🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đệ nhất Binh Gia Tôn Tử
Ebooks
Nhóm Zalo
Tôn Tử, tự Trường Khanh, là nhà quân sự và nhà lý luận quân sự nổi tiếng của Trung Quốc ở cuối thời Xuân Thu, được người đời gọi bằng cái tên tôn kính là “Vũ thánh nhân”. Trước tác “Tôn Tử binh pháp” của ông, là cuốn binh thư quý báu đầu tiên trên thế giới, được các bậc danh tướng đời sau tôn sùng và truyền tụng, tiếng thơm lưu truyền, được coi là một viên ngọc quý của Trung Quốc và thế giới. Tác dụng và giá trị tác phẩm của Tôn Tử đã không gói gọn trong lĩnh vực quân sự, mà còn ở các mặt chính trị, ngoại giao, văn hoá, kinh tế.
Trung Quốc và một số nơi trên thế giới, từng có thời nổi lên những “cơn sốt Tôn Tử”.
Bằng ngôn ngữ văn học giản dị, dễ hiểu, cuốn sách này đã miêu tả rất tỉ mỉ thời đại Tôn Tử đã sống, quá trình ra đời của mười ba bài binh pháp Tôn Tử, cũng như những chiến tích mà Tôn Vũ từng bách chiến bách thắng khi áp dụng thực tiễn cuốn sách này. Người viết truyện đã tái hiện một cách nghệ thuật những kinh nghiệm lịch sử, Tôn Vũ đã cùng Ngô vương Hạp Lư, danh tướng Ngũ Tử Tư… lấy nước Ngô nhỏ yếu đánh thắng nước Sở hùng mạnh, để cho người đời sau còn phải suy ngẫm mãi.
Tuy là chuyện lịch sử, nhưng cuốn sách này đã xây dựng những nhân vật sống động, mang đậm những dấu ấn lịch sử nên cuốn sách dễ thu hút người đọc. Tôn Tử Truyện là tác phẩm đầu tiên thể loại truyện ký viết về Tôn Tử có nội dung trong sáng, lành mạnh, mang tính giáo dục cao.
Dải đất mênh mông của nước Tề, nước Lỗ thu hút được tầm mắt của mọi người nhờ màu sắc thần bí của mình. Thái Sơn “đứng đầu năm núi lớn” cũng mọc lên ở mảnh đất này. Dòng Hoàng Hà thai nghén ra dân tộc Hoa Hạ cũng từ đây đổ vào biển lớn. Hai bậc “thánh nhân” một văn, một võ của xã hội phong kiến là Khổng Khâu và Tôn Vũ cùng chào đời trên mảnh đất này…
Thái Sơn, một quả núi kỳ dị hun đúc khí thiêng và toả hào quang thần thánh. Nó nuốt Tây Hoa, đè Nam Hoành, cưỡi Trung Tung, vượt Bắc Hằng, đứng đầu trong mọi quả núi, chiếm địa vị độc tôn trong năm núi lớn.
Thái Sơn, đại biểu cho nền văn minh phương Đông, tượng trưng cho sự lớn lao và trang trọng. Nó lấy mình làm ranh giới nước Tề, nước Lỗ, phía đông là biển lớn với muôn vàn sóng bạc, tây dựa vào Hoàng Hà chảy mãi đến nơi xa, nam có sông Vấn, sông Hoài, sông Tứ, phía bắc một mình một giải Tri Hà. Phóng tầm mắt ra nhìn thế đất của cả một khu vực ven biển miền Đông, nó đứng cao nhìn xuống, bỗng trở thành “cây cột phía trời Đông” mọc trên miền đồng bằng muôn dặm. Ở đây khí hậu ôn hoà, đất đai màu mỡ là vùng trung tâm nảy nở sinh sôi và chung sống của loài người cổ đại, là nơi bắt nguồn quan trọng của một nền văn hoá cổ xưa. Đã mấy ngàn năm, ở đây luôn luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của phương Đông. Đầu đời nhà Hạ, vua
Vũ chia đất nước thành chín châu, năm châu là Ký, Dự, Thanh, Duyện, Từ đã quây quần xung quanh nó. Thời thất hùng Chiến quốc, đây lại là kinh đô của Lục quốc…
Thái Sơn được xây đắp bằng những câu chuyện thần thoại đẹp đẽ mà xúc động. Sau khi ông Bàn Cổ (người khai thiên lập địa ở thời viễn cổ, là vị thần sinh ra vạn vật) chết đi, thì đầu là Đông Nhạc, bụng là Trung Nhạc, cánh tay trái là Nam Nhạc, cánh tay phải là Bắc Nhạc, chân là Tây Nhạc. Thi thể của Bàn Cổ quay đầu về hướng đông nên hoá thành Đông Nhạc. Thái Sơn nghiễm nhiên trở thành quả núi đứng đầu trong ngũ nhạc, tức là năm quả núi cao.
Ngày xưa, khi còn là thuở hồng quang, Thái Sơn là đảo Tiên ở trên biển Đông. Khi chim trinh vệ (còn gọi là chim thề, oan cầm, chi điểu, tục gọi là đế thước – tương truyền là Nữ Oa con gái nhỏ của Viên đế chết đi hoá thành) ngậm cây và đá thu về lấp biển Đông, đã lấp bằng mặt nước ở xung quanh Thái Sơn; trong chốc lát Thái Sơn đã hiện ra bộ mặt vốn có của mình. Những dòng nước nhỏ hay đầm nước còn sót lại là sông Hoàng Hà, Hoài Hà, Vân Hà, Tứ Thủy, Tri Thủy và hồ Đông Bình, hồ Vi Sơn ngày nay. Về sau, Nữ Oa (tương truyền là em gái của Phục Hy đế, đã luyện đá ngũ sắc để vá trời, nặn đất sét thành người nên được gọi là mẹ của loài người) lại nặn thêm cơ man nào là người bằng đất sét, cho biến thành người cổ đại cao lớn, dựa vào núi và tận dụng có nước, sinh sôi nảy nở ra rồi chung sống với nhau.
Tương truyền ở một chỗ thật sâu trên Thái Sơn; có một chàng dũng sĩ tên là “Gan Đá”. Con gái của Trương viên ngoại ở chân núi bị ma ám lâm bệnh nặng. Viên ngoại đã
dán một bản cáo thị rằng: Hễ ai chữa khỏi bệnh cho tiểu nữ, thì nguyện sẽ gả tiểu nữ cho người ấy làm vợ. Chàng Gan Đá đã đến đó bóc tờ yết thị xuống, bảo nhà họ Trương chuẩn bị cho mình một cái thanh la bằng đồng, một chậu dầu thơm; một chiếc nồi lớn. Sau đó, chàng lấy bông bện thành mười sợi bấc đèn, thả vào chậu dầu thơm thắp sáng lên, rồi úp cái nồi lên trên và lấy chân dẫm lên mép nồi. Đến nửa đêm, bỗng nghe thấy cơn gió yêu quái từ đông nam thổi tới, chàng Gan Đá liền dẫm lật ngửa cái nồi lên rồi khua thanh la ầm ĩ. Con ma nhìn thấy lửa đèn, lại nghe tiếng thanh la bèn bỏ đi mất. Từ đó ma quỷ không dám đến nữa, bệnh của cô gái cũng khỏi theo. Con ma ấy lại đi quấy nhiễu các nơi, chàng Gan Đá nhận lời mọi người, đâu gọi thì tới, thế nhưng vì chỉ có một mình nên chàng bận tíu tít. Vì vậy, người ta liền khắc lên đá của Thái Sơn hay trên những viên gạch vuông mấy chữ “Chàng Gan Đá” rồi gắn lên tường nhà. Ma quỷ nhìn thấy tên chàng là hết hồn, vội bỏ trốn. Một hòn đá Thái Sơn nhỏ tí như vậy mà có uy lực đến thế, vậy cả quả núi Thái Sơn cao vút sẽ như thế nào, chắc ai cũng tưởng tượng ra được…
Thái Sơn ở phía đông của giải đất bằng miền Hoa Hạ. Phương Đông là phương mặt trời lên, cổ nhân cho rằng đó là nơi vạn vật giao hòa, nơi phát sinh buổi đầu xuân. Theo thuyết ngũ hành (kim mộc, thuỷ, hoả, thổ) thì phương đông thuộc hành mộc; theo ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) thì phương Đông là nhân; theo bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) thì phương Đông là mùa xuân; theo bát quái của “Chu dịch” (Càn Khôn, Chấn, Tốn, Khảm; Ly, Cấn, Đoài, tám quẻ tượng trưng cho tám loại hiện tượng tự nhiên là trời, đất, sấm, gió, nước, lửa, núi, đầm) thì phương Đông thuộc quẻ
Chấn, tức là sấm; trong nhị thập bát tinh tú (Dốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ky, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tư, Lâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Trinh, Trương, Dực, Chẩn thì phương Đông là thương long. Chữ “Đông” trong chữ Hán, gồm chữ Mộc và chữ Nhật ghép lại với nhau. Chữ Mộc trong văn tự giáp cốt lại thông với chữ Tang, nên mới có thuyết “nhật xuất phù tang” (Mặt trời mọc ở đất Phù Tang – Nhật Bản), “nhân” là đạo đức lớn của trời đất, muôn vật sinh sôi vào mùa xuân. Chấn và thương long là đất nhẹ gót thang mây, là nơi vua chúa ra đời. Bởi thế Thái Sơn là một quả núi lành, xứ sở của thần linh, nơi bắt nguồn của khí thiêng.
Thái Sơn, thiên thần của vẻ đẹp, tất cả các đỉnh vây quanh một đỉnh, rừng rậm suối bay, tráng lệ huy hoàng, thấp thoáng lầu các, cổ tích ở khắp mọi nơi, vạn vật dồn tụ lại từng chỗ. Thái Sơn nhiều tùng bách, cây cảnh vươn cao, đủ mọi tư thế, đỉnh lạ nhấp nhô, đá tai mèo lởm chởm, mỗi một
cảnh đẹp là một bài thơ, một bức tranh, một khúc nhạc; làm xao xuyến lòng người, gây bao niềm hứng thú. Những giải sương như khói như mây, như có tài biến hóa, khiến người ta thấy cảnh vật tĩnh nhưng lại động, khí thế càng thêm oai hùng. Tùng xanh bách thắm, vách đá cheo leo, sương mờ tựa mây, mặt trời le lói; ánh lên một vẻ vừa hùng vĩ tráng lệ, lại yểu điệu thướt tha. Trong cái hùng vĩ đó hàm chứa những hình tượng tươi đẹp, mà lạ, mà hiểm, mà xinh, mà u nhã, mà sâu kín, mà bao la… Chẳng hạn: “Thác ba đầm” ở trong suối Đông của cung Đấu Mẫu, trong cái hùng vĩ có chứa vẻ đẹp xinh. Mom Xả thân, mom Trăm trượng lại gửi vẻ hiểm trở vào trong cái dáng hùng vĩ. Cầu tiên, mom Rẻ quạt lại chứa vẻ đẹp thần tiên của tạo hóa, xứng với tên là kỳ quan trong thiên hạ. Trèo lên đến Nam thiên môn, mới thấm thía vần điệu thần kỳ của câu thơ “Thiên môn dài tiếng hú, ngàn dặm gió lành về” hoặc “thênh tháng trời đất nhỏ”; còn như hốc đá ở đằng sau đỉnh Đại Âm thì quả thật là nơi động phủ thiên tiên vô cùng u nhã…
Thái Sơn, triết gia vĩ đại này đã nói với người ta nên xử thế như thế nào, làm người như thế nào. Nếu nói “hùng vĩ” là đặc trưng thứ nhất của Thái Sơn, thì “lớn lao” sẽ là đặc điểm thứ hai của quả núi này vậy – chân núi nằm ở hai nước Tề – Lỗ, không biết mấy trăm, mấy ngàn dặm. Nó nằm vắt ngang lên gò đồi của nước Tề, nước Lỗ, làm nên một sự so sánh mạnh mẽ về độ cao thấp khác nhau giữa đồng bằng và gò đồi xung quanh đó. Nó có nhiều đỉnh nhấp nhô, mà đỉnh núi chính xé đất vươn thẳng lên trời xanh. Từ chân núi cho đến Trung thiên môn, Nam thiên môn, đỉnh Ngọc Hoàng… tầng tầng lớp lớp, hình thành cảm giác tiết tấu từ trầm đến bổng và một khí thế thênh thang “nhìn qua muôn núi nhỏ”. Mạch núi của nó nối liền nhau với nền móng lớn rộng, hình thể tập trung. Nền móng lớn rộng sẽ gây nên cảm giác vững vàng, hình thế đồ sộ mà tập trung đem lại cảm tưởng sâu nặng, và thế là nó như muốn nói với người ta rằng bất kể trong tình hình nào, cũng phải bình tĩnh lặng lẽ không cuống, không vội, “vững tựa Thái Sơn”, cũng phải can đảm mà nhận lấy; con người ta phải không biết sợ, phải kiên cường, phải tự tin, dám chịu đựng sự đả kích thế này hay thế khách, “Thái Sơn đè đầu” cũng chẳng cong lưng.
Vĩ đại trang trọng, tự nhiên khiến người ta phải kính nể, xinh đẹp mỹ miều, như mời gọi người ta đến thăm. Một quả núi lành, ban phát cho người hạnh phúc. Thiên thần của vẻ đẹp, để người người ngưỡng vọng và ái mộ. Triết gia dạy người ta biết xử thế ra sao, thực sự là bạn, là thầy của muôn ngàn dân chúng. Tuy nhiên, khí thiêng của Thái Sơn chủ yếu lại không thể hiện ở mặt này mà thể hiện ở chỗ là bầu sữa ngọt, đã nuôi lớn vô số danh nhân văn hoá, chỉ riêng thời Xuân Thu Chiến Quốc, nếu đi tìm theo một dải phía
nam của Thái Sơn, ta sẽ thấy Khổng Khâu ở Ni Sơn, Mạch Nha ở Dịch Sơn, Mặc Trác ở Mông Sơn lại còn đông đảo những học trò hiền của Khổng Tử như Nhan Hồi, Tăng Sâm, … Theo dòng Tri Thuỷ lên mạn bắc, ta thấy có Tề Hoàn Công, Quản Trọng, Yến Anh và hai ông cháu là Tôn Vũ và Tôn Tẫn. Nếu như ví Thái Sơn chót vót với một người bà tuổi cao mà phúc hậu có hai bầu sữa, thì bầu bên trái là những mạch núi nhô lên, lấy sữa ngọt nuôi nên những con người sùng đạo văn chương, bầu bên phải lại lõm xuống thành những dòng sông, lấy nguồn mạch của mình, nuôi lớn những con người thượng võ. Từ đó chẳng khó khăn gì khi liên tưởng ra rằng, cống hiến chủ yếu của Thái Sơn là đã hun đúc nền văn hoá Tề – Lỗ huy hoàng xán lạn. Bởi thế mới bảo nó là đại biểu cho nền văn hoá phương Đông.
Núi là nguồn của nước; dòng sữa của núi lớn rì rầm tuôn chảy, rồi lại róc rách dồn tụ, ào ào lao xuôi thao thao cuồn cuộn, đó chính là mạch nguồn của những dòng sông. Chỗ khuất của Thái Sơn, đằng sau lưng Nghi Sơn, muôn ngàn khe lách, dồn lại chảy về phía bắc mà thành Tri Thuỷ. Dòng Tri Thuỷ thao thao chảy, qua Lâm Tri, kinh đô nước Tề lên phía bắc rồi từ Lạc An nhập vào sông Tiểu Thanh, chảy xéo lên đông bắc, đổ vào Bột Hải. Đó là động mạch chủ yếu của nước Tề. Nó cùng với Hoàng Hà đến đây thì đổ vào biển với những dòng sông lớn nhỏ như Thời Thuỷ, Nữ Thuỷ… tưới tắm cho mảnh đất lâu đời phì nhiêu này của nước Tề, nuôi lớn từng lớp, từng lớp những người con anh hùng của nước Tề, hun đúc nên nền văn hoá chói ngời của nước Tề, khiến nó trở nên vừa đằm thắm lại vừa có những điểm đặc sắc riêng của mình.
Tinh thần thượng võ là đặc trưng nổi bật của nền văn hoá nước Tề. Những năm đầu thời Tây Chu, Thành Vương đã phong cho ông ngoại mình là Lã Thượng (Khương thái công) làm Tề hầu, ban cho ông một giải đất “đông tới biển (Bột Hải), tây tới sông (Hoàng Hà), nam đến Di Lăng (Di Lăng quan phía đông sông Nghi Thuỷ bây giờ), bắc đến tận Vô Đệ (tức là phía bắc Huệ Dân bây giờ). Ngoài ra còn giao cho một số đặc quyền, có thể đem quân thảo phạt những chư hầu có tội (“Tả truyện” Hỷ công năm thứ tư). Giải đất được phong này mỡ màng và rộng hàng ngàn dặm, lại giàu nguồn lợi về muối và cá. Lã Thượng về đến nước của mình, bèn áp dụng phương châm “đơn giản lễ nghi cho quần thần, lựa theo phong tục ở đó “tiến hành quản lý thích nghi với từng nơi, khiến đất nước phát triển rất nhanh chóng, đến thời kỳ Xuân Thu, đã thâu tóm tới hơn ba mươi quốc gia xung quanh.
Nước Tề vốn là một nước lớn ở phương Đông, qua sự kinh doanh phát triển và mở rộng của Hoàn Công, đã “chín lần hợp chư hầu, sắp xếp thiên hạ”, trở thành bá chủ thứ nhất ở thời Xuân Thu, xưng bá trong chư hầu. Quản Trọng trị vì nước Tề, chẳng những đưa ra hàng loạt biện pháp để phát triển kinh tế, còn tiến hành hàng loạt cải cách về chế độ. Trước hết là chính sách “ngụ binh ư nông” (lính ở trong nghề nông) chia ra làm hai mươi mốt hương, trong đó có sáu hương làm nghề và đi buôn, mười lăm hương kia là sĩ hương, tức là theo nghề nông. Thời bình thì sẽ “thực điền” ăn vào đồng ruộng, thời chiến nông phu làm lính, sĩ thì làm giáp sĩ và làm tiểu sĩ quan. Trong sĩ hương thì năm người tổ chức thành một ngũ, ngũ có quỹ trưởng; năm mươi người thành một tiểu nhung, tiểu nhung lại đặt ra chức hữu tư; hai
trăm người là một tốt, mỗi tốt có liên trưởng; hai ngàn người là một lữ, lữ thì có hương lương nhân; năm lữ là một vạn người thành một quân, nước lớn thì có ba quân…
Đó vừa là tổ chức hành chính, lại cũng là biên chế quân sự. Hoàn công và Quản Trọng nhận thức được rằng: Nước giàu thì quân sẽ mạnh, quân mạnh được là nhờ ở nước giàu. Việc thứ hai là thực hành sĩ, nông, công, thương, bốn thứ dân định cư theo nghề nghiệp, trong đó đặc biệt là để cho kẻ sĩ không phải làm lao động, tạo cho họ một môi trường trong sạch để họ dạy học và bàn về võ nghệ, trở thành võ sĩ chuyên nghiệp. Thứ ba là lấy giáp binh chuộc tội. Bởi vì giáp binh (chỉ vũ khí trang bị) của nước Tề lúc ấy còn thiếu nhiều, Quản Trọng liền đặt ra chế độ lấy việc chế tạo trang bị vũ khí đề miễn giảm tội ác, từ đó khiến cho nước Tề “dư dật về trang bị vũ khí”. Thông qua một loạt những cải cách đó, nước Tề chẳng những trở thành một nước mạnh đứng đầu về quân sự thời bấy giờ, mà còn hình thành một tinh thần thượng võ từ trên xuống dưới trong cả nước. Tinh thần thượng võ ấy được truyền từ đời này qua đời khác, lâu dần mãi đã trở thành một truyền thống tốt đẹp.
Thuyết âm dương ngũ hành, đặc điểm thứ hai của văn hoá nước Tề. Thuyết âm dương và thuyết ngũ hành, hai học thuyết triết học dùng tư duy lý luận để nắm vững thế giới. Nó là trường phái triết học sản sinh ra ở nước Tề rồi được phát triển và trưởng thành. Người nước Tề lấy quan điểm âm dương ngũ hành để quan sát tinh tượng, chế định ra lịch pháp, rồi lại dùng nó để giải thích cho sự thay đổi của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, sự chuyển đổi của các tiết khí và
sự lặp đi lặp lại của ngày đêm… phạm vi ứng dụng thật vô cùng rộng rãi.
Học thuyết lý luận có đặc điểm riêng, là đặc điểm thứ ba của văn hoá nước Tề. Nó thể hiện ở hai mặt, một là nói đến “nhân” và “lễ”, nhưng lại không đặt nó ở địa vị hàng đầu; hai là hết sức coi trọng công lợi.
Khổng Tử ca ngợi Quản Trọng nhân đức: “Hoàn công chín lần hợp chư hầu mà không hề phải dùng đến binh xa, sức mạnh của Quản Trọng, là ở lòng nhân của ông”. Lại nói: “Quản Trọng tướng quốc của Hoàn Công xưng bá trong chư hầu, sắp đặt lại thiên hạ, dân đến bây giờ vẫn còn được ban cấp mọi thứ. Không có Quản Trọng, họ đã thành dân mặc áo trái tà. Chẳng lẽ lại như nhìn nhận của kẻ thất phu tầm thường, tự nó theo cống rãnh mà rồi không ai biết sao?”.
Khổng Tử là người hay nói đến luân lý nhất, vậy mà ông đã ca ngợi Quản Trọng đến như thế, đủ thấy phẩm chất của Quản Trọng cũng như con người và đạo đức của ông khi làm chính trị đã phù hợp nhân đạo như thế nào. Một lần, trong khi trả lời câu hỏi của Hoàn công, Quản Trọng nói: “Người giữ chữ tín, thì dân tin; người có lòng nhân, thì dân nhớ; người nào nghiêm, thì dân sợ; người biết lẽ, thì dân khen. Có câu rằng: Nhận lệnh mà không thay đổi, là tín vậy, cái gì mình không muốn, không đem đến cho người khác, là nhân vậy; ngoài nhân ra có sự cứng rắn, là nghiêm vậy; chất phác tin tưởng và biết nhường, là lễ vậy (Quản Tử – Tiểu vấn). Cốt lõi tư tưởng của nhà Nho là “nhân”, Khổng Tử đã giải thích đó là “mình đã không muốn, chớmang cho người” (Luận ngữ – Vệ Linh công). Từ đây đủ thấy chữ “nhân” trong lý
luận của văn hoá Tề, về căn bản cũng giống như của nhà Nho, thế nhưng địa vị của nó trong học thuyết luân lý, thì lại không giống nhau, không giống như nhà nho, nó không đặt “nhân” lên địa vị hàng đầu. Quản Trọng cho rằng, luân lý đạo đức, cần phải xây dựng trên nền tảng đời sống vật chất nhất định. Ông nói: “Kho lẫm đầy mới biết đến lễ tiết, ăn mặc đủ mới nghĩ đến vinh nhục” (“Quản Tử – Mục dân”). Bởi thế, ông đã dành phần lớn tinh lực vào việc làm cho nước giàu quân mạnh.
Trọng công lợi, lại là một đặc điểm nữa của học thuyết luân lý của văn hoá Tề, nó khác với nhà nho khi bàn về nghĩa lợi thường trọng nghĩa khinh lợi. Triết học đạo đức của Quản Trọng coi nặng về công lợi từ góc độ bàn về nhân tính, ông từng nói: “Phàm là tình cảm của con người, thấy lợi chẳng ai là không muốn lấy, thấy hại chẳng ai là không muốn tránh” (Quản Tử – Cấm tặng) “Dân thấy lợi thì đến, thấy hại thì bỏ đi. Người dân với cái lợi, cũng như nước luôn chảy xuôi” (Quản Tử – Hình thế giải). Tính người, bản thân đã mang sẵn đặc tính là hướng tới cái lợi, rời xa cái hại, còn như đạo đức, thực ra không phải bản thân tính người vốn sẵn có, nó là một quy phạm hành vi do vua chúa vạch ra. Đã như thế, muốn nhân dân thực hành những quy phạm đạo đức, thì cần thiết phải dùng biện pháp công lợi để thuận với mong muốn của dân, để thi hành. Thế nên, ngoài những điều thuyết giáo nơi cửa miệng, còn cần phải có những thủ đoạn vật chất, dùng sự thưởng phạt để dẫn dắt nhân dân làm theo. Tóm lại, vừa coi trọng công lợi, lại coi trọng lễ nghĩa, là đặc điểm học thuyết luân lý của văn hoá nước Tề.
Dòng Tri Thuỷ thao thao từ phía nam chảy tới, xuyên qua Lâm Tri kinh đô nước Tề, vào Lạc An rồi chảy xế lên đông bắc, quanh co uốn khúc rồi dồn vào sông Tiểu Thanh chảy ra vịnh Lai Châu. Tính cách của Tri Thuỷ biến hoá khôn lường, mùa lũ nước dâng, mênh mang dào dạt, không thấy bến bờ, như hổ lồng xuống núi, như ngựa tuột dây cương, gầm réo, vật vã, lồng lộn, nuốt đi ngàn dặm, cuốn trôi rêu rác, rửa sạch mọi cáu bẩn và bùn nhơ. Tri Thuỷ lúc này là hoá thân của sự ngang ngược, tượng trưng của bạo lực hung tàn, đồng nghĩa với bá chủ, ngang hàng với quyền uy, hỏi có
ai đã dám ra oai trước mặt nó, bởi nó sẵn sàng mang đến cho người ta mối tai hoạ lút đầu.
Đầu xuân và giữa mùa thu, nó như một chàng trai hớn hở, như một chú ngựa tung tăng, như con chim nhạn xuyên mây, như chim hoàng oanh dang cánh lượn. Nó cuồn cuộn, nó chồm lên, nó reo ca, vui mừng lao về phía trước. Khí thế mạnh mẽ, tràn trề sức sống thanh xuân là đặc trưng chủ yếu của dòng sông vào những lúc này. Đến mùa nước cạn, dòng sông bỗng trở thành một cô gái vui vẻ hồn nhiên, với những nép váy trắng muốt từ xa bước tới, nhẹ nhàng hát ca, rải khắp dọc triền sông những tiếng cười lảnh lót như chuông đồng. Ra khỏi kinh thành Lâm Tri, nàng thiếu nữ ấy mang theo tiếng cười đi thẳng lên hướng bắc, đi chừng hơn mười dặm, nàng hơi rẽ về hướng đông, thấy trước mặt là mảnh đất phẳng phiu, màu mỡ, sông ngòi chằng chịt và không gian thoang thoảng từng làn hương lúa, tức cảnh sinh tình, nàng như bay như múa lên, vui vẻ bước đi. Chính chỗ dòng sông mang tâm hồn thiếu nữ chảy đến chỗ chuyển dòng, đã gặp một thôn làng rất lớn, toàn thôn có tới hai trăm nóc nhà, người trong thôn chủ yếu mang họ Điền, bởi thế mới gọi là thôn Điền Ban, trong thôn có một gia đình danh môn quý tộc, đó chính là Điền Thư, tự Tự Chiếm, thế tập Tề đại phu, có địa vị quan trọng ở nước Tề, cùng bốn gia tộc lớn là Loan, Bào, Quốc, Cao cùng nắm chính quyền của nước Tề, chúa tể vận mệnh của nước Tề, cũng giống như “Tam Hoàn” của nước Lỗ. Con trai của Điền Thư là Điền Bằng, tự Khởi Công, làm khanh của nước Tề, tuổi trẻ và có triển vọng, là con người mưu trí và tháo vát năng nổ, nên được Tề Cảnh Công yêu mến và kiêng nể.
Mặc dù vậy phủ đệ của nhà họ Điền lại hết sức bình thường. Tuy nói rằng diện tích chiếm đất của nó rất lớn, đằng trước đằng sau, bên phải bên trái có tới mười dinh cơ, mấy trăm gian nhà cửa, thế nhưng lại thấp bé, không có gì nổi bật, hơn thế nữa lại lợp tranh xen ngói, không khác gì mấy so với những nhà bình thường. Ở đây mang tiếng cửa tướng phủ soái, nhưng lại không có cảnh canh gác nghiêm ngặt, dân thường cũng có thể vào ra dễ dàng, đấy cũng là một điểm khác so với những chốn cửa son kín cổng cao tường, bởi thế lại càng làm cho tiếng tăm của ông vang khắp xa gần, khiến ai cũng phải khen ngợi và ngắm nghía. Từ khung cửa lớn ở giữa đi vào, đi qua sảnh đường, đến sảnh đường thứ hai và sảnh đường thứ ba thì đến một vườn hoa. Lấy chỗ này làm đường trục, nhà ở chia thành hai phần bên đông, bên tây đối xứng với nhau. Hai bộ phận đó bố cục như nhau, quy cách như nhau, kiểu dáng cũng như nhau. Sảnh đường thứ ba là giới hạn tự nhiên, còn dãy bên đông và bên tây, trước sau có khác nhau. Gian trước là nơi tiếp khách, làm việc, hội họp, dãy nhà sau là nơi ăn ở, nơi ngủ và nơi ở của gia đình.
Năm 545 trước CN, tức là năm Chu Linh vương thứ hai mươi bảy, năm Tề Cảnh công thứ ba, ngày hai mươi tám tháng tám, trời thu xanh ngắt, cao vời vợi, trong như lọc. Bỗng nhiên không biết ở đâu nổi lên một cơn gió bắc, thổi qua kinh thành Lâm Tri, vượt ngang dòng Tri Thuỷ, ập đến thôn Điền Ban. Gió bắc thổi kéo theo mây đen, khiến cho thôn Điền Ban lớn như thế mà bị che kín mít, trời đất tối tăm, ánh mặt trăng, mặt trời đều mờ lại, trong Điền phủ, từ trên xuống dưới, người già, người trẻ của thôn Điền Ban, không ai là không lo sợ, không ai là không thảng thốt bởi sự u ám bao trùm lên tất cả đó. Mướt mồ hôi lo lắng cho sự an nguy
của bà trẻ – phu nhân Điền Bằng, người nào người nấy tranh nhau cúi đầu vái lia vái lịa, khẩn cầu các bậc thần linh phù hộ độ trì cho bà trẻ mau mau sinh nở, để hổ tử của nhà tướng sớm được chào đời, được mẹ tròn con vuông, cả nhà đoàn tụ…
Bà trẻ họ Phạm, tên là Ngọc Lan, cũng thuộc con nhà dòng dõi và có nề nếp gia giáo. Nàng có khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, nước da mịn màng như thể nặn bằng sáp, luôn ánh lên vẻ bóng bảy mượt mà. Dưới hai nét mày ngài là đôi mắt như hai làn nước hồ trong, diễn đạt tình cảm còn hơn cả lời nói. Vốn tính ôn tồn nhã nhặn, cử chỉ khoan thai, luôn luôn tỏ ra trên kính dưới nhường, có dịp tiếp xúc với nàng xong, không ai là không tấm tắc ngợi khen. Nàng ưa mặc những thứ hàng nền nã màu trắng, chẳng hạn một chiếc váy sa tanh trắng, bên trong là một chiếc áo chẽn bằng đoạn trắng. Nàng khẽ cất bước đi, chẳng khác gì đoá hoa sen trắng nhẹ nhàng lướt trên mặt nước. Hoặc khi nàng đứng lại, nhìn từ xa, chẳng khác gì một bông hoa ngọc lan. Thế nhưng bông hoa lan ấy lúc này lại đang khốn khổ vì những cơn đau dằn vặt, Phạm Ngọc Lan đang lăn lộn trên chiếc giường ngà, vật vã, kêu rên, trên khuôn mặt nhợt nhạt của nàng mồhôi tuôn ra như vã nước. Hai tay nàng nắm chặt lấy thành giường, các khớp xương kêu răng rắc, hàm răng trên bặm vào môi dưới hằn lên một vết máu đỏ tươi. Nàng muốn kêu la, muốn văng ra chửi rủa một cái gì đó, thế nhưng lực bất tòng tâm… Nàng đã kêu rên vật vã như thế ba ngày ba đêm rồi. Đừng nói một người đàn bà yếu đuối mà ngay cả một gã đàn ông sức dài vai rộng, rơi vào hoàn cảnh này cũng chẳng biết làm gì hơn. Nàng lả đầu sang một bên, mớ tóc dài bị xổ tung ra buông xoã nằm thở dốc từng cơn, phần bụng dưới nhô cao,
căng lên trắng như sáp, mệt mỏi phập phồng theo hơi thở. Nàng không thể vật vã được hơn nữa, đành để mặc cho số mệnh định đoạt, muốn ra sao thì ra.
Bà mẹ chồng sốt ruột đi đi lại lại trong phòng, quanh quẩn bồn chồn như kiến bò trong chảo nóng, bà đang cầu trời, bà đang khấn đất, đang kêu xin các vịthần linh… Rồi bà lại lẩm nhẩm, lại ca cẩm, lại chửi rủa, sau cùng bà không biết nói gì, không biết làm gì… như điên như cuồng…
Bà nội tuổi đã trên mức xưa nay hiếm, liên tục ngồi bên cạnh cháu dâu của mình, im lặng khóc thầm lo lắng. Đột nhiên bà cụ quỳ xuống đất, chắp hai tay lại, ngửa mặt lên trời, kêu lên như xé ruột, xé gan:
– Ông trời ơi! Sao mà ông độc địa thế? Bà đất ơi sao bà ở chẳng công bằng? Thần trên trời, ma dưới đất ơi! Sao lòng dạ các người lại ác độc đến thế? Nhà họ Điền này đời đời kiếp kiếp, chưa bao giờ dám làm một việc gì phương hại đến đất trời, cháu dâu của tôi hiền lành thật thà như một con cừu non mới đẻ ra, tại sao các người lại đày đoạ nó thế này, mong các người hãy trông lại, làm sao cho Ngọc Lan, cháu dâu của tôi sinh nở được thuận lợi an toàn, cho chắt nội của tôi được bình an chào đời, thân già này dù có phải chết để chuộc lấy tội nghiệt của kiếp trước và cả kiếp này…
Nói xong, bà vùng đứng dậy, lấy vạt áo che lên mặt rồi nhào tới đập đầu vào án thư.
Kẻ hầu người hạ ra ra vào vào, hết thở dài, lại than vắn, khóc chán lại lau nước mắt… không ai có cách gì hơn.
Những bà đỡ hơi có tiếng tăm một chút ở quanh vùng cũng đã được mời cả đến, bằng kinh nghiệm của mình, trổ tài khoe giỏi một hồi, hoàn toàn chẳng giải quyết được gì; thế là lúc đến hăng hái hý hửng bao nhiêu, thì lúc lui ra tiu nghỉu lặng lẽ bấy nhiêu, khiến cho không khí trong Điền phủ lại thêm buồn bã hơn, căng thẳng và ngột ngạt hơn.
Gió bấc vẫn đang gào rít, mỗi lúc một dữ dội hơn; mây đen vẫn đang vần vũ, mỗi lúc một dày đặc hơn; mỗi người đều như thấy tim mình rung lên, tức thở và đang ứ máu…
Một cỗ xe ngựa trang trí rất lộng lẫy ra khỏi kinh thành Lâm Tri, ven theo con đê ngoằn ngoèo bên sông Tri Hà, vội vã lăn bánh về phía thôn Điền Ban. Người ngồi bần thần trong xe là quan thái y trong cung Tề là Công Tôn Hồi Xuân, đang theo lệnh của Thái tể Yến Anh đến thôn Điền Ban, đỡ ca khó đẻ cho Điền phu nhân. Thái y nguyên tên là Công Tôn Du. Sáu năm trước, Tề Tráng công mắc bệnh hiểm nghèo lại rất oái oăm, người đời ai cũng bảo đó là thứ bệnh không tài gì chữa khỏi, vậy mà Công Tôn Du lại chữa được cho nhà vua khỏi bệnh, khiến ngài vui mừng và không ngớt lời khen thái y chữa bệnh rất cao tay, là “nhờ khéo tay nên được hồi xuân”. Thế rồi, thái y thấy hay, đổi ngay tên mình là Hồi Xuân, và cho rằng đó cũng là niềm vinh dự nhất đời mình.
Công Tôn Hồi Xuân tới Điền phủ, không kịp nghỉ ngơi, nước cũng không thiết uống, vội vàng lấy đồ nghề của mình ra, bắt đầu cuộc vật lộn để cứu lấy hai mạng người…
Cũng vào giữa lúc này, ở trong Tấn Dương cung, Tấn Bình công đang dương dương tự đắc, chễm chệ ngồi trên ngai vàng “bá chủ” để nhận lễ mừng của vua chúa các nước Tề, Trần, Thái, Bắc Yên, Khởi, Hồ, Thẩm, Bạch Địch… Xem xét đồ tiến cống của các nước, ông ta ưỡn ngực vênh vang, coi khinh mọi người, làm như mình chính thức trở thành bá chủ của thế giới này. Quan chấp sự Triệu Vũ thì khoa chân múa tay, hô hét chỗ này, doạ nạt chỗ kia, làm ra vẻ nhất trên đời này.
Chư hầu tám nước tại sao phải đến triều cống nước Tấn như thế? Từ khi Bình vương dời đô về Lạc Ấp, triều nhà Chu suy thoái, lệnh vua không ai theo, thiên hạ rối bời bời. Các nước chư hầu tranh giành nhau làm bá chủ, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, cậy đông lấn át kẻ ít, kẻ yếu bị kẻ mạnh ăn thịt… chiến tranh nổ ra liên miên, công thành chiếm đất khiến cho thành ấp bị phá huỷ, ruộng vườn hoang sơ, cha con khuất mặt nhau, anh em mỗi người một ngả, người chết đầy đồng, nước mất nhà tan. Trước tình hình đó, Tống đại phu Hướng Nhung, Triệu Vũ của nước Tấn, Khuất Kiến của nước Tề… với những mục đích khác nhau, liên hiệp ra lời đề nghị“dẹp binh”. Qua một phen du thuyết, các nước mạnh như Tấn, Sở, Tề, Tần lần lượt hưởng ứng và thông cáo cho các nước nhỏ. Năm 546 trước CN, đã họp liên minh nước Tống, đến dự gồm có mười ba nước là Tấn, Sở, Tề, Lỗ, Vệ, Trần, Thái, Trịnh, Hứa, Tào, Trâu, Đằng và Tống. Khi họp liên minh, nước Tấn, nước Sở tranh nhau đứng đầu, Thúc Hướng của nước Tấn khuyên Triệu Vũ hãy nhường nước Sở, thế là Sở Khang vương đứng đầu. Lần này, tám nước chầu nước Tấn là làm theo những điều đã hứa hẹn với nhau khi họp liên
minh chầu nước Sở, chưa tới ngày thì Sở Khang vương chết, Tấn Bình công quay về.
Chư hầu tám nước lần lượt mang những gì quý hiếm trên đời của nước mình dâng lên làm vui lòng Tấn Bình công. Phái đem vật quý của nước mình cho không những người khác, không đau lòng xót ruột lắm sao? Thế nhưng đấy là việc không còn cách nào hơn? Ai mà chẳng phải nhường nước Tấn lớn mạnh, nếu làm họ tức giận, họ sẽ đem quân đến hỏi tội gây nên chuyện can qua, huỷ hoại tông miếu, đào bới mồ mả, giết hại sinh linh. Đúng là quả đấm lớn thì làm anh. Cọp ăn sói, sói bắt dê, đó là chân lý ngàn năm không đổi, ai có thể làm khác được? Các nhà nho, mà Khổng Tử là đại biểu, muốn thay đổi nó. Nguyện vọng ấy tốt đẹp đấy, tấm lòng ấy từ thiện đấy, mọi người ai ai cũng đều ca ngợi, nhưng mong muốn đó đi đến đâu cũng gặp trở ngại. Cuối cùng nhà Tần giành được chính quyền vẫn phải dựa vào sức mạnh trong tay mình để tiêu diệt sáu nước, đưa thiên hạ, vốn liên tục tranh giành nhau mấy trăm năm, về được một mối. Bởi vậy, đừng có phàn nàn rằng tâm địa của sói quá ác độc, muốn khỏi bị sói ăn thịt, thì hãy trở thành một con cọp!
Báu vật nước Trần tiến cống là cái chén nóng lạnh. Rót rượu vào chén này, mùa đông sẽ ấm lên, mùa hè sẽ lạnh đi, uống ngàn chén không say, vạn chén không lú lẫn.
Báu vật của nước Thái là dạ minh châu. Hạt châu to như quả đào, đặt trong chỗ tối hay ban đêm, ánh sáng toả ra chói lọi, tựa như ban ngày.
Vật tiến cống của nước Bắc Yên là Uyên ương kiếm. Loại kiếm này, kiếm chồng kiếm vợ sánh đôi nhau, nếu có kẻ nào muốn hại chủ mình, cây kiếm sẽ tự tung ra khỏi bao, chém đầu kẻ ấy ngay tại chỗ.
Của quý của nước Khởi là cái làn thuỷ tinh. Treo làn này ở nhà, tự nhiên sẽ thành gió, nếu có ánh sáng chiếu vào, có thể tạo ra mưa.
Vật quý của nước Hồ là con ngựa Xích thố. Đây là một giống ngựa tốt, không uống nước, không ăn cỏ, một ngày cũng chạy được ngàn dặm, tiến thì có thể đuổi gió lướt trăng, thoái lại ẩn thân như vô hình.
Vật cống của nước Thẩm là cái ô cản bụi: Ngày mưa che ô này, không dột một giọt nước nào; ngày nắng đi ô này thì có thể tránh được hết bụi trần.
Vật cống của nước Bạch Địch là cái đai bằng sừng tê giác. Nếu mang cái đai này trên người thì lửa nước không bén được tới, tai ương phải lánh xa.
Tám nước đến triều cống, thì nước Tề là lớn mạnh nhất, nhưng lại không thấy Tề Cảnh công có báu vật dâng lên. Tấn Bình công rất lấy làm tức giận. Sự tức giận ấy đã thể hiện ra mặt, mặt ông sa sầm, từng thớ thịt run lên bần bật, một lúc lâu không nói gì, còn trong lòng sự bực bội bị nén xuống, nén xuống mãi, đột nhiên bật lên như nổ ra thành câu hỏi:
– Tề là nước lớn đến cả ngàn cỗ xe, đất đai rộng, đồng ruộng phì nhiêu, sản vật dồi dào, cơ man nào là châu báu, vậy mà tại sao không thấy có gì là vật cống dâng lên quả nhân nhỉ?
Cặp mắt của Tấn Bình công như hai lưỡi đoản đao sắc nhìn xoáy vào Cảnh công. Dưới ánh sáng lạnh lùng ấy, vóc dáng bé nhỏ của Cảnh công như bị co dúm thêm, run lên trong tư thế co ro ấy. Ông hết nhìn sang phải lại ngó sang trái; tựa hồ như đang muốn tìm kiếm vật gì, cầu cứu một thứ gì… Không khí sảnh đường im phăng phắc như thể chỉ khẽ động vào là sẽ nổ tung.
Giữa lúc đó, bỗng có một người từ sau lưng Tề Cảnh công bước ra. Người này mình cao phải đến một trượng hai, đầu to như cái đấu, mắt lồi như đôi chuông đồng, tiếng sang sảng như chuông, vai rộng ngực nở, lưng như hổ, lườn như beo, mình đầy giáp mãng, ưỡn ngực ngẩng đầu đứng nghiêm ở đó như một cây tháp sắt, khiến cho Tấn Bình công giật mình xo lại, như muốn núp thân vào một chỗ nào đó, lắp bắp hỏi:
– Ngươi là ai? Có điều gì muốn nói?
Người võ sĩ oai vệ như cây thép sắt, bình thản tự nhiên đáp:
– Thần là Điền Bằng, tướng quân hộ giá cho Tề vương đây, đang muốn dâng đồ tiến cống lên đại vương.
– Đồ tiến cống ở đâu, hãy mau mau dâng lên. – Tấn Bình công cuống quýt lên như một gã ăn mày nhìn thấy cơm.
Điền Bằng khum tay làm lễ, tủm tỉm cười nói:
– Đại vương hà tất phải nôn nóng thế. Người ta thường nói: Cơm ngon không sợ muộn, tướng tài áp trận sau, trò hay ở cuối buổi diễn. Đại vương đã nói nước Tề là nước lớn ở phương Đông, quân khoẻ ngựa lớn ruộng tốt hàng ngàn dặm, sản vật dồi dào, lắm muối nhiều cá, nam có Thái Sơn bền vững, bắc có Bột Hải hiểm trở, tây có Hoàng Hà chắn ngang, là nước sau cùng dâng vật cống, chẳng phải là sự việc hợp tình hợp lý hay sao?
– Tướng quân nói phải lắm, quả thực đó là việc trong tình lý.
– Nỗi tức giận của Tấn Bình công tạm dịu xuống, vẻ mặt tươi cười hỏi.
– Nhưng không biết nước Tề định tiến cống vật gì đây. Điền Bằng chậm rãi nói:
– Lão Sính (Lão Tử) là tác giả của “Đạo đức kinh” có nói: “Người giàu sang thì cho người tiền bạc; người nhân thì cho người lời nói”, vua tôi nước Tề tuy không dám nhận xằng nhân nghĩa, tuy nhiên tiên quân là Hoàn công cũng đã từng chín lần hợp chư hầu, không phải động đến binh xa, sắp xếp được thiên hạ, trở thành bá chủ đầu tiên ở vùng Hoa Hạ, bởi vậy xin mạo muội dâng lên vài lời: “Việc trên đời đắc đạo thì nhiều người giúp, thất đạo thì ít người giúp, làm nhiều điều bất nghĩa tất sẽ tự giết mình? Nếu đại vương biết lấy điều này để làm kim chỉ nam, xử sự phải nghiêm với mình thì ích
lợi sẽ không phải nhỏ, và còn hơn châu báu ở trần gian này rất nhiều…”.
Như một quả bóng xì hơi, Tấn Bình công ngồi phịch xuống ngai vàng, khóc dở mếu dở. Bởi những điều vị tướng nước Tề là Điền Bằng vừa nói, thật không thể bắt bẻ vào đâu được, ngẫm nghĩ mỗi lời nói của ông, câu nào cũng rất ý nhị, câu nào cũng mang hình ảnh bóng gió – một nước lớn ở phương đông, lính mạnh ngựa khoẻ, đồng ruộng phì nhiêu muôn dặm, sản vật dồi dào, lắm muối nhiều cá, rồi nam có Thái Sơn bền vững, bắc có Bột Hải hiểm trở, tây có Hoàng Hà chắn ngang; rồi Tề Hoàn công ngày xưa chín lần hợp chư hầu, không phải động đến binh xa, sắp xếp lại được thiên hạ, trở thành nước bá chủ đầu tiên vùng Hoa Hạ… Những điều hắn nói ra đây bảo là khuyên răn, sao không bảo là đe doạ, là cảnh báo nhau…
Những lời lẽ ấy của Điền Bằng quả là có sức rung động, làm cho Tấn Bình công định nổi nóng thì không dám, không nổi nóng thì không chịu nổi, tiến thoái lưỡng nan, thật là thảm hại!
Chư hầu bảy nước đều đang ngầm chúc mừng thắng lợi, Điền Bằng đã giúp cho họ hả giận, đúng là uốn dẻo ba tấc lưỡi, thắng cả triệu binh hùng.
Cũng như chiến thắng ở xa trường, Điền Bằng thừa thắng xông lên truy kích, nói:
– Trời có khi râm, khi nắng, có ngày lại có đêm, trăng có khi tròn khi khuyết, một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
lần lượt đổi thay. Muôn vật trên đời này, có sinh ra, thì có chết đi. Ngay như mãnh hổ là ông vua trong muôn loài thú, khi xưa từng hay hung hăng tàn bạo biết bao, vậy như khi đã già rụng hết răng, thì chỉ một con chó săn cũng có thể kết liễu đời nó. Những đạo lý nghe mãi quen tai này lẽ nào lại không đáng để cho những bậc quân vương, những ai muốn xưng bá xưng hùng phải để tâm nghiền ngẫm?
Tấn Bình công thẹn đỏ cả mặt, cúi gằm mặt xuống, quần thần văn võ trong triều cũng như cỏ mùa thu gặp sương muối, héo queo đi…
Không khí trong đại sảnh từ căng thẳng đến im lặng, từ mừng vui đến sống động hẳn lên. Chư hầu bảy nước và đám tuỳ tùng của họ, chỉ muốn la to lên để ra oai, nhưng ngặt vì lễ phép ngoại giao, buộc phải nén tình cảm của mình lại, cho nên sảnh đường bỗng như thầm reo lên khúc nhạc tươi vui như mùa xuân.
Bị vui lây trong không khí đó, Điền Bằng bỗng trở nên sôi nổi, hăng say thêm, ông khảng khái bày tỏ rằng:
– Mặt trời rừng rực, mặt trăng dịu dàng, muôn sao lấp lánh… tất cả đều toả sáng, trong sạch và lớn lao. Tuy nhiên, thoát khỏi sự nâng đỡ của bầu trời, thì sẽ lần lượt theo nhau mà rơi xuống, tan tành ra từng mảnh…
Tiếp đó, Điền Bằng lại kể cho Tấn Bình công nghe hai câu chuyện ngắn gọn để nói rõ cốt lõi những điều mình nói ra: “Đắc đạo được nhiều người giúp; thất đạo thì ít người giúp. Làm lắm điều bất nghĩa, tất sẽ tự giết mình”.
Có một nhà quý tộc họ Trương tên là Thanh Càn, trong nhà không thiếu gì tiền cả, trong tay cũng có ít quyền hành, trong xã hội lại có thế lực, bởi thế nên hắn ỷ thế chẳng sợ gì ai, hoành hành ngang ngược trong thôn xóm, hà hiếp dân chúng, đánh đàn ông, cướp đàn bà con gái, muốn sao được vậy, khiến dân chúng căm ghét đến bầm gan tím ruột. Một hôm, trang viên của Trương Thanh Càn bị cháy, khói đen cuồn cuộn, ngọn lửa ngút trời cao, chỉ dựa nguyên vào mấy tên gia đinh kêu rát cổ, gõ vỡ cả thanh la, dân chúng bến bên vẫn khoanh tay đứng nhìn. Mà đâu chỉ có khoanh tay đứng nhìn, họ còn sung sướng khi thấy người khác mắc hoạ, còn vỗ tay khen hay, khi thấy một trang viên lớn như thế biến thành tro bụi, gia sản hàng vạn quan bỗng nằm trong biển lửa mênh mông.
Có một viên huyện lệnh, yêu dân như con, một lòng một dạ nghĩ cho dân, hết lòng phục vụ nhân dân, tất cả đều vì lợi ích của dân chúng, dù có phải vào nơi rừng gươm biển lửa, cũng vẫn vui lòng làm. Một năm, vào giữa mùa hè, mưa như trút nước, nước lũ từ trên núi mang cả đất đá cuốn theo, cuốn chảy như thác. Xem chừng nhà của huyện lệnh sắp bị nước lũ cuốn trôi, nên hàng chục người dân đã xả thân quên chết, xông lên phía trước, cứu được mẹ già tám mươi tuổi cùng vợ con cháu chắt của ông.
So sánh hai câu chuyện này, ăn ở với mọi người thế nào, xử thế ra sao, làm quan thế nào, nắm quyền và dùng quyền như thế nào, chẳng đã trong như nước sáng như gương đó sao?
Điền Bằng nói đĩnh đạc mà trơn tru, vừa thấu tình, vừa đạt lý, những lời lẽ đó chẳng những là nói cho Tấn Bình công nghe, mà cũng là nói cho Tề Cảnh công và bảy nước chư hầu khác nghe.
Tấn Bình công hầu như đã bị những lời nói của Điền Bằng tác động, lắng nghe rất thích thú. Triệu Vũ thì không thể đợi lâu hơn được nữa, mấy lần định cắt ngang câu chuyện, nhưng rốt cuộc chẳng có dịp nào để xía ngang vào, bởi vì lời lẽ của Điền Bằng như dòng thác từ trên cao lao xuống như bay. Hắn cuống lên, bồn chồn, dậm chân đấm ngực, rồi lại đưa tay nắm lấy đốc kiếm. Hắn vốn biết chúa công của mình vốn dễ bùi tai, rất sợ rằng sẽ bị Điền Bằng thạo đường ăn nói thuyết phục mất. Tất cả những điều đó, Điền Bằng đều nhìn nhận thấy hết, nhưng lại lờ đi như không biết, cho mãi tới lúc cuối cùng câu chuyện, mới nói:
– Triệu tướng quốc sao phải bồn chồn không yên như thế? Phía sau kia đã chẳng có lính phục sẵn đó sao, lẽ ra phải hành động từ lâu rồi chứ…
Đòn này quả thật là hết sức bất ngờ với Triệu Vũ, nên hắn không kịp phản ứng, chỉ giương to đôi mắt như một phản xạ có điều kiện, đặt tay vào đốc kiếm, bước lên nói:
– Mi…
Điền Bằng đặt tay vào đốc kiếm, bước lên nói:
– Thế nào? Triệu tướng quân muốn thử sức một chút hay sao? Có điều chắc hẳn tướng quốc đã rõ trong lòng, nếu thực
sự thử sức với nhau, thì ông còn lâu mới xứng là địch thủ của tôi, tôi sẽ lấy đầu vua tôi các người để tạ thiên hạ…
Cả sảnh đường tuốt kiếm giương cung, không khí căng thẳng đến mức sắp có thể bùng nổ.
Tấn Bình công run lẩy bẩy nói:
– Tướng quốc không được vô lễ, đãi khách sao có thể bất nghĩa… Triệu Vũ lùi ra sau mấy bước, Điền Bằng nói:
– Triệu tướng quốc sao chẳng nghĩ coi, xưa nay việc văn cũng phải đề phòng bằng võ chứ, trước một quốc gia như hổ như sói, lẽ nào cả tám nước chúng tôi mang thịt cho hổ đói mà lại không đề phòng hay sao?
Tấn Bình công tự đánh trống lấp nói:
–Các nước với nhau, phải hoà thuận với nhau mới phải, chớ có gặp nhau bằng binh đao thế này.
Điền Bằng khí thế hiên ngang nói:
– Xin đại vương và Triệu tướng quốc chớ nên quên, nước Tề là nước lớn ở phía đông, những người con của nước Tề đều là dòng dõi của Hoàn Công, Quản Trọng, sao có thể chịu lép vế với người khác?
Điền Bằng nói xong, ngửa mặt cười, khí thế ngút trời xanh.
Buổi triều cống thế là kết thúc, chẳng lấy gì làm vui vẻ. Lúc sắp ra đi, Điền Bằng e rằng nước Tấn cho quân mai phục ở nơi quan ải nên đã đề xuất với Tấn Bình công, đề phòng bọn lục lâm cướp đường làm xấu cả nước Tấn hùng mạnh, nên xin Triệu tướng quốc dẫn đường cho đông đảo chư hầu chúng tôi an toàn qua khỏi những nơi quan ải. Tấn Bình công đã vui vẻ nhận lời.
Nước Tấn phần lớn là đường núi, dọc đường quân Tấn mai phục bốn phía. Tuy nhiên, có Triệu tướng quốc dẫn đường, nên dọc đường cũng thông đồng bén giọt. Tính mạng của Triệu Vũ nằm trong tay các chư hầu, quân Tấn làm sao dám hành động khinh xuất được?
Cũng đúng vào lúc ấy, Điền Thư, cha của Điền Bằng đang thống soái quân Tề đánh nhau ở Hiệp Cốc, đánh cho quân Lỗ cả người lẫn ngựa thua liểng xiểng.
Đêm đã khuya, trong nhà Điền phủ ở Điền Ban, thái y Công Tôn Hồi Xuân đang đỡ đẻ cho bà trẻ họ nhà Điền là Phạm Ngọc Lan, không biết xoay xở bao nhiêu lâu rồi, xương chậu của Ngọc Lan như được nới lỏng, một nàng hầu nhanh mắt đã reo lên:
– Lạy trời lạy Phật! Thế là đẻ được rồi!
Mọi người có mặt nghe thấy thế đều xúm nhau lại nhưng đó mới chỉ là cái đầu gối tròn xoe. Tuy nhiên, nói ra thì đây là là một điềm lành, đứa trẻ quý mà ra như thế, là tượng trưng cho chữ “quý” tức là quý tử, sản phụ nếu nhịn được đau, phối hợp nhịp nhàng với thầy thuốc, cố sức rặn ra thì cũng
vẫn đẻ được. Thế nhưng Phạm Ngọc Lan lúc này làm gì còn sức mà phối hợp, nằm thẳng đơ ra đấy, không còn cả sức để vật vã kêu rên như lúc đầu nữa. Thái y Công Tôn luống cuống cả chân tay, trán cũng toát mồ hôi, nổ cả đom đóm mắt, hai tay run rẩy, chúi đầu xuống đất… Đúng vào lúc đó, ngoài sân có tiếng hỏi:
– Thế nào? Sinh rồi chứ, cả mẹ cả con đều bình an chứ? Mau tránh ra, để ta vào xem nào!
Trong khi còn đang nói, còn chưa kịp bẩm báo vào trong, một người đàn bà trông hệt như Dạ Xoa bước vào…
Như trên vừa kể, Điền Bằng phu nhân Phạm Ngọc Lan đẻ khó, thai nhi ra ngang, Thái y Công Tôn Hồi Xuân đành chịu bó tay, vã mồ hôi trán, mắt nổ đom đóm, hai tay run rẩy, chúi đầu xuống đất, đúng lúc đó, có một người đàn bà như quỷ dạ xoa, xông vào nhà. Sau khi vào nhà, người đàn bà ấy chẳng hỏi đầu đuôi xuôi ngược, liền đi rửa sạch tay và bắt đầu hành động, vừa làm vừa ca cẩm trách mọi người chẳng biết cái gì cả, chê thái y là đồ vô tích sự, làm như chỉ có bà ta, mới là chủ nhân của Điền phủ, mới là chúa tể của căn phòng này. Cách làm của bà ta hoàn toàn ngược lại với thái y, không bắt phu nhân cố rặn, muốn cái thai nhanh chóng được đẻ ra, mà để cho sản phụ thu bụng về thở đều, còn bà ta thì lấy tay đẩy cái đầu gối của thai nhi trở lại, sau đó dùng cả hai tay mình nhẹ nhàng xoa bóp, sờ nắn trên cái bụng nhô cao như mỏm đồi của Ngọc Lan. Như thế, Ngọc Lan có cảm giác sự dày vò bớt đi nhiều, mồ hôi hột trên mặt cũng dần dần ít đi, nét mặt từ trắng bệch như giấy bỗng chuyển sang vàng như sáp, rồi dần dần xuất hiện vài tia máu hồng, nhịp thở cũng đều đặn hơn trước đó. Không biết như thế bao nhiêu lâu bà dạ xoa ấy ấn mạnh vào phần bụng dưới nhô cao, Ngọc Lan giật bắn mình như một người chết sống lại tiếp tục vật vã miệng lại tru tréo kêu rên.
Bà ta bảo Ngọc Lan hãy nghiến răng và nín hơi, không được kêu, nhưng đời nào Ngọc Lan chịu nghe cho được, còn kêu
dữ dội hơn. Cực chẳng đã, bà ta đưa tay bịt lấy miệng Ngọc Lan, tay kia tiếp tục xoa bóp, như thế là toàn bộ hơi sức của Ngọc Lan lúc này đã có thể dồn xuống dưới, không thể dồn lên. Áng chừng hút tàn điếu thuốc, phần thai nhi nhô ra không phải là đầu gối của đứa trẻ, mà là cái đỉnh đầu tròn trịa đen láy. Cái đầu nhô ra của thai nhi mỗi lúc mỗi to dần, đột nhiên bà đỡ ôm ngang lưng Ngọc Lan, như thể vực nàng ngồi phắt dậy. Ngọc Lan hét lên một tiếng như xé ruột. Cũng lúc đó ở ngoài trời, tiếng sấm long trời lở đất như muốn nổ tung căn phòng bị bóng tối bao trùm này, tiếp đó là tiếng kêu gào đầu tiên của đứa trẻ sinh ra trên cõi đời đầy tai ương hoạn nạn này…
Tiếng khóc của đứa trẻ rộ lên từng cơn đã xua tan những đám mây che phủ bầu trời, làm khô đi những giọt mồ hôi trên trán mọi người, những trái tim thấp thỏm lo âu cũng được yên ắng lại, cả gian phòng rạng rỡ ánh mắt tươi vui và đầy không khí phấn khởi. Phạm Ngọc Lan ngủ thiếp đi, mặc cho người khác sắp đặt. Khi nàng chợt tỉnh bởi tiếng khóc oa oa của đứa trẻ, nàng mới ý thức được rằng thế là mình đã hoàn thành được sứ mạng mà người đàn bà nào cũng phải hoàn thành. Mọi nỗi khổ đau như đã bị tiêu tan hết, lúc này bao trùm lấy nàng chỉ còn ấm áp, ngọt ngào và sung sướng. Vất vả lắm, nàng mới trở nghiêng được mình, định đưa đầu vú vào miệng con, thế nhưng chàng tí lúc đó mắt cũng không thèm mở, chỉ biết ra công khóc, hai bàn tay nhỏ xíu nắm chặt lại, đôi chân thay nhau đạp cựa lung tung. Xem chừng đây cũng lại là một con người quật cường, không cam chịu theo sự thăng trầm của thế tục, một võ tướng muốn ra tay chống lại cái xã hội rối loạn này.
Người đàn bà trông như quỷ dạ xoa ấy là Ngô Xuân Nương, lang thang đây đó chữa bệnh kiếm ăn, do sở trường về đỡ đẻ, nên nổi tiếng xa gần, cứu được nhiều người nên người ta gọi bà là Ngô Bồ Tát. Trước đây, do quê hương bị thiên tai đói kém, bà phải theo cha lưu lạc sang Tề, may được Điền phủ chu cấp cưu mang, nên mới giữ được mạng sống cho cả nhà từ trẻ đến già, bởi thế mang ơn. Gần đây, nghe nói Điền Bằng phu nhân trở dạ đẻ khó, cho nên bà từ tỉnh ngoài đi ngày đi đêm để về kịp và sự việc đã diễn ra đúng với sở nguyện của mình nên lòng thấy được an ủi rất nhiều.
Theo phong tục nước Tề, sau khi sinh (con trai thì sáu ngày, mười hai ngày, con gái thì năm ngày) có nghĩa là sau khi đứa trẻ ra đời, trong những ngày này, phải sửa tiệc đãi khách, chúc mừng rầm rộ. Mức độ long trọng đến đâu, đương nhiên phải cân nhắc theo hoàn cảnh từng người. Như nhà họ Điền, mang tiếng một danh môn quý tộc, đứa trẻ lại là con trai, đương nhiên là không thể không bày tiệc lớn, bè bạn cao sang chật quanh mâm, thân thích họ hàng đến chật nhà trên nhà dưới, rồi dăng đèn kết hoa, trang trí trong ngoài để rầm rộ chúc mừng một phen. Tuy nhiên, họ không làm như vậy, vì cha của đứa trẻ là Điền Bằng đang cùng với vua đi sứ nước Tấn; ông nội của đứa trẻ là Điền Thư, hiện đang đem quân đi đánh lớn ở Hiệp Cốc, muốn chúc mừng thế nào, cũng phải đợi cha và ông đứa trẻ trở về rồi mới quyết định được. Chưa nói đến ăn mừng, đứa trẻ ra đời đã mười hôm rồi, cái tên còn chưa đặt được nữa là… Bởi theo phong tục thì tên đứa trẻ là gì, phải do ông nội của nó đặt cho.
Tuy có lời đề nghị“dẹp binh” của Hướng Nhung nước Tống, Triệu Vũ nước Tấn, Khuất Kiến nước Sở…nêu ra, rồi hiệp
nghị về nghiêm cấm các nước công phạt nhau mà mười ba nước Tấn, Sở, Tề, Lỗ… Đã đi đến nhất trí khi họp liên minh ở nước Tống năm 546 trước CN, thế nhưng trong cái thời đại phân tranh này, minh ước tuy cũng có tác dụng ràng buộc nhất định, nhưng những chư hầu thực sự giữ tín nghĩa, nghiêm chỉnh thực hiện minh ước thì chẳng có bao nhiêu, nhất là các nước lớn, các nước mạnh, họ coi việc xé bỏ những lời cam kết như trò trẻ con. Mùa thu năm thứ hai, sau khi mười ba nước liên minh với nhau ở Thương Khưu, nước Lỗ đã gây nên xung đột ở biên giới, Tề Cảnh Công sai đại tướng Điền Thư mang quân đi đánh dẹp.
Tề, Lỗ là hai nước sát vách nhau, lại có mối liên duyên lâu đời trong tình cậu cháu, nhưng quan hệ lại rất tồi tệ, thường xuyên loè bịp lừa gạt nhau, tranh giành nhau, khiến nhân dân hai nước luôn sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng. Nước Tề mạnh, nước Lỗ yếu, nên số lần nước Tề mang quân sang xâm lấn nước Lỗ cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, nước Lỗ cũng không phải tay vừa, cứ như một con dế ham đấu, thường dám nhảy cả lên mào gà mà ra oai. Mùa xuân năm 545 trước CN, minh ước Thương Khưu còn chưa ráo mực, nước Lỗ lấy cớ quân Tề bắt và giết dê cừu của dân du mục nước mình, nên đã gây cuộc xung đột biên giới, cử một trong “Tam Hoàn” là Mạnh Tôn Thị làm tướng, đem mười vạn quân đi chinh phạt nước Tề. Nhận được tin báo từ biên giới, Tề Cảnh Công cho chiêu tập quần thần để bàn việc trừng phạt lại nước Lỗ. Thế tập đại phu Điền Thư tướng quân, nguyện đem quân đi đánh, và xin rằng:
– Mạnh Tôn Thị của nước Lỗ, chỉ là một phường phàm phu tục tử, sao lại dám ngông cuồng ngang ngược thế, thần sẽ
đem quân đi bắt hắn về đây, việc ấy thật dễ như lấy đồ trong túi!
Tề Cảnh Công nghe vậy liền nói:
– Xưa nay kiêu binh tất sẽ bại, sao ái khanh lại có thể khinh địch đến thế?
Điền Thư biện bạch:
– Không phải là thần kiêu căng khinh địch. Lỗ Tương Công với “Tam Hoàn” quả thực là không hiểu gì về chiến sự. Đất Hiệp Cốc núi cao rãnh hiểm, rừng sâu cây rậm, đem quân mười vạn chẳng khác chi hùm vào ngõ sâu, cá kình lên suối nhỏ, quân có nhiều đến đâu, tướng soái có mạnh đến đâu, cũng phỏng có ích gì. Thần chỉ xin mang một vạn quân tinh nhuệ, đến đó để ứng chiến, không thu toàn thắng, xin chịu quân pháp!
Thấy lời lẽ của Điền Thư có lý, vả lại thấy ông xưa nay chưa bao giờ nói điều gì quá đáng, chưa làm việc gì liều lĩnh, sự vững mạnh thì có thừa, nhưng hăng hái xem ra còn chưa đủ, Tề Cảnh Công liền tranh thủ sự đồng ý của các bậc lão thần, rồi mới giáng chỉ phát binh, kéo quân đến Hiệp Cốc.
Hiệp Cốc ở vùng núi Nghi Mông, là đất cát cứ để phân chia ranh giới giữa nước Tề và nước Lỗ, núi non trập trùng hiểm trở, suối khe dọc ngang chằng chịt, trời không râm cũng tự tối, ngày đang nắng vẫn âm u, lang sói thấp thoáng trên rừng, rắn rết từng bầy dưới đất, ngựa leo lên cũng trẹo chân, xe vào khe cũng mất lối. Quân Lỗ muốn triển khai tác chiến
đại binh đoàn ở đây, có khác gì lùa đàn cừu ra chợ. Đương nhiên, Lỗ Tương Công với “Tam Hoàn” cũng không phải ngốc đến mức không biết ngày rạng đêm đen, cha khôn con dại, mà họ muốn xuất kỳ bất ý, mau chóng vượt qua vùng núi Nghi Mông, đánh thẳng vào Lâm Tri kinh đô nước Tề, đặt nước Tề vào đất chết. Nhưng họ có biết đâu rằng: Nước Tề chẳng hề giống như con chó chết, mà là một con sói đang còn sống, đang lúc Mạnh Tôn Thị gảy bàn tính rào rào, Điền Thư đã đem quân chặn ngang đường, còn bít mất cả đường về của quân Lỗ.
Gần mười vạn quân bị vây chặt ở vùng rừng thiêng nước độc, cây đá âm u, muốn tiến không được, muốn lui cũng không xong, cứ y như chuột chui vào bễ lò rèn. Điền Thư không hề đem quân trực tiếp đọ sức với nước Lỗ, mà ém quân mình ở chỗ hiểm yếu những nơi quan ải, nằm kín ở trong rừng cây bụi cỏ, chiếm lấy đỉnh của núi cao, tìm cơ hội để đánh úp tiêu diệt địch. Do những nguyên nhân hình thành trong lịch sử quân Lỗ xưa nay vốn đã sợ quân Tề, đối với người giỏi cầm quân như tướng quân Điền Thư, nghe đến tên lại càng sợ mất mật. Thêm nữa, từ lúc giao chiến trở đi, quân Lỗ phơi ra chỗ trống, quân Tề ở chỗ kín. Quân Tề đã bỏ xe mà đổi sang dùng ngựa, cơ động linh hoạt, xuất quỷ nhập thần, làm cho quân Lỗ loay hoay bị động, đi đến đâu bị đánh đến đấy, lúng túng tứ bề, không tự chủ được, lòng quân nhốn nháo, hơi tí đã sợ, nhìn đâu cũng thấy quân Tề. Cầm cự chưa được nửa tháng, lương thảo quân Lỗ mang theo gần cạn, hàng chục vạn người ngựa bị vây hãm giữa rừng sâu, quan quân đói khát không chịu nổi quay ra oán thán lẫn nhau, thường chỉ vì chuyện tranh giành lương thực mà chẳng ai đánh cũng tan hoặc tự chém giết nhau. Trước
hiện thực như vậy của quân Lỗ, Điền Thư đã áp dụng hàng loạt chiến thuật dụ địch hoặc đánh vào lòng người.
Một toán con buôn, lùa theo một đoàn ngựa, chở lương thực và đồ dùng đi qua hẻm núi, nhìn bộ dạng có vẻ như đem các thứ sang nước Lỗ bán. Từ xa, quân Lỗ đã phát hiện thấy, đời nào lại chịu bỏ qua, vội vàng đuổi gấp theo sau hòng cướp lấy để nhét vào những cái dạ dày đang lép kẹp. Đương nhiên đám con buôn cũng chẳng chịu khoanh tay chịu trói, nghe thấy tiếng hô hoán, vội vàng bỏ chạy. Thế là một bên chạy, một bên đuổi, đuổi mãi đến hẻm một quả núi cao; hàng vạn mũi tên bắn ra rào rào như mưa, đá lớn từ trên dốc cao lăn xuống, lần lượt đập cho quân lính nước Lỗ nát nhừ như tương. Chẳng lẽ quân Lỗ lại không biết tìm đường quay lui? Đương nhiên là có! Nhưng đường về của chúng đã bị quân Tề ém chặt, đành phải chịu để cho quân Tề đông gấp nhiều lần từ trên cao xô xuống chém giết.
Mưa xong trời tạnh, từng đoàn các cô gái quần áo loè loẹt mang làn tre trên tay, miệng hát sơn ca nói nói cười cười, ríu rít đi vào rừng sâu hái nấm. Bị gò bó lâu ngày ở trốn xa trường, quân lính nước Lỗ nhìn thấy bóng đàn bà con gái làm gì mà chẳng nhao nhao lên như ngồi vào lửa, tên nào tên ấy lồng lên như thú muốn ra vồ ngay đến các cô gái. Các cô gái thấy vậy, cũng bỏ chạy tán loạn khắp nơi, trốn vào rừng cây, chui vào búi cỏ. Có biết đâu chỗ các cô gái vào ra đấy, lại là nơi mai phục của quân Tề. Chờ cho quân Lỗ đuổi gần đến trước mặt, sau một tiếng huýt sáo báo hiệu, quân Tề nhất loạt đánh ra, do không có đề phòng, nên quân Lỗ bị đánh cho tơi tả; chạy tán loạn các nơi, máu me bê bết.
Cùng với ngày tháng trôi đi, đói khát đã đe doạ nghiêm trọng đến quan quân nước Lỗ, thậm chí đã tới mức phải giết ngựa để ăn trừ bữa. Từ lính đến quan bỏ quân ngũ ngày một nhiều. Quanh những chuyện như lương ăn, tìm đường sống, số mệnh, tiền đồ… Giữa Mạnh Tôn Thị và các tướng lĩnh, giữa cấp trên với cấp dưới trong quân đội, giữa các phái hệ với nhau… Mâu thuẫn ngày càng phức tạp kịch liệt đến mức độ căng thẳng công khai, tựa hồ như một đám nhựa khô, chỉ cần một tia lửa là có thể bốc cháy thành biển lửa ngút trời. Dần về sau, những chuyện đánh nhau giành lương thực, giết chết quân quan thường xuyên xảy ra. Quân Lỗ đói đến mức như một bầy ong, rối loạn lên như một nồi canh hẹ, như thế khó mà nói đến sức chiến đấu. Quân Tề vốn hoàn toàn có thể thừa dịp mở cuộc tấn công toàn diện, đánh một trận để tiêu diệt địch. Tuy nhiên, Điền Thư lại không muốn làm như thế, bởi vì “chó cùng rứt giậu”, đánh giết chúng, tất hai bên đều sẽ bị thương vong, dù cho có nắm được phần thắng tuyệt đối, thì phía mình cũng phải trả giá, ông lại không muốn nhìn thấy tướng sĩ của mình phải đổ máu hy sinh. Hơn thế nữa, giết nhiều địch, không hẳn là thiên chức của một nhà quân sự, cầm quân không đánh mà khuất phục được địch, thế mới là một nhà chỉ huy sáng suốt.
Từ trong khe núi, trên bãi cỏ, trong lùm cây, quân lính nước Lỗ đói đến nỗi không cất nổi đầu lên, ôm khí giới trong lòng, đứa nằm sấp, kẻ nằm ngửa, hoặc đứng hoặc ngồi dựa vào nhau, bỗng nhiên từ đâu thoảng tới mùi cơm chín, người nào người nấy thèm nhỏ dãi ra. Trong số binh lính ấy có kẻ nào bạo dạn, hoặc đói quá không chịu nổi, len lén bò dậy, nhoài tới hướng có mùi cơm thơm. Một tên, hai tên, rồi cả chục tên, đám quân Lỗ ấy bất chấp cả nguy hiểm tới tính
mạng, đã sang xin ăn bên quân Tề. Trong trường hợp này, chỉ làm sao giữ được mạng sống của mình, còn bất kể việc gì chúng cũng có thể làm. Tướng sĩ quân đội nước Tề, chẳng những hữu hảo, mà còn khảng khái và rộng bụng, họ coi quân lính nước Lỗ như người thân, như anh em mình, không những họ cho ăn no, mà còn để người nào người nấy thả sức mang về. Cấp trên của quân Lỗ phát hiện ra, đương nhiên là chửi mắng, đánh đập và cấm đoán họ. Có điều, cấp trên cũng là người do cha mẹ sinh ra, cũng là xương thịt, cũng biết rằng chịu đói “sung sướng” như thế nào rồi nên dần dần họ có thấy cũng làm ngơ coi như không biết. Thậm chí còn ngầm xúi giục và ủng hộ cho lính ra đi, bởi đám lính tráng ấy quay về rất có thể còn đem về cho chút cơm thừa canh cặn, đủ ăn để sống.
Binh lính quân Lỗ đã mắt thấy tai nghe sự đãi ngộ quân Tề hết sức nồng hậu, chẳng những có thể được ăn no cơm trắng và ánh hấp, mà còn có thịt, có rượu nữa. Rượu của quân Tề mới thơm, mới quyến rũ làm sao khiến cho họ không thể nào không nhỏ dãi ra vì thèm được.
Quân Tề đem cho quân Lỗ từng bao gạo, từng xe bột mì kèm theo những bức thư chan chứa nhiệt tình, khuyên quân sĩ bên Lỗ hãy cải tà qui chính, làm lại cuộc đời.
Ngón đòn ấy của Điền Thư quả là ghê gớm, chẳng mất một nhát dao một cây thương, chẳng thiệt một mạng lính nào, làm cho quân Lỗ như tảng băng trong lửa, như tuyết dưới mặt trời, tự động tan rã, mỗi ngày chạy trốn sang trại lính Tề có tới hàng ngàn quân. Mạnh Tôn Thịthấy tình thế tồi tệ,
vội vàng xin hàng, lại ký minh ước với Điền Thư, thu thập đám quân bại tướng thảm hại quay về chịu tội.
Lúc Điền Thư ca khúc khải hoàn về đến nhà mình, đã là ngày bảy tháng chạp, hôm sau đã là ngày thứ một trăm Tôn Tử ra đời. Theo phong tục nước Tề, ngày này phải làm lễ thật to để lấy may, buổi lễ mừng này tục gọi là “sống trăm năm”. Vì cha là Điền Bằng và ông là Điền Thư đều công cán nơi xa, nên ăn mừng ngày thứ sáu, ngày thứ mười hai đều chưa làm được, do vậy nên lễ “trăm năm” đương nhiên là long trọng khác thường, lại rộn rã treo đèn kết hoa, khách khứa đầy nhà, đàn hát rộn rã, niềm vui ngập tràn. Rượu được ba tuần, thức ăn năm món, Điền Thư sai vú em bế ông nhỏ ra cho các vị bạn bè và người thân xem mặt. Đương nhiên điều đó cũng không ngoài ý muốn khoe khoang mà cũng theo lệ thường, mỗi vị đến dự tiệc đều phải cho tiền mừng tuổi, cho nên tiền mừng và những lời khen ngợi tâng bốc, cứ như nước rửa tội ở nhà thờ tới tấp trút lên mình cậu bé, có lúc tiền còn rơi leng keng cả dưới đất. Có người hỏi đến tên cậu bé, Điền Thư ớ người ra, liền quay sang hỏi mẹ già cao tuổi ngồi bên, bà mẹ nói như có ý trách móc:
– Đã đến lễ trăm năm rồi mà còn chưa có tên. – Tại sao thế? – Điền Thư hầu như rất lấy làm lạ.
– Có mà anh mừng quá hoá lú lẫn mất rồi! – Bà nội cười lên ha hả, hai mắt tít lại thành một vạch ngang – ông nội nó đi đánh giặc xa, hôm qua mới về, thì lấy ai đặt tên cho thằng bé?
– À ra thế! À ra thế… – Điền Thư thẹn đỏ cả mặt, đó là cử chỉ cáo lỗi với mẹ và với con trai mình. Ông đón cháu nội mình vào lòng, hôn hít một hồi, rồi trêu chọc một hồi, vui mừng hể hả nói – Các vị hãy xem đây, thằng bé này vóc dáng to lớn hơn những đứa trẻ bình thường, chân tay to khoẻ, đầu như đầu hổ, hai mắt trong sáng tinh anh, nhất định lại sẽ trở thành một viên võ tướng. Điều đó cũng nói lên rằng: Họ Điền nhà ta về sau sẽ có người nối dõi, võ vận sẽ lâu dài, thế thì lấy tên là Điền Vũ, tự Tử Khanh, các vị thấy thế nào?
Sảnh đường bỗng ran lên tiếng vỗ tay khen ngợi và tiếng reo vui hồi lâu không dứt…
Nước Tề khi Điền Vũ ra đời, cục diện chính trị rất không ổn định. Tề Tráng công tư thông với Đường Khương là vợ của quan hữu khanh Thôi Trữ. Đường Khương là người đàn bà có nhan sắc, Tráng Công mong nhớ đêm ngày, quên ăn quên ngủ. Hai người đã giấu Thôi Trữ, đầu gối tay ấp, chung chăn chung gối, chung tình mây mưa. Trên đời này bức vách có tai; có kim bọc giẻ lâu ngày rồi cũng lòi ra. Thôi Trữ về sau cũng phát hiện ra điều bí ẩn đó nên ngày Ất Hợi tháng năm mùa hè năm 548 trước CN đã bầy mưu giết chết Tề Tráng Công và dũng sĩ tuỳ tùng của ông ta là Giả Cử, Châu Xước… sau khi Tráng Công qua đời, Thôi Trữ lập em mình là Chử Cữu lên làm vua, tức là Cảnh Công. Khi Tráng Công chết, Yến Anh khóc lóc thảm thiết, vừa khóc vừa chửi rủa bọn gian tặc. Thôi Trữ tuy căm hận hắn đến bầm gan tím ruột, nhưng sợ vì Yến Anh xưa nay vẫn được lòng dân nên không dám hỏi tội. Bất kể một kẻ nào có âm mưu hay kẻ nào có dã tâm cũng đều không dám nhìn thẳng vào sự thực. Thôi Trữ tuy có gan và có bản lĩnh giết Tráng Công, nhưng lại không
dám để cho các thái sử viết những sự thực đó vào trong lịch sử. Ông ta còn bịa ra tin đồn, nói láo rằng Tráng Công chết vì sốt rét, mong bóp méo lịch sử đánh lừa người đời sau.
Thái sử không theo lệnh ấy, với đại nghĩa đường hoàng lẫm liệt đã viết rằng: “Ngày Ất Hợi mùa hè năm Chu Linh Vương thứ hai mươi bốn, Thôi Trữ đã giết vua của mình là Quang”. Ba anh em nối tiếp nhau viết thế, đều bị Thôi Trữ giết hết. Đến người em thứ tư cũng vẫn không chịu khuất phục, vẫn cứ viết như trước. Thôi Trữ giằng lấy cái thẻ gỗ vừa đe vừa dụ:
– Ba anh của ông đều chết, chẳng lẽ ông lại không thiết đến cái mạng của mình? Nếu cũng viết như thế, đêm nay ông sẽ chết.
Người em thứ tư ấy đáp:
– Căn cứ vào sự thực mà viết thẳng ra, đó là chức trách của sử gia. Sống mà không tròn chức trách, thì chẳng thà chết đi còn hơn! Xưa Triệu Thuẫn giết Tấn Linh Công, Thái sử là Đổng Hồ đã viết thẳng ra rằng: “Triệu Thuẫn giết vua của mình là Di Bao”. Thuẫn là chính khanh, không lấy làm lạ, vì biết rằng chức viết sử không thể bỏ đi được. Người nào đó không viết ngay, thì sẽ có người khác viết, lời lẽ vu vơ bằng mực làm sao có thể che đậy được sự thực bằng máu…
Thôi Trữ chẳng biết làm sao, đành vứt thẻ gỗ trả cho thái sử, mặc cho ông viết thẳng ra, bực bội bỏ đi.
Tề Cảnh Công lên ngôi, lấy Thôi Trữ làm hữu thừa tướng, Khánh Phong làm tả thừa tướng, cùng nắm việc triều chính.
Năm Tề Cảnh Công thứ hai, gia đình họ Thôi hỗn loạn, Khánh Phong thừa cơ diệt cả dòng họ ấy. Thôi Trữ tự sát, Khánh Phong một mình nắm quyền bính trong nước.
Năm Tề Cảnh Công thứ ba, cũng là năm Điền Vũ ra đời, các dòng họ Loan, Cao, Trần, Bào cùng đánh họ Khánh, Khánh Phong trước còn lánh sang nước Lỗ, tiếp đó lại theo nước Ngô.
Điền Vũ như một mầm cây non được sống trong mảnh ruộng mà điều kiện mọi mặt đều tốt đẹp, ở đấy chất đất phì nhiêu, nước nôi đầy đủ, ánh sáng chan hoà, khí hậu thích hợp, không khí trong sạch và ẩm ướt mầm cây cứ thế mà đón gió và mặt trời lớn lên nhanh chóng.
Cậu lại giống như một chồi cây ngô đồng mọc ở hốc núi chỗ thừa ánh nắng mà lại khuất gió, xanh ngăn ngắt, mượt như nhung, đẫy đà và bóng bẩy, non mơ màng như củ cải, bấm một cái nước tứa ngay ra. Chồi cây đó kiêu hãnh vươn mình lớn lên từng ngày.
Cậu lại rất giống như một chú ngựa non, mắt to, tai dỏng, bụng thon mông tròn, mặc lĩnh khoác đoạn lên mình, bóng láng như nước, bờm xanh rung lên, bốn vó kêu như gió, vươn cổ hý dài, sư tử quay đầu, hỗ dữ cũng phải tránh.
Những điều mô tả ở trên, không có nghĩa là chỉ nói về vẻ tướng mạo của Điền Vũ, mà nhiều hơn là biểu hiện làm cảnh sống, tài khí, học thức và sự trưởng thành của cậu bé.
Thông minh, nhanh nhẹn là đặc tính chủ yếu của Điền Vũ ở tuổi thiếu thời. Vầng trán rộng và sáng bóng lên của cậu đánh dấu về nhịp độ và dung lượng tri thức mà cậu có thể tiếp thu. Đôi mắt sáng như bốc lửa của cậu nói lên với mọi người rằng: Thần trí của cậu bé này nhạy bén hơn người, sâu không thể nào dò.
Có một cái hồ chứa nước có dung lượng rất lớn, qua cái ống ngầm thiết kế ở dưới đáy hồ, xả nước ra tưới cho hàng chục vạn mẫu ruộng phía hạ lưu. Mỗi khi mở cái cửa kè ở miệng cống, hồ nước sẽ bị xoáy hút, rồi sóng nhô cao lên đập thành bọt trắng, xô nhau vào miệng cống, gầm réo lên, rung động cả vách núi. Nếu như ví vốn liếng tri thức mà loài người sáng tạo ra với hồ nước mênh mông, thì việc học tập của Điền Vũ chính là động tác mở cửa kè để xả nước, vừa hút xuống vừa nuốt trôi đi ùng ục ùng ục, tốc độ nhanh như thế, số lượng nhiều như thế, dung lượng lớn như thế khiến người ta phải trố mắt ngạc nhiên.
Điền Thư và Điền Bằng quanh năm xa nhà, gánh nặng nuôi dạy Điền Vũ hầu như đặt cả lên đôi vai của bà mẹ trẻ Phạm Ngọc Lan. Cũng may Ngọc Lan lại xuất thân ở một gia đình danh môn khuê tú, từ nhỏ đã được tiếp thu một nền giáo dục tốt đẹp, tri thức rất phong phú và nắm được rất sâu. Mở đầu, bà mẹ ấy đã kể cho Điền Vũ con mình những thần thoại từ ngày xưa, dùng những hình tượng anh hùng để vũ trang cho đầu óc của cậu bé, hun đúc tiết tháo cho cậu, làm phong phú
sức tưởng tượng và tinh thần sáng tạo của cậu. Chẳng hạn như chuyện Bàn Cổ khai thiên lập địa, chim tinh vệ tha gỗ tha đá lấp biển Đông, Nữ Oa luyện đá màu để vá trời và lấy đất sét để nặn ra loài người. Để cho giống người được sinh sôi nảy nở, anh em Phục Hy và Nữ Oa đã lấy nhau làm vợ
chồng; Viêm đế dạy nhân dân trồng ngô lúa; Hoàng đế đóng xe đóng thuyền cho dân, Khoa Phụ đuổi mặt trời, Ngu công dời núi, Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời, Đại Vũ đi trị thuỷ xa nhà ba năm ba lần đi qua cửa nhà mình mà không về… Tiếp đó, Ngọc Lan lại giảng cho Điền Vũ nghe về “Thi”, về “Lễ”, về “Thư”, về “Chu Dịch”, dạy con bày bát quái.
Hoặc là ngày, hoặc là đêm, hai mẹ con ngồi đối diện bên bàn, một người thì nói có ngọn có ngành, một người thì chăm chú nghe như nuốt từng lời. Đáng tiếc là bà mẹ học vấn uyên thâm như thế nhiều lúc bị cậu con như đói như khát hỏi cho đến cứng cả họng không sao trả lời được. Thí dụ cậu con hỏi, trước khi có trời đất, tất cả đều hỗn độn tối om như trong một quả trứng, thế thì ông Bàn Cổ ở đâu ra? Cái búa ông dùng để khai thiên lập địa là ai làm cho ông ấy? Tại sao chim tinh vệ lại đi tha gỗ tha đá về lấp biển? Mẹ nó bảo nó làm như thế hay sao? Tại sao mẹ nó không dẫn nó cùng đi lấp? Nữ Oa đã là mẹ của loài người, không có Nữ Oa thì không có xã hội loài người ngày nay, thế thì tại sao đàn bà lại bị xã hội khinh ghét như thế, chẳng có một chút địa vị xã hội nào như thế? Ngu công cũng chẳng phải là thông minh lắm, tại sao ông ta không dời nhà ra xa núi mà ở?
Dời nhà chẳng dễ hơn dời núi hay sao? Hoàng đế và Viêm đế đều rất vĩ đại, tại sao họ lại gây chiến công phạt lẫn nhau, đoàn kết hợp tác với nhau có phải tốt hơn không? Đế Tuấn
là người xấu như thế, suốt ngày làm việc ác, dâng nước lũ trừng phạt loài người, Hậu Nghệ bắn trăm phát trăm trúng như thế, tại sao không bắn chết hắn đi để trừ hại cho nhân gian? … Mỗi lúc như thế, người mẹ trẻ chỉ còn biết đỏ bừng mặt lên, thẹn không biết lánh đi đâu. Để khỏi ảnh hưởng đến sự phát triển trí lực và tăng thêm hiểu biết cho con, nhất là không làm chậm trễ bước đi sau này của con, Ngọc Lan bỗng nảy ra ý định lập trường tư, mời gia sư về dạy học.
Một hôm, Ngọc Lan đang kể cho con nghe câu chuyện Hằng Nga; nói về vẻ đẹp siêu thần thoát tục của Hằng Nga, kể về chuyện nàng theo chồng xuống trần gian, sống không quen với cuộc sống gian khổ tương cà mắm muối, nói về chuyện nàng đã ăn vụng thuốc tiên của chồng, bay lên cung trăng, bỏ lại người chồng sống cuộc sống đơn côi cực khổ ở trần gian, nói chuyện Thượng đế giáng chức Hằng Nga biến nàng thành con cóc xấu xí ai ai cũng ghét. Ngọc Lan bình luận: “Một nàng tiên sinh đẹp như thế, bị biến thành một con cóc xấu xí, thật là đáng tiếc, bụng dạ của Thiên đế cũng thật là quá ác độc”.
Cậu bé Điền Vũ mới lên năm, tỏ ra không đồng ý với cách nhìn nhận của mẹ mình, bác lại rằng:
– Mười mặt trời cùng mọc, mặt đất quá nóng bỏng, lúa mạ chết hết, vườn ruộng hoang vu, chim thú chạy mất hết, mặt đất trở nên hoang vắng, để cứu loài người đang trong cơn nước sôi lửa bỏng, mặc dù bị các thiên thần địa kỳ nhao nhao phản đối, Hậu Nghệ đành phản lại triều đình, bỏ
xuống trần gian, giương cung lên bắn chín mặt trời, cứu được nhân loại đang sắp bị tai ương lút đầu đó là một hành
động lớn lao anh hùng biết bao? Thế mà Hằng Nga lại phản bội chàng, ăn vụng thuốc tiên để lên cung trăng, đó lại là một linh hồn ti tiện nhơ bẩn biết bao, Thiên đế bắt nàng biến thành con cóc xấu xí để ngàn người khinh ghét, vạn người phỉ nhổ, chẳng phải là đáng tội lắm sao? Chỉ có cái xác xinh, mà không có một linh hồn đẹp, thì không bằng đống phân chó của loài người, có quái gì mà đáng tiếc?
Mẹ cũng chê nghèo yêu giàu, mạnh ai ôm áo người ấy như Hằng Nga, thì con cũng chẳng nhận một người mẹ như thế…
Phạm Ngọc Lan đâm ra e thẹn cúi đầu, một lúc lâu không nói gì.
Lại có một lần Phạm Ngọc Lan kể cho con trai mình nghe về công đức vô lượng của Đường – Nghiêu. Cứ như lời nàng tả, thì Nghiêu là một ông vua chí nhân chí thánh, là một con người trọn vẹn mọi vẻ từ chân đến đầu…
– Theo ý con Nghiêu chưa chắc đã cái gì cũng tốt như thế – Điền Vũ cắt ngang lời mẹ mình, hiên ngang ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào mặt mẹ mình không chớp mắt.
Câu nói ấy của Điền Vũ Khiến cho người mẹ trẻ kinh ngạc và sợ hãi đến sởn gai gà, một tí tuổi đầu mà lại dám xấc xược với các bậc thánh triết tiên hiền thế có chết người không kia chứ, đúng là “điếc không sợ sấm” …
Vẻ mặt của người mẹ khiến cậu con trai sững sờ, chẳng hiểu ra làm sao, liền hỏi:
– Mẹ ơi! Con nói sai câu gì hay sao? “Ngọc không thể không có vết, người không thể cái gì cũng tốt”, chính mẹ đã chẳng thường dạy con như thế đó sao?
Phạm Ngọc Lan nghiêm nét mặt nói:
– “Ngọc không thể không có vết, người không thể cái gì cũng tốt”, là nói với người thường, với thánh nhân thì phải nói khác.
Điền Vũ đã thẳng thắn phản bác lại:
– Nghiêu có những bề tôi như Tương Liễu, Khổng Nhâm, Tam Miêu, đều là những hạng hại dân hại nước, là đồ chết còn chưa hết tội, thế mà Nghiêu đối với họ có thể nói là nhân đức hết mực, hết lần này đến lần khác tha cho họ những tội ác tày đình. Cổn theo lệnh vua đi trị thuỷ chín năm, bỏ cả vợ con, chịu đủ trăm ngàn cay đắng. Tuy rằng ông có những điểm lớn như kiêu ngạo tự phụ, ương ngạnh bướng bỉnh, thế nhưng suy cho cùng ông cũng dốc lòng vì việc công, luôn nghĩ đến dân, để cứu muôn dân trăm họ ra khỏi cơn tai hoạ nặng nề, đã chẳng từ nan xông vào nơi khó khăn nước lửa. Về sau chủ yếu là do mưa bão, rò rỉ, động đất… nên những con đê to Cổn đắp lên có chỗ bị sạt vỡ, gây nên nạn lụt kinh hoàng cho dân chúng, Nghiêu bèn xử ông ta tội chết ở Vũ Uyên. Đối với bọn độc ác như Tương Liễu, sao Nghiêu lại khoan dung thế, nhưng đối với người phạm sai lầm như Cổn thì sao lại tàn khốc thế. So sánh hai việc, lẽ nào lại là công bằng ư? Việc xử sự của Nghiêu chẳng lẽ lại không có chỗ nào
sai sót hay sao? Thế nên mới bảo “người không thể nói cái gì cũng tốt” là kể cả thánh nhân.
Người mẹ trẻ lại một lần nữa cứng họng ra chẳng nói được gì, ửng đỏ hết cả mặt. Bà nhìn đứa con trai trước mặt mình, bỗng thấy nó cao lớn hẳn lên, như Thái Sơn, Bắc Đẩu, phải ngửa mặt lên mới nhìn thấy. Trước mặt người mẹ bỗng xuất hiện một mặt biển với sóng nước ỳ ầm, như rộng lớn khôn lường, như sâu thẳm khôn đoán, đó tựa như hình ảnh về khối óc, về tầm suy nghĩ của con trai mình. Bà mẹ ấy cứ say sưa nhìn, mê mải nghĩ và thấy tự trong lòng mình đang có một dòng mật ngọt từ từ tan ra và ngấm dần, sao nó ngọt ngào đến thế, êm dịu đến thế, thấm thía đến thế. Bỗng nhiên, bà nhào tới phía trước, quờ ôm lấy cậu bé, siết chặt vào lòng, như thể có ai đó sắp cướp đi mất… Nước mắt của người mẹ trẻ lã chã tuôn rơi, nhỏ cả lên khuôn mặt hồng hào bầu bĩnh của cậu bé – đó là những giọt những mắt xúc động, những giọt nước mắt hy vọng, những giọt nước mắt ngọt ngào, những giọt nước mắt sung sướng…
Điền Thư và Điền Bằng ghé qua nhà, Ngọc Lan đã thưa trình lại với bố chồng và khoe với chồng về sự trưởng thành của Điền Vũ, được sự đồng ý của hai người, đã mở trường tư thục ngay trong phủ, mời gia sư về dạy cho con. Tuy nhiên, làm thầy dạy cho Điền Vũ rất khó, mới có ba năm, đã phải đổi tới bốn ông thầy.
Thí dụ có một ông tên là Trương Phụng Chi, thi thư đầy một bụng, suy nghĩ về văn chương rất nhạy bén, xuất khẩu thành chương. Mỗi lần đi đâu ông đều hay tức cảnh, sinh tình, cùng Điền Vũ ngâm thơ học đối. Lòng đầy xúc động và
hứng thú, ông ngâm một câu thơ, trong tình hình không hề có sự chuẩn bị chút gì về tư tưởng, ông bảo Điền Vũ đối vào vế sau, mà lại phải đối thật chỉnh, đúng niêm luật. Ông muốn dùng cách đó để thử tài Điền Vũ và bồi dưỡng cho cậu sự linh cảm, nâng cao tốc độ phản ứng và năng lực ứng biến của cậu.
Một ngày giữa mùa xuân, thầy trò đi thuyền ven dòng Thời Thuỷ lên phía bắc. Lòng sông khúc khuỷu quanh co, nước sông rì rào cuộn chảy, gió xuân mang lại niềm sảng khoái, liễu xanh rủ dọc bờ đê, én dệt thoi mây, chim ca ríu rít, tình thơ ý hoạ, hun đúc nên tính tình con người. Phía trước không xa, ai đã bắc lên chiếc cầu cong bằng đá, ven theo chân đê ngoằn ngoèo, chiếc thuyền con lướt lên phía trước và đã tới chân cầu, rồi xuyên thẳng qua. Trương Phụng Chi ngâm lên:
– Xa đáo sơn tiền tất hữu lộ (Xe lên trước núi hẳn có đường).
Điền Vũ như đã đoán định từ trước rằng đến lúc này, thầy giáo không thể không ngâm lên câu đó, nên cậu đã buột miệng thêm rằng:
– Thuyền đáo kiều đấu tự nhiên trực (Thuyền đến chân cầu tự nhiên thẳng).
Thầy giáo Trương vui quá, ôm ghì Điền Vũ vào trong lòng mình hết lắc lại lay, lại ngâm thơ, lại cười cười nói nói, thậm chí cà cả chiếc cằm đầy râu khô cứng lên khuôn mặt bầu bĩnh của cậu bé, rậm đến nỗi Điền Vũ phải rụt xo lại như một con mèo nằm gọn trong lòng thầy giáo. Ở đây chỉ có
tình cảm và lòng mến yêu, sự tôn nghiêm của đạo thầy trò đã tạm thời biến mất. Thời Thuỷ hội nhập vào Tri Thuỷ, đến đây lòng sông rộng ra, nước sông chảy lững lờ hơn, người nằm ngửa trên thuyền, như đứa trẻ nằm trong nôi, nhìn mây trời đang bay và cây ở hai bên bờ theo nhau lùi về phía sau, nước va vào lòng thuyền nghe róc rách vui tai, thế là thầy giáo Trương bỗng ngâm lên:
– Sóng đẩy thuyền đi bờ không đi. Điền Vũ liền ứng khẩu đọc theo:
– Gió thổi mây động trời không động.
Lại một lần nữa, mặt sông vắng ran lên một trận cười.
Cũng ngày rằm tháng tám năm ấy, Phạm Ngọc Lan đã sắp sẵn một khoản lễ hậu, sai con mang đến biếu thầy giáo Trương, chúc thầy ăn Tết Trung thu vui vẻ. Thầy trò như cá gặp nước. Thấy người học trò ngoan được nâng niu như ngọc quý trên tay lần đầu đến cửa nhà thầy, còn thầy giáo Trương hết sức vui mừng và tỏ ra vô cùng thân mật, sư mẫu vội vàng đi làm những món ăn ngon nhất để thiết đãi cậu ấm của Điền phủ. Thời giờ một ngày thấm thoắt qua đi rất nhanh, chẳng mấy chốc mặt trăng đã nhô lên đầu núi đằng đông, to như một cái ô, cả ánh sáng lung linh như nước, chiếu khắp nơi sáng tựa ban ngày. Gió hiu hiu thổi như mang theo mùi thơm hoa quế ở nguyệt cung. Điền Vũ bồi hồi ở bên cạnh thầy giáo Trương. Tuy người hầu đã mấy lần giục giã, nhưng cậu vẫn bịn rịn chưa muốn dời chân. Vợ chồng Trương Phụng Chi cố nài giữ cậu ngủ lại một đêm rồi mai hãy về, nhưng lúc sang đây còn chưa hỏi mẹ mình
trước, nên Điền Vũ không dám tự tiện ở lại; cậu buột miệng ngâm rằng:
– Thanh phong hữu ý nan lưu ngã (Gió mát có lòng không giữ lại).
Theo thông lệ xưa nay của thầy trò họ, thầy giáo nhẽ ra nên ứng khẩu đối rằng “Minh nguyệt vô tâm khước chiếu nhân” (Trăng trong vô chiếu người đi), thế nhưng thầy giáo Trương lúc này đang đứng ngay trước mặt lại chỉ há miệng ra, không có lời nào đối lại, đứng ngây ra nhìn Điền Vũ và đám gia nhân ra về trên mặt không để lộ một chút tình cảm gì.
Đêm ấy, thầy giáo Trương Phụng Chi mắc bệnh tim, rồi mọc nhọt sau lưng mà chết, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi. Sửng sốt nghe tin buồn, Điền Vũ khóc đến nỗi chết đi sống lại và ốm một trận rất nặng.
Ông thầy thứ ba dạy Điền Vũ họ Phương tên là Bác Cổ, là một vị lão học cữu, suốt ngày cứ dài thuỗn ra, không hay nói hay cười, mà hay mang bộ mặt “thiết bì” ra để dạy người. Ông ta sùng bái Chu công, giữ nghiêm Chu lễ rất hay bàn về nhân nghĩa, phản đối bạo lực và chiến tranh. Nói thực ra, phải đến nhà võ tướng để làm thầy dạy học, không phải là điều ông muốn, chẳng qua vì sinh kế o ép, đành phải cúi lưng “xin ăn”.
Xuất phát từ sự tôn nghiêm của đạo làm thầy trong thời buổi phong kiến, ông đòi hỏi học trò phải tuyệt đối nghe theo mình, không được tỏ ra ngang bướng chút nào, như
vậy tất sẽ sinh ra mâu thuẫn và sự chống trả của người có tư tưởng sôi nổi như Điền Vũ, quan hệ thầy trò rất không hoà hợp. Một lần, thầy Bác Cổ bắt đầu từ tiên đề đặt ra và làm theo Chu lễ, nói rất nhiều đến nhân nghĩa, nhấn mạnh rằng đây là một nét đẹp ở trong thiên hạ. Điền Vũ không đồng ý với quan điểm đó của ông thầy.
Cậu nói, nhân nghĩa chỉ là một phạm vi lý tưởng hoàn mỹ, Chu công là một người mộng tưởng hão huyền không nhìn thẳng vào hiện thực, dục vọng mới là bản tính của con người sinh ra đã có. Ví như chim trĩ và con vịt, cùng là giống chim, chim trĩ từ vỏ trứng nở ra đã bay lên rừng xanh, còn con vịt con thì lại ra bờ sông. Đứng trước hiện thực là các nước đang phân tranh, người có nước tất phải dùng pháp chế để trị vì đất nước, lấy vũ trang để ngăn ngừa. Nhưng lời phản bác lại của Điền Vũ, khiến thầy Bác Cổ nổi giận đùng đùng. Điền Vũ lại dám giữa ban ngày ban mặt chà đạp lên Chu lễ, láo lếu với Chu công, va chạm với người hơn tuổi, như thế thử hỏi, ai còn nhịn được! Trong nóng nảy, chẳng những thầy đã tranh cãi với trò, còn giơ tay đánh cả Điền Vũ.
Trận sóng gió xảy ra trong trường tư thục ấy, đương nhiên Điền Vũ về nhà không dám hé răng nói với mẹ, với bà, chỉ có điều cậu Điền Vũ mọi ngày hồn nhiên và sôi nổi thế mà hôm ấy về bên cạnh mẹ, lại trở nên lầm lỳ, ít nói, cơm tối
cũng ăn rất ít. Ngọc Lan cho rằng con mình có sự khó chịu trong người nên tối đến đã đưa con trai đi ngủ sớm.
Ngày hôm sau, ăn cơm trưa xong, ông Phương Bác Cổ xưa nay vốn không hay đi lại lung tung đã hộc tốc tới Điền phủ để xin thôi việc, bởi vì, buổi sáng Điền Vu đã xua chó săn cắn
chết con cừu non của nhà ông. Với thầy giáo, học sinh lại lấy oán để trả ơn, ông không thể nào chịu được.
Nghe thấy tin này, mọi người trong Điền phủ từ trên xuống dưới chẳng ai là không kinh ngạc:
Cậu Điền Vũ làm sao có thể làm những việc như thế.
Hôm ấy, ăn cơm trưa xong, Phạm Ngọc Lan đang bàn công việc với mẹ chồng, bỗng thấy ông Phương Bác Cổ xưa nay vốn rất chín chắn, đi xồng xộc vào nhà xin thôi việc vì cậu học trò Điền Vũ đã lấy oán trả ơn, tung chó săn ra cắn chết năm con cừu non của nhà ông. Nghe nói thế cả nhà đều kinh ngạc mọi người chẳng ai bảo ai cùng nói:
– Không phải thế! Dứt khoát không có chuyện như thế!
– Đó là sự thực hoàn toàn chính xác! – Đang lúc mọi người xôn xao bàn tán, Điền Vũ xuất hiện trước đám động, giọng nói non nớt trẻ thơ của cậu nghe rất lảnh lót và rõ ràng. Cậu tỏ ra dám làm thì dám nhận, không hề ngập ngừng ấp úng, dứt khoát như đinh đóng cột.
Hôm ấy là tiết Thanh minh, trường tư của Điền phủ nghỉ học, thầy trò đi dạo chơi một ngày. Khi mặt trời vừa từ từ ló lên ở phương đông, Điền Vũ một tay dắt con chó săn, một tay cầm cây thương ngắn đi thẳng đến lán cừu của nhà thầy giáo Phương. Con chó săn đã ngửi thấy mùi hôi của cừu, thè dài lưỡi ra, tai dỏng lên, dãi nhỏ ra hàng thước và sủa lên inh ỏi, xồng xộc lao lên phía tước. Điền Vũ buông tay ra, con chó kéo theo sợi xích kêu xoang xoảng, xông vào lán nhốt cừu, thấy cừu là cắn. Mấy con cừu lớn núp vào chỗ kín, con chó săn xông vào một con cừu non lông trắng như tuyết, há
mõm ra ngoạm lấy cổ nó, con cừu nhỏ đáng thương còn chưa kịp kêu lên tiếng nào đã bị cắn chết tươi. Theo thói quen đã được huấn luyện, con chó săn cứ cắn chết một con lại ngoạm tha ra để một bên, tiếp tục xông vào con khác. Sáng sớm, Phương Bác Cổ đang ở trong lán vắt sữa cừu thấy con chú săn xông vào lại dữ tợn như thế, tức quá muốn nổ cả ruột, dụi mắt nhìn kỹ, hoá ra là chó săn của Điền phủ, ông càng chẳng hiểu ra sao. Đúng lúc ấy, Điền Vũ hổn hển đuổi theo vào lán cừu, ngỏ lời xin lỗi Phương Bác Cổ:
– Thật là có lỗi! Thưa thầy giáo Phương! Con chó ranh này đã giằng tuột xích, chạy đến đây gây sự chẳng lành. Tiếp đó cậu quay sang con chó, nghiêm trang mắng nó: Con kia, mày là đồ bất nhân, là quân vô nghĩa, vô cớ đến đây xâm phạm “quyền của lũ cừu”, đến nỗi mấy con cừu non vô tội phải chết oan. Hành động dã man của mày, Chu lễ không dung thứ, nếu Chu công còn sống, thế nào cũng sẽ chửi mắng và trừng phạt mày. Mày phải nhớ rằng, cừu và chó đều là vật nuôi trong nhà, là chỗ thân cận như anh em, lẽ ra mày phải thương yêu hoà thuận, nhân ái với nhau, đối xử với nhau bằng lễ, sao có thể ngang ngược vô lối, chẳng lẽ mày lại không sợ các bậc chân nhân quân tử trong thiên hạ mắng phạt hay sao?
Súc vật thì làm sao hiểu được cái gì là đạo nghĩa, đang lúc Điền Vũ thao thao dạy dỗ như thế, lại thêm hai con cừu non nữa bỏ xác trong tiếng kêu thảm thiết. Điền Vũ thấy vậy, liền van nài thầy giáo Phương:
– Con đã nói như thế mà con chó này không nghe, xin ân sư hãy thương đến những con cừu non kia mà làm cho con chó
săn kia hiểu được đại nghĩa nhân đức khuyên nó đổi ác thành thiện, đừng có dùng bạo lực thế này với đồng loại của nó nữa ạ.
Phương Bác Cổ tức đến run người, lắp ba lắp bắp chỉ vào Điền Vũ:
– Mà… mà… ỳ!
Điền Vũ bỗng thấy thầy giáo Phương quả thực đáng thương, vội vàng cầm cây thương chạy theo con chó săn đang định vồ con cừu đực, nhằm trúng đầu nó xỉa mạnh, con chó săn lập tức lăn quay ra đất rú lên, lăn lộn mấy vòng rồi tắt thở. Điền Vũ làm như trêu cợt chỉ vào con chó nói:
– Giỏi nhỉ! Thì ra cũng không chịu được đâm như thế này, mới có một nhát đã toi mạng. Cậu cúi xuống vỗ vỗ vào đầu con chó nói.
– Thế nào? Anh bạn của tôi, còn dám giở trò ngang ngược nữa hay thôi? Rồi lại tỏ ra cảm động, cậu than thở tiếp: Ôi! … không phải ai cũng có thể trở thành Nghiêu, Thuấn, chỉ có dựa vào sự thuyết giáo suông về nhân đức, thì chẳng có cách gì làm thay đổi bản tính ham muốn của loài người, vẫn cứ là vũ khí trong tay mới có thể nói chuyện được. Vừa nói cậu vừa bước tới chỗ xác một con cừu còn bê bết máu, cúi xuống nhấc nó lên, ôm vào lòng vuốt ve, vỗ về nó, làm như vô cùng thương tiếc, xót xa nó: Cừu non đáng thương ơi, giá như trong tay mày cũng có một cây thương nhọn, hay một hàm răng sắc, thì mày đã không phải chết thế này. Hãy nhớ
lấy bài học này nhé, trước một kẻ thù hung ác, chớ có tỏ ra quá hiền lành…
Điền Vũ còn đang muốn nói nữa nhưng thầy giáo Phương tức đến run người, lăn ra đất, co giật chân tay, sùi cả bọt mép ra, cậu vội gọi người khiêng về nhà để nằm nghỉ một chỗ.
Khoảng nửa canh giờ sau, Phương Bác Cổ mới dần dần tỉnh lại, đầu óc cũng dần sáng suốt và ông thực thà thừa nhận: Mình mang tiếng cả một đống tuổi tác thế này, lại trở thành bại tướng dưới tay một đứa trẻ ranh. Ông không hề quở trách Điền Vũ, cáitrò tai ác của cậu, mặc dù làm cho ông thật thảm hại, nhưng cách nghĩ của cậu, mưu lược của cậu cũng như gan dạ của cậu, quả là kinh người, khỏi phải nói, sau này chắc hẳn đây sẽ là một bậc hùng kiệt trên đời, là rường cột của đất nước. Một đời làm thầy, chỉ cần dạy ra được một người học trò như thế, cũng đã đủ lắm rồi! Tuy rằng nghĩ như thế, nhưng ông vẫn không chịu thay đổi ý định thôi việc của mình, bởi vì Điền Vũ làm như thế, đã khiến cho ông mất mặt với mọi người.
Câu chuyện mang tình tiết hài hước đó, như một làn gió xuân thổi khắp kinh thành Lâm Tri, Điền Thư nghe xong, hể hả cười. Từ đó ông đã dự đoán rằng, Điền Vũ sau này sẽ trở thành nhà mưu lược quân sự bậc nhất trên đời; bởi ngay từ lúc này, cậu đã tỏ ra biết nhìn nhận, có tài thao lược cũng như gan dạ và hiểu biết.
Thầy giáo Phương cố tình xin thôi việc, Điền phủ cũng chẳng biết làm thế nào hơn, đành để ông nghỉ việc với món
thù lao lớn. Danh nghĩa là trả công nhưng thực tế là tiền xin lỗi, lấy tiền để chuộc lấy điều không phải với thầy.
Thôn Điền Ban có một nhà tên là Lưu Nghĩa Đức, tổ tiên để lại cho mấy chục mẫu điền sản, cuộc sống rất phong lưu khá giả. Hắn suốt ngày mặc gấm vóc lụa là, ăn thì luôn luôn thịt cá, ra khỏi cửa không xe thì ngựa, về đến nhà thì luôn mồm sai con ở nàng hầu. Tên hắn cha mẹ đặt cho là “Nghĩa Đức” nhưng thực tế việc hắn làm thì lại chẳng nghiêm trang, rượu chè cờ bạc, chẳng thiếu việc hư hỏng gì mà hắn chưa làm, lường gạt lọc lừa, bóp nặn hết làng trên xóm dưới. Trong nhà hắn, thê thiếp hàng đàn, nhưng vẫn đến mọi nơi trêu hoa ghẹo nguyệt.
Thôn Đoạn Hà có một người nông dân đôn hậu, tên anh ta là Đoạn Thừa Thuận, người vợ là Liễu Dương Hoa, xinh đẹp hơn người, tính khí lẳng lơ, vốn từ lâu đã tằng tịu vụng trộm với Lưu Nghĩa Đức. Năm Lưu Nghĩa Đức sáu mươi ba tuổi, người vợ kết tóc xe tơ của hắn là Loan thị ốm chết, hắn bèn nghĩ kế giết hại Đoạn Thừa Thuận, cưới Liễu Dương Hoa về nhà mình, lấn át mọi người khác, trở thành vợ cả kế của hắn. Đoạn Thừa Thuận có một đứa con trai mồ côi, tên tục là Lai Phúc, năm ấy vừa tròn mười hai tuổi, theo mẹ tái giá, về ở nhà họ Lưu. Bất kể thế nào thì Lai Phúc cũng là một cậu ấm trong nhà họ Lưu, thế nhưng cậu lại rất lam lũ, ăn thì không bằng chó bằng lợn. Hàng ngày, dưới làn roi của Lưu Nghĩa Đức cậu phải đi chăn cừu, chăn lợn, chăn chó, tưới rau, hốt phân, đào đất, quét cửa quét nhà. Rõ ràng Lưu Nghĩa Đức đang rắp tâm cố tình đày đoạ cậu, chỉ mong đẩy được cậu đến chỗ chết mới hả. Lưu Nghĩa Đức còn sợ rằng Lai Phúc lớn lên thành người, sẽ trả thù người “cha” dượng lòng lang
dạ thú, kẻ thù đã giết cha cướp mẹ của cậu. Bởi vậy nên tâm địa hắn mới ác độc đến thế, thủ đoạn mới tàn khốc đến thế.
Tận mắt nhìn thấy đứa con rứt ruột đẻ ra bị đày đoạ đến mức gầy như que củi, lẽ nào Liễu Dương Hoa không thấy xót xa trong lòng? Làm người ai chẳng có một trái tim, trâu bò còn biết âu yếm liếm con, huống chi là con người? Thế nhưng đau lòng xót ruột thì phỏng có cách gì? Lúc đầu hai người mới tằng tịu với nhau, Lưu Nghĩa Đức dùng đủ lời ngon ngọt, hẹn biển thề non, nói hết đủ mọi lời tốt đẹp ở trên đời. Hai người đến với nhau, đêm ngày hú hý, như keo như sơn, đảo điên loan phượng, làm mây làm mưa…
Đến khi chiếm được Liễu Dương Hoa về tay, Lưu Nghĩa Đức đã thực sự biến nàng thành con mèo hoa ở đầu giường của hắn, lúc thích lên thì ôm ấp vỗ về, âu yếm yêu chiều, khi chán chường rồi thì chửi cha mắng mẹ, thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Hoa nở phỏng tươi được mấy ngày? Đến khi Lưu Nghĩa Đức lại đi tìm của lạ, Liễu Dương Hoa bị vứt bỏ như một chiếc giày rách, ngoài chuyện bị chà đạp giày vò, còn phải đi làm những công việc nặng nhọc trong nhà, chẳng khác chi một con hầu trong phủ. Lưu Nghĩa Đức mở miệng ra là chửi, đưa tay lên là đánh, đến mức thực sự không còn coi nàng là một con người nữa. Liễu Dương Hoa lúc này, vừa là chỗ để Lưu Nghĩa Đức thoả mãn dục vọng, lại là nơi để hắn trút bực dọc, đúng là một vật nuôi biết nói trong nhà họ Lưu. Tượng đất qua sông, lúc này Liễu Dương Hoa lo cho mình còn chưa xong, sức đâu còn lo thay cho con trai được nữa.
Điền Vũ từ lâu đã biết được cảnh ngộ không may của Lai Phúc, tỏ ra hết sức cảm thông. Một hôm, hai người gặp nhau trên phố, thấy Lai Phúc trên đầu chằng chịt gân xanh, Điền Vũ vô cùng thương hại, vội vàng giúp đỡ, móc túi đưa cho Lai Phúc mấy đồng tiền lẻ rồi chủ động chuyện trò. Mới đầu, Lai Phúc thấy trước mặt mình là một cậu ấm sang trọng xa lạ, cậu bỗng như một chú chuột ngày, lấm lét nhìn trước ngó sau, chỉ sợ có mèo đến bắt. Dần dần, cậu phát hiện ra Điền Vũ là con người hiền lành, đôn hậu, lại sôi nổi nhiệt tình, đối xử hoà nhã, không như lũ chó má trong nhà họ Lưu, động mở miệng ra là chửi cậu “đồ lộn giống”. Trong lòng đã hết nghi ngại, Lai Phúc cũng trở nên cởi mở hơn, cậu cũng tỏ ra rất nhanh nhạy, lại hay nói chuyện. Điền Vũ hỏi đến đâu, cậu trả lời trôi chảy đến đấy, chỉ mỗi tội kể đến đâu khóc đến đấy, thật khổ! Nghe những lời kể lể của Lai Phúc, từ chỗ thương hại, cảm thông, Điền Vũ bỗng trở nên phẫn uất bất bình, oán hận kẻ ác, định bụng sẽ làm cho Lai Phúc hả giận một phen, dù có phải dạy cho Nghĩa Đức một bài học cũng được. Điền Vũ dò hỏi Lai Phúc:
– Muốn trị bọn người xấu này, cậu có dám làm không? Lai Phúc nghển cái cổ bọ ngựa của mình lên đáp lại:
– Hễ trả được thù, tôi chẳng sợ cái gì hết! Chết cũng xong! Sống mà chịu tội với nó thế này, chẳng thà liều một phen rồi chết cũng sướng!
Điền Vũ lại dò hỏi thêm:
– Cậu đến gần nơi Lưu Nghĩa Đức ăn uống được không?
– Có, sáng nào Lưu Nghĩa Đức cũng uống trà sâm, đều do tôi bưng từ dưới bếp lên tận buồng ngủ cho hắn. Lai Phúc trả lời rất gãy gọn.
Điền Vũ nửa tin nửa ngờ, hỏi:
– Bên cạnh Lưu Nghĩa Đức đông đảo con ở, người hầu như thế, tại sao lại sai có mình cậu bưng trà sâm?
– Cái đó thì… Lai Phúc không biết trả lời thế nào. Điền Vũ cau mày, làm ra vẻ phân tích, nói:
– Tớ nghĩ rằng, hắn làm thế chỉ để mượn cớ giày vò cậu. Ví dụ cậu bưng lên sớm hay muộn, nhanh hay chậm, trà nóng hay nguội… hắn đều lấy đó làm cớ để đánh cậu, mắng cậu, trừng phạt cậu…
– Đúng thế! Chính là vì mục đích ấy đấy. Lai Phúc ngắt ngang lời Điền Vũ. Có một lần, tớ bưng sâm đến cửa phòng ngủ của hắn, quên gõ cửa, đẩy cửa bước vào, thấy Lưu Nghĩa Đức đang đè một cô hầu xuống giường. Lai Phúc thẹn thò cúi đầu, mãi sau mới xụt xịt nói tiếp: Sáng hôm ấy, Lưu Nghĩa Đức đã đánh tớ chết đi sống lại…
Điền Vũ bỗng hớn hở nói:
– Nếu như thế, chúng ta có chỗ để thừa cơ rồi? Cậu vẫy tay gọi Lai Phúc: Lại đây, ghé tai đây tớ bảo cái này.
Lai Phúc ghé sát lại, Điền Vũ thì thầm một hồi như thế, như thế, cuối cùng hỏi:
– Cậu dám làm theo mẹo tớ không?
– Chuyện đó thì có gì không dám, cậu cứ chờ đấy mà xem. – Lai Phúc mừng rỡ, tất bật đi ngay.
Sáng sớm ba ngày sau đó, như mọi ngày, Lưu Nghĩa Đức vẫn uống trà sâm, đang kiếm cớ để gây chuyện với Lai Phúc, bỗng thấy nhâm nhẩm đau bụng, rồi tiếp đó từng cơn đau nối nhau, đau quằn quại, như có dao đâm, như xé gan xé ruột. Thế rồi bỗng nhiên thấy lục phủ ngũ tạng như biến ra nước ùng ục ùng ục như nước lũ phá đê chỉ muốn tuôn ra ngay. Hắn vội vàng xông ra cửa, chân không kịp xỏ vào giày, tay xách lấy cạp quần, chạy một mạch ra nhà xí. Lúc ấy ngoài trời, những bông tuyết to như lông gà bay tới tấp, dưới mặt sân, tuyết cũng phủ dày hàng thước, Lưu Nghĩa Đức bước đi trong tuyết ngập ống chân, tuy chỉ có một đoạn đường, mà còn khó hơn vượt đèo leo núi, hắn bước thấp bước cao, ngả nghiêng xiêu vẹo như gà con mắc tóc, vất vả lắm mới ra tới cửa nhà xí, vừa định bước vào thì thấy trên bức tường thấp có vắt một giải thắt lưng bằng lụa đỏ. Trời mịt mờ, đất tối tăm, nhà cửa, sân vườn, cây cối, hoa cỏ đều trắng xoá một màu, mênh mang một giải, chỉ có chiếc thắt lưng là màu đỏ, lấp ló như một ngọn đèn, nở tung như một bông hoa, cháy rực lên như ngọn lửa. Chiếc thắt lưng đỏ ấy nói với Lưu Nghĩa Đức rằng nàng dâu thứ tám của hắn vừa mới cưới hiện đang ở trong đó, đương nhiên không thể tự ý bước vào. Đành đứng ở ngoài chờ một lát vậy? Không được!
Một là hai bàn chân trần đã buốt như kim châm, hai là để nàng dâu thứ tám nhìn thấy thì quá bất nhã, thế là vội vội vàng ôm bụng quay về phòng ngủ.
Phong tục của nước Tề, bất kể nhà giàu đến đâu, đàn ông đàn bà đều cùng dùng chung một hố xí, làm lộ thiên, chứ nếu làm riêng như ở thành phố bây giờ thì Lưu Nghĩa Đức đã không phải khổ sở đến thế.
Lưu Nghĩa Đức về đến phòng ngủ, khăn áo chỉnh tề rồi lúc thì phủ phục trên giường ép bụng cho đỡ đau, lúc thì cuống quýt chạy quanh phòng, tay bưng lấy hông, nhăn nhăn nhó nhó, chốc chốc lại rên lên từng chập. Mãi đến lúc đoán chừng nàng dâu đã về phòng mình rồi, hắn mới lại lò dò ra nhà xí. Thế nhưng còn chưa ra đến nơi, mãi từ xa đã nhìn thấy ở trên bức tường, chiếc thắt lưng đỏ vẫn vắt ngang ở đấy, không làm thế nào hơn, lại phải co ro bóp bụng trở lại phòng ngủ, ngồi im mà chờ. Tuy nhiên, những thứ sục sôi trong bụng lại không buông tha hắn, buộc hắn phải ra nhà xí lần nữa với tốc độ nhanh nhất. Chiếc thắt lưng đỏ vẫn chặn hắn lại ở bên ngoài, đẩy hắn trở về phòng ngủ. Lưu Nghĩa Đức cứ thế lật đật quanh đi quanh lại ba bốn lần, thế nhưng cái thắt lưng đỏ trên tường vẫn cứ như một ngọn đèn chưa đến lúc cạn dầu, nằm nguyên ở đó, như hoa vẫn chưa tàn, như lửa còn chưa tắt. Hắn không thể chịu đựng thêm được nữa, bỗng nghe thấy một tiếng “bục” âm vang, cả phân lẫn nước tung toé ra trong đũng quần, một thứ nước dơ bẩn vàng vàng theo ống quần tuôn chảy ra ngoài, cả căn phòng thối nồng nặc…
Thế là Lưu Nghĩa Đức phải một phen mất mặt với tất cả người già, người trẻ, chỉ muốn tụt quần ra mà che lấy mặt. Hắn không hiểu sao cô con dâu thứ tám vào làm gì trong ấy mà lâu đến thế, hay là nó cũng bị tháo dạ thế này? Liệu có bị
lả đi rồi chết cóng ở trong hố xí không? Nghĩ đến đây, tự dưng hắn thấy chột dạ, vội sai người hầu gái ra hố xí xem sự thể ra sao, nhưng ở đấy làm gì có ai? Đương nhiên, cái thắt lưng đỏ trên tường cũng không thấy nữa. Lưu Nghĩa Đức lại cho người đến tận phòng ở của nàng dâu thứ tám hỏi xem sao, mặt trời lên ba con sào rồi đôi vợ chồng trẻ vẫn còn ôm nhau ngủ say như chết.
Lưu Nghĩa Đức biết mình đã trúng kế gian, bị người ta lôi ra làm trò cười, liền cho gọi mọi người lại hỏi tội, để làm cho ra ngô ra khoai rồi sẽ trị tội đến nơi đến chốn. Lai Phúc cố nhiên trở thành trọng điểm của cuộc xét hỏi. Thế nhưng dù ầm ĩ lên hàng mười mấy hôm liền khiến cho cả phủ đệ xôn xao náo động, ăn không ngon ngủ không yên, ai cũng bị nghi ngờ, ai cũng phải xét hỏi nhưng chẳng có kết quả gì, Lưu Nghĩa Đức đành cuốn cờ tắt trống, vội vã thu quân. Mọi việc xảy ra trong phủ đều bí mật tiến hành, không để tin tức lọt ra ngoài, nhưng tin đồn vẫn không cánh mà bay, làm cho cả kinh thành xôn xao, trẻ già đều biết câu chuyện mang tựa đề “Lưu Nghĩa Đức và cái thắt lưng đỏ của nàng dâu thứ tám”.
Mưu kế Lai Phúc trừng trị Lưu Nghĩa Đức là trộn thuốc tả vào trà sâm, vắt thắt lưng đỏ lên tường nhà xí… tất cả đều do Điền Vũ sắp đặt. Lai Phúc suy cho cùng cũng chỉ là một đứa trẻ, thấy có vẻ sóng yên bể lặng rồi và cũng để bày tỏ
lòng biết ơn đối với Điền Vũ nên đã vô tình để lộ câu chuyện
ra. Sau khi biết chuyện, Lưu Nghĩa Đức nghiến răng nghiến lợi tỏ ra căm ghét Điền Vũ, chỉ mong làm sao ăn sống nuốt tươi. Thế nhưng Điền phủ là một nơi thế tập danh môn lệnh tộc của nước Tề, Điền Thư lại là nhân vật làm mưa làm gió khiến ngả nghiêng cả triều chính nước Tề, một cái lông chân còn lớn hơn tấm lưng của Lưu Nghĩa Đức, cho nên hắn không dám tự ý làm.
Ba tháng sau, vườn hoa trong Điền phủ bị một ngọn lửa không tên đốt cháy sạch sành sanh, sau đó không lâu, Liễu Dương Hoa bị đem bán, Lai Phúc mất tích.
Điền phủ đúng là có truyền thống về nhân đức, vườn hoa bị đốt cháy cũng chẳng đáng gì, không dò hỏi căn nguyên. Điền Vũ cũng không hề bị cha ông trách mắng. Thấy cháu mình gặp việc nghĩa dám làm, tinh thần đáng quý, kế đem ra dùng lại không chỗ nào sơ hở, Điền Thư cho rằng, cháu mình đạt được hai điều ấy, dù có phải trả giá bằng một khu vườn cũng đáng. Đồng thời, ông cũng nhân dịp này dạy cho Điền Vũ biết rằng: Làm việc gì cũng đừng có chỉ biết sướng bụng trong chốc lát, phải cân nhắc thiệt hơn, phải cân nhắc tới hiệu quả. Nếu so với việc cầm quân đánh trận thì trận này đã thất bại thảm hại, không làm hại gì lớn cho Nghĩa Đức, cháy một một khu vườn không nói làm gì, mà lại hại cho mẹ con Liễu Dương Hoa…
Thầy giáo mới đến của Điền Vũ họ Triệu, tên là Hựu Phúc, người cao to, khuôn mặt trắng trẻo, cử chỉ nhã nhặn, nói năng ôn tồn, làm việc chắc chắn, rất được mọi người trên dưới trong Điền phủ kính nể. Gần đây, thầy giáo Triệu có điều gì tâm sự nặng nề, suốt ngày mặt ủ mày ê, lầm lỳ chẳng
nói, không thiết gì ăn uống… Qua sự dò hỏi mấy lần của Điền Vũ, ông mới nói ra điều tâm sự của mình.
Phía đông thành Lạc An có một nhà viên ngoại họ Trương, tài sản có mười mấy mẫu ruộng thượng đẳng, vài nếp nhà lá khá to, cuộc sống cũng khá sung túc. Trương viên ngoại sinh hạ được một trai một gái, con gái đã gả cho Quả Thường Sơn ở thôn Đông, con trai là Phúc Thuận mới lên năm tuổi. Trời có khi mưa khi nắng, con người có lúc phúc lúc hoạ khôn lường, vợ của Trương viên ngoại bỗng đâu mắc bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường mấy tháng rồi về chầu tiên tổ. Trương Viên ngoại quá đau buồn cũng mắc bệnh tim, nằm liệt trên giường. Phúc Thuận thơ ngây mới vừa năm tuổi còn ham nghịch ham chơi, không có ai lo liệu việc cửa nhà, viên ngoại đành phải đón con gái, con rể về ở để chia nhau hoạn nạn. Nào ngờ con gái và con rể đều là hạng tiểu nhân thấy tiền quên nghĩa, thấy tình hình bệnh tật của Trương viên ngoại ngày một xấu đi, xem chừng không còn hy vọng gì sống nổi, trong bụng chúng đã tính toán làm sao để nắm trong tay gia sản của nhà này. Hai vợ chồng nhỏ to bàn soạn mấy hôm, cuối cùng đã vạch ra một kế độc:
Một buổi sáng, Quả Thường Sơn lấy cớ vào nâng giấc, trong tay cầm sẵn hai tờ “di chúc” đã viết sẳn, đến trước giường bệnh của ông bố vợ đang hấp hối, ép ông phải điểm chỉ vào hai tờ “di chúc” ấy. Trương viên ngoại nghe nói thế, đưa tay run run đón lấy tờ “di chúc” cố hết sức mở mắt ra, thấy trên đó viết rằng: “Trương viên ngoại thành đông chỉ sinh một con, tất cả gia sản toàn bộ để lại cho con rể, người ngoài không được lấy đi”. Thấy con rể nhân lúc nguy nan tính bài vơ vét bịa ra “di chúc” hòng bá chiếm toàn bộ tài sản của
ông, Trương viên ngoại bất giác tức giận quá, lắp bắp nói chẳng nên lời, thều thào từng tiếng, mắng rằng: “Mày… mày là đồ súc… vật…”. Chưa nói hết câu, hộc máu ra mà chết. Quả Thường Sơn thừa dịp kéo tay Trương viên ngoại lần lượt điểm chỉ lên hai tờ “di chúc”.
Có “di chúc” trong tay, vợ chồng Quả Thường Sơn đã có chỗ dựa không còn lo gì nữa, họ coi Phúc Thuận không còn ra con người nữa, suốt ngày không đánh thì chửi, còn bắt nó rửa nồi, nhóm bếp, đổ thùng phân, sự ác độc của họ còn hơn cả rắn rết. Vợ chồng nhà họ Quả còn lo Phúc Thuận lớn lên sẽ giành lại gia tài, nên đã đuổi nó ra khỏi nhà, thành kẻ ăn mày. Làng trên xóm dưới ai ai cũng thấy bất bình nhưng trong tay vợ chồng họ Quả lại có “di chúc” của Trương viên ngoại, giấy trắng mực đen, thì biết làm thế nào?
Trương viên ngoại ở thành đông này lại không phải ai khác mà chính là anh rể của thầy giáo Triệu Hựu Phúc, Phúc Thuận là cháu ngoại của ông, lúc này ông đang rất đau khổ buồn rầu về cảnh ngộ không may của cháu mình mà trở nên rầu rĩ.
Nghe thầy giáo Triệu kể thế, Điền Vũ hỏi:
– Sao thầy không lên quan phủ kiện vợ chồng nhà họ Quả?
– Kiện? Thầy làm sao lại chẳng muốn đi kiện chúng nó? Thầy giáo Triệu làm ra vẻ rất băn khoăn. Trong tay chúng nó đã có “di chúc” của bố vợ, thầy làm sao mà kiện nổi được chúng nó.
Điền Vũ như có điều suy nghĩ, nói:
– Trong tay Phúc Thuận chẳng phải cũng có một bản “di chúc” đó sau? Đó chính là chứng cứ.
Triệu Hựu Phúc buồn bã nói:
– Hai bản “di chúc” chẳng sai nhau chữ nào, đều viết rành rành là “tất cả gia sản toàn bộ để lại cho con rể, người ngoài không được lấy đi”, lấy đó làm chứng cứ thì có khác gì hai tay dâng gia tài cho vợ chồng tên súc vật ấy. Thầy giáo Triệu vừa nói vừa đưa bản “di chúc” cho Điền Vũ.
Cầm bản “di chúc” trên tay, Điền Vũ đọc qua một lượt rồi bảo:
– Ân sư sai rồi! Cứ theo như ngu kiến của trò, thì “di chúc” đã viết rất rõ ràng: “Để toàn bộ gia sản lại cho con trai là Phúc Thuận”.
Thầy giáo Triệu tỏ ra rất không hài lòng:
– Thầy đang lo như lửa đốt trong lòng, xin cao túc đừng có nói giỡn.
– Trò đâu dám nói giỡn, xin thầy hãy xem đây. Điền Vũ cầm “di chúc” đọc: Trương viên ngoại thành đông, chỉ sinh một con, tất cả gia sản, toàn bộ để lại, con rể người ngoài, không được lấy đi.”
Qua sự ngắt câu như thế của Điền Vũ, thầy giáo Triệu như sáng tỏ ra, thấy trước mắt như thoáng rộng thêm. Ông cầm lại bản “di chúc” xem lại, rồi đọc lên, mỗi con chữ trong bản di chúc như nhảy lên, lấp lánh, toả ra ánh hào quang hy vọng.
Điền Vũ còn phân tích thêm rằng Trương viên ngoại đã có con trai nhưng còn nhỏ dại, sao lại có thể mang toàn bộ tài sản truyền lại cho con rể chứ? Nếu như thế, thì để cho con trai là Phúc Thuận mới lên năm sống thế nào? Với lại, từ xưa đến nay, có con trai sờ sờ ra đấy, đâu lại có lý đem tài sản truyền lại cho con rể kia chứ?
Những điều phân tích của Điền Vũ, rõ ràng đã nêu ra cho thầy giáo Triệu nội dung lời tố tụng. Thầy giáo Triệu nghe qua là hiểu ngay.
Ngày hôm sau, đơn từ tố tụng của thầy Triệu đã đệ lên sảnh đường của phủ huyện, cũng rất may, huyện lệnh là một ông quan thanh liêm “gương sáng treo cao”, vừa trình đơn lên đã được duyệt ngay. Đèn trời phán quyết, toàn bộ gia tài của Trương viên ngoại được trả về cho Phúc Thuận, vợ chồng Quả Thường Sơn bị phạt vạ bốn mươi roi, lập tức phải cút khỏi nhà họ Trương, không được ở thêm ngày nào.
Có một thời gian, do không mời được ông thầy nào vừa ý, Điền Vũ buộc phải đi đến trường công học, thời gian ấy không dài, nhưng Điền Vũ đã có thêm nhiều bạn bè ở lứa tuổi thiếu niên.
Phía bắc thôn Đoạn Hà có một ngôi miếu Long Vương, trong miếu đó có một lão thủ tự vừa tham vừa ác. Phía dưới miếu Long Vương có một vịnh nước sâu gọi là vịnh Rồng. Vịnh này rộng không thấy bờ, sâu không thấy đáy, nước màu xanh đen, âm u khí lạnh, vẻ uy nghiêm khiến người ta dễ sởn da gà. Tương truyền đây là cửa phụ để Đông Hải Long vương ra vào Long cung, mỗi lần Long vương đi ngang qua đây, nước đen dựng lên cột nước vút lên đến trời, gió lay gẫy cả cây, sấm chớp như xẻ núi ra, mưa đá to bằng quả đấm, mưa bão xối xả đem lại tai nạn lớn lao cho dân chúng cả vùng này. Để cầu xin Long vương ban phúc, hàng năm dân chúng đều phải tế lễ Long vương, đổ một số lớn rượu thịt và đồ tế lễ xuống vịnh.
Thôn Đoạn Hà lại có một người thợ mộc khéo tay, tên là Đoạn Ngọc Tài, ông thứ gì cũng làm được và làm thứ gì cũng khéo, ngay cả những việc tinh xảo trong cung vua Tề, cũng thường phải mời ông đến làm. Một hôm lão thủ tự đến tìm Đoạn Ngọc Tài, vừa hay gặp Đoạn Ngọc Tài vừa khoác túi đồ bước ra khỏi cổng, định sang thôn bên làm việc. Gã thủ tự nói:
– Người sống trên đời giúp người là thiện, ông làm cho ta cái tủ bạc, rồi ta sẽ cầu Long vương ban phúc cho ông.
“Thủ tự” tức là người coi miếu, thế mà lão thủ tự này lại có lai lịch khá dài dòng, tương truyền vốn là một tên thị vệ hộ giá cho Long vương, từng có lần cứu sống Long vương, nên lúc về già mới đến cái vịnh Rồng này để gác cửa.
Đoạn Ngọc Tài nói:
– Tôi lao động để kiếm cơm ăn, kiếm tiền bằng nghề nghiệp của mình, việc quái gì cần phải Long vương ban phúc!
Lão thủ tự bị cụt hứng, bịtẩy chay bẽ mặt, thẹn quá hoá cùn, vùng vằng bỏ đi. Ngày hôm sau, hắn đi xin gặp Thiên Thừa quận thú, nói:
– Đêm qua lão già này về Đông Hải chơi, Long vương có lệnh cho lão mang về một bức thư, trình quan phụ mẫu xem. Nói xong hắn dâng bức thư mạo danh Long vương lên cho Quận thú.
Quận thú mở thư ra xem, thấy trong viết rằng “Người là chúa Thiên Thừa, ta là vua Đông Hải. Từ lâu nghe nói trong vùng ngươi quản hạt có tên thợ mộc là Đoạn Ngọc Tài kỹ nghệ cao siêu, như sấm rền bên tai, xin cho hắn tới Long cung ít ngày để xây cho tiểu vương một toà long môn. Người ta vẫn nói lợi người tức là lợi mình, nếu xong việc này, ta sẽ giữ cho Thiên Thừa luôn luôn gió hoà mưa thuận, ngô lúa bội thu; nhược bằng hơi trái lời, tất phải ra tay nghiêm trị…”
Câu “ra tay nghiêm trị” của Long vương, Quận Thú đã biết trong đó hàm chứa những gì, đó tức là sấm chớp là bão dông, là nhà đổ, là cây gãy, là chìm ngập ruộng đồng, là con người làm mồi cho tôm cá… nghĩ đến đấy, quận thú thấy không rét mà run, vội sai gọi Đoạn Ngọc Tài đến kể rõ tình hình, lệnh cho ông ta chuẩn bị cho mau, ba ngày sau sẽ đem ông tiến Long cung. Còn như đường đi đến Long đình, trong thư Long vương đã nói rõ: “Sẽ do thủ tự của miếu ta chỉ đường” Vịnh Rồng là cửa thông ra biển Đông, khỏi phải bàn,
đến lúc ấy cứ vứt Đoạn Ngọc Tài xuống vịnh Rồng để ông ta tự ra biển Đông.
Đoạn Ngọc Tài thừa biết, đây là đòn trả thù của lão thủ tự, chỉ vì mình không chịu làm tủ bạc cho hắn, lại còn đấu khẩu với hắn, cho nên hắn đã mạo danh Long vương, mượn tay quận thú, định đưa mình vào chỗ chết. Một lão thủ tự coi miếu thì chẳng khó gì mà không đối phó được, đáng sợ là với quận thú, hắn nắm quyền bính trong tay, trị chết một người dân thường cũng như lấy chân di chết một con kiến. Đoạn Ngọc Tài tuy cũng là người bụng đầy thao lược nổi tiếng làng trên xóm dưới, nhưng lúc này lòng ông như một nồi cháo loãng, có bao nhiêu mạch nguồn của sự tài giỏi khôn ngoan đã bị lấp kín hết, không làm sao nghĩ cho ra một kế thoát thân, hoặc một cách trị cho tên thủ tự kia một mẻ. Đang giữa lúc ông rầu rĩ, bởi mình như đang bị treo trên vách đá cheo leo thì bỗng có một tia sáng chiếu cho con đường trước mặt ông trở nên bằng phẳng thênh thang, từ dưới chân ông dẫn thẳng tới một tương lai xán lạn.
Đại Bảo là con trai của Đoạn Ngọc Tài học ở trường công, bạn cùng lớp cùng bàn với Điền Vũ, họ là đôi bạn thân nhau nhất trong trường, đôi bên chẳng bao giờ giấu nhau điều gì. Cha mình đang bị tên thủ tự tàn ác hãm hại, xem chừng tai nạn sắp giáng xuống đầu, Đại Bảo đương nhiên trước hết đã nói cho Điền Vũ biết cảnh ngộ không may này của nhà mình. Đại Bảo chẳng qua là thuận miệng thì kể để cho vơi đi niềm u uất trong lòng, không ngờ Điền Vũ lại có diệu kế, khiến cho cả nhà bạn từ tuyệt vọng bỗng có ngày sống lại mà còn trừ cho dân được một gã ác ôn.
Điền Vũ theo Đại Bảo về nhà họ Đoạn, hỏi lại cho rõ gót đầu, rồi như thế như thế vạch ra phương án, Đoạn Ngọc Tài thì không ngớt gật đầu lia lịa, nghe theo lời, làm theo kế.
Thời gian ba ngày đi như chớp mắt, hạn định đã đến, quận thú, thủ tự, huyện lệnh, bô lão quan thuộc, hào sĩ và cả dân chúng đến xem có tới cả ngàn người, tất cả đều tập trung ở bên bờ vịnh Rồng để đưa tiễn Đoạn Ngọc Tài. Đoạn Ngọc Tài được tắm rửa thay quần áo, trang điểm cho mới mẻ từ gót đến đầu, đúng với dáng vẻ của một người sắp sửa đi xa. Bên bờ vịnh đã bày sẵn tiệc rượu, người dự tiệc đều lần lượt nâng cốc, lũ lượt thay nhau đi chúc rượu, mọi người đều tỏ ý tiễn biệt Đoạn Ngọc Tài cho ra vẻ. Mặt trời ngả về tây, tiếng sáo của người chăn cừu vang lên lánh lỏi, cừu bò lũ lượt về chuồng. Lão thủ tự nói:
– Đã đến giờ Thân, Đoạn sư phụ phải bắt đầu khởi hành.
Thế là bữa tiệc tàn, lão thủ tự chỉ huy bốn gã mình beo đã được bảo sẵn từ trước, nâng Đoạn Ngọc Tài lên rồi gieo xuống vịnh, chỉ thấy Đoạn Ngọc Tài vùng vẫy rồi chìm dần, rồi ùng ục nổi lên hàng loạt bong bóng nước, chỉ trong nháy mắt đã tiêu tán hết. Bà con đứng ở trên bờ người khóc lóc, người than thở, người đấm ngực, người dậm chân, người luôn mồm chửi rủa…
Đêm ấy, ở miếu Long vương, lão thủ tự ngồi một mình tự rót tự uống, rồi ê a hát một mình, uống cho đến khi say mềm ra.
Ba tháng sau, vào một buổi sáng, Đoạn Ngọc Tài xuất hiện ở trước mặt viên quận thú, ông ăn mặc quần áo rất cầu kỳ và
hợp thời, cử chỉ nhã nhặn, phong độ đàng hoàng, da dẻ mịn màng như một gã thư sinh. Quận thú vừa nhìn thấy, giật mình kinh hoàng, vã mồ hôi hột, bủn rủn chân tay, hồn lìa khỏi xác, không làm chủ được mình, ngồi giữa công đường ngây ra như con rối. Không biết như thế bao nhiêu lâu, hắn mới dần dần tỉnh lại, nhìn kỹ vào Đoạn Ngọc Tài, nghĩ rằng gặp ma giữa ban ngày, như thể mình cũng chẳng sống trên đời được bao lâu nữa. Cái tướng thảm hại của quận thú, Đoạn Ngọc Tài nhìn thấy tận mắt và cười thầm trong bụng nhưng ông cứ làm như không thấy, kính cẩn nói rằng:
– Đội ơn ông lớn sai khiến, Ngọc Tài tôi mới được xuống Long cung thi thố tay nghề, làm vui lòng Long vương, kinh động các loài thuỷ tộc. Ba tháng Long môn đã khánh thành, hôm nay được ca khúc khải hoàn, đồng thời cũng mang theo một bức thư của Long vương, trình để ông lớn quận thú thân chinh lĩnh đọc.
Đến lúc này, quận thú mới hơi hơi định thần, tay run run nhận lấy bức thư rồi bóc phong bì ra đọc; thấy trong thư viết rằng: “Kỹ nghệ của sư phụ Đoạn thật là hơn hẳn mọi người trên đời, Long môn được dựng lên nguy nga huy hoàng, mong sẽ được trọng thưởng! Tái bút! Ba ngày sau trong cung sẽ làm lễ khánh thành Long môn, xin báo cho biết thủ tự ở miếu của tôi cũng đến dự, đương nhiên là cũng tới Long cung bằng con đường trước đây ông thợ mộc đã đi.”
Quận thú đương nhiên ban cho Đoạn Ngọc Tài cả trăm lạng vàng và sai người gọi thủ tự vào chầu rồi đưa cho hắn xem thư của Long vương. Thủ tự đọc thư, hết hồn hết vía, mặt như đổ chàm… Hắn định thần nhìn rõ ông thợ mộc, da mịn
và trắng, khác hẳn so với ba tháng trước, bất giác nghĩ rằng: Lão thợ mộc mình trần mắt thịt, còn có thể vào được Long cung gặp Long vương, ta giữ miếu cho Long vương bao nhiêu lâu nay, lại có công tiến cử, đã mời dự tiệc khánh thành, hẳn là có trọng thưởng; làm gì mà chẳng được quan tâm cất nhắc! Thủ tự nghĩ như vậy, liền vui vẻ nhận lời.
Vào giờ Thân ba ngày sau đó, lão thủ tự được ném xuống vịnh Rồng đúng như lần trước. Tuy nhiên, hắn ừng ực uống luôn mấy ngụm nước vào bụng, rồi chìm nghỉm tận đáy nước mãi mãi không bao giờ lên được nữa, chắc hẳn là được Long vương giữ lại mãi ở trong cung để sai khiến.
Lại nói về ba tháng trước đó, căn cứ vào sự sắp đặt của Điền Vũ, Đoạn Ngọc Tài đã đi kiếm một cái bồ rách, một ống tre dài, một hòn đá lớn. Đến đêm, ông bỏ hòn đá vào cái bồ buộc ống tre vào miệng bồ sau đó dìm cái bồ xuống đáy vịnh Rồng, đặt đầu kia của ống tre vào búi cỏ ở ven bờ vịnh, sau khi Đoạn Ngọc Tài bị vứt xuống nước, sẽ mò đến chỗ cái bồ, rồi ngồi vào đó, miệng ngậm chiếc ống tre, ngồi im không động đậy. Chờ cho đến tối, ông mới ngoi lên bờ lẻn về nhà, trốn liền ba tháng trong nhà. Trong ba tháng đó, chẳng những mỗi ngày ba bữa thịt cá đầy đủ, lại còn rửa mặt bằng sữa bò, cho nên da thịt mới trắng như thế.
Đạo Trang xóm tây thôn Đoạn Hà có một lão nhà giàu tên là Hách Trọng Tường, hắn là con thứ hai nên mọi người gọi là ông hai Hách. Anh ruột hắn là Hách Mạnh Tường ốm chết sớm, bỏ lại vợ goá con côi, trông cậy hết vào ông hai giúp đỡ. Hách Trọng Tường là một gã gian xảo điêu toa, bề ngoài tỏ ra quan tâm hết mực, thể thiết từng ly từng tý đến chị dâu
và cháu mình, nhưng tận xương tuỷ lại để bụng vào đống tài sản mà họ được hưởng. Người chị dâu làm sao hiểu được bụng dạ xấu xa đó của hắn, luôn bày tỏ bằng những lời biết ơn. Hách Trọng Tường cũng từng bày tỏ rằng chị dâu già coi ngang như mẹ, hiếu kính với chị dâu, cưu mang cháu ruột, là nghĩa vụ và trách nhiệm không thể chối từ. Người chị dâu Lưu thị vốn dòng dõi khuê tú, ngay từ nhỏ đã được tiếp thu một nền giáo dục tốt đẹp, hiểu biết sách vở và thông đạt lễ nghi, coi trinh tiết còn quan trọng hơn cả sinh mạng của mình. Hách Trọng Tường đã nắm lấy đặc điểm này của chị dâu mình, tìm cách cố làm ra thân mật, có ý tạo cho người khác một cảm giác sai lầm rằng chị dâu em chồng có quan hệ mờ ám, ngày một ngày hai trong thôn xóm bỗng đồn thổi ầm ĩ cả lên. Lời người đáng sợ, điều đó gây cho Lưu thị một áp lực rất lớn trong tâm linh, sợ rằng sẽ xảy ra điều gì không hay bất ngờ. Lưu thị đã từng mấy lần nhắc nhở Trọng Tường, bảo hắn về sau phải chú ý nhiều hơn. Trọng Tường luôn tỏ ra không thèm để ý và nói:
– Sự nhìn nhận của tiểu nhân, hà tất phải bận tâm.
Dần dần, vợ của Hách Trọng Tường cũng linh cảm thấy điều này, lục vấn hắn mấy lần, thậm chí thường để ý theo dõi hành động của hai người. Càng như thế, Hách Trọng Tường lại càng nửa nạc nửa mỡ, cho thêm chanh vào giấm, càng tỏ ra săn sóc mẹ con Lưu thị chu đáo hơn, ôn tồn dịu dàng hơn khiến cho vợ hắn đã phải mấy lần ngầm cãi nhau với hắn. Thấy lửa đã sắp bén, Hách Trọng Tường quyết định đóng kịch như thật, khiến cho Lưu thị phải xấu hổ mà chết.
Hôm ấy nhà họ Hách mở tiệc lớn, họp mặt đông đủ khách khứa, Hách Trọng Tường sắp xếp cho vợ xuống bếp trông coi nấu nướng, còn hắn và Lưu thị ở trên nhà mời cơm rượu khách, nghiễm nhiên thành đôi vợ chồng, khiến cho trong bữa tiệc có khối người nháy mắt cho nhau. Hết mời lại ép, Hách Trọng Tường sớm đã đỏ mặt tía tai, lấy rượu che mặt, bắt đầu có hành động bằng chân bằng tay với Lưu thị, khách mời có nhiều người thấy ngứa mắt không chịu nổi nên đã bỏ về. Đúng lúc ấy, Hách Trọng Tường nhìn thấy vợ hắn bưng thức ăn lên phòng tiệc, hắn cố làm ra vẻ lả lơi khiến cho vợ hắn ném cả đĩa thức ăn và làm ầm ĩ cả lên, chỉ vào đầu Lưu thị nhiếc mắng xỉ vả là đồ tanh hôi, hồ ly tinh, rủ rê quyến rũ chồng người.
Bữa tiệc tàn không mấy vui vẻ, mụ đàn bà đanh đá làm cho trời đất rối mù.
Lưu thị không chịu nổi nỗi nhục quá lớn, ngay đêm ấy đã treo cổ tự tử.
Sau khi Lưu thị chết, con trai bà là Kế Nghiệp như rơi vào hố băng, như tụt xuống hố sâu ngàn trượng, bị vợ chồng Hách Trọng Tường ngược đãi, giày vò, sống không bằng trâu ngựa. Năm mười tuổi, cậu bị đuổi ra khỏi nhà, đi ăn xin qua ngày. Năm cậu mười lăm tuổi, được người giới thiệu đã lên huyện lỵ học nghề, hầu như tất cả mọi khoản thu nhập đều phải trao cho chú, còn mình thì sống khổ sở, áo không đủ che thân, ăn không đủ ấm bụng.
Gia tài của Hách Trọng Tường tăng lên gấp đôi, nhà cửa vườn tược chiếm cả hai phần nên cuộc sống ngày càng thêm
khấm khá. Chẳng mấy chốc ba năm đã trôi qua, sau khi Kế Nghiệp xa nhà, không bao giờ còn trở lại nữa. Mỗi năm đến tháng chạp người ta đua nhau đi sắm tết để chuẩn bị năm mới. Năm ấy Hách Trọng Tường, mua rất nhiều hàng Tết đầy đủ mọi thứ. Tiền vào như nước không tiêu thì để làm gì, đúng là “không ăn không uống, chết đi cũng uổng”
Buổi tối ngày ba mươi Tết, Hách Trọng Tường mang ra đủ các loại bài vịtổ tiên nhiều đời rồi đặt theo thứ tự để các ngài lần lượt ngồi vào, sau đó bầy lên đủ thứ gà vịt thịt cá, vật tế bằng lợn bằng cừu để cúng thỉnh tổ tiên về cùng hâm hưởng,
để năm tới sẽ ban phúc cho họ nhiều hơn. Mọi thứ sắp sửa đâu vào đấy, Hách Trọng Tường thắp đèn lồng lên, mở cửa ra phố, gọi là đi “đón thần”. Chắc rằng trước đó, thần linh các bậc tổ tiên đều còn đang bay vơ vẩn trên không, chỉ có đến lúc này mới theo chân của hiếu tử, hiếu tôn về đây ngồi vào giữa nhà hưởng đồ tế lễ của cháu con.
Cửa lớn Hách phủ rộng mở, Hách Trọng Tường dẫn ba người con trai nâng cao đèn lồng cùng bước vào trong sân rồi thắp hương – chuốc rượu – đọc văn tế – lễ tạ… mời các vị thần về phủ để hâm hưởng. Nghi thức vừa xong, Hách Trọng Tường bò dậy, trong mung lung thấy bên ngoài cổng có một chàng trai đang đứng, trên mình giáp mãng chỉnh tề như một vị tướng sắp sửa ra trận.
– Này! Kế Nghiệp đấy phải không? Đã về ăn Tết, sao không vào nhà? – Hách Trọng Tường rất lấy làm lạ hỏi.