"
Đế Vương Trung Hoa - Nguyễn Tôn Nhan full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đế Vương Trung Hoa - Nguyễn Tôn Nhan full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ
NHÀ HẠ
NHÀ THƯƠNG
TÂY CHU
ĐÔNG CHU
THỜI KỲ XUÂN THU
THỜI KỲ CHIẾN QUỐC
NHÀ TẦN
TÂY HÁN
ĐÔNG HÁN
TAM QUỐC
THỤC HÁN
NGÔ QUỐC
TÂY TẤN
ĐÔNG TẤN
THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - TIỀN TRIỆU THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - HẬU TRIỆU THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - NHIỄM NGỤY Ố Á À Á
THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - THÀNH HÁN THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - TIỀN YÊN THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - HẬU YÊN THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - BẮC YÊN THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - NAM YÊN THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - TÂY YÊN THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - TIỀN LƯƠNG THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - HẬU LƯƠNG THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - NAM LƯƠNG THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - TRIỀU BẮC LƯƠNG THẬP LỤC QUỐC (MƯỜI SÁU NƯỚC) - TRIỀU TÂY LƯƠNG TIỀN TẦN
HẬU TẦN
TÂY TẦN
ĐẠI QUỐC
ĐẠI HẠ
NHU NHIÊN
NAM BẮC TRIỀU
TRIỀU TỀ
TRIỀU LƯƠNG
TRIỀU TRẦN
Ắ Ề Ắ
BẮC TRIỀU - BẮC NGỤY
BẮC TRIỀU - TRIỀU ĐÔNG NGỤY BẮC TRIỀU - TRIỀU TÂY NGỤY BẮC TRIỀU - TRIỀU BẮC TỀ BẮC TRIỀU - TRIỀU BẮC CHU TRIỀU TÙY
TRIỀU ĐƯỜNG
TRIỀU THỔ PHIÊN
TRIỀU NAM CHIẾU
TRIỀU ĐẠI ĐẠI TRƯỜNG HÒA NƯỚC ĐẠI THIÊN HƯNG
TRIỀU ĐẠI LÝ (TIỀN LÝ)
NƯỚC ĐẠI TRUNG
TRIỀU HẬU LÍ
TRIỀU HỒI HỒ
NGŨ ĐẠI THẬP QUỐC
TRIỀU HẬU LƯƠNG
TRIỀU HẬU ĐƯỜNG
TRIỀU HẬU TẤN
TRIỀU HẬU HÁN
TRIỀU HẬU CHU
Ề Ô
TRIỀU NGÔ
NƯỚC SỞ
NƯỚC MÂN
NƯỚC TIỀN THỤC
NƯỚC HẬU THỤC
TRIỀU NAM BÌNH
TRIỀU NAM ĐƯỜNG
TRIỀU BẮC HÁN
TRIỀU NAM HÁN
TRIỀU BẮC TỐNG
TRIỀU NAM TỐNG
TRIỀU LIÊU
TRIỀU BẮC LIÊU
TRIỀU TÂY LIÊU
TRIỀU KIM
TÂY HẠ
TRIỀU NGUYÊN
TRIỀU BẮC NGUYÊN
TRIỀU MINH
TRIỀU NAM MINH
TRIỀU THANH
Á Ấ Á Ế Ố
NHỮNG CÁI NHẤT CỦA CÁC ĐẾ VƯƠNG TRUNG QUỐC
LỜI NÓI ĐẦU
"Lịch sử 5.000 năm phong kiến của Trung Quốc là lịch sử đấu tranh quyền lực giữa các triều đại liên tục thay đổi. Đại biểu cho những thế lực ấy là người đứng đầu các vương triều: các đế vương. Hầu hết đế vương, bất kể xuất thân ra sao, vương triều dài ngắn thế nào, đều có những đặc điểm chung là ham thích quyền lực tuyệt đối, mê đắm hưởng lạc và tha thiết muốn sống vĩnh viễn.
Kể lại chuyện các vua chúa Trung Quốc xưa trong cuốn sách nhỏ này, chúng tôi có tham khảo nhiều giai thoại, truyền thuyết nhưng tất cả các chi tiết hoặc niên đại trong sách đều dựa vào chính sử Trung Quốc. Và dĩ nhiên, chúng tôi còn được kế thừa nhiều tư liệu phong phú của các sử gia Trung Quốc hiện đại.
Tuy vậy, tùy thuộc vào tư liệu có thể có, chúng tôi chỉ chọn lọc một vài chuyện hấp dẫn, qua một số triều đại nổi tiếng trong lịch sử phong kiến hàng ngàn năm của Trung Quốc để kể cho các bạn".
TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ
(THỜI ĐẠI TRUYỀN THUYẾT)
Tam hoàng ngũ đế thuộc những đế vương sớm nhất trong truyền thuyết Trung Quốc. Họ là những thủ lĩnh bộ tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, không phải là đế vương trong ý nghĩ hiện đại.
Từ xưa đến nay, Tam hoàng ngũ đế do các niên đại lâu đời. Chỉ thấy ghi chép trong thư tịch cổ mà không đào được văn vật chứng thực. Do đó chỉ là truyền thuyết, thậm chí là nhân vật trong thần thoại mà thôi.
Năm 1986 các nhà khảo cổ Trung Quốc ở Sơn Khu phía tây tỉnh Liêu-ninh đã khai quật đàn tế miếu nữ thần và quân thể gia đình được tạc bằng đá, cách ngày nay hơn 5000 năm.
Căn cứ theo điều tra số hộ ban đầu, nơi đây hơn 5000 năm trước đã có một xã hội văn minh nguyên thủy theo mô hình quốc gia phát hiện quan trọng này, khẳng định một điều, cách đây hơn 1000 năm trước. Truyền thuyết Tam hoàng ngũ đế là căn cứ vào sự thật.
Họ dám khẳng định. Theo đá của những văn vật đã khai quật được. Bộ mặt của các vị Tam hoàng ngũ đế ngày càng hiện ra rõ nét, và thần thoại truyền thuyết đã đan dệt thêm thắt làm cho mọi người nghi hoặc, làm rõ bộ mặt chân thật của họ, làm những nhân vật làm mưa làm gió Tiên Vũ đài lịch sử Trung Quốc. Vậy Tam hoàng ngũ đế là những ai? Trong lịch sử Trung Quốc có nhiều cách nói khác nhau? Ở đây chỉ đưa ra cách nói trong quyển đế vương thế kỷ và quyển Thế bản của Tôn Thị Hồng, thắng được tam hoàng là Thái Hạo Phục Hi Thị, viêm đế Thân nông Thị Hoàng đế. Ngũ đế là Thiếu Hạo Chuyên Húc) Cao tân (đế khổ) Đường Nghiêu Ngu Thuấn.
8 nhân vật trên theo truyền thuyết, một người vì dân nếm thứ cây thuốc bị độc chết, một người hóa thành rồng bay về trời, một người sau khi chết đã hóa thành nửa người, nửa cá (Người cá), một
́ ̀
người bị chết trên đường đi tuần ở phương Nam, 4 người còn lại chết ở nhà do bệnh già.
THÁI HẠO PHỤC HI THỊ
Thái Hạo Phục Hi Thị họ Phong, theo truyền thuyết ông ta trị vì 150 năm, chết ở huyện Trần - nay là (huyện Hoài Dương tỉnh Hà Nam) táng ở phía bắc. Cách thành Hoài Dương 3 km (nay là phía Tây Nam, huyện Hoài Dương, tỉnh Hà Nam).
Thái Hạo Phục Hi Thị. Trong truyền thuyết ông ta là thủ lĩnh nổi tiếng của dân tộc Đông Di thời cổ đại, sinh ra ở Thành Kế (nay là phía bắc huyện Trần An, tỉnh Cam Túc). Sống ở huyện Trần. Ông ta là mình rắn - đầu người. Do ông ta làm thủ lĩnh nên đã chọn rồng-rắn làm vật thờ cúng.
Tương truyền ông ta căn cứ vào đạo lý biến đổi ánh sáng sáng tạo ra bát quái, dùng 8 loại phù hiệu giản đơn, mà lại có dụng ý sâu xa bao quát vạn vật, vạn chuyện trên trời dưới đất. Ông mô phỏng cách thức con nhện chăng tơ để làm lưới đánh bắt cá, chỉ giáo bộ tộc đánh
cá, săn thú - trồng trọt, ông còn chế tạo ra loại nhạc cụ gọi là đàn. Sáng tác ra sáo nhạc "giá biện" Điều đó cho thấy thời đó bắt đầu có ánh sáng bình minh cho nền văn hóa của nhân loại.
Thành thử trong Thư Tịch cổ thời Hán ở quyển Hoài Nam Tử Thiên Văn Huấn nói: về sau Thái Hạo Phục Hi Thị trở thành thiên đế ở phương Đông. Người giúp đỡ ông ta là Mộc Thần Bao Mang. Trong tay ông ta nắm hết mọi việc, quản cả thời tiết xuân sắp đến, mặt đất hồi xuân, vạn vật trường sinh. Các học giả thời cổ đại đã lấy 5 loại vật chất Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ. Để giải thích sự khởi nguyên và biến hóa của sự vật. Các đế vương thường lấy 1 trong 5 loại vật chất đó làm đối tượng thờ cúng. Trong "Lã Thị Quân Thu. Mạnh xuân ký". Ông Cao Tú Uông nói: Thái Hạo sinh ra đã chọn Mộc Đức để trị vì thiên hạ. Sau khi ông ta chết đã cúng tế ở phương Đông, trở thành Thiên Đế của Mộc Đức. Trong đạo giáo cũng nói ông ta là thiên đế của phương Đông.
̀ ́ ̀
Theo truyền thuyết Thái Hạo và Phục Hi là 2 người Tử quyền "Thế Bản". Trong sách sử từ thời tiên Tần đã đem gộp 2 người làm một.
Sau khi ông ta chết. Con cháu ông men theo phía bắc bờ sông Hoài-tiến xuống phía đông, và tiến xuống hạ lưu sông Hoàng Hà, khống chế một giải vùng hạ lưu, tế thủy thời Xuân Thu xây dựng được 4 vương quốc nhỏ. Tổng cộng 15 đời.
VIÊN ĐẾ THẦN NÔNG THỊ
Viên Đế Thần Nông Thị. Ông ta họ Khương hiệu là: Liệt Sơn Thị. Theo truyền thuyết ông ta trị vì 140 năm từng nếm qua các loại hoa cỏ, vì nếm phải cỏ độc nên đứt ruột chết, táng ở Trà Lăng (nay là huyện Trà Lăng tỉnh Hồ Nam). Viêm Đế Thần Nông Thị, theo truyền thuyết ông ta là thủ lĩnh nổi tiếng của bộ lạc Khương, thời cổ đại hiệu là: Liệt Sơn Thị (một thuyết khác nói là: Lệ Sơn Thị). Một số bộ lạc này cư trú ở lưu vực Khương Thủy, Mễ Đới Sinh ở thị trấn Bắc Lệ Sơn. Thành phố Tùy Châu tỉnh Hồ Bắc ngày nay. Đầu tiên cư trú ở huyện Trần, về sau xuống dời hướng đông và định cư ở Khúc Phụ (nay là phía đông bắc huyện Khúc Phụ Tỉnh Sơn Đông).
Theo truyền thuyết ông ta là người đầu trâu. Do ông làm thủ lĩnh bộ lạc, nên chọn con trâu là vật thờ cúng. Ông ta dùng gỗ làm các công cụ trong nông nghiệp như: Cày, bừa - lãnh đạo nhân dân làm các
việc trồng trọt, lại tìm ra các cây thuốc chữa bệnh cho người, được tôn khiêm là người sáng chế ra thuốc Bắc và nông nghiệp. Ông ta chia giới tuyến đường đi ở bản Tuyến (nay là phía đông nam huyện Trắc Lộc tỉnh Nam Hà) nảy sinh xung đột lớn với Hoàng đế. Đánh nhau bị thua trận, bắt tay hòa bình. Sau đó dẫn đầu trong việc mở rộng dân cư xuống hạ lưu sông Hoàng Hà Mễ Đới và Hoàng đế liên minh bộ lạc với nhau tạo thành một bộ phận chính yếu của bộ tộc Hoa Hạ. Bộ tộc Hoa Hạ về sau lại phát triển thành dân tộc Hán. Vì vậy con cháu của dân tộc Hán về sau này được gọi là "Con cháu của Mễ Đới".
̀ ́ ̀ ̀
Trong truyền thuyết Mễ Đới - thần y là 2 người về sau trích từ Quyền (thế bản) chỉ nói là một người "Hoài Nam Tử Tư phục biên". Mễ Đới thần nông nghiệp có một chiếc roi thần, tên của nó là Giả tiên. Dùng cái roi này nhổ thuốc hoa cỏ, biết được cây thuốc đó có độc hay không? Công hiệu như thần, ngoài tính lạnh - nó còn có tính nóng. Ông ta còn dùng hoa cỏ chữa bệnh cho người. Ngày nay ở núi Thành Dương tỉnh Sơn Đông còn có một ngọn núi nhỏ, có tên là: Thần nông nguyên (còn có một tên khác là Dược cỏ sơn).
Theo truyền thuyết mỗi năm Mễ Đới thần nông nghiệp thường đến đây dùng roi thần để thử hoa cỏ cây thuốc. Ông ta còn tự mình nếm thử mùi vị của trăm loại hoa cỏ. Biết được công hiệu của chúng ra làm sao? Có một lần ông ta nếm thử 70 loại cỏ giải trừ tính độc của nó, chuyển nguy thành an. Về sau ông ta lại nếm thử một loại thuốc làm đứt ruột không có cách gì cứu chữa được. Cuối cùng ông bị đứt ruột chết. Ngày nay ở thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Đông còn có một cái đỉnh nếm thuốc của Mễ Đới.
Nhân Chu An (đời Minh) trong quyển "Khai Bích hành nhích" hồi thứ 13 có nói: Trong truyền thuyết dân gian ở khu vực tứ xuyên Mễ Đới thần nông nghiệp nếm được một con sâu có 100 chân, sau khi nuốt nó vào bụng, nó biến thành những con sâu nhỏ không có cách gì cứu chữa. Cuối cùng bị chết.
Truyền thuyết này cũng tương tự truyền thuyết nếm phải cỏ độc. Điều đó nói rõ Mễ Đới là thần nông nghiệp có tấm lòng nhân ái, sẵn sàng xả thân vì người khác.
Sau khi Mễ Đới thần nông nghiệp chết, con cháu của ông ta truyền đến 8 đời mới bị tuyệt tự. Tổng cộng kéo dài 560 năm.
HOÀNG ĐẾ
Hoàng Đế! Ông ta mang họ Kê - một thuyết khác nói là họ Công Tôn hiệu: Hiên Niên Thị - là một thủ lĩnh bộ lạc liên minh ở lưu vực sông Hoàng Hà cách đây hơn 4000 (ngàn) năm, được tôn khiêm là tổ tiên cộng đồng của dân tộc Hoa Hạ.
̀ ́ ́ ́ ̀
Theo truyền thuyết sống đến 100 tuổi hóa thành rồng bay về trời, lại có truyền thuyết nói - Ông ta trị vì 100 năm, sống đến 111 tuổi, chết ở Kinh Sơn (nay thuộc phía nam thị trấn Văn Hương, huyện Linh Bảo, tỉnh Hà Nam) táng ở núi Kiều quận Thượng (nay núi Kiều phía Tây Bắc huyện Hoàng Lăng tỉnh Thiểm Tây).
Hoàng Đế! Sinh ở Hiên Viên (nay là Tây Bắc huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam) Lúc đầu cư trú ở Hữu Hùng (nay là Tây Bắc huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam) về sau đổi tên là Vân. Bộ lạc của ông ta và bộ lạc của Mễ Đới chung sống ở cao nguyên Tây Bắc, cùng sinh ra ở Thiếu Điền Thị phân chia ranh giới, đánh bại Mễ Đới và về sau hợp nhất với Mễ Đới tạo thành bộ lạc liên minh.
Theo truyền thuyết thủ lĩnh tộc Cửu Lê (tên bộ lạc Nam phương thời cổ đại) là Trùng Ưu hung bạo ngang ngược thường xâm lược các bộ lạc khác, Mễ Đới bị ông ta đánh bại. Đến cầu cứu Hoàng Đế. Hai người hợp sức với nhau đánh một trận quyết chiến với Trùng Ưu ở ngoại ô Lộc Giả. Hoàng Đế dẫn đầu 6 bộ lạc chọn: gấu, hổ, con tỳ (một loài dã thú trong sách cổ) sói vàng tỳ hưu, gấu ngựa làm tô tom, đánh nhau với Trùng Ưu.
Trùng Ưu có 81 anh em đều mình đồng da sắt hung ác vô cùng. Các thuộc hạ dùng vũ khí lợi hại như: Dao, cung, khiên... chiến đấu oanh liệt, cuộc chiến diễn ra gay gắt, khó phân thắng bại, Trùng Ưu giở sở trường của mình ra: từ lỗ mũi phun ra một trận mây khói. Lúc này trời đất hỗn độn, mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng, kéo dài như vậy 3 ngày, quân của Trùng Ưu chiến đấu hung dữ. Quân của Mễ Đới lạc phương hướng, lòng quân dao động, Hoàng Đế ra lệnh làm một cái xe la bàn. Trên xe có một người nhỏ bằng sắt, giơ tay chỉ hướng nam, từ đó nhận được biết phương hướng, xông ra chiến đấu - đánh bại được tộc Cửu Lê, giết Trùng Ưu. Sau chuyện này, Hoàng Đế được chọn làm thủ lĩnh của bộ lạc liên minh.
Thời Hoàng Đế! có rất nhiều phát minh quan trọng. Ví dụ: nuôi tằm dệt lụa, đóng xe, làm nhà, viết chữ, đính số lịch pháp, vũ khí ra đời... Người đời sau tôn ông ta là "Người có tài phát minh ra trăm vật".
́ ̀
Bắt đầu từ hậu kỳ Xuân Thu, ông ta được tôn là tổ tiên tộc Hán.
Trong quyển "Bao Bấc Tử cập ngôn biên" dẫn ra trong "liệt tiên truyện" có nói "Hoàng Đế vào những năm cuối đời tự mình tiên đoán được ngày chết. Đến ngày này ông ta cáo biệt với quân thần rồi chết, táng ở núi Kiều. Không lâu trên mộ núi Kiều bỗng chồi nên, nhưng trong mộ không có thi thể - chỉ có kiếm và giầy của ông ta. "Sử ký phong đơn thư" cũng có truyền thuyết nói: Hoàng Đế sống đến 100 tuổi, đi lên núi Đô Dương đúc một cái đỉnh đồng. Sau khi đúc xong có một con rồng bay xuống đón ông ta. Ông ta cùng rồng bay về trời, rất nhiều quần thần muốn về trời cùng ông ta, liều mạng túm đuôi rồng không dám thả và bị rơi rất nhiều người.
Sử ký Ngũ đế bản ký nói: Hoàng Đế sống đến 100 tuổi thì chết. Lăng mộ Hoàng đế có rất nhiều ở Thiểm Tây - Cam Túc - Hà Nam - Hà Bắc, trong đó ngôi mộ ở núi Kiều thuộc huyện Hoàng Kỳ tỉnh Thiểm Tây là nổi tiếng nhất. "Quốc ngữ phổ ngữ" nói: Hoàng Đế có 25 người con cháu, trong đó có 14 người hợp thành 12 họ tộc Đế vương ở 3 đời Hạ Thương Chu đều là hậu duệ của ông ta.
THIẾU HẠO
Thiếu Hạo, họ Dĩ, hiệu Kim Thiên Thi, một hiệu khác: Cùng Tang Thị Thanh Dương Thị. Sống đến 100 tuổi, trị vì 84 năm, chết ở Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông, táng ở núi Vân Dương (nay thuộc phía Tây Nam huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông).
*
Thiếu Hạo là thủ lịnh bộ lạc Đông Di, đầu tiên cư trú ở Cùng Tang (nay thuộc phía Đông Bắc huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông), sau di cư xuống Thanh Dương (nay thuộc huyện Thanh Dương tỉnh An Huy), tương truyền là hậu duệ của hoàng đế, mẹ ông ta là Luy Tổ, bộ lạc ông ta chọn chim làm tôtem. Phượng hoàng là tên chức quan lớn nhất, người xử lý các hình phạt gọi là chim ưng, người quản lý quân đội gọi là diều hâu, ngoài ra còn có các chức vụ quan quản lý
nông nghiệp, quan quản lý công nghiệp, chia ra quản lý nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Bộ lạc của Thiếu Hạo có 24 thị tộc, chọn Yểm làm trung tâm, sinh sống ở bán đảo Sơn Đông ngày nay, nơi đó gọi là vương quốc của Thiếu Hạo.
Hoài Nam Tử thời tắc biến ghi chép sau này Thiếu Hạo cử một người con trai là Bao Mang làm trợ thủ cho Thái Hạo Phục Hi Thị, sai một người con khác là Nhũ Thụ đến phương Tây làm thiên đế, quản lý 12 năm.
Sau khi Thiếu Hạo chết, con cháu ông ta từ bán đảo Sơn Đông tràn xuống lưu vực sông Giang Hoài, nước Đàm thời Xuân Thu và đế vương triều Chu là hậu duệ của ông ta.
CHUYÊN HÚC
Chuyên Húc họ Cơ, hiệu Cao Dương Thị, sống đến 98 tuổi, trị vì 78 năm, táng ở phía Đông Nam huyện Bồ Dương tỉnh Hà Nam, chết hóa thành ngư phụ" (nửa người nửa cá).
Chuyên Húc, trong truyền thuyết là thủ lĩnh bộ lạc liên minh Mễ Đới - Hoàng Đế, cư trú ở Cao Dương (nay thuộc phía Tây huyện Dĩ tỉnh Hà Nam), trong "Sơn Hải Kinh, Ngũ Tàng Sơn Kinh và Quốc Ngữ Sở Ngữ" nói ông ta là con cháu của Xương Ý (đời thứ hai của Hoàng Đế) mẹ là con gái của tộc Dao Sơn, tên là Xương Bốc, ông ta sinh ở Nhược Thủy (thuộc huyện Vinh Kinh tỉnh Tứ Xuyên), cư trú ở Đế Khâu (nay thuộc Tây Nam huyện Bắc Dương tỉnh Hà Nam), từ nhỏ đã cùng chú đi tới vương quốc của Thiếu Hạo, 10 tuổi giúp cha quản lý việc chính trị, 20 tuổi làm thủ lĩnh. Lúc đó tộc Cửu Lê bị hoàng đế chinh phục vẫn tôn thờ Vu Giáo, sùng bái quỷ thần, sau khi nên ngôi thủ lĩnh, bắt tôi Cửu Lê theo giáo hóa của Hoàng Đế, ông coi trọng hiền tài tích cực phát triển nông nghiệp.
Lúc này hậu duệ của Mễ Đời là Cung Cung tranh chức thủ lĩnh với ông, hai bên đánh nhau quyết liệt, đánh từ trên trời xuống đến đất, từ phương Đông sang phương Tây, đánh đến chân núi Bất Chu ở phương Tây Bắc. Cung Cung không thắng, tức giận húc đầu ́
và cột trụ trên núi Bất Chu, cây cột bị gẫy. Vùng Đông Nam thủng một lỗ lớn, nước ở các sông đều chảy về đó, tạo ra biển lớn.
Trong quyển "Thượng Thư Lã hình’ nói Chuyên Húc lo xuất hiện Trùng Ưu thứ hai đến xúi giục dân phản lại ông ta. Người và thần hợp sức với nhau, thiên hạ sẽ xảy ra họa lớn, nguy hại đến sự thống trị. Ông ra lệnh cho Trọng và Lê dùng sức lực phân chia ranh giới giữa trời và đất, không cho người và thần tự do đi lại, từ đó trời và đất rất cách xa nhau, chặng được con đường thông giữa trời và đất, khiến người và thần phân li chỉ có thần mới xuống được trần gian còn con người không có cách gì lên trời. Sai Trọng quản lý phía Nam, trông coi việc tế trời, Lê quản lý phía Bắc, trông coi dân sự. Truyền thuyết này cho thấy, thời đó đã phân chia chức vị giữa thần và người. Tôn giáo nguyên thủy đã hướng về thần quyền.
Chuyên Húc thích âm nhạc, chú ông ta đã làm một cây đàn tặng ông ta.. Sau này, ông phỏng theo âm thanh của các loại đàn sáo, sai người soạn ra khúc ca "Thừa Van".
Lăng mộ của Chuyên Húc có ở nhiều nơi "Sơn Hải Kinh. Đại Hoang Tây Kinh" nói: Khi Chuyên Húc chết, gió lớn từ phương Bắc thổi đến, dưới đất lộ ra một dòng nước lớn rắn biến hết thành cá. Thân thể ông ta biến ra nửa người nửa cá, một nưa thân hình là cá vẫn còn sống, còn nửa thân là người thì chết.
ĐẾ KHỐ
Đế Khố, họ Cơ, tên là Tuấn, hiệu Cao Tân Thị, sống đến 100 tuổi, trị vì 70 năm, táng ở Bắc Dương tỉnh Hà Nam, một thuyết khác nói táng ở phía Tây Nam huyện Thanh Phong tỉnh Hà Nam.
*
Đế Khố, là thủ lĩnh của bộ lạc liên minh Mễ Đới - Hoàng Đế, là hậu duệ của Huyền Khí con trưởng của Hoàng Đế, tổ phụ là Thiếu Hạo, cha tên là Kiều Cập, là người thân của Chuyên Húc, lúc 15 tuổi đi theo Chuyên Húc, được phong đất ở Tân, làm thống lĩnh bộ lạc do 8 thị tộc hợp thành, 30 tuổi làm thủ lĩnh, dời đến cư trú ở Bắc
(nay thuộc tỉnh Hà Nam), tranh chức vị thủ lĩnh với Cung Cung và đã đánh bại ông ta.
"Đại đới lễ. Ngũ đế đức" nói: Vào mùa xuân ông ta hóa thành rồng, mùa thu hóa thành ngựa, có thể sai khiến được chim phượng. Ông giúp con trai đi bắt sao Thượng và sao Thân, về sau lại hóa Kháng thành hai ngôi sao nhỏ, thả mỗi ngôi một phương vĩnh viễn không cho chúng gặp nhau. Phi tử của ông ta có thể nuốt chửng mặt trời, mỗi lần nuốt lại sinh hạ một người con trai. Phi tử Khương Nguyên sinh ra Hậu Quý trở thành tổ tiên của tộc Chu, phi tử Giai sinh ra Khiết là tổ tiên của tộc Thương, phi tử Khánh Đê sinh ra Nghiêu, phi tử Thường Nghĩa sinh ra Chí.
Sau khi Đế Khố chết, Chí tiếp nhận chức vụ thủ lĩnh. Chí hoang dâm vô độ, không chú trọng công việc trị quốc bị các thủ lĩnh bộ tộc phế bỏ, em trai của Chí là Nghiêu được bầu làm thủ lĩnh.
Tả truyền. Văn Công năm thứ 18 có nói: thời Nghiêu có 8 người con tài giỏi, đều là con cháu Đế Khố, hiệu gọi là "bất nguyên" (8 tộc), và đều có danh tiếng, thuần cử họ làm chủ quản giáo hóa.
Truyền thuyết Đế Khố thao túng các ngôi sao đã phản ánh được thời đó đã nắm vững thời gian quan sát giản đơn và phương pháp quan sát khí hậu để chỉ đạo sản xuất nông nghiệp.
NGHIÊU
Nghiêu, họ Kỳ, hiệu Dao Đường Thị, còn gọi là Đường Nghiêu, là một quân tử nhân đức thọ 118 tuổi, trị vì 98 năm, táng ở Tế Âm (nay thuộc huyện Hà Tắc tỉnh Sơn Đông), một thuyết khác nói: những năm cuối đời bị Thuấn đoạt ngôi, giam ở Bình Dương (nay thuộc huyện Lâm Phần tỉnh Sơn Tây).
*
Nghiêm làm thủ lĩnh bộ lạc liên minh thuộc hậu kỳ xã hội thị tộc phụ hệ. Năm 13 tuổi được phong đất ở Dao (nay thuộc gò Nam Dao huyện Hà Tắc tỉnh Sơn Đông). 16 tuổi được bầu làm thủ lĩnh, dời đô đến Bình Dương, ông ta nhân đức thật thà tiết kiệm. Làm việc
nghiêm minh, sẵn sàng xả thân vì nhân dân, ông trọng những người hiền tài. Ví dụ sai Hậu Quý trông nom nông nghiệp, Thuân trông coi công nghiệp, Cao Dao trông coi tư pháp, Quy trọng coi lễ nhạc, Thuấn quản lý giáo dục, Khiết quản lý quân đội. Vì vậy thiên hạ thái bình trăm họ đều an cư lạc nghiệp. Ông ta am hiểu thiên văn, làm ra lịch, thường trưng cầu ý kiến của các thủ lĩnh bộ lạc 4 phương, sai Cổn trị thủy. Những năm cuối đời chọn Thuấn kế vị, lo ngại con trưởng là Đan Thất không bằng lòng liền sai anh ta đến vùng Đan Thủy thuộc phương Nam, ra lệnh cho Hậu Quý giám sát Đan Thất. Về sau, Đan Thất nghe lời Tam Miêu xúi giục đã dẫn quân về kinh làm loạn. Nghiêu đích thân đi dẹp loạn. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, máu chảy thành sông. Cuối cùng bắt được Đan Thất, anh ta xin tha mạng, Nghiêu nói: "Cha không thể lấy đau khổ của thiên hạ để đổi lấy ích lợi cho con", sai người giết Đan Thất và nhường ngôi cho Thuấn, phương thức lựa chọn người kế vị trong sử gọi là "nhường ngôi". "
Thượng thư Nghiêu điển" nói: Nghiêu được bà con trăm họ mến yêu, bị bệnh chết ở Dương Thành (nay thuộc phía Đông Nam huyện Đăng Phong tỉnh Hà Nam), khi ông chết họ thương tiếc như chính cha mẹ mình.
"Sơn hải kinh. hải nội nam tinh" lại nói: Nghiêu vào những năm cuối đời tính tình thay đổi, ông nhường ngôi cho Đan Thất, Thuấn không phục đã nổi dậy phản đối. "Sử kí. Ngủ đế bản kí" nói: "Thuấn giam giữ Nghiêu, còn cấm Đan Thất gặp mặt cha". "
Sử Thông Nghi Cổ Biên" nói "Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương, rồi đoạt ngôi vị".
THUẤN
Thuấn, họ Phiêu, tên là Trọng Hoa, sử sách gọi là Ngu Thuấn, là một người nhân đức, trị vì 50 năm, trên đường đi tuần ở phương Nam bị chết ở Thương Đồng (nay thuộc phía Đông Nam huyện Thủ Nguyên tỉnh Hồ Nam) thọ 100 tuổi, táng ở núi Cửu Nghi (nay thuộc huyện Thủ Nguyên, một thuyết khác nói do đoạt ngôi, bị giam và chết ở Thương Đồng).
*
Thuấn là trưởng thị bộ lạc Ngu. "Mãnh Tử Lý Nữ biên" nói: ông ta quy thuận người Đông Di, cư trú ở Ngu (nay thuộc phía bắc huyện Ngu Thành tỉnh Hà Nam).
Thuấn là con một nông dân bình thường, cha mắt kém, mẹ mất sớm, cha lấy vợ và sinh được một em trai tên là Tương và em gái tên là Khỏa Thư. Cha mơ hồ mê muội, yêu quý mẹ ghẻ và em gái, không thích Thuấn, mẹ ghẻ tâm địa lang sói, em trai tính tình hung ác, họ thường ngược đãi Thuấn. Sau khi trưởng thành, Thuấn không thể sống chung với họ, đã bỏ nhà và đi đến núi Lịch Sơn (nay thuộc Sơn Tây) lợp một ngôi nhà cỏ, khai hoang trồng ruộng. Thuấn thương người, tính tình hòa nhã, luôn giúp đỡ mọi người, được dân chúng tin yêu, dần dần họ dọn đến ở gần Thuấn không bao lâu nơi đây trở thành khu vực tập trung dân cư đông đúc.
Nghiêu tuổi cao sức yếu, quyết định không triệu tập các thủ lĩnh bộ lạc bảo chọn người kế vị ông ta. Mọi người biết tài đức của Thuấn đều nhất loạt bình chọn Thuấn. Vua Nghiêu qua thử thách, cuối cùng rất hài lòng về Thuấn đã gả con gái: Nga Tinh và Nữ Anh cho Thuấn, còn tặng một kho lương và một đàn dê.
Mẹ ghẻ và em trai thấy vậy sinh lòng ghen ghét đã xúi giục cha nghĩ cách hại Thuấn để cướp tài sản.
Một lần, cha sai Thuấn đi sửa nhà kho, đợi Thuấn trèo lên đỉnh nhà, Tượng chặt đứt thang rồi cùng cha mẹ châm lửa đốt định thiêu chết Thuấn. Ông chợt nhớ ra vợ vừa đưa cho hai chiếc nón lá, ông cầm mỗi tay một cái mở rộng hai chân, trông giống như chim giương cánh bay, nhảy xuống đồng cỏ khô gần đó bình yên vô sự.
Mưu kế không thành. Tượng nghĩ ra mưu khác. Một ngày, cha sai Thuấn đi vét giếng, Thuấn mang dụng cụ dùng dây thừng leo xuống đáy giếng. Ông vừa xuống đó, em trai và cha cắt đứt dây thừng, dùng đất đá lấp giếng lại. Họ quay về nhà Thuấn định cướp tài sản không ngờ Thuấn đã bình an trở về. Hai cha con kinh
́ ́ ́
ngạc mặt mày thất sắc, lủi thủi bỏ đi. Hóa ra, Thuấn sớm đoán được ý định của họ, nên đã đào sẵn một lối đi lên mặt đất.
Vài ngày sau, Tượng lại đến và nói: "Hai lần trước thật có lỗi với anh, hôm nay em làm rượu thịt mời anh đến ăn để chuộc lỗi".
Em gái Khỏa Thư biết bố mẹ và em trai muốn hãm hại Thuấn, cô ta rất thương xót. Cô ta biết lần này, Tượng đợi Thuấn uống say sẽ chém chết ông ta. Cô ta lén lút âm thầm đến nói cho Thuấn và chị dâu biết. Chị dâu lấy một túi thuốc bảo Thuấn đeo vào người rồi hãy đi dự tiệc. Nhân lúc họ chén to chén nhỏ chuốc rượu, Thuấn nhanh chóng đổ rượu vào túi, thấy rượu thịt đã tàn mà Thuấn không hề say, Tượng tức giận nhìn Thuấn quay về nhà.
Mặc dù bị họ đối đãi như vậy, Thuấn không hề hận họ, vẫn giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, yêu mến anh em, tặng cho họ nhiều đồ vật quý báu.
Nghiêu thấy Thuấn sống trong một gia đình như vậy vẫn giữ tròn đạo hiếu thì nhất định trị vì tốt việc quốc gia, liền nhường ngôi cho Thuấn. Sau khi kế vị, Thuấn trở về nhà bái kiến cha mẹ và phong đất cho Tượng ở Bí (nay thuộc huyện Linh Lăng tỉnh Hồ Nam). Cha và em trai Thuấn tâm địa quỷ quyệt bị lòng nhân từ của Thuấn làm cảm hóa, nên đã thay đổi tính nết.
Sau khi trị vì, Thuấn thường xuyên đi tuần ở bốn phương, loại bỏ những mối nguy hiểm như: Cung Cung, Tam Miêu trọng dụng nhân tài. Ví dụ: sai Vũ trị thủy, Khiết quản chính trị, Ích nắm quân đội, Dao nắm nông nghiệp và chọn Cồn kế vị.
Vào những năm cuối đời, người Miêu ở phương Nam làm loạn, ông đích thân dẫn quân đi dẹp, đưa Nga Tinh, Nữ Anh xuống Nam Hạ. Đến Tương Thủy để hai người vợ ở lại, còn mình dẫn quân tiến về phía trước. Đền Thương Ngô đột nhiên bị bệnh và chết, an táng ở núi Cửu Nghị. Nga Tinh và Nữ Anh nhận được tin dữ khóc mãi không thôi, họ mên theo bờ sông Tương Thủy, khóc đến nỗi máu chảy trong mắt, nước mắt máu rượu bắn lên những cây trúc ở bờ
́ ́ ́
sông điểm thành những vết lấm tấm. Người đời sau gọi trúc này là trúc Tương Phi, trúc đốm.
Cuối cùng quá đau khổ, cả hai cùng nhảy xuống sông Tương Thủy tự vẫn. Người đời sau lập miếu bên bờ sông để cúng tế họ. Tương truyền, hai người đều là thủy thần của sông gọi là Tương Quân-Tương Phu nhân.
Em trai Thuấn biết tin, từ xa lặn lội đến quỳ trước mộ khóc lóc hối hận, sau này biến thành một đầu voi lớn đứng canh mộ, người đời sau xây cạnh mộ ông tòa "Tị Đình" để tưởng nhớ ông.
"Sử kí Hạ bản kí" và "Mãnh Tử Vạn Chương" lại nói: Vào những năm cuối đời, Thuấn không lấy đức làm trọng, truyền ngôi cho con là Thương Vận (một người chỉ biết ăn chơi hưởng lạc). Vũ không phụ, dùng thủ đoạn ép Thuấn đến Thương Ngô, giam Thương Vận ở Dương Thành còn mình đoạt ngôi vị.
NHÀ HẠ
(Từ thế kỷ 21 TCN - đến thế kỷ 16 TCN)
Nhà Hạ là thời kỳ hình thành xã hội nô lệ ở Trung Quốc cũng là triều đại đầu tiên thực hiện chế độ cha truyền con nối, nhà Hạ có tổng cộng 17 vị vua do tài liệu sử bị mất chỉ biết 13 người bị bệnh chết, một người do mất nước đi lưu vong bị đói chết, một người đi chinh phạt bị chết, một người chết do lao động quá vất vả và một người bị giết.
Còn có Hậu Nghệ và Hán Chúa bị giết.
VŨ (NHÀ HẠ)
Vũ, họ Tự, tên là Văn Minh, ngoài ra còn gọi là Đại Vũ, Hạ Vũ, Đế Vũ, năm sinh năm mất không rõ (được Thuấn nhường ngôi cho), là người được triều Hạ tôn kính. Trị vì được 8 năm, do lao động quá vất vả nên chết, thọ 100 tuổi, táng ở núi Hội Kê (nay thuộc huyện Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang).
*
Vũ, con trai của Cổn (tộc trưởng bộ lạc Hạ) theo truyền thuyết là cháu của Chuyên Húc. Cổn chết do trị thủy thất bại. Thuấn ra lệnh cho Vũ tiếp tục công việc trị thủy, Vũ thông minh chăm chỉ đối xử với mọi người rất hòa nhã, sẵn sàng hi sinh bản thân mình. Ông ta lấy bài học của cha làm gương, trải qua kinh nghiệm thực tế, dùng phương pháp khơi dòng, ông đích thân chỉ đạo công việc dãi nắng dầm mưa, tính theo lịch là 13 năm cuối cùng cũng ngăn chặn được nước lũ. Trong 13 năm này, ông đi qua nhà 3 lần mà không vào. Lần thứ nhất, đúng lúc vợ ông đang sinh con nghe tiếng trẻ khóc, thuộc hạ khuyên ông vào nhà xem tình hình ra sao, nhưng ông không vào vì sợ lỡ công việc trị thủy, lần thứ hai qua nhà, vợ ông đang bế con định trao cho ông bế, ông chỉ vuốt má đứa nhỏ rồi ra đi. Lần
thứ ba, con trai ông giữ ông lại, ông giải thích vì công việc chưa xong không thể ở nhà được.
Tinh thần và thành tích của Vũ được mọi người tôn trọng, họ tôn ông là truyền nhân của bộ lạc liên minh Mễ Đới - Hoàng Đế.
Sau khi Thuấn chết, ông lên kế vị. Còn có một truyền thuyết khác cho rằng: Hai cha con Cổn - Vũ đều dùng phương pháp khơi dòng để trị thủy, cách thức của phương pháp này do Cổn nghĩ ra, nhưng mức độ thông minh của hai người lại khác nhau, do vậy người thành công, người thất bại. Sở dĩ Cổn chết, Vũ có thể tiếp tục nhiệm vụ của ông ta là do nhân tố về chính trị. Ngoài ra chế độ xã hội thị tộc phụ hệ đã phát triển đến giai đoạn cuối. Trong giai đoạn lịch sử lúc đó Ngu Thuấn đại diện cho thế lực bảo thủ. Cổn đại diện cho tư tưởng tiến bộ. Cách làm của Cổn phá hoại phong tục tập quán cũ kỹ của xã hội thị tộc, kỳ thật ông ta dùng bạo lực bắt nhường chỗ cho chế độ dân chủ ý định đó đã làm cho Nghiêu tức giận và sai Thuấn giết Cổn.
Vũ giành bài học đau thương từ cha rút kinh nghiệm cho bản thân mình, phục tùng mọi mệnh lệnh của Thuấn, giành được lòng tin của Thuấn và được Thuấn nhường ngôi.
Sau khi lên ngôi, Vũ chú trọng nông nghiệp, thế lực chính trị của ông cũng rất mạnh từ lưu vực sông Hoàng Hà kéo đến lưu vực sông Trường Giang, ông định cư ở Dương Địch (nay thuộc huyện Vũ tỉnh Hà Nam).
Căn cứ vào sử ký thời đó đã có thế lực cộng đồng như: quân đội, quan lại... nói rõ đã xuất hiện bộ máy chính quyền.
Theo truyền thuyết để kỷ niệm ngày chiến thắng nạn lụt, Vũ đã sai đúc 9 cái đỉnh sắt đại diện cho 9 châu, khắc trên đá nhiều hoa văn, cầm thú tượng trưng cho chính quyền quốc gia về sau này.
Những năm cuối đời, Vũ hay trưng cầu ý kiến của các bộ lạc, chọn Cao Dao kế nhiệm, không may Cao Dao chết yếu, ông lại chọn con trai của Cao Dao là Bá Ích kế vị.
́
Vũ trị vì được 8 năm, từng triệu tập các thủ lĩnh bộ lạc đến hội họp ở miếu Sơn (nay là huyện Thị Hưng, tỉnh Triết Giang) mọi người đều hội họp tặng cho Vũ rất nhiều báu vật quý và góp những ý kiến quan trọng. Vũ ra lệnh cho Hạ Thiên ghi lại rõ ràng. Từ đó đổi tên miếu Sơn Thành là Kê Sơn. Lần hội họp đó chỉ có thủ lĩnh bộ lạc Phỏng Phương Thị (là một bộ lạc ở phương nam) không đến (nay là huyện Đức Sơn tỉnh Triết Giang).
Vũ tức giận, cộng thêm vào đó Phỏng Phong Thị không biết sợ đi xâm phạm người khác, liền bị Vũ bắt lại kê ra hàng loạt vũ trạng, sau đó kết vào tội chết.
Sau khi kết thúc đại hội Vũ do bị lao động vất vả nên đã lâm bệnh, trong lúc ốm Vũ vẫn điều hành công việc. Tháng 8 năm đó ngã bệnh và chết ở Hội Kê. Thuộc hạ của ông ta theo tác phong của ông ta: khiêm tốn tiết kiệm chỉ dùng có 3 lĩnh vải và một quan tài mỏng an táng ông ta ở núi Hải Kê.
KHẢI
Sử ký gọi là Hạ Khải. Hạ hậu Khải năm sinh và năm mất không rõ ràng, con của Vũ sau khi chết nhường ngôi cho trị vì được 9 năm, bị bệnh mà chết. Táng ở gần An ấp (nay là thôn Tây Chỉ Hạ huyện Hạ tỉnh Sơn Tây).
Khải mẹ là Đỗ Sơn Thị ghi chép trong quyển "Thiên môn" của Khuất Nguyên. Vũ trong lúc đi tuần tra về việc trị thủy, đi khắp 4 phương, có một lần gặp gỡ thị nữ của Đồ Sơn ở Đài Trang nhưng vì công việc nên phải phân li. Thị Nữ của Đồ Sơn mang thai, do đau thương đến khi sinh Khải thì chết. Vì vậy Khải sinh ra đã mất mẹ, lại là 1 đứa trẻ rất đáng thương. Sau khi Vũ chết, Khải rất là ngang ngược không ai bảo được. Tự mình kế vị lập ra nhà Hạ đầu tiên của lịch sử Trung Quốc. Từ đó tuyên bố kết thúc xã hội nguyên thủy, mở ra một xã hội nô lệ. Khải cũng trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc (cũng có nhà sử học cho rằng Vũ là vị vương đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc) anh ta rời bỏ Dương dịch từ phía tây dời xuống đại Hạ nay là lưu vực thôn hội, đóng đô ở An ấp (nay là phía Tây huyện Hạ tỉnh Sơn Tây). Sau khi Khải cướp ngôi
́ Í ́
đã hạ lệnh giết Bá Ích người được Vũ chọn kế vị. Khải cùng với bộ lạc Hữu Hội thề không đội trời chung. Khải đã sai quân đánh họ, bị Hộ phi đánh cho thua trận. Để lấy lòng dân Khải rất nghiêm túc trong việc trị quân. Ông ta còn tôn trọng những người già yếu, trẻ nhỏ, dùng những người có tài. Sau khi được sự giúp đỡ của nhân dân, ông ta lại xuất quân đi đánh Hữu Hộ phi, củng cố Vương Quyền. Sau lần đó tính cách của ông ta lại trở về như cũ, càng ngày càng xấu đi, suốt ngày uống rượu nghe hát.
Có truyền thuyết nói ông ta sáng tác khúc nhạc "Cửu âm".
Những năm cuối đời của Khải, những người con trai của ông ta tranh nhau đòi kế vị. Người con út Thành Quan hung ác nhất. Khải liền sai người đem nó đến Hà Tây (nay là Thiển tây) Thành Quan tụ tập nhiều người hòng làm loạn. Khải liền sai đại tướng Bá Thọ đến
đánh và sai người bắt giải Thành Quan về cung. Anh ta đành nhận tội. Không lâu sau Khải bị bệnh chết.
THÁI KHANG
Thái Khang năm sinh và năm mất không rõ ràng, là con trưởng của Khải. Kế vị Khải sau khi ông ta chết. Thực tế trị vì trong 2 năm (trên danh nghĩa lên ngôi từ năm 29 tuổi) vì không lo liệu việc dân sự. Trong lúc đi du lãm săn bắn ở bờ bắc sông Lạc Thủy, bị Hậu Nghệ cướp ngôi. Do vậy, ốm chết, táng ở Dương Hạ (nay thuộc phía Tây huyện Thái Khang tỉnh Hà Nam).
Thái Khang từ lúc nhỏ đã được hưởng lạc cùng với cha. Sau khi lên ngôi ông ta còn ăn chơi trác táng hơn cha mình rất nhiều. Suốt ngày chỉ nghe đàn ca múa hát săn bắn, không lo liệu việc trị nước.
Có một lần ông ta mang gia nhân cùng đi săn bắn du lãm ở bờ bắc sông Lạc Thủy, đi hơn 3 tháng mà chưa trở về, buông lỏng mọi công việc triều chính, nhân dân oán thán, bị Hậu Nghệ thủ lĩnh bộ lạc Hữu Cùng của dân tộc Đông Di (nay là phía tây Đức Châu tỉnh Sơn Đông) khởi binh chiếm đánh thành An ấp. Lúc nà Thái Khang đi săn phấn khởi trở về. Đi đến bờ Lạc Thủy, thấy có quân lính đứng đó, vội sai người qua sông hỏi han tình hình mới biết Hậu Nghệ
̀ ̀
không cho ông ta vào thành. Các thủ lĩnh bộ lạc đều không bằng lòng về hành vi phóng đãng của Thái Khang, và lại sợ thế lực của Hậu Nghệ, không ai muốn giúp đỡ Thái Khang. Lúc này ông ta hối hận cũng đã muộn, đành phải cư trú ở Dương Hạ.
5 người em của Thái Khang thấy anh trưởng không về thành An Ấp nên thường cùng mẹ đến bờ nam sông Lạc Thủy ngóng đợi. Cuối cùng cũng bị thất vọng.
5 anh em họ liền sáng tác ra một ca khúc để tưởng nhớ đến công tích và phẩm đức của tổ tiên. Tính tình của ca khúc rất lâm li bi đát. Ca khúc này là "lời ca của 5 anh em" rất nổi tiếng trong Thượng Thư - đại ý của lời ca là: "Tổ tiên của chúng ta, từng giáo dục con cháu. Dân chúng là gốc rễ. Chỉ cần gốc rễ vững chắc thì quốc gia yên ổn. Quân vương phải chú ý tới việc trị quốc, dùng tâm để trị vì thiên hạ, đừng ham mê tửu sắc, ham muốn đi chơi, phải hết lòng vì là con trăm họ, củng cố việc quân. Có vậy mới không mất lòng tin trong dân chúng, không bị mất nước. Tổ tiên chúng ta trước đây luôn hết mình vì dân chúng ai cũng lo toan việc quân việc nước, đời sống nhân dân ổn định phồn vinh. Như vậy mới là một quân vương tài giỏi. Còn ngày nay Thái Khang của chúng ta đã đi ngược với lời dạy của tổ tông, làm hỏng mọi chuyện, làm khốn khổ bà con trăm họ, làm bại hoại tổ tiên, đưa chúng ta rơi vào tình cảnh mất nước, nhà tan. Thái Khang ơi? Anh đã mắc tội lớn - làm chúng em rất đau lòng."
(Sau 27 năm ông ta chết ở Dương Hạ).
TRỌNG KHANG
Trọng Khang, năm sinh và năm mất không rõ ràng, là em trai của Thái Khang. Sau khi Hậu Nghệ phế truất Thái Khang, đã lập ông ta làm vua trên danh nghĩa ông ta lên ngôi từ năm 13 tuổi. Nhưng do Hậu Nghệ nắm quyền, ông ta không can tâm làm bù nhìn trong tay Hậu Nghệ, một lòng muốn cướp lại chính quyền. Ông ta sai Tử Mã Dận mang quân đi chinh phạt. Hi Hòa (là vây cánh của Hậu Nghệ) lực lượng rất mạnh. Cuối cùng Trọng Khang thua trận, giam
̀ ̀ ́ ́ ̀ Ấ
lỏng. Buồn rầu uất hận, sinh bệnh mà chết, táng ở gần An Ấp (nay là thôn Tây Chí Hạ, huyện Hạ, tỉnh Sơn Tây).
TƯƠNG
Tương là con trai Trọng Khang, năm sinh và năm mất không rõ ràng. lên kế vị Trọng Khang, sau khi ông ta chết, trị vì được 28 năm. Bị con trai của Hàn Trọc là Thiêu Tiến đánh nên tự vẫn chết, táng ở Đế Khâu (nay là huyện Bộc Dương tỉnh Hà Nam).
Lúc Tương lên kế vị, tuổi còn rất nhỏ, nhưng vì Hậu Nghệ mang quân tiến đánh, đành phải chạy đến Đế Khâu (nay là huyện Bộc Dương, tỉnh Hà Nam) rồi chạy đến Châm Quán (nay là phía đông huyện Thọ Quang, tỉnh Sơn Đông). Năm thứ 8 ông ta lên kế vị. Trợ thủ Hậu Nghệ là Hàn Trọc cùng con trai Hậu Nghệ là Bàng gia đã chỉ huy quân lĩnh giết Hậu Nghệ.
Sau đó sai con trai mình là Thiêu đem quân tiến đánh
Châm Quán. Tương thế lực yếu kém, đành phải chạy đến Đế Khâu. Lúc này, Tương đã từng đem quân đánh bại các bộ lạc Hoài Di - Phan Di - Hoàng Di... nên khi Tương chạy đến đó gặp mặt phục tùng Tương.
Năm thứ 2 Thiêu lại tiến đánh Đế Khấu. Buổi tối tiến đánh vào thành. Tương thấy tình cảnh rất khó thoát thân, đành dùng dao tự vẫn chết.
Tương chết. Hàn Trọc tự phong vương kéo dài được 40 năm. HẬU NGHỆ
Hậu Nghệ! tên gọi là Nghệ Họ Vân. Năm sinh và năm mất không rõ, là thủ lĩnh bộ lạc Hữu Cùng, tộc Đông Di, nắm chính quyền ở triều Hạ 27 năm, bị em trai là Bàng Gia dùng gậy gỗ đào đập chết.
Hậu Nghệ vẫn là thủ lĩnh thị tộc bộ lạc: Hữu Cùng, dân tộc Đông Di. Theo truyền thuyết ông ta là một tay xạ thủ cừ khôi, thời đó có 10 mặt trời, đã nung đốt cây cối khô héo, khô cằn, dân sống rất
Ô ́ ́
khổ cực. Ông ta đã dùng tên bắn rơi 9 mặt trời, còn dùng tên bắn rất nhiều thú dữ, rắn độc. Ông vì dân loại trừ tai họa. Về sau ông ta nhân cơ hội Thái Khang đi săn đã đánh chiếm đô thành Ấp An. Lập Trọng Khang làm vương, nhưng thực chất ông ta thao túng quyền hành. Sau khi Trọng Khang chết, ông ta tự mình kế vị.
Sau khi Hậu Nghệ lên nắm chính quyền, chìm đắm trong tửu sắc, du lãm, không lo liệu việc nước, bài trừ những người chính nghĩa, chính trực, dùng những người như Hàn Trọc.
Theo truyền thuyết vợ của ông ta là Hằng Nga vì không hài lòng với tác phong của ông ta nên đã lấy trộm thuốc tiên mà Tây Vương mẫu đã cho Hậu Nghệ bay về cung trăng.
Hàn trọc có dã tâm cướp quyền nên đã cùng vây cánh của em Hậu Nghệ là Bàng gia tiến đánh 1 ngày.
Hậu Nghệ sau khi đã săn Quang về cung, rượu say túy lúy, bị Bàng gia dùng cây gậy gỗ đào đập chết.
Một truyền thuyết khác cho rằng Hằng Nga lúc đó là một người đẹp, tóc đen nổi tiếng, được mệnh danh là (người vợ có mái tóc đen) Cô ta được gả cho Nhạc Chính Hậu Quỳ, sinh được 1 người con trai. Hậu Nghệ nghe tiếng cô ta đẹp sắc nước nghiêng thành. Đem quân tiến đánh Hậu Quỳ, cướp cô ta làm vợ, gọi cô ta là Hằng Nga - Thiên Nga. Cô ta gắng gượng vui cười, thực ra trong lòng rất hận Hậu Nghệ. Hàn Trọc là người gian trá đã nhìn ra tâm tưởng của cô ta, dùng trăm phương ngàn kế xúi giục cô ta lũng loạn Hậu Nghệ. Cô ta đã hợp mưu cùng Bàng gia giết chết Hậu Nghệ.
Sau khi Hậu Nghệ chết, Hàn Trọc sai người đem thi thể băm nhỏ ra rán thành miếng, bắt Hằng Nga và con trai của cô ta ăn hết. Đứa trẻ sợ hãi không dám ăn bị Hàn Trọc giết chết. Lúc này Hằng Nga mới nhìn thấy rõ bộ mặt gian trá và dã tâm độc ác của Hàn Trọc, vội lấy trộm thuốc tiên bay về cung trăng.
HÀN TRỌC
́
Hàn Trọc năm sinh và năm mất không rõ ràng, là thị dân của tộc Đông Di. Sau khi giết Hậu Nghệ đã tự xưng vương trị vì được 40 năm. Sau đó bị Thiếu Khang giết chết.
Hàn Trọc là thị dân của tộc Đông Di (nay ở Đông Bắc thành phố uy Phương tỉnh Sơn Đông) Vì tâm thuật không đứng đắn, dự định xấu xa, chuyên đặt điều gây chuyện, bị thủ lĩnh bộ lạc đuổi đi. Sau đó Hậu nghệ thu nhận ông ta. Ông ta nịnh bợ, lũng đoạn Hậu Nghệ, được lòng tin ở Hậu Nghệ nên được ủy thác cho quản lý việc nước. Về sau ông ta dùng thế lực giết chết Hậu Nghệ cướp ngôi, lại sai quân tiến đánh Châm Quán và Châm Tầm (nay thuộc Tây Nam thành phố Duy Phương tỉnh Sơn Đông). Sau này là bộ lạc của triều Hạ, làm cho triều Hạ gặp khó khăn.
Sau khi ông ta lên ngôi, đam mê tửu sắc, bà con trăm họ khốn khổ, nhân dân oán hận, về sau con trai cả của Tương là Thiều Khang Trương Thành, dưới sự trợ giúp của quân thần đã tiến đánh thành An Ấp.
Quân lính của Hàn Trọc tâm lý hoang mang, không đánh mà hàng, nhân dân mở cửa thành nghênh đón quân của Thiếu Khang vào. Thiếu Khang đánh thẳng vào cung bắt giữ Hàn Trọc. Sau khi kể tội trạng của Hàn Trọc đã khép ông ta tội chết.
THIẾU KHANG
Thiếu Khang còn có tên khác là Đỗ Khang, năm sinh và năm mất không rõ ràng, con trai của Tương tấn công và giết chết Hàn Trọc khôi phục lại triều Hạ, trị vì được 21 năm do bị bệnh chết, táng ở Dương Hạ.
Thiếu Khang là cốt nhục của Tương, lúc Tương bị truy đuổi khép vào tội chết, Thiếu Khang vẫn chưa ra đời, mẹ là Hậu Mai Thị. Lúc đó, kèm nỗi đau thương, bỏ đi sự tôn nghiêm của một vương hậu, vội vàng theo cung nữ đào 1 rách ngách chui ra ngoại chạy đến thị bộ lạc lương gia Hữu (nay ở phía đông nam thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông) Năm thứ 2 sinh hạ được Thiếu Khang.
́
Từ nhỏ Thiếu Khang là người thông minh lanh lợi. Sau khi ông ta hiểu được chuyện, mẹ ông ta nói cho ông ta biết chuyện tổ tiên bị mất nước, khuyên ông ta phải báo thù khôi phục lại triều Hạ. Từ đó ông ta nuôi chí phục thù, quyết tâm giành lại thiên hạ. Ông ta đã tập hợp quân lính, tích trữ lương thực, tập trận chiến, luôn luôn đề phòng quan sát sợ Hàn Trọc giết hại mình. Không lâu sau con của Hàn Trọc là Thiêu đem quân tiến đánh ông ta. Thiếu Khang chạy trốn được đến bộ lạc Hữu Ngu Thị (nay ở phía đông thành Ngan tỉnh Hà Nam).
Thủ lĩnh Hữu Ngu Thị cho ông ta làm quan, quản lý về lương thực, còn dạy ông ta học tập võ nghệ, và gả con gái cho ông ta, đất đai và 500 binh lính để phục vụ việc quân lấy lại thiên hạ. Lúc này Thiếu Khang đã có căn cứ và quân đội, ông ta khổ luyện việc quân, quyết chí khôi phục lại công đức của tổ tiên cố gắng tranh cướp lại ngôi vị khôi phục triều Hạ, ông triệu tập quần thần cũ đến hội họp.
Lúc này còn có một người tên là Mị vốn là hạ thần cũ của Tương. Sau khi Hàn Trọc cướp ngôi, ông ta chạy đến bộ lạc Hữu Cát Thị (nay ở huyện Đức Bình tỉnh Sơn Đông) triệu tập những người lưu vong, tích trữ lương thực nuôi quân, đợi thời cơ khôi phục lại triều Hạ. Ông ta hưởng ứng lời kêu gọi của Thiếu Khang, họp quân ở Hữu Cát Thị, hội họp ở Châm Quán, Châm Tầm, tôn phục Thiếu Khang làm vua.
Thiếu Khang sai con trai là Quý Trữ tấn công đánh con của Hàn Trọc là Dặc Ý để thăm dò lực lượng lại sai tướng Quân Nữ Nghĩa đi xem xét thực lực của quân Thiêu. Tất cả đều chuẩn bị chu đáo, nhất loạt xuất binh thế lực mạnh như thác đổ. Mưu sát Hàn Trọc, đoạt lại ngôi vị, khôi phục lại triều Hạ.
Thiếu Khang từ nhỏ đã khổ cực vất vả. Sau khi phục quốc rất chăm lo việc nước, chọn dùng người tài. Dưới sự quản lý của ông ta thiên hạ thái bình, đất nước phồn vinh, các bộ lạc đều tâm phục ông ta, triều Hạ phồn vinh cực độ. Trong sử gọi là "Thiếu Khang trung hưng"
́ ́
Vào những năm cuối đời Thiếu Khang chọn Việt (nay ở Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang) làm nơi cúng tế tổ tiên. Nơi đây là khởi điểm của nước Việt.
Sau 21 năm Thiếu Khang bị ốm chết.
TRỮ
Trữ vừa có tên là Quỹ Trữ vừa là Trữ, năm sinh và năm mất không rõ, là con trai của Thiếu Khang, nên kế vị sau khi Thiếu Khang chết, trị vì được 17 năm, bị bệnh chết, táng ở An Ấp.
Trữ là người tinh nhanh năng nổ, từng trợ giúp cha diệt thế lực Hàn Thị, phục hưng nhà Hạ. Trong thời gian kế vị, ông ta nghĩ ra cách dùng da thực làm áo giáp. Binh sĩ mặc vào có thể tránh được cung tên, đao kiếm của kẻ địch. Sức chiến đấu được bảo vệ rất tốt.
Ông ta cùng các bộ lạc Đông Di, tiếp tục tranh đấu một lòng tiến đến biên giới Đông Hải, mở rộng thêm cương vị nhà Hạ. Cuối cùng thu phục được tộc Đông Di. Ông ta được triều đình Hạ coi là vị vua nổi tiếng, xứng đáng được kế nghiệp sự nghiệp nhà Hạ.
Trữ dời đô đi đến Nguyên (nay gần huyện Ký Nguyên tỉnh Hà Nam) và lão Khâu (nay là huyện Trấn Lưu, tỉnh Hà Nam) trị vì được 17 năm ốm chết.
HÒE
Hòe còn có tên khác là Đế Phần. Năm sinh và năm mất không rõ ràng, là con trai của Trữ, lên trị vì ngay sau khi Trữ mất. Hòe trị vì được 26 năm, bị bệnh chết, táng ở An Ấp.
Hòe lên trị vì đã chinh phục được 9 bộ lạc, trú ở giữa Từ Thủy và Hoài Thủy. Viết dụ Khuyển Di - Vu Di - Phương Di - Hoàn Di - Bạch Di - Huyền Di - Phong Di - Dương Di - Xích Di mở rộng mạnh mẽ thế lực nhà Hạ.
MANG
́
Mang năm sinh và năm mất không rõ ràng, là con trai của Hòe, kế vị khi Hòe chết, trị vì được 18 năm, ốm chết, táng ở gần An Ấp.
TIẾT
Tiết còn có tên khác là Đế Giáng. Năm sinh và năm mất không rõ ràng, là con trai của Mang, kế vị sau khi Mang chết, trị vì được 16 năm, bị ốm chết, táng gần An Ấp.
Tiết trong thời gian trị vì đã sai sứ giả đến 6 tộc như Đông Di, Tây Khương... đến triều đình yết kiến. 6 tộc Di đều tiếp thu mệnh lệnh của Tiết. Điều đó nói rõ tộc Di đã thừa nhận sự thống trị của thiên hạ.
BẤT GIÁNG
ất Giáng năm sinh và năm mất không rõ, là con trai của Tiết, lên kế vị sau khi cha chết, trị vì được 18 năm, bị ốm chết, táng ở gần An Ấp.
Bất Giáng vào những năm cuối đời, vì con trai là Khổng Giáp Tinh ngang ngạnh, lo con con trai không thể quản lý được quốc gia, quyết định sửa đổi chế độ cha truyền con nối, đã truyền ngôi cho em trai là Quýnh. Cách thức nhường ngôi cho em trong sử gọi là "Nội Thiện" (nhường ngôi cho người trong nhà) Sau khi Bất Giáng nhường ngôi cho em, sống được 11 năm thì chết.
QUÝNH
Quýnh năm sinh và năm mất không rõ, là con trai của Bất Giáng. Nhận lời của anh lên kế vị, trị vì 21 năm bị bệnh chết, táng ở gần An Ấp.
CẬN
Cận còn có tên khác là Giáp. Năm sinh và năm mất không rõ là con trai của Quýnh, kế vị sau khi cha chết, trị vì 21 năm, bị bệnh ốm chết, táng ở gần An Ấp. Trong thời gian Cận trị vì, thế lực nhà Thương đã nổi lên, nhà Hạ suy yếu dần, phải lui xuống khu ́
vực Tây Hà (nay là giữa thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam và huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây).
KHỔNG GIÁP
Khổng Giám sinh và mất không rõ,là con trai của Bất Giang, cháu của Quýnh, sau khi con trai của Quýnh là Cận lên ngôi rồi chết. Ông ta tự lên kế vị, trị vì được 31 năm, ốm chết, táng ở núi Hà Sơn, phía đông Bắc huyện Diên Khánh, thành phố Bắc Kinh ngày nay. Khổng Giáp tính tình ngang ngạnh, vua lo cho ông ta không trị vì được quốc gia, đã không truyền ngôi, mà lại nhường ngôi cho em trai mình. Sau khi Quýnh chết nhường ngôi cho con trai là Cản Cận chết - Khổng Giáp mới được kế vị.
Từ khi trị vì, Khổng Giáp ăn chơi sa đọa, suốt ngày ham mê tửu sắc. Truyền thuyết nói ông ta là người sáng tác ra khúc nhạc đồng âm. Ông ta là người ma lanh quỷ quyệt, các thủ lĩnh bộ lạc liên tiếp rời bỏ triều đình. Triều Hạ rơi vào thế yếu, vì vậy trong quốc ngữ, Chu Ngữ nói Khổng Giáp làm rối loạn triều đình Hạ, 4 đời bị đứt đoạn.
Sử ký (Hạ bản ký) và "Liệt Tiên Truyền" nói: Khổng Giáp thích nuôi rồng. Anh ta nuôi 2 con rồng hung dữ, lại còn tìm 1 người sa cơ thất thế tên là Lưu Lũy đặt biệt hiệu cho anh ta là "Ngự Long Thị" sai anh ta nuôi dưỡng 2 con rồng đó.
Lưu Lũy không biết cách nuôi rồng, không lâu sau một con rồng cái đã chết. Anh ta can đảm đem con rồng đã chết rán lên đưa cho Khổng Giáp ăn. Sau khi ăn, ông ta khen món ăn đó hết lời.
Sau chuyện này Khổng Giáp không thấy con rồng cái nữa. Con rồng đực cũng buồn rầu sinh bệnh, rồi nổi giận lôi đình, Lưu Lũy sợ hãi chạy trốn mất, Không Giáp không biết làm sao lại tìm được 1 cao thủ nuôi rồng tên là Sư Môn. Sư Môn đem con rồng đó vỗ về khiến tinh thần nó hoạt bát, thần sắc nó nhanh nhẹn. Khổng Giáp rất vui mừng, nhưng Sư Môn tính bộc trực, hoàn toàn bác bỏ những lời Khổng Giáp vỗ về việc nuôi dưỡng rồng, khiến cho Khổng Giáp rất tức giận. Cuối cùng sai người giết chết anh ta, chôn anh ta ở ngoại thành. Không lâu sau sấm to, gió lớn, sau khi
́ ́
sấm sét chấm dứt, rừng núi ở ngoại thành bỗng cháy đùng đùng. Khổng Giáp tin là có ma quỷ, một mặt cho rằng đó là linh hồn Lưu Lũy tác oai tác quái, vội vàng lên xe ngựa, chạy đến nơi, chôn Lưu Lũy tạ lỗi. Trên đường trở về cung, đi được nửa đường thì chết trên xe ngựa.
CAO
ao! Năm sinh năm mất không rõ, là con trai của Khổng Giáp lên kế vị sau khi Khổng Giáp chết, trị vì 11 năm, bị bệnh ốm chết, táng ở Cảnh Nội, huyện Cách Ninh, tỉnh Hà Nam.
Cao! Trong thời gian trị vì dời đô đến Miễn Chì (nay gần phía tây huyện Miễn Chì tỉnh Hà Nam).
PHÁT
Phát con trai Cao! kế vị sau khi cha ông chết, trị vì 18 năm, bị bệnh chết, táng ở gần An Ấp.
KIỆT
Kiệt còn có tên là Đăng (Lữ Đăng) năm sinh năm mất không rõ ràng. Con trai Phát kế vị. sau khi cha chết là một người hôn quân nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, trị vì 53 năm. Nước mất bị đưa đi đày và bị đói chết, táng ở núi Ngọa Ngư (Nam Sào) nay núi Ngọa Ngư, huyện Sào, tỉnh An Huy.
Kiệt có sức khỏe vô cùng. Anh ta có thể nâng được cái mâm sắt, tính khí dã man, thường sát hại bà con trăm họ, phá hoại sản xuất nông nghiệp, thường đi chinh phạt các nước.
Năm thứ 33 sau khi lên ngôi, đem quân đi chinh phạt Hữu Thi Thị.
Hữu Thi Thị xin anh ta tha tội chết, rồi đem cống cho anh ta một mỹ nữ tên là Muội Hỷ - Kiệt si mê cô ta, nên sai làm cho cô ta nhà đẹp - Đài ngọc, giường ngọc. Có người đem dâng cho anh ta 2 bản nhạc hoang dâm vô sỉ, tất cả những thứ đó đều đổ lên đầu bà con
trăm họ. Nhân dân cực khổ vô cùng, phẫn nộ mà không dám kêu than.
Kiệt trọng những người vô dụng lẻo mép, làm hại những công thần trung lương, giết hại công dân. Kiệt rất đáng bị trừng phạt. Năm thứ 37, sau khi ông ta lên ngôi, thủ lĩnh bộ lạc Thương ở phương Đông, cử một người có đức có tài tên là Y Doãn đi gặp Kiệt. Y Doãn dùng lời lẽ hợp lý nhân đức, khuyên nhủ Kiệt, khi vắng ông ta, hiểu nỗi thống khổ của bà con trăm họ, dùng tâm để trị vì thiên hạ. Kiệt không nghe và đuổi Y Doãn đi, vào những năm cuối đời Kiệt càng hoang dâm vô độ, Kiệt sai đào một cái đầm gọi là quan đầm. Anh ta thường tụ tập nam nữ ca hát ở trong đầm một tháng không thiết triều. Thái Sử Chung Cổ khóc lóc đòi gặp, anh ta nhất định không gặp, mắng nhiếc Chung Cổ nhiều chuyện. Chung Cổ biết Kiệt không cầu cứu văn được, liền hỏi bộ lạc Thương. Đại thần Quan Long Phụng khuyên ông ta. Bệ hạ nên thức tỉnh và nghe những lời xem trọng. Quần thần nên giữ gìn sức khỏe và chú trọng việc nước thì thiên hạ mới an yên, vương triều mới ổn định. Nếu bệ hạ ăn chơi xa xỉ, giết hại bách tính, thì sẽ bị diệt vong. Bệ hạ đã làm mất đi lòng tin trong nhân dân. Bây giờ bệ hạ hãy sửa đổi tâm tính mới có thể làm thay đổi lòng người. Kiệt nghe xong rất giận quan Long Phùng và ra lệnh chém anh ta.
Như vậy Kiệt càng làm mất đi lòng tin của những quân thần nhân nghĩa.
Lúc này dưới sự lãnh đạo của Thang bộ lạc Thương ngày càng mạnh mẽ, Kiệt lo lắng bộ lạc Thương sang xâm hại mình, liền mượn cớ cầm tù Thang ở Hạ Đài (nay là Hà Nam) không lâu sau Thang có mưu kế khiến Kiệt phải phóng thích anh ta.
Sau đó dưới sự tham mưu của Y Doãn, đã đem quân đi đánh Kiệt. Đầu tiên diệt những đồng đẳng của Kiệt, tấn công hỗn Ngô quốc, sau đó bao vây tuyến đường quan trọng (nay ở phía tây huyện An Ấp, tỉnh Sơn Tây).
Kiệt biết tin sai quân đến đảo Điều. Hai bên tranh đấu, Kiệt đã lên đỉnh núi gần đó quan sát trận đấu, bỗng nhiên trời đổ mưa
́
lớn. Kiệt vội vàng chạy xuống tránh mưa, quân nhà Hạ vẫn không muốn vì Kiệt mà liều mạng lúc này cũng nhân cơ hội đó tản mát hết.
Cuối cùng không đi khống chế được, đành phải trốn chạy vào trong thành. Quân Thương ở đằng sau đuổi gấp, Kiệt không dám ở đó lâu vội vàng mang mọi thứ báu vật quý và một con thuyền nhỏ chạy trốn qua sông chạy đến Nam Sào. Sau đó bị Thang đuổi bắt được, đã giam cầm tại nơi đây.
Lúc này Kiệt hối hận và đã phải than thở "Thật đáng tiếc giá như lúc đó mình giết Thang ở Hạ Đài thì có tốt không?" Kiệt đã quen sống sung túc, ở đây lại hoang vu, không có người phục vụ, bản thân lại không quen lao động, bị đói chết ở núi Ngọa Ngưu. Một sách khác nói là chết ở núi Lịch Dương (nay ở huyện Hòa tỉnh An Huy) Cũng có sách sử nói rằng: Kiệt không bị quân Thương bắt giam, chạy đến Nam Sào bị ốm chết, triều Hạ bị diệt vong.
Tội ác của Kiệt không thể nào tha thứ. Người đời sau tranh luận có người khẳng định, có người còn hoài nghi Ôn Lặc Tất (triều Tống cho rằng) rất nhiều tội ác Kiệt không phải do Kiệt làm, mà do hậu thế đem những tội ác chất lên mình người cuối cùng triều Hạ, tạo nặn anh ta thành 1 hôn quân điển hình mà thôi.
NHÀ THƯƠNG
(Từ thế kỷ 16 trước Công Nguyên đến)
Nhà Thương là thời kỳ xã hội nô lệ ở Trung Quốc, là cơ sở tôn định cho văn minh Trung Quốc về sau này. Văn hóa đồng thau do nhân dân 2 triều Thương sáng tạo rất huy hoàng. Trong nền văn minh cổ đại thế giới chiếm 1 địa vị quan trọng.
Đời Thương có 30 vị vua, trong đó có 28 người bị bệnh chết, 1 người mất nước tự thiêu, 1 người chết trận.
THANG
Thang họ Tử tên thật là Lã, còn gọi là Võ Thang- Võ Vương Thiên Ất - Thành Thang - Thành Đường.
Trong giáp cốt văn gọi là Đường Đại Ất - Cao Tổ Ất. Năm sinh và năm mất không rõ, là thủ lĩnh bộ lạc Thương, diệt nhà Hạ và lên ngôi vua, trị vì 13 năm bị bệnh chết. Sống đến 100 tuổi, táng ở ngoại thành (nay ở phía Bắc huyện Thương Khẩu tỉnh Hà Nam).
Thang theo truyền thuyết là con cháu Đế Khố Khiết làm thủ lĩnh bộ lạc Thương triều Hạ vào những năm cuối đời. Tộc Thương dần dần phát triển mạnh, tận mắt chứng kiến vua Kiệt hung bạo tàn ác, làm mất lòng tin nhân dân, Thang quyết định diệt Hạ. Kiệt lo lắng thế lực Thang mạnh mẽ và tổn hại đến thế lực của mình liền cho gọi Thang vào triều, rồi giam cầm ở Hạ Đài. Tộc Thương đem vàng bạc đến cống hiến cho Kiệt, giành được lòng tin giữa Kiệt và Thang và được phóng thích.
Vợ của Thang có nô bộc tên là Y Doãn. Thang cho anh ta làm việc ở bếp. Y Doãn rất có tài năng để Thang chú ý đến mình, cố ý làm thức ăn có lúc hợp khẩu vị, có lúc mặn, có lúc nhạt. 1 lần Thang triệu anh ta ra hỏi, anh ta nhân cơ hội đã nói ý nghĩ của mình về việc trị nước. Thang rất kinh ngạc, biết anh ta là một nhân tài hiếm có
̀
liền bãi bỏ chức vị nô bộc cho anh ta, phong anh ta làm tể tướng. Từ đó dưới sự tham mưu của Y Doãn, Thang nung nấu ý định diệt Hạ.
Thang lấy sự nhân từ, trung hậu thu phục lòng tin của nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của quân dân. Có 1 lần anh ta đi du lịch, nhìn thấy một nông dân treo một chiếc lưới đánh cá trên cành cây, sau đó than rằng: Cho dù là chim ở trên trời hay thú ở dưới đất, phàm là chim chóc ở 8 phương 4 hướng đều bay vào chiếc lưới này. Thang nói với anh ta: Anh thật quá đáng, làm sao anh dùng chiếc lưới này để bắt thú, bắt chim được. Anh phải triệt tiêu 3 mặt, giữ lại một mặt thì mới được. Người nông dân làm theo cách đó. Thang nói tiếp: Các anh sống bên trái thì ở bên trái, sống bên phải thì ở bên phải, chỉ có chim không nghe lời tôi mới bay vào chiếc lưới này. Chuyện Thang mở lưới 3 mặt ân huệ với muông thú được truyền đi muôn nơi, dân đều khen anh ta có lòng nhân từ với bà con trăm họ, đều ủng hộ anh ta.
Thang liệt kê vô số sự hung bạo vô đạo của Kiệt, kêu gọi những nước nhỏ, phụ thuộc vào Hạ, bây giờ quay lưng với Kiệt, quay về với nhà Thương, trị vì 23 năm, bị bệnh chết, táng ở Lịch Thành (nay là thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông).
Thái Giáp! luôn được Y Doãn trợ giúp, chỉ giáo cho Thái Giáp những phép tắc của tổ tiên. Dưới sự giúp đỡ của Y Doãn Thái Giáp 2 năm đầu kế vị thực hiện rất nghiêm túc, nhưng từ năm thứ 3 trở đi không làm theo lời của Y Doãn. Thái Giáp tùy ý đưa ra những mệnh lệnh, suốt ngày hưởng lạc, mưu hại nhân dân, triều chính hỗn loạn, còn phá hoại những quy chế do tổ tông đưa ra. Y Doãn khuyên giải nhưng ông ta không nghe lời. Y doãn đành mang ông ta tới ở Đồng Quan, gần mộ của Thang (nay là phía Tây Nam huyện Yển Sư Hà Nam) một thuyết khác nói ở Đông Bắc huyện Yển Thành tỉnh Hà Nam) để ông ta tự thức tỉnh. Trong sử ký gọi là Y Doãn thả Thái Giáp.
Thái Giáp sống ở Đông Quan, bái tổ phụ Thang là "Quân vương khai quốc" vậy mà mộ tổ rất đơn giản và xấu xí. Đọc những dòng chép ở mộ lão nhân giữ mộ được rất nhiều sự
́ ́
nghiệp sáng lạn của tổ phụ, ôn lại chuyện cũ đối chiếu những hành vi, những việc làm của mình, cảm nhận đó quả là không được và càng thấy áy náy trong lòng, quyết tâm sửa đổi tâm tính. Bắt đầu
ở Đông Quan, quan tâm chú ý sự cô quạnh, Tôn Thư pháp chế vì nhân dân mà làm việc thiện. 3 năm sau, Y Doãn thấy Thái Giáp thực sự hối hận rất vui mừng, hạ lệnh cho đại thần văn võ mang quần áo mũ mão đế vương, đến đón anh ta về Bắc Đô, trả lại ngôi vị cho anh ta. Từ đó Thái Giáp lấy bài học của bản thân mình trong quá khứ để làm gương thiết triều, bàn bạc với các đại thần yêu dân, tuân thủ pháp luật của Thang đặt ra, việc trị vì thiên hạ ngày càng tốt. Triều Thương dần dần phồn vinh.
Quần thần Thái Giáp trở thành một minh quân, trong lòng rất vui mừng và viết một bài "Thái Giáp Hoàn" (bài học của
Thái Giáp) để ca ngợi anh ta gọi anh ta là Thái tông. Có một thuyết khác nói: Sau khi Trọng Nhân chết Y Doãn lên ngôi rồi mới đến Thái Giáp. 7 năm sau Thái Giáp quay về.
Y DOÃN
Y Doãn tên là Doãn Y, là trọng thần khai quốc phục vụ 5 đời vua Thương. Theo truyền thuyết sống đến 100 tuổi, chết già, táng ở Bắc, một thuyết khác vì đoạt ngôi nên bị giết chết.
Y Doãn vào những năm cuối triều Hạ, Y Doãn là gia nô của bộ lạc Tân Thị (nay thuộc phía bắc huyện Tào tỉnh Sơn Đông, một thuyết khác nói thuộc phía Đông Nam thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Ông ta là một người tài giỏi, ông ta đi theo hầu hạ con gái của Tân Thị tới nhà Hạ Thang, Thang cho ông làm đầu bếp, ông nhờ tài trí mà gây được lòng tin của Thang, Thang sai ông đến triều Hạ khuyên nhủ Kiệt tận mắt chứng kiến cảnh ăn chơi sa đọa của Kiệt ông đoán chắc triều Hạ sẽ bị diệt vong, ông quay về triều Thương nói rõ tình hình, Thang đã cử ông làm tể tưởng. Ông vạch ra những mưu lược kế hoạch cuối cùng mở cuộc chinh chiến tiêu diệt nhà Hạ một lòng một dạ phục vụ triều Thương. Sau khi Thang chết, ông lại giúp con cháu của Thang như Ngoại Bích, Trọng Nhâm, Thái Giáp... Khi Thái Giáp lên ngôi, ông đã lấy công đức của Thang và bài
́ ́
học Kiệt là hôn quân nên mất nước để nhắc nhở Thái Giáp chuyên tâm vào việc nước, trị vì tốt quốc gia. Không lâu sau, Thái Giáp lơ đãng công việc trị quốc, ông khuyên nhủ nhiều lần nhưng Thái Giáp không nghe, ông đành phải mang Thái Giáp đến Đông Quan để suy ngẫm về bản thân, còn ông tự mình nhiếp chính giải quyết công việc quốc gia.
Ba năm sau, Giáp tỉnh ngộ, ông chưa về cung và trả lại ngôi vị, còn mình vẫn làm tể tướng, tận trung báo quốc.
Sau khi Giáp chết, Y Doãn còn phụ giúp Ốc Đinh (con trai Thái Giáp). Đế vương thế kỷ nói Y Doãn phục vụ triều Thương đến đời Ốc Đinh mới chết thọ 100 tuổi. Ông ta chết cả nước để tang 3 ngày. Ốc Đinh để báo đáp công ơn của Y Doãn cả đời vì dân vì nước nên đã lấy nghi thức thiên tử để an táng ông.
Người đời sau thấy Y Doãn giúp Thang loại trừ vua Kiệt, sáng lập triều Thương, cải tạo Thái Giáp (không làm hỏng một vị vua ăn chơi sa đọa mà nhân cơ hội cướp ngôi, trước sau đều một lòng một dạ phục vụ triều Thương. Vì vậy, tôn ông là tể tướng trung kiên đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, sánh ông ngang hàng với Chu Công, Quản Trọng, Khương Thái Công...
Niêm Giám Vũ Đế Tư Mã đời Thái Khang (Tây Tấn): trong mộ Ngụy thời chiến quốc phát hiện một bộ thư tịch cổ "trực thư kí niên" có nói Thời Trọng Nhâm xảy ra chuyện Y Doãn cho Thái Giáp làm tể tướng, còn mình làm vua. Ông trị vì dưới 7 năm, Thái Giáp thoát khỏi Đông Quan và giết Y Doãn, nhưng vẫn trọng dụng con trai của Y Doãn, cung cấp cho anh ta nhà cửa ruộng vườn. Do vậy Y Doãn vẫn là trọng thần trung quân báo quốc.
Có người cho rằng: Những sự việc ghi chép trong "Trúc thư kí niên" rất đáng tin bởi giá trị tài ba lịch sử cao Thái Giáp giết Y Doãn là chuyện đáng tin, còn Y Doãn giúp Giáp chấp chính chỉ là thuyết pháp của Đạo Gia.
Ông Thôi Thuật "Triều Thanh" trong "Thương khảo tín lục" cũng có nói Thái Giáp không giết Y Doãn. Trong "Mạnh Tử" nói Thái Giáp
́ ́ ̀
hối hận, ăn năn hối lỗi, giam mình trong Đông Quan 3 năm, ngồi suy nghĩ về những điều nhân nghĩa, Thái Giáp quyết sửa đổi tâm tính làm lại cuộc đời.
Trong "Tả truyện" có nói: "Y Doãn giam Thái giáp và ông ta vẫn làm tể tướng", còn Thái Giáp quay về đô thành vẫn tin tưởng Y Doãn, đối xử với ông rất tốt. Điều đó nói rõ Thái Giáp không giết Y Doãn.
Trong "Thượng thư ở Chương Ốc Đinh" có cả công đức của Y Doãn, điều đó thấy rõ Y Doãn là người trung thực.Vì thế những ghi chép trong "Trúc thư ký niên" là sai.
Một số sách Thanh thư thời Chiến Quốc có nói chuyện quần thần giết vua đoạt ngôi, họ đều thấy lợi mà quên nghĩa, chịu sự ảnh hưởng này nên Trúc thư ký niên mới nói Y Doãn giết vua đoạt ngôi. Ông Thôi Thuật kiên quyết cho rằng Y Doãn là đại thần trung lương
ỐC ĐINH
Ốc Đinh, năm sinh năm mất không rõ. Con của Thái Giáp, kế vị sau khi cha chết, trị vì 39 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền (nay thuộc Lạc Dương, tỉnh Hà Nam).
THÁI CANH
Thái Canh, năm sinh năm mất không rõ. Con Thái Giáp, em trai Ốc Đinh, trị vì 25 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
TIỂU GIÁP
Tiểu Giáp, năm sinh năm mất không rõ. Con Thái Canh "thế biểu" lại nói là em Thái Canh, kế vị sau khi Thái Canh chết, trị vì 17 năm, táng ở Địch Tuyền.
UNG KỈ
Ung Kỉ, năm sinh năm mất không rõ. Con của Thái Canh, em của Tiểu Giáp, kế vị sau khi Tiểu Giáp chết, trị vì 12 năm, bị bệnh chết, ̀
táng ở Địch Tuyền.
THÁI MẬU
Thái Mậu, năm sinh năm mất không rõ. Con của Thái Canh, em trai Ung Kỉ. Trong giáp cốt vẫn gọi ông ta là Đại Mậu, Thiên Mậu, kế vị khi Ung Kỉ chết, trị vì 75 năm, bị bệnh chết, táng ở Nội Diễn (cách 30 dặm về phía Nam huyện Nội Diễn tỉnh Hà Nam).
Lúc Thái Mậu trị vì, đã cho Y Chế (con của Y Doãn) và Vu Hàm làm tể tướng. Việc nước thuận lợi, các nước nhỏ liên tục quy thuận, triều Thương hưng thịnh trở lại.
TRUNG ĐINH
Trung Đinh, năm sinh năm mất không rõ, còn có tên là Trọng Đinh, con của Thái Mậu, kế vị khi Thái Mậu chết, trị vì 13 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
*
Trung Đinh cho dời đô đến Ngao (nay gần thành phố Trịnh Châu tỉnh Hà Nam), một thuyết khác nói thuộc phía Đông Bắc huyện Vinh Dương tỉnh Hà Nam. Thời đó, tộc Di ở phía Đông Nam đã hưng thịnh, trong đó có Lan Di tấn công triều đình, Trung Đinh xuất quân đi đánh.
Sau khi Trung Đinh chết, anh em tranh cướp ngôi vị, tạo ra cuộc hỗn chiến liên tiếp trong 9 đời triều Thương dần đi tới suy tàn.
NGOẠI NHÂM
Ngoại Nhâm, năm sinh năm mất không rõ, em của Trung Đinh, kế vị khi Trung Đinh chết, trị vì 15 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
HÀ ĐẢM GIÁP
Hà Đảm Giáp năm sinh và năm mất không rõ, em của Ngoại Nhâm, kế vị khi Ngoại Nhâm chết, trị vì được 9 năm, bị bệnh chết.
̀ ́
Theo truyền thuyết táng ở 3 nơi + Tường (nay thuộc huyện Nội Diễn tỉnh Hà Nam) + Thang Âm (nay thuộc huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam) + Yển (nay thuộc phía Nam Sông Hoàng Thủy)
*
Lúc Hà Đảm Giáp trị vì, triều Thương đã đi tới suy vong. Ông dời đô đến Tương, mang quân đi chinh phạt tộc Lan Di và tộc Ban Phương.
TỔ ẤT
Tổ Ất, năm sinh năm mất không rõ, con của Trung Đinh, một thuyết khác nói là con của Hà Đảm Giáp, kế vị sau khi Hà Đảm Giáp chết, trị vì 75 năm, bị bệnh chết ở Địch Tuyền.
*
Tổ Ất cho dời đô đến Hình (nay là phía Đông huyện Ôn tỉnh Hà Nam).
Đã vài lần mang quân đi đánh tộc Lan Di, Ban Phương, giải trừ mọi nguy hại, vận mệnh triều Thương lại đi lên.
TỔ TÂN
Tổ Tân, năm sinh năm mất không rõ, con của Tổ Ất, kế vị sau khi Tổ Ất chết, trị vì 16 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
ỐC GIÁP
Ốc Giáp, năm sinh và năm mất không rõ, em trai của Tổ Tân, kế vị khi Tổ Tân chết, trị vì 25 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
TỔ ĐINH
Tổ Đinh, năm sinh và năm mất không rõ, con của Tổ Tân, cháu của Ốc Giáp, kế vị khi Ốc Giáp chết, trị vì 39 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
NAM CANH
Nam Canh, năm sinh và năm mất không rõ, con của Ốc Giáp, em họ của Tổ Đinh, kế vị khi Tổ Đinh chết, trị vì 25 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
Lúc Nam Canh trị vì, vận mệnh triều Thương lại đi tới suy vong, dời đô đến Yểm (nay thuộc huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông).
DƯƠNG GIÁP
ương Giáp, năm sinh năm mất không rõ, con của Tổ Đinh, kế vị khi cha chết, trị vì 7 năm, bị bệnh chết, táng ở Địch Tuyền.
BÀN CANH
Bàn Canh, năm sinh năm mất không rõ, con của Tổ Đinh, em của Dương Giáp, kế vị sau khi Dương Giáp chết, trị vì 28 năm, bệnh chết táng ở làng Tiểu Đốn huyện An Dương tỉnh Hà Nam.
*
Thời Bàn Canh trị vì, triều Thương mấy lần xảy ra nội chiến, chính trị suy đồi, quý tộc xa xỉ, vương thất mâu thuẫn gay gắt, cộng thêm vào đó thiên tai xảy ra liên miên, đối mặt với những nguy cơ nghiêm trọng đó, Bàn Canh quyết định dời đô đến Yên (là một nơi hoang vu) nhằm ngăn chặn sự ăn chơi xa xỉ của quý tộc phản đối mâu thuẫn giai cấp. Các quý tộc phản đối kịch liệt chuyện dời đô, Bàn Canh phát thông cáo bắt họ thực hiện mệnh lệnh nghiêm chỉnh. Sau khi dời đô ông chọn biện pháp cứng rắn chặn ý đồ quay về đô thành cũ của bọn quý tộc. Ông đề ra chủ trương tiết kiệm, giảm bớt xung đột, cuối cùng cũng làm yên được cục diện. Dân dã đô thành Yên trở thành một đô thị phồn vinh từ đó về sau hơn 270 năm, đô thành của triều Thương đặt luôn ở đây.
TIỂU TÂN
Tiểu Tân, năm sinh năm mất không rõ, con của Tổ Đinh, em của Bàn Canh, kế vị khi Bàn Canh chết, trị vì 21 năm, bị bệnh chết,
táng ở Yên.
Sau khi kế vị, làm cho triều Thương suy vong.
TIỂU ẤT
Tiểu Ất, năm sinh năm mất không rõ, con của Tổ Đinh, em của Tiểu Tân, kế vị khi Tiểu Tân chết, trị vì 28 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên.
VŨ ĐINH
Vũ Đinh, năm sinh năm mất không rõ, con của Tiểu Ất, kế vị khi cha chết, trị vì 59 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên, một thuyết khác nói táng ở Trường Bình huyện Thương Thủy tỉnh Hà Nam.
*
Cha của Vũ Đinh, vốn không được thừa nhận tư cách làm vua, liền đem con trai gửi vào dân dã. Vũ Đinh sống cùng với nô lệ, cày ruộng, chặt củi, do vậy ông ta có thói quen tiết kiệm thật thà. Ông có
một người bạn làm nô lệ tên là Duyệt Thuyết. Duyệt Thuyết ham học có tài, Vũ Đinh học hỏi ở anh ta rất nhiều.
Sau khi Tiểu Ất chết, nên kế vị ông ta vẫn có thói quen tiết kiệm và không quên nỗi khổ của bà con trăm họ. Ông một lòng một dạ đưa triều Thươn đi lên, ông hiểu rõ điều cốt yếu phải trọng dụng nhân tài, ông nghĩ ngay đến Duyệt Thuyết, Duyệt Thuyết đang là nô lệ bỗng chốc trở thành đại quan nên gặp phải sự phản đối mãnh liệt của quý tộc và chủ nô lệ. Vũ Đinh nghĩ ra một phương kế, trong 3 năm liền không đả động gì đến chuyện đó, sau đó mượn cớ nằm mơ thấy Thang gửi cho ông một hiền tài, và sai người căn cứ vào sự mô phỏng của ông về chân dung của Duyệt Thuyết đi tìm khắp nơi. Quan quân ở Duyệt Nham (nay thuộc Sơn Tây) phát hiện một người đang xây tường giống hệt người trong ảnh, liền đưa anh ta về kinh đô, người đó chính là Duyệt Thuyết. Vũ Đinh vui mừng, trước mắt quần thần tuyên bố bãi bỏ thân phận nô lệ cho anh ta và phong làm tể tướng. Quý tộc chủ nô mê tín tin
̀ ̀ ́
rằng có quỷ thần, nghe nói Duyệt Thuyết là người mà Thang gửi cho Vũ Đinh, không ai dám phản đối.
Dưới sự trợ giúp của Duyệt Thuyết, Vũ Đinh giải quyết tốt công việc quốc gia, giải tỏa mâu thuận, sản xuất phát triển, xã hội ổn định. Trên cơ sở đó, ông không ngừng thu phục các bộ lạc ở miền Tây Bắc như Thổ Phương, Quy Phương, Hổ Phương mở rộng lãnh thổ phát triển thế lực, chọn vùng đất Canh Chủ làm nơi dụng binh, những điều đó khiến triều Thương phát triển thành một vương triều hưng thịnh.
TỔ CANH
Tổ Canh, năm sinh năm mất không rõ, con thứ hai của Tổ Đinh, kế vị khi Tổ Đinh chết, trị vì được 7 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên.
*
Anh trai Tổ Canh tên là Tổ Kỉ, bị mẹ kế hãm hại vu cáo, nên cha đuổi khỏi kinh thành, về sau ngậm oan chết, em thứ ba là Tổ Giáp do mẹ kế sinh ra để biểu thị không muốn tranh quyền đoạt vị với anh trưởng nên âm thầm rời bỏ cung điện. Vũ Đinh chết, Tổ Canh lên kết vị.
TỔ GIÁP
Tổ Giáp, năm sinh năm mất không rõ, con thứ ba của Vũ Đinh, kế vị khi Tổ Canh chết, trị vì 33 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên.
*
Tổ Giáp không muốn tranh quyền với anh cả, đã bỏ cung điện ra đi. Sau khi Vũ Đinh chết, Tổ Canh lên kế vị ông ta mới về cung.
LẪM TÂN
Lẫm Tân, năm sinh năm mất không rõ, con trai Tổ Giáp, kế vị khi Tổ Giáp chết, trị vì 6 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên.
*
Â
Lẫm Tân, trong thời gian trị vì luôn bị các bộ lạc: Ân Phương, Đê Phương, Bì Phương công kích, ông nhiều lần đem quân đi chinh phạt và nhờ các bộ lạc về hổ thụ, đi trợ giúp nhưng không chinh phục được họ.
CANH ĐINH
Canh Đinh, năm sinh năm mất không rõ, em trai của Lẫm Tân, kế vị khi Lẫm Tân chết, trị vì 21 năm, bệnh chết, táng ở Yên.
*
Trong thời gian trị vì, mang quân đi chinh phạt các bộ lạc Ân phương, Đê Phương, Bì Phương nhưng không thu phục được.
VŨ ẤT
Vũ Ất, năm sinh năm mất không rõ. Con trai của Canh Đinh, kế vị khi cha chết, trị vì trong 4 năm bị sét đánh chết ở sông Vị Thủy, một thuyết khác nói chết trong lúc đi chinh phạt, táng ở Yên.
*
Trong thời gian Vũ Ất trị vì, thế lực của phái Vu Giáo rất mạnh, thường giỏi mượn ý trời để kiểm soát hoạt động của vua Thương. Vũ Ất luôn nghĩ cách đánh đổ quyền lực của phái Vu Giáo. Một lần, ông ra lệnh khắc một con tượng gỗ, diện mạo nghiêm túc, quan phục chỉnh tề, gọi nó là thiên thần. Và cùng thiên thần đánh bạc, ra lệnh cho một hạ thần thay thế thiên thần đánh bạc. Vị quan thần đó rất sợ Vũ Ất, luôn tìm cách thua bài. Vũ Ất chỉ vào thiên thần nói "Anh là thiên thần, vậy mà lại thua tôi" Như vậy không linh nghiệm, thật đáng tiếc khi gọi anh là thiên thần và sai người đánh tượng gỗ. Một lần khác, sai người may một chiếc túi da, bên trong đựng đầy máu thú, treo lên cành cây, rồi dùng cung tên bắn vào túi, máu bắn hết ra ngoài. Vũ Ất cười lớn nói: "Trời đã bị ta bắn thủng một lỗ."
Trải qua nhiều lần đấu tranh, thế lực của Vu Giáo bị lung lay dần dần, vương quyền lại tăng lên.
́
Lúc đó, Đê Phương và Chi Phương liên kết với nhau công kích triều đình. Vũ Ất đưa quân đi chinh phạt, bắt được mấy nghìn tù binh.
Vũ Ất đi săn ở khu vực sông Hoàng Hà và Vị Thủy theo truyền thuyết nói bị sét đánh, một số học gia cho rằng: thuyết này do phái Vu Giáo bịa đặt ra để bôi tấu ông ta. Từ những tư liệu lịch sử thấy rằng Vũ Ất thường mang quân đi chinh phạt các bộ lạc, ông bị chết trong cuộc chiến đấu với bộ lạc phương quốc.
VĂN ĐINH
Văn Đinh, năm sinh năm mất không rõ, còn gọi là Thái Đinh, con của Vũ Ất, kế vị khi cha chết, trị vì được 3 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên.
*
Trong thời gian trị vì, mang quân đinh chinh phạt tộc Quy (nay thuộc huyện Quy tỉnh Hồ Bắc).
ĐẾ ẤT
Đế Ất, năm sinh năm mất không rõ, con của Văn Đinh, kế vì khi cha chết, trị vì 37 năm, bị bệnh chết, táng ở Yên.
Thời gian này, thế lực triều Thương đã lụi tàn, tộc Di đã phát triển mạnh luôn tấn công triều đình. Tháng 2 năm thứ 9 kể từ khi lên ngôi, ông đã mang quân đi chinh phạt tộc Di, nửa đường bị đánh chặn ở Mãnh Phương (nay gần huyện Hoài tỉnh Hà Nam). Tháng 9 năm thứ hai, đã đánh xuống phía Nam và còn đến nước Du ở lĩnh vực sông Hoài Thủy. Đế Ất và vua Du hợp binh với nhau đánh tộc Di. Vào những năm cuối đời, dời đô đến Lãm (nay là làng Triều Ca huyện Kỳ tỉnh Hà Nam).
TRỤ (ĐẾ TÂN)
Trụ, năm sinh năm mất không rõ, con Đế Ất, kế vị khi cha chết, trị vì 33 năm, tự thiêu ở Triều Ca, táng ở ngoại ô Bất Minh.
́
Trụ có thân hình cao lớn, diện mạo tuấn tú, sức khỏe vô biên, có thể đánh nhau tay không với mãnh thú, thông minh lanh lợi có tài thơ văn. Ông nhiều lần chinh phạt Đông Di, bắt nhiều tù binh. Chiếm lĩnh vùng Đông Nam khiến nền văn hóa Trang Nguyên truyền tới lĩnh vực sông Hoài, Trương Giang.
Trụ là tên bạo chúa hoang dâm, sủng ái nàng Đát Kỷ, suốt ngày cùng Đát Kỷ uống rượu nghe nhạc. Ông sai đào một cái hố trong cung dưới đáy hồ, vách hồ đều lát đá cuội, trong hồ đổ đầy rượu. Cây cối xung quanh hồ đầy gấm vóc, treo trên cây thịt nướng. Ông ta cùng Đát Kỷ và tùy tùng vui chơi ca hát, khát thì múc rượi trong hồ uống, đói thì ăn thịt treo trên cây. Để phục vụ thú vui của Đát Kỷ, ông ta tùy ý chặt đầu người, cắt chân cắt tay, thậm chí lấy cả thai nhi, hung ác cực độ.
Anh cùng cha khác mẹ với ông ta là Vi Tử Hổ nhiều lần khuyên giải, bị ông ta bỏ ngoài tai mọi lời khuyên và đòi giết anh, khiến Vi Tử Hổ phải trốn khỏi kinh thành. Chú ông ta là Tất Can đến khuyên nhủ, ông ta nói: "Nghe nói tim thánh nhân có 7 lỗ, tôi muốn xem tim chú có mấy lỗ" sai người giết Tất Can móc tim ra xem. Nghe lời Đát Kỷ, ông sai người đúc một cột đồng rỗng bên trong đốt lửa, gọi là "cây đuốc", nếu quần thần nào trái ý ông ta, sẽ bị ông ta cởi bỏ quần áo và thiêu chết trên cột đồng.
Hành vi hung bạo của Trụ khiến nhân dân oán hận, người thân lìa xa. Về sau quân của Chu Vũ Vương tấn công Trụ. Lúc này, Trụ và Đát Kỷ đang vui chơi ở Lộc Đài (Triều Ca), biết tin đã sai 70 nô lệ ra nghênh chiến, hai đội quân đánh nhau ở Thụ Da (nay thuộc phía Nam huyện Kỳ tỉnh Hà Nam). Quân Chu chiến đấu dũng cảm, quân Thương vừa đánh đã chạy toán loạn. Trụ vội chạy vào thành Triều Ca, biết không có cách cứu vãn, ông quyết định tự tử. Ông ta sợ sau khi chết nhân dân sẽ phanh thây ông ta, nên ra lệnh mang thuyền ngọc lên Lộc Đài, ăn mặc chỉnh tề, đeo trang sức quý, dưới đất chất một đống cỏ, sau khi ăn xong hạ lệnh châm lửa.
Chu Vũ Vương được đón tiếp niềm nở, Chu vội vàng đến Lộc Đài, tìm được thi thể của Trụ đã cháy trụi, tuyên bố triều Thương bị diệt vong.
Tội ác của Trụ có thật nghiêm trọng như vậy không? Đời sau có nhiều cuộc tranh luận, có người khẳng định, có người nghi ngờ. Ông Ôn Lão Tất (đời Tống) bàn luận đúng sai về Kiệt Trụ cho rằng: Những tội ác của Trụ như Tây Cung thất, làm hố rượu, rừng thịt, sủng ái mĩ nhân, hại quân tử cũng giống tội ác của Kiệt. Tội ác của hai người này giống nhau. Một số điều này là do mô phỏng.
Ông Lý Tư Danh (thời Tống) trong quyển "Nhật ký hoa đào" nói: "Tội ác của Trụ tàn bạo hơn bạo chúa của hậu thế". Ông Tử Cung trong Luận ngữ Tử hương nói: "hành vi tội ác của Trụ không nghiêm trọng như trong sách vở, đó là do hậu thế đem tội ác đổ lên đầu cổ nhân, khiến Kiệt và Trụ giống nhau, trở thành nhân vật tượng trưng cho tội ác, là điển hình cho hôn quân bạo chúa
TÂY CHU
(Thế kỷ 11 TCN - năm 771 TCN)
(Tổng cộng 300 năm)
Thời Chu chia làm hai thời kỳ Tây Chu và Đông Chu. Thời Tây Chu bắt đầu tính từ khi Chu Văn Vương diệt nhà Hạ, đóng đô ở Cảo (nay thuộc bờ đông sông Phong Thủy ở phía Tây Nam thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây) đến năm 771 TCN, Thân Hậu liên kết với Khuyển Nhung giết Chu U Vương. Thời Đông Chu bắt đầu từ năm 770 TCN Chu Bình Vương dời đô đến Lạc Ấp (nay thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam), đến năm 256 bị nhà Tần diệt. Trong lịch sử gọi trước khi Chu Bình Vương dời đô là Tây Chu, từ đó về sau là Tây Chu.
Thời Tây Chu là thời kỳ phát đạt của xã hội nô lệ, tổng cộng có 12 vị vua, trong đó có 9 người chết do bệnh tật, một người bị giết do mất nước, một người bị nhân dân bạo động bắt làm tù binh đuổi ra khỏi đô thành nên chết, một người bị chết đuối do nhân dân làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có Văn Vương và Chu Công bị bệnh chết.
VĂN VƯƠNG (CƠ XƯƠNG)
(TÂY CHU)
Văn Vương, tên là Cơ Xương, năm sinh năm mất không rõ. Thời vua Trụ (Thương) làm tước bá, là người tôn định của Tây Chu. Cơ Xương làm thủ lĩnh của tộc Chu, thời vua Trụ (Thương) phong cho làm tước bá (tước thứ 3 trong 5 tước của phong kiến), còn gọi là Bá Xương. Trong quyển "Đế Vương thế kỷ" nói ông ta có tướng mạo oai hùm, thân cao 10 thốn, ngực có 4 vú. Từ nhỏ, ông ta tham gia lao động thu hoạch cùng với nông dân rất quan tâm tới nỗi thống khổ của nhân dân. Sau khi nhận chức tước bá, ông ta rất coi trọng nhân tài, lễ hiền với kẻ sĩ xem trọng nhân tài thu phục được lòng dân, rất nhiều người tài đều đến nhờ cậy ông ta. Vua Trụ thấy thế lực của ̀
ông càng ngày càng mạnh liền mượn cớ giam giữ ông ở Hữu (nay thuộc phía Tây Bắc huyện Thang Dương tỉnh Hà Nam). Cơ Xương tỏ ra rất tự nhiên không hề oán hận, ngồi nhàn rỗi ông chú tâm nghiên cứu Bát Quái, diễn hóa thành 64 quẻ quan tâm chu đáo tới mọi chuyện trong thiên hạ, là người đầu tiên viết bộ kinh thư "Chu Dịch" trong lịch sử Trung Quốc. Ông phát minh ra cái đàn 7 dây, sáng tác khúc nhạc "Bao U Thao" và thường biểu diễn. Hạ thần của ông để mua sự tự do cho ông đã phải mang mỹ nữ, ngựa tốt, châu báu đến tiến cống vua trụ, cử ông Tản Tuyên Sinh mang lễ vật đến, còn vua Trụ nhìn thấy nhiều cống vật, vả lại thấy Cơ Xương không có thái độ tức giận, oán hận khi bị giam cầm nên đã thả Cơ Cương và vẫn cho nhận chức tước bá.
Sau khi được phóng thích, ông quyết tâm xây dựng tộc Thương thành một tộc hưng thịnh ngồi đợi thời cơ sẽ diệt trừ vua Trụ, rửa mối nhục. Tuy trong tay có rất nhiều võ tướng, nhân sĩ, nhưng vẫn thấy thiếu khuyết một người có tài văn võ để thống lĩnh toàn bộ và nung nấu tìm một người như vậy.
Có một lần, Cơ Xương đi ra ngoại thành du lãm săn bắn, đi đến Bàn Khê (nơi đây thuộc một nhánh của sông Vị Thủy) thấy một ông già khoảng 70, tóc điểm bạc đang ngồi câu cá, tuy ngồi câu cá nhưng ông già lại lẩm bẩm "Có người muốn câu cá, có người muốn câu cá". Cơ Xương rất ngạc nhiên liền đi đến ngồi nói chuyện với ông già đó. Ông già am hiểu thiên văn, thông thạo địa lý, hiểu biết tình tình trong thiên hạ mang trong lòng chí lớn, đúng là một người toàn tài cả văn lẫn võ. Cơ Xương vui mừng phấn khởi, vội vàng mời ông già về cung lập làm Quốc sư và phong làm tể tướng, thống lĩnh toàn bộ về chính trị và quân sự. Ông già tên là Khương Tử Nha hay còn gọi là Khương Thái Công, Thái Công Vọng, Sư Thượng Phụ.
Dưới những mưu sách kế hoạch của Khương Tử Nha, tộc Thương đã chỉnh đốn lại nội bộ phát triển sản xuất, đề xướng lễ nghĩa, khiến cho quốc thái dân an, quân đội hùng mạnh. Sau đó đánh bại các bộ tộc như Khuyển Nhung, Mật Tu; tiêu diệt vây cánh của vua Trụ như: tộc Lê (ở phía Tây Nam thành phố Trường Trị tỉnh Sơn Tây ngày nay), tộc Hàn (nay ở phía Tây Bắc huyện Tân Dương tỉnh Hà Nam), tộc Sùng (nay ở phía Bắc huyện Tung tỉnh Hà Nam) Và đã ́ ́
chọn đất đai của tộc Sùng làm đô thành làm bàn đạp tiến công triều Thương.
Cơ Xương vào những năm cuối đời đã giành được 2/3 đất đai trong thiên hạ, phía Tây kéo đến Thiểm Tây, Cam Túc; phía Đông Bắc kéo đến (Sơn Tây) Lê Thành, phía Đông kéo đến Tâm Dương (Hà Nam). Phía Nam lấn tới lĩnh vực sông Trường Giang, sông Hán Thủy, sông Nhũ Thủy, tạo ra một thế đất thuận tiện để tiến công đô thành Triều Ca của nhà Thương, làm cơ sở vững chắc để tiêu diệt nhà Thương.
Lúc chuẩn bị chín mùi diệt nhà Thương, Cơ Xương lại bị bệnh nặng, ông ta biết mình không qua khỏi, sai gọi con trai là Cơ Phát đến dặn đúng 3 câu:
+ Câu thứ nhất là: "Nhìn thấy việc tốt, không được sao nhãng, phải tích cực làm ngay"
+ Câu thứ hai là: "Thời cơ đến, không được do dự, phải tóm bắt lấy ngay".
+ Câu thứ ba là: "Nhìn thấy việc xấu, phải tránh xa".
Vài ngày sau, ông ta từ giã cõi đời. Sau khi Cơ Xương chết, ông được lập thái miếu lấy hiệu là Văn Vương.
VŨ VƯƠNG (CƠ PHÁT)
(THỜI TÂY CHU)
Vũ Vương, tên là Cơ Phát, năm sinh năm mất không rõ, con trai thứ hai của Văn Vương nên kế vị sau khi cha mất. Trị vì được 3 năm bị bệnh chết, thọ 93 tuổi, táng ở Tất Nguyên.
*
Cơ Phát, do con trưởng của Văn Vương là Bá Ấp Khảo bị vua Trụ giết chết, vì vậy sau khi Văn Vương chết, Cơ Phát đã nên kế vị.
Sau khi nên ngôi, Cơ Phát vẫn trọng dụng Khương Tử Nha và sai hai em là Chu Công Dán, Chiêu Công Thức phụ giúp mình, chỉnh đốn lại nội bộ, tăng cường quân lực, chuẩn bị lực lượng tiêu diệt vua Trụ.
Năm thứ hai, Cơ Phát mở đại hội sứ giả ở Manh Luật (nay thuộc huyện Mãnh tỉnh Hà Nam), kiểm duyệt quân đội, đến tham gia đại hội có hơn 800 chư hầu của các vương quốc nhỏ, nhất loạt đồng tình diệt nhà Thương, do thời cơ chưa chín mùi, Vũ Vương không hạ lệnh xuất quân đánh nhà Hạ.
Hai năm sau, vào mùa xuân, thời cơ đã đến, Cơ Phát đích thân dẫn đầu 300 chiến xa, 45000 giáp binh, 3000 dũng sĩ, liên kết với quân đội của các nước nhỏ, cử Manh Luật xuất phát tấn công đánh nhà Thương, sau khi diệt nhà Thương, xây dựng nhà Tây Chu, đặt đô ở Cảo Kinh (nay là phía Tây Nam thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây), lấy hiệu là Tông Chu.
"Vũ Vương diệt Trụ" là một chuyện lớn, có ý nghĩa xuyên thế kỷ trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng câu chuyện này phát sinh từ thời gian nào? Các nhà sử học, thiên văn học từ thời Hán cho đến thời hiện đại đều có nhiều cách nói khác nhau tổng cộng phải đến 20 cách nói. Có một cách nhìn cho rằng: "Hoài Nam Tử. Binh lược huấn" nói: "Lúc Vũ Vương diệt Trụ, sao Mộc xuất hiện ở phương Đông, đồng thời còn xuất hiện sao chổi đầu hướng về phía Đông. Căn cứ vào sự xuất hiện của sao chổi Ha-Lây và thời gian nó quay về địa cầu ở thời kỳ nhà Thương, thấy 40 lần quay về trong một vòng, phát hiện được năm 1057 TCN, sao chổi Ha-Lây quay về địa cầu, hiện tượng thiên văn này hợp với ghi chép trong "Hoài Nam Tử, Binh Lược huấn", vì vậy năm 1057 TCN là năm Vũ Vương diệt Trụ. Cách nói này được nhiều học giả đồng tình.
Cơ Phát cách vài ngày sau khi diệt xong vua Trụ đã nên núi xem đô thành Triều Ca, thấy kiến trúc của Triều Ca rất hùng dũng, trong lòng nghĩ triều Thương hùng mạnh như vậy, kéo dài vô số năm, chỉ vì làm mất lòng tin của dân, trong chớp mắt đã bị diệt vong. Mà triều Tây Chu vừa mới lập, người phản đối, người coi thường còn rất nhiều, nguy cơ còn đe dọa, ông ta không ngăn được
́ ́ ̀
những ưu tư trong lòng. Để củng cố và mở rộng thế lực triều Chu. Cơ Phát đã phong chức vị và đất đai cho: Công, Hậu, Bá, Tử, Nam Ngũ, để họ lập các nước chư hầu, Khương Tử Nha phong đất ở Doanh Khâu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) làm nước Tề, Chu Công Đan phong đất ở Khúc Phụ làm nước Lỗ, Chiêu Công Thức phong đất ở Kế Khâu (nay thuộc Bắc Kinh) làm nước Yên... Để thu phục những thế lực còn sót lại ở triều Thương, Cơ Phát đã phong cho con trai của vua Trụ là Vũ Canh làm Yên Hầu, giữ lại ở đô thành Yên sai anh em quản thúc, quan sát thái độ của Vũ Canh.
Năm thứ ba sau khi lập nhà Tây Chu tình hình thiên hạ tạm ổn định, ông ta đã bị bệnh chết ở Cảo Kinh.
Sau khi chết lập miếu lấy hiệu là Vũ Vương.
THÀNH VƯƠNG (CƠ DŨNG)
(TÂY CHU)
Thành Vương, tên là Cơ Dũng, năm sinh năm mất không rõ, con trai của Vũ Vương, kế vị sau khi cha chết. Trị vì 37 năm, bị bệnh chết, thọ 50 tuổi, táng ở Tất Nguyên.
*
Lúc Cơ Dũng kế vị chỉ có 13 tuổi, do chú là Chu Công Đán nhiếp chính điều hành việc nước, an định đại cục. 7 năm sau mới chính thức điều hành việc nước, liên tiếp phong chư hầu, tăng cường việc chinh phục những vùng đất mới, củng cố sự thống trị, kiến lập chế độ vương thất nhà Chu để làm lực lượng chính. Những năm cuối đời của ông ta, nền chính trị ổn định, nhân dân yên vui an cư lạc nghiệp khắp nơi đều ca ngợi ông ta.
Về sau, lúc bị bệnh biết khó lòng qua khỏi, lo lắng con trai là Cơ Chiêu không lo được việc nước, ông đã bắt Chiêu Công và Tất Công phải hứa sẽ dùng tâm dùng đức để trợ giúp Cơ Chiêu. Từ đó, những lời ủy thác của đế vương lúc lâm chung được gọi là "cố lệnh" (mệnh lệnh bắt buộc); còn vương thất hoặc đại thần nào nhận lời
́ ̀ ̀
ủy thác được gọi là "cố lệnh đại thần" (đại thần nhận mệnh lệnh bắt buộc).
Sau khi Cơ Dũng chết lập miếu lấy hiệu là Thành Vương. CHU CÔNG (CƠ DÁN)
(THỜI TÂY CHU)
Chu Công, tên là Cơ Dán, năm sinh năm mất không rõ, con trai thứ tư của Văn Vương. Nhiếp chính 7 năm, vì củng cố sự nghiệp của nhà Tây Chu đã có nhiều cống hiến quan trọng. Bị bệnh chết, táng ở Cảo Nhiếp Đông xã Trường An (nay là thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây).
*
Cơ Dán còn gọi là Thúc Dán, vì thái ấp ở Chu (nay là phía Bắc núi Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây) nên gọi là Chu Công, ông ta tài đức kiêm toàn, đã giúp anh trai Vũ Vương diệt nhà Thương, lập nhiều chiến công lớn về sau nhận đất và làm chư hầu nước Lỗ ông đã để con trưởng là Bá Cầm đi đến đó, còn ông ở lại Cảo Kinh, trợ giúp Vũ Vương.
Vũ Vương bị bệnh nặng, thiên hạ chưa ổn định, đất nước cần thiết phải có Vũ Vương, ông đã âm thầm đi cầu xin quỷ thần, hy vọng Vũ Vương thoát khỏi bệnh tật, còn mình tình nguyện chết thay.
Sau khi Vũ Vương chết, ông dốc lòng phò trợ Thành Vương, đã nhiếp chính 7 năm.
Để củng cố vững chắc triều đình Tây Chu, ông ngày đêm ngủ không yên lo lắng cho việc nước nhà. Ông trọng đãi hiền tài, chiêu nạp nhân sĩ khắp nơi, lấy chủ trương "minh đức làm đầu".
Con trai thứ ba của Văn Vương là Quản Thúc Tiên và con trai thứ năm của Văn Vương là Thái Thúc Độ thấy Chu Công thay thiên tử điều hành việc nước, nảy sinh lòng ghen ghét đố kị, liền loan tin vu cáo, nói Chu Công có ý đồ đoạt ngôi vị. Tin xấu truyền đi khắp Cảo Kinh và đến tai Thành Vương, Khương Tử Nha, Chiêu Công
Thức... ai cũng hoài nghi Chu Công. Con trai của vua Trụ là Vũ Canh nhân cơ hội này đã xúi giục Quản Thúc Tiên và Thái Thúc Độ hợp binh đi đánh triều đình. Đối mặt với những nguy cơ nghiêm trọng, Chu Công một mặt giải thích với những người như Chiêu Công Thức, Khương Tử Nha, nói rõ mình nhiếp chính bởi tuổi tác của Thành Vương còn nhỏ chưa thể đảm nhận công việc quốc gia, thiên hạ chưa ổn định, ông một lòng một dạ vì giang sơn xã tắc chứ không phải có dã tâm đoạt ngôi. Lúc này mới cởi bỏ được mối hoài nghi của mọi người. Một mặt khác, ông bỏ ngoài tai những lời phỉ báng, thu thập lực lượng, xuất quán đi chinh chiến. Trải qua 3 năm chiến đấu gian khổ, cuối cùng giết được Quản Thúc Tiên và Vũ Canh, bắt giữ và giam cầm Thái Thúc Độ, từ đó dẹp yên được phản tặc.
Tiếp đó, Chu Công lại xây dựng ở phía Đông một đô thành gọi là Lạc Ấp (nay là thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam), đóng quân tại 8 điểm còn gọi là Thành Chu, cho những người dân sống ở thành nhà Yên Thương dời đến đó sinh sống, sai quân giám sát, lấy phương pháp dụ dỗ và đe dọa để thu phục họ.
Chu Công còn đặt mối quan hệ bang giao với các nước lân cận, phân chia ra 71 quận, bao gồm 55 người cùng họ (trong đó có 15 người là anh em với nhau), khác họ là 16 người, những người này đứng đầu các quận đó để bảo vệ vương thất. Trong mỗi quận lại đặt định chế độ trồng ruộng, thống nhất quy hoạch về ruộng đất, củng cố đẩy mạnh nền kinh tế của Tây Chu.
Lúc Thành Vương 10 tuổi, ông đã trả lại ngôi vị cho cháu, còn mình vẫn tận tâm phục vụ, tĩnh tâm sáng lập ra chế độ điền chương lễ nhạc của triều Chu. Những đóng góp của Chu Công về phương diện: chính trị, tư tường, kinh tế, văn hóa... đã góp phần củng cố sự vững chắc của nền kinh tế, chính trị, văn hóa trong xã hội nô lệ Tây Chu và đưa nó ngày một phát triển hùng mạnh. Do ông có nhiều công tích và có nhân cách cao thượng trong lịch sử đã tôn ông làm thánh nhân sánh ngang hàng với: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Tử...
Chu Công sau khi trả lại ngôi vị cho Thành Vương, được một thời gian thì lâm bệnh chết, sau khi chết lấy hiệu là Văn.
Ê
KHANG VƯƠNG (CƠ CHIÊU)
(TÂY CHU)
Khang Vương, tên là Cơ Chiêu, năm sinh năm mất không rõ, con trai của Thành Vương nên kế vị sau khi Thành Vương chết. Trị vì 26 năm, bị bệnh chết, táng ở Tất Nguyên.
*
Lúc Cơ Chiêu nên kế vị, Chiêu Công, Tất Công tổ chức lễ đăng quang cho ông rất long trọng. Chiêu Công, Tất Công còn dẫn đầu các chư hầu đưa Cơ Chiêu đến tổ miếu, nói cho Cơ Chiêu biết sự nghiệp huy hoàng của Văn Vương Vũ Vương. Đồng thời còn viết một bản tấu trình khuyên răn Cơ Chiêu cần phải tiết kiệm yêu dân, chú trọng quản lý quốc gia, giữ gìn sự nghiệp của tổ tiên.
Thời gian Cơ Chiêu trị vì, không ngừng đi chinh phạt các vùng đất: Quỷ Phương (nay thuộc phía Tây Bắc tỉnh Thiểm Tây) và vùng đất Đông Nam, bắt giữ nhiều nô lệ, thu được nhiều đất đai ban thưởng cho các chư hầu, đại phu. Có một lần trong cuộc đại chiến, quân Chu đã bắt được hơn 13000 quân lính của Khuyến Nhung. Để
chúc mừng thắng lợi, Cơ Chiêu đã tặng cho quý tộc Mãnh (người tham gia cuộc chiến) hơn 1700 tù binh, và đã sai các nô lệ đem chuyện chiến thắng khắc nên đỉnh đồng. Chiếc đỉnh đồng này nặng hơn 500 cân, được khai quật vào trung kỳ triều Thanh, hiện nay được trưng bày ở viện bảo tàng lịch sử Trung Quốc (Bắc Kinh).
Trong thời gian Cơ Chiêu trị vì, quốc gia hùng mạnh, thiên hạ thống nhất, kinh tế văn hóa phồn vinh, xã hội ổn định, sử sách nói "hình phạt 4 phương trong 10 năm trời không cần dùng đến". Đạo gia gọi thời kỳ thống trị của Thành Vương những năm cuối và thời kỳ của Khang Vương là "sự thống trị của Thanh - Khang"
Sau khi Cơ Chiêu chết lập miếu gọi là Khang Vương. CHIÊU VƯƠNG (CƠ HÀ)
(TÂY CHU)
́
Chiêu Vương, tên gọi là Cơ Hà, năm sinh năm mất không rõ, con trai của Khang Vương, nên kế vị sau khi Khang Vương chết. Trị vì 19 năm vì mưu hại bà con trăm họ, bị chết đuối, táng ở núi Thiếu Thất (nay là núi Thiếu Thất huyện Đãng Phong tỉnh Hà Nam).
*
Cơ Hà từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, sau khi nên ngôi thiếu những đại thần trung lương trợ giúp, vì vậy cuộc sống nhanh chóng xa vào con đường hư hỏng xa đọa. Ông ta rất yêu thích những loài hoa cỏ kỳ lạ chim muông cầm thú, không ít người thường dựa vào sở thích của ông ta, hôm nay cống con chim này, mai tiến con thú khác, dựa vào đó mà thăng quan tiến chức. Có lúc, Cơ Hà nghe được ở nơi nào đó có những con chim lạ thú quý, lập tức đi tới đó săn bắt còn công việc triều chính cứ mặc kệ. Những điều đó đã làm lung lay nền chính trị, quốc gia đi tới suy vong, có một số chư hầu không còn nghe mệnh lệnh của ông ta, không cống hiến lễ vật. Chiêu Vương rất hồ đồ, liền mang quân đi chinh phạt họ, làm hao tốn tiền của.
Năm thứ 19 sau khi Cơ Hà nên ngôi, hạ thần của ông ta dang biểu nói: Bộ lạc Việt Thưởng Thị ở phương Nam có một loại chim quý: lông màu trắng, thịt của nó ăn rất thơm, con chim đó là chim bạch hạc.
Thời Thành Vương, bộ lạc Việt Thưởng thường mang đến cống tiền, bây giờ nước Sở ở phương Nam có thế lực ngày càng mạnh không còn nghe lời của bệ hạ giao thông cản trở, bộ lạc Việt cũng không mang lễ vật đến cống tiến. Cơ Hà tức giận vô cùng, lập tức dẫn quân đi chính phạt nước Sở, trên đường đi, ông ta ép buộc nhân dân vận chuyển lương thực, dùng thừng kéo thuyền, lương thực và rượu thịt phải cống cho quân đội, và ông ta toàn dùng thuyền của ngư dân để vận chuyển, sau khi dùng xong còn đánh chìm những chiếc thuyền đó. Nhân dân ai cũng oán thác ông ta.
Cơ Hà qua sống Hán Thủy, tiến công đô thành Đan Dương của nước Việt (nay thuộc huyện Chi Giang tỉnh Hồ Bắc), nhiều lần tấn công mà không đánh thắng. Vừa hay, vua Sở lo lắng nếu đánh không được Cơ Hà sẽ gặp hậu họa liền sai người đến xin nhận
́
tội. Cơ Hà mắng vua Sở một trận, thừa cơ vơ vét tài sản nước Sở, ăn mừng chiến thắng và quay về cung.
Cơ Hà trên đường về vừa du lãm vừa săn bắn về đến bờ sông Hán Thủy, lại ra lệnh cho quân lính cướp thuyền của ngư dân. Những ngư dân kín đáo chọn ra mộ số thuyền, đục thủng rồi dùng keo nước dán kín lại và còn dùng những hình vẽ nhiều màu sắc trang trí thuyền, cho quân lính của Cơ Hà mang những chiếc thuyền đó đi. Quân của Cơ Hà dùng thuyền qua sông, chất nên thuyền rất nhiều thứ: ngựa, xe, của cải. Thuyền đến giữa sông, keo nước bị bung ra, những miếng ván đóng thuyền cũng từ từ tản ra, thuyền từ từ chìm xuống. Cơ Hà và các tùy tùng chơi vơi giữa dòng sông. Cơ Hà không biết bơi, ăn mặc lại lụng thụng, vẫy vùng một hồi rồi cũng từ từ chìm xuống. Phu xe của ông ta may mắn hơn bơi được vào bờ, chạy đi gọi mọi người tới cứu. Trên mặt sông nổi nên rất nhiều thứ: người, ngựa, vật chất... không dễ gì lọt qua những thứ đó để đến chỗ Cơ Hà, và khi kéo được ông ta vào bờ thì cũng không còn hy vọng gì. Các đại thần thấy ông ta chết như vậy thì không có thể diện gì, không dám công bố rõ sự việc mang ông ta an táng công báo bị bệnh chết.
Sau khi chết lập miếu đặt hiệu là Chiêu Vương.
MỤC VƯƠNG (CƠ MÃN)
(TÂY CHU)
Mục Vương, tên là Cơ Mãn, năm sinh năm mất không rõ, con trai của Chiêu Vương, kế vị sau khi Chiêu Vương chết, trị vì 55 năm, thọ 105 tuổi, táng ở ngoại thành phía Tây Nam thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây.
*
Lúc Cơ Mãn nên trị vì đã 50 tuổi. Theo truyền thuyết Cơ Mãn trong thời gian trị vì, ra lệnh cho Phủ Hậu đặt định ra bộ hình mới, lại xuất quân chinh phạt nước Sở. Về sau lại liên minh với Sở đi tiêu diệt Khuyển Nhung bắt được 5 vương thất của Khuyển Nhung, bắt một số bộ lạc của Khuyển Nhung dời đến Thai Nguyên (nay thuộc
phía Tây Nam tỉnh Sơn Tây) mở ra con đường thông thương Tây Bắc.
Thư tịch cổ "Mục Thiên Tử truyền" đào được ở thời Tần có ghi chép về chuyện Cơ Mãn đi chinh phạt ở miền Tây.
Cơ Mãn chọn được con ngựa chạy nghìn dặm, mang 7 đội dũng sĩ, và thường châu báu ngọc ngà cho những ai có công, đi từ phía Bắc đến khu vực Nội Mông Cổ rồi hướng tới phía Tây, đi qua nhiều núi sông thuộc Tân Cương, đến được vương quốc của Tây Vương Mẫu, được Tây Vương Mẫu đến tiếp long trọng. Bà ta mở tiệc chiêu đãi, kết tình bằng hữu và dẫn ông ta nên núi Diễn ngắm cảnh phương xa. Ông ta đã khắc trên đỉnh núi dòng chữ: "Vương quốc của Tây Vương Mẫu", cùng với Tây Vương Mẫu trồng một cây Hòe làm kỷ niệm. Sau đó từ phía Tây tiến đến Cao nguyên Đại Khoáng, sau khi săn bắt được nhiều chim muôn cầm thú quý, quay về phía Đông rồi mới về Cảo Kinh.
Lịch trình đi tuần về miền Tây của Cơ Mãn là hơn 2 năm, đi được hơn 35000 dặm, trong lịch sử đây là chuyến đi lớn. Đi qua nhiều nước bang giao, được nhân dân đón tiếp nhiệt tình chu đáo. Điều này nói rõ những địa vực của Trung Quốc thời đó đã tương đối bao la. Dân tộc Hoa Hạ ở Trung Nguyên và các bộ lạc ở miền Tây rất sớm đã có mối quan hệ bạn bè, gắn bó mật thiết cùng nhau sáng tạo ra văn minh Trung Quốc.
Cơ Mãn bị bệnh chết ở Nam Trịnh (nay huyện Vị Nam tỉnh Thiểm Tây)
Sau khi chết lập miếu đặt hiệu là Mục Vương.
CUNG VƯƠNG (CƠ Y HỘ)
(TÂY CHU)
Cung Vương, tên là Cơ Y Hộ, năm sinh năm mất không rõ, con trai của Mục Vương, nên kế vị sau khi Mục Vương chết, trị vì 12 năm, bị bệnh chết, táng ở Tất Nguyên.
*
Thời gian Cung Vương trị vì, quốc gia không còn giàu có kinh tế dần dần đi xuống. Để biểu thị thưởng phạt phân minh, Cung Vương lấy đất đai gần đô thành chia cho các chư hầu và đại phu, còn lãnh thổ của mình ngày càng ít đi, triều Chu bị suy thoái dần dần.
Sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Cung Vương. Ý VƯƠNG (CƠ KIÊN)
Ý Vương, tên là Cơ Kiên, năm sinh năm mất không rõ, con của Cung Vương, nên trị vì sau khi Cung Vương chết, trị vì được 10 năm bị bệnh chết, táng ở ngoại ô Bất Minh.
Cơ Kiên tính tình nhu nhược, sau khi kế vị làm cho nền chính trị ngày càng thối rữa, thế lực ngày càng suy tàn. Bị Khuyển Nhung tấn công, ông ta phải dời đô đến Hóe Lý (nay là phía Đông Nam huyện Hưng Bình tỉnh Thiểm Tây).
Sau khi ông ta chết, lập miếu đặt hiệu là Ý Vương.
HIẾU VƯƠNG (CƠ TỊCH PHƯƠNG)
(TÂY CHU)
Hiếu Vương, tên là Cơ Tịch Phương, năm sinh năm mất không rõ, em trai của Cung Vương chú của Ý Vương, sau khi Ý Vương chết đã đoạt ngôi, trị vì 10 năm, bị bệnh chết, táng ở ngoại ô Bất Minh.
*
Ý Vương bị bệnh chết, đáng lý ra phải do con trai ông ta là Cơ Nhiếp nên kế vị, nhưng Cơ Hạ nhu nhược bất tài, Cơ Tịch Phương nhân cơ hội liền đoạt ngôi.
Sau khi Cơ Tịch Phương nên ngôi, một lòng một dạ phục hưng lại triều Tây Chu. Ông ta chỉnh đốn lại quân đội, ở giữa khu vực thảo nguyên Vạn Thủy và Vị Thủy mở ra một chợ lớn, chiêu mộ mọi người
quyên góp vàng bạc để nuôi ngựa, có một người quyên góp tên là Phi Tử, đàn ngựa của anh ta béo tốt đẹp mã, một năm lại đây, số ngựa tăng nên rất nhiều. Cơ Tịch Phương rất hài lòng, liền phong cho
anh ta mấy dặm ở Tần (nay thuộc thành phố Thiên Thủy tỉnh Cam Túc) và cho làm quốc quân, đây là nơi phát nguyên ra triều Tần sau này thống nhất Trung Quốc. Nhưng lý tưởng của ông ta là phục hưng lại triều Tây Chu chưa thực hiện được thì bị bệnh chết.
Sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Hiếu Vương. DI VƯƠNG (CƠ NHIẾP)
(TÂY CHU)
Di Vương, tên là Cơ Nhiếp, năm sanh năm mất không rõ, con của Ý Vương, cháu của Hiếu Vương nên kế vị sau khi Hiếu Vương chết, trị vì 30 năm, bị bệnh chết, táng ở ngoại ô Bất Minh.
*
Cơ Nhiếp là con của Ý Vương, sau khi Ý Vương chết, đúng ra phải do ông ta kế vị, nhưng vì nhu nhược bất tài bị chú cướp ngôi, Sau khi Hiếu Vương chết, các chư hầu mới chiếu theo di liệt của cha ông ta, lập ông ta làm vua.
Ông ta đối đãi với các chư hầu rất tử tế, trước đây khi thiên tử đứng trên lễ đường, các chư hầu phải quỳ lạy lễ bái, nay ông ta đổi lại khi thiết triều chỉ cần lui lại vài bước mà thôi.
Trong thời gian trị vì, Khuyển Nhung nhiều lần tấn công ông ta, Cơ Nhiếp mang quân đi dẹp, đều không dẹp yên.
Năm thứ 30, sau khi nên kế vị, bị ốm đã lập Cơ Hồ làm thái tử. Sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là Di Vương.
LÊ VƯƠNG (CƠ HỒ)
(TÂY CHU)
̀ ́
Lệ Vương, tên là Cơ Hồ (? TCN - 828 TCN) con của Di Vương, kế vị sau khi Di Vương chết, trị vì 37 năm. Trong cuộc nổi dậy của nhân dân, bị đuổi khỏi kinh đô, về sau do buồn thảm mà chết ở Chế (nay huyện Hoắc tỉnh Sơn Tây).
Sau khi Cơ Hồ nên kế vị, cho rằng cha mình đối đãi với các chư hầu đại phu quá khoan dung hòa nhã, ông ta quyết định dùng phương pháp cứng rắn để chấn chỉnh lại họ. Không lâu sau, ông ta mượn cớ thiêu chết Tế Ai Công.
Cơ Hồ hám của thích lợi, tìm trăm nghìn cách bức hại nhân dân. Có một đại thần tên là Vinh Di Công, theo lời giáo huấn của Lệ Vương đã vơ vét tài sản của giang sơn xã tắc, nhưng tài sản này mang trả Cơ Hồ, không hề quan tâm tới sự mưu sinh của nhân dân, Cơ Hồ rất hài lòng với cách làm của Di Công, và còn bắt các đại thần khác phải vơ vét tài sản nhân dân dâng cho ông ta.
Nhân dân bị bức hại, bốn phương đều oán hận Cơ Hồ sai một viên quan đi giám sát, nơi nào dân không cống nộp đủ thì giết chết. Về sau, những người dân nào dám kêu ca cũng bị giết, khiến cho bạn bè người thân đi ngoài đường cũng không dám chào nhau, khiến đô thành biến thành một nơi trầm mặc u ám. Cơ Hồ rất đắc chí dương dương tự đắc nói: "Tôi đã có cách dạy dỗ trăm họ khiến họ không dám phỉ báng tôi". Đại thần Chiêu Công khuyên giải ông ta: "Bịp mồm bịp miệng nhân dân như vậy giống như lấp một cái hố nước giống như một cái đê vỡ sẽ tạo ra nạn lụt, mồm của nhân dân bị bịt lại, nguy hiểm giống như nước hồ. Trị thủy phải dùng phương pháp khơi dòng, trị dân cần phải cho họ tự do phát biểu, sau đó thu nạp những ý kiến tốt Bệ hạ trị vì thiên hạ sẽ không gặp điều xấu". Cơ Hồ không nghĩ như vậy, ông ta nói: "Tôi đường đường là tiên tử, một số ngu dân đó không biết gì chỉ có thể tôn phục mệnh lệnh của tôi, làm sao có thể để họ tự do bàn luận".
Ông ta vẫn đàn áp nhân dân.
Một ngày năm 841 TCN, nhân dân trong đô thành cùng nhau nổi dậy, họ dùng gậy gỗ cuốc xẻng làm vũ khí, từ khắp nơi đổ về hoàng cung đòi Cơ Hồ phải trả nợ máu. Nghe được tin này, ông ta tức giận
̀
vô cùng, sai quân đi đàn áp. Các hạ thần quỳ lạy nói: "Quân lính Triều Chu toàn làm nông nghiệp, nông dân chính là binh lính và binh lính chính là nông dân. Bây giờ nông dân bạo động thì có thể tập hợp được ai". Cơ Hồ biết lúc này là họa lớn rơi vào đầu, hoang mang chạy trốn khỏi hoàng cung, men theo phía Đông Bắc sông Vị Thủy, ngày đêm không nghỉ chạy đến Trệ một nơi cách xa kinh thành, dựng một ngôi nhà sống ở đó.
Những cư dân trong đô thành dưới sự khuyên giải của Chu Công, Chiêu Công cuối cùng cũng nguôi giận tản đi hết. Chu Công và Chiêu Công theo lời đề nghị của các quý tộc, tạm thời điều hành việc nước những chức vụ quan trọng do sáu người đảm nhận chính thể này gọi là cộng hòa.
Cuộc bạo động của nhân dân, trong lịch sử Trung Quốc gọi là "quốc nhân bạo động" năm này trong lịch sử gọi là "cộng hòa nguyên niên". Từ đó, lịch sử Trung Quốc bắt đầu có niên đại chính xác để có thể tham khảo.
"Quốc dân bạo động" có sức đánh đổ được vương triều chế độ nô lệ Tây Chu, làm dao động sự thống trị của chủ nô lệ Tây Chu, Tây Chu càng nhanh chóng đi tới suy vong, dần dần lộ ra cục diện li tàn.
Sau khi Cơ Hồ chạy đến Trệ, sai Đơn Bá quay về kinh nghe ngóng tin tức. Thấy bạo động đã được dẹp yên, chuẩn bị đón Cơ Hồ về cung. Nhưng nhân dân rất hận Cơ Hồ, nhất quyết không cho
ông ta quay lại Chu Công, Chiêu Công Bá lại một lần nữa khuấy động nỗi hận của nhân dân, bạo động lại nổi nên phải tiêu tan ý nghĩ đón ông ta về cung. Đan Bá quay về Trệ nói rõ sự tình, Cơ Hồ không còn cách gì đành phải định cư ở Trệ. Đất Trệ ở bên bờ sông Phần vì thế người thời Chu còn gọi ông ta là Phần Vương. Cơ Hồ đến đây làm ruộng, trong chốc lát mất đi chức vụ Thiên tử, mỗi năm Chu Công, Chiêu Công lại sai người mang quần áo, đồ dùng hàng ngày giúp ông ta sinh sống. Ông ta nghĩ lại những ngày sống xa hoa, buồn rầu quá độ, cuối cùng bị bệnh chết sau 14 năm sống ở đất Trệ.
́ ́
Sau khi ông ta chết, lập miếu đặt hiệu là Lệ Vương. TUYÊN VƯƠNG (CƠ TĨNH)
Tuyên Vương, tên là Cơ Tĩnh (? TCN - 782 TCN) con của Lệ Vương, kế vị sau khi Lệ Vương chết, trị vì 46 năm, bị trúng gió chết, táng ở ngoại ô Bất Minh.
*
Cơ Tĩnh, con của Lệ Vương, được ông ta phong cho làm thái tử. Lúc nhân dân bạo động, Cơ Tĩnh nghe tin phải trốn vào nhà Chiêu Công, nhân dân biết được bao vây quanh nhà, yêu cầu Chiêu Công giao Cơ Tĩnh cho họ. Chiêu Công khuyên giải mọi người không nên gây phiền hà cho thái tử, họ nhất định không nghe, xông vào nhà tìm giữ Cơ Tĩnh. Chiêu Công vội chạy vào phòng, ra lệnh cho con trai mình đổi quần áo cho thái tử đau khổ mang con trai giao cho nhân dân. Tất nhiên họ không biết đây là Thái tử giả, liền giết chết. Cơ Tĩnh nghe lời Chiêu Công đã trốn đi, sau khi Lệ Vương chết, Chu Công, Chiêu Công lợi dụng mê tín đã làm nguôi nỗi phẫn nộ của dân, gọi Cơ Tĩnh nên kế vị.
Cơ Tĩnh xuất thân trong hoạn nạn, lấy bài học của cha làm gương. Thời kỳ đầu nên trị vì ông ta khiêm tốn chân thật. Chú trọng vào công việc quốc gia. Trong chính trị không độc đoán chuyên quyền, có việc gì đều cùng các hạ thần bàn bạc. Trên cái đỉnh "Mac Công" được đúc bằng đồng còn ghi chép về ông ta, nói rõ những mệnh lệnh do ông ta đưa ra, tất phải có chữ ký của Mac Công mới được gửi đi. Ông ta chỉnh đốn chính trị, ra lệnh cho các quan sứ không được ham tài của, uống rượu, áp bức nhân dân. Trong kinh tế, ông bãi bỏ chính sách nộp thuế do cha ông đưa ra (thời cha ông còn sống), phóng khoáng đối với sự khống chế giang sơn xã tắc. Ông tuyên bố phế bỏ chế độ ruộng đất của nô lệ, cho phép đem ruộng công chia cho nô lệ để họ cày ruộng và nộp thóc vác những vụ thu hoạch. Trong quân sự, để giải trừ những mối nguy hiểm từ các dân tộc thiểu số, và cũng để trấn giữ những tuyến đường quan trọng, ông đã ra lệnh cho các đại thần: Quan Cát Phụ, Nam Trọng mang quân đi trấn giữ những nơi hiểm trở ở Tây Bắc, chinh phạt:
Du Nhung ở phương Đông, Sở ở phương Nam và Nhung ở phương Tây. Ông sai Chu Vũ Vương, Chu Thành Vương làm chư hầu bảo vệ vương thất. Ông giao đất cho em trai ở Trịnh (nay thuộc phía Đông huyện Hoa tỉnh Thiểm Tây), đây chính là nước Trịnh về sau này; giao đất cho Thân Bá ở tạ (nay thuộc huyện Nam Dương tỉnh Hà Nam).
Một số biện pháp này tạm thời làm nguôi mâu thuẫn trong và ngoài, sự thống trị của vương triều Chu đã được củng cố, sử sách gọi là "Tuyên Vương trung hưng" (hưng thịnh thời Tuyên Vương). Kỳ thật, bên ngoài có vẻ được phục hưng lại, nhưng bên trong các mâu thuẫn trong nội bộ vẫn phát triển. Có chư hầu không còn bảo vệ vương thất. Có chư hầu dẫn quân làm loạn. Ghi chép trên đỉnh đồng thời đó có nói Ngạc Hầu là đại thần triều Chu đã liên hợp với Đông Di và Hoài Di tấn công nhà Chu, đánh đến gần Thành Chu (nay là thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam), Cơ Tĩnh dốc toàn lực lượng ra ngăn chặn, quân nhà Chu chỉ dậm chân tại chỗ không đẩy lui được quân địch, đành phải mượn lực lượng của một số chư hầu. Điều đó nói rõ sức chiến đấu của quân Chu đã suy yếu. Hiệu kỳ thời gian Cơ Tĩnh trị vì, chiến tranh với bên ngoài luôn bị thất bại. Năm 789 TCN quân Chu đánh Khương Nhung, chiến đấu ở Thiên Miếu (nay phía Nam huyện Giới Hưu tỉnh Sơn Đông), quân Chu thất bại. Cơ Tĩnh suýt bị bắt.
Cơ Tĩnh vào những năm cuối đời, tính tình cố chấp không chịu nghe những lời can gián, để thể hiện oai phong của mình, ông ép nước Lỗ phế trưởng lập thứ người Lỗ không chịu, ông xua quân đến đánh, làm nước Lỗ rơi vào tình thế hỗn độn. Hơn nữa phá hoại chế độ tông pháp của triều Thương là truyền ngôi cho con trưởng, gây ra sự bất hòa giữa những người thân với nhau, các chư hầu càng không hài lòng về Cơ Tĩnh. trong mối quan hệ vua tôi, ông ta cũng thường gây ra những chuyện vô lý. Có một lần, đại phu Đỗ Bá chỉ vì một chuyện nhỏ làm Cơ Tĩnh bực mình, ông ta ra lệnh giết Đỗ Bá. Bạn của Đỗ Bá là Tả Gia vội quỳ xuống xin ông ta tha cho Đỗ Bá. Ông ta càng tức giận, nói: "Nhà ngươi chỉ biết có bạn không biết có quân vương, đạo lý này là đạo lý gì vậy? Tả Gia trả lời: "Vua có lý của vua, quân thần phải phục tùng quân vương, bạn có lý của bạn, thần phải giúp đỡ bạn. Bây giờ, tội của Đỗ Bá không đáng phải chết, vì vậy ̀ ́
thần xin đại vương đừng giết Đỗ Bá" Cơ Tĩnh càng tức giận gào nên: "Ta sẽ giết Đỗ Bá, xem ngươi có thể làm gì được?" - Tả Gia trả lời: "Hạ thần nguyện cùng chết với Đỗ Bá". Cơ Tĩnh nói: "Ta không muốn ngươi chết, xem ngươi làm cách gì để chết cùng Đỗ Bá". Nói xong sai lính chém chết Đỗ Bá. Tả Gia vừa tức vừa hận, về nhà tự vẫn. Cái chết của Đỗ Bá, Tả Gia gây ra sự hoang mang và hỗn loạn trong quần thần.
Sau chuyện này, Cơ Tĩnh bình tĩnh trở lại thấy mình làm như vậy thật quá đáng, ăn năn hối hận, nhưng không dám nói ra, tâm thần bất an, sinh bệnh trầm uất. Không lâu sau, bệnh của ông ta đỡ đi phần nào, liền cùng quần thần đi du lãm. Trên đường đi, đột nhiên ông ta kêu to một tiếng, ngã ra đằng sau, hôn mê bất tỉnh. Mọi người vội vàng đưa ông ta về cung, chạy chữa thuốc men, vài ngày sau ông ta chết. Về sau, loan truyền một thuyết khác nói: Cơ Tĩnh lúc đi săn, đột nhiên nhìn thấy Đỗ Bá, đứng ở bên trái đường đi, mặc quần áo, đội mũ màu đỏ, tay cầm một chiếc cung màu đỏ, giương tên bắn Cơ Tĩnh. Điều này tất nhiên là mê tín. Có thể Cơ Tĩnh chết do bị trúng gió, cũng có người nói Cơ Tĩnh do đi chinh phạt bị thất bại buồn rầu mà chết.
Sau khi ông ta lập miếu đặt hiệu là Tuyên Vương.
U VƯƠNG (CƠ CUNG NIẾT)
U Vương, tên là Cơ Cung Niết (? TCN - 771 TCN), con của Tuyên Vương, được lập làm thái tử, nên kế vị sau khi Tuyên Vương chết. Trị vì 11 năm. Mất nước, bị Khuyển Nhung đuổi và giết ở chân núi Li Sơn (nay thuộc phía Đông Nam huyện Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây) táng ở chân núi Li Sơn.
*
Cơ Cung Niết lúc lên kế vị, cục diện chính trị không ổn định, cộng thêm vào đó là thiên tai xảy ra liên tiếp, nhân dân sống lang thang không chốn nương thân, sản xuất đình trệ, quốc gia suy tàn. Cơ Cung Niết không quan tâm chú ý tới mối nguy hiểm đe dọa triều Chu, hung bạo cường quyền, thêm vào đó trọng dụng những
́ ́
kẻ bất tài như Quốc Thạch Phụ, hãm hại nhân dân, đẩy tăng thêm mâu thuẫn giai cấp, mang quân đi chinh phạt khuyển bị thất bại lớn.
Cơ Cung Niết sinh hoạt dâm ô, sủng ái quý phi Bao Tự. Bao Tự khi cống tiến vào cung không hề nở một nụ cười, Cơ Cung Niết tìm đủ mọi cách mua được nụ cười của cô ta, ông ta trao giải thưởng, ai làm cho Bao Tự cười sẽ thưởng 2 nghìn lạng vàng. Quốc Thạch Phụ hám lợi đưa ra một kế đốt lửa báo động cho các chư hầu.
Hóa ra, triều Chu đề phòng bị sự xâm lược của Khuyển Nhung, ở trên núi Li Sơn có xây một đài lửa báo động, mỗi khi Khuyển Nhung tiến đánh, sẽ châm lửa báo động, những đài lửa gần đó cũng được châm nên, báo cho các chư hầu xung quanh biết. Các chư hầu thấy lửa cháy biết kinh thành có biến thiên tử gặp khó khăn, sẽ mang quân đến cứu viện. Kế sách của Quốc Thạch Phụ được Cơ Cung Niết chấp nhận, khi đài lửa được đốt nên các chư hầu vội vàng xuất binh ứng cứu. Đến chân núi Li Sơn, không hề thấy bóng dáng quân Khuyển Nhung chỉ thấy Cơ Cung Niết và Bao Tự đang ngồi uống rượu nghe nhạc. Ông ta sai người giải thích cho các chư hầu nghe và bảo họ quay về nhà. Các chư hầu biết mình bị lôi ra làm trò đùa, tức giận vô cùng, vỗ tay cười lớn. Cơ Cung Niết vui mừng khôn siết, thưởng vàng cho Quốc Thạch Phụ.
Không lâu sau, ông ta phế bỏ hoàng hậu và thái tử, lập Bao Tự và con trai cô ta nên làm hoàng hậu; và ra lệnh tước bộ địa vị của Thân Hầu (là cậu của thái tử) chuẩn bị mang quân đi đánh Thân Hầu. Thân Hầu liên kết với Khuyển Nhung ở miền Tây đầu tiên chỉ chống đỡ, về sau quyết định đánh vào Cảo Kinh. Cơ Cung Niết vội vàng đốt đài lửa báo động, các chư hầu lần trước bị mắc lừa, do vậy họ không muốn mang quân đến cứu. Quân lính ở Cảo Kinh vốn hận Cơ Cung Niết hồ đồ ngu muội và không bằng lòng với việc các tướng lĩnh thường bớt xén lương thực, lúc này miễn cưỡng xung trận, sau một hồi cũng tản đi hết. Quân của Khuyển Nhung đại thắng xông vào thành. Cơ Cung Niết, Bao Tự và con trai vội vàng hoảng hốt chạy lần cửa sau, trốn trên núi Li Sơn. Lúc này, ông ta lại ra lệnh đốt lửa, lửa cháy bùng bùng nhưng vẫn không thấy bóng dáng các chư hầu đến cứu. Quân của Khuyển Nhung ́ ́ ́
đuổi theo gấp rút, các thuộc hạ của Cơ Cung Niết đã chạy trốn hết, chỉ còn hơn 100 người chạy vào Li Cung. Cơ Cung Niết thu nạp ý kiến của quần thần, ra lệnh đốt lửa trước cửa cung, để gây mối nghi hoặc cho quân của Khuyển Nhung, còn mình theo lối cửa sau chạy trốn. Chạy không được bao xa, quân của Khuyển Nhung lại chặn ở trước mặt, một trận hỗn chiến xảy ra, cuối cùng chỉ còn lại ba vợ chồng con cái Cơ Cung Niết, họ sợ hãi chết ngất trên xe, quân địch thấy Cơ Cung Niết mặc hoàng bào đội mũ thiên tử, biết đấy là vua Chu, liền chém chết ông ta và con trai. Chỉ tha mạng cho Bao Tự và bắt cô ta làm tù binh. (một thuyết khác nói. Bao Tự cũng bị giết). Tây Chu bị diệt vong. Sau khi ông ta chết lập miếu đặt hiệu là U Vương.
ĐÔNG CHU
(Năm 770 TCN - 256 TCN, tổng cộng 515 năm)
Thời Đông chu tính từ năm 770 TCN. Chu Bình Vương dời đô đến Lạc Ấp đến năm 256 TCN bị nhà Tần diệt vong.
Thời Đông Chu chia làm hai thời kỳ:
+ Thời Xuân Thu tính từ năm đầu tiên của Chu Bình Vương (năm 770 TCN) đến năm 44 của Chu Kính Vương (476 TCN).
+ Thời Chiến Quốc tính từ năm thứ nhất của Chu Nguyên Vương (475 TCN) đến năm đầu tiên Tần Thủy Hoàng (221 TCN) sau vài năm Đông Chu bị diệt vong (256 TCN).
Các vị vua thời Đông Chu (Xuân Thu Chiến Quốc) có 25 người, trong đó 21 người chết vì bệnh tật, một người mất nước đầu hàng đi bôn ba bị chết, một người do thương con chết yểu nên buồn rầu mà chết, 2 người chết trong nội chiến.
Ngoài ra còn có Vương Tử Cơ Hồ bị giết trong nội chiến.
Các chư hầu thuộc các nước chư hầu thời Đông Chu vì không thuộc phạm vi nê không kể ra. Chỉ liệt kê ra Ngũ Bá thời Xuân Thu và Thất Hùng thời Chiến Quốc. Thời kỳ đầu thời Tây Chu phong 800 chư hầu đến thời Xuân Thu chỉ thấy trong thư tịch ghi là 140 người.
THỜI KỲ XUÂN THU
(Năm 770 TCN - 476 TCN, tổng cộng 295 năm)
hời Xuân Thu là thời kỳ tan rã xã hội nô lệ. Đây là thời kỳ biến đổi vĩ đại. Lúc này cũng là thời kỳ mang thai xã hội phong kiến, vương thất nhà Chu suy vong dần.
Thời này, vương triều trải qua sự thống trị của nhà Hạ Thương, Tây Chu. Phải chia ra hàng trăm nước chư hầu, họ tranh nhau xưng bá, đề phòng lẫn nhau, chiến tranh liên miên, mâu thuẫn trong nội bộ các nước chư hầu diễn ra gay gắt, khởi nghĩa, nô lệ liên tiếp nổ ra, đấu tranh giữa thế lực mới cũ rất mãnh liệt, xã hội dao động rõ rệt.
BÌNH VƯƠNG (CƠ Ý CỮU)
(ĐÔNG CHU)
Bình Vương, tên là Cơ Ý Cữu (? TCN - 720 TCN). Ông là con trai của U Vương. U Vương bị giết, ông ta được giúp làm vua. Trị vì 51 năm, chết ở Lac An (nay thuộc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam) mai táng ở Bình Khâu (nay thuộc thôn Kim Thôi huyện Thái Khang tỉnh Hà Nam).
*
Lúc U Vương trị vì đã lập Cơ Ý Cữu làm thái tử, sau khi U Vương sủng ái Bao Tự, đã phế Ý Cữu, lập Bá Phục làm thái tử.
Một hôm U Vương thấy Ý Cữu chơi trong vườn, ông thả một con hổ vào vườn, dự tính cho con hổ cắn chết Ý Cữu. Lúc ấy Ý Cữu rất bình tĩnh. con hổ định vồ Ý Cữu, ông ta không sợ hãi chạy trốn mà tiến thẳng đến phía trước, hét to, làm cho con hổ kinh hãi lùi lại vài bước nằm phục trên mặt đất quan sát động tĩnh. Ý Cữu ung dung bước đi. Ông ta biết đây là dã tâm của cha muốn hại chết mình, ông liền cùng với mẹ lén lút chạy tới chỗ cậu của ông ta là Thân hậu.
́ ́ ́
Khuyển Nhung tấn công vào thành Cảo Kính giết chết U Vương rồi rút quân về miền Tây. Các chư hầu như: Thân, Lỗ, Hứa lập Ý Cữu làm vua, năm 770 TCN làm lễ đăng quang ở đất Thân (nay thuộc phía Bắc thành phố Nam Dương tỉnh Hà Nam). Do thành Cảo Kinh bị chiến tranh tàn phá, không lâu sau Ý Cữu dưới sự hộ tống của nước Tần đã dời đô tới Lạc Ấp, các nước chư hầu như: Tần, Trịnh phải phụ giúp miễn cưỡng nhường lại đất. Sử sách gọi là Đông Chu. Năm này là năm mở đầu của Đông Chu và cũng là mở màn thời Xuân Thu. Nên ngôi vua cùng lúc với Ý Cữu chư hầu Quốc Công Hàn cũng lập một người con khác của U Vương là Huề Vương làm vua, do đó xuất hiện cục diện hai nước Chu cùng tồn tại song song. Mười năm sau, Tấn Văn Hầu giúp Ý Cữu giết Huề Vương, vương triều Chu lại thống nhất làm một. Vì Tấn Tương Công có công lớn trong việc giúp Ý Cữu dời đô nên Ý Cữu đã phong cho ông ta làm chư hầu và ban sắc lệnh nói: "Người Nhung đánh chiếm Cảo Kinh và địa khu Kỳ Sơn, ngươi hãy đem quân đi đánh họ, đánh được nơi nào thì nơi đó sẽ thuộc về nước Tần". Không lâu sau, Tần lấy được phía Tây của địa khu Kỳ Sơn, nước Tần đó phát triển mạnh. Do đất của cố hương bị mất, vùng đất của Vương triều Đông Chu chỉ ngăn cách bởi phía Tây Bắc tỉnh Hà Nam, phía Đông đến Vĩnh Dương, phía Tây đến Lâm Quan, phía Nam đến Nhũ Thủy, phía Bắc chỉ đến bờ Nam sông Thủy, xung quanh chỉ có 600 dặm, đất hẹp người thưa, vô số nước chư hầu lớn vây xung quanh nó chỉ tương đương với một nước chư hầu hạng trung. Vương triều Chu suy bại. Các nước lớn như: Trịnh, Tấn, Tề, Lỗ, Yên, Sở, Tống... đều tranh nhau: đất đai dân số và quyền chi phối các nước chư hầu khác, chiến tranh cứ xảy ra liên miên, hình thành cục diện hỗn loạn chư hầu tranh bá, lịch sử Trung Quốc vào thời kỳ rối ren.
Trong thời gian Cơ Ý Cữu trị vì, đã giao phó cho Trịnh Trang Công giám sát triều đình, về sau nước Trịnh thế lực hùng mạnh, Cơ Ý Cữu nhìn thấy Trịnh Trang Công có dã tâm, không muốn triều đình bị Trịnh Trang Công thao túng. Nhân cơ hội nước Trịnh xảy ra nhiều chuyện, Trịnh Trang Công không có thời gian đến nhận chức Ý Cữu bãi bỏ chức vị của Trịnh Trang Công. Trịnh Trang Công biết tin lập tức đến Lạc Dương, gây áp lực với Ý Cữu. Cơ Ý Cữu đành phải đưa thái tử Cơ Qua đến Trịnh làm con tin. Để giữ thể diện cho Cơ Ý
̀ ̀ ́
Cữu các quần thần đưa ra kế sách trao đổi con tin, con trai của Trịnh Trang Công cũng phải đến Lạc Ấp làm con tin. Họ thông báo với dân chúng và các chư hầu thái tử nước Chu sang nước Trịnh học tập. Từ đó có thể thấy, sau khi Cơ Ý Cữu dời đô, thế lực vương thất triều Chu đã suy tàn, vua Chu trên danh nghĩa là thiên tử, thực tế chỉ là bù nhìn mà thôi. Năm 720 TCN, ông ta bị bệnh chết, lập miếu đặt hiệu là Bình Vương.
HOÀN VƯƠNG (CƠ LÂM)
(ĐÔNG CHU)
Hoàn Vương, tên là Cơ Lâm (? TCN - 697 TCN) Ông là cháu của Bình Vương, kế vị sau khi Bình Vương chết. Trị vì 23 năm, bị bệnh chết, táng trên núi Hoàn Dương huyện Mãnh Trì tỉnh Hà Nam.
*
Cơ Lâm là con trai của Cơ Thế. Bình Vương bị ốm chết, thái tử Cơ Qua làm con tin ở nước Trịnh. Trịnh Bá và Chu Công Mặc Kiên đến nước Trịnh đón Cơ Qua về kế vị. Cơ Qua trên đường vì đau thương quá độ, về triều ốm chết. Cơ Lâm được Trịnh Bá và Chu Công Mặc Kiên lập làm vua.
Thời kỳ Cơ Lâm trị vì, do Trịnh Bá có công giúp ông ta làm vua, vì thế đã cho nước Trịnh phần đất ở Ôn nằm ở phía Nam sông Tất Thủy và bờ Bắc sông Hoàng Hà, cương vực của Vương triều Chu lại thu hẹp lại.
Trước đây, Chư hầu chết, con của Chư hầu nên kế vị và sau khi chịu tang xong, cần phải đến đô thành tiếp nhận sắc phong của thiên tử, để có địa vị hợp pháp. Năm 712 TCN, Lỗ Hoàn Công mưu hại giết anh trai là Ẩn Công, tự lập làm quốc quân, không tới kinh thành xin nhận sắc phong của thiên tử. Từ đó chế độ nhận sắc phong do thiên tử ban bị phá bỏ. Năm 706 TCN, nước Sở dùng vũ lực đuổi quốc quân của nước Tùy, muốn quốc vương nước Tùy tới chỗ Hoàn Vương đề nghị nâng cao cấp bậc cho nước Sở. Cơ Lâm không đồng ý, quốc vương nước Sở là Hùng Thông sau khi thoái mạ Cơ Lâm một trận, tự mình đề cao đẳng cấp, và đổi tên là Sở Vũ
Vương. Cơ Lâm nhân được tin này, tức giận vô cùng, nhưng cũng không làm gì được.
Sau khi Cơ Lâm kế vị, Trịnh Trang Công vẫn tiếp tục chuyên quyền ở triều Chu. Cơ Lâm không cam tâm chịu sự khống chế của ông ta, liền đuổi Trịnh Trang Công về nước Trịnh. Sau khi về nước, Trịnh Trang Công càng gây rắc rối, làm loạn an ninh của triều Chu, quan hệ của hai bên ngày càng căng thẳng. Không lâu sau, Trịnh Trang Công giả truyền thánh chỉ của Cơ Lâm, mang quân đi đánh Tống. Cơ Lâm tức giận, dứt khoát bãi bỏ chức vụ của ông ta. Trịnh Trang Công cũng không vừa, 5 năm liền không đến triều đình yết kiến, tỏ rõ sự coi thường Cơ Lâm. Cơ Lâm phẫn nộ vô cùng bỏ ngoài tai lời khuyên của quân thần. đích thân mang quân đi đánh Trịnh Trang Công. Trịnh Trang Công cũng xuất binh mã nghênh chiến. Hai bên gặp nhau ở đất Trường Cát; Cơ Lâm nóng lòng chiến thắng, sai người ra chửi bới khiêu chiến.Trịnh Trang Công bố trí thế trận, án binh bất động. Quân Chu chửi đến buổi chiều vẫn không thấy quân Trịnh ra đánh, liền buông lỏng phòng ngừa. Quân Trịnh nhân cơ hội đó thừa thắng xông ra. Quân Chu không kịp trở tay bị giết rất nhiều. Cơ Lâm đành phải lui quân, còn mình ở lại chặn hậu. Tướng quân nước Trịnh là Chúc Đan bắn tên vào vai trái của Cơ Lâm, nhưng do Cơ Lâm mặc áo giáp bảo vệ nên vết thương không nghiêm trọng. Trịnh Trang Vương thấy cho Cơ Lâm một bài học như vậy là đủ lo sợ bộ hạ của mình giết chết Cơ Lâm, làm vậy sẽ bất lợi cho địa vị của ông ta. Trịnh Trang Vương vội vàng gia lệnh thu quân để lối thoát cho Cơ Lâm quay về triều.
Sau chuyện này, Trịnh Trang Công trả vờ ăn năn hối lỗi, sai hạ thần đến nhận tội với Cơ Lâm, nói rõ đấy chỉ là phòng vệ không ngờ, bộ hạ của mình lại vi phạm kỷ luật, làm tổn thương đến thiên tử. Cơ Lâm không còn cách gì đành phải tuyên bố miễn tội cho Trịnh Trang Công. Cuộc chiến ở Trường Cát đã làm Cơ Lâm mất mặt, từ đó các nước chư hầu ngày càng coi thường Cơ Lâm.
Tháng 3 năm 697 TCN, Cơ Lâm bị ốm nặng, ông ta truyền gọi Thu Công Hắc Kiên vào triều gặp mặt nói: "Làm theo tông pháp của tổ tiên ta đã lập con trưởng là Cơ Đà làm thái tử. Nhưng ta vốn yêu quý con thứ là Cơ Khắc. Hôm nay, ta sẽ giao Cơ Khắc cho ́ ́ ́
ngươi, nếu sau này Cơ Đà chết, ngươi hãy lập Cơ Khắc làm vua. Ngươi nhất định phải hoàn thành tốt nhiệm vụ này".
Không lâu sau, Cơ Lâm chết. Sau khi ông ta chết, lập miếu đặt hiệu là Hoàn Vương.
TRANG VƯƠNG (CƠ ĐÀ)
(ĐÔNG CHU)
Trang Vương, tên ông ta là: Cơ Đà (?TCN-682 TCN). Là con trai cả của Hoàn Vương, kế vị sau khi Hoàn Vương chết. Trị vì 15 năm, mai táng ở đâu không rõ.
*
Năm thứ ba, sau khi Cơ Đà nên kế vị, (694 TCN) Chu Công Hắc Kiên tuân theo lời di huấn của Hoàn Công trước khi chết, đã nghĩ mưu giết chết Cơ Đà để lập Cơ Khắc làm thiên tử. Tân Bá khuyên Chu Công Hắc Kiên: "Con trưởng và con thứ khác nhau rõ ràng, phế trưởng lập thứ, tất sẽ là đầu mối dẫn đến nội chiến. Chu Công Hắc Kiên không nghe lời nhất định tìm cách giết hại Cơ Đà. Nhưng Tân Bá đã tấu trình cho Cơ Đà biết ý định của Chu Công Hắc Kiên. Cơ Đà liền sai người giết Chu Công Hắc Kiên. Về phần Cơ Khắc thấy sự việc bị bại lộ vội vàng trốn chạy tới nước Yên. Câu chuyện này trong sử gọi là: "Cuộc tạo phản của Cơ Khắc".
Mùa hè năm 693 TCN, để lôi kéo vua Tề, Cơ Đà đã gả con gái cho vua Tề. Cơ Đà nhờ Lỗ Hoàn Công làm mối vì vậy sai Đôn Bá Tiên đưa công chúa tới nước Lỗ cư trú tạm thời. Mùa đông năm đó, Cơ Đà sai Vinh Quyền mang chiếu chỉ tới Lỗ đòi giết anh trai của Lỗ Hoàn Công và lập Lỗ Hoàn Công lên ngôi. Lỗ Hoàn Công lập tức đưa công chúa Chu tới nước Tề. Trong thời gian Cơ Đà trị vì, vào năm 685 TCN, nước Tề trải qua nhiều cuộc nội chiến, công tử Tiểu Bạch được lập làm vua, và gọi là Tề Hoàn Công. Tiểu Bạch không tính toán tư thù, đã tiếp đón Quản Trọng từ nước Lỗ tới phong Quân Trạng làm tể tướng (mặc dù trước kia Quản Trọng, mấy lần suýt bắn chết Tiểu Bạch). Dưới sự giúp đỡ của Quản Trọng, nước Tề tiến hành sửa chữa nền kinh tế, chính trị... dần dần đất nước
hưng thịnh. Năm thứ hai, vì lập vua Lỗ từng cản trở việc lên ngôi, nên Tề Hoàn Công mang quân đánh nước Lỗ bị quân Lỗ chặn lại ở đất Trường Thược (nay là vùng Bất Tường). Lỗ Trang Công thấy quân địch mạnh như vũ bão, nóng lòng muốn chỉ huy quân lính công kích, nhưng Tào Quý khuyên giải ông ta, Lỗ Trạng Công nghe lời khuyên và đợi chờ cơ hội. Quân Tề ỷ vào sức mạnh liên tiếp tấn công, đều không giành được chiến thắng, lúc này khí thế nhụt đi rất nhiều, sức lực cạn kiệt, lòng quân dao động. Tào Quý sử dụng chiến thuật "Địch mệt mỏi thì ta đánh", phát động binh lính đánh một trận và dẹp tan quân Tề. Trong lịch sử trận chiến này được lượt vào cuộc chiến "yếu thắng mạnh" và gọi là cuộc chiến trên đất Trường Thược của hai nước Tề-Lỗ".
Vào những năm cuối đời, Cơ Đà rất yêu quý thiều tử Tử Đồi, muốn lập Đồi làm thái tử, nhưng ý định của Cơ Đà không thực hiện được, ngược lại còn dẫn đến cuộc tạo phản của Tử Đồi.
Tháng 10/682 TCN, Cơ Đà bị bệnh chết. Sau khi Cơ Đà chết lập miếu đặt hiệu là Trang Vương.
HỈ VƯƠNG (CƠ HỒ TỀ)
(CÔNG CHU)
Hỉ Vương (?TCN-677 TCN). Là con trai của Trang Vương, kế vị sau khi Trang Vương chết, trị vì được 5 năm, mai táng ở đâu không rõ.
*
Thời Trang Vương trị vì, Cơ Hồ Tề được lập làm thái tử. Năm 681 TCN Cơ Hồ Tề lên ngôi, Tề Hoàn Công dưới sự giúp đỡ của Quản Trọng đã làm cho nước Tề "quân mạnh nước giàu". Với danh nghĩa giúp đỡ vua Chu tranh bá với thiên hạ, Tề Hoàn Công nghe lời khuyên của Quản Trọng đã lấy khẩu hiệu "tôn vương diệt di", tức là tôn trọng vua Chu, sẽ chinh phạt các dân tộc thiểu số giúp vua Chu, đồng thời sai sứ thần tới chúc mừng Cơ Hồ Tề đăng quan ngôi vị mới. Cơ Hồ Tề thấy nước Tề cung kính như vậy rất hài lòng, lập tức triệu tập các sứ giả để thừa nhận Tống Hoàng Công làm vua nước ́ ̀ ́ ́ ̀
Tống và sai Tề Hoàn Công đến nước Tống thông báo. Tề Hoàn Công mở đại hội sứ giả ở vùng Bắc Hoạt của nước Tề (nay thuộc phía Bắc huyện Đông A tỉnh Sơn Tây) và Tề Hoàn Công được bầu làm minh chủ.
Mùa đông năm 681 TCN, Tề Hoàn Công lại thống lĩnh đại quân tiến đánh nước Lỗ, Lỗ Trang Công hoảng sợ phải đưa các điều kiện xin hàng. Vua của hai nước Lỗ, Tề hẹn gặp nhau ở đất Kha thuộc phạm vi nước Tề (nay thuộc thị trấn A thành phía Đông Bắc huyện Thọ Trương tỉnh Sơn Đông). Lúc hai người chuẩn bị uống máu ăn thề, đột nhiên tướng quân Tào Mạt (người bảo vệ Lỗ Trang Công) rút ra một thanh đoản kiếm ép buộc Tề Hoàn Công bắt trả lại những phần đất của nước Lỗ mà trước đây Tề Hoàn Công cướp đi. Tề Hoàn Công buộc lòng phải chấp nhận lời đề nghị đó để thoát thân. Sau chuyện này, Tề Hoàn Công phẫn nộ vô cùng, đòi giết chết Tào Mạt. Quản Trọng khuyên giải Tề Hoàn Công "Chuyện thất tín, giết người, là một điều cấm kỵ của người quân tử, đồng thời sẽ làm mất đi sự tin tưởng của các chư hầu, xin bệ hạ hãy suy xét lại". Tề Hoàn Công nghe lời Quản Trọng mang trả hết đất cho nước Lỗ. Chuyện này khiến các chư hầu đều khâm phục Tề Hoàn Công, liên tiếp đến cầu cạnh nước Tề. Năm 679 TCN, Tề Hoàn Công mở đại hội ở đất Quyên (thuộc lãnh thổ nước Vệ) (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), đến tham gia đại hội có các nước như: Lỗ Trịnh, Tống Vệ, Trần... minh chủ Tề Hoàn Công chính thức trở thành bá vương đầu tiên trong thời kỳ Xuân Thu.
Năm 677 TCN, Cơ Hồ Tề bị bịnh chết, sau khi chết lập miếu đặt hiệu Hỷ Vương.
HUÊ VƯƠNG (CƠ LÃNG)
(ĐÔNG CHU)
Huệ Vương, ông tên là Cơ Lãng (?TCN-652 TCN). Ông là con trai của Hỉ Vương, kế vị sau khi Hỉ Vương chết, trị vì 25 năm, mai táng ở đâu không rõ.
*
Mùa thu năm thứ hai (675 TCN) sau khi Cơ Lãng nên ngôi, 5 đại phu là Vi Quốc, Biên Bá, Tử Cầm, Chúc Quỵ, Hứa Phụ do nhận lời ủy thác của Trang Vương lúc còn sống là Tử Đồi (con thứ của Trang Vương) nên ngôi, nên cũng không bằng lòng với việc Cơ Lãng nên ngôi. Họ liên kết với Phỏng Thị, ủng hộ Tử Đồi làm phản, tiến đánh Cơ Lãng, cuối cùng bè cánh của Tử Đồi bị đánh bại chạy biến hết. Tử Đồi chạy đến đất Ôn (nay thuộc phía Tây Nam tỉnh Hà Nam), rồi cùng với Phỏng Thị lại chạy đến nước Vệ. Vệ Huệ Công hận Chu Vương đã bắt giữ con trai mình là Kiềm Mâu trong cuộc chinh chiến, nên Vệ Công liên kết với nước Yên giúp đỡ Tử Đồi. Mùa đông năm 675, nước Vệ và nước Yên xuất binh đi đánh Cơ Lãng và lập Tử Đồi làm thiên tử. Trịnh Vệ Công đứng ra giảng hòa cuộc hỗn chiến của vương thất nhà Chu nhưng không thành công. Trạng Phụ của vua nước Yên là Xuân Phù đã phải sắp xếp cho Cơ Lãng sống ở đô thành Nguyệt của nước Trịnh (nay thuộc Hà Nam) và phải mang những đồ dùng của vương thất chuyển đến đô thành Nguyệt cho Cơ Lãng dùng. Mùa xuân năm 673 TCN, Trịnh Lệ Công và Quắc Công gặp mặt nhau ở đất Nhị (nay thuộc huyện Mật tỉnh Hà Nam) cùng mang quân đi đánh Tử Đồi. Liên quân Trịnh-Quắc nhanh chóng tiến công vào đô thành, Tử Đồi và 5 đại phu đang uống rượu trở tay không kịp, bị quân lính giết chết. Trịnh Lệ Công và Quắc Công đón Cơ Lãng trở về đô thành, trả lại ngôi vị thiên tử cho Cơ Lãng. Cuộc nội chiến này trong lịch sử gọi là "Cuộc làm phản của Tử Đồi". Để cảm ơn sự giúp đỡ của hai nước Trịnh, Quắc nên Cơ Lãng đã cho nước Quắc vùng đất Tửu Tuyền (nay thuộc 1 dải phía đông tỉnh Thiểm Tây), đem cho nước Trịnh phía đông của vùng Hổ Lao (nay thuộc phía Tây Bắc thành phố Vinh Dương tỉnh Hà Nam). Như vậy cuộc chiến coi như tạm yên ổn, đất đai của vương triều Chu lại bị thu hẹp lại.
Trong thời gian Cơ Lãng trị vì, nước Tề liên tiếp đưa quân đi chinh phạt khắp nơi, thu phục các nước nhỏ, mở rộng lực lượng. Năm 670 TCN, quân Tề diệt nước Quách (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), Tề Hoàn Công hỏi các phụ lão sống ở lãnh thổ nước Quách: "Nước Quách làm sao bị diệt vong như vậy?" Các phụ lão trả lời: "Bởi vì vua của chúng tôi yêu mến người hiền tài mà không hận người xấu bụng", Tề Hoàn Công lại hỏi "Theo lời nói của các vị thì vua của các
́
vị là một người tài đức, tại sao lại để mất nước như vậy?" Các phụ lão trả lời: "Vua yêu người hiền mà không biết trọng dụng, ghét người xấu mà không biết loại bỏ, vì vậy dẫn đến mất nước".
Lúc đó, Khánh Phụ (con của Lỗ Hoàn Công) đã giết vua Tử Thuyền, Mẫn Công, gây ra cuộc đại loạn ở nước Lỗ. Những người sống thời đó nói "Khánh Phụ không chết, nước Lỗ khó lòng giữ được". Lỗ Hỉ Công sau khi nên ngôi cho giam giữ Khánh Phụ ở Cử Quốc (nay thuộc huyện Cứ tỉnh Sơn Đông). Khánh Phụ biết tội trạng của mình không thể trốn chạy, đành tự tử ở đất Cử Quốc, cuộc nội chiến của nước Lỗ cũng tạm thời dẹp yên.
Lúc đó, Vệ Ý Công (vua của nước Vệ) rất thích nuôi chim hạc, Vệ Ý Công thích nhất chim hạc để trang trí, ăn chơi, hưởng lạc, nhân dân đều oán thán. Tháng 12/660 TCN, quân Nhang tiến công nước Vệ, Vệ Ý Công dận quân chặn đánh ở Vinh Tắc (nay thuộc tỉnh Đông Bắc huyện Vinh Dương tỉnh Hà Nam). Trước khi ra trận các tướng sĩ còn oán thán: "bình thưởng đại vương hậu đãi chim hạc, bây giờ sao không để chim hạc ra trận đi", lòng quân rối lụan bị đánh đại bại, Vệ Ý Công bị hỗn quân giết chết trở thành tấm gương cho những người thích chơi bời lêu lổng.
Vào những năm cuối đời của Cơ Lãng, sủng ái Huệ Hậu (Công chúa nước Trần) đòi phế bỏ thái tử Trịnh, lập con của Huệ Hậu là Tử Đế làm thái tử. Mùa hè năm 655 TCN, Tề Hoàn Công mở đại hội ở Đô Chỉ (thuộc lãnh thổ nước Vệ) (nay là phía Đông Nam huyện Thái tỉnh Hà Nam) sai mời thái tử Trịnh mà những chư hầu như: Tống Hoàn Công, Lỗ Công, Trần Tuyên Công, Vệ Văn Công, Trịnh Văn Công, Hứa Công. Tào Chiêu Công... tuyên bố giúp đỡ thái tử Trịnh kế vị ngôi thiên tử.
Cơ Lãng rất tức giận, liền xúi giục Trịnh Văn Công bội ước, sai Trịnh Văn Công đi liên lạc với nước Sở, và sai người đi đến nước Tấn liên lạc, dự định tập hợp liên minh 4 nước: Chu, Trịnh, Sở, Tấn để đối phó với nước Tề. Nước Tề cho người đi khống chế, sai quân đi đánh Trịnh, làm cho nước Trịnh phản Chu quay về với Tề, vì vậy kế hoạch của Cơ Lãng bị phá bỏ.
́ ́ ́
Tháng 12/652 TCN, Cơ Lãng ốm chết, sau khi ông ta chết lập triều miếu đặt hiệu là Huệ Vương.
TƯƠNG VƯƠNG (CƠ TRỊNH)
(ĐÔNG CHU)
Sau khi Huệ Vương chết, Cơ Trịnh lo lắng Tử Đế tranh chấp ngôi vị nên bí mật phát tang và sai người tới Tề Hoàn Công nhờ giúp đỡ. Tề Hoàn Công lập tức triệu tập đại hội sứ giả ở đất Thao (phía Tây huyện Quyên Thánh tỉnh Sơn Đông), tuyên bố giúp Cơ Trịnh nên ngôi Thiên Tử. Sau khi Cơ Trịnh nên ngôi mới dám tuyên bố cái chết của Huệ Vương.
Tử Đế không can tâm thất bại, từ năm 648 TCN trở đi -vài lần cùng quân Nhung đi đánh vua Chu nhưng đều thất bại. Năm 639 TCN, Cơ Trịnh phát hiện vương hậu Quy Thị lén lút câu kết với Tử Đế. Cơ Trịnh lập tức phế truất vương hậu. Nhận được tin này, Tử Đế lại dẫn quân Nhung đi đánh nước Chu, chiếm lĩnh được đô thành. Cơ Trịnh vội vàng chạy trốn và ẩn trốn ở vùng đất Tị của nước Trịnh (nay thuộc huyện Tương Thành tỉnh Hà Nam) và đi cầu cứu các nước chư hầu. Vào năm 635 TCN, Tấn Văn Công mượn danh nghĩa thiên tử xuất quân đi đánh Tử Đề lúc này đang cư trú tại đất Ôn và bắt giữ được Tử Đề, sau đó đón Cơ Trịnh quay về đô thành, áp giải Tử Đề về cung và khép vào tội chết, bình định được nội chiến. Cuộc nội chiến này trong sách gọi là "cuộc tạo phản của Tử Đề".
Cơ Trịnh mở yến tiệc chiêu đãi Tấn Văn Công. Tấn Văn Công xin Cơ Trịnh cho hưởng một điều kiện (Nếu sau này Tấn Văn Công chết cho ông ta hưởng nghi lễ mai táng như một thiên tử), nhưng Cơ Trịnh đã khôn khéo chối từ điều kiện đó và phong cho Tấn Văn Công 4 vùng đất: Dương, Phàn, Ôn, Nguyên và Toàn Mao. Ba năm trước, hai nước Tần, Tấn đã tự tiện dời một chi nhánh của tộc Nhung đến vùng Y Xuyên thuộc phạm vi đất nhà Chu (nay thuộc Y Hà ở phía Nam thành phố Lạc Dương) chiếm cứ vùng đất này. Như vậy, địa bàn của nhà Chu chỉ còn 100 dặm.
̀
"""