"
Đất Phương Nam Ngày Cũ - Trần Bảo Định full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đất Phương Nam Ngày Cũ - Trần Bảo Định full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐẤT PHƯƠNG NAM NGÀY CŨ Tác giả: Trần Bảo Định
Thể loại: Truyện ngắn, Văn học Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Đóng ebook: nguyenthanh-cuibap Nguồn text: Waka - 07/05/2018
ÐÊM PHÙ SA CHÂU THỔ
1.
Trời chuyển mưa chớp giựt, Tư chìa vôi níu chặt be xuồng vỏ gòn và có ảo giác mặt nước sông nghiêng. Anh Sáu tỉnh bơ, ngồi hút thuốc sau lái chờ bạn hàng tới nhận hàng. Tư chìa vôi đâm lo: “Sắp mưa, anh Sáu không kêu mình che đậy, rủi ướt đồ đạc, hàng bông ướt ráo nạo, sao trời!”. Thình lình, trời ngưng gầm gừ sấm nổ, tự dưng chớp giựt lặng trang. Trời quang mây tạnh. Anh Sáu “đi guốc trong bụng” thằng Tư, có điều anh chưa nói ra đó thôi! Tư ở phương xa, mới tới xin “đi bạn” chưa “quen nước quen cái” thì nói chi quen phong thổ đồng bằng.
Đợi chở chuyến hàng bận về và chờ con nước, anh rủ Tư lên bờ kiếm cái gì mần lai rai cho đỡ buồn miệng. Tư giữ phận, không dám vượt ranh chủ tớ. Anh Sáu vỗ vai Tư, rồi cười bằng mắt:
– Trong việc mần ăn, người Nam Bộ coi nhau là “bạn”. Tui mời chú em đi “kéo ghế”. Ghế ở đây, thuộc loại ghế đẩu tuy không sang nhưng cũng vừa đủ ấm lòng kẻ thương hồ.
Anh Sáu ngó bộ dạng và cặp giò ốm tong teo, cao lêu nghêu của Tư chẳng khác mấy cái chìa vôi ngoáy trầu; hèn gì đám “đi bạn” chung với nó, gọi nó “Tư chìa vôi”. Bước lên thân cây dừa đẽo rãnh bực thang, Tư cúm rúm sợ trợt chưn té.
Thềm quán cao, Tư ngồi ghế đẩu ngó bến sông thấy chiếc xuồng vỏ gòn giống hệt vỏ trái gòn trong khu vườn nhà ở Quảng Yên. Tư cố giấu cảm xúc chạnh lòng ly hương, quay sang hỏi anh Sáu: – Khi nãy, sao anh gọi đi “kéo ghế”?
– Thì, gốc gác của tui cũng từ ngoài đó vô đây!
Ánh mắt xa xăm, anh buông thõng một câu:
– Đã hơn ba đời người, chớ ít ỏi gì đâu!
Dường như muốn né tránh xúc động, anh hớp ngụm rượu rồi nói lảng sang chuyện mưa nắng.
– Miền phù sa châu thổ có năm tháng mưa, bảy tháng nắng. Nếu, gió mùa Tây Nam đem mưa về thì, gió mùa Đông Bắc mang nắng hạn đến. Và, xứ Rạch Giá bao giờ cũng được trời mưa sớm hơn các nơi khác độ mươi ngày, nửa tháng.
– Anh nói chi? Tui không hiểu!
Anh Sáu lắc lắc chai rượu, rót đều đôi chén bằng nhau. – Theo chuyện kể dân gian, sở dĩ Rạch Giá uống nước trời mưa sớm vì, nó “hứng ngọn gió Tây Nam đầu tiên” và cũng bởi, trời sanh cây giá mọc đôi bờ hai con rạch ăn thông nhau nhằm bảo vệ đất cù lao không trôi ra biển. Cây giá khát nước mưa, trời chìu như sự thưởng công giữ đất. Lưu dân từ ngũ Quảng vô khẩn hoang lập điền, nghe thấy vậy, đồng tình đặt tên miền đất mới là cù lao Giá. Đất sống nhờ nước, cù lao phát triển nhờ rạch. Rạch trữ nước ngọt cận kề biển chứa nước mặn nên người đời tôn vinh rạch: Ngăn mặn, giữ yên bờ cõi. Từ đó, thiên hạ gọi Rạch Cây Giá; lâu ngày dài tháng, chữ “Cây” rễ lút sâu lòng đất chỉ còn hai tiếng gọn hơ: Rạch Giá!
Chủ hàng chất hàng gửi đã xong, con nước anh Sáu chờ cũng vừa kịp tới. Lúc xuồng tách bến, anh Sáu cười và nói lớn:
– Trời gầm gừ, chớp giựt vào tháng cuối năm... Tui không kêu chú em che đậy hàng vì, hiểu trời hù dọa chơi; chớ nếu mưa trái mùa, chả lẽ trời tạo cớ xúi giục vạn vật trần gian đảo điên, ly tán à! ***
Tính ra thì, Tư chìa vôi cũng đã đi bạn với anh Sáu hơn ba cái Tết. Tư quen dần cảnh vật, nếp sống sông nước miền Nam. Anh Sáu nhiều lần nhắc nhở: “Cần “để”, không cần “giữ” ý tứ. Nhiêu đó, đủ hòa nhau và được thuận lòng”. Rồi anh dặn: “Để” phải tinh tường, “giữ”
cái phải giữ, không câu nệ. Anh Sáu thương Tư vì tánh nết hơn vì cảnh ngộ. Bản chất dân sông rạch không tùy hứng, ngẫu nhiên mà từ, kinh nghiệm thực tế khi lựa chọn nơi ăn chốn ở cho phù hợp với môi trường tự nhiên. Anh Sáu nói thêm cho Tư “để ý”:
– Dòng chảy con sông như sợi dây thiên nhiên cột ràng xóm ấp vì nhà cất: “tiền sông, hậu ruộng”. Chú em nghiền ngẫm rồi sẽ hiểu ra. Biết đâu sau nầy nó hữu ích khi, chú em muốn chọn nơi lập thân.
Chuẩn bị chở chuyến hàng đêm, Tư hối hả tắm gội, giặt giũ áo quần trên cây cầu ván gie ra mé sông ở bến sông. Bên kia liếp vườn, nắng táp hỗn hàng cau mềm rũ lá, thứ nắng người ta thường nói: “Nắng quái chiều hôm”!
2.
Đêm phù sa đen tối mặt.
Chiếc xuồng vỏ gòn bốn chèo chở hàng về Rạch Giá. Xuồng lướt gió nước thuận trên dòng kinh xáng Xò No băng ra sông Cái Lớn. Thị trấn Gò Quao xưa kia, có tên chữ Đại Hà huyện đã ngái ngủ êm đềm dưới trời sao đồng bằng. Từ sau lái, anh Sáu nhắc:
– Chú em! Cẩn trọng khi tới khoảng giữa rạch Cái Tư, một nhánh sông Cái Lớn và rạch Cần Thơ ăn ngang thị tứ Vị Thanh. Tư hiểu ý anh Sáu nhắc “cẩn trọng” là cẩn trọng cái gì. Khoảng giữa rạch Cái Tư và rạch Cần Thơ tạo nên vùng “đất mật”, dân tứ xứ đổ xô về kiếm sống, dân chuyên nghề “bối” và “ghe quan” cũng lảng vảng mò tới kiếm ăn. Ông bà mình thường nói: “Có mật có ruồi, theo ruồi sẽ đến cầu tiêu”. Bởi vậy, vùng “đất mật” cũng là vùng “đất đắng”.
– Dạ! Tui biết rồi, anh Sáu!
Tư vừa chèo vừa căng mắt quan sát. Sông nước im ắng lạ thường, thỉnh thoảng có tiếng cú kêu hoặc tiếng vạc kêu sương rời rạc... Người nghe ai mà chẳng sợ, chẳng chạnh lòng. Tư mong và rất mong, có
tiếng hò của ai đó, vào lúc nầy, cái sợ sẽ tan đi và lòng thì, bớt chạnh. Tư nhớ những chi tiết do anh Sáu chỉ vẽ: “Ghe hầu khác ghe điệu cả hình dáng lẫn kẻ sử dụng. Ghe hầu của đám quan lại, ghe điệu của bọn giàu có. Ghe điệu mũi lái chạm trổ, kèo mui sơn phết son vàng. Ghe hầu tàng lọng, về đêm đèn đuốc sáng choang. Hễ nhác thấy hai loại ghe đó, né lẹ tránh xa; kẻo “tai bay vạ gió”.
Xuồng đang lướt mái chèo ngon trớn. Bỗng, anh Sáu la thất thanh: “Bát! Bát!...” âm vang giựt dội mặt nước. Chiếc ghe trước mũi chẳng những không chịu “cạy”[1] mà nó, lao xắn tới. Trên ghe lố nhố năm, bảy thằng bôi mặt giấu tông tích, chực chờ nhảy qua xuồng. Không kịp trở tay chèo, Tư la chói lói:
– Bối! Bớ người ta, bối... b... ố... i...
Lấy hết sức bình sinh trung niên, anh Sáu cố “cạy” chiếc xuồng. – Rầm! Rầm! R... ầ... m...!
Tư văng xuống kinh. Mũi xuồng quay mòng mòng đâm vô chiếc ghe neo bờ không treo đèn báo hiệu. Đồng thời, cùng lúc, chiếc ghe của đám “Bối” đụng thẳng hông xuồng. Trời tối, giơ bàn tay không thấy!
***
– Giờ Tý canh Ba, Bá hộ đi đâu qua hướng rạch Cái Tư? Huyện Heo nghiêm sắc mặt, hỏi Bá hộ Thao.
– Dạ! Bẩm quan anh, em... e... m...
Bá hộ Thao cà lăm cà lặp một hồi mới nói được, rằng: “Em lặn lội đêm hôm sương gió là để kiểm tra bất thình lình bọn tá điền bê trễ việc tá túc[2]”. Huyện Heo ngồi tréo ngoảy, tay xe xe sợi lông tài mọc trên mụt ruồi đen mép phải miệng. Bởi, huyện Heo thừa biết âm mưu của thằng Thao “mượn tay quan cướp ruộng đất thằng Sáu”.
Đời trước, ông bà anh Sáu khẩn hoang được mươi mẫu đất và qua nhiều mùa cấy cày, đất trở nên “ruộng mứt”. Rủi cho gia đình anh,
“ruộng mứt” đó lại nằm cặp ranh đất Bá hộ Thao.
Huyện Heo đập tay xuống bàn.
– Đi kiểm tra bọn tá điền bê trễ việc tá túc, hay léng phéng đi thông dâm với vợ thằng Biện Tình vậy, ông Bá hộ?
Bị huyện Heo điểm ngay chóc huyệt, Bá hộ Thao đứng chết trân, trán rịn lấm tấm mồ hôi. Quán tính “đầu trộm đuôi cướp” có từ buổi chập chững hành nghề trộm bất chợt hiện về, giúp Bá hộ Thao kịp lấy lại bình tĩnh.
– Thì, em cũng vì muốn mang lợi lộc dâng tặng quan anh, đó thôi! Miễn sao, quan anh xử nó đi tù và bắt nó bán nhà cửa, ruộng vườn lo chạy án, lo phí tổn sắm lại cái ghe điệu cho em.
Cặp mắt giống mắt heo của huyện quan lạnh lùng ngó lên trần nhà, giọng nói không xì hơi qua đôi hàm răng khít rịt:
– Bá hộ khinh khi quan quá mức, tù mọt gông đó, nha! Nói xong, quan chắp tay sau đít, đi tới đi lui, mặt tai tái, đóng kịch giận dữ.
– Đẩy vào thế kẹt, nó bán mình mua theo giá mình định. Mình có cướp giựt của nó đâu, quan rầy rà em quá thể!
Bá hộ Thao tức mình thầm nghĩ: “Mình với va mần ăn nhiều năm, nào phải lần đầu. Ngay vợ thằng Biện Tình, va cũng mần banh chìa sứt gọng. Chuyện bọn bối lộng hành khúc sông về miệt Cái Tư cũng chính va giao kèo bán bãi cho chúng. Lạ thiệt, sao hôm nay, va trở chứng?”. Nghĩ thì nghĩ vậy, sợ sẩy mồi và hỏng việc mần ăn với quan, Bá hộ Thao chơi bài ngửa:
– Em bỏ tiền mua, quan khỏi lo!
Bấm bụng nói vậy, chớ trong bụng Bá hộ Thao tiếc tiền hùi hụi và chẳng phải, Bá hộ Thao mù tịt lai lịch huyện Heo. Huyện quan xuất thân Hương quản làng Hòa Hưng, họ tên cúng cơm Lê Văn Nạo, con Lê Văn Ráo. Dân Hậu Giang thời đó, không ai không ngán
“cặp bài trùng Ráo – Nạo”. Tuy đụng gì ăn đó, nhưng ở vùng phù sa châu thổ không có cái ăn nào ngon lành hơn “ăn đất” và, ăn đất khỏi cần cạp. Tía con thằng Nạo cố sức ăn sạch sành sanh, ăn ráo nạo; ăn đến đỗi thành danh: “Heo, ăn như heo”!
Huyện Heo vỗ vai Bá hộ:
– Thôi được, cứ vậy mà mần!
Bầy chim sẻ đậu mái hiên huyện đường, vụt bay tán loạn! 3.
Sau cái đêm hãi hùng đó, anh Sáu bị bắt. Chị một nách nuôi ba con nhỏ và chăm sóc má chồng. Tư chết đứng, chứng kiến cảnh nhà chị sa sút dần và có lẽ, chuyện “táng gia bại sản” chỉ là thời gian. Lớp nào đền tiền chủ hàng, lớp nào bỏ tiền sửa “ghe điệu” của Bá hộ Thao đang đêm “đi khám điền thổ”; chưa kể “tiền lót lại, đút quan”... hòng cứu chồng thoát vòng lao lý! Lần hồi, chị cắn răng bán nhà cửa, ruộng vườn để trang trải nợ nần. Chị nuốt lệ, má chồng khóc hết nước mắt; còn anh thì, được huyện Heo “chụp cho cái mũ” đội chơi, gỡ bốn cuốn lịch kể cả năm nhuận, không bớt một ngày, về cái tội “Bối ghe điệu”; nghĩa là, cướp ghe Bá hộ Thao (!?)
Ghe lui khỏi bến còn dầm
Người thương đâu vắng chỗ nằm còn đây.
(Ca dao)
Đêm khuya khoắt, lời ru con của chị Sáu buồn man mác. Hẳn là, lời đựng tâm ý thuộc về mẹ, tiếng ru chứa âm điệu thuộc về con. Phù sa châu thổ từ sông nước mà mênh mông, tình con người từ cảnh ngộ mà lai láng. Và, “Mật ngọt còn tổ chết ruồi/ Những nơi cay đắng là nơi thiệt thà”. Họa phúc cùng chia, Tư chẳng thể quay lưng bỏ đi khi chủ sa cơ thất thế.
Tư gom số tiền tích cóp, dành dụm bấy lâu “đi bạn” đưa cho chị Sáu mượn dựng quán ở giáp nước rạch Cái Tư. Má chồng chị Sáu, nói:
– Chỗ nào giáp nước, chỗ đó tấp nập xuồng ghe ngược xuôi ghé lại. Trước là, vô hàng quán ăn uống, nghỉ ngơi qua chuyến đi dài. Sau là, đợi con nước để đi tiếp. Nó cũng là đầu mối nghe ngóng, trao đổi “đường đi, nước bước” và, truyền miệng rất nhanh đủ thứ chuyện trên đời... Người ta gọi đó là, “chợ thông tin”.
Hỏi ra, Tư mới biết, chỗ giáp nước là chỗ con sông đổi con nước. Buổi trưa, đám trẻ con xóm chợ rủ nhau tắm sông, đứa thả ngửa, đứa trầm nghịch ở bến đậu ghe xuồng tạo nên hoạt cảnh náo nhiệt, người buồn mấy cũng vui lây. Tư nhớ lời anh Sáu: “Nghèo khó không bó cái lạc quan”. Phải rồi, một khi cái lạc quan bị bó thì, “chó cũng bỏ đi” nói chi tới người. Anh Sáu gặp nạn do nghề hay do nghiệp? Tư không sao giải nổi. Noi gương người xưa, Tư mượn rượu “phá thành sầu”. Thành sầu bị phá ở đâu chẳng thấy, chỉ thấy cái sầu đốt cháy tâm can.
– Bánh lái gãy, xuồng cần tay chèo tỉnh táo. Gia cảnh tui giờ rối như canh hẹ; suốt ngày chú nhậu li bì... Tui biết mần sao? Tiếng chị Sáu buồn buồn, nửa khuyên nửa trách.
Tư nhớ hồi chiều, anh em bàn nhậu hỏi:
– Tư chìa vôi, chú mầy thuộc loại “anh Hai xuồng ba lá” hay “anh Ba ghe chài”?
Tư ngơ ngơ, ngáo ngáo giữa đám cùng “đi bạn”. Tới lúc về nhà học lại cho chị Sáu nghe, Tư vỡ lẽ: “Xuồng ba lá là người uống được rượu ít, ghe chài là người uống được rượu nhiều”. Đời cũng có lắm khi công bằng: “Uống ít, say mau, tỉnh mau. Uống nhiều, say lâu, tỉnh lâu”. Tư chợt nghĩ: “Kẻ sống đoản hậu sẽ mất cơ may trường phúc”. Và, hạng người như Bá hộ Thao, dù điền sản mấy ngàn mẫu đất chẳng kém gì ruộng đất của Tổng đốc Phương ở vùng Hỏa Lựu, Vĩnh Hòa Hưng... cũng không có cơ may tận hưởng trường phúc, lộc; nói chi tới trường thọ!
4.
– Nầy con! Giờ thì thằng Sáu đã thụ án, vợ nó cũng tạm sống “gạo chợ nước sông” đắp đổi qua ngày bằng cái nghề buôn bán lặt vặt để nuôi con, đợi ngày chồng về. Má tính như vầy, con coi có đặng không?
– Tính sao, hả má!
Bà nói nhỏ nhẹ:
– Má tính tới mùa lúa sau, lãnh ruộng thầy Cai cho con mần tá điền; với sức vóc và tính cần cù của con, rồi con chẳng thua kém ai. Từ lâu, Tư coi má anh Sáu như mạ của mình. Lời má là lời chơn tình, muốn Tư có việc làm ổn định. Nhưng, Tư không thích trở thành tá điền để cả đời làm tôi mọi chủ điền. Những tháng năm “đi bạn” và có lúc thúc thủ “ăn nhờ ở đậu” miền phù sa châu thổ, bằng trải nghiệm tự nhiên và tự thân, Tư nhận ra “mái chèo, con thuyền” vẫn hơn “tay cày, tay cuốc”. Sông nước cho người sự phóng khoáng, tự do; còn đồng ruộng, cho người trực canh ruộng chủ để rồi đói nghèo, nợ nần lưu cữu, không đủ lúa nộp lúa ruộng. Thân tá điền, dẫu cơ cực sơn trường, cái ăn quanh quẩn cũng chỉ là: “Vai mang bông súng, tay cầm củ co” (Ca dao).
– Dạ! Thưa má, con vẫn muốn nối tiếp trở lại cái nghề của anh Sáu. Đợi anh Sáu ra tù rồi hẵng hay!
Tư rụt rè thưa chuyện với má. Mặt má buồn dàu dàu, chẳng nói chẳng rằng, hồi lâu má mở lời:
– Má tuy là đàn bà chỉ có phận, không có danh nhưng, vì là người cố cựu ở vùng nầy nên má biết nhiều chuyện. Đường đi sông rạch chẳng thiếu cái cân luật lệ, chỉ thiếu cái tâm của người cầm cân. Con “đi bạn” với thằng Sáu nhà má đã ba cái Tết, nếu con không để ý để tứ thì, dù con có đi bạn hơn vài mươi cái Tết cũng bằng không. Chỉ là, “chèo xuồng vọc nước” chẳng hữu ích gì cho tấm thân bám cuộc sống
thương hồ.
Rồi, má chép miệng than thở:
– Luật lệ đường thủy càng chất chồng đống, xuồng ghe càng khốn đốn trên sông. Má già rồi, không có đứa nào chịu nghe má. Thằng Sáu nhà nầy, không nghe má mới ra nông nỗi!
***
Tiếng trở mình của chị Sáu, tiếng ho sù sụ của má chồng chị, Tư thức giấc.
Nằm im trên cái phảng nẹp tre, Tư lắng nghe từng cơn gió lẻ loi nghịch con nước nơi giáp nước, thổi thốc mái lá xạc xào nửa khuya. Đâu cứ hễ vấp ngã trên con đường mình đã chọn thì, con đường đó hẳn là sai. Tư nghĩ lung lắm! Má nói chẳng sai nhưng, cái chẳng sai đó còn tùy thời. Xuồng ghe coi vậy, vẫn là cái thuộc về mình; đồng ruộng “thẳng cánh cò bay” dẫu sao, vẫn là cái thuộc về người. Tư cân phân, nhắc lên bỏ xuống lúc buộc phải đối mặt với sự chọn lựa: Thương hồ hay tá điền! Và, bất chợt, Tư nghe văng vẳng lời anh Sáu căn dặn hồi nẳm: “Tiền sông, hậu ruộng” một khi đã tới lúc lập thân.
Tư bồi hồi nhớ thân côi cút từ nhỏ, cơ cực cũng lắm, đắng cay cũng nhiều. Tuổi thơ của Tư thả theo dòng sông Bồ trôi qua vùng đất Quảng Thọ. Xứ ruộng lúa mà quanh năm suốt tháng dân vẫn thiếu ăn. Rồi, Tư nhớ anh Sáu, nhớ những chuyến đò dọc không chở người chỉ chở hàng, nhớ trăng đồng bằng rụng xuống lòng nước lung linh, mang bao câu hò tình tứ đầm đậm tình quê. Nỗi nhớ day dứt và mênh mông! Tư rưng rưng nước mắt, giận Trời bất công: “Anh Sáu nào phải kẻ gian, sao Trời bất dung?”.
Tư bước xuống bến sông, xuồng ghe đông ken nằm chờ con nước và bầu trời, hằng hà sa số sao cũng không đủ sáng soi thấu đêm phù sa châu thổ!
THƯƠNG QUÁ, BÀN TAY ÐEN CỦA MÁ!
1.
"Hồi ngoại còn sống, những lúc rảnh việc phơi lụa, ngoại thường kể chuyện về má...” Khan nói giọng buồn buồn với Khát như vậy. Mỗi lần lên chùa lạy Phật, “xin keo”, trên đường về, bao giờ hai đứa cũng cùng im lặng trong suy nghĩ giống hệt nhau: “Cái tên khởi sự từ “Kh”, có phải đó là điềm vận mạng gắn liền với “khổ” cuộc đời chăng?”.
Còn cha còn mẹ thì hơn
Mất cha mất mẹ như đờn đứt dây.
(Ca dao)
Hai đứa ngu ngơ không biết và chẳng ai giải mã giúp hai đứa biết tường tận, kể cả sư cụ chùa Từ Vân.
Ánh sáng tù mù khói muội đèn thiếu sức soi tỏ mặt người, nói chi tới cảnh vật xung quanh. Bóng Khan chập chờn in vách lá. Bằng đôi tay người thợ, Khan đưa kén vào nồi nước đun sôi; tiếng nước réo ùng ục hay tiếng kén đau trở dạ để người thợ kéo mối tơ mắc vào bánh xa quay! Khan lụi hụi, một tay cầm đôi đũa khuấy “liên tu” nồi kén, một tay quay đều “bất tận” đầu bánh xe. Dừng tay khi, chỉ còn lại xác con tằm và Khan thì, thở hổn hển, mồ hôi vã ra như tắm.
Khan ngồi dựa lưng cột nhà. Đêm sắp tàn canh!
***
Hai Hậu mồ côi từ nhỏ. Hàng xóm rủ nhau chuyền tay nuôi gọi là “nuôi chuyền” và bú vú dạo, gọi là “bú nhép”. Tới tuổi nhổ giò, Hai Hậu theo những người anh em rời đất Tịnh Biên lên Vồ thuộc núi Cấm, không mần ăn mà mần quốc sự. Cuộc chống Tây bất thành, Thiên Địa hội tan rã nhưng, bọn Tây cũng không thể nào càn và chiếm
được Năm Vồ[3], còn gọi Năm Chỏm cao hoặc Năm Non trên núi Cấm. Hai Hậu cùng một ít người anh em nương náu ở miếu Gia Long[4] và lẩn trốn trong khu rừng cây Thiên tuế, tiều phu hay gọi “vồ Thiên Tuế”. Chịu không thấu “sơn lam chướng khí” của vùng núi non Thất Sơn huyền bí, đôi lần, Năm Thiệt, Sáu Thà dợm rủ Hai Hậu quay về Tịnh Biên nhưng, ngại lộ tông tích. Bí lối, cả ba đồng lòng trốn xuống miệt Tân Châu sống nghề cơ bắp, kiếm cái ăn đắp đổi qua ngày.
2.
– Bậu ngó gì ngó “người ta” dữ vậy!
Tư Nghĩa liến thoắng hỏi Hai Hậu, trong lúc đôi tay của Tư tỉ mẩn kéo từng đường tơ, xe chỉ thành từng sợi liền lạc và hầu như, không mắc phải một mối nào bị lỗi.
– Tui ngó bàn tay của “người ta”! Bàn tay đẹp mĩ miều làm nên lụa láng mịn: “Ấm những ngày trời se se lạnh và mát những ngày nắng hầm hập nóng!”.
Tư nghe tiếng đặng tiếng được bởi âm thanh khung cửi dệt rầm rập, lấn át lời Hai Hậu.
Chiều bảng lảng trên cánh đồng dâu bát ngát! Chợt, có tiếng chàng trai cất giọng hò ướm mời cô Tư Nghĩa:
Trai nào hiền bằng trai Hai Huyện
Tháng ngày chuyên dệt lụa trồng dâu.
(Ca dao)
Như thể cầm lòng không đậu, Tư mạnh dạn hò đáp trả liền miệng, người Tân Châu gọi là “hò môi”:
Gái nào thảo bằng gái Tân Châu
Thờ cha kính mẹ quản đâu nhọc nhằn.
Chàng trai bên kia liếp vườn mặc nưa, nín bặt.
Tự dưng, Hai Hậu cảm thấy lòng mình se thắt lại. Nhỏ lớn, Hai không quen nói thơ, nói truyện thì nói chi tới biết hò môi, hát miệng… nên lòng luống những bán tín bán nghi. “Trai Hai Huyện” là trai gì mà “tháng ngày dệt lụa trồng dâu”? Vậy, trai như mình chả lẽ không phải trai trồng dâu dệt lụa? Trời khuya lắc khuya lơ, Hai thao thức không sao chợp mắt được. Biết thằng đệ đương sa vào “tình trường” vì đã phải lòng Tư Nghĩa, Năm Thiệt lồm cồm lật mí nóp, bò dậy. Huynh đệ nói chuyện thầm. Ngoài kia, sóng sông Tiền dội bờ lúc nhặt lúc khoan như thông nỗi cảm hoài cùng người xa xứ. Năm Thiệt nói:
– Theo bậc cao niên và giới thương hồ ở Chợ Mới (An Giang) thì Hai Huyện còn được gọi miệt Chợ Thủ hoặc miệt Cù lao Ông Chưởng; cũng có người lầm tưởng Chợ Thủ là chợ ở miệt Thủ Dầu Một. Ông Chưởng chính là Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh[5]. Chẳng có chi phải lo, dẫu rằng đệ chưa ở rể:
Công anh làm rể đốn rào
Tào lao phất ngọn, chớ nào vợ anh.
(Ca dao)
Thấy thằng đệ bó gối ngồi cú rũ, Năm Thiệt nhắc câu Tư Nghĩa thường khi hò:
Giả đò mua khế bán chanh
Giả đi đòi nợ thăm anh đỡ buồn.
(Ca dao)
Trời rựng sáng. Tiếng cười giỡn rộ mé bến sông của “đàn thôn nữ” đang xả lụa. Ý chừng có tiếng cô Tư hò, nhờ gió sớm gửi đến cho ai đó:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
(Ca dao)
***
Mỗi lần má nó vạch vú mớm sữa, con bé giẫy nẩy không bú dù miệng khô, khát sữa… Tư Nghĩa lặng người, nhỏ từng giọt buồn trôi theo dòng nước mắt ướt má con. Con bé năm tháng tuổi, kinh hãi khi nhận ra cái màu đen tuyền phủ đôi bàn tay không thấy móng. Ngoại đặt tên cháu là Khan. Có lẽ, vì thương ba của cháu, ngoại tỏ ý trách cao xanh: Thằng rể không phải kẻ gian, sao nỡ xử nó cái kiểu “Trời bất dung gian”! Còn bọn gian, nhiều hơn mặc nưa vào mùa trái giữa tháng Năm lịch nhà nông thì, trời giả lơ ngoảnh mặt?
Hễ thấy bàn tay đen kịt của má, nó khóc ngất. Từ đó, người mẹ không dám gần con, sợ làm tuổi thơ của con kinh động. Ngoại kể rằng, cả xóm Long Hưng hầu như là “Ăn cơm đứng” bởi, “Mần ruộng ăn cơm nằm/ Nuôi tằm ăn cơm đứng” (Tục ngữ). Thời con gái má Tư của nó nổi tiếng giỏi giang. Ngoại đẻ ba đứa con, chết hai... Tuy má Tư thứ tư nhưng, thứ tư đó là một. Ông ngoại mất sớm vì lao lực. Bà ngoại cùng con gái, đùm túm nhau sống; chí thú theo nghề nuôi tằm, dệt lụa trong xóm lụa nức tiếng lãnh Mỹ A. Ngoại nói:
– Trước ngày “Loan phụng hoa chúc”, ba má con xin phép ngoại sang đình Long Sơn thắp nhang thần bổn xứ. Trên đường về, ba con nắm bàn tay tơ lụa của má con, rồi thề nguyền: “Qua đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói (tui) thương mình bấy nhiêu” (Ca dao). Vậy mà, trời cao đành đoạn bắt ba con “đi về núi” sau một đêm cảm lạnh sơ sài, khiến má con “đứt gánh giữa đường” đang khi “bụng mang dạ chửa”. Má con “vượt cạn” một mình. Rồi, hai năm sau, ngoại chịu cảnh “tre già khóc măng non”. Và, vĩnh viễn cháu ngoại của ngoại, không còn dịp ngó thấy bàn tay đen kịt của má để kinh sợ!
Khan đã khóc như chưa bao giờ được khóc khi nghe ngoại kể về má!
3.
Ngoại mất vào mùa bông mặc nưa trổ sắc vàng nhạt trên những tầng cây cao trật ót. Bông cái đơn lẻ, bông đực từng chùm. Và, Khan bây giờ cũng đã là thiếu nữ.
Những tàu lá dừa, những bãi cỏ xanh mượt... cõng những tấm lụa sóng sánh phơi nắng đồng bằng trông lãng mạn, rất đẹp; nhưng, chẳng thể lãng mạn và đẹp hơn lúc tằm chín mọng, đưa tằm lên bủa giăng tơ. Đất trời Long Hưng vàng óng những bủa tơ tằm. Nắng nghiêng màu chiều pha màu lam ngọc trái mặc nưa, một thứ trái “vừa khó tính vừa chảnh, vừa nắng không ưa vừa mưa không chịu”; một thứ trái lúc xanh dư nhựa, lúc chín tới hết nhựa; và chỉ thích đối xử bạc bẽo, không thích nuông chìu. Nghĩ tới trái mặc nưa, lòng Khan chùng xuống; nhớ má bao nhiêu thì Khan thương đôi bàn tay đen của má bấy nhiêu. Đôi bàn tay đen đánh đổi miếng ăn trong trắng. Khan đã từ chối bú sữa má và khóc ré kinh hãi khi thấy đôi bàn tay đen đó!
– Lẽ thường tình, nếu những gì cần mất mình cho mất để đạt chuẩn đẹp cuộc đời thì, bàn tay đen tuyền của má đã tạo sự duy mỹ riêng có lụa Tân Châu qua nhựa trái mặc nưa thành nhan sắc!
Khan suy nghĩ như vậy, lúc thẩn thơ một mình dưới những vòm cây mặc nưa thân xù xì cổ thụ.
***
Chẳng hiểu vì sao Khan thích nghề nhuộm lụa. Một nghề cần sức lực cơ bắp cánh đàn ông. Cái nghề mà ngày xưa, má của Khan chấp nhận bỏ đôi bàn tay đẹp nhất xóm Long Hưng để cùng chồng nhuộm lụa. Có người cho đó là, di truyền và cũng có người nói đó là, truyền thống. Di truyền hay truyền thống, chẳng quan trọng đối với Khan. Theo nghề của má, Khan thương bàn tay đen tuyền của má, thương xóm quê nghèo và làm theo di nguyện của má: “Giữ vững thương hiệu lãnh Mỹ A xứ sở!”.
Khát đứng đầu hồi nhà nói vọng sang, nhắc:
– Khan ơi! Đêm nay, trời có trăng, tụi mình tới phiên nện hàng rồi đó, nhớ nha!
Lãnh muốn có độ bền, bóng loáng phải chịu lực nện từ búa gỗ lên bề mặt sợi vải. Tiếng nện hàng nhịp nhàng trong đêm thanh vắng, tạo cảm giác êm đềm, luyến láy hồn quê. Từng sợi tơ thấm đều, thấm sâu màu đen bóng thì mười ngón tay người nhuộm cũng đen bóng như sợi tơ kia. Và rồi, đôi bàn tay của Khan giờ đây nào khác chi đôi bàn tay của má ngày trước.
Trong lúc nện hàng, bỗng nghe tiếng chàng trai giã trái mặc nưa hò bóng gió:
Nện hàng em nện mạnh tay
Phải duyên chồng vợ anh mai mối mình.
(Ca dao)
Khan dư sức biết anh chàng đương hò đó là ai và rõ là ai, từng hò “thả dê” qua ruộng dâu hàng xóm:
Quay tơ phải giữ mối tơ
Dù năm bảy mối cũng chờ mối anh.
(Ca dao)
Khát cười khúc khích:
– “Chịu đèn” rồi đó, bạn ơi!
như san sẻ nỗi cô quạnh của đứa bạn thân nhứt xóm.
***
Khan xòe bàn tay soi bóng đêm. Nỗi ám ảnh bàn tay đen của má ùa về. Rồi ngày mai, con của con sẽ như con: “Khóc ré khi thấy bàn tay đen...” dù bàn tay đen đó, chưa hề dơ và làm nên kỳ tích lừng danh lụa quê nhà!
Bất chợt, đôi bàn tay đen bóng của Khan bám chặt lư hương thờ
má:
– Má ơi...!
CON NƯỚC MIỀN QUÊ
Phải ai giao hợp vợ chồng
Phải ngày con nước khó lòng nuôi con...
(Ca dao)
1.
Hai Xệ ngồi chò hỏ canh con nước dưới gốc bằng lăng già mọc ven rạch Bắc Chang. Một con rạch thông nước từ sông Vàm Cỏ Tây chảy qua làng mạc tới ngã tư Bào Môn, tạo cánh đồng phía Tây gò Ông Giáo bạt ngàn ruộng lúa. Lắm người phương xa quá bước, thắc mắc: “Sao lại phải canh ngày con nước?”. Thôn dân vốn gốc gò Bắc Chiêng thời đàng cựu tới giờ, chỉ cười trừ chớ không giải thích bởi có giải thích, chắc chi người phương xa đã hiểu.
– Xế rồi, mình! Vô nhà ăn cơm cái đã!
Nghe vợ gọi cơm, Hai nói vói theo:
– Thì, mình với sắp nhỏ cứ ăn cơm trước đi!
Ngoài rạch, nắng táp nước dội ngược bóng treo nắng lơ lửng lên từng chòm cây, nách lá!
***
Tía thằng Hai dặn con:
– Mình sống được là nhờ nước và muốn được sống, phải biết giữ nước ngọt, rồi nhẫn nhục mà gạn đục khơi trong. Nước có con chớ tuyệt nhiên không có thằng, thiên hạ gọi là con nước. Con nhớ lấy nếu thiệt lòng ham mần ruộng và mong mỏi trở thành thôn dân thứ thiệt.
Hai ngại hỏi vần lân với tía dù những lời tía dặn nó không rõ, nói chi đến thông để hiểu.
Một hôm, chú Năm Tâm chèo ghe tam bản từ Mộc Hóa vô gò Năm
Chiêm thăm ruộng. Chú cháu gặp nhau ở cống Biện Minh. Rít mấy hơi thuốc rê, chú Năm lau mồ hôi ướt mặt, hỏi nó:
– Lóng rày, tía má con khỏe không? Tía con, tính đã dễ chưa? Tháng Chạp tiết trời trở lạnh trong cái nắng thiếu gắt, thừa gay, khiến mình mẩy bứt rứt khó chịu. Nó bập bập điếu thuốc để xua bớt phần bứt rứt nhưng vì chưa quen khói nên ho sặc sụa. – Dạ! Mọi thứ tía con đều dễ, chỉ trừ...
– Chỉ trừ má con, phải hôn?
Chú Năm ngắt ngang lời nó và đế câu kết chắc nụi. Nó nguẩy người không chịu.
– Tía con khó, rất khó chuyện nước nôi!
Năm Tâm nghe thằng nhỏ nói hơi lạ nếu không muốn nói là kỳ cục! Thuở đời nay, đất Bắc Chiêng thuộc xứ Đồng Tháp Mười “nước tới mùa, nước nổi tràn bản họng”. Rồi bất chợt, ông ngẫm và nghĩ ra cái sự đời “con nước” ở miền đất “sáu tháng đi chưn, sáu tháng đi tay”[6].
Dân Bắc Chiêng hồi trước lúc có Thiên hộ Dương khởi cuộc chống Tây, họ bấm lóng tay tính con nước như là, lực tương tác của ba cái mặt: Trăng – Trời – Đất. Và cũng từ đó, họ tính chuyện may rủi trong cuộc sống thường ngày. Con nước lên tự nó không xấu, nói chi tới hổ thẹn. Điều xấu và hổ thẹn cốt ở “Ngày con nước lên”.
Ngày con nước lên chính là, hành động của Tạo hóa!
– Chú Năm ơi, chú nghĩ gì mà sắc mặt nghiêm trọng giống “Bao Công xử án Quách Hòe” do gánh hát bội “Sóng Vang” hát, hôm cúng kỳ yên ở đình làng, vậy chú?
Thằng Hai vô tình phá đám làm đứt khúc dòng suy nghĩ của Năm Tâm, đương ngon trớn chảy băng băng về phía trước. 2.
Cột xong dây vàm mũi ghe tam bản vô gốc tràm, Năm Tâm bước qua cầu nước rửa chưn, rồi theo Hai Xệ leo lên cái nhà nửa dính liền đất, nửa chồm ra mé rạch.
– Chú Năm mầy, tới chơi!
Ông Chín Cứng, tía thằng Hai, đánh tiếng chào rôm rả. Gió lùa nắng nhảy xổm vào nhà khua lụp cụp, lạc cạc hệt tiếng nước cơm sôi, tai ai nghe mà cầm đặng lòng không đói bụng. – Mình ơi! Lo cơm trưa cho chú Năm, thằng Hai, nha! Đoạn ông bước tréo mở cửa hông tủ thờ, lôi hũ rượu ngâm bìm bịp.
– Chú Năm mầy, khởi động đi!
– “Tiên chủ hậu khách”, chớ anh!
Một người cao niên đương “gần đất xa trời”, một kẻ trung niên đương “lưng chừng trời đất” cùng phá lên cười, tiếng cười dội vách nẹp tre gây thanh âm rộn ràng phải lẽ tình thâm.
Thằng Hai lực tráng niên, lui cui lo phụ má dưới bếp. – Má! Hồi ban sớm, con nghe lén chú Năm nói lầm thầm ba cái mặt: “Trăng – Trời – Đất”. Vậy, ba cái mặt là mặt sao, hả má? Bà Chín cười, nụ cười hiền như cục đất.
Thời gian trôi qua gần bằng thời gian củi thành than tàn lửa, bà chậm rãi nói với con:
– Trời có cái mặt thì, Trăng và Đất tại sao không? Trăng – Trời – Đất ở thế chưn vạc, kiềng ba chưn. Nếu là “Bửu”, hẳn là “Tam Bửu”; nếu là “Ngôi”, hẳn là “Ba Ngôi”; nếu là “Nước”, hẳn là “Tam quốc”... Khi Trời – Trăng kết hợp và nhất là, lúc Trời chìu lòng Trăng thì, Đất hoàn toàn bị Trăng khống chế bằng lực hút. Nước từ Đất trồi lên.
Có tiếng hối thúc dọn cơm của ông Chín, bà ngưng ngang câu chuyện đương nói với thằng con.
***
– Mình sống vùng sông rạch nhờ nước, phải hiểu con nước mới sống được, nha chú Năm!
Rượu vào lời ra, ông Chín Cứng nhắc người bạn trung niên của mình. Thằng Hai đứng xớ rớ hóng chuyện và chờ tía sai vặt. – Hồi nãy, má con mầy thì thầm chuyện gì mà xem ra tương đắc? Ông bỏ bộ xoay qua hỏi thằng Hai. Nó thuật lại chuyện Trời – Trăng – Đất của má nó nói nhưng, chỉ nói nửa chừng... không phải “để cho thằng dại nửa mừng nửa lo”, chỉ là, vì tía hối dọn cơm. Ông cười banh càng tấm lá chằm thảo bạt chống cửa. Ông ngộ ra: Má thằng Hai tuy dốt chữ nhưng sáng dạ, những gì ông nói bà nghe và thuộc lòng. Hễ thuộc cũng có nghĩa nhuyễn nhừ, chẳng thể nào quên!
– Nước lên từ những ngày Trăng non và Trăng tròn. Nước có lên thì, tất nhiên phải có xuống và nước xuống, thường rơi vào thứ bảy của tuần Trăng.
Năm Tâm góp chuyện theo kinh nghiệm nhà nông theo dõi con nước. Ông Chín tiếp lời:
– Đất chẳng hề thụ động chịu trận cho Trăng chủ động hút. Trăng – Đất tương tác cùng hút lẫn nhau và chỉ có vậy, nước trào lên... Sống trên mặt Đất, Người tránh sao khỏi tương tác, tránh sao khỏi liên lụy.
Bà Chín réo thằng Hai xuống bếp, giúp một tay bưng thêm thức ăn. – Mời chị Chín cùng ăn cơm luôn thể!
– Chú ăn cơm với tía thằng Hai. Lát nữa, má con tui ăn sau. Bà nói lời thiệt tình và nhắc chồng: “Rót tiếp rượu cho chú Năm, đi ông!”. Bầu không khí vui và ấm, ngập căn nhà đơn sơ ngó ra cánh đồng tràn nắng. Bà muốn nói với tía thằng Hai và chú Năm, rằng: “Trăng – Đất càng gần nhau, sức hút càng mãnh liệt. Sức hút càng mãnh liệt thì, với thể trạng con người hầu hết tám mươi phần trăm là
nước, tránh sao thoát khỏi sự kích động và chao đảo!”. Ngồi nép mé bộ ván, bà suy nghĩ mông lung về điều kỳ diệu có khi đưa đến sự mê diệu do Thượng đế tạo ra. Trong lúc đó, trên mâm cơm ông Chín đương cắt nghĩa: Trăng non, Trăng chín, Trăng già hoặc giả Trăng đầu, Trăng rằm, Trăng cuối. Trăng gần Đất hơn Trời, lợi thế đó khiến Trăng hấp lực Đất kinh động; đồng thời đè nặng Tâm – Sinh – Lý con người.
Nghe ông nói, bà đỏ mặt thầm. Bởi, những đêm trăng non, trăng tròn lòng bà luôn luôn rạo rực... Tâm tính thay đổi, lời suồng sã, hành vi thiếu kiểm soát; may là tía thằng Hai cũng vậy. Nếu không, qua đêm trăng chắc bà mắc cỡ chết!
Năm Tâm hỏi ông Chín:
– Rõ là, “Con nước” vốn riêng có của thôn dân xứ mình? – Phải đó, chú!
Dân gian xứ nước nổi của tụi mình lưu truyền: Ngày con nước lên là ngày cực xấu, mần chi cũng chẳng đặng. Vì vậy, mới có câu “Dù ai buôn bán trăm nghề/ Phải ngày con nước đi về tay không” (Ca dao). Con nước có lúc thịnh lúc suy, lúc lớn lúc ròng, lúc ươn lúc nhửn, lúc giáp lúc chia... Thời Trăng, tùy Đất mà sinh Âm – Dương (?).
– Trăng xoay con nước, trăng tác động con người. Chẳng ngẫu nhiên mà ông bà mình dặn: “Trai mùng một, gái hôm rằm/ Nuôi thì nuôi vậy, nhưng căm dạ nầy” (Ca dao), trong việc sinh con đẻ cái.
Lý cùng lẽ tận, nước là sự sống nhưng, con nước mới là cách sống trong sự sống. Bà muốn nói điều đó, sợ e rằng, tía thằng Hai và chú Năm cho bà lên đời dạy đạo, nên thôi!
SÀI GÒN CHẨN TẾ TRAI ÐÀN
1.
Tôi vốn người Sài Gòn bản sao. Về hình tướng, thoạt nhìn y chang bản chính nhưng, ngó kỹ một chút thì, ruột gan có cái gì đó khang khác người Sài Gòn nguyên bản. Hồi xửa, tía thường cự má tôi về cái câu “đất lành chim đậu” khi bỏ xứ Cần Đước lên Sài Gòn kiếm sống. Tía nói:
– Đất nào lành, đất nào dữ? Sài Gòn, hai tiếng vừa tồn tại vừa mất mát... vừa thương, vừa tiếc... bà không thấy sao?
Hình như thâm tâm có điều bức xúc nên ông nói lời “thẳng tuột”, không sợ kẻ “khuất mặt khuất mày” quở:
– Người ta cho chút ngọt ngào để che giấu cái đắng cay, cho “đất lành” để tạo cớ cho kẻ khác nhào vô kiếm chác. Chớ thiệt ra, Sài Gòn là “đất dữ”, đất của máu xương và chết chóc: Chiến trường giữa Nguyễn Ánh – Tây Sơn, giữa Minh Mạng – Lê Văn Khôi với tiếng kêu bi thương gần 2.000 mạng người chung một nấm mồ gọi là, “Mả ngụy” (?). Hàng vạn người con ưu tú đất phương Nam noi gương Trần Bình Trọng “Thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc” đã phơi thây chốn sa trường chống quân xâm lược... Cũng như, họ quyết không cam lòng sống đời nô lệ: Lục tỉnh Nam Kỳ thuộc địa Pháp!
Mỗi lần tía nói vậy, má mần thinh!
***
Cuối thập niên năm mươi, một hôm tôi phụ má gánh nước mướn “phông-tên” (fontaine) góc Đề Thám. Lúc nghỉ xả hơi và chờ đến lượt hứng nước máy, tôi hỏi má:
– Dân Sài Gòn sao ưa chẩn tế trai đàn, hả má?
Lột cái khăn rằn vấn trên đầu chậm mồ hôi lấm tấm rịn ở trán, má nói:
– Hồi tía mầy còn sống, thường nói đất nầy vốn “đất dữ”. Bề ngoài dẫu rằng yên nhưng, bề trong chưa chắc ổn! Chẩn tế trai đàn chẳng qua “uống nước nhớ nguồn” xưa!
Má cắt nghĩa:
– Người tinh ý sẽ nhận ra Sài Gòn chẩn tế trai đàn không là, trai đàn chẩn tế giải oan còn gọi trai đàn Thủy Lục; hoặc giả, mần theo tập tục từ Trung Hoa hay như Hòa thượng Đạo An từng dạy: “Không phải tập tục truyền thống Phật giáo”(?) Họ có cách nghĩ riêng của họ dù chẳng nói ra. Họ mượn chẩn tế trai đàn để tỏ lòng tri ân những ai “vì nước quên thân, vì đồng bào thiệt mạng”. Đã vậy, sao gọi chết oan? Không chết oan thì, giải oan cái nỗi gì? Chỉ là, cầu siêu cho người chết siêu thoát, cầu an cho người sống an lạc.
Má ngưng ngang lời, nét mặt trầm ngâm, cái trầm ngâm không khác gì lúc bóng má che nấm mộ ba khi hành lễ mở cửa mả. Hồi lâu, má nói tiếp:
– Vì người, nên người Sài Gòn, hay nói rộng ra Người Nam Bộ, không có thói quen giành hoặc quen thói giựt vật tâm linh nơi đình, chùa; cho dù vật tâm linh đó là “Ấn” hay “Lộc”.
Rồi, má buông một câu chắc cứng:
– Người Sài Gòn rất trọng “Chẩn tế trai đàn”, mỗi khi cầu Trời khẩn Phật hoặc khấn Thánh vái Thần thì trong tâm tưởng của họ luôn luôn nghĩ tới mọi người, chẳng riêng gì một mình họ. Tôi cãi lý với má:
– Con có cảm giác đó là tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật. Chúa Nguyễn Phúc Chu năm Giáp Ngọ đã tổ chức chẩn tế trai đàn tại chùa Linh Mụ (Huế). Hoàng đế Quang Trung năm Kỷ Dậu, ban sắc lịnh chẩn tế trai đàn chẳng những cho bá tính thành Thăng Long, cho binh
sĩ hy sinh vì chống quân xâm lược, mà còn cho cả quân Thanh chết trận ngay trên xứ người dù là kẻ đi xâm lược. Gia Long năm 1802, giao Nguyễn Văn Thành – Tổng trấn Bắc thành chủ tế “Tướng sĩ trận vong và Cô hồn thập loại”...
Má cười:
– Chắc chi những vua chúa đó, chẩn tế trai đàn giải oan?! 2.
Người mình thường mang cố tật, thích áp đặt người khác mần theo ý mình. Chưa hẳn họ xấu nhưng tai hại biết bao nếu như họ nắm quyền lực. Lâu dần, họ ảo tưởng mọi thứ đều thuộc về họ và, đã là thuộc về họ thì đương nhiên họ trọn quyền phân phát thậm chí bố thí, mà không chút ngượng ngùng, xấu hổ! Ngay việc chẩn tế trai đàn cũng vậy, hết chỗ nói!
Sài Gòn chẩn tế trai đàn theo kiểu của người Sài Gòn, chớ không theo ý niệm về “ăn” trong đạo Phật và bốn cớ sự: Đoạn thực – Xúc thực – Tư thực – Thức thực trong thí thực. Đó chẳng qua là mượn cớ, để họ cầu nguyện và tưởng nhớ các bậc tiền nhân cho họ sống từ đất đai khẩn hoang, mở cõi. Điều mà xưa kia thực dân Pháp ngăn cấm; kế đến, mượn cớ “Bài phong đả thực”, chống mê tín dị đoan, hòng xóa bỏ!
Đừng tưởng rằng Sài Gòn dễ khuất phục. Sài Gòn đủ sức cảm hóa kẻ muốn khuất phục nó bằng nghĩa khí chẩn tế trai đàn vốn dĩ, đã trải qua mấy trăm năm. Sài Gòn cần hành động, không cần lời nói suông. Hành động sinh cốt cách con người. Vì vậy, Sài Gòn cần niềm tin và trọng chữ tín trong cuộc sống, trong mần ăn, trong sự phát triển kinh tế bền vững; khuyên ai đừng chơi cái kiểu: Cá bơi trước, cua bò ngang, tôm búng thụt lùi... hoặc trên tháo “kim cô”, dưới thắt “thòng lọng”.
Ánh đèn khuya vàng vọt đường phố Sài Gòn, má chạnh lòng nhớ
quê; còn tôi, nếu có nhớ thì cũng chỉ là nhớ loáng thoáng cái cầu ao, bến nước, hàng dừa… Má buồn, nhưng chẳng trách chi con. – Không thể và không ai có quyền bắt thời con quay lại thời của má!
***
Người Sài Gòn chẩn tế trai đàn, chẳng những cho người đã khuất, người đương sống, mà còn cho cả thế hệ mai sau!
CON CÁ RONG CHƠI SÔNG NƯỚC CỬU LONG
1.
Tuổi ấu thơ, tôi sống thời loạn lạc chiến tranh nên mẹ đưa con đi nhiều nơi, ăn nhiều chỗ, ở lắm vùng. Trong số đó, có một chốn mà tôi không thể nào quên: Vàm sông Sở Hạ! Nhưng, nếu nói thiệt lòng và không sợ mắc cỡ miệng, chính con cá linh đã hớp hồn tôi qua món ăn “cá linh hấp mía” mang đậm đà mùi nhớ!
Tôi tò mò hỏi má: “Sao không kho mà lại hấp?”. Má cười, nụ cười hồn hậu của người đờn bà miền châu thổ phương Nam: “Hấp chớ sao kho? Mà có muốn kho, cũng chẳng thể kho được!”. Nói vừa dứt câu, má đã ướp cá linh với: đường, bột ngọt, tiêu, tỏi bằm, muối, nước mắm, dầu phộng... Trong khi chờ cá linh ướp thấm gia vị, má róc vỏ mía và chặt thành khúc nhỏ xếp dưới đáy nồi đất, thuận tay má đặt cá linh thành từng lớp bên trên. Má dặn chị Hai: “Hấp cá sôi, con đổ nước dừa tươi vào; hấp cá sôi lần nữa, con bớt lửa nhỏ lại... Chụm lửa liu riu khoảng nửa giờ thì tắt bếp...”.
Về sau, tôi mới vỡ lẽ: “Hấp, ngữ nghĩa đậm chất chia sẻ ngọt bùi. Đã là chia sẻ ngọt bùi, mấy ai phủi đít quên lúc đắng cay! Kho, nói lên sự áp chế khắc nghiệt nhau. Đã là áp chế khắc nghiệt nhau, thiên hạ sẵn sàng muối mặt dù tiếng đời bia miệng!”. Tưởng rằng, “cá hấp cá kho” là câu nói hời hợt, dễ dãi của hạng dân dã; nào dè nó thiệt sâu và thiệt sắc của hạng người từng trải chốn phong trần.
Với tôi, con sông Sở Hạ thuộc miền ký ức của những tháng năm bom đạn, của bao ngày cá linh xanh nước, bạc trắng sông đêm. Sông Sở Hạ một nhánh sông Sở Thượng[7], khởi nguồn từ rạch Cái Cái, Tân Thành, chảy len lỏi và luồn lách đổ ra Hồng Ngự. Nó chiếm một phần lớn ranh giới tự nhiên giữa Đồng Tháp và Campuchia. Đồng thời, nó
cũng là “Miền nước hứa” dành riêng cho những cuộc giao hoan giữa cá linh đực, cá linh cái; tạo thời khắc thăng hoa thụ tinh gìn giữ nòi giống.
Trên con sông dài mang niềm yêu thương xứ sở, đã nuôi dưỡng con cá linh đực hình vóc thon, nhỏ, rắn chắc, biểu lộ qua cái vây ngực nhám và, cái vây ngực càng nhám thì, chỉ cần con đực đánh hơi bén mùi con cái, cũng đủ làm đực chảy nhớt sẹ nơi lỗ bụng dục tình. Con cá linh đực muôn thuở vẫn là vậy. Nhưng con cá linh cái cũng chẳng vừa gì: Bụng nó to đến rất to mỗi khi phải lòng con đực, thân vàng tròn ủm, vây ngực nhẵn, vây hậu môn ngắn, lỗ hậu môn hồng hồng như “Gái muốn chồng nhìn trộm trai tân”. Rồi thì, “Thuyền theo lái, gái theo chồng” (Tục ngữ). Một khi đã lấy nhau, con cá linh cái không bao giờ rời xa con cá linh đực. Vì vậy, mắc lưới, đực cái cùng mắc; chui vô miệng đáy, đực cái cùng chui... Sống cùng sống quay về cố hương, chết cùng chết nơi đất khách!
2.
Tôi thường nghe người cố cựu sống dọc sông Sở Hạ, thân quen mùa nước nổi nói rằng: “Thuộc tính sinh thái cá di cư được xác định bởi hệ di cư”. Con cá linh mùa khô ẩn náu nơi vực sâu ở Biển Hồ và cũng là, chỗ đẻ trứng sau khi đã mang thai trong mùa nước nổi. Thường sau Tết Đoan ngọ mồng Năm tháng Năm, là lúc con nước nó “quay”. Tôi hỏi má:
– Con nước nó “quay” là quay sao, hả má?
Má không vội trả lời, hỏi chị Hai:
– Nồi cá linh hấp mía xong chưa, Hai?
– Dạ! Xong rồi má!
Chị Hai bươn bả chạy ra sau nhà phụ tía kê kích chuồng gà, vì hồi nãy nước nổi lấp xấp thêm đôi ba tấc nữa.
– Nước quay là nước chảy suốt một mạch, không chảy ngược lại;
như người đi thẳng một đường, không tính chuyện hồi mã hay than thở lạc đường! Và lúc nầy, nước từ màu xanh trong chuyển sang màu đỏ đục phù sa. Áng chừng mồng mười tháng Sáu, nước Mê Kông đổ về, nó đổ đến đỗi: “Nước chảy re re, trứng cá linh theo dòng, trứng nở/ Anh có vợ rồi, mặc có vợ, em vẫn thương”. (Câu hò mùa nước quay)
Nghe má giải thích, tôi phục sự hiểu biết của má, sát đất. ***
Tôi lớn dần theo từng mùa con nước nổi, từng mùa trứng cá linh rời nơi mẹ đẻ rong chơi cõi bồng bềnh sông nước Cửu Long. Trứng cá linh vừa trôi theo dòng, vừa mở mắt thoát trứng thành con và rồi, con mặc sức vẫy vùng trong cái vùng vẫy đầy bất trắc. Cá linh, kẻ lãng tử chính hiệu trong chốn giang hồ!
Một đêm nào đó, dân sống nghề hạ bạc có thể quên thời gian nhưng chắc hẳn rằng, không thể quên mùa cá linh chở câu hò con nước nhảy bờ tháng Bảy mưa Ngâu:
Tháng Bảy nước nhảy tràn bờ
Mùng ai có rộng (xin) ngủ nhờ một đêm!
(Câu hò huê tình)
Cá linh kết bầy, tụ giề và có hàng luồng, hàng luồng choáng ngợp mặt nước sông. Người hoảng sợ, mở miệng đáy cho luồng cá nhởn nhơ, rong ruổi khắp miền châu thổ miền Tây, ngâm mình trong nước nổi. Sông Sở Hạ lúc bấy giờ đón cá linh “tay bắt mặt mừng” trong niềm hoan hỉ mong người anh em trở lại. Tháng mưa, gió kéo mây mù trời. Con cá linh trưởng thành, tìm bạn tình nơi hội tình trăng thu tháng Tám. Dưới ánh trăng vàng loang loáng nước, con cá linh cái quẫy đuôi, cắm đầu chỏng ngược mình, giơ hậu môn ửng hồng chờ đợi... Và, chỉ mong có vậy, con cá linh đực thực hiện bản năng trời cho.
Rồi, con đực dìu con cái đương thời kỳ thai nghén rời sông Sở Hạ,
khi con nước nổi xẹp dần bởi từng cơn gió mùa Đông Bắc. Vợ chồng cá linh cố gắng bơi ngược dòng về cố hương, nơi vợ nó sẽ đẻ trứng cho mùa sau. Có người hỏi cá linh: “Vợ chồng bây, ngược dòng nước bơi chi cho cực. Cứ ở lại sông Sở Hạ đẻ chửa, coi có sướng không?”. Cá linh vợ nghe qua lòng những muốn xiêu lòng, nhưng cá linh chồng nói nhỏ với vợ:
– Chẳng nơi đâu bằng xứ sở quê nhà. Có đói lạnh mới biết no ấm. Đời cá linh tồn tại từ nước nổi, ở nán lại sông Sở Hạ thì có khác gì vợ chồng mình tự nguyện làm con mắm cá linh cho người xé ăn sống với cơm nguội, hoặc giả kho mắm kho ăn với cọng bông súng, hay bông điên điển cuối mùa!
Nắng áp gió, khô đồng!
Vợ chồng cá linh bơi theo bầy vượt qua vùng nước xoáy. Cá linh vợ đột nhiên hỏi chồng:
– Một mai nước không còn nổi, mình sẽ sống sao mình? Nước đổ hơn thác, nước cuồn cuộn cuốn mọi thứ trôi ra biển, kể cả rác rến dơ bẩn. Cá linh chồng lặng thinh, nó hiểu rằng, trần gian có chi là vĩnh cửu! Nó rong chơi chớ nào phải di cư, hết mùa nước nổi nó quay về nơi trứng khởi sự trôi đi. Suy cho cùng, mấy ai được như nó? Đường rong chơi của nó từ miệt sông nước Cửu Long đến miền thác Khôn[8]. Và, cái rong chơi của nó đã tạo nên sự “hiển linh” ở tâm thức cộng đồng người Việt Đồng bằng sông Cửu Long, dẫu rằng: “Con cá không thờ sao gọi cá linh?”.
Tương truyền: “... Lúc Nguyễn Ánh từ Vàm Nao chuẩn bị ra biển, phát hiện có vài con cá nhỏ nhảy vào mạn thuyền, ông linh cảm như có việc chẳng lành nên liền ra lệnh cho đoàn tùy tùng hoãn chuyến đi. Nhờ vậy, cả đoàn đã thoát nạn do quân Tây Sơn mai phục. Để tỏ lòng tri ân một loài cá đã cứu giúp mình, Nguyễn Ánh liền đặt tên cho chúng là “cá linh”[9].
Thiệt ra, cá linh có “linh” hay không “linh”, trải qua mấy trăm năm cũng chưa ai rõ, chỉ rõ là cá linh theo con nước quay nhỏ bằng tăm nhang, đến lúc nước giựt cạn đồng nó đã lớn bằng ngón chưn cái. Nó kéo nhau lủ khủ và ào ạt rời sông Sở Hạ ra Hồng Ngự, sông Tiền để trở về nhà sau cuộc rong chơi thỏa thích. Người đợi nó bằng tiếng lóng “cá ra”, rồi hè nhau bắt, hè nhau tàn sát... với câu thiệu “cá lên rào, cá đông ken” trong điệu nói thơ tình tứ:
Nước ròng tôm đất lội xuôi
Chỉ tơ thòng xuống cột tui với mình.
(Ca dao)
Người âu yếm nhau trên cái chết trắng của cá linh... Cá linh vợ hỏi cá linh chồng: “Vậy, mình linh chỗ nào?”.
3.
Dân sống vùng đất nước nổi miền Tây Nam Bộ từ đời ông, đời cha tới đời họ, chưa bao giờ và không bao giờ nghĩ đến chuyện “né nước nổi” hay nói theo chữ nghĩa sang là “né lũ”. Họ đợi nước con nước quay đổ về để đất có cơ may nổi nước. Có nước nổi mới có cá linh và có cá linh họ mới có thể giải quyết một phần nợ nần, khó khăn trong cuộc sống thường trực nghèo khó. Có lẽ, cá linh nó “linh” là “linh” cái chỗ nầy(?) Chắc gì cứu Nguyễn Ánh để mà “linh”(?!)
Mấy năm trở lại đây, năm nào tôi cũng quay về con sông Sở Hạ, lòng ngong ngóng gặp con cá linh rong chơi chốn cũ, nhưng thôi đành hoài công bởi, kẻ lãng tử miền sông nước Cửu Long đã thưa dần và biết đâu đến một lúc nào đó; chắc là không xa lắm, con cá linh thiên nhiên sẽ lặng lẽ đi vào chuyện cổ tích?
ÐẬP LÚA MA
1.
Năm Chỉa dẫu không thuộc hạng người “chọc trời khuấy nước”, nhưng cũng là tay anh chị “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã” có tiếng tăm ở bến Bình Đông. Tới lúc Pháp theo chưn quân đội Anh trở lại đất Sài Gòn, Năm khăn gói cùng chú thím Ba chèo ghe dông tuốt vô miệt Đồng Tháp Mười.
Ông bà thường nói: “Nó lú, chú nó khôn” và đôi khi ngược lại. Sự ngược lại chính là điều lưu dân Nam Bộ hằng mong mỏi “Con hơn cha nhà có phúc”! Học trò Tám rặt nòi nhà nông, quen cái nết cần cù và biết lấy “cần cù bù thông minh” trong học tập; biết cách tìm tòi, tra cứu về vùng đất mà ba má, người thân chòm xóm đang sinh sống, để trân quý hơn và thương yêu thêm.
Một hôm, nhơn lúc cả nhà xúm xít mần cái xuồng đập lúa ma hay còn gọi là lúa trời, nó vừa phụ làm vừa giải thích:
– Về sau nầy, nhiều người nói, viết và nghiên cứu giống cây lúa ma; kể cả việc thu hoạch hạt lúa ma trên vùng đất nước nổi Đồng Tháp Mười. Nhưng, rất ít tài liệu ghi nhận về lịch sử và địa lý để lại cho đời sau thấu rõ miền đất đã có một thời vốn thuộc Vương quốc Phù Nam.
Chẳng đợi thằng Tám nói hết câu, chú Ba chặn họng:
– Tau tưởng chú mầy học trò, chắc mẻm: “Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, chớ còn ba cái chuyện lúa ma, tụi tau ở đây rành như rành sáu câu vọng cổ.
– Thì anh Ba, cứ để thằng em nó nói hết ý cái đã!
Năm Chỉa ngứa miệng chĩa vô, đúng cái tên vận vào tính người. Thấy có người kịp chống lưng, thằng Tám mạnh dạn nói tiếp:
– Theo sách Tùy thư: “Nước Chân Lạp ở phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy, là Ksatriva Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam”. Âu Dương Tu và Tống Ký soạn Tân Đường thư đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627 – 649), rằng: “Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp”. Tầm ra, thì tên gọi Thủy Chân Lạp là phần lãnh thổ Phù Nam trùng khớp với vùng đất Nam Bộ ngày nay; còn vùng đất Lục Chân Lạp chính là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp[10].
– Mấy cái chuyện nầy, tụi mình bù trất!
Chú Ba thiệt thà tự thú.
Thằng Tám được nước, nà xốc tới:
– Giữa thế kỷ VIII, Vương quốc Sailendra[11]tấn công và chiếm đoạt toàn bộ vùng đất Thủy Chân Lạp, đồng thời buộc Lục Chân Lạp trở thành chư hầu; mãi đến cuối thế kỷ VIII, đầu thế kỷ IX, Vương quốc Sailendra suy yếu nên từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp.
Vào những năm đầu thế kỷ IX, vùng đất Kambujadesa tức Campuchia ngày nay, được vua Javavarman II[12]tuyên bố độc lập, tách khỏi sự lệ thuộc Java, thủ đô đặt tại Hariharalaya nằm về phía Nam Biển Hồ.
Mọi người ồ lên, cái ồ chẳng những ngạc nhiên mà còn ra chiều mới mẻ, quá lý thú!
***
– Lâu lâu thằng Tám ở Sài Gòn về chơi, mấy cha nội bắt thằng nhỏ nói hoài, mần sao nó kịp ăn món cá linh hầm mía đậm đà mùi vị nước nổi!
Thím Ba vừa bưng nồi cá linh hầm, vừa càm ràm chú Ba với mấy người anh em bạn lối xóm.
– Cái bà nầy! Sao bữa nay bà mau bực bội vậy? Ăn để sống nhưng,
sống cũng để… hiểu chớ!
Chú Ba chống chế thím, dẫu rằng chú thừa biết cái cố tật của mình là, khoái hóng chuyện và mê nhiều chuyện.
Thím Ba để đít nồi cá úp lên mặt rế bện tre.
– Tui có nói mình gì đâu, chỉ là, lúa ma thì nói lúa ma; đằng nầy, tía má nó đẻ nó ở Sài Gòn thuộc nhà chợ nên nó biết chi nhà quê, mà mình hỏi dông hỏi dài...
Thím dợm quay lưng đi xuống bếp.
– Chị Ba nói vậy, cũng phải. Song, em nghĩ, mình phải biết đất nước, con người, sản vật nơi mình đang sống chớ, chị Ba? Ý anh Năm Chỉa binh vực chú Ba.
Thím Ba đứng lại, cười chúm chím. Bởi, thím quá hiểu đó là một phe với ông chồng, chẳng dễ gì đụng vô. Nhưng rồi, thím cũng phải nói đôi ba câu cho hả dạ, trước khi lo việc bếp núc đãi thằng cháu bữa cơm trưa.
– Tui nghe cái gì, là phù mỏ... chưn đạp, lung tung!
– Trời đất! Phù Nam chớ phù mỏ cái nỗi gì! Chân Lạp chớ thằng nhỏ đâu có nói chưn đạp... Cái bà nầy, hôm nay coi bộ bị ấm đầu? Chú Ba rầy rà thím. Tưởng thím giận thì hư bữa cơm, không dè thím cười xẻn lẻn:
– Tại tui nghe ba hụt ba trớt! Đã nói, người ta dốt mà... Hồi nãy giờ, bác Mười ngồi uống trà nghe chuyện. Ngoài rìa căn nhà, sóng vỗ nhấp nhô xuồng, đẩy nước liếm nhóc nhách chưn cột kê kích. Thằng Tám hơi run vì sợ sập nhà!
Ngó mặt thằng Tám, bác Mười đoán trúng phóc cái bụng của “thằng nhà chợ”.
– Nhà không sập đâu, cháu!
Rồi bác nói chầm chậm:
– Theo những gì cháu nói, thì Vương quốc Campuchia được thành lập trên cái nền diệt vong của đất nước Phù Nam, Chân Lạp. Nếu vậy, vùng đất Nam Bộ vốn thuộc Thủy Chân Lạp và trước kia, là của Phù Nam. Tự nó là vùng đất đầm lầy, tràn ngập nước nên mới gọi rằng “Thủy”. Nhà cất sàn, phương tiện đi lại bằng xuồng ghe và tất nhiên, cây con phải thích nghi với đất nổi nước.
Ngoài đồng mênh mông nước trong cái nắng bén lưng, nóng! Bác Mười ngưng nói, chậm rãi rót nước trà. Chú Ba thừa dịp, giành nói:
– Nếu anh Mười nói như vậy thì, tui nói như vầy: Nam Bộ đàng mình chắc ăn là vùng đất mới, trên ba trăm năm người Việt lưu dân khẩn hoang lập ấp, chinh phục thiên nhiên tạo nên vườn ruộng; chung sống với nước nổi và mần theo bậc tiền hiền răn dạy: “Hễ người thương nước thì nước thương người”!
– Chú Ba mầy, nói nghe được đó!
Mùi cá linh hấp mía kèm theo rau ghém bông súng, bông điên điển, mang vị nhớ quê nhà!
2.
Thằng Tám trở lại Sài Gòn, nhưng nó bỏ sót lại bao điều suy nghĩ cho chú Ba trăn trở về vùng đất đang sống. Một vùng đất mà hằng năm ngóng chờ con nước nổi, hằng năm khi gió heo may nhấp nhứ chuyển mùa sang gió chướng và nước nổi giựt đồng… cũng là lúc dân nghèo thiếu ăn đổ xô nhau đi đập lúa ma!
Đời lúa, tự sinh tự diệt trên miền đất hoang dã ngập tràn nước nổi. Bằng sức sống của chính mình, cây lúa ma bỏ lại sau lưng các loài hoa cỏ khác ngập chìm trong nước, nó mãnh liệt ngoi lên và ngoi lên khỏi mặt nước, dù nước nổi cao tới đâu. Và, nó làm đòng, trổ bông, chín hạt... theo chu kỳ tự nhiên trong cõi trời đất! Người chẳng dính dấp gì đến sự chết sự sống của nó. Người đập nó đem về nuôi bản thân, ăn
nó mà chẳng bao giờ hiểu nó. Vì, không hiểu nó nên chủ quan áp đặt, rằng nó là ma: “Lúa ma!”. Biết đâu đó chẳng là lúa Trời? Trời cứu giúp người khốn cùng đang lúc gặp cơn nghèo đói!
– Thằng học trò Tám coi bộ dạng lù khù, nhưng cái đầu của nó có trí tuệ. Nó nói nghe tưởng chuyện đâu đâu, lục cục lòn hòn không mí mối. Ngẫm nghĩ thì, nhận ra lắm điều cho người nghe cái cần nhận, cần động não.
Đồng tình với nhận xét của bác Mười, Năm Chỉa nói:
– Cây lúa mà từ trước tới nay, mình gọi lúa ma, thực ra nó chẳng “ma” chút nào! Có thể nó là, giống lúa nước của Phù Nam, của Thủy Chân Lạp... còn sống sót trên quê hương của nó, khi dân tộc bị diệt vong(?)
Lời Năm Chỉa khiến chú Ba nhớ lại:
– Lúa vượt nước nổi không riêng gì cây lúa ma, nhiều giống lúa vượt nước khác, như: Nàng Đùm, Nàng Rừng, Nàng Thương, Gãy Xe, Tất Nợ... người nông dân phương Nam đã gieo sạ xuống vùng đất nước nổi, có lẽ ngót nghét cũng trên dưới hai trăm năm. Hồi năm 80 của thế kỷ trước, tỉnh Long An đã thành lập Nông trường Quốc doanh Lúa Vàng nhằm khai hoang, phục hóa trên mười ngàn héc-ta để gieo trồng cây lúa vượt nước nổi. Sau nầy, nó là cái nền phát triển cây lúa hai vụ; đồng thời cũng là vựa lúa lớn nhất trong tỉnh.
Rồi, bụng dạ chú Ba cứ ngờ ngợ, cho rằng, cây lúa ma với các giống lúa vượt nước đó, chắc là có mối liên hệ, chớ chẳng không! ***
Năm Chỉa phụ chú Ba căng tấm đệm xuôi theo chiều dọc từ trước ra sau cao hơn một thước ở giữa xuồng. Cây trước cao, cây sau cao bằng tấm đệm mà dân tại chỗ gọi là cây cần câu. Hai cần đập làm bằng thanh tre dài trên hai thước, nó nằm hai bên và dọc theo chiều dài tấm đệm. Một đầu cột vô cây cần câu, một đầu ở khoảng giữa cái
cần đập cột dây treo trên đầu cây cần câu. Xong công việc chuẩn bị đi đập lúa ma, chú Ba biểu Năm Chỉa nghỉ sớm.
Trời tờ mờ sáng, sương đồng còn bay là đà tìm hơi nước đang bốc lên vì con sóng, Năm Chỉa đứng trước mũi chống xuồng băng vô vùng lúa ma đương chín tới. Chú Ba ngồi sau, hai tay cầm hai cần đập thao tác nhịp nhàng đập bông lúa ma vô tấm manh bồ, hạt lúa chín rơi rào rào nghe vui tai, chớ không rớt lộp độp như hạt mưa trên mái tôn nghe đau lòng xót dạ!
Nắng nóng lưng và rát vành tai, cả hai chống xuồng về cũng kiếm được bộn, đôi ba giạ lúa ma vun ắp khoang xuồng.
Vui miệng, Năm Chỉa nhắc:
– Cái thằng Tám học trò bận đó nó về chơi, tui tưởng nó gà mờ, nào dè nó thuộc gà tử mị; thuộc thứ dữ đó nha, anh Ba!
Chú Ba vừa chống xuồng, vừa bập thuốc lá. Trời vẫn lạnh, dù có nắng. Hồi lâu, chú nói:
– Người có chữ vẫn hơn. Những gì nó nói về đập lúa ma không phải không có nguyên cớ, dẫu rằng nó chưa hề biết đập lúa ma. Chẳng giấu gì chú em, đã bao đời đi qua và tới đời mình, tui vẫn thắc mắc không hiểu tại sao hạt lúa ma có râu dài, bông ít hạt, hạt mọc thưa, hạt lớn hơn hạt lúa thường, mỗi ngày mỗi bông lúa chỉ chín vài hạt, mà lại chín vào ban đêm. Hạt lúa chín, sẽ rụng ngay lúc mặt trời mọc.
– Anh Ba quên cái đêm thằng Tám học trò sửa soạn mai về lại Sài Gòn, nó nói: “Lúa trời còn gọi là quỷ cốc”[13]. Đó là chuyện sách vở, chuyện dân gian là lúa trời và vì chuyện lúa trời, nên mới có sự hào phóng của thiên nhiên:
Ai ơi, về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
(Ca dao)
Còn chuyện người tại chỗ nghèo khó gọi là lúa ma! Gọi là lúa ma, chưa hẳn “hạt lúa chín về đêm, thu hoạch lúc nửa đêm về sáng hoặc hạt lúa ma sợ mặt trời” mà có lẽ, vì phải “đập” chớ chẳng phải gặt hái như hạt lúa thường.
Chú Ba và Năm Chỉa chuyện vãn qua lại, vậy mà, xuồng chở lúa ma về tới nhà hồi nào chẳng hay!
3.
Mấy năm người ngóng nước, ruộng đồng khô vì nước nổi ly thân với đất. Cả vùng Thủy Chân Lạp xa xưa cạn nước và cây lúa ma lần hồi biến mất. Người mặc sức thêu dệt, đồn thổi và thậm chí, nâng nó lên thành huyền thoại.
Chú Ba tiếc hùi hụi:
– Mất mùa nước nổi, mùa đập lúa ma sao còn!
Rồi, chú tặc lưỡi:
– Mùa lúa ma không còn thì còn ai biết làm công cụ đập lúa ma? Năm Chỉa mặt dàu dàu, chợt nói ngang – không nói dọc cho có đầu có đuôi:
– Chả hiểu lúa sanh ma hay ma sanh lúa? Có điều, cây lúa ma từ bao đời vẫn tồn tại trên mảnh đất đã từng chứng kiến những vương triều rực rỡ huy hoàng, những dân tộc kiên cường bất khuất… rồi suy tàn và tiêu vong!
Bác Mười trầm ngâm, cái trầm ngâm cố hữu của người già thích nghe nhiều, ít nói.
– Đã tới lúc hiếm hoi hoặc không còn mùa nước nổi, cây lúa ma tự mình kết liễu mình. Lẽ vô thường trong cái lý vô thường tự nhiên của trời đất!
Thím Ba nướng trui con cá lóc ruộng, rủ Năm Chỉa ở nán lại nhậu lai rai với chú Ba cho đỡ buồn! Tự dưng ai cũng nhắc thằng Tám học trò và mong nó về chơi.
– Đồng khô sát rạt, chim cò còn chẳng thèm về, huống chi nó! Chú Ba nói trong cái trống vắng. Nắng đổ sao!
BÓNG TRĂNG QUÊ
1.
Huy bồi hồi đứng trên bờ rạch cũ và chợt buồn, khi ngó cái cầu vó đã mục gãy theo năm tháng nắng mưa. Hình như, trong tâm thức của Huy hiện ra bóng dáng Sáu đương khoan thai thả vó chìm vào lòng nước và rồi, từng động tác của đôi cánh tay đầy uy lực cất vó bắt cá nhịp nhàng theo tiếng nước buông mành lưới rơi xuống mặt rạch loang loáng ánh trăng đêm. Có lẽ, tức cảnh sinh tình nên Sáu mạnh dạn trải lòng qua câu hò:
Khế với canh một lòng chua xót
Mật với gừng một ngọt, một cay
Anh về bỏ áo lại đây
Để khuya em đắp gió Tây lạnh lùng.
(Câu hò Nam Bộ)
Câu hò của Sáu ngấm vào máu và chảy khắp thân Huy. Đêm đó, trăng chưa đến độ trăng tròn và trời thì, chưa đến đỗi đã vào khuya!
***
– Huy ơi! Qua phụ chú Tám một tay, coi con!
Chú Tám mượn Huy lúc mặt trời lên khỏi ngọn tre tầm hai sào đất. Nhà chú Tám cách nhà tía má Huy một cây cầu khỉ bắc ngang cái mương dừa.
– Dạ! Đợi con lua xong chén cơm, con qua liền!
Sáu nói vọng sang:
– Thì, anh qua ăn cơm với em, nè!
Gió vườn bên lùa nắng nhảy múa trên sàn nước.
Đến trưa, chú Tám cùng Huy và một số trai tráng trong xóm đã hoàn tất việc bắc cầu vó từ bờ đất ra giữa rạch. Mọi người nói cười rôm rả. Tiếng chim dồng dộc líu lo trên những cành bần dày đặc tổ. Chợt bên kia rạch có kẻ buông lời:
Muốn làm vó phải bắc cầu
Muốn đi cưới vợ phải cau trầu lễ nghi!
Ai nấy đều chưng hửng và lúng túng bởi chưa tìm được người đáp lời. Sáu nghỉ tay bó dây lạt dừa nước, ứng khẩu hò môi: Anh nghèo, em giảm lễ nghi
Miễn cầu nọc chắc phòng khi trở trời!
(Câu hò dân gian miền Nam)
Cả đám vỗ tay rần trời, cười sặc sụa. Kẻ bên kia rạch liệu chẳng kham, nín khe!
Huy lội theo chú Tám ra đầu ngoài cầu vó. Mọi người đang hì hục cắm bốn cây nọc bằng cây trâm bầu cao khỏi ngực.
– Mấy đứa ráng cắm nọc thiệt vững để đủ sức chịu nổi cái cần và gọng vó, nha!
Chú Tám lội tới lội lui nhắc mọi người.
Huy đứng chàng ràng dưới nước, trong lúc mỗi người hai ba việc mần bở hơi tai. Thấy vậy, Sáu kêu Huy tới mắc trục sắt vô hai nọc cầu. Sáu dặn:
– Anh mắc gì thì mắc, nhưng khi thả vó hay cất vó, em thoải mái kéo lên cao hay gục xuống nước cũng được.
Thú thiệt, Huy tuy dân sông rạch nhưng chưa hề mần vó bắt cá nên đụng chuyện đâm lớ ngớ như gà mắc tóc. Sáu phải nhắc tuồng. Nghe Sáu nhắc tuồng, Huy xẻn lẻn:
– Thì, như cái đòn bẩy chớ gì! Bộ tui không biết sao?
Bìm bịp chưa kêu, con nước vẫn còn ròng chưa lớn. Huy leo lên bờ
vác bốn cây tre dài, đặc ruột thảy xuống mé rạch. Chú Tám và mấy đứa trong xóm, khởi sự từ phía đầu ngoài rạch bắc tre cột vào đầu khúc cây nặng, ngó chẳng khác hình cái gánh chéo chữ thập; thoạt trông ngồ ngộ như cái “cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi”!
2.
Chim có trời, cá có nước! Người lưới trời bắt chim vào lồng, lưới nước bắt cá vào chậu. Thiệt là, thất đức (!?). Đêm ngủ chòi canh thức con nước để vó bắt cá, Sáu thường nghĩ mông lung một mình như vậy!
Nước sâu, nước không chảy mạnh. Nước không chảy mạnh, tôm cá sao nhiều! Vốn liếng kinh nghiệm của ông bà để lại. Do đó, vó bắt cá phải theo con nước trong tháng tính theo âm, chớ không tính theo dương. Thường thì, con nước rằm, con nước ba mươi và con cá, con tôm cũng theo con nước đi kiếm ăn; rồi cứ vậy mà thành quy luật. Một khi đã thành quy luật, tất nhiên sẽ sinh chuyện.
– Sáu ơi! Có ở ngoài chòi không?
Lối mòn ra chòi nghiêng vành trăng rằm tròn trĩnh!
Sáu chưa kịp lên tiếng.
Huy vừa bưng rổ khoai, vừa đi và nói luôn:
– Má tui luộc khoai cho Sáu ăn khuya, nè!
Lâu lắm rồi, cứ như là thông lệ, hễ mỗi lần đến con nước vó bắt cá thì má Huy lo cái ăn khuya cho Sáu: khi khoai bắp, lúc chè xôi... Sáng ra, má Sáu lựa cá tôm tươi, biểu Sáu đem biếu má Huy ăn lấy thảo. Tình làng, nghĩa xóm đã thành nếp làng quê mà có lẽ từ xa xưa, thuở đi khẩn hoang lập ấp.
***
Ánh trăng sáng mặt nước rạch đêm rằm.
Hai đứa ngồi bên nhau ăn khoai, canh cất vó bắt cá tôm. – Nãy giờ đặt vó khá lâu, mình chậm cất vó, cá tôm vô vó rồi đi
luôn thì sao, Sáu?
Huy đứng dậy, trong bụng hơi lo lo. Sáu mỉm cười, bóng ngả sóng soài trên cây cầu vó lắt lay.
– Anh lo chi, tía có cách và đã có tính trước việc nầy khi làm vó. Lúc đặt vó, em đặt nghiêng không đặt đứng, bởi chính cái độ nghiêng của vó khiến mối viền lưới phía đầu dòng nước chảy sẽ chìm sát đáy rạch. Trong khi đó, mối viền lưới ở phía cuối dòng nước chảy nó ở chừng mực ngang tầm mặt nước; còn như cao thấp chút ít là tùy tình hình mặt nước rạch đêm đó sạch hay nhiều cỏ rác. Cá tôm không vào vó thì thôi. Đã chịu vào, mong chi thoát; bởi nó đụng phải cái tùng lưới tù mù chẳng lối ra, chỉ bơi quanh quẩn chờ vó cất.
Huy vừa đập muỗi, vừa nghe Sáu cắt nghĩa cái vó, hệt như học trò lắng nghe cô giáo giảng bài.
***
– Huy ơi! Về học bài, mai còn đi học. Khuya rồi, con!
Má Huy đứng bờ mương gọi sang bờ đập, nửa như nhắc nhở, nửa như hối thúc.
Sáu nói hớt, thay Huy:
– Chút nữa, anh Huy về liền, bác Bảy ơi!
Huy lên tiếng để má yên lòng.
– Má vô nhà ngủ đi, lát nữa con về!
Sáu lắc vai Huy.
– Thôi! Anh phụ em cất vó, rồi về!
Lưới vó có độ dùn. Hèn chi, khi nước chảy mạnh, lưới biến thành cái tùng sâu cả thước tây; tôm cá nếu có vẫy vùng thì cũng chỉ là vẫy vùng trong cái hố thẳm đó! Con người ghê thiệt! Bàn tay Sáu lúc khoan lúc nhặt kéo lưới vó, tấm lưới hình vuông buộc chặt vào bốn đầu cây tre từ từ trồi lên khỏi mặt nước. Màn lưới chùng như cái võng vuông lớn thiệt lớn, ngăn ánh trăng dọi xuống mặt rạch. Và, từng hạt
nước lăn dài trên thành màn lưới đã vội vã rớt trở lại dòng nước, chẳng thể lìa xa.
Bắt cá tôm xong, thả lưới đặt vó trở lại đáy rạch, Sáu cười khúc khích:
– Anh đang bị bóng đè, có đau có nhức không?
Huy chả hiểu ra làm sao, dợm hỏi cho ra lẽ thì Sáu đã nắm tay Huy lúc lắc.
– Người lớn trong xóm thường hay nói: “Bóng gái đè bóng trai, không chia tay thì mai nầy cũng có đứa chết”(!?).
Thất kinh, Huy vội đẩy tay Sáu ra và nói trỏng:
– Ăn nói bậy bạ quá! Người ta đi về bây giờ!
Sáu cười nức nẻ, thọc léc tinh nghịch trộ Huy:
– Coi vậy, sợ chia tay, sợ chết! Chết, em chẳng sợ, chỉ sợ mình thương người ta mà người ta không thương. Cái đó, mới thiệt là chết thiệt!
Bóng trăng ngắn vì bóng mây che, bóng anh dài vì bóng em đè. Rồi, Sáu ngẫu hứng cất giọng hò lơ:
Ánh trăng soi bóng tụi mình
Bóng em đè bóng lên hình bóng anh![14]
Huy mần thinh, Sáu sợ giỡn quá trớn Huy giận nên đưa cái rổ đựng mấy con tôm càng xanh bự chảng đương nhảy xoi xói. – Anh đem về rọng. Sớm mai, bác Bảy rim tôm nước dừa cho anh ăn lót dạ, đi học!
***
Chú Tám, người có tay nghề chọn dòng nước chảy, chọn địa hình với thế đắc địa đặt vó mà bọn trẻ trong xóm thường gọi là máng gió. Kẻ yếu tay nghề hoặc dân xứ khác mới đến, tưởng dễ ăn, máng vó lơ mơ chỉ là “húp cháo rùa” chớ chẳng có con cá con tôm nào dại chui
vào vó lưới. Huy dù không rành rẽ như Sáu, nhưng không phải là không biết; vì những ngày nghỉ học, Huy thường phụ chú Tám lặn xuống nước dùng đôi tay phả bằng phẳng đất ở mặt đáy rạch nơi sẽ máng vó. Đã vậy, chú Tám và Huy còn phải dọn dẹp các chướng ngại cản luồng cá tôm đi, những chà gai nguy hiểm làm rách lưới. Nghĩa là, nơi máng vó cần được thông quan trước khi đặt vó. Sự đời, sông rộng thì rạch hẹp, chớ đâu có chuyện ngược đời rạch rộng mà sông hẹp bao giờ? Cho nên, chú Tám hay nhắc mấy đứa trong nhà, ngoài ngõ:
– Biết rằng: “Tay làm, hàm nhai”. Song, tay làm vất vả mới có miếng ăn để hàm nhai. Cũng như con cá, con tôm, thích thú rủ nhau đi ăn đêm chớ không thích thú rủ nhau đi ăn ngày. Trời mưa gió, cá tôm kéo nhau bơi bầy đàn. Trời quang mây tạnh, cá tôm thường khi vắng bóng.
Rồi như thể sợ cháu con chưa hiểu, chú Tám nói tiếp: – “Ngồi mát ăn bát vàng”, cái đó rất xa lạ và nhứt định không phải là thói quen của người dân quê chơn chất!
Ngẫm lời chú Tám, nhiều đêm trằn trọc Huy thấy quý trọng và thương dân quê mình. Đến lúc Huy học con cá, con tôm thuộc môn Vạn vật; nghe cô giáo giảng về đặc tính của từng con, Huy lại quý trọng và thương con cá, con tôm hơn con người. Chẳng hiểu vì sao. Mỗi ngày một lớn, Huy hiểu mù mờ, rằng:
– Cá tôm rủ nhau đi ăn đêm, tụ bầy đàn rồi kéo nhau bơi trong mưa gió... cốt là, tránh hiểm nguy đến tánh mạng và để bảo tồn sự sống, chớ đâu vì thích thú rong chơi. Chắc chắn nó không ngờ, con người do cần ăn cần sống nên bất kể đêm hay ngày, mưa hay nắng, sẵn sàng miệt mài chịu cực chịu khó canh thức cất vó bắt cá tôm.
Nhớ hồi Sáu chưa thế tía ngủ chòi cất vó, ngày Chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ Huy thường được chú Tám kêu qua chòi ăn tôm cá nướng than củi dừa. Huy nghĩ thầm và tự mâu thuẫn với chính mình:
– Ngon bất biết, mà cũng buồn khôn nguôi!
Chú Tám ngồi chồm hổm, mần bộ giả lơ; chớ thiệt ra, chú đọc thấu suy nghĩ của thằng cháu hàng xóm mới vừa nhổ giò nở bắp chuối cẳng!
– “Vật dưỡng nhơn” mà cháu!
Giật mình, Huy xẻn lẻn và lúng túng thể như, bị ai đó “bắt tận tay, day tận mặt” cái trộm nghĩ thầm kín của riêng mình. Huy còn đương bần thần đã nghe chú Tám cười khanh khách:
– Trong cái cõi hồng trần gian truân nầy, nghĩ chi cho mệt óc, nặng lòng! Trời đất mang mang vốn đã xếp đặt vậy, là cứ vậy... Chú rót rượu ra chén. Uống vô một chén, khà ra một tiếng: – Mai nầy, lớn lên, rồi con sẽ uống rượu như ta! Khi uống rượu, con hiểu được một phần đời trong cuộc sống.
Huy bó gối ngồi lặng im.
Trong căn chòi trống huơ, hương rượu nếp bén mùi tôm cá nướng chín thơm lừng cả khúc rạch con nước vào rong.
3.
Bây giờ, hỏi thăm xóm Trâm Bầu chẳng ai biết, bởi người của xóm cũ chẳng còn ai và cái xóm nghèo từ hồi nẳm, nay đã là Ấp Một. Bóng chiều khuất dần dưới bóng trăng rằm. Huy lần khân trên nền đất cũ, mắt rưng rưng.
– Ông ơi! Ông tìm ai mà lần quần ở đó? Trời sắp tối rồi! Tiếng cháu gái bên kia bờ rạch hỏi nhóng sang.
– Nè cháu! Chỗ nầy, có phải hồi trước đặt vó bắt cá không cháu? Huy cố nói to bằng hơi sức của người già, vì sợ cháu gái bên kia bờ rạch nghe chẳng rõ.
– Ông ơi! Cháu còn nhỏ nên không biết, để cháu kêu má cháu! ***
Trăng rằm vằng vặc!
Con nước vào rong chảy mạnh giữa dòng, nhưng cá tôm mất bóng dần bởi môi trường sống ô nhiễm, khí hậu biến đổi. Huy ngồi cận kề ngôi mộ đất ẩm thấp mọc đầy cỏ dại nở bông.
– Xin lỗi, chú thứ mấy, là sao với ngôi mộ hoang nầy? Má cháu gái bơi xuồng sang và lúc bước lên bờ đã hỏi Huy như vậy.
– Tôi thứ hai, tên Huy, là người thân của ngôi mộ nầy! Huy tự giới thiệu chưa hết lời, má cháu gái đột nhiên mừng ra mặt. – Mèng đéc ơi! Người ăn ở có đức mới được như vầy, chớ kẻ ăn ở thất đức thì...
Huy ngạc nhiên, hỏi:
– Sao thím nói vậy?
– Đã nhiều năm tui sống ở đây, chẳng thấy ai lui tới và cũng chẳng có ai đến tảo mộ ngày hai lăm tháng Chạp theo thông lệ người làng. Mủi lòng, tui sai mấy cháu sang nhổ cỏ dại và thắp nhang, đốt gởi áo quần, tiền bạc cho người nằm dưới mộ đỡ buồn tủi.
Nói xong, má cháu gái đưa nhang cho Huy thắp.
Có lẽ, ngó thấy cỏ dại mọc um tùm trên mộ nên má cháu gái sượng lời, vội nói chống chế:
– Tụi nhỏ nó không biết “Nhổ cỏ dại phải nhổ tận gốc”, không nhổ tận gốc nên nhổ vừa xong, cỏ dại mọc lại và ngóc đầu lên dữ tợn hơn hồi chưa nhổ!
Như đoán được điều Huy muốn hỏi và hỏi rất nhiều nữa là đằng khác, má cháu gái chẳng ngại ngùng, nói luôn:
– Chiến tranh đầy bom đạn mà chú Hai! Thôi thì, đêm nay, vợ chồng tui mời chú Hai ngủ lại nhà tui. Chuyện gì, chú Hai hỏi tía con Mủng rành hơn tui!
Lúc xuồng ra giữa rạch, má cháu gái nói vói lên bờ:
– Khi nào qua, chú Hai hú cho một tiếng!
***
Trăng đan tơ trời dệt trắng mộ Sáu!
Huy mơ màng nghe trong gió có tiếng Sáu hò lơ... đêm hai đứa đứng so kè cất vó bắt cá! Và rồi, đêm nay dưới ánh trăng rằm muôn thuở, Huy khóc, tiếng khóc rung mái tóc màu trắng sữa sương: Tôi về ngồi khóc một mình
Bóng tôi đè bóng lên hình mộ em![15]
Trăng khuya khoắt, có khác chi cái khuya khoắt đêm chia tay, Sáu bịn rịn tiễn Huy theo gia đình lên tỉnh sinh sống. Hai đứa từ đó bặt tin nhau và bom đạn cắt lìa đôi lứa…
– Về thôi, chú Hai ơi! Khuya lắm rồi!
Tiếng hối thúc của tía cháu gái ban chiều chồng lấn tiếng mái chèo khua sóng con nước lách tách mạn xuồng. Lúc Huy níu cây cầu vó đã gãy mục để tạo lực bước xuống ghe, Huy có cái cảm giác cây cầu vó thức dậy, một sự thức dậy mừng người xưa còn nhớ đất cũ quay về! Và, trong cõi xa lắc xa lơ, mơ hồ như có tiếng hò lơ…
Anh về bỏ áo lại đây
Để khuya em đắp gió Tây lạnh lùng!
CÔ HAI RẠCH QUẢN LỘ
1.
Trời tù mù trong đêm con nước rong!
Lưa thưa mấy cái chòi mọc lúp xúp trên cánh đồng sậy, người Pháp thường gọi “Plaine des Roseaux”, tiếng côn trùng đua nhau hòa nhạc đệm câu hò:
Bạc Liêu là xứ cơ cầu
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu.
(Ca dao)
ngân ngân đêm dài thanh vắng.
– Tội nghiệp cô Hai!
Bà Tám chép miệng, nói thầm.
Nghe tiếng vợ trở mình, giọng ông Tám nhừa nhựa, ngái ngủ: – Đêm còn sớm, ngủ đi mình!
– Sớm nỗi gì mà sớm! Mỗi lần nghe tiếng cô Hai hò khi ghe chở hàng chèo qua ngang chòi thì trời gần sáng.
Ông Tám lồm cồm ngồi dậy, quơ tay kiếm lửa mồi con cúi. Bà thức dậy theo, lui cui lo nấu cơm sớm ăn ba hột dằn bụng, rồi chờ khi trời hừng đông thì vợ chồng cùng ra đồng. Rơm bén lửa, ánh lửa bừng cháy soi rõ mặt, lồ lộ vết thời gian cắt cứa vầng trán cơ cực, da nhăn nheo lam lũ... Quanh năm chúi mũi mần mướn.
Bà tặc lưỡi nói bâng quơ trong ao ước:
– Vợ chồng mình, có được đứa con gái cỡ như cô Hai thì đỡ biết mấy!
Thuận tay, bà cho bếp lửa ăn thêm rơm; ông ngồi uống nước trái bình bát xắt lát phơi khô thay trà. Buồn miệng, ông bà nhắc tới nhắc
lui chuyện đời xưa; cạn chuyện đời xưa, ông bà bắt qua nói chuyện hồi nãy. Ông cho rằng, tiếng hò lúc đêm hôm là của cô Hai Long Mỹ chèo ghe bán khóm cầu Đúc. Bà quả quyết:
– Cô Hai rạch Quản Lộ bán muối, chớ cô Hai nào Long Mỹ bán khóm Cầu Đúc.
Rồi, bà trách cứ chồng:
– Già có tật không bỏ, “tài lanh lấy râu ông nầy cắm cằm bà nọ”. Như thể “mách có chứng”, bà lôi chuyện hồi nẳm lúc còn ở Cần Đước chưa bỏ xứ đi. Hôm cúng Việc Lề nhận họ, ông “cãi chầy cãi cối” với thằng Chín “nước mặn” về địa danh Ngã Bảy, thiếu điều “tanh bành té bẹ” bữa nhậu. Sau nầy đói quá, lần mò xuống Ngã Bảy mướn ruộng Hội đồng Hoạch mần tá điền, ông mới vỡ lẽ: Ngã Bảy đó, là sông Ngã Bảy có tên chữ Thất Kỳ giang[16] miệt Cần Giờ, chớ chẳng phải Ngã Bảy xứ Phụng Hiệp[17].
Vợ chồng ăn ở mấy mươi năm không có mụn con. Nói không có mụn con là nói ẩu, bà Tám mang bầu mấy lần nhưng, lần nào thai nhi cũng chết khô trong bụng mẹ. Coi thầy, thầy nói: “Tuổi vợ chồng chẳng đặng hào con”. Đôi khi thấy chồng ngồi uống rượu một mình, bà buồn, một nỗi buồn mọc gai, nặng trình trịch.
– Mình ơi! Mình phụ tui một tay.
Mũi xuồng xé nước băng đồng theo lực chống sào trong tay ông Tám.
***
– Hai, con băm nhuyễn gan heo, củ sắn, thịt ba chỉ rồi trộn đều với bột mì, đường, tỏi... và, nhớ rắc hành phi kẻo quên.
Mắt má mù nhưng nghe tiếng động, má đoán biết sự việc như ngó thấy. Lần chưn, má ngồi bệt dưới đất, chỉ vẽ tỉ mẩn cho con mần xíu mại bán bánh tầm trên xuồng theo con nước. Hai ngắt nguyên liệu vò thành từng viên, hấp cách thủy.
Những lúc thấy con mỏi mệt, xao lòng, má thường động viên: Ở cái chốn “Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh”, vậy mà, chẳng thiếu những món ăn hoặc sản vật đã vang danh[18]. Má con mình gắng chịu thương chịu khó, đưa “bánh tằm xíu mại Ngan Dừa” sánh vai bằng chị bằng anh! Hai thay má làm trụ cột gia đình lúc bước vào tuổi mười ba và, cái hồn nhiên con người trong lẽ tự nhiên trời đất không có trong tâm hồn của Hai; bởi nó nếm trải vị mặn mồ hôi của người lớn chớ chưa hề nếm vị ngọt hương hoa của tuổi thơ.
Đôi mắt má bị mù sau những tháng năm bóc hành mướn ở Lộc Hòa quê ngoại. Vùng đất quê ngoại thuộc Vĩnh Châu nằm ven biển, dân sinh sống duy nhứt mỗi một nghề trồng hành tím. Gió cát, nắng nóng hừng hực, bụi đất, bụi vỏ hành, phấn hành, chất bảo quản củ, tinh dầu hành gây kích ứng phỏng giác mạc, dụi mắt, lau mồ hôi, dụi mắt bằng tay bẩn... Đôi mắt phải “tứ bề thọ địch” bởi kẻ thù là tác nhân gây mù lòa.
Trước khi Hai chèo xuồng ra Ngan Dừa cho kịp buổi chợ sớm, lúc nào má cũng đứng trên bến nhắc vọng xuống:
– Rau húng, rau thơm, cải xà lách... có đủ chưa? Nhớ, giá trụng, dưa leo băm sợi và đừng quên chan nước cốt dừa... Có vậy, khách ăn mới ghiền bánh tằm nhà mình, nha con!
– Dạ!
Lúc nào tiếng dạ của con Hai cũng liến thoắng rớt lại sau lái, xuồng ra sông xa bến mấy sào mặt trời mọc ban mai.
2.
Bây giờ, bạn hàng chợ Ngan Dừa gọi con Hai bằng tiếng gọi thân tình: “Cô Hai!”.
Như nước lớn, nước ròng, cô Hai sáng ra chợ bán bánh tằm xíu mại, trưa về nhà se sợi bánh tằm. Sợi bánh cô Hai se bằng tay kích cỡ không đều, sợi bột “em em” bằng và giống con tằm, thiên hạ gọi bánh
tằm. Bột làm từ gạo “một bụi đỏ”, cái giống gạo do cây lúa cấy đất ruộng có bờ chia ô ngăn nước.
Mỗi lần nhắc tía, má khóc, nhứt là về đêm. Má nói:
– Dạo đó, mắt má nhức và lồi ra, mỗi ngày tròng trắng lấn miết sang tròng đen... Lúc vạch mí mắt của má ra coi, tía con hốt hoảng! Bà con lối xóm ai cũng nghèo, nhà mình cơm lưng ngày một bữa. Thời may, có người tốt bụng dắt tía con xuống Ngan Dừa xin “ở bạn” Cả Hẹ. Ông Cả thuận cho tía con “ở bạn lưu niên”, không “ở bạn mùa”. Sau một thời gian thuốc thang chạy chữa, “tiền mất tật mang”, má bước vô thế giới bóng tối. Ông Cả thương tình, cho mượn xẻo đất cặp kinh um tùm cây dừa nước mọc bít bùng để tía má cất chòi ở đậu. Má khịt khịt mũi như đẩy dòng cảm xúc đang ứ đọng chảy ra ngoài.
– Lo cho vợ con có chỗ đụt nắng đụt mưa, tía con quay lại phận đời “ở bạn” để cấn trừ nợ ông Cả. Suốt ngày, tía con đào đất be bờ bao ruộng ngăn nước[19]trên cánh đồng đất thấp, nhiều trũng. Người ta nói: “Từ vô lượng kiếp tía con là con cồng cộc!”.
Mấy năm “ở bạn” mần cật lực, tía cô Hai trả dứt nợ Cả Hẹ. Ông Cả thích người chí thú làm ăn, mách nước tía cô Hai theo học nghề rèn đang thịnh hành ở Ngan Dừa. Một bễ lò nho nhỏ ra đời trên cục đất ăn nhờ ở đậu. Đôi mắt mù của người vợ như sáng ra và tiếng cô Hai rao hàng: “Bánh tằm xíu mại, nước cốt dừa... đ... â... y...”, nghe ngọt lịm, phát thèm ăn!
Công việc đang “ăn nên làm ra”, Tây đem chiến tranh quậy dòng kinh Ngan Dừa chảy ra kinh xáng Cà Mau – Bạc Liêu dậy sóng. Tía má cô Hai bị Tây bắn chết vào ngày 26 tháng 3 Âm lịch, ngày giỗ tổ nghề rèn. Bởi, thằng thông ngôn nói thế nào đó, khiến bọn Tây nghi ngờ bễ lò: Rèn phảng, dao, liềm... tiếp tế võ khí cho những người đang tụ tập trong rừng U Minh chống “nước Đại Pháp”. Hôm đó, cô
Hai chèo ghe bán bánh tằm không có ở nhà nên thoát chết. ***
Bỏ xứ Ngan Dừa, cô Hai về rạch Quản Lộ tá túc với chị Năm, bạn hàng bán muối trên sông.
– Cô Hai nghỉ luôn nghề xe bánh tằm, vò viên xíu mại, à? Chị Năm hỏi trong sự tiếc rẻ.
– Mỗi lần ngồi se bánh tằm, em nhớ tía má chịu khôn nổi. Đành bỏ thôi, chị ơi!
Giọng cô Hai nấc nghẹn, buồn chờn vờn chực chờ bật thành tiếng khóc. Những lúc “trái gió trở trời”, cô Hai thấm lạnh nỗi bơ vơ thân phận kẻ mồ côi:
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
(Ca dao)
Cô Hai chuyển nghề theo chị Năm, nhận muối vựa Bạc Liêu, chèo ghe bán dạo và bỏ mối chợ Ngã Bảy. Thường khi, bà Tám mua muối của cô Hai đem vô đồng mần mắm khạp. Từ đó, hiểu nhau cảnh ngộ, chia sẻ và thân tình. Lần hồi, ông bà Tám coi cô Hai như con gái.
Ở chung với chị Năm và nhờ được đi đây đi đó, cô Hai hiểu thêm chuyện đời, chuyện người của vùng đất “đãi nhau cái nghĩa, thương nhau cái tình”. Có một thời chắc chưa xa lắm “quyền lực và kim tiền không thể đứng nơi đất rừng Cà Mau”! Hương quản Lộ[20] để lại đời sau con rạch giúp người đi lại, sinh sống; kể cả vật nuôi, cây trồng.
Bọn bối trên kinh rạch đông như rươi, cuộc sống trở nên khó khăn từng ngày. Năm sau, chị Năm đi lấy chồng. Cô Hai đứng trước ngã năm chớ chẳng phải ngã ba đường, để chọn một ngả gởi “phận hồng nhan trong cơn gió bụi”!
3.
– Cô Hai ơi! Ông Hội đồng tới chơi.
Bà Tám hú hì lúc chiếc nghe lườn bốn chèo vừa cặp mép nước. Hội đồng Hoạch mặc áo dài the, quần vải sa-tanh trắng, đội nón cối ngả màu vôi mả đá, đi guốc vông, tay cắp nách cây dù, miệng ngậm ống đót hút thuốc… đứng lóng ngóng ở mui ghe chờ gia nhân cõng xuống. Căn chòi rách thiếu điều không còn chỗ rách, trở nên nhộn nhịp, tươi tắn. Cô Hai ngưng tay xe sợi bánh tằm, bước ra bến cúi đầu lễ phép chào ông Hội.
– Người nhà cả, không có chi... không có chi, em... à… cô Hai! Ông Hội khoát tay lia lịa và cố nhấn tiếng em như chỉ dấu nhịp song lang tỏ tình thân.
– Chòi xác xơ quá, xin ông Hội châm chước sự thất lễ của vợ chồng con cái tui.
Ông Tám khép nép thưa cùng ông Hội.
Ông Hội cười toe toét, cười trơ cả nướu răng. Không đợi mời, ông Hội chủ động ngồi chò hỏ dưới đất coi cô Hai xe bột.
Cá cắn câu không ngại lưỡi vì mê mồi, người hạ mình không ngại tiêu danh vì mê ăn. Cô Hai theo cái lẽ sông nước “xuôi chèo mát mái” mà ứng xử với ông Hội. Món ăn đôi khi khiến người ta nhớ hơn nhan sắc. Cô mần lại món ăn của má “Bánh tằm xíu mại”, ông Hội ăn đã miệng hít hà, tay chưn bớt suồng sã sờ mó.
Ông Hội nghĩ cô Hai là con gái rượu của tá điền Tám, từ quê Cần Đước xuống phụ tía má công việc đồng áng. Ba mùa lúa, ba mùa Hội đồng Hoạch lảng lảng việc thu lúa ruộng. Tuy vậy, ông Tám vẫn đóng đủ không thiếu ông Hội hột lúa nào.
– Tám nầy, mùa sau cần thêm ruộng, tui cho!
Ông Tám đứng xớ rớ, mần thinh. Hội đồng Hoạch tưởng người tá điền của mình ngán “thuế ruộng”.
– Làm nhiêu ăn nhiêu, miễn đong lúa ruộng cho tui.
Ông Hội đồng bập bập ống đót, khói thuốc không bay lên, nó bay là đà xuống đất giống như lượm bạc cắc!
Mỗi tháng, ông Hội ghé chòi ông Tám thăm cô Hai một lần theo con nước Mười Bảy. Và, cũng chỉ có ngày Mười Bảy “nước nhảy khỏi bờ”, ghe ông Hội mới đủ sức trườn vô mép chòi của ông Tám nằm lút chét trong sở ruộng. Mấy lần ông Hội “nhờ cô Hai” nói tía má dời chòi ra mé kinh cất nhà “ba gian chữ đinh”, sở hụi bao nhiêu, qua tính cho. Những lần như vậy, cô Sáu cười thầm trong bụng “mèo mà thương chuột”!
Cô Hai dư biết Hội đồng Hoạch tuy mê ăn bánh tằm xíu mại nhưng không bằng mê ăn thân xác của cô; mượn cái “mê ăn” đó, mỗi lần ông Hội tới chơi, cô thường khích lệ đôi lời:
– Mang danh ác nhưng, việc làm thiện thì, người đời không lãng quên. Đã là Hội đồng xứ nầy, chắc ông Hội rành chuyện Quản Lộ... Sau khi chết, dân lấy tên Quản Lộ đặt tên con rạch.
Nhìn sắc mặt ông Hội bần thần, cô Hai bồi tiếp:
– Dù phải là con tép không có gan, không có xương sống đứng thẳng và cứt lộn lên đầu thì ít nhứt, cũng phải thức thời biết búng thụt lùi và lẹ như tép! Chả lẽ, mần thinh trước tình cảnh “kẻ ăn không hết, người lần không ra” cứ nhùng nhằng kéo dài lê thê mãi?
Giọng cô Hai thỏ thẻ, ông Hội mơ hồ nghe, muốn giận không giận được. Thình lình cô Hai, hỏi:
– Ông Hội, sao ông tốt bụng với tui quá?
– Không tốt với em thì qua tốt với ai?
– Sao ông Hội không tốt với những tá điền nghèo khó khác? Có nhiều gia đình bữa đói bữa no, nhịn cơm để gạo đong lúa ruộng. – ???
Da mặt ông Hội dày hơn mọi khi và cô Hai có cảm giác, da mặt ông Hội giông giống da trâu!
***
– “Ai ăn bánh tằm xíu mại nước cốt dừa... cải xà lách... h... ô... n...”! Tiếng cô Hai rao hàng mời gọi vang vang xa, người nghe bắt thèm ăn món ăn dân dã quê nhà.
Hội đồng Hoạch mấy năm đeo càng theo cô Hai, càng sứt gọng, cô Hai thì “trắm trơ trắm trất”. Hội đồng Hoạch kiếm chuyện lấy lại ruộng không cho ông bà Tám mần. Cô Hai quay lại nghề bán bánh tằm giúp ông bà Tám những lúc “nay ốm mai đau”. Và, cô Hai lo một ngày không xa, ông bà Tám bị bắt buộc dỡ chòi trả đất ở đậu cho ông Hội. Việc gì, Hội đồng Hoạch chẳng dám làm một khi sự ham muốn của ông ta không được đáp ứng. Chẳng là, ông Hội thường rêu rao “cá lội nước, chim đậu đất ông Hội là của ông Hội. Tụi bây đừng chàng ràng nghĩ, rằng chim trời cá nước thằng nào bắt được nấy ăn”.
– Khuya rồi, ngủ đi cô Hai!
Bà Tám từ trong cái nốp nói ra, lớp bàng đương đệm dày cui nên chặn tiếng, âm phát sột soạt rè rè.
Cô Hai nằm gối đầu lên cánh tay, tự an ủi:
– Con kinh Quản Lộ – Phụng Hiệp quam quam mấy đoạn chạy qua Long Mỹ – Sóc Trăng[21], rồi thẳng như ruột ngựa lúc chạy qua Bạc Liêu; tới gần thành phố Cà Mau nối rạch Quản Lộ, nó cong như cặc bần cong khi bị sóng đánh dồn dập rồi đổ nước ra sông Gành Hào. Cô Hai sực nhớ hồi má còn sanh tiền, thường nói: “Sông có khúc, người có lúc”.
“Người có lúc”, cô Hai hoàn toàn tin như vậy!
THẮT LÒNG BA THẮC
1.
Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng nhận chìm ghe lấp dấu và vội vã giấu mình trong rừng bần tối trời trốn quân Tây Sơn. Chợt có tiếng động ngoài mé sông, Ánh mím môi, níu chặt vai Lê Văn Duyệt; chẳng hiểu vì run sợ hay như thể dặn bề tôi cảnh giác.
Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân.
(Câu hò Long Phú)
Không gian im ắng sau tiếng “hò đố” của người con gái; chắc có lẽ, anh chàng nào đó bị cú “giựt giò lái bể dái bò” nên tạm thời ngưng “hò đáp”. Đoàn tùy tùng Nguyễn Ánh đồng thở “cái khì”, tiếng khì hơi nhẹ người nặng vật khiến bầy đom đóm hốt hoảng tắt đèn. Duyệt trầm mình lắc xuồng tát nước, đưa Ánh vào thiệt sâu rừng bần.
Cặc bần tuy là giống đực
Thương em đành cam cực chung thân.
(Câu hò Sóc Trăng)
Thì ra, câu hò đố lúc nãy đã có lời giải đáp chính xác: “Cây bần”! Dân dã thông minh như vậy, lo chi chuyện “phục quốc” của Chúa chẳng đặng thành! Mải mê nghĩ chuyện, Duyệt lơ là lách sào len lỏi rạch, xuồng dội ngược vì mũi đụng phải gốc bần cổ lưu niên. Thường khi, gặp sự cố tương tự, Chúa có thể nổi cáu và phán dạy; nhưng đêm nay thì không. Tiếng quốc kêu trên nền nhạc côn trùng miền ven biển, Chúa chạnh lòng và bóng đêm như đã làm biến dạng khuôn mặt Chúa, trở thành khuôn mặt khác.
– Duyệt! Ta lạnh lắm rồi...
Duyệt nghe rõ miệng Chúa “đánh bò cạp”, đôi hàm răng va mạnh vào nhau liên tục làm Chúa run cầm cập. Mây ngũ sắc vén trời hừng mặt và Chúa bắt đầu lo sợ quân Tây Sơn truy kích kịp, tầm ra tông tích.
Nước Ba Thắc chảy cắt như dao
Con cá đao bổ nhào vô lưới
Biết chừng nào anh (mới) cưới đặng em.
(Câu hò Trà Vinh)
Tiếng hò của chàng trai sống nghề chài lưới rất tình tứ, rất trong và ấm, xé bóng tối lộ ra bóng nắng ban mai. Chúa vừa qua đêm ngự miền đất lạ cuối nguồn sông Hậu.
Chim dồng dộc kêu rộ trời. Chàng trai cô gái dỡ câu, cuốn lưới đầy ắp cá tôm và xen tiếng cười khúc khích lan lan mặt nước. Nguyễn Ánh vung vai đón gió biển, ngắm bông bần... Mùi đất nước làm Chúa tươi tỉnh. Bất giác Ánh nói với Duyệt: “Giang sơn ta, đẹp quá!”.
***
Đô đốc thủy binh Nguyễn Văn Vàng ròng rã một ngày trời bỏ công lục lạo bở hơi tai nhưng, vẫn không tìm ra được một giọt nước nào ngọt trên cái cù lao rộng mênh mông, đông ken cây bần thành rừng rậm. Khát khô cả cổ! Chúa cùng quân gia ngậm trái bần cầm hơi. Trong lúc đó, quân thám thính cấp báo: “Quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Phò mã Trương Văn Đa đã tới Cổ Chiên và đang thọc xuống Ba Động miền duyên hải”. Bụng dạ Đô đốc Vàng nóng như lửa đốt. Duyệt lo phân tán nội cung, đưa bớt cung nữ trà trộn trong dân sinh sống.
Nguyễn Ánh nằm võng không tàng lọng, chỉ có quân hầu và mong được một lần thưởng thức hương bần. Duyệt thưa:
– Bông bần trắng điểm xuyết sắc tím, không hương.
– Có sắc không hương thì, sắc kia cũng vô dụng!
Ánh uốn lưng, chồm người và như sực nhớ:
– Khanh người Trà Lọt, chắc là hiểu bần hơn ai!
– Bẩm! Chúa sáng suốt. Hồi nhỏ, thần thường nghe má thần ru em: Bần ơi! Ơi hỡi là bần
Lá xanh bông trắng, lại gần không thơm.
(Ca dao)
Tuy không hương thơm nhưng nó đắc dụng và nó vẫn hơn biết bao loài bông tràn hương sắc mà trái thì chẳng ra gì, có khi, còn phản trắc sắc hương. Rừng bần chắn sóng giữ đất cù lao dày đến độ trưa đứng bóng, nắng không rớt nổi một giọt xuống đất.
Trái bần từng chùm đong đưa theo nhịp gió biển. Vì, mải đong đưa theo nhịp gió biển nên trái bần tròn dẹp, mang đậm vị chua và chát, đài bông dày đủ sức chịu phong ba và nhọn gần cuống để chống chọi bão táp.
2.
Chiến cuộc lan rộng, chiến sự ngày thêm ác liệt và quân Nguyễn Ánh vỡ trận khắp nơi. Tai mắt Tây Sơn rắc đều bốn cõi, Nguyễn Ánh khác nào mãnh hổ bị truy đuổi và rồi, tự nhốt mình trong cái cù lao mà mình chưa từng rõ tên. Chả lẽ, ta thúc thủ đợi quy hàng!? Những lúc như vậy, cái chết thảm của Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương chập chờn hiện về với cây thịt không còn da và mất đầu. Sau mấy ngày ăn trái bần và thấm môi nước mặn, Nguyễn Ánh cùng tùy tùng bị tiêu chảy kiệt sức. Nguyễn Ánh nằm liệt võng và không sao gượng ngồi dậy nổi. Duyệt lo lắng, luôn túc trực bên cạnh; Đô đốc Vàng bối rối bởi, thủy binh của Đô đốc tàn tới chỗ tạ vô cùng.
– Đây là đâu, Đô đốc?
Nguyễn Ánh hỏi Đô đốc Vàng. Đô đốc quỳ cận đầu võng, tâu rằng: – Dạ, bẩm Chúa! Nơi đây là con rạch không tên, nó lấy nước từ sông Ba Thắc nuôi đất cù lao. Thời đàng cựu chỉ lại đàng tân, rằng
sông Ba Thắc[22] đổ ra Biển Đông bằng ba cửa: Định An, Ba Thắc, Trần Di. Thiên hạ theo thói quen “thấy mặt đặt tên”, thấy vóc dáng cù lao giống kình ngư trườn ra biển bồi và giữ đất, chim muông tụ về, nên cù lao có nhiều tên gọi do lưu dân và người bản địa tự đặt[23].
Khuôn mặt Nguyễn Ánh còm cõi, cóp má, mắt nhắm, thở đều. Duyệt ra hiệu cho Đô đốc thối lui vì, Chúa đã thiếp.
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?
(Ca dao)
Nguyễn Ánh tươi cười và nhớ... À! Ta nhớ ra rồi! Giọng hò nầy chính là cái giọng hò đố của cô gái buông câu trên sông, vào đêm ta lủi vô rừng bần lẩn trốn quân Tây Sơn. Nàng hiện ra và chao ôi, nàng đẹp tợ tiên nga. Nàng sắc nước mà sao chẳng có hương trời? Ánh tự hỏi trong nuối tiếc song, nuối tiếc đó đã bị cái “nòi tình” đè bẹp. Nàng thướt tha trong bộ xiêm y trắng điểm xuyết sắc tím, chầm chậm bước tới.
– Thiếp tên tục là Bần, xin ra mắt Chúa công!
– Ta miễn lễ cho nàng và ta muốn nói với nàng, rằng: “Sóng dập gió dồi hãy tắp vào ta!”.
Nàng ỡm ờ khúc khích cười.
– Chúa công đang bị “gió dồi sóng dập”, thân lo chưa xong, nói chi tới lo cho thiếp!
Sợ Chúa công buồn, nàng giả lả:
– Chắc là, Chúa công đói nhiều lắm rồi, phải hôn? Thiếp đãi Chúa công.
Nghe nói được ăn, Nguyễn Ánh không kềm nổi nước miếng ứa ra miệng. Tai Nguyễn Ánh còn nghe văng vẳng tiếng nàng nói: “Chúa công cố ăn cho lợi sức, để có sức chạy nhanh,Tây Sơn không bắt kịp!”.
Chẳng “sơn hào hải vị”, chỉ là, món ăn dân dã: Gỏi bông bần, cá sặt, rô, chốt, trê vàng mần mắm ăn với cơm nguội kèm bần ổi chín xắt lát mỏng, rau rừng, chuối chát, ớt hiểm xanh... Nguyễn Ánh quên mình là đấng quân vương, ngồi chàng hảng dưới đất, tay xé con mắm ăn bốc... Bụng no cành hông rồi, miệng vẫn thèm ăn. (Mới biết cái ăn quan trọng tới chừng nào!)
Nguyễn Ánh ăn xong bữa cơm, nàng căn dặn đôi điều, rồi lặng lẽ mất hút theo khói lam chiều bên kia sông. Và, hình như có tiếng chuông chùa nương gió vàm Đại Ngãi.
– Thủy Liễu! T... h... ủ... y... L... i... ễ... u...
Nguyễn Ánh kêu thất thanh, long thể xuất hạn, mồ hôi đầm đìa! 3.
Đô đốc Vàng người con miệt sông Tiền, vào thời loạn đã bỏ bến sông thành chiến binh thủy và một lòng sống chết cùng Chúa hơn ba mùa trăng Thu. Đêm nay, ở rừng bần trong bước đường cùng nầy, nhìn thấy trăng khiến Đô đốc nhớ hiền thê, nhớ “Trăng mười bảy trảy giường chiếu”. Gió từ biển thốc từng cơn, hàng hàng lớp lớp cành bần va nhau tạo thanh âm buồn lê thê trên bãi đất cồn. Đô đốc chẳng màng gì thân, chỉ nghĩ tới sự sống còn của Chúa, giọt máu cuối cùng nhà Nguyễn kể từ khi Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa.
Trăng trầm hà đáy Ba Thắc, Đô đốc coi thiên văn thấy lành ít dữ nhiều, nhìn địa thế sông Ba Thắc “lội không tới bờ, lặn không tới đáy”; ba cửa sông không thể bảo vệ cù lao một khi quân Tây Sơn phát hiện và dùng chiến thuyền bổ lưới bao vây. Đô đốc biết chắc mấy ngày tới, quân Tây Sơn sẽ vượt sông Cổ Chiên qua cửa Cung Hầu đến Mỹ Long và từ đó, tiến về cửa Định An, cửa Ba Thắc, cửa Trần Di (Trần Đề) dễ như trở bàn tay. Nhiều lần, Lê Văn Duyệt trao đổi tình hình chiến sự cùng Đô đốc và cũng nhiều lần, Đô đốc định báo sự nguy cấp “chỉ mành treo chuông” cho Chúa nắm nhưng, sợ Chúa
kinh động nên thôi!
– Bẩm báo Đô đốc, thủy bộ quân Tây Sơn đã rời Mỹ Long cách đây hai canh giờ!
Toán đặc thủy tiền sát báo khẩn cấp.
Đô đốc chỉ kịp bàn với Lê Văn Duyệt.
– Lê tướng quân! Tướng quân cứ làm như vầy... như vầy... Nếu Chúa có “chân mạng đế vương” thì, chắc an toàn mạng. – Tôi bao nỡ để Đô đốc...
Duyệt chưa nói dứt nửa câu, Đô đốc chặn lời:
– Tình thế nguy khốn ta không thể nhiều lời. Phận làm tôi phải cứu chủ lúc nguy nan.
Thấy mắt Duyệt rưng rưng, Đô đốc cầm tay Duyệt:
– Tướng quân bảo vệ “long thể” Chúa an toàn, việc đó còn khó gấp trăm lần ta xông pha nơi chiến trận.
Duyệt bùi ngùi, đôi dòng lệ ứa ra từ đôi mắt thiếu ngủ. – Nhưng...
Đô đốc Vàng một tay cầm chuôi gươm, một tay vỗ vai người bạn cùng sinh ra và lớn lên chung một dòng sông Tiền, rồi cười khanh khách:
– Tướng mất còn Chúa thì còn giang sơn. Mất Chúa tướng còn thì giang sơn mất và cái còn kia chỉ là cái còn ngàn năm ô nhục! Mây vần vũ chuyển mưa, trời mang hơi nước nằng nặng. Đô đốc như vừa trút gánh nặng trên đôi vai “Quân – Thần”, thanh thản đi vào cõi tử sinh và phần tử, hoàn toàn thuộc về Đô đốc! – Xin tướng quân giấu nhẹm việc với Chúa trước khi ta dẫn dụ quân Tây Sơn rượt đuổi ta cùng chạy về sông Khoa Giang[24]. Duyệt ôm Đô đốc, nghẹn ngào:
– Đô đốc! “Sanh vi tướng, tử vi thần”!
***
Sau buổi trưa gặp nàng Thủy Liễu trong chiêm bao, tâm trí Nguyễn Ánh thôi bất an. Nhất nhất mọi việc, Duyệt thi hành theo kế hoạch của Đô đốc dặn dò trước lúc chia tay.
Duyệt che mình giấu Nguyễn Ánh dưới hàng bần cổ mọc cặp mé rạch hoang chạy ngoằn ngoèo. Ngoài cửa sông Ba Thắc tiếng reo hò, tiếng binh khí... hơn hẳn tiếng sấm dậy, trời chuyển động mưa đầu mùa.
– Giặc Huệ đã đuổi tới rồi à?
Duyệt ra ám hiệu, Chúa nín khe. Bông bần lẳng lơ sắc, bỡn cợt với binh đao.
Đô đốc Tấn cùng thủy binh Tây Sơn tưởng Đô đốc Vàng là Nguyễn Ánh nên dốc toàn lực rượt đuổi. Phó tướng Duy có điều nghi vấn, ngăn cản:
– Thưa Đô đốc! Nguyễn Ánh nhỏ con, người nầy chẳng những lớn con mà còn oai vệ, tiếng nói như tiếng chuông rền át cả tiếng sóng biển. Theo tôi, đây là kế “kim thiền thoát xác”, Đô đốc cẩn trọng, đừng để mắc mưu địch. Chi bằng, ta quay lại lục soát rừng bần trên cái cù lao đáng nghi ngại.
Đô đốc Tấn gác ngoài tai những lời của Phó tướng Duy. Tiếng quân đôi bên xa dần. Rừng bần chỉ còn tiếng sóng biển. Rồi, ngay trong đêm, Lê Văn Duyệt trình bẩm Nguyễn Ánh nắm
toàn bộ kế hoạch đánh lừa quân Tây Sơn của Đô đốc Vàng. Tay Nguyễn Ánh níu vạt áo Duyệt bật run, một sự bật run đầy cảm kích trước tấm lòng tận tụy của bề tôi đối với quân vương. Bất ngờ, Nguyễn Ánh nằm vật vã, khóc thét lên rúng động cả vạt rừng bần. Trời đầy sao bỗng dưng sấm sét chớp giựt, gió hú rừng làm nao lòng người. Mưa xối xả, mưa như chưa bao giờ được mưa!
***
Rừng bần xanh tươi, thay áo mới; chim rối rít chào nắng ban mai. Lòng Nguyễn Ánh chợt sảng khoái trước cảnh vật đẹp lạ thường và có cảm giác, đang sống trong đất nước thanh bình.
– Lạy Trời! Lạy Chúa công! Lạy...
Tiếng “lạy” vang lừng hòa trong nỗi vui mừng khôn tả của bầy cung nữ, của đoàn tùy tùng phát hiện đầm nước ngọt nơi Nguyễn Ánh nằm lăn lóc khóc hồi đêm.
Nguyễn Ánh lạy cảm Đất, tạ Trời đã ban tặng đầm nước ngọt giữa bốn bề nước mặn bủa vây. Giây phút linh thiêng, Nguyễn Ánh nghĩ tới Thủy Liễu và tự hỏi: “Nàng là người trong mộng hay là Tiên?”. Lê Văn Duyệt nhớ lời Đô đốc Vàng nhắc đi nhắc lại:
– Thuyền ta nhỏ chạy nhanh, thuyền Tây Sơn loại thuyền chiến lớn chạy chậm và một khi, thuyền Tây Sơn vô Khoa Giang sẽ càng thêm khó bề xoay trở. Sớm mai, tướng quân cần gấp rút đưa Chúa trốn nhanh nơi khác. Quân Tây Sơn sẽ trở lại tức thời một khi phát hiện ra ta...
Bóng nghiêng nắng chưa đứng, Duyệt cõng Nguyễn Ánh đi trốn qua ngả cửa Trần Di (Đề). Và, trước lúc đi, Nguyễn Ánh kịp đặt tên đầm nước ngọt là “Đầm Tiên”, rạch hoang nơi Ánh từng lủi trốn là rạch “Long Ẩn”.
4.
Rừng Thủy Liễu chắn sóng giữ đất, Đầm Tiên ngăn mặn gìn nước và rạch Long Ẩn góp phần tạo nên vùng đất cù lao Dung lúa, mía bạt ngàn. Có lẽ hơn ai hết, người đàng trên hay đàng dưới mà thiên hạ thường gọi đàng cựu, đàng tân đều thấu hiểu lẽ trời ở vùng đất Ba Thắc; chẳng phải khi không vùng đất Ba Thắc mang hình dáng “rồng giao nhau”, dân sở tại gọi là “Giao Long”, có đủ các bộ phận: đầu, mình, chưn, đuôi... biểu tượng qua những giồng cát[25]. Và, cũng chẳng phải khi không cái nơi “bông thừa sắc thiếu hương” của cây
bần, sinh ra loài cá bống sao – món nhà quê ăn ngon trên cả tuyệt vời. Tương truyền, Đô đốc Vàng bị quân Tây Sơn cắt lấy thủ cấp, thây liệng trôi sông. Hồn Đô đốc Vàng chia ba phần: Một phần ở lại Khoa Giang (Cà Mau), một phần quay về cù lao Dung nơi xuất phát ra đi và một phần gửi cố hương sông Tiền. Mỗi nơi, đều có một loài cá bống nhỏ hơn cá thòi lòi, thân dài như cá bống dừa và mình tròn, da dày đặc đốm trắng li ti, kết từng chùm sao giông giống sao trời.
Mỗi doi đất, một dòng sông người xưa để lại; người đời nay chắc gì đã hiểu hết!
Một mai em gái theo chồng
Còn đâu bánh giá chợ Giồng mời anh.
(Ca dao)
MÓN ĂN QUÊ NGOẠI
Một mai em gái theo chồng
Còn đâu bánh giá chợ Giồng mời anh.
(Ca dao)
1.
Quê ngoại có rất nhiều loại bánh làm từ gạo nếp nhưng tôi chỉ mê ăn mỗi loại bánh giá do chị Hai làm. Anh Sáu đôi lần cũng nói với thằng em khỉ khọt như vậy. Rồi, những ngày êm ả đi qua, chợ Giồng lần hồi thưa thớt người, anh Sáu biệt tăm chẳng còn tới lui chợ và nghe đâu, anh bỏ xóm Pháo Đài qua xứ khác mần ăn, sau khi chị Hai vì cảnh nhà, từ chối lời dạm ngõ.
– Chợ ế ẩm quá! Thôi, nghỉ bán bánh giá, đi con!
Má nói trong tiếng ho sù sụ, chạnh lòng mấy chị em tôi. Má là chỗ dựa của chị Hai và chị Hai là chỗ dựa cả bầy em nhỏ. Giồng đất xưa vặn mình theo thời cuộc, bánh giá chợ Giồng trở bộ theo chị Hai xuống xuồng bán dạo trên sông.
Anh ơi, về tới Hòa Đồng
Nhớ mua bánh giá chợ Giồng tặng em.
(Ca dao)
Câu hò của ai như nửa thiệt nửa giả, nửa dặn dò vì thèm ăn bánh giá chợ Giồng. Buồn phảng phất nét mặt chị tôi, nét mặt của người phụ nữ bước qua tuổi băm, đuôi mắt lộ dấu chân chim.
Hai chị em với chiếc xuồng lưu linh trên sông nước, lúc Đồng Sơn khi Rạch Lá, tới chợ nào làm bánh bán chợ đó; mươi ngày, nửa tháng mới quay về nhà đưa tiền cho má lo thuốc thang và nuôi bầy em nhỏ. Nhiều đêm nơi bến chợ quê người, tôi nằm suy ngẫm chuyện đời
qua đầu óc non nớt của đứa trẻ chưa kịp già dặn chững chạc. Một “Khổng tước nguyên” chả lẽ, công đã bỏ gò? Một “giồng Sơn Qui” giống cái mai rùa, đầu đít quay về đâu thì bất khả. Có điều, cả vùng đất phía Đông Gò Công không nơi nào đào giếng có nước ngọt, duy chỉ “giồng Sơn Qui”[26]thì đã là, “lăng Hoàng gia”.
***
Nhà nghèo, má nay ốm mai đau nên chị Hai nấn ná không đi lấy chồng. Cuộc sống cả nhà trông cậy vào đôi tay chèo của chị với chiếc xuồng ba lá bươn sóng trên con sông Gò Công. Một con sông khơi nguồn từ con rạch nhỏ xứ Hòa Đồng, chảy qua phố thị thuộc làng Long Chánh và nó thản nhiên cắt đôi bờ Đông – Tây đất Gò Công, rồi thong thả nghiêng mình hướng Tây – Bắc trút nước níu sông Trà, cuồn cuộn chảy vào sông Vàm Cỏ.
Thời nhỏ, tụi bạn rắn mắt cắt nghĩa chữ Gò Công là, “vừa gồng vừa co”. Ngây ngô tôi hỏi chị Hai, đôi má của chị bỗng dưng hây hây đỏ và đồng thời, thằng tôi lãnh đủ mấy cái cú đầu.
– Gồng thì tau rành! Tau đương gồng phụ má nuôi tụi bây. Co thì tau chưa co nên chả biết.
– Thôi, đánh em chi con! Má đặt nó tên thằng C... thì đã là, tận cùng bằng số, rồi!
Má rầy chị Hai. Nắng xiên chợ Giồng trong buổi chiều trống hoác. Tuy hay nghịch phá nhưng tôi cũng có chỗ để chị Hai sai biểu. Nhà má ở tạm cư ngay đầu chợ Giồng, được che chắn bởi mấy cây me cổ thụ tới vài người ôm mới xuể. Nếu nói cho đúng thì, phải gọi “chợ Giồng ông Huê”. Vì, ông Huê là người lập chợ[27]. Tôi ngồi chồm hổm đánh bột, thay đổi tay liên tục; chưn mỏi, tôi ngồi bẹp dưới đất chẳng dám làm biếng lơ đãng. Chị thường dặn: “Bột đánh càng lâu, bánh càng nở và xốp. Bánh vô miệng, thau lưỡi... Người ăn nhớ!” Mấy bà bạn má không ai làm bánh giá bán chợ. Rảnh việc, họ sang
chơi và đôi khi, phụ chị Hai cắt râu, lột vỏ tôm nguyên con hoặc xắt lát mỏng gan heo, rửa sạch giá sống. Chị Hai chọn và ước lượng bột gạo, bột đậu nành, trứng gà và nước pha chế bột. Mỗi buổi chợ sớm mai, sương còn bảng lảng cánh đồng sau chợ, chị đã ngồi bên bếp lửa liu riu với chảo dầu sôi; bàn tay chị cầm cán vá chiên nhúng từ từ vô dầu sôi đợi bột kết dính chín thành bánh, rồi dỡ vá lên nhịp nhàng như trò chơi đánh đũa.
2.
Tôi nhớ quá những người cũ cảnh xưa ở cái chợ Giồng yêu dấu. Nhớ những trưa tan chợ, những chiều mưa bánh giá bán ế, chị Hai nhìn bầy em ăn bánh trừ cơm và hình như, đôi mắt chị ngân ngấn nước. Cả xóm chợ quê đều thiếu gạo đói cơm nhưng nhơn nghĩa thì vô kể, nhiều hơn đậu xanh mọc giá. Thường thì, đầu hôm, mấy bà bạn của má hay xúm nhau ăn cốm dẹp ngào xác dừa, nghe má nói thơ “Lục Vân Tiên”. Lần đó, má đem chuyện hai chị em cãi cọ về địa danh Gò Công theo nghĩa đen nghĩa trắng, học lại cho mấy bà bạn của má nghe. Dì Tám cười ngất thiếu điều sặc mũi.
– C... tới đây, con!
Rồi, dì nói đất có danh Gò Công xuất từ chữ “Khổng tước nguyên”. Đã “Khổng tước”, chắc là “con công” và “Nguyên”, sao chẳng là gò! Con công bỏ rừng về đồng bằng ven biển chọn gò làm nơi chốn dung thân, hẳn phải hiểu lấy “hòa” làm gốc con người, ngoài cặp đôi “thời” và “lợi” của thiên địa. Như thể chứng minh, dì nói tiếp:
– Hòa Lạc, Hòa Tân, Hòa Bình, Hòa Đồng... Bốn “Hòa” hợp thành Gò Công.
Má và thím Bảy, chen vô:
– Chỉ là mới có, chưa đủ. Muốn đủ, cần nhắc tới hòn ngọc nằm trọn lỏn giữa “Tiểu, Đại hai cửa trong chín cửa sông Cửu Long”. Đó là, cù lao Phú Thạnh Đông với “xóm Pháo Đài” ngăn cướp và canh thức
biển.
– Vì, hòn ngọc bị cửa Tiểu cửa Đại kẹp cứng ngắc nên đất địa Gò Công, dù đào được giếng cũng không có nước ngọt, toàn nước hôi mùi bùn.
Dì Tám giải lý theo cái lý của má và thím Bảy.
Chị Hai liến thoắng góp chuyện như từng tiếp hơi má đọc đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
– Biết đâu, “nước hôi mùi bùn” đã làm “bánh giá chợ Giồng” rạng danh, “mắm tôm chà” nức tiếng và đặc biệt “cá phác lác”, một loại cá không để “tiến vua” mà là, để mẹ nuôi dạy con khôn lớn “thành vua”(!)
***
Nhiều lúc thấy chị ngồi tư lự bên chảo chiên bánh ở chợ xứ người, tôi chọc ghẹo để chị nhảy qua cái ổ đựng nỗi buồn ngày một sâu. Chị đổ quạu nạt em như là, cái cớ che giấu bị bắt tận tay sự “thổn thức tình” nằm kín mít tận đáy tim. Buổi sáng cuối cùng chị Hai gặp anh Sáu.
– Anh Sáu, mở hàng cho em!
Chị Hai mừng húm, mời anh Sáu. Chị tin, mỗi khi anh Sáu mở hàng, buổi chợ hôm đó chị bán đắt.
Anh Sáu sống nghề hạ bạc, ôm khúc sông cặp cù lao Phú Vĩnh Đông chài lưới quanh năm. Thấy anh hiền từ, tính chịu thương chịu khó, dần dà má biểu chị Hai lấy mối tôm của anh.
– Cô Hai, cho tui phần bánh!
Rồi, anh dặn chị cho giá thiệt nhiều. Với anh, giá là hồn của bánh, thiếu hoặc ít giá người ăn mau ngán và dễ chán. Rành nết ăn của anh, khi bánh vừa chín tới, bột hửng vàng, chị vớt bánh giá gói lá chuối Long Thuận, một thứ lá dầy, mát mịn làm giòn bánh.
Ban mai trời se lạnh, bánh nóng, anh Sáu ăn bánh nhả hơi như làn
khói. Gò má chị Hai ửng hồng, không biết vì chảo dầu sôi hắt nóng hay vì chị nhìn anh ăn say sưa bánh giá chợ Giồng.
Có lần dì Tám nói với chị Hai:
– Dù cảnh thuận hay nghịch, bây cũng ráng giữ nghề bánh giá chợ Giồng đừng để nó mai một. Trời khi nắng khi mưa, chớ món ăn ít khi mưa nắng. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, người phụ nghề chớ nghề không phụ người!
Những buổi tối má mệt tạm ngưng nói thơ, mấy bà bạn nằng nặc đòi dì Tám “dựa tích dịch tuồng”; dì kể chuyện tương truyền, rằng: – Bại trận ở sông Thất Kỳ Giang Cần Giờ, Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn rượt chạy thục mạng về hướng Gò Công. Đêm tối, biển sóng dậy cột buồm gãy, thuyền chìm. Thời may, Nguyễn Ánh được cá Ông đẩy vô bờ Vàm Láng. Trượng nghĩa thương tình, dân Vàm Láng ra tay cứu giúp Nguyễn Ánh và mời ông ta ăn món ăn bánh giá cho lại sức; một loại bánh dân dã có từ thời “đàng cựu” khẩn hoang. Chẳng hiểu Nguyễn Ánh có nhớ bánh giá đã giúp mình no khi đói không, sao chẳng thấy đặt cho bánh một cái tên riêng để tạ ơn trời đất theo thông lệ mỗi khi “bôn tẩu”(?)
Trầm ngâm giây lát, dì xáng đại một câu như thể hạ màn vãn tuồng hát bộ:
– “Nhà nghèo mới hay con thảo”, lúc đói mới nhớ món ăn! 3.
Người Gò Công, dù sống nơi quê nhà hay ở phương trời cách biệt nào, vẫn luôn nhớ và thèm món ăn bánh giá chợ Giồng; họ vẫn giữ được chữ “Hòa của đất Gò Công” trong tâm thức. Và, họ vẫn hơn hẳn vua chúa đã không giữ nổi cái cần giữ cho dòng tộc thì nói chi tới việc giữ an nguy cho trăm họ. Tự Đức đành lòng ngậm ngùi bỏ quê ngoại thành thuộc địa thực dân Pháp và cũng kể từ đó cho tới lúc “băng hà”, Tự Đức vĩnh viễn không còn dịp về thăm quê ngoại, thăm cục đất
nơi chôn nhau cắt rún của mẹ mình. Than ôi! Có khi nào Tự Đức cám cảnh:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê ngoại ruột đau chín chiều.
(Ca dao)
Tới bây giờ, bia miệng thế gian vẫn còn truyền: Bia mộ Phạm Đăng Hưng làm từ đá cẩm thạch trắng (lấy ở núi Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) [28] do Phan Thanh Giản, Trương Quốc Dụng tạc bia và ngự chế minh văn đã bị quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Đại úy Barbé đánh cướp, khi tấm bia chuyển từ Huế vừa đến Vũng Tàu. Sau nầy, tấm bia bị cướp trở thành bia mộ của kẻ cướp bia: Đại úy Barbé bị nghĩa binh Bến Nghé giết chết trước lúc đồn Chợ Rẫy bị tấn công đêm 3 rạng 4 tháng 7 năm 1860.
Tôi nhớ hoài câu nói của má: “Mọi thứ rồi sẽ là phù du, duy chỉ có một thứ khả dĩ còn luyến lưu ở lại lòng người, đó là món ăn!”. Món ăn thể hiện tính cách con người; đồng thời, nó cũng có thể tạo nên số phận. Khi thèm nhớ bánh giá chợ Giồng, tôi không thể nào không nhớ quê, nhớ những người thân yêu; trong đó, có chị Hai. Cảm ơn món ăn quê ngoại đã giúp tôi giữ mình suốt bao chặng đường sinh tử!
Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối.
(Tục ngữ)
HƯƠNG QUÊ NỘI
1.
Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối
(Tục ngữ)
Lời hát ru đó đã thành câu tục ngữ quê nội. Cô Tư, em gái của ba thường nói:
– Người xứ còng lột, thường lấy giấc ngủ đo chiều dài theo con nước tháng Năm và họ, lấy tiếng cười đo chiều dài theo con nắng tháng Mười. Xem ra, ngày tháng Mười ngắn chẳng kém gì đêm tháng Năm.
Sáu chả hiểu điều cô Tư của nó nói “chưa nằm, chưa cười” nghĩa là sao. Càng lớn lên, Sáu càng thấy sự rối rắm ẩn trong lời ăn tiếng nói của người chân quê và đôi khi tưởng đơn giản, nhưng không giản đơn chút nào; cả một kho tàng ngôn ngữ dân gian được kết tinh từ trải nghiệm cuộc sống. Tiếng là quê nội, song năm thuở mười thì nó mới về thăm, còn nhỏ lớn Sáu sống ở quê ngoại. Có lẽ, ba má Sáu làm theo cái câu “Tiến về nội, thối về ngoại”!
Trời tháng Năm Gò Công mưa chập chõa, tùng xèng theo kiểu hát Tiều và cũng là mùa còng đỏ hội nhau lột vỏ. Gió đưa nắng đẩy chiều qua cửa Tiểu, người Phú Thạnh ở cù lao Lợi Quan khởi động mùa làm mắm còng. Mặn vây quanh quê nội, mặn tràn ruộng tràn đồng, mặn thấm da người ửng lên màu đồng áng. Sáu nhớ chuyện má kể:
– Hồi nẳm, má thương ba cũng vì cái màu đồng áng đó, chớ chẳng vì câu hò của người xưa “Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng”; bởi nếu vì câu hò của người xưa thì, thà “về sông ăn cá, về đồng ăn cua” vẫn còn hơn.
Ngoại động viên, an ủi má:
– Ăn còng không là điều bất đắc dĩ đâu con, cũng không là sự đẩy đưa để con phải gửi thân nơi tấm chồng nghèo miệt đất rẫy. Tất cả từ duyên nợ mà ra, thôi con!
Ngẫm nghĩ hồi lâu, ngoại nói tiếp:
– Người ngoài sao hiểu thấu người trong. Khi về mần dâu xứ còng, rồi con sẽ thấy còng không là thứ đồ bỏ!
Tưởng má còn so đo tính chuyện thiệt hơn, ngoại vừa hù dọa, vừa nói vui:
Vô chùa lạy Phật cầu chồng
Ông Phật ổng nói đờn ông hết rồi.
(Ca dao)
Những người hàng xóm hay chuyện ngoại chọn nơi cho má gởi tấm thân, họ xầm xì:
Trăng khuyết rồi lại trăng tròn
Mẹ già kén rể con còn góa lâu.
(Ca dao)
Chẳng dè, mấy trăng sau, má bước lên thuyền hoa theo ba về xứ còng Phú Thạnh và có ai đó cắc cớ buông câu hò hôm lễ Vu quy: Tay mang khăn gói sang sông
Má kêu mặc má, thương chồng cứ đi.
Quê chồng vùng đất đói nước ngọt, no nước mặn chưa nói tới chuyện áo cơm. Nội thương con dâu miệt vườn bằng lòng với những gì quê chồng thiếu thốn, khó khăn. Sợ má buồn, ba lúc nào cũng chìu má. Má thường thủ thỉ với ba những ngày quết còng làm mắm.
– Dẫu có rơi vào tình cảnh “Tiến thối lưỡng nan, cực khổ trăm bề” hay gặp cảnh ngộ “Ở đây khó ở, ra về khó ra”, em vẫn giữ nghĩa tào khang, rằng:
Tập tàng đem nấu với suông
Lấy chàng thiếp quyết đổi buồn làm vui.
(Ca dao)
Khi má cấn bầu con Sáu, ngoại ngỏ lời thưa với nội cho ba má ra ở riêng trên đất vườn nhà của ngoại...
Đang bơi theo dòng hồi ức, Sáu bị cô Tư níu chân lôi vô bờ thực tại. – Sáng mai, nội cúng mồng 5 tháng 5 sớm, xong xuôi con theo cô Tư đi bắt còng lột, nha!
– Dạ!
Sáu chộn rộn, háo hức chờ đợi cái ngày mai...
2.
Cô Tư gò đôi tay chống xuồng vượt qua bãi lầy triền sông Cửa Tiểu. Trời rướn nắng nóng lưng!
– Cô ơi! Cái gì đỏ au au phía bờ lạch ở đàng trước kìa! Mũi xuồng khựng lại vì lủi vô đám ô rô.
– Còng đương lột, đó con!
Tiếng cô Tư tuột luốt theo con nước sát biển rút.
– Nó lột mần sao mà đỏ như cái khăn ăn trầu của nội vậy, cô Tư? Sáu ngu ngơ trong cái thiệt thà của con gái vừa nhú lớn. Cô Tư cười, lo bắt còng chẳng huỡn nói trả treo với cháu.
Phút bỡ ngỡ ban đầu trôi qua nhanh, Sáu dạn dĩ và mỗi lúc một thú vị được dự cùng cô Tư việc bắt còng. Con còng đỏ thập thò ở miệng hang, có lẽ nó quan sát và cảnh giới sự an nguy cho bản thân. Khi lượng giá tình hình an toàn, còng rời hang, nằm bất động phơi mình trên mặt bùn và phút giây kỳ diệu xảy đến, những cái vỏ móng chân còng từ từ tách khỏi móng, chân và hai cái càng, thư thả trút bỏ lớp vỏ trong không gian tịch mịch đứng gió; rồi cuối cùng tới thân còng. Áng chừng nắng xỏ lỗ tai, tức khoảng một hai giờ chiều thì còng
lột xong vỏ. Sáu có cảm giác mặt bùn sủi bọt, chẳng biết vì cái nóng của nắng trưa hay cái trân mình toàn thân của còng, trước lúc lột bỏ hoàn toàn lớp vỏ mà nó mang đúng chu kỳ mười hai tháng trong năm.
– Bắt lẹ lên, con!
Cô Tư hối thúc, Sáu ngạc nhiên và thắc mắc thầm trong bụng: “Mắc mớ chi bắt lẹ, thủng thẳng vừa bắt vừa ngắm nghía con còng nằm trần trụi lồ lộ thịt đỏ au, trông đã mắt. Nó yếu ờ yếu ợt, bò đâu cho thoát!”.
Biết tâm trạng của đứa cháu gái lần đầu tiếp xúc còng lột và ra tay bắt chúng, cô Tư nói:
– Toàn thân còng lột ngấm mùi bùn của đất, hấp thu khí trời hoàng hôn biến lớp da bọc thịt còng sẽ thành lớp vỏ cứng trở lại, sau khi đã hất bộ vỏ lột ra ngoài, trầm tư phơi thân mềm mụp dưới ánh sáng mặt trời.
Sáu mải mê ngó còng lột quên cả chuyện bắt còng. Nó nghe loáng thoáng ba hụt bốn trớt lời cô Tư nói.
Cô Tư tiếp tục thúc giục:
– Nhanh tay lên, con! Không cần đợi tới chiều tối mà lát nữa thôi, còng sẽ bò về hang ổ nếu vỏ của nó đủ độ cứng.
Sáu chưng hửng vì ngó thấy một số còng trở mình như là, lời cảm ơn và tạm biệt mặt bùn đã tử tế cho nó mượn tạm chỗ lột vỏ để sống đời.
Biển nương gió dâng nước lém đém bãi bồi dày cui đám lá dừa nước, đặc bụi mái dầm và cái màu đỏ trải thảm ban sáng mất dần... mất dần theo nắng chiều tàn trên sông Cửa Tiểu!
Sáu bắt chước cô Tư khỏa nước rửa bùn dính mặt, vị mặn quê nội thấm vào từng sớ thịt của đứa cháu gái thường dễ cảm xúc và hay lạc lòng. Mấy giỏ còng nặng trình trịch chật khoang xuồng, cùng là bị
nhốt như nhau nhưng, chúng cố chòi đạp bằng những cái càng hung tợn và cấu xé lạnh lùng, bởi những cái móng đã mềm vuốt để thoát chốn giam cầm, giành bầu trời tự do miền sông nước. Sáu nghĩ, có thể còng lột biết mình sắp thành mắm chăng?
Như quy luật ngàn đời, nước ròng còng rời ổ kiếm ăn, nước lớn còng về ổ yên nghỉ. Còng là món ăn thắm da đỏ thịt và chắc xương cho kẻ bần hàn, là nguồn thu nhập cho người cơ nhỡ. Rảnh rỗi, cô Tư thường kể những năm tháng sơn trường của ông nội bám đất xứ còng, cũng có người gọi đó “Vương quốc Còng”! Và, cái vương quốc hình thành từ Đồng Sơn, Bình Phú, Bình Đông, Bình Xuân tới triền bãi phù sa bồi ven sông Soài Rạp, kéo đường viền thiên nhiên qua cù lao Phú Đông, Phú Tân, Phú Thạnh... Còng hiến thịt mình dâng thần Trăng, cho nên, những đêm sáng trăng, còng không có gạch, thân chẳng có thịt, chỉ trơ vỏ nhìn trời đầy mây trăng! Cô Tư nói:
– Ấy vậy, ông nội vẫn lạc quan, tin rằng con còng đỏ sẽ là địa linh và có một ngày không xa, nó biến vùng đất nghèo khó thành tiếng tăm giàu có, thịnh vượng. Nếu không, người ta khai sanh chi cái tên Phú Thạnh!
Mỗi lần nói tới chuyện đó, ông nội khoái chí rủ bạn lối xóm tới nhà uống rượu với mồi nhắm còng rang, ăn kèm bần chua xắt lát chấm nước mắm hòn dằm tỏi ớt; cũng có khi, bạn ông nội bưng qua nồi canh chua còng nấu với lá me non nóng hổi, vừa thổi vừa chấm mắm ruốc... đậm đà hương vị tình quê! Sáu nghe cô nói, thiếu điều ứa nước bọt miệng.
Hễ bà nội cằn nhằn chuyện nhậu, ông nội cười khanh khách rồi nằm bật ngửa, gác chân chữ ngũ, nhìn trời:
Uống rượu ăn nói cù cưa
Chuyện có một chút
Mà hết cả buổi trưa cằn nhằn.
(Nói thơ)
Nghe ông nội nói thơ, bà nội cười nụ cười hỉ xả, đổi giận làm vui! 3.
Ở quê nội, không ai bắt con còng chắc làm mắm, họ chỉ bắt con còng lột làm mắm mà thôi. Và, cũng chỉ giống còng đỏ mới đủ tư cách mang thương hiệu thượng hảo hạng còng mắm Gò Công! Trong đám còng nhiều dòng lắm giống, giờ thì, Sáu biết phân loại và lựa chọn ra còng đỏ có thân đỏ, càng và chân ửng màu đỏ xanh. Trong dân gian có tích Ngưu Lang – Chức Nữ, ca dao có câu rằng:
Tục truyền tháng Bảy mưa ngâu
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền.
Để rồi: Mỗi năm mới gặp mặt nhau một lần.
(Ca dao)
Sáu hỏi:
– Mưa ngâu là mưa làm sao, hả cô?
Cô Tư đương rửa sạch còng đỏ, moi bỏ yếm và ruột, chuẩn bị còng ráo nước để nội và mấy đứa cháu phụ xếp từng con vô hũ sành. Nghe Sáu hỏi, bà nội nói thay lời cô:
– Nghĩa là, trời sụt sùi mưa, đó con! Tháng Bảy, ông bà ngày xưa nói: “Vào mồng Ba, ra mồng Bảy”;
nghĩa là các ngày trong tháng, từ mồng Ba tới mồng Bảy, ngày Mười Ba tới Mười Bảy, ngày Hăm Ba tới Hăm Bảy.
Rồi nội cười:
– Chuyện tính mưa nắng vốn của nhà nông chớ chẳng là chuyện tính mưa nắng của ông Trời, nha cháu!
Mồ hôi chớm rịn hột trên trán cô Tư. Nội nói:
– Thôi, nghỉ tay một lát đi con!
Dường như có một thoáng gợn gợn buồn qua nét mặt già nua của
nội. Sáu hỏi: “Vì sao vậy, nội?”. Nội bâng khuâng trả lời: – Không tự nhiên còng đỏ mở “Hội còng lột vỏ” và ngày hội đó, lại rơi vào Tết Đoan ngọ hằng năm. Nếu, tháng Bảy mưa ngâu thì, tháng Năm lột vỏ. Nếu, chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ khiến hàng triệu triệu trái tim nhân loại rung động thì tại sao chuyện tình còng đỏ bị trời hành tự lột vỏ mình trả nợ ân tình và sau đó, biến thành con mắm. Vậy mà, chốn nhân gian có mấy ai đoái hoài thổn thức! Nội kể:
– Một đêm đầu tháng Năm, biền thất tình kiệt nước đồng gò. Tiên nữ trốn chị Hằng, cỡi chim công lạc vào cánh đồng gò cõi trần gian và nó đẹp, đẹp quyến rũ chẳng thua gì cõi bồng lai tiên cảnh! Mùi hương tiên nữ đánh thức chàng ngư phủ nghèo và họ phải lòng nhau... “Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng”, chim công bay đi, tiên nữ ở lại với tình lang. Chàng thấy mình không xứng, bởi:
Tóc quăn chải lược đồi mồi
Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn huờn quăn.
(Ca dao)
Chàng hồn hậu, cái hồn hậu chân quê của người sống nghề hạ bạc nên sợ lắm, mối tình đầu chóng tan như bọt sóng và chàng e ngại, rằng:
Phong lưu là cạm ở đời
Hồng nhan là bẫy những người tài hoa.
(Ca dao)
Nàng nói câu khẳng khái:
Phải duyên phải kiếp thì theo
Cám còn ăn được, nữa bèo như anh.
(Ca dao)
Dù vậy, chàng ngư phủ chẳng yên lòng, vì linh tính của chàng
mách bảo: “Tình người ý tiên, trời chắc đã thuận lòng?”. Rồi, có ngày sẽ cách trở thôi! Chàng thì thầm với nàng:
Tình ta như quế với gừng
Mai kia cách trở xin đừng quên nhau.
(Ca dao)
Nàng tinh nghịch hỏi chàng:
– Nếu, một mai cách trở thì chàng tính ra làm sao?
– Tôi sẽ lột da sống đời để đợi em!
Và, chàng xác quyết:
– Tôi sẽ đợi em! Tôi đợi em!
Trời nổi cơn thịnh nộ, bắt nàng trở về nơi xuất phát trốn đi. Tiên nữ không dám cãi ý Trời!
Nội kể tiếp:
– Từ đó, chàng ngư phủ sống cô quạnh trong nhiều năm của nhiều “Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng” đợi chờ. Rồi, chàng hóa kiếp còng đỏ sống nơi luồng lạch, triền sông, bãi bùn ngập mặn... Đến ngày mồng năm, tháng Năm, còng tự lột vỏ giữ lời: “Tôi đợi em!”.
Kể xong, nội tặc lưỡi:
– Thiên địa chẳng chí công!
Mắt Sáu rưng rưng.
4.
Chẳng biết có đúng “lá rụng về cội” hay không, chỉ biết con Sáu lấy chồng ở quê nội. Nhà chồng sống bằng nghề làm mắm còng đỏ, bỏ mối tận chốn Sài Gòn. Mỗi lần, Sáu ngó thấy dĩa mắm còng lột rắc ớt xắt lát bên trên, dưới dưa leo xắt khoanh, xung quanh tỏi, rau cải... là Sáu nhớ câu chuyện kể về còng của nội. Thèm mắm còng nhưng Sáu ăn không mạnh miệng bằng những nàng dâu khác, khiến má chồng khó chịu và không thích. Lắm lúc thôi buồn, Sáu mượn lời ru con tự
"""