng tuột xuống nước. Nước đen sẫm, rất lạnh và vô cùng kỳ lạ. Tưởng như tôi đang hụp xuống sông Lethe[*] để uống lấy niềm lãng quên. Phải trần truồng mà vượt qua sông thật là một điều có ý nghĩa tượng trưng, nó đập mạnh vào tâm tưởng tôi, tưởng như đã để lại tất cả mọi thứ đằng sau mình. Tôi lau khô người, mặc quần áo rồi tiếp tục đi. Qua một ngôi làng, tôi nghe tiếng chó sủa. Tôi chẳng biết đường biên giới chạy như thế nào, nên tôi men theo mép con đường lộ bao quanh một khu rừng. Trong hồi lâu tôi chẳng gặp một ai. Tôi đi bộ mãi đến hừng đông. Sương rơi nặng hạt và một con bò đang đứng ở bìa khu rừng thưa. Cứ thế tôi đi mãi đến khi tôi nghe tiếng dân làng đánh xe ngựa qua đó. Thế là tôi tìm một nơi ẩn nấp cách con lộ không xa. Tôi sợ họ sinh nghi, thắc mắc vì sao tôi lại dậy sớm như thế này và lại đến từ hướng biên giới. Mãi về sau tôi thấy hai nhân viên hải quan đi xe đạp. Tôi nhận ra đồng phục của họ. Giờ đây tôi đã ở trên đất Áo. Nước Áo chỉ thuộc về nước Đức trong có một năm thôi. Thiếu phụ mặc dạ phục rời sân hiên cùng với người đi theo. Đôi vai nàng rám nắng đậm, dáng tầm thước, cao hơn gã đàn ông cùng đi với nàng. Vài khách du lịch chậm rãi đi thơ thẩn xuống những bậc thang. Họ tản bộ như những người chưa từng bị săn đuổi, không phải đảo mắt nhìn quanh. — Tôi có mang theo ít bánh mì thịt. - Schwarz nói, - Và một dòng suối nước uống được. Đến trưa tôi lại đi tiếp. Mục tiêu của tôi là thành phố Feldkirch, mà tôi biết đó là một nơi nghỉ mát. Ở đó một người lạ mặt chẳng khiến ai chú ý đến. Đến đó tôi đáp chuyến tàu đầu tiên ra khỏi vùng biên giới nguy hiểm. Tôi ngước lên toa xe. Hai tên lính SA[*] mặc quân phục đã ngồi vào chỗ rồi. Kinh nghiệm của tôi về lực lượng cảnh sát ở châu Âu tỏ ra có lợi cho tôi, nếu không tôi đã rút lui rồi. Và như thế tôi cứ bước lên toa ngồi vào một góc kề bên một tên mặc bộ đồ bằng vải len thô, súng dựng bên cạnh. Kể từ năm năm nay, đây là lần đầu tiên tôi gặp gỡ với cái mà tôi cho chính là sự kinh hoàng. Những tuần lễ trước, tôi cũng thường hình dung ra cảnh này, nhưng thực tế thì lại khác hẳn. Đích thị là thể xác tôi chứ không phải đầu óc tôi phản ứng; dạ dày tôi hóa đá, và tôi cảm thấy miệng mình như cái bàn nạo. Người thợ săn và hai tên lính SA đang kháo chuyện với nhau về một quả phụ nào đó tên Pfundner. Bà này nghe chuyện ra có vẻ là một thứ đàn bà góa dễ dãi, cứ xét theo chuyện tình ái lăng nhăng mà họ kể thật chi tiết. Một lúc sau họ bắt đầu ăn bánh mì kẹp giăm bông. “Ông đi về đâu, ông bạn?” Người thợ săn hỏi tôi. “Trở về Bregenz”, Tôi đáp. “Vâng, tôi đi nghỉ phép”. Tôi do dự một lúc. Nếu bảo là từ Vienna đến như có ghi trong hộ chiếu, thì họ có thể nhận ra rằng tôi có giọng nói êm ái của dân thành Vienna. Nên tôi đáp: “Từ Hanover. Tôi sống tại đó đã hơn ba mươi năm nay.” “Hanover! Chà, xa quá nhỉ?” “Vâng, quả thật là xa. Nhưng có ai muốn đi nghỉ phép gần nhà đâu?” Người thợ săn cười: “Đúng vậy thật. Với thời tiết này ông bạn gặp may đấy!” Tôi cảm thấy áo sơ mi dính chặt vào lưng tôi: “Vâng, thời tiết tuyệt thật. Nhưng nóng chẳng khác gì giữa mùa hè.” Cả ba lại quay về câu chuyện quả phụ Pfundner. Qua vài ga sau, cả ba bước xuống tàu và trong toa còn lại mình tôi. Đoàn tàu đi qua một trong những vùng đẹp nhất của châu Âu, nhưng tôi chẳng nhìn thấy được bao nhiêu. Một cảm giác hối tiếc, sợ hãi và tuyệt vọng hầu như không chịu đựng nỗi đè nặng lên tôi. Trời đất ơi, tại sao tôi lại vượt biên giới thế này? Thật tôi không hiểu nổi. Tôi ngồi bất động trong góc toa nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi là một người tù, và chính tôi đã để cho cửa đóng lại sau lưng. Tôi cứ vẩn vơ với cái ý nghĩ nên rời khỏi đoàn tàu và tìm cách trở về Thụy Sĩ trong đêm. Nhưng không thể được. Bàn tay trái tôi nắm chặt trong túi tấm hộ chiếu của Schwarz vừa mới chết, như nó có thể tăng thêm sức mạnh cho tôi. Tôi cứ tự nhủ thầm là bây giờ thoát ra chẳng có lợi gì, và càng đi sâu vào nội địa tôi càng được an toàn hơn. Tôi quyết định đi thâu đêm. Trên tàu có thể là bạn không bị sách nhiễu giấy tờ như trong khách sạn. Trong cơn kinh hoàng, ta luôn luôn có cảm tưởng đang đứng dưới ánh đèn sân khấu và dưới kia thiên hạ chẳng có việc gì làm ngoài việc theo dõi bạn. Tôi nhắm mắt lại. Ngồi lại một mình trong toa giữa nỗi kinh hoàng đó, tôi lại càng muốn chấp nhận thua cuộc. Song tôi lại nhận thức nếu tôi nhượng bộ, một phân bây giờ sẽ dài thành một thước khi thực sự lâm nguy. Để tự trấn an, tôi cứ bảo thầm chẳng ai thèm chú ý đến mình đâu, đối với chế độ mình chẳng nghĩa lý gì hơn một xẻng cát trong hoang mạc, chẳng có dấu vết gì khả nghi một cách rõ nét cả. Điều này cũng đúng thôi, tất nhiên. Trông tôi chẳng khác gì mấy với những người chung quanh. Người Aryan[*] với mái tóc hung chỉ là một huyền thoại do Đức dựng nên mà thôi. Cứ nhìn Hitler, Goebbels[*], Hess[*] cũng những tên đầu sỏ còn lại thì đủ rõ, cả bọn đều là những phản chứng rành rành về sự lừa bịp trắng trợn của chúng. Đến Munich, lần đầu tiên tôi không nán lại trong nhà ga để ẩn nấp mà gắng gượng thả bộ loanh quanh trong một tiếng đồng hồ. Bởi là dân lạ trong thành phố nên tôi tin ở đây cũng chẳng ai biết đến tôi. Tôi nghỉ chân ăn trưa tại quán Franziskanerbrau. Tiệm ăn đông người. Tôi ngồi một mình lắng tai nghe. Ít phút sau một người đàn ông béo mập ướt đẫm mồ hôi đến ngồi cùng bàn tôi. Hắn gọi rượu bia và thịt bò nấu chín và lật tờ báo ra. Cho đến nay tôi không có dịp đọc báo Đức. Nay, để bù lại tôi mua những hai tờ. Từ bao năm nay tôi không đọc tiếng Đức, và tôi lấy làm lạ khi mọi người quanh tôi nói thứ tiếng này. Những xã luận thật quá tệ, đầy rẫy những dối trá khát máu và kiêu căng. Theo nó, cả thế giới bên ngoài được xem như là thoái hóa; xảo trá và ngu xuẩn, nước Đức đến chiếm đóng là phải. Mà mấy tờ báo ấy không phải là thứ lá cải địa phương; trước kia chúng đã từng nổi tiếng. Tôi nhìn kỹ người đàn ông ngồi cùng bàn. Hắn vừa ăn uống vừa đọc báo một cách thích thú. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Cũng rất nhiều thực khách đọc báo, và ở họ, tôi chẳng thấy ai tỏ vẻ chán ghét, ghê tởm cả. Nó đã trở thành một món ăn thường ngày của họ. Đối với họ nó cũng tự nhiên như rượu bia họ uống vậy thôi. Tôi tiếp tục đọc mãi đến lúc giữa những mục tin vắn, tôi đọc thấy mẩu tin về thành phố Osnabruck[*]. Một căn nhà ở phố Lotter bị cháy rụi. Tôi có thể hình dung lại con phố thật rõ ràng. Con đường này bắt đầu từ ngoại vi vòng thành lũy tại Cổng Heger và dẫn ra ngoài thành phố. Đột nhiên tôi cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết tại một đất nước xa lạ. Tâm trí tôi bồng bềnh trôi giữa trạng thái khích động và sự hững hờ buông xuôi, nhưng chẳng bao lâu tôi cũng quen đi. Tôi lại còn cảm thấy an toàn là đằng khác. Sự nguy hiểm sẽ tăng dần khi tôi đến gần Osnabruck, điều này tôi biết rõ: ở đây sẽ có nhiều người còn nhớ đến tôi. Để khỏi lôi cuốn sự chú ý nơi các khách sạn, tôi mua một cái va li rẻ tiền và các thứ thường dùng cho một chuyến đi ngắn ngày. Sau đó, tôi đáp xe lửa. Tôi vẫn chưa rõ là sẽ bắt liên lạc với vợ tôi bằng cách nào, và cứ vài phút lại nghĩ ra một kế hoạch mới. Chắc tôi đến phải trông cậy vào vận may thôi. Tôi cũng không biết nàng đã chịu nhượng bộ gia đình vốn gồm toàn những người ủng hộ trung kiên chế độ mà lấy chồng khác chưa. Đọc báo xong, tôi nghĩ rằng đối với một người bình thường sẽ không phải mất nhiều thì giờ mới tin vào những điều mình đọc trong báo, nhất là khi chẳng có gì để so sánh. Báo chí nước ngoài đều bị kiểm duyệt nghiêm ngặt ở Đức. Đến Munster[*]tôi tới một khách sạn hạng trung. Tôi không thể tiếp tục cái cảnh ban đêm thì thức còn ban ngày lại ngủ lay ngủ lắt đó đây. Tôi đành liều mạng đăng ký phòng tại khách sạn, nơi đây việc tôi đến chắc chắn sẽ được báo cáo với cảnh sát. Ông biết Munster chứ? — Có biết qua đôi chút. - Tôi đáp, - Đó là một thành phố cổ kính với rất nhiều giáo đường, là nơi hòa ước Westphalia[*] đã được ký kết chứ gì? Schwarz gật đầu: — Vâng, tại Munster và Osnabruck năm 1648. Sau ba mươi năm chiến tranh. Còn cuộc chiến tranh này, ai biết được nó sẽ kéo dài đến bao lâu? — Cứ theo đà này thì không bao lâu đâu. Người Đức đã mất có bốn tuần để chinh phục nước Pháp. Anh hầu bàn đến cho biết tiệm sắp đóng cửa, và mọi người đã ra về cả rồi. — Chẳng còn nơi nào mở cửa sao? - Schwarz hỏi. Ở Ở Lisbon, cuộc sống về đêm chẳng có là bao nhiêu, anh hầu bàn cho chúng tôi biết. Nhưng đến lúc Schwarz giúi cho anh ta ít tiền trà nước thì anh lại đổi giọng, bảo có biết một nơi rất kín đáo, một hộp đêm của người Nga rất lịch sự. — Liệu họ có cho chúng tôi vào không? - Tôi hỏi. — Tất nhiên là có ạ, thưa ông. Tôi chỉ có ý muốn nói là các bà đến đó rất lịch sự. Thuộc đủ mọi quốc tịch. Có cả người Đức nữa. — Tiệm ấy mở cửa chừng bao lâu? — Còn khách là còn mở. Vào giờ này luôn luôn có khách. Ngay lúc này thì rất nhiều người Đức. — Người Đức hạng nào? — Người Đức. — Thuộc hạng có tiền chứ? — Dĩ nhiên. - Anh hầu bàn cười. - Nơi đó không rẻ đâu. Nhưng rất vui nhộn. Ông chỉ cần bảo là Manuel chỉ đến. Sau đó ông không phải nói gì thêm nữa. — Theo lệ, ta phải nói với họ dăm ba điều gì chứ? — Không ạ. Người gác cửa sẽ đưa cho ông một thẻ hội viên với một cái tên nào đó. Chỉ là một thủ tục. — Nghe được đấy. Schwarz trả tiền. Chúng tôi lần bước xuống những bậc thang. Những căn nhà mờ nhạt ngủ yên, như dựa vào vai nhau. Qua cửa sổ, ta có thể nghe được tiếng thở than, tiếng ngáy và hơi thở của những người chẳng phải lo lắng gì về giấy hộ chiếu. Bước chân của chúng tôi vang lên trong đêm vắng. — Ánh đèn kia kìa. - Schwarz nói, - Nó cũng khiến ông hoảng hốt đấy chứ? — Vâng, chúng ta vẫn còn quen với cái châu Âu không có ánh đèn. Tôi đinh ninh có ai đó đã quên tắt đèn và máy bay có thể đến tấn công bất cứ giây phút nào. Schwarz dừng lại. — Ánh sáng mà ta được ban cho như một món quà của Thượng đế. - Hắn nói với một niềm cảm xúc. - Bởi vì trong ta còn có chút gì của Thượng đế. Và giờ đây, chúng ta che giấu nó đi vì chúng ta đang giết hại cái “chút gì đó” của Thượng đế trong ta. — Theo chỗ tôi còn nhớ câu chuyện, - Tôi nói, - Thần thánh không cho loài người lửa. Chính Prometheus[*] đã đánh cắp nó. Ngược lại thần thánh cho loài người bệnh xơ gan mãn tính. Schwarz nhìn tôi: — Tôi không còn đùa cợt cách đây đã lâu. Chừng nào người ta còn bông đùa được, chừng ấy họ còn có thể thu hẹp tầm vóc của sự việc và nhìn chuyện đời bằng con mắt khác. — Có thể là như vậy. - Tôi nói, - Nhưng nếu bông đùa mà để lại một tia hy vọng thì có hơn không. — Ông nói đúng. Tôi quên mất rằng ông đang tìm cách trốn thoát. Làm sao một người đang tìm cách trốn thoát cảnh ngộ hiện tại lại có thể bận tâm để ý đến tầm vóc của sự việc? — Ủa, thế ra ông không đang tìm cách trốn thoát đó sao? Schwarz lắc đầu: — Không trốn nữa. Tôi đang đi trở về. — Về đâu? - Tôi ngạc nhiên hỏi. Tôi không thể tin rằng hắn có ý nói là trở về Đức lần thứ hai. CHƯƠNG 3 Hộp đêm này là một trong những nơi điển hình mà người Bạch Nga đang khai thác khắp nơi trên lãnh thổ châu Âu kể từ sau Cách mạng 1917. đâu đâu cũng là những người hầu bàn như nhau, tất cả với phong cách thượng lưu đã quen rồi, cũng những bản hợp ca gồm những người trước đây là sĩ quan ngự lâm, cùng những giá biểu cao và những cái không khí sầu muộn thê lương. Ngoài ra nơi nào cũng dùng thứ ánh sáng mờ ảo, mà tôi lại trông cậy vào thứ ánh sáng này. Đúng như anh hầu bàn đã cho biết có cả người Đức nữa, nhưng dứt khoát họ không phải là dân tị nạn. Có lẽ họ là điệp viên, nhân viên lãnh sự quán Đức hoặc của các hãng thương mại Đức. — Người Nga đã thành công hơn chúng ta trong việc tự tạo cho họ một chỗ đứng. - Schwarz nói, - Thật ra thì họ đi trước ta những năm mươi năm. Năm mươi năm lưu lạc tha hương là một quãng thời gian dài, tích lũy kinh nghiệm cả một đời người. — Họ là dân tị nạn đợt đầu tiên. - Tôi đáp lại, - Lúc bấy giờ thiên hạ vẫn còn thương xót họ. Họ được cấp giấy phép lao động, cũng như các thứ giấy tờ khác một cách dễ dàng, cứ như họ là những nhà thám hiểm Bắc Cực không bằng. Còn khi chúng ta đến thì ”nguồn thương hại dự trữ” đã vơi cạn đi rồi. Chúng ta trở thành một gánh nặng phiền toái, y như một lũ mối mọt; chẳng có mấy ai có được một lời tử tế với chúng ta. Chúng ta không được quyền lao động, không được quyền sống, thậm chí cũng không có được một mảnh giấy tùy thân. Ngay từ lúc đặt chân đến chốn này, tôi đã cảm thấy bực dọc, khó chịu rồi. Có lẽ đó là sự phản ứng đối với căn phòng bít bùng, màn buông bốn phía, với cái ý thức rằng quanh đây lúc nào cũng có quân Đức, với sự kiện là tôi ngồi quá cách xa cửa ra vào không tiện đường tháo chạy lúc cần. Đã lâu tôi có thói quen ngồi gần cửa ra, ở bất cứ nơi nào tôi đến. Tôi cũng bực mình vì từ chỗ tôi ngồi, tôi không trông thấy được chiếc tàu. Rất có thể là nó đã nhận được một hiệu lệnh nào đó và đã nhổ neo trước thời hạn ngay trong đêm đó. Schwarz có vẻ như đọc được ý nghĩ của tôi. Hắn lục túi, đặt mấy tấm vé xuống trước mặt tôi: — Cầm lấy. Tôi không phải là tên chủ ác nghiệt đâu. Cứ cầm lấy mà đi, nếu ông thích. Tôi hơi thẹn: — Ông hiểu lầm tôi rồi. Tôi có đủ thì giờ. Tất cả thì giờ trên cõi đời này. Schwarz không đáp. Hắn chờ đợi. Tôi lấy hai tấm vé cho vào túi. — Tôi đã thu xếp. - Hắn nói tiếp như chẳng có chuyện gì xảy ra, - Để đáp chuyến tàu lửa đi Osnabruck sớm ngay tối hôm ấy. Chỉ đến lúc đó tôi mới tin là tôi đã vượt qua biên giới được rồi. Từ đây đến lúc đó, thiên hạ và mọi thứ, dẫu ngay trên quê hương tôi, cũng vẫn còn là xa lạ đối với tôi. Nhưng đến lúc bấy giờ mỗi gốc cây bên đường mới mở lời tâm sự với tôi. Tôi từng quen với những xóm làng mà chúng tôi thường chạy xe qua. Thuở còn là học sinh, tôi thường cùng bè bạn tổ chức những cuộc du ngoạn qua đó; tôi cũng đã từng đưa Helen qua đó vào những tuần đầu chúng tôi mới quen nhau. Tôi yêu mến cảnh đồng quê ấy, cũng như tôi yêu mến các thành phố với những nóc nhà và mảnh vườn của nó. Cho đến lúc đó, nỗi lo sợ trong tôi mới chỉ là trừu tượng, vu vơ và kết lại thành một khối. Những chuyện xảy ra đã khiến tôi tê liệt, hóa đá. Tôi chưa bao giờ thấy cần phân tích nỗi khiếp sợ ấy, cần hiểu nó trong từng chi tiết nhỏ, nói đúng ra, tôi cũng ngại làm một việc như thế. Giờ thì bỗng nhiên những sự vật không đâu cũng đều có ý nghĩa, cũng cất lên tiếng nói với tôi, nhưng sự vật chẳng có ăn nhập gì với nỗi lo sợ kia, tuy vẫn nằm trong nó. Đồng quê không thay đổi, nó vẫn thế. Mấy nóc chuông nhà thờ vẫn còn giữ lại lớp óng ánh xanh mướt, dịu dàng trong ánh nắng chiều; dòng sông vẫn soi bóng nền trời. Tôi hồi tưởng lại những ngày tôi đi câu cá và mơ đến những cuộc phiêu lưu trên những vùng đất xa lạ. Vâng! Tất cả những thứ ấy nay tôi đã trải qua cả, nhưng chúng không hẳn như tôi đã tưởng tượng. Những đồng cỏ với đàn bươm bướm, đàn chuồn chuồn lượn quanh trước nay vẫn không thay đổi; những sườn đồi với cây cối và hoa dại cũng vẫn thế. Chúng vẫn y như hồi tôi còn thơ ấu. Tuổi trẻ của tôi nằm trong lòng chúng, chôn chặt vào đấy nếu tôi muốn nhìn việc đời bằng cái nhìn như vậy, hoặc sẵn sàng hồi sinh lại, nếu tôi cố làm ra vẻ lạc quan hơn. Và chẳng có gì làm cảnh vật hỏng đi. Từ trên toa tàu, tôi chỉ trông thấy lác đác dăm ba người, không bóng dáng lính tráng, chỉ có đồng nội lắng chìm dần trong ánh hoàng hôn. Hồng, huệ, thược dược nở đều trong những mảnh vườn tí hon của trưởng ga. Chúng vẫn như thế tự thuở bao giờ. Nạn phung hủi không làm chúng tàn lụi đi. Chúng leo theo hàng rào gỗ mắt cáo như bên Pháp, và trên đồng cỏ thẩn thơ từng đàn bò y như trong đồng cỏ bên Thụy Sĩ, những đàn bò nâu, đen, trắng - không có hình chữ thập ngoặc - với những cặp mắt già nua nhẫn nại. Giữa một nông trang nào đó, tôi chợt thấy một chú cò đang chao cánh và từng đàn chim sẻ vỗ cánh bay như chúng vẫn bay ở bất cứ nơi đâu và tự bao giờ cũng vẫn thế. Chỉ có con người là thay đổi. Tôi biết thế, nhưng tối hôm ấy, tôi không chứng kiến được điều đó mà cũng không hiểu ra được. Mặt khác, con người cũng không thay đổi một cách đều đặn như nhau như tôi đã nghĩ một cách rồ dại. Toa tàu đầy khách, vơi đi rồi lại đông nghẹt. Vào giờ này, ít thấy lính tráng, phần đông là dân thường, và chuyện trò giữa họ với nhau thì cũng không khác mấy với những mẩu chuyện tôi thường nghe ở Pháp và Thụy Sĩ: thời tiết, nắng mưa, mùa màng, gặt hái, những biến cố trong ngày và nỗi sợ chiến tranh. Đến họ cũng thế, cũng sợ chiến tranh. Chỉ một điểm khác nhau là ở bên ngoài nước Đức thì ai cũng nghĩ chính các nước khác áp đặt cuộc chiến tranh đó lên đất nước Đức. Hầu hết ai ai cũng mong muốn hòa bình, như họ vẫn muốn điều này ngay trước khi chiến tranh bùng nổ. Đoàn tàu dừng lại. Cùng với đám đông tôi chen lấn ra cửa. Bên trong nhà ga chẳng thay đổi gì kể từ ngày tôi thấy nó lần cuối cùng, có điều trông nó hẹp hơn và bẩn đi. Khi tôi đi vào quảng trường Bahuhofsplatz, những điều tôi hình dung trước đây bỗng tan biến mất. Bóng đêm đang rủ xuống, không khí ẩm ướt như sau cơn mưa. Quanh tôi, tôi chẳng còn thấy gì. Tất cả đều rung động trong tôi; và kể từ lúc đó tôi nhận thức tôi đang lâm nguy. Đồng thời tôi lại có cảm giác là chẳng có gì xảy đến với tôi. Như thể tôi đang ở dưới cái vòm bằng thủy tinh, nó bảo vệ tôi nhưng có khả năng vỡ tan từng mảnh bất cứ lúc nào. Tôi trở lại quầy vé mua một vé về lại Munster. Tôi không sống tại Osnabruck được. Nguy hiểm quá. “Chuyến tàu chót mấy giờ?” Tôi hỏi người bán vé ngồi sau quầy trong ánh điện vàng vọt. Cái đầu hói của ông ta lấp lánh giống như một tượng Phật tỉnh lẻ hoàn toàn bình thản, không quản mọi thăng trầm của thế tục. “Có một chuyến chín giờ hai mươi và một chuyến khác lúc mười một giờ mười hai phút.” Tôi bước đến chiếc máy bán vé tự động mua một vé ra sân ga. Tôi muốn có sẵn nó trong tay để phòng trường hợp tôi cần biến nhanh trước giờ tàu. Theo nguyên tắc, sân ga là nơi ẩn náu lộ liễu nhất, nhưng thường bạn có nhiều nơi để chọn, ở Osnabruck có ba nơi, bạn có thể nhảy lên đoàn tàu nào sắp sửa khởi hành, giải thích với người phục vụ rằng bạn lên nhầm tàu, bạn trả khoản tiền sai biệt rồi đến trạm kế thì bước xuống. Tôi quyết định ghé nhà một người bạn cũ, mà tôi biết không phải là người ủng hộ chế độ. Chỉ cần nghe giọng nói trên máy điện thoại cũng có thể biết anh ấy có thể giúp tôi được hay không. Tôi ngại gọi thẳng cho vợ tôi, vì không chắc vợ tôi sống một mình. Tôi đứng trong phòng điện thoại với cuốn danh bạ trước mặt. Lúc lật những góc trang bụi đất bám đầy và nhàu nát, tim tôi đập mạnh đến nỗi tôi tưởng như nghe được nó. Tôi lại còn sợ người khác cũng nghe được nên tôi cúi người xuống để khỏi bị nhận diện. Không suy nghĩ và rất tình cờ, tôi gặp ngay mẫu tự đầu trong tên trước kia của tôi. Tôi gặp tên vợ tôi, số điện thoại vẫn như cũ, nhưng địa chỉ đã đổi khác. Trước kia là quảng trường Rissmuller nay đổi là quảng trường Hitler. Lúc trông thấy địa chỉ, tưởng chừng ngọn đèn buồn thảm trong phòng điện thoại sáng lên hơn một trăm lần. Tôi ngước nhìn lên, tràn ngập bởi cái cảm giác bên ngoài là đêm đen và tôi đang đứng trong phòng kính ánh sáng chói chang, hoặc giữa chùm ánh đèn pha rọi. Một lần nữa, tính chất điên rồ của việc làm của tôi làm tôi choáng váng mãnh liệt. Tôi ra khỏi phòng điện thoại và băng qua nhà ga chìm trong bóng tối lờ mờ. Từ trên những tấm bích chương cổ động, những bộ mặt hân hoan màu xanh da trời của tổ chức “Sức mạnh bằng niềm vui” nhìn xuống tôi một cách đầy đe dọa. Và chuyến tàu đã vào ga. Một đám hành khách đang leo lên thang cấp. Một tên lính SS bước ra khỏi đám đông đi về phía tôi. Tôi không chạy. Có lẽ hắn chỉ tìm một người nào đó thôi. Nhưng hắn lại dừng ngay trước mặt tôi và nhìn thẳng vào mặt: “Xin lỗi, anh có lửa không?” “Lửa hả?” Tôi lặp lại, rồi đáp nhanh, “Vâng, có chứ, có diêm đây.” Tôi cho tay vào túi lục tìm. “Diêm làm gì?” Tên SS ngạc nhiên nói, “Điếu thuốc anh đang cháy mà.” Tôi cũng không nhớ ra rằng tôi đang hút thuốc. Tôi chìa điếu thuốc cho hắn. Hắn châm lửa vào đầu điếu thuốc rồi rít. “Anh hút thứ gì vậy?” Hắn hỏi, “Khói thuốc như xì gà.” “Thuốc Gauloise đấy mà. Tôi có mua vài gói trước khi qua biên giới. Quà của một người bạn.” Tôi nói, “Loại thuốc lá đen của Pháp. Anh ta mang từ Pháp về. Tôi cũng thấy khói nặng.” Tên SS bật cười: “Tốt nhất là bỏ hút. Như Quốc trưởng[*]. Nhưng không dễ đâu, nhất là vào lúc này.” Hắn chào rồi bỏ đi. Schwarz mỉm cười nhẹ: — Khi tôi còn là một con người được quyền đi đâu tùy thích, tôi vẫn thường nghi ngờ về cái lối các nhà văn mô tả sự kinh hoàng làm tim nạn nhân ngừng đập, chân tay không cử động được, từng đợt sóng lạnh như băng chạy dài theo cột sống, toàn thân vã đẫm mồ hôi, rặt là những lối viết khuôn sáo vụng về, tôi nghĩ thế. Có thể như vậy thật. Nhưng đấy cũng là sự thật. Nó đúng như cảm giác của tôi lúc ấy. Thuở còn thơ ngây những điều này chắc phải làm tôi bật cười. Một người hầu bàn tiến lại gần chúng tôi: — Các ngài không thích có bạn ngồi cùng bàn sao? — Không. Y nghiêng mình về phía tôi: — Trước khi từ chối, xin các ngài hãy quay lại nhìn hai phụ nữ kia kìa. Tôi nhìn về phía họ. Một trong hai người có vẻ rắn khỏe. Cả hai đều mặc áo dạ phục sít sao. Tôi không trông thấy được mặt của họ. — Không. - Tôi trả lời. — Họ là những thiếu nữ đứng đắn đấy. Cô bên phải là người Đức. — Cô ấy bảo anh đến đây? — Không. - Người hầu bàn đáp lại với nụ cười ngây thơ làm tiêu tan hết mọi ngờ vực, - Đó là do ý kiến riêng của tôi, vậy thôi. — Tốt, thế thì hãy chôn kỹ nó đi. Và thay vào đó, hãy mang ra cho chúng tôi cái gì để ăn đi. — Hắn muốn gì thế? - Schwarz hỏi. — Muốn kết chúng ta với cháu ngoại của Mata Hari[*]. Ông đã biếu hắn món tiền nước quá hậu chứ gì? — Tôi chưa trả tiền. Ông nghĩ họ là gián điệp? — Có thể. Nhưng chỉ vì một động lực duy nhất trên thế giới này: Tiền. — Người Đức hả? — Một trong hai ả, người hầu bàn đã nói vậy. — Ông nghi ả được phái đến để dụ người Đức hồi hương? — Tôi nghi lắm. Chuyện này họ đã làm nhiều trong hàng ngũ người Nga. Tôi gọi người hầu bàn mang ra đĩa bánh tráng thịt vì rượu uống đã bốc lên rồi. Tôi muốn giữ đầu đủ sáng suốt. — Ông không ăn sao? - Tôi hỏi Schwarz. Gã lắc đầu, xa vắng: — Tôi không nghĩ là những điếu thuốc kia có thể tố cáo tôi, chuyện ấy chưa bao giờ xảy ra đến với tôi cả. - Hắn nói. - Tôi bèn xem lại tư trang của tôi. Hộp diêm tôi cũng mua ở Pháp. Tôi ném nó đi cùng số thuốc điếu còn lại. Rồi tôi mới nhớ sực ra rằng tấm hộ chiếu của tôi có mang con dấu nhập cảnh và hộ chiếu của Pháp. Trường hợp có bị hỏi đến, tôi có thể giải thích lý do tại sao tôi có thuốc điếu của Pháp. Tôi toát mồ hôi và tức giận mình đã quá lo sợ. Tôi trở lại phòng điện thoại. Tôi phải chờ. Một người đàn bà đeo tấm phù hiệu to tướng của đảng gọi liên tiếp hai số và gào vào máy cả tràng mệnh lệnh. Số thứ ba không có người đáp. Người đàn bà bước ra, vẻ quan trọng, giận dữ. “Tôi gọi số điện thoại của anh bạn tôi.” Một giọng đàn bà trả lời ở đầu máy. “Làm ơn cho tôi nói chuyện với bác sĩ Martens.” Tôi thấy giọng nói tôi khản hẳn đi. “Ai ở đầu dây đấy?” Người đàn bà hỏi. “Một người bạn của bác sĩ Martens.” Tôi không nói tên tôi ra được. Giọng nói ở đầu dây kia có thể là của vợ hoặc của cô giúp việc, nhưng nếu tin vào họ thì thật là sai lầm. “Xin cho biết quý danh.” Người đàn bà nói. “Tôi là bạn của bác sĩ Martens,” tôi trả lời. “Xin cứ bảo cho như thế. Có việc gấp.” “Rất tiếc.” Người đàn bà đáp, “Nếu ông không cho biết tên, tôi không thể báo được.” “Thì bà hãy đặt một ngoại lệ cho tôi đi.” Tôi nói, “Bác sĩ đang chờ tôi gọi cho ông ấy mà.” “Nếu thế thì chắc chắn là ông có thể cho tôi biết tên.” Tôi cố moi óc suy nghĩ ra một cái tên nào đó, nhưng vô vọng. Sau đó, có tiếng ống nghe gác lên máy. Tôi đứng trong nhà ga xám xịt, lộng gió. Hành động đầu tiên của tôi thoạt trông có vẻ đơn giản nhưng đã tỏ ra sai lầm và tôi không còn biết phải làm gì sau đó. Có thể là tôi phải đánh nước liều gọi thẳng cho Helen bởi vì người nhà nàng có thể nhận ra giọng nói của tôi. Tôi cũng có thể khai ra một cái tên khác, nhưng tên nào đây? Bác sĩ Martens, lúc đó tôi không nghĩ ra được một tên nào khác, tôi phân vân. Bỗng một ý nghĩ vụt lóe lên như thể nó đến với tôi trong khoảnh khắc dạo tôi mới lên mười. Tại sao không gọi bác sĩ Martens và tự xưng là anh vợ tôi? Martens biết anh ấy rất rõ và ghét cay ghét đắng anh ta từ mười năm nay. Cũng giọng đàn bà ấy trả lời. “Georg Jurgens đây. Cho tôi gặp bác sĩ Martens.” “Có phải ông đã gọi lúc nãy?” “Trung tá Jurgens. Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ Martens và ngay lập tức.” “Vâng ạ.” Người đàn bà đáp, “Xin chờ chút.” Schwarz nhìn tôi: — Ông có quen với cái tiếng vo vo trong ống nghe khi ông thấp thỏm chờ đợi quyết định về mạng sống của mình trên điện thoại chưa? Tôi gật đầu: — Cũng không hẳn là ông chờ đợi mạng sống của ông đâu. Có thể là ông đang trông đợi cái khoảng trống rỗng mà chính ông tìm cách xua đuổi đi đấy. Schwarz kể tiếp câu chuyện: — “Bác sĩ Martens đây.” Sau cùng tôi nghe tiếng trả lời. Tôi lại rơi vào cái tâm trạng đã có một lần có thể khiến tôi phải bật cười. Cổ họng tôi khô khản. “Rudolf,” tôi thì thào. “Xin lỗi!” “Rudolf.” Tôi nhắc lại, “Tôi là bà con của Helen Jurgens.” “Tôi chẳng hiểu gì cả. Có phải ngài tiểu đoàn trưởng Jurgens đó không?” “Không, tôi gọi giùm ông ấy. Cho Helen Jurgens. Ông không hiểu sao?” “Tôi chẳng hiểu tí gì cả.” Giọng nói trong máy đâm ra bực tức,” Tôi đang bận khám bệnh.” “Tôi không thể đến phòng mạch của anh được sao, Rudolf? Anh bận lắm sao?” “Ông có ý gì đây? Tôi không quen ông, mà ông lại…” “Ồ, cái lão Shatterhand.” Tôi nói. Thình lình tôi đã nhớ lại những tên mà chúng tôi dùng để gọi nhau hồi bé trong lúc chơi trò người da đỏ, những tên rút ra ở những cuốn tiểu thuyết của Karl May mà chúng tôi đã ngấu nghiến thuở còn mười hai tuổi. Trong một lúc, tôi chẳng nói gì. Rồi Martens hỏi khẽ: “Gì vậy?” “Winnetou.” Tôi đáp, “Anh đã quên những tên cũ ấy rồi ư? Lạ nhỉ? Đó là những cuốn tiểu thuyết mà Quốc trưởng thích nhất đấy.” “Đúng thế,” Martens đáp. Ai cũng biết rằng kẻ đã khơi mào cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai này có ở cạnh giường ngủ ba bốn chục cuốn trong tuyển tập của Karl May. Và ai cũng biết rằng những cuốn sách này nói về người da đỏ, người săn bẫy thú, những sách mà bất cứ đứa trẻ mười lăm tuổi bình thường nào ít ra cũng cho là buồn cười lố bịch, thì Quốc trưởng lại ưa thích nhất. “Winnetou?” Martens nhắc lại giọng ngờ vực. “Vâng, tôi cần gặp anh.” “Tôi… không hiểu… Anh ở đâu?” “Ở đây thôi. Osnabruck. Ta gặp nhau tại đâu đây?” “Tôi đang khám bệnh.” Martens nói một cách máy móc. “Thế thì tôi ốm. Vậy tôi có thể đến nhờ anh khám chứ?” “Thế là thế nào?” Martens nói giọng cho thấy là ông đã quyết định phải làm gì rồi, “Nếu ông muốn thì cứ đến gặp tôi, việc gì phải mất công gọi điện thoại?” “Lúc nào?” “Tốt nhất là bảy giờ rưỡi. Bảy giờ rưỡi,” Ông nhắc lại, “Đừng đến trước.” “Được. Bảy giờ rưỡi tôi sẽ đến gặp anh.” Tôi đặt ống điện thoại xuống. Mồ hôi ướt đẫm mình. Tôi ra khỏi phòng điện thoại. Một nửa vầng trăng chợt hiện lên giữa những đám mây. Còn đúng một tuần nữa sẽ là trăng tròn, tôi tính nhẩm. Thời điểm thuận lợi để vượt biên giới. Tôi nhìn lên đồng hồ. Tôi còn bốn mươi lăm phút nữa. Tốt hơn nên rời khỏi nhà ga. Những kẻ luẩn quẩn quanh ga luôn có vẻ khả nghi. Tôi đi vào con đường tối và ít người lai vãng nhất. Đường này dẫn đến dãy thành lũy cổ. Một đoạn đã bị san bằng bên trên có trồng cây. Phần kia, dọc theo sông, vẫn còn như trước. Tôi lần theo bức thành ấy, băng qua một công trường rồi đi qua trước nhà thờ Sacred Heart. Từ trên cao bức thành ta có thể nhìn qua sông, thấy những nóc nhà và tháp chuông của thành phố. Mái vòm kiểu ba rốc của giáo đường lấp lánh dưới ánh trăng chập chờn. Cảnh vật này tôi từng quen thuộc. Nó được in lại trên cả ngàn tấm bưu thiếp. Tôi cũng từng quen với cái mùi vị nước sông và mùi cây gia trên đại lộ chạy dọc theo bờ thành. Có những cặp tình nhân ngồi đong đưa trên những chiếc băng đặt giữa những hàng cây, nhìn ra sông và thành phố. Tôi ngồi lên một băng còn trống để giết thời gian nửa tiếng đồng hồ còn lại trước khi đến gặp Martens. Chuông nhà thờ bắt đầu đổ. Mang sẵn tâm trạng khắc khoải nên hồi chuông ngân vang khiến tôi càng dao động mạnh. Giống như ta chứng kiến một trận đấu quần vợt vô hình. Một trong hai đấu thủ là cái “tôi” trước đây, cái “tôi” run sợ và không dám nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại của mình. Còn đấu thủ kia là cái “tôi” bây giờ, cái “tôi” táo bạo, dám đánh liều cuộc sống tưởng như không còn lối thoát nào khác, một cuộc thi đấu điên rồ diễn ra dưới mắt quan sát của một trọng tài thụ động, khách quan vốn từ thâm tâm chỉ muốn cho cái “tôi” bây giờ thắng cuộc. Tôi nhớ mãi khoảng thời gian nửa tiếng đó với từng chi tiết. Tôi lại còn nhớ cả nỗi kinh ngạc của chính tôi làm sao tôi lại có thể nhìn vào bản thân tôi bằng một cái nhìn phân tích như thế được. Như thể tôi đang ở trong một căn phòng bốn bề có kính soi bao quanh. Những tấm kính này phát ra phản ảnh của tôi chập chờn trong vô vàn khoảng trống rỗng, và đằng sau mỗi phản ảnh như vậy tôi lại phát hiện ra một cái khác nhìn qua vai cái trước. Những tấm kính trông cũ và mờ, và tôi không tài nào nhận ra cái nét mặt trên ấy là ưu tư, buồn thảm hay tràn trề hy vọng. Trong bóng tối lấp lánh màu bạc, những hình ảnh ấy nhạt nhòa đi. Một người đàn bà ngồi xuống cạnh tôi. Tôi chẳng biết bà ấy muốn gì và tôi băn khoăn tự hỏi phải chăng cái chế độ tàn bạo này giờ đây cũng biến những sự vật này thành những bài tập quân sự? Thế nên tôi đứng dậy bỏ đi. Tôi nghe rõ tiếng cười của người đàn bà sau lưng tôi, và tôi không bao giờ quên được cái giọng cười nhẹ nhàng, khinh miệt và ái ngại của người thiếu phụ vô danh dưới chân tường Herrenteich tại thành phố Osnabruck ngày nào. CHƯƠNG 4 Phòng đợi vắng người. Trên ngăn kê gần cửa sổ là lọ cây cảnh lá dại khô như những mẩu da thuộc. Trên bàn la liệt những tạp chí bìa in hình những yếu nhân trong đảng, binh lính, một phân đội thanh niên Hitler. Tôi nghe những bước chân vội vã rồi Martens hiện ra ở bậc cửa. Anh nhìn tôi, lấy kính ra và chớp mắt. Trong phòng đợi ánh sáng mờ mờ. Thoạt tiên anh ta không nhận ra tôi, có lẽ vì hàng ria mép. “Tôi đây, anh Rudolf à.” Tôi nói, “Josef đây.” Anh làm hiệu cho tôi nói nhỏ. “Anh từ đâu đến đây?” Anh thì thào. Tôi nhún vai. “Điều đó có gì quan trọng đâu? Điều quan trọng là tôi đã đến đây. Anh phải giúp tôi mới được.” Tôi nói. Anh nhìn tôi. Đôi mắt cận thị của anh trong vùng ánh sáng lờ mờ đó trông chẳng khác gì mắt cá trong chậu. “Anh có được phép ở đây không?” “Tôi tự cho phép mình.” “Anh vượt biên bằng cách nào?” “Chẳng có gì quan trọng. Tôi đến đây để gặp Helen.” Anh há hốc miệng nhìn tôi kinh ngạc: “Thế ra anh đến đây là vì vậy?” “Vâng!” - Tôi đáp. Tôi bỗng cảm thấy yên ổn lạ thường. Tôi chỉ run sợ khi nào tôi còn cô đơn. Giờ thì bao nhiêu lo sợ ấy đã tan biến rồi. Vấn đề của tôi lúc này là trấn an anh bạn của mình đang ở trong tình trạng dao động. “Để gặp Helen?” Anh hỏi. “Vâng, để gặp Helen. Và anh phải giúp tôi.” “Trời đất!” Anh kêu lên. “Sao? Nàng chết rồi à?” Tôi hỏi. “Không cô ấy còn sống.” “Nàng vẫn còn ở trong thành phố này chứ?” “Vâng. Hay nói cho đúng, cách đây một tuần lễ cô ấy còn ở đây.” “Ta có thể nói chuyện ở đây không?” Martens gật đầu: “Tôi đã bảo nhân viên nhận bệnh đi nơi khác rồi. Nếu bệnh nhân có đến tôi cũng bảo họ đi thôi. Tôi không mời anh về nhà được. Tôi đã cưới vợ. Cách đây hai năm. Mong anh hiểu…” “Vâng, tôi hiểu.” Ngay cả bà con ruột thịt cũng không nên tin cậy dưới Đế chế Ngàn năm[*] này. Hành động tố cáo được các vị cứu tinh của nước Đức xem là một đức tính dân tộc. Về điều này tôi đã có chút ít kinh nghiệm đầu tay. Chính anh vợ tôi đã tố cáo tôi. “Vợ tôi đang ở trong đảng.” Martens nói nhanh, “Nhưng chúng tôi không bao giờ,” Anh nhìn tôi vẻ hơi ngượng, “Không bao giờ đề cập đến những chuyện như thế này. Tôi không nắm chắc là bên trong nhà tôi nghĩ gì. Mời anh vào đây vậy.” Anh mở cửa bước vào phòng mạch rồi khóa trái nó lại. “Cứ để cửa mở.” Tôi nói, “Đóng cửa còn khả nghi hơn khi người ta trông thấy chúng ta.” Anh vặn trả lại chìa khóa trong ổ khóa rồi nhìn tôi: “Này, Josef, vì Chúa, anh hãy nói thật đi, anh tính làm gì ở đây? Anh bí mật đến đây phải không?” “Đúng. Nhưng anh không phải giấu tôi đâu. Tôi đang trọ tại một khách sạn ở ngoại ô. Tôi đến gặp anh vì anh là người duy nhất có thể báo cho Helen biết tôi có mặt ở đây. Đã năm năm nay tôi không nhận được tin tức gì của nàng. Tôi không rõ nàng có chuyện gì không. Tôi cũng không biết nàng đã lấy chồng khác chưa. Không biết nàng…” “Và chính vì thế mà anh đến đây?” “Đúng thế.” Tôi ngạc nhiên đáp lại, “Còn vì cái gì nữa?” “Chúng tôi phải giấu anh đi. Đêm nay anh có thể nghỉ trên đi văng này. Tôi sẽ đánh thức anh trước bảy giờ. Đến bảy giờ chị giúp việc đến dọn dẹp. Sau tám giờ anh có thể trở lại. Bệnh nhân không đến trước mười một giờ đâu.” “Nàng tái giá rồi chứ?” “Ai? Helen hả? Tôi cũng không nghĩ là anh chị đã ly dị rồi.” “Nàng sống ở đâu? Vẫn trong căn hộ dạo ấy chứ?” “Tôi chắc thế.” “Có ai cùng sống với nàng không?” “Anh muốn nói gì?” “Mẹ, anh chị em hay một người bà con nào đó chẳng hạn?” “Tôi không rõ.” “Nhờ anh xem lại giùm.” Tôi nói, “Và cũng nhờ anh báo cho nàng biết tôi có mặt ở đây.” “Tại sao anh không đích thân nói cho cô ấy?” Martens hỏi, “Có điện thoại mà.” “Giả sử nàng không sống một mình thì sao? Cái gì sẽ xảy ra nếu anh nàng có mặt tại đó? Lão ấy đã một lần tố cáo tôi rồi mà.” “Đúng thế thật. Biết được anh ở đây chắc thế nào cô ấy cũng kinh ngạc như tôi. Và điều đó có thể làm lộ cô ấy ra.” “Tôi không biết rõ nàng nghĩ gì về tôi, Rudolf ạ. Đã năm năm rồi, còn gì? Và chúng tôi mới lấy nhau được bốn năm thôi. Năm năm lâu hơn bốn năm chứ, mà thời gian xa cách ảnh hưởng tai hại hơn thời gian sum họp.” Anh gật đầu tán đồng. “Tôi thật không hiểu anh.” Anh nói. “Tôi biết. Chính tôi, tôi cũng không hiểu tôi nữa là. Chúng ta có những cuộc sống khác nhau.” “Tại sao anh không viết thư cho cô ấy?” “Giờ thì những chuyện ấy làm sao giải thích cho anh hiểu, Rudolf. Thôi, cứ đi gặp Helen đi. Hãy tìm cách nói cho nàng rõ. Xem nàng nghĩ như thế nào? Nếu anh thấy có thể làm được, thì hãy bảo nàng rằng tôi có mặt ở đây và hỏi nàng xem chúng tôi có thể gặp nhau bằng cách nào.” “Anh muốn tôi đi vào lúc nào?” “Ngay bây giờ.” Tôi ngạc nhiên nói, “Sao lại phải chờ đợi?” Anh nhìn quanh quất: “Trong lúc chờ đợi, anh đi đâu? Đây không phải là nơi an toàn. Có thể nhà tôi cho người nhà xuống đây kiếm tôi. Thường thì tôi hay lên lầu sau những giờ làm việc; nhà tôi đã quen như thế rồi. Tôi có thể khóa cửa lại để anh trong đó, song như thế lại có vẻ khả nghi lắm.” “Tôi không thích bị khóa đâu.” Tôi nói, “Sao anh không bảo chị ấy là anh có người bệnh phải khám.” “Tôi sẽ bảo như thế khi tôi trở lên lầu. Như thế đơn giản hơn.” Tôi nhận thấy mắt anh chớp chớp lên, và trong thoáng chốc mắt trái của anh nháy lên một cách ranh mãnh khiến tôi nhớ lại những ngày thơ ấu giữa chúng tôi. “Tôi sẽ chờ trong nhà thờ. Ngày nay nhà thờ an toàn chẳng khác gì vào thời Trung cổ. Chừng nào tôi có thể ghé trở lại?” “Trong một tiếng nữa. Cứ xưng tên là Otto Sturn. Còn tôi gặp lại anh bằng cách nào? Anh hãy đến một nơi nào đó có điện thoại có phải tốt hơn không?” “Những nơi có điện thoại rất nguy hiểm.” “Vâng có lẽ đúng đấy!” Anh đứng ngần ngừ một lúc, “Vâng, có lẽ anh đúng. Nếu tôi không trở lại, anh cứ gọi tiếp, hoặc để lại ít chữ cho biết anh ở đâu.” “Được.” Tôi đội mũ lên. “Josef.” Anh gọi giật. Tôi quay người lại. “Ngoài kia ra sao?” Anh hỏi, “Anh hiểu tôi muốn nói gì chứ? Không… Không thiếu gì cả chứ?” “Không thiếu gì cả ư?” Tôi đáp, “Vâng, gần đúng như thế. Không thiếu gì cả. Nhưng không hẳn thế đâu. Thế còn ở đây thì sao? Chắc là đủ mọi thứ, chỉ thiếu một điều, lại còn là điều quan trọng nhất.” “Thế là không tốt rồi.” Anh nói, “Không tốt Josef ạ. Vì đấy chỉ là cái vỏ khoác ngoài thôi.” Tôi đi theo những đường vắng nhất đến ngôi thánh đường. Cũng không xa lắm. Đến phố Krahn, một đại đội lính diễu hành ngay qua mặt tôi. Họ hát một bài tôi không biết. Quảng trường Dom lính càng đông hơn. Cách đó không xa, cạnh ba cây thập tự của ngôi Nhà thờ Nhỏ, một đám vài trăm người tụ tập lại, phần đông mặc đồng phục đảng Quốc xã. Nghe giọng nói, tôi ngước lên nhìn diễn giả, nhưng chẳng thấy ai. Sau mắt tôi sáng lên khi thấy một cái loa phóng thanh gắn dựa vào một cái bục. Nó đứng đấy, dưới một ngọn đèn, trần trụi và đơn độc, đúng là một cái máy tự động, gào lên đòi quyền chiếm lại từng tấc đất cho nước Đức, cho nước đại Đức, đòi quyền báo thù. Hòa bình của thế giới, nó gầm lên như thế, chỉ có thể bảo vệ bằng một đường lối duy nhất: thế giới phải làm đúng ý muốn của nước Đức. Đó là cách hợp lẽ phải và công bằng. Gió lại nổi lên, và những cành cây đong đưa in bóng chập chờn lên những khuôn mặt quanh đó, lên cái máy đang tru tréo và những bức tượng đá im lìm trên tường nhà thờ phía sau đó: Chúa Ki-tô đóng đinh trên cây thập giá giữa hai tên trộm. Nét mặt những người nghe chú ý tập trung cao độ và rạng rỡ hẳn lên. Họ tin những cái máy kia đang gào thét vào mặt họ. Trong trạng thái thôi miên lạ lùng, họ vỗ tay hoan hô cái giọng vô hồn ấy mà cứ tưởng như là của người thật. Cảnh quan này gây trong tôi một ấn tượng mãnh liệt điển hình cho cái xu hướng quỷ quyệt hung hãn của quần chúng Đức trong thời đại chúng ta, điển hình cho đám đông cuồng loạn kinh hoàng chỉ biết nghe theo khẩu hiệu. Dù những khẩu hiệu ấy đến với họ từ bên trái hay bên phải cũng chẳng hề gì, miễn chúng đỡ cho họ cái công việc nặng nhọc là phải suy nghĩ lôi thôi và khỏi phải gánh lấy trách nhiệm. Trong nhà thờ tôi không ngờ lại thấy nhiều người đến thế. Rồi tôi sực nhớ vào dạo tháng năm, tối nào cũng có thánh lễ. Trong một lúc tôi tự hỏi vào một nhà thờ Tin lành có hơn không, nhưng tôi cũng không biết ở đó buổi tối họ có mở cửa không. Tôi lách mình ngồi vào chiếc ghế dài có dựa gần cửa ra vào. Trên bàn thờ ánh nến sáng rực, nhưng phần còn lại trong nhà thờ thì chỉ lờ mờ sáng, và không dễ gì nhận diện ra tôi được. Vị linh mục đi quanh nhà thờ giữa khói hương nghi ngút, và ánh nến chói lòa hai bên có hai cậu giúp lễ mặc áo lễ đỏ, ngoài khoác áo thụng trắng, một trong hai người lắc chiếc đỉnh trầm. Qua tiếng đàn oóc gan và những bài thánh ca, tôi có cảm giác cũng những khuôn mặt biến dạng rạng rỡ như lúc nãy ở bên ngoài kia. Cũng những cặp mắt thoát trần của những người mộng du, chất ngất niềm tin không chút thắc mắc và khao khát bình an không trách nhiệm. Không khí trong nhà thờ hiền hòa, êm ái. Nhưng tôn giáo này, vốn dạy ta yêu người, mến Chúa, không phải lúc nào cũng hiền hòa, êm ái như thế này đâu. Qua bao nhiêu thế kỷ dài đắm chìm trong tăm tối, nó cũng đã làm đổ biết bao nhiêu máu. Đến lúc hết bị sát hại thì đến phiên nó đi sát hại người khác, bằng lửa, bằng gươm, bằng tra tấn hành hạ. Chính anh của Helen nêu rõ điểm này khi lão nói với tôi trong trại tập trung: “Chúng tôi chỉ tiếp tục áp dụng những phương pháp của các bạn thôi. Tòa án Dị giáo[*] của các bạn, với những cách tra tấn cả nó nhân danh Chúa, dạy chúng tôi cách phải đối xử với kẻ thù của niềm tin. Thật tình mà nói, chúng tôi không đến nỗi tàn ác thế. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt chúng tôi mới thiêu sống người.” Lúc hắn nói với tôi điều này là lúc tôi đang bị treo trên cây thập tự, đó là một cách êm ái của họ để lấy tin tức ở đám tù nhân. Vị linh mục nâng chén thánh tích bằng vàng trên bàn thờ lên và ban phép lành cho đám con chiên. Tôi ngồi thật yên, nhưng cứ tưởng như được tắm gội trong hương trầm ấm áp, bồng bềnh giữa niềm an ủi quang mình. Rồi bài thánh ca cuối cùng trỗi dậy: “Đêm nay xin Chúa bảo vệ che chở cho con.” Bài thánh ca này tôi đã từng ca hồi còn bé. Dạo ấy bóng tối ban đêm làm tôi sợ hãi, giờ đây chính ánh sáng lại làm tôi kinh hoàng. Thiên hạ bắt đầu ra về. Tôi còn mười lăm phút nữa để chờ đợi. Tôi nhích người vào góc cạnh cây cột lớn đỡ mái vòm của thánh đường. Vừa lúc đó, tôi trông thấy Helen. Thoạt tiên tôi không nhận ra nàng, vì tôi không trông mong gặp nàng tại đây. Sau đó, lúc nàng bước lên vài bước qua trước mặt tôi đến một nơi thưa người hơn, tôi mới nhận ra nàng khi nàng khẽ nhích vai để chen lên phía trước. Tưởng như nàng không va chạm vào người ai cả, mà chỉ lướt nhẹ vào giữa đám đông thôi. Bỗng nhiên nàng đứng đấy, nổi hẳn lên giữa gian chính rộng bao la của giáo đường, thật rõ nét trước hàng nến và khoảng bóng tối xanh đỏ của những cửa sổ cao lớn kiểu Rô-ma. Trông nàng gầy, ốm, mong manh và lạc lõng. Tôi đứng dậy, tìm cách bắt gặp cái nhìn của nàng. Tôi không dám vẫy tay ra hiệu. Vẫn còn đông người quá; làm thế người ta có thể để ý đến mất. Nàng vẫn còn sống, đó là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Nàng không chết và không bệnh hoạn. Đôi khi ta lấy làm ngạc nhiên sao lại có những sự việc vẫn y nguyên như trước kia, sao một người nào đó lại có thể còn đó. Nàng bước vội đến chỗ ca đoàn. Tôi lách người ra khỏi ghế và đi theo nàng. Đến hàng rào chấn song nơi rước lễ, nàng dừng lại nhìn quanh. Nàng quan sát cẩn thận những người đang còn quỳ ở hàng ghế rồi thong thả quay trở xuống. Nàng chắc chắn sẽ tìm ra tôi trong một hàng ghế nào đó, tới mức nàng bước tới cạnh tôi, gần tới mức chúng tôi có thể chạm vào người nhau được. Tôi bước theo nàng. Khi nàng dừng lại lần nữa, tôi dừng lại ngay sau lưng nàng. “Helen.” Tôi nói, “Đừng đi lòng vòng như thế. Hẵng ra ngoài kia đi. Anh sẽ theo em. Đừng để cho người ta thấy chúng mình đấy.” Người nàng run lên như bị kích động mạnh, song nàng vẫn tiếp tục bước. Tại sao nàng lại dấn thân đến chốn này? Chúng tôi đang có nguy cơ bị nhận diện. Nhưng chính tôi lại cũng không ngờ lại có đông người đến thế. Tôi thấy nàng rảo bước trước mặt tôi, còn tôi thì nóng lòng muốn ra khỏi giáo đường càng nhanh càng tốt. Nàng mặc một bộ đồ đen, đội một chiếc mũ thật nhỏ. Nàng giữ đầu thẳng, hơi nghiêng về một phía như thể lắng nghe tiếng bước chân tôi. Tôi đi tụt lại đằng sau vài bước, chỉ giữ khoảng cách đủ để khỏi mất dấu nàng. Kinh nghiệm đã dạy tôi rằng ta có thể bị lộ diện chỉ vì theo sát một người nào đó quá mức. Nàng bước qua trước bể đại chứa nước thánh và ra bằng cửa chính. Rồi nàng rẽ sang trái. Dọc theo giáo đường là một lối đi lát đá phiến, ngăn cách với khu vườn bao quanh giáo đường bằng những sợi dây xích sắt gắn vào hàng trụ đúc bằng sa thạch. Nàng nhảy qua hàng rào dây xích, bước vài bước vào trong bóng tối, dừng lại, rồi đi lòng vòng một hồi. Khi tôi nói rằng vào lúc ấy tôi cảm thấy chính đây là cuộc sống của tôi, cuộc sống trọn vẹn của tôi đang đi chập chờn phía trước tôi mà lại dường như cách xa tôi, rồi đột nhiên nó quay lại với tôi, thì đó cũng là một lối nói rập khuôn, vừa đúng lại vừa không đúng sự thật. Đúng thế, tôi cảm nhận nó, nhưng nó lại không phải tất cả những gì tôi cảm nhận. Tôi đi về hướng Helen, hướng về khuôn mặt âm u, nhạt nhòa của nàng, hướng về đôi mắt, khóe miệng của nàng và để lại sau tôi những gì đã xảy ra. Những năm chúng tôi phải xa cách nhau không phải đã tan biến đi, chúng vẫn còn đó, nhưng giống như tôi đã đọc thấy chúng trên những trang sách chứ không phải chính tôi đã trải qua.” “Anh từ đâu đến?” Helen hỏi bằng một giọng gần như là thù địch trước khi tôi bước theo kịp nàng. “Từ Pháp.” Tôi đáp. “Và họ để anh vào sao?” “Không. Anh vượt biên giới một cách bất hợp pháp.” Hầu hết là những câu hỏi Martens đã hỏi tôi. “Tại sao?” Nàng hỏi. “Để gặp em.” “Anh không nên về mới phải.” “Anh biết vậy. Anh cũng đã từng nói với chính mình điều đó ngày này qua ngày khác.” “Thế tại sao anh lại trở về?” “Nếu anh biết tại sao thì anh đã không có mặt ở đây rồi.” Tôi không dám hôn nàng. Nàng đứng ngay trước mặt tôi, nhưng người cứng nhắc, tưởng chừng như nàng có thể gãy đổ nếu tôi chạm đến người nàng. Tôi không biết lúc ấy nàng đang nghĩ gì, nhưng điều đáng nói là tôi đã gặp lại được nàng, nàng vẫn còn sống, và bây giờ thì tôi có thể yên tâm ra đi, hoặc chờ xem những gì sẽ xảy ra. “Anh không biết?” Nàng lại hỏi. “Ngày mai anh sẽ biết. Hoặc tuần tới. Hoặc sau này.” Tôi nhìn lại nàng. Mà biết cái gì mới được? Hiểu biết chỉ như hạt bụi, cọng rác, một cụm bèo bọt chờn vờn trên đầu ngọn sóng. Một thoáng gió nhẹ cũng có thể cuốn nó phăng đi, nhưng ngọn sóng thì còn lại mãi mãi. “Thế là anh đã trở về.” Nàng nói. Mặt nàng không còn nét cứng nhắc và đã trở lại dịu dàng, thùy mị. Nàng bước gần lại một bước. Tôi nắm cánh tay nàng, và đôi bàn tay nàng đặt lên ngực tôi như để giữ khoảng cách giữa tôi và nàng vậy. Tôi có cảm giác mình đứng đối diện với nàng khá lâu, cô đơn trong khu vườn âm u lộng gió. Âm thanh ngoài đường nghe lắng xuống, như cách với chúng tôi bằng Ở một bức tường thủy tinh. Ở đằng cuối công viên về bên trái tôi, cách khoảng trăm bước, là Hí viện Quốc gia, đèn thắp sáng rực với những bậc thang cấp trắng toát. Rồi trong một lúc, tôi còn nhớ rõ điều này, tôi hơi ngạc nhiên là các vở kịch vẫn tiếp tục được trình diễn và rạp hát vẫn chưa bị biến thành trại lính hoặc nhà tù. Một tốp người đi qua chúng tôi. Một người trong bọn cất tiếng cười vang, có kẻ lại nhìn quanh chúng tôi. “Đi nào, anh.” Helen bảo thầm, “Ta không ở đây được đâu.” “Đi đâu bây giờ?” “Về nhà của anh.” Tôi tưởng tôi nghe nhầm. “Đâu?” Tôi hỏi lại. “Về nhà của anh. Chứ còn về đâu nữa?” “Người ta có thể nhận ra anh trên cầu thang. Cũng những người đã sống trong nhà như trước kia chứ?” “Vâng, nhưng họ sẽ không thấy anh đâu.” “Thế còn chị giúp việc?” “Em sẽ cho cô ấy nghỉ tối nay.” “Còn sáng ngày mai?” Helen nhìn tôi: “Anh đến từ nơi xa xôi như thế để hỏi em những câu hỏi ấy sao?” “Anh trở về không phải để bị bắt và đưa đi trại tập trung, Helen à.” Sau rồi nàng cũng mỉm cười. “Này Josef.” Nàng nói, “Anh chẳng thay đổi tí nào. Làm sao anh về được đến đây?” “Chính anh, anh cũng không biết nữa.” Tôi đáp và cũng mỉm cười theo. Tôi nhớ có những lần trong quá khứ nàng cũng lấy cái giọng bực tức ấy đối với thái độ thông thái rởm của tôi. Kỷ niệm này khiến tôi tạm quên nỗi hiểm nguy đang đe dọa tôi. “Nhưng anh đã về đây.” Tôi nói. Nàng lắc đầu, và tôi thấy đôi mắt nàng ứa lệ. “Chưa đâu, anh ạ.” Nàng đáp, “Chưa đâu. Bây giờ cứ đi tiếp, nếu không, có thể họ bắt chúng ta thật đấy. Trông cứ như là em đang gây gổ với anh vậy.” Chúng tôi băng qua công viên. “Ngay bây giờ anh không thể đi với em được.” Tôi nói, “Trước hết em phải cho chị giúp việc đi đã. Anh đã lấy một phòng khách sạn ở Munster rồi. Ở đấy chẳng ai biết anh đâu, và anh nghĩ anh nên lưu lại tại đó.” Nàng đứng phắt lại, hỏi: “Trong bao lâu?” “Anh không biết.” Tôi đáp, “Anh chẳng bao giờ tính trước được chuyện gì cả. Anh chỉ biết là anh muốn gặp em và có thể một hôm nào đó anh sẽ trở lại.” “Lại vượt biên giới?” “Tất nhiên.” Nàng cúi đầu và tiếp tục bước đi. Tôi nghĩ tôi phải hạnh phúc lắm, nhưng tôi lại không cảm nhận được như vậy. Chỉ về sau ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đó. Vâng, bây giờ, bây giờ đây tôi mới biết lúc bấy giờ tôi thật hạnh phúc. “Anh phải gọi điện cho Martens.” “Anh có thể gọi anh ấy từ nhà của anh.” Helen nói lại.” Mỗi lúc nghe nàng nói “nhà của anh” tim tôi cứ nhảy thót lên. Nàng làm như vậy là cũng có chủ ý. Tôi chẳng biết vì sao. “Anh có hứa với Martens sẽ gọi anh ấy trong một tiếng đồng hồ nữa. Có nghĩa là bây giờ. Nếu anh không gọi, anh ấy lại nghĩ có chuyện gì không hay đã xảy ra. Rồi anh ấy đâm ra hành động bậy bạ. Anh ấy biết anh sẽ gặp em.” Tôi nhìn đồng hồ. Đáng lẽ tôi đã phải gọi anh ta mười lăm phút trước rồi. “Anh sẽ gọi anh ta ở quán nước gần nhất.” Tôi nói, “Chỉ mất một giây thôi.” “Trời đất, Josef.” Helen giận dữ nói, “Thật tình anh chẳng thay đổi chút nào. Anh còn rởm hơn trước kia nữa đó.” “Có thể là như vậy.” Tôi nói, “Nhưng nhờ kinh nghiệm mà anh biết rằng những tai họa nào có thể xảy ra cho ta nếu ta không chịu để ý đến những chi tiết nhỏ. Và anh cũng từng biết qua cái tâm trạng đợi chờ trong khi tai họa đang rình rập chung quanh mình.” Tôi nắm lấy tay nàng: “Nếu anh không rởm như em nói, Helen à, thì chắc anh không sống được đến hôm nay.” Nàng siết mạnh tay tôi. “Em biết chứ!” Nàng thì thầm, “Nhưng anh không hiểu em lo sợ có chuyện gì xảy đến cho anh nếu em để anh một mình dẫu chỉ trong một phút hay sao?” Tôi cảm thấy lòng mình được sưởi lại bằng tất cả hơi ấm của cuộc đời. “Chẳng có gì xảy ra đâu, Helen ạ.” Nàng mỉm cười và ngẩng đầu lên. “Thôi, anh đi gọi điện thoại đi. Nhưng chớ vào quán nước. Đằng kia có phòng điện thoại. Họ đã xây cất thêm một phòng trong thời gian anh đi vắng. Ở đấy an toàn hơn quán nước.” Tôi bước vào phòng điện thoại bằng kính. Helen đứng ngoài. Tôi gọi Martens. Đường dây bận. Chờ đợi một lúc, tôi gọi lại. Đường dây vẫn còn bận. Tôi đâm lo. Qua lớp kính phòng điện thoại tôi thấy Helen rảo bước lui tới một các thận trọng. Tôi đi về phía nàng nhưng nàng không trông thấy tôi. Nàng đang dõi theo đường phố nhưng lại cố làm ra vẻ như không, cùng một lúc đóng vai lính gác và thần hộ mệnh, trong bộ đồ rất vừa vặn với nàng mà đến lúc bấy giờ tôi mới nhận ra. Trong lúc chờ đợi, tôi còn nhận ra nàng có dùng son. Trong ánh đèn vàng, son ngả màu đen. Tôi nhớ ra trong nước Đức mới, son phấn không được chấp nhận. Phải gọi đến lần thứ ba, Martens mới trả lời. “Nhà tôi dùng điện thoại.” Anh giải thích, “Trong gần nửa tiếng đồng hồ. Tôi không thể giành máy được.” “Bây giờ chị ấy ở đâu?” “Trong nhà bếp. Tôi phải để nhà tôi nói chuyện, anh hiểu chứ?” “Vâng, tất nhiên. Mọi sự đều êm xuôi. Cảm ơn anh, Rudolf. Hãy quên rằng anh đã gặp tôi.” “Anh đang ở đâu?” “Ngoài phố. Cảm ơn, Rudolf. Giờ thì tôi chẳng cần gì cả. Tôi đã gặp cái tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi đang đứng bên nhau.” Tôi nhìn Helen qua bức tường bằng kính và muốn gác ống điện thoại. “Anh đã biết anh sẽ ở lại đâu chưa?” Martens hỏi. “Tôi nghĩ là biết. Xin anh chớ bận tâm. Hãy quên buổi tối hôm nay đi. Cứ xem như là một giấc mơ ấy thôi.” “Nếu tôi còn giúp gì được cho anh, xin cứ cho tôi biết.” Anh nói giọng ngập ngừng, “Lúc đầu thì vì tôi quá ngỡ ngàng đấy thôi. Anh hiểu cho chứ?” “Vâng, Rudolf, tôi hiểu. Nếu cần gì, tôi sẽ báo anh hay.” “Nếu anh muốn ngủ lại đêm tại nhà… ta có thể nói chuyện nhiều hơn.” Tôi mỉm cười. “Vâng, để xem. Bây giờ tôi phải gác máy đây.” “Phải đấy, tất nhiên.” Anh nói nhanh, “Bỏ lỗi cho tôi nghe. Chúc anh mọi điều may mắn, Josef. Thật tình đấy.” “Cảm ơn anh, Rudolf.” Tôi bước ra khỏi phòng điện thoại ngột ngạt. Một cơn gió mạnh suýt thổi bay mũ của tôi. Helen chạy ùa đến tôi. “Ta về nhà ngay thôi. Em đâm ra lây cái thói cẩn thận của anh. Cứ tưởng như có cả trăm con mắt đứng ngoài vùng bóng tối mà nhìn chúng mình vậy.” “Vẫn còn chị giúp việc cũ đấy chứ?” “Ai? Lena ấy hả? Chị ấy là do thám của anh em. Anh ấy muốn biết anh có viết thư cho em không. Hoặc là em có viết thư cho anh không.” “Thế còn người giúp việc hiện nay?” “Chị này thì điếc và chẳng để ý gì đến những việc em làm. Được một ngày nghỉ cuối tuần là chị ta sung sướng lắm rồi. Chị ấy chẳng nghĩ ngợi gì đâu.” “Em chưa cho chị ấy đi chứ?” Nàng mỉm cười là trông nàng thật đẹp. “Còn phải xem anh có thực ở lại không đã chứ?” “Em nên cho chị ta đi trước khi anh về nhà.” Tôi nói, “Không nên để chị ta trông thấy chúng mình. Ta không thể đi đến một nơi nào khác sao?” “Ở đâu?” “Ừ, ở đâu nhỉ?” Helen bật cười, “Chúng mình như hai đứa trẻ đôi mươi đứng đây mà băn khoăn không biết có thể lén lút gặp nhau tại nơi vào vì cha mẹ nghĩ họ còn quá nhỏ bé. Ta đi đâu được bây giờ? đến Công viên Castle chăng? Tám giờ người ta đóng cửa. Ngồi trên ghế ở công viên thành phố ư? Hay vào một tiệm bánh? Thật mạo hiểm quá!” Nàng nói có lý. Đây là những chi tiết nhỏ mà tôi không nghĩ đến, bạn cũng thế thôi. “Phải, đúng thế!” Tôi nói, “Mà chúng ta thì đứng đây như cặp tình nhân đôi mươi.” Tôi nhìn nàng. Nàng hai mươi chín tuổi, song chẳng thay đổi bao nhiêu. Khoảng thời gian năm năm mới đây lướt qua trên nàng như nước đổ lên da hải cẩu, chẳng để lại dấu vết gì. “Thì anh đến đây y như một chàng thiếu niên đôi tám.” Tôi nói, “Thật là nghịch lý hết sức. Nhưng anh chẳng buồn nghĩ tới đâu. Anh cũng không còn nhớ ra là em lấy anh hoặc lấy một người nào khác nữa cơ đấy.” Nàng không trả lời. Mái tóc nâu của nàng ngời lên trong ánh điện đường. “Em đi về cho chị giúp việc nghỉ!” Nàng nói, “Nhưng em không thích để anh một mình ngoài phố như thế này. Rất có thể anh sẽ biến đi cũng đột ngột như khi anh đến vậy. Anh đi đâu trong lúc chờ đợi?” “Nơi mà em đã tìm thấy anh đó. Tại một giáo đường. Anh có thể trở lại ngôi giáo đường lúc nãy. Giáo đường là nơi an toàn, Helen à. Anh đã trở thành chuyên gia về những giáo đường và viện bảo tàng của Pháp, Thụy Sĩ và Ý rồi.” “Anh nhớ trở lại trong nửa tiếng nữa.” Nàng bảo khẽ, “Anh vẫn còn nhớ mấy cửa sổ ở nhà chúng mình chứ?” “Anh còn nhớ mà.” Tôi nói. “Nếu cửa sổ mở một góc tức là an toàn và anh có thể lên được. Nếu thấy đóng, anh hãy đợi để em mở nó đã.” Tôi vụt nhớ lại những ngày tôi còn thơ ấu, thuở tôi thường chơi trò mọi Da đỏ với Martens. Dạo ấy, tín hiệu chúng tôi dùng là ánh đèn nơi cửa sổ. Lão Shatterhand hoặc Winnetou thì chờ ở bên dưới. Phải chăng cuộc đời tự nó lặp lại? Có gì thực sự có thể tái diễn lại được chăng? “Tốt!” Tôi nói, và bắt đầu bước đi. “Anh đi đâu?” “Anh đi xem thử nhà thờ St. Mary có còn mở cửa không. Nếu trí nhớ không đánh lừa anh thì ngôi giáo đường này là một điển hình thanh cao của lối kiến trúc Gô-tíc. Anh đã học được cách đánh giá những sự vật như thế rồi.” “Thôi đừng nói năng tầm phào nữa.” Nàng bảo, “Để anh đi một mình cũng đủ khiến em lo lắng rồi.” “Này, Helen!” Tôi đáp lại, “Anh cũng đã học cách tự lo lấy thân rồi.” Nàng lắc đầu. Nét dũng cảm đã biến đi trên khuôn mặt nàng. “Thế chưa đủ đâu.” Nàng nói, “Chưa đủ đâu. Em sẽ làm gì đây nếu anh không trở về?” “Em chẳng làm gì được. Số điện thoại của em vẫn thế, phải không?” “Vâng.” Tôi sờ lên vai nàng. “Helen.” Tôi nói, “Rồi mọi sự sẽ tốt lành thôi em ạ.” Nàng gật đầu. “Để em đưa anh đến nhà thờ St. Mary. Em muốn được an tâm là anh đã đến đó.” Chúng tôi bước đi trong im lặng. Không xa lắm. Helen từ giã tôi, không nói một lời nào. Tôi nhìn theo nàng lúc nàng băng qua bãi chợ cũ. Nàng bước đi nhanh không nhìn lại phía sau. Tôi dừng chân trong bóng tối bên dưới cổng chính. Bên phải là tòa thị chính khuất trong bóng đêm, trừ những khuôn mặt tượng đá thấp thoáng dưới ánh trăng. Năm 1618, kết thúc cuộc chiến tranh Ba mươi năm được tuyên bố trên bực thềm bên ngoài tòa thị chính này. Đến năm 1933 nền Đế chế Ngàn năm cũng được mở đầu tại đây. Tôi thắc mắc không biết có còn được sống để chứng kiến sự loan báo nó kết thúc không! Tôi còn rất ít hy vọng. Tôi không tìm cách bước vào bên trong nhà thờ. Đột nhiên tôi thấy không chịu nổi với cái ý nghĩ phải lẩn trốn. Tôi vẫn còn giữ ý định là phải thận trọng, nhưng từ lúc gặp lại Helen, tôi không còn muốn hành động như con thú bị săn đuổi, trừ trường hợp tôi phải làm như vậy. Tuy thế, ở đây lâu chắc cũng không an toàn, nên tôi bắt đầu lang thang đây đó. Cái thành phố này, trước thì có vẻ nguy hiểm, vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, nay bừng sống dậy. Tôi cảm nhận điều này vì bản thân tôi cũng đang hồi sinh. Tôi chợt nghĩ ra rằng cuộc sống vô danh của tôi trong năm năm gần đây, trước dường như trống vắng là thế, tựu trung chỉ là một cuộc chiến đấu để sống còn, thật ra đâu đến nỗi vô dụng. Nó đã nhào nặn con người tôi, và giờ đây, tựa như một đài hoa vừa nở trong đêm, ý nghĩa cuộc sống mà trước đây tôi chưa từng biết đến, vụt bừng sáng trong tôi. Chẳng có gì là lãng mạn cả. Nhưng đây là một điều mới mẻ phấn khích, như thể một đóa hoa miền nhiệt đới màu sắc rực rỡ, to lớn, bằng thép, kỳ diệu vừa xuất hiện trên một cây hoa bình thường vốn chỉ có thể nảy ra vài nụ không ra gì. Tôi ra đến bờ sông, dừng chân trên cầu, và nhìn xuống hàng rào ở mặt nước. Bên trái tôi là một tháp canh thời Trung cổ, nay được dùng làm nhà giặt. Những cửa sổ thắp đèn sáng, và các cô gái vẫn còn làm việc. Ánh đèn tỏa ra khắp mặt sông lấp lánh từng cụm sáng rộng lớn. Bức tường đen đúa phủ đầy cây gia nổi bật trên nền trời cao rộng, và về bên phải trải rộng ra là những khu vườn và bóng ngôi giáo đường. Tôi đứng lặng yên, tâm hồn hoàn toàn bình thản. Chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng sóng nước vỗ bờ và tiếng lao xao của mấy cô gái giặt áo bên sau cửa sổ. Tôi không nghe ra được họ đang nói gì. Tất cả những gì tôi nghe được dường như chỉ là những âm thanh của loài người chưa uốn nặn thành từ ngữ, chỉ là những tín hiệu của sự hiện diện con người, nhưng chưa phải là những từ ngữ hoàn chỉnh dùng làm tín hiệu cho sự dối trá, phản bội, ngu xuẩn, nỗi cô đơn đau nhức đến điên cuồng, những âm bội khó nghe làm biến dạng cái được xem là một giai điệu thuần khiết. Tôi hít thở, và tưởng chừng như tôi đang thở cùng một nhịp với sóng nước ngoài sông. Trong một hồi lâu bất tận, tôi lại còn cảm thấy tôi như là một thành phần của chiếc cầu, rằng nước đang trôi chảy trong tôi cùng với nhịp thở. Cảm nhận này có vẻ tự nhiên quá, và tôi chẳng lấy làm ngạc nhiên. Tôi chẳng suy nghĩ gì nữa. Những ý nghĩ của tôi đã rơi vào vô thức như hơi thở của tôi và sóng nước của con sông. Có ánh đèn che khuất di chuyển nhanh qua hàng cây gia bên trái tôi. Tôi để mắt theo dõi, và tôi lại nghe tiếng nói xôn xao của các cô gái đi giặt áo. Tôi nhận ra là có một lúc tôi đã không nghe thấy tiếng họ. Rồi tôi lại nghe thoảng mùi hoa cây gia theo gió từ bên kia sông đưa sang. Ánh đèn di động vụt tắt và cùng lúc những khung cửa sổ sau lưng tôi tối sầm lại. Trong phút chốc mặt nước đen như mực, rồi tôi trông thấy ánh trăng trước đó bị đèn nhà giặt lấp khuất trải dài thành tia dát bạc lên mặt sông. Giờ chỉ còn lại ánh trăng lung linh dịu dàng muôn vẻ muôn hình chứ không phải là cái thứ ánh đèn vàng vọt, thô thiển trước đó. Tôi chợt liên tưởng đến cuộc đời của tôi, trong đó nhiều năm trước đây ánh sáng đã bị dập tắt, và tôi băn khoăn có thể nào sẽ có vô vàn ánh sáng dịu dàng xuất hiện lại, như ánh trăng lấp lánh ngoài sông kia. Cho đến lúc ấy, tôi chỉ ý thức được sự mất mát của tôi, và tôi chưa có dịp nào để đền bù lại được. Tôi rời chiếc cầu và đi lui tới giữa hai hàng cây tối sẫm trên thành lũy cho đến hết nửa tiếng đồng hồ. Đêm càng về khuya mùi hương hoa gia càng đậm đà hơn, và ánh trăng rải bạc trên mái nhà và tháp chuông. Cứ như là cả thành phố này đang tìm đủ cách trong quyền năng của nó để cho tôi thấy tôi đã dựng đứng lên một màn dối trá rằng tôi chẳng còn hy vọng gì tìm ra một nơi ẩn náu tránh tai họa bất cứ tại đâu, rằng tôi có thể trở về nhà tâm hồn thanh thản sau một chuyến đi vô định, để trở về lại cái tôi như trước. Không cần phải đề phòng chống lại cảm giác đó vì giờ đây trong tôi đã có sẵn cái bản năng cảnh giác lúc nào cũng nhìn tứ phía. Đã rất nhiều lần tôi bị bắt tại Paris, Rome và tại nhiều thành phố khác trong cùng một tâm trạng như hôm nay, đầu hàng trước vẻ đẹp và tự ru mình vào cõi bình an bằng những ảo ảnh của tình yêu, thông cảm và lãng quên. Nhưng bọn cảnh sát thì không bao giờ lãng quên. Ánh trăng và hương cây gia không có quyền phép biến bồ câu mồi nên thánh được. Các giác quan tôi báo động một cách cẩn trọng như đôi cánh dơi. Tôi tìm đường về Quảng trường Hitler. Ngôi nhà nằm ngay góc đường, nơi có con đường đi vào quảng trường. Phố tôi ở trước kia vẫn mang tên cũ. Cửa sổ để mở. Tôi nhớ lại câu chuyện giữa nàng Hero và người tình Leander và câu chuyện cổ tích có chàng hoàng tử và nàng công chúa, theo đó hoàng tử bị chết chìm vì bà nữ tu tắt đèn. Tôi không là hoàng tử, tôi nghĩ thế. Người Đức có rất nhiều chuyện cổ tích hay, tuy nhiên, hay có lẽ cũng chính vì lý do ấy, mà họ có những trại tập trung thảm khốc ghê tởm nhất thế giới. Tôi ung dung băng qua đường, nhưng đây không phải là sông Hellespont[*] mà cũng chẳng phải là một biển phương bắc. Vừa đến cửa vào, tôi thấy có người đi xuống hành lang. Quá muộn để quay lưng lại, tôi cứ tiếp tục bước về phía cầu thang với dáng điệu của người biết rõ nơi mình muốn đến. Đó là một người đàn bà luống tuổi mà trước kia tôi chưa từng gặp. Tim tôi ngừng đập. Schwarz cười mỉm, đây lại là một khuôn mẫu mà bạn không tin cho đến lúc nào bạn cảm nhận nó. — Tôi không nhìn quanh quất. Tôi nghe cửa nhà đóng sầm lại, và tôi chạy nhanh lên mấy bậc cầu thang. Cửa vào đóng hờ. Tôi đẩy cửa và gặp Helen. “Có ai thấy anh không?” Nàng hỏi. “Có, một người đàn bà lớn tuổi.” “Không đội mũ chứ?” “Phải, không mũ.” “Chắc là bà giúp việc. Phòng bà ở trên gác mái. Em cho bà ấy nghỉ đến chiều thứ hai. Thời gian ấy bà tha hồ mà trang điểm. Bà cứ nghĩ rằng thiên hạ chẳng có việc làm nào khác hơn là việc bình phẩm lối chưng diện của bà.” “Thôi, em chớ thắc mắc về bà ta nữa.” Tôi nói, “Dẫu có đúng là bà hay không thì bà cũng đã không nhận ra anh. Anh biết ngay nếu có người nào nhận ra mình.” Helen đem áo mưa và mũ tôi ra cất ở phòng ngoài. “Đừng để ở đây.” Tôi bảo, “Người ta có thể trông thấy. Cất vào trong tủ đi.” “Chẳng có ai đến đâu.” Helen nói rồi bước vào phòng khách. Trước khi đi theo nàng, tôi xoay chìa khóa trong ổ. Trong những năm đầu lưu lạc tha hương, tôi vẫn thường tưởng nhớ đến mái nhà gia đình tôi, và cũng đã tìm cách quên nó đi. Nay trở về đứng dưới mái nhà này, thì tôi lại chẳng cảm nhận gì nhiều. Nó tác động đến tôi cũng y như một bức ảnh một dạo là của tôi và nhắc tôi nhớ lại khoảng thời gian nào đó trong cuộc đời thôi. Tôi đứng ở thềm cửa. Hầu như chẳng có gì thay đổi. Chiếc trường kỷ và mấy cái ghế dựa đã được bọc lại. “Anh còn nhớ trước kia chúng màu xanh lục cơ mà?” Tôi hỏi. “Không, màu xanh biển.” Helen nói. Schwarz quay lại với tôi: — Sự thật cũng có cuộc sống riêng của chúng, và thật là khủng khiếp khi ta so sánh với cuộc sống của chúng ta. — Việc gì phải so sánh? Tôi hỏi. — Thế anh thì không sao? — Có chứ, nhưng bằng cách khác. Tôi chỉ bám vào cái tôi mà thôi. Lúc tôi lâm cảnh đói ở bến tàu, tôi tự so sánh tôi với một cái tôi tưởng tượng, cái tôi này lại mắc chứng ung thư ngoài cái bao tử rỗng. Thế là tôi sung sướng được dăm ba phút vì tôi chỉ đói chứ không bị ung thư. — Ung thư? Schwarz hỏi và nhìn tôi chăm chú. - Cái gì khiến ông nghĩ đến nó? — Vâng, tôi cũng có thể nghĩ đến bệnh giang mai hoặc lao, nhưng ung thư nghe có vẻ hợp lý nhất. — Hợp lý? - Schwarz lại cứ nhìn vào tôi chằm chặp, - Chẳng có gì hợp lý về ung thư cả. Nó là điều không thể nghĩ ra được. — Đúng thôi. - Tôi nói với giọng hòa giải, - Tôi chỉ lấy nó làm ví dụ thôi. — Nó chỉ là điều không thể hiểu được. Có thế thôi. — Về tất cả những chứng bệnh hiểm nghèo thì điều đó cũng đúng thôi, ông Schwarz ạ. Hắn trầm ngâm gật đầu. — Ông còn đói chứ? - Một lúc sau hắn lại hỏi. — Không. Tại sao? — Thì ông vừa nhắc đến cái đói đó. — Tôi đã ăn cơm tối đến hai lần kể từ khi cùng ngồi với ông. Hắn im lặng không nói gì. Sau một hồi, hắn nói giọng điềm tĩnh hơn: — Mấy chiếc ghế dựa lúc bấy giờ là màu vàng. Chúng đã được bọc vải lại. Đó là tất cả những gì đã xảy ra trong nhà tôi trong năm năm, trong lúc tôi phải chịu bao nhiêu thăng trầm mai mỉa của số phận. Có những việc đời thật phi lý. Ý tôi muốn nói là vậy đó. — Vâng. - Tôi nói, - Một người chết đi, nhưng cái giường của hắn vẫn còn đó. Căn nhà của hắn vẫn còn đó. Đồ đạc vẫn y nguyên như trước kia. Phải chi ta có thể phá hủy nốt chúng đi! — Không, nếu đối với chúng ta chúng chẳng có ý nghĩa gì. — Đúng vậy. Tôi nói, - Mặt khác, sinh mạng con người đâu có quan trọng đến thế? — Không à? - Schwarz nói, và trên khuôn mặt gã ngước lên nhìn tôi, tôi thấy thoáng nét thống khổ quằn quại, - Không quan trọng à? Không, tất nhiên là không rồi. Nhưng mà này, ông hãy bảo tôi biết, nếu cuộc đời không quan trọng thì nó là cái gì? — Chẳng là gì cả. - Tôi đáp tuy vẫn nhận thức rõ điều tôi mới nói vừa đúng lại vừa không đúng, - Chính bản thân chúng ta tạo cho sự vật cái tính chất quan trọng. Schwarz nhấp vội một hớp rượu sẫm. — Mà tại sao lại không? - Hắn lớn tiếng hỏi, - Hãy nói cách khác tại sao ta không nên khiến chúng trở thành quan trọng? — Không, tôi không thể giải thích với ông được điều đó. Dẫu sao đó chỉ là một cách nói ngớ ngẩn thôi. Chính tôi đây cũng coi cuộc đời khá quan trọng. Tôi nhìn đồng hồ. Quá hai giờ sáng ít phút. Ban nhạc đang chơi nhạc khiêu vũ, một bản tăng gô. Những nốt nhạc vắn gọn, nghẽn lại của chiếc kèn nhắc tôi nhớ đến tiếng còi xa xăm của con tàu đang rời bến. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là rạng đông, tôi nghĩ thế; đến lúc đó tôi có thể thoát khỏi nơi đây. Tôi sờ lại hai tấm vé trong túi. Chúng vẫn nằm ở đó. Tôi gần như cứ ngỡ là đánh mất chúng rồi. Thứ âm nhạc xa lạ, rượu, căn phòng buông màn, và giọng nói của Schwarz tạo nên cái không khí thẫn thời, hư hư thực thực ấy. — Tôi vẫn còn đứng ở thềm cửa phòng khách, - Schwarz kể tiếp, Helen nhìn tôi hỏi: “Căn nhà của anh nay xa lạ với anh đến thế sao?” Tôi lắc đầu bước tới vài bước. Tôi tự nhiên cảm thấy bối rối lạ lùng. Đồ đạc trong phòng dường như vươn tay ra đón nhận tôi, nhưng tôi không còn thuộc về chúng nữa. Mà cũng có thể là tôi cũng không còn là của Helen nữa. “Mọi cái vẫn như xưa.” Tôi nói nhanh, giọng sôi nổi tuyệt vọng, “Mọi cái vẫn như xưa Helen ạ.” “Không đâu.” Nàng đáp lại, “Chẳng có gì là như xưa cả. Tại sao anh trở về? Vì cái đó chăng? Thế thì mọi thứ đâu còn là như xưa?” “Không.” Tôi nói, “Anh biết không thể như thế được. Nhưng ta không sống được trong căn nhà này sao? Những năm tháng ấy giờ đâu cả rồi?” “Không có đây đâu. Và chúng không nằm trong mớ áo quần cũ chúng ta đã vứt bỏ. Hay là anh nghĩ khác?” “Không. Anh băn khoăn không cho riêng anh. Những tự thuở nào em vẫn ở đây. Anh băn khoăn vì em đó.” Helen nhìn tôi một cách lạ lùng. “Tại sao trước kia anh không bao giờ nghĩ về chuyện đó?” Nàng nói. “Trước kia?” Tôi chưa hiểu, hỏi lại, “Ý em muốn nói gì? Anh không thể trở về sớm hơn được.” “Em không muốn nói như vậy. Em muốn nói là trước khi anh bỏ đi kia.” Tôi thật không hiểu nàng muốn nói gì. “Thế đáng lẽ ra anh phải hỏi gì, Helen?” Nàng không trả lời ngay. Rồi nàng nói nhanh: “Tại sao anh không hỏi em cùng đi với anh?” Tôi trố mắt nhìn nàng. “Đi với anh? Rời bỏ mái nhà của em? Bỏ gia đình em? Bỏ tất cả mọi thứ mà em yêu mến?” “Em căm ghét gia đình em.” Tôi thật hoàn toàn kinh ngạc. “Em không biết được bên kia là như thế nào đâu.” Sau cùng tôi thì thầm. “Thì anh cũng không. Mà đúng vậy”. “Anh không muốn đưa em rời khỏi nơi đây.” Tôi nói giọng yếu ớt. “Em cũng căm ghét chốn này luôn.” Nàng đáp, “Em căm ghét mọi thứ ở đây. Tại sao anh trở về?” “Lúc ấy em đâu có căm ghét như thế này?” “Tại sao anh trở về?” Nàng nhắc lại câu hỏi. Nàng đứng ở đầu kia phòng, ngăn cách với tôi bằng những chiếc ghế vàng và bằng hơn năm năm. Mặt tôi bừng bừng ác cảm đắng cay. Thời gian tôi bỏ trốn, cung cách cư xử của tôi hoàn toàn tự nhiên. Làm sao tôi có thể lôi cuốn Helen vào những hiểm nguy bất định của một kiếp sống phiêu bạt? Giờ đây tôi mới nhận ra rằng có lẽ tôi đã xúc phạm nàng sâu sắc bằng cách trốn chạy bỏ lại một mình nàng. “Josef, tại sao anh trở về?” Tôi rất muốn nói rằng tôi đã trở về chỉ vì nàng mà thôi. Nhưng lúc bấy giờ tôi chẳng nói được gì. Chuyện đâu phải dễ gì. Nay tôi đã được thấy điều mà trước kia tôi chưa từng thấy. Điều cuốn hút tôi trở về chính là sự liều lĩnh tuyệt vọng, một sự liều lĩnh trầm lặng mà mãnh liệt. Bao nhiêu nghị lực dự trữ hầu như đã cạn; chỉ nguyên cái bản năng tự bảo toàn trong tôi không đủ mạnh để chịu đựng nỗi cô đơn băng giá lâu hơn được nữa. Tôi không đủ sức xây dựng lại một cuộc đời mới. Tự trong thâm tâm, thực tình tôi cũng không bao giờ muốn thế, bởi chưa bao giờ tôi thực sự gạt bỏ cuộc sống trước kia của tôi về phía sau. Tôi không quên được nó, tôi không khuất phục nó được. Bệnh hoại thư đã ăn sâu vào rồi, và tôi phải lựa chọn. Tôi có thể để thân tôi thối rữa, hoặc trở về và tìm cách bình phục lại. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến tất cả những điều này, và cho đến bây giờ nó mới chỉ sáng tỏ một nửa đối với tôi, nhưng hiểu ra được như thế cũng đã là một niềm an ủi to lớn cho tôi rồi. Tôi không còn cảm thấy bị đè nén, bối rối nữa. Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi có mặt tại đây. Từ sau năm năm lưu lạc tôi chỉ đem theo mình cái cảm quan bén nhạy, lòng ham muốn sống, sự thận trọng cùng mớ kinh nghiệm của một tên tội phạm lẩn tránh. Xét về các mặt khác, tôi là kẻ bị phá sản. Những đêm dài trong vùng đất phi quân sự giữa hai làn biên giới, nỗi buồn tẻ ác liệt của một cuộc sống chỉ để giành giật một chút ít lương thực và một vài giờ ngủ, nếp sống chui rúc của loài chuột nhủi. Tất cả những thứ đó biến đi mất rồi khi tôi đứng trên thềm nhà tôi. Tôi là kẻ phá sản, nhưng ít ra tôi không nợ nần gì. Tôi được tự do. Đây không phải là một sự trở về. Khi tôi vượt biên giới thì cái tôi của những năm ấy đã tự sát chết rồi. Một cái tôi khác đang sống và đó là một món quà nó chẳng đòi hỏi trách nhiệm. Nói xong, Schwarz quay lại hỏi tôi: — Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? Tôi cứ nhai đi nhai lại mấy ý nghĩ ấy và nói năng đầy mâu thuẫn. — Tôi nghĩ là tôi hiểu ông. - Tôi đáp, - Khả năng tự sát là một phúc lành đấy, dẫu ít khi ta đánh giá nó đúng. Nó cho ta cái ảo giác là ý muốn ta được tự do. Và có lẽ ta tự sát thường hơn ta vẫn tưởng. Có điều là ta không biết đó thôi. — Đúng thế đấy! - Schwarz sôi nổi tán thành, - Phải chi ta hiểu như thế cũng là tự sát thì chúng ta có thể vùng dậy từ kẻ chết. Và ta sẽ có rất nhiều cuộc sống thay vì kéo lê mớ kinh nghiệm lở loét từ cơn khủng hoảng kế tiếp để rồi kết cuộc phải gục ngã vì chúng. Tất nhiên tôi không thể giải thích điều đó với Helen. - Hắn nói tiếp. - Mà tôi cũng chẳng cần làm như vậy. Bỗng nhiên tôi cảm thấy người thênh thang tới mức thấy chẳng cần phải giải thích gì cả. Trái lại, tôi nghĩ mọi sự giải thích chỉ làm cho rối rắm thôi. Có lẽ nàng muốn tôi nói với nàng tôi trở về là vì nàng. Nhưng do trực cảm bên trong tôi biết như vậy là tôi tan nát ngay. Quá khứ sẽ vỡ nát trên chúng tôi cùng với những oán trách, với mọi tội lỗi của nó, với những cơ hội đã đánh mất và tình yêu bị thương tổn và chúng tôi sẽ không bao giờ tìm được lối thoát. Nếu ý tưởng về sự tự sát tinh thần này, một ý tưởng mà bây giờ đâm ra có vẻ vui nhộn, cần có một ý nghĩ nào đó, thì nó phải hoàn chỉnh. Nó phải bao gồm không những là mấy năm tha hương, mà phải tính cả những năm trước đó, nếu không thì một bệnh hoại thư thứ hai, có khi còn lâu năm hơn bệnh cũ, sẽ bộc phát. Helen đứng đó như là một kẻ thù, sẵn sàng lao vào người tôi với tất cả yêu thương và với một ý thức chính xác về những nhược điểm của tôi. Mà tôi lại chẳng có lấy mảy may vận hội nào cả. Bằng sự tự sát này ta nuôi hy vọng được giải thoát, nhưng nó lại biến thành cơn hấp hối tinh thần đầy thống khổ, và sau cái chết không còn là sự hồi sinh nữa, mà là sự hủy diệt hoàn toàn. Là một sai lầm nếu ta đi giải thích dông dài với đàn bà. Điều cần làm là hành động. Tôi lại gần Helen. Khi sờ lên vai nàng, tôi thấy nàng run. “Tại sao anh trở về?” Nàng lại hỏi. “Anh quên đi mất.” Tôi nói, “Anh đang đói, Helen à. Cả ngày hôm nay anh chưa ăn gì cả.” Cạnh nàng là một cái bàn con sơn kiểu Ý, trên có bức ảnh đóng khung mạ bạc của một người đàn ông tôi không quen. “Ta có cần đến thứ ấy không?” Tôi hỏi. “Không.” Nàng ngạc nhiên đáp. Nàng lấy bức ảnh nhét vào ngăn kéo. Schwarz nhìn tôi mỉm cười. — Nàng không ném nó đi. - Hắn nói, - Nàng không xé, mà chỉ cất nó vào ngăn kéo. Rất có thể nàng sẽ lấy nó ra, dựng nó lên lại bất cứ lúc nào nàng thích. Tôi không biết tại sao, nhưng cái cung cách tính toán kín đáo của nàng làm tôi thấy vui vui. Năm năm trước, hành động ấy chắc là tôi không hiểu nổi và chắc phải xảy ra cảnh cãi vã rồi. Nhưng bây giờ thì nó kết thúc một tình trạng có chiều hướng trở nên ngột ngạt. Về chính trị, ta có thể nuốt trôi những lời lẽ thô bỉ, nhưng trong tình yêu thì không. Thật là không may. Giải quyết bằng lối khác có lẽ tốt hơn. Thái độ duy lý của Helen không phải là không có tình thương. Đấy cũng là tình yêu nhưng điểm thêm óc sáng suốt của đàn bà. Đã một lần tôi làm nàng thất vọng. Thế thì việc gì nàng phải vội tin tôi. Riêng phần tôi, đâu phải tôi đã sống ở Pháp để chẳng được gì sao? Tôi không hỏi gì. Mà tôi hỏi gì mới được chứ? Và lấy quyền gì mà hỏi? Tôi bật cười. Nàng sửng sốt. Rồi nét mặt nàng sáng hẳn lên và nàng cũng bật cười. “Này, cho anh hỏi, em đã làm đơn ly dị chưa?” Tôi hỏi. Nàng lắc đầu: “Không, em đã từ chối. Nhưng không phải vì anh, mà cốt là để gây rắc rối cho gia đình em thôi.” CHƯƠNG 5 Đêm ấy tôi không ngủ được nhiều. - Schwarz nói, - Tôi rất mệt, nhưng cứ thức mãi. Đêm tràn vào căn phòng nhỏ bé nơi chúng tôi nằm nghỉ. Tôi tưởng chừng như nghe thấy tiếng động. Thỉnh thoảng tôi lại thiếp đi và mơ thấy đang chạy vì có người đuổi theo. Tôi giật mình kinh hãi. Helen thức giấc chỉ có một lần. “Anh không ngủ được sao?” Nàng hỏi trong bóng tối. “Không. Anh không ngờ như vậy.” Nàng bật đèn sáng. Bóng đêm chờn vờn nhảy từ cửa sổ ra. “Mong đợi cho lắm cũng chẳng ích lợi gì.” Tôi nói, “Anh không kiểm soát được giấc mơ của anh. Còn rượu không?” “Nhiều lắm. Đó là một điều em có thể trông cậy được trong gia đình em. Anh bắt đầu uống rượu chát từ lúc nào thế?” “Từ lúc anh ở Pháp.” “Tốt thôi.” Nàng nói, “Anh biết gì về rượu chát nào?” “Chẳng là mấy. Thứ mà anh biết rành nhất là thứ rượu chát đỏ rẻ tiền.” Helen đi vào bếp rồi trở ra với hai chai và cái mở nút chai. “Quốc trưởng quang vinh của chúng ta đã thay đổi quy định về việc chế biến rượu chát.” Nàng nói, “Trước kia vẫn có một đạo luật cấm thêm đường vào rượu tự nhiên. Nay thì các nhà chế biến rượu còn được phép chặn đứng quá trình lên men nữa cơ đấy.” Qua cái nhìn mà nàng đọc được trên mặt tôi nàng cũng hiểu tôi chẳng rành gì về việc này. “Trong những năm yếu kém người ta làm như thế để rượu chua được vị ngọt hơn.” Nàng cười và giải thích, “Đó là một lối bịp bợm mà dân tộc ưu việt bày ra để đẩy mạnh xuất khẩu và thu về ngoại tệ mạnh.” Nàng đưa cho tôi chai rượu và cái mở nút. Tôi mở chai rượu Moselle[*]. Helen mang vào hai ly thủy tinh mỏng. “Làm sao mà da em sạm nắng thế?” Tôi hỏi. “Hồi tháng ba, em ở miền núi trượt tuyết.” “Em trần truồng mà trượt tuyết sao?” “Không, nhưng ta đâu cần phải mặc quần áo khi tắm nắng?” “Em biết trượt tuyết từ lúc nào thế?” “Có người dạy cho em.” Nàng đáp với cái nhìn thách thức. “Hay lắm.” Tôi nói, “Trượt tuyết chắc phải là tốt cho em lắm.” “Tôi rót đầy ly rượu đưa cho nàng. Rượu nồng và thơm hơn thứ rượu Bourgogne[*]. Tôi chưa bao giờ được uống thứ rượu giống như thế từ khi rời nước Đức. “Anh không muốn biết ai đã dạy em trượt tuyết sao?” Nàng hỏi. “Không.” Nàng nhìn tôi ngạc nhiên. Thuở trước, có lẽ tôi đã cật vấn nàng suốt đêm. Giờ thì tôi chẳng màng đến chuyện đó nữa. Cái không khí huyền ảo nhẹ tênh của buổi tối đến sớm lại trở về đây. “Anh thay đổi quá.” Nàng bảo. “Hôm nay em đã nói điều trái nghịch ít nhất cũng là hai lần rồi đấy.” Tôi phản công, “Dẫu sao thì cũng chẳng khác nhau gì mấy.” Nàng nâng ly nhưng không uống. “Có lẽ anh không thay đổi thì em thích hơn.” Tôi uống rượu. “Vì như vậy em chèn ép được anh dễ hơn chứ gì? ” “Thế trước kia em cũng chèn ép anh à?” “Anh cũng không biết nữa. Anh nghĩ là không. Lâu quá rồi mà. Cứ nhớ lại con người anh lúc đó, anh lại không hiểu vì sao em không thử xem.” “Người ta lúc nào cũng thử, mà không biết điều đó sao?” “Không.” Tôi đáp, “Nhưng ít ra em cũng cho anh biết rồi đó. Chà rượu ngon thật. Anh nghĩ chắc là quá trình lên men đã không bị gián đoạn.” “Như của anh chứ gì?” “Này Helen.” Tôi nói, “Em thật là hấp dẫn và ngộ nghĩnh, vui tính. Đó là một lối kết hợp lạ lùng và thú vị nhất.” “Anh đừng quá tin chắc như thế.” Nàng cáu kỉnh nói, rồi ngồi xuống giường, tay vẫn cầm ly. “Có chuyện gì anh chắc đâu.” Tôi vừa nói vừa cười mỉm, “Nhưng tính bất trắc cũng có cái lợi của nó. Nếu nó không khiến em mòn mỏi mà chết, thì nó đưa em đến một tình trạng chắc chắn không gì lay chuyển nổi. Đấy là cả một mớ từ to lớn, nhưng chúng chỉ phản ánh kinh nghiệm của một tảng đá lăn.” “Tảng đá lăn?” “Giống như anh vậy. Một kẻ không dừng chân được bất cứ nơi đâu, không thể ở yên một chỗ. Kiếp sống của một dân tị nạn. Hoặc của một nhà sư khất thực. Hoặc của con người hiện đại. Trên thế giới này có rất nhiều dân tị nạn hơn em tưởng. Ấy thế mà một số khá đông lại chẳng bao giờ đã ra khỏi nhà.” “Điều đó cũng không đến nỗi tệ.” Helen nói, “Còn hơn là một cảnh tù đọng trưởng giả.” Tôi gật đầu đồng ý: “Nhưng có thể được mô tả theo cách khác, song như thế thì không còn gì là lôi cuốn, hấp dẫn nữa. May là chúng ta nghèo trí tưởng tượng. Nếu không sẽ có rất nhiều người không chịu tình nguyện đi đánh giặc.” “Bất cứ gì cũng hơn cảnh tù đọng.” Helen nói, và uống ly rượu của nàng. Tôi ngắm nàng trong khi nàng uống. Nàng trẻ biết bao, tôi nghĩ trẻ nhưng thật là thiếu kinh nghiệm, thật là thách thức và đáng yêu biết bao, mà cũng nguy hiểm và rồ dại biết chừng nào! Nàng chẳng biết gì cả. Nàng cũng không hiểu được rằng tù đọng trưởng giả là một tâm trạng chứ không phải là một hoàn cảnh địa lý. “Anh có muốn trở về cảnh đó không?” Nàng hỏi. “Anh nghĩ là không thể được nữa. Quê hương anh đã tạo anh thành kẻ giang hồ tứ xứ trái với ý nguyện của anh. Anh không bao giờ thay đổi được nữa. Không bao giờ có thể trở lui về sau được nữa.” “Trở về với một người nào đó cũng không được sao?” “Trở về với một người cũng không.” Tôi nói. “Cho dẫu quả đất có quay. Nó là một thứ tị nạn từ mặt trời đến. Em không bao giờ trở về được đâu. Có thử cũng bằng vô ích. Chỉ rước lấy tai họa mà thôi.” “Thế thì cảm ơn Chúa về chuyện đó.” Helen nói và đưa cái ly cho tôi, “Anh chưa bao giờ có ý muốn trở lui sao?” “Lúc nào cũng muốn.” Tôi bảo. “Anh chẳng bao giờ làm theo những lý luận của anh. Chính điều này khiến lý luận ấy càng thêm hấp dẫn lôi cuốn.” Helen bật cười: “Anh nói nghe chẳng có ý nghĩa gì cả.” “Tất nhiên. Che đậy một điều gì khác chỉ là chuyện vớ vẩn thôi.” “Anh bảo sao?” “Rằng một điều gì đó mà không nói nên lời được.” “Một điều chỉ xảy đến về đêm?” Tôi không đáp lại, lặng lẽ ngồi xuống giường. Gió thời gian ào ào bên tai tôi. Giờ thì nó ngưng thổi rồi. Tưởng như tôi di chuyển từ một chiếc máy bay qua chiếc khinh khí cầu. Tôi vẫn còn trôi nổi bồng bềnh trong không khí, nhưng không còn nghe tiếng động cơ nữa. “Bây giờ tên anh là gì?” Helen hỏi. “Josef Schwarz.” Nàng cân nhắc đắn đo một hồi: “Vậy em là bà Schwarz?” Tôi không dằn lòng cười được. “Không, Helen à. Đó chỉ là một cái tên thôi. Người đàn ông mà anh đội tên chính ông ấy cũng thừa kế của một người khác. Ông Josef Schwarz nào đó vẫn sống mãi trong anh như một anh Do Thái lang thang. Một kẻ hoàn toàn xa lạ, nhưng lại là bậc tiền bối tinh thần của anh.” “Anh không quen biết ông ấy?” “Không.” “Anh có cảm giác thấy gì lạ khi mang một cái tên khác?” “Có chứ.” Tôi đáp, “Bởi vì có một mảnh giấy đi kèm theo. Một thẻ thông hành.” “Mặc dầu nó là giả?” Tôi bật cười. Đúng là một câu hỏi từ một thế giới nào khác. Tính xác thực của tấm giấy thông hành tùy thuộc người cảnh sát kiểm tra nó. “Em có thể viết thành cả một câu chuyện ngụ ngôn triết lý về điều đó.” Tôi nói, “Câu chuyện có thể bắt đầu bằng câu hỏi cái tên là cái gì. Một ngẫu nhiên hay một sự nhận dạng.” “Tên gọi là tên gọi.” Helen bướng bỉnh nói, “Em bảo vệ tên em. Mà nó cũng là tên anh nữa đấy. Giờ anh về đây kiếm được một cái tên khác ở đâu đó.” “Nó là một quà tặng.” Tôi cải chính, “Với anh, nó là món quà quý nhất trên đời này. Anh rất sung sướng được mang nó. Với anh nó đồng nghĩa với lòng nhân hậu, với tình người. Nếu có khi nào tuyệt vọng, nó sẽ nhắc anh nhớ rằng lòng nhân hậu không chết. Còn tên em nhắc em nhớ lại những gì? Nhớ lại một gia tộc gốc Phổ gồm toàn quân nhân và người săn thú với tâm địa của lũ cáo, chó sói và chim công.” “Em không có ý muốn nói đến tên gia đình em.” Helen vừa nói vừa đong đưa chiếc dép trên ngón chân, “Em vẫn còn mang tên anh kia mà. Cái tên trước kia cơ, thưa ông Schwarz.” Tôi mở chai rượu vang thứ hai. “Anh nghe nói ở Indonesia có lệ thỉnh thoảng hay đổi tên. Nếu chán với cái nhân cách hiện thời của ta, ta cứ đánh đổi nó, lấy một tên khác, rồi bắt đầu một cuộc đời mới. Ý kiến hay đấy chứ?” “Anh đã bắt đầu cuộc đời mới chưa?” “Ngay hôm nay đây.” Tôi nói. Nàng buông chiếc dép rơi xuống sàn nhà. “Người ta không mang theo gì khi bước vào cuộc sống mới sao?” “Một tiếng vọng.” Tôi nói. “Không kỷ niệm?” “Thì kỷ niệm là tiếng vọng đấy. Một kỷ niệm mà nó không còn làm ta đau nhức nữa và khiến ta cảm thấy ngượng nghịu.” “Giống như khi xem phim ấy à?” Helen hỏi. Trông nàng tưởng như nàng sắp sửa ném cái ly vào mặt tôi bất cứ lúc nào. Tôi lấy cái ly ra khỏi tay nàng và rót thêm ít rượu ở chai thứ hai. “Loại vang gì đây?” Tôi hỏi. “Thứ rượu vang trứ danh vùng sông Rhin đấy. Vừa tới độ lên men đầy đủ. Không bị giả mạo. Không thể lẫn lộn với thứ rượu khác được đâu.” “Không phải là thứ rượu vang tị nạn chứ?” Tôi hỏi. “Không phải như con tắc kè hoa đổi màu. Không phải là một kẻ trốn tránh trách nhiệm.” “Chúa ơi, Helen! Có phải anh đang nghe những âm thanh của thứ khả kính tiểu tư sản đấy chăng? Mới lúc nãy thôi em đã chẳng tìm cách thoát khỏi cảnh ao tù trưởng giả rồi sao?” “Anh cứ bắt em nói lên những điều em không hề nghĩ đến.” Nàng giận dữ đáp, “Anh đang nói gì thế? Mà để làm gì? đây là đêm đầu tiên mà! Sao ta không hôn nhau hoặc ta không thù ghét nhau đi?” “Thì chính là điều ta đang làm đấy mà.” “Chỉ rặt là từ ngữ. Anh tìm đâu ra lắm từ ngữ thế? Ngồi đây nói chuyện như thế này có đúng không?” “Anh chẳng biết cái gì là đúng.” “Anh lấy đâu ra bao nhiêu ngôn từ ấy? Anh vẫn quen nói nhiều như thế sao? Anh có nhiều bạn lắm hả?” “Không.” Tôi đáp. “Rất ít. Chính vì thế mà từ tuôn ào ra như táo từ giỏ rớt ra vậy. Anh cũng lấy làm lạ như em.” “Đó là sự thật?” “Đúng thế, Helen.” Tôi nói. “Đó là sự thật. Em không hiểu anh muốn nói gì sao?” “Anh không thể nói năng một cách đơn giản hơn hay sao?” Tôi lắc đầu. “Tại sao không?” “Bởi vì anh sợ những câu nói thẳng. Và sợ luôn những từ ngữ thêm vào câu nói. Có thể em không tin anh, nhưng nó là như vậy đó. Ngoài ra, còn có nỗi sợ của anh về cái sợ hãi nó âm thầm len lỏi qua những đường phố ở một nơi nào đó, mà anh không muốn nghĩ hay nói đến, bởi vì một sự mê tín ngu xuẩn dạy anh biết sẽ không có tai họa nào đến nếu ta đừng để ý đến nó. Đó là lý do tại sao cung cách ăn nói của ta lại như thế. Khi ta nói năng như thế, thời gian như ngừng lại, như khi cuốn phim bị đứt. Mọi sự đều dừng yên. Chẳng có gì xảy đến.” “Quá thâm thúy đối với em.” “Đối với anh cũng vậy. Anh đến với em, em còn sống và anh chưa bị bắt, như thế chưa đủ sao?” “Chính vì vậy mà anh trở về?” Tôi không trả lời. Nàng ngồi đó như một nữ tướng thu nhỏ, trần truồng, tay cầm ly rượu vang, yêu sách, không nhượng bộ, tinh ranh và táo bạo và tôi chợt nhận ra trong cuộc sống chung ngày trước của chúng tôi, tôi chẳng hiểu biết gì về nàng cả. Tôi không hiểu nhờ đâu mà nàng có thể chịu đựng được cuộc sống với tôi. Như thể tôi có một vật cưng quý, một con cừu non xinh xắn chẳng hạn, và rất mực nuông chiều nó, rồi bỗng nhiên nó biến thành một chú báo hoặc sư tử con, nó chẳng màng gì đến những dải băng xanh hoặc những bàn chải mềm, và rất có khả năng cắn vào cái tay đưa ra để vuốt ve nó. Tôi lâm vào một thế nguy hiểm. Như ông vẫn có thể nghĩ ra, đêm đầu tiên ấy tôi không nói rõ lắm về tôi. Thất bại của tôi tầm thường và đáng chê trách quá. Tôi trông đợi nhiều hơn thế, và có lẽ sự việc xảy đến vì tôi trông đợi nó. Sự thật là tôi bất lực, nhưng may thay, vì tôi trông mong được sống, nên tôi đã không có những trường hợp tương tự. Tỏ thái độ kiêu căng về vấn đề này và bảo rằng chỉ có đám chăn ngựa mới không biết đến nó thì cũng được. Đám đàn bà còn làm ra vẻ hiểu biết và trả lời với cung cách làm ra bối rối thêm mà thôi. Nhưng dẫu ta nhìn vào nó bằng cách nào chăng nữa, thì nó cũng chỉ là một vấn đề khốn khổ, và xét đến nó một cách càng nghiêm túc bao nhiêu, thì nó lại càng trở nên lố bịch bấy nhiêu. Vì tôi chẳng đưa ra một lời giải thích thông thường nào nên Helen đâm ra lo ngại, bối rối, và cũng vì nàng lo ngại, bối rối nên nàng quay ra tấn công tôi. Nàng không hiểu được tại sao tôi không làm tình với nàng, và cảm thấy bị xúc phạm. Đáng lẽ tôi nên nói để nàng rõ sự thật, nhưng muốn như vậy tôi phải điềm tĩnh hơn. Có hai loại sự thật có tính chiến lược, trong đó bạn chẳng phải lo mất mát gì cả. Trong quá trình năm năm qua, tôi học được một điều là nếu bạn cố tình thò cổ ra ngoài, thì bạn đừng ngạc nhiên khi bị bắn. “Những người trong hoàn cảnh của anh đâm ra mê tín.” Tôi nói với Helen. “Họ tin rằng nếu họ nói hoặc làm một điều gì đó một cách trực tiếp, thì điều trái ngược sẽ xảy đến. Thế nên họ thành ra dè dặt, thận trọng. Ngay cả với lời nói cũng vậy.” “Nghe phi lý quá chừng!' Tôi cười: “Đã rất lâu anh không còn đi tìm ý nghĩa của sự việc nữa. Nếu tiếp tục, chắc anh sẽ chua chát như một quả chanh dại.” “Em mong anh không quá mê tín.” “Đây, anh sẽ cho em biết ngay là anh mê tín đến mức nào.” Tôi điềm nhiên nói, “Anh thành thật tin rằng nếu anh có phải nói với em là anh yêu em quá mức, thì chỉ một phút sau thôi là đã nghe bọn mật vụ Gestapo sẽ đến gõ cửa ầm lên.” Nàng đứng yên một hồi như con thú vừa nghe có tiếng động lạ thường. Rồi nàng từ từ quay mặt về phía tôi. Khuôn mặt biến đổi hẳn. “Có thật vì lý do đó không?” Nàng nhẹ nhàng hỏi. “Đó chỉ là một lý do.” Tôi đáp lại, “Làm sao em nghĩ là anh có thể giữ cho những suy nghĩ của anh được ổn định khi mà anh vừa chuyển từ một địa ngục đúng nghĩa của nó lên một cõi địa đàng đầy hiểm nguy?” “Đôi khi em cũng cố tưởng tượng cuộc đời sẽ ra thế nào nếu anh trở về.” Một lát sau nàng nói, “Sự thật lại khác hẳn.” Tôi ngại không hỏi nàng là khác như thế nào. Khi yêu nhau, ta thường có xu hướng hỏi quá nhiều điều, mà một khi bạn thực sự bắt đầu muốn biết câu trả lời, thì tình yêu cũng vỗ cánh bay đi. “Luôn luôn vẫn khác, em ạ.” Tôi đáp, “Và cảm ơn Chúa vì thế.” Nàng mỉm cười. “Không đâu, Josef ạ. Không bao giờ khác đâu. Vẫn chỉ là thế. Còn chút rượu vang nào không, anh?” Nàng đi vòng quanh giường như một vũ nữ, đặt ly xuống sàn nhà, bên cạnh nàng. Da nàng sạm nắng chưa từng thấy và nàng cũng chẳng tỏ ra quan tâm về việc mình khỏa thân, theo đúng cái cung cách của một phụ nữ tự biết mình có sức khêu gợi và thường được nghe người ta bảo thế. “Đến khi nào anh mới phải đi?” Tôi hỏi. “Ngày mai người giúp việc chưa lại đâu.” “Ngày kia?” Nàng gật đầu. “Thật đơn giản. Hôm nay là thứ bảy. Em cho bà ta nghỉ cuối tuần. Mãi đến trưa thứ hai bà ta mới trở lại. Bà ta có một nhân tình. Một viên cảnh sát có vợ hai con.” Nàng liếc nhìn tôi từ bên dưới hàng mi khép hờ. “Bà ấy mừng lắm.” Từ bên ngoài vọng vào tiếng hát quân hành. “Gì thế em?” Tôi hỏi. “Binh sĩ hay đội Thanh niên Hitler. Tại nước Đức này lúc nào cũng có người diễu hành.” Tôi đứng dậy vén màn nhìn ra ngoài. Đó là một phân đội Thanh niên Hitler. “Kể cũng lạ thật.” Tôi nói, “Em chẳng giống gì gia đình em cả.” “Chắc là do phía bà em gốc Pháp.” Helen nói, “Mọi người trong nhà giấu kín bà ấy như một điều bí mật, như thể bà là người Do Thái.” Nàng ngáp và vươn dài người ra. Trông nàng khỏe hẳn ra, như thể chúng tôi cùng chung sống với nhau từ bao tuần nay và từ bên ngoài chẳng có mối nguy hiểm nào đánh lo ngại cả. Cho đến lúc bấy giờ, cả hai chúng tôi đều tránh không đề cập đến chuyện nguy hiểm. Và Helen chỉ hỏi thăm tôi về cuộc sống lưu đày. Tôi không ngờ nàng đã hiểu thấu tâm tư của tôi và đã có quyết định. “Anh không muốn ngủ thêm chút nữa sao?” Nàng hỏi. Bây giờ là một giờ sáng. Tôi nằm xuống nghỉ. “Ta không thể để lại một ngọn đèn sáng sao, em?” Tôi hỏi, “Được vậy thì anh dễ ngủ hơn. Anh chưa quen được với cảnh âm u, tăm tối của nước Đức.” Nàng nhìn về tôi thật nhanh. “Anh có thể cứ để sáng cả như thế cũng được, nếu anh muốn, cưng ạ.” Chúng tôi nằm kề bên nhau. Tôi nhớ mang máng đôi khi chúng tôi cũng ngủ chung giường hết đêm này qua đêm khác. Như một chiếc bóng nhạt mờ, như một kỷ niệm không màu sắc. Helen sống với tôi, nhưng bằng cung cách khác, trong tình chung chăn chung gối mới mẻ lạ lùng. Tôi chỉ nhận ra những sự vật không tên tuổi quanh nàng, hơi thở nàng, mùi tóc nàng, và trên hết là mùi da nàng toát ra, đã đánh mất từ lâu giờ vẫn chưa tìm thấy lại được trọn vẹn, vì cũng vẫn mùi da thịt ấy, nhưng nghe sao bình thản, già dặn quá mức. Thật là cả một nguồn an ủi trong mùi da thịt của người ta yêu dấu. Còn có gì thông minh hơn cái miệng kia với những lời dối trá. Tôi thức suốt đêm ấy, ôm chặt Helen trong tay, nhìn ngọn đèn và căn phòng tôi đã quen mà vẫn còn xa lạ, và sau cùng tôi không còn ray rứt băn khoăn nữa. Helen lại thức giấc một lần nữa. “Anh quen biết nhiều phụ nữ bên Pháp lắm phải không?” Nàng nhắm mắt thì thầm câu hỏi vào tai tôi. “Không nhiều hơn cần thiết.” Tôi đáp lại, “Và chẳng ai giống em cả.” Nàng thở dài và tìm cách trở mình, nhưng lại chìm vào giấc ngủ, không cưỡng lại được. Dần dần tôi cũng ngủ luôn, không mộng mị, và đến sáng khi tôi tỉnh giấc thì giữa chúng tôi chẳng còn ngăn cách nào nữa. Tôi với tay tìm nàng và nàng lại vui vẻ đến với tôi. Chúng tôi lại rơi vào giấc ngủ như chìm trong vùng mây lấp lánh và không còn bóng tối nữa. CHƯƠNG 6 Buổi sáng tôi gọi điện về khách sạn ở Munster. Tôi có để lại chiếc va li ở đấy và giải thích rằng vì có việc phải ở lại Osnabruck nên đến tối tôi mới về, nhờ họ giữ phòng cho tôi. Cần phải đề phòng trước. Tôi không muốn bị báo cáo tình nghi là tìm cách quịt tiền phòng trọ và gặp cảnh sát chờ đón tôi. Một giọng hờ hững đáp vâng, dĩ nhiên, họ sẽ giữ phòng cho tôi. Tôi hỏi có thư từ gì cho tôi không. Không, chẳng thư từ gì cả. Tôi gác máy. Helen đang đứng sau lưng tôi. “Thư từ?” Nàng hỏi, “Anh trông tin ai thế?” “Chẳng trông tin ai cả. Anh bảo thế chỉ để ngăn ngừa sự ngờ vực. Dẫu sao đi nữa thì những kẻ mong chờ cũng không bị xem như kẻ lường gạt.” “Anh là kẻ lừa đảo sao?” “Một cách bất đắc dĩ. Nhưng trong ấy cũng có đôi chút thích thú.” Nàng cười: “Đêm nay anh trở về Munster?” “Anh không thể ở lại lâu hơn. Người giúp việc của em ngày mai sẽ đến. Mà đăng ký phòng khách sạn tại Osnabruck thì liều lĩnh quá. Ở Munster chẳng ai ngoài đường nhận ra anh đâu, vả lại chỉ một giờ đường là đến nơi.” “Anh định ở lại Munster bao lâu?” “Đến khi về tới đó anh mới biết. Khi lâm nguy thường có một thứ giác quan thứ sáu giúp ta.” “Ở đây anh có đánh hơi thấy tai họa không?” “Có,” Tôi đáp, “Mới từ sáng nay thôi. Hôm qua anh chẳng thấy gì.” Nàng cau mày: “Dĩ nhiên anh không nên đi ra phố.” “Không nên trước khi trời tối. Và từ lúc đó chỉ được lộ diện trên đường đến nhà ga thôi.” Helen chẳng bàn thêm gì nữa. “Mọi sự sẽ tiến triển tốt đẹp thôi.” Tôi trấn an. “Em đừng lo nghĩ vẩn vơ. Anh đã quen sống từng giờ, nhưng không phải là quên nghĩ đến ngày hôm sau.” “Thế ạ?” Nàng hỏi, “Thế thì cũng tiện.” Trong câu nói nghe có chút phiền muộn trái ý như tối hôm trước. “Không phải chỉ có tiện thôi đâu,” Tôi nói, “Nó còn là cần thiết nữa. Nhưng có như thế đi nữa thỉnh thoảng anh cũng quên việc này, việc nọ. Lúc rời Munster, đáng lẽ anh nên đem theo dao cạo. Về đêm anh trông như kẻ du thủ du thực. Theo cẩm nang của dân tị nạn, đó là điều cần phải tránh trước tiên.” “Trong phòng tắm có dao cạo đấy, “Helen nói. “Cũng cái dao anh để lại cách đây năm năm. Trong đó anh cũng sẽ thấy mấy cái sơ mi và đồ lót. Còn đồ bộ của anh thì mắc trong tủ ấy.” Nàng nói năng như thể tôi đã bỏ nàng năm năm trước đây để đi theo một người đàn bà khác, nay trở về một mình lấy đồ đạc rồi lại ra đi. Tôi không buồn xếp đồ đạc lại cho ngăn nắp. Chẳng ích gì. Rồi thì nàng cũng chỉ ngạc nhiên mà nhìn tôi thôi và nàng cũng chỉ bảo rằng một ý nghĩ như thế không hề thoáng qua trong óc nàng, nếu không phải là nàng muốn biết tôi cảm nhận như thế nào thôi… và rồi tôi có thề bị lôi cuốn vào một cuộc cãi vã vô nghĩa. Nghĩ thật kỳ lạ, chỉ muốn che đậy cảm nghĩ của ta mà ta phải khiến sự việc trở thành phức tạp đến thế! Tôi đi vào phòng tắm. Trông thấy mấy bộ áo quần cũ treo trong tủ cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tôi hơn là khi bảo tôi đã gầy hơn trước nhiều. Tôi mừng khi tìm thấy một ít đồ lót sạch sẽ và quyết định sẽ lấy mang theo khi ra đi. Tôi chẳng thấy cảm xúc gì. Từ lâu tôi đã quyết định cứ xem cuộc sống lưu đày này không phải là nỗi bất hạnh mà chỉ là một thứ chiến tranh lạnh cần cho sự phát triển của bản thân. Đôi khi cái quyết định ấy cũng tỏ ra có ích cho tôi. Ngày trôi qua trong ánh hoàng hôn mông muội. Giờ ra đi gần kề khiến hai chúng tôi buồn nản, chán chường, nhưng tôi từng quen với tâm trạng này hơn Helen. Kinh nghiệm đời đã chuẩn bị cho tôi để đón nhận nó, nhưng với Helen ý nghĩ tôi sửa soạn ra đi lần nữa đến với nàng như một sự lăng mạ dành riêng cho nàng. Trước khi nàng có đủ thời gian để vượt qua cơn xúc động lúc tôi trở về và để cho vết thương tự ái kịp hàn gắn lại, thì đã đến lúc tôi sắp sửa từ giã nàng. Với hai chúng tôi cảm ứng đêm qua đã thấm sâu vào tâm tưởng, triều xúc cảm đã lắng xuống để lộ ra những mảnh vỡ, những vụn vặt khoác vào những kích thước đồ sộ. Chúng tôi lại còn tránh không chạm đến những điểm nhạy cảm của nhau, đã đánh mất thói quen chịu đựng lẫn nhau. Tôi muốn được ở yên một mình trong một tiếng đồng hồ để lấy lại bình tĩnh, nhưng khi sực nhớ ra một tiếng đồng hồ là một phần mười hai của khoảng thời gian còn lại được sống với Helen, tôi lại bỏ ý nghĩ ấy. Trước kia, vào những năm yên ổn, thỉnh thoảng tôi cũng tìm vui bằng cách tự hỏi tôi sẽ làm gì nếu tôi chỉ còn một tháng để sống. Tôi chưa bao giờ tìm được một kết luận dứt khoát. Do một sự mâu thuẫn lạ lùng, điều tôi nghĩ nên làm trong giả thiết đó thì đồng thời đó cũng là điều lẽ ra tôi không nên làm trong mọi trường hợp. Tâm trạng tôi lúc bấy giờ cũng như thế đó. Thay vì sống trọn vẹn ngày hôm ấy, sống cởi mở bằng tất cả con tim, thay vì rung cảm với Helen bằng mọi thớ thịt của mình, như tôi hằng mong ước, tôi lại rón rén quanh quất trong phòng y như người tôi làm bằng thủy tinh vậy. Dường như nàng cũng đang gặp cơn bấn loạn đó. Chúng tôi đau khổ, cả hai đều căng thẳng tột cùng, và chỉ đến lúc ánh sáng mờ dần, nỗi lo sợ phải mất nhau trở nên mãnh liệt, đến lúc đó chúng tôi mới trở lại với nhau. Đến bảy giờ chuông cửa reo. Tôi giật bắn người. Với tôi chuông cửa có nghĩa là cảnh sát. “Ai thế?” Tôi hỏi thầm. “Cứ bình tĩnh để xem, “Helen nói, “Chắc là một người bạn nào đó thôi. Nếu em không trả lời, họ sẽ bỏ đi thôi.” Chuông lại reo. Tiếp theo là tiếng đập cửa ầm ầm, hách dịch. “Vào phòng ngủ đi anh,” Nàng bảo khẽ. “Ai thế?” “Em chẳng biết. Anh cứ vào phòng ngủ đi. Em sẽ kiếm cách tống khứ nó. Nếu cứ đập ầm ầm mãi thế này, hẳn sẽ quậy mấy người lối xóm lên cho mà xem.” Nàng đẩy tôi ra. Tôi đảo mắt nhìn quanh quất xem có thứ gì của tôi còn vương vãi đâu đó không. Tôi nghe Helen hỏi: “ Ai đó?” Và có tiếng đàn ông trả lời. Rồi tiếng Helen nói: “À anh. Có chuyện gì thế?” Tôi đóng cửa lại. Căn hộ còn có một lối ra thứ hai qua nhà bếp nhưng tôi có thể bị người ta trông thấy. Điều duy nhất tôi có thể làm là trốn vào tủ áo xây chìm trong vách nơi Helen cất giữ áo quần. Thật ra không phải là cái tủ mà là một cái hốc tường lớn có cửa. Tôi có thể thở được dễ dàng. Tôi nghe tiếng người đàn ông cùng với Helen bước vào phòng khách. Tôi nhận ra giọng nói của y. Đó là Georg, người anh của nàng, người đã đưa tôi vào trại tập trung. Tôi nhìn lên bàn trang điểm của Helen. Vũ khí độc nhất có thể dùng đến được là con dao cắt giấy cán bằng ngọc. Tôi chẳng thấy gì khác. Vẫn tiếp tục suy tính cân nhắc, tôi cho con dao vào túi rồi lại chui vào tủ áo. Nếu y phát hiện ra tôi, tôi sẽ phải tự vệ. Không còn cách nào cả. Tôi sẽ thử cách giết hắn rồi bỏ trốn. “Điện thoại hả?” Tôi nghe tiếng Helen nói: “Em có nghe gì đâu. Lúc đó em đang ngủ. Có gì không anh?” Giữa những lúc nguy hiểm, ta cảm thấy người nóng ran lên tưởng như một tia lửa nhỏ nhất cũng có thể khiến ta bật cháy. Ta suy nghĩ nhanh tới mức tưởng như có sức nhìn xuyên suốt sự vật. Ngay trước khi nghe Georg trả lời, tôi nhận thức y chẳng hay biết gì về sự có mặt của tôi. “Anh đã tìm cách gọi điện cho em nhiều lần,” Y nói, “Chẳng thấy ai trả lời, kể cả bà giúp việc. Anh nghĩ chắc có chuyện xảy ra. Sao em không mở cửa?” “Thì em đang ngủ mà.” Helen điềm tĩnh đáp, “Vì vậy em đã ngắt đường dây. Em lại bị nhức đầu. Bây giờ vẫn còn. Có anh đánh thức em dậy đó.” “Nhức đầu?” “Vâng, đau hơn mọi lúc. Em đã uống hai viên thuốc. Và em đi ngủ để thuốc ngấm.” “Thuốc ngủ hả?” “Không, thuốc nhức đầu. Bây giờ chắc là em phải mời anh đi cho thôi, anh Georg. Em phải ngủ để thuốc ngấm.” “Việc gì phải dùng đến thuốc viên, buồn cười chưa!” Georg nói, “Hãy mặc áo quần vào rồi đi dạo một vòng. Bên ngoài trời đẹp lắm. Không khí trong lành tốt hơn thuốc viên.” “Nhưng mà em đã uống rồi. Em cần ngủ để cho thuốc nó ngấm. Em không thích chạy lòng vòng.” Hai người còn nói chuyện hồi lâu. Georg còn muốn sẽ trở lại gặp Helen, nhưng nàng bảo đừng. Y hỏi nàng có đủ thức ăn trong nhà không. Vâng, nàng có đủ. “Người giúp việc đâu rồi?” “Buổi chiều bà nghỉ. Bà sẽ trở về nấu bữa cơm tối.” “Như thế là chẳng có gì phải bận tâm cả?” Georg nói. “Dĩ nhiên là không.” “Thế mà anh cứ nghĩ là… đôi khi người ta vẫn cứ lo lắng, ngay cả khi chẳng cần phải lo lắng. Dẫu sao thì…” “Dẫu sao thì… cái gì?” Helen hỏi giọng đanh gọn. “À, có một dạo…” “Nghĩa là sao?” “Thôi được,” Georg nói, “Sao cứ nói mãi đến chuyện ấy. Nếu mọi sự đều tốt đẹp, thì cũng tốt thôi. Nhưng dẫu sao anh cũng là anh của em mà. Anh lo lắng cho em thì cũng là chuyện tự nhiên thôi.” “Vâng.” “Vâng cái gì?” “Anh là anh của em.” “Anh cũng muốn em hiểu ra điều đó.” “Em cũng hiểu đấy chứ?” Helen nói giọng nóng nảy. “Hôm nay em làm sao thế?” “Chẳng sao cả.” “Anh mong chuyện cũ sẽ không khơi ra lại.” “Chẳng có gì khơi lại cả. Em đau đầu, có thế thôi. Và em không thích cứ bị dò xét mãi.” “Có ai dò xét em đâu? Anh chỉ lo thôi.” “Chẳng có gì phải lo cả. Em vẫn khỏe.” “Em đi gặp bác sĩ chưa?” “Rồi!” Helen đáp lại sau một hồi im lặng. “Ông ấy bảo sao?” “Chẳng bảo gì cả.” “Nhưng ông ấy phải nói một điều gì chứ?” “Ông bảo em nên nghỉ ngơi.” Helen bực tức đáp, “Ông ấy bảo em nên ngủ khi mệt và nhức đầu, đừng cãi cọ, và cũng đừng thắc mắc việc ngủ trưa có phù hợp với nhiệm vụ của một đảng viên quốc xã và công dân trong đế chế Ngàn năm đầy vinh quang này không.” “Bác sĩ bảo thế à?” “Không, ông ấy không bảo thế.” Helen đáp lớn giọng. “Ấy là em nói thêm vào đấy thôi. Ông ấy chỉ bảo em đừng lao động quá sức nếu không cần thiết. Ông ấy không làm gì nên tội ác và không cần phải đưa ông ấy vào trại tập trung. Ông ấy ủng hộ chính phủ nhiệt thành. Anh thỏa mãn chưa?” Georg lầm bầm câu gì đó. Tôi nghĩ y sắp sửa ra về và tôi cũng từng hiểu đây là lúc nguy hiểm, vì những sự cố đột xuất có thể xảy ra, nên khi đóng cửa lại tôi chừa một kẽ hở nhỏ. Một lát sau tôi thấy y bước vào phòng ngủ. Tôi thấy bóng y qua khe hở và nghe tiếng chân y bước vào phòng tắm. Dường như Helen cũng đi theo vào đó, nhưng tôi không trông thấy nàng. Tôi đóng thật chặt cửa tủ lại và đứng đấy trong bóng tối, giữa những áo quần của Helen, dao rọc giấy nắm chặt trong tay. Tôi biết Georg không phát hiện ra tôi và tôi cũng biết có lẽ y sẽ từ phòng tắm đi về phòng khách rồi ra về. Tuy thế tôi vẫn thấy cổ họng thắt lại và mồ hôi rịn dọc hai bên mình từ nách xuống. Nếu bạn sợ hãi một điều gì mà bạn chưa biết thì có thể không phải là khó chịu lắm. Cái chưa biết có thể nguy hiểm, nhưng chưa rõ nét, bạn có thể kiềm chế nó bằng kỷ luật bản thân và bằng ngay cả mẹo vặt. Nhưng khi bạn biết cái đang đối diện với bạn, bạn chẳng làm gì được với kỷ luật bản thân hay với những đòn phép tâm lý. Tôi đã biết qua nỗi sợ hãi kinh khủng trước khi họ đưa tôi vào trại tập trung. Bây giờ tôi cảm nhận nỗi sợ hãi đó lần thứ hai, vì tôi không rõ cái gì sẽ dành cho tôi nếu tôi phải bị đưa vào đó một lần nữa. Kể cũng lạ thật. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì đến vấn đề này trong suốt thời gian kể từ lúc tôi vượt biên giới; vả chăng tôi cũng không muốn thế. Nghĩ đến nó có thể cản tôi lại, mà tôi không muốn bị cản trở. Ngoài ra, ký ức ta ngụy tạo các sự việc dễ giúp ta sống. Ký ức đánh bóng những giai đoạn tăm tối khắc nghiệt của dĩ vãng. Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? — Vâng, tôi hiểu, - Tôi đáp, - Nhưng chúng đâu có bị quên lãng hoàn toàn, chỉ ngủ yên đâu đó thôi. Một cú sốc nào đó có thể đưa chúng sống lại. Schwarz gật đầu kể tiếp: — Tôi đứng trong góc tủ tối tăm và ngát mùi nước hoa. Áo quần ép sát vào người tôi như những đôi cánh mềm mại của những con dơi khổng lồ. Tôi đứng yên không nhúc nhích, nín thở, sợ vải lụa áo quần sẽ lao xao lên hoặc tôi có thể ho hay hắt hơi. Nỗi sợ dâng lên từ sàn tủ như một làn hắc khí. Tôi tưởng có thể chết ngạt được. Kinh nghiệm của tôi ở trại tập trung cũng chẳng hơn gì. Tôi đã chịu đựng những ngón hành hạ thường lệ, nhưng rồi tôi được buông ra, và rồi thì những ấn tượng về điều đó ở trong tôi cũng phai mờ đi, nhưng giờ đây tất cả hiện ra, sống dậy trước mặt tôi, những gì bản thân tôi đã chứng kiến, những gì đã xảy đến cho kẻ khác, những điều tôi đã nghe nói đến hoặc đoán được qua dấu hiệu. Tôi thật không tài nào hiểu nổi vì sao tôi điên rồ đến mức rời bỏ những đất nước tốt lành, hạnh phúc nơi mà nếu tôi sống tại đó thì hình phạt độc nhất dành cho tôi chỉ là tù hay trục xuất. Những đất nước đó, giờ đây tôi xem như là những bến bờ ẩn náu thực sự cho nhân loại. Tôi nghe tiếng Georg trong phòng tắm. Tường nhà thì mỏng và Georg đúng là một thành viên chân chính của chủng tộc thượng đẳng này nên làm gì cũng ồn ào. Y bật tung nắp đậy cầu tiêu và tiểu vào đấy với tất cả sự tự tin của mình Hành động này làm tôi an tâm, nó chứng tỏ rằng y chẳng nghi ngờ gì cả. Nhưng về sau nó khiến tôi xúc động mạnh như một điều sỉ nhục tệ hại nhất, vì tôi phải lắng nghe trong khi y tiểu tiện. Tôi nghe tiếng nước chảy xuống cầu tiêu và Georg đắc thắng bước ra khỏi phòng tắm qua phòng ngủ. Rồi có tiếng cửa phòng ngoài đóng lại thật khẽ và tủ áo mở tung ra: tôi thấy ánh sáng, và trong khoảng ánh sáng ấy là bóng dáng mờ mờ của Helen. “Anh ấy đi rồi,” Nàng thì thào. Tôi bước ra như anh chàng Achilles[*] bị bắt gặp trong trang phục phụ nữ. Sự thay đổi từ nỗi kinh hoành qua cảm giác lố bịch bối rối nhanh tới mức chúng hòa thành một. mặc dầu tôi cũng có thể bao biện bằng cách bấu víu vào lý do rằng, nếu không lẩn trốn nhục nhã như vậy thì phải chấp nhận trục xuất hay là chết. “Anh phải đi ngay bây giờ.” Helen nói. Tôi nhìn nàng. Không hiểu tại sao tôi lại nghĩ sẽ thấy sự khinh miệt trên mặt nàng, có lẽ chỉ vì chính tôi, sau khi tai nạn đã qua đi một lúc, cũng cảm thấy như một con người bị lăng nhục, một cảm giác mà tôi không bao giờ cảm nhận với bất cứ ai khác ngoài Helen. Khuôn mặt nàng chẳng biểu lộ gì khác ngoài nỗi kinh hoàng không che đậy. “Anh phải đi ngay.” Nàng nhắc lại, “Có là điên anh mới đến đây.” Tuy trước đó cũng nghĩ như thế, tôi vẫn lắc đầu. “Bây giờ thì không.” Tôi nói, “Khoảng một tiếng đồng hồ nữa đã. Y có thể đi dạo đâu đó quanh xóm. Y có trở lại không?” “Em không nghĩ thế. Anh ấy có ngờ vực gì đâu?” Helen vào phòng khách, tắt đèn, vén màn rồi nhìn ra ngoài. Ánh đèn từ phòng ngủ tạo thành một hình nón màu vàng lên sàn nhà. Ngay bên ngoài vùng sáng, nàng đứng nhìn chăm chăm, như đang giám thị một trận đấu. “Anh không thể đi bộ ra ga đâu.” Nàng thì thầm, “Người ta có thể nhận ra anh. Nhưng anh phải rời khỏi thành phố. Em sẽ mượn xe của Ella đưa anh thẳng đến Munster. Chúng mình điên rồ thật! Anh không thể ở lại đây lâu.” Nàng đứng cạnh cửa sổ, cách tôi chỉ không đầy một thước. nhưng thế cũng đủ là xa cách rồi, và tôi thấy đau nhói ở tim. Chính nàng, lần đầu tiên, có vẻ hiểu là chúng tôi sẽ phải xa nhau. Bao nhiêu ngăn cách hiện lên cụ thể trong tôi giờ đây đều tan biết mất. Giờ đây nàng thấy tai họa tận mắt và điều này xua đuổi mọi ý nghĩ khác. Toàn thân nàng là sợ hãi và yêu thương, và cùng lúc nàng bị nghiến ngấu trong cái ý thức về một sự mất mát. Chúng tôi sẽ phải chia tay nhau. Điều nay tôi cũng thấy rõ như nàng, không thoái thác, không yêu sách, và nỗi đau buồn cùng cực biến thành niềm khát khao không sao chịu nổi. Tôi """