"Đầu Xanh Tuổi Trẻ - Dostoievski full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đầu Xanh Tuổi Trẻ - Dostoievski full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo ĐẦU XANH TUỔI TRẺ DOSTOIEVSKI NGUỒN SÁNG XUẤT BẢN – In lần thứ nhất 1974 – NGUYỄN HỮU HIỆU • Giới thiệu tác phẩm • Dostoievski và thế giới VŨ TRINH Phiên dịch Chụp sách, pdf, và soát lỗi Dat1952 OCR và soát lỗi Dr. No Bìa mr.black Đóng eBook amylee Cộng đồng tve-4u.org Cùng đọc, cùng chia sẻ ĐẦU XANH TUỔI TRẺ CỦA TÁC GIẢ DOSTOIEVSKI NGUYÊN TÁC NGA NGỮ, VŨ TRINH DỊCH SANG VIỆT NGỮ TỪ BẢN PHÁP VĂN TỰA LÀ L'ADOLESCENT CỦA DỊCH GIẢ PIERRE PASCAL ẤN BẢN LE LIVRE DE POCHE BÀI GIỚI THIỆU TÁC PHẨM VỚI PHẦN KHẢO LUẬN VỀ DOSTOIEVSKI VÀ THẾ GIỚI DO NGUYỄN HỮU HIỆU VIẾT GIỚI THIỆU TÁC PHẨM 1 NGÀY 8 THÁNG 7 NĂM 1871, VỢ CHỒNG DOSTOIEVSKI về đến St. Petersburg sau hơn bốn năm ở ngoại quốc. Cuối tháng bảy Dostoievski đi Mạc-tư-khoa để tính tác quyền cuốn Lũ người quỉ ám với ban giám đốc tạp chí Tín-viên Nga, khi ông trở về, gia đình dọn tới cư ngụ tại phố Serpoukhovskaia. Ông tưởng có thể tìm thấy ở đây một chút yên ổn tối thiểu để làm việc. Nhưng tháng chín năm ấy, một tờ nhật báo loan tin nhà văn Dostoievski đã trở về, thế là khách khứa và nhất là các chủ nợ ùn ùn kéo tới hành hạ đe dọa ông. Bà Anna Grigorievna phải đứng ra bảo vệ chồng. Để tránh cho ông khỏi bị cảnh những con buôn văn nghệ bóc lột như trước, bà tự xuất bản lấy những tác phẩm của ông (Chàng ngây, Lũ người quỷ ám...) Bên cạnh một ông chồng mơ mộng, bệnh hoạn, cả tin, bà Anna tỏ ra là một nhà buôn ngoại hạng, bà mới đích thực là người chèo chống gia đình. Dostoievski hơi buồn vì những chương đầu tiên của cuốn Lũ người quỷ ám đăng tải trên tờ Tín-viên Nga không được tiếp đón nồng nhiệt lắm: ông bị coi là thủ cựu, thoái trào trong khi ông nhiệt thành ưu tư về tương lai của nước Nga và Âu-châu. Tuy ông gắt gao lên án những lí thuyết gia không tưởng, những tư tưởng trừu tượng hay duy vật, duy Tây-phương – những kẻ mất gốc – vì họ làm tiêu hao tiềm lực và lệch hướng đi của dân tộc, nhưng ông không thuộc hàng ngũ những kẻ mù quáng tôn thờ quá khứ, hay bảo thủ ích kỉ muốn duy trì hiện trạng xã hội và chính trị của một nước Nga phân hóa đang hoang mang giữa ngã ba thế giới. Do đó, Dostoievski cảm thấy nhu cầu cấp thiết hòa đồng với thời đại ông, với lớp thanh niên. Ông khao khát bàn bạc, chia xẻ những quan điểm và âu lo của ông về tiền đồ dân tộc với quảng đại quần chúng. Vì thế, cuối năm 1872, khi hoàng thân V. S. Meshcherki, chủ nhiệm tờ Công-dân (Grazhdnin), một tờ báo bảo thủ và bài Âu, mời Dostoievski làm chủ biên với lương bổng đồng niên là 3000 rúp thì Dostoievski nhận lời ngay. Từ lâu ông đã mơ tưởng ra một tờ báo, lấy tên là Nhật-kí của một nhà văn (Dnevnik pisatelya) để giãi bày ý kiến của ông về những biến cố của thời đại. Đề nghị của hoàng thân Meshcherki cho ông một cơ hội thực hiện giấc mơ của ông dưới một hình thức khác. Bộ biên tập gồm những tay cực hữu như Maikov, Philippov, Strakhov, Bielov... Tờ báo tuy ít người đọc nhưng được sự bảo trợ của những cánh khuynh hữu. Với Nhật-kí của một nhà văn, Dostoievski khai sinh một thể văn mới, một thứ tạp ghi pha trộn giữa những dòng tâm sự với tranh luận chính trị, những vấn đề vĩnh cửu với những ưu tư thường nhật. Bằng một điệu tâm sự, ngẫu hứng trào theo ngòi bút, khi thì ông kể lại những kỉ niệm tuổi trẻ, về Bielinski, Herzen, Tchernychevski…, những cảm tình xưa cũ với chủ nghĩa xã hội không tưởng, khi thì trình bày những cảm nghĩ của ông nhân một cuộc triển lãm hội họa, diễn thuyết. Và cũng rất thường khi, bằng một giọng quyết liệt, ông tấn công tới tấp đối thủ, nói thẳng thừng những tư tưởng thầm kín ấp ủ trong tâm hồn, những điều mà ông chỉ có thể nói được một cách gián tiếp trong tác phẩm. Nhưng bao giờ mà chẳng vậy, được điều nọ lại mất điều kia. Nhà báo đã giết chết nhà văn. Mới đầu, Dostoievski tưởng rằng việc điều hành tờ báo cũng không đến nỗi vất vả lắm, hàng ngày ông có thể để ra chút thì giờ để viết sách. Nhưng ngay sau đó, ông biết rằng mình lầm. Tờ báo đã chiếm hết cả thì giờ của ông. Với tư cách chủ biên, ông phải tiếp các tác giả, đọc các bài gửi tới, sửa các bài chọn đăng (nhất là các bài của hoàng thân chủ nhiệm nhiều tham vọng nhưng dốt nát). Ngày 26 tháng hai 1873, Dostoievski viết thư than thở với một người bạn, sử gia Pogodine “Những ý tưởng truyện ngắn, truyện dài sinh sôi nảy nở như nấm, trong đầu tôi và chồng chất trong lòng tôi. Tôi suy nghĩ về những ý tưởng đó, ghi lại, mỗi ngày bổ túc thêm những chi tiết mới.., và lập tức tôi nhận thấy rằng thời giờ của tôi bị tờ báo chiếm hết và tôi không thể viết lách gì được nữa, tôi đâm ra hối hận và tuyệt vọng... Quả thực tôi tin rằng mình đã phạm phải một điều ngu xuẩn lớn lao khi tự cột vào tờ Công-dân.” Thêm nữa, việc cộng tác với tờ báo không phải lúc nào cũng dễ chịu cả. Mặc dầu Dostoievski đã thực hành một chính sách ngoại giao vô cùng mềm dẻo và tế nhị, những cuộc đụng chạm thường xuyên với ông hoàng chủ nhiệm cũng không thể tránh được. Rồi lại còn nha kiểm duyệt lúc nào cũng chiếu cặp mắt cú vọ vào mục Nhật-kí của ông, không ngừng gây khó dễ. Vì gia đình, Dostoievski cố gắng cầm cự tới mùa xuân năm sau thì tình cờ dịp may mò tới cùng với người bạn cũ: thi sĩ Nekrassov. Nekrassov, thi sĩ bóng lộn của những kẻ hèn mọn, khổ cực, một người bạn đồng hành tuổi trẻ rồi kẻ thù văn chương của Dostoievski. Nekrassov không những là một thi sĩ mà còn là một kẻ chuyên lăng-xê tài năng mới. Chính Nekrassov cùng với phê bình gia Bielinski ba mươi năm trước đã rầm rộ tán dương cuốn Những kẻ đáng thương, tác phẩm đầu tay của Dostoievski. Hai người không gặp lại nhau, sau nhiều năm, vì chính kiến. Lúc này Nekrassov đang cần gấp một cuốn tiểu thuyết của một nhà văn hàng đầu cho tờ Quốc-gia niên giám của ông, nên ông quyết định quên thù xưa, trở lại. Sự khẩn cầu của Nekrassov rất hấp dẫn và vuốt ve lòng tự ái: người bạn cũ, kẻ thù cũ trở lại năn nỉ xin truyện của mình với đề nghị trả 250 rúp một trang in. Điều khó nghĩ duy nhất: tờ báo của Nekrassov, tờ báo được đọc và hâm mộ nhất, là tờ báo của nhóm Cấp-tiến. Từ trước tới nay, Dostoievski chỉ cộng tác với những cơ quan ngôn luận bảo thủ. Phải chăng lần này phải đào ngũ? Kẹt nhất là trong hàng ngũ mới toàn là những kẻ cựu thù của Dostoievski. Ông sợ nhất là bị họ yêu sách ông khuất phục tuyệt đối khuynh hướng của họ. Ông viết cho vợ: “Bây giờ Nekrasson có thể ngầy ngà anh một cách dễ sợ nếu anh bầy tỏ một điều gì ngược lại xu hướng họ... Nhưng, khi chúng ta phải đi ăn xin, anh quyết sẽ không nhượng bộ một li”. Cuốn truyện hứa trao cho Nekrassov vào ngày mồng 1 tháng giêng 1875. Để có thể dấn hết mình vào tác phẩm, Dostoievski xin từ chức chủ biên tờ Công-dân. Ông thuê nguyên cả một căn nhà ở miền quê tại Staraia Russa thuộc hạt Nogorod và đưa gia đình về đó. Theo thông lệ, Dostoievski làm việc ban đêm. Ông đi ngủ vào lúc 5 giờ sáng, trở dậy hồi 11 giờ trưa, kêu các con đến kể lại cho ông nghe những chuyện linh tinh buổi sáng. Sau bữa ăn trưa, ông vào thư phòng đọc cho bà Anna chép lại những điều ông vừa viết đêm qua. 2 Ở CHƯƠNG 1, PHẦN 2 TRONG NHẬT KÍ CỦA MỘT nhà văn, tháng giêng 1876 Dostoievski ghi rằng ông đã quay sang viết cuốn Đầu xanh tuổi trẻ ngay trong khi ông đã sửa soạn để viết một cuốn tiểu thuyết nhan đề là Cha và Con, một đề tài ông ấp ủ bao lâu nay. “Nhưng nhờ trời, tôi tự chế được. Tôi chưa sẵn sàng. Thời gian đó, tôi chỉ viết Đầu xanh tuổi trẻ trong đó chứa đựng bản phác họa thứ nhất của tư tưởng tôi”. Cha và Con là kiểu mẫu đầu tiên của Anh em nhà Karamazov, tuyệt tác cuối cùng của Dostoievski. Đầu xanh tuổi trẻ cũng đề cập tới đứa con mới lớn đi tìm cha, y hệt diễn tiến của phần đầu cuốn Anh em nhà Karamazov. Về bối cảnh cũng vậy: chuyện một gia đình “mất gốc”. Dostoievski dự định viết về Đầu xanh tuổi trẻ như sau, trong Nhật kí của một nhà văn: “... một đứa trẻ đã ra khỏi tuổi thơ, và xuất đầu lộ diện giản dị như một thanh niên thiếu kinh nghiệm, rụt rè rồi kế đó liều lĩnh muốn mau mau cất bước khởi đầu trong đời. Tôi đã chọn một tâm hồn ngây thơ nhưng đã tiêm nhiễm một mầm mống hư hỏng khủng khiếp, với lòng sớm căm hờn đối với sự vô nghĩa và “ngẫu nhiên” của mình, và với sự thỏa mãn man dại mà một tâm hồn hãy còn trong trắng ấp ủ một cách ý thức tội lỗi trong tư tưởng, nuôi nấng nó trong lòng và vuốt ve tôn sùng nó trong những giấc mộng tuy thoáng qua nhưng táo bạo và man rợ – tất cả những cái đó nối kết một cách tự nhiên với sức mạnh của nó, lí trí của nó, và đúng hơn nữa, với cả Thượng-đế. Đó là những sự còi cọc sa sẩy của xã hội chúng ta, những thành phần “mất gốc” của “những gia đình mất gốc”. Arkadi Dolgoruky, chàng thanh niên, con tư sinh của lãnh chúa Versilov và một nữ nông nô. Chàng không biết cả cha lẫn mẹ từ thuở nhỏ. Cậu bé sống nội trú gần như một đứa trẻ mồ côi ở nơi nhà một người Pháp ngu dốt và tàn nhẫn, M. Touchard. Nội trú này dành riêng cho những ông hoàng con và con cái những vị nguyên lão nghị viện. Touchard đòi một phụ khoản danh dự để nhận nuôi một đứa con hoang. Bị từ chối, thế là y đổ cơn giận lên đầu tên học trò đáng thương. Y đánh đập, chế giễu và nhốt cậu bé vào phòng tối. “Chỗ của mày không phải ở đây, mà là ở đằng kia. (...) Mày không có quyền ngồi cạnh những đứa trẻ con nhà quí phái, mày chỉ là con nhà hèn hạ, một đứa đầy tớ không hơn không kém.” Arkadi không chống đối, trái lại cố gắng khuất phục địch thủ của mình bằng sự nhịn nhục vô bờ. “Ông ta đã đánh đập tôi trong gần hai tháng trời. Tôi còn nhớ trong suốt thời gian đó, tôi muốn ton hót nịnh bợ ông ta bằng mọi cách, tôi quì xuống hôn lên tay ông ta và tôi vừa hôn tay ông ta vừa khóc nức nở.” Cậu bé, ngay từ thuở thơ ấu, đã học được cá tính kì lạ khao khát tự nguyện chịu đựng sự lăng nhục một cách thụ động: “Này, anh đã làm nhục tôi, thế thì tôi sẽ tự làm nhục tôi thêm nữa. Hãy xem đây, hãy cảm phục đi.” “Ông Tútsa trước kia đánh tôi để cho thấy tôi là một thằng đầy tớ chớ không phải là con một vị nguyên lão: thế là tôi đóng vai đầy tớ ngay, không những tôi ngoan ngoãn trả quần áo lại cho ông, tôi còn tự tay lấy bàn chải và chăm chỉ phủi sạch đến hạt bụi nhỏ nhất, không cần ông yêu cầu hay ra lệnh, đôi khi quá hăng trong phận sự đầy tớ, tôi cầm bàn chải chạy theo ông để phủi vết dơ cuối cùng trên áo ông, đến nỗi đôi khi chính ông đã cản lại: “Được rồi, được rồi, Đôlgôruki; được rồi!” Mỗi khi ông ta về và cởi áo choàng, tôi liền đem ra chải, gấp lại cẩn thận và lấy một miếng lụa có kẻ ô phủ lên. Tôi biết rằng các bạn học chế nhạo và khinh bỉ tôi, tôi biết rõ như vậy nhưng chính điều ấy làm tôi thích thú: “các người muốn tôi là đầy tớ thì đây tôi là đầy tớ. Đã là đầy tớ thì phải làm đầy tớ cho trót”. Mối căm thù thụ động và niềm oán hận sâu kín đã được tôi giữ mãi nhiều năm.” (tr. 461). Chính trong cảnh cô đơn mơ mộng của những năm tháng thơ dại triền miên đó mà một “ý nghĩ” khủng khiếp thành hình trong đầu cậu bé. Nó đã chôn vùi cả cuộc sống của cậu. Trường trung học không cản được cậu mơ mộng, do đó, nó cũng không thể ngăn cản được “ý nghĩ” của cậu. Từ trước tới nay, Arkadi vẫn đứng đầu lớp, nhưng từ khi “ý nghĩ” xuất hiện, cậu bé bắt đầu học hành tồi tệ. Thế là trường trung học không cản trở được ý nghĩ, “nhưng ý nghĩ đã cản trở trường trung học. Nó còn cản trở cả trường đại học nữa” (tr. 18). Ra khỏi trường trung học, Arkadi nuôi ý định đoạn tuyệt hoàn toàn không những với toàn thể gia đình mà còn với toàn thể thế giới nữa, nếu cần. Lúc đó, Arkadi mới hai mươi tuổi. Cậu viết cho tất cả những người quen ở Petersburg, yêu cầu họ để cậu yên, đừng gửi tiền cấp dưỡng cho cậu nữa, và nếu có thể, xin mọi người hãy quên cậu đi: Một vấn đề nan giải hiện ra: hoặc là vào đại học để tiếp tục việc học, hoặc là trì hoãn việc thực hiện “ý nghĩ” thêm bốn năm nữa. Không ngần ngại, Arkadi lựa chọn “ý nghĩ” “vì tôi đã tin tưởng một cách chính xác” (tr. 18). Ý nghĩ của cậu bé là tất cả lí tưởng, tất cả lẽ sống của cậu. Ý nghĩ đó là sức mạnh bí ẩn giúp cậu bé vượt qua mọi thử thách, mọi khổ cực, nhục nhã. Ý nghĩ của Arkadi là gì? Cậu muốn thắng lướt tất cả mọi người, đập đỡ những bức tường, giày xéo lên những thành kiến, được người ta sợ hãi, kính trọng, vâng lời, như cậu đã từng sợ hãi, kính trọng, vâng lời kẻ khác. Nhưng đâu là phương tiện giúp cậu thực hiện ý định ghê gớm đó? Nói rõ hơn, Arkadi định trông cậy vào mãnh lực nào để thi hành ước muốn của mình? – Tiền. Cậu chỉ cần nhìn thoáng qua là đủ ước lượng được sức mạnh vô biên của tiền tài trong xã hội hiện kim. Kim tiền. Tiền! Phải chỉ có người có tiền mới thỏa mãn được tất cả những gì hắn ham muốn. Có tiền mua tiên cũng được. Tiền bạc, mua được cả tâm hồn lẫn thể xác. Nén bạc đâm toạc tờ giấy: Tiền bạc mua được cả luật lệ lẫn tương tâm. Ý thức được sức mạnh của đồng tiền ghê gớm như thế nên Arkadi cương quyết ôm mộng làm giầu. “Ý định của tôi là trở thành Rothschild, cũng giầu như Rothschild, không phải chỉ giầu không mà thôi mà giầu y như kiểu Rothschild.” (tr. 104) Nhưng làm giầu cách nào? Arkadi nghiên cứu cách làm ăn của mọi người xung quanh. Tất cả tìm mọi mưu thần chước quỉ để có tiền. Có kẻ bán mình như Anna Andreievna. Có kẻ ngụy tạo chi phiếu hay làm bạc giả, như Stebelkov. Có kẻ tổ chức tống tiền, như Lambert và Trichatov. Chàng thanh niên không dại dột phiêu lưu như vậy. Sự lương thiện của chàng chỉ là sự khôn ngoan. Nguyên tắc của chàng là đừng mạo hiểm. Việc làm giàu của chàng rất giản dị. “Tất cả bí quyết nằm trong hai tiếng: kiên cường và liên tục” (tr. 104). Kiên cường ở đây là kiên cường góp nhặt,“dù là góp nhặt từng xu”, cũng có thể tích tiểu thành đại. Và liên tục cũng chỉ là liên tục góp nhặt,“một lối làm giầu giản dị nhất”, và bảo đảm thành công. Tóm lại góp nhặt, góp nhặt và góp nhặt. Năng nhặt chặt bị, như người ta nói, là cách làm giàu chắc chắn và thực tế nhất. Điều đó ai cũng biết, nhưng tại sao ít người làm được? Arkadi giải thích: tại người ta chưa có ý muốn tới mức. Cóp nhặt có ý thức, với mục đích trở thành Rothschild đòi hỏi lòng ham muốn và sức mạnh ý chí mãnh liệt. “Chúng có nhiệt độ của nước đun sôi và nhiệt độ của sắt nung đỏ” (tr. 106). Đó là việc chịu đựng khổ hạnh ép xác đòi hỏi những kì công chỉ có những bậc thánh mới làm nổi, với tất cả sự chuyên chú vì đó là “một ý thức, chớ không phải là một ý định nữa!” Bí quyết làm giầu của Arkadi còn đòi hỏi thêm hai nguyên tắc bổ túc. Thứ nhất: Tiết giảm tới mức tối đa việc ăn ở, may mặc, giao dịch, hùn hợp với người khác. Thứ hai, mỗi ngày phải kiếm thêm chút ít ngoài số chi phí tối thiểu về ăn tiêu,“ngõ hầu sự cóp nhặt không bị gián đoạn ngày nào” (tr. 110). Arkadi đã làm ba cuộc thí nghiệm và đã thành công. Chàng thanh niên có đủ tư cách để bắt người ta phải học chân lí này: “những số tiền kiếm được do sự cóp nhặt liên tục và kiên cường lớn hơn những món tiền lãi năm thì mười họa, dù là lời trăm phần trăm.” Đây là tất cả bí quyết làm giầu của Arkadi. Nhưng đâu là mục đích của chàng thanh niên? Một sự ngộ nhận mà chàng muốn tránh là chàng không có muốn trả thù, không nguyền rủa oán ghét ai, cũng không do thân phận mồ côi, hờn tủi cho số kiếp con hoang của mình. Chàng tuyên bố: “Ý định của tôi chỉ là đi tìm cô liêu quạnh quẽ,” (tr. 114). Và đó là do cá tính của chàng. “Không!” Arkadi thanh minh “không phải vì tủi phận mình là đứa trẻ hoang để cho lũ bạn chế giễu tại nhà lão Touchard, không phải vì những năm thơ ấu bi thương, không phải vì hận thù, cũng không phải vì một sự phản kháng chính đáng mà tôi đã nảy sinh ra “ý định”. Chẳng qua là do cá tính của tôi.” (tr. 114). Tâm hồn chàng sớm hướng về bóng tối và cô đơn. “Hình như từ năm tôi mười hai tuổi, nghĩa là gần đến tuổi có ý thức, tôi đã bắt đầu không ưa mọi người (...) Trong những lúc thanh thản, đôi khi tôi cũng cảm thấy bực mình rằng tôi không biết nói gì cả với những người thân cận của tôi, hoặc giả nói được mà tôi chẳng muốn nói, dường như có gì cản lời tôi. Bản tính tôi vốn hoài nghi, hay gắt gỏng và thích cô đơn (...) Vâng, tôi ủ ê rầu rĩ, lúc nào cũng trầm tư. Nhiều khi tôi muốn ẩn lánh ra ngoài xã hội. Có lẽ tôi cũng hữu ích cho xã hội, nhưng tôi không thấy một lí do nào khiến tôi phải làm điều thiện cả. Thiên hạ chẳng tốt đẹp gì, hà tất mình phải bận trí về họ.” Một bác luận có thể được đặt ra ngay: nhưng người ta vẫn có thể tìm được sự cô lập mà không cần phải vật lộn vất vả để thực hiện ý định trở thành Rothschild. Rothschild ăn nhằm gì trong vụ này đâu? Arkadi trả lời ngay “Ấy là tôi muốn vừa được sống cô lập lại vừa có quyền lực.” Và đây chính là vấn đề, là niềm mơ ước thầm kín tha thiết từ tấm bé của chàng thanh niên. “Phải, chàng thú nhận, suốt đời tôi khao khát uy quyền, và sự cô quạnh. Tôi mơ ước như vậy ngay từ khi thơ ấu (...) Phải, tôi hết lòng mơ ước, thậm chí không còn có thì giờ chuyện trò.” (tr. 116). Arkadi triền miên trong trạng thái mơ ước điên khùng ấy cho đến khi chợt nảy ra “ý định”: “tức thì những mơ ước phi lí đến đâu cũng trở thành hữu lí và từ hình thức tưởng tượng biến thành hình thức thực tiễn thích đáng” (tr. 116). Uy quyền! Đó là một cái gì vô cùng quyến rũ,“đó là sức mạnh của ý định”,“Và tiền tài, Arkadi nhận định, là con đường duy nhất có thể đưa một kẻ bất tài lên hàng đầu” (tr. 117). Có thể chàng thanh niên không phải là kẻ bất tài, nhưng đôi khi soi gương, chàng thấy cái mã ngoài của mình bất lợi vì tầm thường quá. Nhưng nếu chàng có tiền thì lại khác. Hãy nghe Arkadi lí luận: “Ví thử tôi giầu có như Rothschild xem! Nào ai chán bộ mặt của tôi? Tôi chỉ huýt sáo cũng khối ả mĩ miều bu tới. Nói thật tôi còn tin chắc rằng các ả sẽ còn cho là tôi bảnh trai, tài hoa nữa. Có điều nếu tôi ngu đần mà họ tâng tôi lên bậc thông thái, thì chết tôi! Tuy nhiên, nếu tôi là Rothschild thì bậc thông thái kia còn chút giá trị nào bên cạnh tôi nhỉ? Người ta còn không để cho bậc thông thái mở miệng là khác. Có thể tôi là người tài trí. Nhưng đặt cạnh những Talleyrand, Piron, thì tôi bị lu mờ. Nhưng nếu tôi là Rothschild những nhân vật như Piron và cả như Talleyrand sẽ đứng địa vị nào? Tiền tài hẳn là một quyền lực bạo ngược, nhưng đồng thời cũng là một bình quyền tối thượng. Đó chính là mãnh lực lớn lao của tiền tài. Nó sang bằng mọi bất bình đẳng. Đấy, tôi đã quả quyết như vậy, ngay từ khi còn ở Mạc-tư-khoa.” (tr. 117). Song không phải tiền tài cũng không phải quyền lực là điều chàng thanh niên cần. Tiền tài hay quyền lực chỉ là phương tiện chứ không phải cứu cánh. “Tôi chỉ cần những gì mà thế lực và chỉ có thế lực mới tạo ra được.” Đó là: “Ý thức, bình tĩnh và cô độc, về sức mạnh của mình!” Nhưng đấy là tự do, định nghĩa hoàn hảo nhất về tự do, vì nó mà thế giới đã bao lần chiến tranh và nhân danh nó mà thế giới còn tranh chấp liên miên không bao giờ dứt. “Tự do! tôi đã diễn tả được danh từ lớn ấy... Đúng thế, còn gì cao đẹp và hấp dẫn bằng khi tự mình đơn độc ý thức được sức mạnh của mình. Tôi có sức mạnh và tôi bình tĩnh.” (tr. 117). Như tất cả những kiệt tác khác của Dostoievski, Đầu xanh tuổi trẻ là một câu chuyện tranh đấu giành tự do. Raskolnikov giết người để chứng tỏ tự do tối thượng của mình, Chàng ngây tìm thấy tự do trong điên cuồng, Lũ người quỉ ám chinh phục tự do qua cách mạng. Chàng thanh niên muốn mua tự do bằng tiền bạc. Tiền bạc là một bảo đảm chắc chắn nhất về sức mạnh và tự do. Giống như Raskolnikov không cần tiền trộm cướp được, Arkadi Dolgoruki cũng không cần tiền kiếm được. Cả hai tranh đấu chỉ để thủ đắc “ý thức bình tĩnh và cô độc về sức mạnh của mình”. Nếu có uy quyền, Arkadi cũng sẽ không cần đến nó nữa. “Lúc ấy tôi sẽ vui lòng ngồi hạng chót ở bất cứ đâu. Nếu là Rothschild tôi sẽ khoác áo choàng xơ xác, cầm dù dạo chơi (...) Ý thức được mình là Rothschild là đủ cho tôi vui thích trong lúc ấy rồi.” Tóm lại: …Tôi chỉ cần có ý thức ấy. Nhưng tiếc thay con người không phải là một ý thức đơn độc, một ý chí tự do và cuộc đời không phải là một bài toán. Tất cả liên đới chằng chịt với nhau và tất cả là huyền bí. Ý thức tự khẳng định mình sẽ đưa tới điên loạn và kẻ càng trèo cao càng ngã đau vì chính trọng lực, nhân tính của mình. Cũng giống như Raskolnikov, trong cuộc đi lên đời sống siêu nhân bỗng nhận thấy mình chỉ là một “con sâu bọ như những kẻ khác”, cũng vậy Arkadi bỗng bị khựng lại bởi những tình cảm trần gian tầm thường của mình. Không phải là một ý tưởng khác đã chiến thắng Raskolnikov và Arkadi mà chính là cuộc đời, là nhân tính trong họ. Đó là sự thất bại nhưng cũng chính là con đường cứu chuộc của họ. Có hai giai thoại xảy ra, từ đó chàng thanh niên không còn vương vấn gì về “ý định” của mình nữa. Giai thoại thứ nhất: Vào một ngày hè tháng bảy, Arkadi gặp một sinh viên say sưa vô tích sự; hai người làm quen nhau và hẹn nhau đi dạo phố. Gặp thiếu nữ đứng đắn nào đi một mình là hai chàng xáp lại, mỗi người đi kèm một bên và thản nhiên mang chuyện tục tĩu ra nói. Sau đó, chàng thanh niên cảm thấy vô cùng xấu hổ và nhục nhã, không hiểu tại sao mình lại có thể thấp hèn như thế. Dần dần chàng mới hiểu ra: một khi đã có một cái gì cố định, mãnh liệt, thường xuyên ám ảnh tâm trí, người ta để xa lánh mọi người. “Và người ta sẽ hời hợt với mọi chuyện xẩy tới”. Ngay cả những cảm giác cũng mông lung, hỗn loạn và đúng đắn nữa. Tệ hơn thế, con người ta bao giờ cũng có sẵn một cái cớ để tự bào chữa những sự hư hỏng lầm lạc của mình. Ý định che khuất mọi thực tại. Giai thoại thứ hai: Người ta tìm thấy trước cửa nhà trọ của Arkadi một đứa trẻ bị bỏ rơi. Vợ chồng chủ nhà lúng túng, khó chịu, định gửi ngay đứa bé vào sở cứu tế xã hội. Chàng thanh niên bất nhẫn đứng ra chịu trách nhiệm nuôi đứa nhỏ. Ít ngày sau Arina, đứa nhỏ, chết. Việc nuôi nấng, chôn cất Arina tuy chẳng làm Arkadi tốn kém bao nhiêu, nhưng làm chàng phải suy nghĩ, như chuyện đáng tiếc với chàng sinh viên thô tục trước đó. Câu chuyện về anh chàng sinh viên đã chứng minh rằng “ý định” có thể khiến cho cảm giác rối loạn và đưa người ta đi xa thực tế của cuộc đời. Với chuyện của Arina thì lại ngược lại: không một “ý tưởng” nào đủ mạnh đến độ có thể làm người ta say mê (...) đến độ chai đá trước một cảnh tượng não lòng và cũng không ngăn được người ta hi sinh ngay tất cả những gì đã làm trong nhiều năm gian khổ để thực hiện “ý tưởng”. Cả hai kết luận đó đều đúng. Đúng hơn, cuộc sống đích thực đáng giá và mạnh hơn mọi lí luận. 3 Đầu xanh tuổi trẻ là một tác phẩm ít được đọc nhất trong năm kiệt tác của Dostoievski. Bố cục rối bời, hỗn loạn như chính chủ đề của cuốn truyện. Hình như trước khi tập trung hết tinh thần vào việc sáng tác tuyệt phẩm Anh em nhà Karamazov, tác giả muốn trút hết tất cả những ý tưởng, tài liệu ghi chú trong bao nhiêu năm vào cuốn truyện này. Chính Dostoievski cũng tuyệt vọng thú nhận có ít nhất bốn cuốn sách trong đó. Tuy nhiên, nếu Đầu xanh tuổi trẻ không phải là tác phẩm lớn nhất của Dostoievski thì ít nhất qua truyện này ông cũng đòi thành công trong việc tạo ra một trong những nhân vật lớn nhất của ông, bên cạnh Kirilov, Ivan Karamazov, Stavrogin...; nhân vật Versilov, một nhân vật bí ẩn đối với độc giả cũng như đối với tác giả và những nhân vật khác trong truyện vậy. Versilov là một địa chủ, một lãnh chúa, đã làm tiêu tán ba sản nghiệp trong những cuộc dong chơi. Versilov là một nhà quí tộc không giai cấp, một nhà tri thức không sở nguyện, một kẻ tìm kiếm không hi vọng. Ông ta đã chu du phần lớn cuộc đời ở Âu-châu. Cuộc sống tự do, hỗn loạn biến ông ta thành một kẻ “bất hợp lệ”. Ông ta muốn đứng bên lề mọi chuyện nhưng lại bị vướng mắc vào những cuộc tranh tụng liên miên. Thảm kịch của ông ta là tình yêu nhị trùng. Versilov yêu mẹ Arkadi, – Sofia – một nữ nông nô cũ của ông, vợ cũ của Markar Arkadi với tình bạn và Katerina Akhmokova với tình yêu nhục cảm. Tình yêu của ông không lối thoát. Ông không bao giờ biết sự huyền bí của kết hợp vì cả sự thương hại lẫn nhục cảm đều không đưa tới hòa điệu. Tình yêu, trước hết là sự tự hiến dâng mình. Tình yêu đích thực phải căn cứ trên nhân cách. Tình yêu – thương hại phủ nhận nhân cách người khác, vì nó giả thiết một cấp bậc. Tình yêu nhục cảm xóa hẳn đối tượng vì nó bắt nguồn từ một sự vị kỉ tuyệt đối. Trường hợp thứ nhất đưa tới chán nản, trường hợp thứ hai tới dâm đãng. Cả hai trường hợp đều đưa tới cô độc. Trong sự cô độc ngoài ý muốn đó, con người hư mất vì sự phân hóa. Versilov than: “Tâm hồn tôi ngập lời nhưng tôi không biết ăn nói làm sao. Dường như tôi bị chia xẻ ra làm đôi... Phải, quả thực tôi bị chia xẻ làm đôi và tôi thực sự sợ hãi điều đó.” Versilov tự nhận là một triết nhân theo tự nhiên thần giáo. Trong lúc tâm tình hoang mang, ông trở lại đặt niềm tin vào tình yêu nhân loại, một tình yêu vô thần cảm động giữa những kẻ không còn tin vào vĩnh cửu mà Ivan Karamazov sẽ phác vẽ lại trước phút điên loạn. Có lẽ đó cũng chính là tình yêu mà Dotoievski mơ tưởng vào thời ông còn tin vào chủ nghĩa xã hội đại đồng, và rất có thể đôi lúc ông còn bị cám dỗ tình yêu nảy sinh khi nhân loại ngừng tranh chấp nhau và ý thức được thân phận hữu tử của mình. – “Bạn ạ,” ông bắt đầu với một nụ cười suy tư, “ba tưởng tượng bây giờ, cuộc đấu tranh đã chấm dứt và chiến tranh đã lắng dịu. Sau những lời nguyền rủa, những đống bùn được ném ra, và những hồi còi, tình hình tạm yên, con người trở thành cô độc như họ mong muốn: tư tưởng vĩ đại trước kia đã từ bỏ họ; nguồn sinh lực lớn lao đã nuôi dưỡng và sưởi ấm họ giờ đã rút đi, như mặt trời uy nghi quyến rũ trong bức tranh của Claude Lorrain, nhưng bây giờ là ngày cuối cùng của nhân loại. Và bỗng nhiên con người hiểu rằng họ hoàn toàn cô độc, họ cảm thấy bị bỏ rơi như đứa trẻ mồ côi. Con ơi, không bao giờ ba có thể nghĩ con người bạc bẽo và ngu si. Những con người trở thành côi cút sẽ xích lại gần nhau, gắn bó hơn, thân ái hơn; họ sẽ nắm tay nhau vì từ nay họ hiểu rằng họ là tất cả cho nhau. Lúc ấy, tư tưởng vĩ đại về sự bất diệt sẽ tan biến và cần được thay thế; tất cả tình yêu vô biên đối với đấng bất diệt sẽ hướng về tạo vật, thế giới, nhân loại, cỏ cây. Họ sẽ say mê cuồng nhiệt quả đất với cuộc sống, và trong chừng mực họ dần dần ý thức tình trạng tạm thời và chung cuộc của họ, họ sẽ cảm thấy một tình yêu đặc biệt, khác hẳn trước kia. Họ sẽ chú ý và phát giác trong tạo vật các hiện tượng và các bí quyết bất ngờ, bởi vì họ sẽ nhìn với một nhãn quan mới, nhãn quan của một người nhìn người yêu. Họ sẽ thức tỉnh và sẽ vội vã hôn nhau, hối hả yêu nhau bởi vì họ biết cuộc đời của họ là phù du và họ chỉ còn có bấy nhiêu. Họ sẽ làm việc cho nhau, mỗi người sẽ cho tất cả cho mọi người và do đó sẽ sung sướng. Mỗi đứa trẻ sẽ biết và cảm thấy rằng mỗi người lớn trên quả đất này là một người cha và một người mẹ của nó. Mọi người sẽ nhìn mặt trời lặn, tự bảo “Ước gì ngày mai là ngày cuối cùng của đời ta; ta sẽ chết, nhưng cần gì, tất cả mọi người sẽ còn lại, rồi con cháu họ cũng sẽ còn lại” – ý nghĩ thiên hạ sẽ còn lại, tiếp tục yêu nhau và âu lo cho nhau, thay thế ý nghĩ sẽ gặp nhau ở bên kia thế giới. Ồ, họ sẽ vội vã yêu nhau biết bao, để xoa dịu nỗi sầu bao la trong lòng họ. Họ sẽ kiêu ngạo và gan dạ đối với bản thân họ, nhưng rụt rè đối với kẻ khác; mỗi người sẽ lo sợ cho cuộc sống và hạnh phúc của người khác. Họ sẽ trìu mến nhau, và sẽ không hổ thẹn như bây giờ, họ sẽ vuốt ve nhau như những đứa trẻ. Gặp nhau, họ sẽ nhìn nhau bằng ánh mắt sâu xa và đầy thông cảm, chứa chan tình yêu và sầu muộn. Tình yêu trên của Versilov là một ảo tưởng, dễ vỡ, dễ tàn phai. Tình yêu đích thực phải là sự khẳng định vĩnh cửu. Versilov và Arkadi là những kẻ mất gốc. Mất gốc theo nghĩa họ bị cắt lìa khỏi đất nước và những thực tại sinh động thường nhật. Mất gốc theo nghĩa cuộc sống đích thực của họ vắng mặt. Versilov trông vời quá khứ, Arkadi mộng tưởng tương lai. Họ không thấy ở đây và bây giờ. Ngược lại với cặp Versilov – Arkadi, ta có cặp Makar Ivanovich và Sofia, Makar là một cựu nông nô. Ông lấy Sofia, mẹ của Arkadi, theo lời di chúc của cha nàng, bạn ông, lúc ông đã năm mươi tuổi. Khi Versilov về thăm trang trại, ông ta thấy và ưa thích Sofia. Makar từ bỏ vợ lên đường lang thang khắp nước Nga. Makar cũng là một kẻ đi chu du như Versilov, nhưng ông đi với một đức tin. Thỉnh thoảng Makar tạt về thăm vợ cũ. Lần cuối cùng ông trở về và chết tại nhà Versilov. Sự hiện diện dịu dàng của Makar Ivanovich trong những ngày cuối cùng là những trang sâu thẳm và nhẹ nhàng nhất của tác phẩm. Makar là một cựu giáo đồ. Đức tin của ông là đức tin bình dân của dân tộc Nga. Ông tin rằng “tất cả đều là huyền bí, huyền bí của Thượng-đế cùng khắp. Trong mỗi thân cây, mỗi cọng cỏ, đều chứa đựng huyền bí”, vì “tất cả đều do Thượng đế trao gửi cho con người, không phải tự nhiên mà Thượng-đế đã cho người mạch sống: “ngươi hãy sống và biết”. Nếu tất cả đều huyền bí và đến từ Thượng-đế thì bổn phận đầu tiên của con người là phải biết chấp nhận. Chấp nhận sinh tử, chấp nhận tội lỗi, khổ đau, bệnh tật, tai ương một cách an nhiên. Phải biết yêu đời và kính trọng cuộc đời: “Vâng, ông Makar nói, tiếp đón tử thần bằng lời rên xiết hay nỗi bất bình là một tội lỗi lớn. Dù vậy, nếu yêu đời vì thấy tinh thần sảng khoái, thiết tưởng Thượng đế cũng tha thứ; ngay cả đối với một người già. Con người thật khó biết điều gì là tội lỗi, điều gì không phải tội lỗi; đó là điều quá sức hiểu biết của con người. Một người già phải luôn luôn an phận, phải biết chết trong ánh sáng huy hoàng của trí tuệ một cách sung sướng và đẹp đẽ tràn đầy ngày tháng, sau giờ cuối cùng, vui vẻ ra đi như một bông lúa mơ về bó lúa, sau khi hoàn tất lẽ huyền bí.” Trong ánh sáng khởi ngộ đó: cuộc đời thật đẹp và thật đáng sống. Con người hãy yêu đời và chúc lành cho cuộc đời: “...ngọn cỏ đang mọc, hãy mọc đi, ngọn cỏ của Chúa! Con chim non đang hót – hãy hót đi, chim non của Chúa! Đứa bé ríu rít trong vòng tay mẹ, bé ơi, Chúa sẽ bảo vệ cho, hãy lớn lên và hãy sung sướng!” Arkadi dần dần bị lôi cuốn về phía ông Makar như bởi một từ lực huyền bí. Chàng thanh niên ghi nhận “điều hấp dẫn nơi ông là tính tình vô cùng chân chất và hoàn toàn không tự ái;” người ta linh cảm ông có một trái tim hầu như vô tội. “Lòng ông biết “hân hoan” và do đó biết “thiện mĩ” (tr. 528) không biết vô tình hay thấu suốt cõi lòng u uẩn và mối ưu tư, đúng hơn,“ý định” của Arkadi mà Makar nói với chàng thanh niên: “...không phải chỉ có thức ăn, quần áo, quí giá, sự kiêu hãnh hay lòng đố kị đem lại hạnh phúc, mà là tình thương nhân loại vô cùng tận. Cậu sẽ thủ đắc, không phải một tài sản nhỏ, không phải một trăm ngàn, không phải một triệu, mà cả vũ trụ. Hiện nay chúng ta thu vào không biết chán và vung phí một cách điên cuồng: nhưng lúc bấy giờ sẽ không còn trẻ mồ côi, không còn người nghèo, bởi lẽ tất cả là của tôi, tất cả là bà con thân thuộc của tôi, tôi đã thủ đắc, tôi đã mua đến người cuối cùng! Hiện nay không thiếu gì kẻ giàu có và quyền quí thờ ơ với tháng ngày của họ và chính họ không biết phải bày ra cuộc vui gì nữa; nhưng lúc bấy giờ ngày giờ của cậu sẽ nhân lên một ngàn lần, bởi lẽ cậu không muốn mất một phút nhỏ nào và cậu sẽ nhận thức mỗi phút trong nỗi hân hoan của lòng cậu. Cậu sẽ trở lên hiền đức không phải chỉ nhờ sách vở, bởi vì cậu đã đối diện với Thượng-đế; địa cầu sẽ ngời sáng hơn mặt trời, ưu phiền, sầu muộn không còn nữa, mà chỉ có một thiên đàng duy nhất, vô giá…” (tr. 534) Dưới ảnh hưởng kì diệu của Makar, lí tưởng của Arkadi bắt đầu chuyển biến. Chàng thanh niên tự nhủ: “hết rồi, từ giờ phút này, tôi đi tìm điều thiện mĩ” (tr. 500) Có lẽ chính “thiện mĩ” mới đúng là lí tưởng của Arkadi. Cuộc hạnh ngộ với Makar đã làm sáng tỏ lí tưởng ẩn kín đó. “Suốt đời tôi, tôi vẫn thắc mắc về danh từ ấy, tuy vậy trước kia tôi không biết gì. Tôi cho sự trùng hợp này là định mệnh, gần như kì diệu...” (tr. 522) Một khó khăn duy nhất làm sao dung hòa giữa lí tưởng thiện mĩ và những ước vọng trần gian của tuổi trẻ, giữa những gì cao quí nhất với những gì đê tiện nhất. “Quả là lòng khao khát thiện mĩ lên đến cực điểm, nhưng làm thế nào hòa lẫn với những khát vọng khác, và những khát vọng này là gì, đó là một điều bí mật đối với tôi. Điều ấy vẫn luôn luôn bí mật, và đã ngàn lần tôi ngạc nhiên vì con người (và có lẽ nhất là người Nga) có thể ôm ấp trong lòng những gì cao quý nhất bên cạnh những gì đốn mạt nhất một cách vô cùng trung thực. Phải chăng trí óc rộng rãi ấy sẽ đưa người Nga đi xa, hay chỉ là đê tiện, đó là vấn đề!” (tr. 526). Tuy thế, có điều chắc chắn là Arkadi đã trở nên chín chắn, vững vàng hơn và “không còn run sợ trước tương lai, mà như một người giàu có, tôi vững tin ở tài năng và lực lượng của mình.” (tr 527) Bởi thế thiên hồi kí chấm dứt với một viễn tượng mới mở ra bao la: tất cả những thác loạn của tuổi trẻ đều được biện minh vì có thể những thác loạn ấy bắt nguồn từ lòng khát khao trật tự và thiện mĩ thầm kín. “Có thể chính những nhiệt tình điên cuồng quá sớm ấy chứa đựng nỗi khát vọng trật tự và sự tìm tòi chân lí.” (tr. 762) Tất cả đều được tha thứ, vì là tuổi trẻ. “Tuổi trẻ là thuần khiết, chỉ vì là tuổi trẻ” Cuối cùng, cả đến Versilov cũng thay đổi sau cái chết của Makar. Ông không còn thỏa mãn với những tư tưởng sách vở trừu tượng nữa. Trái lại, Versilov nhận định rằng: “một người siêu việt và trí thức quay lưng lại cuộc sống hàng ngày sẽ trở thành lố bịch, bất thường và lạnh lùng và (...) có thể nói là khờ dại” (tr. 649) nên ông đã nêu “bổn phận lo lắng đến đời sống thực tế và đem lại hạnh phúc thực sự ít nhất cho một người” lên thành giáo điều cho mọi người trí thức y như “một đạo luật hay một nghĩa vụ cho mọi công dân, trong đời mình, phải trồng một thứ cây vì lẽ nước Nga bị nạn phá rừng”. Có lẽ, một cây quá ít,“phải ra lệnh trồng mỗi năm một cây”. 4 Tác phẩm Đầu xanh tuổi trẻ được đón nhận với những phản ứng trái ngược nhau. Nekrasov, theo lời Dostoievski thuật lại, đã đọc cuốn sách trong một đêm: “Điều mà tuổi tác và sức khỏe tôi không cho phép!... Tác phẩm của anh tươi mát xiết bao! Một sự tươi mát như vậy ở tuổi anh là điều họa hiếm, và không thể có nơi bất cứ một nhà văn nào khác. Trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông, Tolstoi nhắc lại hầu hết những gì tôi đã đọc ông ta trước kia, có điều, trước kia hay hơn mà thôi!...” Ngược lại Tourgeniev, kẻ thù bất cộng đái thiên của Dostoievski, lại tâm sự trái ngược lại với Salkykov: “Tôi đã liếc qua cái đống lộn xộn đó. Trời ơi thật là một tập nháp chua gắt khó chịu, một mùi hôi thối bệnh hoạn, một câu chuyện bá láp đông dài vô ích, một sự thỏa mãn tâm lí quê kệch xiết bao!” Sự thực ở giữa hai thái cực đó. Có nhiều đoạn thật luộm thuộm, xô bồ, nhưng cũng có nhiều đoạn thật tuyệt mĩ, xúc động. Một trong những đoạn diễm lệ nhất là chương 9 đoạn tả Arkadi, giữa những âm mưu chống lại cả thế giới thù nghịch, bỏ chạy thục mạng giữa đêm tối, định trèo qua một bức tường cao, nhưng ngã đập đầu xuống đất. Chàng rét run, yếu đuối, bò vào một góc tường và thiếp đi. Đột nhiên có tiếng chuông sâu thẳm và nặng nề vang lên. Tiếng chuông nhắc nhở chàng nhớ tới tiếng chuông quen thuộc của một nhà thờ cổ kính gần trường học cũ, nơi cậu bé bị gia đình gửi vào nội trú, nơi cậu bị ông thầy trưởng giả khắc nghiệt sỉ nhục, lưu ý thân phận tôi đòi của cậu. Rồi tiếng chuông nhắc nhở chàng tới buổi thăm viếng đột ngột của bà mẹ hiền dịu nhút nhát tội nghiệp bao nhiêu năm trước tại trường nội trú. Bà sợ hãi, lúng túng không nói lên lời trước vợ chồng ông thầy hợm hĩnh, kiêu kì. Với đôi mắt đẫm lệ, bà cúi rạp người chào vợ chồng chủ nhà, chào từng người một,“như hạng thứ dân khi đến thỉnh cầu điều gì với các ông lớn”. Bà mang cho con một món quà nhỏ, rẻ tiền mà cậu bé thay vì cảm động nhận lãnh lại chỉ làm cậu tức giận thêm vì xấu hổ với bạn bè và vợ chồng ông thầy. Hai mẹ con líu díu dắt nhau ra cổng, bà mẹ làm dấu thánh và hấp tấp dúi vào tay con chiếc khăn có gói chặt những đồng xu cuối cùng của bà. Rồi thình lình, trước khi ra về, bà cúi xuống chào con y như bà đã chào vợ chồng ông Touchard, rất chậm và rất lâu, như thể bà tuyệt vọng ý thức được tội lỗi của mình với con và kính cẩn cúi xuống trước nỗi đắng cay nhục nhằn của nó. Cậu bé rung động cả người, tuy không hiểu tại sao, và chúng ta cũng rung động cả người bởi cảm thức bén nhậy và tế nhị của Dostoievski về cuộc đời. Đó là thái độ con người cần có trước nhau, đó là sự kính cẩn người ta phải có khi nghiêng xuống lòng đời, đối diện nỗi thống khổ khôn nguôi của kiếp sống. Thái độ kính cẩn khiêm tốn đó khơi mở những mạch nguồn an ủi phong kín trong hồn như tiếng gió trầm hút than dài lúc nửa khuya làm dịu vợi đi những thao thức cuối đêm. Ngày sẽ sáng và chúng ta sẽ còn thấy mặt trời, thấy mặt nhau. 5 NHỮNG DÒNG SAU ĐÂY, TÔI VIẾT VỚI TƯ CÁCH một người đọc. Lúc tuổi xấp xỉ Arkadi, tôi đã đọc Đầu xanh tuổi trẻ với tâm trạng chàng thanh niên, cũng với những mê cuồng điên đảo, những lí tưởng thiện mĩ nồng nàn, những khát vọng trần gian say đắm đó. Mười mấy năm sau, tôi đọc lại truyện này với tâm trạng của Versilov, với niềm ăn năn của người cha thiếu bổn phận với con, với sự khắc khoải của một người trí thức bất lực không cắm rễ được vào đời sống thực tế thường nhật, với sự âu lo của một nhà tư tưởng muốn hi sinh cả lí tưởng tình yêu đại đồng để làm tròn nhiệm vụ mang lại hạnh phúc bình thường ít nhất cho một người. Bây giờ sự chú tâm của tôi dồn vào Makar - Sofia: những kẻ khiêm tốn, dịu dàng và đầy đức tin. Làm thế nào dung hòa lòng khao khát thiện mĩ với những khát vọng khác? Tại sao con người có ấp ủ trong lòng những gì cao quí nhất bên cạnh những gì đê hạ nhất một cách vô cùng khắng khít như nhau? Vấn đề của Arkadi, với thời gian, không còn là vấn đề nữa, nhưng nó vẫn là nỗi khắc khoải của tuổi trẻ. Chúng ta hãy đọc câu mở đầu của một trong những Áo nghĩa thư (Upanishads) cổ xưa nhất. “Tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ này đều được Thượng-đế bao bọc”. Rõ hơn nữa, tất cả những gì tồn tại đều chính là Thượng-đế. Toàn thể thế giới này tràn ngập Ngài. Thượng-đế có mặt ở khắp nơi, trong mọi sự vật. Trong sự sống và sự chết, trong đau khổ và hạnh phúc, trong thiện và ác, đẹp và xấu. Chúng ta hãy nghe lời giảng của Vivekananda: “Tất cả đều thuộc về Thượng-đế. Thượng-đế ở trong sự giầu sang mà bạn hưởng thụ. Ngài ở trong dục vọng hiện lên tinh thần bạn. Ngài ở trong những vật bạn mua để thỏa mãn dục vọng. Ngài ở trong bộ đồ đẹp đẽ của bạn, ở trong những trang sức mĩ miều của bạn.” Thế thì, chúng ta còn lí do gì để sợ hãi dục vọng nữa? “Hãy ham muốn để sống một trăm năm, hãy có tất cả ham muốn thế tục nếu bạn thích, có điều bạn phải Thượng-đế hóa chúng, biến đổi chúng thành thiên đàng,” Vivekananda tiếp. Tóm lại “Hãy có tất cả những gì bạn muốn có và có nhiều hơn nữa. Có điều bạn hãy biết chân lí và thực hiện nó.” Chân lí đó là: “OM TAT SAT, TÔI LÀ NGÀI”. Không có ai ngoài tôi là Thượng-đế. Tôi là Tồn-tại, Tri-thức và Chân-phúc. Trải qua đời đời kiếp kiếp tôi bất biến chẳng đổi thay. Tôi yên tĩnh, huy hoàng và hữu hiệu. Và thực hiện chân lí bằng cách làm việc. Làm việc không ngừng, duy trì đời sống như một vật đã được Thượng-đế hóa, như nó chính là Thượng-đế và nhận chân rằng đó là tất cả những gì chúng ta phải làm. Và tuổi trẻ là tặng phẩm vô giá: bước khởi đầu để thực hiện tất cả những gì đáng mơ ước. Mau với chứ, vội vàng lên với chứ. Trì hoãn đồng nghĩa với bất tài, bất lực và bất hạnh. NGUYỄN HỮU HIỆU Saigon ngày 10-5-1974 PHẦN THỨ NHẤT CHƯƠNG MỘT 1 KHÔNG thể nhịn được nữa, tôi bắt đầu viết lại câu chuyện của những bước đầu trong đường đời của tôi. Lẽ ra, tôi không làm việc đó cũng được. Nhưng có một điều chắc chắn là tôi sẽ chẳng bao giờ viết lại tiểu sử của tôi nữa, dù tôi có sống đến trăm tuổi. Phải say mê con người của mình một cách hèn hạ lắm mới có thể nói tới mình mà không hổ thẹn. Lí do duy nhất tôi có thể viện ra để bào chữa cho mình ấy là động cơ thúc đẩy tôi viết không giống như trăm ngàn người khác, họ viết để được những lời tán tụng của độc giả. Vì một nhu cầu nội tại nên bỗng nhiên tôi nảy ra ý kiến ghi chép từng chữ một tất cả những gì đã xảy ra cho tôi kể từ năm ngoái. Tôi đã quá kinh ngạc trước những việc đã xảy ra! Tôi chỉ ghi chép lại những sự việc mà cố tránh bằng đủ mọi cách những gì xa lạ với chúng, và cố tránh nhất là những xảo thuật văn chương; một nhà văn có thể viết suốt ba chục năm trường mà rốt cuộc chẳng hiểu vì sao ông ta lại có thể viết trong nhiều năm đến thế. Tôi chẳng phải là văn sĩ mà cũng chẳng muốn là văn sĩ. Đem lôi phần thầm kín của tâm hồn và mô tả đẹp đẽ những tình cảm của tôi ra bầy trên thị trường chữ nghĩa của văn đàn, họ, theo tôi, hẳn là một việc sỗ sàng và tồi bại. Tuy nhiên tôi cũng thấy trước một cách không phải không khó chịu, rằng có lẽ khó tránh được một cách triệt để những sự miêu tả tình cảm và những sự suy tư (có thể rất tầm thường nữa): bởi lẽ bất cứ công việc văn chương nào, dù chỉ thực hiện cho chính mình thôi, cũng khiến người ta nản lòng! Và những suy tư ấy có thể rất thô lỗ, vì những gì mình phải, chính mình ưa thích rất có thể lại chẳng có chút giá trị gì đối với người khác. Nhưng tất cả những điều trên kia đều nên coi là một câu nói ngoài đề. Ấy thế là lời nói đầu của tôi đã viết xong: sẽ chẳng bao giờ còn có gì tương tự thế nữa. Ta hãy bắt tay vào việc! Dẫu rằng chẳng còn gì khó khăn hơn là khởi công sáng tác một cuốn sách, và có lẽ ngay cả bắt tay vào bất cứ việc nào nói chung. 2 TÔI khởi sự, nghĩa là tôi có ý định khởi sự thiên hồi kí của tôi vào ngày 19 tháng chín năm ngoái, nghĩa là vừa đúng vào cái ngày mà lần đầu tiên tôi đã gặp... Nhưng giải thích trước, một cách vu vơ như thế, là tôi đã gặp ai, trong khi chẳng ai hiểu gì hết, thì thật là quá thô lỗ kì cục; theo tôi ngay cả giọng điệu kì cục đó cũng đã thô lỗ rồi: sau khi thề sẽ tránh những cái trang trí văn hoa, ấy thế mà tôi lại phạm đúng cái lỗi đó ngay từ dòng thứ nhất. Gia dĩ, muốn sáng tác một cách hợp lí, chỉ muốn không thôi cũng chưa đủ. Tôi cũng xin lưu ý là không có một thứ ngôn ngữ Âu-châu nào, theo tôi biết, lại khó viết cho bằng tiếng Nga. Tôi vừa đọc lại những đoạn văn tôi vừa viết xong, và tôi thấy rằng tôi thông minh hơn nhiều so với những gì tôi đã viết đó. Vậy thì làm sao lại những điều thốt ra từ một con người thông minh lại ngu xuẩn bội phần, so với những gì còn lại trong trí não người đó được? Hơn một lần, tôi đã để ý thấy điều đó ở bản thân tôi và trong những cuộc mạn đàm với các người khác trong suốt cả cái năm ngoái định mệnh đó, và tôi đã cảm thấy ái ngại nhiều vì thế. Tuy rằng tôi khởi kể câu chuyện vào ngày 19 tháng chín, nhưng tôi cũng sẽ giới thiệu vắn tắt tôi là người thế nào, trước ngày đó tôi ở đâu và do đó những điều mà tôi có thể cảm nghĩ ít ra là một phần nào các điều cảm nghĩ nói trên vào buổi sáng hôm 19 tháng chín đó, ngõ hầu độc giả, và có lẽ cả tôi nữa, có thể hiểu được dễ dàng. 3 TÔI là một học sinh trung học và giờ đây tôi đã được hai mươi mốt tuổi đời. Tên tôi là Đôlgôruki và cha chính thức của tôi là Maka Đôlgôruki một cựu trang nô của lãnh chúa Vécsilốp Đôlgôruki. Vậy tôi là con trai chính thức, dù thực ra hết sức không chính thức, và dù rằng chẳng chút hoài nghi nào về nguồn gốc của tôi cả. Sự thật như thế này: hai mươi hai năm về trước, nhà điền chủ Vécsilốp (chính ông mới là cha tôi), hồi đó mới hai mươi lăm tuổi, đến thăm trang trại của ông thuộc tỉnh Tula. Chắc hồi đó ông là một người không có gì đặc biệt. Thật là kì lạ: Một người như ông, mà ngay từ hồi tôi còn ấu thơ, đã khiến tôi phải đặc biệt lưu ý, đã ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự trưởng thành của tâm hồn tôi và đã thâm nhiễm, có lẽ trong một thời gian khá lâu đài, cả tương lai của tôi, mà giờ đây và trên rất nhiều phương diện vẫn còn là cả một bí ẩn đối với tôi. Nhưng chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau, vì rằng kể lại cả câu chuyện cũng không phải là dễ. Nhưng dẫu sao thì cuốn tập của tôi cũng đầy hình ảnh con người ấy. Hồi đó mới hai mươi lăm tuổi, ông đã góa vợ. Bà vợ thuộc dòng dõi thượng lưu, con gái họ Fanariôtôva nhưng cũng chẳng lấy gì làm giàu có lắm. Bà hạ sanh được một trai, một gái. Những điều tôi được biết về người đàn bà chết quá sớm này cũng khá thiếu sót và đã tản mạn vào trong đống tài liệu của tôi: và lại có nhiều giai đoạn trong cuộc đời của Vécsilốp mà tôi không biết, ngoại trừ đối với tôi ông ta luôn luôn là một người hết sức kiêu hãnh, cao ngạo, kín đáo và thờ ơ, mặc dầu đối diện với tôi đôi khi ông tỏ ra khiêm nhường đến mức khiến người ta phải sửng sốt. Tôi cũng xin kể ra đây, để cho biết thế thôi, là trong suốt cuộc đời của ông, ông đã phung phí hết ba cái gia tài, mà là gia tài thuộc hạng khá kếch xù, tổng cộng vào khoảng trên bốn trăm ngàn đồng rúp, và chưa chừng còn nhiều hơn thế nữa. Giờ đây thì dĩ nhiên ông chẳng còn đồng kôpếch nào cả... Vậy thì ông đã đến thăm trang trại của ông, vì lí do gì thì chắc “Trời mới biết”; nhưng ít ra thì sau này ông đã giải thích với tôi như vậy. Các con nhỏ của ông không ở với ông, nhưng ở với bà con dòng họ, đó là thói quen của ông: và suốt đời ông, ông đều làm như thế đối với các con ông, dầu chính thức hay không chính thức. Ông nuôi rất nhiều tôi tớ trong trang trại của ông, trong số đó có người làm vườn tên Maka. Tôi cũng xin ghi thêm ở đây, để sau khỏi phải nhắc đến nữa, rằng: ít có ai đã nguyền rủa danh tính của mình nhiều bằng tôi trong suốt cả cuộc đời. Có lẽ như thế là ngu xuẩn, nhưng nó là vậy đó. Mỗi lần tôi bước vào một trường học hoặc gặp gỡ những người mà vì tuổi nhỏ của tôi, tôi bắt buộc phải thưa gởi, như thầy giáo trường tiểu học, thầy dạy tư gia, ông giám học, cha xứ, hoặc bất cứ ai, sau khi hỏi đến tên tôi và được biết rằng tôi thuộc dòng họ Đôlgôruki, đều thấy cần phải hỏi thêm: – Hoàng thân Đôlgôruki ư? Và mỗi lần tôi đều bắt buộc phải giải thích cho mấy ông vô công rồi nghề đó rằng: “Không, Đôlgôruki không thôi.” Mấy chữ không thôi đó đã khiến tôi phải phát điên vì nó. Tôi ghi nhận như là một hiện tượng kì lạ vì tôi nhớ rằng không có ai là không hỏi tôi câu ấy. Có những người đã hỏi mà chẳng biết hỏi để làm gì, hơn nữa tôi cũng chẳng hiểu cái đó có thích thú gì cho ai không. Nhưng ai ai cũng đều hỏi, không sót một ai. Khi được biết rằng tôi chỉ là Đôlgôruki không thôi thì người hỏi nguýt tôi, thường là với cặp mắt ngơ ngẩn và lạnh nhạt, chứng tỏ rằng chính hắn ta cũng chẳng rõ tại sao lại hỏi tôi, rồi bỏ đi liền. Nhưng xúc phạm tôi nặng nề nhất là các bạn học cùng trường. Muốn biết một người trò cũ hỏi một trò mới thế nào ư? Người trò mới, vừa ngây dại vừa bẽn lẽn, thường là kẻ bị tất cả mọi người hành hạ ngay ngày đầu bước chân vào trường học (bất cứ trường học nào): thiên hạ sai khiến y, chọc ghẹo y, coi y như đầy tớ. Một tên vạm vỡ thình lình đứng sừng sững trước mặt, ngay trước mặt, nạn nhân của hắn, để rồi quan sát nó với cặp mắt nghiêm nghị và hỗn xược. Trò mới đứng trước mặt tên đó mà chẳng hề thốt ra một lời, mắt nhìn một cách giận dữ, nếu hắn không phải là thằng hèn, rồi chờ xem những gì sẽ xảy ra. – Mày tên gì? – Đôlgôruki. – Hoàng thân Đôlgôruki? – Không, Đôlgôruki không thôi. – À!... không thôi! Đồ ngốc! Và nó có lí: vì chẳng có gì dại dột bằng có cái tên là Đôlgôruki khi mình không phải là hoàng thân. Cái dại dột đó, tôi đã kéo lê nó theo tôi dầu rằng đó không phải là lỗi của tôi. Sau này, khi tôi bắt đầu bực dọc với câu hỏi: – Mày là hoàng thân? Thì tôi trả lời: – Không phải, tôi là con một người đầy tớ, một cựu trang nô. Sau đó nữa, khi tôi nổi cơn thịnh nộ trước câu hỏi: Ngài là hoàng thân? một hôm tôi trả lời kiên quyết rằng: – Không phải, Đôlgôruki không thôi, con tư sinh của lãnh chúa cũ của tôi, ông Vécsilốp. Tôi tìm ra được cách trả lời ấy năm tôi học ở lớp tu từ và mặc dù tôi biết ngay rằng đó là một điều dại dột, tôi cũng không lập tức từ bỏ nó. Tôi còn nhớ rằng một trong các vị giáo sư – mà đây cũng là vị duy nhất – đã khám phá ra rằng, đầu óc tôi “chứa đầy tư tưởng phục thù và tình yêu nước nhiệt thành”. Thường thì người ta tiếp nhận lối đối đáp đó với một vẻ nghiêm trang hơi xúc phạm đối với tôi. Rồi một người bạn học của tôi, một thằng nhỏ rất ưa chọc ghẹo, mà một năm tôi chỉ nói chuyện độ một lần, đã nói với tôi với một vẻ sâu sắc, mắt nhìn xéo sang bên: – Dĩ nhiên những ý nghĩ ấy làm vinh dự cho anh và, chắc chắn là anh có lí do để hãnh diện. Tuy nhiên, nếu ở địa vị anh, tôi sẽ không làm ra vẻ đắc thắng vì đã là một đứa con tư sinh đâu... Người ta có cảm tưởng như anh đang dự một đám cưới! Từ hôm đó tôi hết khoe khoang cái tình trạng được làm con không chính thức nữa. Tôi xin nhắc lại rằng viết tiếng Nga không phải là chuyện dễ: tôi đã bôi đen ba trang giấy để giải thích trong trường hợp nào tôi đã đổ quạu suốt cả đời tôi để phản đối cái tên của tôi, và độc giả chắc chắn cũng đã kết luận rằng tôi đã nổi giận vì tôi không phải là hoàng thân, mà là Đôlgôruki không thôi. Tôi sẽ không hạ mình để giải thích và bào chữa thêm một lần nữa. 4 VẬY thì, trong đám nô bộc rất đông đảo đó, ngoài Maka còn có một thiếu nữ đang độ đôi chín trong khi Maka, tuy đã ngũ tuần, còn lăm le muốn cưới làm vợ. Dưới chế độ nông nô ai cũng rõ là những cuộc hôn nhân giữa trang nô đều được tác thành với sự chấp thuận của lãnh chúa, đôi khi theo lệnh của lãnh chúa. Hồi đó trong trang trại có một bà dì; thực ra thì không phải là dì tôi, mà là một phu nhân của lâu đài; nhưng có điều là tôi không hiểu tại sao ai cũng kêu bà là dì, dì nói chung, và ngay cả gia đình Vécsilốp cũng thế, chắc có lẽ bà ta có bà con với gia đình này thì phải. Bà tên là Tatiana. Hồi đó mà bà ta vẫn còn có trong cùng một tỉnh và quận, ba mươi lăm nam nông nô của riêng bà. Ngoài ra bà ta còn cai quản, hay nói đúng hơn trông coi giùm, với tư cách hàng xóm, trang trại của ông Vécsilốp (với năm trăm nam nông nô) và sự trông coi đó của bà ta, theo chỗ tôi được nghe thiên hạ bàn tán, chẳng thua kém gì bất cứ một viên quản lí được đặc biệt huấn luyện nào cả. Vả lại, tôi đâu có quan tâm gì mấy đến những sự hiểu biết của bà ta; tôi chỉ muốn nói thêm, không phải để tán tụng và nịnh bợ, rằng bà Tatiana đó quả là một con người quí phái và kì dị là đằng khác. Chính bà ta là người đã, không những không chống đối lại những ý tưởng về hôn nhân của con người hắc ám Maka (hình như ông ta rất hắc ám) mà còn khuyến khích ông đến tột độ là đằng khác. Cô Sofia (cô nông nô mười tám tuổi, là mẹ tôi) hồi đó đã mồ côi cha mẹ từ mấy năm rồi; cha nàng, cũng là một nông nô, hồi sinh tiền rất kính phục ông Maka và không hiểu sao lại tỏ ra rất tri ân ông này ngay trên giường bệnh lúc sắp lâm chung sáu năm về trước, và có người còn cho rằng mười lăm phút trước khi trút hơi thở cuối cùng đã gọi Maka lại và trước mặt toàn thể nhân viên và trước mặt cả vị linh mục nữa, ông đã nói lên bằng một giọng nói to lớn và thúc bách ý muốn cuối cùng của ông. Hành vi đó ở đây người ta có thể cho là ảnh hưởng của sự mê sảng chứ, vì với thân phận nông nô thực ra ông đâu có dám thế. Ông đưa tay chỉ con gái ông cho Maka mà bảo rằng: “Hãy nuôi nấng nó và lấy nó làm vợ!” Những lời nói đó tất cả mọi người đều nghe rõ. Về phần Maka thì tôi cũng chẳng hiểu ông ta đã kết hôn với những cảm nghĩ ra sao, với niềm hân hoan hay chỉ để làm tròn một bổn phận. Hẳn là ông đã có một bộ mặt hết sức dửng dưng. Ông là một người mà, ngay từ hồi đó, đã biết “lên mặt”. Tuy không thông thạo lắm về kinh kệ mà cũng chẳng phải là người hay chữ (ông thuộc lòng tất cả các khóa lễ và nhất là tiểu sử của một vài vị thánh nhưng phần lớn chỉ là do nghe lỏm mà biết thôi); tuy chẳng phải là một thứ người dẫn giải các buổi lễ, ông vẫn là người có tính cương quyết, đôi khi còn mạo hiểm nữa là khác; ông ta ăn nói một cách chững chạc, lời phán đoán quả quyết và nói tóm lại ông là người “sống một cuộc đời khả kính” theo như lời nói dị thường của chính ông. Con người của ông là như thế đó. Dĩ nhiên ông được tất cả mọi người kính trọng, nhưng, người ta cũng bảo rằng ông là người rất khó chịu với tất cả mọi người. Khi ông bỏ nhà đi thì mọi sự đều thay đổi: người ta chỉ còn nói tới ông như một vị thánh và một đấng tử đạo. Tất cả những điều đó, tôi được biết theo một nguồn tin chắc chắn. Về tính tình mẹ tôi, thì bà Tatiana nuôi nàng đến năm nàng được mười tám tuổi. Mặc dù người quản lí muốn đưa nàng đi Mạc tư khoa học việc, bà cho nàng học hành đôi chút, nghĩa là học may cắt, học những cử chỉ sang trọng và còn dạy nàng đọc chữ nữa. Nhưng mẹ tôi không tài nào viết chữ được tử tế cả. Với mẹ tôi thì cuộc hôn nhân với Maka là một việc đã được định đoạt từ lâu và những gì xẩy ra với bà đều có vẻ đẹp đẽ và hoàn mĩ cả; thậm chí bà để người ta dẫn ra trước bàn thờ với một nét mặt hết sức trầm tĩnh, đến đỗi bà Tatiana đã gọi bà là một “con ngố”, chính nhờ bà Tatiana ấy mà tôi mới hiểu được rõ tính tình mẹ tôi hồi đó. Vécsilốp đi thăm trang trại của ông đúng sáu tháng sau cuộc hôn nhân đó. 5 TÔI chỉ muốn nói rõ rằng tôi chưa bao giờ hiểu rõ hoặc đoán được một cách thỏa đáng sự việc đã khởi sự ra sao giữa ông ta và mẹ tôi. Tôi sẵn sàng để tin, như ông ta đoan chắc với tôi hồi năm ngoái với nét mặt bừng đỏ, dù rằng ông kể câu chuyện đó cho tôi với điệu bộ vô cùng thoải mái và “ý nhị”, rằng chẳng có gì là li kì cả và mọi việc đã xảy ra “như thường” thôi. Tôi tin là đúng sự thực và cái “như thường” đó quả thật dễ thương. Mặc dầu vậy, tôi vẫn muốn tìm hiểu xem mọi việc đã khởi sự ra sao. Tôi bao giờ cũng và giờ đây vẫn còn ghê tởm những chuyện bẩn thỉu ấy. Dĩ nhiên, đây không phải là do sự tò mò độc hại của tôi. Tôi cũng xin lưu ý là cho mãi đến năm ngoái tôi chưa hề biết đến mẹ tôi; ngay từ thời ấu thơ, người ta đã giao tôi cho những người lạ mặt nuôi nấng, điều mà ông Vécsilốp rất khoan khoái (sau này tôi sẽ đề cập tới), và do đó tôi chẳng tài nào hình dung được nét mặt của mẹ tôi hồi đó ra sao cả. Nếu mẹ tôi không đẹp, thì bà phải có điểm nào để có thể quyến rũ được một người đàn ông như ông Vécsilốp? Câu hỏi đó rất quan trọng đối với tôi bởi vì người đàn ông này được mô tả ở đây dưới một hình dáng hết sức lạ lùng. Vì thế tôi mới tự đặt ra câu hỏi đó, chứ đâu có phải vì tà tâm. Chính ông ta, cái con người hắc ám và trầm ngâm đó, đã nói với tôi – với vẻ ngây thơ khả ái mà tôi chẳng hiểu ông rút ở đâu ra (như người ta rút khăn mùi soa từ trong túi ra) khi ông cảm thấy cần đến – rằng hồi đó ông là “một con chó con đần độn”, và tuy rằng ông chẳng phải một người đa tình đa cảm ông vừa đọc xong “như thường” thôi cuốn Antôn con người đau khổ và cuốn Pôlinxắc, là hai tác phẩm văn chương đã gây được một ảnh hưởng khai hóa vô giá với thế hệ trẻ hồi đó. Ông còn nói thêm có lẽ vì cuốn Antôn con người đau khổ mà ông đã trở về thôn dã, và ông đã nói với một giọng nói hết sức đứng đắn. “Con chó con đần độn” đó đã liên lạc được với mẹ tôi dưới hình thức nào? Tôi vừa mới nghĩ rằng, nếu tôi có được lấy một độc giả thôi, chắc thế nào người đó cũng cười rộ lên để chế giễu tôi: tên thanh niên lẩn thẩn vẫn còn cố giữ vẻ ngây thơ ngu xuẩn của nó, nó tính bàn về những điều mà chính hắn cũng chẳng hiểu gì hết. Chắc hẳn là, tôi chưa hiểu gì cả, và tôi xin thú nhận điều đó mà chẳng hề hãnh diện tí nào, vì tôi cũng dư hiểu rằng một thằng thanh niên đã hai mươi tuổi đầu mà thiếu từng trải như tôi quả thật là ngu ngốc; nhưng tôi cũng sẽ nói với ông đó rằng chính ông ta cũng chẳng hiểu cái quái gì cả và tôi xin chứng minh điều đó. Đúng thế, về vấn đề đàn bà thì tôi chẳng hiểu tí gì cả, mà tôi cũng chẳng cần hiểu, vì suốt đời tôi, tôi sẽ chẳng cần đàn bà, tôi xin thề như vậy. Tuy nhiên tôi cũng biết rằng một người đàn bà có thể làm cho mình say đắm trong nháy mắt với sắc đẹp của họ, hay với cái quái gì nữa thì tôi cũng chẳng biết; với một người đàn bà khác, phải mất sáu tháng để nhào nặn họ mới có thể hiểu được trong bụng họ chứa đựng những gì; với một người khác nữa, muốn hiểu thấu họ để yêu họ, chỉ nhìn họ không vẫn chưa đủ, sẵn sàng cho tất cả vẫn chưa đủ, mà còn cần phải có thiên tài nữa. Tôi tin chắc như thế, mặc dù tôi chẳng hiểu gì cả; nếu không thì ta phải hạ ngay tất cả bọn đàn bà xuống hàng gia súc và chỉ giữ họ cạnh mình dưới cái hình thức đó. Đó có lẽ là điều mà nhiều người mong muốn. Tôi cũng biết một cách chắc chắn, do nhiều nguồn tin, rằng mẹ tôi đâu có phải là một trang tuyệt sắc giai nhân, dẫu rằng tôi chưa hề bao giờ trông thấy chân dung bà hồi đó, hiện giờ chắc ở đâu đây. Mê mẹ tôi ngay từ cái nhìn đầu tiên là điều không thể có được. Nếu chỉ là để “tiêu khiển” không thôi, Vécsilốp có thể lựa một người đàn bà khác, mà quả thực thì ông cũng đã có sẵn một người rồi, một thiếu nữ là đàng khác, cô Anfisa, một nữ tì còn trẻ. Hơn nữa, với một người đàn ông đã tới đó với tác phẩm Antôn, con người đau khổ, mà lấy quyền lãnh chúa để xâm phạm hạnh phúc lứa đôi của một tên nông nô của mình thật là một điều xấu hổ ngay cả đối với ông, vì rằng, tôi xin nhắc lại, mới cách đây có mấy tháng, nghĩa là sau hai mươi năm trời, ông đã nói đến cái tên Antôn con người đau khổ đó với một vẻ mặt đứng đắn khác thường. Vậy mà người ta chỉ bắt ngựa của Antôn chứ đâu có bắt vợ hắn! Chắc phải xảy ra điều gì đặc biệt có hại cho cô Anfisa (theo tôi thì có lợi cho nàng thì đúng hơn). Một hay hai lần hồi năm ngoái, trong những lúc người ta có thể nói chuyện với ông ta (không phải ngày nào cũng có thể nói chuyện với ông), tôi đã hỏi ông tất cả những câu đó và tôi nhận thấy, mặc dù với tất cả sự lễ phép của ông và dù rằng đã cách xa đến hai chục năm tôi phải năn nỉ lắm ông mới chịu nói. Nhưng rồi tôi đã đạt được kết quả. Ít ra bằng một thái độ khinh khoái thời lưu mà ông đã nhiều lần tỏ ra với tôi, một hôm ông đã nói ấp úng nhiều điều thật lạ kì: Mẹ tôi là một trong số những con người không tự vệ không thể nào yêu nổi – dĩ nhiên là không! – nhưng đột nhiên, không hiểu tại sao, lại gợi được lòng thương hại vì tính dịu hiền của họ hay thực ra vì cái gì gì nữa? Chẳng ai có thể hiểu nổi: Nhưng lòng thương hại nó dai dẳng và, càng thương hại bao nhiêu, người ta càng dễ quyến luyến nhau hơn... “Nói tóm lại, con ạ, rất có thể người ta sẽ chẳng rời nhau được nữa.” Đó là những điều ông đã nói với tôi. Nếu sự việc quả xảy ra như thế, tôi bắt buộc phải nhìn ông khác hơn là một con chó nhỏ đần độn, như ông thường tự ví lúc bấy giờ. Đó là tất cả những điều tôi muốn ghi nhớ. Vả lại ông đoan chắc ngay sau đó với tôi rằng mẹ tôi đã yêu ông vì lòng “ tôn kính”; hơn thế nữa, ông có thể bịa ra là “vì vâng lời mù quáng!” Ông nói dối vì muốn tỏ ta đây ngon lành, ông nói dối trái với lương tâm ông, trái với danh dự và lòng quảng đại! Dĩ nhiên tôi đã viết lên tất cả những điều đó để khen mẹ tôi mặc dù, như tôi đã tuyên bố, tôi tuyệt đối chẳng biết mẹ tôi hồi đó ra sao cả. Hơn nữa tôi biết quá rõ sự ngu dốt của giới nông nô cũng như những quan niệm khốn nạn đã vây hãm bà từ lúc thiếu thời và trong suốt cuộc đời của bà. Dẫu sao, thảm trạng cũng đã xảy ra. Tiện đây tôi xin đính chính một việc: tôi đã đi lạc trong đám mây mù nên tôi đã quên bẵng một việc mà lẽ ra tôi phải nhấn mạnh: Mọi việc giữa hai người đã bắt đầu từ thảm trạng ấy (Mong rằng độc giả cũng đừng làm ra vẻ chưa hiểu kịp điều tôi muốn nói.) Nói tóm lại, buổi đầu đó thật là vương giả, tuy rằng cô Anfisa đã bị bỏ sang một bên. Nhưng ở đây tôi xin bào chữa và xin tuyên bố trước rằng tôi không hề tự mâu thuẫn. Trời ơi, một người đàn ông như Vécsilốp có thể nói lên được những gì với một người như mẹ tôi, dù rằng trong trường hợp tình yêu không ai ngăn cản nổi? Tôi đã nghe những người trác táng nói rằng thường thường người đàn ông, khi lại gần người đàn bà, bắt đầu vào việc mà chẳng cần phải nói lời nào hết, một điều mà dĩ nhiên ai cũng cho là quái gở và ghê tởm đến tột độ; theo tôi, dù ông Vécsilốp có muốn ông cũng không thể bắt đầu khác hơn với mẹ tôi, lẽ nào ông lại bắt đầu bằng cách giảng giải cho bà nghe về Pôlinxắc? Không kể là họ chẳng mảy may lưu ý đến văn chương Nga; theo lời của chính ông nói (một hôm ông cùng cởi khuy áo với tôi) thì hai người núp trong góc phòng, rình rập nhau dưới chân cầu thang, bật trở ra thật xa như hai trái banh, hai má đỏ ửng nếu lỡ thấy ai đi ngang, và vị “bạo chúa” đã run rẩy trước mặt bà ở quét nhà hạ tiện nhất dầu rằng ông có đủ quyền hành của một lãnh chúa. Nếu mọi việc khởi đầu theo kiểu lãnh chúa, thì nó đã tiếp tục như thế, tuy rằng không hẳn đúng như thế, mà rồi thực ra cũng chẳng còn gì để giải thích và tìm hiểu nữa. Những lời giải thích đó chỉ càng làm cho bóng tối dầy đặc thêm. Khuôn khổ mối tình của hai người đã là cả một điều bí ẩn, bởi vì cái điều kiện thứ nhất của những người như Vécsilốp là mọi sự sẽ đứng khựng tại đó ngay sau khi mục đích đã đạt được. Thế mà sự việc đã xảy ra khác hẳn. Phạm tội lỗi với một nữ nông nô duyên đáng khờ dại (mẹ tôi đâu có khờ dại), đối với một “con chó con” trác táng (chúng đều trác táng hết, không sót một ai, dù là có óc tân tiến hay thoái hóa cũng vậy) là điều không những có thể có được, mà còn không thể tránh được, nhất là khi người ta nghĩ tới hoàn cảnh mơ mộng của một người đàn ông góa vợ còn trẻ tuổi mà lại vô công rồi nghề. Nhưng yêu suốt cả đời thì quá nhiều. Tôi không dám đảm bảo rằng ông đã thật sự yêu bà; nhưng nếu bảo là ông đã kéo lê bà theo sau ông suốt cả đời thì đó là sự thật. Tôi đã đặt nhiều câu hỏi, nhưng có một câu quan trọng nhất, mà tôi chưa dám chính thức hỏi mẹ tôi, tuy rằng tôi đã gần bà rất nhiều từ hồi năm ngoái, và vì tôi là đứa con thô lỗ, bội bạc đã xét đoán rằng người ta có tội với mình, nên tôi không cảm thấy e ngại đối với mẹ tôi. Câu hỏi đó như thế này: làm sao mẹ tôi lại có thể, trong khi mới kết hôn được sáu tháng và tâm hồn bị đè nặng bởi bao nhiêu những ý nghĩ về tính cách thần thánh của hôn nhân, bị đè bẹp như một con ruồi không biết tự vệ, một người như mẹ tôi đã kính trọng Maka như một vị thần, làm sao bà có thể, trong vòng chưa đầy mười lăm ngày, rơi vào một tội lỗi như thế được? Mẹ tôi đâu phải người đàn bà lầm đường lạc lối. Trái lại, giờ đây tôi có thể nói trước được rằng, trong suốt cuộc đời của mẹ tôi, khó có thể tưởng tượng được một tâm hồn nào trong sạch hơn bà. Lời giải thích duy nhất là mẹ tôi không ý thức được những gì bà đã làm, không phải theo như định nghĩa mà mấy ông luật sư ngày nay đã gán cho mấy thân chủ giết người hoặc trộm cướp, mà bà đã hành động theo những cảm giác mạnh đã lôi cuốn một nạn nhân có phần chất phác một cách thê thảm, không tránh nổi. Biết đâu bà đã yêu ông đến chết được... vì cách phục sức của ông, vì đường ngôi rẽ theo kiểu Ba lê, và giọng nói tiếng Pháp, phải, tiếng Pháp, mà bà chẳng hiểu gì cả và vì bản tình ca mà ông vừa hát vừa đàn dương cầm. Bà đã yêu những gì bà chưa hề nghe và chưa hề trông thấy (ông là một người đàn ông rất bảnh trai) để rồi từ đó bà đã yêu ông toàn diện, yêu đến ngất ngây, với những bộ quần áo và những bản tình ca của ông. Tôi thường nghe nói những việc tương tự thường xảy ra với các cô nông nô son trẻ trong thời kì cực thịnh của chế độ nông nô và, ngay cả với các cô lương thiện nhất. Tôi hiểu rõ điều đó. Thật là xấu hổ cho ai định giải thích điều đó vỏn vẹn bằng chế độ nông nô và sự “tự hạ mình”. Vậy thì, con người thanh niên đó đã có đủ sức mạnh và sức quyến rũ để thu hút được một con người trong trắng đến thế, và nhất là bà lại là người hoàn toàn xa lạ với bản chất của ông ấy, một người thuộc một thế giới hoàn toàn khác hẳn và từ một mảnh đất xa lạ đến đây, để sa vào một vực thẳm hiển nhiên như vậy. Dù đó là một vực thẳm, tôi tin rằng mẹ tôi cũng đã thấy rõ; duy có điều bà không nghĩ tới mặc dù chân bà vẫn đều đặn bước đến; những con người “không tự vệ” đó đều giống nhau cả: họ biết đó là vực thẳm mà họ vẫn lăn xả tới. Sau khi đã phạm tội lỗi, họ liền ăn năn. Ông kể tôi nghe một cách ý nhị tại sao ông đã khóc nức nở trên vai Maka, được mời tới văn phòng ông đặc biệt về vụ này, trong khi đó thì mẹ tôi đang còn nằm bất tỉnh trong căn phòng nhỏ dành riêng cho nữ nông nô của bà… 6 THÔI nói về các vấn đề và các chi tiết xấu xa đó thế là quá đủ rồi. Vécsilốp chuộc mẹ tôi từ Maka về rồi vội vã ra đi và kể từ ngày đó, như tôi đã kể ở trên, đã kéo mẹ tôi theo gần như khắp chốn, ngoại trừ khi nào ông phải vắng mặt lâu ngày trong trường hợp đó ông để mẹ tôi lại cho bà dì là bà Tatiana săn sóc; bà này thì lúc nào cũng sẵn sàng có mặt trong những dịp như vậy. Hai ông bà cư ngụ một thời gian ở Mạc tư khoa, rồi ở nhiều trang trại và thành phố khác, có khi ở ngoại quốc nữa, và cuối cùng đã đến ở Pêtécbuốc. Tôi sẽ đề cập đến câu chuyện này sau, hoặc là sẽ chẳng nói gì hết. Tôi chỉ nói là một năm sau khi rời Maka, tôi ra chào đời; rồi một năm sau đó nữa, là em gái tôi; rồi mười hoặc mười một năm sau là em trai út tôi, một thằng nhỏ ốm yếu chỉ sống vỏn vẹn được mấy tháng. Sắc đẹp của mẹ tôi đã tàn tạ sau những cuộc sanh nở đau đớn đó. Ít ra theo như người ta đã nói với tôi thì mẹ tôi bắt đầu già và yếu dần một cách mau lẹ. Nhưng sự liên lạc với Maka chẳng bao giờ gián đoạn. Bất cứ ông bà Vécsilốp cư ngụ tại đâu, dù ông bà ở lì một chỗ năm này qua năm khác hay đi du lịch đó đây, Maka vẫn không quên gửi tin tức của mình về cho “gia đình”. Sợi dây liên lạc lạ lùng, hơi trang nghiêm và gần như là đứng đắn đã được hình thành. Tôi hiểu rõ rằng giữa các lãnh chúa với nhau những sự liên lạc như vậy thế tất phải đượm một cái gì hài hước, nhưng đây không phải là trường hợp đó. Mỗi năm chỉ vỏn vẹn có hai bức thư, không hơn không kém, bức nào cũng giống bức nào một cách dị thường. Chính tôi đã đọc những thư đó; chẳng có gì là riêng tư cả; trái lại chỉ có những tin tức trịnh trọng, càng nhiều càng tốt, về những biến cố tổng quát, cũng như về những cảm nghĩ tổng quát, nếu người ta có thể nói như thế về vấn đề tình cảm: những tin tức về sức khỏe của ông, rồi những câu hỏi về sức khỏe của người nhận thư, rồi những lời cầu chúc, chào hỏi và chúc tụng kiểu cách, thế là hết. Lối viết đại cương và sự thiếu cá tính đó, theo tôi, chính là cái thái độ cao thượng và sự lịch thiệp của giới này. “Chúng tôi xin kính cẩn gởi lời chào người vợ khả ái và khả kính Sofia của chúng tôi...” “Xin gởi các con thân mến lời chúc tụng không bao giờ phai nhạt của cha.” Rồi tên của các con được liệt kê, theo thứ tự, trong đó có cả tên tôi nữa. Tôi cũng ghi lại ở đây rằng Maka rất ý nhị nên không bao giờ gọi “Ngài lãnh chúa rất khả kính Vécsilốp” là “ân nhân” của mình, nhưng trong mỗi lá thư ông đều bất di bất dịch gởi cho ông này lời chào kính cẩn, xin ông giáng phúc cho và xin ơn Trên phù hộ cho ông ta. Mẹ tôi liền gởi thư phúc đáp cho Maka và vẫn viết theo văn thể tương tự. Vécsilốp thì không khi nào tham dự vào những cuộc trao đổi thư từ đó. Thư của Maka được gửi tới từ mọi chân trời góc bể của nước Nga, từ các thành thị và tu viện mà ông từng lưu trú, đôi khi trong thời gian khá lâu dài. Ông đã trở thành một kẻ “lang thang”. Ông chẳng hề bao giờ xin xỏ gì hết; trái lại mỗi năm ba lần chẳng sai thế nào ông cũng trở về nhà và dừng chân tại nhà mẹ tôi, mà mẹ tôi thì lúc nào cũng có sẵn một căn phòng cho riêng bà, cách biệt hẳn căn phòng của ông Vécsilốp. Tôi còn phải trở lại vấn đề này sau, nhưng ở đây tôi chỉ xin ghi chép là Maka không có nằm lăn ra cái đivăng của phòng khách, mà chỉ đặt mình một cách khiêm nhượng quanh quẩn đâu đấy sau chiếc bình phong. Vả lại ông đâu có ở lại lâu: năm ngày, một tuần lễ là hết. Tôi cũng quên nói một điều là ông ta rất yêu mến và kính trọng cái tên họ Đôlgôruki của ông. Dĩ nhiên đó là một điều dại dột lố lăng. Dại dột nhất là ở điểm ông thích cái tên đó chính vì có những vị hoàng thân Đôlgôruki. Một quan niệm kì cục, ngược hẳn với lương tri! Tôi đã nói rằng gia đình lúc nào cũng đông đủ: dĩ nhiên là không có tôi. Tôi dường như bị người ta quăng qua thành tàu xuống dưới biển và ngay từ hồi mới lọt lòng đã được đưa đi gởi những người lạ mặt. Người ta cũng chẳng hề có ý định gì cả; sự việc đã xảy ra một cách đơn giản thế thôi. Mẹ tôi còn trẻ và đẹp lúc hạ sanh tôi; dĩ nhiên về một điểm nào đó bà vẫn còn hữu ích cho ông, và một đứa trẻ hay khóc kể ra thì cũng bực mình, nhất là trong các cuộc du hành. Đó là lý do tại sao, cho mãi đến năm tôi được hai mươi tuổi, tôi vẫn không được gặp mẹ tôi, ngoại trừ hai hay ba dịp thoáng qua. Lỗi không phải do nơi tình cảm của mẹ tôi, mà do thái độ kiêu hãnh của Vécsilốp đối với thiên hạ. 7 GIỜ đây, mọi việc hoàn toàn khác hẳn. Cách đây một tháng, nghĩa là một tháng trước ngày 19 tháng chín, ở Mạc tư khoa, tôi đã quyết định từ bỏ tất cả những người đó để rồi dứt khoát trở về với ý nghĩ của tôi. Tôi nói rõ “trở về với ý nghĩ của tôi” vì rằng câu ấy có thể giải thích gần hết tất cả tư tưởng chính yếu của tôi, do đâu tôi ra chào đời “ý nghĩ của tôi” là thế nào có lẽ tôi sẽ nói đến quá nhiều trong những đoạn kế tiếp. Trong cảnh cô đơn mơ mộng của những năm tháng triền miên khi tôi còn ở Mạc tư khoa, ý nghĩ đó đã hình thành trong tâm não tôi ngay từ trong từ ngữ và từ đó chưa hề bao giờ rời tôi lấy một phút. Nó đã chôn vùi cả cuộc sống của tôi. Trước đó, tôi thường sống trong mơ mộng, tôi đã sống từ hồi thơ ấu trong một thế giới say mê vì một sắc thái nào đó, nhưng với sự xuất hiện của ý nghĩ chính yếu và khốc hại đó, cái mơ mộng của tôi đã trở nên vững chắc thêm và đã đột nhiên được phủ thêm một hình thể nhất định: từ chỗ phi lí, nó trở nên có lí. Trường trung học đâu có cấm được tôi mơ mộng; nó cũng đâu có thể ngăn cản nổi ý nghĩ của tôi. Tuy nhiên tôi cũng xin nói thêm là năm học cuối cùng của tôi thật là tồi tệ, vì từ trước đến nay năm nào tôi cũng đứng hàng đầu trong lớp: đó cũng do ở chính cái ý nghĩ đó, do hậu quả có lẽ sai lầm mà tôi đã rút tỉa được. Thế thì trường trung học không cản trở được ý nghĩ, nhưng ý nghĩ đã cản trở trường trung học. Nó còn cản trở cả trường Đại học nữa. Ra khỏi trung học, tôi đã có ý định đoạn tuyệt hoàn toàn không những với toàn thể gia đình tôi, mà, nếu cần, với toàn thể thế giới, dù rằng tôi mới hai mươi tuổi. Tôi viết cho bất cứ ai có liên hệ, ở Pêtécbuốc, rằng họ nên để tôi yên, rằng họ đừng gởi tiền cấp dưỡng nữa, và, nếu có thể, họ nên quên hẳn tôi đi (dĩ nhiên trong trường hợp họ còn tưởng nhớ phần nào đến tôi) và sau cùng là tôi sẽ “chẳng vì lí lẽ gì” mà chui đầu vào trường Đại học. Thế tiến thoái lưỡng nan của tôi thật là khó thoát: hoặc vào Đại học để tiếp tục sự học, hoặc đình hoãn thêm bốn năm nữa việc thực thi “ý nghĩ” của tôi. Không ngần ngại tôi chọn lựa ý nghĩ của tôi; vì tôi đã tin tưởng một cách chính xác. Cha tôi, ông Vécsilốp mà suốt đời tôi chỉ mới được gặp có một lần, trong khoảnh khắc, hồi tôi mới lên mười tuổi (vậy mà trong khoảnh khắc đó ông đã có thì giờ làm tôi phải sửng sốt), đã phúc đáp bức thư của tôi mà thực ra tôi đâu có phải gửi cho ông, ông đã dùng tấm thiếp do ông tự tay viết để triệu tôi đến Pêtécbuốc, và có hứa giới thiệu cho tôi một chỗ làm cho một tư nhân. Lời mời của con người khô khan và kiêu hãnh, đầy vẻ tự cao và hững hờ đối với tôi, người mà từ trước đến nay, sau khi sanh ra tôi và giao tôi cho những người lạ mặt, không những đã không biết đến tôi nữa mà còn chẳng hề bao giờ hối lỗi (biết đâu chừng ông chỉ có một ý niệm mơ hồ và không rõ rệt về đời sống của tôi, vì rằng, như ông đã chứng minh sau này, đâu có phải ông đã gởi tiền nuôi tôi ở Mạc tư khoa, mà là những kẻ khác) – lời mời của con người đó, khi mà ông sực nhớ đến tôi và cố gởi đến tôi một tấm thiệp do tự tay ông viết, lời mời đó trong khi vuốt ve mơn trớn tôi, quả đã định đoạt số phận của tôi. Điều kì lạ là một trong những đều làm đẹp lòng tôi nhất trong tấm thiệp của ông (một miếng giấy khổ nhỏ) là ông không hề đả động gì đến trường Đại học, ông không đòi tôi thay đổi ý kiến, mà cũng không trách móc tôi tại sao không muốn tiếp tục sự học, tóm lại ông không hề dùng những lời nói lẩm cẩm mà mọi người cha thường dùng trong trường hợp tương tự: nhưng chính đó lại là điều không tốt về phần ông, vì ông càng tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với tôi hơn. Tôi quyết định ra đi vì một lí do khác nữa, vì quyết định ấy không cản trở mơ ước chính của tôi: “Rồi chúng ta sẽ thấy những gì sẽ xảy đến: dầu sao tôi chỉ liên lạc với họ một thời gian thôi, có lẽ rất ngắn ngủi. Chừng nào tôi nhận thấy rằng cuộc vận đó, tuy có điều kiện và chẳng quan trọng gì, càng đẩy tôi xa hơn cái điểm chính, tôi sẽ đoạn tuyệt ngay, tôi sẽ bỏ rơi hết và sẽ rút lui vào trong cái vỏ ốc của tôi.” Phải, đúng thế, vào trong cái vỏ ốc của tôi! “Tôi sẽ thu mình trong đó như con rùa”; tôi rất rất hài lòng với sự so sánh đó. “Tôi sẽ không cô đơn đâu, tôi vừa làm tiếp những con toán vừa chạy hí hởn từ đầu đến cuối thành phố Mạc tư khoa mấy ngày gần đây, tôi sẽ không bao giờ cô đơn nữa, như tôi đã từng bị trong bao năm khủng khiếp: tôi còn có cái ý nghĩ của tôi mà tôi sẽ chẳng bao giờ phản bội, dẫu rằng tất cả mọi người ở đó có làm tôi hài lòng đến mấy, dẫu rằng họ có đem lại cho tôi hạnh phúc, và dẫu tôi có ở với họ cả chục năm cũng vậy!” Đó là cảm giác, mà tôi dự đoán, đó là hai kế hoạch và mục tiêu, được phác họa ở Mạc tư khoa chưa bao giờ rời tôi lấy một phút ở Pêtécbuốc (tôi không rõ hồi ở Pêtécbuốc tôi có định trước một ngày được coi như một kì hạn dứt khoát để đoạn tuyệt với họ và để khởi hành) – hình như hai kế hoạch và mục tiêu đó là một trong những nguyên nhân chính của biết bao sự cẩu thả của tôi trong năm nay, của biết bao nhục nhã, hèn hạ, dĩ nhiên đó là chưa kể đến những sự dại dột của tôi nữa. Thế rồi một người cha mà từ trước tới nay tôi chưa từng thấy bất thần nhẩy xổ vào cuộc đời tôi. Ý nghĩ đó làm tôi ngây ngất suốt thời gian tôi chuẩn bị hành trang ở Mạc tư khoa và cả ở trên xe lửa. Một người cha, thì đã sao đâu, tôi đâu có thích được nâng niu chiều chuộng: nhưng người đó đâu có muốn biết tôi mà còn làm nhục tôi nữa; trái lại trong những năm đó tôi chỉ mơ ước tới ông, mơ ước đến chán chê (nếu danh từ đó có thể áp dụng được cho giấc mơ). Mỗi giấc mơ của tôi, từ hồi thơ ấu, đều liên hệ đến ông, bay phất phới quanh ông, để rồi cuối cùng lại trở về với ông. Không hiểu tôi ghét hay thương ông, nhưng hình ảnh ông tràn trề cả tương lai tôi, cả những dự kiến của tôi về cuộc đời, và điều đó tự nó đến với tôi, cùng lúc tôi trưởng thành. Một lí do nữa khiến tôi rời Mạc tư khoa, ấy là một cơ hội mãnh liệt, một sự cám dỗ mà ba tháng trước khi tôi khởi hành (vào lúc mà, lẽ dĩ nhiên, chưa có vấn đề Pêtécbuốc) đã khiến tim tôi phải rung động và đập mạnh! Điều đã quyến rũ tôi vào cái đại dương xa lạ đó, là tôi có thể tiến vào như một vị lãnh chúa và chúa tể vận mệnh của kẻ khác, nhất là của ai! Nhưng những cảm nghĩ hào hiệp, chứ không phải chuyên chế sôi sục trong tôi: tôi xin báo trước việc đó, để cho những lời nói của tôi không dẫn dắt tới lầm lạc. Vécsilốp có thể tưởng (nếu ông thèm tưởng tới tôi) rằng ông sẽ tiếp một thằng nhỏ, mới tốt nghiệp trường trung học, một thiếu niên, đang giương lớn đôi mắt nhìn ánh sáng. Nhưng tôi thì đi guốc trong bụng ông ấy và tôi có sẵn một mớ tài liệu vô cùng quan trọng mà ông dám hi sinh (giờ đây thì tôi biết chắc chắn như thế) nhiều năm trong cuộc đời ông để đánh đổi nếu hồi đó tôi tiết lộ bí mật ấy cho ông. Nhưng tôi nhận thấy tôi nói bằng ẩn ngữ. Không thể nào mô tả được cảm nghĩ mà không có sự kiện kèm theo. Vả lại tất cả những điều đó sẽ được nói tới đầy đủ đúng nơi đúng chỗ, và vì thế tôi mới cầm bút. Viết theo kiểu đó thì cũng chẳng khác nào đang trong cơn mê sảng hoặc đang ở giữa đám mây mù. 8 SAU cùng, để tiến tới một cách dứt khoát cái ngày 19 đó, tôi xin nói vắn tắt, có thể nói là nói qua loa, rằng tôi đã gặp tất cả mọi người, ông Vécsilốp, mẹ tôi và em gái tôi (đây là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy em gái tôi) trong cảnh vất vả, gần như là cùng cực hay sắp đi đến chỗ cùng cực. Tôi đã hay điều đó từ khi còn ở Mạc tư khoa, nhưng tôi đâu có đoán nổi cùng cực đến mức nào. Từ hồi còn nhỏ tôi thường hình dung con người đó,“cha tương lai của tôi”, trong một thứ hào quang; tôi đâu có thể tưởng tượng ông khác hơn là đang chiếm giữ một địa vị cao sang nhất ở khắp mọi nơi. Ông Vécsilốp chưa bao giờ ở với mẹ tôi cả, lúc nào ông cũng mướn cho bà một căn nhà riêng: chắc chắn là ông đã hành động như vậy vì “những câu nệ” đê tiện của họ. Giờ đây thì trái lại, ông bà lại ở chung với nhau trong cái nhà gỗ nhỏ trong hẻm Semênốpski*. Tất cả đồ đạc đã đem đến tiệm cầm đồ, nên tôi đã lén lút trao cho mẹ tôi sáu chục đồng rúp bí mật của tôi mà không cho ông Vécsilốp biết. Bí mật, bởi vì đó là tiền mà tôi đã dành dụm được trong số tiền tiêu vặt năm rúp mà người ta cho tôi hàng tháng trong suốt hai năm: tôi bắt đầu dành dụm tiền kể từ ngày đầu mà “ý nghĩ” của tôi được hình thành, và vì thế nên tôi không muốn cho ông Vécsilốp biết món tiền đó. Lúc bấy giờ, tôi phát sợ. Ngụ ý muốn nói đến khu vực của Peterburg ngày trước từng là trại lính của trung đoàn Semenov. Sự giúp đỡ ấy chỉ là một giọt nước trong biển cả. Mẹ tôi phải làm việc, em gái tôi cũng phải đi may; còn ông Vécsilốp thì vẫn sống trong cảnh ăn không ngồi rồi, vẫn hay giở chứng và vẫn giữ nguyên cái thói quen hoang phí như xưa. Tính nết ông thật là khó chịu, nhất là lúc ngồi vào bàn ăn, và tất cả dáng điệu của ông đúng là của một người độc đoán. Nhưng mẹ tôi, em gái tôi, Tatiana Páplốpna cùng toàn thể gia đình của Anđrônikốp (một ông chủ sự mới chết cách đây ba tháng, hồi sinh tiền cũng lo công việc cho ông Vécsilốp), gồm rất nhiều đàn bà, thẩy đều quì trước mặt ông như người ta quì trước mặt thần linh. Tôi không thể tưởng tượng được một cảnh tượng như thế. Tôi phải thú thật rằng chín năm về trước ông có sức quyến rũ hơn thế nhiều. Tôi từng nói là ông thường xuất hiện trong các giấc mộng của tôi trong một thứ hào quang, và tôi đâu có ngờ rằng ông đã già và hao mòn nhanh đến thế trong vòng có chín năm: bỗng tôi cảm thấy buồn rầu, thương hại, tủi hổ. Trông thấy ông, tôi đã có ngay một ấn tượng thật đau khổ trong những ấn tượng đầu tiên của tôi khi mới đến. Ông đâu đã phải là một ông già vì ông mới bốn mươi lăm tuổi. Nhìn gần ông, tôi khám phá trong vẻ đẹp của ông một cái gì đập mạnh vào mắt tôi hơn cả những gì tôi còn lưu giữ trong trí nhớ. Kém rạng rỡ, kém khoa trương, kém đỏm dáng, mà trái lại cuộc đời đã điểm trên bộ mặt ấy một vẻ lạ lùng hơn xưa nhiều. Tuy nhiên sự túng thiếu mới chỉ là một phần mười hay phần hai mươi nỗi đau khổ của ông, tôi biết chắc như thế. Ngoài sự túng thiếu còn có cái gì quan trọng hơn nhiều, chưa kể niềm hi vọng sẽ thắng vụ kiện kéo dài đã một năm nay với các hoàng thân Sôkôlski về vấn đề thừa kế, có thể một sớm một chiều đưa ông chiếm hữu một điền sản trị giá bảy chục ngàn rúp và chưa chừng nhiều hơn thế nữa. Tôi từng kể rằng suốt đời ông, ông Vécsilốp đã làm tiêu tan ba cái gia tài: rồi đây ông sẽ được cứu thoát một lần nữa bởi một cái gia tài! Vụ này sẽ được định đoạt một ngày gần đây. Tôi cũng hi vọng như thế. Nhưng có ai chịu cho vay tiền căn cứ trên sự hi vọng, mà cũng chẳng có ai để mà hỏi vay, trong khi chờ đợi phải ráng mà chịu khổ. Vả lại, Vécsilốp cũng chẳng cầu khẩn ai hết, dù rằng cả ngày ông vắng nhà. Đã hơn một năm ông bị trục xuất khỏi xã hội thượng lưu. Với tất cả những cố gắng của tôi, tôi vẫn không tài nào hiểu nổi đầu đuôi câu chuyện đó ra sao, mặc dù tôi đã ở Pêtécbuốc cả một tháng. Vécsilốp có tội hay không, đó là điều quan hệ đối với tôi và vì thế mà tôi ở đây! Tất cả mọi người đều tránh mặt ông – trong số đó có cả những nhân vật thần thế mà trước đây ông thường giao thiệp – vì một vài tiếng đồn đãi liên quan đến hành vi rất đê tiện của ông, tệ hơn nữa, trước mắt thiên hạ, là hành vi gây nhiều tai tiếng mà ông đã phạm cách đây hơn một năm ở Đức quốc: cả đến cái tát tai của một hoàng thân Sôkôlski đánh ông trước công chúng vậy mà ông cũng không đáp ứng bằng một thách thức. Ngay cả các con (chính thức) của ông, con trai và con gái ông, cũng tránh mặt ông và sống xa ông. Người con trai và con gái đó thường giao thiệp với những giới quyền quí, qua sự giới thiệu của dòng họ Fanariôtôva và ông già hoàng thân Sôkôlski (là bạn cũ của Vécsilốp). Thực ra, quan sát ông suốt cả tháng nay, tôi thấy ông là một con người kiêu hãnh chưa bị xã hội khai trừ, mà chính ông đã khai trừ xã hội ra khỏi nhà ông – bởi lẽ ông có vẻ rất ngang tàng! Nhưng cái vẻ đó, ông có quyền có không, đó là điều làm tôi thắc mắc! Tôi nhất định phải hiểu rõ tất cả sự thật trong thời gian ngắn nhất, vì tôi tới đây để xét đoán ông ấy. Tôi còn giấu ông sức mạnh của tôi, nhưng tôi phải hoặc chấp nhận ông, hoặc hoàn toàn xua đuổi ông. Giải pháp thứ hai đối với tôi thật quá đau khổ, và tôi rất băn khoăn. Tôi xin thú nhận: ông ấy rất thân thiết đối với tôi! Trong lúc này tôi ở chung với họ, dưới cùng một mái nhà, tôi làm việc và khó nhịn nổi những sự lỗ mãng. Tôi đâu có nhịn hoàn toàn. Sau một tháng, càng ngày tôi càng tin chắc rằng cha tôi không phải là người có thể cho tôi biết lời giải đáp dứt khoát được. Con người kiêu hãnh đó đứng trước mặt tôi như cả một bí ẩn, thương tổn lòng người một cách sâu sắc. Với tôi thì ông lại là người dễ thương và hay pha trò, nhưng trái lại tôi muốn được đấu khẩu hơn là được nghe những lời đùa cợt đó. Tất cả những cuộc đàm thoại giữa tôi và ông đều luôn luôn có vẻ gì khó hiểu hoặc chỉ là một lối ăn nói mỉa mai đặc biệt của ông. Ngay lúc đầu, khi tôi vừa từ Mạc tư khoa đến, ông đâu có coi trọng tôi. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao ông lại đối xử như thế. Có lẽ ông đã đạt được kết quả đó để mãi mãi còn là người bí ẩn đối với tôi; nhưng riêng tôi, chắc chẳng bao giờ tôi lại hạ mình để cầu xin ông đối xử với tôi đứng đắn hơn. Hơn nữa, ông có những cung cách dị thường và hách dịch mà tôi chẳng biết đối phó cách nào. Nói tóm lại, ông coi tôi như một thằng bé miệng còn hôi sữa hạng bét, điều mà tôi không thể chịu nổi, vì tôi biết rằng trước kia ông cũng như thế thôi. Do đó, tôi gần như hoàn toàn không nói năng gì nữa. Tôi đợi một người mà khi tới Pêtécbuốc sẽ giúp tôi khám phá sự thật một cách dứt khoát: đó là hi vọng cuối cùng của tôi. Dầu sao tôi cũng sẵn sàng để đoạn tuyệt một cách dứt khoát và tôi đã áp dụng mọi biện pháp vì vấn đề đó. Tôi thương hại mẹ tôi nhưng... “hoặc ông ta, hoặc tôi”: đó là điều tôi muốn đề nghị với mẹ tôi và em gái tôi. Ngày giờ cũng đã được định sẵn; trong khi chờ đợi, tôi đi đến văn phòng làm việc. CHƯƠNG HAI 1 NGÀY 19 ấy, tôi cũng phải được lãnh tháng lương đầu của tôi ở nhà “con người đặc biệt” đã từng nói tới kia. Người ta đã không hỏi ý kiến tôi về chỗ làm này. Theo tôi nghĩ, người ta đã đem giao thẳng tôi cho chủ nhân tôi ngay từ ngày đầu tôi mới tới. Thật là thô bỉ, và tôi suýt bị bắt buộc phải phản kháng. Chỗ làm ở ngay trong nhà lão-hoàng-thân Sôkôlski. Nhưng phản đối ngay có thể tức thời đoạn tuyệt hẳn với họ. Điều đó không làm tôi sợ hãi chút nào, nhưng trái ngược với các mục tiêu chính yếu của tôi. Bởi vậy, trong khi chờ đợi, tôi đã chấp nhận chỗ làm, câm lặng, bảo vệ nhân phẩm của tôi bằng cách yên lặng. Tôi phải nói ngay rằng hoàng thân Sôkôlski, giầu sụ và là cố vấn đặc biệt, chẳng có liên hệ bà con gì với các hoàng thân Sôkôlski ở Mạc tư khoa (khốn khổ, nghèo nàn từ bao nhiêu thế hệ nay), là những người mà Vécsilốp đang kiện cáo. Đôi bên chỉ có danh tánh là giống nhau thôi. Tuy nhiên, lão hoàng thân rất quan tâm tới họ và đặc biệt yêu mến một người trong bọn họ, một sĩ quan trẻ tuổi, có thể nói là gia trưởng được. Trước kia nữa, Vécsilốp vẫn có một ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với những công việc của ông lão già này. Mà là bạn thân của ông ấy, một người bạn dị thường, vì tôi có thể nhận thấy vị hoàng thân tội nghiệp đó rất e dè ông, không những vào thời kì tôi tới làm việc với ông mà còn cả suốt trong thời gian giao du của họ, tôi chắc vậy. Vả lại, đã từ lâu, họ không hề gặp nhau nữa. Hành động vô liêm sỉ mà người ta gán cho Vécsilốp liên quan tới đúng gia đình vị hoàng thân này. Song chính Tatiana đã hiện diện ở đó đúng lúc và chính là qua sự trung gian của bà mà, tôi được đưa tới ở nhà ông, đang muốn có một “thanh niên” ở kề cận trong văn phòng của ông. Ông cũng lại rất muốn làm đẹp lòng Vécsilốp, bước bước đầu để giảng hòa với Vécsilốp và ông này cũng muốn như vậy. Ông hoàng thân đã quyết định như thế trong khi vắng mặt con gái, góa phụ của một vị tướng lãnh và chắc chắn bà này nếu có mặt sẽ không cho phép ông hoàng thân làm lành trước. Chuyện này sẽ đề cập tới sau nhưng tôi xin ghi nhận ngay rằng điều kì lạ ấy trong sự giao dịch của ông hoàng với Vécsilốp đã khiến tôi xúc động một cách có lợi cho ông. Tôi nghĩ, nếu vị tôn trưởng của một gia tộc bị xúc phạm, mà vẫn tiếp tục quí trọng Vécsilốp như vậy, thì những sự đồn đãi về thái độ phi đạo đức của Vécsilốp hẳn là không đúng hay ít ra còn là vấn đề phải xét lại. Điều này phần nào đã ngăn cản không cho tôi phản kháng: tôi hi vọng khi vào nhà hoàng thân kiểm chứng được tất cả các điều đó. Bà Tatiana đã giữ một vai trò đặc biệt vào thời kì tôi gặp bà ở Pêtécbuốc. Tôi hầu như quên đi sự hiện diện của bà. Tôi thật không ngờ bà lại quan trọng đến thế. Cho tới hồi đó, tôi đã gặp bà ba bốn lần ở Mạc-tư-khoa. Mỗi khi cần đưa tôi đến một nơi nào, dẫn tôi tới kí túc xá Tútsa buồn thảm hay hai năm rưỡi sau đó chuyển tôi về trường trung học hay gởi tôi tới trọ tại nhà của Nicôlai, là y như thấy bà xuất hiện không rõ theo lệnh của ai. Mỗi lần xuất hiện, bà ở với tôi suốt cả ngày. Bà kiểm soát quần áo lót và y phục của tôi, cùng tôi đi đến Kunetski và ra phố mua cho tôi tất cả các vật dụng cần thiết. Nói tóm lại bà sắm sửa đầy đủ y trang cho tôi, từ chiếc rương nhỏ tới con dao díp. Trong khi làm công việc đó, bà luôn luôn rày la, mắng mỏ và trách móc tôi, hạch hỏi tôi đủ điều, bắt tôi theo gương những đứa con nít tưởng tượng của các bằng hữu hay họ hàng của bà. Theo bà, bọn chúng đều giỏi và ngoan hơn tôi. Trời ơi, bà còn cấu véo tôi, nhiều lần đánh đập tôi khiến tôi đau đớn ê ẩm cả mình. Sau khi đã thu xếp chỗ trọ cho tôi, bà biến dạng luôn mấy năm, biệt vô âm tín. Hừ, tôi vừa mới tới là đã thấy bà xuất hiện để thu xếp cho tôi. Bà là một con người khô khan, mũi nhỏ nhọn như mỏ chim, đôi mắt sắc như mắt cú vọ. Đối với Vécsilốp, bà là một tên nô lệ trung thành: bà tôn kính ông quá chừng, coi ông như một vị giáo hoàng. Tuy nhiên, tôi ngạc nhiên sớm nhận ra rằng tất cả mọi người, không sót một ai và ở khắp mọi nơi, họ đều kính trọng bà. Nhất là mọi nơi, mọi chốn, ai ai cũng đều biết bà. Ông hoàng thân Sôkôlski đặc biệt tôn kính bà. Trong gia đình bà, những người con kiêu hãnh của Vécsilốp và tại gia đình Fanariôtốp, nơi nào cũng đều trọng nể bà. Tuy vậy, bà sống về nghề cắt may, bán đồ đăng ten, đồ rua ren, tôi nào biết rõ, và bà làm việc cho một cửa tiệm. Chúng tôi không hợp nhau, vừa mới nói được câu trước, câu sau đã cãi lẩy nhau rồi vì bà định la mắng tôi như hồi sáu năm về trước. Rồi càng ngày chúng tôi càng tiếp tục đấu khẩu với nhau. Song việc đó không ngăn cản chúng tôi đôi khi trò chuyện vui vẻ với nhau. Tôi thú thật, tới cuối tháng, tôi đã bắt đầu mến bà. Tôi nghĩ có lẽ đó là vì cá tính của bà. Tuyệt nhiên tôi không nói cho bà biết điều đó. Tôi sớm ý thức rằng người ta đặt tôi gần ông già bệnh hoạn với mục đích duy nhất là để “khuây khỏa” ông ta. Công việc của tôi chỉ có thế. Tất nhiên điều đó rất nhục đối với tôi và tôi phải có biện pháp đối phó. Nhưng ông già đặc biệt ấy đã sớm gây cho tôi một ấn tượng bất ngờ, tựa như thương hại. Tới cuối tháng tôi đã quyến luyến ông một cách kì lạ: dù sao, tôi đã từ bỏ ý định nói nặng với ông. Gia dĩ, ông chưa quá sáu mươi. Cả một chuyện đã xảy ra. Trước đây mười tám tháng, ông bị lên cơn cấp phát thần kinh: không rõ ông đi đâu, mà ông bị mất trí ở giữa đường. Thiên hạ ở Pêtécbuốc đàm tiếu rất nhiều về việc xấu này. Như trong những trường hợp tương tự, người ta đưa ngay ông ra ngoại quốc. Nhưng năm tháng sau ông xuất hiện trở lại, hoàn toàn lành mạnh, chỉ phải về hưu trí thôi. Vécsilốp nghiêm chỉnh xác định (với một nhiệt tình rõ rệt) rằng việc xảy đến cho ông hoàng tuyệt nhiên không phải là chứng điên, mà chỉ là một cơn bệnh thần kinh. Tôi nhận thấy ngay nhiệt tình đó của Vécsilốp. Tôi cũng hầu như tán thành quan điểm của ông. Có điều ông già hình như nói nhảm quá, không thích hợp với tuổi tác của ông. Người ta nói trước đây ông không có như thế bao giờ. Người ta nói xưa kia ông đã từng làm cố vấn một nơi nào đó, tôi không rõ là để giúp những ý kiến gì và rằng ông đã thi hành một cách trác tuyệt sứ mạng đã giao phó cho ông. Tôi chỉ mới biết ông có một tháng, tôi không cho rằng ông có những khả năng đặc biệt để làm một cố vấn. Người ta nhận thấy (tuy nhiên tôi không lưu ý tới) sau vụ lên cơn cấp phát thần kinh, ông có một ý muốn lạ kì là cưới vợ ngay. Và trong thời gian mười tám tháng đó, đã hơn một lần, ông đã nghĩ đến việc thực hiện ý đồ ấy. Hình như trong cuộc giao tế, người ta biết rõ ông có ý đó và người ta chú ý tới. Song ý muốn ấy không thích hợp với quyền lợi của một số người bao quanh ông. Khắp mọi phía người ta canh chừng ông. Gia đình ông không đông lắm. Ông đã góa vợ từ hai mươi năm nay. Ông chỉ có một người con gái duy nhất, góa phụ của một vị tướng. Ngày này qua ngày khác, người ta chờ đợi bà từ Mạc tư khoa tới. Rõ ràng là ông rất sợ tính tình của người thiếu phụ ấy. Nhưng còn một số đông bà con xa, nhất là về bên người vợ đã quá cố của ông, hầu hết đều ở trong cảnh nghèo túng. Ngoài ra, lại còn vô số những con trai, con gái nuôi của ông, hằng được ông giúp đỡ. Tất cả bọn đó chờ được hưởng một phần nhỏ gia tài của ông. Chính vì thế chúng đã canh chừng ông cho bà tướng. Vả lại hồi còn thanh xuân, ông có một tính lạ lùng mà tôi không rõ có lẩn thẩn hay không: ông thích gả chồng cho những cô gái nghèo. Từ hai mươi năm nay, lão đã gả chồng cho chúng: những cô gái có họ xa, những người em gái họ con chú con bác con dì bên vợ, những cô gái đỡ đầu và cho tới cả con gái lão gác cổng. Trước hết, ông nuôi chúng từ khi chúng hãy còn nhỏ, giao cho các nữ phó, các cô giáo và vú em người Pháp. Sau đó ông gửi chúng vào các học đường tốt nhất, cuối cùng ông cho chúng của hồi môn. Tất cả bọn chúng đều quanh quẩn bên ông. Lẽ tất nhiên, những cô gái nuôi đó khi lấy chồng lại còn sinh ra các con gái nữa. Tất cả những cô gái này cũng nhăm nhăm vào sự bảo trợ của ông. Ông là cha đỡ đầu ở khắp nơi, và tất cả bọn họ đã tới chúc phúc vào ngày lễ sinh nhật của ông. Điều đó làm ông cực kì vui thích. Sau khi đến nhà ông, tôi nhận thấy ngay đầu óc ông chứa đựng và ẩn tàng một niềm tin đau khổ – điều đó rất dễ nhận thấy – ông tin rằng bây giờ người ta nhìn ông với một thái độ kì lạ, người ta không đối xử với ông như trước, hồi ông còn đầy đủ sức khỏe. Không bao giờ ông từ bỏ được ấn tượng đó, ngay cả trong những cuộc họp vui vẻ nhất của giới thượng lưu. Ông già đâm ra khó tính. Ông cảm thấy hình như mọi người nhìn ông một cách khác lạ. Ý tưởng người ta nghi ông hãy còn điên khùng đã hành hạ ông một cách rõ rệt. Đôi khi ông nhìn tôi chăm chăm như ngờ vực. Và nếu chẳng may ông biết có kẻ nào loan truyền hay xác định tin đồn đó về ông, tôi chắc rằng dù người đó tuyệt đối không có chút thù hằn nào với ông cũng sẽ trở thành kẻ tử thù của ông. Tôi ước mong quí vị ghi nhận điều đó. Tôi cũng xin thêm rằng đây cũng là điều đã khiến tôi quyết định ngay từ ngày đầu là không nên đối xử tàn nhẫn với ông. Tôi cũng rất sung sướng ngẫu nhiên có dịp làm cho ông vui thích hay khuây khỏa. Tôi không tin rằng điều thú nhận này có thể là một bóng mờ phủ lên nhân phẩm của tôi. Ông đầu tư một phần lớn tài sản trong công cuộc kinh doanh. Sau cơn bịnh, ông đã tham gia vào một đại công ti nặc danh rất vững chắc. Tuy công cuộc kinh doanh đều do những người khác điều khiển nhưng ông cũng rất quan tâm tới. Ông thường tham dự các cuộc họp của các cổ đông, tự bầu làm hội viên sáng lập, đi dự các hội nghị, đọc các bài diễn văn rất dài, biện bác, nói năng ầm ĩ với một sự thỏa mãn rõ rệt. Ông ham đọc diễn văn: ít ra mọi người có thể nhìn thấy khẩu khí của ông. Nói chung ngay cả trong cuộc sống gia đình với những người thân nhất, ông cũng rất thích chêm vào giữa câu chuyện một vài câu thâm trầm hay vài lời duyên dáng, ý nhị. Và tôi hiểu ông. Tại biệt thự của ông, ở từng dưới có một loại thương quán gia nhân, nơi đây có một nhân viên điều hành các công việc, tính toán tiền nong, giữ gìn sổ sách, kiêm luôn cả chức quản gia. Gia dĩ, nhân viên đó vốn từng là công chức, hẳn là đủ sức làm những công việc ấy, nhưng theo ý muốn của hoàng thân, người ta còn cho tôi phụ tá hắn. Song tôi được chuyển ngay tới văn phòng của hoàng thân. Nhiều khi trước mặt tôi, không có việc gì làm, không có giấy má sổ sách gì cả dù chỉ là hình thức. Ngày nay, tôi viết những dòng này với tư cách một người từ lâu đã tỉnh ngộ và đã chán chê mọi việc; tuy nhiên tôi vẫn không làm sao hình dung được nỗi đau lòng (mà tôi hãy còn nhớ một cách rõ rệt), nhất là sự bối rối lúc bấy giờ đã đưa tôi tới một trạng thái lo lắng, nung nấu, khiến thâu đêm không ngủ được vì những điều khó hiểu mà tôi thắc mắc. 2 ĐÒI tiền là chuyện rất đê tiện, dù là tiền lương, nếu trong thâm tâm, mình nhận thấy số tiền ấy không xứng đáng. Khốn nỗi, hồi hôm mẹ tôi thì thầm với em gái tôi, không cho Vécsilốp hay (để khỏi phiền lòng ông) ngỏ ý muốn đem ra tiệm cầm đồ một pho tượng thánh mà mẹ tôi rất quí. Lương tháng của tôi được năm chục rúp, nhưng tôi hoàn toàn chưa hiểu cách lãnh lương ấy như thế nào. Khi đưa tôi vào làm, người ta chưa cho tôi biết gì cả. Trước đó ba hôm, tôi có gặp người thư kí dưới phòng và có hỏi hắn: – Tôi lãnh lương ở đâu? Hắn nhìn tôi, mỉm cười với vẻ ngạc nhiên (hắn không ưa tôi): – Anh cũng lãnh lương sao? – Tại sao lại không? Tôi đợi xem hắn nói gì nữa chăng, nhưng hắn chỉ đáp khô khan: – Tôi không biết. Rồi hắn chăm chú vào cuốn sổ có kẻ hàng trong đó hắn đang chép lại những số tiền xuất nhập đã ghi sẵn trên những mẩu giấy. Vả chăng hắn biết là tôi cũng có làm việc. Mười lăm ngày trước đó, chính hắn có giao cho tôi một công việc và tôi đã mất bốn ngày mới làm xong: việc chép lại một bản nháp. Tôi đã phải viết lại gần hết bản văn ấy. Đó là một mớ ý kiến của hoàng thân thảo ra để trình lên Hội đồng Cổ đông. Với mớ ý kiến lộn xộn ấy, tôi đã viết thành một bản văn gọn gàng. Sau đó hoàng thân và tôi phải mất cả một ngày về bản thảo ấy. Hoàng thân đã thảo luận với tôi rất gắt gao, nhưng rồi ông cũng hài lòng... Có điều tôi không biết là bản văn ấy có được đệ trình Hội đồng hay không? Ấy là tôi không kể đến công tôi đã viết hai hoặc ba bức thư thương mại, cũng do hoàng thân bảo viết. Sở dĩ tôi ngại đòi tiền lương, vì tôi có ý định thôi việc: tôi cảm thấy trước rồi đây mình phải rời khỏi chốn này, do những tình thế khó tránh được. Buổi sáng hôm ấy, sau khi thức dậy và đang mặc quần áo trong phòng ngủ, tôi cảm thấy tim tôi đập mạnh, dửng dưng cũng không được, rồi khi đến thư phòng hoàng thân, tôi vẫn thấy khó chịu như vậy: buổi sáng đó chắc người ấy sẽ đến, người đàn bà mà tôi đợi chờ để được hiểu tất cả những gì đã khiến tôi băn khoăn bứt rứt. Người ấy là con gái của hoàng thân, bà tướng Acmaxốp, quả phụ trẻ tuổi mà tôi đã nói đến và là người đang ra mặt kình địch với Vécsilốp. Tôi đã viết rõ tên bà rồi đó! Đương nhiên, tôi chưa hề trông thấy bà và tôi không thể tưởng tượng tôi sẽ nói với bà như thế nào, hoặc tôi sẽ trò chuyện với bà hay không? Nhưng tôi cho rằng (có lẽ với đầy đủ lý do) khi bà ta đến, sẽ tan biến hết mọi bóng tối mà theo tôi thật đang bao vây Vécsilốp. Tôi không thể bình tĩnh vì cùng một lúc tôi có ba cảm tưởng mới bước đầu đã nhút nhát vụng về, là hết sức đau khổ; thật là lạ lùng kinh khủng và nhất là xấu hổ. Tôi nhớ rõ ngày hôm đó như thuộc lòng! Hoàng thân chưa biết gì về tin con gái ông có thể đến trong ngày hôm ấy. Ông không đợi bà ta trước một tuần lễ. Chính tôi cũng mới biết tin này hồi hôm và hết sức tình cờ: cô Tatiana có nhận được của bà tướng một bức thư rồi nói cho mẹ tôi biết, vô tình tôi nghe được. Hai bà nói chuyện thầm với những câu mập mờ, nhưng tôi đã đoán biết họ nói gì. Tất nhiên tôi chẳng chú ý nghe, nhưng mẹ tôi có vẻ bối rối quá khi được tin bà tướng sắp đến, bởi vậy tôi không thể không ghé tai nghe hai người thì thầm. Lúc ấy không có Vécsilốp ở nhà. Tôi không muốn báo trước cho hoàng thân biết, vì suốt tháng vừa qua, tôi nhận thấy ông rất sợ bà tướng đến. Trước đó ba hôm, ông có nói ấp úng và lửng lơ rằng khi bà tướng đến, ông sẽ e ngại cho tôi hoặc giả có thể vì tôi sẽ có một cuộc chửi mắng ầm ĩ. Song le tôi cần nói thêm, đối với gia đình, ông vẫn giữ quyền tự chủ và địa vị trưởng thượng, nhất là về phương diện tiền bạc. Kết luận đầu tiên của tôi về ông là: ông y như đàn bà, nhưng sau đó tôi xét lại rằng ông có tính đàn bà tuy không có nam tính thực sự nhưng đôi khi ông cũng tỏ ra ngoan cố! Có những lúc ông gần như khó chịu, tuy bề ngoài ông nhút nhát mềm mỏng. Sau này Vécsilốp (cha tôi) có giải thích tỉ mỉ cho tôi hiểu rõ về điểm đó. Còn lúc ấy tôi chỉ ngạc nhiên nhận thấy ông và tôi không hề chuyện trò với nhau về bà tướng, có thể nói là chúng tôi tránh hẳn chuyện đó; nhất là tôi cố tránh, còn hoàng thân lại tránh nói chuyện về Vécsilốp, và tôi đoán ông sẽ không trả lời nếu tôi hỏi ông về một trong những chuyện tế nhị đang làm tôi thắc mắc. Nếu người ta muốn biết chúng tôi thường nói chuyện với nhau về những gì trong suốt tháng ấy, tôi sẽ đáp: mọi chuyện, nhưng toàn là những chuyện kì dị. Điều khiến tôi hài lòng nhất, là hoàng thân đối xử với tôi rất nhã nhặn. Có khi tôi nhìn con người ấy bằng tất cả sự ngạc nhiên, và tôi tự hỏi: “Trước kia ông làm gì? Hồi còn ở Trung học, lớp đệ tứ, chẳng hạn, hẳn ông ta là một người bạn dễ thương!” Nhiều lần tôi cũng phải chú ý đến gương mặt của ông: hình như ông rất nghiêm nghị (và khá đẹp), khô khan; tóc xoăn bạc phơ, dầy dặn, cặp mắt mở lớn; nhìn toàn thân, ông khô gầy cao lớn, nhưng bộ mặt có nét khó coi, gần như khiếm nhã vì đang nghiêm nghị đến tột cùng bỗng ông vui vẻ đến quá mức, điều không ngờ cho người nào mới gặp ông lần đầu tiên. Tôi có nói với Vécsilốp về điều này, ông ta ngạc nhiên; hẳn là ông ta tưởng tôi không thể có được sự nhận xét như vậy. Nhưng ông cũng chỉ bình phẩm qua loa rằng hoàng thần mới có thói quen ấy từ khi ông ta bịnh tật, mới vào thời kì sau này thôi. Hoàng thân và tôi thường đề cập đến hai vấn đề trừu tượng: Chúa và sự hiện hữu của Chúa (có Chúa hay không?) và vấn đề đàn bà. Ông là người rất sùng đạo, có một tủ lớn bầy nhiều tượng thánh và một cây đèn thờ. Nhưng có nhiều khi ngông cuồng, ông lại nghi ngờ sự hiện hữu của Chúa và ông nói những lời lạ lùng để chọc tôi phản ứng. Tôi thường lãnh đạm với tư tưởng ấy, nhưng chẳng vì thế mà cả hai chúng tôi không cùng nổi nóng, và luôn luôn là nổi nóng thực sự. Vả lại, mãi đến nay, những cuộc bàn cãi ấy vẫn còn để lại cho tôi một kỉ niệm thích thú. Tuy nhiên đối với ông, thích thú nhất là tán chuyện về đàn bà, nhưng vì tôi không thích nói chuyện ấy nên tôi không thể là một kẻ đối thoại tốt, và điều này đôi lúc cũng làm cho ông buồn. Buổi sáng hôm ấy, khi tôi vừa đến nhà hoàng thân, ông đã đề cập ngay vấn đề đàn bà. Tôi thấy ông có vẻ vui tươi; còn như hồi hôm khi cáo biệt ông, tôi thấy ông rầu rĩ vô cùng. Thế nhưng, ngay ngày hôm nay, tôi phải giải quyết vấn đề tiền lương của tôi, trước khi có vài người nào đó đến. Tôi tiên đoán rằng trong ngày hôm ấy câu chuyện giữa ông và tôi sẽ bị gián đoạn (không lẽ vô cớ mà tim tôi đập mạnh); và như vậy tôi sẽ không đủ can đảm đề cập đến chuyện tiền bạc. Nhưng vì câu chuyện không dính dáng gì đến tiền bạc, dĩ nhiên tôi hết sức bực tức tại sao tôi tại khờ dại như vậy; và tôi còn nhớ, lúc ấy vì giận một câu hỏi quá thích thú của ông, tôi trình bày ý kiến của tôi về đàn bà, tôi nói một mạch với giọng hăng hái khác thường. Rốt cuộc ông lại càng nổi sùng hơn nữa với tôi. 3 “... TÔI không ưa đàn bà, vì họ thô tục, vì họ vụng về, vì họ thiếu sáng kiến và... vì họ ăn mặc diêm dúa!” Đó là câu kết luận lộn xộn của tôi sau tràng hùng biện. Ông hoàng có vẻ thích thú lắm, liền lên tiếng: “Nè chú bé, nên thương họ chớ!”. Tôi lại càng sùng. Tôi chỉ hòa hoãn tinh tế trong những chuyện nhỏ, nhưng tranh luận về những đề tài quan trọng, tôi không bao giờ chịu nhượng bộ. Với những điều nhỏ nhặt, như trong sự xã giao qua quít, ai muốn đối xử với tôi thế nào cũng được và tôi vẫn thường tự trách mình về điểm ấy của bản tánh tôi. Không hiểu tại sao do thói dễ dãi đáng khinh bỉ, nhiều khi tôi tán đồng quan điểm của những đứa khoác lác, chỉ vì sự lễ độ của hắn đã huyễn hoặc tôi, hay có khi tôi tranh luận cả với kẻ ngu ngốc: đó là điều không thể tha thứ được. Chẳng qua là tại tôi không biết nhịn, và cũng vì tôi đã lớn lên trong cảnh cô đơn. Có lúc mình tức giận bỏ đi chỗ khác và thề rằng sẽ không làm như vậy nữa, nhưng ngày hôm sau đâu vẫn hoàn đó. Chính vì thế, đôi khi tôi bị coi như một thằng bé mười sáu tuổi. Vậy thì đáng lẽ tôi phải tập luyện tánh tự chủ, nhưng không, ngày nay tôi còn thích náu mình hơn nữa trong sự sống cô đơn, cô đơn đến yếm thế cũng được. “Bạn cười tôi vụng về cũng được, nhưng tôi xin vĩnh biệt bạn!” Tôi nói thật và dứt khoát như vậy. Vả lại hoàn toàn không phải nhân nói về ông hoàng mà tôi viết ra điều đó, cũng không phải nhân cuộc bàn cãi đang thuật lại. Tôi bảo ông hoàng, gần như la lớn: – Tôi không nói để làm vui lòng hoàng thân. Tôi chỉ tỏ bày ý kiến của tôi mà thôi. – Nhưng đàn bà thô bỉ như thế nào? Và họ ăn mặc khó coi ở chỗ nào? Chú nói lạ! – Họ quả thô bỉ! Khi đi xem hát hay đi dạo phố, đàn ông luôn luôn đi bên hữu, gặp nhau liền nhường lối. Tôi đi bên hữu, ông khác cũng đi bên hữu. Còn đàn bà? – tôi muốn nói đến mấy bà thời lưu, vì chính tôi đang nói về mấy bà đó – họ cứ đâm bổ vào người ta, chẳng cần nhìn ai, làm như người ta phải tránh để nhường lối cho họ. Tôi sẵn sàng nhường bước cho phái yếu, nhưng không phải họ có quyền như vậy. Tại sao họ lại yên chí rằng tôi bắt buộc phải nhường họ. Thế mới tức chứ! Mỗi lần gặp mấy bà đó là tôi phỉ nhổ vì ghê tởm. Sau đó, họ lại còn la ó là họ bị miệt thị, họ đòi bình quyền. Bình quyền? Họ giẫm lên chân tôi, hoặc phả bụi đầy miệng tôi, mà lại còn đòi bình quyền? – Bụi vào đầy miệng? – Vâng! Bởi vì họ ăn mặc diêm dúa. Có trụy lạc mới không nhận thấy điều đó. Các tòa án phải xử kín khi xét đến những vụ phi lễ. Tại sao người ta lại cho phép ăn mặc lố lăng ở ngoài đường là nơi còn đông công chúng hơn ở tòa án. “Mấy bà cố ý gây ra những tiếng quần áo sột soạt ở sau lưng mấy bà, để ra ta đây là mĩ nhân. Quả là họ cố ý! Tôi không thể không nhận thấy như vậy; thanh niên cũng nhận thấy, thiếu niên, con nít cũng nhận thấy. Thật là nhớp nhúa! Mấy ông già trụy lạc ngắm nhìn mấy bà đó rồi chạy theo sau với cái lưỡi lắc lém, thôi thì cũng mặc đi! Nhưng còn cả một giới thanh niên trong trắng cần được bảo vệ. Chỉ còn có nước phỉ nhổ vì ghê tởm. Họ đủng đỉnh đi trên hè phố, sau lưng họ là cả một cái đuôi áo dài hàng thước quét bụi. Ông đi đằng sau họ: một là ông bước nhanh qua mặt họ, hai là ông nhảy vội để tránh xa sang bên cạnh nếu không ông sẽ bị họ phả vào miệng vào mũi ông hai kí lô bụi. Hơn nữa họ đã quét cái đuôi áo ấy trên cát sỏi suốt ba cây số chỉ vì làm như vậy mới đúng thời trang. Trong khi ấy chồng của họ chỉ lãnh mỗi năm trăm rúp tại Thượng viện: do đó mới có nạn hối lộ! Tôi phỉ nhổ vào họ; tôi phỉ nhổ công khai và tôi chửi rủa.” Tôi ghi lại cuộc đối thoại này bằng giọng có phần hài hước và hoạt bát của tôi hồi ấy, nhưng ngày nay, tôi vẫn còn giữ ý kiến ấy. Ông hoàng vội hỏi: – Và chú không bị gì cả? – Tôi phỉ nhổ và cứ đi. Dĩ nhiên, họ hiểu, nhưng giả bộ không nghe thấy gì cả, cứ trịnh trọng bước tới không quay đầu lại. Có một lần, tôi cãi lộn rất kịch liệt với hai bà, cả hai đều có đuôi áo, cãi nhau trên lề phố, dĩ nhiên tôi không dùng ngôn ngữ thô tục, có điều tôi chỉ to tiếng cự nự rằng tôi khó chịu vì đuôi áo của họ. – Chú đã cự nự như vậy? – Đúng thế! Trước hết là vì họ chà đạp qui củ tốt đẹp của xã hội. Sau nữa vì họ khuấy bụi lên và đường phố là của mọi người: tôi dạo phố, người khác dạo phố, người thứ ba nữa... Fêđo, Ivan, ai dạo phố cũng được. Đó là những lời tôi đã nói. Và đại để là tôi không ưa dáng đi của các bà khi nhìn họ ở phía sau. Điều này tôi cũng nói nhưng chỉ nói bóng gió thôi. – Nhưng này! Có thể chú đã tự chuốc lấy rắc rối. Họ có thể đưa chú ra tòa đó! – Không thể được! Họ có thể kiện tôi về tội gì? Một người đi qua và nói một mình. Mỗi người đều có quyền phát biểu trống không. Tôi nói bóng gió, không đả động đến các bà ấy. Chính hai bà đã gây tôi: họ đã dùng những lời lớn lối thô tục hơn những lời của tôi. Nào, họ bảo tôi là ranh con đáng phạt không cho ăn đồ tráng miệng. Nào họ chửi tôi là tên vô thần cần phải bắt giao cảnh sát. Rồi họ vu khống rằng tôi đã cọ sát vào họ vì thấy họ yếu đuối và đi một mình. Và nếu có một ông nào đi với họ chắc là tôi đã phải trốn chạy gấp. Tôi vẫn điềm nhiên bảo họ để tôi yên và tôi sẽ đi qua lề bên kia. Nhưng để tỏ cho họ biết rằng tôi không hề sợ hãi bọn đàn ông của họ, tôi sẵn sàng nhận cuộc thách thức, tôi đi, theo họ đến tận nhà, đi cách họ hai chục bước, rồi tôi đứng trước cửa nhà họ để đợi chờ bọn đàn ông của họ. Tôi đã làm vậy đó. – Chú làm được như vậy? – Đúng thế, kể ra cũng dại, nhưng lúc ấy tôi đã nổi nóng. Tôi đã đi theo họ đến ba cây số dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đến tận “Nữ học viện”. Sau hết họ đi vào một căn nhà gỗ không có lầu, rất khang trang, tôi phải công nhận như vậy, có nhiều cửa sổ trên đó người ta trông thấy nhiều hoa, hai con Kim tước, ba con chó nhỏ và những bức họa đóng khung. Tôi đứng đến nửa giờ ở ngoài đường phố trước nhà ấy. Các bà ấy lén nhìn tôi ba lần rồi buông tất cả """