"
Dạy Con Trong Hoang Mang Tập 1 PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dạy Con Trong Hoang Mang Tập 1 PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI BAN BIÊN TẬP
Tại sao lại là
Dạy con trong “hoang mang”
K
hi bắt tay vào thực hiện cuốn sách này, Ban Biên tập Anbooks đã tiến hành một khảo sát nhỏ, thông qua ứng dụng khảo sát của Google, để tìm ra những đề tài các bố mẹ đang quan tâm trong việc nuôi dạy con mình. Bảng khảo sát gồm 20 câu hỏi chính và để mở cho một số đề tài khác mà các bố mẹ bổ sung thêm. Kết quả, có 25 chủ đề các bố mẹ trên khắp cả nước quan tâm đã được đề cập đến trong cuốn sách này, ở dạng từng bài viết riêng lẻ. Trong cấu trúc 30 bài viết của cuốn sách này, có 5 bài viết do Ban Biên tập (BBT) gửi gắm thêm và đặt hàng tác giả.
Khi tất cả bài viết đã được định hình, BBT và tác giả phải cùng nhau đưa ra định: đặt tựa cuốn sách là gì?
Dạy con trong “hoang mang” chính là tựa đề mà BBT Anbooks xin phép tác giả để được chọn, bởi với tính cách điềm đạm và sự chuẩn mực của một nhà nghiên cứu khoa học, tác giả đã chọn một tựa sách khác.
Dạy con trong “hoang mang” được chọn từ tựa đề một bài viết trong cuốn sách, cũng chính là điều thôi thúc BBT Anbooks thực hiện cuốn sách này. Xuất phát từ ước mong tìm kiếm cho độc giả những tri kiến về dạy con, tìm đến sự “minh triết tự thân” trong chính con cái mình, đạt được sự ung dung thanh thản trong vai trò làm cha mẹ, một “nghề nghiệp” trọn đời hết sức thiêng liêng nhưng cũng đem lại không ít đau khổ và thách thức.
Chúng ta đang ở trong một giai đoạn mà sự bùng nổ của internet đã thay đổi cách nghĩ của các bậc cha mẹ về thế giới, về đất nước, và cả về nuôi dạy con cái. Nhiều thế hệ con trẻ sẽ lớn lên cùng với
chính nhận thức của các bậc sinh thành, dưỡng dục hôm nay. Trong mười hoặc hai mươi năm tới, những biến chuyển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với thời đại của robot và các thiết bị điện tử tích hợp với cơ thể người sẽ thực sự thay đổi cách chúng ta tương tác với nhau. Liệu chúng ta đã thực sự sẵn sàng?
Giờ đây, bằng cuốn sách Dạy con trong “hoang mang”, BBT Anbooks mời quý độc giả nhìn lại một cách thẳng thắn vào các giềng mối giáo dục trong chính gia đình mình và những người xung quanh mình. Căn cứ vào những hiểu biết sâu sắc trên cơ sở khoa học, bằng việc đối chiếu những vấn đề dạy con của bố mẹ Mỹ và bố mẹ Việt Nam, chúng ta thấy rằng, thực sự, nỗi lo và gánh nặng của người làm cha mẹ trên khắp thế giới này cũng giống nhau. Không có một nền giáo dục hoàn toàn ưu việt và cũng chẳng có một nền giáo dục hoàn toàn lạc hậu, bằng tri kiến trên cơ sở khoa học và tình thương sáng suốt của mình, độc giả hãy “tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Chúng tôi ước mong quý độc giả sẽ tìm được “minh triết” cho chính mình trên hành trình làm cha mẹ.
BBT Anbooks trân trọng giới thiệu đến quý độc giả thân mến một góc nhìn giáo dục và tâm lý từ Mỹ, một học giả Việt Nam đang sinh sống và làm việc trong ngành Tâm lý Học đường tại Mỹ; một văn phong sắc sảo - lạ lẫm; một cách diễn đạt giao thoa giữa văn chương và lý luận khoa học; một người ứng dụng thiền trong chữa trị và tham vấn tâm lý.
Trong cuốn sách này, bạn đọc sẽ có cơ hội bắt gặp những từ vựng tưởng như đã “mất tích” trong dòng sách Việt Nam đương đại. Chúng tôi không cố biên tập chúng theo “khẩu vị” chung của bạn đọc hiện nay, bởi chúng tôi ước mong thông qua cuốn sách nhỏ bé này, những thế hệ bố mẹ trẻ sẽ tìm thấy sự cảm thông, chia sẻ với bố mẹ của mình, những người đang là ông bà nội ngoại của con cháu mình.
Lời cuối, cho phép BBT Anbooks kính chúc quý độc giả có được những trải nghiệm đặc biệt, sâu sắc với cuốn sách này.
Trân trọng.
VỀ TÁC GIẢ
Tiến sĩ Lê Nguyên Phương
T
iến sĩ Lê Nguyên Phương nhận bằng Thạc sĩ Tâm lý Giáo dục và chứng chỉ hành nghề Tâm lý Học đường tại Đại học California State Long Beach (CSULB) và bằng Tiến sĩ Lãnh đạo Giáo dục chuyên ngành Tâm lý Giáo dục tại University of Southern California (USC). Tiến sĩ cũng đã hoàn tất chứng chỉ thực hành điều trị tâm lý bằng liệu pháp Chánh niệm Nhận thức [Mindfulness-Based Cognitive Therapy] và chứng chỉ cao cấp liệu pháp Thân nghiệm [Somatic Experiencing].
Hiện nay, Tiến sĩ Lê Nguyên Phương là Chuyên gia Tâm lý Học đường của Học khu Long Beach và giảng viên của chương trình cao học bộ môn Tâm lý Học đường tại Đại học Chapman. Trước đây, Tiến sĩ là giảng viên bộ môn này tại Đại học California State Long Beach (CSULB). Tiến sĩ đã dạy các lớp lý thuyết về học tập và động lực học tập, can thiệp và tham vấn trong môi trường đa văn hóa, và giám sát thực tập sinh viên ngành Tâm lý Học đường.
Tiến sĩ Lê Nguyên Phương đã hành nghề Tâm lý Học đường từ năm 2002 tại các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở và tiểu học. Tại các trường này ngoài việc phục vụ học sinh trong chương trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh tự kỷ, chậm trí, có rối loạn về cảm xúc, và khuyết tật khả năng học tập, Tiến sĩ còn chịu trách nhiệm điều hành các chương trình tham vấn nhóm, tổ chức tổ can thiệp khủng hoảng, và cung cấp dịch vụ tham vấn cá nhân cho nhiều học sinh với nhiều rối loạn và mức học lực khác nhau bằng các liệu pháp Nhân thức Hành vi, Giải pháp Tập trung, Thân nghiệm, và Chánh niệm.
Tiến sĩ Lê Nguyên Phương từng là thành viên của Hội đồng điều hành của Hội Tâm lý Học đường Long Beach [Greater Long Beach Association of School Psychologists] và của Ủy ban Xét duyệt Nghiên
cứu cho Giải thưởng Kỷ niệm Michael Goodman, thuộc Hiệp Hội Tâm lý Học đường California [California Association of School Psychologists].
Năm 2011, Tiến sĩ Lê Nguyên Phương đã vinh dự là người đầu tiên nhận giải Chuyên gia Thực hành Tâm lý Học đường Quốc tế Kiệt xuất [Outstanding International School Psychology Practice] của tổ chức International School Psychology Association (ISPA) (tham khảo http://www.ispaweb.org/about-ispa/ispaawards/ và http://www.ispaweb.org/about-ispa/ispaawards/the-ispa-award-for
outstanding-internationalschool-psychology-practice/)
Trong các năm qua, Tiến sĩ Lê Nguyên Phương đã về Việt Nam nhiều lần để tham gia các hội thảo chuyên ngành, cũng như giảng dạy trong các khóa tập huấn các kỹ năng Tâm lý Học đường cho giảng viên các trường đại học và chuyên viên hành nghề. Năm 2012, Tiến sĩ được mời về dạy lớp Tổng quan Tâm lý học bằng Anh ngữ cho sinh viên trong chương trình điều dưỡng tiên tiến của Đại học Y Hà Nội. Năm 2014, Tiến sĩ đã về làm việc tại Đại học Sư phạm Huế với tư cách chuyên gia Fulbright do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ trong hai đề án Cẩm nang Hoạt động Trung tâm Tham vấn & Dịch vụ Giáo dục Đặc biệt và Mô hình Nhận diện Khuyết tật Khả năng Học tập. Ngoài Việt Nam, Tiến sĩ cũng đã tham gia các hội thảo ở Hoa Kỳ và các nước với các tham luận về xây dựng ngành Tâm lý Học đường trên thế giới và liệu pháp Chánh niệm Nhận thức trong điều trị chứng trầm cảm.
1 Tiến sĩ Lê Nguyên Phương là người sáng lập tổ chức Liên hiệp Phát triển Tâm lý Học đường tại Việt Nam [Consortium to Advance School Psychology in Vietnam - CASP-V] vào năm 2009. Tổ chức này hiện nay là một tổ chức bất vụ lợi có đăng ký tại bang California, Hoa Kỳ cho hoạt động quốc tế của mình với tên mới là Liên hiệp Phát triển Tâm lý Học đường -Quốc tế [Consortium to Advance School PsychologyInternational, CASP-I]. Tiến sĩ Lê Nguyên Phương đã đảm nhiệm lãnh đạo tổ chức này với vai trò Chủ tịch Hội đồng Quản trị trong nhiệm kỳ 2015 - 2016.
LỜI MỞ ĐẦU
T
rong các cuộc tranh luận về việc giáo dục con trẻ hiện nay tại Việt Nam, có nhiều quan điểm khác nhau về khả năng tư duy và học tập của trẻ từ nhà trẻ cho đến hết trung học. Một số chuyên gia và giảng viên thuyết giảng/thảo luận trên mạng hay trên báo chí đã dùng một số kinh nghiệm cá nhân và đề cập đến các lý thuyết về trí tuệ, cảm xúc, đạo đức,... chẳng hạn lý thuyết phát triển trí tuệ của Jean Piaget, thuyết phát triển gắn bó của John Bowlby, thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erik Erickson v.v.., để dẫn chứng cho những luận điểm và phương pháp của mình. Nhưng có lẽ cơ bản và tiên quyết nhất trong nội dung của các thảo luận là vấn đề dạy con lối nào, không phải là cách nào. Câu hỏi này là ngọn của một câu hỏi gốc rễ hơn nữa, bạn muốn con bạn thành người như thế nào? Có biết đích đến mới biết đường đi là vậy.
Mỗi lần về Việt Nam là tôi lại thăm các nhà sách để xem các sách về dạy con mang nội dung gì. Quả thật, lướt qua các tựa đề kiểu trăm hoa đua nở trên kệ sách mà một người trong ngành như tôi cũng thấy hoa mắt hoang mang.
Dạy con theo kiểu Mỹ, Dạy con theo kiểu Nhật, Dạy con theo kiểu Pháp, Dạy con theo kiểu Do Thái, hay Dạy con theo kiểu Đức... Cũng hơi lạ là chưa thấy các sách dạy con theo lối Trung Hoa hay Ả Rập.
Lật qua các cuốn sách này thì thấy lối trình bày theo lối kể chuyện, cũng hay là nó giúp phụ huynh có thể tiếp cận dễ dàng, dễ nhớ, dễ hiểu. Điều đáng lo ngại các “kiểu dạy con” này lại mang định hướng giáo dục dựa trên văn hóa và tập tục một quốc gia được xem là thành công trên thế giới hơn là dựa trên những lý thuyết nền tảng trong ngành tâm lý giáo dục và quan trọng nhất là kết quả nghiên cứu khoa học cập nhật. Đó là chưa nói tới chuyện ở một số cuốn, tác giả không phải dân chuyên môn, thiếu kiến thức nền tảng
về giáo dục và tâm lý, và đưa ra những bài học mâu thuẫn hay cảm tính.
Ngay cả khi các lý thuyết phát triển tâm lý của trẻ ở giáo trình trong ngành cho các sinh viên cao học vào vận dụng đi nữa thì chúng ta cũng phải cẩn thận vì chúng chỉ có tính tham khảo và xây dựng kiến thức căn bản. Các lý thuyết này thường dựa vào các mẫu nghiên cứu rất giới hạn và được xây dựng vào thời kỳ việc thiết kế các thí nghiệm còn rất thô sơ, phần lớn do giới hạn phát triển kỹ thuật hỗ trợ và phương pháp nghiên cứu trong giai đoạn đó. Vì vậy, chúng ta có thể dùng chúng để suy diễn ra những hệ quả và thiết lập một công trình nghiên cứu kiểm chứng thì được nhưng dùng chúng như là định hướng chính trong một nền giáo dục thì quả thật còn nhiều thiếu sót. Kinh điển hay cổ điển không phải là chân lý vĩnh viễn. Chính vì vậy, không có quốc gia tiên tiến nào lại xây dựng một mô hình giáo dục toàn quốc hoàn toàn dựa trên lý thuyết phát triển của một lý thuyết gia nào đó, mà phải lập ra một hội đồng cố vấn gồm những nhà nghiên cứu và tổng duyệt các nghiên cứu cùng chung đề tài, để đề ra các khuyến cáo về chính sách. Tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể thấy sự hiện diện của các hội đồng như: President’s Advisory Commission on Educational Excellence for Hispanics hay President's Advisory Commission on Educational Excellence for African Americans, v.v.. trong vai trò này.
Nếu cần tiếp cận với các tài liệu chuyên môn, việc tham khảo các nghiên cứu trong các chuyên san sẽ giúp chúng ta có cái nhìn cập nhật hơn. Chỉ nói riêng về khả năng trí tuệ của con trẻ, những nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng trí tuệ của con trẻ phát triển sớm hơn các lý thuyết cũ đã đề ra. Cách đây gần 20 năm khi làm luận án cao học về tư duy biện chứng [dialectial thinking], tôi đã ngạc nhiên khi tìm ra một công trình nghiên cứu ở Nga cho biết trẻ tiểu học đã có thể phát triển loại tư duy này, loại tư duy mà những nghiên cứu tiền phong tin rằng chỉ xuất hiện ở người lớn tuổi và từng trải. Nghiên cứu về những đề tài cổ điển như khả năng trí tuệ bây giờ đã đi sâu vào từng khía cạnh riêng biệt của trí năng của trẻ như ký ức thị giác - không gian [visual spatial memory], tái lập thời
gian [temporal reconstruction], v.v... mà chúng ta dù đang làm công tác chuyên môn cũng không biết và đọc hết.
Nếu được hỏi về một đề nghị khởi đầu cho hành trình tìm kiếm lối dạy con của các phụ huynh, câu trả lời của tôi sẽ là hãy tự chuyển hóa mình để giáo dục con. Hãy hóa giải những khổ đau trong tâm hồn mình, tăng trưởng trí tuệ trong trí não mình, và chú tâm hơn trong sinh hoạt hàng ngày của mình. Và đừng biến con thành phương tiện. Cho dù các nghiên cứu có phát hiện trẻ bây giờ có khả năng phát triển trí tuệ và học tập tốt hơn hay nhanh hơn chúng ta đã từng nghĩ, đó cũng không phải là lý do con em chúng ta là phương tiện để chúng phải hy sinh làm vật thí nghiệm và lối giải tỏa cho tham vọng, sợ hãi, mặc cảm của chúng ta. Chúng ta có thể mong con không phải khổ cực trong mưu sinh như chúng ta, nhưng không nên biến chúng thành những đền bù cho những gì chúng ta chưa làm được. Hãy ngưng suy nghĩ: “Thời xưa ba thèm là bác sĩ nên nay con phải đi học bác sĩ”, “Mẹ sợ nghèo đói nên con đừng bao giờ trở thành nghệ sĩ”, hay “Ba là nông dân cho nên con phải là luật sư để gia đình nở mày nở mặt”.
Quả là bất hạnh cho những đứa trẻ bị kéo căng hay gọt cụt trên chiếc giường Procrustes, trò chơi tàn bạo của tên cướp trong thần thoại Hy Lạp, để thực hiện những giấc mộng không thành của cha mẹ. Con cái của chúng ta không phải là cái nhà bên bờ hồ, chiếc xe bóng loáng mới nhập về, chiếc nhẫn kim cương, hay chuyến đi qua 6 nước châu Âu mà chúng ta thường khoe khoang trong các buổi giỗ tiệc, họp mặt gia đình hay bè bạn. Con cái không phải là Thượng Đế để chúng ta tôn thờ phục vụ, nhưng cũng không là tạo vật để chúng ta mặc tình chơi trò bóp nặn. Có một cái mà chúng ta có thể đã và đang thiếu, thì hãy giúp chúng có. Đó không phải là quyền lực, tiền bạc và danh vọng. Đó cũng không phải là bằng cấp, địa vị, hay tài sản. Đó là sự bình an trong tâm hồn, một tinh thần sáng suốt, trầm tĩnh và trong lành.
Điều đó không xa lắm với khuynh hướng giáo dục hiện đại. Nhiều nhà giáo dục trên thế giới đã có nỗ lực xây dựng những phương
pháp giáo dục trẻ em tân tiến nhằm khắc phục những thiếu sót của phương pháp giáo dục cũ. Ngoài việc các phương pháp phi truyền thống này được xây dựng trên những lý thuyết giáo dục của Rousseau, Dewey, Piaget, Vygotsky,... chúng còn được xây dựng trên lý tưởng về một con người toàn diện và hạnh phúc, một thế giới hòa bình và thân ái. Điều đó đã được Giáo sư Carolyn P. Edwards trình bày khi giới thiệu qua ba phương pháp dạy trẻ xuất hiện sau Thế chiến thứ II, Wardolf, Montessori, và Reggio: “Tất cả ba phương pháp đại diện cho một lý tưởng công khai và quay lưng lại với bạo lực, hướng tới hòa bình và tái thiết. Chúng được xây dựng trên một tầm nhìn mạch lạc về biện pháp cải thiện xã hội loài người bằng cách giúp trẻ nhận ra tiềm năng đầy đủ của chúng là thông minh, sáng tạo, và con người toàn diện”.
Để đi tìm một giải pháp cho giáo dục trẻ con Việt Nam, nhất là giáo dục tại gia, có lẽ chúng ta cũng nên tích cực tìm kiếm, tham khảo, nghiên cứu những phương pháp giáo dục mới và thích hợp. Phụ huynh chỉ là người tiêu dùng, không phải ai cũng được trang bị đầy đủ tri thức để chọn được sản phẩm tốt và thích hợp cho con cái và gia đình mình. Nhiệm vụ “gạn đục khơi trong” những dòng nước đang tràn vào “ao nhà” chính là thuộc về trách nhiệm của tầng lớp chuyên gia và trí thức của nước nhà.
Cuốn sách bạn đang cầm trên tay chỉ là một đóng góp nhỏ của người đã đi xa nhưng còn thương mến chốn quê nhà, mong cùng chung sức với nhiều anh chị em chuyên gia và trí thức khác trong nước đang nỗ lực xây dựng các giá trị và triết lý giáo dục không chỉ cho mỗi gia đình mà còn cho cả nền giáo dục Việt Nam. Cuốn sách không dày nhưng nó cố gắng thảo luận về những vấn đề mà phụ huynh và thầy cô tại Việt Nam đang quan tâm hiện nay. Nếu quý bạn quan tâm về các định hướng dạy con chính, bài Dạy con lối nào sẽ giúp cho quý bạn một cách căn bản. Vấn đề về trí thông minh được thảo luận trong bài Thông minh là định mệnh, thành công và phương pháp học tập trong bài Mơ ước thủ khoa và Cái bị sách, các giá trị nhân bản và dân tộc trong Nở nụ từ tâm hay Nghiệp báo bất nhân, tương quan cảm xúc giữa cha mẹ và con cái trong Con theo
phe cha, dạy con thông minh, cảm xúc trong Suốt đời sợ hãi hay Con thuyền giấy tuổi thơ, v.v... Đây không phải là một cuốn sách về phương pháp dạy con dạy trò với những chỉ dẫn từng bước cụ thể cho cha mẹ hay thầy cô mà là một cuộc hành trình của tác giả với cha mẹ và thầy cô, đặc biệt trên con đường giá trị, thái độ, định hướng của chúng ta trong việc dạy con.
Cuốn sách này có thể không dễ đọc với một số độc giả vì mỗi bài là một nỗ lực của tác giả nhìn vấn đề từ nhiều khía cạnh, tâm lý lẫn triết học, thường nghiệm lẫn nghiên cứu, văn chương lẫn khoa học. Không chắc tác giả đã đạt được điều chính mình mong muốn hay sự mong muốn của độc giả, nhưng nỗ lực có một cái nhìn đa chiều chính là mục đích của tác giả. Vì thấy tuổi thơ trong quá khứ của mình và trung thành với tâm nguyện “chuyển hóa chính mình để giáo dục trẻ thơ”, tác giả cũng có thể sẽ làm một số độc giả thấy lạ lùng bối rối trong vài đoạn khi không biết tác giả đang nói về con trẻ hay về phụ huynh. Thật ra biên giới này chỉ là tương đối, khi biết rõ tâm trí của mình, chúng ta sẽ thấy con trẻ là hình ảnh phản chiếu của chúng ta, và nhất cử nhất động của chúng ta đều tương giao mật thiết với thế giới chung quanh, trong đó có trẻ. Chướng ngại cuối cùng cho độc giả có thể là từ ngữ và văn phong của tác giả. Bên cạnh những từ ngữ xuất hiện chỉ trong vòng vài chục năm trở lại đây trong nước, độc giả cũng có thể thấy xuất hiện trong sách những từ ngữ đã được sử dụng ở một phần đất nước trước kia và nay được dùng tiếp tục ở hải ngoại, những từ ngữ mới cho những khái niệm học thuật chưa được giới thiệu ở trong nước, và thậm chí cả những từ ngữ hay cách nói của cả ba miền. Về văn phong… thôi thì xin độc giả lượng thứ cho một người chuyên giảng dạy học thuật chuyên môn mà mạo hiểm qua lãnh vực sách vở thường thức này.
Với cuốn sách này, quý bạn có thể đọc bất cứ bài nào trong sách trước hay đọc lần lượt các bài từ đầu đến cuối sách như Ban Biên tập của Công ty Anbooks đã có chủ ý sắp xếp. Nếu có những đoạn quá nặng về học thuật, chẳng hạn các đoạn chuyên về các lý thuyết và nghiên cứu thần kinh, các bạn đọc không phải là nhà chuyên môn có thể đọc lướt qua. Tuy nhiên, xin các bạn đừng bỏ qua các
kết luận của chúng. Riêng các bạn là chuyên gia trong lãnh vực giáo dục và tâm lý, tác giả hy vọng các bạn sẽ tìm được một vài nghiên cứu hay lý thuyết mới mà các bạn có thể tiếp tục tìm hiểu và ứng dụng. Xin các bạn đồng hành cùng tác giả trên con đường đem kho tàng tri thức chuyên môn của thế giới đến cho quý vị phụ huynh Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Nào, xin cùng nhau bắt đầu cuộc hành trình!
LÒNG MẸ TRÙNG DƯƠNG
T
iếng khóc ngằn ngặt của đứa bé khiến người mẹ tỉnh dậy trong cơn đau từ vết mổ. Những phụ nữ đang đứng chung quanh trong đó có bà ngoại đứa bé cười lắc đầu, ngượng ngùng trong nỗi bất lực không dỗ nó nín được. Tiếng khóc của đứa bé như oán trách về những căng thẳng và phiền muộn mà nó đã phải chịu đựng cùng mẹ suốt thời gian mang thai. Sửa lại chiếc gối sau lưng, người mẹ gượng đau dang tay đón đứa bé vào lòng. Tay trái ôm con, bàn tay phải đặt lên đỉnh đầu, giữ cho mặt con kề cận, người mẹ thầm thì: “Có mẹ đây rồi, mẹ ở đây”. Đứa bé dịu dần, tiếng khóc trở thành tấm tức, rồi rên ư ử, rồi chìm vào giấc ngủ say. Tất cả chung quanh dường như tan biến. Trong ánh mắt và tâm trí người mẹ chỉ còn hình ảnh cùng nhịp đập và hơi thở đứa con. Từ hai, người mẹ và đứa con lại trở thành một, trong bình an và yêu thương.
Những phát kiến mới trong ngành Tâm lý học Thần kinh đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự tương tác giữa mẹ và con trong những năm tháng đầu đời, đặc biệt là giây phút mẹ và con nhìn vào mắt nhau lần đầu tiên khi một trở thành hai cho đời thêm tạo vật. Sinh ra với sự giới hạn trong khả năng tự điều hòa cảm xúc, đặc biệt là những cảm xúc tiêu cực trước những kích thích lạ lẫm và khó chịu trong môi trường, trẻ chỉ có thể nhắm mắt ngủ để chấm dứt sự tương tác với ngoại cảnh hay mở miệng khóc để báo hiệu với mẹ sự khó chịu của mình. Khi mẹ bế con lên, da áp da, mắt trong mắt, dịu dàng thì thầm, tâm trẻ trở nên bình an. Đó chính là bản luân vũ giữa hai sinh thể hòa điệu để điều hòa sự đồng bộ tâm sinh lý của mẹ và con.
Allan Schore, Giáo sư Tâm lý học Thần kinh của Đại học California tại Los Angeles, đã đặt tên cho bản luân vũ đó là điều hòa hỗ tương [interactive regulation] hay còn gọi là đồng điều hòa [co-regulation]. Trong năm đầu khi bộ não chưa phát triển đầy đủ, trẻ chưa có khả năng tự điều hòa những cảm xúc của mình đặc biệt là những cảm xúc tiêu cực vì thế chúng cần sự tương tác với mẹ để giúp chúng
làm được những việc này. Những thông tin thị giác, thính giác và xúc giác chứa đựng trong tiến trình giao tiếp cảm xúc sẽ được trao đổi giữa hai khuôn mặt của mẹ và trẻ, và trong sự giao tiếp này, người mẹ đóng vai trò điều hòa cho tình trạng hưng phấn của trẻ. Nếu người chăm sóc nhạy cảm và đáp ứng được những phản ứng cảm xúc của trẻ, trẻ có thể bình tâm để tiếp tục khám phá thế giới chung quanh. Không những thế, bán cầu não phải, vốn chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc xử lý và điều hòa xúc cảm và trạng thái thân thể, chỉ có thể phát triển mạnh mẽ vào tam cá nguyệt cuối của thời kỳ mang thai cho đến khi trẻ hai tuổi. Nếu đạt được sự đồng cảm và giao hòa với mẹ hay người chăm sóc chính, trẻ sẽ có không chỉ những điều kiện để phát triển mạnh mẽ não phải mà còn hình thành được những gắn bó sâu sắc và lành mạnh với người thân. Dần dần nhờ đó, trẻ phát triển khả năng tự điều hòa các trạng thái cảm xúc và cảm giác. Đây được xem như là một trong những khả năng quan trọng mà trẻ phải phát triển ngay từ đầu để chỉ tập trung vào các thông tin có lợi và giảm những áp lực từ môi trường.
Giây phút đầu đời giữa mẹ và con cũng có thể xem như điểm đầu trong “hành trình chuyển nghiệp” của mẹ cho con. Những người phụ nữ gặp căng thẳng hay bị trầm cảm trong thời gian mang thai thường có độ hormone cortisol cao trong máu hơn các bà mẹ khỏe mạnh bình an. Việc tiếp xúc với lượng cortisol cao trong máu người mẹ khiến cho trẻ thường bị sinh non, nhẹ cân, và kém phát triển hơn. Chính bản thân những đứa trẻ cũng mang lượng hormone này trong nước tiểu cao hơn trẻ bình thường. Điều này khiến chúng trở nên dễ bị căng thẳng hơn, tính khí khó chịu hơn, và khó dỗ dành hơn. Không chỉ vậy, khi lớn lên, những đứa trẻ này có nguy cơ gặp nhiều khó khăn về các mặt giao tiếp xã hội và cảm xúc, đặc biệt là các chứng rối loạn tính cách. Nếu một người mẹ tiếp tục bị trầm cảm sau khi sinh để từ đó không có khả năng đáp ứng những phản ứng cảm xúc của trẻ, đứa trẻ sẽ không có điều kiện để được giúp điều hòa và sau đó là tự điều hòa những cảm xúc bất an và căng thẳng vốn cao hơn những đứa trẻ khác của mình. Nếu vì hoàn cảnh mà thời gian mang thai, người mẹ đã không có một điều kiện tối ưu về mặt tinh thần khiến đứa con sinh ra với những nguy cơ về tâm lý,
những năm đầu đời chính là cơ hội tốt nhất của mẹ để hóa giải những oan nghiệt cho con bằng trí tuệ và từ bị của chính mình qua tiến trình điều hòa hỗ tương.
Tất cả chúng ta đều chịu ơn cha mẹ bằng thân giáo đã dạy cho chúng ta bài học điều hòa cảm xúc trong những năm đầu đời này. Qua bao nhiêu nghịch cảnh thăng trầm của cuộc sống, chiếc bè chắc chắn nhất giúp chúng ta vượt qua những cơn sóng dữ là khả năng vượt qua được những cảm xúc tiêu cực. Chúng ta có thể đau nhưng không khổ, mất mát nhưng không tuyệt vọng. Mỗi lần ngã xuống là một lần bật dậy và đi tiếp. Tất cả những khả năng đó không chỉ đến từ bán cầu não trái của tư duy và lý luận mà quan trọng nhất lại là từ bán cầu não phải của cảm xúc và thân xác, không chỉ đến từ khả năng tự điều hòa của mình mà còn đến từ khả năng vươn ra cùng hòa điệu với những người thân chung quanh trong vũ điệu điều hòa hỗ tương.
Trong lòng mẹ cũng như bên cạnh một bậc chân sư, chúng ta đều tìm được sự bình yên và thư giãn tuyệt đối trong cảm thức an toàn và bảo bọc. Nhiều tác giả, chẳng hạn như Tiến sĩ Steve Taylor, Giảng viên cao cấp Tâm lý học của Đại học Leeds Beckett, đã mô tả trạng thái bên cạnh một vị chân sư như một dòng sông tĩnh lặng mang đến sự bình yên đến từng chân lông sợi tóc. Trong trạng thái “nhập đồng” ngây ngất đó, mọi ưu phiền, băn khoăn, và ham muốn về cuộc đời dường như cũng trở nên cũng nhẹ nhàng và dần tan biến. Phải chăng sự bình an và vô ngã của một vị chân sư cũng tương tự như sự bình an và vô ngã của người mẹ? Bình an là vì con và vô ngã là vì cuộc đời con chính là cuộc đời mẹ, vì mẹ có thể hy sinh trọn vẹn trong sự bình an cho con.
Ở trong lòng mẹ cũng như bên cạnh sông dài hay biển rộng. Những dòng sông như dòng sông Hằng ở Ấn hay Jordan của Do Thái vốn thường được xem như những vùng linh thánh. Nó còn là biểu tượng của sự tái sanh, thanh tẩy và cứu chuộc tâm linh. Nhà Hải dương học Wallace J. Nichols tin rằng chúng ta có một tâm trí màu “xanh dương” của sông nước. Khi gần sông biển, lòng ta như
trong một trạng thái như thiền định nhẹ nhàng, an bình, hợp nhất, và hoan hỉ với cuộc đời trong giây phút thực tại hiện tiền. Nichols viết: “Chúng ta bắt đầu biết rằng não của chúng ta được điều kiện hóa để phản ứng tích cực với nước và gần nước sẽ làm cho chúng ta cảm thấy bình an và gắn bó với nhau, tăng khả năng sáng tạo và đổi mới, và thậm chí những đổ vỡ sẽ được làm lành”. Sông biển cũng như lòng mẹ sẽ chấp nhận và thanh tẩy hết những khổ đau và ô nhiễm của con người.
Mẹ là người thầy tâm linh đầu tiên và biển rộng sông dài của con. Thoảng trong gió biển dường như là lời ca Mẹ trùng dương của Phạm Duy: “Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng. Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương,... Sóng vỗ êm êm như khuyên con nên trở lại Mẹ hiền, Gió rút thông reo như kêu con mau trở về Mẹ yêu”.
Giây phút đầu đời giữa mẹ và con cũng có thể xem như điểm đầu trong “hành trình chuyển nghiệp” của mẹ cho con. Những người phụ nữ gặp căng thẳng hay bị trầm cảm trong thời gian mang thai thường có độ hormone cortisol cao trong máu hơn các bà mẹ khỏe mạnh bình an. Việc tiếp xúc với lượng cortisol cao trong máu người mẹ khiến cho trẻ thường bị sinh non, nhẹ cân, và kém phát triển hơn. Chính bản thân những đứa trẻ cũng mang lượng hormone này trong nước tiểu cao hơn trẻ bình thường. Điều này khiến chúng trở nên dễ bị căng thẳng hơn, tính khí khó chịu hơn, và khó dỗ dành hơn.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
BỐ ƠI! BỐ ƠI!
M
ỗi khi Danny thấy tôi trong trường từ xa là réo lên “Daddy! Daddy!” Lúc nào dù bận tới đâu, tôi cũng đến với em, để em ôm riết lấy, gục đầu vào ngực tôi hỏi “Bố có khỏe không bố?” Thân hình to thấp, cổ và tay chân ngắn ngủn, dáng đi lạch bạch, đôi mắt hình hạnh nhân nhìn vào mắt tôi thân ái. Những lúc đó mỗi khi có ai đi ngang, em đều hãnh diện chỉ vào tôi và bảo: “Đây là bố của em”. Mấy học sinh học cùng lớp với Danny thì nghi ngờ, chắc thấy hai khuôn mặt da vàng của Á châu và da nâu của nhóm dân Mỹ La tinh chẳng hề giống nhau, nên hỏi tôi: “Thầy có phải thực là bố của Danny không?” Tôi cười ngoác miệng đến tận mang tai: “Ừ, thầy là bố của Danny”.
Danny bị bịnh Down và đang học lớp Giáo dục Đặc biệt dành cho trẻ khuyết tật trung bình và nặng [moderate-severe disabilities]. Tôi gặp em đầu tiên cách đây một năm khi cả gia đình em họp với nhà trường để soạn một bản can thiệp hành vi cho em. Chuyện là cứ khi nào về nhà là em lại mở ti vi xem đấu vật đài Mễ, mê mẩn với những màn nhào lộn, đánh đấm, khóa cổ, húc đầu của các võ sĩ trên đài. Em khoe với tôi nào là áo choàng, mặt nạ, đai lưng... đủ thứ phụ tùng mà cha mẹ vì chiều em mà mua cho với đồng lương ít ỏi của mình. Thế là vào trường, em thử đủ mọi đòn đấu vật với bạn học, có khi cả với những phụ giáo. Can thiệp và kỷ luật trong phạm vi lớp học do cô giáo soạn xem chừng chẳng ăn thua, nên tôi và ban giám hiệu phải “vào cuộc”. May mắn là chỉ vài tháng sau, em đã giảm dần rồi hết hẳn những hành vi hung bạo đối với người chung quanh.
Thật ra lúc nhỏ tôi rất sợ người khuyết tật, từ tâm thần đến thể hình. Không biết tự lúc nào và cũng không biết học từ ai mà nỗi sợ được định hình. Lúc đó đối với tôi, người khuyết tật như là một loại người khác, đến từ một thế giới hay hành tinh khác, là nhân vật mà các truyện cổ tích hay thần thoại thường liệt vào loại xấu ác, chỉ chờ
một anh chàng hiệp sĩ tuấn tú cỡi bạch mã nào đó vung gươm diệt trừ. Tệ hơn nữa, có thuyết cho rằng khuyết tật ở kiếp này là do kiếp trước thất nhân thất đức. Với đứa con nít thì chắc chắn người không hoàn hảo về thể xác hay tâm thần cũng là người ác rồi. Luật nhân quả rơi vào đầu kẻ bất tri biến thành một hệ quy chiếu để phân loại đẳng cấp, để tự hãnh với cái thân trí lành lặn của mình và để khinh thị người chung quanh.
Có một từ để gọi sự phân biệt và kỳ thị người khuyết tật “ableism”. Một người “ableist” đánh giá đặc tính của người khác bằng khuyết tật của họ, và xem người khuyết tật “thấp kém” hơn người không khuyết tật. Vì một khuyết tật thể chất nào đó, một người có thể bị cho là có một cá tính hay không có một khả năng nào đó. Theo Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO), có khoảng 15% dân số toàn cầu có một khuyết tật thể hình hay tâm thần. Từ lúc có nhân loại là đã có khuyết tật, nhưng có lẽ cho đến nay quan niệm và thái độ của một số người đối với người khuyết tật vẫn còn ở thời Trung Cổ. Những thành kiến về người khuyết tật vẫn còn hiện hữu trong vốn từ vựng hàng ngày của chúng ta: “điên”, “khùng”, “đụt”, “cụt”, “thọt”, “đần độn”, “què quặt”, “tàn phế”,... Một xã hội “ableist” sẽ là một xã hội chủ trương gây giống đại trà cho những cặp dung nhan đẹp đẽ và trí tuệ thông minh, và giới hạn hay thậm chí cấm đoán người khuyết tật thành hôn. Nói rộng hơn, việc phân biệt một thành phần xã hội hay một chủng tộc khi cho rằng người thuộc chủng tộc hay thành phần đó thì phải mang một đặc tính hay phẩm chất nào đó cũng là một hình thức của “ableism”. Hơn năm triệu người Do Thái chết trong trại cải tạo và trong lò hơi độc là minh chứng của hình thái “ableism” cực đoan.
Nhận diện được nỗi sợ này, khi bắt đầu học tâm lý, tôi đã tự hỏi tại sao một số trong chúng ta lại sợ người khuyết tật. Có một số giả thuyết về nỗi sợ này. Theo một giả thuyết, nỗi sợ người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật thể hình, nằm trong nỗi sợ bị đánh mất một phần hay toàn cơ thể. Sự hiện hữu và chủ thể của mỗi cá nhân được định hình trong biên giới của thể xác chúng ta. Người bị khuyết tật biểu hiện cho sự mất mát, và mất mát là sự tiến gần đến hư vô,
là cái chết. Và cái chết ngoài chuyện là mất đi lạc thú sống và người thân yêu thì còn là hành trình vào cái không biết.
Giả thuyết đó dẫn chúng ta đến một giả thuyết đơn giản hơn xuất phát từ tâm lý học tiến hóa. Chúng ta sợ người khuyết tật vì chúng ta sợ cái gì lạ, cái không biết. Như nhà văn truyện kinh dị H.P. Lovecraft đã viết: “Cảm xúc cổ xưa và mạnh mẽ nhất của nhân loại là sợ hãi, và loại sợ hãi cổ xưa và mạnh mẽ nhất là nỗi sợ về cái gì không biết”. Di sản của tổ tiên từ thời loài người xuất hiện hay cả từ trước đó nữa ở các loài tiền thân của con người để lại cho chúng ta bản năng sợ cái gì lạ để sinh tồn. Một tai nấm hay con rắn màu sặc sỡ bên gốc cây, một con thú lạ đang cúi đầu uống nước, một tiếng kêu quái gở trong bóng đêm, cho đến một người không cùng bộ tộc. Xa lạ đồng nghĩa với nguy hiểm.
Nỗi sợ cái gì xa lạ với chúng ta, xenophobia, trong một tập thể vô thức sẽ trở thành một xã hội với những lề thói luật lệ chặt chẽ. Nỗi sợ càng cao, chiếc lồng hay cái cũi tâm thức càng cứng và càng hẹp. Xã hội đó sẽ mang một khuôn mẫu mà khác đi hay vượt qua sẽ bị xem là “lập dị” đến “quái dị”, sẽ bị “dị nghị”, và nghi ngờ có “dị tâm”. Cho nên ai muốn điều khiển quần chúng không gì tốt bằng đánh vào nỗi sợ căn bản này. Một ông tổng thống chỉ cần một kế hoạch tuyên truyền kết án một tập thể nào đó đang âm mưu phá hoại cuộc sống tốt đẹp của nhân dân vì chúng không cùng nền văn minh và tôn giáo của chúng ta, không cùng cách ăn mặc, không cùng thờ Thượng Đế. Vì thế ông tổng thống cần nhiều quyền hạn hơn nữa, vi phạm Hiến pháp một chút cũng không sao, để bảo đảm sự bình an cho toàn thể nhân dân yêu quý. Một sự bình an trong sợ hãi.
Nhưng như nhà văn nữ Isabelle Allende đã viết trong cuốn Ngôi nhà của những hồn ma: “Ngay khi bước vào thế giới này, chúng ta đã sợ những điều chưa biết khi chúng ta chết. Nhưng nỗi sợ hãi này là một cái gì chẳng hề liên quan đến thực tại”. Nếu vượt qua sợ hãi cổ xưa để trở thành một người văn minh là một trong những mục đích sống của chúng ta thì có lẽ chúng ta nên bắt đầu bằng việc vượt qua nỗi sợ, phân biệt, thành kiến, và kỳ thị người khuyết tật.
Đầu tiên, chúng ta phải can đảm xác nhận là trong mỗi chúng ta và cả ở ngoài xã hội đều tồn tại nỗi sợ này. Và chúng ta cần có khả năng đánh giá và chia sẻ những cảm xúc và thái độ của chúng ta một cách xây dựng và trưởng thành.
Chuyện đó đã khó mà xã hội “lịch sự” đôi khi còn làm nó khó hơn. Xã hội “lịch sự” đôi khi lại bảo chúng ta phải tôn trọng bằng cách đừng nhìn hay giao tiếp với người khuyết tật, đừng nói với họ về những khuyết tật của họ, vì như thế là vô lễ. Nhưng như thế thì chúng ta cũng đã mất một cơ hội để làm bạn, trao đổi và thông hiểu những suy nghĩ, tâm tình và cuộc sống của họ. Không thông hiểu làm sao bạn có thể thương yêu. Và thương yêu trong tinh thần bình đẳng chứ không phải trong thái độ tội nghiệp và cử chỉ kẻ cả.
Đó cũng không phải là lần đầu tôi “được” gọi là “bố” trên sân trường. Khi còn phụ trách ở một trường tiểu học, tôi có dịp trắc nghiệm khả năng học tập của một em gái học mẫu giáo người Mỹ gốc Phi châu. Sau một vài buổi, đi đâu gặp nhau trong trường, em cũng gọi tôi “Bố ơi!” Nhiều hôm đang giờ tan học, vừa chạy ra khỏi lớp thấy tôi, em đã hét lên “Bố ơi!” Thế là hai ba em khác cùng lớp, da trắng, da nâu, da vàng cùng bắt chước, vừa chạy đuổi theo tôi vừa la toáng lên “Bố ơi! Bố ơi!” Mấy bà Mỹ trắng Mỹ đen đến trường đón con trố mắt ngạc nhiên nhìn cảnh một đàn con nít đủ chủng tộc vừa chạy theo sau một tên Á châu vừa gọi “Bố ơi!”. Cũng không dám tưởng tượng các bà ấy nghĩ gì trong bụng.
Cũng không biết bây giờ Danny còn nhớ ông bố này không.
Nỗi sợ cái gì xa lạ với chúng ta, xenophobia, trong một tập thể vô thức sẽ trở thành một xã hội với những lề thói luật lệ chặt chẽ. Nỗi sợ càng cao, chiếc lồng hay cái cũi tâm thức càng cứng và càng hẹp. Xã hội đó sẽ mang một khuôn mẫu mà khác đi hay vượt qua sẽ bị xem là “lập dị” đến “quái dị”, sẽ bị “dị nghị”, và nghi ngờ có “dị tâm”. Cho nên ai muốn
điều khiển quần chúng không gì tốt bằng đánh vào nỗi sợ căn bản này. Một ông tổng thống chỉ cần một kế hoạch tuyên truyền kết án một tập thể nào đó đang âm mưu phá hoại cuộc sống tốt đẹp của nhân dân vì chúng không cùng nền văn minh và tôn giáo của chúng ta, không cùng cách ăn mặc, không cùng thờ Thượng Đế. Vì thế ông tổng thống cần nhiều quyền hạn hơn nữa, vi phạm Hiến pháp một chút cũng không sao, để bảo đảm sự bình an cho toàn thể nhân dân yêu quý. Một sự bình an trong sợ hãi.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
CON THUYỀN GIẤY TUỔI THƠ
T
ôi đón người đàn ông vào văn phòng sau khi nhận được lời nhắn của một chuyên viên tham vấn gởi gắm. Tôi đã từng gặp con của ông ta trong lớp 4. Em tuy ăn mặc đàng hoàng, áo quần tóc tại có vẻ chải chuốt, nhưng trong ánh mắt thường mang vẻ rụt rè sợ hãi. Mỗi lần giáo viên to tiếng với cả lớp, tôi có cảm tưởng em co rúm người lại, nhìn chung quanh hay cúi gằm mặt xuống. Trong giờ chơi em thường đứng một mình ở góc trường, thơ thần chơi với mấy hòn gạch cọng cỏ chung quanh em. Khi bạn bè đến rủ rê, khuôn mặt em rạng rỡ hẳn, nhưng lúc chơi em lộ vẻ vụng về, la hét hay xô đẩy quá mức. Giờ ăn trưa đôi lần em than đau bao tử, có khi ói ra cả thức ăn.
Cô giáo gần gũi hỏi han mới biết ở nhà em thường bị la mắng, hầu như mỗi ngày, mỗi bữa cơm lúc gia đình sum họp. Thế là giáo viên báo cáo với chuyên viên tham vấn, chuyên viên tham vấn không nói chuyện được với phụ huynh lại chuyển qua tôi, chuyên viên tâm lý. Phiếu đánh giá sơ khởi về cảm xúc và khả năng thích ứng cho thấy các chỉ số về lo âu, trầm cảm, tâm thể, tự tin, v.v... đều ở mức báo động.
Qua câu chuyện, người đàn ông lộ vẻ khó chịu vì bị làm phiền khi con ông ta vẫn học hành ở mức trung bình lại không có vấn đề gì về hạnh kiểm. Ông ta khẳng định không vi phạm pháp luật nước Mỹ vì không đánh con. Còn chuyện la mắng thì theo ông chuyện đó là bình thường khi muốn con ông nên người. Chính bản thân ông không chỉ bị la mắng mà còn bị đòn roi khi còn nhỏ, nhờ vậy ông mới thành đạt dù bao lần thất bại. Khi tôi kể cho ông ta nghe những lời mắng chửi mà con ông ta thuật lại cho tôi qua làn nước mắt, ông ta có vẻ hơi ngượng nhưng biện bạch đó là một phần văn hóa Việt Nam mà có lẽ tôi đã quá Mỹ hóa nên quên.
Không, tôi không quên. Không quên những gì mà một số phụ huynh vẫn biện hộ là văn hóa Việt phải giữ gìn và tôn trọng. Rất tiếc, trong đó có cả “tội tổ tông” truyền từ đời này qua đời khác là những câu mắng chửi “hay hơn hát” của cha mẹ đối với con cái. Những “ca khúc” mà tôi tò mò phân loại: Gán cho con một đặc tính bất di bất dịch, “ngu như bò”, “bẩn như heo”, “lười như hủi” hoặc không cần đến cả chữ “như”, chẳng hạn “đồ óc lợn” hay “chó ghẻ”. Những câu kết tội về hậu quả của gia tộc gia đình, “nhục cả tổ tông”, “xấu mặt cha mẹ”. Hay than thở về nhân quả mà cha mẹ phải chịu “chắc mày là oan gia nghiệp báo” và “không biết kiếp trước ăn ở thất nhân thất đức gì mà đẻ ra mày”. Hoặc gán cho trẻ những động lực tiêu cực tưởng tượng khuếch đại, “muốn tao chết sớm” hay “mày muốn giết bố mẹ”. Hay nguyền rủa trẻ hiện tại “chết đi cho tao nhờ”, hay tương lai “cạp đất mà ăn”, “đi ăn xin”, “làm ăn mày” “ra đứng đường”. Và dĩ nhiên không quên cả những câu sỉ nhục khi so sánh con mình với con người khác, “mày chỉ đáng xách dép/rửa đít cho nó”, “con người ta học hành giỏi giang, còn mày chỉ giá áo túi cơm”.
Nói cũng phải tội, việc bạo hành bằng ngôn ngữ không chỉ xảy ra ở Việt Nam. Tôi không biết ở các nền văn hóa gần gũi trong vùng việc chửi rủa sỉ nhục con cái như thế nào chứ ở xứ Mỹ này, việc đó cũng không phải là “của hiếm” nhất là đối với những gia đình thuộc tầng lớp thấp trong xã hội. Lối bạo hành này thường bị thành phần bảo thủ trong xã hội Mỹ xem là đương nhiên, là điều cần thiết trong tiến trình trưởng thành của trẻ. Một câu vè trẻ con thay vì có thể giúp trẻ có khả năng vượt qua được những lời giễu cợt chỉ trích của bạn đồng lứa lại được xem như “bằng chứng” về sự vô hại của bạo hành bằng ngôn ngữ: “Gậy và đá làm gãy xương mi, nhưng chữ và lời chẳng hề hấn chi” [Sticks and stones may break my bones, but words shall never hurt me]. Nhưng may mắn là sự phát triển của khoa học đặc biệt là tâm lý và thần kinh đã giúp cho các quốc gia phát triển trên thế giới xây dựng những quy định giáo dục từ nhà đến trường mỗi ngày mỗi mang tính nhân bản hơn, đặc biệt khi có những chính quyền biết lắng nghe giới trí thức khoa học.
Qua dòng tiến hóa, bộ não của chúng ta được thiết kế để cảm nhận và ghi nhớ những tình huống tiêu cực và nguy hiểm nhiều hơn vì ký ức này giúp chúng ta thoát hiểm và tồn tại. Giữ những thông tin này một cách sống động ở vùng dễ tiếp cận trong não giúp chúng ta dễ nhận diện được sự đe dọa trong tương lai nhanh nhạy hơn. Và dĩ nhiên sự đe dọa không chỉ là gậy và đá mà là những chữ và lời. Bạn cứ thử đếm lại và nhớ lại một tình huống trong đó bạn bị mắng nhiếc và một tình huống khác trong đó bạn được khen ngợi để thử xem ký ức của bạn đã lưu giữ sự kiện nào tốt hơn.
Trẻ được sinh ra với một bộ não chưa hoàn chỉnh và não tiếp tục phát triển liên tục qua tương tác với môi trường cho đến tuổi 25. Trẻ lớn lên trong một môi trường an toàn, được người chung quanh quan tâm và đáp ứng chừng mực, các nhu cầu căn bản sẽ có điều kiện phát triển não bộ bình thường. Trái lại bộ não sẽ phát triển lệch lạc hay thậm chí dừng phát triển một số vùng khi trẻ lớn lên trong một môi trường thù địch, bị ngược đãi bạo hành trực tiếp bởi người thân, thầy cô hay thậm chí bạn bè. Việc bị bạo hành gián tiếp như chứng kiến bạo lực giữa cha mẹ hay giữa hàng xóm với nhau cũng gây ra những tác động tương tự.
Nhiều vùng não bị ảnh hưởng nặng nề bởi bạo hành ngôn ngữ. Trước tiên là vùng liên kết hai bán cầu não [corpus collosum], cầu nối chuyển vận thông tin vận động, giác quan và trí năng qua lại giữa hai bán cầu, sẽ bị nhỏ lại khiến cho sự phát triển của hai bên bán cầu không được cân xứng. Vùng hồi hải mã [hippocampus] chịu trách nhiệm về ký ức sẽ bị giới hạn hay lệch lạc, và hạch hạnh nhân [amygdala] về điều tiết cảm xúc sẽ bị nhạy cảm quá độ luôn ở tình trạng báo động. Một vùng khác cũng bị ảnh hưởng là vùng thùy trán của vỏ não [frontal cortex], những chức năng của vùng này như khả năng quyết định, phán đoán, kiềm chế bản năng, giải quyết vấn đề,... không phát triển đầy đủ khi vùng hệ viền [limbic system] vốn chứa đồi hải mã và hạch hạnh nhân thường xuyên chiếm lĩnh ngăn cản sự hoạt động của lý trí. Vết thương lòng không chỉ là một biện pháp tu từ trong văn chương mà là sự thực khi những phương tiện kỹ thuật y khoa cho chúng ta nhìn sâu vào não bộ. Và các thí
nghiệm đã cho thấy đau đớn tinh thần hay thể chất đều cùng làm một vùng não sáng lên như nhau.
Ở bình diện tâm lý, trẻ em cũng học cách nhận diện và điều tiết cảm xúc để từ đó có thể tự trấn an, xoa dịu những cảm xúc đau đớn của chính mình khi được sự đáp ứng về cảm xúc từ phía cha mẹ. Nhưng khi được nuôi dạy bởi những phụ huynh không hiểu được biến chuyển tâm lý của trẻ và không biết tự kiểm soát những cảm xúc cá nhân, trẻ lớn lên không phát triển được trí thông minh cảm xúc [Emotional Quotient], khả năng nhận biết, xử lý và tương tác hiệu quả với cảm xúc của mình và của người. Những lời mắng chửi và nguyền rủa liên tiếp không chỉ tạo cho trẻ một cảm xúc căng thẳng cao độ mà còn khiến trẻ bị chồng chất những cảm xúc lẫn lộn của sợ hãi, nhục nhã, tổn thương, đau đớn, tức giận...
Tất cả những sự thay đổi về não bộ và cảm xúc của trẻ sẽ đến lúc ảnh hưởng đến tính cách và hành vi của trẻ khi trưởng thành. Biên giới của việc tự phê phán, tự chán ghét và tự miệt thị trở nên mỏng manh và nguy hiểm. Mỗi chuyện xảy ra trong đời, nhẹ như sơ suất, nặng như thất bại, cũng đều làm cho trẻ càng thêm khinh bỉ những khiếm khuyết có thật hay tưởng tượng của chính mình một cách đau đớn. Những câu nói thầm trong đầu này có quen thuộc với chúng ta không? “Mình không làm được chuyện gì cho ra hồn cả”. “Mình thất bại vì mình ngu xuẩn và vô tích sự”. “Người yêu bỏ mình là phải, thứ vô dụng và xấu xí như mình”. Bạn có nghe giọng của cha mẹ hay thầy cô của bạn văng vẳng đâu đó trong đầu khi bạn nghĩ thầm những điều này không?
Danh sách hậu quả của bạo hành bằng ngôn ngữ đối với con trẻ có thể kể... từ đêm đến sáng. Từ những chứng như nhức đầu, tiêu chảy, viêm loét bao tử đến tim mạch. Từ lo âu, hoảng hốt, trầm cảm, kích động, giận dữ. Từ nghiện ngập, tự tử, tự hại, hiếu chiến. Danh sách dài đến mức nó như một sự giễu cợt nếu không có bảng liệt kê những nghiên cứu khoa học đi kèm.
Tại sao một số cha mẹ lại bạo hành ngôn ngữ với con cái? Có thể vì họ chỉ tiếp nhận một số cách thức giáo dục giới hạn trong gia đình chòm xóm, thấy ông bà các thế hệ trước làm thế nên không nghĩ suy cũng áp dụng vì tưởng rằng chúng có hiệu quả. Cũng có thể họ đã từng bị bạo hành trong quá khứ nên không biết điều tiết những cảm xúc của chính mình, dễ bị cuốn đi bởi những cơn đau khổ, hoảng sợ hay tức giận không kiềm chế được. Tôi đã thấy có những bậc cha mẹ đã sợ hãi khi con ngã bệnh nhưng vừa trông bệnh vừa chửi mắng con, vì họ cho chúng đã không nghe lời khiến mang bệnh, như ra ngoài trời nắng mưa, ăn uống ngủ nghỉ quá mức quá giờ, v.v... Có vị lại ra những hình phạt cho trẻ lúc trẻ đang bệnh, để chúng “nhớ những thứ không được phạm mà bệnh nữa”. Vì sợ hãi chúng ta gieo rắc sự sợ hãi cho người khác. Vì đau khổ chúng ta gây đau khổ cho người khác. Tưởng như thế chúng ta sẽ bớt sợ hãi hay đau khổ. Nhưng chúng ta đã lầm khi biến cuộc sống của cả hai bên thành địa ngục.
Có lẽ khi lớn lên chúng ta ít nghĩ tới những lời sỉ nhục của cha mẹ hay thầy cô trong những lúc hạnh phúc được kẻ đón người đưa, hay thành công được vinh danh tán tụng. Tất cả cuộc đời là màu hồng và nếu có ai nhắc đến sự nguy hiểm của bạo hành ngôn ngữ, chúng ta sẽ không tin, sẽ cười chế nhạo. Nhưng nếu trong một buổi chiều mưa, vừa thất nghiệp, tiền đã cạn, người yêu vừa bỏ ra đi, những lời không “có cánh” mà có “móng vuốt” sẽ trở về. “Mi là một đứa vô dụng, lớn lên chỉ có xin ăn mà sống”.
Cuối câu chuyện, tôi đưa cho người cha của đứa học sinh lớp 4 đọc một bài văn ngắn của Tagore: “Tôi nhớ một ngày khi còn thơ ấu đi thả thuyền giấy trong lạch nước. Ngày đó tháng bảy mưa sụt sùi; chỉ có một mình, song tôi sung sướng với trò chơi. Tôi thả chiếc thuyền giấy bồng bềnh trên lạch nước. Bỗng dưng, mây phong ba kéo kín bầu trời; gió thổi mạnh từng cơn rồi mưa đổ ào như thác lũ. Nhiều lằn nước đục ngầu tràn tới làm suối dâng cao và nhận chìm con thuyền tôi thả. Chua xót, tôi thầm nghĩ phong ba đến với ý định tàn ác chống lại và chỉ nhằm hủy diệt hạnh phúc của riêng tôi.
Ngày tháng bảy u ám hôm nay dài ghê gớm. Tôi vẫn hằng ngẫm suy về những trò chơi trong cuộc đời mà mình là kẻ thiệt thua. Đang than trách số phận bao phen trêu cợt đọa đày, bỗng dưng tôi chợt nhớ con thuyền giấy đã chìm trong lạch nước”.
Đang than trách số phận bao phen trêu cợt đọa đày mà mình mãi là kẻ thiệt thua, bỗng dưng tôi chợt nhớ những lời cha/mẹ/thầy/cô đã nguyền rủa tôi lúc thiếu thời. Và tôi đã thấy trong mắt của người cha long lanh giọt lệ.
Tất cả những sự thay đổi về não bộ và cảm xúc của trẻ sẽ đến lúc ảnh hưởng đến tính cách và hành vi của trẻ khi trưởng thành. Biên giới của việc tự phê phán, tự chán ghét và tự miệt thị trở nên mỏng manh và nguy hiểm. Mỗi chuyện xảy ra trong đời, nhẹ như sơ suất, nặng như thất bại, cũng đều làm cho trẻ càng thêm khinh bỉ những khiếm khuyết có thật hay tưởng tượng của chính mình một cách đau đớn. Những câu nói thầm trong đầu này có quen thuộc với chúng ta không? “Mình không làm được chuyện gì cho ra hồn cả”. “Mình thất bại vì mình ngu xuẩn và vô tích sự.” “Người yêu bỏ mình là phải, thứ vô dụng và xấu xí như mình”. Bạn có nghe giọng của cha mẹ hay thầy cô của bạn văng vẳng đâu đó trong đầu khi bạn nghĩ thầm những điều này không?
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
THÀNH CÔNG KHÔNG HẠNH PHÚC T
uần rồi, một nam sinh lớp 12 người Mỹ gốc Mễ trong trường trung học nơi tôi làm việc tự tử. Buổi chiều, em vẫn còn làm việc chung nhóm với sự hướng dẫn của giáo viên cho một đề án. Em vẫn nói chuyện cười đùa với các em học sinh khác. Buổi tối, em treo cổ chết. Một cú choáng với gia đình và trường học vì không ai ngờ được một người trẻ tuổi vui vẻ với một tương lai đầy xán lạn như em lại chọn chia tay cuộc sống. Trên mạng dữ liệu của trường, hình em vẫn còn đó với nụ cười rất dễ thương.
Em đang học chương trình Program of Additional Curricular Experiences (PACE), một chương trình học tập dành riêng cho khoảng 15% học sinh ưu tú trong trường. Học sinh trong PACE lấy 7 lớp Tiên tiến [Advanced Placement], Danh dự [Honor] hay Gia tốc [Accelerated] một mùa cùng với các chương trình ngoại khóa khác, đặc biệt là thể thao. Thay vì ra về lúc 2 giờ 45 chiều như các em khác, các em trong chương trình PACE thường về nhà lúc 5-6 giờ tối sau khi tập luyện thể thao. Nếu có lịch thi đấu, các em về đến nhà 7-8 giờ tối. Sau khi cơm nước, các em lao vào chồng bài tập cao ngất đến nửa đêm.
Trong 5 năm qua làm việc tại trường, tôi thấy số học sinh bị căng thẳng, lo âu, và trầm cảm (Stress, Anxiety, Depression - SAD) gia tăng trong các chương trình dành cho học sinh ưu tú. Tiến trình bao giờ cũng vậy, căng thẳng dẫn đến lo âu sợ hãi, rồi lo âu mà cảm thấy vô vọng dẫn đến trầm cảm.
Mặc dù tôi không tìm được con số chính xác cho học sinh trung học, có khoảng 10% cho đến 15% học sinh từ 13 đến 18 tuổi tại Hoa Kỳ bị trầm cảm, trong đó 5% học sinh bị trầm cảm lâm sàng (tên khác của Major Depression Disorder) và 8,3% đã từng bị ít nhất một lần. Riêng về tỉ lệ tự tử có liên hệ tới trầm cảm thì các số liệu cũ hơn (Current Opinion in Pediatrics, 2009) cho thấy 60% trẻ vị thành
niên tự tử bị trầm cảm lúc chết, 40%-80% được chẩn đoán bị trầm cảm khi định tự tử. Trong nhóm bị chứng trầm cảm lâm sàng hay dạng nhẹ hơn thì có đến 85% có ý nghĩ tự tử, 32% từng tự tử và trong đó 20% từng ít nhất một lần.
Thế nhưng nhìn những con số tại Việt Nam thật đáng sợ. Theo một nghiên cứu đăng trên tờ BMC Public Health năm 2013 thì trong 1260 học sinh trung học phổ thông tại Cần Thơ thì tỉ lệ học sinh bị trầm cảm là 41,1%. Cũng trong nhóm này, tỷ lệ trẻ có ý tưởng tự tử là 26,3%, có kế hoạch tự tử là 12,9%, và đã từng tự tử là 3,8%. Hãy thử so sánh con số này với tỉ lệ học sinh trung học tại Hoa Kỳ trong năm 2014. Số thống kê ở Việt Nam cao hơn ở tỉ lệ trẻ bị trầm cảm nhưng thấp hơn ở tỉ lệ trẻ tự tử khi có bệnh này. Dù tỉ lệ vẫn là thiểu số, và tỉ lệ có ý tưởng tự sát [suicidal ideation] lại càng ít hơn, nhưng đối với mỗi em và gia đình, mỗi cơn bệnh và mỗi hành động tự hại là đau khổ và tai họa.
Tôi biết vấn đề trầm cảm hiện nay khá trầm trọng ở Việt Nam. Nhưng nguồn nhân lực trong nước có đủ khả năng giải quyết vấn đề này còn giới hạn từ khâu chẩn đoán đến can thiệp hay điều trị. Vì sự thiếu thốn đó và cũng vì một số người chưa hiểu bản chất của chứng trầm cảm, người bị trầm cảm có khi tìm sự trợ giúp từ tâm linh, tôn giáo, huyền học... Nếu những lời khuyên của các tu sĩ hay giáo pháp từ kinh sách có thể có tác dụng trấn an họ tạm thời, kết quả thật sự những phương pháp luyện tâm theo tôn giáo để đối trị trầm cảm đòi hỏi việc thực hành nghiêm chỉnh và lâu dài. Nhưng nếu chẳng may, bệnh nhân cũng dễ dàng trở thành con mồi cho những đạo sư giả, thầy pháp hay thầy cúng dị đoan. Vì vậy việc chữa trị chứng trầm cảm nên được bàn thảo một cách khoa học để tránh gây thêm sự hiểu lầm tai hại về chứng sức khỏe tâm thần rất phổ biến này.
Nhiều người ở Việt Nam vẫn nghĩ rằng trầm cảm chỉ là xuống tinh thần, là yếu đuối không chống đỡ nổi với những khó khăn của đời sống. Nhưng thử đọc vài lời của một chuyên gia, Giáo sư Ralph Cash của Hội Tâm lý Học đường tại Hoa Kỳ đã viết: “Chứng rối loạn trầm
cảm chính, thường được gọi là trầm cảm lâm sàng, trầm trọng hơn chứ không chỉ là cảm giác xuống tinh thần hay gặp một ngày tệ hại. Nó khác những cảm xúc thông thường về thương tiếc vốn thường theo sau một mất mát to tát, chẳng hạn một người trong gia đình qua đời. Nó là một dạng của bệnh tâm thần ảnh hưởng toàn thể con người. Nó thay đổi cách một người cảm xúc, suy nghĩ, và hành động; nó không phải là nhược điểm cá nhân hay lỗi về nhân cách. Trẻ em và thiếu niên khi bị trầm cảm không thể tự thoát ra khỏi chứng này. Nếu để không chữa trị, trầm cảm có thể dẫn tới việc học hành sút kém, rối loạn hành vi và phạm pháp, chứng nhịn ăn hay ăn nhồi, chứng sợ hãi trường học, những cơn khủng hoảng, sử dụng ma túy, và kể cả tự tử.”
Thế nhưng không phải em nào mắc chứng trầm cảm cũng hiểu được ý nghĩa của việc chữa trị. Tuần nào cũng vậy, bà chuyên viên tham vấn gửi email cho tôi tên một vài em, xem còn thời gian thì tôi nhận giùm, vì tôi chịu trách nhiệm các ca trầm trọng và chuyên môn về các rối loạn cảm xúc này. Thế nhưng, đa số học sinh không muốn bị gọi tham vấn trong giờ học vì sợ mất giờ trong lớp, hay thậm chí sau giờ học vì sợ mất buổi tập thể thao. Khi vào tham vấn, đa số đều có cặp mắt vô hồn, không còn tinh nhanh. Chỉ cần ngồi yên một chút, các em đã ngủ gục vì thiếu ngủ thường xuyên. Khi hỏi về mục đích tương lai, các em đều mong được vào các trường danh tiếng. Khi hỏi thêm, đa số đều không thể nói rõ mục đích đời mình. Đa số đều dằn vặt với chính mình. Một số lớn lại bắt đầu mỗi câu bằng điệp khúc: mẹ em muốn, ba em muốn, thầy cô em muốn....
Các em đều biết mình bị căng thẳng, lo âu và/hay trầm cảm nhưng đa số chỉ muốn chấm dứt ngay những trạng thái cảm xúc “bất ưng” và “cản trở” chuyện học của mình. Nhiều em sau vài buổi đầu thấy có hiệu quả là bỏ dở. Các em chỉ muốn bỏ đi cảm xúc bất ưng như bỏ một chiếc áo, một chiếc xe, hay kể cả một người bạn. Các em xem toàn bộ thân tâm mình như là những mảnh vụn nối lại với nhau để các em có thể dễ dàng tháo bỏ những mảnh không ưng ý. Giải phẫu thẩm mỹ còn sửa đổi được những phần không ưng ý thì
huống gì một cảm xúc, phải không? Vai trò của điều trị tâm lý với các em chỉ có vậy.
Các em không hiểu được toàn bộ cuộc sống của mình, suy nghĩ, giá trị, mục tiêu, v.v... vốn là một thể thống nhất và nay đã sai hướng, đã lệch trục - như nghĩa đen chữ Dukkha (Khổ), một trục xe đã lệch lỗ khiến cho chiếc xe bị dằn xóc. Các em chỉ muốn một bài tập hay một viên thuốc có thể chấm dứt cảm xúc đó để lại tiếp tục lao vào học... để thành công. Thành công theo định nghĩa của cha mẹ, của thầy cô, của bạn bè và của xã hội. Bố muốn, mẹ muốn, thầy cô muốn. Nhưng không phải các em muốn, không phải thành công của các em. Trong khi các ông bố bà mẹ hớn hở khoe con học trường chuyên lớp giỏi mỗi khi gặp mặt bạn bè trong các buổi hội hè thì các em vẫn chưa tìm được định nghĩa hạnh phúc của riêng mình.
Là phụ huynh, nhiều khi các bạn nghĩ rằng con mình không thể nào bị trầm cảm. Trông nó thành công trong học tập thế kia, bạn bè lúc nào cũng có cười đùa với nhau, nó còn định năm sau đi du lịch nữa kia. Thế nhưng như cậu học sinh học lớp 12 với tương lai xán lạn kể trên, hay như cô Jessica Gimeson trên một phóng sự bằng phim của đài MSNBC về tỉ lệ trầm cảm cao của những phụ nữ gốc Á trên đất Mỹ, phụ huynh của Jessica Gimeson, người Mỹ gốc Hàn Phi (Korean-Filippino) đã không tin rằng con mình bị trầm cảm chỉ vì cô ta rất thành công trong học tập, đoạt thủ khoa khi tốt nghiệp trung học. Khi vị mục sư Mỹ gốc Hàn ở nhà thờ nơi gia đình cô ta đi lễ được nhờ giúp, ông ta cũng cho rằng những triệu chứng mà Jessica có chỉ là lo âu giai đoạn thiếu niên và sẽ chóng qua. Nhưng như lời Jessica tự thuật: “Điều tạo ra bóng tối, điều làm nó tệ hơn cảm xúc buồn bã thông thường là bạn không nỗ lực hoạt động nổi. Nó như phải cố gắng nhấc toàn thân lên mỗi ngày. Ngay cả những chuyện dễ dàng cũng trở nên khó khăn”.
Hay như Kyle Huỳnh, học sinh lớp 10 trường Bolsa Grande ngay trung tâm phố người Việt bang California, đã tự tử vào tháng 11 năm vừa rồi. Trong lá thư tuyệt mệnh để lại, em đã chia sẻ những lý do mình muốn ra đi: “Nếu phải nói ra lý do vì sao mình tự tử thì đó
chính là nỗi buồn chán, là căn bệnh trầm cảm, mình ghét việc học hành và hệ thống giáo dục...”. Với cái tuổi tràn đầy lý tưởng đó, em “cảm thấy bất lực trong việc thay đổi thế giới”. Nếu nhiều người trong chúng ta vẫn có thể sống mỗi ngày chỉ để tồn tại, để ăn uống, để khoe quần là áo lượt, nhà cao cửa rộng, và những đứa con thành công với bằng cấp y khoa, luật khoa, thì Kyle đã không tương nhượng với cuộc sống đó. Em viết: “Ngoài nỗi chán chường ra, mình còn quyết định kết liễu cuộc đời khi nhận ra rằng mình không thể đóng góp được gì có giá trị cho thế gian này. Mình luôn muốn giúp mọi người bằng mọi cách mà mình có thể, chính xác hơn là giúp loài người nhận ra rằng điều mà chúng ta làm đối với môi trường sống và đối với nhau là sai. Nhưng mình biết rằng điều đó là không thể. Con người luôn sát hại nhau bởi những lý do điên rồ và hủy diệt môi trường sống trong khi chúng chẳng làm gì nên tội ngoài việc giúp ích cho chúng ta mà thôi. Không gì có thể thay đổi được những việc làm đó. Đấy là điều khiến mình cảm thấy bức bối rất nhiều khi không thể làm được gì hết để tạo nên sự thay đổi, đặc biệt là với thằng nhóc 15 tuổi mà ba mẹ lại kỳ vọng nó đi vào lãnh vực y khoa”.
Xin các bạn để một ít thời gian quan tâm tới tinh thần của các học sinh sinh viên và con em thân yêu của mình. Những tiện nghi vật chất dù có giá trị, cũng không bằng một ánh mắt, nụ cười, và bờ vai của những người thương yêu. Và hãy giúp các em tự tìm định nghĩa cho hạnh phúc và lý tưởng của riêng mình. Vì không ai có thể bình an với một thành công không có bóng dáng của hạnh phúc. Và vô nghĩa.
Nhiều người ở Việt Nam vẫn nghĩ rằng trầm cảm chỉ là xuống tinh thần, là yếu đuối không chống đỡ nổi với những khó khăn của đời sống. Nhưng thử đọc vài lời của một chuyên gia, Giáo sư Ralph Cash của Hội Tâm lý Học đường tại Hoa Kỳ đã viết: “Chứng rối loạn trầm cảm chính, thường được gọi là trầm cảm lâm sàng, trầm trọng hơn chứ không chỉ là cảm giác xuống tinh thần hay gặp một ngày tệ hại. Nó
khác những cảm xúc thông thường về thương tiếc vốn thường theo sau một mất mát to tát, chẳng hạn một người trong gia đình qua đời. Nó là một dạng của bệnh tâm thần ảnh hưởng toàn thể con người. Nó thay đổi cách một người cảm xúc, suy nghĩ, và hành động; nó không phải là nhược điểm cá nhân hay lỗi về nhân cách. Trẻ em và thiếu niên khi bị trầm cảm không thể tự thoát ra khỏi chứng này. Nếu để không chữa trị, trầm cảm có thể dẫn tới việc học hành sút kém, rối loạn hành vi và phạm pháp, chứng nhịn ăn hay ăn nhồi, chứng sợ hãi trường học, những cơn khủng hoảng, sử dụng ma túy, và kể cả tự tử.”
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
ANH HÙNG ĐA LỆ
N
hững năm đầu hành nghề chuyên viên tâm lý học đường, tôi rất khoái sử dụng câu thần chú trị bịnh khóc nhè cho mấy học sinh nam cấp tiểu học, đặc biệt là học sinh Mỹ gốc Á, Phi hay La tinh. Mấy đứa nhỏ bị kỷ luật, bị trêu chọc, hay thậm chí chỉ vì không làm bài được hay òa khóc tức tưởi. Hết thầy cô giáo đến chuyên viên tham vấn không dỗ hay dọa bé nín được, thế là bé liền bị chuyển vào phòng chuyên viên tâm lý. Tôi thường để đứa bé khóc vài phút sau khi gặp, rồi phán một câu: “Con là đàn ông. Đàn ông không khóc”. Thế là chín trong mười đứa liền nín ngay, tay quẹt mắt quẹt mũi, đứng thẳng lưng, mỗi bặm lại... mặc dù hai vai rung rung, vẫn còn thổn thức.
Tôi biết trong các nền văn hóa Phi, Á, La tinh, sự phân biệt giới tính rất mạnh mẽ. Ngay từ nhỏ trẻ đã được dạy dỗ về những phong cách, kỳ vọng của xã hội, cách thức sử dụng với đồ/trò chơi phù hợp với giới tính của mình. Con trai phải như thế này, con gái phải như thế kia, không được thế này, không làm thế kia. Trong văn hóa Việt Nam, nào là “Nam thực như hổ, nữ thực như miêu”, “Con trai mau nước đái, con gái mau nước mắt”,... Sự mạnh mẽ như hổ của đàn ông chắc chắn được mong đợi không chỉ trong cách ăn uống, trong sức làm việc, mà còn trong cả khả năng kiềm chế đè nén cảm xúc của mình. Đối với mấy học sinh trong các nền văn hóa này, câu thần chú “Nam nhi không khóc” xem ra khá hiệu nghiệm.
Thế nhưng, trong cuộc sống nhiều khi vì chỉ nghĩ đến hiệu quả tức thời mà chúng ta lại vô tình sử dụng một công cụ nhằm củng cố một quan niệm, tín điều, hay thành kiến của xã hội hay của cá nhân. Những tín điều hay quan niệm này không bình thường và cũng không khỏe mạnh chút nào. Thế là những đứa bé học sinh của tôi từ đó sẽ đi vào cuộc đời nghiến răng nghiến lợi quyết định không khóc, vì khóc sẽ được mặc nhận là yếu đuối, là đàn bà, hay tệ hơn nữa, là thứ đàn ông không phải là... đàn ông. Và thế là cuộc đời của chúng
sẽ lại tiếp diễn thái độ thù ghét việc khóc lóc, xa lạ với nữ tính, và triền miên... căng thẳng.
Căng thẳng triền miên không phải chỉ vì cứ phồng ngực ưỡn lưng cho ra nam nhi mà còn vì cứ tích lũy chất độc trong người. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ William Frey tại Trung tâm Y khoa Ramsey ở bang Minnesota, trong khi nước mắt phản xạ, chẳng hạn do bị bụi vào mắt, chỉ có nước đến tận 98%, thì nước mắt do cảm xúc còn chứa cả các hormone căng thẳng như cortisol và chống đau như protein prolactin, adrenocorticotropic, endorphin và encephalin, những hormone nhằm giảm sự căng thẳng của cơ thể. Trong nước mắt còn chứa cả chất lysozyme vốn có thể diệt 90%-95% vi trùng trong vòng 5-10 phút. Thậm chí một thí nghiệm tại Đại học Nam Florida còn thấy công dụng của khóc còn tốt hơn cả thuốc chống trầm cảm, có đến 90% người sau khi khóc thấy tinh thần tích cực hơn so với chỉ 8% thấy tệ hơn.
Khóc không chỉ khi đau thương, mà còn cả khi buồn phiền, lo lắng, bực tức. Khóc khi vui mừng, hân hoan, hãnh diện. Những giọt nước mắt là cơn mưa trời cho vỡ bờ dội rửa những cảm xúc dồn nén và những hormone chất chồng trở nên độc hại tồn tại trong cơ thể của chúng ta.
Nhiều bậc cha mẹ vẫn không hiểu hết về cơ chế khóc của trẻ. Nếu khi bắt đầu khóc, hệ thống thần kinh giao cảm là tội phạm chính, cổ họng nghẹn lại, hơi thở dồn dập, mặt đỏ lên, thì khi khóc xong cơ thể đi vào trạng thái nghỉ ngơi nhờ hệ thần kinh đối giao cảm, nhịp tim và hơi thở chậm lại đưa ta vào tình trạng bình yên trong tâm hồn lẫn thể xác. Một số giả thuyết còn cho rằng, nếu biểu lộ cảm xúc không trọn vẹn được như khi không khóc, cơ thể của chúng ta, cụ thể là hệ thần kinh tự động, bị kẹt trên đường đi lên của hệ giao cảm theo đồ thị hình sin. Khóc là cú hích tự nhiên của cơ thể đẩy chúng ta đến đỉnh của chu kỳ giao cảm để ở đó chu kỳ đối giao cảm bắt đầu, cho phép ta nghỉ ngơi và hồi sức.
Thế nhưng ngay từ nhỏ, chúng ta thường bị cấm khóc. Sau khi bị chửi mắng hay đánh đập, lại còn bị nạt, “tao cấm mày không được khóc”. Khóc có nhiều lý do. Có khi tủi thân vì bị hắt hủi lại có lúc nhớ thương vì xa gia đình. Đôi khi chỉ cảm thấy an ủi khi được mẹ cha ôm vào lòng sau những tháng ngày bỏ bê không ngó ngàng, thế là thằng nhỏ cũng òa lên khóc nức nở. Thế là nhóc con lãnh đủ. Nhẹ thì bị chế giễu, nặng thì bị cho ăn bạt tai kèm một mệnh lệnh hoàn toàn mâu thuẫn là cấm khóc.
Như tội tổ tông truyền, nhiều thế hệ Việt Nam của chúng ta nối tiếp nhau không biết “xử lý” ra sao khi thấy mình và người bật khóc, nên cách tốt nhất đối với chúng ta chỉ còn là giải pháp làm ngơ, đè nén, chê bai, hay cấm đoán. Thấy người khác khóc đã thấy khó chịu, vì hệ thần kinh giao cảm của mình cũng bị kích thích theo. Con người theo thuyết Tâm lý học Tiến hóa vốn là sinh vật bầy đàn, và mọi phản ứng sinh học của chúng ta rất khôn ngoan, được chọn lọc qua bao thế hệ để bảo tồn nòi giống. Chúng ta vốn nhạy cảm với những xúc cảm của người khác, để khi vào cái thời ăn lông ở lỗ, những tên xui xẻo đứng ngoài bìa nhóm chỉ hơi động đậy chứ đừng nói đến khi bị tấn công thét lên thảm não thì chúng ta cũng đều cảm nhận được, để chuẩn bị phùng mang trợn mắt xung phong tấn công, còn nếu không thì cũng rùng rùng chạy trốn ngay vì mãnh thú đã đến. Không biết xử lý cách nào thì đôi khi cứ cấm hẳn cho khỏe việc.
Thế nhưng, thế giới này đã trưởng thành rồi, đã qua một giai đoạn khác của việc biểu hiện cảm xúc. “Anh hùng” không cần “vô lệ”, như tên một tác phẩm của Cổ Long, mà cần sống trung thực với những cảm xúc và suy nghĩ của mình. “Yêu ai cứ bảo là yêu”, thì muốn khóc cứ tiếp tục khóc. “Khóc cho vơi đi những nhục hình. Nói cho quên đi những tội tình” theo lời ca ông Vũ Thành An trong mấy bài “Không tên”. Nếu khóc không phải là làm nũng hay làm “xăng ta” [chantage] thì khóc là thanh tẩy tâm hồn. Theo Tâm lý trị liệu, không chỉ cần sống trung thực, người nam hiện đại còn phải cần biết tiếp chạm với phần nữ tính trong con người của mình, để biết sống quân bình, để biết linh hoạt mềm dẻo, và nhất là để biết ứng xử khi
cái phần đó trở thành hiện thực đang ngồi trước mình nỉ non giọt ngắn giọt dài.
Hạnh phúc khi còn khóc được và sẽ hạnh phúc hơn khi có người cùng chia sẻ những giọt nước mắt với mình. Các bậc cha mẹ hãy dịu dàng ôm con vào lòng khi con thổn thức. Các thầy cô hãy an ủi choàng vai đứa học trò khi bé rơi lệ. Còn tôi thì hát khe khẽ. “Hãy khóc đi em, cuối cuộc tình, Còn đây những ngày buồn, Hãy khóc, hãy khóc đi em, có còn gì. Ngày thôi hết đợi chờ. Hãy khóc, hãy khóc đi em, Dòng nước mắt sẽ bay trong trời, Làm cơn mưa rớt trên chăn gối, Lời cỏ cây hát trên da người”.
Thế nhưng, thế giới này đã trưởng thành rồi, đã qua một giai đoạn khác của việc biểu hiện cảm xúc. “Anh hùng” không cần “vô lệ”, như tên một tác phẩm của Cổ Long, mà cần sống trung thực với những cảm xúc và suy nghĩ của mình. “Yêu ai cứ bảo là yêu”, thì muốn khóc cứ tiếp tục khác.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
CON THEO PHE CHA
Đ
ến trường trễ hơn thường lệ vì xa lộ đầu tuần đông xe, tôi bắt gặp chị cúi gằm mặt trước một thằng bé đang hung dữ quát mắng mẹ vì đã đưa nó đến trường trễ, làm nó lỡ hẹn với bạn. Chị có vẻ ngượng ngùng khi thấy tôi đi ngang qua, không biết có phải vì xấu hổ hay sợ con mình gặp khó khăn với nhân viên nhà trường. Thằng bé to tiếng với những từ ngữ khá nặng nề, nghe có vẻ như đang nói với người làm; còn bà mẹ thì lí nhí cố gắng biện bạch khẩn nài gì đó. Không muốn can thiệp vào chuyện gia đình riêng tư, cũng như tránh tổn thương người mẹ một cách vô tình, tôi đi thẳng vào văn phòng như không để ý đến cảnh xung đột giữa hai mẹ con, hay có lẽ chính xác hơn phải gọi là bắt nạt mẹ của con.
Chuông vừa báo vào học được 5 phút thì cô thư ký gõ cửa phòng tôi báo có phụ huynh kiếm. Chị đứng đó vặn vẹo hai bàn tay bảo tôi chị cần giúp đỡ về cách giúp con vượt qua được giai đoạn sau ly dị của hai vợ chồng chị. Chị bảo thằng bé ngoan lắm, mong nhà trường đừng hiểu lầm, sáng nay trễ cũng là một phần lỗi của chị. Tôi xin phép rồi hỏi chị có phải cuộc ly dị xảy ra không êm thắm, nhiều tranh cãi dọa nạt và chị có sợ người chồng cũ không? Chị rơm rớm nước mắt rồi nói là chị từng bị chồng thường xuyên chửi mắng có khi đánh đập, khi nào chị cũng cố nhịn. Tôi hỏi chị, con chị có chứng kiến những lúc đó không và có phải con chị có vẻ đổi tính sau khi ly dị không, không nhất thiết đột ngột nhưng rõ nét hẳn? Chị gật đầu nói, nó có vẻ ăn hiếp chị nhiều hơn nhất là những lần sau khi nó qua bên nhà ở với bố nó vài ngày.
Khi nói tới bắt nạt, chúng ta thường chỉ nghĩ đến như một hình thức bạo lực học đường, và xuất phát từ phía người có sức mạnh hơn. Thực ra, bắt nạt ở nhà không khác gì bắt nạt ở trường. Và nó xuất phát từ người có “quyền lực” hơn. Quyền lực sử dụng trong bắt nạt không đến từ tuổi tác hay vị thế của người bắt nạt trong gia đình hay xã hội. Quyền lực của người bắt nạt đến từ sự yếu đuối và
sợ hãi của phía đối phương theo kiểu “người ta lớn bởi vì ta cúi xuống”. Và bắt nạt không chỉ là cằn nhằn hay nhiếc móc. Trẻ bắt nạt cha mẹ gần như mất hết không chỉ sự kính trọng mà còn cả sự cảm thông với cha mẹ. Để đạt được điều chúng muốn, trẻ không từ nan mọi thủ đoạn, từ đe dọa, xăngta, tới khủng bố cha hay mẹ cho tới khi họ đầu hàng.
Có một số nghiên cứu đã tìm thấy sự liên hệ giữa trẻ bắt nạt và mức độ mâu thuẫn trong gia đình. Một số lớn trẻ vị thành niên phạm pháp vốn xuất thân từ các gia đình mà cha mẹ thường xuyên cãi vã có khi đánh đập nhau; chúng dường như chỉ diễn lại vở kịch trong gia đình ra ngoài xã hội, nhắm vào những kẻ yếu thế hơn. Cha mẹ khi dùng bạo lực trong lời nói hay hành động để giải quyết vấn đề đã trực tiếp dạy con đó là phương cách tốt nhất. Nếu không tốt nhất thì tại sao cha mẹ vốn là thần tượng là gương mẫu lại sử dụng thường xuyên, đứa con dù vô thức hay ý thức cũng đều cảm nhận như thế.
Việc đứa trẻ bắt chước hành động của mẹ hay cha, thường là cha, để bắt nạt người còn lại có lẽ đến từ những diễn tiến tâm lý phức tạp hơn. Trẻ ở độ tuổi 8 đến 11 trong một gia đình đổ vỡ thường đổ lỗi cho một phụ huynh về “tội” đã gây ra việc ly thân hay ly dị và thường đứng về phe người “tốt” để chống lại người “xấu”. Chúng kết tội cha hay mẹ đã ích kỷ không nghĩ đến hạnh phúc của chúng. Đặc biệt một số trẻ lại bắt chước những hành động bạo hành của cha hay mẹ đối với người còn lại, đặc biệt khi người còn lại lộ vẻ yếu đuối, sợ hãi hay nhẫn nhục. Một hành động “phù thịnh” vì không muốn mình mang tâm thức khốn khổ của nạn nhân, nên đã đóng vai kẻ mạnh và đứng về phe kẻ mạnh. Ngay cả người đã trưởng thành cũng khó dũng cảm đủ để “phù suy” mà thường “phù thịnh”, kèm theo là lý luận để biện hộ suy nghĩ và hành động của mình, huống hồ là đứa trẻ.
Điều tệ hại nhất là cha mẹ càng nhường nhịn trước những cơn giận dữ, đe dọa, và mắng chửi của trẻ, trẻ lại càng hung hãn; một vòng phản hồi nghịch kéo dài vĩnh viễn cho đến khi cha mẹ thực sự
hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình và can đảm vạch lại kỷ cương trong gia đình. Nếu không, trẻ sẽ đóng vai trò cha mẹ của cha mẹ khi đã mất sự kính trọng đối với đấng sinh thành.
Không phải đứa trẻ nào cũng trở nên dữ dằn và hiếp đáp người yếu hơn nó sau khi chứng kiến cảnh ly hôn của cha mẹ mặc dù trẻ nào cũng gặp những khó khăn ít nhiều trong quan hệ với người chung quanh. Ở đầu kia của thái cực là những đứa trẻ trở nên lo lắng, trầm cảm, nhút nhát và rút vào thế giới riêng của nó. Về biểu hiện bên ngoài, chúng thường xuyên muốn được ôm, được bồng, được an ủi và dỗ dành. Có trẻ lại biểu hiện qua các chứng nhức đầu, đau bụng, ói mửa. Thường chúng là trẻ gái. Những đứa trẻ này lại thường là nạn nhân của những vụ bắt nạt trong trường nhất là ở trường mới chuyển về, một mục tiêu dễ dàng trước “nòng súng” của đám trẻ hung hãn.
Nghiên cứu cho thấy trẻ từ lúc mới sanh đến 18 tháng tuổi thường cảm nhận được sự căng thẳng giữa bố mẹ nhưng chưa đủ trí năng để hiểu cũng như ngôn ngữ để diễn tả sự cảm nhận. Trẻ có thể trở nên khó chịu, đeo bám, và hay òa khóc, la hét. Có trẻ lại biểu hiện sự thoái hóa trong phát triển, như mút tay, đái dầm, ỉa đùn. Trẻ từ 18 tháng đến 3 tuổi thì lại tự trách mình là nguyên nhân của việc ly dị vì sự phát triển nhận thức của trẻ đang ở giai đoạn duy kỷ. Chúng lo sợ bị bỏ rơi và đòi hỏi sự quan tâm chăm sóc nhiều hơn. Tương tự như trẻ ở giai đoạn trước, trẻ từ 3 đến 6 tuổi cũng tự trách móc mình bất lực trước sự chia tay của hai người. Chúng đè nén sự giận dữ và lo lắng về tương lai. Trẻ từ 6 đến 8 tuổi thì đặc biệt cảm thấy chính cha hay mẹ đã bỏ rơi chúng, nhất là người không có quyền nuôi con, và thường mơ mộng chúng sẽ là người giúp cha mẹ quay trở lại với nhau.
Chúng ta cũng cần nhớ là trẻ trong gia đình ly hôn không nhất thiết chỉ ở hai thái cực, thường chúng trải nghiệm nhiều cảm xúc và suy nghĩ phức tạp, có khi ở đầu này trong thái độ và hành vi với người này nhưng lại ở đầu kia với người khác. Chỉ cần vài tuần sau khi ly hôn, cha mẹ có thể thấy sự thay đổi tâm tính của con trẻ,
chúng có thể trở nên nhạy cảm và phản ứng quá đáng trước những việc bất ưng trong cuộc sống. Việc này có thể kéo dài nhiều tháng hay nhiều năm, có thể biến mất một thời gian rồi trở lại. Những biến chuyển này tùy thuộc vào tình trạng tinh thần và cách cư xử với nhau của cha mẹ, rồi đến những can thiệp tâm lý như tham vấn cho trẻ.
Giới chuyên gia thường khuyên cha mẹ đã ly dị thường xuyên trao đổi với nhau trong hòa khí, nếu khó khăn khi đối mặt thì dùng email hay sổ trao đổi [communication notebook] và chia sẻ với trẻ nội dung câu chuyện. Cha mẹ cần vượt qua những cảm xúc tiêu cực để vẫn tiếp tục tạo cho trẻ một môi trường ổn định, trật tự, nề nếp với những kỳ vọng rõ ràng. Trẻ cũng cần biết chúng không phải là nguyên nhân của việc ly dị, chúng đều được cả cha lẫn mẹ thương yêu, và những nhu cầu thiết yếu của chúng sẽ được đáp ứng. Hoàn cảnh tài chánh và sinh sống của mỗi người cha hay mẹ có giới hạn nhưng không có nghĩa là điều đó đồng nghĩa với tình thương yêu có chênh lệch.
Chúng ta có thể tin rằng không có cặp tình nhân nào muốn lấy nhau để rồi sẽ chia tay. Nhưng cuộc đời với sự thay đổi của lòng người và hoàn cảnh, những chuyện tưởng không xảy ra cuối cùng cũng sẽ đến. Trách nhiệm còn lại giữa hai người là việc tạo sự bình yên và hiểu biết cho con để chúng có thể tiếp tục trưởng thành khỏe mạnh trong cả trí tuệ, cảm xúc và hành vi. Nếu một trong hai, cha hay mẹ chưa đủ trưởng thành để nhận thức được trách nhiệm đó, gánh nặng oằn lưng sẽ đổ về phía bên kia. Kể cả gánh nặng của nỗ lực thay đổi tính cách để trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn. Chuyển hóa mình để chuyển hóa con. Nhưng đó cũng là gánh nặng của hạnh phúc, của việc nuôi nấng dạy dỗ một con người.
Qua nụ cười của chị khi bước ra cửa, tôi tin chị đã nhận thức được điều đó, dù con đường trước mặt sẽ còn nhiều gian nan và vất vả.
Chúng ta có thể tin rằng không có cặp tình nhân nào muốn lấy nhau để rồi sẽ chia tay. Nhưng cuộc đời với sự thay đổi của lòng người và hoàn cảnh, những chuyện tưởng không xảy ra cuối cùng cũng sẽ đến. Trách nhiệm còn lại giữa hai người là việc tạo sự bình yên và hiểu biết cho con chúng có thể tiếp tục trưởng thành khỏe mạnh trong cả trí tuệ, cảm xúc và hành vi. Nếu một trong hai chưa đủ trưởng thành để nhận thức được trách nhiệm đó, gánh nặng oằn lưng sẽ đổ về phía bên kia. Kể cả gánh nặng của nỗ lực thay đổi tính cách để trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn. Chuyển hóa mình để chuyển hóa con. Nhưng đó cũng là gánh nặng của hạnh phúc, của việc nuôi nấng dạy dỗ một con người.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
SUỐT ĐỜI SỢ HÃI
T
rong phòng tham vấn. Có gì liên quan giữa cái bàn ăn, chiếc áo đầm, và cái chái cũ sau vườn. Có cái gì trong quá khứ khiến em sợ hãi mọi tình cảm chăm sóc giữa thầy và trò. Có cái gì trong tuổi thơ đã khiến em đôi khi bỗng nhiên hoảng sợ trước đám đông. Sợ hãi đến bật khóc.
Tấm màn quá khứ che khuất tuổi thơ dần hé mở với mỗi lần tham vấn. Để ngừa đứa con gái tuổi mới lên sáu không bị dụ dỗ bởi một tên đàn ông mắc bệnh ấu dâm biến thái nào đó, người mẹ đã tranh thủ những lúc gia đình quây quần bên bàn ăn trong bữa cơm chiều để đe dọa, có thể là một ông Ba Bị sáu tai mười hai con mắt nào đó ở cái chái sau vườn chuyên đi bắt trẻ mặc áo đầm để ăn thịt. Những người đàn ông nhiều tuổi có nguy cơ sẽ biến thành ông Ba Bị bất cứ lúc nào để thò bàn tay lông lá chụp lên người cô bé. Thế là đứa trẻ lớn lên với nỗi sợ chôn chặt trong lòng, không hiểu tại sao mình lại sợ hãi những thứ rất ư là vớ vẩn nhưng lại không hề dám tâm sự với ai.
Phụ huynh ở mọi nơi trên thế giới đã sáng tạo không biết bao nhiêu thứ ma quỷ quái vật để dọa trẻ khép vào khuôn phép kỷ luật, thậm chí chỉ để bắt trẻ làm những chuyện lặt vặt trong đời sống hàng ngày như đánh răng rửa mặt trước khi đi ngủ. Ở Úc thì có con Yara-ma-yha-who nhỏ bằng đứa con nít sống trên cây sung, hình thù như con ếch mà phủ đầy lông đỏ, không răng mà tay dài như vòi bạch tuộc. Con này thì chuyên hút máu mấy đứa con nít đi chơi lêu lổng ngoài đường để biến chúng thành một con Yara-ma-yha who mới. Ở Akita bên Nhật thì mỗi lần ngày lễ Namahage cuối năm dương lịch, một vài thanh niên lại mang mặt nạ quỷ, áo mưa bằng rơm bện, cầm dao và xô đến mỗi nhà hỏi thăm xem đứa trẻ nào khóc, đứa nào không vâng lời, hay thậm chí có cô con dâu nào không chịu làm việc nhà. Thế là chủ nhà phải hối lộ bằng rượu sake và bánh mochi (một loại bánh làm bằng bột nếp của Nhật) để mời
chúng đi, sau khi đã dọa dẫm mấy đứa con ra trò, cho quỷ Namahage giằng co chút đỉnh.
Ở Việt Nam ta thì đủ loại ma quỷ để ngăn cấm đủ thứ trên đời, vào rừng thì gặp ma trành (ma trành là các vong hồn nạn nhân đi theo cọp để bắt người cho cọp), đi tắm thì đụng ma da, vào nhà người lạ thì thấy ma xó, đi qua cây đa thì thấy ma thần vòng, đi... bậy chỗ thì vong gặp ma lai. Thậm chí trước năm 1975, tờ báo của một ông linh mục làm chủ nhiệm lại có đăng phóng sự Con ma vú dài kể chuyện một nữ tù nhân chết trong nhà tù Chí Hòa, đêm hiện về ép tù nhân bú sữa. Có lẽ xã hội thời đó đám thương gia quảng cáo cho sữa lon sữa hộp quá, nên phong trào vận động bú sữa mẹ mới phản kháng chăng?
Đổi trường đổi nhà, mỗi lần chia lìa, mỗi lần bị la mắng cũng là những kinh nghiệm căng thẳng cho trẻ. Ngay cả những trò dọa dẫm tưởng chừng vô hại như giả ma đuổi bắt, nắm cẳng quay vòng, nhốt vào phòng tối, dìm đầu xuống nước, v.v... cũng có thể gây ra những thương tật trong tâm hồn đứa trẻ. Đó là chưa nói đến những đứa trẻ bị bạo hành thể chất hoặc tâm lý hay xâm hại tình dục. Những biến cố gây ra chấn thương tâm lý sẽ tạo cho chúng cảm giác lo sợ và bất an, nhẹ thì chỉ là những giấc ác mộng, nặng hơn thì là những nỗi sợ cảnh sợ vật, nặng hơn nữa thì là những chứng rối loạn tâm thần.
Nhiều người nghĩ trẻ nhỏ chưa nói chưa biết nên không bị những chấn thương tâm lý vì không biết đến hậu quả của nó. Nhiều người còn biện hộ ông cậu bà cô lúc nhỏ cũng vậy mà lớn lên cũng thấy rất bình thường. Thật ra trẻ nhỏ lại càng dễ bị chấn thương và hậu quả tiềm ẩn của những chấn thương có khi chỉ xuất hiện khi một cá nhân có một trải nghiệm khủng hoảng tâm lý trong một giai đoạn nào đó của đời sống. Hơn nữa việc chấn thương trầm trọng hay không tùy vào sự trưởng thành của hệ thần kinh và tâm lý của trẻ, chứ không tùy thuộc hoàn toàn vào mức độ đe dọa của biến cố bên ngoài. Những biểu hiện ở mỗi lứa tuổi cũng đa dạng. Trẻ dưới 5 tuổi thì lộ vẻ sợ hãi, bám vào cha mẹ, rên rỉ khóc thét, bất động sững
người, đái dầm bú tay. Trẻ từ 6 đến 11 tuổi thì bỏ chơi bỏ bạn, mất ngủ, ác mộng, khó chịu giận dữ, học hành sa sút, nhức đầu đau bụng, hoảng hốt trầm cảm. Trẻ từ 12 đến 17 tuổi thì hỗn láo ương bướng, ám ảnh khó ngủ, hút thuốc uống rượu, nghĩ ngợi chuyện tự tử.
Bác sĩ Tâm thần Bruce Perry của Học viện Chấn thương Trẻ em tại thành phố Houston bang Texas cho biết bộ não của trẻ bị đe dọa đến sợ hãi không chỉ thay đổi các vùng mạng thần kinh mà còn thu nhỏ lại về kích thước. Những chấn thương vì sợ hãi ảnh hưởng toàn diện mọi khía cạnh của sự phát triển của mỗi con người chúng ta: “Càng bị đe dọa, hành vi, suy nghĩ và thế giới quan của bạn càng trở nên sơ khai”. Vì sao? Vì khi mạng sống bị đe dọa, dù thực hay tưởng tượng, thì nhu cầu bản năng sống còn sẽ vượt lên lý trí. Nhìn từ khoa học thần kinh thì đó là việc hệ viền [limbic system] vốn chi phối phản ứng cảm xúc sẽ “cướp chính quyền” trong tay của vỏ não [cerebral cortex], vùng phát triển gần đây trong lịch sử tiến hóa của sinh vật và nắm vai trò chi phối nhận thức cũng như khả năng suy nghĩ, tư duy và tưởng tượng. Kiểu man rợ thắng văn minh vậy.
Phải chăng khả năng khiến người ra người chỉ là khả năng biết dừng lại và phản tỉnh về suy nghĩ, lời nói, và hành động của mình? Cho nên bạn cũng đừng lấy ngạc nhiên khi con người trong một xã hội nào đó đã trở nên man dã thú tính nhiều hơn khi họ đã lớn lên trong những gia đình và học đường dùng sự đe dọa làm nền tảng giáo dục rồi lại phải trải qua những cuộc chiến máu lửa mà cái chết lúc nào cũng cận kề. Những trái bom nổ chậm đó chỉ chực chờ một ngọn lửa của một va chạm quyền lợi hay thậm chí tầm thường như một lời khích bác để nổ tung.
Nếu cần cả làng để nuôi dưỡng một đứa trẻ như câu tục ngữ được cho là từ Phi châu: “It takes a village to raise a child”, thì cũng cần một cộng đồng, một xã hội hay thậm chí một quốc gia để chữa lành một đứa trẻ. Khi một đứa trẻ vẫn còn những triệu chứng chấn thương sau sáu tháng, học hành sa sút, việc nhà bỏ bê, với những cơn đau bụng nhức đầu vô cớ và những ác mộng hay ký ức kinh
hoàng dai dẳng, với những hành vi phạm pháp, rượu chè ma túy, thì đó là lúc chúng ta cần phải tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên môn. Thế nhưng thuốc men và điều trị tâm lý chỉ giúp một phần. Bác sĩ Bruce Perry nhấn mạnh tầm quan trọng của một sinh hoạt ăn uống ngủ nghỉ đều đặn nhất quán, một môi trường bình yên an toàn, và nhất là sự nối kết trong thông cảm và thương yêu với gia đình, chòm xóm và xã hội.
Sống trong xã hội hôm nay, việc dặn dò cảnh báo để trẻ có thể tự bảo vệ mình khỏi những hiểm nguy ngay trong trường học, chòm xóm, thậm chí trong gia đình là điều cần thiết. Nhưng không chỉ một con đường sẽ dẫn đến Rome. Ngoài sợ mà làm thì còn có yêu mà làm, vui mà làm, hiểu mà làm. Sợ người hung dữ hay sợ cha mẹ sẽ trừng phạt vì không vâng lời đều đem lại những hậu quả không mong muốn. Nếu sợ bị cha mẹ trừng phạt thì sự phát triển lương tâm của đứa trẻ chỉ ở mức không làm chuyện xấu vì lo bị trừng phạt, nhưng nếu ăn vụng mà chùi mép được thì cứ làm xấu. Sợ người hung dữ thì suốt đời bị bắt nạt, không bao giờ dám đứng lên để bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Chắc có lẽ vì thế trong bản Tuổi sợ ma dành cho thiếu nhi thiếu niên, nhạc sĩ Phạm Duy từ câu hát đầu đã động viên các em phải tập “đánh, đánh, đánh con ma” từ con ma lem, ma da qua ma men đến ma túy để đến khi lớn lên các em mới đủ dũng khí đánh những con ma dữ tợn hơn trong đêm tối xã hội: “Đêm qua em gặp ma, ma gian ác, ma cô lọc lừa, sống nương nhờ nơi ai lầm và nơi ai lỡ, đêm qua em gặp ma, con ma giáo lưỡi cong to mồm, ma om xòm, bao nhiêu lần làm hại lương dân”.
Nếu cần cả làng để nuôi dưỡng một đứa trẻ như câu tục ngữ được cho là từ Phi châu: “It takes a village to raise a child”, thì cũng cần một cộng đồng, một xã hội hay thậm chí một quốc gia để chữa lành một đứa trẻ. Khi một đứa trẻ vẫn còn những triệu chứng chấn thương sau sáu tháng, học
hành sa sút, việc nhà bỏ bê, với những cơn đau bụng nhức đầu vô cớ và những ác mộng hay ký ức kinh hoàng dai dẳng, với những hành vi phạm pháp, rượu chè ma túy, thì đó là lúc chúng ta cần phải tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên môn. Thế nhưng thuốc men và điều trị tâm lý chỉ giúp một phần. Bác sĩ Bruce Perry nhấn mạnh tầm quan trọng của một sinh hoạt ăn uống ngủ nghỉ đều đặn nhất quán, một môi trường bình yên an toàn, và nhất là sự nối kết trong thông cảm và thương yêu với gia đình, chòm xóm và xã hội.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
KHÔNG NGHỀ NÀO HÈN
B
ạn có thật sự trung thực khi nói với ai đó câu ngạn ngữ: “Không có nghề hèn, chỉ người hèn” không? Tôi nói thật, tôi không tin ai nói câu đó cũng trung thực với mình, thậm chí biết rõ với những suy nghĩ và thái độ của mình. Nhất là nếu người nói câu đó lại là người Việt Nam.
Chúng ta lớn lên trong một xã hội mà từ xưa khái niệm học để làm quan, để “ăn trên ngồi trước”, để “ăn trắng mặc trơn” đã ăn sâu vào tâm trí mà hình thành ước vọng đổi đời không chỉ ở con em dân thành thị mà cả ở làng quê. Ở khía cạnh tích cực, tham vọng học để làm giàu là sự đầu tư với mức lời cao nhất, ít nhất cho đến thời kỳ mà khái niệm khởi nghiệp và khung pháp lý cũng như tập quán xã hội tạo điều kiện cho những người đi vào lãnh vực kinh doanh không còn bị khinh thị. Lý tưởng hóa thì như các nhà nghiên cứu về sự thành công trong học tập của học sinh Á châu trong các trường Âu Mỹ khi cho rằng: lý tưởng Khổng giáo với sự tôn trọng giới khoa bảng đã thúc đẩy giới trẻ đầu tư vào học tập. Còn ở khía cạnh tiêu cực?
Không chỉ giới hạn trong cộng đồng người Việt trên xứ người mà còn phổ quát ở cả các cộng đồng di dân Á châu, chỉ có 5 nghề được trọng vọng và thường được xem như tiêu chuẩn để đánh giá sự thành công trong cuộc sống và danh giá của gia đình là bác sĩ, nha sĩ, luật sư, kế đến là dược sĩ và kỹ sư. Việc chọn các ngành khác thường được xem là hậu quả của việc không có khả năng, không chăm chỉ, hay không có ý chí phấn đấu. Dĩ nhiên để cầm tấm vé bước vào cửa các đại học chuyên ngành này, điểm số các em học sinh phải rất cao. Vì thế mới có chuyện khôi hài của dân Á châu, trong khi bạn bè ở các sắc dân khác xem C là điểm cần để lên lớp thì đối với Việt, Trung Quốc, Hàn, Nhật, điểm số A chỉ là trung bình [average], B thì dưới trung bình [below average], C là chữ đầu của không được ăn tối [can’t have dinner], D là đừng về nhà [don’t
come home], và F là kiếm gia đình khác [find another family]. Đứa cháu họ của tôi sinh ra ở Mỹ trợn tròn mắt khi kể lại kinh nghiệm đi thăm các gia đình bạn học với vai trò trưởng lớp: “Con vào thăm bạn gia đình người Mễ (Mexico) thì nó được có điểm C mà ba má nó ôm nó mừng rỡ, còn ở gia đình người Việt, thì ông bố táng cho bạn con một bạt tai và chửi “ĐM mày, học hành ra nào để bị con B?”
Với bảng điểm như thế thì cũng khó để mà những người Việt chúng ta có cái nhìn bình đẳng “không có nghề hèn”. Ở mặt ý thức, chúng ta có thể tỏ vẻ đồng ý không có nghề hèn thật đấy, nhưng trong thâm tâm, chúng ta vẫn có sự đánh giá hầu như vô thức về trình độ và thậm chí về cả con người của một người khi biết nghề của họ đang làm. Làm một nghề nào đó có nghĩa là bạn học kém hơn những người làm ở các nghề khác. Và học kém có nghĩa là... thế là bạn đang kéo dài một chuỗi đánh giá. Nếu ngay cả ở các nước tiên tiến mà cơ hội học tập và việc làm hầu như bình đẳng thì sự đánh giá tương tự còn chưa chính xác, còn ở các nước đang phát triển, cơ hội học tập và việc làm được tóm tắt trong câu tục ngữ “nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế” thì những đánh giá kiểu như vậy hầu như hoàn toàn vô nghĩa.
Suy nghĩ về những chuyện này làm tôi nhớ đến truyện Chú phụ nề trong tác phẩm Tâm hồn cao thượng của Edmondo De Amicis. Nhân ngày nghỉ, một người bạn thường phụ cha làm nghề thợ nề đến chơi với cậu bé nhân vật chính trong truyện. Khi thấy một vết trắng dây ra trên ghế mà chú phụ nề đã ngồi, nhân vật chính được cha đưa mắt ngăn lại khi định chùi đi lúc cậu phụ nề còn đó.
“Antonio về rồi,” cha tôi bảo:
-Con ơi! Con có biết tại sao cha không cho con chùi ghế trong lúc bạn con còn ở đó? Vì làm thế tựa như mắng bạn đã làm bẩn? Những vết trắng ấy, con có rõ ở đâu ra không? Đó là ở quần áo của cha anh đã quệt phải trong khi làm việc. Những “dấu cần lao” ấy, ta phải kính trọng. Đó là cát bụi, đó là vôi, sơn, chứ không phải là dơ bẩn.
Sự cần lao không bôi bẩn bao giờ. Thấy một người thợ đi làm về, con không nên nói:
- Người này bẩn!
Con phải nói:
- Trên áo người này có nhiều vết cần lao.
Những điều ấy, con nên ghi lòng. Con phải quý mến “chú phụ nề” kia, trước hết vì đó là bạn con, sau nữa đấy là con một người lao động”.
Tôi không biết có cha mẹ bác sĩ, luật sư, thương gia nào trong xã hội ta hiện nay còn cho con một nhà phụ nề hay đổ rác đến nhà chơi với con mình rồi đem đồ ăn tiếp đãi và khâu áo đứt nút như trong truyện trên hay không, chứ nói chi đến chuyện tế nhị ngăn con lau “dấu cần lao” rồi dùng chuyện đó giáo dục cho con quý trọng mọi nghề trong xã hội. Ở Việt Nam sau một thời gian dài, hai chữ “lao động” được cẩn ngọc nạm vàng và định nghĩa lệch lạc đến mức hầu như chỉ có lao động tay chân mới được xem như thứ lao động thật sự, thì nay gần như mọi giá trị đã đảo ngược để xã hội lại cuồng say rơi vào cơn lốc giàu sang phú quý. Đôi khi mang tính “biểu hiện” đến nỗi như một anh bạn trong nước chia sẻ: Ai đã giàu vì đi buôn đánh quả thì nay thích có cái bằng Tiến sĩ, Giáo sư, còn ai lâu nay đã có khoa bảng Giáo sư, Tiến sĩ thì nay lại đầu tư kinh doanh để có xe hơi nhà lầu - cái đó gọi là văn võ song toàn. Với cái tâm lý đó thì thật khó khăn để mà còn chú ý đến những đồng bào của mình đang lặn lội trên sông giữa đồng hay ven đường trong mỏ, những bóng người đang lùi dần vào trong bóng tối và xa dần ánh hào quang của cái gọi thành đạt trong xã hội hiện nay.
Hôm qua, tôi đi cắt tóc thì cô thợ người Mỹ trắng mừng rỡ báo cho tôi biết hai hôm trước là kỷ niệm 6 năm ngày cô ta là “hair stylist” của tôi. Quả thực, tôi cũng không ngờ rằng mình thuộc loại “trung thành” đến mức như vậy. Đến cắt tóc chỗ cô ta “từ thuở tóc
còn xanh”, nay tôi “đã phơ phơ đầu bạc”. Quá chán với mấy anh chị cắt tóc trước đó của tôi lúc nào cũng vừa cắt tóc vừa ôm điện thoại nói chuyện, lúc nào cũng kể lể để chứng tỏ đây chỉ là nghề tạm thời, hay dùng sự thành đạt của con cái mình để chứng tỏ gia đình thế giá hơn nghề mình đang làm, tôi đã tìm được cô này sau khi tìm và bỏ nhiều chỗ.
Lúc đầu tôi còn cười thầm về cái kiến thức của cô ta, lẫn lộn giữa một nước ở Nam Mỹ và Phi châu, còn mấy ông lớn trong lịch sử cỡ Lenin hay Napoleon thì cũng không biết ông nào ở đâu và ông nào sinh trước ông nào. Hỏi ra thì cô ta học không vô khi còn ở ghế nhà trường nên đi chơi nhiều hơn là theo lớp. Nhưng sau đó khi thấy cô ta tẩn mẩn chăm chú “ôm” cái đầu của tôi mỗi lần hơn cả tiếng và mỗi khi cắt xong một đầu tóc, cả tôi và cô hài lòng, thì cô lại sung sướng reo lên: “Em tự hào với tác phẩm của em hôm nay” thì sự coi thường trong tôi dần nhường chỗ cho sự kính trọng.
Không kể cái chứng chỉ hành nghề thì khóa tập huấn tóc nào cô ta cũng đi, dường như sản phẩm tóc nào cô ta cũng biết. Chỉ mới 28 tuổi, cô ta đã không nhận khách mới vì số khách riêng thường xuyên xoay vòng là đủ việc trong tháng. Đủ thoải mái để thuê một căn hộ, mua một chiếc xe và lâu lâu nghỉ làm để đi chơi, xem hòa nhạc của những ban nhạc mà cô ta ái mộ.
Tôi chỉ mong con cái chúng ta lớn lên trong một xã hội mà ai cũng có thể đủ sống và hạnh phúc khi theo đuổi một nghề mà họ yêu thích. Và khi chúng nói: “Không có nghề hèn mà chỉ có người hèn” thì trong mắt của chúng ánh lên sự thành thật, tôn trọng và khiêm nhu.
Ở Việt Nam sau một thời gian dài, hai chữ “lao động” được cẩn ngọc nạm vàng và định nghĩa lệch lạc đến mức hầu như chỉ có lao động tay chân mới được xem như thứ lao động thật sự, thì nay gần như mọi giá trị đã đảo ngược để xã hội
lại cuồng say rơi vào cơn lốc giàu sang phú quý. Đôi khi mang tính “biểu hiện” đến nỗi như một anh bạn trong nước chia sẻ: Ai đã giàu vì đi buôn đánh quả thì nay thích có cái bằng Tiến sĩ, Giáo sư, còn ai lâu nay đã có khoa bảng Giáo sư, Tiến sĩ thì nay lại đầu tư kinh doanh để có xe hơi nhà lầu - cái đó gọi là văn võ song toàn. Với cái tâm lý đó thì thật khó khăn để mà còn chú ý đến những đồng bào của mình đang lặn lội trên sông giữa đồng hay ven đường trong mỏ, những bóng người đang lùi dần vào trong bóng tối và xa dần ánh hào quang của cái gọi thành đạt trong xã hội hiện nay.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
TRÔNG CON BẰNG IPAD
C
hắc hẳn trong những năm trở lại đây, chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh các bà mẹ ông bố dỗ con bằng cách bật game hay hoạt hình trên iPad cho con xem chơi, còn mình thì lướt Facebook hay các mạng xã hội khác trên điện thoại. Hiện tượng này có thể nhìn thấy khắp mọi nơi từ Mỹ đến Việt Nam. Khi được hỏi, nhiều người cho rằng cho con chơi trên các phương tiện này đỡ mệt hơn việc phải dỗ chúng và tin rằng chúng còn được học hỏi qua các phim ảnh trên mạng.
Thật ra mối quan tâm về ảnh hưởng của các phương tiện truyền hình, từ xưa như ti vi đến nay như iPad đến các khả năng, tính cách, và sự phát triển của trẻ em không mới. Ngay từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước tại Hoa Kỳ đã có những cuộc nghiên cứu về ảnh hưởng của việc xem những phim ảnh bạo lực trên ti vi đến tính cách và hành vi của trẻ em. Trong thập niên này, một số nghiên cứu của Hội Truyền thông Giáo dục Quốc gia Hoa Kỳ [National Association of Educational Broadcasters] đã báo cáo về tương quan tỉ lệ thuận giữa số lượng trẻ phạm pháp và các chương trình có nội dung tội phạm và sát nhân trên ti vi. Ngay từ thập niên này, trẻ em đã bỏ mỗi tối từ 2 đến 3 tiếng rưỡi để xem ti vi và điều này đã gây ra nhiều sự chống đối và kể cả ủng hộ. Phe chống thì cho rằng ti vi làm trẻ em mất thời gian học tập, làm thay đổi não trạng của trẻ em, và làm cho trẻ em mất khả năng trì hoãn sự hưởng thụ. Phe bênh thì cho rằng ti vi mở một chân trời thông tin mới cho trẻ em, nhất là kiến thức về các sự kiện đang xảy ra trên thế giới.
Nghiên cứu của Hội Truyền thông Giáo dục Quốc gia Hoa Kỳ cho thấy là các hình ảnh bạo lực và kinh dị chiếm 10% giờ phát hình bất cứ ở giờ nào trong ngày và trong thời gian đó, số lượng tội phạm cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên, một nghiên cứu đầu thập niên 60 cho thấy trẻ trai bị bạn bè ở trường đánh giá có hành vi bạo lực nhiều hơn là những em cũng bị cha mẹ báo cáo thường xem phim bạo lực
ở nhà hơn. Tổng kết dữ liệu của các nghiên cứu trong 20 năm từ 1956 đến năm 1976 thì rõ ràng có sự liên hệ giữa xem các bạo lực trên ti vi và việc gia tăng tính hiếu chiến của người xem.
Một số nghiên cứu khác trong 30 năm qua về ảnh hưởng của bạo lực trên truyền hình cho thấy trẻ xem nhiều nội dung này sẽ trở nên hiếu chiến hơn và thay đổi thái độ cũng như giá trị sống khiến chúng ủng hộ việc sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn. Xem nhiều bạo lực trên ti vi quá cũng khiến cho trẻ trở nên vô cảm với bạo lực và gia tăng mức độ chịu đựng sự gia tăng bạo lực trong xã hội. Thậm chí, chúng bị một hội chứng tâm lý gọi là hội chứng “thế giới tàn ác”, chúng sẽ nhìn cuộc đời qua lăng kính đen tối, nghĩ là mình một ngày nào đó trong đời cũng sẽ trở thành nạn nhân của tội ác.
Chúng ta có suy nghĩ là trẻ thường thích xem các phim có các cảnh chém giết, đánh đấm hơn là những phim tình cảm, thật ra trẻ chưa chắc đã thích phim bạo lực như mọi người nghĩ. Một nghiên cứu cho thấy trẻ em 4 và 5 tuổi thích các phim hoạt hình không bạo lực hơn cả khi được cho xem 4 loại phim, người đóng bạo lực và không bạo lực, hoạt hình bạo lực và hoạt hình không bạo lực. Khi xem phim, trẻ có phản ứng tâm sinh lý mạnh như sợ hãi với 2 loại phim bạo lực, đặc biệt là phim có người đóng thật. Nguy hiểm hơn nữa là hơn một tuần sau chúng vẫn còn nhớ nhiều chi tiết trong loại phim bạo lực do người đóng hơn 3 loại kia.
Theo một nghiên cứu ở Nhật thì trẻ em từ 5 đến 18 tuổi khi xem phim càng nhiều thì chất xám ở vùng vỏ não thùy trán [frontopolar cortex] càng phát triển. Nhưng theo nhóm nghiên cứu ở Đại học Tohoku - thành phố Sendai thì chất xám càng phát triển nhiều ở vùng này thì trí thông minh về ngôn ngữ của các em càng kém. Ở trẻ bình thường, vùng vỏ não này thường mỏng đi khi lớn lên, đặc biệt là các em có chỉ số thông minh cao, vì trong tiến trình phát triển, não tự tỉa bớt những phần dư thừa để tăng hiệu năng hoạt động.
Theo nghiên cứu của Giáo sư John Murray ở Đại học Kansas thì khi cho trẻ em xem phim bạo lực, một số vùng não như hạch hạnh nhân [amygdala], hồi hải mã [hippocampus] và vùng vỏ não đai sau [posterior cingulate cortex] trở nên hoạt động mạnh mẽ hơn, một chỉ dấu của việc nhận thức và ký ức về các biến cố nguy hiểm trong môi trường. Hoạt động não ở vùng này tương tự như của các bệnh nhân của chứng Rối loạn Căng thẳng hậu Chấn thương Tâm lý [Post Traumatic Stress Disorder].
Bên cạnh những chương trình bạo lực trên ti vi hay các phương tiện truyền thông thì trẻ em cũng được xem những chương trình giáo dục. Ý thức được những chương trình bạo lực và không phù hợp với lứa tuổi của trẻ em, Hoa Kỳ đã thành lập Đài Truyền hình Giáo dục Quốc gia Hoa Kỳ và sau đó là Dịch vụ Truyền thông Công cộng. Nhiều chương trình cho thiếu nhi nổi tiếng đã được phát trên đài này. Theo một nghiên cứu trên tờ chuyên san chính thức của Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ thì các chương trình giáo dục trên ti vi sẽ giúp trẻ em trường mầm non mở rộng kiến thức, phát triển khả năng tưởng tượng, và ảnh hưởng tích cực đến thái độ của chúng đối với các chủng tộc khác.
Đó là nói về ti vi còn thời nay thì phải tìm hiểu về iPad hay các máy tính bảng. Theo một số nghiên cứu thì nếu dùng iPad đúng cách với các ứng dụng [apps] về giáo dục thì trẻ có các lợi ích sau: đạt điểm cao hơn trên bài tập làm văn, tăng điểm toán, và trẻ khuyết tật sẽ tăng khả năng tập đọc. Ngoài ra sinh viên của một số ngành như ngành Y cũng báo cáo là khả năng học tập và điểm số của họ cao hơn khi dùng iPad. Tuy nhiên những nghiên cứu này đa số đều do các nhà xuất bản sách giáo khoa, công ty thiết bị và phần mềm học tập tài trợ, nên chúng ta cũng phải cẩn thận khi tham khảo kết quả của họ.
Đồng thời, các bài nghiên cứu độc lập trên các chuyên san khoa học thì lại cho chúng ta các kết quả khác biệt. Chẳng hạn, trong một bài nghiên cứu trên chuyên san nhi khoa, các tác giả cho biết trẻ nhỏ hơn 30 tháng tuổi chỉ tiếp thu và học tập thực sự từ những giao
tiếp trong đời sống với cha mẹ hay người thân chứ không thể từ các màn hình như ti vi hay iPad. Việc phát triển các khả năng như cảm thông hay giải quyết vấn đề của trẻ trong lứa tuổi này sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực khi chúng xem hay chơi những game hay apps trên màn hình. Các khả năng này chỉ hình thành và phát triển khi trẻ có cơ hội chơi đùa với những đứa trẻ khác mà thôi. Ngoài ra các nhà nghiên cứu này cũng quan tâm về khả năng tự điều tiết những cảm xúc của trẻ khi mỗi lần khóc thì cha mẹ lại lười biếng thảy cho trẻ một cái iPad.
Từ các kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra một vài hướng dẫn cho việc cho trẻ sử dụng các công cụ có màn hình, từ ti vi, máy tính bảng, đến điện thoại thông minh. Thứ nhất, chúng ta chỉ chọn loại nào trẻ có thể tương tác liên tục trong thời gian sử dụng và các tương tác phải đòi hỏi tư duy nhiều hơn chỉ là phản ứng của phản xạ vận động. Thứ hai, chúng ta chỉ nên cho trẻ xem và chơi các chương trình giáo dục và tránh các chương trình bạo lực. Thứ ba, chúng ta nên giới hạn thời gian sử dụng của trẻ tùy theo độ tuổi, càng ít tuổi càng cho sử dụng ít, nhưng không quá 1 giờ mỗi ngày. Chúng ta cũng nên chú ý là mặc dầu các chương trình giáo dục có thể giúp trẻ phát triển ngữ vựng hay tập đọc, làm toán, nhưng chúng sẽ không giúp gì được cho trẻ trong lãnh vực phát triển tình cảm, khả năng giao tiếp xã hội, hay khả năng giải quyết vấn đề.
Đời sống của chúng ta quả thật ngày càng bận rộn với bao công việc, nhưng thật ra thời gian bận rộn nhất của chúng ta lại chính là khoảng thời gian mất vào những lo nghĩ, tán gẫu, hay dằn vặt với những phiền toái vì những chuyện trong quá khứ hay tương lai. Chưa nói đến việc tạo điều kiện cho con có những kinh nghiệm thực sự từ cuộc sống, từ việc khám phá thiên nhiên cho đến việc học một nhạc cụ, nếu chúng ta có thể ngồi xuống chú tâm trọn vẹn vào đứa con trước mặt, lắng nghe không chỉ nội dung câu chuyện mà cả giọng nói nét mặt, cả hai sẽ đạt được sự cảm thông và hạnh phúc vì được bên nhau. Không máy móc nào với những kinh nghiệm gián tiếp và giả tạo lại có thể thay thế những giây phút quý báu chơi đùa và học hỏi bên cạnh cha mẹ cả.
Từ các kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra một vài hướng dẫn cho việc cho trẻ sử dụng các công cụ có màn hình, từ ti vi, máy tính bảng, đến điện thoại thông minh. Thứ nhất, chúng ta chỉ chọn loại nào trẻ có thể tương tác liên tục trong thời gian sử dụng và các tương tác phải đòi hỏi tư duy nhiều hơn chỉ là phản ứng của phản xạ vận động. Thứ hai, chúng ta chỉ nên cho trẻ xem và chơi các chương trình giáo dục và tránh các chương trình bạo lực. Thứ ba, chúng ta nên giới hạn thời gian sử dụng của trẻ tùy theo độ tuổi, càng ít tuổi càng cho sử dụng ít, nhưng không quá 1 giờ một ngày. Chúng ta cũng nên chú ý là mặc dầu các chương trình giáo dục có thể giúp trẻ phát triển ngữ vựng hay tập đọc, làm toán, nhưng chúng sẽ không giúp gì được cho trẻ trong lãnh vực phát triển tình cảm, khả năng giao tiếp xã hội, hay giải quyết vấn đề của trẻ.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
THÔNG MINH LÀ ĐỊNH MỆNH
T
ừ nhỏ tôi đã bị ám ảnh bởi cái gọi là trí thông minh, như một điều gì đó huyền bí được trao tặng cho mỗi đứa trẻ từ lúc đời. Cũng bởi trong gia đình và chòm xóm hay so sánh đứa trẻ này với trẻ kia, đứa này thi đỗ vào lớp 9, anh kia đi du học ở Đức, chị nọ đọc qua một lần là thuộc cả cuốn sách. Xem chừng cái gì có liên quan đến việc nhớ và việc học là đều được gắn nhãn trí thông minh. Tôi ở những năm tiểu học thì cứ trầy trật nên mặc cảm đầy mình, hễ gặp cô giáo quan tâm thương yêu mình thì đứng hàng Top 5, còn ở lớp nào mà cô không thân thiết với mình thì điểm số lại đứng dưới thấp. Thằng nhỏ cũng chẳng hiểu tại sao lại như thế nên thôi cứ cho là vì mình không thông minh như mọi người thường nói cho khỏe trí.
Mấy năm qua, chúng ta cũng được nghe nói về chữ viết tắt của chỉ số thông minh là IQ khá nhiều ở Việt Nam. Chẳng hạn dân nào có IQ cao thì nước đó có tàu cao tốc. Mấy năm vừa rồi lại có thông tin một số trường trung học cơ sở tại Hà Nội vì hoang mang trước quyết định mới về việc tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo nên đã có “sáng kiến” dùng chỉ số thông minh IQ để thay thế các bài thi các môn học thông thường.
Chúng ta hãy thử bàn về chỉ số thông minh IQ. IQ đúng là có tương quan tỉ lệ thuận với học lực. Trẻ có chỉ số thông minh cao thường đạt điểm cao trong các kỳ thi, đạt điểm số trong lớp cao, và học lên cao hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chúng ta không nên sử dụng IQ để đánh giá học lực vì các điểm sau:
- IQ và học lực chỉ tương quan thuận chứ IQ không là nguyên nhân của học lực.
- Có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến học lực như động lực học tập, phẩm chất sư phạm, trình độ học vấn và các nguồn lực
khác của gia đình; giáo dục và kỷ luật của gia đình; ảnh hưởng của bạn bè hay của người hướng dẫn tinh thần, v.v...
- Một đứa trẻ có IQ cao nhưng bị những chấn thương tinh thần, không có óc cầu tiến, bạn bè xấu lôi kéo, v.v... sẽ học kém.
- Một đứa trẻ chăm chỉ, tinh thần ổn định, có ý chí, nghị lực, có phương pháp học tập tốt sẽ đạt được điểm cao và sau đó chắc chắn sẽ thành công trong xã hội dù IQ thấp hơn một đứa trẻ khác.
Tương quan giữa IQ và học lực vẫn không chỉ có một chiều. Vẫn có nhiều trường hợp có em có số IQ cao nhưng học lực thấp. IQ là điểm tổng hợp một số lãnh vực trí năng như xử lý thông tin nhanh nhạy, biết các định nghĩa và khái niệm trừu tượng, ghi nhớ các hình mẫu hay bảng từ vựng, v.v... Một em có thể có điểm cao trong lãnh vực trí năng này nhưng thấp ở lãnh vực khác. Nếu tổng hợp điểm của các lãnh vực trí năng lại để cho ra chỉ số IQ, chỉ số này không phản ánh được điểm mạnh và yếu của các em vì mỗi lãnh vực trí năng lại có liên quan đến một số môn học. Tệ hơn nữa là số đo IQ chỉ có thể tiên đoán khả năng học tập của học sinh trong một vài năm. Đo IQ của một học sinh lúc học lớp 5 sẽ không giúp gì trong việc tiên đoán vào năm lớp 10 hay lên đại học em đó sẽ học hành ra sao.
Việc dùng trắc nghiệm IQ để tuyển sinh còn có một hậu quả tai hại về mặt xã hội là duy trì sự phân biệt giai cấp và thành phần xã hội. Viện lý lẽ với nguồn lực giới hạn, quốc gia cần phải phân loại trẻ có trí năng cao với trẻ có trí năng thấp để từ đó dồn nguồn lực giáo dục cho trẻ có trí năng cao để chúng sau này lãnh đạo xã hội và phát triển quốc gia, một chính quyền có thể đã vô tình hay hữu ý duy trì hố ngăn cách giàu nghèo qua việc chỉ dành cho trẻ có điểm IQ cao những đặc quyền giáo dục. Mặc dù giàu có không phải là nguyên nhân của chỉ số IQ cao, nhưng các nghiên cứu cho thấy trẻ có cha mẹ giàu có và bằng cấp sẽ có điểm IQ cao hơn trẻ ở các gia đình nghèo khó và ít học. Ở 6 tuổi, độ chênh lệch là 6 điểm nhưng
đến 16 tuổi thì độ chênh lệch của trẻ ở hai thành phần giàu nghèo là 18 điểm, gấp 3 lần trong 10 năm tuổi.
Ở mức khởi đầu khác biệt đó, những đứa trẻ giàu có sẽ được xếp vào những trường và lớp có giáo trình chi tiết và phong phú hơn, giáo viên giỏi với kiến thức chuyên ngành và kỹ năng sư phạm tốt hơn, giáo viên sẽ kỳ vọng cao hơn và vì thế động viên nhiều hơn, bạn bè giỏi hơn nên kích thích tinh thần thi đua hay hỗ trợ nhau tốt hơn. Ngược lại, những trẻ có kết quả thấp trên bài trắc nghiệm IQ vì nghèo khổ sẽ không có cơ hội học tập tại các trường với chất lượng giáo dục cao khiến chúng sẽ thiếu những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho sự thành đạt trong xã hội khi trưởng thành. Vòng luẩn quẩn sẽ tiếp tục khi con em của họ lại vì thiếu nguồn lực từ cha mẹ nên không có điểm IQ cao lại tiếp tục không được học ở những trường chất lượng cao. Đây cũng chính là Hiệu ứng Matthew, trẻ bị xem là học kém sẽ tiếp tục học kém, trẻ được cho là học giỏi sẽ tiếp tục học giỏi. Những ai có lòng yêu người và yêu nước làm sao có thể chấp nhận một phần con em chúng ta cứ mãi trầm luân trong vòng nghèo đói và ngu dốt.
Nếu tôi không lầm thì ở Việt Nam đã có hệ thống phân hạng (tracking streaming, setting, hay phasing) về trường chất lượng cao để cho các em học sinh thi tuyển vào. Thậm chí các trường nội thành lại có khuynh hướng tốt hơn các trường ngoại thành. Tại Hoa Kỳ hệ thống phân hạng này cũng được áp dụng một cách giới hạn trong trường với những điểm tích cực như giáo viên dễ soạn giáo án và dễ dạy, phù hợp trình độ và đáp ứng nhu cầu của từng khối học sinh, v.v... nhưng những khuyết điểm của hệ thống này thật ra sâu sắc hơn và nguy hại hơn cho lý tưởng công bằng trong xã hội.
Nghiên cứu cho thấy các lớp thuộc hạng thấp thường tập trung trẻ di dân, gia đình có thu nhập thấp, trong khi lớp hạng cao thường là nhiều học sinh da trắng và thuộc vào các thành phần thành đạt trong xã hội. Tương tự, giáo viên của các lớp hạng cao thường có nhiều năm kinh nghiệm và được đánh giá có năng lực chuyên môn hơn, trong khi các lớp hạng thấp thường dành cho giáo viên ít kinh
nghiệm, có bằng cấp thấp hơn, và ít năng lực hơn. Giáo viên của các lớp hạng cao cũng nhiệt tình trong việc giảng dạy, giảng bài và cung cấp thông tin về bài học chi tiết, và đề ra yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chúng ta cứ thử tưởng tượng là vì điểm thi xếp hạng trong những năm cuối một cấp lớp, hay vì chỉ số IQ nếu Việt Nam áp dụng cách tuyển sinh này, con của bạn bị xếp vào những lớp hạng thấp thì tương lai của chúng sẽ như thế nào.
Dính vào cái vòng luẩn quẩn “con sãi ở chùa lại quét lá đa” này vốn là từ một số quan niệm và mô hình giáo dục cũ của Hoa Kỳ, nhưng nay đã có khả năng mon men vào những trường học muốn tiếp thị đến gia đình thành công hay giàu xổi ở Việt Nam. Trong quá khứ, giới học thuật Hoa Kỳ cho rằng trí thông minh không thay đổi từ lúc sanh ra đến khi qua đời. Từ quan điểm này, một số lý thuyết về thoái hóa nhân cách và trí tuệ đã xuất hiện với chủ trương là những bậc cha mẹ thất bại vì không thích ứng với cuộc sống và xã hội với những đòi hỏi về trí tuệ sẽ truyền những đặc tính này cho con cái cho tới khi cả dòng tộc bị thoái hóa và đào thải vì những khiếm khuyết về trí năng, cảm xúc và hành vi của những dòng tộc này. Trắc nghiệm IQ do đó đã được dùng để nhận diện và kiểm soát những thành viên của các gia đình và dòng tộc này. Nếu bạn nhìn con em nhà nghèo khó mà nghĩ khi chúng lớn lên sẽ có nguy cơ trở thành tội phạm, công nhân, nông dân nghèo đói, v.v... thì chính bạn cũng đang suy nghĩ theo thiên kiến nói trên. Và dĩ nhiên, trong một xã hội và quốc gia mà nền giáo dục quá tụt hậu hay cơ hội việc làm chỉ dành cho kẻ có thân thế, thì khả năng “con vua thì lại làm vua” rất cao.
Việc thiếu tri thức chuyên sâu về một lãnh vực như IQ có thể dẫn đến những sáng kiến kỳ quặc. Bạn có thể tưởng tượng là đã có một số trường tư tại Thượng Hải, Trung Quốc đã yêu cầu cha mẹ các em muốn nhập học phải được trắc nghiệm IQ, không được mập phì, và có lý lịch tổ tiên có học lực cao. Một trường ở Quảng Châu thì chỉ cho trẻ em mà cha mẹ có bằng cấp vào học. Thế thì trước khi xin cho con nhập học, các bạn phải tham gia chương trình Big Losers để giảm cân, cầu hồn ông bà tổ tiên lên để hỏi điểm số của các ngài, và
ráng học để kiếm cái bằng trước nhé. Mà mấy trường này học phí lại không rẻ. Trường Qingpu bắt trẻ 6 tuổi phải đóng 98 triệu đồng cho một mùa học, còn trường Yangpu bắt đóng 36 triệu và Qibao thì 41 triệu. Khi bị Sở Giáo dục địa phương bắt chính thức hủy bỏ các yêu cầu này và công khai xin lỗi, một trường cho rằng mình “bị dốt về những quy định tuyển sinh”, còn trường kia thì biện hộ là bài thi nhằm để giúp phụ huynh “thư giãn” trong việc xin con nhập học.
Cũng may là tôi không được sinh ra ở mấy tỉnh bên Trung Quốc có mấy trường học kia và cha mẹ cũng chẳng giàu có gì để cho con nhập học ở loại trường đó. Tôi cũng may mắn không sinh vào thời mà người ta đang “thử nghiệm” một thế hệ về IQ thay vì cho chúng được học một chương trình giáo dục bình đẳng và thống nhất. Với cái tính được cô thương thì mới cố gắng như tôi và nếu ở phòng thi IQ có cô giám thị mắt lườm lườm mũi hỉnh hình thì tôi trọn đời... chỉ viết Facebook để câu view.
Việc dùng trắc nghiệm IQ để tuyển sinh còn có một hậu quả tai hại về mặt xã hội là duy trì sự phân biệt giai cấp và thành phần xã hội. Viện lý lẽ với nguồn lực giới hạn, quốc gia cần phải phân loại trẻ có trí năng cao với trẻ có trí năng thấp để từ đó dồn nguồn lực giáo dục cho trẻ có trí năng cao để chúng sau này lãnh đạo xã hội và phát triển quốc gia, một chính quyền có thể đã vô tình hay hữu ý duy trì hố ngăn cách giàu nghèo qua việc chỉ dành cho trẻ có điểm I0 cao những đặc quyền giáo dục. Mặc dù giàu có không phải là nguyên nhân của chỉ số IQ cao, nhưng các nghiên cứu cho thấy trẻ có cha mẹ giàu có và bằng cấp sẽ có điểm IQ cao hơn trẻ ở các gia đình nghèo khó và ít học. Ở 6 tuổi, độ chênh lệch là 6 điểm nhưng đến 16 tuổi thì độ chênh lệch của trẻ ở hai thành phần giàu nghèo là 18 điểm, gấp 3 lần trong 10 năm tuổi.
Scan QR CODE này để tham khảo thêm tư liệu
DẠY CON THAM NHŨNG
B
ạn có bao giờ nghe một phụ huynh mở đầu câu chuyện về thói hư tật xấu của những đứa con bằng câu này không, “Nhà có nghèo khó gì đâu, nó muốn gì tôi cũng cho, thế mà…”? Bạn có bao giờ thấy một bà mẹ trong quán ăn luôn miệng hỏi con muốn ăn gì hay gắp hết món này đến món nọ vào dĩa của con mặc dù trọng lượng đứa trẻ chắc hẳn đã trên mức trung bình? Bạn có bao giờ thấy một đứa trẻ vào tiệm chụp hết món này món nọ lên chơi rồi vứt xuống đất, đòi một món đồ chơi không rẻ tiền chút nào nhưng mua về nhà chưa đến ba ngày sau thì món đồ chơi là đã ra thùng rác? Tại sao nhỉ?
Nếu thời xưa roi vọt là “công cụ chuyên chính” để giáo dục con cái thì nay khi thu nhập bắt đầu khá hơn đối với một số gia đình, ảnh hưởng của những khái niệm giáo dục từ phương Tây được nhập cảng vội vàng ở một số gia đình khác, cũng như nỗ lực muốn bù trừ nỗi khổ bị đòn roi thời xưa của cha mẹ cho con cái ở một số gia đình nữa, việc nịnh bợ hay hối lộ con đang trở thành điều phổ biến trong xã hội. Nhiều khi cha mẹ hối lộ con cái vì trong thâm tâm họ muốn một giải pháp tức thì hay mặc cảm đã không dành thời gian nhiều cho con cái vì công việc làm ăn hay những chuyến du lịch với bạn bè. Không quá đáng khi chúng ta thấy có một số gia đình trong đó cha mẹ đã “tiến hóa” đến mức sợ con, không nói đến chuyện chúng bỏ học bỏ nhà mà nhiều khi chỉ là chuyện chúng “chau mày chẩu mỏ” với mình.
Mặc dù hối lộ con cái sẽ đem lại kết quả tức thời chẳng hạn đứa trẻ sẽ nín khóc, sẽ không la như ai đang tra tấn, sẽ há miệng nuốt miếng cơm kế tiếp, sẽ làm xong bài tập vì đã 10 giờ đêm, v.v... nhưng chúng ta đang gieo những hạt giống bất hạnh mà cả chúng ta lẫn con cái sẽ nhận vào một ngày không xa. Hối lộ trẻ sẽ tạo ra một vòng luẩn quẩn giữa việc càng tăng giá trị món đồ hối lộ, chu kỳ và mức độ của những hành vi cần ngăn chặn lại càng gia tăng.
"""